script tedtalk

81
TED TALK 1. Dead stuff The secret ingredient in our food chain – John C Moore If someone called you scum, you’d probably be offended, but scientifically, they might not be far off. Have you ever thought about where your food comes from? You might say it comes from plants, animals, or even fungi, but you’d probably rather not think about the rotting organisms and poop that feed those plants, animals, and fungi. So really, you and most of the matter in your body are just two or three degrees of separation from things like pond scum. + All species in an ecosystem, from the creatures in a coral reef to the fish in a lake to the lions on the savannah, are directly or indirectly nourished by dead stuff. Most of the organic matter in our bodies, if we trace it back far enough, comes from

Upload: nicotinyl-hakunanat

Post on 11-Dec-2015

232 views

Category:

Documents


1 download

DESCRIPTION

Tedtalk

TRANSCRIPT

Page 1: Script TEDtalk

TED TALK

1. Dead stuff The secret ingredient in our food chain – John C Moore

If someone called you scum, you’d probably be offended, but scientifically, they might not be

far off. Have you ever thought about where your food comes from? You might say it comes

from plants, animals, or even fungi, but you’d probably rather not think about the rotting

organisms and poop that feed those plants, animals, and fungi. So really, you and most of the

matter in your body are just two or three degrees of separation from things like pond scum.+

All species in an ecosystem, from the creatures in a coral reef to the fish in a lake to the lions

on the savannah, are directly or indirectly nourished by dead stuff. Most of the organic matter

in our bodies, if we trace it back far enough, comes from CO2 and water through

photosynthesis. Plants use the energy from sunlight to transform carbon dioxide and water

from the environment into glucose and oxygen. That glucose is then transformed into more

complex organic molecules to form leaves, stems, roots, fruit, and so on. The energy stored in

these organic molecules supports the food chains with which we’re familiar.1

You’ve probably seen illustrations like this or this. These green food chains start with living

plants at their base. But in real-life terrestrial ecosystems, less than 10% of plant matter is

Page 2: Script TEDtalk

eaten while it’s still alive. What about the other 90? Well, just look at the ground on an autumn

day. Living plants shed dead body parts: fallen leaves, broken branches, and even underground

roots. Many plants are lucky enough to go their whole lives without being eaten, eventually

dying and leaving remains. All of these uneaten, undigested, and dead plant parts, that 90% of

terrestrial plant matter? That becomes detritus, the base of what we call the brown food chain,

which looks more like this.+

What happens to plants also happens to all other organisms up the food chain: some are eaten

alive, but most are eaten only when they’re dead and rotting. And all along this food chain,

living things shed organic matter and expel digestive waste before dying and leaving their

remains to decay.+

All that death sounds grim, right? But it’s not. All detritus is ultimately consumed by microbes

and other scavengers, so it actually forms the base of the brown food chain that supports

many other organisms, including us. Scientists are learning that this detritus is an unexpectedly

huge energy source, fueling most natural ecosystems.+

Page 3: Script TEDtalk

But the interactions within an ecosystem are even more complex than that. What a food chain

really represents is a single pathway of energy flow. And within any ecosystem, many of these

flows are linked together to form a rich network of interactions, or food web, with dead matter

supporting that network at every step. The resulting food web is so connected that almost

every species is no more than two degrees from detritus, even us humans.+

You probably don’t eat rotting things, poop, or pond scum directly, but your food sources

probably do. Many animals we eat either feed directly on detritus themselves, like pork,

poultry, mushrooms, shellfish, or catfish and other bottom feeders, or they are fed animal by-

products.+

So, if you’re thinking nature is full of waste, you’re right. But one organism’s garbage is

another’s gold, and all that rotting dead stuff ultimately provides the energy that nourishes us

and most of life on Earth, as it passes through the food web. Now that’s some food for

thought.+

LỜI DỊCH

Nếu ai đó gọi bạn là bẩn thỉu, có lẽ bạn sẽ phát điên lên, nhưng về mặt khoa học, họ có thể không quá sai. Bạn có bao giờ nghĩ đến chuyện thức ăn của bạn từ đâu ra? Có thể bạn nó nguồn gốc là thực vật, động vật, ngay cả nấm, nhưng có lẽ bạn sẽ không nghĩ đến những thứ

Page 4: Script TEDtalk

đang phân hủy, hoặc phân, những thứ nuôi sống cây cối, động vật và nấm. Vậy thật ra, bạn và phần lớn cơ thể của bạn chỉ là 2 hoặc 3 cấp độ phân tách từ những thứ bẩn thỉu tương tự như thế.+

Tất cả các loài trong hệ sinh thái, từ các sinh vật trong rặng san hô đến cá trong hồ hay sư tử trong hoang mạc, đều trực tiếp hoặc gián tiếp sống nhờ chất thải. Hầu hết chất hữu cơ trong cơ thể chúng ta nếu truy nguyên đủ xa, đều cấu thành từ CO2 và nước, từ quá trình quang hợp. Cây cối dùng năng lượng từ ánh nắng để chuyển hóa CO2 và nước trong môi trường sống thành glucose và O2. Glucose sẽ được chuyển hóa thành các phân tử hữu cơ phức tạp hơn để tạo thành lá cây, thân, rễ, quả và vân vân. Năng lượng chứa trong những phân tử hữu cơ này sẽ cung cấp cho chuỗi thức ăn mà ta đã quen thuộc.+

Có thể bạn đã thấy những minh họa như thế này hoặc thế này. Những chuỗi thức ăn “xanh” này luôn bắt đầu với thực vật sống. Nhưng hệ sinh thái thực tế trên mặt đất có chưa tới 10% thực vật bị ăn khi vẫn còn sống. Còn 90% còn lại thì sao? Vâng, hãy thử nhìn xuống đất vào một ngày mùa thu. Thực vật sống trút bỏ những phần cơ thể đã chết: lá rơi, các nhánh gãy, và thậm chí rễ cây dưới đất. Nhiều cây đủ may mắn đến độ sống suốt cả đời mà chẳng bị ăn, cuối cùng chết đi và để lại nguyên vẹn. Tất cả những thứ không bị ăn, chưa tiêu hóa, và các phần chết của thực vật, có phải là 90% vật chất còn lại trên Trái Đất? Chúng sẽ thành chất thải là nền tảng của chuỗi thức ăn “nâu”, trông giống thế này.+

Điều xảy ra với thực vật cũng xảy ra với tất cả các loài khác trong chuỗi thức ăn: một số bị ăn sống, nhưng hầu hết bị ăn khi chúng đã chết và phân hủy. Và xuyên suốt chuỗi thức ăn, sinh vật sống trút bỏ chất hữu cơ và tống ra chất thải chưa tiêu hóa trước khi chết và bỏ phần còn lại phân hủy.+

Cái chết nghe thật tàn nhẫn, phải không? Nhưng không hẳn. Cuối cùng chất thải sẽ được tiêu thụ bởi vi khuẩn và động vật ăn xác thối, nó thật sự tạo ra nền tảng của chuỗi thức ăn “nâu” để hỗ trợ nhiều sinh vật khác, kể cả chúng ta. Các nhà khoa học phát hiện rằng chất thải này là nguồn năng lượng vô cùng lớn, cung cấp cho hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên.+

Nhưng các tương tác bên trong một hệ sinh thái thậm chí còn phức tạp hơn thế. Thứ mà một chuỗi thức ăn cho ta thấy chỉ là một dòng chảy năng lượng đơn giản. Và trong mọi hệ sinh thái, nhiều dòng chảy này kết nối với nhau tạo nên một mạng lưới tương tác dày đặc, hay lưới thức ăn, với vật chất chết hỗ trợ mạng lưới ở mọi bước tiến. Nhờ đó lưới thức ăn được kết nối chặt đến nỗi không loài nào vượt quá 2 cấp độ từ phế thải kể cả con người.+

Có lẽ bạn không ăn những thứ thối rữa, phân, hay chất thải một cách trực tiếp, nhưng thức ăn của bạn làm việc đó. Nhiều loài động vật chúng ta ăn chúng ăn trực tiếp những chất thải loại, như thịt lợn, gia cầm, nấm, thủy sản, hay cá da trơn và các loài lớp đáy khác, hoặc chúng được nuôi bằng thứ phẩm từ động vật.+

Vậy nếu bạn cho rằng tự nhiên tràn ngập phế thải, bạn đã đúng! Nhưng phế phẩm của loài này lại là kho vàng của loài khác, và tất cả những chất thải thối rữa đó cuối cùng sẽ cung cấp năng lượng nuôi dưỡng chúng ta và hầu hết sự sống trên Trái Đất, khi nó đi qua lưới thức ăn. Đó là đôi chút về thức ăn để suy ngẫm.

2. The survival of the sea turtle – Scott Gass”]+ Sea turtles are miraculous.+

Page 5: Script TEDtalk

First, they’ve been around since the late Jurassic, roughly 150 million years ago. Cohorts of the

dinosaurs, sea turtles have survived through the challenges of eons, existing still today, where

many others have ended their evolutionary run. Second, throughout the centuries and up til

today, every living adult sea turtle has overcome the odds, existing as a consequence of

chance, skill and capability.+

The gauntlet each sea turtle faces in the course of its lifetime goes thus:+

First, deposited as a clutch of leathery, ping pong ball-sized eggs into a nesting pit dug by its

mother high on the beach, Of the 50 to 200 eggs laid, roughly 20 percent will never hatch.

Roughly a month and a half after having been laid, the surviving eggs hatch and the young

turtles, each small enough to fit in the palm of your hand, squirm to the surface, emerging

from the sand en masse and making their desperate dash for the sea.+

Along the way, debris, pitfalls, crabs, gulls, raccoons and other threats will claim roughly 50

percent of those who rose from the sand. For those that actually reach the surf, they trade one

set of threats for another, as they first face the repelling force of the waves, and then find a

Page 6: Script TEDtalk

whole new host of predators awaiting them. Various fish, dolphins, sharks and sea birds, as the

young turtles come to the surface for air.+

For their first few days of life, should they count themselves amongst the living, the vulnerable

turtles swim frantically forward. Ultimately, they will often look to settle in a patch of flotsam,

preferably a patch of floating seaweed. Now, for the next several months, they will seek to

avoid those that would eat them find that which they might eat themselves, and not fall to the

pressures of challenging weather or unfortunate currents. In this phase, roughly 50 percent of

those who reach the surf will perish.+

Ultimately, with the passage of years, the survivors will increase in size, from that of a dinner

plate at year one to that of a dinner table, in the case of one species at least, the Leatherback,

a decade or so later. With size comes some measure of protection. The only truly worrisome

predators now are some of the larger shark species — bulls, tigers and whites — and the

occasional killer whale.+

At approximately two decades of age, the survivors will be old enough themselves to breed,

and continue the cycle which their very existence heralds. Of those that began as eggs on a

Page 7: Script TEDtalk

distant beach, now less than 10 percent remain, at least, those were the odds prior to

significant human interference. Over the past century, and in particular in the last several

decades, human endeavors, from beach development to plastic refuse, to poaching, long-lines,

nets, and even noxious chemicals, including oil, have upped the ante for sea turtles, causing

their survival rate to drop to around one percent or less from each nesting cycle. It is this

added human pressure which has pushed each of the eight sea turtle species to either a

threatened or endangered state. For while they have evolved to overcome a host of obstacles,

the most recent has arisen so quickly and at such scale that the species find themselves

overwhelmed.+

So let’s quickly recap this cycle of odds using a hypothetical nesting season, for females may

nest multiple times in a single year, of 1,000 eggs, for sake of ease. One thousand eggs laid.

Eight hundred hatch. Four hundred make it to the water. Two hundred progress toward

adulthood. Twenty survive to breeding age — that is, without human interference. Two survive

to breeding age with human interference.+

Page 8: Script TEDtalk

So a breeding adult sea turtle is the very embodiment of a longshot. It is the exception, not the

rule. A jackpot. It is, in a very real sense: A miracle!+

Khả năng sống sót của rùa biển – Scott Gass”]+

Rùa biển thật kỳ diệu.+

Thứ nhất, chúng đã tồn tại từ cuối kỷ Jura, khoảng 150 triệu năm trước. Đồng hành với khủng

long, rùa biển đã sống sót qua những thách thức của các thời đại tồn tại tới ngày nay, khi mà

nhiều loài khác đã kết thúc cuộc đua tiến hóa. Thứ hai, xuyên suốt nhiều thế kỷ và đến tận

ngày nay, mọi con rùa trưởng thành đều đã vượt qua rất nhiều trở ngại, tồn tại như một kết

quả của may mắn, kỹ năng và phẩm chất.+

Những thách thức mà mỗi con rùa phải vượt qua trong cuộc đời chính là:+

Đầu tiên, được sinh ra trong một ổ trứng to như quả bóng bàn, trong một cái hố được đào bởi

mẹ chúng trên bờ biển cao. Trong 50 đến 200 quả trứng được đẻ, có khoảng 20% không bao

giờ nở ra. Khoảng một tháng rưỡi sau khi được sinh ra, trứng sống sót sẽ nở ra và lũ rùa con,

mỗi con đủ nhỏ để nằm vừa trong lòng bàn tay bạn, bò lên mặt cát, đồng loạt nổi bật trên mặt

cát và liều mạng lao về hướng biển.+

Dọc đường đi, những mảnh vỡ, hố đất, cua biển, mòng biển, gấu mèo và các mối nguy khác sẽ

tiêu diệt khoảng 50% những con chui được lên mặt cát. Với những con chạm tới được mặt

sóng, chúng lại gặp phải những mối nguy khác, thứ đầu tiên chúng đối mặt là sức mạnh của

con sóng, và sau đó là cả một đám kẻ săn mồi đang chờ đợi chúng, nhiều loài cá, cá heo, cá

mập, và chim biển, khi lúc rùa con trồi lên bề mặt để hít không khí.+

Trong vài ngày đầu tiên của cuộc đời, chúng phải dựa vào bản thân để sống sót, những con rùa

yếu ớt bơi điên cuồng về phía trước. Cuối cùng, chúng thường tìm chỗ trú dưới một đám trôi

dạt thường là một đám bèo biển. Trong vài tháng sau, chúng sẽ tránh những sinh vật có thể ăn

thịt chúng xem xét con nào có thể ăn thịt chúng, và không để rơi vào những thử thách của thời

tiết hay những dòng chảy xui xẻo. Ở thời kỳ này, khoảng 50% trong số những con chạm tới mặt

sóng sẽ vong mạng.+

Cuối cùng, với nhiều năm trôi qua, những kẻ sống sót sẽ gia tăng kích thước, từ một cái đĩa ở

năm đầu, tới kích thước một cái bàn, trong trường hợp của ít nhất một loài, rùa Leatherback, là

mười năm hoặc lâu hơn. Kích thước là sự tự vệ ở mức độ nào đó. Loài ăn thịt đáng ngại duy

Page 9: Script TEDtalk

nhất bây giờ là những loài cá mập lớn — cá mập bò, cá mập hổ, và cá mập trắng — và những

con cá voi sát thủ.+

Vào khoảng 20 năm tuổi, những con sống sót sẽ đủ tuổi để đẻ trứng, và tiếp tục vòng lặp như

những người thừa kế còn lại. Trong số những quả trứng được sinh ra trên bờ biển, giờ chỉ dưới

10% còn sót lại, ít nhất, đó là trước khi có sự can thiệp đáng kể của con người. Suốt thế kỷ vừa

qua, và đặc biệt là trong vài thập kỷ gần đây, những tác động của con người, từ xây dựng bờ

biển, từ rác thải chất dẻo, bắt trộm, câu ngầm, bủa lưới, thậm chí là ô nhiễm hóa chất, kể cả

tràn dầu, đã tăng thêm nguy cơ cho rùa biển, khiến tỷ lệ sống sót của chúng tụt xuống còn

khoảng 1% hoặc thấp hơn trong mỗi vòng sinh sản. Dưới tác động của con người một trong 8

loài rùa biển đã bị đẩy đến ngưỡng nguy hiểm và trạng thái báo động. Trong khi chúng đã vượt

qua được hàng loạt trở ngại, thì tác động của con người lại đến quá nhanh và với mức độ mạnh

đến nỗi nhiều loài đã cảm thấy quá sức chịu đựng.+

Vậy hãy tóm tắt nhanh vòng lặp này, dựa theo thuyết mùa sinh sản, với những con cái có thể

đẻ nhiều lần trong một năm tới 1000 trứng, để cho đơn giản. Một ngàn trứng được đẻ. Tám

trăm trứng nở ra. Bốn trăm trứng đến được với nước. Hai trăm lớn đến tuổi trưởng thành. Hai

mươi sống sót để đẻ trứng, đó là chưa tính can thiệp của con người. Hai con sống tới tuổi đẻ

trứng, với tác động của con người.+

Nên một con rùa ở tuổi đẻ trứng là hiện thân của một đời đầy cam go. Đó là một ngoại lệ, trái

lệ thường. Giải độc đắc! Nó là, hoàn toàn đúng nghĩa: Một phép màu!

3. How big is the ocean – Scott Gass “]+

Imagine yourself standing on a beach,looking out over the ocean,waves crashing against the

shore, blue as far as your eyes can see. Let it really sink in,the sheer scope and size of it

all.Now, ask yourself,”How big is it? How big is the ocean?”.+

First thing, we need to understand that there really is only one ocean, consisting of five

component basins that we call the Pacific, the Atlantic, the Indian, the Arctic, and the

Southern. Each of these five, while generally referred to as oceans in and of themselves, are

Page 10: Script TEDtalk

really and truly a part of a single, massive body of water, one ocean, which defines the very

face of planet Earth. The ocean covers roughly 71% of our planet’s surface, some 360 million

square kilometers, an area in excess of the size of 36 U.S.A.’s. It’s such a vast spread, when

viewed from space, the ocean is, by far, the dominant feature of our planet. Speaking of space,

the ocean currently holds over 1.3 billion, that’s billion with a “b”, cubic kilometers of water.

Put another way, that’s enough water to immerse the entire United States under a body of salt

water over 132 kilometers tall, a height well beyond the reach of the highest clouds and

extending deep into the upper atmosphere. With all that volume, the ocean represents 97% of

Earth’s total water content. On top of all that, the ocean contains upwards of 99% of the

world’s biosphere, that is, the spaces and places where life exists.+

Now let that sink in for a second. The immediate world as we know it, indeed the totality of all

the living space encompassed by the continents themselves, all of that represents only 1% of

the biosphere. 1%! The ocean is everything else. So, the ocean is physically massive. It’s

importance to life is practically unparalleled. It also happens to hold the greatest geological

features of our planet. Quickly, here are four of the most notable. The ocean contains the

Page 11: Script TEDtalk

world’s largest mountain range, the mid-ocean ridge. At roughly 65,000 kilometers long, this

underwater range is some 10 times longer than the longest mountain chain found purely on

dry land, the Andes. Beneath the Denmark Strait exists the world’s largest waterfall. This

massive cataract carries roughly 116 times more water per second over its edge than the

Congo River’s Inga Falls, the largest waterfall by volume on land. The world’s tallest mountain

is actually found in the ocean, hiding in plain sight. While 4200 meters of Hawaii’s Mauna Kea

sit above sea level, its sides plummet beneath the waves for another 5800 meters. From its

snow-covered top to it’s silt-covered bottom, then, this Hawaiian mountain is roughly 10,000

meters in height, dwarfing tiny Everest’s paltry peak by well over a kilometer. Then, since we’re

picking on poor Everest.+

Let’s consider the world’s deepest canyon, the Challenger Deep, existing 11 kilometers below

the ocean’s surface, some six times deeper than the Grand Canyon. That’s deep enough to sink

Mount Everest into and still have over 2.1 kilometers of water sitting atop its newly submerged

peak. Put another way, the depth of the Challenger Deep is roughly the same height that

commercial airliners travel. So, pretty much however you choose to slice it, the ocean is capital

Page 12: Script TEDtalk

B, capital I, capital G, BIG! It defines our planet, home to the greatest geological features,

comprises the largest living space, and accordingly, is home to the greatest numbers and forms

of life on Earth. It is practically incomprehensible in scope. But it is not so big, so vast, so

extraordinary as to be untouchable.+

In fact, with roughly 50% of the world’s population living within 100 kilometers of the coastline

and with most of the remainder living close enough to lakes, rivers, or swamps, all of which

ultimately lead to the ocean, virtually every single person on the planet has the opportunity to

influence the general health and nature of the world ocean. Evidence of human influence is

seen in every part of the ocean, no matter how deep, no matter how distant. The ocean

defines our planet, but, in a very real sense, we define the ocean.+

Đại dương lớn cỡ nào – Scott Gass

Hãy tưởng tượng bạn đang đứng trên bãi biển nhìn ra ngoài biển. Những con sóng xô vào bờ,

càng xa biển trông càng xanh thẳm. Hãy thật sự chìm đắm vào cảnh tượng đó, cảnh tượng biển

trước mắt bạn. Bây giờ hãy tự hỏi mình, “Nó lớn chừng nào? Đại dương lớn đến chừng nào?”.+

Đầu tiên, ta phải hiểu là thật sự chỉ có một đại dương.bao gồm 5 thành phần chính mà ta gọi

là : Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương và Nam Đại Dương. Mỗi

thành phần này đều gọi là biển, nhưng thật sự chỉ là một phần của 1 khối lượng nước duy nhất

– 1 đại dương. Và nó thể hiện phần lớn bề mặt của Trái Đất. Đại dương che phủ đến 71% bề

mặt Trái Đất. Với diện tích khoảng 360 triệu kilomet vuông. Bằng với diện tích của 36 lần nước

Mỹ. Với độ che phủ đó, khi nhìn từ ngoài không gian, thì đại dương là nguyên tố chủ yếu của

Page 13: Script TEDtalk

Trái đất. Về mặt không gian, đại dương đang chiếm hơn 3,6 tỷ kilomet khối nước. theo một

cách tính khác thì, lượng nước đó đủ để làm ngập toàn bộ nước Mỹ trong mực nước biển cao

hơn 132 kilomet. Một độ cao vượt xa độ cao của đám mây cao nhất và vượt lên đến tầng trên

khí quyển. Với tất cả thông số đó, biển đại diện cho 97% tổng lượng nước trên Trái Đất. Và trên

hết, biển chứa đến hơn 99% sinh quyển trên thế giới. Đó là môi trường của sự sống.+

Hãy cùng suy nghĩ sâu một chút. Thế giới hiện tại mà ta biết, bao gồm tất cả các loài sinh sống

trên đất liền và không khí. Tất cả chúng đại diện cho 1% của sinh quyển. 1%. Đại dương chứa

tất cả mọi thứ còn lại. Vì vậy, đại dương thật to lớn. Tầm quan trọng của nó đối với sự sống thì

không gì sánh bằng. Đại dương cũng nắm giữ những địa hình độc đáo nhất của Trái Đất. Tóm

gọn sau đây là bốn cấu trúc đáng chú ý nhất: Đại dương chứa dãy núi có kích thước lớn nhất.

sống núi giữa đại dương với độ dài khoảng 65.000 kilomet. Sống núi ngầm này dài hơn 10 lần

dãy núi dài nhất, được tìm thấy ở trên đất liền – dãy núi Andes. Ở dưới eo biển Đan Mạch, có

thác nước lớn nhất thế giới. Thác nước lớn này có lượng nước đổ xuống mỗi giây nhiều hơn

160 lần so với đập Inga của sông Congo – Thác nước lớn nhất cùng kích cỡ trên đất liền. Ngọn

núi cao nhất thế giới thật ra là nằm dưới biển. Ẩn giấu dưới đáy biển, trong khi 4200m của

ngọn Mauna Kea ở Hawai nằm trên mặt biển thì phần kích thước của nó ở dưới mặt biển

khoảng 5800m. Như vậy tính từ đỉnh núi đầy tuyết đến phần chân núi dưới đáy biển, ngọn núi

của Hawai này cao khoảng 10.000m. Vượt qua hơn đỉnh ngọn Everest khoảng 1 km và cũng liên

quan đến ngọn Everest.+

Hãy cùng xét đến hẻm núi sâu nhất thế giới – hẻm Challenger Deep. Nằm ở độ sâu 11 km dưới

mặt nước biển. Sâu hơn hẻm núi Grand Canyon khoảng 6 lần. Độ sâu đó đủ để nhấn chìm núi

Everest mà vẫn còn dư hơn 2.1 km nước trên đỉnh núi. Nói cách khác, độ sâu của hẽm núi

Challenger Deep gần bằng độ cao của máy bay hãng Air Liner. Vậy khi xét đến biển ở mọi góc

độ, thì biển thật LỚN. Nó quyết định hành tinh của chúng ta. Là nơi chứa những kiểu địa hình

đặc biệt, là môi trường sống lớn nhất, và vì vậy nó là nhà của đa số dạng sống trên Trái Đất. Nó

thực sự không thể nào bao hàm toàn diện trong một vài từ được. Nhưng nó không quá lớn,

quá rộng và quá phi thường để khiến ta không thể tác động.+

Thật ra, có 50% dân số thế giới sống trong khoảng 100 km đường bờ biển, và đa số những

người còn lại sống gần sông, hồ hoặc đầm tất cả những nơi dẫn thẳng ra biển. Mỗi một người

trên hành tinh đều có cơ hội để tác động đến sự khỏe mạnh, và môi trường thiên nhiên của

biển. Bằng chứng về tác động của con người được thấy ở mọi nơi của đại dương, ở mọi độ sâu,

mọi khoảng cách. Biển định nghĩa hành tinh của chúng ta, nhưng chúng ta định nghĩa biển một

cách ý thức.

Page 14: Script TEDtalk

4. Just how small is an atom? – Jonathan Bergmann

You probably already know that everything is made up of little tiny things called atoms. You

might even know that each atom is made up of even smaller particles called protons, neutrons

and electrons. And you’ve probably heard that atoms are small. But I bet you haven’t ever

thought about how small atoms really are.+

Well, the answer is that they are really, really, really small. So you ask, just how small are

atoms? To understand this, let’s ask this question: How many atoms are in a grapefruit? Well

let’s assume that the grapefruit is made up of only nitrogen atoms, which isn’t at all true, but

there are nitrogen atoms in a grapefruit. Well, to help you visualize this, let’s blow up each of

the atoms to the size of a blueberry. And then how big would the grapefruit have to be? It

would have to be the same size of — well, actually, the Earth. That’s crazy! You mean to say

that if I filled the Earth with blueberries, I would have the same number of nitrogen atoms as a

grapefruit? That’s right! So how big is the atom? Well, it’s really, really, really, really small. And

you know what? It gets even more crazy.+

Let’s now look inside of each atom — and thus the blueberry, right? — What do you see there?

In the center of the atom is something called the nucleus, which contains protons and

Page 15: Script TEDtalk

neutrons, and on the outside you’d see electrons. So how big is the nucleus? Well, if atoms are

like blueberries in the Earth, how big would the nucleus be? You might remember the old

pictures of the atom from your science class, where you saw this tiny dot on the page with an

arrow pointing to the nucleus. Well, those pictures, they’re not drawn to scale, so they’re kind

of wrong. So how big is the nucleus? So if you popped open the blueberry and were searching

for the nucleus, you know what? It would be invisible. It’s too small to see! OK. Let’s blow up

the atom — the blueberry — to the size of a house. So imagine a ball that is as tall as a two-

story house. Let’s look for the nucleus in the center of the atom. And do you know what? It

would just barely be visible. So to get our minds wrapped around how big the nucleus is, we

need to blow up the blueberry, up to the size of a football stadium. So imagine a ball the size of

a football stadium, and right smack dab in the center of the atom, you would find the nucleus,

and you could see it! And it would be the size of a small marble. And there’s more, if I haven’t

blown your mind by now. Let’s consider the atom some more. It contains protons, neutrons

and electrons. The protons and neutrons live inside of the nucleus, and contain almost all of

the mass of the atom. Way on the edge are the electrons. So if an atom is like a ball the size of

a football stadium, with the nucleus in the center, and the electrons on the edge, what is in

Page 16: Script TEDtalk

between the nucleus and the electrons? Surprisingly, the answer is empty space. That’s right.

Empty! Between the nucleus and the electrons, there are vast regions of empty space. Now,

technically there are some electromagnetic fields, but in terms of stuff, matter, it is empty.

Remember this vast region of empty space is inside the blueberry, which is inside the Earth,

which really are the atoms in the grapefruit.+

OK, one more thing, if I can even get more bizarre. Since virtually all the mass of an atom is in

the nucleus — now, there is some amount of mass in the electrons, but most of it is in the

nucleus — how dense is the nucleus? Well, the answer is crazy. The density of a typical nucleus

is four times 10 to the 17th kilograms per meter cubed. But that’s hard to visualize. OK, I’ll put

it in English units. 2.5 times 10 to the 16th pounds per cubic feet. OK, that’s still kind of hard to

figure. OK, here’s what I want you to do. Make a box that is one foot by one foot by one foot.

Now let’s go and grab all of the nuclei from a typical car. Now, cars on average weigh two tons.

How many cars’ nuclei would you have to put into the box to have your one-foot-box have the

same density of the nucleus? Is it one car? Two? How about 100?+

Page 17: Script TEDtalk

Nope, nope and nope. The answer is much bigger. It is 6.2 billion. That is almost equal to the

number of people in the Earth. So if everyone in the Earth owned their own car — and they

don’t — and we put all of those cars into your box, that would be about the density of a

nucleus. So I’m saying that if you took every car in the world and put it into your one-foot box,

you would have the density of one nucleus.+

OK, let’s review. The atom is really, really, really small. Think atoms in a grapefruit like

blueberries in the Earth. The nucleus is crazy small. Now look inside the blueberry, and blow it

up to the size of a football stadium, and now the nucleus is a marble in the middle. The atom is

made up of vast regions of empty space. That’s weird. The nucleus has a crazy-high density.

Think of putting all those cars in your one-foot box. I think I’m tired.+

Một nguyên tử nhỏ đến cỡ nào? – Jonathan Bergmann

Có lẽ bạn đã biết rằng mọi thứ đều cấu thành từ vật chất nhỏ xíu gọi là nguyên tử. Thậm chí

bạn biết cả việc nguyên tử được cấu thành từ những hạt nhỏ hơn gọi là proton, neutron và

electron. Có thể bạn nghe nói là nguyên tử rất nhỏ. Nhưng tôi cược là bạn chưa bao giờ biết nó

nhỏ tới mức nào.+

Vâng, thật sự là chúng rất, rất, rất nhỏ. Vậy bạn hỏi, nguyên tử nhỏ cỡ nào? Để hiểu rõ, hãy đặt

câu hỏi này: Có bao nhiêu nguyên tử trong một trái bưởi? Cứ cho là trái bưởi hoàn toàn cấu

thành từ nguyên tử Nitơ đi dù không đúng, nhưng thật sự có Nitơ bên trong trái bưởi.+

Để bạn dễ hình dung, hãy thổi phình các nguyên tử lên to bằng 1 trái nho. Khi đó trái bưởi sẽ

phình to cỡ nào? Nó sẽ có kích thước bằng — thật ra, bằng Trái Đất luôn. Thật kinh hoàng! Ý

Page 18: Script TEDtalk

anh là nếu tôi lấp đầy Trái Đất bằng nho thì mới bằng được số lượng nguyên tử Nitơ trong trái

bưởi? Đúng vậy. Vậy nguyên tử to cỡ nào? Vâng, rất, rất, rất, rất nhỏ. Và biết gì không? Thậm

chí còn kinh hoàng hơn.+

Hãy nhìn vào bên trong nguyên tử — là trái nho lúc nãy, nhỉ? — Bạn thấy gì nào? Ở giữa của

nguyên tử là thứ được gọi là hạt nhân, nó chứa các hạt proton và neutron, và bên ngoài nó là

các hạt electron. Vậy hạt nhân lỡn cỡ nào? Vậy nếu nguyên tử to bằng trái nho, thì hạt nhân to

bằng cái gì? Có thể bạn sẽ nhớ bức tranh mô tả nguyên tử trong sách giáo khoa, và bạn thấy

một chấm nhỏ trên trang giấy thể hiện nó là hạt nhân. Thật ra, họ không vẽ đúng tỷ lệ, nên

hình đó là sai. Vậy hạt nhân to cỡ nào? Nếu bạn nhìn vào trong quả nho để tìm kiếm hạt nhân,

biết gì không? Không thể thấy được. Vì nó quá nhỏ. OK, phóng to nguyên tử — tức quả nho —

lên to bằng căn nhà. Và tưởng tượng quả cầu to bằng 1 căn nhà 2 tầng. Hãy tìm hạt nhân ở

giữa hạt nhân xem nào. Và bạn biết không? Gần như vẫn không thể thấy được. Vậy hãy để xem

hạt nhân thật sự to đến mức nào, chúng ta cần phóng to quả nho lên bằng kích thước một sân

vận động. Và tưởng tượng một quả cầu to bằng sân bóng đá, và bay thẳng vào chính giữa

nguyên tử, bạn sẽ tìm được hạt nhân, và có thể thấy nó. Và nó sẽ to bằng một viên bi nhỏ.

Thêm nữa, nếu tôi chưa làm bạn đủ choáng thì hãy xét thêm về nguyên tử. Nó chứa proton,

neutron và electron. Hạt proton và neutron nằm bên trong hạt nhân, và chiếm gần hết khối

lượng của nguyên tử. Ở ngoài rìa của nó là electron. Vậy nếu nguyên tử là một quả cầu to bàng

sân bóng đá, với hạt nhân ở giữa, và electron ở xung quanh, thì cái gì ở giữa hạt nhân và

electron? Thật ngạc nhiên, đáp án là không gian rỗng. Đúng vậy đấy. Trống rỗng. Giữa hạt nhân

và electron là một khoảng không gian trống rỗng rất lớn. Vâng, về mặt kỹ thuật, nó là vùng điện

từ trường, nhưng về mặt vật chất, nó hoàn toàn rỗng. Hãy nhớ rằng vùng không gian rộng lớn

này nằm bên trong quả nho, tức là bên trong Trái Đất, mà thật sự chỉ là các nguyên tử của quả

bưởi.+

OK, một điều nữa, nó có vẻ còn lạ lùng hơn. Vì hầu hết khối lượng nguyên tử thuộc về hạt nhân

vậy vẫn còn một ít khối lượng nằm ở electron, nhưng hầu hết vẫn là ở hạt nhân, vậy hạt nhân

dày đặc cỡ nào? Câu trả lời thật kinh hoàng. Mật độ của hạt nhân thường là bằng 4 nhân 10

mũ 17 kg trên 1 mét khối. Nhưng thật khó để hình dung. OK, trong hệ đơn vị nước Anh 2.5 x

10^16 lb/ft3. OK, vẫn còn khó hình dung. OK, tôi muốn bạn làm điều này. Làm một hộp giấy

kích thước 30cm x 30cm x 30cm. Rồi giờ hãy tìm hiểu nguyên tử thông qua một chiếc xe hơi. Xe

hơi trung bình nặng 2 tấn. Bạn sẽ phải để bao nhiêu chiếc xe vô cái hộp này để có mật độ

tương đương với mật độ nguyên tử? Có phải 1 chiếc? Hay 100? Không, không và không. Đáp án

lớn hơn rất nhiều. Đó là 6,2 tỷ. Con số gần bằng với dân số trên Trái Đất. Vậy nếu mỗi người

trên Trái Đất đều có xe hơi, thật ra là không, và nếu để tất cả số xe hơi đó vô chiếc hộp này, nó

Page 19: Script TEDtalk

sẽ bằng mật độ của nguyên tử. Vậy tôi nhắc lại, nếu bạn lấy tất cả xe hơi trên thế giới và đặt

vào cái hộp 30cm, nó sẽ tương đương mật độ của 1 nguyên tử.+

OK, xem lại nào. Hạt nhân rất, rất, rất nhỏ. Coi hạt nhân trong trái bưởi nhỏ bằng trái nho so

với Trái Đất. Hạt nhân còn nhỏ hơn nữa. Hãy nhìn vào bên trái nho và phóng to nó lên bằng 1

sân bóng đá, ta tìm được hạt nhân to bằng viên bi ở giữa. Và nguyên tử chứa không gian rỗng

rất lớn. Thật kỳ lạ. Hạt nhân có mật độ cao kinh hoàng. Tương đương với tất cả xe hơi nhét vào

1 cái hộp 30cm. Tôi thấy mệt rồi đó.

5. Evolution in a big city – Jason Munshin-South

So, I’m here today to encourage you to think about New York city, not just as one of

humanity’s greatest achievements, but as home to native wildlife that are subject to a grand

evolutionary experiment. So take this forested hillside in northern Manhattan, for example.

This is one of the last areas left in the city where there is clean spring water that’s still seeping

out of the ground. You could drink this out of your hands and you’d be OK. These tiny little

areas of seeping water contain huge populations of Northern Dusky Salamanders. These guys

were common in the city maybe sixty years ago, but now they’re just stuck on this single

hillside and a few places in Staten Island.+

Not only do they suffer the indignity of being stuck on this hillside, but we divided the hillside

in two on two different occasions with bridges crossing from the Bronx into Manhattan. But

they’re still there on either side of the bridges where you see the red arrows about 180th

Page 20: Script TEDtalk

street, 167th street. And my lab has found that if you just take a few segments of DNA from

salamanders in those two locations you can tell which side of the bridge they came from.+

We build this single piece of infrastructure that’s changed their evolutionary history. We can go

study these guys, you know, we just go to the hillside we know where they are, we can flip

over rocks, we can catch them. There are a lot of other things in New York City though that are

not that easy to capture, such as this guy, a coyote. We caught him on an automatic camera

trap somewhere in an undisclosed location, not allowed to talk about it yet. But they’re moving

into New York City for the first time. They’re very flexible, intelligent animals. This is one of this

year’s cubs checking out one of our cameras. And my colleagues and I are very interested in

understanding how they’re going to spread through the area, how they’re going to survive

here, and maybe even thrive. And they’re probably coming to a neighborhood near you if they

are not already there. So, there are some things that are too fast to be caught by hand. We

can’t pick them up on the cameras, so we actually set up traps all around the New York City

and the parks. This is one of our most common activities. Here’s some of my students and

Page 21: Script TEDtalk

collaborators getting the traps out and ready. And this guy, we catch in almost every forested

area in New York City. This is the White-footed Mouse.+

This is not the mouse you find running around your apartment. This is a native species, been

here long before humans, and you find them in forests and meadows. Because they’re so

common in forested areas in the city, we’re using them as a model to understand how species

are adapting to urban environments. So if you think back 400 years ago, the five boroughs

would have been covered in forests and other types of vegetation. This mouse would have

been everywhere. Huge populations that showed few genetic differences across the landscape.

+

But if you look at the situation today, they’re just stuck in these little islands of forest scattered

around the city. Just using 18 short segments of DNA, we can pretty much take a mouse

somebody could give us a mouse, not tell us where it was from, and we could determine what

park it came from. That’s how different they’ve become. You’ll notice in the middle of this

colored figured here there’s some mixed up colors. There are a few parks in the city that are

still connected to each other with strips of forest so the mice can run back and forth and

Page 22: Script TEDtalk

spread their genes so they don’t become different, but throughout the city, they’re mostly

becoming different in the parks. All right, so I’m telling you they’re different, but what does

that really mean? What’s changing about their biology? To answer this question we’re

sequencing thousands of genes from our city mice and comparing those to thousands of genes

from the country mice.+

So their ancestors outside of New York City in these big, more wilderness areas. Now genes are

short segments of DNA that code for amino acids. And amino acids are the building blocks of

proteins. Now if a single base pair changes in a gene, you can get a different amino acid, which

will then change the shape and structure of the protein. If you change the structure of a

protein, you often change something about what it does in the organism. Now if that change

leads to a longer life or more babies for a mouse, something evolutionary biologists call fitness,

then that single base pair change will spread quickly in an urban population. So this crazy figure

is actually called a Manhattan plot, because it kind of looks like a skyline. And each dot

represents one gene, and the higher the dot is in the plot, the more different it is between city

Page 23: Script TEDtalk

and country mice. The ones kind of at the tips of the skyscrapers are the most different,

especially those above the red line.+

And these genes encode for things like immune response to disease, because there might be

more disease in very dense, urban populations. Metabolism, how the mice use energy, and

heavy metal tolerance. You guys can probably predict that New York City soils are pretty

contaminated with lead, and chromium and that sort of thing. And now our hard work is really

starting, we’re going back into the wilds of New York City parks, following the lives of individual

mice and seeing exactly what these genes are doing for them. And I would encourage you guys

to try to look at your parks in a new way, I’m not going to be the next Charles Darwin, but one

of you guys might be, so just keep your eyes open.+

Thank you.+

Tiến hóa trong thành phố lớn – Jason Mushin-South

Và tôi ở đây hôm nay để khuyên bạn nghĩ về New York không chỉ là một thành tựu vĩ đại của

con người mà như một môi trường hoang dã để tiến hành thí nghiệm và sự tiến hóa. Hãy lấy

khu rừng sườn đồi ở Bắc Manhattan làm ví dụ. Đây là một trong những khu vực cuối cùng của

thành phố mà nước sạch vẫn chảy ra từ lòng đất. Bạn có thể uống nước này bằng tay mà không

vấn đề gì. Vùng rỉ nước nhỏ bé này chứa một lượng lớn kỳ giông sẫm miền bắc Loài này khá

phổ biến trong thành phố khoảng 60 năm trước, nhưng hiện nay chỉ còn có ở sườn đồi và vài

nơi ở đảo Staten (thuộc New York).+

Page 24: Script TEDtalk

Chúng không chỉ phải chịu đựng tủi nhục khi kẹt lại vùng đồi này, mà chúng ta còn chia vùng

đồi này làm đôi với 2 sự kiện khác nhau với những cây cầu bắt ngang từ Bronx tới Manhattan.

Nhưng chúng vẫn ở đó, ở bên kia đầu cầu nơi bạn thấy mũi tên màu đỏ giữa đường 180 tới

đường 167. Và phòng thí nghiệm của tôi đã khám phá rằng nếu lấy vài đoạn DNA của bọn

chúng từ 2 địa điểm đó bạn có thể biết nó đến từ phía cầu nào.+

Chúng ta đã tạo ra những cơ sở hạ tầng làm thay đổi lịch sử tiến hóa của chúng. Chúng ta có

thể nghiên cứu loài này, bạn biết đấy, chúng ta chỉ cần tới sườn đồi nơi chúng ở, dỡ mấy tảng

đá ra và bắt được chúng. Có rất nhiều thứ khác ở New York mà chúng ta không dễ dàng gì bắt

được, như loài này, chó hoang Bắc Mỹ. Chúng tôi chụp được bằng một bẫy camera tự động ở

một nơi bí mật, vẫn chưa được phép tiết lộ. Nhưng chúng đang di chuyển vào New York lần

đầu tiên. Chúng rất thông minh lanh lợi. Đây là những con con đang kiểm tra camera của chúng

tôi. Các đồng nghiệp và tôi rất thích thú khi biết được cách chúng trải rộng khắp vùng này, cách

chúng sống sót và thậm chí là phát triển mạnh. Và có lẽ chúng đang đến khu vực bạn sống nếu

chúng chưa từng ở đó. Vậy, vẫn có thứ gì đó quá nhanh, không thể bắt bằng tay. Chúng ta vẫn

chụp được bằng camera, và chúng tôi gài bẫy khắp nơi xung quanh New York và các công viên.

Đây là hoạt động thông thường nhất. Đây là các sinh viên và đồng sự đang chuẩn bị bẫy sẵn

sàng. Và loài này, chúng tôi bắt được hầu như mọi khu rừng ở New York. Đây là chuột chân

trắng.+

Đây không phải loài chuột bạn thấy trong nhà bạn. Đây là loài bản xứ, chúng đã ở đây trước cả

con người, và bạn sẽ tìm thấy chúng trong rừng hay đồng cỏ. Bởi vì chúng quá phổ biến trong

rừng trong thành phố, chúng tôi dùng chúng như mẫu nghiên cứu cách thức chúng thích nghi

với môi trường thành thị. Vậy nếu nhìn lại 400 năm trước, cả 5 khu của thành phố sẽ bảo phủ

bởi rừng rậm và đủ loại thực vật. Loài chuột này có thể ở khắp nơi. Số lượng lớn và rất ít khác

biệt về gene xuyên suốt toàn khu vực.+

Nhưng nếu bạn xem xét tình hình hiện nay, chúng bị kẹt trong những ốc đảo tạo bởi các khu

rừng cô lập trong thành phố. Chỉ cần dùng 18 đoạn DNA, chúng ta có thể xác định, người nào

đó có thể đưa cho ta con chuột mà không nói họ bắt nó ở đâu, và chúng ta có thể xác định nó

đến từ đâu. Hiện nay chúng khác nhau vậy đấy. Bạn sẽ thấy ở giữa ở giữa bảng màu sẽ có

những màu được pha trộn. Có vài công viên trong thành phố vẫn có thể kết nối với nhau bởi

những mảnh rừng nên chúng có thể đi và về và truyền gene ở đó nên không trở nên quá khác

biệt, nhưng trên toàn thành phố, hầu như mọi công viên đều khác nhau. Được rồi, tôi đã nói

chúng khác nhau, nhưng nó có nghĩa gì? Điều kiện sinh học có thay đổi gì? Để trả lời câu hỏi

này chúng tôi đã sắp xếp hàng ngàn gene từ chuột thành phố và so sánh với hàng ngàn gene từ

chuột nông thôn.+

Page 25: Script TEDtalk

Vậy tổ tiên của chúng ngoài New York ở những khu hoang dã rộng lớn hơn. Và gene là những

đoạn ngắn của DNA chứa các amino acid. Và các amino acid là những khối protein. Và nếu 1

cặp thay đổi trong gene, bạn sẽ có 1 amino acid khác nó sẽ thay đổi hình dạng và cấu trúc của

protein. Nếu bạn thay đổi cấu trúc 1 protein, bạn sẽ thay đổi cái gì đó về chức năng của một bộ

phận. Nếu thay đổi đó giúp nó sống lâu hơn và có nhiều con cái hơn, nó được các nhà sinh học

tiến hóa gọi là thích nghi, thì cặp thay đổi đó sẽ nhanh chóng lan rộng trong loài này ở thành

thị. Và hình dáng đặc biệt này được gọi là biểu đồ Manhattan, bởi vì nó trông giống bóng đổ

chân trời. Và mỗi chấm đại diện cho 1 gene, và chấm cao hơn trên biểu đồ thể hiện khác biệt

lớn hơn giữa chuột thành thị và nông thôn. Chấm nằm trên cao nhất thể hiện sự khác biệt lớn

nhất, đặt biệt là ở trên đường thẳng màu đỏ.+

Và những gene này thường là khả năng miễn dịch với bệnh tật, bởi vì có nhiều mầm bệnh nguy

hiểm ở thành phố hơn. Sự trao đổi chất, cách chuột dùng năng lượng, và sức kháng kim loại

nặng. Các bạn có thể đoán là đất của New York chứa nồng độ khá cao kim loại chì, crôm và vân

vân. Và công việc khó khăn giờ mới bắt đầu, chúng tôi sẽ trở lại vùng hoang dã của các công

viên New York để theo dõi những cá thể chuột xem chính xác thì những gene này tác động như

thế nào. Và tôi khuyến khích các bạn thử nhìn ngắm công viên theo một cách khác. Tôi không

phải là Charles Darwin tiếp theo nhưng một trong các bạn có thể, vậy hãy mở to mắt xem nhé.

+

6. Phenology and natures shifting rhythms – Regina Brinker

Take a look outside a window. What is the season where you are? How do you know? Most

likely, you looked at a tree or plant and noticed details about its leaves and assessed the

qualities of sunlight streaming outside. Observing the timing of biological events in relation to

changes in season and climate is called “phenology”.+

Page 26: Script TEDtalk

When you notice the daffodil buds are poking through the snow and think spring is on its way,

you’re using phenology. When you see leaves turn from green to red, and watch migrating

birds fly past, and realize that summer is over, autumn is here, you’re using phenology. Literally

meaning, “the science of appearance”, phenology comes from the Greek words “pheno,” to

show or appear, and “logos,” to study.+

Humans have relied on phenology since the time of hunters and gatherers. We’ve watched

changes in seasons to know when to plant and harvest food and when to track migrating

animals. Scientists observe and document seasonal changes in nature and look for patterns in

the timing of seasonal events. Timing of these natural signs has remained consistent until

recently. Increasing global temperature is causing rhythms of nature to shift.+

Bud burst, the day when a tree or plant’s leaf or flower buds open, is occurring earlier in the

year for some species. For every one degree Celsius rise in temperature, bud burst happens

five days earlier than usual. Differences in timing affect not only plants, but the insects and

birds that depend on the plants for food. For example, oak trees in the Arnhem Forest of the

Netherlands now experience bud burst ten days earlier, as compared to twenty years ago. New

Page 27: Script TEDtalk

oak leaves are a favorite food of winter moth caterpillars. To survive, the caterpillars adapted

to the change in the tree’s timing, and now hatch 15 days earlier than before.+

Migrating pied flycatcher birds, however, aren’t doing as well. The birds prefer to feed their

chicks winter moth caterpillars. The caterpillars are now hatching earlier, but the birds’ chicks

are not. This delay is costing the birds a food source. The pied flycatcher population has

decreased by up to 90% in some areas as a result. Changes to a seemingly simple event, leaves

opening, has ripple effects throughout a food web.+

Earlier bloom times can also have an economic impact. The famed cherry blossoms in

Washington D.C. are blooming five days earlier than before. Since the cherry trees are

blooming earlier, the blossoms also fade earlier, frustrating thousands of tourists who visit for

the Cherry Blossom Festival. High school marching bands plan all year to attend the parade and

perform, surrounded by a majestic white canopy. How disappointing for them to find, well,

trees rather than the famous cherry blossoms!+

Plants and animals react to changes in natural light and temperature. Increasing temperatures

cause plants to bloom earlier than before, and become out of sync with the insects and birds in

Page 28: Script TEDtalk

a food web. So, the next time you look out your window and notice what season it is, you may

be fooled by those blooming trees. Think of phenology, then think of how you can play a part

to slow climate change.+

Sự thay đổi nhịp điệu của tự nhiên – Regina Brinker

Hãy nhìn ra ngoài cửa sổ. Ở chỗ bạn đang là mùa gì? Làm sao bạn biết? Thường thì bạn sẽ nhìn

vào cây cối và để ý những chi tiết trên lá cây và ước định lượng ánh sáng đang chiếu bên ngoài.

Quan sát thời điểm của sự kiện sinh giới trong mối quan hệ với sự thay đổi mùa và khí hậu gọi

là “khí hậu học”.+

Khi bạn thấy chồi hoa thủy tiên vàng trổ lên trong tuyết và mùa xuân đang đến gần, bạn đang

dùng khí hậu học. Khi bạn thấy lá chuyển từ xanh sang đỏ, và nhìn những đàn chim di trú bay

ngang, và nhận ra mùa hè vừa qua, màu thu đã đến, bạn đang dùng khí hậu học. Nghĩa đen của

nó là “khoa học về biểu hiện”. “Phenology” là một từ Hy Lạp “pheno” tức là xuất hiện, và

“logos” nghĩa là nghiên cứu.+

Con người đã dùng khí hậu học từ thời kỳ săn bắt hái lượm. Chúng ta quan sát sự chuyển mùa

để biết thời điểm trồng trọt và thu hoạch, và khi theo dấu động vật di cư. Các nhà khoa học

quan sát và nghiên cứu sự chuyển mùa tự nhiên và tìm kiếm những dấu vết của sự kiện chuyển

mùa. Thời điểm của những dấu hiệu tự nhiên này vẫn giữ nguyên đến gần đây. Sự nóng lên

toàn cầu đang gây thay đổi nhịp điệu của tự nhiên.+

Đâm chồi, thời điểm chồi lá hay chồi hoa nở ra đang đến sớm hơn trong năm đối với vài loài.

Cứ 1 độ C tăng lên trong nhiệt độ chung chồi nụ sẽ nở ra sớm hơn 5 ngày so với thông thường.

Sự thay đổi thời điểm không chỉ tác động thực vật, mà cả côn trùng và chim chóc kiếm ăn nhờ

loài cây đó. Ví dụ, cây sồi ở rừng Arnhem của Hà Lan nay đâm chồi sớm hơn 10 ngày, so với 20

năm về trước. Những lá sồi non là thức ăn yêu thích của sâu bướm mùa đông. Để sống sót, sâu

bướm đã thích nghi với sự thay đổi thời điểm của cây và giờ nó nở ra sớm 15 ngày so với trước

đây. Những loài chim sâu đen trắng di trú thì ngược lại lại không ổn lắm. Lũ chim thường cho

chim con ăn bằng sâu bướm mùa đông. Giờ lũ sâu bướm đã nở sớm hơn, nhưng chim con thì

không. Sự trì hoãn này khiến nguồn thức ăn khan hiếm. Số lượng chim sâu đen trắng giảm

xuống đến 90% ở một số vùng do thay đổi đó.+

Page 29: Script TEDtalk

Các thay đổi dường như khá đơn giản, như lá trổ ra, tác động lan truyền suốt chuỗi thức ăn.

Hoa trổ sớm hơn cũng có thể gây tác động kinh tế. Loài hoa anh đào lừng danh ở thủ đô

Washington đang nở sớm hơn 5 ngày so với trước. Vì cây anh đào nở hoa sớm hơn, hoa cũng

tàn sớm hơn, gây thất vọng cho rất nhiều du khách đến Lễ hội hoa anh đào. Kế hoạch diễu binh

trung học mọi năm đều đúng thời điểm diễu hành quanh những vòm hoa lộng lẫy.+

Nhưng thật thất vọng làm sao khi chỉ trơ trọi cây thay vì loài hoa anh đào nổi tiếng. Cây cối và

động vật phản ứng với sự thay đổi ánh sáng và nhiệt độ tự nhiên. Sự nóng lên toàn cầu làm cây

trổ hoa sớm hơn trước đây, và tác động liên đới với côn trùng và chim chóc trong lưới thức ăn.

Vậy lần tới bạn nhìn ra ngoài cửa sổ và để ý xem đang là mùa gì, có thể bạn sẽ bị những bông

hoa lừa đấy. Hãy nghĩ về khí hậu học, và hãy nghĩ về vai trò của bạn trong sự biến đổi khí hậu

nhé.

7. Comma story – Terisa Folaron “]+

Commas are tricky things, especially when subordinates and conjunctions are involved. If you

can remember a few basic rules, a simple law of physics, and some common scenarios, you will

be able to use commas correctly. I like to think of the different parts of our sentence as

characters. Let’s meet a few of them: the tiny conjunctions, the mighty subordinates, and the

clever comma.+

Conjunctions are small and nimble. They are words that connect clauses, words, and phrases.

You can easily remember the conjunctions by remembering the acronym FANBOYS. The

conjunctions are for, and, nor, but, or, yet, so. Because they’re so small, more often than not,

they require the help of a comma but not always.+

Page 30: Script TEDtalk

Subordinates, on the other hand, are the WWE heavyweight champions of sentences. They are

words that connect two unequal things, dependent and independent clauses. Subordinates

make it very clear what is being prioritized in a sentence. Commonly used subordinates are

although, because, before, however, unless, and even though. Because subordinates are all

about power, they can do a lot of heavy lifting by themselves. But, of course, sometimes even

the strongest among us needs some help from our clever friends.+

Because our clever comma is so nice, she often roams her neighborhood looking for some

community service to do. Today, as soon as she leaves her house, she sees a subordinate lifting

the weight of two complete sentences, one on each arm. Bartheleme loves engaging in political

debate even though he usually loses. The comma asks the subordinate if he needs help. Well,

we know that subordinates are the WWE heavyweight champions of sentences. They can easily

hold the weight of these two complete sentences because they are distributed evenly on both

arms. So, when the comma asks if it can help, the subordinate is appalled at the idea of

needing assistance. No thanks, maybe next time!+

Page 31: Script TEDtalk

So, the comma continues on. Soon, she seems a couple of subordinates attempting to lift the

weight of sentences directly in front of themselves. Even though Bartheleme loves to sing he

never sings in front of others. The comma asks the subordinates if they need help. They might

not want to admit it, but this time the subordinates do need help. Complete sentences weigh

quite a bit.+

Simple physics tells us that it’s easier to balance heavy objects if the weight is evenly

distributed. So, while the subordinates are quite capable of balancing two complete sentences

when carrying the weight on both sides they’re having trouble picking just one. The comma

rushes over to help the struggling subordinates, but how will she help? When subordinates

begin sentences, the comma will place herself directly after the first thought or complete

sentence.+

After helping the subordinates, our comma heroine continues on and spots a conjunction

holding the weight of two complete sentences. Bartheleme was accepted into the University of

Chicago, and he is on the waitlist for Stanford University. The comma asks the conjunction if he

needs help. Of course he does! Hurry! The comma rushes and places itself before the

Page 32: Script TEDtalk

conjunction. Fanboys aren’t as militant as subordinates. For this reason, the commas don’t

have to fall in line behind the fanboys. Fanboys are courteous creatures. They allow the comma

to go ahead of them.+

Helping others is hard work! On her way home, our comma sees a conjunction holding up the

weight of a complete sentence and a fragment sentence. Bartheleme is going to major in

molecular biology or interpretive dance. The now-exhausted comma asks the conjunction if he

needs help lifting the items. This is one of the rare occassions where a conjunction doesn’t

need the help of a comma.The conjunction assures the comma that help isn’t needed, which is

good for the comma because by now, all it wants to do is go home and rest up for another day

of vigilant sentence constructing.+

Câu chuyện về dấu phẩy – Terisa Folaron

Nếu việc học ngữ pháp tiếng Anh làm các bạn cảm thấy rắc rối hay khó nhớ, hãy xem video

này. Câu chuyện đơn giản cùng các hình ảnh minh họa dễ thương sẽ giúp bạn dễ dàng hiểu và

nhớ lâu hơn về cách đặt chính xác vị trí dấu phẩy trong câu khi chúng đi cùng với các liên từ.+

Dấu phẩy khá là rắc rối, đặc biệt khi chúng liên quan đến các liên từ phụ thuộc và liên từ đẳng

lập. Nếu bạn có thể nhớ một số quy luật cơ bản, một định luật vật lý đơn giản và vài kịch bản

phổ biến, bạn sẽ có thể dùng dấu phẩy chính xác hơn. Tôi thích xem các thành phần của câu là

những nhân vật. Hãy gặp một vài trong số họ: các liên từ đẳng lập bé xíu, những liên từ phụ

thuộc hùng mạnh, và dấu phẩy tài tình.+

Page 33: Script TEDtalk

Các liên từ đẳng lập thì nhỏ và nhanh nhẹn. Chúng là những từ để nối những mệnh đề, từ, và

cụm từ. Bạn có thể dễ dàng nhớ các liên từ đẳng lập này bằng cách ghi nhớ từ viết tắt

FANBOYS. Những liên từ đẳng lập này là for, and, nor, but, or, yet, so. Vì chúng quá nhỏ, nên

thường cần đến sự giúp đỡ của dấu phẩy, nhưng không phải lúc nào cũng vậy.+

Những liên từ phụ thuộc thì trái lại, chúng là các nhà vô địch đô vật hạng nặng trong câu.

Chúng là những từ nối hai mệnh đề không tương đương, mệnh đề phụ và mệnh đề chính. Liên

từ phụ thuộc làm rõ mệnh đề nào được ưu tiên trong một câu. Những liên từ phụ thuộc

thường được dùng là although, because, before, however, unless, và even though. Vì liên từ

phụ thuộc đầy sức mạnh, chúng có thể tự mình nâng nhiều vật nặng. Nhưng dĩ nhiên, thỉnh

thoảng cả những người mạnh nhất cũng cần đến sự giúp đỡ từ những người bạn tốt.+

Vì dấu phẩy của chúng ta rất tốt bụng, cô ấy thường đi vòng quanh hàng xóm tìm những công

việc tình nguyện để làm. Hôm nay, ngay khi mới ra khỏi nhà, cô ấy thấy một liên từ phụ thuộc

đang nâng hai câu hoàn chỉnh rất nặng, mỗi tay một câu. Bartheleme rất thích tranh luận chính

trị mặc dù anh ấy thường hay thua. Dấu phẩy đề nghị giúp đỡ liên từ phụ thuộc nếu như anh

ấy cần. Ồ, chúng ta biết rằng những liên từ phụ thuộc là các đô vật giải hạng năng của các câu.

Họ có thể dễ dàng nâng trọng lượng của hai câu hoàn chỉnh này vì chúng được phân bố đồng

đều trên cả hai cánh tay. Vì vậy, khi dấu phẩy đề nghị giúp đỡ, liên từ phụ thuộc này bị sốc bởi

ý nghĩ cần sự trợ giúp. Không, cảm ơn, có lẽ để lần sau!+

Thế là dấu phẩy tiếp tục đi. Không lâu sau, cô ấy gặp một liên từ phụ thuộc đang cố nâng nhiều

câu ở cùng một phía trước mặt chúng. Mặc dù Bartheleme rất thích hát anh ấy không bao giờ

hát trước mặt người khác. Dấu phẩy hỏi liên từ phụ thuộc có cần giúp đỡ không. Dù không

muốn thừa nhận, nhưng lần này liên từ phụ thuộc cần giúp đỡ. Những câu hoàn chỉnh khá là

nặng.+

Vật lý cơ bản cho thấy sẽ dễ cân bằng hơn, nếu trọng lượng của chúng được phân bố đều. Nên

dù các liên từ phụ thuộc rất giỏi cân bằng hai câu hoàn chỉnh bằng cách chia ra hai bên, nhưng

lại gặp rắc rối khi chỉ nâng một bên. Dấu phẩy chạy đến giúp liên từ phụ thuộc đang vật vã,

nhưng giúp bằng cách nào? Khi liên từ phụ thuộc ở đầu câu, dấu phẩy sẽ đặt mình ngay sau ý

hay câu hoàn chỉnh đầu tiên.+

Sau khi giúp đỡ liên từ phụ thuộc, nữ anh hùng dấu phẩy tiếp tục đi và thấy một liên từ đẳng

lập đang nâng hai câu hoàn chỉnh. Bartheleme đã được nhận vào Đại học Chicago và anh ấy

nằm trong danh sách chờ của Đại học Stanford. Dấu phẩy hỏi anh ấy có cần giúp đỡ không. Tất

nhiên là cần! Nhanh lên nào! Dấu phẩy chạy đến và đặt vào phía trước liên từ đẳng lập.

FANBOYS không dũng mãnh như các liên từ phụ thuộc. Vì thế, dấu phẩy không nhất thiết phải

đứng đằng sau FANBOYS. FANBOYS là những người lịch sự, họ để dấu phẩy đứng trước họ.+

Page 34: Script TEDtalk

Giúp đỡ người khác khá vất vả! Trên đường về nhà, dấu phẩy thấy một liên từ đẳng lập đang

nâng một câu hoàn chỉnh và một phần khác của câu. Bartheleme định học ngành sinh học phân

tử hoặc bộ môn khiêu vũ trình diễn. Dấu phẩy đang kiệt sức, hỏi anh ấy có cần giúp đỡ nâng

những cái này không. Đây là trường hợp hiếm gặp, khi liên từ đẳng lập không cần sự giúp đỡ

của dấu phẩy. Liên từ đẳng lập bảo dấu phẩy rằng không cần giúp đỡ, thật là tốt cho dấu phẩy,

bởi vì bây giờ, cô ấy chỉ muốn về nhà nghỉ ngơi chuẩn bị cho một ngày mới cấu trúc câu một

cách cẩn thận.

8. Electric Vocabulary – James Sheils

I’m going to try to shine a historical light on our language, and tell you a story about the

electric vocabulary. It all begins over 2,600 years ago. An ancient Greek, called Thales of

Miletus, is thought to be the first person to observe what we would today call electrical

phenomena. He discovered that a piece of amber, when rubbed with fur, could pick up small

pieces of straw In Thales’ language, amber was called “electron”. For a long time, that was

pretty much all anybody knew about the subject. And nature had to wait around 2,200 years

before any new investigations were made into amber’s properties. William Gilbert, a 17th

century English scientist, discovered that with a careful experimentation, a number of other

materials could display the attractive properties of amber. He also found that they could

attract objects besides straw. Gilbert named these amber-like objects after the Greek for

amber. He called them “electrics.” About 40 years later, in nearby Norwich, Sir Thomas Browne

Page 35: Script TEDtalk

carried out some more experiments. He didn’t figure out anything different from William

Gilbert, yet the way he described the experiments coined the word we use all the time. The

way he saw it, when you rub, say, a crystal with a cloth, it becomes an electric object. And just

as we speak of elastic objects, and say they possess the property of elasticity, “electric” objects

possess the property of “electricity”. The 18th century French physicist Charles du Fay was the

next person to make an important new discovery. He found that almost any object, except for

metals and fluids, could be turned electric after subjecting them to a combination of heating

and rubbing. In addition, he found that when two electrics are place near each other, they

sometimes attract and sometimes repel. With this extra knowledge, du Fay found that there

were two distinct groups of electrics. Any two objects from the same group will always repel,

while a pair of one from each group will always attract. Despite these new discoveries, du Fay’s

descriptions of the physics are all lost to history.+

Instead, it is the vocabulary of a charismatic young American that we still remember and use to

this day. Benjamin Franklin heard of the work going on in Europe and started his own playful

experiments. He quickly learned how to make electric devices that would de-electrify by

Page 36: Script TEDtalk

producing very large sparks. Keen on mischievous pranks, Franklin would often shock his

friends with these machines. As he built more effective devices, he likened the act of

electrifying and de-electrifying to charging and discharging weaponry. It didn’t take long for

Franklin and others to realize that it was possible to link these weapons of mischief together.

Franklin, continuing with the metaphor, likened this grouping to cannons on a ship. The gun

deck on a military vessel fired their cannons simultaneously, in a battery Similarly, this electric

battery would discharge all at the same time, causing large sparks. This new technology raised

an interesting question: Was a lightning cloud just a large electrical battery? Franklin’s de

cription of all this was as follows: He supposed that there was a substance he called the

“electrical fluid” that is common to all things. If, say, a person rubs a glass tube, this rubbing, or

charging, causes a flow of this fluid, or an electrical current, to move from the person to the

glass. Both the person and the tube become “electrics” as a result. Normally, if the person was

standing on the ground, their electrical fluid would return to normal, with an exchange from

the common stock of the Earth, as Franklin called it. Standing on something like a wax block

can cut off this supply. Franklin said that an object with an excess of this fluid was positively

charged, and something lacking this fluid was negatively charged. When objects touch, or are

Page 37: Script TEDtalk

near each other, the electrical fluid can flow between them until they reach a balance. The

bigger the difference in the fluid between the two objects, the larger the distance the fluid can

jump, causing sparks in the air. And it is the material of the object that determines if it gains or

loses e ectrical fluid during charging. These are du Fay’s two groups of electrics. You might

have heard the phrase, “Opposite charges attract, like charges repel.” That’s why. For the next

150 years, Franklin’s theory was used to develop many more ideas and discoveries, all using

the vocabulary he invented. This scientific inquiry brought forth technological advances and

eventually, scientists were able to take a closer look at the electric fluid itself. In 1897, J.J.

Thomson, working in Cambridge, England, discovered that the electrical fluid is actually made

up of small particles named by the physicist George Stoney as electrons. And so we return to

the ancient Greek word for amber, where our story began. However, there’s an epilogue to

this tale. It was discovered that these electrons flow in the opposite direction to what Franklin

supposed. Therefore, objects that are positively charged don’t have an excess of electrical

fluid, they actually lack electrons. Yet, instead of relabeling everything the other way around,

people ha e decided to hold on to Franklin’s vocabulary as a matter of habit and convention.

While acknowledging the discovery of electrons, it kept Franklin’s flow of electrical fluid,

Page 38: Script TEDtalk

renaming it “conventional current.” The electron has become the salmon of electricity,

swimming upstream in a ghostly river of conventional current. This can be understandably

confusing for many people who aren’t familiar with the history of these ideas. And so I hope,

with this short story about the electric vocabulary, you will be able to see through the accident

and whimsy of this subject and can gain a clearer understanding of the physics of electrical

phenomena.+

Từ vựng về điện – James Sheils

Tôi sẽ chiếu chút ánh sáng lịch sử lên ngôn ngữ của chúng ta và kể bạn nghe câu chuyện về từ

vựng về điện Tất cả bắt đầu 2,600 năm trước. Một người Hy Lạp cổ đại, tên gọi là Thales xứ

Miletus, được cho là người đầu tiên từng quan sát thứ mà chúng ta ngày nay gọi là hiện tượng

nhiễm điện. Ông phát hiện rằng một miếng hổ phách, khi cọ vào lông thú, có thể hút lên những

sợi rơm nhỏ. Trong ngôn ngữ của Thales, hổ phách được gọi là “electron”. Suốt thời gian dài,

dường như bất cứ ai cũng biết đến hiện tượng này. Nhưng phải đợi đến xấp xỉ 2,200 năm sau

mới có những khám phá được phát hiện về những đặc tính của hổ phách. William Gilbert, khoa

học gia người Anh ở thế kỷ 17 với thí nghiệm tỉ mỉ, ông phát hiện ra một số vật liệu khác cũng

thể hiện lực hút với hổ phách. Ông thấy rằng chúng có thể hút nhiều vật thể, không chỉ là rơm.

Gilbert đặt tên những vật tương tự hổ phách theo cách người Hy Lạp gọi hổ phách. Ông gọi

chúng là các “electric” (vật nhiễm điện). Khoảng 40 năm sau, ở gần Norwich, Ngài Thomas

Browne đã thực hiện vài thí nghiệm. Ông chẳng phát hiện ra điều gì khác với William Gilbert,

nhưng cách ông mô tả thí nghiệm tạo ra một từ mà ta sử dụng suốt. Cái cách ông xem xét, khi

bạn cọ xát một tinh thể vào vải, nó trở thành một vật nhiễm điện. Và cũng như khi ta nói về

một vật dẻo, và nói rằng chúng sở hữu đặc tính của chất dẻo, một vật nhiễm điện cũng sở hữu

đặc tính của điện. Nhà vật lý người Pháp ở thế kỷ 18, Charles du Fay là người tiếp theo tìm ra

khám phá quan trọng mới. Ông phát hiện rằng hầu hết mọi vật, trừ kim loại và chất lỏng, có thể

bị nhiễm điện sau khi bị tác động kết hợp bởi nhiệt và ma sát. Thêm nữa, ông thấy rằng khi 2

vật nhiễm điện đặt gần nhau, chúng đôi khi hút nhau, và đôi khi đẩy nhau. Với kiến thức bổ

Page 39: Script TEDtalk

sung này, du Fay tìm ra 2 nhóm nhiễm điện tách biệt. Bất kỳ 2 vật nào cùng một nhóm thì luôn

đẩy nhau, trong khi 2 vật lấy từ khác nhóm lại luôn hút nhau. Mặc cho những khám phá này,

mô tả của du Fay trong vật lý đã hoàn toàn lạc mất trong lịch sử.+

Thay vào đó là từ vựng được tìm bởi một người Mỹ thiên tài mà chúng ta vẫn nhớ và sử dụng

hiện nay. Benjamin Franklin đã nghe về nghiên cứu tiến hành ở châu Âu và đã tự tiến hành thí

nghiệm thú vị của mình. Ông nhanh chóng học được cách tạo ra các thiết bị điện có thể phóng

điện bằng cách tạo ra những tia lửa điện lớn. Thích thú với trò đùa tinh quái này, Franklin

thường làm bạn bè giật mình bằng những máy móc này. Khi chế tạo những thiết bị hiệu năng

hơn, ông ấy ví hành động tích điện và phóng điện với sự nạp và nhả đạn ở vũ khí. Không lâu sau

Franklin và mọi người đều nhận ra rằng hoàn toàn có thể kết nối những thứ nguy hiểm này với

nhau. Franklin tiếp tục với phép ẩn dụ này, trong việc so sánh với một cụm đại bác trên tàu.

Dàn súng trên tàu chiến bắn đại bác cùng một lúc, trong cùng một bộ súng. Tương tự, cùng

một bộ pin sẽ xả điện vào cùng một thời điểm, tạo ra những tia điện lớn. Công nghệ mới này

đặt ra một câu hỏi thú vị: Có phải mây sét chỉ là một bộ pin điện lớn? Franklin mô tả tất cả điều

này như sau: Ông cho rằng có một kiểu vật chất mà ông gọi là “nước điện” tồn tại trong mọi

thứ. Nếu một người cọ xát với thủy tinh sự cọ xát sẽ sạc, hay tạo ra dòng chảy, gọi là dòng

điện, di chuyển từ người sang thủy tinh. Kết quả là cả người và thanh thủy tinh trở thành “vật

nhiễm điện”. Thông thường, nếu người đó đứng trên mặt đất, “nước điện” của họ sẽ trở lại

bình thường, nhờ sự trao đổi dung hòa với Trái Đất, như lời Franklin nói. Đứng trên thứ gì đó

như một cục sáp sẽ ngắt nguồn này. Franklin nói, một vật dư thừa “nước điện” sẽ được sạc

dương tính, và một vật thiếu hụt nó sẽ được sạc âm tính. Khi các vật chạm hoặc đặt gần nhau,

“nước điện” có thể chảy qua lại giữa chúng tới khi được cân bằng. Chênh lệch về “nước điện”

giữa hai vật thể càng lớn thì khoảng cách có thể nhảy qua càng xa, nhờ tia điện trong không

khí. Và nó là chất liệu của vật thể xác định liệu nó sẽ có thêm hay mất đi “nước điện” khi được

sạc. Đây chính là 2 nhóm nhiễm điện của du Fay. Bạn có thể đã từng nghe: “Ngược nhau thì

hút, giống nhau thì đẩy.” Đó là nguyên nhân.+

150 năm tiếp theo, giả thuyết của Franklin đã được phát triển thành nhiều quan điểm và khám

phá khác và đều sử dụng cách gọi mà ông tạo ra. Phát kiến khoa học này đã đưa đến những

tiến bộ công nghệ và cuối cùng, các nhà khoa học đã có thể hiểu rõ hơn về bản chất của “nước

điện”. Năm 1897, J.J. Thomson, làm việc tại Cambridge, Anh Quốc, đã khám phá ra rằng “nước

điện” thật sự được hình thành bởi những hạt rất nhỏ được đặt tên bởi nhà vật lý George

Stoney là “electron”. Và vậy là chúng ta trở lại với Hy Lạp cổ đại và hổ phách, nơi câu chuyện

bắt đầu. Tuy nhiên, có một lời bạt cho câu chuyện này. Người ta phát hiện rằng những dòng

eletron này hoàn toàn ngược lại với mô tả của Franklin. Vì vậy, vật thể được sạc điện dương

không hề có thêm “nước điện”, đúng hơn là thiếu electron. Nhưng thay vì thay đổi cách gọi tên

Page 40: Script TEDtalk

mọi thứ theo cách khác, người ta quyết định tiếp tục dùng cách gọi của Franklin như một thói

quen và quy ước. Khi khám phá ra sự tồn tại của eletron, khái niệm dòng chảy điện của

Franklin vẫn đúng được đổi tên thành “dòng quy ước”. Hạt electron trở thành cá hồi trong

dòng điện, bơi ngược dòng một con sông ma quái của dòng quy ước. Cũng dễ hiểu khi có nhiều

người thấy nhập nhằn khi họ không quen với lịch sử của những quan điểm này. Và tôi hy vọng,

với câu chuyện ngắn về từ vựng về điện, bạn sẽ có thể nhìn thấu sự nhập nhằng và lộn xộn của

chủ đề này và có thể hiểu rõ hơn về vật lý và các hiện tượng điện.

9. One is one or is it – Christopher Danielson

Which is correct — a dozen eggs is? Or a dozen eggs are? I remember being in elementary

school, and my teachers making a big deal about the unit. And I never really got that, until one

day I was in the grocery store, and I wanted to buy an apple, but I couldn’t buy one apple. I had

to buy a whole bag of apples. So I did. I bought one bag of apples, I took it home, I took one

apple out of the bag, and I cut it up. And then I ate one slice. One bag, one apple, one slice.

Which of these is the real one?+

Well, they all are, of course, and that’s what my elementary teachers were trying to tell me.

Because this is the important idea behind whole number place value, decimal place value and

fractions. Our whole number system depends on being able to change what we count as one.

Our whole number system depends on being able to change units.+

Page 41: Script TEDtalk

There are two ways to change units. We can compose, and we can partition. When we

compose units, we take a bunch of things and we put them together to make a bigger thing,

like a dozen eggs. We take 12 eggs, put them together to make a group, and we call that group

a dozen. A dozen eggs is a composed unit.+

Other examples of composed units include a deck of cards, a pair of shoes, a jazz quartet and,

of course, Barbie and Ken make a couple. But think about a loaf of bread. That’s not a

composed unit, because we don’t get a whole bunch of slices from a whole bunch of different

bakeries and put them together to make a loaf. No, we start with a loaf of bread and we cut it

into smaller pieces called slices, so each slice of bread is a partitioned unit.+

Other examples of partitioned units include a square of a chocolate bar, a section of an orange

and a slice of pizza. The important thing about units is that once we’ve made a new unit, we

can treat it just like we did the old unit. We can compose composed units, and we can partition

partitioned units.+

Think about toaster pastries. They come in packs of two, and then those packs get put together

in sets of four to make a box. So when I buy one box of toaster pastries, am I buying one thing,

Page 42: Script TEDtalk

four things, or eight things? It depends on the unit. One box, four packs, eight pastries. And

when I share a slice of pizza with a friend, we have to cut it into two smaller pieces. So a box of

toaster pastries is composed of composed units, and when I split a slice of pizza, I’m

partitioning a partitioned unit. But what does that have to do with math?+

In math, everything is certain. Two plus two equals four, and one is just one. But that’s not

really right. One isn’t always one. Here’s why: We start counting at one, and we count up to

nine — one, two, three, four, five, six, seven, eight, nine. And then we get to 10, and in order

to write 10, we write a one and a zero. That one means that we have one group, and the zero

helps us remember that it means one group, not one thing. But 10, just like one, just like a

dozen eggs, just like an egg, 10 is a unit. And 10 tens make 100.+

So when I think about 100, it’s like the box of toaster pastries. Is 100, one thing 10 things, or

100 things? And that depends on what one is, it depends on what the unit is. So think about all

the times in math when you write the number one. No matter what place that one is in, no

matter how many things that one represents, one is.+

Một là một, hay là gì khác? – Christopher Danielson

Page 43: Script TEDtalk

Cái nào đúng: Một tá trứng là một, hay là nhiều? Tôi nhớ hồi còn đi học tiểu học, và thầy thôi

dạy một bài đáng nhớ về đơn vị. Và tôi chẳng hiểu gì hết, cho đến một ngày, tôi đến tiệm tạp

hóa, và tôi muốn mua một trái táo, nhưng người ta không bán lẻ. Tôi phải mua cả một giỏ táo.

Và tôi làm thế. Tôi mua một giỏ táo, Tôi đem về nhà, tôi lấy ra một trái và cắt nó ra. Và rồi tôi

ăn một miếng. Một giỏ, một trái, một miếng. Cái nào mới thật sự là MỘT?+

À, tất cả chúng đều là một, tất nhiên, và đó là điều mà thầy tôi muốn dạy tôi. Bởi vì đây là khái

niệm quan trọng đằng sau giá trị của số nguyên, số thập phân, và phân số. Toàn bộ hệ thống số

nguyên phụ thuộc vào khả năng thay đổi thứ mà chúng ta đếm là MỘT. Hệ thống số nguyên

phụ thuộc vào khả năng thay đổi đơn vị đếm.+

Có 2 cách thay đổi đơn vị. Ta có thể kết hợp, và ta có thể phân chia. Khi chúng ta kết hợp các

đơn vị, ta lấy một loạt thứ và đặt chúng lại với nhau tạo thành một thứ lớn hơn, như một tá

trứng. Ta lấy 12 quả trứng, đặt chúng thành một nhóm, và ta gọi nó là MỘT tá. Một tá trứng là

một đơn vị kết hợp.+

Ví dụ khác của đơn vị kết hợp gồm có một bộ bài, một đôi giày, một ban nhạc Jazz và tất nhiên,

Barbie và Ken tạo thành một đôi. Nhưng khi nói về một ổ bánh mì. Nó không phải là một đơn vị

kết hợp, vì ta không lấy một loạt những lát bánh từ một loạt bánh khác nhau và ráp chúng lại

để tạo thành một ổ bánh. Không, chúng ta bắt đầu từ một ổ bánh và cắt nó thành những phần

nhỏ hơn gọi là lát bánh, vậy mỗi lát bánh mì là một đơn vị phân chia.+

Ví dụ khác về đơn vị phân chia gồm có một mảnh chocolate, một múi cam, và một lát bánh

pizza. Điều quan trọng về đơn vị là khi ta tạo ra một đơn vị mới, ta có thể làm mọi thứ tương tự

như với đơn vị cũ. Ta có thể kết hợp các đơn vị kết hợp, và có thể phân chia các đơn vị phân

chia.+

Hãy nói về bánh xốp. Cứ 2 miếng ghép lại với nhau, và được đóng thành 1 gói, và tiếp tục 4 gói

đóng thành 1 hộp. Vậy khi tôi mua 1 hộp bánh xếp, nghĩa là tôi mua 1 thứ, 4 thứ, hay là 8 thứ?

Tùy vào đơn vị là gì. 1 hộp, 4 gói, 8 cái bánh. Và khi tôi chia một lát bánh pizza cho bạn tôi, tôi

phải cắt nó thành 2 miếng nhỏ hơn. Vậy một hộp bánh xốp là sự kết hợp của đơn vị kết hợp

còn khi tôi cắt nhỏ miếng bánh pizza, tức là tôi phân chia đơn vị phân chia. Nhưng điều này liên

quan gì đến toán học?+

Với toán, mọi thứ đều chắc chắn. Hai cộng hai là bốn, và một tức là một. Nhưng không luôn

luôn đúng. Một đôi khi không phải một. Lý do là: chúng ta bắt đầu đếm từ 1, và đếm lên:

1,2,3,4,5,6,7,8,9. Và rồi ta được 10, và để viết số 10, ta viết số 1 và số 0. Số 1 ở đây có nghĩa là

một nhóm, và số 0 giúp chúng ta nhớ rằng nó là một nhóm, không phải 1 đơn lẻ. Nhưng 10,

Page 44: Script TEDtalk

cũng như 1, cũng như 1 tá trứng, hay 1 quả trứng, 10 là một đơn vị. Và cứ 10 lần 10, ta có

100.+

Vậy khi nói đến 100, nó cũng tương tự như hộp bánh xốp, Là 100, 1 thứ, 10 thứ, hay 100 thứ?

Và nó tùy thuộc vào MỘT là gì, nó tùy thuộc vào đơn vị là gì. Nên hãy nghĩ kỹ, bất khi cứ nào

học toán và bạn viết con số 1, không cần biết nó nằm ở đâu, cần cần biết nó đại diện cho bao

nhiêu thứ, MỘT là gì.

10. Sex determination – More complicated than you thought – Aaron Reedy

My wife is pregnant right now with our first child, and when people see her with her big baby

bump, the first question people ask, almost without fail, is, “Is it a boy or is it a girl?” Now,

there are some assumptions behind that question that we take for granted because of our

familiarity with our own human biology. For human babies, we take it for granted that there’s

a 50/50 chance of either answer, boy or girl.+

But why is it that way? Well, the answer depends on the sex determination system that has

evolved for our species. You see, for most mammals, the sex of a baby is determined

genetically with the XY chromosome system. Mammals have a pair of sex chromosomes, one

passed down from Mom, and one from Dad. A pair of X’s gives us a girl, and an X and a Y

together gives us a boy. Since females only have X’s to pass on in their egg cells, and males can

Page 45: Script TEDtalk

give either an X or a Y in their sperm cells, the sex is determined by the father and the chance

of producing a male or a female is 50/50.+

This system has worked well for mammals, but throughout the tree of life, we can see other

systems that have worked just as well for other animals. There are other groups of animals that

also have genetic sex determination, but their systems can be pretty different from ours. Birds

and some reptiles have their sex genetically determined but instead of the sex being

determined by Dad, their sex is determined by Mom. In those groups, a pair of Z sex

chromosomes produces a male, so these males only have Z’s to give. However, in these

animals, one Z and one W chromosome together, as a pair, produces a female. In this system,

the chance of a male or a female is still 50/50, it just depends on whether Mom puts a Z or a W

into her egg.+

Certain groups have taken genetic sex determination in completely other directions. Ants, for

example, have one of the most interesting systems for determining sex, and because of it, if

you are a male ant, you do not have a father. In an ant colony, there are dramatic divisions of

labor. There are soldiers that defend the colony, there are workers that collect food, clean the

Page 46: Script TEDtalk

nest and care for the young, and there’s a queen and a small group of male reproductives.

Now, the queen will mate and then store sperm from the males. And this is where the system

gets really interesting. If the queen uses the stored sperm to fertilize an egg, then that egg will

grow up to become female. However, if she lays an egg without fertilizing it, then that egg will

still grow up to be an ant, but it will always be a male. So you see, it’s impossible for male ants

to have fathers. And male ants live their life like this, with only one copy of every gene, much

like a walking sex cell. This system is called a haplodiploid system, and we see it not only in

ants, but also in other highly social insects like bees and wasps.+

Since our own sex is determined by genes, and we do know of these other animals that have

their sex determined by genes, it’s easy to assume that for all animals the sex of their babies

still must be determined by genetics. However, for some animals, the question of whether it

will be a boy or a girl has nothing to do with genes at all, and it can depend on something like

the weather.+

These are animals like alligators and most turtles. In these animals, the sex of an embryo in a

developing egg is determined by the temperature. In these species, the sex of the baby is not

Page 47: Script TEDtalk

yet determined when the egg is laid, and it remains undetermined until sometime in the

middle of the overall development period, when a critical time is reached. And during this time,

the sex is completely determined by temperature in the nest. In painted turtles, for example,

warm temperatures above the critical temperature will produce females within the eggs, and

cool temperatures will produce a male. I’m not really sure who came up with this mnemonic,

but you can remember that when it comes to painted turtles, they are all hot chicks and cool

dudes.+

For some tropical fish, the question of will it be a boy or will it be a girl isn’t settled until even

later in life.You see, clownfish all start out their lives as males. However, as they mature, they

become female. They also spend their lives in small groups with a strict dominance hierarchy

where only the most dominant male and female reproduce. And amazingly, if the dominant

female in the group dies, the largest and most dominant male will then quickly become female

and take her place, and all of the other males will move up one rank in the hierarchy.+

In another very different ocean animal, the Green Spoonworm, the sex of the babies is

determined by completely different aspect of the environment. For this species, it is simply a

Page 48: Script TEDtalk

matter of where a larva happens to randomly fall on the sea floor. If a larva lands on the open

sea floor, then it will become a female. But if it lands on top of a female, then it will become a

male.+

So for some species, the question of boy or girl is answered by genetics. For others, it’s

answered by the environment. And for others still, they don’t even bother with the question at

all. Take whiptail lizards, for example. For those desert lizards, the answer is easy. It’s a girl. It’s

always a girl. They are a nearly all-female species, and although they still lay eggs, these eggs

hatch out female clones of themselves.+

So will it be a girl or will it be a boy? Throughout the entire animal kingdom, it does really all

depend on the system of sex determination. For humans, that system is a genetic XY system.

And for me and my wife, we found out it’s gonna be a baby boy+

LỜI DỊCH

Vợ tôi đang mang thai đứa con đầu tiên, và khi mọi người đến gặp cô ấy với cái bụng bầu, câu

hỏi thường được đặt ra, không thể sai được, là: “Đó là bé trai hay bé gái?” Có một sự mặc định

đằng sau đó mà chúng ta thừa nhận vì chúng ta quen với cơ chế sinh học của con người. Đối

với trẻ em con người, chúng ta mặc định tỷ lệ đáp án là 50/50 trai hoặc gái.+

Nhưng tại sao lại vậy? Vâng, đáp án tùy thuộc vào hệ thống xác định giới tính được phát triển ở

các loài. Như hầu hết động vật có vú, giới tính của con non được xác định bởi gen với hệ thống

nhiễm sắc thể XY. Động vật có vú có một cặp nhiễm sắc thể giới tính, một truyền từ mẹ, và một

Page 49: Script TEDtalk

từ bố. Một cặp X sẽ là con gái, và một X với một Y sẽ là con trai. Con cái chỉ có nhiễm sắc thể X

trong tế bào trứng, và con đực có cả 2 nhiễm sắc thể X và Y trong tinh trùng nên giới tính sẽ

được xác định bởi con đực và xác suất sinh ra con cái hay con đực là 50/50.+

Hệ thống này đúng với động vật có vú, nhưng với các nhánh khác, vẫn có những hệ thống khác

cũng đúng đối với riêng loài động vật đó. Có những nhóm động vật khác cũng xác định giới tính

bằng gen, nhưng hệ thống của chúng hơi khác với chúng ta. Chim và vài bò sát xác định giới

tính bằng gen nhưng thay vì được xác định bởi con bố, giới tính được xác định bởi con mẹ. Với

chúng, một cặp nhiễm sắc thể Z sẽ tạo ra con đực, nên con đực chỉ có nhiễm sắc thể Z. Tuy

nhiên, với những loài này một cặp nhiễm sắc thể Z và W tạo ra con cái. Trong hệ thống này, xác

suất con đực và con cái vẫn là 50/50 tùy thuộc trứng của con mẹ chứa nhiễm sắc thể Z hay W.+

Vài loài khác xác định giới tính dựa trên gen theo hướng hoàn toàn khác. Loài kiến chẳng hạn,

chúng có hệ thống xác định giới tính thú vị nhất và do đó, nếu bạn là kiến đực, bạn sẽ không có

cha. Trong tổ kiến, sự phân công vô cùng rạch ròi. Kiến lính sẽ bảo vệ tổ, kiến thợ thu lượm

thức ăn, vệ sinh tổ, và chăm sóc con non, chúng có 1 kiến chúa và vài con đực có nhiệm vụ sinh

sản. Kiến chúa sẽ kết đôi và lưu lại tinh trùng từ những con đực. Và đây là điểm thú vị của hệ

thống này. Nếu kiến chúa dùng tinh trùng để thụ tinh cho trứng, thì trứng sẽ nở ra thành kiến

cái. Tuy nhiên nếu trứng không được thụ tinh thì nó vẫn sẽ nở ra thành kiến nhưng luôn là con

đực. Bạn thấy đấy, con đực không thể có cha được. Và kiến đực sống cuộc đời như vậy, chỉ với

1 bản sao của mỗi gen, như một tế bào giới tính biết đi. Đây được gọi là hệ thống “Đơn-Lưỡng

Bội” và ta không chỉ thấy ở kiến, mà ở nhiều côn trùng cấu trúc cao cấp khác như vài loài ong.+

Vì giới tính của chúng ta xác định bởi gen và chúng ta biết vài loài động vật khác cũng xác định

giới tính bằng gen nên rất dễ mặc định tất cả động vật đều xác định giới tính con non dựa trên

gen. Tuy nhiên, với vài loài, câu hỏi con đực hay con cái chẳng liên quan gì tới gen cả, và có thể

chỉ dựa vào cái gì đó, như là thời tiết.+

Có nhiều loài như cá sấu và hầu hết loài rùa. Đối với chúng, giới tính của phôi thai trong trứng

đang nở được xác định bởi nhiệt độ. Với những loài này, giới tính của con non chưa xác định

khi trứng vừa đẻ, và vẫn tiếp tục chưa thể xác định đến giữa khoảng thời gian để trứng nở, đến

khi đạt thời điểm quan trọng. Trong thời gian này, giới tính sẽ hoàn toàn được xác định bởi

nhiệt độ của tổ. Ví dụ như loài rùa sọc Bắc Mỹ, nhiệt độ ấm hơn nhiệt độ tới hạn sẽ tạo ra rùa

cái trong trứng, và nhiệt độ lạnh sẽ tạo ra rùa đực. Không chắc ai đã nghĩ ra câu khẩu quyết này

nhưng bạ có thể giúp bạn nhớ khi nhắc đến chúng, chúng là rùa cái nóng bỏng và rùa đực lạnh

lùng.+

Với vài loài cá nhiệt đới, câu hỏi con đực hay con cái thậm chí còn không giữ nguyên suốt đời.

Như loài cá hề, chúng đều sinh ra là một con đực, tuy nhiên, khi trưởng thành, chúng thành

Page 50: Script TEDtalk

con cái. Chúng cũng sống trong một nhóm nhỏ với phân cấp rõ ràng nơi con đực và con cái cấp

cao nhất sẽ sinh sản. Và ngạc nhiên thay, khi con cái của nhóm chết con đực to nhất và cấp cao

nhất sẽ trở thành con cái và chiếm chỗ trống, và các con đực còn lại sẽ tiến lên 1 nấc thứ bậc.+

Với một loài động vật biển khác, loài sâu biển xanh, giới tính của con non được xác định hoàn

toàn khác tùy theo hoàn cảnh. Với loài này, vấn đề đơn giản là nơi mà ấu trùng ngẫu nhiên rơi

xuống lòng biển. Nếu rơi xuống đáy biển trống không, nó trở thành con cái. Nếu nó rơi trúng

vào con cái, nó trở thành con đực.+

Vậy với vài loài, câu hỏi con đực hay con cái tùy thuộc vào gen. Vài loài khác, tùy vào môi

trường. Và vài loài khác nữa, thậm chí câu hỏi đó cũng chẳng quan trọng. Loài thằn lằn đuôi roi

chẳng hạn, với loài thằn lằn sa mạc này, đáp án quá dễ. Là con cái. Luôn là con cái. Đây là loài

hầu như đều là con cái, và chúng vẫn đẻ trứng, trứng nở ra con cái tự nhân bản chính nó.+

Vậy câu hỏi về giới tính xuyên suốt vương quốc động vật, hoàn toàn tùy thuộc vào hệ thống

xác định giới tính của nó. Với loài người, đó là hệ thống gen XY. Và với vợ chồng tôi, chúng tôi

vừa được biết đó sẽ là một cậu bé trai.

Writing Task 1: NGÔN NG SO SÁNH C N THI T CHO BI U Đ C TỮ Ầ Ế Ể Ồ Ộ +

Cấu trúc so sánh đơn giản:+

1) Adjective + -er + than:+

The price of an apartment was lower in 1946 than in 1999.+

2) More/less + adjective + than:+

Mr. Duy’s class was more/less popular among females than males in 2010.+

3) The + adjective + -est:+

The fastest means of communication in 2013 was emailing.+

4) The most/least + adjective:+

The most/least popular form of communication in 1970 was the Internet.+

5) More/fewer + noun + than:+

More/fewer males than females were enrolled in Mr. Duy’s class in March.+

Less + noun + than: Less electricity was generated from Factory A than from Factory B.+

6) As many + noun + as:+

Page 51: Script TEDtalk

As many females as males were enrolled in Mr. Duy’s class.+

7) Not as many + noun + as:+

Not as many females as males were enrolled in Mr. Duy’s class.+

Cấu trúc so sánh hơn phức tạp:+

1. A is (just/well) + (under/over) + x + larger/smaller than B.

(nearly)+

In 2001, rice consumption in China was just under 10% larger than Vietnam’s.+

China was nearly 10 times more populous than Canada in 1999.+

2. A produces/… + (considerably/slightly) + more/less + n than B

x                      more/fewer + n+

Vietnam produced considerably less rice than Thailand in 2010.+

Vietnam produced three times fewer mobile phones in 2005 than in 2015.+

Cấu trúc so sánh nhất phức tạp:+

1. A is the (second/third) largest/smallest/most productive/… + n

In 2010, Vietnam was the second largest rice producer in Asia, with 4 million tonnes of rice exported to

many European countries.+

2. A produces/… + the largest/smallest + proportion of count & non c n

amount of noncount n+

number of count n+

quantity of count n+

Compared with other countries in the region, the USA consumed the largest proportion of fast food, with

28 times per person per year in 2010.+

Compared with other countries in the region, Vietnam produced the smallest number of computers, with

only 100 computers circulated in the domestic market in 2010.+

Trạng từ, liên từ chỉ sự giống nhau:+

Page 52: Script TEDtalk

Ví dụ:+

There was a striking/broad similarity in the fast food consumption rate between the USA and Australia

during the whole period.+

Mango sales increased sharply from 20,000 VND/kg to 50,000 VND/kg in March. Similarly/Likewise,

there was a surge in banana sales to 45,000 VND/kg.+

Mango sales increased sharply from 20,000 VND/kg to 50,000 VND/kg in March. Banana sales followed

a similar pattern, soaring from 10,000 VND/kg to 45,000 VND/kg.+

As well as/Just as/Similar to banana sales, coconut sales soared to 70,000 VND/kg.+

Trạng từ, liên từ chỉ sự tương phản:+

Ví dụ:+

While membership in Club A had an upward trend during the whole timescale, membership in Club B

showed/followed a constrasting/opposite/reverse pattern.+

Australia consumed very large amounts of fast food in 2009, with 281 times per person per year. On the

other hand/In contrast, the US’s consumption was significantly lower, with only 50 times per person per

year.+

While/Whereas 60% of male students were enrolled in Mr.Duy’s class, the figure for female students

was comparatively low, at 12%.+

Compared with/In contrast to/As opposed to/In comparison with the sharp increase in the number of

male students enrolled in Mr.Duy’s class, figures for female students gradually decreased throughout

the given period. 

Listening section 1 tips:1) Nghe thông tin về “name”

Hỏi về tên riêng là câu hỏi chắc chắn sẽ có trong bài nghe và thường nằm ở section 1 nhất.

a) Có 3 cách đọc tên riêng

Đánh vần từng chữ cai riêng biệt. Ví dụ Mathew được đọc là M-A-T-H-E-W Chỉ đọc chứ không được đánh vần. Cái này chỉ áp dụng với nhưng cái tên cực kì quen

thuộc như Birmingham, New York,…. Với cách đọc này, bạn cần đọc nhiều báo, hoặc

Page 53: Script TEDtalk

xem nhiều phim hoặc có thể luyện nghe tập trung vào section 1 trong một tuần để tổng hợp được càng nhiều tên riêng càng tốt

Cách đọc cuối cùng là người nói sẽ liên tưởng đến những con vật, đồ vật …xung quanh và gợi nhắc cái tên qua chúng. Ví dụ: My name is Rose as a flower. My name is Browne as a color, but with an E at the end.

b) Các chú ý khi nghe và ghi tên

Bạn chưa ghe quen với các tên riêng? Bạn nghe đúng nhưng chỉ một phút sai lệch khi chuyển đáp án vào tờ answer sheet thôi cũng khiến bạn mất điểm đáng tiếc. Hãy chú ý một số điều sau khi làm bài nhé:

Hai chữ cái giống nhau đi cùng nhau sẽ được đọc là “double”. Ví dụ Mallune đọc là M-A-double L-U-N-E

Chú ý các chữ dễ gây nhầm lẫn như: V – P; B – P; W – UU; G – J. Vì đây là tên riêng nên chú ý viết hoa chữ cái đầu dòng khi ghi vào tờ answer sheet.

2) Nghe thông tin về “number”

a) Các dạng câu hỏi

Khi hỏi về cách đọc số, bài nghe có thể hỏi về:

Số điện thoại Chiều rộng, chiều dài, diện tích … Thời gian (của kỳ nghỉ, hay thời gian thuê phòng, thời gian kép dài khóa học…) Số lượng tiền (để mua vé, trả bữa ăn…)

Trong thời gian chuẩn bị bạn cần tận dụng tối đa thời gian mà mình có và chú ý dạng thông tin cần điền là gì? Nếu là số, hãy chuẩn bị rằng số điện thoại số có từ 6 đến 9 số, chiều rộng hay chiều dài thì ít hơn và có thể là số lẻ, thời gian của kì nghỉ hay khóa học sẽ có kèm theo đơn vị thời gian như ngày, tháng, năm…. Số tiền sẽ có thể là số lẻ (4.40) và có hoặc không có đơn vị tiền kèm theo. Nếu trong câu hỏi đã có đơn vị tiền (price:…$), bạn chỉ cần điền số lượng tiền thích hợp mà không cần ghi thêm đơn vị.

b) Các điểm chú ý về cách đọc số

Bạn cần chú ý các cách đọc số như sau để đảm bảo độ chính xác khi làm bài nghe:

0 được đọc là “oh”, hiếm khi được đọc là “zero” Nếu có hai số giống nhau, đọc “double…” (ví dụ: 77 đọc là “double seven”, 55 được đọc

là “double five”) Các số được đọc theo nhóm hai hoặc nhóm 3 (ví dụ 01664885924 đọc là 01-double 6 –

4 – double 8 – 5924) Số thập phân được đọc là “point” (ví dụ: 6.50 đọc là “six point fifty”)

Page 54: Script TEDtalk

c) Cẩn thận với cách ghi đáp án

Ghi số điện thoại viết liền không cách (ví dụ ghi 13554684616) Đơn vị kèm theo của loại tiền có thể ghi bằng chữ hoặc bằng số (ví dụ có thể ghi $3 hoặc

ghi 3 dollars Ghi số thập phân sử dụng dấu chấm chứ không phải dấu phẩy (ví dụ 6.50 chứ không

phải 6,50 Đối với những số có đơn vị, chú ý số ít và số nhiều của đơn vị đi kèm sao nó (ví dụ 2

years, 1 month). Với phần số lớn hơn 1, danh từ chỉ thời gian đi sau nó sẽ phải là danh từ số nhiều

3) Nghe thông tin về “Addresses”

Địa chỉ thường sẽ được cấu thành như sau: số + tên đường. Ví dụ khi viết chúng ta sẽ viết 14 Hilldunne Road.

Đặc biêt là con số sẽ luôn đi trước tên đường và tên đường sẽ được đánh vần từ chữ cái một, tuy nhiên nếu tên đường đã khá nổi tiếng, bạn sẽ phải tự nhận ra và ghi lại cách đánh vần của nó. Tên con đường sẽ được đánh vần bằng 1 trong 3 cách đánh vần names như trên.

Chú ý có thể một số từ thường đứng sau địa chỉ như sau: avenue (địa lộ), road (đường), bridge (cầu), street (phố). .. Các từ này có thể có sẵn trong câu hỏi, có thể không có sẵn và yêu cầu bạn nghe và nghi lại sau địa chỉ nên bạn cần hết sức chú ý nhé.

4) Nghe thông tin về “dates”

Viết ngày tháng như thế nào mới là đúng? Có một vài cách để viết ngày tháng nhưng mình đưa ra 2 cách phổ thông hay được dùng nhất như sau:

“the 25th of October ” – speaking

“25 October/25th October” – writing

Bạn nên dùng cách thứ 2 để trả lời trong bài thi nghe vì nó đúng với văn phong viết và thích hợp với mọi giới hạn từ. Cách này là cách mà các cuốn sách luyện đề IELTS đưa ra đáp án nên bạn cũng nên viết theo cách này hơn.

Tuyệt đối tránh các cách viết tắt tháng (25 Dec) và tránh những cách viết hoàn toàn bằng số (25/12). Hơn thế nữa, bạn cần viết hoa chữ cái đầu tiên của tháng theo đúng nguyên tắc viết hoa như trong tiếng Việt (December).