phÁt Âm theo phƯƠng ngỮ nam bỘ nhỮng Ưu ĐiỂm vÀ … · 2018-12-10 · cụ thể...

16
31 PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ - NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ Phan Trn Công * Tóm tt Vấn đề của người hc ngoi ngluôn là ngôn ngmình đang học có nhng chun mc nào, những gì mình được hc có phi là chun mc không và “tiếng chuẩn” trong ngôn ngữ đó là gì? Khi bắt đầu tiếp cn mt ngôn ngữ, người hc luôn ý thức mình đang tiếp cn ngôn ngđó thông qua một giáo viên vi những đặc trưng ngôn ngữ riêng bit của cá nhân cũng như đặc trưng phương ngữ của giáo viên đó. Dù thể hin bng một phương ngữ hay đặc trưng ngôn ngữ ca mt cá nhân thì những gì người học được tiếp cn vẫn mang đầy đủ những đặc trưng của ngôn ngmà hđang học, là mt trong nhng biến thca ngôn ngđó. Vấn đề là biến thđó khác với nhng biến thkhác thế nào, xa hay gn với “tiếng chuẩn”, hiệu lc ca nó thế nào trong cộng đồng, những ưu điểm và nhược điểm của nó là gì…? Trường hợp phương ngữ Nam bộ, trên phương diện ngâm, bài viết đi vào phân tích những đặc trưng ngữ âm của phương ngữ Nam b, những điểm người giáo viên cn ý thức điều chỉnh trong môi trường sư phạm cũng như nhng lý gii cn thiết để người hc có thddàng chuyển đổi gia các vùng phương ngữ trong cộng đồng ngôn ngnhằm tăng hiệu quvà phm vi giao tiếp. Tkhóa: phương ngữ, phương ngữ Nam, ngôn ngtoàn dân, phát âm tiếng Vit 1. Cơ sở lý thuyết 1.1. Ngôn ngvà phương ngữ Đối vi một người nói tiếng Vit, hay bt kmột người đang sử dng mt ngôn ngnào như ngôn ngữ thnht, thì không phi là hnói ngôn ngđó mà là đang hiện thc hóa ngôn ngđó thông qua phương ngữ mà mình đang sử dụng. Đối vi giáo viên dy tiếng cũng không có ngoi l. * Thạc sĩ, Trường Đại hc KHXH&NV, ĐHQG-HCM

Upload: others

Post on 28-Dec-2019

8 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

31

PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ -

NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ

Phan Trần Công*

Tóm tắt

Vấn đề của người học ngoại ngữ luôn là ngôn ngữ mình đang học có

những chuẩn mực nào, những gì mình được học có phải là chuẩn mực không

và “tiếng chuẩn” trong ngôn ngữ đó là gì? Khi bắt đầu tiếp cận một ngôn

ngữ, người học luôn ý thức mình đang tiếp cận ngôn ngữ đó thông qua một

giáo viên với những đặc trưng ngôn ngữ riêng biệt của cá nhân cũng như

đặc trưng phương ngữ của giáo viên đó. Dù thể hiện bằng một phương ngữ

hay đặc trưng ngôn ngữ của một cá nhân thì những gì người học được tiếp

cận vẫn mang đầy đủ những đặc trưng của ngôn ngữ mà họ đang học, là

một trong những biến thể của ngôn ngữ đó. Vấn đề là biến thể đó khác với

những biến thể khác thế nào, xa hay gần với “tiếng chuẩn”, hiệu lực của nó

thế nào trong cộng đồng, những ưu điểm và nhược điểm của nó là gì…?

Trường hợp phương ngữ Nam bộ, trên phương diện ngữ âm, bài viết đi vào

phân tích những đặc trưng ngữ âm của phương ngữ Nam bộ, những điểm

người giáo viên cần ý thức điều chỉnh trong môi trường sư phạm cũng như

những lý giải cần thiết để người học có thể dễ dàng chuyển đổi giữa các

vùng phương ngữ trong cộng đồng ngôn ngữ nhằm tăng hiệu quả và phạm vi

giao tiếp.

Từ khóa: phương ngữ, phương ngữ Nam, ngôn ngữ toàn dân, phát âm

tiếng Việt

1. Cơ sở lý thuyết

1.1. Ngôn ngữ và phương ngữ

Đối với một người nói tiếng Việt, hay bất kỳ một người đang sử

dụng một ngôn ngữ nào như ngôn ngữ thứ nhất, thì không phải là họ

nói ngôn ngữ đó mà là đang hiện thực hóa ngôn ngữ đó thông qua

phương ngữ mà mình đang sử dụng. Đối với giáo viên dạy tiếng cũng

không có ngoại lệ.

* Thạc sĩ, Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM

Page 2: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

32

Trên lý thuyết thì không có ngôn ngữ nào không có phương ngữ.

Phương ngữ là một khái niệm ngôn ngữ học, trong đó mỗi phương

ngữ được đặt trong thế đối lập giữa nó với phương ngữ khác và giữa

nó với tiếng chuẩn. Phương ngữ được hình thành một cách tự nhiên

trong lòng một ngôn ngữ với nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do sự

biến đổi khác nhau và không đồng đều giữa các cộng đồng sử dụng

ngôn ngữ đó trong một phạm vi địa lý nhất định cùng với việc tiếp xúc

với các ngôn ngữ khác nhau. Đối với người bản ngữ, khả năng tiếp

thu và hiểu một phương ngữ khác thì tùy thuộc vào kinh nghiệm tiếp

xúc, giao tiếp và môi trường sống của mỗi người.

Đối với người học ngoại ngữ, khi mới bắt đầu, học viên không

thể không có những băn khoăn nhất định về phương ngữ của giáo viên

đứng lớp. Ở trình độ cao hơn, học viên cũng lắm khi ngỡ ngàng trước

một phương ngữ mới tiếp xúc (của giáo viên mới hay với người bản

ngữ khác). Đối với học viên tiếng Việt (HV) cũng thế, khi học tiếng

Việt như một ngoại ngữ, HV tiếp xúc với một hay một vài giáo viên

trong lớp là chính thì ý thức về phương ngữ chưa rõ ràng lắm. Nhưng

khi học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai, tức học trong môi

trường ngôn ngữ đang học, HV có cơ hội tiếp xúc và sử dụng tiếng

Việt ngoài lớp học nhiều hơn. Khi đó HV sẽ nhận ra những khác biệt

giữa những gì đã học trong lớp và thực tế ngôn ngữ ngoài xã hội.

Từ đó đặt ra một số vấn đề sau:

1) Trả lời câu hỏi của HV “Tiếng Việt tôi đang học là tiếng Việt

gì?”

2) “Tiếng Việt” giáo viên muốn dạy là “tiếng Việt” gì?

3) Các “loại tiếng Việt” này khác nhau thế nào và ưu thế của mỗi

“loại”?

Ngay từ đầu hoặc không sớm thì muộn, giáo viên cần phải giải

quyết những vấn đề trên một cách hợp lý.

1.2. Vấn đề phương ngữ và tiếng chuẩn đối với tiếng Việt

Phương ngữ (regional dialect, dialect) là một thuật ngữ ngôn ngữ

học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ

thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với

Page 3: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

33

một phương ngữ khác. Như vậy, phương ngữ là cái trực tiếp và là cái

đầu tiên mà người học được tiếp xúc bằng giác quan trên bề mặt, còn

cái hệ thống, cơ chế tạo ra nó mới thực sự là ngôn ngữ.

Về sự khác biệt giữa các phương ngữ, ngoài những khác biệt về

từ vựng, thỉnh thoảng gây khó khăn trong giao tiếp, những khác biệt

về ngữ âm, giọng nói là khác biệt rõ rệt nhất và được biểu hiện thường

trực trong quá trình nói năng. Một học viên đã từng học với một giáo

viên, khi chuyển sang học với giáo viên khác với một phương ngữ

khác thường dễ nhận ra những khác biệt trong cách phát âm. Đôi khi,

học viên dễ rơi vào tình trạng nghi ngờ, hoang mang. Khi đó giáo viên

cần có những lý giải nếu cần thiết. Mặc dù có những khác biệt giữa

các phương ngữ (ngôn ngữ nào cũng thế), nhưng các phương ngữ đó

không nằm ngoài ngôn ngữ, thứ tiếng đang học. Dù là phương ngữ

nào của tiếng Việt thì cũng không nằm ngoài tiếng Việt và không ít thì

nhiều đều mang những đặc trưng của tiếng chuẩn.

Về khái niệm tiếng chuẩn, đó là hệ thống thống nhất được chuẩn

hóa giữa các biến thể. Vào giai đoạn trước khi có nhà nước, phương

ngữ phát triển tự phát. Khi nhà nước ra đời, ngôn ngữ được chuẩn hóa

và mang tính quy chế nhà nước, ngôn ngữ toàn dân hình thành trên cả

nước, đồng thời vẫn có sự phân hóa theo từng địa phương của từng

phương ngữ, thổ ngữ, có sự phân chia theo chức năng.

Về phương diện ngôn ngữ học, tiếng chuẩn là một phạm trù chứ

không phải một thứ tiếng cụ thể ở một địa phương (hay một giai đoạn)

cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

thể là các phương ngữ cụ thể. Đối với tiếng Việt, một ngôn ngữ có hệ

thống chữ ghi âm tương đối hoàn thiện thì về phương diện ngữ âm,

chữ viết là cơ sở để xác định tiếng chuẩn. Hay nói cách khác, phát âm

theo tiếng chuẩn là cách phát âm gần với chính tả nhất.

Đối với việc dạy tiếng Việt, nhu cầu của HV có thể là muốn học

theo giọng Bắc, giọng Trung hay giọng Nam, nhưng trước hết, chúng

ta cần dạy cho HV phát âm theo tiếng chuẩn trước, nhất là đối với

phần phát âm, vì một số lý do sau: (1) người học và nói ngoại ngữ thì

cần phải học và nói theo một theo hình thức chuẩn nhất của ngôn ngữ

đó, (2) giúp HV có cơ sở để viết đúng chính tả, (3) học viên chỉ có thể

ý thức rõ ràng những nét dị biệt giữa các phương ngữ khi vốn tiếng

Page 4: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

34

Việt đã ở mức tương đối. Hoặc bằng kinh nghiệm giao tiếp, HV có thể

tự khái quát hóa những hiện tượng phương ngữ trong môi trường giao

tiếp của mình và có thể tự điều chỉnh để quay về hình thức chuẩn đã

được học, (4) hình thức chuẩn (tiếng chuẩn) luôn bao hàm các biến

thể (phương ngữ) chứ một biến thể thì không bao hàm những biến thể

khác và hình thức chuẩn.

Đến đây, đối với ba câu hỏi được nêu ra ở phần 1.1 thì chúng ta

đã trả lời được 2 câu.

1) Âm tiếng Việt mà các HV đang nghe, đang học là phương ngữ

của giáo viên.

2) Nhưng không phải hoàn toàn là phương ngữ của giáo viên, tức

không phải cách phát âm tự nhiên vì giáo viên đã tự điều chỉnh theo

tiếng chuẩn trong môi trường sư phạm.

Vấn đề còn lại mà chúng tôi đặt ra là cho các giáo viên là người

miền Nam, cũng là mục đích của bài viết này. Đó là những khác biệt

của phương ngữ Nam bộ so với tiếng chuẩn là gì và khả năng, mức độ

điều chỉnh của người miền Nam (theo tiếng chuẩn) thế nào. Đồng thời

cũng giúp học viên ở trình độ cao hơn có cái nhìn khái quát về sự khác

biệt giữa phương ngữ Nam bộ về mặt ngữ âm.

2. Hệ thống ngữ âm trong phương ngữ Nam bộ

Từ phần này, chúng tôi dựa theo quan điểm phân chia tiếng Việt

thành 3 vùng phương ngữ để so sánh các vùng phương ngữ khác

ngoài phương ngữ Nam bộ. Chia tiếng Việt thành 3 vùng phương ngữ

lớn: phương ngữ Bắc (PNB), phương ngữ Trung (PNT) và phương

ngữ Nam (PNN) là ý kiến chung của nhiều nhà nghiên cứu và phù

hợp với quan niệm dân gian. Về mặt địa lý thì PNB là từ Thanh Hóa

trở ra. Từ Thanh Hóa vào đến Huế là PNT và từ phía nam đèo Hải

Vân trở vào đến cực nam là PNN. Tiêu chí nổi trội là sự khác nhau về

thanh điệu giữa 3 vùng phương ngữ này dễ dàng nhận thấy. Khi quan

sát các tiêu chí khác như ngữ âm, từ vựng thì quan điểm này càng

được khẳng định. Chỉ có sự khác nhau về vị trí của vùng Thanh Hóa,

có người cho Thanh Hoá thuộc phương ngữ Bắc (Nguyễn Bạt Tụy),

có người xếp vào phương ngữ Trung (Hoàng Thị Châu).

Page 5: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

35

2.1. Phụ âm đầu trong PNN

Hệ thống phụ âm đầu trong các phương ngữ Nam

- Yếu tố ngạc hóa trong các phụ âm ngạc hóa của thế kỷ XVII Bj,

Dj, Zj không mất đi như ở PNB mà lấn át phụ âm trước nó và biến

thành phụ âm j (mặt lưỡi-ngạc, xát, hữu thanh);

- [v] và [z] trong PNB được phát âm thành [j];

- Tuy nhiên Bj đang được giữ lại (không chuyển thành [v] như

trong PNB) trong ngôn ngữ truyền thông nhằm giảm lượng từ đồng

âm, nhưng trong ngôn ngữ hàng ngày thì không còn (trở thành [j]);

- Xuất hiện w ở vị trí phụ âm đầu là hệ quả tác động của âm đệm -

w- đến các phụ âm mạc và hầu đứng trước nó (sẽ nói rõ hơn ở phần

âm đệm).

Page 6: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

36

Ở các tỉnh Nam Trung bộ (đèo Hải Vân đến Ninh Thuận) các phụ

âm tiền ngạc được phát âm quặt lưỡi như trong PNT (tr, s). Nhưng ở

Nam bộ thì có xu hướng đồng hóa, không phân biệt tr - ch, s - x. Phụ

âm r có nhiều biến thể khác nhau từ âm rung r cho đến âm xát z hoặc

g (vùng Tây Nam bộ).

Nhìn chung, phụ âm đầu là một ưu điểm của PNN. Mặc dù có xu

hướng đồng hóa nhưng trong phong cách chính luận hay học sinh

trong trường học vẫn có thể phân biệt tr-ch, s-x dễ dàng. Bên cạnh đó

PNN còn phân biệt d/gi [j] với r trong khi PNB tất cả là [z]. Như vậy,

các cặp phụ âm cần phân biệt đối với giáo viên miền Nam thì các cặp

phụ âm cần phân biệt là tr-ch, s-x và v-d/gi.

2.2. Âm đệm trong PNN

2.2.1. Âm đệm kết hợp với âm đầu (âm trước nó)

Sự kết hợp của âm đệm trong âm tiết không tự do như nguyên âm

do vai trò thứ âm của chúng, chúng phụ thuộc nhiều vào những yếu tố

đứng trước (phụ âm đầu), đứng sau (nguyên âm). Nguyên tắc kết hợp

đáng chú ý của âm đệm là tuân theo xu hướng dị hóa. Tức là hai âm

có cùng đặc tính như nhau thì không đứng gần nhau. Do đó, âm đệm

[-w-] vốn là âm có tính chất môi không đi với các phụ âm đầu - môi

như m, b, v, ph.

Trong PNB và PNT, âm đệm [-w-] ít ảnh hưởng nhiều đến âm

tiết. Đối với phụ âm đầu, chúng chỉ không kết hợp với những phụ âm

môi kể trên.

Trong PNN, âm đệm [-w-] tác động mạnh mẽ đến phụ âm đầu:

1) [-w-] tác động mạnh đến những phụ âm mạc (k, ng, g, x) và

họng (h, q) đứng trước và biến đổi theo hai xu hướng:

- Đồng hóa hoàn toàn: mất hẳn phụ âm đầu – xuất hiện phụ âm [w]:

w > w: oan [wa], uyên [wieng], uỳnh uỵch [wừn wựt]

hw > w: hoa huệ [wa wệ], huy hoàng [wi wàng], huênh hoang

[wân wang]

ngw > w: nguyễn [wiễng], ngoài [wài], nguy [wi]

kw > w: qua [wa], quên [wên], quần [wừng], quen [weng]

Page 7: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

37

- Đồng hóa bộ phận: phụ âm chỉ bị môi hóa, còn các tính chất

khác vẫn được giữ lại: Xw > f (tính chất xát, vô thanh được giữ lại):

khoai [fai], khoái [fái], khuya khoắt [fia fắt]...

Riêng trường hợp gw trong tiếng Việt chỉ có 1 trường hợp từ

“goá”, lẽ ra [gw] ở đây trở thành [v] nhưng lại chuyển thành [j] như

những âm tiết khác bắt đầu bằng [v] trong PNN. Vì vậy con đường

biến đổi ở đây là: gw > v > j, bà góa [bà já].

2) [-w-] bị triệt tiêu sau những phụ âm còn lại, tức những phụ âm

răng, lợi, ngạc. Vd: tuyên truyền [tiêng triềng], xuân xanh [xưng

xanh], lý luận [lí lựng], nhuần nhuyễn [nhừng nhiễng],….

2.2.2. Âm đệm kết hợp với nguyên âm (âm sau nó)

Do cơ chế dị hoá nói trên, âm đệm không kết hợp với các nguyên

âm tròn môi u, ô, o và nguyên âm đôi uô.

- Trong PNB, do xu hướng dị hóa mạnh, nên [-w-] không kết hợp

với [ư] và [ươ], cũng như [ư] và [ươ] không kết hợp với âm cuối [-w]

(PNB: ưu [iw], ươu [iêw]);

- Trong PNT, kết hợp [wâ] ở Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên được

thay bằng [wư]: tuần [twừn], sản xuất [sản swứt], quần quật [kwừn

kwựt];

- Trong PNN, âm đệm mất đi và còn lại ư chứ không phải â (vd

trên). Đây là bằng chứng về sự kế thừa cách phát âm của miền Trung

trong PNN. Một số thổ ngữ như ở Quảng Bình, Quảng Trị có hiện tượng

âm đệm đồng hóa nguyên âm: quần [kùn], xuân [xun], quân [kun];

Page 8: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

38

Ngoài ra, ở một số thổ ngữ ở vùng Bắc Bình Trị Thiên còn có

hiện tượng âm đệm đồng hóa nguyên âm: xuân > xun, quần > cùn. Ở

Thanh Hóa, âm đệm -w- đồng hóa nguyên âm a theo sau nó: loạt >

[lwọ:t], đoàn > [dwò:n].

Do 2 xu hướng đồng hóa và triệt tiêu nói trên, có ý kiến cho rằng

trong PNN không có âm đệm. Ở những vùng bán phương ngữ (các

khu vực thành thị) là những vùng pha trộn nhiều phương ngữ và có

đặc trưng ngôn ngữ có xu hướng chuẩn hóa mạnh thì âm đệm được

thể hiện trong những kết hợp với e, a, ă, tức là với những nguyên âm

mở (oe, oa, oă) rõ hơn. Trước nguyên âm a, âm đệm -w- đồng hóa

nguyên âm giống như ở Thanh Hóa (loạt > [lwọ:t], đoàn > [dwò:n]).

Tuy nhiên, với tình hình ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay,

nhận định này đã không còn đúng khi xu hướng chuẩn hóa trong phát

âm đã nâng mật độ âm đệm xuất hiện hầu như trong các trường hợp

và chỉ còn lại hiện tượng đồng hóa hoàn toàn khi kết hợp với , h, k.

Chính vì thế mà đây không còn là vấn đề đáng quan ngại. Mặc dù

âm đệm tác động nhiều đến âm tiết trong phương PNN nhưng thực tế

chỉ thể hiện có phần rõ nét trong phong cách thân mật. Trên thực tế

vẫn còn nghe thức phia (thức khuya), phái ăn phai (khoái ăn khoai),

ngâm cú pha học (nghiên cứu khoa học), bà wại (bà ngoại),… nhưng

với phong cách ngôn ngữ đặc biệt, thường là bông đùa. Còn trong

giao tiếp chính thức, công việc, học đường, truyền thôn đại chúng…

thì người nói tự điều chỉnh một cách tự nhiên. Trường hợp đồng hóa

hoàn toàn khi kết hợp với , h, k mặc dù khá phổ biến nhưng cũng

không khó điều chỉnh, đồng thời cũng không quá phức tạp trong việc

giải thích cho học viên. Qua quá trình giảng dạy, chúng tôi nhận thấy

học viên tiếp nhận hiện tượng này khá dễ dàng, một phần cũng nhờ

môi trường ngôn ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh.

2.3. Vần (nguyên âm + âm cuối)

2.3.1. Đặc điểm của nguyên âm tiếng Việt

Số lượng nguyên âm trong tiếng Việt mặc dù có những biến thể

giữa các phương ngữ, tuy vậy, nhìn chung nguyên âm là hệ thống

tương đối ổn định so với các hệ thống phụ âm đầu, âm đệm, âm cuối.

Page 9: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

39

- Hệ thống nguyên âm tiếng Việt:

3 nguyên âm đôi ghi theo chính tả là: iê (iê, ia, ya, iê), ươ (ươ,

ưa), uô (uô, ua).

- Nguyên âm trong các âm tiết mở: trường độ nguyên âm kéo dài,

lấp khoảng trống của âm cuối do trường độ âm tiết không thay đổi. Vì

vậy hai nguyên âm ngắn ă, â không xuất hiện trong âm tiết mở;

- Đối lập giữa dòng trước và dòng sau thể hiện trong các từ láy

âm: luân phiên giữa hai nguyên âm cùng độ mở:

o – e : nhỏ nhẻ, thỏ thẻ, móm mém, hom hem...

ô – ê : ngô nghê, sồ sề, ngông nghênh, chông chênh...

u – i : thút thít, thủ thỉ, mũm mĩm, chúm chím...;

- Sự khác nhau của bản thân nguyên âm giữa các phương ngữ

không đáng kể, nguyên âm dòng trước, dòng sau ở PNT và PNN có

xu hướng hơi dịch về phía giữa hơn so với PNB, và độ căng của lưỡi

và môi cũng yếu hơn;

- Nguyên âm dòng giữa được phát âm gần như thống nhất, trừ

nguyên âm [a] được phát âm hơi dịch về phía trước trong các phương

ngữ từ Phú Yên đến cực Nam;

- Ngoài ra còn có hiện tượng nguyên âm chuyển sắc như ở Thanh

Hóa: chị [chệi], ông cụ [ông kộu], hay một số thổ ngữ Bắc bộ: mẹ

[mịe], to [tuo].

2.3.2. Đặc điểm của phụ âm cuối tiếng Việt

- Trong tiếng Việt, tất cả các phụ âm cuối đều khép (implosive)

chứ không phải là một phụ âm cuối mở (explosive) như trong các

ngôn ngữ Ấn-Âu;

Page 10: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

40

- Có quan hệ chặt với nguyên âm và thanh điệu. Các phụ âm [-

p, -t, -k] chỉ đi với thanh sắc và nặng, hai âm [-nh, -ch] chỉ đi với

các nguyên âm [i, ê, e];

- 6 cặp phụ âm cuối tiếng Việt:

1. Phụ âm môi : m, p

2. Phụ âm đầu lưỡi : n, t

3. Phụ âm mặt lưỡi : nh, ch

4. Phụ âm gốc lưỡi : ng, k

5. Phụ âm mạc : ngm, kp

6. Bán nguyên âm : w, j

Các cặp phụ âm này tương ứng với nhau về tính thanh và tính

chất mũi. Trong các phương ngữ, các phụ âm này có thể biến đổi

nhưng đặc biệt là tính tương liên giữa hai vế của mỗi cặp vẫn được

duy trì, vì vậy chúng có thể cùng tồn tại hoặc cùng biến mất, hiện

tượng gì xảy ra cho vế bên này thì cũng xảy ra cho vế bên kia.

- Mối tương liên của các cặp thể hiện qua từ láy:

-ngm/-kp: xồng xộc, lông lốc, nhung nhúc, chòng chọc, sùng

sục…

-ng/-k: khang khác, hừng hực, hăng hắc, phưng phức, răng

rắc…

-nh/-ch: khanh khách, bành bạch, phành phạch, thinh thích,

xềnh xệch…

-n/-t: sồn sột, phần phật, bèn bẹt, thin thít, kìn kịt, sìn sịt…

-m/-p: rầm rập, hâm hấp, sùm sụp, tăm tắp, him híp…

2.3.3. Vần trong PNN

* Sự tác động lẫn nhau giữa nguyên âm và phụ âm cuối tạo ra

những biến đổi lớn về cả hai phía làm thay đổi hẳn hệ thống vần

trong PNN về cả số lượng lẫn chất lượng. Sau đây là bảng vần

trong PNN:

Page 11: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

41

1 2 3 4 5 6 7

-m -n -nh -ng -ngm -w -j

iê -i:m -iêng -iêng -i:w

i -i:m -i:n/-ưn -ưn -i:w

ê -i:m -ê:n/-ơn -ân -i:w

e -e:m -e:ng -ăn -e:w

ươ -ư:m -ương -ương -u -ư:j/-ư

ư -ưng -ưng -u -ư:j/-ư

ơ -ơm -ơng -ơj

â -âm -âng -âng -âw -âj/ -aj

a -am -ang -ang -aw -aj (-ơi)

ă -ăm -ăng -ăng -ăw/aw -ăj/ -aj

uô -ưm -uông -uông -uôj

u -ưm -u:ng/-ưngm -ungm -u:j

ô -ơ:m -ô:n/-ô:ngm -ôngm -ô:j

o -ơ:m -o:ng -ongm -o:j

(a) Trong PNN số vần giảm hẳn so với PNB và PNT. Bảng vần

cho thấy khá nhiều vần trùng nhau. Các vần ở cột 2 và 4 với nguyên

âm dòng giữa trùng nhau từng đôi một. Ở cột 1, nguyên âm dòng

trước có 3 vần trùng nhau (-i:m). Ở cột 6, nguyên âm dòng trước và

dòng giữa có 5 vần trùng nhau (-i:w).

(b) Không có cặp phụ âm cuối [-nh, -ch] trong PNN (cột 3).

Chúng trở thành [-n, -t] và nguyên âm cũng bị thay đổi (mình > mần,

chênh vênh > chân vân, anh > ăn, kích thích > kứt thứt, chánh khách

> chắn khắt…).

(c) Cặp phụ âm [-n, -t] gốc chỉ còn lại với hai cặp vần [-i:n, -i:t],

[-ê:n, -ê:t]. Ví dụ: mít chín, trên hết, mệt ở Nam Trung bộ phát âm

không có gì thay đổi. Nhưng ở Nam bộ lại nói là mứt chứn, trơn hớt,

mợt tức là nguyên âm đều dịch vào giữa, ư thì ngắn lại còn ơ thì dài

ra. Sau các nguyên âm còn lại, [-n, -t] đều biến thành [-ng, -k].

Page 12: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

42

Ngoài ra PNN còn có cặp [-n, -t] do [-nh, -ch] chuyển thành (-inh,

-ênh, -enh > -ưn, -ân, -ăn). Do đó [-n, -t] đi cả với nguyên âm dòng

trước và nguyên âm dòng giữa chứ không phải ở thế phân bố bổ túc

cho [-ng, -k]. Chúng vẫn là những âm vị như ở PNB và PNT.

(d) Cặp [-ng, -k] không chỉ đứng sau nguyên âm dòng giữa như ở

PNB, chúng còn đứng sau tất cả các nguyên âm tròn môi và nguyên

âm dòng trước e (tuy nhiên e có yếu tố chuyển sắc trung hòa ea –

trường hợp chính tả viết vần en – cột 2).

(e) Cặp [-m, -p] tự nó không biến đổi nhưng chúng tác động đến

nguyên âm đứng trước chúng làm cho nguyên âm dòng sau mất tính

tròn môi (um tùm > ưm từm, lúp xúp > lứp xứp). Hiện tượng này được

xem là hiện tượng dị hóa ngược. Vì phụ âm môi đứng sau đã khử đi

tính chất môi của nguyên âm đứng trước nó.

(f) Trường hợp hai nguyên âm ngắn /ă/ và // đi với bán nguyên

âm cuối -w và -j: /ă/ khi kết hợp với -w và -j thì trở thành [a]. Vd: máy

bay > mái bai, cau > cao. Trường hợp // (â), chỉ biến đổi thành [ă]

khi kết hợp với –j. Vd: thầy > thày, cây > cay.

3. Thanh điệu trong PNN

Sự phân bố của thanh điệu tiếng Việt phụ thuộc vào mỗi loại âm

tiết khác nhau, tùy thuộc vào phụ âm cuối của âm tiết. Cụ thể, các loại

âm tiết và sự phân bố của thanh điệu như sau:

(STT) Loại

âm tiết Mô tả

Thanh điệu

kết hợp

(1) Âm tiết mở Phụ âm cuối là zero 6 thanh

(2) Âm tiết nửa

mở

Phụ âm cuối là hai bán phụ âm

cuối: -u và -j 6 thanh

(3) Âm tiết nửa

khép

Phụ âm cuối là các phụ âm mũi:

-m, -n, -nh, -ng, -ngm 6 thanh

(4) Âm tiết

khép

Phụ âm cuối là các phụ âm tắc: -

p, -t, -ch, -c, -cp (-kp) sắc và nặng

Page 13: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

43

3.1. Sáu thanh của tiếng Việt trong PNN

Như chúng ta đã biết, đặc trưng rõ nhất đối với hệ thống thanh

điệu trong PNN là chỉ có 5 thanh. Trong đó thanh hỏi và thanh ngã

không được phân biệt (trở thành một thanh), so với PNB thì hai thanh

này được phân biệt rõ ràng.

So sánh đường nét thanh điệu giữa PNB và PNN đối với âm

tiết mở:

ma mà mả mã má mạ

PNB

PNN

Theo hình ảnh thực nghiệm trên, chúng ta thấy trong PNN:

- Đường nét thanh hỏi và thanh ngã là như nhau. Chúng có điểm

bắt đầu thấp hơn thanh ngang và thanh sắc, đi xuống và đi lên đến

điểm kết thúc cao hơn điểm bắt đầu;

Page 14: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

44

- Còn thanh nặng thì cũng có đường nét tương tự nhưng chỉ đi lên

một chút ở cuối và điểm kết thúc thấp hơn điểm bắt đầu. Khác với

thanh nặng trong PNB, chỉ đi xuống, không đi lên ở cuối âm tiết, và

kết thúc bằng một âm tắc thanh hầu.

3.2. Thanh sắc và thanh nặng trong âm tiết khép (4)

Tuy nhiên, thanh nặng và thanh sắc trong PNN xét trên có chu

cảnh là âm tiết mở, loại âm tiết (1). Cả hai thanh này cùng có sự khác

biệt giữa âm tiết khép (4) và ba loại âm tiết còn lại (1), (2) và (3).

Thanh nặng và thanh sắc đối với ba loại âm tiết (1), (2) và (3)

được thể hiện như nhau. Nhưng trong loại âm tiết khép (4) thì chúng

có thay đổi đáng kể.

Thực nghiệm chúng tôi tiến hành dưới đây với thanh sắc và nặng

xuất hiện trong chu cảnh chỉ khác nhau bởi cặp phụ âm cuối đồng vị.

Những đơn vị ghi âm là những từ có nghĩa đối với tất cả các nguyên

âm trong kết hợp với các phụ âm của phụ âm cuối qua giọng đọc của

cả nam và nữ.

Dưới đây là một vài ví dụ minh họa:

họng học hóng hóc

chụm chụp úng úc

Page 15: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

45

vện vệt hến hết

đựng đực đứng đức

lượng lược nướng nước

Nhận xét chung:

- Về trường độ, âm tiết khép có xu hướng được thể hiện ngắn lại;

- Thanh sắc của âm tiết (4) đi lên ngay sau khi bắt đầu trong khi

trong âm tiết (3) thì đi ngang và có xu hướng hạ thấp trước khi đi lên;

- Thanh nặng của âm tiết (4) đi thẳng xuống thấp trong khi trong

âm tiết (3) thì đi xuống và đi lên đến điểm kết thúc thấp hơn không

đáng kể, có khi bằng với điểm bắt đầu.

4. Kết luận

Mỗi phương ngữ có những ưu và nhược điểm khác nhau. Nếu

PNB có ưu thế đối với thanh điệu, phần vần (mà đặc biệt là phụ âm

cuối) thì PNN có ưu thế về phụ âm đầu. Tuy nhiên, xét về số lượng

chệch chuẩn so với chính tả thì PNB có nhiều ưu thế hơn PNN.

Page 16: PHÁT ÂM THEO PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ … · 2018-12-10 · cụ thể nào. Đó là những đơn vị, hệ thống, cơ chế qui nạp những biến

46

Bài viết của chúng tôi tập trung vào việc hệ thống hóa những

khác biệt của PNN nhằm giúp giáo viên có những lý giải thỏa đáng

khi cần thiết (chỉ khi cần thiết) với học viên. Đồng thời giúp giáo viên

nắm bắt những hạn chế, khả năng khắc phục theo hướng chuẩn hóa

trong việc dạy phát âm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Lê Thư, Nguyễn Văn Huệ, 1998, Cơ cấu ngữ âm tiếng

Việt, NXB Giáo Dục.

2. Đoàn Thiện Thuật, 2003, Ngữ âm tiếng Việt, NXB ĐH Quốc

gia Hà Nội.

3. Jennifer Wilson, December 2008, Phonetics of Korean, Course

Project (Linguistics Department, State University of New York

at Buffalo).

4. Hoàng Thị Châu, 2004, Phương ngữ học tiếng Việt, NXB ĐH

Quốc gia Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), 2008, Giáo trình tiếng Việt cho

người nước ngoài 1, NXB ĐH Quốc gia TP HCM.

6. Phan Trần Công, 2006, “Phương pháp dạy phát âm cho người

bắt đầu học tiếng Việt – từ lý thuyết đến thực tiễn dạy tiếng”,

trong Việt Nam học và tiếng Việt (Kỷ yếu hội thảo), NXB ĐH

Quốc gia Hà Nội.

7. Phan Trần Công, Chu Thị Quỳnh Giao, Trần Thị Tâm, 2009,

“Luyện phát âm đối với thanh điệu tiếng Việt”, Kỷ yếu hội thảo

Khoa học Quốc tế 2009, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội.

8. Phan Trần Công, Trần Thị Tâm, Chu Thị Quỳnh Giao, 2010,

“Luyện phát âm đối với nguyên âm tiếng Việt cho học viên Hàn

Quốc”, Kỷ yếu hội thảo Việt Nam học và tiếng Việt – các hướng

tiếp cận, Hà Nội.

9. Phần mềm thực nghiệm ngữ âm: Speech Analyzer 2.7

(Bài đăng trong Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học và tiếng Việt, Kỷ yếu

Hội thảo Khoa học 2011, NXB Tổng Hợp TP HCM, tr.16-31)