s bẢn tin ĐỐi thoẠi chÍnh sÁch & doanh nghi p
TRANSCRIPT
1
& DOANH NGHIỆP
SỐ 16 (18/01/2010 - 24/01/2010)
Chịu trách nhiệm nội dung
PHẠM HOÀNG NGÂN
Chịu trách nhiệm sản xuất
AN THU HẰNG
Đơn vị sản xuất Trung tâm Thông tin
Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT
• TIN TỨC & SỰ KIỆN
Giới thiệu kênh thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp
nông thôn
Chỉ có hơn 200.000/460.000 doanh nghiệp đang hoạt động
Doanh nghiệp Nga đánh giá cao thị trường VN
Doanh nghiệp phải hạ giá đường
• ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
Còn nhiều văn bản làm khó doanh nghiệp
Xử lý triệt để kinh doanh hàng quá hạn sử dụng
Hạn chót ngày 1-7: Hơn 1.500 DNNN không kịp cổ phần hóa
• TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG
Doanh nghiệp nói gì về triển vọng kinh doanh 2010?
• TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH
Thông tư của Bộ NN& PTNT số 05/2010/TT-BNNPTNT
ngày 22/01/2010 Hướng dẫn việc kiểm tra, giám sát vệ sinh
an toàn thực nông sản trước khi đưa ra thị trường
• ĐIỂM TIN HOẠT ĐỘNG ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
AGROINFO
BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
2
Giới thiệu kênh thông tin hỗ trợ doanh
nghiệp nông nghiệp nông thôn
Thời gian vừa qua, suy thoái kinh tế toàn cầu tác
động nhiều mặt đến kinh tế Việt Nam. DN nông
nghiệp nông thôn là nhóm chịu nhiều ảnh hưởng
tiêu cực, cả về thị trường tiêu thụ và việc làm.
Với mục tiêu hỗ trợ DN vượt qua và đi lên sau
khủng hoảng, IPSARD và các đơn vị chức năng
khác đã và đang tích cực triển khai các hoạt
động thông tin, nghiên cứu và đối thoại chính
sách; phân tích và dự báo thị trường nông sản để
hỗ trợ DN nông nghiệp nông thôn.
Tại buổi họp báo đã diễn ra nhiều hoạt động ký
kết quan trọng giữa IPSARD và các đơn vị
truyền thông. Trong đó, IPSARD và Công ty
viễn thông Viettel đã ký thỏa thuận hợp tác phát
triển kênh thông tin cho DN nông nghiệp nông
thôn qua tổng đài thoại, tin nhắn và tổng đài
19008062 để tư vấn thong tin hỗ trợ cho DN
trong truyền thông kết nối kinh doanh, làm chủ
trên thị trường tiêu thụ nội địa.
Trong thời gian thử nghiệm năm 2010, hai bên
sẽ thực hiện: Dịch vụ giới thiệu và tra cứu thông
tin DN tự động qua tổng đài thoại; cung cấp các
thông tin thị trường, kinh tế, tài chính, chính
sách dưới hình thức bản tin có thể tải và đọc
trực tiếp trên điện thoại di động; tư vấn kết nối
mua - bán nông sản, máy móc thiết bị và vật tư
nông nghiệp...
Chỉ có hơn 200.000/460.000 doanh nghiệp
đang hoạt động
Nhóm nghiên cứu dưới sự bảo trợ của Chương
trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) và tổ
công tác thi hành Luật doanh nghiệp và đầu tư
vừa công bố nghiên cứu đánh giá 10 năm phát
triển kinh tế tư nhân tại VN (1999-2009).
Theo nhóm nghiên cứu, tính đến năm 2009 tổng
số doanh nghiệp tại VN đã lên đến khoảng
460.000. Tuy nhiên, chỉ khoảng 50% doanh
nghiệp thật sự tồn tại.
Lý do của tình trạng trên, theo nhóm nghiên
cứu, phần lớn vì ý tưởng kinh doanh chưa chín
muồi, những thay đổi ảnh hưởng tới kế hoạch
kinh doanh của doanh nghiệp, môi trường kinh
doanh quá phức tạp và khó khăn so với dự tính
ban đầu, thủ tục sau đăng ký kinh doanh quá
phức tạp...
Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu, từ năm
2005-2008, khu vực tư nhân đã tạo khoảng 3,5
triệu việc làm mới, trong khi các doanh nghiệp
FDI chỉ tạo ra được 1,4 triệu việc làm và các
doanh nghiệp nhà nước giảm biên chế 500.000
lao động.
Doanh nghiệp Nga đánh giá cao thị trường
VN
Tối 21/1, nhiều đại diện doanh nghiệp Nga đã
đánh giá Việt Nam là thị trường kinh doanh đầy
TIN TỨC & SỰ KIỆN
3
triển vọng tại buổi gặp mặt doanh nghiệp Việt-
Nga ở Mátxcơva nhân dịp đầu năm 2010.
Nhiều đại diện doanh nghiệp của Nga đánh giá
Việt Nam là đối tác rất đáng tin cậy và là thị
trường hoàn toàn có thể yên tâm để đầu tư.
Phát biểu tại cuộc gặp, Đại sứ Việt Nam Bùi
Đình Dĩnh nêu rõ bất chấp ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu trong
năm 2009, kim ngạch trao đổi hàng hóa giữa
Việt Nam và Liên bang Nga vẫn tăng và đạt hơn
1,7 tỷ USD so với mức 1,64 tỷ USD trong năm
2008.
Tuy nhiên, đại sứ cho rằng kết quả này chưa phù
hợp với tiềm năng và quan hệ đối tác chiến lược
giữa hai nước. Hai bên cần mở rộng tiếp xúc
song phương, tổ chức các diễn đàn, hội chợ triển
lãm, các cuộc thăm viếng-tiếp xúc thị trường
của nhau và tăng cường trao đổi thông tin cho
nhau.
Sau khi nêu lên những hướng hợp tác đầy triển
vọng giữa Việt Nam và Liên bang Nga gồm lĩnh
vực tài chính-ngân hàng, dầu khí và điện
năng..., Đại sứ Bùi Đình Dĩnh đã điểm lại những
sự kiện nổi bật của hai nước trong năm nay,
thông báo Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cùng
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sẽ thăm Nga,
đồng thời, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev
sẽ thăm Việt Nam.
Đại sứ khẳng định những sự kiện quan trọng đó
sẽ góp phần củng cố và mở rộng hơn nữa quan
hệ hợp tác kinh tế-thương mại giữa Việt Nam và
Liên bang Nga.
Đại sứ kêu gọi các doanh nghiệp hai nước hãy
phát triển mạnh hơn nữa các quan hệ hợp tác
kinh doanh, kêu gọi các doanh nghiệp Nga đầu
tư mạnh hơn và thúc đẩy kinh doanh tại thị
trường đầy tiềm năng của Việt Nam.
Cũng tại cuộc gặp, đại diện Nikolai Poznyakov
của Tập đoàn xuất khẩu-xây dựng nguyên tử
Atomtroiexport khẳng định sau một thời gian
hợp tác kết quả ở Việt Nam, tập đoàn này vừa
đề nghị công ty Lilama của Việt Nam tham gia
3 dự án mà Atomtroiexport đã trúng thầu tại Ấn
Độ
Doanh nghiệp phải hạ giá đường
Đây là yêu cầu của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Diệp Kỉnh Tần trong
một cuộc họp nhằm điều chỉnh lại khung giá và
vấn đề cung - cầu mía đường trong năm 2010.
Thứ trưởng Diệp Kỉnh Tần cho biết, mía đang
vào chính vụ thu hoạch, song thay vì giảm giá,
thị trường đường mấy ngày qua lại đẩy giá
đường lên cao, vượt ngưỡng giá chung trên thế
giới. Tuy giá đường trong nước có phụ thuộc
vào thị trường đường thế giới, song không thể
cao hơn quá nhiều như mức giá hiện tại. Do đó,
các nhà máy đường phải điều chỉnh hạ giá
đường để đảm bảo giá hợp lý, cố gắng giữ mức
giá đường tương đương với giá thế giới.
Theo đó, ông Tần quyết liệt yêu cầu hiệp hội và
các nhà máy tính toán hạ giá thành đường RS
với mức không vượt quá 15.000đ/kg, đường RE
dưới 16.500đ/kg. Bên cạnh đó, ông Tần cũng đề
nghị các đại lý công khai giá bán buôn trên thị
4
trường, tính toán lại chi phí vận chuyển để giảm
giá đường bán lẻ không vượt quá mức cho phép.
Được biết, trong vòng chưa đầy một tuần, giá
đường thế giới bất ngờ tăng từ 734USD/tấn lên
780USD/tấn. Lấy lý do này, giá đường bán lẻ
trong nước cũng dao động ở mức 21.000 –
22.000 đồng/kg, cao gấp 2,5 lần so với thời
điểm đầu năm 2009 và chưa có dấu hiệu dừng
lại.
Được chậm nộp ba tháng thuế thu nhập
doanh nghiệp
Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo quyết định
về việc gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn cho đơn
vị và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế năm
2010.
Theo đó, thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
năm 2010 của doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ được
nộp chậm ba tháng. Tuy nhiên, thuế thu nhập từ
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính,
tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, kinh doanh bất
động sản, kinh doanh ăn uống, khách sạn, nhà
hàng, karaoke và thuế thu nhập từ sản xuất, kinh
doanh các mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu
thụ đặc biệt sẽ không được áp dụng chính sách
này.
Cụ thể, thuế tạm nộp của quý I-2010 được gia
hạn đến 30-7, của quý II được gia hạn đến 29-
10, quý III đến 31-1-2011 và quý IV đến 29-4-
2011. Thuế phải nộp theo quyết toán thuế năm
2010 được gia hạn đến 30-6-2011.
Còn nhiều văn bản làm khó doanh nghiệp
Hoàn thiện hệ thống luật pháp chính sách phải
lấy cộng đồng doanh nghiệp làm trung tâm. Nên
trao thêm quyền cho doanh nghiệp.
“Để phát triển bền vững, về lâu dài Việt Nam
cần thay đổi mạnh mẽ các thể chế, cơ sở hạ tầng
và nguồn nhân lực. Đây là các nút thắt gây cản
trở rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.
Nếu chúng ta gỡ được nút thắt thể chế thì hai
nút thắt còn lại cũng sẽ được gỡ”. Bà Phạm Chi
Lan, chuyên gia kinh tế cao cấp, đã nhấn mạnh
như vậy tại lễ công bố báo cáo phát triển Việt
Nam 2010 do Ngân hàng Thế giới (WB) công
bố hôm qua, 21-1.
Tác động xấu đến thị trường
Chủ đề báo cáo năm nay WB đưa ra là các thể
chế hiện đại. Thể chế được WB định nghĩa là các
chính sách thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các
cơ quan công quyền với người dân và cộng đồng
doanh nghiệp (DN). Dù có những đổi mới rất lớn
nhưng có không ít văn bản chính sách đã gây khó
ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
5
cho hoạt động của DN, tác động xấu đến thị
trường và người tiêu dùng.
Bà Phạm Chi Lan dẫn chứng: Tác động rõ rệt
nhất mà có thể thấy là Luật DN được ban hành
với tinh thần là trả lại quyền tự do kinh doanh
cho người dân. Hay Luật Đầu tư… đã tạo nên làn
sóng đầu tư mới, thu hút vốn đầu tư từ các nhà
đầu tư nước ngoài cũng như trong nước...
Cải cách thể chế là nhiệm vụ trọng tâm để thu
hút môi trường đầu tư. Trong ảnh: Sản xuất linh
kiện chính xác của công ty Nhật Bản tại Khu chế
xuất Tân Thuận, TP.HCM.
Còn về tác động xấu, “Có thể thấy việc lo ngại
lạm phát cao sẽ có thể trở lại vào năm nay nên
việc áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ đã khiến
DN đang chịu sức ép rất lớn khi vay tín dụng với
lãi suất cao. Hay là thời gian qua, chúng ta đã có
quá nhiều ưu đãi cho các tập đoàn, công ty lớn
của nhà nước. Điều này gây khó khăn nhất định
cho các DN tư nhân, DN nhỏ và vừa trong việc
tiếp cận về vốn, đất đai… Việc cho phép các DN
nhà nước kinh doanh đa ngành, doanh nghiệp
điện nhưng không lo sản xuất điện mà lại đổ vốn
sang lĩnh vực bất động sản, viễn thông… thì chắc
chắn Việt Nam sẽ thiếu điện triền miên” - bà Chi
Lan nêu.
Nên trao thêm quyền cho DN
Ông James
Anderson,
chuyên gia quản
trị nhà nước cao
cấp của WB tại
Việt Nam, nhận
định cải cách hệ
thống hành chính
đang được đánh
giá là đạt được
những bước tiến
ban đầu thể hiện
trong Đề án 30.
Chia sẻ quan
điểm này, bà
Phạm Chi Lan
cũng bày tỏ: “Đề
án 30 được xem
là cải thiện rất
lớn môi trường
đầu tư của Việt Nam. Thực tế, 5.700 thủ tục hành
chính thì quả là quá lớn, gây tiêu tốn nguồn lực
cho bộ máy nhà nước và chi phí của toàn xã hội”.
Một điểm rất đáng lưu ý
trong báo cáo là cơ chế
lương trong công chức nhà
nước có thu nhập cao hơn
khu vực kinh tế tư nhân. Tuy
nhiên, lương cơ bản chỉ
chiếm 30% tổng thu nhập.
Theo bà Phạm Chi Lan, điều
này phần nào cho thấy bất
cập hệ thống lương hiện nay
của chúng ta. Nếu lương thấp
hơn bổng, lương chỉ chiếm
30%, còn bổng là 70% tổng
thu nhập thì chắc chắn sẽ có
nhiều méo mó trong hệ thống
tiền lương. Lương phải là
chính, công chức phải sống
bằng lương chứ không phải
bằng bổng, lộc.
6
Để cải thiện được môi trường đầu tư, bà Phạm
Chi Lan đề xuất: Ưu tiên cải cách thể chế là
nhiệm vụ trọng tâm mà Việt Nam nên làm theo
hướng hoàn thiện hệ thống luật pháp chính sách
lấy cộng đồng kinh doanh, người dân làm trung
tâm. Nếu không sẽ có nhiều chính sách được ban
hành chỉ mang lại thuận lợi cho cơ quan quản lý
mà gây khó cho cộng đồng DN và người dân.
Bà Lan cũng cho rằng thời gian tới, Việt Nam
cần thu hẹp các cơ quan đầu mối bằng cách
chuyển đổi, sắp xếp lại các bộ ngành ở trung
ương. Thực tế, vừa qua đã có việc sát nhập một
số bộ nhưng việc sắp xếp của các cơ quan đầu
mối thì lại chưa đạt được hiệu quả. Số lượng biên
chế trong các bộ vẫn cồng kềnh. Bên cạnh đó,
các cơ quan vẫn ôm khá nhiều việc như xây dựng
các chính sách luật pháp, quản lý vĩ mô; giám sát
và điều hành trực tiếp các DN nhà nước, đồng
thời giám sát DN kinh doanh thuộc lĩnh vực mà
bộ quản lý… Như một thứ trưởng Bộ Công
thương thì mới được giao làm chủ tịch hội đồng
quản trị Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng
sản Việt Nam… Đúng ra, quyền hạn của các bộ
sẽ phải trao bớt cho DN và người dân, cho các
địa phương và các tổ chức khác.
Xử lý triệt để kinh doanh hàng quá hạn sử dụng
Chỉ trong thời gian ngắn gần Tết Nguyên đán (từ ngày 13 đến 22-1), lực lượng quản lý thị trường
TP.HCM đã phát hiện nhiều vụ kinh doanh, chứa trữ hàng hóa quá hạn sử dụng, không ghi hạn sử dụng
với số lượng rất lớn.
Chi cục Quản lý thị trường đã kiểm tra một số đơn
vị là công ty dược phẩm, nhà máy, cửa hàng buôn
bán dược phẩm, buôn bán và sản xuất thực phẩm;
tạm giữ nhiều mặt hàng quá hạn sử dụng, với
58.920 chai thuốc Sioplex Lysine 100ml - thuốc
kích thích tăng trưởng cho trẻ em; gần 11 tấn
hương liệu thực phẩm; gần 2 tấn nấm tuyết; hơn
40 tấn thực phẩm khô không hóa đơn chứng từ,
không ghi hạn sử dụng; gần 1.000 thùng bánh các
loại chưa công bố tiêu chuẩn chất lượng sản
phẩm.
Kiểm tra Công ty liên doanh Orana Việt Nam -
liên doanh với Đan Mạch - có trụ sở tại lô 3-5,
khu F1, khu công nghiệp Tân Thới Hiệp, quận
12,
7
quản lý thị trường phát hiện kho hàng của công
ty chứa hương liệu trái cây đã hết hạn dùng do
Đan Mạch sản xuất, nhãn gốc đã bị xé, dán lại
nhãn phụ màu vàng, ghi hạn sử dụng mới.
Trong số hàng hóa trên có hơn 9kg hương liệu
các loại đã hết hạn sử dụng từ tháng tháng 8 đến
tháng 9-2009 và 80kg Colour Betacarotene có
hạn sử dụng trên nhãn gốc là tháng 5-2009, đã
được dán lại nhãn phụ màu vàng ghi hạn sử dụng
đến 1-8-2010.
Ngoài ra, quản lý thị trường còn phát hiện tại
công ty có hơn 10,8 tấn hương liệu, nguyên liệu
gốc hết hạn sử dụng và hơn 15,5 tấn hương liệu,
nguyên liệu không còn nhãn gốc, được dán lên
bằng nhãn phụ màu vàng, ghi hạn sử dụng 2010
và 2011.
Làm việc với quản lý thị trường, ông Nguyễn
Hữu Chung, Giám đốc công ty, trình bày rằng
việc dán nhãn phụ gia hạn sử dụng được nhà
cung cấp nước ngoài có văn bản cho phép.
Còn tại Công ty Thương mại Dược phẩm Đông
Phương có trụ sở tại 150/47A-B đường Nguyễn
Trãi, phường Bến Thành, quận 1, ngày 15-1,
quản lý thị trường tạm giữ 58.920 chai thuốc
Sioplex Lysine 100ml do Ấn Độ sản xuất đã quá
hạn dùng từ năm 2008.
Trong đó có 33.280 chai đã gỡ bỏ nhãn gốc và
thay nhãn mới ghi hạn sử dụng đến ngày 25-2-
2011, còn 22.880 chai đã gỡ bỏ nhãn gốc chưa
dán nhãn mới, 2 thùng carton đựng bao bì các
loại thuốc ghi hạn sử dụng mới.
Giám đốc Công ty là ông Nguyễn Văn Vinh đã
thừa nhận hành vi cạo, sửa hạn sử dụng.
Theo ông Lê Xuân Đài, Phó Chi cục trưởng Chi
cục Quản lý thị trường TP.HCM, thủ đoạn hiện
nay của một số đầu nậu chuyên kinh doanh hàng
quá hạn sử dụng là nhập lậu số lượng lớn và gần
hết hạn sử dụng được đóng vào bao bì lớn từ biên
giới các tỉnh phía Bắc đưa vào thành phố.
Sau đó số hàng nhập này sẽ được xé nhỏ, cho
vào các bao bì nhỏ, đóng hộp, mang nhãn hiệu
mới của một quốc gia khác “xịn” hơn, rồi sửa
hạn sử dụng mới và tung ra thị trường, đánh lừa
người tiêu dùng.
Ông Đài cho biết riêng mặt hàng dược phẩm vốn
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người tiêu dùng, với
hành vi kinh doanh, chứa trữ thuốc quá hạn sử
dụng và vi phạm quy chế ghi nhãn của các công
ty vi phạm, nếu đủ yếu tố cấu thành hành vi vi
phạm luật hình sự, chi cục quản lý thị trường sẽ
chuyển sang cơ quan điều tra để xử lý nghiêm,
toàn bộ hàng quá hạn sử dụng đều phải bị tịch
thu, tiêu hủy.
Hạn chót ngày 1-7: Hơn 1.500 DNNN không kịp cổ phần hóa
8
Nhiều tập đoàn, tổng công ty lớn của nhà nước vẫn chưa hề có kế hoạch chuyển đổi mô hình hoạt động
dù ngày 1-7 đã cận kề.
Chỉ còn hơn sáu tháng nữa, tức là ngày 1-7-
2010, Luật Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)sẽ
hết hiệu lực. Có nghĩa là đến lúc đó hơn 1.500
DN có 100% vốn nhà nước phải hoàn thành
chuyển đổi mô hình hoạt động. Tuy nhiên, bên
lề hội thảo Chính sách cổ phần hóa (CPH) DN
tổ chức hôm 19-1, ông Nguyễn Đức Tặng,
chuyên gia về CPH DNNN tỏ ra lo ngại về
việc chuyển đổi mô hình hoạt động, trong đó
CPH số DNNN là chuyện không thể. Bởi sau
gần 20 năm thực hiện chính sách CPH, mới có
5.000 DNNN thực hiện.
Phải cho phá sản DN làm ăn kém
Ông Tặng phân tích: Việc CPH thì có thể sẽ
chậm hơn nhưng khi chuyển sang mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì
có thể đơn giản hơn nhiều, không phải định giá
trị DN. Tuy nhiên, cách làm này cũng sẽ không
thể kịp vì hiện còn khá nhiều tổng công ty lớn,
tập đoàn 100% vốn nhà nước chưa có kế hoạch
về việc chuyển đổi mô hình hoạt động.
Ông Đặng Quyết Tiến, Cục phó Cục Tài chính
DN - Bộ Tài chính, thừa nhận việc CPH các
DNNN đang diễn ra quá chậm. Cũng có lý do
khách quan như kinh tế suy giảm, bán cổ phần
cũng không ai mua. Có đơn vị muốn CPH để đổi
mới chu trình quản trị DN nhưng chưa tìm được
đối tác chiến lược. Mặc dù vậy, chỉ đạo của
Chính phủ là vẫn quyết tâm đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi mô hình hoạt động của số DNNN nói
trên. Thậm chí chúng ta cũng cần phải cho phá
sản những DN làm ăn kém hiệu quả và thua lỗ
kéo dài.
Bộ Tài chính cho biết chỉ đạo của Chính phủ là
giữ một số tổng công ty lớn trong một vài lĩnh
vực đặc biệt nhạy cảm. Còn nhà nước là chủ sở
hữu với việc nắm tỉ lệ vốn nhất định đủ để chi
phối. Như xăng dầu sẽ vẫn hình thành những tập
đoàn đa sở hữu. Thời gian gần đây, Thủ tướng
Chính phủ có nhiều chỉ đạo và có nhiều phê
duyệt về điều chỉnh phương án sắp xếp của các
tập đoàn, tổng công ty và các bộ ngành địa
phương trong đó vẫn khẳng định là phải đẩy
mạnh tiến độ CPH. Nhưng vẫn phải đảm bảo đến
ngày 1-7-2010 phải chuyển các DNNN hoạt
động theo Luật DN.
Hiện nay, hầu hết các DN được cổ phần hóa với
một phần vốn nhà nước và một phần tư nhân.
Nên khuyến khích CPH thành 100% vốn tư nhân
9
Vị đại diện đến từ Chương trình Phát triển Liên
Hiệp Quốc (xin được giấu tên) cho rằng nên CPH
DN thành 100% vốn tư nhân hoặc là 100% vốn
nhà nước. Thời gian tới, những ngành thủy sản,
dệt may, rượu bia, một số DN bán lẻ… không
nhất thiết phải có những DN có một phần vốn
nhà nước ở đây.
Cũng theo vị này, hiện nay hầu hết là các DN
được CPH với một phần vốn nhà nước và một
phần tư nhân. Thực tế có những hạn chế là khi có
vốn, nhà nước sẽ phải quản lý. Hơn nữa, điều
này sẽ không tạo động lực để tư nhân phát triển
vì có tâm lý dựa vào vốn, vào đất đai của nhà
nước.
Ông Tặng đề xuất, để bảo toàn vốn nhà nước,
Chính phủ nên đề xuất lên Quốc hội lui thời gian
thực hiện Luật DNNN thêm một thời gian nữa.
Tuy nhiên, để giãn thời gian thực hiện luật trong
bao lâu là do ý chí của Chính phủ.
Bộ Tài chính cũng cho biết việc xử lý tài chính,
xác định giá trị sở hữu đất đai, giá trị thương
hiệu, mua bán cổ phần cho cổ đông chiến lược,
giải quyết chế độ cho người lao động… sẽ được
rà soát và phải giải quyết ngay trong đầu năm
2010. Chắc là khi những vướng mắc được tháo
gỡ, việc chuyển đổi mô hình hoạt động của DN
sẽ nhanh hơn.
Doanh nghiệp nói gì về triển vọng kinh doanh 2010?
Đa số doanh nghiệp cho rằng triển vọng kinh doanh đã và sẽ tốt lên, tỷ giá VND/USD sẽ ổn định, nhưng
lo ngại lạm phát tăng cao.
Đó là nhận định được rút ra từ cuộc khảo sát của
Công ty Cổ phần Đầu tư và Tư vấn tài chính Dầu
khí Việt Nam (PVFC Invest) và Công ty Dịch vụ
thông tin tài chính (WVB Việt Nam), được tiến
hành từ ngày 15/12/2009 đến đầu tháng 1/2010,
tại 146 doanh nghiệp thuộc 11 lĩnh vực ngành
nghề chủ chốt của Việt Nam (hơn một nửa trong
số đó là các doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Theo nghiên cứu điều tra của hai công ty này, chỉ
số niềm tin kinh doanh trong quý 4/2009 đã giảm
1 điểm so với quý trước, chỉ đạt 135 điểm, nhưng
tăng tới 42 điểm so với quý 4/2008
Đây là lần thứ hai trong vòng hai năm gần đây,
chỉ số này giảm điểm. Trước đó, chỉ số niềm tin
kinh doanh quý 4/2008 giảm 7 điểm so với quý
3/2008 (93 điểm so với 100 điểm).
“Kết quả này đã phản ánh phần nào sự ảnh hưởng
từ các thay đổi về tình hình kinh tế trong nước và
TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG
10
quốc tế lên tâm lý và quan điểm của các giám
đốc, các chủ doanh nghiệp trong những tháng gần
đây”, báo cáo trên khẳng định.
Cụ thể, kết quả điều tra cho biết có 72% doanh
nghiệp tham gia khảo sát cho rằng tình hình kinh
tế Việt Nam hiện nay đã tốt hơn so với 12 tháng
trước.
Nhận định về tương lai trong 12 tháng tới, số
quan điểm lạc quan còn lớn hơn khi có tới 78%
doanh nghiệp tin rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ tốt
lên; trong khi chỉ có 1% lo lắng về tương lai nền
kinh tế Việt Nam trong năm 2010.
Về tình hình kinh doanh trong thời gian tới, quan
điểm lạc quan tiếp tục chiếm đa số với 76%
doanh nghiệp đánh giá nhu cầu thị trường đối với
sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp mình và các
doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực sẽ tăng lên.
Tương tự, 75% doanh nghiệp tham gia khảo sát
tự tin rằng doanh thu của doanh nghiệp sẽ tăng.
Có 24% doanh nghiệp cho rằng doanh thu sẽ giữ
nguyên và chỉ 1% lo ngại về con số doanh thu
trong 12 tháng tới.
Khảo sát niềm tin doanh nghiệp vào sự tăng
trưởng lợi nhuận, có 67% tin rằng lợi nhuận sẽ
tăng lên trong năm tới; 31% cho rằng lợi nhuận sẽ
giữ nguyên; và 2% doanh nghiệp lo ngại suy
giảm lợi nhuận trong 12 tháng tới.
Về kế hoạch phát triển doanh nghiệp, có 59%
doanh nghiệp dự tính sẽ tăng thêm nguồn nhân
lực; 38% doanh nghiệp dự tính sẽ giữ nguyên; và
3% doanh nghiệp giảm số nhân lực trong thời
gian tới.
Tuy nhiên, khá nhiều doanh nghiệp phân vân đối
với việc mở rộng đầu tư. Tỷ lệ doanh nghiệp dự
định giữ nguyên chi phí đầu tư cho tài sản cố định
trong 12 tháng tới tương đương số doanh nghiệp
có kế hoạch đầu tư thêm (49%).
Khảo sát quan điểm các doanh nghiệp về một số
chỉ tiêu kinh tế trong năm 2010, báo cáo cho biết
có 62% số doanh nghiệp tham gia cuộc điều tra
dự báo tăng trưởng GDP năm nay từ 6-7%. Trong
khi đó, 66% doanh nghiệp dự báo lạm phát sẽ từ
7-10%; 23% đánh giá sẽ tăng từ 10-15%.
Về biến động tỷ giá USD/VND, 67% số doanh
nghiệp phỏng đoán tỷ giá VND/USD sẽ trong
khoảng 18.500-19.000 VND/USD; 18% dự đoán
ở mức thấp hơn 18.500 VND/USD, và chỉ có
14% dự báo mức 19.500-20.000 VND/USD.
Chuyên gia kinh tế "mách nước" cho doanh nghiệp
Sau một năm vượt “bão”, nhiều doanh nghiệp tuy vẫn còn trụ lại được, nhưng không thể nói là "sức
khỏe" không bị ảnh hưởng ít nhiều.
11
Lựa chọn phân khúc thị trường nào để tiếp tục
phát triển sản xuất kinh doanh? Nhiều chuyên gia
kinh tế đưa ra những dự cảm và gợi ý thú vị.
Tiến sĩ Cao Sĩ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh
nghiệp nhỏ và vừa, thành viên Hội đồng Chính
sách tiền tệ quốc gia: “Nông nghiệp, nông thôn
còn rất nhiều dư địa phát triển”
Nói cho công bằng thì bên cạnh một số doanh
nghiệp tiếp tục phát triển, một số khác đang hồi
phục, vẫn còn có những doanh nghiệp đang khó
khăn thêm.
Tôi cho rằng việc doanh nghiệp tồn tại, phát triển
hay phá sản là những diễn biến bình thường trong
một nền kinh tế. Một doanh nghiệp tự thân quá
“ốm yếu” thì bất cứ ai có muốn cứu cũng không
cứu được!
Năm 2010 có nhiều thuận lợi, nhưng cũng đầy
thách thức. Tình hình kinh tế thế giới sáng sủa
hơn, nhưng những nền kinh tế lớn nhất đều vẫn
tiềm ẩn những yếu tố bất ổn.
Và như vậy, kinh tế Việt Nam với đặc điểm là
phụ thuộc, có độ mở cao, chắc chắn vẫn bị ảnh
hưởng.
Tôi cho rằng một trong những việc cần làm ngay
là củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng.
Kinh nghiệm cho thấy vai trò của những hiệp hội
này hết sức quan trọng, nhất là trong việc tư vấn
cho Chính phủ xây dựng khung chính sách khôn
khéo để không vi phạm những cam kết quốc tế
mà vẫn bảo vệ được sản xuất trong nước.
Nhìn chung, trong bối cảnh hiện nay, cá nhân tôi
nhìn thấy nông nghiệp, nông thôn còn rất nhiều
dư địa phát triển, nhất là ngành công nghiệp chế
biến, từ thủy hải sản cho đến lúa gạo, nông
phẩm… Các dịch vụ lưu trữ, bảo quản cũng có cơ
hội lớn. Giờ Việt Nam còn đang xuất sản phẩm
thô, nên giá trị gia tăng không bao nhiêu, rất phí.
Nhiều loại hình dịch vụ cũng có tiềm năng sáng
sủa, từ tin học cho tới tài chính ngân hàng, bảo
hiểm…
Tiến sĩ Nguyễn Việt Dũng, Phó Giám đốc Bưu
điện Thành phố Hồ Chí Minh: “Thương mại điện
tử, công nghiệp nội dung trên nền Internet là rất
hứa hẹn”.
Trong năm 2009, bất chấp khủng hoảng kinh tế,
các doanh nghiệp viễn thông vẫn có cơ hội phát
triển, bởi vì những mặt hàng khác, dịch vụ khác -
hàng xa xỉ phẩm chẳng hạn - có thể bớt tiêu dùng,
nhưng nhu cầu thông tin liên lạc thì không thể
hạn chế, thậm chí vẫn ngày càng lớn.
Đó là một lợi thế khách quan, vẫn sẽ tiếp tục
được duy trì trong năm 2010 và những năm tiếp
theo.
Lĩnh vực viễn thông có một số đặc thù như đòi
hỏi nguồn tài chính, nhân lực đủ mạnh, chưa kể
một số rào cản pháp lý đối với các thành phần
kinh tế ngoài nhà nước, do đó khu vực tư nhân
chưa tham gia được nhiều vào lĩnh vực này.
Tuy nhiên, Luật Viễn thông đã được Quốc hội
thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/7/2010, một số
12
phân khúc thị trường viễn thông được mở cửa
rộng hơn cho tất cả các thành phần doanh nghiệp.
Hạ tầng viễn thông hiện nay đã tương đối ổn định
và phát triển không kém cạnh gì các nước trong
khu vực, vì thế mảng dễ làm nhất, có thể cho lợi
nhuận cao (mà không phải đầu tư quá lớn, doanh
nghiệp nhỏ và vừa cũng làm được) là khai thác
các dịch vụ giá trị gia tăng trên nền cơ sở hạ tầng
viễn thông đã có như thương mại điện tử, công
nghiệp nội dung… đa dạng.
Muốn khai thác tốt cơ hội đó, hành lang pháp lý
cho lĩnh vực này cần tiếp tục hoàn thiện. Tôi thấy
nhiều doanh nghiệp “kêu” chi phí thuê hạ tầng
còn khá cao, giá thuê hạ tầng chiếm tới 60-70%
tổng chi phí, như thế là bất hợp lý.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ tích Ủy ban
Nhân dân tỉnh Sóc Trăng, nguyên ủy viên thường
trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội: “Các doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động và phục vụ nhu
cầu an sinh xã hội sẽ có nhiều cơ hội”.
Óc sáng tạo vô tận của người Việt dường như
chưa được phát huy hết hiệu quả trong kinh
doanh. Loại trừ những chuyện kinh doanh chụp
giật, phải nói rằng nước láng giềng Trung Quốc
đã rất biết cách khai thác các sản phẩm, dịch vụ
kết hợp được văn hóa phương Đông, y học
phương Đông, “đánh” rất trúng vào tâm lý coi
trọng sức khỏe của người tiêu dùng.
Tại sao chúng ta chưa làm được như họ?! Thị
trường trái cây nhiệt đới đang rất phát triển, ta
hoàn toàn có thể khai thác, câu chuyện trái thanh
long hay trái bưởi Năm Roi đi “Tây” là bài học
rất tốt.
Một vấn đề khác là trong và sau khủng hoảng,
các chính sách an sinh xã hội rất được chú trọng,
bởi vậy các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động
và phục vụ các nhu cầu an sinh xã hội sẽ có nhiều
cơ hội.
Không có gì mâu thuẫn giữa chính sách hướng
đến công nghệ cao và việc sử dụng nhiều lao
động.
Ngành may, nếu chỉ làm hàng gia công thì không
thể đem lại giá trị gia tăng lớn. Nhưng nếu chúng
ta thuê đứt những nhà thiết kế “xịn” để đàng
hoàng đưa sản phẩm 100% “Made in Vietnam” ra
thị trường thế giới thì vẫn sử dụng được hàng vạn
công nhân.
Đành rằng dệt may của Việt Nam hiện vẫn khó
khăn về công nghiệp phụ trợ, vật tư, nguyên liệu.
Chúng ta không trồng được bông, hoặc có trồng
cũng không đủ dùng, nhưng tại sao không đặt
hàng Kazakhstan, Turmenistan…, nâng quan hệ
với họ lên tầm đối tác chiến lược? Thế và lực của
doanh nghiệp Việt Nam hiện đủ để làm việc đó.
Những nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam thực
sự đã đóng góp đáng kể vào thành công năm
2009. Nhưng cũng cần thẳng thắn nhìn nhận với
nhau, nếu không có liều thuốc mạnh (là gói hỗ trợ
của Chính phủ) thì bao nhiêu doanh nghiệp lỗ,
bao nhiêu lãi, để biết sức lực thực tế đến đâu.
Tôi thì không cho rằng cứ phải sản xuất xe tăng
hay tàu vũ trụ mới là phát triển kinh tế. Quan
13
trọng nhất là chúng ta đi bằng đôi chân của chính
mình, tận dụng được những lợi thế của đất nước
mình.
Không phải “ông” chế tạo được vệ tinh thì ông
oai hơn tôi lái xe, nấu nướng phục vụ khách du
lịch.
Các cụ cũng khuyên “đừng thấy người ăn khoai
cũng vác mai đi đào”.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hội đồng
Quản trị, Tổng giám đốc Saigon Co.op: “Lĩnh
vực kinh doanh bán lẻ tiếp tục khởi sắc do tinh
hình kinh tế đã phục hồi và tăng trưởng”
Từ những doanh nghiệp đã lớn mạnh lên trong
bối cảnh khủng hoảng năm rồi (dù số này không
nhiều), người ta thấy được rằng, trong kinh
doanh, quy mô của tổ chức không quan trọng.
Doanh nghiệp, dù lớn hay nhỏ, khi muốn tồn tại
và phát triển, đều phải thấu hiểu khách hàng và
thị trường của mình, kiên định với mục tiêu kinh
doanh đã vạch ra ngay trong giai đoạn hình thành.
Để tạo nét đặc trưng cho Co.opMart, Saigon
Co.op đã chọn đối tượng khách hàng mục tiêu
của Co.opMart là tầng lớp dân cư có thu nhập
trung bình và án bộ công nhân viên là đối tượng
chiếm số đông của xã hội.
Từ quan điểm đó, Saigon Co.op đã xây dựng hình
ảnh Co.opMart là một siêu thị hiện đại văn minh
của phương thức bán hàng tự chọn, vừa có nét giản
dị gần gũi trong kinh doanh và các dịch vụ đi kèm.
Bên cạnh đó, trong thời gian vừa qua, Saigon Co.op
cũng tập trung vào hoạt động kinh doanh chủ đạo,
không đầu tư dàn trải; tăng cường nguồn nhân lực
và quản lý chặt chẽ nguồn vốn, chi phí…
Nhờ đó, trong năm 2009, Saigon Co.op đã vượt mọi
khó khăn, thách thức để khai trương 10 siêu thị
Co.op Mart nâng tổng số siêu thị lên 42, trong đó có
21 siêu thị tại các quận, huyện trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
Về năm 2010, tôi cho rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ
khởi sắc. Còn rất nhiều lĩnh vực mà các doanh
nghiệp có thể tận dụng. Thủy sản là một ngành xuất
khẩu mũi nhọn của Việt Nam và luôn được Chính
phủ ưu tiên hỗ trợ.
Trong năm 2010, ngành thủy sản dự báo sẽ có tiềm
năng tăng trưởng tích cực. Bất động sản tiếp tục là
ngành tiềm năng, cụ thể là phân khúc nhà ở trung
bình ổn định.
Nông nghiệp tiếp tục là một trong những ngành
được ưu tiên phát triển của Chính phủ, trong đó,
ngành giống cây trồng và chăn nuôi ước tính tăng
trưởng trong năm 2010 khoảng 20%.
Ngành ngân hàng, đầu năm 2010 sẽ bớt khó khăn
hơn thời điểm cuối 2009 do lãi suất cơ bản sẽ tăng
dần, tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng được cải
thiện...
Riêng lĩnh vực kinh doanh bán lẻ sẽ tiếp tục khởi
sắc do tình hình kinh tế đã phục hồi và tăng trưởng.
Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp trong nước sẽ gay gắt hơn khi nhiều thương
hiệu bán lẻ nước ngoài tăng tốc gia nhập thị trường
nội địa.
14
THÔNG TƯ CỦA BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN SỐ 05/2010/TT-
BNNPTNT NGÀY 22 THÁNG 01 NĂM 2010 HƯỚNG DẪN VIỆC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM NÔNG SẢN TRƯỚC KHI ĐƯA RA THỊ TRƯỜNG
Căn cứ Nghị định số 01/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Căn cứ Nghị định số 75/2009/NĐ-CP ngày 10/9/2009 của Chính phủ sửa đổi Điều 3 Nghị
định số 01/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Căn cứ Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm và Nghị định số 163/2004/NĐ-CP ngày 07
tháng 9 năm 2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Vệ sinh an
toàn thực phẩm;
Căn cứ Nghị định số 79/2008/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2008 của Chính phủ quy định hệ
thống tổ chức quản lý, thanh tra và kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm;
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn việc kiểm tra, giám sát vệ sinh an toàn
thực phẩm nông sản trước khi đưa ra thị trường như sau:
Chương I
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Thông tư này hướng dẫn việc kiểm tra, giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đối
với thực phẩm nông sản trước khi đưa ra thị trường tiêu thụ; trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra,
giám sát và cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản trước khi đưa ra thị trường (sau đây gọi
tắt là cơ sở).
TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH
15
2. Những nội dung hướng dẫn trong Thông tư này không điều chỉnh các nội dung quy định
liên quan đến kiểm dịch động vật; kiểm dịch thực vật; kiểm tra, chứng nhận quy trình thực hành sản
xuất nông nghiệp tốt.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Thông tư này áp dụng đối với:
a) Các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản có nguồn gốc từ thực vật, bao gồm: cơ
sở trồng trọt; cơ sở sơ chế; cơ sở chế biến; cơ sở bảo quản thành phẩm.
b) Các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản có nguồn gốc từ động vật, bao gồm:
cơ sở chăn nuôi; cơ sở giết mổ; cơ sở sơ chế; cơ sở chế biến; cơ sở bảo quản thành phẩm.
2. Thông tư này không áp dụng đối với các cơ sở sản xuất thực phẩm nông sản không nhằm
mục đích đưa sản phẩm ra tiêu thụ trên thị trường.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Thông tư này, một số từ ngữ được hiểu như sau:
1. Thực phẩm nông sản: là tất cả các sản phẩm thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật, động vật
(trừ thủy sản) hoặc thực phẩm phối chế mà thành phần chủ yếu là sản phẩm thực vật, hoặc sản phẩm
động vật, được con người sử dụng làm thực phẩm.
2. Thực phẩm nông sản sơ chế: là thực phẩm nông sản đã được cắt, tỉa, rửa, đóng gói đối với
sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật; cắt, pha lọc, đông lạnh, đóng gói đối với sản phẩm có nguồn
gốc từ động vật hoặc những thao tác khác làm ảnh hưởng đến sự nguyên vẹn về hình thể nhưng
không làm thay đổi tính chất ban đầu của sản phẩm.
3. Thực phẩm nông sản chế biến: là thực phẩm nông sản đã trải qua bất kỳ hoạt động xử lý
nào làm thay đổi căn bản kết cấu tự nhiên của nguyên liệu nông sản.
4. Bảo quản: là việc sử dụng vật chứa, trang thiết bị hoặc tác nhân hỗ trợ thích hợp để hạn chế
sự thay đổi tình trạng chất lượng ban đầu của sản phẩm thực phẩm nông sản trong một khoảng thời
gian nhất định.
5. Cơ sở sơ chế thực phẩm nông sản: là nơi diễn ra một hoặc nhiều hoạt động như cắt, tỉa,
rửa, đóng gói đối với sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật; cắt, pha lọc, đông lạnh, đóng gói đối với
16
sản phẩm có nguồn gốc từ động vật hoặc những thao tác khác làm ảnh hưởng đến sự nguyên vẹn về
hình thể nhưng không làm thay đổi tính chất ban đầu của sản phẩm.
6. Cơ sở chế biến thực phẩm nông sản: là nơi diễn ra một hoặc nhiều hoạt động xử lý làm
thay đổi căn bản kết cấu tự nhiên của nguyên liệu nông sản, sau đó sản phẩm được bao gói hoàn
chỉnh để đưa ra thị trường.
7. Cơ sở bảo quản thành phẩm: là nơi bố trí các trang thiết bị, dụng cụ chuyên dụng cần thiết
để bảo quản sản phẩm thực phẩm nông sản.
8. Kiểm tra: là việc đánh giá mức độ đáp ứng của cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông
sản so với các quy chuẩn kỹ thuật, quy định kỹ thuật về VSATTP theo quy định hiện hành. Khi cần
thiết có thể lấy mẫu vệ sinh công nghiệp, lấy mẫu nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm để thẩm
tra.
9. Giám sát: là việc đánh giá mức độ vệ sinh an toàn thực phẩm của sản phẩm theo quy định
trong các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, quy định về VSATTP thông qua việc lấy mẫu phân tích theo
kế hoạch được phê duyệt (không bao gồm việc lấy mẫu thẩm tra điều kiện đảm bảo VSATTP của cơ
sở).
Điều 4. Kinh phí triển khai
Kinh phí thực hiện kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP các cơ sở sản xuất kinh doanh thực
phẩm nông sản, thực hiện các chương trình giám sát VSATTP đối với thực phẩm nông sản trước khi
đưa ra thị trường tiêu thụ do ngân sách Nhà nước cấp theo quy định hiện hành. Các cơ quan theo
phân công có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, dự trù kinh phí thực hiện hàng năm, trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
Chương II
KIỂM TRA CƠ SỞ SẢN XUẤT KINH DOANH
THỰC PHẨM NÔNG SẢN
Điều 5. Căn cứ để kiểm tra
1. Căn cứ để kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, các
quy định về VSATTP nông sản của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các quy định của
Nhà nước có liên quan tương ứng đối với từng loại hình cơ sở.
17
2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản xuất khẩu, ngoài việc tuân thủ
các nội dung quy định tại Khoản 1 Điều này còn căn cứ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc gia nhập, các hiệp định, thỏa thuận song phương hoặc quy định của nước nhập khẩu.
Điều 6. Nguyên tắc kiểm tra
1. Việc xác định chế độ kiểm tra áp dụng đối với cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông
sản dựa trên:
a) Lịch sử tuân thủ các quy định đảm bảo VSATTP của cơ sở;
b) Mức độ rủi ro về VSATTP của sản phẩm do cơ sở sản xuất;
c) Hệ thống quản lý chất lượng đang được áp dụng tại cơ sở.
2. Trình tự, thủ tục kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP cơ sở sản xuất kinh doanh thực
phẩm nông sản do các Cục quản lý chuyên ngành được giao chủ trì (sau đây gọi tắt là Cục quản lý
chuyên ngành) xây dựng phải đảm bảo:
a) Dựa trên đánh giá rủi ro đối với từng loại hình cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông
sản.
b) Rõ ràng, minh bạch; đảm bảo hiệu lực, hiệu quả nhưng không gây ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của cơ sở được kiểm tra.
3. Kiểm tra viên phải trung thực, khách quan, không có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp về
lợi ích kinh tế với cơ sở được kiểm tra.
Điều 7. Cơ quan kiểm tra
Chi cục Bảo vệ thực vật, Chi cục Thú y thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP cơ sở sản
xuất kinh doanh thực phẩm nông sản tại địa phương theo chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát về chuyên
môn, nghiệp vụ của Cục quản lý chuyên ngành theo phân công nêu tại Điều 8 Thông tư này.
Điều 8. Cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì hướng dẫn và giám sát việc kiểm tra điều
kiện đảm bảo VSATTP của cơ quan kiểm tra địa phương
1. Cục Bảo vệ thực vật: Chuỗi sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản có nguồn gốc thực
vật từ trồng trọt, sơ chế, chế biến, bảo quản, đóng gói cho đến khi sản phẩm được đưa ra lưu thông
trên thị trường.
18
2. Cục Thú y: Chuỗi sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản có nguồn gốc động vật (trên
cạn) từ chăn nuôi, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản cho đến khi sản phẩm đưa ra lưu thông trên
thị trường.
Điều 9. Cục Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản
1. Tổ chức kiểm tra có lựa chọn theo kế hoạch hàng năm được duyệt hoặc kiểm tra đột xuất
theo phân công của Bộ trưởng về điều kiện đảm bảo VSATTP đối với cơ sở sản xuất kinh doanh thực
phẩm nông sản trên phạm vi toàn quốc.
2. Chủ trì, phối hợp với các Cục quản lý chuyên ngành tổ chức truy xuất nguyên nhân thực
phẩm nông sản không đảm bảo VSATTP.
Chương III
CHƯƠNG TRÌNH GIÁM SÁT
VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM NÔNG SẢN
Điều 10. Phạm vi giám sát
Chương trình giám sát VSATTP nông sản (sau đây gọi là chương trình giám sát) được triển
khai tại các công đoạn trồng trọt, chăn nuôi, giết mổ, sơ chế, đóng gói, chế biến, chợ đầu mối thực
phẩm nông sản do các Cục quản lý chuyên ngành thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ
chức thực hiện trên phạm vi cả nước.
Điều 11. Căn cứ giám sát
Căn cứ để thực hiện giám sát VSATTP nông sản là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, các quy
định về VSATTP nông sản của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các quy định của Nhà
nước có liên quan
Điều 12. Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức giám sát
1. Cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức triển khai chương trình giám sát thực phẩm
nông sản:
a. Cục Bảo vệ thực vật: Chuỗi sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản có nguồn gốc thực
vật.
19
b. Cục Thú y: Chuỗi sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản có nguồn gốc động vật (trên
cạn).
2. Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản: đầu mối trong việc thẩm định, tổng
hợp chương trình giám sát của các Cục quản lý chuyên ngành trình Bộ phê duyệt và theo dõi thực
hiện các chương trình giám sát.
Điều 13. Xây dựng chương trình giám sát
1. Căn cứ kết quả giám sát hàng năm, trên cơ sở đánh giá rủi ro và thực tế sản xuất thực
phẩm nông sản (có thể tiến hành khảo sát nếu cần), các Cục quản lý chuyên ngành xây dựng chương
trình giám sát theo phạm vi quản lý tại Điều 12 Thông tư này và gửi về Cục Quản lý Chất lượng
Nông Lâm sản và Thủy sản trước ngày 15/11 hàng năm.
2. Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản tổ chức thẩm định nội dung và dự
toán kinh phí của chương trình giám sát do các Cục quản lý chuyên ngành xây dựng, trình Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, phê duyệt.
Điều 14. Triển khai chương trình giám sát
1. Các Cục quản lý chuyên ngành tổ chức thực hiện chương trình giám sát theo phê duyệt
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
2. Trình tự, thủ tục, phương pháp lấy mẫu, bảo quản, giao nhận mẫu được thực hiện theo
hướng dẫn của Cục quản lý chuyên ngành.
3. Mẫu được gửi phân tích tại các phòng kiểm nghiệm đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chỉ định.
4. Trong trường hợp cần điều chỉnh chương trình giám sát, Cục quản lý chuyên ngành làm
văn bản gửi Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản để tổ chức thẩm định, trình Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt.
5. Hàng năm, hoặc đột xuất (khi có yêu cầu), các Cục quản lý chuyên ngành báo cáo kết quả
giám sát gửi về Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản để tổng hợp báo cáo Bộ.
Điều 15. Biện pháp khắc phục khi phát hiện ô nhiễm vi sinh vật, hoặc hóa chất vượt
mức giới hạn tối đa cho phép
20
1. Trong trường hợp phát hiện ô nhiễm vi sinh vật, hoặc hóa chất vượt mức giới hạn tối đa
cho phép, Cục quản lý chuyên ngành gửi văn bản cảnh báo đến cơ sở sản xuất kinh doanh thực
phẩm nông sản có mẫu vi phạm, yêu cầu cơ sở xác định nguyên nhân và thực hiện biện pháp khắc
phục phù hợp, đồng gửi thông báo cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn địa phương để phối
hợp kiểm soát.
2. Khi nhận được văn bản cảnh báo, cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản có mẫu
vi phạm phải tiến hành điều tra, xác định nguyên nhân, triển khai biện pháp khắc phục và báo cáo
Cục quản lý chuyên ngành, Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
3. Trong trường hợp có tái phạm:
a. Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản phối hợp với các Cục quản lý chuyên
ngành tổ chức truy xuất nguyên nhân thực phẩm nông sản bị phát hiện ô nhiễm vi sinh vật, hoặc hóa
chất vượt mức giới hạn tối đa cho phép.
b. Cục quản lý chuyên ngành lấy mẫu giám sát tăng cường tại cơ sở sản xuất, kinh doanh
thực phẩm nông sản có mẫu vi phạm và xử lý kết quả kiểm tra theo quy định.
Chương IV
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 16. Các Cục quản lý chuyên ngành
1. Theo phân công tại Chương II Thông tư này, xây dựng, trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn ban hành:
a. Các quy định về trình tự, thủ tục, nội dung kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP đối với
các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản. Hoàn thành trước 01/7/2010.
b. Các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện VSATTP đối với các cơ sở sản xuất kinh
doanh thực phẩm nông sản.
2. Tổ chức đào tạo, tập huấn, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ kiểm tra VSATTP các cơ sở
theo phân công tại Chương II Thông tư này cho các kiểm tra viên của Cơ quan kiểm tra địa
phương.[s239]
21
3. Tổ chức triển khai chương trình giám sát VSATTP nông sản theo phân công nêu tại Điều
12 Thông tư này.
4. Hàng năm, hoặc đột xuất (khi có yêu cầu), gửi báo cáo kết quả kiểm tra, giám sát về Cục
Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản để tổng hợp báo cáo Bộ.
5. Phối hợp với Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản truy xuất nguyên nhân
thực phẩm nông sản không đảm bảo VSATTP.
6. Hàng năm, xây dựng kế hoạch và dự toán kinh phí cho việc thực hiện kiểm tra điều kiện
đảm bảo VSATTP các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản thuộc phạm vi quản lý, trình
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt, cấp kinh phí; xây dựng kế hoạch và dự toán
kinh phí cho việc thực hiện chương trình giám sát VSATTP nông sản theo phân công, gửi về Cục
Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản tổ chức thẩm định, đồng trình Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn phê duyệt, cấp kinh phí.
Điều 17. Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thuỷ sản
1. Tổ chức thẩm định các chương trình giám sát VSATTP nông sản do các Cục quản lý
chuyên ngành xây dựng, trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt và giám sát việc
thực hiện các hoạt động liên quan đến các chương trình giám sát VSATTP nông sản. Tổng hợp kết
quả giám sát báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
2. Phối hợp các Cục quản lý chuyên ngành tổ chức đào tạo, tập huấn, hướng dẫn chuyên
môn, nghiệp vụ kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm
nông sản cho các Cơ quan kiểm tra địa phương.
3. Tổng hợp và thông báo danh sách các phòng kiểm nghiệm được chỉ định tham gia phân
tích các chỉ tiêu về VSATTP nông sản.
4. Hàng năm, xây dựng kế hoạch và dự toán kinh phí cho việc thực hiện kiểm tra điều kiện
đảm bảo VSATTP các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản thuộc phạm vi quản lý, trình
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt, cấp kinh phí.
Điều 18. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
1. Chỉ đạo Chi cục Bảo vệ thực vật, Chi cục Thú y thực hiện việc kiểm tra các cơ sở sản xuất
kinh doanh thực phẩm nông sản tại địa phương và tham gia thực hiện các chương trình giám sát,
22
truy xuất nguyên nhân thực phẩm nông sản không đảm bảo VSATTP theo hướng dẫn của các Cục
quản lý chuyên ngành.
2. Tổ chức hướng dẫn, tuyên truyền, tập huấn kiến thức đảm bảo VSATTP nông sản cho các
cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi phân công.
3. Hàng năm, tổng hợp kế hoạch và dự toán kinh phí cho việc thực hiện kiểm tra điều kiện
đảm bảo VSATTP các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản thuộc phạm vi quản lý, trình
cấp có thẩm quyền của địa phương phê duyệt, cấp kinh phí.
4. Tổng hợp, đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sửa đổi, bổ sung các quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia, quy định về VSATTP nông sản cho phù hợp với tình hình thực tế trong
công tác kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP nông sản.
Điều 19. Chi cục Bảo vệ thực vật, Chi cục Thú y thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
1. Thực hiện kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm
nông sản theo phân công, phân cấp và theo hướng dẫn của các Cục quản lý chuyên ngành
2. Lưu trữ có hệ thống toàn bộ hồ sơ có liên quan đến hoạt động kiểm tra điều kiện đảm bảo
VSATTP cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản trong thời gian tối thiểu 02 năm; cung cấp
hồ sơ, giải trình đầy đủ và chính xác các vấn đề có liên quan đến việc kiểm tra cho cơ quan quản lý
cấp trên khi được yêu cầu.
3. Hàng năm, tổng hợp danh sách các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông sản thuộc
phạm vi quản lý, kết quả kiểm tra và báo cáo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục quản lý
chuyên ngành và Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản.
4. Hàng năm, xây dựng kế hoạch và dự toán kinh phí cho việc thực hiện kiểm tra điều kiện
đảm bảo VSATTP các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản theo phân công, phân cấp,
trình Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, tổng hợp và trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
Điều 20. Cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản
1. Duy trì điều kiện đảm bảo VSATTP theo quy định.
2. Chấp hành hoạt động kiểm tra điều kiện đảm bảo VSATTP nông sản của Cơ quan kiểm
tra.
23
3. Thực hiện sửa chữa các sai lỗi đã nêu trong Biên bản kiểm tra và Thông báo của Cơ quan
kiểm tra.
4. Thực hiện truy xuất nguyên nhân lô hàng thực phẩm nông sản bị phát hiện ô nhiễm vi sinh
vật, hoặc hóa chất vượt mức giới hạn tối đa cho phép; thiết lập biện pháp khắc phục sai lỗi theo
hướng dẫn và báo cáo Cục quản lý chuyên ngành, Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy
sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Điều 21. Phòng Kiểm nghiệm được chỉ định phân tích các chỉ tiêu VSATTP nông sản
1. Tuân thủ đúng quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với các Phòng
kiểm nghiệm được chỉ định.
2. Đảm bảo kết quả kiểm nghiệm chính xác, khách quan và thông báo kết quả đúng hạn; chịu
trách nhiệm về kết quả phân tích do Phòng kiểm nghiệm thực hiện.
3. Chỉ được phép thông báo kết quả phân tích các chỉ tiêu VSATTP cho Cơ quan gửi mẫu.
Chương V
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 22. Hiệu lực thi hành
Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký.
Điều 23. Sửa đổi, bổ sung
Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc, các đơn vị báo cáo về Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, sửa đổi, bổ sung.
BỘ TRƯỞNG
Cao Đức Phát
24
Danh mục phát hành Bản tin Đối thoại chính sách và DN
I. Nhóm hỗ trợ phát triển quốc tế (ISG) của bộ nông nghiệp 1. TS. Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ NN và PTNT, Chủ tịch Ban điều hành ISG
2. TS. Lê Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ NN và PTNT; Phó Chủ tịch Ban
điều hành
3. Ông Lã Văn Lý, Cục trưởng Cục Hợp tác xã và PTNT, Bộ NN và PTNT
4. Ông Trang Hiếu Dũng, Vụ trưởng Kế hoạch, Bộ NN và PTNT
5. Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN và PTNT
6. Ông Nguyễn Đăng Vang, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN và PTNT
7. Ông Nguyễn Ngọc Bình, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN và PTNT
8. Ông Phạm Xuân Sử, Cục trưởng Cục Thuỷ lợi, Bộ NN và PTNT
9. Ông Vũ Trọng Hà , Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ NN và PTNT
10. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Cán bộ xây dựng chính sách, Văn phòng liên lạc IFAD
11. Ông Nguyễn Văn Thân, Q.Vụ trưởng Vụ Tài chính, Bộ NN và PTNT
12. Ông Triệu Văn Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ NN và PTNT
13. Ông Đào Quang Thu, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
14. Bà Nguyễn Hồng Yến, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Đối ngoại, Bộ Tài chính
II. Viện Chính sách và Chiến lược NNPTNT (IPSARD) 1. TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng IPSARD
2. TS. Nguyễn Đình Long, Viện phó IPSARD,
3. TS. Dương Ngọc Thí, Viện phó IPSARD
4. Các phòng ban/đơn vị trực thuộc IPSARD
III. Cơ quan hợp tác quốc tế Tây Ban Nha 1. Ban quản lý dự án Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa SMEs- Tây Ban Nha
IV. Các hiệp hội 1. Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam (varisme)
2. Hiệp hội DN NVV Việt Nam (vinasme)
3. Hiệp hội ngành hàng (cà phê, hồ tiêu, thủy sản, chăn nuôi, lương thực,…)
4. Hiệp hội làng nghề
V. Doanh nghiệp (đối tác thông tin của AGROINFO và các Doanh nghiệp có quan tâm) VI. Các đối tác khác có liên quan trong nội dung bản tin