rỪng xÀ nu (nguyỄn trung thÀnh) -...

34
RỪNG XÀ NU (NGUYỄN TRUNG THÀNH) I/ Tìm hiểu chung về tác phẩm: 1. Tác giả: Tên thật: Nguyễn Văn Báu.. Bút danh: Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim. Thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký. 2, Các tác phẩm: - Đất nước đứng lên (1956) - Mạch nước ngầm (1960) - Rẻo cao (1961) - Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969) - Đất Quảng (1971 – 1974 Giải thưởng văn chương: Giải nhất về tiểu thuyết trong Giải thưởng văn học 1954-55 của Hội Văn nghệ Việt Nam cho tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001. 1. Xuất xứ - Rừng nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trờn quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Hoàn cảnh ra đời: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-neđược kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời đen tối. - Đầu năm 1965, đổ quân ạt vào miền Nam tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Nguyễn Trung Thành các nhà văn miền Nam lúc đó muốn viết " hịch

Upload: others

Post on 06-Sep-2019

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

RỪNG XÀ NU (NGUYỄN TRUNG THÀNH)

I/ Tìm hiểu chung về tác phẩm:

1. Tác giả:

Tên thật: Nguyễn Văn Báu..

Bút danh: Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim.

Thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký.

2, Các tác phẩm:

- Đất nước đứng lên (1956)

- Mạch nước ngầm (1960)

- Rẻo cao (1961)

- Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969)

- Đất Quảng (1971 – 1974

Giải thưởng văn chương:

Giải nhất về tiểu thuyết trong Giải thưởng văn học 1954-55 của Hội Văn nghệ Việt

Nam cho tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”.

Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

1. Xuất xứ

- Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng

miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trờn quê hương

những anh hùng Điện Ngọc.

Hoàn cảnh ra đời:

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-nevơ được kí kết, đất nước chia

làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi

khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối.

- Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt

ra

miền Bắc. Nguyễn Trung Thành và các nhà văn miền Nam lúc đó muốn viết "

hịch

thời đánh Mĩ ". Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong

không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến

trường miền Trung Trung bộ.

- Mặc dù Rừng xà nu viết về sự kiện nổi dậy của buôn làng Tây Nguyên trong

thời kì đồng khởi trước 1960 nhưng chủ đề tư tưởng của tác phẩm vẫn có quan hệ

mật thiết với tình hình thời sự của cuộc kháng chiến lúc tác phẩm ra đời.

2.Tóm tắt tác phẩm:

Làng Xôman ở trong tầm đại bác của giặc, đạn đại bác tàn phá rừng xà nu nhưng

cũng như những người Xôman, rừng xà nu vẫn kiên cường bất khuất. Tnú về thăm

làng sau ba năm đi lực lượng. Nhân Tnú trở về, cụ Mết đã kể cho dân làng nghe về

cuộc đời Tnú.

Hồi đó, Mĩ Diệm khủng bố dã man nhưng dân làng vẫn tìm cách nuôi giấu cán bộ.

Tnú được anh Quyếtcán bộ cách mạng dìu dắt. Tnú học chữ và làm liên lạc. Tnú

bị bắt và bị giam cầm, tra tấn. Anh vượt ngục trở về, cùng dân làng chuẩn bị vũ

khí chiến đấu. Bọn giặc ập tới khủng bố. Mai và đứa con vừa tròn tháng tuổi bị

giặc bắt. Trước cảnh vợ con anh bị hành hạ dã man, từ nơi ẩn nấp, Tnú lao ra với

sức mạnh của lòng căm thù. Tnú bị bắt, vợ con anh bị giết chết, giặc đốt mười đầu

ngón tay anh. Dân làng vùng lên cứu anh và giết bọn ác ôn. Rồi Tnú gia nhập lực

lượng vũ trang và tìm giết những thằng Dục với mười ngón tay cụt.

- Sáng hôm sau, cụ Mết và Dít đưa tiễn Tnú đi trước cánh rừng xà nu nối tiếp nhau

chạy đến chân trời.

3.Cốt truyện và cách tổ chức bố cục tác phẩm:

+ Rừng xà nu được kể theo một lần về thăm làng của Tnú sau 3 năm đi bộ đội.

Đêm ấy, dân làng quây quần bên bếp lửa nhà rông nghe cụ Mết kể lại câu chuyện

bi tráng về cuộc đời Tnú và cuộc đời làng Xô Man.

+ Rừng xà nu là sự lồng quyện hai cuộc đời: cuộc đời Tnú và cuộc đời làng Xô

Man. Hai cuộc đời ấy đều đi từ bóng tối đau thương ra ánh sáng của chiến đấu và

chiến thắng, đi từ hai bàn tay không đến hai bàn tay cầm vũ khí đứng lên dùng bạo

lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng.

+ Cốt truyện Rừng xà nu căng ra trong xung đột quyết liệt một mất một còn giữa

một bên là nhân dân, một bên là kẻ thù Mĩ-

Diệm. Xung đột ấy đi theo tình thế đảo

ngược mà thời điểm đánh dấu là lúc ngọn lửa của lòng căm thù ngùn ngụt cháy

trên 10 đầu ngón tay Tnú.

4.Ý nghĩa nhan đề của truyện ngắn “ Rừng xà nu”:

+ Nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm của mình là "làng Xô Man" hay đơn giản

hơn là "Tnú"- nhân vật chính của truyện. Nhưng nếu như vậy tác phẩm sẽ mất đi

sức khái quát và sự gợi mở.

+ Đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu dường như đã chứa đựng được cảm xúc của

nhà văn và linh hồn tư tưởng chủ đề tác phẩm.

+ Hơn nữa, Rừng xà nu còn ẩn chứa cái khí vị khó quên của đất rừng Tây Nguyên,

gợi lên vẻ đẹp hùng tráng, man dại- một sức sống bất diệt của cây xà nu và tinh

thần bất khuất của con người Tây Nguyên..

+ Bởi vậy, Rừng xà nu mang nhiều tầng nghĩa bao gồm cả ý nghĩa tả thực lẫn ý

nghĩa tượng trưng. Hai lớp ý nghĩa này xuyên thấm vào nhau toát lên hình tượng

sinh động của xà nu, đưa lại không khí Tây Nguyên rất đậm đà cho tác phẩm.

5.Chủ đề của truyện ngắn “ Rừng xà nu”

Thông qua câu chuyện về những con người ở một buôn làng hẻo lánh, bên những

cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn

lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi

trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí

đứng chống lại kẻ thù tàn ác.

6.Hình tượng rừng xà nu:

+ Mở đầu tác phẩm, nhà văn tập trung giới thiệu về rừng xà nu, một rừng xà nu cụ

thể được xác định rõ: "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", nằm trong sự hủy diệt

bạo tàn: "Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn".

Truyện mở ra một cuộc đụng độ lịch sử quyết liệt giữa làng Xô Man với bọn Mĩ-

Diệm. Rừng xà nu cũng nằm trong cuộc đụng độ ấy. Từ chỗ tả thực, rất tự nhiên

hình ảnh xà nu đã trở thành một biểu tượng. Xà nu hiện ra với tư thế của sự sống

đang đối diện với cái chết, sự sinh tồn đối diện với sự hủy diệt.

-> Cách mở của câu chuyện thật gọn gàng, cô đúc mà vẫn đầy uy nghi tầm vóc.

+ Với kĩ thuật quay toàn cảnh, Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ra: "cả rừng xà

nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương". Tác giả đã chứng kiến nỗi

đau của xà nu: "có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một

trận bão".

Rồi "có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người bị đạn đại bác chặt đứt làm

đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loóng, vết thương không lành

được cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết".

Các từ ngữ: vết thương, cục máu lớn, loét mãi ra, chết,… là những từ ngữ diễn tả

nỗi đau của con người. Nhà văn đó mang nỗi đau của con người để biểu đạt cho

nỗi đau của cây. Do vậy, nỗi đau của cây tác động đến da thịt con người gợi lên

cảm giác đau đớn.

+ Nhưng tác giả đã phát hiện được sức sống mãnh liệt của cây xà nu: "trong rừng

ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy". Đây là yếu tố cơ bản để xà nu vượt

qua giới hạn của sự sống và cái chết. Sự sống tồn tại ngay trong sự hủy diệt:

"Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đó có bốn năm cây con mọc lên". Tác giả sử

dụng cách nói đối lập (ngã gục- mọc lên; một- bốn năm) để khẳng định một khát

vọng thật của sự sống. Cây xà nu đã tự đứng lên bằng sức sống mãnh liệt của

mình: "…cây con mọc lên, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Xà nu đẹp

một vẻ đẹp hùng tráng, man dại đẫm tố chất núi rừng.

Xà nu không những tự biết bảo vệ mình mà còn bảo vệ sự sống, bảo vệ làng Xô

Man: "Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng".

Hình tượng xà nu chứa đựng tinh thần quả cảm, một sự kiêu hãnh của vị trí đứng

đầu trong bão táp chiến tranh.

- Trong quá trình miêu tả rừng xà nu, cây xà nu, nhà văn đã sử dụng nhân hóa

như một phép tu từ chủ đạo. Ông luôn lấy nỗi đau và vẻ đẹp của con người l

àm chuẩn mực để nói về xà nu, khiến xà nu trở thành một ẩn dụ cho con ngư

ời, một biểu tượng của Tây Nguyên bất khuất, kiên cường. Các thế hệ con n

gười làng Xụ Man cũng tương ứng với các thế hệ cây xà nu.

- Cụ Mết cớ bộ ngực "căng như một cây xà nu lớn", tay "sần sùi như vỏ cây

xnu Cụ Mết chính là cây xà nu cổ thụ hội tụ tất cả sức mạnh của rừng xà nu.

Tuỳ cường tráng như một cây xà nu được tôi luyện trong đau thương đã trưởng

thành mà không đại bác nào giết nổi.

- Dít trưởng thành trong thử thách với bản lĩnh và nghị lực phi thường cũng gi

ống như xà nu phóng lên rất nhanh tiếp lấy ánh mặt trời.

- Còn bé Heng là mầm xà nu đang được các thế hệ xà nu trao cho những tố ch

ấtcần thiết để sẵn sàng thay thế trong cuộc chiến cam go còn có thể phải kéo

dài "năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa".

* Câu văn mở đầu được lặp lại ở cuối tác phẩm (đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa

đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân

trời) gợi ra cảnh rừng xà nu hùng tráng, kiêu dũng và bất diệt, gợi ra sự bất diệt,

kiêu dũng và hùng tráng của con người Tây Nguyên núi rừng và con người Việt

Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. Ấn tượng đọng

lại trong kí ức người đọc mãi mãi chính là cái bát ngát của cánh rừng xà nu kiêu

dũng đó.

7. Cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man.

Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác

giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tnú có cuộc đời tư nhưng không được quan

sát từ cái nhìn đời tư. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư

của Tnú.

+ Phẩm chất, tính cách của người anh hùng:

- Gan gúc, táo bạo, dũng cảm, trung thực (khi còn nhỏ cùng Mai vào rừng tiếp tế

cho anh Quyết).

- Lòng trung thành với cách mạng được bộc lộ qua thử thách (bị giặc bắt, tra tấn,

lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành).

- Số phận đau thương: không cứu được vợ con, bản thân bị bắt, bị tra tấn (bị đốt

10 đầu ngón tay).

Quật khởi đứng dậy cầm vũ khí tiêu diệt bọn ác ôn.

+ "Tnú không cứu được vợ con"- cụ Mết nhắc tới 4 lần để nhấn mạnh: khi chưa

cầm vũ khí, Tnú chỉ có hai bàn tay không thì ngay cả những người thương yêu

nhất Tnú cũng không cứu được. Câu nói đó của cụ Mết đã khắc sâu một chân lí:

chỉ có cầm vũ khí đứng lên mới là con đường sống duy nhất, mới bảo vệ được

những gì thân yêu, thiêng liêng nhất. Chân lí cách mạng đi ra từ chính thực tế máu

xương, tính mạng của dân tộc, của những người thương yêu nên chân lí ấy phải

ghi tạc vào xương cốt, tâm khảm và truyền lại cho các thế hệ tiếp nối.

+ Số phận của người anh hùng gắn liền với số phận cộng đồng. Cuộc đời Tnú đi từ

đau thương đến cầm vũ khí thì cuộc đời của làng Xô Man cũng vậy.

- Khi chưa cầm vũ khí, làng Xô Man cũng đầy đau thương: Bọn giặc đi lùng như

hùm beo, tiếng cười "sằng sặc" của những thằng ác ôn, tiếng gậy sắt nện "hự hự"

xuống thân người. Anh Xút bị treo cổ. Bà Nhan bị chặt đầu. Mẹ con Mai bị chết

rất thảm. Tnú bị đốt 10 đầu ngón tay.

- Cuộc sống ngột ngạt dồn nén đau thương, căm thù. Đêm Tnú bị đốt 10 đầu ngón

tay, làng Xụ Man đã nổi dậy "ào ào rung động", "xác mười tên giặc ngổn ngang",

tiếng cụ Mết như mệnh lệnh chiến đấu: "Thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên!"

Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng. Câu chuyện về cuộc đời

một con người trở thành câu chuyện một thời, một nước. Như vậy, câu chuyện về

cuộc đời Tnú đã mang ý nghĩa cuộc đời một dân tộc. Nhân vật sử thi của Nguyễn

Trung Thành gánh trên vai sứ mệnh lịch sử to lớn.

8. Vai trò của các nhân vật: cụ Mết, Mai, Dít, Heng.

+ Cụ Mết, Mai, Dít, bộ Heng là sự tiếp nối các thế hệ làm nổi bật tinh thần bất

khuất của làng Xô Man núi riêng, của Tây Nguyên nói chung.

+ Cụ Mết "quắc thước như một cây xà nu lớn" là hiện thân cho truyền thống

thiêng liêng, biểu tượng cho sức mạnh tập hợp để nổi dậy đồng khởi.

+ Mai, Dít là thế hệ hiện tại. Trong Dít có Mai của thời trước và có Dít của hôm

nay. Vẻ đẹp của Dít là vẻ đẹp của sự kiên định, vững vàng trong bão táp chiến

tranh.

+ Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc chiến tới thắng lợi cuối

cùng.

Dường như cuộc chiến khốc liệt này đòi hỏi mỗi người Việt Nam phải có sức trỗi

dậy của một Phù Đổng Thiên Vương

II. Một số bài văn mẫu :

Đề văn 1: Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn

Trung Thành.

Dàn bài chi tiết

A. Mở bài.

1. Giới thiệu một vài nét ngắn về tác giả, tác phẩm.

- Nguyễn Trung Thành là bút danh của Nguyễn Ngọc trong thời chống Mĩ.

- “Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc về đề tài Tây Nguyên, lần đầu tiên

xuất hiện trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền Trung Trung bộ, số 2 năm

1965.

2. Giới thiệu nội dung của luận đề.

Truyện kể về cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man chống Mỹ – Diệm khát

máu, từ bí mật đến vũ trang vì chân lí lịch sử và cách mạng: “Chúng nó đã cầm

súng, mình phải cầm giáo”. Qua đó, Nguyễn Trung Thành đã sáng tạo nên hình

tượng cây xà nu kì vĩ và nhân vật Tnú mang tầm vóc dũng sĩ phi thường.

B. Thân bài.

1. Tnú là một con người trung thành, mưu trí, bất khuất và vô cùng dũng cảm.

- Ngay từ thời còn nhỏ, Tnú đã cùng Mai vào rừng tiếp tế, nuôi giấu anh

Quyết cán bộ Đảng “nằm vùng”, và học chữ. Tnú đã đi ba ngày đường tới núi

Ngọc Linh mang về một xà lét đầy đá trắng làm phấn. Đó là lòng “khát chữ” để

vươn lên làm người và vươn tới ánh sáng cách mạng của anh, của người Strá quê

anh.

- Học chữ thì Tnú không bằng Mai, nhưng đi giao liên thì đầu anh “sáng lạ

lùng”. Giặc vây các ngả đường, Tnú leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi

“xé rừng mà đi”, lọt qua tất cả các vòng vây. Qua sông, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà

bơi ngang, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Tnú biết là chỗ nước mạnh

giặc “không ngờ”. Thật là mưu trí.

- Bị giặc phục kích, họng súng giặc “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú nuốt luôn

cái thư bí mật của anh Quyết gửi về huyện. Giặc tra tấn dã man. Chúng giải anh về

làng, bắt Tnú khai người nào là cộng sản. Anh đặt tay lên bụng mình nói: “Ở đây

này!”. Lưng anh đầy những vết dao chém của lũ giặc. Tnú đã bất khuất hiên ngang,

trung thành vô hạn với cách mạng. Anh có bao giờ quên lời cụ Mết dạy: “Cán bộ là

Đảng, Đảng còn, núi nước này còn!”.

- Sau 3 năm bị tù ở ngục Kông Tum, Tnú vượt ngục trở về làng. Cả làng vui

mừng đón anh ở nhà ưng. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho cả làng nghe.

Lần thứ hai anh lại đi ba ngày lên núi Ngọc Linh, không lấy đá trắng làm phấn mà

mang về một gùi nặng đá mài. Cả làng Xô Man, ngày thì phát rẫy, đêm đêm mài

vũ khí. Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Với lũ giặc, với thằng Dục ác ôn thì Tnú

là “con cọp” nếu không giết sớm, nay nó làm loạn rừng này rồi!.

Nguyễn Trung Thành đã đặt nhân vật vào một tình huống khốc liệt nhất để

tô đậm tính cách anh hùng của Tnú. Thằng Dục kéo một tiểu đội về làng Xô Man.

Ngọn roi của giặc không từ một ai. Tiếng kêu khóc dậy làng. Xảo quyệt, nham

hiểm, thằng Dục bắt mẹ con Mai, với âm mưu bắt “cọp cái và cọp con” để “dụ cọp

đực”! Mẹ con Mai bị đánh chết bằng trận mưa cây sắt. Chỉ có hai bàn tay không,

Tnú nhảy xổ vào lũ giặc để cứu vợ con. “Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim

chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Anh nguyền rủa lũ giặc là “Đồ ăn thịt

người!”. Hai mắt Tnú là “hai cục lửa lớn”. Tnú bị giặc bắt, trói bằng dây rừng.

Thằng Dục ác ôn đã dùng giẻ tẩm nhựa xà nu tra tấn anh. Mười ngón tay Tnú đã

thành mười ngọn đuốc. Lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng! Máu anh mặn chát

ở đầu lưỡi. Tnú “cắn nát môi” chịu đựng. Tnú lẫm liệt hiên ngang “không thèm

kêu van!”. Khí phách hiên ngang bất khuất của Tnú như một khúc tráng ca anh

hùng mang màu sắc sử thi thần kì.

2. Tnú có một trái tim sục sôi căm giận và yêu thương.

- Cụ Mết và đội du kích tràn lên nhà ưng giết hết sạch bọn ác ôn, cứu sống

được Tnú. Vết thương lành, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng Tnú còn cầm được

giáo, bắn súng được, anh lại đi tìm cách mạng, gia nhập Giải phóng quân, đi tìm

Mỹ – Diệm, để trả thù cho mẹ con Mai, cho bà con làng Xô Man. Anh đã xông

xuống hầm ngầm đồn giặc, không dùng súng, không dùng dao, mà dùng hai bàn

tay, mười ngón tay cụt bóp cổ thằng chỉ huy! Với Tnú, “chúng nó đứa nào cũng là

thằng Dục!”. Tnú ra đi đánh giặc với ý thức “Đi trả thù mà không sợ dài lâu!”

(“Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm).

- Nguyễn Trung Thành đã miêu tả nhịp chày giã gạo nói lên thật xúc động

tình yêu làng của Tnú. Từ xa, anh đã nhận ra “tiếng chày dồn dập của làng anh”.

Đã 3 năm nay, “nỗi nhớ day dứt lòng anh chính là tiếng chày đó”, tiếng chày

“chuyên cần rộn rã” của mẹ anh xa xưa, của những người đàn bà và những cô gái

Strá, của Mai và Dít, “từ ngày lọt lòng anh ta đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi”. Vì

căm giận mà Tnú đi đánh giặc, vì yêu thương, vì nhớ làng, nhớ tiếng chày giã gạo

nơi chôn nhau cắt rốn mà anh trở về thăm làng, chỉ một đêm thôi, rồi anh lại ra đi

với bao lưu luyến.

3. Tnú là người anh hùng của bộ tộc, của quê hương.

- Số phận và cuộc đời đau thương, bất khuất của Tnú gắn liền với vận mệnh

sống còn của dân làng Xô Man, là niềm tự hào của quê hương. Như cụ Mết già

làng đã nói: “Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man

này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.

- Tnú là một nhân vật điển hình cho số phận và con đường của nhân dân

trong cuộc chiến đấu vì tự do, vì thống nhất Tổ quốc. Nhân vật Tnú đã tô đậm màu

săc sử thi huyền thoại truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.

C. Kết bài

- Câu chuyện về cuộc đời và hình ảnh của Tnú, của bao dũng sĩ làng Xô

Man đã tái hiện không khí bi hùng của một giai đoạn lịch sử đánh Mỹ thắng Mỹ

đầy tự hào của dân tộc.

- “Rừng xà nu” là một truyện ngắn đặc sắc nhất viết về đề tài Tây Nguyên.

Nó là biểu tượng chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kết tinh giá trị nghệ thuật cao,

sáng ngời tính sử thi làm rung động lòng người. Nó là “câu chuyện một đời được

kể trong một đêm” của một dân tộc, một thời đại oanh liệt và bi tráng.

BÀI VĂN THAM KHẢO

I .Mở bài

Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mĩ . Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên

hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam . Truyện ngăn Rừng xà nu là tác

phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật

Tnú , người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể

nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng

chiến chống Mĩ gay go , ác liệt .

II . Thân bài

Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải

phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương

những anh hùng Điện Ngọc.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước

chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi

khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ

ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết

vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm

được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.Thông qua

câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những

cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn

lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi

trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí

đứng chống lại kẻ thù tàn ác

Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu

chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết.Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời

làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này.

Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú .Tnú được xây

dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng . Nhà văn lấy nguyên mẫu

từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên . Năm 1959, anh Đề đã cùng

mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc

chiến đấu vũ trang.

Tnú là con của dân làng Xô Man . Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc

anh, cưu mang anh . “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man

này nuôi nó . Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” . Chính tình

thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống , tin vào

chính mình , gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương , với những gì thân thuộc như

tiếng chày giã gạo của những cô gái , con nước mát lạnh đầu bản , những cụ già ,

những em nhỏ , …sau ba năm đi lực lượng , được về thăm làng , Tnú thấy bồi hồi ,

xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương .

Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ,

làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện . Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn

người . “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên

mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước

êm thàng Mĩ - Diệm hay phục , qua chỗ nước mạnh nó không ngờ” . Giặc vây các

ngả dường thì Tnú leo lên một cây cao , nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà di , lọt

qua tất cả các vòng vây . Tnú nghe theo anh Quyết , cố học chữ để sau này thay

anh lãnh đạo cách mạng . Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong

hành động tự đạp hòn đá vào đầu , máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc

nhớ những con chữ . Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết : Cán

bộ là Đảng , Đảng còn , núi nước này còn .

Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cach mạng , với Đảng , là

hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim,

là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả

kẻ thù . Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn . Tnú không hề biết sợ hãi , không

hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém

ngang dọc trên lưng . Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện , Tnú

bị giặc bắt . Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt , Tnú kịp nuốt luôn cái thư . Giặc

giam cầm , tra khảo Tnú dã man , lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh

quyết không khai một lời . Anh tìm cách vươt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp

lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu . Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi

sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng

nhìn , của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ .

Vậy mà bằng ấy cái có , Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù

giết hại . Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh

gánh chịu . Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của

dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao

đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù . Mai và con anh bị kẻ

thù giết chết ngay trước mắt anh . Tnú không cứu được vợ, được con , đau đớn hơn

chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng

. Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí . Hình ảnh mười đầu

ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa

tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà

còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì

ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê

hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng

ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy .Tnú không cứu được mẹ con Mai .

Không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng .

Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát , anh biết vượt qua nỗi đau

ấy , biến đau thương thành căm hơn và tôi luyện ý chí chiến đấu . Bị giặc bắt sau

khi Mai chết , Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục

lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh . Chỉ còn cách cầm vũ khí , lúc

đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú . Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn

ngang . Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động . “Chúng nó đã cầm súng, mình phải

cầm giáo …” . Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam : phải dùng bạo lực

cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.

Sau khi được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và

buôn làng mài , Tnú gia nhập lực lượng chính quy . Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng

cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó . Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo”

mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược

. Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà . Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt,

nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được . Anh đi bộ đội, trở thành tấm

gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man . Đối với dân làng, Tnú là một

biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí . Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần,

Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên . Mỗi một việc làm của anh đều

đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi . Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một

đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành

nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú . Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định

đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời

nói , một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống

và tinh thần của người dân Xô Man .

Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu

tả đôi bàn tay của anh . Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không

những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật . Khi còn lành lặn, bàn tay

Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ

dạy , bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ , bàn tay

đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây … Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay

của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân

vật . Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt . “Mười ngón tay

anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy

trong lồng ngực, cháy ở trong bụng . Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi” . Chứng kiến

cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế

được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của

dân làng . Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và

như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác

phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết

tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm .Như vậy , có thể nói bàn tay Tnú

được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện . Dường như mọi nét tính cách cũng

như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy .

III . Kết bài

Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng

bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng , là kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân

Tây Nguyên . Qua nhân vật này Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện một số phận

nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền Nam trong quá trình

đấu tranh giải phóng : cần phải dùng bạoc lực cách mạng để chống lại bạo lực phản

cách mạng .

Đề số 2 :Hình tượng Rừng xà nu – Biểu tượng của sự bất diệt

( Bài văn điểm 10 năm 2006 ĐH Đà Nẵng, TS Hoàng Thuỳ Nhi ( Câu 3 điểm)

Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây

Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi

đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về

mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con

trung dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành

- bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm

kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của

nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra

mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca

ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật

hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.

Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn

“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp

những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây

quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà

nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học

chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội...”. Tất cả mọi hoạt

động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu.

Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu.

Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó

bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và

xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi

vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí

căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi

bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm

nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham

ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít

có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn

được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.

Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh

rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng

vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang

nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề,

thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện

thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến

tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục

đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên

bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom

đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt

đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang,

kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn

của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.

Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng

lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở

đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối

chiếu sóng đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây

ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi

theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu

cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây

Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu

người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao

nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách

miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung

Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ

hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.

Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt

Nam vẫn ý thức được rằng:

“Gươm nào chia được dòng Bến Hải

Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn

Căm hờn lại giục căm hờn

Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”

Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng

của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những

bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên;

anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có TNú và Mai. Cứ

như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền

thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của

dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.

Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng

sững, đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với

cánh rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm

sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình,

thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để

họ có cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào

những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân

vô tội lầm than.

Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số

phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm

chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà

nu”. Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng

những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật

so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.

Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình

tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn,

mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm

cho nền văn học dân tộc.

Đề số 3 :Cảm nhận của anh (chị) về các nhân vật cụ Mết, Dít và bé Heng

trong truyện ngắn Rừng xà nu.

Dàn bài gợi ý (Gợi ý)

Mở bài:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm và các nhân vật cụ Mết, Dít và bé Heng.

Thân bài:

- Ý 1: Nhân vật cụ Mết:

a) Cụ Mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man. Lịch sử chiến đấu của làng,

qua lời kể của cụ Mết, thấm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ

và hiện tại, là pho sử sống của làng.

b) Tấm lòng của cụ Mết với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán

bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân

làng Xô Man, từ thanh niên, ông già bà già đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ:

năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.

c) Cụ Mết là linh hồn của làng Xô Man. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi.

Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất

tiếng nói vang vang như một lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù…thật rực

rỡ như một trang sử thi anh hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên!...”.

Từ ngày ấy làng Xô Man trở thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ

của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.

- Ý 2: Nhân vật Dít:

a) Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ,

trưởng

Trong thời gian dân làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ

Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào trong rừng. Chỉ có con Dít nhỏ, nhanh lẹ cứ

sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên.

Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắn doạ, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất xung

quanh hai chân nhỏ…đôi mắt nó thì vẫn bình thản…

Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc

vì cái chết của Mai thì Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh. Tất cả chi

tiết trên thể hiện tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi thường của Dít, biết dồn

nén đau thương để nung nấu lòng căm thù. Như những người con bất khuất của

làng Xô Man, Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù, để quyết

tâm chiến đấu tiêu diệt chúng.

b) Dít rất giàu tình cảm thương yêu.

Khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã hội. Như

ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong

lòng rất vui mừng, Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy phép của anh. Rồi

từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi là anh, xưng em tự nhiên, như

người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và bày tỏ tình thân thiết: “Sao anh về

có một đêm thôi?…Bọn em đứa nào cũng nhắc anh mãi”.

- Ý 3: Nhân vật bé Heng.

a) Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang

củi, chỉ mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé

Heng trưởng thành, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ người lính, một chiến sĩ du

kích của bản làng. Làng Xô Man giờ đây thành làng chiến đấu, và con đường vào

làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé

Heng đã góp phần không nhỏ vào việc thiết lập những công sự này, nên tỏ ra rất

hãnh diện.

b) Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn

xanh thẳm, thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình

nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời, sẽ phát triển đến đâu chưa ai lường được…

- Ý 4: Khái quát về các nhân vật: đại diện cho các thế hệ của các dân tộc Tây

Nguyên trong cuộc chiến đấu chống Mĩ.

Kết bài:

Khái quát về tác phẩm Rừng xà nu.

Đề số 4 : Anh /chị hãy phân tích những vẻ đẹp khác nhau của các thế hệ người

Tây Nguyên thời đánh Mỹ trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn

Trung Thành.

I/Mở bài:

“Tây Nguyên ơi, cây rừng bao nhiêu lá…có hoa nào đẹp nhất rừng…”

- Ai đã từng lắng nghe tiếng hát ấy trong những tháng ngày sôi sục thời đánh

Mỹ! Ai đã từng biết đến hoa Pơlang – lòai hoa tươi đẹp nhất của núi rừng Tây

Nguyên có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm mát đến hàng vạn năm đã được nói đến

trong sử thi ĐămSăn! Tiếng hát ấy, loài hoa ấy còn đem đến cho ta bao xúc

động,bồi hồi khi nghĩ tới nhữngphẩm chất anh hùng của các nhân vật trong

truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành- một kiệt tác được sáng tác

vào năm 1965, viết về các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đau thương mà kiên

cường, bất khuất thời đánh Mỹ.

II/ Thân bài:

Thật vậy, đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta gặp được ở đó hình

ảnh của cả một buôn làng XôMan, từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà …đều

một lòng đi theo Cách mạng.Bất chấp sự uy hiếp tàn bạo của Mỹ-Diệm, dân làng

XôMan vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế,bảo vệ cán bộ Đảng.Suốt 5 năm, chưa hề có

một cán bộ nào bị giặc bắt hay giết trong rừng của làng XôMan.Đó là niềm tự hào

và đó cũng là phẩm chất anh hùng, trung dũng của người Strá.Có thể nói,mỗi

người dân XôMan, từ già đến trẻ …đều là một chiến sĩ.Tiêu biểu cho tập thể nhân

dân anh hùng ấy là những hình ảnh tiêu biểu cho từng thế hệ.

Trước hết, là cụ Mết, một cụ già làng 60 tuổi, thủ lĩnh tinh thần của người

dân Xô Man.Cụ xuất hiện với một dáng hình oai phong, lẫm liệt : “ râu dài tới

ngực, mắt vẫn sáng và xếch ngược. Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà

nu lớn...”.Tiếng nói của cụ “ồ ồ dội vang trong lồng ngực”.Tinh cách dứt khoát:

chỉ một lời khen “Được!” của ông cụ cũng làm cho mọi người hả dạ.. là đại diện

của quần chúng, là các gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc “cán bộ là Đảng,

Đảng còn núi nước này còn”; “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm

giáo”. Trong những giờ phút trọng đại nhất giữa cáci chết và cái sống, Cụ Mết đã

thay mặt Tnú lãnh đạo buôn làng nổi dậy đồng khởi, với“lưỡi mác dài trong

tay....thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết”.

Tóm lại, cụ Mết là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính

truyền thống và cội nguồn – là chỗ dựa tinh thần và là pho sử sống – là nhịp

cầu nối giữa quá khứ và hiện tại của các thế hệ người dân Tây Nguyên. Hình

ảnh cụ Mết trong đoạn cuối thể hiện rất rõ vị trí của con người này: “Thế là bắt

đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà,

mội người phải tìm lấy một cây dáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai

không có thì vót, không ....năm trăm cây chông. Đốt lửa lên”.

Tiếp nối cụ Mết là Tnú - một chàng trai dũng mãnh, là niềm tự hào của buôn

làng XôMan -nhân vật anh hùng, người con vinh quang của dân làng Xô Man

được nhà văn khắc họa bằng những đường nét độc đáo, giàu chất sử thi: TNú

là người Strá, “cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng

bụng nó sạch như nước suối làng ta”.h Tham gia liên lạc cho cách mạng từ

nhỏ, Tnú là một người gan góc và táo bạo, dũng cảm và thông minh, giàu tự

trọng (vào rừng cùng Mai tiếp tế cho anh Quyết, khi học chữ thua kém Mai thì lấy

đá đạp vào đầu, khi bị bắt và bị tra tấn đã chỉ tay vào bụng mình và nói: Cộng sản

ở đây...).Không những vậy, Tnú còn là một con người biết vươn lên mọi đau đớn

và bi kịch cá nhân: Chứng kiến kẻ thù giết vợ con trong nỗi đau đớn và xót xa vô

cùng Anh đã bất chấp sự can ngăn của cụ Mết xông ra giữa vòng vây của kẻ thù để

cứu vợ con. Bị bắt, Tnú chịu đựng sự tra tấn man rợ của kẻ thù, hai bàn tay bị đốt

cháy, “mười ngón tay đã trở thành mười ngọn đuốc” anh vẫn không kêu van... Sau

đó anh vẫn tham gia bộ đội để giết giặc trả thù cho người thân và quê hương. Tnú

có tính kỉ luật cao: Tuy nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng phải được cấp trên cho

phép mới về, và chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy phép.Anh còn là

người giàu tình thương yêu đối với mọi người; là con người chung của dân làng

Xô Man, của dân Strá (cảnh Tnú trở về được người dân: già, trẻ, lớn, bé đón chào,

yêu mến...).

Có thể nói, Tnú là điển hình cho số phận và con đường Cách mạng của dân

làng Xô Man; những phẩm chất đẹp đẻ của người anh hùng Tnú mang ý nghĩa

tiêu biểu cả làng Xô man từ già đến trẻ đều có những phẩm chất tương tự (gan dạ,

kiên trung, anh hùng, yêu nước...).Dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành,nhân

vật TNú mang một vẻ đẹp huyền thoại,đậm chất sử thi.

Cùng với TNú, là hình ảnh của Mai và Dít, tiêu biểu cho hình ảnh của người

phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mỹ.Thuở bé, Mai đã

vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ.Mai học chữ giỏi (ba tháng đọc được chữ,sáu

tháng làm được tóan hai con số).Khi trở thành người vợ, người mẹ, Mai đã dũng

cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ và chị đã bất khuất hy sinh trước những

trận mưa cây sắt của thằng Dục.

Còn Dít (em gái của Mai), là một cô gái gan dạ, có tinh thần trách nhiệm cao, có

bản lĩnh từ bé: liên lạc cho du kích, bị bắt, bị uy hiếp “đạn xượt qua tai, xém tóc,

cày đất xung quanh cho hai chân nhỏ...đôi mắt... vẫn nhìn bọn giặc bình thản...”

Dít chính là hiện thân và là sự tiếp nối của Mai: tự giác và quyết liệt trong cuộc

đối mặt với kẻ thù.

Đọc truyện “Rừng xà nu”, người đọc cũng không thể nào quên được hình

ảnh bé Heng .Đó là một chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc con đường và

những hầm chông, những ác chiến điểm của làng mình như thuộc lòng bàn tay

mình.Tuy chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, đóng vai trò của người dẫn đường,

nhưng hình của cậu bé lại hết sức ấn tượng.Bé Heng đã trưởng thành cùng với

cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng XôMan.Em chính là hình ảnh mang những

nét tương đồng với lứa cây xà nu mới lớn, mang trong mình bao sinh lực và

nhựa sống, hứa hẹn sẽ trở thành những cây xà nu mạnh mẽ và bất tử.

III/ Kết bài:

Tóm lại, với “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành đã rất thành công trong việc

khắc họa hình ảnh những nhân vật anh hùng, tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn

thời đại vừa đậm đà phong cách Tây Nguyên.

- Tác phẩm dào dạt cảm hứng sử thi. Những nhân vật đại diện cho cộng

đồng.....được ca ngợi bằng giọng văn say mê, trang trọng, hùng tráng. Cách xây

dựng hình tượng của nhà văn cũng độc đáo: Dùng hình tượng cây xà nu làm biểu

tượng cho sức sống mãnh liệt và sự tiếp nối của các thế hệ người dân Tây Nguyên

đứng lên đánh Mỹ.Từ cây xà nu đến con người, tất cả đều phi thường, đều mang

đậm phẩm chất anh hùng, tượng trưng cho khí phách và sức sống phi thường của

con người Tây Nguyên hùng vĩ.

Đề bài 5 : Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện ngắn

Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

Hướng dẫn :

1.Chủ đề tác phẩm và bối cảnh lịch sử trong truyện

a.Chủ đề:

Nỗi đau riêng đến xé lòng của cá nhân và nỗi đau chung lớn lao của bản làng, dân

tộc đã thôi thúc Tnú và dân làng Xô Man đồng khởi tiêu diệt quân cướp nước để tự

cứu mình cũng là góp phần giải phóng quê hương.

b.Bối cảnh lịch sử trong truyện:

Cuộc chiến tranh cục bộ bắt đầu ở miền Nam nước ta (1965). Thủy quân lục chiến

Mĩ ồ ạt đổ vào bãi biển Chu Lai (Quảng Nam). Kẻ thù quyết tiêu diệt bằng được

lực lượng cách mạng. Do đó, muôn người như một, thà chết chứ không chịu làm

nô lệ, nhân dân miền Nam đứng dậy dùng bạo lực trả lời bạo lực. Tại một làng nhỏ

ở Tây Nguyên, toàn thể dân làng “tức nước vỡ bờ” nên đồng tâm hiệp lực nổi dậy

tiêu diệt kẻ thù.

2. Tình cảm quê hương đất nước sâu nặng qua thiên truyện Rừng xà nu.

- Tình cảm yêu thương gắn bó với bản làng, với núi rừng Tây Nguyên của dân làng

Xô Man.

- Lòng căm thù giặc sâu sắc, không khuất phục trước kẻ thù.

- Trung thành với cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.

3. Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện.

a. Nhân vật cụ Mết:

Đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ cha anh đã trải nghiệm nhiều trong đấu tranh, giàu

kinh nghiệm khi đối diện với quân thù (từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng

chiến chống Mĩ).

b. Nhân vật anh Quyết: Là đại diện cho Đảng, là linh hồn của kháng chiến. Anh

đã đến, dìu dắt, hướng dẫn dân làng Xô Man giác ngộ cách mạng.

c. Nhân vật Tnú: Tiêu biểu cho số phận và ý chí của dân làng. Anh hăng hái đi

đầu trong phong trào đồng khởi, hiên ngang đối diện với kẻ thù, với cái chết.

d. Nhân vật Mai: Là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thanh niên.

e. Nhân vật Dít: Cũng như Mai, là đại diện cho thế hệ chủ lực đánh Mĩ ở Tây

Nguyên.

g. Nhân vật bé Heng: là một tiểu anh hùng, là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ

măng non của núi rừng Tây Nguyên.

Bài văn tham khảo khảo

Nguyễn Trung Thành là nhà văn quân đội, quê ở Quảng Nam. Năm 1950,

đang học bậc trung học phổ thông, ông gia nhập quân đội và lên hoạt động ở chiến

trường chính của Liên khu V (Tây Nguyên). Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu,

ông làm phóng viên báo Quân đội nhân dân Liên khu V và lấy bút danh Nguyên

Ngọc. Trong cả hai cuộc kháng chiến ông gắn bó mật thiết với chiến trường Tây

Nguyên. Nhà văn gần gũi thấu hiểu cuộc sống và tinh thần quật khởi, hiên ngang,

bất khuất, yêu chuộng hào bình hang hái tham gia cách mạng của đồng bào dân tộc

ít người ở nơi này. Đó cũng là nguyên do quan trọng dẫn đến thành công của tiểu

thuyết đầu tay Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu (Giải thưởng Nguyễn

Đình Chiểu, 1995). Đặc biệt, ở truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn thể hiện rất thành

công phẩm chất anh hùng của các nhân vật: cụ Mết, anh Quyết, Tnú, Mai, Dít, bé

Heng…

Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu bối cảnh lịch sử trong truyện. Cuộc chiến tranh

cục bộ bắt đầu ở miền Nam nước ta (1965). Thủy quân lục chiến Mĩ ồ ạt đổ bộ vào

bờ biển Chu Lai (Quảng Nam). Kẻ thù quyết tiêu diệt bằng được lực lượng cách

mạng. Chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn – nhất là chém giết không thương tiếc –

để gây đau đớn, tổn thất nặng nề cho đồng bào miền Nam. Do đó, muôn người như

một, thà chết chứ không chịu làm nô lệ, nhân dân miền Nam đứng dậy dùng bạo

lực trả lời bạo lực.

Tại một làng nhỏ ở Tây Nguyên, toàn thể dân làng “tức nước vỡ bờ” nên

đồng tâm hiệp lực nổi dậy tiêu diệt kẻ thù: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải

cầm giáo” (lời nhân vật cụ Mết).

Mặt khác, chúng ta còn cảm nhận được tình yêu quê hương, đất nước rất sâu

nặng qua thiên truyện Rừng xà nu. Đó là tình cảm yêu thương, gắn bó với bản

làng, với núi rừng Tây Nguyên của dân làng Xô Man. Đó là lòng căm thù giặc sâu

sắc, không khuất phục trước kẻ thù. Đó là lòng trung thành với cách mạng, tin

tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Nhiều người đi theo cách mạng

mà không hề sợ gian khổ, hi sinh, mất mát.

Hơn nữa, trong thiên truyện, nhiều nhân vật có phẩm chất anh hùng hiện lên

rất cao đẹp. Ở đây, chúng ta quan tâm đến sáu nhân vật.

Một là nhân vật cụ Mết. Cụ là người đại diện cho vẻ đẹp thế hệ cha anh đã

trải nghiệm nhiều trong đấu tranh, giàu kinh nghiệm khi đối diện với quân thù (từ

thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ). Cụ là người mưu trí,

sáng suốt. Cụ là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền

thống và cũng là cội nguồn của dân tộc Xô Man, của cộng đồng.. Chính cụ đã tìm

ra chân lí dùng bạo lực để đấu tranh tiêu diệt quân thù: “Chúng nó đã cầm súng,

mình phải cầm giáo”. Cụ là cái gạch nối giữa đồng bào và Đảng. Cụ đã thôi thúc,

lãnh đạo dân làng đứng lên quật khởi: “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên! Tất cả

người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây

giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm

cây chông. Đốt lửa lên!”.

Hai là nhân vật anh Quyết. Anh là đại diện của Đảng, là linh hồn của cuộc

đấu tranh. Anh đã đến, dìu dắt, hướng dẫn dân làng Xô Man giác ngộ cách mạng.

Sống ở rừng sâu nước độc nhưng anh không nề khổ nhọc. Anh hết lòng dạy Tnú và

Mai học chữ…Anh có quan niệm rất đúng đắn:“Không học chữ sao làm cán bộ

giỏi”. Chính anh đã góp phần đào tạo, giác ngộ được một anh hùng bất khuất Tnú

trong tương lai.

Ba là nhân vật Tnú. Anh tiêu biểu cho số phận và ý chí của dân làng. Anh

hang hái đi đầu trong phong trào đồng khởi, hiên ngang đối diện với kẻ thù, với cái

chết. Khi bị gặc bắt, lấy ra một nhúm giẻ lau đã tẩm dầu xà nu, quấn giẻ lên mười

đầu ngón tay Tnú, lấy lửa đốt, Tnú không kêu lên một tiếng nào mà trợn mắt nhìn

kẻ thù trừng trừng:

“Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong

lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chat ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi

anh rồi. Anh không kêu lên (…). Tnú không thèm, không them kêu van”. Hành

động chịu đựng ấy rất dũng cảm, ngoan cường, gan góc. Mặc dù phải chứng kiến

tận mắt kẻ thù giết hại vợ con. Mặc dù mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt nhưng Tnú

vừa vượt lên đau đớn, bi kịch cá nhân hang hái tham gia bộ đội Giải phóng để trả

thù cho quê hương và những người thân

Bốn là nhân vật Mai. Mai là đại diện cho vẻ đẹp thế hệ thanh niên. Tuy là

nữ giới nhưng đã sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng của Đảng. Phút lâm nguy, khi

giáp mặt với bầy lang sói hung tợn, chẳng chút run sợ. Cô “ngửng đôi mắt lớn nhìn

thằng Dục” để tỏ thái độ căm thù. Thằng Dục xem cô là “con mọi cộng sản”,

“con cọp cái”, là cơ sở để “dụ được con cọp đực trở về”. Nó cầm một cây gậy sắt

dài tra tấn đánh đập mẹ con Mai. “Trận mưa cây sắt mỗi lúc dồn dập”. Đến khi

trút hơi thở cuối cùng dưới bàn tay đẫm máu của bọn mặt người dạ thú cô vẫn một

mực trung thành với cách mạng, không khai báo nửa lời.

Năm là nhân vật Dít. Cũng như Mai, Dít là đại diện cho thế chủ lực đánh Mĩ

ở Tây Nguyên. Là cô bí thư chi bộ dũng cảm, gan góc không kém gì Tnú. Khi cả

làng bị giặc ở đồn Bắc Hà bao vây, không ai lọt ra được, ngoại trừ lúc ấy Dít còn

nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú

và thanh niên. Dít bị giặc bắt hi ở ngoài rừng về. Bọn giặc để Dít ở giữa sân, lên

đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai,

sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ. Cái váy của Dít rách tượt từng mảng. Dít

khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười thì chìu nước mắt, từ đó im bặt. Dít

đứng lặng giữa bọn lính. Cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ lại giật lên

một cái nhưng đôi mắt vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng. Vậy là, không khủng

bố được tinh thần Dít, bọn giặc đành chịu! Còn khi chị Mai và đứa con bị giặc giết

chết một cách dã man, mọi người, kể cả cụ Mết đều chứa chan nước mắt nhưng mà

Dít vẫn “lầm lì, không nói gì cả, măt ráo hoảnh”. Không phải là cô không thương

chị, thương cháu nhưng đó chỉ là cử chỉ nuốt hận trong lòng, nuôi khối hận ngày

một khôn lớn theo lứa tuổi của cô để một ngày kia, có cơ hội sẽ rửa thù! Khi lớn

lên, cô trở thành một bí thư chi bộ xã kiên cường.

Sáu là nhân vật bé Heng. Heng là một tiểu anh hùng, là đại diện cho vẻ đẹp

của thế hệ măng non núi rừng Tây Nguyên. Bé Heng « cũng ít nói như những

người dân làng Xô Man » nhưng bên trong chắc gì không âm ỉ mối thù giặc Mĩ

như thế hệ đàn anh ? Nó không sợ nguy hiểm. Nó là người dẫn đường cho Tnú về

thăm làng mà nếu không có nó, Tnú chẳng dám đi một mình. « Con đường ấy

chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút gặp một giàn thò (một loại bẫy)

chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chặt gãy đôi ống quyển,

lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh ». Khi tới chỗ « ác chiến điểm

» nó nhìn Tnú « cười một cách rất liếng », « mắt lóe lên một tia sáng nhỏ » bày tỏ

niềm tự hào mãnh liệt về công cuộc cách mạng của dân làng. Mai này trưởng

thành, chắn chắn bé Heng sẽ tiếp tục thế hệ cha anh.

Tóm lại, mỗi nhân vật trên đây đều có những vẻ đẹp anh hùng khác nhau

nhưng họ đều là những người đại diện cho nhân dân, cộng đồng. Họ là những hình

mẫu tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm

kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Đề số 6 : Tính sử thi trong tác phẩm Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành

I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chất sử thi của tác phẩm.

II. Thân bài

1.Khái niệm Sử thi

Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô

hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính chất toàn

dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc

mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc (như anh

hùng Rama trong Sử thi Ramayana; Hecto trong sử thi Iliat, Ôđixê của Hy

Lạp..v.v…Ở Việt Nam có người anh hùng Đam San trong Bài ca Đăm Săn của

người Ê Đê…)

Mỗi bộ sử thi chính là niềm tự hào to lớn của dân tộc đó. Sử thi thời cổ đại là thể

loại một đi không trở lại. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi nữa

nhưng cái không khí, tính chất của sử thi vẫn được người cầm bút mang vào trong

các sáng tác. Và chất sử thi đã làm nên giá trị, làm nên sức sống cho từng trang

viết, làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng. Một số truyện

ngắn tiêu biểu minh họa cho sự tồn tại của nền văn học sử thi trong Văn học Việt

Nam giai đoạn 1945 – 1975 như: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình,

Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi, truyện ngắn Rừng xà nu, tiểu thuyết

Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tiểu thuyết Hòn Đất của

Anh Đức…

2. Hoàn cảnh sử thi

Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương những anh

hùng Điện Ngọc. Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân

tham chiến ở miền Nam . Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi

quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt

tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược

đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả

lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai)

3. Chất sử thi thể hiện trong tác phẩm Rừng Xà Nu

Ý 1: Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ vừa đậm

chất thơ của núi rừng Tây Nguyên.

Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng

thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh

“cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau

chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến

tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.

Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trương, so sánh,

bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ:

- Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra.

- Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So

sánh với sức sống của con người Xô Man)

- Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời.

- Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả

dân làng”.

“Một cây ngã cả rừng cây lại mọc

Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”

(Nhà văn Nguyễn Trung Thành)

Người hi sinh đất hồi sinh

Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời

(Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng)

Ý 2 : Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xôman.

Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những cánh rừng

xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến sức sống mãnh liệt

không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt khác chúng ta lại khâm phục biết

bao người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người

anh hùng này cũng là biểu hiện chất “Sử thi”.

Tnú: Cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình, anh đã biến

đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ

nước.

- Tnú và chặng đường đầu của cách mạng (Nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc

bắt)

- Vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.

- Cùng một lúc phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị

giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)

- Hình tượng đôi bàn tay Tnú (đôi tay cần cù lao động, đôi tay chứng nhân tội ác

kẻ thù, đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…)

“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong

lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dân tộc Tây

Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh mẫu anh hùng dân tộc thấm

đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn

Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến

thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)

Ý 3. Tính cộng đồng trong tác phẩm:

Bên cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta

còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này,

những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô man. Mỗi con người là

một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống

mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những

em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất

chủ quyền dân tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:

- Đó là hình ảnh sum vầy, quây quần bên nhau, nương tựa vào nhau “cơm nước

xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng , dân làng lũ lượt

kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ già các cô gái, những đứa trẻ sum

tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc đời Tnú.

- Cụ Mết, thế hệ đi trước, một con người từng xông pha trong kháng chiến chống

Pháp, nay lại tiếp tục sứ mệnh tiếp thêm sức mạnh cho con cháu, là người chỉ

đường dẫn lối, là người truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ mai sau “chúng nó đã

cầm súng, mình phải cầm giáo”.

- Dít, một cô gái với lòng dũng cảm, sự thông minh, ấn tượng bởi “đôi mắt mở to

và bình thản”. Bình thản trước súng gươm của kẻ thù. Phẩm chất kìm nén đau

thương để biến thành hành động, nhanh chóng trở thành cô bí thư chi bộ, cấp chỉ

huy cao nhất của làng Xô Man.

- Rồi đến Heng “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc chiếc áo bà

ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực

sự.”, cũng dũng cảm, cũng nhanh nhẹn như Tnú. Cũng là một cây xà nu con mọc

lên, tiếp bước với cây lớn làm nên rừng xà nu, làm nên bản làng Xô man mạnh

mẽ.

Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già làng Mết, từ

già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua Dít, Dít chảy qua Heng,

Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc

thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn

không bao giờ lùi bước trước quân thù:

“Nước Việt Nam từ trong biển máu

Người vươn lên như những thiên thần”

(Tố Hữu)

“Nước Việt Nam từ trong máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

(Nguyễn Đình Thi)

Ý 4. Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng Xà Nu

- Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu

sắc sử thi truyền thống. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một khung cảnh

nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn cuốn hút về làng Xô man

bất khuất kiên cường.

- Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng

cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn

chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm.

- Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết

cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà

văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng

lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một

chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh

hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

- Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây

xà nu hiện ra như một nhân vật của câu truyện. Nguyễn Trung Thành đã biến rừng

xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được miêu tả song song với hệ thống hình

tượng nhân vật.

- Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú

ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở về đã là chàng thanh

niên lực lưỡng; Dít ngày Tnus đi còn bé, 3 năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi

bộ)

III. Kết bài

Khẳng định vẻ đẹp sử thi của tác phẩm, của thời đại. Liên hệ “Những đứa con

trong gia đình”