phong trÀo thanh niÊn

242
2 ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH ĐỒNG NAI LỊCH SỬ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN TỈNH ĐỒNG NAI 1930 2000 NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP ĐỒNG NAI 2003

Upload: others

Post on 30-Jan-2022

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

2

ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

TỈNH ĐỒNG NAI

LỊCH SỬ ĐOÀN THANH NIÊN

CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀ

PHONG TRÀO THANH NIÊN

TỈNH ĐỒNG NAI

1930 – 2000

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP ĐỒNG NAI

2003

3

LỊCH SỬ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN

HỒ CHÍ MINH VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN

TỈNH ĐỒNG NAI

1930 – 2000

4

BAN CHỈ ĐẠO

– Trần Thị Minh Hoàng – Bí thƣ Tỉnh ủy Đồng Nai khóa VI

– Trần Đình Thành – Phó bí thƣ thƣờng trực Tỉnh ủy Đồng Nai khóa VII

– Bùi Ngọc Thanh – Ủy viên thƣờng vụ Tỉnh ủy – Trƣởng ban Dân vận Tỉnh ủy

– Nguyễn Văn Tùng – Nguyên Trƣởng Ban biên tập sử Đoàn Trung ƣơng Đoàn

BAN CHỦ NHIỆM

– Đặng Mạnh Trung – Chủ nhiệm đề tài

– Nguyễn Sơn Hùng

–Hoàng Ngọc Khôi

BAN BIÊN SOẠN VÀ BIÊN TẬP

– Nguyễn Sơn Hùng

– Phạm Thị Kim Chung

– Trƣơng Hải Thi

CỘNG TÁC VIÊN

– Nguyễn Thị Mộng Bình

– Trần Trọng Thể

– Nguyễn Thị Hiền

– Nguyễn Hồng Thanh

– Võ Thị Ngọc Bảy

– Huỳnh Thị Lang Anh

– Nguyễn Văn Thông

5

LỜI GIỚI THIỆU

70 năm được Đảng dìu dắt, lãnh đạo, tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên

Đồng Nai đã có những đóng góp xứng đáng, để lại nhiều bài học truyền thống quí

báu. Nghiên cứu, biên soạn “Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và

phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai 1930–2000” là một công việc có ý nghĩa

nhiều mặt, góp phần giáo dục, rèn luyện các thế hệ thanh niên kế tục và phát huy

truyền thống của lớp người đi trước, không ngưng phấn đấu vươn lên trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên

tỉnh Đồng Nai trong hơn 70 năm qua đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử. Từ

những năm 30 của thế kỷ XX, được Đảng tổ chức, giáo dục, rèn luyện, thanh niên

Đồng Nai đã không ngừng phát huy vai trò xung kích cách mạng, đấu tranh đòi

các quyền dân sinh, dân chủ trong các năm 1936–1938, trong cuộc khởi nghĩa

Nam kỳ và đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám – 1945

lịch sử.

Được rèn luyện trong đấu tranh cách mạng, từ năm 1945, tổ chức Đoàn

Thanh niên đã từng bước hình thành tương đối có hệ thống ở Biên Hòa- Đồng Nai,

góp phần tổ chức, động viên thanh niên trong tỉnh đi đầu trong nhiệm vụ xây dựng

và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, kiên cường tham gia kháng chiến chống

thực dân Pháp xâm lược. Trước sự tàn bạo của kẻ thù, thanh niên Biên Hòa- Đồng

Nai đã không khuất phục mà còn dấy lên nhiều phong trào hành động cách mạng

sôi nổi, đặc biệt là phong trào tòng quân, đi ra chiến khu và phong trào thi đua

giết giặc lập công, mưu trí và sáng tạo, góp phần làm nên những chiến thắng to

lớn ở La Ngà, ở dọc Quốc lộ 20...

Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mặc dù thời kỳ đầu tổ

chức Đoàn không được phát triển, nhưng thanh niên Đồng Nai vẫn kiên trung, bất

khuất góp phần làm thất bại cuộc chiến tranh đơn phương của địch. Từ sau cao

trào Đồng khởi (1960), tổ chức Đoàn trong tỉnh từng bước được khôi phục và phát

triển, thanh niên Đồng Nai càng nỗ lực đẩy mạnh các phong trào hành động cách

mạng. Trong đó tiêu biểu là phong trào 5 xung phong với các mục tiêu cụ thể:

Tòng quân, đi thanh niên xung phong; tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch; đấu tranh

chính trị và binh vận... góp phần liên tiếp đánh bại các chiến lược chiến tranh của

Mỹ và tay sai, từ chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ đến Việt Nam hóa chiến

tranh, với những chiến công vang dội ở sân bay Biên Hòa, ở Tổng kho Long Bình,

ở cửa ngõ Xuân Lộc... làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch; âm mưu bắt

thanh niên đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng; âm mưu xây dựng các ấp chiến lược,

ấp tân sinh để kìm kẹp nhân dân. Hiệu quả là hàng loạt ấp chiến lược, ấp tân sinh

6

bị phá rã từng mảng ở Hang Nai, ở Đại An... đã góp phần cùng làm nên Đại thắng

mùa Xuân 1975, giải phóng quê hương, thống nhất đất nước, cùng cả nước đi lên

chủ nghĩa xã hội.

Được sống trong điều kiện hòa bình, thanh niên Đồng Nai càng nỗ lực vượt

qua mọi khó khăn thử thách, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, không ngừng

lao động sáng tạo xây dựng và bảo vệ quê hương Đồng Nai, góp phần giữ vững

biên cương của Tổ quốc, nhất là khi nổ ra chiến tranh biên giới. Tổ chức Đoàn

không ngừng được củng cố và phát triển, về cơ bản đã xoá được những cơ sở

trắng Đoàn, kể cả trong các vùng đồng bào dân tộc và đồng bào theo đạo, góp

phần đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên trong tỉnh thực hiện các

nhiệm vụ chính trị của Đoàn. Đặc biệt từ sau khi Đảng khởi xướng đường lối đổi

mới đất nước, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã

không ngừng đổi mới tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, lôi cuốn đông đảo

thanh niên vươn lên lập nghiệp và giữ nước, cùng quân và dân trong tỉnh xây dựng

Đồng Nai phát triển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phấn đấu vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xứng đáng với

“Hào khí Đồng Nai”, với “Miền Đông gian lao mà anh dũng”.....

Từ thực tiễn phong trào cách mạng, những bài học truyền thống về giữ vững

niềm tin cách mạng, tuyệt đối trung thành và luôn luôn tuân theo sự lãnh đạo, giáo

dục của Đảng Cộng sản Việt Nam; về xây dựng tổ chức Đoàn trở thành hạt nhân

đoàn kết, tập hợp thanh niên đi theo định hƣớng đã đƣợc lựa chọn; về sự phối hợp,

liên kết hành động cùng các tổ chức quần chúng trong khối liên minh công nông;

về đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng... luôn có ý nghĩa thực tiễn đối

với quá trình xây dựng, phát triển tổ chức Đoàn trong hiện tại cũng như trong

tương lai.

Với phương pháp tiếp cận duy vật lịch sử, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác

– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, công trình nghiên cứu, biên soạn “Lịch sử Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai 1930–

2000” đã cố gắng phản ánh một cách chính xác, khoa học quá trình phát triển,

trưởng thành của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai.

Quá trình triển khai nghiên cứu, biên soạn “Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai 1930–2000”, Ban

Thường vụ Tỉnh Đoàn và những người biên soạn đã được sự quan tâm chỉ đạo, tạo

điều kiện của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự quan tâm giúp đỡ, cộng tác của

Sở Khoa học công nghệ và môi trường, của các ban, ngành có liên quan, của các

cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ Đoàn qua các thời kỳ, của các nhà khoa học

có tâm huyết... đã giúp cho công trình hoàn thành có chất lượng đảm bảo yêu cầu

đã đặt ra. Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn chân thành cám ơn sự giúp đỡ, cộng tác

7

nhiệt tình, có hiệu quả của các thành viên đã tham gia nghiên cứu, biên soạn, đóng

góp ý kiến xây dựng, bổ sung và tạo điều kiện thuận lợi cho đề tài thu được kết

quả, phản ánh khách quan, khoa học quá trình phát triển của tổ chức Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai.

Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn Đồng Nai trân trọng giới thiệu với các đoàn viên,

hội viên thanh niên và rộng rãi bạn đọc tác phẩm “Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai 1930–2000”.

Tháng 12-2003

Ban Thƣờng vụ Tỉnh Đoàn Đồng Nai

8

Mở đầu

ĐỒNG NAI – MIỀN ĐẤT, CON NGƢỜI VÀ NHỮNG

GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG

I. TỈNH ĐỒNG NAI TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT

TRIỂN.

Kể từ khi Chƣởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (còn có tên Nguyễn

Hữu Kính) đƣợc chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào kinh lƣợc xứ Đàng Trong, thành

lập dinh Trấn Biên (tiền thân của tỉnh Biên Hòa sau này) và dinh Phiên Trấn đến

nay, miền đất Đồng Nai – Gia Định đã xác lập đƣợc hệ thống hành chính trên 300

năm (1698 – 2000) và đã có những đổi thay trên nhiều mặt, kể cả về địa giới hành

chính. Theo sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, đến đầu thế kỷ

XIX (1802), dƣới thời vua Gia Long, Gia Định phủ đƣợc đổi thành Gia Định trấn.

Đến năm 1808 Trấn Biên dinh đƣợc đổi thành Biên Hòa trấn và Gia Định trấn lại

đƣợc đổi thành Gia Định thành, thống quản 5 trấn, gồm: trấn Phiên An (có phủ Tân

Bình), trấn Biên Hòa (có phủ Phƣớc Long), trấn Định Tƣờng (có phủ Kiến Hòa),

trấn Vĩnh Thanh (có phủ Định Viễn) và trấn Hà Tiên. Đứng đầu Gia Định thành là

một Tổng trấn. Đƣợc bổ nhiệm làm Tổng trấn đầu tiên của Gia Định thành là

Nguyễn Văn Nhơn, còn Trịnh Hoài Đức lúc đó làm Hiệp tổng trấn. Đến năm 1812,

Lê Văn Duyệt đƣợc bổ nhiệm làm Tổng trấn. Sau khi Lê Văn Duyệt mất (1832),

vua Minh Mạng bãi bỏ chế độ trấn, lập ra 6 tỉnh, gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định

Tƣờng, Long Hồ (còn gọi là Vĩnh Long), An Giang và Hà Tiên. Cũng từ đó mới có

tên gọi Nam kỳ lục tỉnh để chỉ miền đất Nam bộ.

Xa hơn nữa, có thể vào thời đại đồ đá cũ, con ngƣời đã có mặt tại lƣu vực

Đồng Nai, mà những di tích khảo cổ tìm thấy ở Dầu Giây, An Lộc, Hàng Gòn,

Bình Xuân, Đồi Mít, Đồi Xoài đã cho thấy một sự chuyển biến đáng kể trong tiến

trình phát triển của cƣ dân trong khu vực từ nền kinh tế chiếm đoạt sang nền kinh

tế sản xuất với những công cụ lao động mang tính điển hình là loại rìu bôn có vai

thƣờng chiếm ƣu thế. Các tộc ngƣời đến lƣu vực Đồng Nai có thể từ trên núi

xuống, cũng có thể từ biển vào, mà những đồ gốm cùng hoa văn in cũng nhƣ các di

tích thuộc tiểu hệ thống Cầu Sắt – Óc Eo và các di tích thuộc các nền văn hóa khảo

cổ khác, trong đó có cả ngôi mộ cổ ở Hàng Gòn (Long Khánh) cách ngày nay

khoảng 2.500 năm, đều phản ánh sự có mặt của các tộc ngƣời thuộc văn hóa Sa

Huỳnh, mà nền văn hóa Óc Eo đã tạo cơ sở cho sự xuất hiện Vƣơng quốc Phù

Nam vào thế kỷ I sau Công nguyên. Theo nhiều công trình nghiên cứu thì Phù

Nam là một nƣớc rộng lớn, trong đó bao gồm nhiều nƣớc nhỏ, đƣợc sử sách lâu

9

nay vẫn thƣờng nhắc đến, nhƣ: Bà Lị, Thù Nại, Xích Thổ... Đến thế kỷ thứ VII,

đây là phần đất thuộc Chân Lạp và thế kỷ thứ IX thuộc Vƣơng quốc Khơme. Cũng

theo nhiều nhà nghiên cứu, Bà Rịa ngày nay có thể là nƣớc Bà Lị xƣa, còn Thù Nại

có âm gần giống với Đồng Nai, là vùng đệm giữa hai vƣơng quốc Chămpa và

Chân Lạp. Đại Nam nhất thống chí, quyển XXVII, ghi: “Tỉnh Biên Hòa có lẽ là

nƣớc Bà Lị xƣa, sau là đất Bà Rịa và Đồng Nai” (1). Sách Tân Đường thư chép:

“Nƣớc Bà Lị ở phía đông nam nƣớc Chiêm Thành, phía nam nƣớc này có nƣớc

Thù Nại, sau đời Vĩnh Huy (650 – 655) bị nƣớc Chân Lạp thôn tính”.

Trấn Biên Hòa (1808 – 1832) hay tỉnh Biên Hòa (1832 – 1861) có địa giới

hành chính rất rộng, bao gồm vùng đất các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu,

Bình Phƣớc, một phần tỉnh Bình Dƣơng và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.

Cuối thế kỷ XIX, sau khi đánh chiếm toàn bộ Nam kỳ lục tỉnh, để dễ bề cai

trị, thực dân Pháp đã chia Nam kỳ thành 20 tỉnh, sau đó lại tách Vũng Tàu (thời

Pháp thuộc, Vũng Tàu thƣờng đƣợc gọi là Ô Cấp, xuất xứ từ địa danh do Pháp đặt

là Cap Saint Jacques) khỏi tỉnh Bà Rịa, lập thành một tỉnh riêng. Thời kỳ này địa

giới tỉnh Biên Hòa bao gồm tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Phƣớc, một phần tỉnh Bình

Dƣơng và thành phố Hồ Chí Minh hiện tại.

Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám – 1945 thành công đến tháng 5–1951,

tỉnh Biên Hòa bao gồm cả một phần đất ngày nay thuộc tỉnh Bình Phƣớc, một phần

đất của tỉnh Bình Dƣơng. Từ tháng 5–1951 đến tháng 7–1954, hai tỉnh Biên Hòa

và Thủ Dầu Một đƣợc sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên. Địa giới tỉnh Thủ Biên bao

gồm phần đất các tỉnh Đồng Nai, Bình Dƣơng, Bình Phƣớc, quận Thủ Đức, quận

2, quận 9 (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), trừ huyện Long Thành lúc này đƣợc

giao về tỉnh Bà Rịa – Chợ Lớn.

Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dƣơng đƣợc ký kết. Miền

Nam Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào tạm thời nằm dƣới sự kiểm soát của đối

phƣơng. Từ năm 1957, ngụy quyền Sài Gòn đã tổ chức lại bộ máy hành chính ở

các tỉnh. Chúng lập tỉnh Long Khánh, gồm 2 quận Xuân Lộc và Định Quán (2).

Về phía chính quyền cách mạng, đến thập niên 60, do tình hình cuộc kháng

chiến chống Mỹ phát triển, tỉnh Gia Định đƣợc sáp nhập với thành phố Sài Gòn –

Chợ Lớn thành đặc khu Sài Gòn – Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh), miền

Đông Nam bộ còn 4 tỉnh nằm vắt ngang từ phía tây giáp biên giới nƣớc bạn

Campuchia sang phía đông giáp biển Đông. Tỉnh Biên Hòa cũng nhiều lần đƣợc

(1) Đại Nam nhất thống chí, tập V. Nxb. Khoa học xã hội, H.1971, trang 34 – 35.

(2) Năm 1967, có thêm quận Kiệm Tân. Năm 1974, có thêm quận Bình Khánh.

10

tách nhập với các tỉnh Thủ Dầu Một, Bà Rịa – Long Khánh, hình thành các tỉnh:

Thủ Biên, Bà Biên...

Tỉnh Đồng Nai ngày nay đƣợc thành lập đầu năm 1976, sau ngày miền Nam

hoàn toàn đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất. Là một tỉnh thuộc miền Đông

Nam bộ, Đồng Nai bao gồm vùng đất các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa – Long Khánh và

Tân Phú. Đến năm 1978, huyện Duyên Hải đƣợc tách về thuộc thành phố Hồ Chí

Minh. Năm 1979, Vũng Tàu đƣợc tách ra thành lập đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo.

Năm 1991, 3 huyện ven biển là Xuyên Mộc, Châu Thành, Long Đất đƣợc tách ra

nhập với đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo thành tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tỉnh Đồng

Nai còn lại địa giới hành chính nhƣ hiện nay, phía bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía

tây giáp tỉnh Bình Dƣơng, Bình Phƣớc, thành phố Hồ Chí Minh, phía đông giáp

tỉnh Bình Thuận, phía nam giáp biển Đông và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hiện tại

Đồng Nai có 8 đơn vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn Trạch,

Thống Nhất, Xuân Lộc, Long Khánh, Tân Phú, Định Quán, và thành phố Biên

Hòa, trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa – xã hội của tỉnh, với tổng diện tích

5.866,4 km2 và số dân, theo điều tra ngày 1–4–1999, có 1.982.000 ngƣời, của

khoảng 40 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 92,8% dân

số. Đồng Nai cũng là tỉnh có nhiều ngƣời theo đạo, trong đó có khoảng 700.000

ngƣời theo đạo Công giáo.

II. NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG.

Là tỉnh cửa ngõ đi vào vùng đồng bằng rộng lớn Nam bộ, Đồng Nai có vị trí

hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh tế cũng nhƣ quân sự, vì thế trong quá trình

dựng nƣớc và giữ nƣớc, các thế hệ con ngƣời Đồng Nai đã phải không ngừng

chống chọi với thiên nhiên, giặc giã để sinh tồn và phát triển, làm nên một “Hào

khí Đồng Nai”, với những giá trị lịch sử truyền thống quí báu:

1. Truyền thống chống giặc ngoại xâm.

Từ khi Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh kinh lƣợc xứ Đàng Trong, đặt bản

doanh tại Cù lao Phố, thực hiện kế sách “Định vùng, an dân” với hai chủ trƣơng

quan trọng là: “Khai hoang mở cõi và ổn định, dàn xếp biên cƣơng”, trải qua hơn

300 năm hình thành và phát triển, nhiều thế hệ con ngƣời Biên Hòa– Đồng Nai đã

đứng lên kiên cƣờng chống giặc giữ làng, giữ đất và cũng đã có không ít anh hùng

hào kiệt chọn Đồng Nai để lập căn cứ mƣu đồ nghiệp lớn. Thế kỷ XVII, trong cuộc

tranh chấp quyền lực giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, các chúa

Nguyễn đã lấy vùng đất Trấn Biên và Phiên Trấn làm chỗ dựa để khai mở về

hƣớng đồng bằng sông Cửu Long, thực hiện chính sách khẩn hoang rộng rãi, thu

hút nguồn nhân lực, vật lực để tăng cƣờng quốc phòng, chống lại chúa Trịnh ở

11

Đàng Ngoài. Cửa biển Cần Giờ, sông Lòng Tàu đã từng chứng kiến nhiều chiến

công oai hùng của ngƣời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, trong những lần tiến quân

vào Gia Định. Mùa xuân năm Nhâm Dần, 1782, nghĩa quân Tây Sơn đánh bại đoàn

quân của Nguyễn Ánh, nhấn chìm nhiều tàu đối phƣơng ở cửa sông Cần Giờ, trong

đó có tàu chỉ huy của tên Manuel, cố vấn huấn luyện thủy quân cho Nguyễn Ánh.

Tháng 2 năm Quí Mão, 1783, một lần nữa nghĩa quân Tây Sơn lại đánh bại

đoàn thuyền chiến của Nguyễn Ánh trên sông Lòng Tàu, tiến chiếm Gia Định. Khi

Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm, năm 1785, nghĩa quân Tây Sơn, do Nguyễn Huệ

chỉ huy lại theo sông Lòng Tàu tiến quân về Rạch Gầm - Xoài Mút đánh tan 5 vạn

quân Xiêm và 300 chiến thuyền của chúng.

Khi thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta lần thứ nhất, nhân dân Nam bộ không dễ

đầu hàng giặc nhƣ triều đình nhà Nguyễn. Một lần nữa, nhân dân vùng Nhơn

Trạch, với địa thế sông rạch hiểm trở, đã là chỗ dựa quan trọng để Bình Tây Đại

nguyên soái Trƣơng Định tụ tập nghĩa quân, xây dựng căn cứ chống giặc ngoại

xâm suốt 3 năm (1861 - 1864).

Tháng 2-1861, sau khi đại đồn Phú Thọ (Chí Hòa) thất thủ, Nguyễn Tri

Phƣơng chỉ huy 600 quân triều đình rút về thành Biên Hòa để tổ chức chiến đấu.

Ngày 14-12, quân Pháp cho hai cánh quân thủy, bộ tiến công thành Biên Hòa, quân

triều đình chống trả quyết liệt. Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng, em trai Nguyễn Tri

Phƣơng, lãnh đạo nghĩa quân Long Thành, chỉ bằng vũ khí thô sơ đã chặn đánh

quyết liệt quân địch trên đƣờng 17 và 19, gây cho chúng nhiều thƣơng vong.

Tháng 8-1864, Trƣơng Định hy sinh, con trai ông là Trƣơng Quyền, một thanh

niên yêu nƣớc, nối nghiệp cha, anh dũng tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến.

Trƣơng Quyền cho lập căn cứ ở Giao Loan (Rừng Lá) chiêu tập nhiều nghĩa quân

trẻ tuổi, trong đó có nhiều đồng bào và thanh niên dân tộc Châu Ro, Stiêng... liên

tục tiến công quân địch ở nhiều nơi, trong sự che chở, đùm bọc của nhân dân, gây

nhiều khó khăn cho công cuộc bình định của thực dân Pháp ở miền Đông Nam bộ.

Mặc dù triều đình nhà Nguyễn đã ký nhƣợng 3 tỉnh miền Đông cho thực dân

Pháp (Hòa ƣớc Nhâm Tuất, 1862), nhƣng phong trào đấu tranh của nhân dân Biên

Hòa- Đồng Nai do các sĩ phu yêu nƣớc lãnh đạo vẫn tiếp tục diễn ra dƣới nhiều

hình thức. Nguyễn Thành Ý, Phan Trung tập hợp nhân dân cùng tham gia xây

dựng hai căn cứ là Bàu Cá (nay thuộc huyện Thống Nhất) và Giao Loan (nay thuộc

huyện Xuân Lộc) ở Biên Hòa để tạo điều kiện cho nghĩa quân chiến đấu lâu dài;

Đoàn Văn Cự xây dựng căn cứ ở Bƣng Kiệu (ấp Vĩnh Cửu, phƣờng Tam Hiệp,

thành phố Biên Hòa), chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang (1905). Đêm 14-2-1916,

một tổ chức yêu nƣớc có vũ trang ở Trại Lâm Trung - Biên Hòa đã mở cuộc tiến

công đồng loạt vào các nhà làng Tân Trạch, Tân Lƣơng, Tân Khánh, Bình Phƣớc,

12

Lò Gạch và khám đƣờng Biên Hòa, dinh chủ tỉnh Biên Hòa giải thoát nhiều thanh

niên bị thực dân Pháp cƣỡng ép đi lính.

Các cuộc nổi dậy đó đều bị dìm trong biển máu, nhƣng tinh thần yêu nƣớc

của nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai vẫn không thể bị dập tắt, để khi gặp những tƣ

tƣởng của thời đại do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này

và các học trò của Ngƣời truyền đến, lập tức nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai đã

đứng dậy, với Phú Riềng đỏ, với Bình Phƣớc - Tân Triều bất khuất, cùng cả nƣớc

làm nên Cách mạng tháng Tám - 1945 lịch sử. Tiếp đó, trong hai cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, để giữ nền độc lập dân tộc, với địa bàn chiến

lƣợc quan trọng, có Chiến khu Đ nổi tiếng, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, quân và

dân Biên Hòa - Đồng Nai đã lập nên nhiều chiến công vang dội, ở Là Ngà (1-3-

1948) đánh tan đoàn xe công voa của Pháp; ở cầu Bà Kiên và dọc các Quốc lộ 1,

15, các tỉnh lộ 16, 24... đập tan hệ thống tháp canh của thực dân Pháp, sáng tạo nên

lối đánh đặc công đầy uy lực; ở khám Tân Hiệp (2-12-1956) nổi dậy giải thoát một

lúc gần 500 tù nhân chính trị; ở Nhà Xanh (7-7-1959) lần đầu đánh thắng Mỹ; ở

sân bay Biên Hòa (31-10-1964), Tổng kho Long Bình (tháng 6, 10, 11, 12-1966;

tháng 2-1967; Xuân Mậu Thân 1968 và tháng 8-1972) phá hủy nhiều phƣơng tiện

chiến tranh của địch và cuối cùng, ngày 21-4-1975, đập tan cánh cửa thép Xuân

Lộc, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền

Nam, thống nhất đất nƣớc.

2. Truyền thống cần cù, sáng tạo, đoàn kết, tƣơng thân tƣơng ái

trong lao động sản xuất.

Làm trai cho đáng nên trai

Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng.

Câu ca dao ấy đã phản ánh những tiềm ẩn của một vùng đất, đòi hỏi những

con ngƣời khám phá nó một dũng khí, dám chấp nhận thử thách, dám đi tới tận

cùng những khát vọng. Bởi miền đất Đồng Nai không thiếu tiềm năng, nhƣng cũng

chứa đựng không ít những thách thức mà nếu không có dũng khí, con ngƣời rất

khó vƣợt qua, chƣa nói đến việc chinh phục nó để làm phong phú cho cuộc sống

của mình. Nhà sử học Lê Quí Đôn từng mô tả trong Phủ Biên tạp lục: “... ở phủ

Gia Định, đất Đồng Nai từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở

vào toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm”. Tại vùng đất mênh mông ấy, con ngƣời đã

có mặt rất sớm. Hơn 300 năm trƣớc, ít ra là từ cuối thế kỷ XVI, ngƣời Việt đã có

mặt và ra công khai khẩn những vùng rừng rú bạt ngàn, những bãi sình lầy ngập

tràn thành những cánh đồng phì nhiêu. Gặp lúc mƣa thuận gió hòa, nghề nông phát

triển, đời sống ngƣời dân khá lên trông thấy. Xóm làng mọc lên trù phú, thu hút

nhiều bà con ở Đàng Ngoài đến sinh cơ lập nghiệp. Những năm 30 của thế kỷ

13

XVII, nhiều ngƣời Việt chống đối cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa hai tập

đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn tìm vào vùng đất phƣơng Nam sinh sống. Nhất là

từ sau năm 1698, ngƣời Việt từ Ngũ Quảng (tức 5 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị,

Quảng Đức - tức Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi) đã tìm đƣờng vào

Đồng Nai ngày càng đông. Năm 1679, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cho một bộ

phận ngƣời Hoa chống đối chính quyền Mãn Thanh vào định cƣ ở xứ Bàn Lân,

cùng ngƣời Việt và cƣ dân bản địa là ngƣời các dân tộc Châu Ro, Mạ... ra công

khai phá, biến những vùng đất hoang vu thành ruộng vƣờn phì nhiêu, màu mỡ,

biến những nơi vắng vẻ, “rừng thiêng, nƣớc độc” thành xóm làng đông vui.

Nơi Trấn Biên xưa có miền đất đỏ

Liền biển xanh một dải mênh mông

Trời hôm vừa loé rạng đông

Từng đoàn lũ lượt ra công dựng là (1)

Sách Đại Nam nhất thống chí còn ghi lại những nét văn hóa trong đời sống

của con ngƣời Biên Hòa - Đồng Nai: “đất đai màu mỡ, sinh sống dễ dàng, kẻ sĩ

chăm học, dân siêng canh cửi”. Trong sản xuất nông nghiệp, bên cạnh đức tính cần

cù, nhẫn nại, biết chung lƣng đấu cật chống chọi với thiên nhiên, thú dữ... ngƣời

dân còn biết áp dụng những kinh nghiệm quí báu và kiến thức cổ truyền trong nghề

trồng lúa nƣớc đƣợc tích lũy từ bao đời để tăng sản lƣợng cây trồng. Ngoài việc

khẩn hoang trồng lúa, ngƣời Việt, cũng nhƣ cƣ dân bản địa và ngƣời Hoa còn chú

trọng các loại hoa màu, nhƣ: khoai, đậu, bắp, mè, bông, dâu, mía, chuối, mít, đu

đủ... và lập vƣờn xung quanh nhà, với quang cảnh “trƣớc vƣờn, sau ruộng”, tạo

không khí thoáng đãng, đầm ấm.

Vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai còn có nhiều nguyên vật liệu để phát triển các

ngành nghề thủ công. Vì vậy, bên cạnh việc phát triển nghề nông, ngƣời dân còn

chú tâm phát triển các ngành nghề làm ra các vật dụng thiết yếu, nhƣ mộc, gốm,

gạch, đúc đồng, chế tác các công cụ bằng sắt... Nhiều thợ thủ công lành nghề xuất

hiện và dần dần tách hẳn khỏi nghề nông, tạo dựng nên những làng nghề chuyên

sản xuất những sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ngày càng cao của ngƣời dân.

Nhiều làng nghề còn lƣu lại những dấu tích đến tận ngày nay, nhƣ các vò, lu, đôn...

tại phƣờng Bửu Hòa - Tân Vạn; lò thổi Bến Gỗ - trấn Biên Hòa, nơi tập trung khai

thác sắt và làm đồ sắt; xóm chợ Chiếu (Cù lao Phố - Biên Hòa), chuyên đan chiếu,

bán chiếu... Đặc biệt, gốm mỹ nghệ Biên Hòa đã đánh dấu sự phát triển nghề gốm

Đồng Nai, với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa Đông và Tây,

kết quả của sự lao động sáng tạo của ngƣời thợ thủ công Biên Hòa. Từ năm 1903,

(1) Trịnh Hoài Đức – Văn hoá Nam Hà.

14

tại Biên Hòa đã thành lập Trƣờng Mỹ nghệ thực hành, là nơi đầu tiên ở Nam bộ

đào tạo những nghệ nhân làm gốm mỹ nghệ. Nghề làm đá Biên Hòa ra đời rất sớm.

Trấn Biên Hòa xƣa nhiều nơi có mỏ đá ong (phong thạch), là nguyên liệu đƣợc

nhân dân sử dụng trong xây cất nhà, lăng mộ. Một số địa phƣơng có nghề làm đá

ong nổi tiếng nhƣ: Tân Phong, Bình Đa, Bình Ý...

Bằng tinh thần đoàn kết, lao động sáng tạo, ngƣời Trấn Biên xƣa đã xây dựng

nên một “Nông Nại đại phố” – thƣơng cảng sầm uất ở Nam bộ lúc bấy giờ.

Tự hào và tiếp bƣớc truyền thống của cha ông, các thế hệ con ngƣời Biên Hòa

– Đồng Nai, nhất là từ sau khi đất nƣớc đƣợc độc lập, thống nhất, dƣới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã nỗ lực vƣợt bậc, vƣơn lên giành những thành tựu

đáng tự hào: an ninh chính trị đƣợc giữ vững, kinh tế tăng trƣởng với tốc độ cao và

đang chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ thƣơng mại. Sự

nghiệp văn hóa – giáo dục – y tế đều đƣợc quan tâm phát triển, đời sống của ngƣời

dân lao động không ngừng đƣợc nâng cao... tạo những tiền đề quan trọng để Đồng

Nai vững bƣớc đi lên thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa

đất nƣớc.

3. Truyền thống văn hóa.

Trong tiến trình lịch sử hơn 300 năm xây dựng và phát triển, các bậc tiền

nhân đã để lại một “Hào khí Đồng Nai” với nền văn hóa dung hợp phong phú, kết

hợp với truyền thống 4.000 năm văn hiến của dân tộc, để hình thành tính cách

ngƣời Đồng Nai bộc trực, chân thật, ghét cái ác, nghĩa khí và hào phóng. Ngƣời

dân Biên Hòa – Đồng Nai có quyền tự hào là nơi sớm xây dựng Văn miếu Trấn

Biên (1715 – Ất Mùi), một biểu tƣợng của truyền thống văn hóa: hiếu học, tôn sƣ

trọng đạo. Nhiều nhân tài của đất nƣớc đã đƣợc đào tạo tại Văn miếu Trấn Biên,

trong đó có Trịnh Hoài Đức, một nhà văn hóa ƣu tú của Đồng Nai ở thế kỷ XVIII.

Ông là ngƣời học rộng tài cao, một vị quan thanh liêm, nhƣng hơn hết ông là một

nhà văn hóa đƣợc xƣng tụng là một trong “tam gia” của Gia Định (Trịnh Hoài Đức

– Lê Quang Định – Ngô Nhơn Tĩnh). Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó

có bộ sách Gia Định thành thông chí, một công trình văn hóa, lịch sử không thể

thiếu trong việc nghiên cứu con ngƣời, vùng đất văn hóa phía Nam. Trong quá

trình hình thành và phát triển, Biên Hòa – Đồng Nai còn sản sinh nhiều nhà văn

hóa, nhƣ Bùi Hữu Nghĩa, một trong những nhà thơ tiêu biểu của Nam bộ thế kỷ

XIX, đƣợc nhân dân truyền tụng qua câu thơ:

Đồng Nai có bốn rồng vàng

Lộc họa, Lễ phú, San đàn, Nghĩa thi.

Truyền thống văn hóa của Biên Hòa– Đồng Nai còn đƣợc phản ánh trong đời

sống sinh hoạt hàng ngày của ngƣời dân thông qua các hoạt động nhƣ: các nghi lễ

15

thờ cúng ông bà tổ tiên, lễ cƣới, lễ tang, tập quán, tín ngƣỡng... những hình thức

sinh hoạt văn hóa dân gian trong lao động đƣợc thể hiện qua: hát hò cấy lúa, hò

chèo xuồng (hình thức đối đáp giữa hai bên trai và gái thể hiện sự thông minh dí

dỏm của ngƣời dân lao động) , điệu lý lu là, lý trèo lên, kể vè, đồng dao, đờn ca tài

tử, hát tuồng... Về nghi lễ tôn giáo có: hát múa Địa – Nàng, bóng rỗi (ở lễ hội cúng

miễu và lễ Đứng cái, lễ Xây chầu) với mong ƣớc quốc thịnh, dân cƣờng, an khang,

hạnh phúc.

Nhiều di tích văn hóa còn tồn tại đến ngày nay nhƣ: mộ cổ Hàng Gòn, đàn đá

Bình Đa, cổ vật Nam Cát Tiên, chùa Bửu Phong, chùa Bửu Sơn, đình Tân Lân,

đình Mỹ Khánh, di tích Đài Kỷ niệm, lăng mộ Trịnh Hoài Đức, đình Phú Mỹ, mộ

và đền thờ Đoàn Văn Cự... đều thể hiện những nét văn hóa đặc sắc của Biên Hòa –

Đồng Nai.

Trong thế kỷ XX, trên mảnh đất Biên Hòa – Đồng Nai đã xuất hiện nhiều nhà

văn, nhà thơ tiêu biểu nhƣ: Bình Nguyên Lộc, Lƣơng Văn Lựu, Lý Văn Sâm...

Trong đó, nhà thơ chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ mãi mãi khắc sâu trong lòng bao thế

hệ con ngƣời “miền Đông gian lao mà anh dũng” với bài thơ Nhớ Bắc, nói lên nỗi

lòng của ngƣời dân miền Nam luôn hƣớng về đất Tổ:

“Ai về Bắc ta theo với

Thăm lại non sông giống Lạc Hồng

Từ độ mang gươm đi mở cõi

Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”

Kế thừa và phát huy những bản sắc văn hóa của 300 năm Biên Hòa– Đồng

Nai, Đồng Nai hôm nay cùng cả nƣớc trên bƣớc đƣờng đổi mới và hội nhập với

cộng đồng thế giới, vẫn không ngừng phát huy những giá trị truyền thống vốn có

trong điều kiện mới, góp phần xây dựng Biên Hòa – Đồng Nai ngày càng vững về

chính trị, mạnh về quốc phòng – an ninh, đảm bảo vững chắc cho quá trình phát

triển Biên Hòa – Đồng Nai theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

III. NHỮNG LỢI THẾ PHÁT TRIỂN.

Là vùng trung du chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung bộ và đồng bằng

sông Cửu Long, tỉnh Đồng Nai có lợi thế trên nhiều mặt. Trải qua quá trình kiến

tạo địa chất hàng ngàn năm, miền đất Đồng Nai có độ dốc trung bình dƣới 100 m,

độ cao giảm dần từ đông sang tây – nam. Địa hình có độ dốc dƣới 15o chiếm 80%

đất tự nhiên, trong đó dạng địa hình đồi núi cao nhất trung bình cũng chỉ trên 300

mét so với mặt biển; dạng địa hình đồng bằng đƣợc cấu tạo bởi phù sa trẻ, loại thấp

16

nhất độ cao trung bình chỉ 0,5 – 5 mét, nằm trong khu vực hạ lƣu sông Đồng Nai,

nhƣ Long Thành, Nhơn Trạch.

Về thổ nhưỡng, Đồng Nai có 3 nhóm đất chính:

Đất hình thành trên đá bazan, chiếm 229.416 ha (39,1%), phân bố chủ yếu ở

các huyện Tân Phú, Định Quán, Long Khánh, phía nam huyện Xuân Lộc, phía

đông huyện Long Thành, phía đông huyện Thống Nhất. Đất có nền hạ tƣơng đối

vững, nhiều điểm cao, thuận lợi cho việc cơ động, triển khai các phƣơng tiện, thiết

bị quân sự.

Đất hình thành trên nền phù sa cổ và phiến sét chiếm diện tích 246.380 ha

(41,9%), phân bố ở các huyện Xuân Lộc, Long Thành, Thống Nhất, phía đông

huyện Vĩnh Cửu, Nhơn Trạch, thành phố Biên Hòa. Đất có nền hạ vững, hệ thống

giao thông thuận tiện, thuận lợi cho việc xây dựng các công trình công nghiệp và

quân sự.

Đất hình thành trên các trầm tích sông, trầm tích biển, đầm lầy, có diện tích

58.400 ha (9,9%), phân bố chủ yếu ở phía tây huyện Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn

Trạch, thành phố Biên Hòa, một phần diện tích bị nhiễm mặn nhƣ ở phía tây nam

huyện Nhơn Trạch. Là vùng đất có nhiều kênh rạch, sông ngòi.

Đồng Nai có hệ thống sông ngòi, hồ, ao, đầm đƣợc phân bố đều ở các vùng,

không những tạo ra nguồn thủy năng lớn (1), còn mở ra hƣớng nuôi trồng thủy sản

có hiệu quả. Sông Đồng Nai là một trong hai con sông lớn ở Nam bộ – là con sông

lớn thứ ba Việt Nam phát tích trong nội địa, bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh, dài

450 km, đoạn chảy qua Đồng Nai dài 290 km, với lƣu lƣợng lên tới 485 m3/giây.

Sông Đồng Nai có hai phụ lƣu là sông La Ngà và sông Bé. Đoạn sông La Ngà chảy

qua tỉnh dài 90 km, lƣu lƣợng 100 m3/giây. Đoạn sông Bé chảy qua tỉnh dài 22 km,

lƣu lƣợng 133 m3/giây. Ngoài hệ thống sông Đồng Nai, các con sông lớn khác nhƣ

sông Ray, sông Thị Vải, sông Lòng Tàu đều có những tiềm năng đáng kể, không

chỉ cho nguồn năng lƣợng lớn mà còn thuận lợi trong giao thông. Với độ mớn

nƣớc sâu, những sông lớn ở Đồng Nai có đủ điều kiện cải tạo xây dựng thành

những bến cảng thuận tiện cho tàu thuyền hàng ngàn tấn ra vào ăn hàng.

Nguồn sản phẩm từ rừng của Đồng Nai còn khá lớn. Trƣớc đây, rừng Đồng

Nai chiếm 45% diện tích đất tự nhiên. Do nhiều nguyên nhân, rừng Đồng Nai hiện

chỉ còn khoảng 19,2% (số liệu đến tháng 10–1995). Trong đó có 130.789 ha rừng

tự nhiên, với trữ lƣợng gỗ trên 4 triệu m3, với nhiều loại gỗ quí nhƣ cẩm lai, gõ

(1) Nguồn thủy năng Đồng Nai, theo lý thuyết có thể tạo ra khoảng 581,5 ngàn KW. Trong đó

sông Đồng Nai chiếm 508,572 KW; sông Buông 765 KW; sông La Ngà 114 KW; sông

Ray 40 KW.

17

mật, gụ, giáng hƣơng, sao, trắc, mun; hàng triệu cây tre, nứa và nhiều loại cây

dƣợc liệu quí... Rừng Đồng Nai còn có nhiều loại thú quí, hiếm nhƣ tê giác, voi, bò

tót, hƣơu, nai, sơn dƣơng, khỉ, vọc... Đặc biệt, khu rừng nguyên sinh Nam Cát Tiên

nối liền với rừng của hai tỉnh Lâm Đồng, Bình Phƣớc rộng trên 35 ngàn hécta đã

đƣợc qui hoạch thành khu rừng quốc gia (1).

Ngoài ra, Đồng Nai còn có hàng chục ngàn hécta rừng sác (rừng ngập mặn)

ven sông Thị Vải, sông Lòng Tàu thuộc hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch, nối

liền với vùng rừng sác thuộc huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và huyện

Cần Giờ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Chính khu rừng sác giáp ranh 3 địa

phƣơng này trong hai cuộc kháng chiến thần thánh, chống thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ, đã trở thành căn cứ “Chiến khu Đ” nổi tiếng của quân và dân ta. Đồng

Nai còn có hệ thống rừng trồng phong phú. Trong tổng số hơn 40.632 ha rừng

trồng của tỉnh, có trên 30.000 ha là rừng cao su, đƣợc trồng từ những năm đầu thế

kỷ XX, dọc các Quốc lộ 1, 15, 20 và liên tỉnh lộ số 2.

Đồng Nai cũng là tỉnh có tiềm năng khóang sản nhƣ: vàng ở Hiếu Liêm;

thiếc, chì, kẽm ở núi Chứa Chan – ở dạng hợp chất sulfur và carbonade, mỏ đá có

ở Trảng Bom, Vĩnh Tân, Hóa An, Bình Hóa, Tân Bản, Tân An, Sóc Lu...; cao lanh

có ở Tân Phong; than bùn ở Phú Bình, đất sét ở Thiện Tân, Hóa An; cát trên sông

Đồng Nai...

Nằm ở 10o22'33'' vĩ độ Bắc, khí hậu Đồng Nai thuộc loại nhiệt đới gió mùa,

quanh năm khô nóng, trung bình hàng năm có từ 2.000 đến 2.500 giờ nắng; nhiệt

độ không chênh lệch nhau quá lớn, bình quân từ 25,4 độ C đến 27,20 độ C (nóng

nhất vào các tháng 4, tháng 5). Lƣợng mƣa hàng năm đạt từ 1.800 đến 1.860 mm

(mùa mƣa chiếm tới 90%)...

Từ một vùng đất hoang, rừng rậm, đầm lầy, đƣợc ngƣời Việt Đàng Ngoài

khai phá từ cuối thế kỷ XVI, nhờ có địa thế thuận lợi, có hệ thống giao thông, cả

đƣờng bộ, đƣờng thủy, đƣờng sắt... thuận tiện, những năm đầu thế kỷ XX, trong

quá trình mở rộng khai thác thuộc địa tại Việt Nam, thực dân Pháp đã xây dựng

nhiều đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ. Năm 1917, các đồn điền cao su mới

chiếm 17.000 ha, đến năm 1929, diện tích đó đã tăng lên 100.000 ha. Theo đó, số

lƣợng công nhân làm trong các đồn điền cũng tăng lên nhanh chóng, góp phần

đáng kể trong quá trình phát triển lực lƣợng cách mạng của tỉnh.

(1) Rừng Nam Cát Tiên có 185 loài thực vật thuộc 73 họ, 133 giống. Trong đó có 54 loài gỗ quí,

24 loài cây thuốc (có 8 loại cây chứa vitamin), 11 loài cây cho dầu và quả. Thú rừng có 62

loài, thuộc 25 họ, 22 loài bò sát thuộc 12 họ; 121 loài chim, thuộc 43 họ.

18

Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn đƣợc giải phóng (30–4–1975), đất nƣớc

thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, Luật

Đầu tƣ nƣớc ngoài của Nhà nƣớc, các chính sách hợp tác đầu tƣ ngày càng cởi mở,

cộng với những điều kiện thuận lợi về giao thông, cơ sở hạ tầng, lao động... công

nghiệp Đồng Nai càng có cơ hội phát triển nhanh chóng. Đồng Nai đã qui hoạch

17 khu công nghiệp, trong đó có 10 khu công nghiệp đã đƣợc Chính phủ phê duyệt

và đang đi vào hoạt động có hiệu quả. Tính đến tháng 9 năm 2000, đã có 260 giấy

phép đƣợc cấp và đang có hiệu lực với vốn đăng ký là 4,4 tỷ USD. Trong xu thế

phát triển, cùng với lợi thế về lãnh thổ, Đồng Nai là tỉnh có tiềm năng lớn về phát

triển kinh tế ở khu vực Đông Nam bộ.

Với truyền thống con ngƣời Đồng Nai anh hùng, bất khuất, lại có đƣợc những

lợi thế về địa lý và tình hình kinh tế – xã hội phát triển là thời cơ thuận lợi để thanh

niên Đồng Nai vƣơn lên trên con đƣờng lập thân lập nghiệp, cống hiến và trƣởng

thành. Tính đến thời điểm 1–4–1999 thanh niên Đồng Nai ở độ tuổi từ 15 đến 28

tuổi có 520.375 ngƣời, chiếm khoảng 1/4 dân số toàn tỉnh. Đây là nguồn nhân lực

trẻ, có kiến thức văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật, thể chất, tinh thần mạnh mẽ,

nhiệt tình, năng động... sẵn sàng đáp ứng nhu cầu phát triển công cuộc công nghiệp

hóa – hiện đại hóa. Trong những năm qua, thanh niên tỉnh Đồng Nai luôn nhận

đƣợc sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh; sự định hƣớng, hỗ

trợ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai trên các lĩnh vực...

là điều kiện để tuổi trẻ tự bộc lộ và phát huy những tiềm năng vốn có, biết phát

huy, khai thác những lợi thế phát triển, góp phần đáng kể cùng với các tầng lớp

nhân dân trong tỉnh, dƣới sự lãnh đạo của Tỉnh Đảng bộ, làm cho Đồng Nai ngày

càng khởi sắc, vững vàng đi lên trên con đƣờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

phấn đấu xây dựng Đồng Nai trở thành một tỉnh giàu về kinh tế, vững về chính trị,

mạnh về quốc phòng, an ninh, thực hiện xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

19

PHẦN THỨ NHẤT

TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN,

THANH NIÊN BIÊN HÒA– ĐỒNG NAI TRONG SỰ NGHIỆP

ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ

KHÁNG CHIẾN CHỐNG

THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC

1930 – 1954

20

Chƣơng I

DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG,

THANH NIÊN BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI

ĐỨNG LÊN CÙNG NHÂN DÂN

TIẾN HÀNH CUỘC ĐẤU TRANH

GIÀNH CHÍNH QUYỀN

1930 – 1945

I. LỚP THANH NIÊN YÊU NƢỚC ĐẦU TIÊN ĐƢỢC GIÁC

NGỘ, SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU DƢỚI NGỌN CỜ CỦA ĐẢNG.

Từ cuối thế kỷ XIX, hệ thống thuộc địa đã trở thành cơ sở quan trọng cho sự

tồn tại của chủ nghĩa đế quốc. Pháp tăng cƣờng bóc lột tại thuộc địa, vốn đầu tƣ

của tƣ bản Pháp vào Việt Nam từ năm 1924 đến năm 1930 tăng hơn 6 lần so với

thời kỳ từ năm 1898 – 1918. Tại Biên Hòa, chúng xây dựng hệ thống xí nghiệp

công nghiệp, lập những công ty đồn điền khai thác cao su, bắt đầu đổ vốn đầu tƣ

khai thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của ngƣời dân. Cùng với quá trình

này, giai cấp công nhân Biên Hòa – Đồng Nai từng bƣớc hình thành. Trƣớc năm

1914, số lƣợng công nhân làm ở các công trƣờng, xí nghiệp, các đồn điền cao su ở

Biên Hòa là 2.500 ngƣời. Đến năm 1930, riêng công nhân cao su ở Biên Hòa đã

tăng hơn 4 lần (1).

Hình thức tuyển dụng của tƣ bản thực dân là “mộ phu” hoặc ký “giao kèo”.

Sự thật của hình thức tuyển dụng này nhƣ báo Vonlonté Indochinoise (Ý chí Đông

Dương) ra ngày 10–8–1927 vạch trần “Đó là sự tái bản vào giữa thế kỷ XX này cái

chợ buôn nô lệ” (2). Những đồn điền cao su của thực dân Pháp ở Biên Hòa không

khác gì một thứ “địa ngục trần gian”, vì thế mâu thuẫn giữa công nhân với bọn chủ

tƣ bản ngày càng trở nên gay gắt. Ngoài thanh niên công nhân, thanh niên nông

dân cũng là nạn nhân của chế độ thực dân, phong kiến. Họ không còn tƣ liệu sản

xuất và trở thành những phu nô lệ làm thuê, làm mƣớn cho bọn địa chủ. Thêm vào

đó là nạn thuế khóa nặng nề, lao dịch quanh năm, nên cuộc sống của ngƣời thanh

(1) Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, tập 1. Nxb. Đồng Nai, 1997, tr.

25.

(2) Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, tập 1 (sđd).

21

niên nông dân, cũng nhƣ cha anh họ ngày càng bần cùng, luôn túng bấn, nợ nần,

đói rét.

Biên Hòa còn là nơi có nhiều cơ sở tiểu thủ công nghiệp lâu đời nhƣ nghề làm

gạch ngói, nghề làm gốm... nên rất đông thợ thủ công. Ở Biên Hòa còn có một số

thanh niên công chức, tƣ chức nhỏ, giáo viên, học sinh... nhƣng dƣới chế độ thực

dân, phong kiến, họ phải chạy ăn hàng ngày. Trình độ dân trí rất thấp, trên 95%

ngƣời dân Biên Hòa mù chữ.

Cũng vào thời gian này, ngƣời thanh niên nhiệt tình yêu nƣớc Tôn Đức Thắng

đã bí mật vận động tổ chức Công hội ở Sài Gòn, góp phần thúc đẩy phong trào yêu

nƣớc của nhân dân ta, tạo ra một cơ hội để tập hợp thêm quần chúng cách mạng.

Sau đó, nhiều thủy thủ Việt Nam trở về nƣớc mang theo báo Người cùng khổ, Việt

Nam hồn, cùng nhiều sách báo tiến bộ khác, đặc biệt là cuốn Bản án chế độ thực

dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc và bức thƣ “Gửi thanh niên Việt Nam” của Ngƣời

“đã trả lời đúng ý nghĩa, nguyện vọng và tâm tình của thế hệ thanh niên lúc bấy

giờ” (1).

Sau khi một số thanh niên tiên tiến của Nam bộ bí mật sang Quảng Châu tìm

đến các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của Ngƣời tổ

chức tại số nhà 13A phố Văn Minh trở về, tháng 10 năm 1926, các hội viên Việt

Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội gồm Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn

Lợi đƣợc cử về Sài Gòn xây dựng cơ sở. Bắt đƣợc liên lạc và thu nhận các cơ sở

Công hội bí mật của đồng chí Tôn Đức Thắng, mạng lƣới Kỳ bộ Việt Nam Thanh

niên cách mạng đồng chí Hội Nam kỳ và Sài Gòn phát triển nhanh chóng, mạnh

mẽ. Từ cuối năm 1926 cho đến vài năm sau, số hội viên Việt Nam Thanh niên cách

mạng đồng chí Hội các tỉnh Nam kỳ đã có khoảng hơn 500 ngƣời.

Tại Biên Hòa, một số tiểu tổ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội

đƣợc xây dựng ở đồn điền Cao su Cam Tiêm (nay là Nông trƣờng Cao su Ông

Quế), Đề pô xe lửa Dĩ An. Tháng 4–1928, chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng

đồng chí Hội đồn điền Cao su Phú Riềng đƣợc thành lập (thời kỳ này Phú Riềng

thuộc tỉnh Biên Hòa) gồm có 5 hội viên là Nguyễn Xuân Cừ, Trần Tử Bình và các

đồng chí Tạ, Hồng, Hòa do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thƣ. Có thể coi đây

là tổ chức cách mạng đầu tiên đã tập hợp đƣợc nhiều thanh niên yêu nƣớc của Biên

Hòa cùng tham gia. Đồng chí Phạm Văn Đồng, sau khi học ở Trƣờng chính trị

Quảng Châu đƣợc Bác Hồ cử về Nam kỳ hoạt động, đã nhiều lần đến Biên Hòa,

trong đó có thời gian thâm nhập vào các đồn điền cao su, nơi có các cơ sở Việt

(1) Những chặng đường vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh – Nxb. Thanh

Niên, H, 1986, trang 64

22

Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội và có nhiều cán bộ của Hội đang thực

hiện “vô sản hóa”. Đó thật sự là những “vƣờn ƣơm” đầy sức sống. Nhờ đó, chỉ ít

lâu sau (trong vài năm) hầu nhƣ các tỉnh ở Nam kỳ “đều có chi nhánh Việt Nam

Thanh niên cách mạng đồng chí Hội” (1).

Việc phát triển các cơ sở Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội và

quá trình thâm nhập quần chúng của cán bộ Hội đã góp phần làm dấy lên phong

trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngày 20–9–1928, hơn

400 công nhân cao su ở đồn điền Cam Tiêm đồng loạt bãi công đòi thực hiện

những điều khoản trong “giao kèo” mà họ đã ký với chủ đồn điền. Cuộc bãi công

kéo dài từ sáng đến chiều. Công nhân dùng gậy gộc bao vây văn phòng Sở. Bọn

chủ, sếp hoảng sợ bỏ trốn sang đồn điền Dầu Giây, đồng thời cho ngƣời đến đồn

điền Xuân Lộc điện báo về Biên Hòa xin tăng viện lực lƣợng. Tên Tỉnh trƣởng

Biên Hòa cấp tốc đƣa lính đến Cam Tiêm để đàn áp. Một cuộc đụng độ đẫm máu

giữa công nhân cao su và hiến binh Pháp đã diễn ra làm hàng chục ngƣời chết và bị

thƣơng.

Cuộc đấu tranh quyết liệt đến mức bọn cầm quyền và chủ tƣ bản phải sử dụng

đến hiến binh, làm xôn xao và gây xúc động dƣ luận quần chúng trong nƣớc và cả

bên Pháp. Tổng Liên đoàn Lao động Pháp đã lên tiếng phản đối sự đàn áp của bọn

tƣ bản thực dân và bày tỏ sự đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp công

nhân Việt Nam và công nhân Cam Tiêm.

Vào thời gian công nhân cao su nổi lên đấu tranh chống bọn chủ quyết liệt

bằng nhiều hình thức từ thấp lên cao, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân

dân phát triển khắp các nơi trong nƣớc. Đầu tháng 8 năm 1929, đồng chí Châu Văn

Liêm và một số đồng chí khác trong Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng

chí Hội Nam kỳ đã đứng ra thành lập An Nam Cộng sản Đảng tại Sài Gòn và tháng

11–1929, Ban lâm thời chỉ đạo (tức Trung ƣơng lâm thời) của Đảng đƣợc chỉ định

gồm 5 đồng chí do đồng chí Châu Văn Liêm làm Bí thƣ (2).

Từ cuối năm 1929 đến đầu năm 1930, tại nhiều nơi ở tỉnh Biên Hòa đã xây

dựng đƣợc các cơ sở Đảng mà hầu hết đảng viên đều là hội viên Việt Nam Thanh

niên cách mạng đồng chí Hội nhƣ ở Đề pô xe lửa Dĩ An, Nhà máy cƣa BIF (nay là

Nhà máy tổng hợp chế biến gỗ Tân Mai), các đồn điền cao su Cam Tiêm, Cuộc-tơ-

nay... Tại 2 cơ sở công nghiệp lớn là Nhà máy cƣa BIF và Đề pô xe lửa Dĩ An, các

đồng chí Châu Văn Liêm, Phạm Hữu Lầu, Nguyễn Trọng Nhã đƣợc bố trí vào làm

(1) Theo lời kể của đồng chí cố vấn Phạm Văn Đồng – Tài liệu lƣu trữ số 1A8 của Hội đồng

Khoa học lịch sử Đoàn – Đội thuộc Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

(2) An Nam Cộng sản Đảng là một trong 3 tổ chức cộng sản, tiền thân của Đảng ta sau này.

23

công nhân để thâm nhập vào tầng lớp lao động. Các đồng chí đã bí mật tuyên

truyền giác ngộ một số công nhân và một số thanh niên lao động các vùng nông

thôn lân cận nhƣ Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị... Nhiều thanh niên tiến bộ tại các

địa phƣơng nhanh chóng tiếp thu những tƣ tƣởng mới. Một số sớm giác ngộ đã

đƣợc kết nạp vào Đảng, nhƣ Nguyễn Văn Nghĩa (Xƣợc), Lƣu Văn Viết (Tƣ Chà),

Quách Sanh, Quách Tỷ...

Ngày 28–10–1929, chi bộ Đông Dƣơng Cộng sản Đảng ở đồn điền cao su

Phú Riềng đƣợc thành lập gồm có 6 đồng chí đảng viên, trong đó cả 5 hội viên

Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội trƣớc đây đều đƣợc đứng vào hàng

ngũ của Đảng, chỉ thêm đồng chí Doanh cũng là một thanh niên đƣợc giác ngộ sau

này. Chi bộ do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thƣ, đồng chí Trần Tử Bình đƣợc

phân công phụ trách công tác thanh niên và trực tiếp chỉ huy đội thanh niên xích vệ

(còn gọi là Tự vệ đỏ – lực lƣợng bán vũ trang của Đảng trong thời kỳ này).

Đầu năm 1930, dƣới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, tại hầu hết các “làng” cao

su đều có tổ chức thanh niên xích vệ đội. Số lƣợng thanh niên xích vệ ở mỗi làng

khoảng 40 ngƣời. Đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng, đội trƣởng thanh niên xích vệ ở

“làng” số 9 lúc ấy mới 17 tuổi. Nhiệm vụ của thanh niên xích vệ rất cụ thể, đó là

bảo vệ Đảng, bảo vệ các cuộc đấu tranh. Trong thời gian đình công, bãi công,

thanh niên xích vệ luôn đi sát để bảo đảm cho đại biểu công nhân đàm phán với

chủ. Thanh niên xích vệ làm nhiệm vụ canh gác, phát hiện bọn mật thám, bọn tay

sai rình mò, dò la tin tức, theo dõi các hoạt động của công nhân và còn thực hiện

nhiệm vụ của chi bộ là tổ chức luyện tập võ nghệ và hoạt động văn hóa nhƣ lập các

nhóm múa lân, các đội bóng của “làng” rồi đấu tranh với bọn chủ đòi quyền đƣợc

tổ chức thi đấu với đội bóng các làng khác.

Từ ngày 30–1–1930, dƣới sự lãnh đạo của chi bộ Đông Dƣơng Cộng sản

Đảng đồn điền Phú Riềng, 5.000 công nhân cao su đã nổi dậy đấu tranh. Thanh

niên xích vệ của đồn điền tuy còn non trẻ, nhƣng đã có vai trò hết sức to lớn trong

cuộc đấu tranh của công nhân. Cuộc đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng với

các yêu sách: đòi thực hiện đúng hợp đồng giữa chủ và công nhân, cấm đánh đập

cúp phạt; miễn sƣu thuế; trả lƣơng cho nữ công nhân nghỉ đẻ; ngày làm việc 8 giờ

kể cả thời gian đi và về, bồi thƣờng cho công nhân bị tai nạn lao động, ốm đau phải

đƣợc trị bệnh và hƣởng đủ lƣơng. Trƣớc khí thế đấu tranh mạnh mẽ của công nhân,

tên chủ sở đã xoa dịu và hứa chấp nhận những yêu sách của công nhân. Nhƣng do

chƣa có kinh nghiệm hoạt động bí mật, giữ gìn lực lƣợng nên hầu hết các đồng chí

đảng viên trong chi bộ, cơ sở cốt cán đều bị địch phát hiện. Chúng đã lần lƣợt lùng

bắt hết ngƣời này đến ngƣời khác đƣa về khám đƣờng thị xã Biên Hòa giam giữ.

Đến giữa năm 1931, qua chính sách khủng bố trắng của bọn thực dân đế quốc

và phong kiến, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ta tạm thời lắng

24

xuống và tổ chức Đảng ở nhiều địa phƣơng bị địch phá vỡ. Hàng ngàn chiến sĩ

cộng sản và đoàn viên thanh niên cộng sản bị địch bắn giết, tù đày trong các nhà

tù, các trại tập trung.

Về tổ chức Đoàn, trở lại thời gian sau khi Hội nghị Ban chấp hành Trung

ƣơng Đảng lần thứ I ban hành “Án nghị quyết về cộng sản thanh niên vận động”,

chúng ta thấy rõ mối quan tâm lớn lao của Đảng về công tác thanh niên. Đảng ta đã

khẳng định: “... Thanh niên lao động đã trở thành một lực lƣợng rất quan trọng...

cho nên Đảng Cộng sản phải cần kíp công tác quần chúng thanh niên, phải lãnh

đạo quần chúng thanh niên lao động thành phố, nhà quê tranh đấu hàng ngày và

phải kéo họ ra khỏi những ảnh hƣởng quốc gia, phong kiến, đế quốc. Muốn đƣợc

nhƣ vậy thì phải tổ chức ra một đoàn thể của thanh niên mới đƣợc”.

Từ tháng 10–1930 đến tháng 3–1931, Án nghị quyết về “Cộng sản thanh niên

vận động” của Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng đã đƣợc

triển khai trong cả nƣớc. Tuy nhiên, có một số cấp ủy Đảng vẫn chƣa quán triệt

đầy đủ. Theo dõi tình hình vận động quần chúng nói chung và công tác thanh niên

của Đảng, giữa tháng 4–1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi cho Ban chấp hành

Trung ƣơng Đảng một bức thƣ quan trọng, trong đó xác định cụ thể một số nhiệm

vụ chủ yếu mà Đảng phải tập trung thực hiện tốt đối với công tác xây dựng Đoàn

và phong trào thanh niên. Ban lâm thời cấp ủy Nam kỳ đã chỉ đạo xây dựng Thanh

niên cộng sản Đoàn trong thanh niên công nhân và thanh niên lao động. Ở Biên

Hòa, sự xuất hiện các đội thanh niên xích vệ ở Phú Riềng và một số đồn điền cao

su khác nhƣ Cam Tiêm, Dầu Giây là tiền đề dẫn đến sự hình thành các tổ, nhóm,

chi bộ Thanh niên cộng sản Đoàn đầu tiên vào cuối năm 1929. Năm 1930, nơi nào

có chi bộ hoặc cơ sở Đảng đều hình thành tổ chức thanh niên, tuy hình thức tổ

chức và tên gọi chƣa thống nhất, thí dụ nơi thì tổ chức ra thanh niên xích vệ đội,

nơi thì lấy tên là Thanh niên cộng sản, sinh hoạt với đảng viên, chƣa tách ra thành

các chi bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản. Sau khi có Án nghị quyết về cộng sản thanh

niên vận động thì một số chi bộ Đoàn (1) mới đƣợc thành lập ở các tỉnh Nam kỳ và

ở tỉnh Biên Hòa. Chính đồng chí Phạm Văn Đồng, vào thời gian cuối năm 1929,

khi đến công tác tại Biên Hòa đã đƣợc tổ chức giới thiệu một đồng chí Thanh niên

cộng sản Đoàn báo cáo về tình hình thanh niên địa phƣơng. Sau đó, khi bị địch bắt

và đày ra Côn Đảo vào đầu năm 1931, đồng chí lại gặp một số cán bộ Thanh niên

cộng sản Đoàn bị địch bắt qua phong trào đấu tranh trong các nhà máy, đồn điền ở

(1) Thời kỳ này chƣa có khái niệm chi đoàn, nên tổ chức cơ sở của Đoàn đƣợc gọi là chi bộ

Đoàn.

25

Nam kỳ (1). Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng Biên Hòa là một trong những tỉnh ở

Nam kỳ và trong cả nƣớc đã hình thành một số cơ sở Thanh niên cộng sản vào

trƣớc thời gian Đoàn Thanh niên Cộng sản chính thức ra đời (26–3–1931).

Do chính sách khủng bố trắng rất tàn bạo của giặc nên trong các năm 1931,

1932, nhiều cán bộ, đảng viên của Đảng ở Nam kỳ và Biên Hòa bị địch bắt. Giữa

năm 1931, hầu hết các đồng chí trong Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng, kể cả

đồng chí Tổng Bí thƣ Trần Phú (lúc này mới 26 tuổi) đều bị địch bắt. Xứ ủy Nam

kỳ cũng có nhiều đồng chí bị địch bắt đi đến tan rã phải thành lập lại nhiều lần cho

đến các năm sau mới ổn định. Tháng 5–1933, đồng chí Trƣơng Văn Bang (Ba

Bang) đƣợc giao nhiệm vụ lập lại Xứ ủy và cử cán bộ về các tỉnh móc nối với các

đồng chí còn lại để khôi phục phong trào. Điều đáng chú ý là lúc này các đoàn viên

Thanh niên Cộng sản thoát khỏi sự khủng bố của địch các năm trƣớc đƣợc tiếp tục

thử thách công tác và kết nạp vào Đảng. Lực lƣợng này kịp thời bổ sung sinh lực

mới cho Đảng và trực tiếp gây dựng lại các cơ sở Đảng, đẩy mạnh phong trào đấu

tranh trong quần chúng. Đồng chí Lƣu Văn Viết (Tƣ Chà) sau một thời gian tạm

lánh tránh sự khủng bố của địch đã trở về quê (làng Tân Phong – Châu Thành) tiếp

tục xây dựng cơ sở, vận động cách mạng. Với chiếc xe đạp cũ kỹ, dƣới lớp áo của

ngƣời bán hàng rong, bán bánh mì dạo, đồng chí đã đi nhiều nơi trong tỉnh để

tuyên truyền, vận động cách mạng mà việc đầu tiên là giác ngộ ngƣời em trai của

mình là Lƣu Văn Văn (Chín Văn) rồi kết nạp vào Đảng. Hai anh em Tƣ Chà, Chín

Văn hoạt động rất hăng hái, gây dựng lại nhiều cơ sở Đảng, nhất là tìm cách bắt

mối với lớp trẻ đã từng tham gia đấu tranh ở các nhà máy, đồn điền cao su. Tại

Bến Cá, đồng chí Tƣ Chà giác ngộ đƣợc anh Huỳnh Văn Phan (Tƣ Phan). Ngƣời

thanh niên yêu nƣớc này cũng đƣợc kết nạp vào Đảng. Từ những hạt nhân này, cơ

sở Đảng bắt đầu có sự phát triển rộng hơn trong các năm 1934, 1935. Đầu năm

1935, đồng chí Hoàng Minh Châu đƣợc Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về Biên Hòa

bắt liên lạc với nhóm Lƣu Văn Viết và thành lập chi bộ Đảng ở xã Bình Phƣớc –

Tân Triều. Phong trào cách mạng ở Biên Hòa từng bƣớc đƣợc khôi phục, góp phần

tổ chức nhân dân tiếp tục các cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ.

II. THAM GIA KHÔI PHỤC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VÀ

TÍCH CỰC ĐẤU TRANH ĐÕI CÁC QUYỀN DÂN SINH, DÂN CHỦ.

Từ ngày 27 đến ngày 31–3–1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất

Đảng Cộng sản Đông Dƣơng họp tại Ma Cao (Trung Quốc), đã thông qua điều lệ

(1) Theo lời kể của đồng chí cố vấn Phạm Văn Đồng – Tài liệu lƣu trữ tại Hội đồng Khoa học

lịch sử Đoàn – Đội thuộc Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

26

chính thức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dƣơng và đặt ra yêu cầu cho

Đoàn cần xây dựng một chƣơng trình hành động phù hợp. Thực hiện Nghị quyết

của Đại hội Đảng về công tác thanh niên, sau khi hệ thống cơ sở Đảng ở các tỉnh

và Sài Gòn đƣợc phục hồi, củng cố, phát triển, nhiều cấp ủy ở Nam kỳ đã chủ

trƣơng tăng cƣờng công tác vận động thanh niên mà trƣớc hết là phân công các cấp

ủy viên phụ trách. Tại Biên Hòa, để phát triển phong trào, mở rộng hình thức tuyên

truyền xây dựng cơ sở cách mạng trong tầng lớp thanh niên học sinh, chi bộ Đảng

Bình Phƣớc – Tân Triều vừa đƣợc thành lập đã phân công 2 đồng chí Hoàng Minh

Châu và Quách Sanh bí mật thành lập “Liên đoàn học sinh” tại Trƣờng tiểu học

Bình Hòa. Đây là trƣờng chung cho cả tổng Phƣớc Vĩnh Trung. Nhân ngày 1–5–

1935, dƣới sự chỉ đạo của chi bộ Đảng Bình Phƣớc – Tân Triều, Liên đoàn học

sinh Bình Hòa đã tổ chức rải truyền đơn kêu gọi nhân dân phát huy tinh thần cách

mạng của ngày Quốc tế Lao động. Do hoạt động lộ liễu, địch phát hiện truy tìm,

một số bị bắt, học sinh các xã Bửu Long, Bình Hòa còn lại phải chuyển vào hoạt

động bí mật. Một số thanh niên học sinh ƣu tú giác ngộ cách mạng và đƣợc kết nạp

vào Đảng nhƣ các đồng chí Phạm Văn Thuận, Huỳnh Dân Sanh, Huỳnh Văn Lũy...

Từ trong phong trào của quần chúng, nhất là phong trào thanh niên hƣởng

ứng chủ trƣơng về tổ chức và hoạt động trong thời kỳ cách mạng mới với yêu cầu

mở rộng cuộc vận động đòi các quyền dân sinh, dân chủ, tự do, cơm áo, hòa bình,

chống phản động thuộc địa và tay sai... Đảng chủ trƣơng đƣa các đoàn thể, các hội

ái hữu, các nghiệp đoàn, các tổ chức xã hội do Đảng lãnh đạo ra hoạt động công

khai để nhanh chóng tập hợp quần chúng, xây dựng lực lƣợng chính trị xung quanh

Đảng. Đoàn Thanh niên Cộng sản đƣợc mang tên là Đoàn Thanh niên Dân chủ cho

phù hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng. Tuy cách gọi có thay đổi nhƣng bản

chất chính trị và nguyên tắc tổ chức của Đoàn không thay đổi. Đoàn Thanh niên

Dân chủ tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản và

luôn đƣợc Đảng tăng cƣờng sự lãnh đạo nên đã phát huy vai trò của mình trong

giai đoạn cách mạng mới.

Ở Biên Hòa tổ chức Thanh niên Dân chủ hoạt động rất mạnh, tham gia trong

nhiều “ủy ban hành động”. Ủy ban hành động Biên Hòa do đồng chí Nguyễn Văn

Nghĩa làm Chủ tịch. Tiếp đó, các Ủy ban hành động quận Châu Thành, Xuân Lộc,

Long Thành... đƣợc thành lập và liên hệ chặt chẽ với Ủy ban hành động Biên Hòa.

Đƣợc sự chỉ đạo sâu sát của Xứ ủy và Tỉnh ủy Biên Hòa, phong trào hƣởng

ứng Đông Dƣơng Đại hội của các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên lan đến tận

các làng, xã trong tỉnh. Ở trung tâm thị xã Biên Hòa, các ủy ban hành động của

công nhân và thanh niên Nhà máy Cƣa BIF, trong giới lao động (xe lôi, thợ thủ

công...), giới giáo chức... liên tiếp đƣa yêu sách cho bọn thống trị đòi tăng lƣơng,

giảm giờ làm, lập nghiệp đoàn, lập hội thể thao toàn tỉnh... làm cho chúng rất lúng

27

túng. Trụ sở Ủy ban hành động của tỉnh đặt văn phòng tại khách sạn Thanh Phong

(nội ô quận lỵ Châu Thành, Biên Hòa – nay là Công an phƣờng Hòa Bình – thành

phố Biên Hòa) và đoàn viên Thanh niên Dân chủ làm nhiệm vụ giữ trật tự, sẵn

sàng đối phó với cảnh sát và bọn tay sai, hàng ngày tiếp khách tới đƣa “Dân

nguyện” từ sáng đến tối. Bà con đòi hỏi cho biết đích xác ngày Giuytxtanh Gôđa,

phái viên của Chính phủ Pháp sang Đông Dƣơng và đến Biên Hòa để công nhân,

nhất là chị em ở các đồn điền cao su trực tiếp gặp ông ta. Đoàn viên Thanh niên

Dân chủ tranh thủ cơ hội này trao truyền đơn và hƣớng dẫn cách thức đấu tranh.

Cuối năm 1936, Liên Tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí Trƣơng Văn Bang (Ba

Bang) về Biên Hòa chuẩn bị thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh Biên Hòa. Đầu năm

1937, Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa đƣợc thành lập do đồng chí Trƣơng Văn

Bang làm Bí thƣ và các đồng chí Huỳnh Liễng, Trần Minh Triết, Huỳnh Văn Phan,

Lê Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ làm ủy viên Ban chấp hành Tỉnh ủy. Tỉnh ủy chủ

trƣơng xúc tiến công tác củng cố, phát triển cơ sở Đảng và đẩy mạnh xây dựng các

đoàn thể quần chúng, nhất là Công hội và Đoàn Thanh niên. Quán triệt tinh thần

chỉ đạo của Tỉnh ủy, tổ chức Thanh niên Dân chủ đƣợc hình thành hầu khắp các

quận, các đồn điền cao su và ở một số nhà máy... Thanh niên Dân chủ Biên Hòađã

hƣớng hoạt động của mình vào việc tuyên truyền phổ biến cho thanh niên về chủ

nghĩa cộng sản, về xã hội Xô Viết (Liên Xô). Ngoài các “ủy ban hành động”, ở

Biên Hòa còn có “Thƣ quán Thanh niên”. Các đoàn viên Thanh niên Dân chủ về

Sài Gòn mua sách báo của Đảng, của Đoàn xuất bản và cả sách báo từ Pháp gửi

sang đem bán rộng rãi cho bà con, nhất là thanh niên đang hăm hở tìm hiểu thời sự,

tìm hiểu tin tức đấu tranh... Báo Đoàn có các tờ Thế giới, Bạn dân, Mới... Báo

Đảng có L’ avant garde, Lepeuple (tiếng Pháp), Lao động, Tin tức, Nhành lúa,

Thời thế... Lần đầu tiên tuổi trẻ Biên Hòa đƣợc tiếp cận với các tác phẩm chính trị,

văn học lớn của V.I Lênin và M.Goocki cũng nhƣ các tác giả trong nƣớc nhƣ cuốn

Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình (tức Trƣờng Chinh và Võ Nguyên

Giáp), Macxit phổ thông của Hải Triều... Từ đây, một số thanh niên Biên Hòa về

Sài Gòn tham gia sinh hoạt trong các nhóm, tổ, tìm hiểu chủ nghĩa Mác–Lênin. Họ

đƣợc giác ngộ về lý tƣởng, trong số đó, nhiều ngƣời sau này đã trở thành cán bộ,

đảng viên của Đảng. Cùng với việc mở “Thƣ quán Thanh niên” của Đoàn Thanh

niên Dân chủ ở thị xã, về sau còn phát triển thêm các điểm bán sách báo mới của

ủy ban hành động gọi là “Bình dân thƣ viện” tại xã Bình Ý (quận Châu Thành) là

trung tâm phát hành sách báo, tài liệu của Đảng và cũng là nơi liên lạc, tiếp nhận

các báo cáo, kiến nghị của các địa phƣơng trong tỉnh.

Ở Biên Hòa, Đoàn Thanh niên Dân chủ cũng đã mở rộng các hoạt động tập

hợp thanh niên qua việc lập các hội đá banh, múa lân, diễn kịch... Các hội này hoạt

động rất sôi nổi, hầu nhƣ quận nào, làng xã nào, nhà máy nào cũng có Hội đá banh.

28

Ngày nghỉ, các đội tổ chức giao hữu bóng đá, diễn kịch... Qua đó, đoàn viên, hội

viên cốt cán tổ chức tuyên truyền vận động cách mạng.

Đặc biệt, vào cuối năm 1937, Xứ ủy chủ trƣơng phát động cuộc vận động học

chữ quốc ngữ nhằm đấu tranh chống lại chính sách ngu dân của bọn phản động

thuộc địa. Tỉnh ủy Biên Hòa đã giao trách nhiệm cho tổ chức Thanh niên Dân chủ

vận động phong trào truyền bá quốc ngữ. Phong trào đã cuốn hút đông đảo thanh,

thiếu niên và các tầng lớp nhân dân tham gia cả dạy và học. Lớp học đƣợc tổ chức

ở đình làng, sân phơi, trong trƣờng, ngoài trƣờng... nghĩa là bất cứ ở đâu có điều

kiện đều có thể tụ tập để giáo viên hƣớng dẫn học tập. Vai trò của Đoàn Thanh

niên Dân chủ qua các hoạt động sôi nổi nêu trên đƣợc thanh niên và nhân dân rất

hoan nghênh. Số thanh niên xin gia nhập Đoàn ngày càng đông, nhƣng do việc kết

nạp tiến hành chƣa chặt chẽ nên khi bƣớc vào giai đoạn khó khăn (1941–1945) sau

này, không ít đoàn viên Thanh niên Dân chủ đã xa rời tổ chức hoặc nằm yên chờ

thời thế...

Tháng 9–1936, Ủy ban hành động Biên Hòa tổ chức cuộc mít tinh tại Gò Dê,

xã Bình Ý, huyện Châu Thành thu hút mấy trăm thanh niên tới dự. Đồng chí

Nguyễn Văn Nghĩa đã diễn thuyết, kêu gọi đồng bào và giới trẻ tích cực đấu tranh

đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Cuộc mít tinh đang tiến hành thì tên cai tổng Đạm

dẫn lính đến đàn áp. Đoàn Thanh niên Dân chủ đƣợc giao nhiệm vụ bảo vệ đồng

bào đã lập tức tập hợp lực lƣợng ngăn chặn âm mƣu và hành động của bọn cƣờng

hào. Thấy lực lƣợng ta đông, mạnh, chúng hậm hực rút lui. Đồng chí Nguyễn Văn

Nghĩa lại kêu gọi thanh niên tuần hành để biểu dƣơng lực lƣợng. Thanh niên vừa

tuần hành kéo qua các địa phƣơng nhƣ Bến Cá, Cây Đào, Bình Ý... vừa hô khẩu

hiệu đòi thi hành dân chủ, tăng lƣơng cho công nhân, mở trƣờng học cho trẻ em.

Từ năm 1936 – 1939, liên tiếp nổ ra các cuộc bãi công của công nhân thuộc

Công ty Kỹ nghệ và Lâm nghiệp Biên Hòa, công nhân Nhà máy cƣa BIF, công

nhân các đồn điền cao su ở Biên Hòa đòi tăng lƣơng, giảm giờ làm, cấp thuốc chữa

bệnh cho công nhân lúc đau ốm, bọn chủ phải chấp nhận từng bƣớc những yêu cầu

của công nhân đƣa ra. Các cuộc đấu tranh đã có ảnh hƣởng rộng trong tỉnh.

Những thắng lợi mà nhân dân và tuổi trẻ Biên Hòa giành đƣợc qua các phong

trào đấu tranh dƣới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Xứ ủy thời kỳ 1936 – 1939 tuy là

bƣớc đầu nhƣng rất có ý nghĩa. Đối với phong trào thanh niên Biên Hòa và Đoàn

Thanh niên Dân chủ, đây là lần đầu tiên kể từ ngày tổ chức Đoàn ra đời, cán bộ,

đoàn viên, thanh niên đƣợc công khai trao đổi, tìm hiểu về lý tƣởng cộng sản chủ

nghĩa qua sinh hoạt chính trị trong Đoàn, nhất là qua hệ thống báo chí của Đoàn

với vai trò là ngƣời tuyên truyền, ngƣời tổ chức tập thể đƣợc phát huy khá rộng. Tổ

chức Đoàn có bƣớc phát triển ở các địa phƣơng và các cơ sở công nghiệp, đồn điền

cao su trong tỉnh. Lực lƣợng đoàn viên mới đƣợc xây dựng trong thời kỳ 1936 –

29

1939 ở Biên Hòa đã góp phần tích cực chuẩn bị cho cao trào đấu tranh quyết liệt

trong sự nghiệp cứu nƣớc đầy hy sinh, gian khổ vào những năm sau.

III. KIÊN CƢỜNG TRONG NAM KỲ KHỞI NGHĨA, ĐẤU TRANH

CHỐNG KHỦNG BỐ, TIẾN TỚI CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH

CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN.

Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan. Ngày 3 tháng 9

năm ấy, Pháp và Anh tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã

trực tiếp ảnh hƣởng sâu sắc đến tình hình mọi mặt ở Đông Dƣơng, trong đó có Việt

Nam. Để phục vụ cho chiến tranh, thực dân Pháp ở Đông Dƣơng ban bố lệnh tổng

động viên, ra sức vơ vét của cải, tăng giờ làm việc, giảm tiền lƣơng của công nhân

và bắt thanh niên đi lính. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng.

Các quyền tự do, dân chủ mà nhân dân và thanh niên ta giành đƣợc trong thời kỳ

Mặt trận Dân chủ đều bị xoá bỏ. Thực dân Pháp lộ nguyên hình đã thẳng tay đàn

áp nhân dân thuộc điạ. Ngày 28–9–1939, nghĩa là chƣa đầy 1 tháng sau khi Thế

chiến thứ hai bùng nổ, Toàn quyền Đông Dƣơng Catroux ra lệnh giải tán mọi tổ

chức và tịch thu tài sản của các tổ chức do cộng sản lập nên. Hắn tuyên bố: “Trong

cuộc đấu tranh này phải tiêu diệt cộng sản thì xứ Đông Dƣơng mới đƣợc yên ổn và

mới trung thành với nƣớc Pháp” (1). Sách, báo của Đảng, của Đoàn lập tức bị cấm

xuất bản và lƣu hành, ai tàng trữ đều bị bắt.

Trƣớc tình hình diễn biến mau lẹ đó, Trung ƣơng Đảng ta đã kịp thời “Thông

cáo cho các đồng chí cấp bộ”, giải thích một số vấn đề trên thế giới và trong nƣớc,

đồng thời ra chỉ thị cho các cơ quan, đoàn thể, cán bộ hoạt động hợp pháp và nửa

hợp pháp gấp rút chuyển vào bí mật. Đoàn Thanh niên Dân chủ mang tên mới là

Đoàn Thanh niên Phản đế và chuyển sang hình thức hoạt động bí mật, tích cực bảo

vệ cơ sở, bảo vệ cán bộ, đoàn viên theo sự lãnh đạo của Đảng.

Tình hình mọi mặt của tỉnh Biên Hòa cũng nằm trong bối cảnh chung đó,

nghĩa là phải chịu sự đàn áp, khủng bố quyết liệt của kẻ thù. Quán triệt chủ trƣơng

của Trung ƣơng Đảng và Tỉnh ủy, mặc dù mọi cơ quan, đoàn thể, cán bộ đã tích

cực thực hiện chuyển vào bí mật, chuyển vùng hoạt động... nhƣng Biên Hòa vẫn

không tránh khỏi những tổn thất do không ít cán bộ, đảng viên, đoàn viên đã bị lộ

trong thời kỳ trƣớc, nay bị địch ráo riết lùng bắt.

Tháng 7 năm 1940, Xứ ủy Nam kỳ triệu tập Hội nghị mở rộng tại xã Tân

Lƣơng, tỉnh Mỹ Tho. Sau nhiều ngày thảo luận, trƣớc những diễn biến tình hình

(1) Những chặng đường vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh

Niên, Hà Nội, 1986, tr. 99.

30

trong nƣớc và thế giới, Hội nghị đã đi đến thống nhất chủ trƣơng tổ chức công tác

chuẩn bị khẩn trƣơng để phát động quần chúng đứng lên khởi nghĩa giành chính

quyền. Ở Biên Hòa, hoạt động của Đảng và các đoàn thể lúc này gặp nhiều khó

khăn. Địch thực hiện chính sách khủng bố trắng đến mức bắt cả những quần chúng

bị nghi ngờ, trong đó có cả những ngƣời chƣa đến tuổi thành niên bị chúng vu

khống cho là liên lạc hoặc cộng tác với cộng sản. Xảo quyệt hơn nữa là chúng tổ

chức ngƣời chui vào các tôn giáo nhƣ Cao Đài, Công giáo để lừa mị, tuyên truyền

xuyên tạc, dò la tung tích cán bộ, đảng viên, đoàn viên. Đặc biệt, ở các khu vực

miền núi, hoặc nơi có nhiều đồn điền cao su tập trung đông đảo công nhân với đội

ngũ thanh niên công nhân luôn hăng hái đi đầu trong các cuộc đấu tranh, địch thực

hiện thủ đoạn chia rẽ ngƣời Kinh với bà con ngƣời dân tộc thiểu số vừa bằng vật

chất vừa bằng cách bôi nhọ Đảng, bôi nhọ tổ chức nghiệp đoàn, hội ái hữu rồi đi

đến giải tán các tổ chức xã hội, nghề nghiệp này. Bọn mật thám xuống tận các

buôn sóc, đem gạo, muối, cá khô, thuốc ký ninh... phát cho bà con để mua chuộc

và giao nhiệm vụ chỉ điểm cộng sản.

Ở Biên Hòa, ngoài khám đã có từ trƣớc, địch còn lập ra các trại tập trung ở Bà

Rá, Tà Lài... mà chúng gọi là các “căng lao động đặc biệt”, nhƣng trong thực tế thì

đó là nơi giam giữ những ngƣời yêu nƣớc theo chế độ cƣỡng bức lao động. Tại các

địa phƣơng trong tỉnh có phong trào đấu tranh mạnh trong thời kỳ 1936 – 1939

đƣợc chúng coi là các “Làng đỏ” nhƣ Bình Ý, Tân Triều, Bình Phƣớc... địch bắt

trên 200 thanh niên về giam giữ tại khám lớn thị xã Biên Hòa. Vấn đề nổi lên đối

với thanh niên lúc này là đấu tranh chống âm mƣu, thủ đoạn gọi là “tổng động

viên” để tuyển mộ lính, kéo dài thời gian tại ngũ đối với những ngƣời đã mãn hạn

và bắt thanh niên (lợi dụng sức trẻ) đi phu xây dựng đƣờng sá, cầu cống, mở rộng

sân bay Tân Phong, trƣờng bắn Bình Ý, lập xƣởng sửa chữa máy bay...

Thực hiện chủ trƣơng của Xứ ủy về việc chuẩn bị khởi nghĩa, Tỉnh ủy Biên

Hòa rà soát và tiến hành công tác củng cố về mặt tổ chức đối với các cơ sở Đảng,

các đoàn thể nhân dân, trong đó chú trọng đến Đoàn Thanh niên, đội hậu bị và lực

lƣợng xung kích của Đảng. Tỉnh ủy phân công đồng chí Huỳnh Liễng vốn có thời

gian phụ trách công tác thanh niên nay tiếp tục nhiệm vụ tuyển chọn những cán bộ,

đoàn viên, thanh niên có giác ngộ chính trị, có tinh thần dũng cảm hăng hái đấu

tranh thành lập đội vũ trang của tỉnh gồm khoảng 35 ngƣời. Sau khi thành lập, đội

vũ trang đƣợc trang bị chủ yếu bằng giáo, mác và một số khẩu súng hai nòng thu

đƣợc của bọn tổng, tề. Đơn vị đứng chân ở vùng rừng Tân Uyên (nay là huyện Tân

Uyên, tỉnh Bình Dƣơng) trong sự che chở của nhân dân, thực hiện chế độ luyện tập

quân sự và sinh hoạt theo nếp quân sự, dƣới sự chỉ huy của Trần Văn Quỳ (Chín

Quỳ), một chiến sĩ trẻ tuổi đầy mƣu trí và dũng cảm.

31

Ở Biên Hòa, việc chuẩn bị khởi nghĩa đƣợc tiến hành hết sức khẩn trƣơng nên

khi có lệnh là bùng nổ đồng loạt, nhất là ở các xã thuộc Tân Uyên, Châu Thành...

Ngày 24–11–1940, địch cho quân bao vây các địa điểm quần chúng nổi dậy. Các

đồng chí trong Tỉnh ủy đƣợc phân công chỉ đạo các địa phƣơng nhƣ Lê Văn Tôn,

Nguyễn Hồng Kỳ... chỉ huy các đội thanh niên vũ trang chiến đấu quyết liệt với

địch. Từ trƣớc, địch đã cố sức tìm kiếm đội thanh niên vũ trang Chín Quỳ (1), nay,

chúng tập trung binh lực tiến công vào Lạc An, nơi đội thanh niên vũ trang đang

hoạt động hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy. Do cuộc chiến đấu không cân sức, mặc dù

ta đã gây thiệt hại cho địch nhƣng không đẩy lùi đƣợc cuộc tiến công của chúng.

Đồng chí Huỳnh Liễng bị trọng thƣơng và bị địch bắt. Nêu cao khí tiết của một

chiến sĩ cộng sản kiên cƣờng, đồng chí nhất định không cho địch băng bó và đã hy

sinh trƣớc sự cảm phục của đồng bào, đồng chí, nêu cao tấm gƣơng anh dũng cho

đoàn viên, thanh niên noi theo. Đội thanh niên vũ trang của Chín Quỳ giữ vững

tinh thần bất khuất rút vào rừng sâu trong sự che chở của nhân dân. Đơn vị đƣợc

bổ sung một số đoàn viên, thanh niên ƣu tú bền gan hoạt động cho đến trƣớc ngày

Cách mạng tháng Tám năm 1945 lại xuất hiện tham gia cƣớp chính quyền tại Biên

Hòa và trở thành bộ phận nòng cốt của Vệ quốc quân Biên Hòa.

Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị địch dìm trong biển máu. Biên Hòa cũng chịu

những tổn thất nặng nề. Nhƣng sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù không thể nào dập

tắt đƣợc tinh thần yêu nƣớc trong lòng nhân dân và tuổi trẻ Biên Hòa đang sẵn

sàng đón đợi thời cơ mới.

Bƣớc sang năm 1941, tình hình thế giới và trong nƣớc diễn biến ngày một

khẩn trƣơng và phức tạp. Vừa đặt chân đến Biên Hòa, Nhật cho xây sân bay quân

sự, các hệ thống hầm hào kiên cố, hệ thống giao thông phục vụ cho mục đích chiến

tranh... Những công việc đòi hỏi đến lao động khổ sai đều đổ lên đầu nhân dân ta,

nhất là thanh niên, lực lƣợng đông đảo, trẻ, khoẻ.

Vào cuối năm 1943, ở Biên Hòa đã có các đoàn thể Công nhân cứu quốc,

Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc và một số tổ chức xã

hội khác do các cơ sở Đảng lãnh đạo, đánh dấu bƣớc chuyển biến quan trọng về

mặt tổ chức. Sau khi đƣợc khôi phục, các cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng

trong đó có Đoàn Thanh niên cứu quốc phát triển rất nhanh. Lúc này nơi nào có chi

bộ Đảng, nơi ấy có Thanh niên cứu quốc hoặc có các nhóm thanh niên do đảng

viên trực tiếp nắm để tổ chức hoạt động, thí dụ ở Nhà máy cƣa BIF, ở sở củi Trảng

Bom, ga Biên Hòa... hoặc ở các địa phƣơng nhƣ Tân Uyên, Tân Phong, Tân Hạnh,

Tân Bình, Hóa An...

(1) Tức đội thanh niên vũ trang do đồng chí Trần Văn Quỳ trực tiếp chỉ huy dƣới sự lãnh đạo

chung của đồng chí Huỳnh Liễng.

32

Ngày 9–3–1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dƣơng. Chúng

tuyên truyền cho nền độc lập giả hiệu với chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim và ra

sức rêu rao thuyết “Đại Đông Á”, thuyết “Đồng văn, đồng chủng” để lừa bịp nhân

dân và thanh niên. Quán triệt Chỉ thị của Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng “Nhật

– Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, các cơ sở Đảng ở Biên Hòa tích cực

xây dựng Đảng, khẩn trƣơng tập hợp quần chúng, ráo riết chuẩn bị cho tổng khởi

nghĩa. Cách mạng Việt Nam chuyển lên cao trào.

Vào thời điểm đó, Iđa – Quyền Tổng trƣởng Thanh niên và Thể thao Đông

Dƣơng của Nhật ngỏ ý mời bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra thành lập tổ chức

thanh niên. Tƣơng kế tựu kế, Xứ ủy Nam kỳ giao cho đồng chí Phạm Ngọc Thạch

cùng một số trí thức tiêu biểu khác công khai lập ra Thanh niên Tiền phong để thu

hút đông đảo thanh niên về phía cách mạng. Ngày 1–6–1945, Thanh niên Tiền

phong ra đời do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh.

Nhƣ vậy, ở Biên Hòa cũng nhƣ ở Sài Gòn và các tỉnh Nam kỳ lúc này vừa có

Thanh niên cứu quốc (tổ chức nòng cốt) vừa có Thanh niên Tiền phong (tổ chức

rộng rãi với danh nghĩa công khai) đều do Đảng ta lãnh đạo. Thanh niên Tiền

phong ở Biên Hòa đƣợc thành lập do Huỳnh Thiện Nghệ – một thầy giáo dạy thể

dục thể thao làm thủ lĩnh. Chỉ sau một thời gian ngắn, phong trào phát triển và lan

rộng ra các quận, các nhà máy, các đồn điền cao su trong tỉnh. Xứ ủy chỉ đạo kịp

thời nắm tổ chức này, lãnh đạo các đội, đoàn Thanh niên Tiền phong, biến thành

đội quân chính trị của cách mạng. Khắp nơi trong tỉnh, khí thế cách mạng sôi sục.

Lực lƣợng Thanh niên Tiền phong với gậy tầm vông vạt nhọn và cuộn dây thừng

ngang lƣng hăng hái luyện tập đội ngũ bảo vệ, tuần tra canh gác nhà máy, xóm ấp.

Đêm đêm, ở các đình làng, hàng trăm nam nữ thanh niên với đủ các loại đèn đuốc

sáng trƣng. Tiếng hô một, hai nhịp nhàng hòa với tiếng hát, lời ca cách mạng vang

động khắp nơi. Tổ chức Thanh niên Tiền phong ở Biên Hòa thông qua các hình

thức hoạt động công cộng nhƣ biểu diễn văn nghệ, thể dục thể thao đã góp phần

đắc lực mở rộng mặt trận tập hợp thanh niên nhằm chuẩn bị cho cuộc tổng khởi

nghĩa. Đây là một lực lƣợng công khai nhƣng lại hoạt động theo sự lãnh đạo của

Đảng nên tạo đƣợc lợi thế lớn.

Tháng 7 năm 1945, tại chùa Tân Mai, đại diện Xứ ủy Nam kỳ là đồng chí Hà

Huy Giáp đã họp với các đồng chí lãnh đạo Biên Hòa là Hoàng Minh Châu, Huỳnh

Văn Hớn, Phạm Văn Búng, Đặng Nguyên... phổ biến chủ trƣơng gấp rút xây dựng

lực lƣợng. Về công tác thanh niên, hội nghị đề ra các nhiệm vụ:

– Củng cố và tiếp tục phát triển Thanh niên cứu quốc.

– Nắm chắc lực lƣợng Thanh niên Tiền phong tỉnh để chuẩn bị khởi nghĩa.

– Tuyên truyền, giác ngộ thanh niên, phá âm mƣu lừa bịp, chia rẽ thanh niên.

33

Sau hội nghị này, các đảng viên ở Biên Hòa nhanh chóng kiện toàn các tổ

chức đoàn thể cứu quốc, nắm và lãnh đạo chặt chẽ lực lƣợng Thanh niên Tiền

phong thông qua các đoàn trƣởng, tráng trƣởng, đội trƣởng và toán trƣởng ở các cơ

sở địa phƣơng trong tỉnh, đặc biệt là trung tâm quận Châu Thành và Biên Hòa. Khí

thế quần chúng cách mạng, nhất là trong các tầng lớp thanh niên ngày càng lên

cao. Tại nhiều địa phƣơng, thanh niên suốt ngày say mê luyện tập võ nghệ. Súng

không có, chỉ có mã tấu, gậy gộc... thế nhƣng vẫn lăn lê, bò toài, hò hét đến khản

cả cổ.

Tin Nhật đầu hàng Đồng Minh lan truyền nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa

cách mạng. Khắp các nẻo đƣờng ở Biên Hòa luôn vang lên bài ca “Này thanh niên

ơi đứng lên đáp lời sông núi” và khúc hát Lên đàng theo lời hiệu triệu của Tổng bộ

Việt Minh và lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: “Giờ quyết định cho vận

mệnh Tổ quốc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải

phóng cho ta” cũng nhƣ tin về cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội hoàn toàn thắng lợi đã

động viên tinh thần vùng lên của nhân dân cả nƣớc. Ngày 20–8–1945, Xứ ủy Nam

bộ họp Hội nghị phổ biến kế hoạch tổng khởi nghĩa cƣớp chính quyền ở Nam bộ.

Tại Biên Hòa, ngay trong đêm 23 rạng sáng ngày 24–8–1945, trong nội ô tỉnh

lỵ Biên Hòa, nhân dân đã treo cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm, cờ vàng sao đỏ (cờ của

Thanh niên Tiền phong). Suốt đêm 24–8–1945, lực lƣợng thanh niên xung kích

rầm rập đi tuần tra trên các đƣờng phố. Nội ô tỉnh lỵ Biên Hòa và các xã vùng ven

nhƣ Tam Hiệp, Tân Mai, Tân Phong, Bửu Long, Bửu Hòa, Hiệp Hòa, Hóa An, Tân

Hạnh, lực lƣợng cách mạng Hoàn toàn làm chủ.

Ngày 25–8–1945, lực lƣợng xung kích đã giành quyền kiểm soát các cơ quan,

công sở trong thị xã Biên Hòa nhƣ toà án, kho bạc, trại giam, trại lính bảo an...

Ngày 26–8–1945, lực lƣợng khởi nghĩa bao gồm các đơn vị thanh niên vũ trang và

Thanh niên Tiền phong cùng lực lƣợng nhân dân do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa

lãnh đạo đã đến bao vây Toà bố Biên Hòa – trụ sở Tỉnh trƣởng Biên Hòa – cơ quan

đầu não của chính quyền tay sai thân Nhật. Tỉnh trƣởng Nguyễn Văn Quý đầu

hàng cách mạng. Lúc đó là 11giờ trƣa. Các đơn vị thanh niên vũ trang và Thanh

niên Tiền phong cùng lực lƣợng nhân dân tiếp tục chiếm giữ và quản lý các cơ

quan còn lại, đồng thời ra lệnh bắt giữ tên trùm cảnh sát cò Phƣớc, tịch thu hơn

300 súng các loại, trang bị bổ sung cho các lực lƣợng thanh niên vũ trang.

Sáng sớm ngày 27–8–1945, một cuộc mít tinh lớn chào mừng thắng lợi của

Cách mạng tháng Tám đƣợc tổ chức tại Quảng trƣờng Sông Phố. Các đoàn ngƣời

vừa tuần hành biểu dƣơng lực lƣợng vừa hô vang các khẩu hiệu: “Việt Nam độc

lập muôn năm”, “Việt Minh muôn năm”. Nhiều cuộc mít tinh quần chúng cũng

diễn ra ở hầu khắp các địa phƣơng. Ngày 14–9–1945, cuộc mít tinh của nhân dân

huyện Long Thành đã thu hút nhiều đại biểu Thanh niên cứu quốc các xã về dự.

34

Sau khi nghe chính quyền cách mạng phát động phong trào toàn dân cứu quốc, gần

100 thanh niên các địa phƣơng đã ghi tên tòng quân. Đến ngày 21–9, tức chỉ 7

ngày sau cuộc mít tinh, đã có 77 thanh niên tình nguyện tham gia Đội vệ binh cộng

hòa. Đội đƣợc trang bị 11 khẩu súng trƣờng, còn lại chỉ sử dụng tầm vông, giáo

mác... nhƣng luôn tràn đầy khí thế cách mạng.

Suốt chặng đƣờng lịch sử từ khi xuất hiện những đoàn viên Thanh niên Cộng

sản thuộc lớp đầu tiên cho đến ngày Cách mạng tháng Tám thành công, tuổi trẻ

Biên Hòa – Đồng Nai luôn nêu cao lòng yêu nƣớc nồng nàn, một lòng theo Đảng

chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc và lý tƣởng cách mạng của Đảng.

Trải qua những giai đoạn khác nhau, đặc biệt là trong các cao trào, các cuộc tổng

diễn tập rộng lớn, quyết liệt nhƣ cao trào đấu tranh giai đoạn 1930 – 1931; cao trào

đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ từ 1936 – 1939; cao trào Nam kỳ khởi

nghĩa và chuẩn bị tổng khởi nghĩa từ 1940 – 1945, dƣới ngọn cờ của Đảng và theo

lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, với những tổ chức thanh

niên cách mạng nhƣ: Thanh niên xích vệ đội, Liên đoàn học sinh (Trƣờng tiểu học

Bình Hòa), Thanh niên cứu quốc, Thanh niên Tiền phong..., thanh niên Biên Hòa –

Đồng Nai đã thể hiện sâu sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua biết bao hoạt

động và hành động quả cảm, kiên cƣờng, bất chấp nhà tù, gƣơm súng và mọi sự

đàn áp, khủng bố dã man của kẻ thù, sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân, đi đầu

trên mọi trận tuyến chống quân cƣớp nƣớc và bè lũ bán nƣớc, xứng đáng với niềm

tin yêu to lớn của Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai.

35

Chƣơng II

CÙNG QUÂN VÀ DÂN THAM GIA

XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG NON TRẺ VÀ TIẾN

HÀNH KHÁNG CHIẾN CHỐNG

THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC

1945 – 1954

I. VỮNG BƢỚC TIẾN LÊN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA

CUỘC KHÁNG CHIẾN.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công rực rỡ đã tạo niềm phấn khởi to

lớn cho nhân dân và tuổi trẻ Biên Hòa – Đồng Nai. Một không khí hào hứng chƣa

từng có lan nhanh từ thị xã, quận, huyện, đến các vùng nông thôn xa xôi và trong

đồng bào các dân tộc. Hàng vạn thanh niên hăm hở theo tiếng gọi của Đảng và

chính quyền sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ đƣợc giao.

Song, với dã tâm xâm lƣợc nƣớc ta lần nữa, ngày 23–9–1945, thực dân Pháp

ngang nhiên gây hấn nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, Gia Định. Vào thời điểm đó,

Biên Hòa còn độc lập, quân Pháp chƣa tiến công. Tranh thủ thời gian, Đảng bộ và

chính quyền Biên Hòa ra sức xây dựng, củng cố tổ chức về mọi mặt, nhất là chuẩn

bị lực lƣợng, vũ khí, thu hút đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia.

Trong Hội nghị thành lập Tỉnh ủy lâm thời đƣợc tiến hành đúng vào tối ngày

23–9–1945 tại Nhà hội xã Bình Trƣớc, quận Châu Thành, do đồng chí Hà Huy

Giáp thay mặt Xứ ủy Nam bộ triệu tập và chủ trì, những chủ trƣơng quan trọng về

công tác vận động thanh niên đã đƣợc đề ra:

– Một là, thống nhất hai tổ chức Thanh niên cứu quốc và Thanh niên Tiền

phong theo chủ trƣơng của Xứ ủy. (Trƣớc đó, Thanh niên Tiền phong Nam bộ đã

tuyên bố tham gia Mặt trận Việt Minh).

– Hai là, vận động thanh niên tham gia các đơn vị du kích và lập Trại huấn

luyện du kích tại Vĩnh Cửu (Tam Hiệp – Biên Hòa), cử đồng chí Phan Đình Công

phụ trách để khẩn trƣơng tổ chức huấn luyện quân sự cho thanh niên, gấp rút xây

dựng lực lƣợng vũ trang.

– Tăng cƣờng công tác thanh niên, hình thành cơ quan lãnh đạo của Tỉnh ủy,

phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trên mọi lĩnh vực hoạt động.

36

Chấp hành chủ trƣơng của Tỉnh ủy, ngày 25–9–1945, hai tổ chức Thanh niên

cứu quốc và Thanh niên Tiền phong hợp nhất lấy tên là Đoàn Thanh niên cứu quốc

do Huỳnh Bá Bích làm Đoàn trƣởng. Để phối hợp chặt chẽ giữa công tác thanh

niên và công tác quân sự của địa phƣơng mà nhiệm vụ chủ yếu lúc này là vận động

thanh niên tham gia lực lƣợng du kích nên đồng chí Huỳnh Bá Bích vừa là Tỉnh

Đoàn trƣởng phụ trách hậu cần, vừa ở trong Ban chỉ huy xây dựng Trại huấn luyện

quân sự Vĩnh Cửu.

Cuối tháng 9 năm 1945, Trại huấn luyện khai giảng khóa học đầu tiên với gần

100 học viên đƣợc tổ chức thành 4 phân đội gồm thanh niên, nông dân các xã ở

quận Châu Thành, công nhân Nhà máy cƣa BIF, thanh niên Sài Gòn, Biên Hòa;

đặc biệt có một tiểu đội lính Nhật rã ngũ tham gia kháng chiến gia nhập trại làm

nhiệm vụ hƣớng dẫn sử dụng vũ khí, dạy chiến thuật tác chiến. Sau ngày 25 tháng

10, khi Pháp đánh chiếm Biên Hòa, Trại chuyển về Sở Tiêu, Đất Cuốc (Tân Uyên)

tiếp tục mở lớp huấn luyện và trở thành một đơn vị của Vệ quốc đoàn Biên Hòa.

Đứng chân ở Biên Hòa lúc bấy giờ gồm có nhiều lực lƣợng vũ trang: Vệ quốc đoàn

Biên Hòa ở Tân Uyên, Vệ quốc đoàn Châu Thành ở Thiện Tân, Vệ quốc đoàn

Long Thành, Đội xung phong cảm tử của Quốc gia tự vệ cuộc ở Bình Thảo... Lực

lƣợng vũ trang từ Sài Gòn rút về Biên Hòa gồm có Liên chi 2–3 Bình Xuyên ở

Rừng Sác, Chi đội 1 Nam tiến, cùng lực lƣợng vũ trang Liên hiệp Công đoàn ở An

Lộc (Xuân Lộc)... Mối quan hệ giữa các lực lƣợng này chƣa chặt chẽ và thiếu chỉ

huy thống nhất.

Tháng 11 năm 1945, Quận ủy Châu Thành đã thành lập Đội xung phong cảm

tử để diệt tề, trừ gian và bọn binh lính Pháp trong thị xã. Đội do Hồ Văn Đại (Sáu

Đại) và Nguyễn Văn Ký (Hai Ký) chỉ huy. Đội có 120 chiến sĩ trẻ, tuổi từ 12 đến

16, trang bị súng ngắn, lựu đạn, đứng chân tại Bến Cá (Bình Phƣớc). Với tinh thần

chiến đấu dũng cảm, phƣơng thức hoạt động táo bạo, bí mật, Đội đã nhiều lần hóa

trang đột nhập thị xã bắt và diệt nhiều tên ác ôn nhƣ Bảy Thông, Mƣời Phụng...

Hoạt động của Đội xung phong cảm tử đã làm cho bọn địch trong thị xã Biên Hòa

rất lo sợ. Bọn sĩ quan, binh lính Pháp đi lẻ không dám vƣợt đoạn đƣờng qua

Trƣờng học nữ sinh ở Cây Chàm (nay là Trƣờng tiểu học Quang Vinh) nơi Đội

xung phong cảm tử thƣờng tổ chức trận địa phục kích.

Từ giữa tháng 12 năm 1945, các lực lƣợng vũ trang của Biên Hòa đƣợc thống

nhất thành Vệ quốc đoàn Biên Hòa đứng chân ở Lạc An (Tân Uyên), nơi đây trở

thành căn cứ kháng chiến của Khu 7 và từ đầu năm 1946 đƣợc gọi là Chiến khu Đ

– một căn cứ kháng chiến nổi tiếng trong cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ của quân và dân ta. Rạng sáng ngày 2–1–1946, dƣới sự chỉ

huy của Khu trƣởng Khu 7 Nguyễn Bình, đơn vị Vệ quốc đoàn Biên Hòa của

Huỳnh Văn Nghệ, các đơn vị Vệ quốc đoàn Châu Thành, Hóc Môn, Gia Định,

37

Liên chi 2 – 3 Bình Xuyên... đã tổ chức cuộc tập kích lớn vào nhiều mục tiêu của

giặc Pháp trong thị xã, tiêu diệt nhiều tên địch, phá hủy các cơ sở hậu cần, cơ quan,

kho hàng... của chúng.

Trong những trận thử lửa đầu tiên với đội quân nhà nghề Pháp, nhiều thanh

niên Biên Hòa đã tỏ ra vô cùng mƣu trí và dũng cảm, nhƣ Đỗ Văn Thi, Vệ quốc

đoàn Châu Thành. Đỗ Văn Thi là con thứ mƣời một trong một gia đình có 12 anh

chị em nên Đỗ Văn Thi đƣợc gọi là Öt Một, gia đình giàu có nhất nhì ở ấp Bình

Tự, Cù lao Phố, Hiệp Hòa. Öt Một từng đƣợc cho sang Bình Trƣớc để theo học ở

Trƣờng Ecole Primaire Complemenlaire (nay là Trƣờng tiểu học Nguyễn Du). Anh

thƣờng tụ tập thanh niên nam nữ trong làng để dạy chữ quốc ngữ và truyền bá lối

sống lành mạnh. Cách mạng tháng Tám –1945 thành công, Một Thi đƣợc giao chỉ

huy lực lƣợng Quốc gia tự vệ cuộc của địa phƣơng, đây là hạt nhân của phong trào

cách mạng xã Hiệp Hòa và cả quận Châu Thành. Khi Quốc gia tự vệ cuộc đƣợc đổi

tên thành công an, Một Thi đƣợc giao nhiệm vụ thành lập một đại đội Quốc vệ đội,

qui tụ đƣợc 30 thanh niên dũng cảm. Với vũ khí thô sơ, đơn vị của Một Thi đã

nhiều phen tham gia diệt ác trừ gian bằng lối đánh xuất quỉ nhập thần, làm cho bọn

chúng không dám thâm nhập vào vùng tự do của ta để dò la tin tức. Chúng treo

giải thƣởng 5.000 đồng tiền Đông Dƣơng cho ai bắt đƣợc hoặc giết chết Một Thi.

Một lần, Đỗ Văn Thi bị bọn địch ở bót Hiệp Hòa bắt đƣợc. Chúng đƣa anh ra bờ

sông Đồng Nai định bắn chết rồi thả trôi sông. Không ngờ Một Thi đã nhảy xuống

sông, lặn một mạch, trốn thoát. Tiếp đó, bằng sự mƣu trí hết sức độc đáo, Một Thi

đã phối hợp với bộ đội Chi đội 16, cho 2 hàng binh ngƣời Đức giả làm 2 sĩ quan

Pháp vừa bắt đƣợc Việt Minh đem giao nộp cho tên sếp bót Đơla ở Tam An (Long

Thành), để rồi bất ngờ bắt gọn cả 12 tên giặc trong bót, thu 13 súng trang bị thêm

cho đội. Trong trận đột nhập vào thị xã Biên Hòa, đơn vị của Đỗ Văn Thi đã chiến

đấu hết sức dũng cảm, góp phần diệt nhiều cơ sở của địch, trong đó có việc đốt

cháy chợ Biên Hòa. Về sau anh đã bị bọn địch giết hại, do có tên phản bội dẫn địch

đột nhập vào “quán dân quân” trong sở Ông Tà, nơi đơn vị Đỗ Văn Thi đang đứng

chân (1).

Trong trận tập kích vào quân Pháp trong thị xã còn có tấm gƣơng kiên cƣờng

Bùi Xuân Tảo, chiến sĩ chiến đấu trong đơn vị Vệ quốc đoàn Huỳnh Văn Nghệ. Bị

thƣơng gãy tay khi anh cùng đồng đội tiến công tiêu diệt tiểu đội Âu Phi đóng tại

bồn nƣớc trong thị xã (trƣớc Bệnh viện Đồng Nai hiện nay), đồng đội định cõng

anh về tuyến sau nhƣng anh không chịu. Anh nâng cánh tay nát nhừ đƣợc băng bó

tạm đi bộ một cách khó nhọc về trạm y tế của đơn vị đóng ở đình Tân Nhuận (Tân

(1) Năm 1995, Đỗ Văn Thi đã đƣợc Nhà nƣớc truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lƣợng vũ trang

nhân dân.

38

Uyên). Tại đây, với sự thiếu thốn mọi bề, nhất là thuốc gây tê, gây mê... nhƣng

theo yêu cầu của anh, các bác sĩ, y tá đã dùng thuốc đỏ và cƣa thợ mộc cƣa rời

đoạn cánh tay bị thƣơng của anh. Bùi Xuân Tảo nghiến răng chịu đau đớn, nhìn

ảnh Bác Hồ và cất tiếng hát bài Tiến quân ca. Anh hát đi hát lại cho đến khi việc

cƣa tay anh Hoàn thành và anh ngất lịm trƣớc sự cảm phục, lẫn nức nở của mọi

ngƣời. Rồi anh đƣợc chăm sóc tận tình cho đến khi trở lại quân ngũ cầm chiếc loa

làm công tác tuyên truyền kêu gọi binh lính nguỵ trở về với nhân dân trong suốt

cuộc trƣờng kỳ kháng chiến 9 năm. Cảm phục ý chí can trƣờng hiếm có của ngƣời

chiến sĩ trẻ tuổi, nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ đã làm bài thơ nổi tiếng ca ngợi Bùi

Xuân Tảo:

... Bác sĩ đang cưa tay

Một thương binh bằng cưa thợ mộc

Bác sĩ vừa cưa vừa khóc

Chị cứu thương nước mắt tràn trề

Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre

Người chiến sĩ vẫn mê mải hát

... “Đoàn quân Việt Nam đi

Chung lòng cứu quốc...”

Cho đến nay, tuổi trẻ Đồng Nai trong hoạt động “Về nguồn” của mình vẫn

mãi mãi nhớ thƣơng và tự hào về Bùi Xuân Tảo và Huỳnh Văn Nghệ, những tấm

gƣơng toả sáng chí kiên cƣờng.

(Huỳnh Văn Nghệ, một chỉ huy tài ba của bộ đội Khu 7, sau này từng chỉ huy

đơn vị đánh thắng giòn giã đoàn xe công voa của Pháp tại La Ngà. Ông cũng là

nhà thơ đã để lại nhiều bài thơ nổi tiếng, trong đó có bài thơ ca ngợi hành động

dũng cảm của chiến sĩ Bùi Xuân Tảo. Bài thơ nhƣ sau:

Ngựa hồng dừng chân

Bên quân y viện

Giật mình nghe tiếng

Quốc ca vang

Xuống ngựa buộc cương

Hỏi ra mới rõ

Bác sĩ đang cưa tay

Một thương binh bằng cưa thợ mộc

Bác sĩ vừa cưa vừa khóc

Chị cứu thương nước mắt tràn trề

39

Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre

Người chiến sĩ vẫn mê mải hát

... “Đoàn quân Việt Nam đi

Chung lòng cứu quốc...”

Đã hát đi hát lại bao lần

Vẫn chưa đứt xương tay

Vẫn chưa ngừng máu đỏ

Trở lên yên ngựa đi từng bước nhỏ

Cúi đầu nặng nỗi đau thương

Nhưng lửa căm hờn

Bỗng dưng cao đầu ngựa dậy

Cả núi rừng

Như còn lắng nghe lời người chiến sĩ

“Tiến mau ra sa trường

Tiến lên! Cùng tiến lên...”

Và vang trời ngựa hí

Chí phục thù cháy bỏng tay cương.)

Đầu năm 1946, trong không khí mừng chiến thắng và đầy tự tin, thực hiện

chủ trƣơng của Tỉnh ủy, Tỉnh Đoàn Thanh niên Cứu quốc Biên Hòa đã tổ chức chỉ

đạo các cơ sở Đoàn trong tỉnh đi đầu trong cuộc vận động bầu cử Quốc hội đầu

tiên của nƣớc Việt Nam mới. Nhiệm vụ của đoàn viên, thanh niên toàn tỉnh là:

– Tham gia tích cực công tác tuyên truyền, cổ động cho cuộc bầu cử.

– Tổ chức các đơn vị du kích thanh niên giữ trật tự và đảm bảo an toàn tại các

địa điểm bầu cử.

– Vận động tất cả nam nữ thanh niên đi bỏ phiếu.

Trƣớc ngày bầu cử, Tỉnh Đoàn đã thành lập hàng chục đoàn cổ động gồm

nam nữ thanh niên và các em thiếu nhi mang băng, cờ, biểu ngữ với tiếng trống

khua vang mời đồng bào tham gia bầu cử. Hàng nghìn tờ truyền đơn đƣợc đƣa về

các thôn xóm. Ở thị xã có đội văn nghệ của thanh, thiếu nhi vừa làm công tác

tuyên truyền vừa hát vang những bài ca cách mạng gây không khí tƣng bừng trong

ngày hội của toàn dân và thế hệ trẻ, tham gia xây dựng chính quyền cách mạng non

trẻ. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên tại Biên Hòa đã thành công tốt đẹp với

ba đại biểu đắc cử là các đồng chí Hoàng Minh Châu, Phạm Văn Búng, Điểu Xiển.

40

Công tác Đoàn và phong trào thanh niên Biên Hòa thời điểm này vẫn tập

trung thực hiện cuộc vận động thanh niên tham gia lực lƣợng vũ trang cách mạng

và tổ chức đánh du kích để tiêu hao lực lƣợng địch, đồng thời với việc xây dựng,

phát triển tổ chức. Đến cuối năm 1946, đầu năm 1947, ngoài Ban chấp hành lâm

thời Tỉnh Đoàn, ở một số huyện cũng đã hình thành Ban chấp hành lâm thời Huyện

Đoàn, nhất là ở những nơi còn là vùng tự do rộng và tình hình thuận lợi nhƣ Long

Thành, Tân Uyên...

Ở Biên Hòa, sau Hội nghị cán bộ toàn tỉnh tại Cù lao Vịt (xã Bình Hòa, quận

Châu Thành) xác định sự lãnh đạo tập trung của Tỉnh ủy (do đồng chí Trần Minh

Trí làm Bí thƣ và đồng chí Huỳnh Văn Lũy làm Phó bí thƣ) đối với lực lƣợng vũ

trang và xây dựng mối quan hệ giữa Dân – Quân – Chính – Đảng. Tháng 5–1946,

Tỉnh ủy mở Hội nghị bàn công tác quân sự trong đó có vấn đề tuyên truyền, giáo

dục nhiệm vụ tòng quân giết giặc, tham gia du kích chiến tranh cho thanh niên.

Đến tháng 7 năm 1947, Hội nghị Tỉnh ủy Biên Hòa lần thứ hai tại Mỹ Lộc (Tân

Uyên) đã phân công đồng chí Nguyễn Văn Trị phụ trách công tác thanh vận của

Tỉnh ủy. Lúc này, Ban chấp hành Tỉnh Đoàn cũng đƣợc kiện toàn theo chủ trƣơng

của Tỉnh ủy. Đồng chí Huỳnh Bá Bích, Tỉnh Đoàn trƣởng Thanh niên Cứu quốc

đƣợc chuyển sang công tác quân sự, các đồng chí Thanh Sơn, Hồ Thiện Ngôn

đƣợc cử làm Tỉnh Đoàn trƣởng và Tỉnh Đoàn phó. Các Ban chấp hành Quận Đoàn

cũng đƣợc củng cố và nhiều cán bộ huyện, quận đƣợc cử đi dự các lớp huấn luyện

ngắn ngày.

Hƣởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất

định không chịu mất nƣớc, nhất định không chịu làm nô lệ”, cuộc dấn thân của tuổi

trẻ Biên Hòa nói riêng và Nam bộ nói chung trong những năm đầu kháng chiến

thật đầy ý nghĩa nhƣ lời ca: “Nóp với giáo mang ngang vai nhƣng thân trai nào

kém oai hùng”. Biết bao ngƣời con của Biên Hòa, họ là đoàn viên, thanh niên yêu

nƣớc tình nguyện thoát ly gia đình ra chiến khu gia nhập quân đội và xung phong

vào dân quân du kích đánh giặc tại địa phƣơng. Thành tích xuất sắc của Đoàn

Thanh niên Cứu quốc Biên Hòa lúc này là đã góp phần đắc lực xây dựng Vệ quốc

đoàn của tỉnh với gần 1.000 cán bộ, chiến sĩ (Chi đội 10 Biên Hòa) do Huỳnh Văn

Nghệ làm Chi đội trƣởng, Huỳnh Văn Đạo, Nguyễn Văn Lung làm Chi đội phó và

Phan Đình Công làm Chính trị viên. Trƣớc Cách mạng tháng Tám, ở Biên Hòa chỉ

có các tiểu đội, trung đội du kích, vậy mà chỉ hơn một năm sau, khi bƣớc vào cuộc

kháng chiến toàn quốc sau ngày 19–12–1946 dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng

Đảng và Bác Hồ, Biên Hòa đã có lực lƣợng Vệ quốc đoàn tập trung lớn mạnh, bên

cạnh các đoàn quân Nam tiến do Nam Long và Vũ Đức chỉ huy thuộc lực lƣợng

của Trung ƣơng. Ngoài ra, Biên Hòa còn có hàng nghìn du kích quân gồm hầu hết

41

là đoàn viên, thanh niên, nguồn bổ sung quân số hùng hậu cho lực lƣợng chủ lực

tỉnh.

Đối với thanh niên, giặc ra sức phá hoại và chia rẽ bằng cách lập ra các tổ

chức nhƣ đoàn thanh niên Công giáo, thanh niên thiện chí, thanh niên bảo quốc

đoàn, thanh niên đạo đức đoàn... Trƣớc tình hình đó, thực hiện chủ trƣơng của Xứ

ủy và Tỉnh ủy, Ban chấp hành Tỉnh Đoàn Biên Hòađã đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, giáo dục, phân công cán bộ Đoàn đi sát cơ sở, vạch trần âm mƣu của địch.

Lúc này, Tỉnh Đoàn chƣa có điều kiện ra báo cho thanh niên nhƣng có bộ phận in

(thô sơ), các tài liệu tuy còn đơn giản nhƣng đã giải đáp cho thanh niên về những

điều cần thiết nhằm tránh sự lừa mị của giặc. Đặc biệt, sau khi đoàn đại biểu đầu

tiên của thanh niên Nam bộ do đồng chí Huỳnh Tấn Phát dẫn đầu ra Hà Nội chuẩn

bị dự Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ nhất (1) trở về truyền đạt chỉ thị của Bác Hồ

và ý kiến chỉ đạo của đồng chí Phạm Văn Đồng, Chủ nhiệm Tổng bộ Việt Minh về

việc phải lập mặt trận đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp thanh niên do Đoàn Thanh

niên Cứu quốc làm nòng cốt để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến thì công tác

Đoàn và phong trào thanh niên Nam bộ có bƣớc phát triển mới. Đoàn đại biểu

thanh niên Nam bộ ra tới Hà Nội vào tháng 11–1945 và ngày 10–11–1945 đƣợc

Bác Hồ ân cần tiếp đón tại nơi làm việc của Ngƣời. Bác khen ngợi thành tích của

toàn thể thanh niên Nam bộ và rất xúc động khi nghe đồng chí Huỳnh Tấn Phát

báo cáo về những tấm gƣơng chiến đấu hy sinh kiên cƣờng của thanh, thiếu nhi

Nam bộ. Bác nhắc nhở vấn đề thống nhất, đoàn kết các lực lƣợng thanh niên yêu

nƣớc thành một khối vững chắc.

Ngày 5–1–1947, đồng chí Trần Bửu Kiếm, Tổng thƣ ký đại diện cho Ủy ban

Kháng chiến hành chánh Nam bộ triệu tập cuộc họp đại biểu các tổ chức thanh

niên Nam bộ tại Vƣờn Thơm (Chợ Lớn). Hội nghị tuyên bố thành lập Liên đoàn

thanh niên Việt Nam – Nam bộ. Nhƣ vậy là mặt trận đoàn kết thanh niên Nam bộ

đã đƣợc hình thành gồm có Thanh niên cứu quốc, Thanh niên dân chủ, Đoàn học

sinh Nam bộ, tổ chức thanh niên Công giáo và sau này có thêm tổ chức sinh viên

(gọi là chi hội sinh viên) tham gia. Ngày 4–7–1947, Xứ ủy triệu tập đại biểu các

Tỉnh Đoàn Thanh niên cứu quốc Nam bộ họp hội nghị thành lập Xứ Đoàn Thanh

niên cứu quốc lâm thời do đồng chí Phạm Văn Bính, cán bộ của Xứ ủy, cựu tù

chính trị Côn Đảo làm Chánh thƣ ký. Trong Ban chấp hành Xứ Đoàn lâm thời còn

có các đồng chí Huỳnh Văn Hợi, Phùng Lƣợng... (đại diện Xứ Đoàn trong Kỳ bộ

Việt Minh). Đến ngày 8–12–1947, Đại hội Xứ Đoàn Thanh niên cứu quốc lần thứ

(1) Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ nhất dự kiến triệu tập vào đầu năm 1946, nhƣng do tình hình

kháng chiến khẩn trƣơng nên phải hoãn lại đến tháng 2–1950 mới có điều kiện tiến hành

tại Việt Bắc.

42

nhất đƣợc tiến hành tại xã Đốc Binh Kiều, huyện Cái Bè, Mỹ Tho thuộc vùng

Đồng Tháp Mƣời. Đại hội có đầy đủ đại biểu các Tỉnh Đoàn trong toàn Xứ. Đoàn

đại biểu của Tỉnh Đoàn Biên Hòa do đồng chí Thanh Sơn dẫn đầu đã tham dự Đại

hội.

Đồng chí Bí thƣ Xứ ủy Lê Duẩn đã trực tiếp chỉ đạo Đại hội suốt thời gian

diễn ra các phiên làm việc. Nói đến cuộc kháng chiến của quân dân Nam bộ, đồng

chí Lê Duẩn nhấn mạnh đến phong trào thanh niên tham gia dân quân. Đây là khâu

then chốt nhất để phát động rộng khắp phong trào du kích chiến tranh. Đồng chí Bí

thƣ Xứ ủy chỉ rõ: “Thiếu sức kháng chiến và tinh thần hăng say của quảng đại

quần chúng, nhất là thanh niên thì không có dân quân, không có quần chúng thì

không phát triển đƣợc du kích chiến tranh, đoàn kết dân, quân chính là điều kiện để

phát triển dân quân. Đoàn Thanh niên phải thực hiện khẩu hiệu “Mỗi đoàn viên là

một dân quân”.

Trên cơ sở xác định những nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Đoàn, Đại hội chủ

trƣơng phát động các phong trào:

1– Phong trào Quân sự hóa thanh niên gồm tòng quân, luyện tập quân sự,

tham gia dân quân và du kích chiến tranh.

2– Phong trào Xây dựng đời sống mới, xây dựng hương thôn mới.

3– Phong trào Xây dựng sản xuất tự túc.

4– Phong trào Bình dân học vụ.

5– Công tác thiếu nhi.

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Xứ Đoàn chính thức khóa I do đồng chí Châu

Quốc Tuấn làm Xứ Đoàn trƣởng, đồng chí Trần Bạch Đằng làm Xứ Đoàn phó.

Đồng chí Thanh Sơn, Tỉnh Đoàn trƣởng Biên Hòa tham gia ủy viên Ban chấp hành

Xứ Đoàn.

Nghị quyết của Đại hội Xứ Đoàn nhanh chóng đƣợc triển khai về các tỉnh và

cơ sở. Lúc này, để trực tiếp giúp các Tỉnh Đoàn chỉ đạo các phong trào có kết quả,

Ban chấp hành chủ trƣơng phân công các ủy viên Xứ Đoàn kể cả Xứ Đoàn trƣởng

và Xứ Đoàn phó về một số trọng điểm. Đồng chí Châu Quốc Tuấn, Xứ Đoàn

trƣởng đƣợc phân công về chỉ đạo các tỉnh miền Đông bao gồm Biên Hòa, Bà Rịa,

Thủ Dầu Một, Tây Ninh.

Đƣợc sự giúp sức của các đồng chí lãnh đạo Xứ Đoàn, phong trào thanh niên

và công tác Đoàn ở Biên Hòa từng bƣớc phát triển. Trƣớc hết là Tỉnh Đoàn tổ chức

Hội nghị cán bộ thanh niên các quận, các đơn vị trong tỉnh để quán triệt nghị quyết

và bàn kế hoạch triển khai.

43

Về phong trào tòng quân, luyện tập quân sự, Biên Hòa là tỉnh đi đầu vì phải tổ

chức kháng chiến sớm. Tuy nhiên, sau Đại hội Xứ Đoàn lần thứ I, để theo dõi và

chỉ đạo phong trào du kích chiến tranh trong thanh niên, Tỉnh Đoàn tập trung thực

hiện quân sự hóa thanh niên bằng hai kế hoạch cụ thể, đó là mở các lớp huấn luyện

chính trị và quân sự cho đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở.

Nội dung học tập chính trị gồm:

– Năm bƣớc công tác cách mạng.

– Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc.

– Cách mạng và cải lƣơng.

– Ba giai đoạn của cách mạng Việt Nam.

– Đoàn Thanh niên Cứu quốc và nhiệm vụ đoàn viên.

Nội dung học tập quân sự gồm:

– Chiến tranh du kích và cách đánh du kích.

– Sử dụng vũ khí (súng, bom, mìn... kể cả vũ khí thô sơ).

– Cá nhân chiến đấu, tiểu đội chiến đấu.

– Chiến đấu phối hợp và chiến thuật phục kích.

Trong hai năm 1948 – 1949, Biên Hòa đã mở nhiều lớp huấn luyện chính trị

và quân sự cho hàng nghìn cán bộ, đoàn viên; chủ yếu là tổ chức ngay ở địa

phƣơng, cơ sở. Các đồng chí ủy viên Xứ Đoàn phụ trách đã đến giảng tại các lớp

nêu trên. Phần quân sự do các cán bộ của Chi đội 10 (sau này là Trung đoàn 301

của Biên Hòa) tham gia giúp sức.

Cuộc vận động tòng quân với khẩu hiệu “Mỗi đoàn viên là một dân quân”

đƣợc phổ biến rộng rãi và đƣợc chấp hành nghiêm túc. Các xã thƣờng tổ chức nam

dân quân riêng và nữ dân quân riêng. Vùng căn cứ và vùng du kích Biên Hòa có

địa hình thuận lợi nên từ năm 1948 đã xuất hiện phong trào lập làng chiến đấu do

thanh niên đóng vai trò xung kích. Tháng 7 năm 1948, chấp hành chỉ thị của Xứ

Đoàn, Tỉnh Đoàn Biên Hòa đã tổ chức 2 ngày “Thanh niên và Vệ quốc đoàn”. Đây

là cuộc vận động tòng quân lớn với sự phối hợp của nhiều hoạt động về tuyên

truyền giáo dục và sinh hoạt văn hóa. Tỉnh Đoàn Biên Hòađã kịp thời phát hành tài

liệu tố cáo tội ác của giặc trong các trận càn quét và cổ vũ tinh thần yêu nƣớc của

thanh niên. Xứ Đoàn đã biểu dƣơng các hoạt động vận động tòng quân của Tỉnh

Đoàn Biên Hòa. Trong cuộc họp ngày 20–7–1949, Ủy ban Kháng chiến hành

chánh tỉnh đã nhận xét : “Cán bộ Đoàn các cấp đã ý thức rõ ràng đối với công tác

dân quân, đã thấy cần phải nắm công tác dân quân để huy động thanh niên tham

gia kháng chiến đồng thời luôn đẩy mạnh cuộc vận động tòng quân”.

44

Lực lƣợng đƣợc tăng cƣờng, các hoạt động vũ trang trên chiến trƣờng Biên

Hòa ngày càng đƣợc đẩy mạnh. Đặc biệt là những trận đánh giao thông địch ở

Đồng Xoài, Trảng Táo. Nhất là chiến công vang dội của bộ đội và du kích trong

trận tập kích đoàn xe 70 chiếc của địch tại La Ngà, trên Quốc lộ 20, con đƣờng

chiến lƣợc nối Sài Gòn với Đà Lạt... Trong các trận chiến đấu, nhiều đoàn viên,

thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang đã tỏ ra vô cùng dũng cảm, sẵn sàng xông

thẳng lên mặt đƣờng, dùng thủ pháo, chai xăng, đánh diệt từng chiếc xe địch. Tại

trận địa phục kích đánh đoàn xe địch ở La Ngà, khi địa lôi nổ tung những chiếc xe

mở đƣờng, đoàn viên và thanh niên trong Đại đội A, Đại đội B của Chi đội 10 và

lực lƣợng của huyện Xuân Lộc từ các điểm chốt chặn đã nhanh chóng làm chủ

chiến trƣờng, chia cắt địch ra để tiêu diệt. Đúng 17 giờ chiều, ta đƣa toàn bộ tù

binh, hành khách đi theo xe về phía sông Đồng Nai. Tại khu vực tập kết, bộ đội ta

đã tổ chức nói chuyện về tình hình kháng chiến và chính sách của cách mạng,

chăm sóc vết thƣơng cho tù binh và hành khách đi theo. Các tù binh và hành khách

đƣợc cho về, từ đó tuyên truyền rộng rãi cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta.

Về phong trào xây dựng đời sống mới, hƣơng thôn mới, vai trò của tuổi trẻ

Biên Hòa nổi bật trong các hoạt động nhƣ: phổ biến cách ăn ở vệ sinh, nhất là đối

với thanh niên và đồng bào các dân tộc để hạn chế bệnh tật chứ không cúng vái tà

ma gây lãng phí. Đặc biệt, với địa hình đồi núi và rừng của miền Đông, việc nối

liền giao thông giữa các địa phƣơng rất quan trọng nên thanh niên tích cực tham

gia mở các tuyến đƣờng mòn vừa tạo điều kiện cho bộ đội hành quân, vừa giúp

đồng bào đi lại giúp nhau dễ dàng. Trong điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ,

thiếu thốn mọi bề, thanh niên đã đi đầu trong phong trào nhƣờng cơm, sẻ áo trong

những thời điểm phải chống chọi với thiên tai khắc nghiệt.

Ngày 12–2–1948, Xứ ủy Nam bộ ra Chỉ thị về xây dựng hƣơng thôn mới,

trong đó có đoạn nêu rõ: “Cuộc kháng chiến lâu dài tất nhiên làm cho thanh niên

mệt mỏi, chán nản. Nếu ta để họ sống trong một khung cảnh khó khăn quá thì

không thể nào huy động đƣợc hết khả năng của thanh niên và không thể đƣa họ

bền bỉ đi theo cuộc kháng chiến lâu dài đƣợc”.

Thực hiện chủ trƣơng nêu trên, Tỉnh Đoàn đã phối hợp với cơ quan thông tin

phổ biến rộng rãi các bài ca cách mạng, lập các nhóm văn nghệ lƣu động trong

thanh, thiếu nhi vừa làm nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, vừa gây không khí

hoạt động văn hóa trong các vùng căn cứ, kể cả vùng du kích. Các bài hát: Du kích

Bắc Sơn, Bạch Đằng Giang, Thanh niên hành khúc, Đoàn quân đi, Bình Trị Thiên

khói lửa... đƣợc phổ biến cùng các bài hát, bài thơ ca ngợi cuộc kháng chiến do cán

bộ Đoàn tự biên tự diễn đêm đêm vang lên thu hút đồng bào và thanh niên đến sinh

hoạt văn hóa. Đặc biệt các bài thơ Ly rượu thọ, Đợi anh về (Tố Hữu dịch thơ của

Ximônốp – Nga) hầu nhƣ cán bộ Đoàn nào cũng thuộc và mỗi lần sinh hoạt Đoàn

45

hay trong các lớp tập huấn đều đƣợc ngâm, đƣợc chép lại chuyền tay nhau. Tuổi

trẻ rất gắn bó với sinh hoạt tinh thần lành mạnh, nhờ đó mà trong gian khổ vẫn giữ

đƣợc nét vui tƣơi, tin tƣởng.

Hấp dẫn hơn cả là những câu chuyện kể về Bác Hồ do đoàn đại biểu thanh

niên Nam bộ ra Bắc đƣợc gặp Bác, do các cán bộ Nam tiến kể lại đƣợc thanh niên

phấn khởi lắng nghe rồi truyền tụng kể lại cho mọi ngƣời. Các buổi nói chuyện về

Bác làm cho nhiều ngƣời khóc, Bác tuy ở tận Việt Bắc xa xôi mà thấy nhƣ gần gũi

trong gang tấc.

Phong trào xây dựng hƣơng thôn mới đƣợc kết hợp với phong trào chống giặc

dốt, trƣớc hết là chống giặc dốt trong Đoàn. Tỉnh Đoàn Biên Hòa đã tổ chức mở

lớp học xoá dốt cho đoàn viên, thanh niên ở các xã trong tỉnh bằng cách hình thành

đội ngũ giáo viên trong các địa phƣơng và mở cuộc vận động đoàn viên, thanh niên

đi học. Trƣờng sở hầu hết là mƣợn nhà dân, thời gian học chủ yếu là buổi tối. Các

Quận Đoàn tổ chức diễn kịch, bán đấu giá tranh, văn hóa phẩm do quyên góp đƣợc

để lấy tiền trang trải cho các lớp học, còn giáo viên thì làm việc theo tinh thần tự

nguyện đóng góp công sức, đồng chí nào có thành tích xuất sắc thì đƣợc khen

thƣởng về mặt tinh thần. Tối đến, các lớp học sáng đèn, ngƣời đi học cũng mang

theo đèn góp phần làm cho không khí hƣơng thôn thêm vui vẻ, sống động, bà con

vui vẻ nói với nhau: “Chỉ có cách mạng mới lo cho dân”.

Vƣợt qua nhiều khó khăn, Biên Hòa vẫn duy trì đƣợc nhiều lớp học cả tiểu,

trung học nhƣ các trƣờng tiểu học Bình Quới, Bình Thạnh. Giữa năm 1949, địch

huy động lực lƣợng lớn nhằm tiêu diệt lực lƣợng vũ trang của ta ở Biên Hòa, máy

bay ném bom phá nát Trƣờng tiểu học Bình Quới. Thầy giáo Nguyễn Văn Sƣa hy

sinh trong lúc hƣớng dẫn học trò xuống hầm. Thầy giáo Nguyễn Văn Tao kịp thời

giúp đỡ các em học sinh ẩn nấp an toàn và phân tán trở về nhà trƣớc lúc giặc đƣa

bộ binh tiến vào làng. Lực lƣợng ta bố trí phục kích dựa vào hệ thống công sự đã

đƣợc chuẩn bị, chờ địch lọt vào trận địa mới nổ súng đánh trả và xung phong diệt

địch. Sau hơn một tiếng đồng hồ chống đỡ nhƣng trƣớc tinh thần quyết chiến của

quân ta, địch phải tháo chạy, mang theo gần một trăm tên chết và bị thƣơng.

Đồng thời với việc đẩy mạnh hai phong trào tòng quân và đánh du kích trong

đoàn viên, thanh niên, Tỉnh Đoàn Biên Hòa luôn chú trọng đến công tác thiếu nhi.

Ngay từ cuối năm 1946, Ban chấp hành Tỉnh Đoàn đã có văn bản về công tác thiếu

nhi gửi các địa phƣơng. Đầu năm 1947, Ban chấp hành Tỉnh Đoàn chính thức phân

công anh Hồ Thiện Ngôn, Tỉnh Đoàn phó Thanh niên cứu quốc và anh Phong phụ

trách công tác thiếu nhi của tỉnh. Anh Thanh Sơn lúc này là Tỉnh Đoàn trƣởng

cũng tham gia trực tiếp chỉ đạo công tác thiếu nhi. Lúc đầu, Tỉnh Đoàn tập hợp các

toán thiếu nhi từ các đơn vị và các cơ quan của tỉnh nhƣ Ty Thông tin, Ty Công an,

Hội Phụ nữ, Tỉnh Đoàn, Trung đoàn 310... và thiếu nhi một số địa phƣơng tại căn

46

cứ kháng chiến. Năm 1949, Trung đoàn 310 tổ chức Trƣờng thiếu sinh quân, vừa

dạy văn hóa, vừa dạy quân sự, nhằm đào tạo cán bộ, chiến sĩ cho kháng chiến.

Việc trƣớc tiên là các em đƣợc lập thành đội ngũ để học văn hóa, nhiều em chƣa

biết chữ nhƣng chỉ một thời gian sau đã đƣợc xoá mù chữ. Kết quả này đƣợc chính

các em và các bậc phụ huynh rất phấn khởi. Đƣợc sự chỉ đạo của Tỉnh Đoàn mà

trực tiếp là anh Hồ Thiện Ngôn, Đội đã ra tập san Măng non hƣớng dẫn các em

sinh hoạt học tập và hoạt động Đội, động viên các em thi đua tham gia kháng chiến

với tinh thần “tuổi nhỏ làm việc nhỏ” nhƣ giúp gia đình tăng gia sản xuất và đặc

biệt là tham gia phong trào “Mỗi thiếu nhi một con gà, một bụi chuối”. Tờ Măng

non đƣợc các em rất yêu thích và có số đã lọt đƣợc vào thành phố Sài Gòn và một

số tỉnh bạn. Thời gian sau, Đội Thiếu nhi Biên Hòa lập đội văn nghệ do anh Vân

Sơn phụ trách. Đội đi diễn khắp vùng trong tỉnh nhƣ Tân Uyên, Mỹ Lộc, Châu

Thành, Vĩnh Cửu và sang các tỉnh bạn, đặc biệt có lần đã luồn sâu vào ven đô Sài

Gòn biểu diễn, đƣợc thiếu nhi và đồng bào hoan nghênh nhiệt liệt nên địch theo

dõi, đội văn nghệ phải rút về căn cứ.

Đội Thiếu nhi Biên Hòa, trong đó có đội văn nghệ của các em đã góp phần

tạo nên không khí vui tƣơi, phấn khởi cho nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là ở vùng

rừng núi căn cứ kháng chiến theo tinh thần chỉ đạo xây dựng đời sống mới ở

hƣơng thôn của Xứ ủy và Tỉnh ủy.

Nhiều đội viên trong Đội Thiếu nhi Biên Hòa về sau đã trƣởng thành tham gia

quân đội, làm công tác Đảng, làm công tác chính quyền, đặc biệt là bổ sung cho

đội ngũ cán bộ Đoàn của tỉnh, quận. Trong lớp đội viên trƣởng thành từ những

năm đầu kháng chiến chống Pháp, có đồng chí đã trở thành cán bộ lãnh đạo cấp

tỉnh (Chủ tịch, Phó chủ tịch...) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc và sau

ngày thống nhất đất nƣớc.

Những năm sau, đồng chí Hồ Thiện Ngôn đƣợc bầu làm ủy viên Xứ Đoàn và

đƣợc điều lên tiếp tục phụ trách Ban thiếu nhi của Xứ Đoàn, các đồng chí Lê

Thanh Phong, Lê Chí Long, Nguyễn Thị Loan, trong Ban chấp hành Tỉnh Đoàn

Biên Hòa tiếp tục làm công tác thiếu nhi và đã đƣa phong trào thiếu nhi của tỉnh

phát triển ngày càng rộng khắp.

Năm 1948, thực hiện chiến dịch bình định Nam bộ, thực dân Pháp cho xây

dựng hàng ngàn đồn, bốt, tháp canh trên các trục lộ, nhằm bảo vệ các đƣờng giao

thông huyết mạch của chúng, chia cắt và kiểm soát các vùng du kích của ta. Trƣớc

tình hình đó, Bộ chỉ huy Khu 7 đề ra nhiệm vụ phải đánh bại chiến thuật Đờ Latua

(De Latour), phải diệt cho đƣợc các tháp canh của giặc. Tỉnh đội Biên Hòa giao

trách nhiệm cho Huyện đội Tân Uyên nghiên cứu, tổ chức đánh tháp canh cầu Bà

Kiên để rút kinh nghiệm. Huyện đội lựa chọn và quyết định trao nhiệm vụ này cho

tổ du kích do anh Trần Văn Kìa (tức Trần Công An) làm tổ trƣởng. Trần Công An

47

cùng tổ du kích vào rừng khổ luyện, chọn một thân cây độc mộc giả làm tháp canh

rồi bố trí ngƣời trèo lên cây rọi đèn pin và ngƣời bên dƣới hóa trang bằng bùn non

xoa lên ngƣời bò vào tiếp cận đƣa thang sát vào hàng rào tháp canh, nhẹ nhàng leo

lên... Sau khi luyện tập khá nhuần nhuyễn, tổ du kích xây dựng phƣơng án tác

chiến thông qua Huyện đội Tân Uyên. Đêm 18 rạng sáng ngày 19–3–1948, Trần

Công An cùng tổ du kích đã đƣợc tập luyện gồm 3 đồng chí đều là đoàn viên,

thanh niên là Trần Văn Nguyên, Hồ Văn Lung do An chỉ huy có thêm hai tiểu đội

du kích do Huyện đội chi viện tổ chức đánh tháp canh cầu Bà Kiên. Ngoài ra, còn

hai cơ sở mật nằm trong vùng kiểm soát của giặc sát tháp canh cầu Bà Kiên là

Nguyễn Văn Ái và Trần Văn Hải đƣợc giao nhiệm vụ nắm tình hình địch và bố

phòng của chúng từ trƣớc nay làm nhiệm vụ cảnh giới. Theo sự phân công,

Nguyên nhanh chóng leo thang lên tầng tháp trên cùng, Lung lên tầng giữa và An

ở tầng dƣới làm nhiệm vụ chỉ huy. Nguyên và Lung ném mỗi ngƣời 3 quả lựu đạn

qua lỗ châu mai ở tầng trên và giữa nhƣng Trần Công An nghi là địch chƣa bị tiêu

diệt hết nên anh bám thang leo tiếp lên cao bồi tiếp một quả “Ô ép”. Không ngờ

quả “Ô ép” nổ nhanh làm An bị thƣơng. Tuy bị thƣơng nhƣng An vẫn giục Nguyên

và Lung vào trong tháp canh thu toàn bộ vũ khí, sau đó mới ra khiêng anh về băng

bó và chữa vết thƣơng.

Sau trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên thắng lợi, Ban chỉ huy Tỉnh đội và

Huyện đội Tân Uyên tổng kết kinh nghiệm nêu rõ rằng đây là một hình thức tác

chiến mới trên cơ sở dựa vào dân để nắm chắc tình hình cùng với tinh thần chiến

đấu gan dạ – mƣu trí, dũng cảm của các chiến sĩ du kích trẻ tuổi. Qua kinh nghiệm

đánh tháp canh cầu Bà Kiên, phong trào thi đua diệt tháp canh và đồn bốt địch ở

các chiến trƣờng Đông Nam bộ liên tiếp diễn ra. Chiến sĩ du kích trẻ Trần Công

An đã đƣợc Tỉnh đội và Huyện đội tặng bằng khen, đƣợc Bộ Tƣ lệnh Quân khu 7

tuyên dƣơng, đặc biệt là hơn 2 tháng sau anh đã đƣợc vinh dự đứng vào hàng ngũ

của Đảng. (1)

Tỉnh Đoàn và Tỉnh đội Biên Hòa đã tổ chức phối hợp làm công tác tuyên

truyền giới thiệu chiến thắng cầu Bà Kiên trong các tầng lớp thanh niên, phục vụ

cho công tác đẩy mạnh chiến tranh du kích đồng thời gây không khí phấn khởi tin

tƣởng trong thanh niên để động viên thanh niên tòng quân.

Phát huy những thắng lợi đã đạt đƣợc trong trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên,

sau đó anh Trần Công An cùng đồng đội đã liên tiếp đánh thắng lần thứ 2, thứ 3

tháp canh mẹ Bà Kiên trên tỉnh lộ 16, tháp canh Vàm Giá trên tỉnh lộ 14 (đây là

tháp canh án ngữ cửa ngõ huyết mạch vào Chiến khu Đ) thu nhiều chiến lợi phẩm,

(1) Ngày 23–10–1996, đồng chí Trần Công An đƣợc Chủ tịch nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lƣợng vũ trang nhân dân.

48

đặc biệt từ những kinh nghiệm đánh tháp canh, ta đã nghiên cứu chế tạo ra loại mìn

lõm FT, là loại mìn có tính năng sử dụng đạt hiệu quả cao khi đánh tháp canh.

Đêm 21 rạng ngày 22–3–1950, 300 chiến sĩ thuộc lực lƣợng vũ trang Biên Hòađã

chia thành 50 tổ bí mật áp sát 50 tháp canh của địch trên các Quốc lộ 1, 15 và các

tỉnh lộ 16, 24, dùng mìn FT đánh sập hệ thống tháp canh của địch. Tất cả các tháp

canh đều bị đánh thủng một lỗ từ 0,80 – 1,5 mét, diệt 70 tên địch, thu nhiều súng,

Ngoài việc tuyên truyền, phổ biến cách đánh tháp canh, thời gian này quân

dân Biên Hòa lợi dụng địa hình thuận lợi đã sáng tạo ra hình thức đào hầm bí mật

để bảo toàn lực lƣợng tại chỗ khi địch tổ chức càn quét với lực lƣợng lớn. Bọn giặc

rất hoang mang, lúc đầu chúng không biết từ đâu du kích xuất hiện rồi biến mất

một cách nhanh chóng nhƣ thế. Từ đào hầm giấu quân dẫn đến xây làng chiến đấu

dựa vào địa hình đồi núi thuận lợi của miền Đông, Biên Hòa trở thành quê hƣơng

của nhiều cách đánh du kích rất sáng tạo, đặc biệt là ngay trong thời kỳ kháng

chiến chống Pháp, Biên Hòa đã hình thành đƣợc hệ thống địa đạo liên Hoàn với

hàng chục vạn ngày công đóng góp của đoàn viên, thanh niên.

Thực hiện chủ trƣơng của Xứ ủy, công tác Đoàn ở các tỉnh Nam bộ thời kỳ

kháng chiến chống Pháp luôn chú trọng đẩy mạnh hai cuộc vận động lớn trong

thanh niên. Đó là cuộc vận động đoàn viên, thanh niên tham gia tòng quân (bộ đội

chủ lực, bộ đội địa phƣơng) và cuộc vận động đoàn viên, thanh niên tham gia dân

quân du kích với khẩu hiệu: “Quân sự hóa thanh niên”.

Ngày 29–12–1949, Đại hội Xứ Đoàn Thanh niên cứu quốc Nam bộ lần thứ

hai đƣợc tổ chức tại Ngang Dừa (huyện Hồng Dân, tỉnh Rạch Giá). Kinh nghiệm

vận động tòng quân và chiến tranh du kích của Tỉnh Đoàn Biên Hòa đã đƣợc Đại

hội đánh giá cao và góp phần đúc kết thành kinh nghiệm chung. Đây là Đại hội có

quy mô lớn từ khi Xứ Đoàn đƣợc thành lập với gần 100 đại biểu của tất cả các

Tỉnh Đoàn về dự. Tại thời điểm này, Khu 7 – trong đó bao gồm cả Biên Hòa– có

số đoàn viên lên đến 75.000 đồng chí đoàn viên nam và 13.000 đồng chí đoàn viên

nữ (số tròn) chiếm tỷ lệ cao so với tổng số thanh niên các khu khác. Đồng chí Lê

Duẩn, Bí thƣ Xứ ủy và các đồng chí Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Linh, Trung tƣớng

Nguyễn Bình, đồng chí Dƣơng Quốc Chính... đã tham dự và chỉ đạo công việc Đại

hội suốt 8 ngày.

Sau khi Đại hội bế mạc, hầu hết các đồng chí Bí thƣ Tỉnh Đoàn đã đƣợc Xứ

ủy lƣu lại để dự một lớp tập huấn quan trọng mà giảng viên là các đồng chí lãnh

đạo cao cấp của Đảng.

Sau Đại hội Xứ Đoàn, Tỉnh Đoàn Biên Hòa đã triển khai Nghị quyết Đại hội

bằng việc xây dựng kế hoạch tuyên truyền, giáo dục và tổ chức trong đoàn viên và

thanh niên toàn tỉnh:

49

– Về công tác giáo dục, Tỉnh Đoàn đã biên soạn và phát hành tài liệu tóm tắt

về tình hình nhiệm vụ mới đến tận các huyện, xã; lập nhiều nhóm tuyên truyền đi

khắp các cơ sở để tổ chức nói chuyện về tình hình, nhiệm vụ mới qua các hình

thức hoạt động văn nghệ đƣợc thanh niên rất ƣa thích. Tỉnh Đoàn còn cho in lại

báo Dũng Tiến của Xứ Đoàn để đƣa về các huyện. Tập kịch ngắn về tòng quân

đƣợc lƣu diễn nhiều nơi. Tác phẩm Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi của

đồng chí Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh đã trở thành sách gối đầu giƣờng của cán bộ

Đoàn và là tài liệu chủ yếu trong các lớp tập huấn cán bộ Đoàn. Nhờ công tác

tuyên truyền giáo dục đƣợc đẩy mạnh nên Biên Hòa đã trở thành một trong những

đơn vị có số lƣợng đoàn viên, thanh niên gia nhập du kích và tòng quân đứng đầu

Nam bộ, đƣợc Xứ Đoàn biểu dƣơng. Nhờ sự phối hợp tích cực và chặt chẽ trong

công tác tuyên truyền, vận động giữa Tỉnh Đoàn và Tỉnh đội nên phong trào “Mỗi

đoàn viên là một dân quân” ở Biên Hòa đã phát triển rộng khắp, đƣa lực lƣợng

chiến sĩ du kích trẻ toàn tỉnh lên đến 12.000 ngƣời vào đầu năm 1949. Ngoài ra,

hàng nghìn đoàn viên, thanh niên khác đã tham gia xây dựng làng chiến đấu, đào

hầm hào, dựng chƣớng ngại vật, nhất là tham gia dân công vận tải lƣơng thực, vũ

khí phục vụ bộ đội chiến đấu.

– Về công tác tổ chức, Biên Hòa là tỉnh có chủ trƣơng sớm của Tỉnh ủy về

xây dựng Đoàn Thanh niên Cứu quốc; trong Ban chấp hành Tỉnh ủy luôn có ủy

viên phụ trách theo dõi công tác thanh niên; Ban chấp hành Tỉnh Đoàn đƣợc kiện

toàn từng thời gian. Sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy là nguyên nhân cơ bản tạo ra

những kết quả trong công tác Đoàn và phong trào thanh niên Biên Hòa. Biên Hòa

có ba vùng rõ rệt, trong mỗi vùng có chủ trƣơng và phƣơng pháp công tác Đoàn

phù hợp nhƣng đƣợc liên kết, phối hợp với nhau một cách chặt chẽ. Biên Hòa cũng

là một trong những địa phƣơng gian khổ, khó khăn hàng đầu trên chiến trƣờng

Nam bộ; nơi đây còn có một lớp trẻ gan dạ, dám chiến đấu hy sinh và đƣợc tổ chức

tốt. Trong điều kiện khó khăn nhƣ vậy mà trong 2 năm 1948 – 1949, Tỉnh Đoàn

Biên Hòa đã mở đƣợc 5 lớp huấn luyện cán bộ Đoàn. Đây là một cố gắng lớn để

tạo nên một lực lƣợng vừa trực tiếp làm công tác Đoàn vừa là đội hậu bị của Đảng,

nguồn bổ sung cán bộ cho Đảng. Nhìn về lâu dài, Biên Hòa tiếp tục quan tâm đến

công tác thiếu nhi, thành lập Ban thiếu nhi của tỉnh, cử cán bộ phụ trách công tác

thiếu nhi đến quận, huyện, cơ sở... Hàng chục, hàng trăm cán bộ phụ trách và đội

viên thiếu nhi đã trƣởng thành, từng bƣớc đảm đƣơng những trọng trách trong các

cơ quan dân, chính, Đảng và cán bộ quân đội.

Do đặc điểm của chiến trƣờng, Biên Hòa đã hình thành sớm những đội thanh

niên xung phong đảm bảo phục vụ chiến đấu. Thanh niên xung phong lúc đầu đƣợc

tập hợp qua từng việc, từng thời gian... xong nhiệm vụ thì giải tán.

50

Theo chủ trƣơng của Xứ ủy và Tỉnh ủy, trong công tác xây dựng Đoàn, vấn

đề nữ thanh niên đƣợc quan tâm ở các cấp. Trong Ban chấp hành Tỉnh Đoàn luôn

có một ủy viên phụ trách nữ thanh niên thƣờng là do Tỉnh hội Phụ nữ cứu quốc sử

dụng.

Về vấn đề đoàn kết, tập hợp thanh niên, tuy Liên đoàn Thanh niên Việt Nam

Nam bộ đƣợc hình thành sớm nhƣng việc triển khai đến các tỉnh và các cơ sở gặp

không ít khó khăn do phần lớn thanh niên ở Nam bộ là những ngƣời nông dân trẻ

tuổi, đó là đối tƣợng phát triển Đoàn chứ chƣa phải là Liên đoàn. Tình hình đoàn

kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên ở Biên Hòacũng nằm trong trạng thái

chung đó. Đến tháng 12–1949, Liên đoàn Thanh niên Việt Nam Nam bộ họp Hội

nghị quán triệt chủ trƣơng của Trung ƣơng và điều lệ mới của Trung ƣơng đƣa

vào, công tác mặt trận thanh niên đƣợc xúc tiến mạnh hơn. Tại Hội nghị đã cử

đồng chí Phạm Ngọc Thuần làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Duy Cƣơng làm Tổng

thƣ ký. Nghị quyết của Hội nghị Liên đoàn đƣợc triển khai ở Biên Hòatrong năm

1950 với các cao trào đấu tranh của các tầng lớp thanh niên, từ đó thanh niên các

dân tộc, các tôn giáo ở các vùng bị tạm chiếm trong tỉnh từng bƣớc đƣợc tập hợp

ngày càng rộng rãi hơn dƣới ngọn cờ yêu nƣớc và kháng chiến chống quân xâm

lƣợc.

II. VƢỢT QUA MỌI GIAN LAO, THỬ THÁCH, GÓP PHẦN

XỨNG ĐÁNG GIÀNH THẮNG LỢI VẺ VANG.

Từ cuối năm 1949 đến năm 1950, cục diện quân sự, chính trị trên toàn quốc

có nhiều chuyển biến quan trọng do những thắng lợi cách mạng Việt Nam mang

lại. Tính đến hết năm 1949, phong trào tòng quân từ Bắc đến Nam đã thu hút đƣợc

1.205.500 lƣợt đoàn viên, thanh niên đăng ký gia nhập quân đội. Tháng 8–1949,

đại đoàn chủ lực đầu tiên của ta – Đại đoàn Quân Tiên Phong đƣợc thành lập, tiếp

đó là các đại đoàn 304, 312, 316, đại đoàn công binh, pháo binh lần lƣợt ra đời...

đã tạo ra niềm tin tƣởng và phấn khởi to lớn cho đồng bào và tuổi trẻ cả nƣớc.

Tại Biên Hòa, phong trào tòng quân của thanh niên các địa phƣơng phát triển

khá mạnh, góp phần để đến năm 1949 thực hiện Chỉ thị của Bộ Tƣ lệnh Nam bộ,

Trung đoàn 310 mà tiền thân là lực lƣợng Vệ quốc quân Biên Hòa cùng với Trung

đoàn 301 hình thành nên Liên trung đoàn 310. Trung đoàn 310 sinh ra, lớn lên, gắn

bó máu thịt với đồng bào và tuổi trẻ Biên Hòa giờ đây không bó hẹp phạm vi hoạt

động trong tỉnh mà đứng trong đội hình một đơn vị quân sự lớn với những trách

nhiệm nặng nề, vẻ vang mà các cán bộ, chiến sĩ của đơn vị có thể tự hào.

Tháng 7 năm 1949, chỉ riêng huyện Long Thành đã có 400 thanh niên đăng

ký tòng quân. Sang năm 1950, phong trào tòng quân của đoàn viên, thanh niên

51

Biên Hòa tiếp tục phát triển mạnh cung cấp cho các huyện, thị trong tỉnh mỗi địa

phƣơng một đại đội bộ đội địa phƣơng. Và sau khi Biên Hòa cùng Thủ Dầu Một

hợp thành tỉnh Thủ Biên, tỉnh đã nhanh chóng thành lập đƣợc một tiểu đoàn tập

trung mang phiên hiệu 303.

Đi đôi với phong trào chiến tranh du kích, bƣớc vào đầu năm 1950 đã bùng

phát cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh chống độc lập giả hiệu, chống địch khủng

bố, đàn áp đƣợc phát triển từ các năm trƣớc mà tiêu biểu là cuộc xuống đƣờng của

học sinh, sinh viên Sài Gòn ngày 9–1–1950, trong đó anh Trần Văn Ơn đã ngã

xuống trƣớc mũi súng dã man của kẻ thù và đám tang của anh đã biến thành một

cuộc biểu dƣơng lực lƣợng của các tầng lớp thanh niên yêu nƣớc. Tỉnh Đoàn Biên

Hòa cũng đã kịp thời lãnh đạo, tổ chức thành một phong trào quần chúng rộng lớn.

Tỉnh Đoàn đã in hàng nghìn tờ truyền đơn kêu gọi thanh niên, học sinh đứng lên

đấu tranh chống giặc.

Từ mờ sáng hôm đó, một đoàn ô tô chở đầy đại biểu học sinh xuất phát từ

Biên Hòa tiến về Sài Gòn nhập vào đoàn ngƣời đƣa tang anh Trần Văn Ơn. Từ

ngày 13–1–1950 cho đến hết tháng giêng, dƣới sự chỉ đạo của Tỉnh Đoàn Biên

Hòa, các cơ sở Đoàn trong trƣờng học và các quận, thị tổ chức liên tục các cuộc

truy điệu anh Ơn. Các bài điếu văn đã lên án kịch liệt cuộc chiến tranh xâm lƣợc

của thực dân Pháp và chính sách khủng bố dã man của chúng. Nhiều cuộc mít tinh

công khai đã dựng hƣơng án có hình anh Ơn, với hai câu đối:

“Chết vì Tổ quốc, chết nhưng vẫn sống

Sống kiếp Việt gian, ô nhục muôn đời”!

Sau Đại hội Đảng lần thứ II, Xứ ủy Nam bộ đổi thành Trung ƣơng Cục miền

Nam. Trung ƣơng Cục chủ trƣơng tổ chức lại lực lƣợng vũ trang, bố trí lại chiến

trƣờng cho phù hợp, theo đó Nam bộ chia thành hai phân liên khu: Phân liên khu

miền Đông (trong đó có Thủ Biên) và Phân liên khu miền Tây.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II: “Phát triển và củng cố dân

quân du kích về mọi mặt: tổ chức, huấn luyện, chỉ đạo và sức chiến đấu. Phải làm

cho lực lƣợng dân quân du kích thành những tấm lƣới sắt rộng rãi và chắc chắn

chặn khắp mọi nơi”. Tỉnh ủy Thủ Biên lúc này (giữa năm 1951) do đồng chí

Nguyễn Quang Việt làm Bí thƣ, đồng chí Nguyễn Minh Chƣơng làm Chủ tịch ủy

ban Kháng chiến hành chánh tỉnh đã chỉ đạo Tỉnh đội và Tỉnh Đoàn tiếp tục có kế

hoạch phối hợp đẩy mạnh phong trào tòng quân và tham gia dân quân, biến khẩu

hiệu “Mỗi đoàn viên là một dân quân” thành hiện thực trong tất cả 8 huyện của

tỉnh. Tỉnh ủy chỉ rõ, nhiệm vụ của toàn tỉnh là “phải phá cho đƣợc thế phong toả

bao vây kinh tế của địch, đánh mạnh giao thông, đồn bốt, buộc địch phải quay về

vùng tạm chiếm; ra sức tăng cƣờng sản xuất lƣơng thực đi đôi với bảo vệ căn cứ,

52

vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở vùng tạm bị chiếm... cán bộ đoàn thể, du

kích phải hóa trang bí mật luồn vào trong dân để có hƣớng hoạt động lâu dài”.

Cùng với việc sáp nhập tỉnh (đƣợc thực hiện ở cả 2 phân liên khu miền Đông

và miền Tây) và hình thành đƣợc ranh giới mới đối với các huyện, công tác sắp

xếp tổ chức và cán bộ đƣợc thực hiện có kết quả. Hơn 500 cán bộ, nhân viên còn

trẻ tuổi mà phần lớn là đoàn viên, đảng viên của các cơ quan tỉnh đƣợc tăng cƣờng

cho Tiểu đoàn tập trung 303 và các đại đội địa phƣơng.

Cơ quan Tỉnh Đoàn cũng đƣợc củng cố gọn nhẹ, làm việc hiệu quả hơn trong

quá trình chỉ đạo các Huyện Đoàn, Thị Đoàn. Một số cán bộ của Tỉnh Đoàn và

Huyện Đoàn thực hiện chủ trƣơng “Luồn sâu vào trong dân để hoạt động lâu dài”.

Ban chấp hành Tỉnh Đoàn từ giữa năm 1951 do đồng chí Nguyễn Việt Trai (tức Ba

Tạo) làm Tỉnh Đoàn trƣởng. Các đồng chí Thanh Sơn, Thanh Phong làm Tỉnh

Đoàn trƣởng trong thời gian từ 1947 đến đầu 1951 lần lƣợt nhận nhiệm vụ mới của

Tỉnh ủy và chuyển công tác lên Xứ Đoàn.

Với việc xây dựng, củng cố các lực lƣợng vũ trang, quân dân Biên Hòa lần

lƣợt làm thất bại mọi âm mƣu, thủ đoạn của quân thù mà tiêu biểu trong năm 1951

là chiến thắng Trảng Bom có tiếng vang lớn trên chiến trƣờng Biên Hòa và các

tỉnh miền Đông Nam bộ. Đây là trận đánh lớn của bộ đội tập trung tỉnh kể từ sau

chiến thắng La Ngà vào năm 1948. Trong chiến thắng vẻ vang này có sự đóng góp

xuất sắc của những cán bộ, chiến sĩ trẻ trong các đơn vị bộ đội tập trung, đơn vị

biệt động và du kích địa phƣơng. Các lực lƣợng tham gia đánh trận Trảng Bom,

nhất là Đại đội Lam Sơn, với lực lƣợng nòng cốt ban đầu là những thanh niên yêu

nƣớc ở các làng, xã, sinh viên học sinh ở các trƣờng học, anh em thanh niên công

nhân cao su, thợ máy, thợ thủ công, thanh niên các dân tộc thiểu số... luôn tỏ ra là

những chiến sĩ gan dạ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh và lập đƣợc chiến công xuất sắc.

Trong đó có cả những cán bộ Đoàn không những nhiệt tình trong công tác chỉ đạo

phong trào mà còn trực tiếp làm nhiệm vụ chiến đấu, nhƣ Phạm Ngọc Sứ, Huyện

Đoàn trƣởng (Bí thƣ Huyện Đoàn) Vĩnh Cửu.

Phạm Ngọc Sứ là một cán bộ Đoàn của miền Tây Nam bộ đã tình nguyện về

miền Đông công tác vào khoảng năm 1948. Những năm 1947, 1948 trở về sau,

chiến trƣờng miền Đông Nam bộ vô cùng ác liệt. Cán bộ Đoàn các cấp nhiều

ngƣời hy sinh. Xứ Đoàn Thanh niên Cứu quốc Nam bộ, ngoài việc cử cán bộ Xứ

Đoàn về miền Đông công tác, còn giao trách nhiệm cho các Tỉnh Đoàn thuộc miền

Tây Nam bộ động viên cán bộ Đoàn các cấp về tham gia công tác ở miền Đông.

Miền Đông Nam bộ là nơi rừng sâu, nƣớc độc, ăn đói, mặc rách, ốm đau bệnh tật

thƣờng xuyên xảy ra. Chia tay với ngƣời thân, rời quê hƣơng gạo trắng nƣớc trong

đi miền Đông ở lứa tuổi mƣời tám, đôi mƣơi là chấp nhận gian khổ, hy sinh.

Nhƣng nghe theo tiếng gọi của Đoàn, nhiều cán bộ Đoàn các cấp ở miền Tây đã

53

tình nguyện đến với miền Đông, mảnh đất “gian lao mà anh dũng”. Phạm Ngọc Sứ

là một trong những tấm gƣơng sẵn sàng chấp nhận thử thách đó. Mới đầu anh công

tác ở Tỉnh Đoàn Biên Hòa. Năm 1949, anh về công tác tại Huyện Đoàn Đồng Nai

và năm 1950, đƣợc giao nhiệm vụ Huyện Đoàn trƣởng huyện Vĩnh Cửu. Ở cƣơng

vị nào anh cũng tỏ ra là một cán bộ năng nổ, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ ở những

địa bàn khó khăn, nguy hiểm. Trong chiến đấu, anh là một chiến sĩ thực thụ, luôn

là một mũi nhọn xung kích dũng cảm. Không may trong một lần cùng hai chiến sĩ

đi làm nhiệm vụ tuần tra, các anh đã lọt vào ổ phục kích của địch tại vƣờn bƣởi nhà

ông Năm Dài. Sứ trúng đạn. Kẻ địch dã man, cắt đứt cuống họng giết chết anh tại

chỗ, để lại niềm tiếc thƣơng cho đồng đội về một cán bộ Đoàn mẫu mực, hiền hậu

với đồng chí, dũng cảm trong chiến đấu với quân thù.

Trong suốt năm 1951, quân dân Thủ Biên tiếp tục đánh địch liên tục thu nhiều

kết quả về mặt tiêu diệt sinh lực địch và lấy vũ khí của địch để diệt địch. Đặc biệt

là phong trào du kích chiến tranh ngày càng phát triển rộng khắp, có nơi 100%

đoàn viên tham gia dân quân. Phong trào “Mỗi đoàn viên là một dân quân” của

tỉnh đƣợc Trung ƣơng Cục biểu dƣơng.

Miền Đông và các căn cứ của Biên Hòa – Thủ Biên thƣờng xuyên thiếu gạo,

thiếu muối, hàng năm đồng bào thƣờng bị thiếu đói đến 2, 3 tháng. Tỉnh ủy phát

động phong trào sản xuất tự túc, chủ yếu là trồng khoai, mì, bắp, rau, đậu; rau chủ

yếu là lá dây khoai lang.

Thực hiện chủ trƣơng của Tỉnh ủy, Tỉnh Đoàn thành lập 20 đội “Thanh niên

xung phong chống đói”. Lúc đầu các đội này đƣợc thành lập chủ yếu là ở các cơ

quan của tỉnh, sau đó vận động rộng ra các địa phƣơng và đƣợc mang tên là “Đội

tăng gia thanh niên”. Tỉnh Đoàn có sáng kiến mỗi cơ sở Đoàn ở vùng dân tộc

(đồng bào S’tiêng, Châu Ro...) phải đỡ đầu về lƣơng thực cho đồng bào dân tộc

thiểu số. Nhƣ vậy, vừa thể hiện đƣợc sự thƣơng yêu đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau vừa

để động viên đồng bào dân tộc thiểu số mở rộng phạm vi sản xuất tự túc. Tỉnh

Đoàn còn thành lập một đội thanh niên mang giống mì lên giúp đỡ Hớn Quản,

đồng thời đƣa 40 thiếu nhi con em đồng bào các dân tộc thiểu số về cơ quan và

phối hợp với Tỉnh hội Phụ nữ nuôi dạy các em cho đến ngày đƣa các em tập kết ra

Bắc.

Tuổi trẻ trong tỉnh đã thật sự đóng vai trò là lực lƣợng đi đầu trong phong trào

sản xuất tự túc, góp phần làm thất bại các âm mƣu, thủ đoạn bao vây kinh tế của

địch. Tháng 7–1951, Tỉnh ủy chủ trƣơng lập huyện căn cứ Đồng Nai, cử đồng chí

Lê Thái – Thƣờng vụ Tỉnh ủy làm Bí thƣ Huyện ủy và phân công đồng chí Ba Tạo

(tức Nguyễn Việt Trai) Tỉnh Đoàn trƣởng trực tiếp chỉ đạo công tác thanh niên của

huyện, xây dựng huyện Đồng Nai thành một căn cứ vững chắc. Đồng Nai là một

huyện rộng (3700 km2) với 10.000 dân, đã đƣợc lãnh đạo tỉnh tạm cấp hơn 500 ha

54

đất cho dân và cho cán bộ cơ quan sản xuất lƣơng thực tự túc, góp phần nuôi quân

đánh giặc.

Trƣớc sự đòi hỏi ngày càng cao của công tác vận tải quân sự (chủ yếu là vũ

khí và lƣơng thực) phục vụ cho bộ đội tác chiến, thực hiện chủ trƣơng của Tỉnh ủy,

cuối năm 1951 và đầu năm 1952, Tỉnh Đoàn tổ chức thí điểm hai đơn vị Thanh

niên xung phong vận tải gồm khoảng 264 đoàn viên, thanh niên. Đây có thể coi là

các đơn vị Thanh niên xung phong đầu tiên của Nam bộ. Chỉ một thời gian ngắn

sau khi thí điểm, Biên Hòa từ 2 đội với 246 đội viên đã phát triển lên 490 đội viên

và đã đƣợc chia nhỏ thành nhiều đơn vị để phù hợp với công tác chỉ huy, điều kiện

chiến trƣờng và tính chất công việc. Đối với chiến trƣờng Nam bộ, đây là một lực

lƣợng vận tải lớn ngày đêm lội suối băng ngàn mang từng hạt gạo, viên thuốc, cây

súng... đến cho các đơn vị bộ đội. Mặc dù địch tăng cƣờng đánh phá, tăng cƣờng

bao vây toàn diện... nhƣng chúng ngày càng tỏ ra hoang mang lo sợ vì quân ta

ngày càng phát triển lực lƣợng, Chiến khu Đ không những đƣợc bảo vệ mà còn mở

rộng, đời sống vật chất, tinh thần kể cả sự chăm sóc y tế cho bộ đội và đồng bào

vùng căn cứ càng đƣợc bảo đảm. Sự cống hiến của Thanh niên xung phong trên

chiến trƣờng miền Đông và cả miền Tây Nam bộ thật hết sức to lớn và tuổi trẻ

Biên Hòa là một trong những điển hình xuất sắc.

Ngày 20–10–1952, cơn bão lũ lớn với cƣờng độ cực mạnh đã ập vào miền

Đông, nhiều cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên gặp nạn hoặc hy

sinh khi cứu đồng bào. Trƣớc tình hình đó, Tỉnh ủy và ủy ban Kháng chiến hành

chánh tỉnh đã kịp thời huy động toàn bộ lực lƣợng quân, dân, chính, Đảng trong

căn cứ và vùng phụ cận hết lòng, hết sức giúp nhân dân bằng mọi phƣơng tiện có

trong tay. Sau khi nƣớc rút, bão tan, một cảnh tƣợng bị tàn phá làm cho bất cứ ai

đƣợc chứng kiến cũng đều hết sức đau lòng. Tỉnh Đoàn khẩn cấp tập trung lực

lƣợng Thanh niên xung phong dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chấp hành Tỉnh

Đoàn thực hiện 3 nhiệm vụ quan trọng trƣớc mắt, đó là:

– Vận tải lƣơng thực từ đồng bằng sông Cửu Long lên miền Đông.

– Lập trại tăng gia thanh niên để sản xuất lƣơng thực và nuôi gia cầm.

– Dựng lại nhà cửa giúp đồng bào, nhất là dựng lại các kho tàng để tiếp nhận

sự chi viện từ các nơi.

Ngày đêm, các đơn vị Thanh niên xung phong vận tải liên tục thay nhau vận

chuyển hàng cứu nạn. Các anh chị Thanh niên xung phong vận tải đã băng qua các

vùng địch đang kiểm soát luôn bị giặc phục kích, vƣợt hàng chục km qua các cánh

đồng “chó ngáp” bùn ngập tận gối với chiếc gậy cầm tay mà mỗi lần nghỉ chỉ có

cách cắm gậy xuống bùn đỡ lấy bòng gạo. Có thể nói mỗi bòng gạo thể hiện một ý

55

chí dũng cảm phi thƣờng chẳng những thấm đậm mồ hôi mà còn thấm cả máu của

Thanh niên xung phong vận tải.

Bƣớc vào năm 1953, địch mở cuộc càn quét quy mô lớn vào Chiến khu Đ liên

tục trong 52 ngày. Bom đạn địch nổ vang khắp nơi cốt khủng bố tinh thần quân

dân Thủ Biên. Trƣớc tình hình đó, Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy đã truyền đạt chủ

trƣơng kiên quyết đánh trả quân thù, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ. Chủ trƣơng này

đƣợc truyền đạt đến từng chi bộ, chi đoàn, từng cán bộ, đảng viên, đoàn viên,

thanh niên.

Tháng 4–1953, Tỉnh ủy Thủ Biên triệu tập Hội nghị cán bộ tại Chiến khu Đ

rút kinh nghiệm chỉ đạo công tác ở 3 vùng, đề ra biện pháp khắc phục những thiếu

sót trƣớc đây do Trung ƣơng Cục chỉ ra và tăng cƣờng các mặt công tác, nhất là

chú trọng vào vùng du kích và vùng tạm chiếm, trong đó có đề cập đến vấn đề vai

trò của tổ chức Đoàn và phát huy lực lƣợng thanh niên.

Ngày 30–12–1953, Trung ƣơng Cục miền Nam ra Nghị quyết 01 về công tác

thanh vận. Sau khi phân tích đặc điểm của thanh niên và đặc điểm của yêu cầu

nhiệm vụ cách mạng trong sự nghiệp đẩy mạnh cuộc kháng chiến, Nghị quyết 01

của Trung ƣơng Cục chỉ rõ: “Phải xây dựng Đoàn Thanh niên cứu quốc thành một

đoàn thể thanh niên trung kiên, thành trụ cột cho phong trào thanh niên”. Nghị

quyết đã đƣợc quán triệt đến các cấp bộ Đảng và Đoàn trong các tỉnh Nam bộ.

Lúc này, phong trào thanh niên Thủ Biên và tổ chức Đoàn qua những khó

khăn to lớn trong những thời kỳ trƣớc đây (cuối 1952 đầu 1953) đã có bƣớc trƣởng

thành. Cán bộ, đoàn viên đƣợc rèn luyện trong thực tiễn đầy cam go, phần lớn giữ

đƣợc phẩm chất cách mạng. Cơ sở Đoàn bị địch đánh phá qua các trận càn quét

liên miên, nhất là đợt tiến công 52 ngày đêm vào đầu 1953 cơ bản vẫn đƣợc giữ

vững.

Thực hiện Nghị quyết 01 của Trung ƣơng Cục và chủ trƣơng của Bộ Chính trị

Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đối với miền Nam là phát triển chiến tranh du

kích “đánh nhỏ ăn chắc, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch”, Tỉnh ủy

Thủ Biên giao cho Tỉnh đội đặt ra yêu cầu cao trong sự phối kết hợp giữa Tỉnh đội

và Tỉnh Đoàn để phát triển mạnh mẽ lực lƣợng dân quân, từ khẩu hiệu “Mỗi đoàn

viên là một dân quân” còn phần nào mang tính kêu gọi, chuyển sang “Mỗi đoàn

viên phải là một dân quân đánh giặc giỏi”. Đây đƣợc coi là nhiệm vụ hàng đầu của

mỗi đoàn viên. Ngoài ra, Tỉnh Đoàn còn đặt yêu cầu “Mỗi đoàn viên là một chiến

sĩ tăng gia” và “một ngƣời chăm học văn hóa” (nằm trong phong trào xoá mù chữ

trong đoàn viên, thanh niên).

Để nâng cao trình độ chính trị cho cán bộ Đoàn, Tỉnh Đoàn đã cử một số cán

bộ chủ chốt thay phiên nhau dự các lớp huấn luyện do tỉnh và Trung ƣơng Cục mở.

56

Bƣớc qua năm 1954, tình hình mọi mặt ở Nam bộ có bƣớc phát triển nhảy

vọt. Riêng Thủ Biên cũng là một trong những tỉnh kịp thời nắm bắt thời cơ, lợi

dụng tình hình quân Pháp bị đánh mạnh ở Bắc bộ, nhất là cuộc tiến công chiến

lƣợc của quân ta (Đông Xuân 1953–1954) mở màn, quân Pháp bị bao vây ở Điện

Biên Phủ, quân dân Thủ Biên liên tục tiến công địch ở cả 3 vùng mà nổi bật là

chiến tranh du kích với vai trò đi đầu của tuổi trẻ Thủ Biên trong các lực lƣợng vũ

trang nhân dân anh hùng.

Dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy, hai cơ quan Tỉnh đội

và Tỉnh Đoàn đã ra sức động viên, giáo dục đoàn viên, thanh niên thực hiện tốt

khẩu hiệu “Mỗi đoàn viên là một dân quân đánh giặc giỏi”. Kết quả là toàn tỉnh

xây dựng thêm 32 đội du kích xã, đƣa số lƣợng du kích tập trung mà phần lớn là

đoàn viên, thanh niên từ 140 lên 513 ngƣời; dân quân tự vệ địa phƣơng từ 453 lên

1.862 ngƣời, du kích mật (chủ yếu là ở các vùng tạm bị địch chiếm) từ 219 lên 572

ngƣời... Dân quân du kích phát triển mạnh nhờ phong trào “Mỗi đoàn viên là một

dân quân” do Tỉnh Đoàn và Tỉnh đội trực tiếp chỉ đạo đã mang lại hiệu quả thực tế

chứ không phải là khẩu hiệu động viên. Đây là sự phát triển vƣợt bậc, là niềm tự

hào của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Thủ Biên trong những năm cuối

của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc. Tỉnh Đoàn lại có sáng kiến

trao các giải thƣởng nhƣ giải thƣởng cho cơ sở Đoàn nào có tỉ lệ vận động đoàn

viên, thanh niên tham gia dân quân cao nhất, tập thể và cá nhân đoàn viên, thanh

niên nào tham gia nhiều trận đánh nhất, tiêu diệt đƣợc nhiều sinh lực địch nhất...

Cuối năm 1953, Thủ Biên đƣợc mùa lớn, trƣớc hết là do tinh thần kiên cƣờng

của bà con nông dân một nắng hai sƣơng, cuốc cày thâu đêm trong tiếng gầm rú

của đại bác địch bắn phá, của các “đội sản xuất thanh niên” đƣợc hình thành sau

cơn bão lũ và của các lực lƣợng vũ trang vừa chiến đấu vừa tranh thủ sản xuất

lƣơng thực... Theo nhận định của Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chánh tỉnh

thì đến cuối năm 1953, bộ đội ta có đủ lƣơng thực dự trữ trong 3 tháng cho năm

sau để ăn no đánh thắng giặc Pháp; đồng bào S’tiêng, Châu Ro đã có cơm ăn, dù

cơm còn độn mì... Một khí thế mới bừng lên trong toàn tỉnh.

Tại Chiến khu Đ, Đại hội mừng công Phân liên khu miền Đông diễn ra hào

hứng, sôi nổi trong nhiều ngày và thâu đêm dƣới ánh đèn măng sông rực sáng. Các

đoàn văn nghệ của thanh niên Thủ Biên tham gia các tiết mục tự biên, tự diễn đƣợc

Đại hội hoan nghênh nhiệt liệt. Ấn tƣợng sâu sắc nhất, xúc động nhất vẫn là hình

ảnh của các cán bộ, chiến sĩ trẻ Tiểu đoàn 303, Đại đội Nguyễn Văn Nghĩa, các đại

đội địa phƣơng, trung đội dân quân du kích, các đơn vị vũ trang tuyên truyền, biệt

động thuộc Biên Hòa (cũ) lên báo công, kể chuyện chiến đấu làm cho ngƣời nghe

nhiều lúc phải rơi nƣớc mắt.

57

Trong hào khí đó, quân dân Thủ Biên mở rộng cuộc tiến công quân địch trên

các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là đẩy mạnh phong trào thi đua tiêu

diệt nhiều sinh lực địch để phối hợp với quân dân ta trên chiến trƣờng lịch sử Điện

Biên Phủ. Mỗi tin thắng lợi, mỗi tấm gƣơng anh hùng trên chiến trƣờng Điện Biên

Phủ đƣợc truyền qua Đài Tiếng nói Việt Nam đã gây xúc động và cổ vũ mạnh mẽ

tuổi trẻ Thủ Biên. Nắm thời cơ, Tỉnh ủy chỉ đạo các lực lƣợng vũ trang áp sát các

thị xã, thị trấn, đồng loạt và liên tục tiến công các đồn, bốt địch; các đội tuyên

truyền vũ trang của thanh niên luồn sâu vào vùng sau lƣng địch rải hàng nghìn

truyền đơn kêu gọi ngụy quân quay súng lập công trở về với nhân dân. Các đội vũ

trang tuyên truyền tổ chức những cuộc tuyên truyền xung phong chớp nhóang ở

nhiều địa điểm tại các thị xã, thị trấn nhƣ Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Xuân Lộc,

Trảng Bom... thông báo tin tức về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của giặc đang

bị nguy khốn làm cho nhân dân và tuổi trẻ Thủ Biên càng nức lòng phấn khởi.

Tiểu đoàn 303 mở các trận tiến công địch trên các Quốc lộ 1, 13, tỉnh lộ 16...

Dân quân du kích các xã ở Tân Uyên, Vĩnh Cửu, Long Thành dồn dập ép địch vào

thế phải co cụm trong các đồn bốt, nâng thế tranh chấp với địch từ vùng tạm chiếm

lên du kích yếu, từ vùng du kích yếu lên du kích mạnh và liên tục dùng truyền đơn

và loa kêu gọi ngụy quân thực hiện 4 không: “Không cƣớp phá, không bắn giết,

không bắt bớ, không hãm hiếp phụ nữ”. Hàng trăm ngụy binh đã đào, bỏ ngũ về

nhà làm ăn, các tuyến hành lang từ Chiến khu Đ sang Long Nguyên (Bến Cát),

Dƣơng Minh Châu (Tây Ninh) về Bà Rịa thông suốt. Đƣờng liên lạc từ Chiến khu

Đ về thị xã Biên Hòa, các huyện, xã trong tỉnh đều thuận lợi hơn. Ngày 7–4–1954,

với tinh thần “chia lửa” với các chiến sĩ ta ở Điện Biên Phủ, Đại đội 2 (Tiểu đoàn

300) đã tiêu diệt tên chỉ huy biệt kích Suacôt ở Long Thành. Đồng bào địa phƣơng

rất hả dạ, trƣớc việc tên “hung thần” này phải đền tội... Súng của bộ đội, dân quân

du kích đã kề sát bên các vị trí của kẻ thù nên chúng đã rút chạy khỏi nhiều vị trí

để tránh bị tiêu diệt.

Sáng sớm ngày 8–5–1954, ngay tại thị xã Biên Hòa, một đoàn trẻ em bán báo

bất chấp sự đe dọa của kẻ thù, với những kẹp báo công khai từ Sài Gòn chuyển tới

đã tung tăng vừa chạy vừa hô vang: “Điện Biên Phủ thất thủ rồi, xin mời bà con

coi báo”. Tiếng rao báo của các em nghe thật hào hùng, xúc động, báo hiệu một

giai đoạn mới của cách mạng đang mở ra.

Ngày 20–7–1954, Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết, kết thúc chiến tranh, lập

lại hòa bình ở Đông Dƣơng.

Lịch sử 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc của cán bộ, đoàn

viên, thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai dƣới ngọn cờ của Đảng và Bác Hồ kính yêu

là những trang anh hùng ca rất đẹp. Một thế hệ những ngƣời trẻ tuổi chỉ có “nóp

với giáo” đã nhất tề đứng lên “đáp lời núi sông”, xây đắp nên truyền thống vẻ

58

vang. Trải qua những ngày tháng hết sức gian lao thiếu cơm, thiếu áo, nhất là thiếu

từng viên đạn, cái mác..., khi quân thù khép chặt vòng vây mà sự sống của từng

con ngƣời cho đến sự nghiệp cách mạng lớn lao nhƣ nghìn cân treo sợi tóc, nhƣng

tuổi trẻ Đồng Nai vẫn một lòng trung thành đi theo con đƣờng của Đảng để đấu

tranh cho nền độc lập tự do của nƣớc nhà.

Truyền thống đoàn kết, thƣơng yêu, đùm bọc giúp đỡ nhau, trái bắp chia đôi,

củ khoai bẻ nửa... đã trở thành một trong những động lực quan trọng, hơn thế, đó

còn là thứ vũ khí tinh thần vô giá giúp cho tuổi trẻ Đồng Nai hiên ngang đối mặt

với kẻ thù, chuyển khó khăn thành thuận lợi, chuyển bị động thành chủ động, luôn

đứng lên trong tƣ thế tiến công quân thù. Có lúc chỉ trong một giai đoạn ngắn,

hàng trăm cán bộ, đoàn viên, thanh niên đã ngã xuống trên con đƣờng vận tải

lƣơng thực, vũ khí để cứu nguy cho tỉnh nhà (1951 – 1952), thế nhƣng, ngƣời

trƣớc ngã, ngƣời sau tiến lên, quyết tâm vƣợt qua mọi thử thách bằng ý chí và tinh

thần dũng cảm quên mình để cuối cùng giành thắng lợi vẻ vang.

Tuổi trẻ Biên Hòa – Đồng Nai còn là những con ngƣời ham hiểu biết và sáng

tạo, từ sáng tạo trong hoạt động của Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi qua nhiều

hình thức phong phú trong điều kiện gần nhƣ “tay trắng” vậy mà vẫn ra báo, in

đƣợc truyền đơn, tổ chức đƣợc lớp tập huấn để đào tạo cán bộ, làm công tác tuyên

truyền, giáo dục... cho đến sáng tạo tìm tòi để thích nghi với điều kiện khó khăn,

khắc phục thiên tai; sáng tạo trong chiến đấu tiêu diệt địch mà lối đánh đặc công là

một sáng tạo độc đáo.

Tự hào với những truyền thống vẻ vang, các thế hệ thanh, thiếu nhi Biên Hòa

– Đồng Nai luôn coi đó là những giá trị tinh thần quí báu, đã không ngừng phát

huy và nâng lên tầm cao trong suốt 20 năm đi vào cuộc trƣờng chinh vĩ đại chống

Mỹ, cứu nƣớc, góp phần đắc lực đƣa giang sơn về một mối.

59

PHẦN THỨ HAI

TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN,

THANH NIÊN BIÊN HÒA– ĐỒNG NAI

TRONG SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN

CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC

1954 –1975

60

Chƣơng III

GIỮ VỮNG NIỀM TIN CÁCH MẠNG,

VƢỢT QUA THỬ THÁCH, TIẾN LÊN CÙNG QUÂN VÀ DÂN GIÀNH

QUYỀN LÀM CHỦ

1954 – 1960

I. KIÊN CƢỜNG ĐẤU TRANH ĐÕI MỸ VÀ NGỤY QUYỀN TAY

SAI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, sau thắng lợi lịch sử của quân và dân ta trên chiến

trƣờng Điện Biên Phủ và trên các chiến trƣờng khác trong chiến cuộc Đông Xuân

1953 – 1954, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dƣơng đƣợc ký kết.

Nƣớc Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, lấy sông Bến Hải, với vĩ tuyến 17, làm

giới tuyến. Nhân dân miền Nam, trong đó có nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai, còn

phải trải qua nhiều hy sinh gian khổ, chiến đấu một mất một còn với đế quốc Mỹ –

tên đế quốc đầu sỏ, giàu tiềm lực kinh tế cũng nhƣ quốc phòng, trƣớc khi giành

đƣợc thắng lợi trọn vẹn.

Với dã tâm chia cắt lâu dài đất nƣớc ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc

địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam châu Á, ngay khi Hiệp định

Giơnevơ vừa đƣợc ký kết, đế quốc Mỹ đã triển khai kế hoạch 6 điểm nhằm phá

hoại hòa bình, độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.

Chúng đƣa Ngô Đình Diệm, một tên tay sai đƣợc nuôi dƣỡng, đào tạo cẩn thận tại

Mỹ trở về lập chính phủ bù nhìn ở miền Nam Việt Nam; cử tƣớng Côlin sang làm

đại sứ bên cạnh chính quyền Diệm; đƣa sang miền Nam Việt Nam phái đoàn cố

vấn quân sự MAAG, trực tiếp huấn luyện, trang bị cho quân ngụy, thực chất là

giành quyền chỉ huy quân ngụy từ tay thực dân Pháp.

Biên Hòa – Đồng Nai, cũng nhƣ các tỉnh miền Đông Nam bộ, là địa bàn chiến

lƣợc quan trọng, nơi có Chiến khu Đ, Chiến khu Rừng Sác nổi tiếng, là lá chắn ở

phía đông đối với Sài Gòn, thủ phủ của ngụy quyền tay sai và đối với cả các tỉnh

đồng bằng sông Cửu Long. Thực hiện dã tâm xây dựng miền Nam Việt Nam thành

căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam châu Á, đế quốc Mỹ đã đặc biệt chú ý đến địa

bàn Biên Hòa – Đồng Nai, chúng khẳng định, để mất Biên Hòa là mất Sài Gòn.

Chúng luôn bố trí ở Biên Hòa một lực lƣợng đủ mạnh, những đơn vị quân chủ lực

ngụy tinh nhuệ nhƣ lính dù, thủy quân lục chiến, tổ chức các đoàn dân vệ đến từng

xã ấp, gấp rút đào tạo đội ngũ tay sai mới, sử dụng các tên ác ôn có nhiều nợ máu

với nhân dân đƣa về các địa phƣơng nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong bộ

61

máy tề ngụy ở cơ sở, trƣớc hết là ủy viên cảnh sát địa phƣơng. Bọn tình báo trá

hình núp dƣới vỏ áo khoác “xây dựng hƣơng thôn”, “diệt trừ sốt rét”... luồn sâu về

các thôn ấp, các vùng đồng bào dân tộc, các sở cao su... điều tra, lập danh sách

những gia đình có ngƣời tham gia kháng chiến, có ngƣời đi tập kết ra miền Bắc,

tiến hành phân loại dân để khủng bố, đánh phá phong trào cách mạng. Chúng ra

sức phát triển các tổ chức chính trị phản động, trong đó có tổ chức “Thanh niên

cộng hòa”, coi “Thanh niên cộng hòa” là hiến binh của chế độ.

Tại Biên Hòa – Đồng Nai cũng nhƣ ở nhiều địa phƣơng khác, thực hiện âm

mƣu áp đặt chủ nghĩa thực dân mới lên đời sống nhân dân miền Nam Việt Nam, đế

quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai đã bằng nhiều thủ đoạn, ra sức đầu độc, ru ngủ các

tầng lớp thanh niên trong tỉnh, nhằm mục đích biến họ thành lớp ngƣời ngày càng

xa rời những lý tƣởng cách mạng, ngày càng thích nghi với một xã hội tiêu thụ,

sống phụ thuộc vào Mỹ, xa rời những truyền thống đạo lý, văn hóa của dân tộc,

chạy theo lối sống Mỹ. Chúng biến bộ máy văn hóa, giáo dục tại Biên Hòa, cũng

nhƣ tại các tỉnh, thành phố trên khắp miền Nam Việt Nam thành công cụ để đào

tạo những mẫu hình con ngƣời làm tay sai đắc lực cho chủ nghĩa thực dân mới của

Mỹ. Chúng quyết tâm “bôi đen bọn trẻ để cộng sản không nhuộm đỏ lại đƣợc”.

Với chiêu bài “độc lập”, “quốc gia”, “tự do, dân chủ”, với triết lý duy tâm “nhân vị

duy linh”... chúng ra sức xuyên tạc, nói xấu cộng sản, nói xấu chế độ xã hội chủ

nghĩa ở miền Bắc, xuyên tạc lịch sử, đi đôi với trụy lạc hóa về lối sống, vừa mua

chuộc, dụ dỗ vừa ra sức khủng bố, đàn áp, tuyên truyền cho sức mạnh kinh tế,

quân sự của Mỹ, làm cho thanh niên từ phục Mỹ, đi đến sợ Mỹ, cam tâm làm tay

sai cho chúng. Chúng coi trƣờng học là nơi đào tạo, rèn luyện một tầng lớp trí thức

trẻ chỉ biết chạy theo đồng tiền, là nơi dự trữ thanh, thiếu niên cho việc đôn quân,

bắt lính, nơi biến họ thành những sĩ quan tƣơng lai tuyệt đối trung thành với lợi ích

quốc gia của Mỹ, sống lệ thuộc vào Mỹ. Chúng ra sức đoàn ngũ hóa thanh, thiếu

nhi, lập ra các tổ chức, nhƣ tổ chức “thanh niên cộng hòa”, “thanh niên chiến đấu”,

“thiếu nhi phòng vệ dân sự”, “thiếu nhi phƣợng hoàng”, “thiếu nhi tự báo”... Ở cấp

tiểu học, chúng thực hiện hàng đội dự bị, ở cấp trung học có chƣơng trình phát

triển sinh hoạt học đƣờng, ở nông thôn chúng tổ chức thiếu nông 4T (gồm: Trí óc

sáng suốt, Tấm lòng thành thực, Tay chân cứng rắn và Thân thể tráng kiện) tập hợp

tất cả thanh, thiếu niên từ 12 đến 20 tuổi, lấy biểu tƣợng là 4 lá me trên nền trắng, 4

chữ T thích trên cánh tay... từng bƣớc biến những thanh, thiếu niên này thành công

cụ thực hiện chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ.

Đứng trƣớc những âm mƣu, thủ đoạn thâm độc của đế quốc Mỹ và ngụy

quyền tay sai, Đảng ta đã nhanh chóng bố trí lại lực lƣợng, tiếp tục lãnh đạo nhân

dân đấu tranh chống lại sự phá hoại của bọn ngụy quyền tay sai không thi hành

theo đúng Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Việt Nam. 1.958 cán bộ các cấp

62

trong tỉnh đƣợc bố trí ở lại tiếp tục cuộc chiến đấu trong một tình thế khó khăn trên

nhiều mặt, với tinh thần “ra đi là thắng lợi, ở lại là vinh quang”.

Cuối năm 1954, tỉnh Thủ Biên đƣợc tách ra lập lại hai tỉnh: Biên Hòa và Thủ

Dầu Một để phù hợp với tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn

cách mạng mới. Tỉnh Biên Hòa bao gồm thị xã Biên Hòa và 5 huyện: Vĩnh Cửu,

Long Thành, Tân Uyên, Xuân Lộc và Bà Rá. Thời kỳ này, phần lớn các tổ chức

quần chúng, trong đó có Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, các đoàn thể cứu

quốc trong tỉnh đều đƣợc giải thể. Riêng Đoàn Thanh niên Lao động (1) vẫn đƣợc

duy trì hoạt động, tuy không còn đƣợc tổ chức theo ngành dọc, có sự chỉ đạo từ

trên xuống, mà hoạt động độc lập theo từng địa bàn, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của

chi bộ Đảng cơ sở, hoặc của những đảng viên lẻ, ở những nơi không còn chi bộ.

Thực hiện chủ trƣơng của Đảng bộ Biên Hòa, tổ chức Đoàn nhanh chóng phát triển

ở nhiều cơ sở. Những nơi có từ 3 – 5 đoàn viên đƣợc tổ chức thành một chi đoàn,

do cấp ủy Đảng ở địa phƣơng trực tiếp chỉ đạo và lãnh đạo. Có những đoàn viên do

từng cấp ủy viên trực tiếp nắm và sử dụng vào những công tác thích hợp, riêng

biệt.

Những ngày đầu thi hành Hiệp định Giơnevơ, trong không khí mừng hòa

bình, kẻ địch chƣa kịp tập trung đánh phá phong trào cách mạng, nhiều thanh niên

cốt cán đã đƣợc kết nạp vào Đoàn Thanh niên Lao động, góp phần thành lập thêm

một số chi đoàn thanh niên ở một số vùng trắng, trƣớc đây không có tổ chức Đoàn,

ở nông thôn cũng nhƣ ở các thị xã, thị trấn, làm nhiệm vụ đoàn kết, tập hợp thanh

niên đi đầu thực hiện những chủ trƣơng, những nhiệm vụ cụ thể của Đảng. Bƣớc

đầu, các tổ chức Đoàn ở cơ sở đã tạo điều kiện để đoàn viên và thanh niên tìm

hiểu, thấy rõ ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định Giơnevơ, quán triệt các điều khoản

của Hiệp định, chuẩn bị lý lẽ đấu tranh với địch khi cần. Nhiều cơ sở Đoàn đã tổ

chức cho đoàn viên, thanh niên tham gia xây dựng căn cứ, chôn giấu một số vũ khí

chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài. Đoàn viên, thanh niên các địa phƣơng còn trở

thành một mắt xích thiết yếu trong hệ thống cơ sở bí mật, “tổ nòng cốt rễ chuỗi”,

của Đảng bộ địa phƣơng (2); làm nhiệm vụ đƣa đón, bảo vệ các cán bộ của Đảng

đang hoạt động tại địa bàn khi cần thiết.

(1) Lúc này, tổ chức Đoàn vẫn mang tên Đoàn Thanh niên Cứu quốc, nhƣng ở một số tỉnh, nhất

là các tỉnh Nam bộ đã gọi tổ chức của mình là Đoàn Thanh niên Lao động, với tên rút gọn

là Đoàn Thanh Lao.

(2) “Tổ nòng cốt rễ chuỗi” là một hình thức tổ chức bí mật để nắm quần chúng thông qua những

cốt cán của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên trực tiếp nắm tổ cốt cán quần chúng. Mỗi tổ cốt

cán nắm từ 5 – 7 quần chúng tích cực. Một tổ quần chúng tích cực lại quan hệ xây dựng

một số quần chúng tốt, cảm tình.

63

Trong quá trình tổ chức, sắp xếp lại lực lƣợng, đƣợc sự chỉ đạo trực tiếp của

các chi bộ Đảng ở cơ sở, nhiều cơ sở Đoàn ở các địa phƣơng đã tổ chức đƣa đoàn

viên, thanh niên vào trong các tổ chức dân vệ và hƣơng dõng của địch, để nắm tình

hình và khống chế các hoạt động chống phá cách mạng của chúng. Ở nhiều địa

phƣơng nhƣ Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Long Thành... có trên 50% dân vệ của địch là

đoàn viên, thanh niên do ta cài vào. Đoàn viên, thanh niên ở nhiều địa phƣơng

cũng đƣợc đƣa vào các tổ chức hội, phƣờng hợp pháp nhƣ Hội tƣơng tế, Hội ái

hữu, Hội nhà vàng, Hội bóng đá, Hội phòng chống trộm cƣớp và cả các hình thức

tín ngƣỡng nhƣ Hội Nữ Oa.

Ở thành thị, thực hiện chỉ thị của Xứ ủy Nam bộ, nhiều đoàn viên, thanh niên

đã đƣợc đƣa vào các tổ chức công khai nhƣ các nghiệp đoàn, các hội ái hữu trong

thanh niên trí thức, học sinh, những ngƣời lao động. Ở những địa phƣơng có phong

trào khá, thanh niên đƣợc tổ chức thành những đội xung kích, làm nhiệm vụ bảo vệ

cán bộ, hỗ trợ các cuộc đấu tranh của nhân dân.

Khi tiểu đoàn Bảy Môn trong lực lƣợng Bình Xuyên quay súng trở về với

cách mạng và sau này tại Long Thành, sau khi lực lƣợng Bình Xuyên bị Diệm –

Nhu đánh tan, đƣợc sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng địa phƣơng, 15 đoàn viên trung

kiên của Đoàn Thanh niên Lao động đã đƣợc đƣa vào làm nòng cốt trong trung đội

Bình Xuyên của Mƣời Đôi, đang lẩn trốn trong Rừng Sác, từng bƣớc biến lực

lƣợng của Mƣời Đôi thành lực lƣợng vũ trang của tỉnh. Cùng thời gian, sau khi

một trung đội bảo an của địch do Châu Văn Phú, một cơ sở đƣợc ta cài từ trƣớc,

chỉ huy nổi dậy diệt tên đội Lạc ác ôn, trở về tham gia hàng ngũ cách mạng, 18

thanh niên các xã Phú Hội, Phú Hữu, Phƣớc Khánh, Tam An..., trong đó có 5 đảng

viên trẻ, cũng đã đƣợc đƣa vào làm nòng cốt, biến đơn vị của Châu Văn Phú thành

một trung đội vũ trang của tỉnh (1). Chính nhờ nắm đƣợc những lực lƣợng này của

Bình Xuyên mà trong điều kiện chƣa có chủ trƣơng dùng vũ lực chống lại những

hành động tàn bạo của địch, ta vẫn tổ chức đƣợc nhiều cuộc “diệt ác” có hiệu quả,

dƣới danh nghĩa hoạt động của lực lƣợng Bình Xuyên. Nhiều tên ác ôn, chỉ điểm ở

các xã Nam Chiến khu Đ, Thiện Tân (huyện Vĩnh Cửu), Hiệp Hòa, Tam Hiệp (thị

xã Biên Hòa), Phƣớc An, Tam An (huyện Long Thành)... đã lần lƣợt bị các cơ sở

cách mạng bí mật “rút chốt”, “cho nhảy dù” hoặc cho “mò tôm”... (2)

Những năm 1956 – 1957 là thời kỳ đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai ra sức

đẩy mạnh các chiến dịch tố cộng, diệt cộng một cách quyết liệt, tàn khốc. Nhất là

sau khi thanh toán xong các lực lƣợng giáo phái, các đảng phái đối lập, nắm độc

(1) Sau này, trung đội vũ trang này đã đƣợc chuyển về đứng chân tại Hắc Dịch, trở thành một

đơn vị vũ trang của tỉnh Bà Rịa, do đồng chí Nguyễn Quốc Thanh (Ba Thanh) chỉ huy.

(2) Tức bí mật thủ tiêu.

64

quyền làm tay sai cho đế quốc Mỹ, giữa năm 1956, Mỹ – Diệm ngang nhiên xé bỏ

Hiệp định Giơnevơ, tuyên bố không tham gia tổng tuyển cử thực hiện hòa bình

thống nhất nƣớc nhà nhƣ Hiệp định Giơnevơ đã qui định. Chúng ban hành quốc

sách “đả thực, bài phong, diệt cộng”, “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, đẩy

mạnh các chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” tàn bạo, khốc liệt, hô hào “Bắc tiến”...

Từ ngày 10–7–1956, chúng mở chiến dịch “Trƣơng Tấn Bửu”, tập trung đánh phá

phong trào cách mạng của nhân dân các tỉnh miền Đông Nam bộ, đặc biệt tập trung

tại những trọng điểm nhƣ Chiến khu Đ, huyện Long Thành và các đồn điền cao su

ở Xuân Lộc. Chúng huy động hàng sƣ đoàn quân ngụy kết hợp với lực lƣợng tề

ngụy tại địa phƣơng chà đi xát lại trong nhiều tháng. Hàng chục cơ sở Đảng trong

tỉnh bị phá vỡ. Hàng ngàn cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên bị địch bắt, bị

chúng giết hại. Chỉ trong vòng 2 tháng, từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1956, ở các địa

phƣơng trong tỉnh đã có 58 ngƣời bị giết hại, 108 ngƣời bị bắt, bị tù đày. Nhiều cơ

sở Đảng hoàn toàn bị mất trắng. Đảng bộ huyện Xuân Lộc chỉ trong một thời gian

ngắn, các cơ sở từ huyện đến xã hầu nhƣ đều bị địch phá rã, hoàn toàn bị tê liệt.

Năm 1954, toàn tỉnh Biên Hòa có 1.218 đảng viên, đến cuối năm 1956 chỉ còn lại

chƣa đầy 100 ngƣời. Nhiều cán bộ, đảng viên, đoàn viên Đoàn Thanh Lao ở Vĩnh

Cửu, Long Thành, Xuân Lộc... bị địch bắt, bị tra tấn dã man. Nhiều ngƣời bị đày đi

Côn Đảo, bị giam giữ ở các nhà tù Phú Lợi (nay thuộc tỉnh Bình Dƣơng), Tân

Hiệp, khám lớn Chí Hòa... Nhiều cơ sở Đoàn Thanh Lao bị khủng bố trắng. Một số

cơ sở còn đoàn viên, phải phân tán hoạt động lẻ, đơn tuyến, theo sự chỉ đạo trực

tiếp của các chi bộ Đảng ở cơ sở, thậm chí chỉ do những đảng viên lẻ còn bám trụ

lại đƣợc nắm và điều phối các hoạt động. Trong nhiều trƣờng hợp, ở một số cơ sở

không còn cả chi bộ Đảng, đảng viên ngƣời bị bắt, bị địch sát hại, ngƣời phải điều

lắng đi nơi khác... cũng không còn một ai, nhiều đoàn viên Thanh Lao đã phải làm

nhiệm vụ của một đảng viên, tìm cách móc nối, gây dựng phong trào, tổ chức nhân

dân đấu tranh chống lại những cuộc càn quét, khủng bố của địch.

Không còn đƣợc tổ chức theo hệ thống từ trên xuống, các cơ sở Đoàn và các

đoàn viên lẻ, hoạt động đơn tuyến tại các địa phƣơng đều đƣợc xây dựng theo tinh

thần chủ động công tác. Đứng trƣớc những âm mƣu thâm độc của bè lũ Mỹ –

ngụy, thực hiện Chỉ thị 4–HBC của Xứ ủy Nam bộ, phần lớn đoàn viên Đoàn

Thanh Lao đều tạo thế hợp pháp trong dân để hoạt động, coi bị “lộ” phải vào rừng

ở là bất đắc dĩ. Nhờ đó, trong các cuộc đấu tranh của nhân dân đòi chính quyền Sài

Gòn thi hành Điều 14C của Hiệp định Giơnevơ, không đƣợc bắt bớ khủng bố

những ngƣời kháng chiến, đấu tranh đòi đảm bảo những quyền lợi dân sinh dân

chủ, đòi giới chủ tăng lƣơng, giảm giờ làm... tổ chức Đoàn ở các địa phƣơng đều

kịp thời vận động đông đảo thanh niên làm nòng cốt, luôn có mặt ở những mũi

nhọn nóng bỏng của cuộc đấu tranh, sẵn sàng che chắn, bảo vệ nhân dân và các cán

bộ cốt cán. Những cuộc đấu tranh của công nhân các đồn điền cao su Suối Tre,

65

Bình Lộc, Hàng Gòn, Cẩm Mỹ, Bình Sơn, An Viễng nổ ra từ ngày 1–5–1955, đặc

biệt là cuộc đấu tranh của 40.000 công nhân cao su các tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu

Một, Tây Ninh kéo dài trong 2 tháng, tháng 9 và 10 năm 1955, những thanh niên

trẻ, có sức khoẻ đều đƣợc phân công đi ở hàng đầu, vừa uy hiếp địch, vừa làm

nhiệm vụ chống lại những hành động khủng bố của chúng, bảo vệ cán bộ. Một số

quần chúng thanh niên trung kiên thông qua các cuộc đấu tranh, đã đƣợc Đảng

xem xét kết nạp vào hàng ngũ, góp phần để năm 1956 ở các huyện Xuân Lộc,

Long Khánh thành lập đƣợc 10 chi bộ Đảng với trên 40 đảng viên. Tại Phú Hữu –

Đại Phƣớc có hơn 10 cơ sở cốt cán đƣợc xây dựng, đều là những thanh niên hăng

hái với công tác cách mạng nhƣ Mai Văn Rỗ, Lê Văn Cơ. Ở Phƣớc Khánh cũng có

những thanh niên nhƣ Nguyễn Văn Đắt, Nguyễn Minh Ninh... sẵn sàng thoát ly

tham gia vào lực lƣợng vũ trang của huyện.

Ở trong nội thị, cùng với các nghiệp đoàn, các hội ái hữu... thanh niên trí thức,

học sinh cũng đƣợc tập hợp trong một số tổ chức thích hợp cùng bàn bạc về thời

cuộc, từ đó đấu tranh chống các loại văn hóa phẩm đồi trụy, ngoại lai, tham gia

làm hàng chục bản kiến nghị đòi Mỹ – Diệm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định

Giơnevơ, hiệp thƣơng với miền Bắc để tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nƣớc.

Nhiều thanh niên trí thức, học sinh đã hăng hái mang các bản kiến nghị vận động

lấy chữ ký của hàng ngàn ngƣời, đem về Sài Gòn trực tiếp gặp Ủy hội quốc tế

giám sát đình chiến ở Việt Nam bày tỏ nguyện vọng của nhân dân.

Nhiều hình thức đấu tranh chống lại những thủ đoạn nham hiểm của kẻ địch

đƣợc thanh niên và nhân dân trong tỉnh vận dụng khéo léo, góp phần bảo vệ đƣợc

uy tín của Đảng, bảo vệ đƣợc cán bộ, đảng viên. Bọn địch kẻ khẩu hiệu “Diệt cộng

là yêu nƣớc”, thanh niên bí mật sửa lại “Việt Cộng là yêu nƣớc”. Nhiều cuộc đấu

tranh trực diện với bọn tề ấp, tề xã, với quận trƣởng, tỉnh trƣởng liên tiếp nổ ra.

Đƣợc các cơ sở Đảng và các đảng viên trực tiếp chỉ đạo, các cơ sở Đoàn Thanh

Lao và đoàn viên Thanh Lao ở nhiều địa phƣơng đã tổ chức thanh niên tham gia

rải, dán truyền đơn in công hàm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhân

kỷ niệm 1 năm ngày ký Hiệp định Giơnevơ về lập lại Hòabình ở Đông Dƣơng. Khi

địch ban hành chính sách “cải cách điền địa” cƣớp đoạt ruộng đất của nông dân, tổ

chức Đoàn Thanh Lao ở các vùng nông thôn đã vận động đông đảo thanh niên

cùng cha, anh mình đấu tranh chống việc ký khế ƣớc với địa chủ, chống truy thu

thuế. Nhiều đoàn viên Thanh Lao đã cùng hàng trăm quần chúng thanh niên ở

Long Thành, Vĩnh Cửu đấu lý với bọn ngụy quyền tay sai, vạch rõ bản chất phản

động của dụ số 2, dụ số 57 của bè lũ Mỹ – Diệm đi ngƣợc lại quyền lợi của nhân

dân.

Khi Mỹ – Diệm tổ chức “trƣng cầu dân ý” và sau đó tổ chức bầu cử quốc hội

bù nhìn riêng rẽ, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa, thanh niên các địa

66

phƣơng đã bằng mọi hình thức vừa công khai, vừa bán công khai, bí mật tẩy chay

những trò hề giả hiệu của địch. Nhiều thanh niên học sinh đã dùng khoai từ viết

các khẩu hiệu phản đối cuộc bầu cử của Mỹ – Diệm, vạch trần bản chất mị dân của

chúng trên Quốc lộ 1, Quốc lộ 15... (khoai từ tƣơi có nhiều nhựa viết lên đƣờng

nhựa, khi khô hiện chữ rất rõ và khó tẩy xoá). Tổ chức Đoàn ở thị xã Biên Hòa đã

tổ chức cho đoàn viên, thanh niên bí mật kẻ áp phích, dán khẩu hiệu tại nhiều điểm

công cộng trong thị xã, kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử đơn phƣơng của Mỹ – Diệm.

Cùng với các hình thức đấu tranh tẩy chay cuộc bầu cử, đơn vị Bình Xuyên vừa

đƣợc chuyển hóa thành lực lƣợng vũ trang cách mạng do đoàn viên Thanh Lao làm

nòng cốt cũng đã tổ chức bắn đạn cối vào thị trấn Long Thành, hỗ trợ cho cuộc đấu

tranh chống bầu cử của nhân dân. Nhiều ngƣời dân lấy lý do không đảm bảo an

ninh đã lẩn tránh không chịu ra hòm phiếu tham gia bầu cử.

Tết Trung thu năm 1956, Ngô Đình Diệm bày trò gửi thƣ cho thiếu nhi.

Nhƣng thiếu nhi các địa phƣơng trong tỉnh Biên Hòa đƣợc các anh chị thanh niên

hƣớng dẫn không hề mắc mƣu Diệm. Các em ở các xã Phú Hữu, Phƣớc Khánh...

đặt vè, hát vang khắp ngõ xóm:

Thiếu nhi là cháu Bác Hồ

Ai thèm làm cháu thằng Ngô bao giờ...

Những năm kẻ địch tiến hành khủng bố trắng, tàn bạo và khốc liệt, vấn đề giữ

trọn khí tiết trong mọi tình huống luôn là một thử thách không chỉ đối với mỗi

đoàn viên, thanh niên, mà còn là cơ sở tạo dựng niềm tin đối với tổ chức Đoàn.

Bên cạnh các hình thức tổ chức thanh niên đấu tranh chống lại các hành động tàn

bạo, quỉ quyệt của bè lũ Mỹ –ngụy, các cơ sở Đoàn ở các địa phƣơng, dƣới sự chỉ

đạo trực tiếp của các cơ sở Đảng, đã luôn coi công tác giáo dục, động viên đoàn

viên, thanh niên giữ vững ý chí chiến đấu là một nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định

đến việc bảo vệ đoàn viên, thanh niên, bảo vệ tổ chức cơ sở của Đoàn, của Đảng.

Nhiều đoàn viên, thanh niên đứng trƣớc họng súng của kẻ thù vẫn không nao núng,

thà hy sinh, nhất định không khai báo cơ sở của Đảng, của cách mạng. Kể cả khi bị

địch bắt giam, bị tra tấn cực hình, nhiều đoàn viên, thanh niên vẫn một lòng kiên

trung, vững tin ở con đƣờng cách mạng do Đảng lãnh đạo, vẫn khát khao tìm cách

trở về để đƣợc tiếp tục cuộc chiến đấu một mất một còn với đế quốc Mỹ và bè lũ

tay sai. Nhiều đoàn viên, thanh niên dù bị cực hình tra tấn, vẫn giữ tròn khí tiết,

không một lời khai báo, không một lần để kẻ địch lợi dụng làm hoen ố thanh danh

lãnh tụ. Trong một lần tra khảo những ngƣời tù cộng sản bị chúng bắt đƣợc sau

những lần “tố cộng”, bọn địch nham hiểm, đem một tấm ảnh Hồ Chủ tịch cỡ lớn

đặt xuống đất, và bảo Hoa, một cô gái mới 15 tuổi, vừa bị chúng bắt đƣợc, nếu

chịu bƣớc qua tấm ảnh, chúng sẽ thôi không đánh cô nữa. Mặc dù đã bị địch đánh

chết đi sống lại nhiều lần, Hoa vẫn khẳng khái nói: “Tôi không biết tấm ảnh này là

67

của ai, có điều chòm râu bạc trong ảnh giống chòm râu bạc của cha tôi. Tôi không

thể bƣớc qua tấm ảnh đó đƣợc”.

Không những kiên cƣờng giữ vững khí tiết, đoàn viên, thanh niên cũng nhƣ

nhiều đảng viên trẻ bị địch bắt trong các đợt tố cộng, bị giam hãm trong nhà tù của

Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn, vẫn luôn có ý thức tôn trọng tổ chức, sẵn sàng từ bỏ

những ý định cá nhân để đấu tranh vì sự sống còn của Đảng, của cách mạng. Đồng

chí Nguyễn Văn Thông là một cán bộ Huyện ủy Long Thành, bị địch bắt khi có

một tên phản bội chỉ điểm. Bị giam giữ tại nhà tù Tân Hiệp, ở tuổi 22, anh rất nóng

lòng cho phong trào ở cơ sở, đã tính tổ chức vƣợt ngục để trở về gây dựng phong

trào khi địch đang khủng bố trắng. Thời kỳ này, Đảng ủy nhà tù Tân Hiệp cũng

đang chuẩn bị cho một kế hoạch phá khám táo bạo. Nắm đƣợc ý định của Nguyễn

Văn Thông, Đảng ủy nhà tù đã bí mật gặp gỡ, phân tích cho anh thấy những điều

kiện cần có cho một cuộc vƣợt ngục chƣa chín muồi. Nguyễn Văn Thông cảm

nhận đƣợc tình hình trong nhà tù Tân Hiệp đang có những chuyển động, sẵn sàng

cho một kế hoạch qui mô hơn, chặt chẽ hơn, mặc dù cho đến lúc đó anh vẫn chƣa

biết đƣợc kế hoạch phá khám của Đảng ủy nhà tù. Ý thức đƣợc điều đó, Nguyễn

Văn Thông đã bỏ ý định tổ chức vƣợt ngục của mình và khi đƣợc móc nối, anh đã

hăng hái tham gia đảm nhận một mũi xung kích, cùng 35 đoàn viên thanh niên trẻ,

có sức khỏe, thƣờng xuyên luyện tập, điều tra nắm chắc qui luật hoạt động của

địch, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.

Nhà tù Tân Hiệp là một trong 6 trại giam lớn nhất của chế độ ngụy quyền Sài

Gòn, đƣợc xây dựng tại thị xã Biên Hòa, là nơi địch giam cầm hàng ngàn cán bộ,

đảng viên, đoàn viên Thanh Lao và quần chúng yêu nƣớc, đƣợc chúng coi là

“Trung tâm cải huấn”, với các hình thức tra tấn, đày ải ngƣời tù hết sức tàn bạo,

thâm hiểm. Đến tháng 12–1956, số tù nhân trong nhà tù đã lên đến 1.872 ngƣời, bị

giam giữ trong 7 trại. Trong đó trại E, trại D, trại G chúng giam giữ số tù nhân là

cán bộ, chiến sĩ cộng sản, đoàn viên Đoàn Thanh Lao và những ngƣời yêu nƣớc ở

các tỉnh Nam bộ. Nhà tù đƣợc bố phòng hết sức nghiêm ngặt. Lực lƣợng bảo vệ

nhà tù của địch có tới 3 trung đội bảo an, 88 tên quản lý và sử dụng kho súng với

89 khẩu, trong đó có 6 khẩu trung liên. Phía ngoài nhà tù, dọc theo Quốc lộ 1 về

hƣớng nội ô, cách xã Tam Hiệp 1 kilômét là đại bản doanh của Sƣ đoàn dã chiến

số 4 ngụy, làm nhiệm vụ bảo vệ phía bắc Sài Gòn và yểm trợ cho nhà tù Tân Hiệp

khi cần thiết.

Khi cuộc nổi dậy phá khám của anh em tù chính trị tại nhà lao Tân Hiệp nổ

ra, những đoàn viên, thanh niên và đảng viên trẻ đƣợc bố trí làm nhiệm vụ trong 4

mũi xung kích đều nhanh chóng triển khai theo phƣơng án tác chiến đã đƣợc phân

công, bộ phận chiếm cổng gác, mở kho vũ khí, lấy súng bắn kiềm chế các vị trí

địch; bộ phận khống chế nhà tên giám đốc, cắt đƣờng dây điện thoại. Các đồng chí

68

Sỏi, Nhàn, Ngà... vừa hô xung phong uy hiếp tinh thần bọn địch trong trại, đồng

thời lao nhanh đến cổng chính để tìm cách mở cổng cho tù nhân thoát ra ngoài.

Dòng ngƣời tuôn ra cửa mỗi lúc mỗi đông. Cánh cổng chính trại giam thay vì khi

mở phải kéo vào nhƣng trong lúc vội vàng, tù nhân lại cố sức đẩy bật ra nên chỉ

mở đƣợc 1 cánh, cánh kia chỉ hé đƣợc một phần. Bọn địch ở các chốt trên cao

hoảng hốt bắn xối xả vào các tù nhân tay không, 22 tù nhân và đồng bào đã hy sinh

tại cửa nhà tù, trong đó có nhà báo Nguyễn Tấn Sĩ (tức Dƣơng Tử Giang), nhƣng

462 cán bộ, đảng viên, đoàn viên Đoàn Thanh Lao đã thoát đƣợc ra ngoài, mang

theo 41 khẩu súng các loại, an toàn trở về căn cứ Hắc Dịch, Rừng Sác và Chiến

khu Đ, bổ sung lực lƣợng đáng kể cho phong trào cách mạng các tỉnh Nam bộ

trong điều kiện lực lƣợng cách mạng đang bị địch phá rã từng mảng. Nhiều đồng

chí sau này đã trở thành nòng cốt tham gia xây dựng lực lƣợng vũ trang của các địa

phƣơng, của Miền. Trong đó, tại Biên Hòa, sau khi đƣợc tiếp thu những quan điểm

cơ bản trong “Dự thảo đƣờng lối cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn –

Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng, Bí thƣ Xứ ủy Nam bộ (viết

tháng 8–1956) và chủ trƣơng của Xứ ủy “trong chừng mực nào đó cần có lực

lƣợng vũ trang và vũ trang tuyên truyền để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và sau

này dùng lực lƣợng vũ trang đó để làm cách mạng đánh đổ Mỹ – Diệm” (tháng 12–

1956), đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh đã đƣợc thành lập, mang phiên hiệu C250.

Tiếp đó, các đơn vị C60, 70 cũng lần lƣợt đƣợc thành lập.

Năm 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành chế độ quân dịch, xô đẩy

thanh niên đi vào con đƣờng làm bia đỡ đạn cho Mỹ. Đƣợc tổ chức Đảng ở các địa

phƣơng trực tiếp chỉ đạo, nhiều cuộc đấu tranh đòi miễn, hoãn quân dịch đã liên

tiếp nổ ra ở khắp mọi nơi trong tỉnh. Các cuộc đấu tranh chống chế độ quân dịch

của Mỹ – ngụy thƣờng xuyên có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lƣợng quần

chúng, nhất là giữa gia đình và đông đảo đoàn viên, thanh niên. Thanh niên ở

nhiều địa phƣơng đã tổ chức canh gác, xây dựng nội tuyến trong các lực lƣợng của

địch để kịp thời thông báo khi địch tổ chức vây ráp bắt lính. Những địa phƣơng có

điều kiện đã tổ chức các lõm trốn lính. Có những lõm trốn lính thƣờng xuyên có

hàng trăm thanh niên đến ăn ở, sinh hoạt. Những thanh niên không có điều kiện

vào các lõm trốn lính thì tìm mọi cách để không bị địch bắt đi lính: làm căn cƣớc

giả, trốn tránh trong hầm bí mật, ngoài nƣơng rẫy, lo lót tiền bạc để đƣợc miễn

hoãn..., thậm chí sử dụng cả biện pháp “tự thƣơng”, chặt đứt ngón tay để khỏi vào

lính, hoặc dùng mủ xƣơng rồng bôi vào chỗ kín, làm sƣng tấy lên, kẻ địch lầm

tƣởng ngƣời bị bệnh lậu, không dám bắt vào lính. Lợi dụng lòng tham của bọn lính

ngụy, nhiều thanh niên khi bị vây ráp đã trốn vào trong những chiếc chum, trên

đầu để sẵn một tờ giấy bạc 50 hoặc 100 đồng (tiền ngụy). Khi bọn địch đến bắt

lính, mở nắp chum ra, thấy tờ giấy bạc, chúng nhặt lấy, lẳng lặng đậy nắp chum lại

69

và bỏ đi, coi nhƣ không có ngƣời thanh niên trốn lính trong đó. Nhờ đó, nhiều

thanh niên đã trốn đƣợc lính.

Có không ít những trƣờng hợp trốn lính của thanh niên phải kéo dài trong

nhiều năm, cho đến tận ngày quê hƣơng đƣợc giải phóng, nhƣ trƣờng hợp trốn lính

của Lê Văn Lập, ngƣời sau này trở thành ngƣời làm nghề nông giỏi, thành vua cao

lƣơng, vua khoai lang, vua rau cải... nhƣ cách gọi của ngƣời dân vùng quê Hƣng

Lộc, huyện Thống Nhất, đƣợc Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao

động. Nhƣng trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, Lê Văn Lập đã từng

phải trốn lính, dằng dặc suốt 21 năm đất nƣớc tiến hành cuộc kháng chiến thần

thánh chống đế quốc Mỹ, với 5 lần làm căn cƣớc giả, trong đó có 4 lần sử dụng căn

cƣớc giả đều bị địch phát hiện, bị đƣa ra tòa và bị kêu án, có lần đến 8 năm tù

giam. Ba Lập vẫn tìm cách lách qua lách lại, tiếp tục trốn lính. Lúc trốn ngay trong

nhà, lúc động quá phải lội rẫy, băng rừng dạt qua xã Bàu Hàm. Khi cả Hƣng Lộc

và Bàu Hàm giặc càn bố mạnh, Ba Lập lại phải dựa vào đồng bào di cƣ ở Hố Nai

để trốn lính. Cứ thế cho tới tận ngày quê hƣơng đƣợc giải phóng, năm 1975, Ba

Lập mới thật sự đƣợc sinh sống tự do trên mảnh đất do mình khai phá, để chí thú

làm ăn và trở thành ngƣời anh hùng của đồng đất quê hƣơng.

Cùng với các cuộc đấu tranh chống bắt lính, các cuộc đấu tranh chính trị của

các tầng lớp nhân dân Biên Hòa, trong đó có đông đảo các tầng lớp thanh niên, tiếp

tục đƣợc đẩy mạnh dƣới nhiều hình thức. Địch gây ra vụ thảm sát ở nhà tù Phú Lợi

(1), hàng trăm nữ thanh niên đã cùng các gia đình có ngƣời thân đang bị giam giữ

tại Phú Lợi đội khăn tang kéo đến dinh tỉnh trƣởng Biên Hòa, tỉnh trƣởng Thủ Dầu

Một, quận trƣởng Long Thành, Xuân Lộc, thị xã Biên Hòa đấu tranh, lên án tội ác

man rợ của bè lũ Mỹ và ngụy quyền tay sai. Ở Vĩnh Cửu, Nguyễn Thị Bảy Bê đã

cùng hàng chục chị em thanh nữ xã Hiệp Hòa, đội khăn tang kéo đến dinh tỉnh

trƣởng Biên Hòa đòi trả chồng con đang bị chúng giam giữ.

Khi kẻ địch tuyên án tử hình các chiến sĩ cách mạng Ngô Quang Thanh (tức

Ngô Bá Cao), Võ Văn Khọn (tức Võ Ngọc Lang), Nguyễn Văn Dặn (tức Ba Đảo)

để răn đe phong trào đấu tranh của nhân dân Biên Hòa, đoàn viên Đoàn Thanh Lao

và thanh niên Biên Hòa đã cùng thanh niên và nhân dân Sài Gòn, thanh niên và

nhân dân cả nƣớc tổ chức nhiều cuộc đấu tranh, gửi kiến nghị phản đối hành động

phát xít của bè lũ Mỹ – ngụy, đòi chúng không đƣợc khủng bố những ngƣời kháng

chiến cũ, phải xoá án tử hình, buộc chúng phải giảm án xuống tù chung thân và

đày các đồng chí ra Côn Đảo.

(1) Ngày 1–12–1958, bè lũ Mỹ – ngụy đã dùng thuốc độc gây ra vụ thảm sát ở nhà tù Phú Lợi,

giết hại hàng trăm cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nƣớc đang bị chúng giam giữ tại đây.

70

Ý chí đấu tranh kiên cƣờng của đoàn viên, thanh niên là cơ sở để các cấp

Đảng bộ trong tỉnh có thể đặt niềm tin vào thế hệ những con ngƣời đang phải đối

diện với thử thách hàng ngày, luôn coi họ là nguồn lực đáng kể góp phần phát triển

lực lƣợng của cuộc đấu tranh. Nhất là thời kỳ kẻ địch tập trung đánh phá khốc liệt,

nhiều cơ sở bị “bể bạc”, số cơ sở Đảng và số đảng viên còn lại không nhiều, Đảng

bộ Biên Hòa đã đặc biệt coi trọng bồi dƣỡng, đào tạo một đội ngũ cán bộ từ trong

các tầng lớp thanh niên. Nhiều cấp ủy Đảng, nhiều đảng viên ở các địa phƣơng đã

chủ động móc nối giáo dục, bồi dƣỡng từng thanh niên trở thành cốt cán, từng

bƣớc đƣa họ tham gia các cuộc đấu tranh của quần chúng để rèn luyện, thử thách.

Ở huyện Vĩnh Cửu, một bộ phận Huyện ủy gồm các đồng chí Phan Văn Trang, Lê

Văn Trọng, Nguyễn Đông Châu... đều là những cán bộ trẻ, năng động, đƣợc phân

công phụ trách các xã Hóa An, Bình Trị, Tân Vạn, Bửu Hòa, Tân Hiệp, Tân Hạnh

đã kiên trì đào hầm bí mật, bám trụ trong dân để móc nối cơ sở. Nhiều đoàn viên,

thanh niên đã đƣợc các đồng chí đƣa xuống hầm bí mật để đào tạo, huấn luyện.

Nhiều khi chỉ móc nối, đƣa đƣợc một thanh niên xuống hầm để bồi dƣỡng, các cán

bộ của Đảng vẫn kiên trì hƣớng dẫn anh em từng vấn đề cụ thể. Anh em đƣợc học

tập về 5 bƣớc công tác cách mạng, về đƣờng lối cách mạng miền Nam, về những

nhiệm vụ cụ thể của quân và dân Biên Hòa trong giai đoạn trƣớc mắt... Những

đoàn viên, thanh niên này về sau phần lớn đều đƣợc kết nạp vào Đảng, vào Đoàn,

góp phần gây dựng lại phong trào cách mạng ở các địa phƣơng. Sức chiến đấu của

Đảng đƣợc phục hồi, sẵn sàng bƣớc vào một thời kỳ mới của cách mạng.

II. CÙNG NHÂN DÂN ĐỨNG LÊN “ĐỒNG KHỞI”, GIÀNH

QUYỀN LÀM CHỦ.

Tháng 1–1959, trên cơ sở phân tích sâu sắc thực tiễn cách mạng ở miền Nam,

Hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam

khóa II, đã nhận định: “Con đƣờng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở

miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Do đó, Ban Chấp

hành Trung ƣơng Đảng đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân: “Giải

phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập

dân tộc và ngƣời cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở

miền Nam, góp phần xây dựng một nƣớc Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,

dân chủ và giàu mạnh”. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng còn chỉ rõ: “Con đƣờng

phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là lấy sức mạnh của quần

chúng, dựa vào lực lƣợng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực

lƣợng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, dựng nên

chính quyền cách mạng nhân dân”.

71

Những quan điểm cơ bản của Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ƣơng

Đảng Lao động Việt Nam khóa II đã mở đƣờng cho phong trào cách mạng của

nhân dân miền Nam phát triển lên một bƣớc ngoặt mới. Quán triệt Nghị quyết Hội

nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam khóa II,

Tỉnh ủy Biên Hòa đã đề ra nhiệm vụ: “Phải nhanh chóng khôi phục lực lƣợng vũ

trang tuyên truyền, diệt ác, phá kìm làm nòng cốt để phát động nhân dân nổi dậy

giành quyền làm chủ”. Để thực hiện nhiệm vụ đã đề ra, đƣợc Liên Tỉnh ủy miền

Đông điều động trở lại cho một trung đội vũ trang, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định

thành lập một đội vũ trang mang phiên hiệu 380 làm nhiệm vụ diệt ác ôn, hỗ trợ

nhân dân nổi dậy. Nhiều đoàn viên, thanh niên ở các địa phƣơng đã hăng hái thoát

ly gia đình và đƣợc bổ sung vào đội vũ trang của tỉnh. Ngoài ra, đƣợc các cơ sở

Đảng trực tiếp chỉ đạo, tổ chức, hàng trăm nam, nữ thanh niên khác đã hăng hái

thoát ly gia nhập bộ đội huyện và tham gia du kích ở xã, ấp. Ở các xã Phƣớc Thọ,

Phƣớc Long, Phƣớc Lai (tỉnh lộ 19) và các xã Phú Hội, Phƣớc Thiền, Long Tân

(tỉnh lộ 17)... đều xây dựng đƣợc các đội du kích, trong đó phần lớn đều là những

thanh niên trên dƣới 20 tuổi, có ngƣời chỉ mới 15, 17 tuổi, nhƣng rất năng nổ, sẵn

sàng nhận mọi nhiệm vụ đƣợc giao, dù đó là nhiệm vụ nguy hiểm, có thể hy sinh

đến tính mạng. Đáng chú ý là ở một số địa phƣơng, lực lƣợng dân vệ của địch,

trƣớc đây có nhiều đoàn viên, thanh niên đƣợc cài cắm vào làm nòng cốt, trong

bƣớc phát triển mới của cách mạng, một số đơn vị dân vệ ở xã, ấp đã đƣợc cảm

hóa, chuyển thành lực lƣợng vũ trang của ta. Ở xã Bình Trị, nhờ có 2 nội tuyến

trong lực lƣợng dân vệ, ta nhanh chóng làm chủ lực lƣợng này, thu đƣợc súng và tổ

chức đƣợc một tiểu đội vũ trang của huyện.

Thông qua các chƣơng trình hành động cách mạng cụ thể, nhiều thanh niên đã

đƣợc giác ngộ, trở thành nòng cốt, một số đƣợc phát triển thành đoàn viên, góp

phần khôi phục các cơ sở Đoàn bị “bể bạc” trong thời kỳ địch khủng bố trắng.

Long Thành là một huyện bị địch đánh phá mạnh trong năm 1959, hầu hết các cơ

sở trong huyện đều bị “bể bạc”, nhƣng sau khi đƣợc quán triệt Nghị quyết 15 của

Trung ƣơng Đảng, chỉ trong một thời gian ngắn, đƣợc các cấp ủy Đảng trực tiếp

chỉ đạo, một số cơ sở đã hình thành đƣợc chi đoàn thanh niên, kịp thời vận động

thanh niên địa phƣơng hăng hái tham gia các lực lƣợng vũ trang. Các xã đều phát

triển đƣợc một tiểu tổ du kích có từ 3 đến 5 ngƣời. Một số xã nhƣ Phƣớc Thọ,

Phƣớc An đã phát triển đƣợc hơn một tiểu đội. Số vũ khí chôn giấu từ năm 1954

tại cánh đồng Bàu Bùng, kênh Ngọn Bát, kênh Cá Tràm, rạch Bầu Cỏ... đƣợc

thanh niên bí mật đào lên để trang bị cho bộ đội và du kích...

Cũng trong năm 1959, cùng với việc dùng Luật 10/59 (Luật 10/59 do Ngô

Đình Diệm ban hành tháng 5–1959, “đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”)

khủng bố ác liệt phong trào kháng chiến của nhân dân, công khai lê máy chém đi

72

khắp miền Nam, hành quyết tại chỗ những cán bộ, đảng viên, đoàn viên Thanh Lao

không cần xét xử..., đế quốc Mỹ đã đƣa cố vấn quân sự xuống chỉ huy huấn luyện

quân ngụy tới cấp tiểu đoàn. Tại Biên Hòa, đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG)

đóng tại văn phòng Nhà máy cƣa BIF Tân Mai (nhân dân Biên Hòa thƣờng gọi là

Nhà Xanh, ngày nay là Trƣờng Công nhân kỹ thuật Đồng Nai). Để cổ vũ tinh thần

cách mạng tiến công của nhân dân trong điều kiện địch đang ra sức khủng bố

trắng, tố cáo âm mƣu xâm lƣợc miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ, Liên Tỉnh

ủy miền Đông chủ trƣơng giao cho Thị ủy Biên Hòa và cơ sở tại chỗ sử dụng một

lực lƣợng đặc công thuộc C250 tiến công tiêu diệt phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ ở

Biên Hòa.

Đƣợc nhận nhiệm vụ đánh thẳng vào bọn cố vấn Mỹ, đoàn viên và thanh niên

trong đơn vị C250, bộ đội tập trung của tỉnh, cũng nhƣ trong lực lƣợng tự vệ mật

thị xã Biên Hòa đều náo nức chuẩn bị mọi mặt cho trận đánh. Những đoàn viên,

thanh niên đƣợc phân công làm nhiệm vụ trinh sát đã áp sát, móc nối với cơ sở bên

trong, kiên trì nhiều tháng nghiên cứu, nắm rõ hệ thống bố phòng và qui luật hoạt

động của bọn cố vấn Mỹ, để đêm 7–7–1959, ngày “song thất”, nhân kỷ niệm 5

năm ngày Ngô Đình Diệm chấp chính, bọn cố vấn trong phái đoàn quân sự Mỹ

đang tổ chức tiệc mừng, một bán đội thuộc C250 do Nguyễn Văn Hoa (Năm Hoa)

chỉ huy đã nhanh chóng phối hợp với lực lƣợng tự vệ mật của thị xã Biên Hòa,

đánh thẳng vào nơi bọn cố vấn Mỹ đang xem phim. Bọn cố vấn Mỹ không kịp trở

tay. 2 tên bị diệt tại chỗ (Thiếu tá Bael Buis và Trung sĩ Chester Ovmand), một số

tên khác bị thƣơng. Đây là trận đánh thắng Mỹ đầu tiên tại Biên Hòa và cũng là

đầu tiên tại chiến trƣờng miền Nam, có tác động mạnh mẽ đến dƣ luận trong nƣớc

và trên thế giới, vạch rõ bản chất xâm lƣợc của đế quốc Mỹ đối với miền Nam Việt

Nam.

Đầu năm 1960, phong trào “Đồng khởi” từ Bến Tre (1) nhanh chóng lan rộng

ra các tỉnh, thành phố trên toàn Miền, phá vỡ từng mảng lớn bộ máy cai trị của bè

lũ Mỹ – ngụy ở nông thôn. Ở nhiều địa phƣơng, nhân dân đã nhanh chóng làm chủ

xã, ấp, xây dựng chính quyền cách mạng. Cùng thời gian, tối 25 rạng sáng ngày

26–1–1960, quân và dân Tây Ninh lại chiến thắng giòn giã bọn địch chốt giữ ở Tua

Hai, đã tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng ở Biên Hòa.

Đầu tháng 3–1960, dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, đƣợc sự hỗ trợ của

bộ đội chủ lực tỉnh, thanh niên các xã Thƣờng Lang, Tân Tịch, Tân Hòa, Mỹ Lộc

đã cùng bà con cô bác trong các thôn ấp đồng loạt nổi dậy, đốt phá trụ sở tề ngụy,

diệt bọn ác ôn. Làn sóng khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng. Chỉ một thời gian ngắn,

nhân dân đã giành đƣợc quyền làm chủ trên một vùng rộng lớn, tạo đƣợc bàn đạp

(1) Phong trào “Đồng khởi” nổ ra ở Bến Tre từ ngày 17–1–1960.

73

để tiến xuống vùng sâu, vùng yếu. Trong phong trào “Đồng khởi” của nhân dân, tổ

chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên ở các địa phƣơng luôn tỏ ra là một lực lƣợng

xung kích đáng tin cậy. Ở nhiều địa phƣơng nhƣ huyện Tân Uyên, thanh niên đã

nhanh chóng hình thành những đội, bán phân đội vũ trang tham gia diệt ác, phá rã

từng mảng hàng ngũ dân vệ địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

Hàng loạt các tên ác ôn, chỉ điểm gian ác bị trừng trị. Tên Phiên, xã trƣởng Bình

Trị; tên Báo, mật thám ngầm của địch ở xã Tân Hiệp bị diệt trong cùng một đêm.

Một số tên chỉ điểm, tề ấp, bọn đứng đầu các tổ chức chính trị phản động khác bị

bắt và đƣa ra trƣớc cuộc họp của nhân dân, buộc chúng phải thú tội và xin đƣợc

khoan hồng, để răn đe và hạ uy thế địch.

Trong lúc đó, với khí thế tiến công, đoàn viên, thanh niên trong lực lƣợng vũ

trang tập trung của tỉnh đã cùng đơn vị chia làm hai cánh: một cánh ở phía bắc

sông Đồng Nai, cặp tỉnh lộ 16, tiếp cận thị xã Biên Hòa, phát động nhân dân các xã

Tân Hiệp, Bình Trị, Hóa An, Tân Hạnh... nổi dậy. Một cánh tiến xuống phía nam

sông Đồng Nai, cặp tỉnh lộ 24 và sân bay Biên Hòa, hỗ trợ nhân dân các xã Đại

An, Tân Định, Thiện Tân, Bình Hòa, Bình Long, Bình Ý diệt ác, phá kìm, giành

quyền làm chủ.

Các “khu trù mật”, “khu dinh điền” do địch lập ra để o ép nhân dân, không để

nhân dân có điều kiện liên lạc với cách mạng ở các xã Tân Tịch, Thƣờng Lang,

Lạc An, Mỹ Lộc nhanh chóng bị phá banh. Khu trù mật Hang Nai, nơi bọn địch

rún ép nhân dân 2 ấp Vũng Gấm và Bào Bông của xã Phƣớc An – trọng điểm bình

định của chúng ở khu lòng chảo Nhơn Trạch, dồn về, cũng không thoát khỏi số

phận. Đƣợc Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo, tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên

xã Phƣớc An trong cả 3 lực lƣợng: chính trị, vũ trang, binh vận đã đồng loạt ra

quân, phối hợp với lực lƣợng vũ trang huyện chặn đánh bọn địch ruồng càn, dùng

lý lẽ đấu tranh kiên quyết không để địch xúc tát dân. Địch sử dụng bọn lính ở đồn

Gò Cát, đồn Vũng Gấm, chi khu Nhơn Trạch kéo đến bao vây từng nhà, quẳng đồ

đạc lên xe trƣớc, sau đó thúc ngƣời cùng lên. Thanh niên, nhất là nữ thanh niên, đã

cùng bà con cô bác trong các thôn ấp giằng co quyết liệt với địch. Nhiều gia đình

bị địch dồn vào khu trù mật hôm trƣớc, hôm sau lại chở đồ đạc về đất cũ. Có gia

đình bỏ cả đồ đạc, về ngƣời không. Trong lúc đó, lực lƣợng vũ trang tỉnh, huyện

phối hợp với du kích xã bao vây đồn Phƣớc An, chặn đánh bọn địch đi ruồng càn.

Đoàn viên và thanh niên tại nhiều cơ sở đã triệt để đẩy mạnh công tác binh vận,

vận động binh lính địch và những gia đình binh sĩ địch cùng cảnh ngộ bị gom tát,

bị khủng bố tranh thủ lôi kéo, thuyết phục con em họ không đàn áp nhân dân. Cuộc

đấu tranh kéo dài 3 tháng liên tục. Đến tháng 6–1960, ta bức hàng đồn Gò Cát, khu

trù mật Hang Nai bị phá tan.

74

Thực hiện phƣơng châm “diệt một rã mƣời”, cùng với phong trào diệt ác, phá

kìm, các hoạt động vũ trang tuyên truyền đƣợc đẩy mạnh. Đội du kích tập trung

của huyện Long Thành gồm toàn đoàn viên, thanh niên đƣợc sự chỉ đạo trực tiếp

của Huyện ủy đã nhanh chóng phát triển lực lƣợng, kịp thời hỗ trợ nhân dân các xã

Tam An, Phƣớc Nguyên dọc Quốc lộ 15 nổi dậy, từ đó theo tỉnh lộ 17, 19 phát

triển sang các xã Phƣớc An, Phú Hội cùng nhân dân diệt ác, phá kìm, tuyên truyền

gây dựng phong trào. Giữa tháng 9–1960, tên Mƣời Hiếm, Đại uý an ninh Nha đặc

cảnh miền Đông bị du kích xã Phƣớc An kết hợp với lực lƣợng vũ trang huyện tiêu

diệt. Sau một tuần lễ, tên giáo Lƣu, một tên chỉ điểm nguy hiểm ở vùng ven tỉnh lộ

17 cũng bị du kích xã Phú Hội diệt. Một nhóm thanh niên cốt cán ở Phú Hữu nhƣ

Phạm Văn Lố, Trần Văn Thời, Nguyễn Văn Thoàng... đã bí mật diệt tên Thức,

thám báo gian ác tại Giồng Ông Đông. Không có vũ khí, Lố đã lấy con dao phay

của nhà, cùng đồng đội bí mật đột nhập vào nhà bắt và trừng trị tên Thức tại chỗ,

sau đó phát loa tuyên bố giải tán tề ấp Giồng Ông Đông. Ngay trong đêm, một số

thanh niên tham gia “nổi dậy” nhƣ Phạm Văn Lố, Nguyễn Văn Em, Đoàn Thanh

Toàn, Dƣơng Thị Đắc... đã thoát ly và cùng tham gia xây dựng căn cứ tại Sở Dừa

để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Tại địa bàn huyện Xuân Lộc, từ cuối năm 1957 đã trở thành vùng trắng, các

cơ sở cách mạng đều bị đánh bật ra ngoài, Liên Tỉnh ủy miền Đông đã nhiều lần cử

các đoàn “khai hoang” về bắt mối liên lạc, gây dựng phong trào. Trong khí thế của

phong trào Đồng khởi đang nhanh chóng lan rộng, tinh thần quần chúng trong các

đồn điền cao su và vùng ven thị xã Long Khánh từng bƣớc đƣợc nhen nhóm, tổ

chức Đoàn đã đƣợc gây dựng ở một số xã và trong các đồn điền. Một số thanh niên

đã đƣợc tập hợp trong các tổ vũ trang. Đƣợc sự chỉ đạo trực tiếp của đoàn “khai

hoang”, anh em đã tổ chức trừ khử những tên ác ôn, phá thế kìm kẹp của địch. Đội

vũ trang tuyên truyền liên tục bám khu vực Tà Lài, Lý Lịch trên hƣớng Quốc lộ 20

ngăn chặn bọn địch phá rừng, thu lƣơng thực, diệt ác. Nhiều thanh niên hăng hái

tham gia các cuộc đấu tranh của quần chúng đƣợc rút lên xây dựng lực lƣợng vũ

trang huyện, bổ sung vào các đội du kích xã.

Tháng 7–1960, hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một một lần nữa lại đƣợc sáp

nhập thành tỉnh Thủ Biên. Tỉnh ủy Thủ Biên tiếp tục phát động quần chúng nổi

dậy diệt ác, phá thế kìm kẹp của địch, mở ra vùng tranh chấp mạnh, bung ra vùng

yếu thị xã, thị trấn. Nhiều thanh niên tiếp tục đƣợc tuyển chọn bổ sung vào các lực

lƣợng vũ trang của tỉnh, của huyện và của xã, ấp. Tổ chức Đoàn cũng đƣợc hình

thành. Tỉnh ủy đã bố trí cán bộ làm công tác thanh vận. Một số huyện, thị xã cũng

có cán bộ chuyên làm công tác thanh vận hoặc kiêm nhiệm. Ở thị xã Biên Hòa, các

cán bộ đƣợc giao phụ trách công tác thanh vận đã thƣờng xuyên bám sát địa bàn,

tích cực vận động thanh niên trong các cơ sở công nghiệp, thanh niên trí thức, học

75

sinh xây dựng các lõm chính trị, tạo bàn đạp cho các đơn vị vũ trang thâm nhập

vào nội ô, nội thị. Tại các xã Tân Vạn, Bửu Hòa, Hóa An, Bình Trị, Tân Hạnh... đã

phát triển đƣợc một số đoàn viên lẻ, làm nòng cốt trong các cuộc đấu tranh của

quần chúng.

Sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đảm lãnh sứ

mệnh tổ chức cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của nhân dân miền Nam,

dƣới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (ở miền Nam thời kỳ này mang tên

Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam), các tổ chức quần chúng của Mặt trận cũng

đƣợc thành lập, trong đó có tổ chức Hội Thanh niên Giải phóng, làm nhiệm vụ tổ

chức, tập hợp mọi tầng lớp thanh niên ở thành thị cũng nhƣ ở các vùng nông thôn

các tỉnh miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, không phân biệt xu hƣớng chính trị, tôn

giáo, thực hiện nhiệm vụ cao cả đứng lên đấu tranh, đánh thắng giặc Mỹ xâm lƣợc

và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Một thế hệ tuổi trẻ Biên Hòa – Đồng Nai, trải qua những năm tháng khốc liệt,

không ngừng lớn lên, đã tiếp bƣớc vào đội ngũ kháng chiến, với một niềm tin cách

mạng ngày càng đƣợc rèn đúc trong thực tiễn của cuộc đấu tranh. Biết bao đoàn

viên, thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai đã sẵn sàng dấn thân, dù phải trải qua

những năm tháng bị địch khủng bố trắng, máy chém của chúng lê đến tận từng

hang cùng ngõ hẻm. Nhiều đoàn viên, nhiều thanh niên cốt cán đã bị địch bắt, bị

giết hại, bị khủng bố, tù đày. Nhƣng mọi sự khủng bố tàn bạo của kẻ địch chỉ càng

làm cho thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai, cũng nhƣ hầu hết thanh niên miền Nam

trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc thêm vững tin ở con đƣờng

mình đã chọn, để vƣơn dậy với sức sống mãnh liệt của những con ngƣời dám đi tới

tận cùng những khát vọng, cho dù kẻ địch có nham hiểm, cũng không thể khuất

phục đƣợc những con ngƣời trẻ tuổi đã dám chấp nhận đối đầu, dám đứng lên cầm

lấy khẩu súng trong tay để đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc.

76

Chƣơng IV

PHÁT HUY TINH THẦN “ĐỒNG KHỞI”,

TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN,

THANH NIÊN BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI CÙNG QUÂN VÀ DÂN TIẾN LÊN

ĐÁNH BẠI CÁC CHIẾN LƢỢC CHIẾN TRANH CỦA ĐẾ QUỐC MỸ VÀ

NGỤY QUYỀN TAY SAI

1961 – 1973

I. GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC

BIỆT” CỦA MỸ.

Cao trào “Đồng khởi” của nhân dân miền Nam Việt Nam đã làm phá sản hoàn

toàn cuộc chiến tranh đơn phƣơng của Mỹ và ngụy quyền tay sai, làm thất bại một

hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ, tạo ra thế và lực mới

cho cách mạng miền Nam phát triển lên một bƣớc mới, “từ thế giữ gìn lực lƣợng

sang thế tiến công”.

Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ, với gƣơng mặt mới Giôn Kennơdy, vừa

bƣớc chân vào Nhà Trắng, đã nhanh chóng chuyển hƣớng chiến lƣợc đánh phá

phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam, từ chiến lƣợc chiến

tranh không tuyên bố sang chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt”.

Chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt” là một hình thức đặc thù của chủ nghĩa

thực dân kiểu mới của Mỹ lần đầu tiên đƣợc áp dụng thí điểm ở miền Nam Việt

Nam với thủ đoạn “dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt”, với sự trợ giúp đắc lực của

vũ khí, kỹ thuật hiện đại Mỹ, kết hợp với những thủ đoạn chiến tranh xâm lƣợc tàn

bạo và những biện pháp đàn áp, khủng bố dã man. Lấy quân đội của ngụy quyền

Sài Gòn làm lực lƣợng chủ yếu thực hiện chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt”, đế

quốc Mỹ đã nhanh chóng tăng viện trợ quân sự cho ngụy quyền lên gấp đôi, từ

321,7 triệu đôla (trong đó có 80 triệu đôla vũ khí) cho năm tài khóa 1961–1962,

đến năm tài khóa 1962–1963 đã tăng lên 675 triệu đôla (trong đó có 100 triệu đôla

vũ khí) để phát triển nhanh quân ngụy. Đội quân đánh thuê của ngụy quyền Sài

Gòn từ 15 vạn quân chính qui năm 1960, đến năm 1961 đã tăng lên 20 vạn và năm

1962 tăng lên tới 36,2 vạn. Lực lƣợng bảo an từ 70.000 tên năm 1960 đã nhanh

chóng tăng lên tới 174.500 tên vào năm 1962. Chúng tổ chức dân vệ thành lực

lƣợng vũ trang thƣờng trực gồm 128 đại đội và hơn 1.000 trung đội, 2.000 tiểu đội,

trở thành lực lƣợng chiếm đóng rộng, làm nhiệm vụ kìm kẹp nhân dân ở các xã, ấp.

77

Đối với thanh niên, chúng tiến hành các thủ đoạn thâm độc, nham hiểm,

không từ cả úp bộ, đƣa họ vào tổ chức “thanh niên chiến đấu”, một tổ chức do CIA

trực tiếp huấn luyện, trang bị để tăng cƣờng hỗ trợ cho đội quân thƣờng trực trong

việc gom dân, lập “ấp chiến lƣợc”, đồng thời là lực lƣợng dự trữ bổ sung cho mạng

lƣới tình báo của Mỹ.

Thời kỳ mới đòi hỏi tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên những nỗ lực

mới. Tháng 3–1961, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đoàn Thanh niên Lao

động Việt Nam (nay là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), căn cứ tình hình

thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng tại miền Nam đã quyết định tách bộ phận miền

Nam, thành lập một tổ chức riêng, trực tiếp động viên, tổ chức đông đảo thanh niên

miền Nam thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chiến lƣợc của Đảng đối với sự

nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam. Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam

cũng quyết định tăng cƣờng cho tổ chức Đoàn ở các tỉnh miền Nam một đội ngũ

cán bộ Đoàn có năng lực và đặc biệt có ý chí cách mạng tiến công. Nhiều cán bộ

Đoàn từ miền Bắc vào đã đƣợc bổ sung cho các cơ sở Đoàn ở các tỉnh, thành phố

của miền Nam. Hệ thống tổ chức Đoàn đƣợc hình thành từ trên xuống, theo các

cấp: Miền, Khu, tỉnh, huyện và cơ sở. Hệ thống tổ chức Đoàn ở Biên Hòa cũng

từng bƣớc đƣợc xây dựng phù hợp với điều kiện mới của chiến trƣờng, mặc dù

thời kỳ này chƣa hình thành đƣợc Ban chấp hành Đoàn các cấp, chỉ có Ban vận

động thanh niên, do các cấp ủy Đảng phụ trách.

Tháng 7 năm 1961, tỉnh Thủ Biên đƣợc tách thành 3 tỉnh: Thủ Dầu Một, Biên

Hòa và Phƣớc Thành. Tỉnh Biên Hòa đƣợc thành lập lại gồm các huyện Vĩnh Cửu,

Long Thành, Nhơn Trạch, huyện cao su Bình Sơn và thị xã Biên Hòa. Cùng với

việc hoàn thiện hệ thống tổ chức Đảng các cấp, hệ thống tổ chức Đoàn cũng từng

bƣớc đƣợc hình thành bên cạnh tổ chức Hội Thanh niên Giải phóng. Đồng chí

Nguyễn Trung Hiếu (Öt Hiếu) đƣợc chỉ định làm Bí thƣ Tỉnh Đoàn. Ở thị xã Biên

Hòa, đồng chí Phạm Văn Dũng đƣợc giao phụ trách công tác thanh niên. Ở huyện

Vĩnh Cửu là đồng chí Huỳnh Văn Đậm, huyện Long Thành là đồng chí Chín

Công... Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Biên Hòa đƣợc thành lập (tháng 7 –

1962), đại diện Hội Thanh niên Giải phóng (anh Phạm Văn Trắng) và đại diện Hội

Học sinh Giải phóng tỉnh (anh Nguyễn Trung Tâm) đã đƣợc bầu làm thành viên

của Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Cùng với việc Trƣờng Đảng tỉnh liên tục mở các lớp đào tạo Huyện ủy viên,

bí thƣ chi bộ cơ sở, chi ủy viên, sơ cấp chính trị... đáp ứng yêu cầu lãnh đạo và chỉ

đạo của đội ngũ cán bộ Đảng các cấp, nhiều cơ sở Đảng trong tỉnh đã quan tâm đào

tạo một lớp thanh niên mới phù hợp với đòi hỏi của cuộc chiến đấu. Tại xã Bình

Sơn, lớp bồi dƣỡng thanh niên đã thu hút nhiều đoàn viên, thanh niên tham gia.

Sau lớp bồi dƣỡng, một số anh em đã đƣợc tuyển chọn để thành lập đội vũ trang

78

mật, mang biệt danh B.20, thƣờng xuyên bám sát địa bàn, có nhiều hoạt động táo

bạo, có hiệu quả.

Mặc dù tổ chức Đoàn Thanh niên tại các địa phƣơng mới đƣợc hình thành,

lực lƣợng còn mỏng, ở nhiều cơ sở vẫn chƣa phát triển đƣợc đoàn viên, chƣa tổ

chức đƣợc chi đoàn, nhƣng cán bộ Đoàn các cấp, kể cả từ cấp tỉnh, đƣợc các cấp

ủy Đảng trực tiếp chỉ đạo, đã thƣờng xuyên bám sát từng cơ sở, móc nối, gây dựng

nòng cốt, phát triển từng đoàn viên, đặc biệt ở các vùng sâu vùng yếu, vùng đang

tranh chấp, tiến tới tổ chức từng chi đoàn ở những nơi đủ điều kiện. Đồng thời tổ

chức thanh niên đi vào các phong trào hành động cách mạng thiết thực, trƣớc hết là

vận động các tầng lớp thanh niên hƣởng ứng phong trào tòng quân, thoát ly tham

gia các công tác kháng chiến. Phong trào tòng quân thƣờng xuyên diễn ra ở hầu

khắp các vùng, nông thôn cũng nhƣ thành thị, kể cả vùng tranh chấp cũng nhƣ

vùng do địch còn tạm kiểm soát, đã thực sự cuốn hút nhiều thanh niên trong tỉnh

tham gia.

Thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai cũng nhƣ ở các địa phƣơng khác, trong

những năm chiến tranh phần lớn đều phải sống trong vùng Mỹ và ngụy quyền tay

sai kiểm soát, thƣờng xuyên bị o ép, bị khống chế nhiều mặt, có thể bị chúng bắt

lính bất cứ lúc nào. Bị địch bắt lính tức là phải đi làm bia đỡ đạn cho Mỹ, để nhận

lấy cái chết nhục nhã, suốt đời mang tiếng phản quốc. Nhiều thanh niên đã nghĩ

một cách đơn giản, đi theo kháng chiến, dù có phải hy sinh cũng vẻ vang, cũng

đƣợc góp phần xƣơng máu để bảo vệ mảnh đất đã nuôi mình lớn lên. Và họ sẵn

sàng đón nhận phong trào tòng quân nhƣ một sự khẳng định con đƣờng phải chọn.

Ở nhiều địa phƣơng, phong trào tòng quân những năm sau “Đồng khởi” diễn ra hết

sức sôi nổi, nhất là tại vùng đồn điền cao su Bình Sơn, An Viễng, Kho Bạc, Đờ La,

SIPH, Hêlêna, Trảng Bom, Vƣờn Ngô, Thành Tuy Hạ... Nhiều thanh niên đƣợc gia

đình bố trí ra rẫy sản xuất, từ đó ra vùng căn cứ tham gia phong trào tòng quân,

trong khi ở nhà phao tin mất tích để che mắt địch. Nhờ đó, ở các cơ sở này đều

thành lập đƣợc các đội công tác có từ 3 – 5 đội viên. Cũng nhờ phong trào tòng

quân của thanh niên đƣợc đẩy mạnh, các đơn vị vũ trang của địa phƣơng đều

nhanh chóng phát triển. Đại đội 240 (vốn là lực lƣợng của Đại đội 380, bộ đội tập

trung của tỉnh Thủ Biên, sau khi chia tách tỉnh đƣợc chia đều cho cả 3 tỉnh mới.

Đơn vị vũ trang tỉnh Biên Hòa lấy phiên hiệu C240), chỉ trong vòng 3 tháng sau,

quân số đã tăng lên hơn 100 cán bộ, chiến sĩ. Huyện Long Thành sau khi tách

thành 2 huyện là Long Thành và Nhơn Trạch cũng đã thành lập Đại đội 1 bộ đội

địa phƣơng huyện, gồm một số chiến sĩ đơn vị 195 và một số du kích các xã đƣợc

tập trung về. Huyện Nhơn Trạch cũng thành lập Đại đội 19–5 gồm một số chiến sĩ

còn lại của Đại đội 195 và một số thanh niên vừa mới nhập ngũ.

79

Phong trào thanh niên tòng quân ở Biên Hòa không những góp phần thành lập

các đơn vị vũ trang địa phƣơng mà còn góp phần thành lập các đơn vị vũ trang đầu

tiên của Miền. Tháng 2–1961, tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của miền Đông đƣợc

thành lập mang phiên hiệu D500, gồm 600 quân, đứng chân ở tây bắc Chiến khu

Đ, trong đó có nhiều thanh niên Biên Hòa vừa thoát ly tham gia kháng chiến theo

con đƣờng tình nguyện tòng quân. Về sau, Tiểu đoàn đổi phiên hiệu thành D800

(Tiểu đoàn 800). Phong trào tòng quân của thanh niên ở các địa phƣơng trong tỉnh

còn góp phần hình thành các đơn vị vũ trang tuyên truyền. Ở khu vực Định Quán

có Đội vũ trang tuyên truyền 150. Trên địa bàn huyện Xuân Lộc cũng có trung đội

vũ trang tuyên truyền với hơn 50 cán bộ, chiến sĩ. Thông qua phong trào tòng quân

cũng góp phần củng cố phát triển lực lƣợng bảo vệ an ninh của tỉnh. Riêng bộ phận

làm công tác an ninh của Biên Hòa đã phát triển lên đƣợc 12 ngƣời. Phần lớn đó là

những thanh niên có nhiệt tình, nhƣng đều chƣa qua đào tạo nghiệp vụ, chỉ với tinh

thần cách mạng tiến công. Các chiến sĩ: Thành (Thành Quăn), Chiến, Tắc, Thọ,

Sơn và Tuyết (nữ)... đều đã có nhiều đóng góp trong việc bảo vệ an ninh cho các

khu căn cứ và cho các cán bộ chủ chốt của Đảng thƣờng xuyên phải đi lại hoạt

động trong điều kiện kẻ địch luôn truy đuổi, khủng bố gắt gao, đồng thời làm công

tác địch tình, kịp thời phát hiện những hoạt động gián điệp của địch, kể cả khi địch

cài cắm ngƣời vào hàng ngũ của cách mạng.

Lực lƣợng dân quân, du kích cũng nhanh chóng phát triển ở hầu khắp các xã

trong vùng cao su, nhƣ Bình Sơn, An Viễng, SIPH, Hêlêna, các xã ở các huyện

Vĩnh Cửu, Long Thành... Các xã, phần lớn đều xây dựng đƣợc một bán đội đến

một tiểu đội du kích thoát ly. Long Thành và Nhơn Trạch là những địa phƣơng bị

địch khủng bố trắng trong các chiến dịch “tố cộng diệt cộng”, nhƣng đến cuối năm

1961, hầu hết các xã trên địa bàn đều có phong trào thanh niên tòng quân phát

triển, nên mỗi huyện đều xây dựng đƣợc một trung đội vũ trang tập trung, các xã

đều xây dựng đƣợc từ 1–2 tiểu đội du kích. Tại Thiện Tân (huyện Vĩnh Cửu),

trong phong trào “Đồng khởi”, xã chỉ có 10 du kích làm nòng cốt, vừa chiến đấu,

vừa phát động quần chúng, đến cuối năm 1960 đầu năm 1961, thông qua phong

trào tòng quân, thoát ly tham gia công tác kháng chiến đã có 62 đoàn viên, thanh

niên đƣợc tập hợp vào lực lƣợng du kích địa phƣơng, thƣờng xuyên hoạt động có

hiệu quả, chặn đứng nhiều âm mƣu xúc tát dân, chia cắt, tiến công lực lƣợng cách

mạng của địch. Nhiều đồn bốt địch đóng tại địa phƣơng (1) đã bị lực lƣợng du kích

(1) Thiện Tân là một địa bàn chiến lƣợc quan trọng, là căn cứ của huyện Vĩnh Cửu, có thể làm

bàn đạp tiến công vào sân bay Biên Hoà, Quân đoàn III ngụy, chi khu Biên Hòa, Tổng kho

Long Bình... Địch đã bố trí một hệ thống phòng ngự mạnh ở Thiện Tân, gồm: 3 bốt cấp

trung đội bảo an dân vệ, 1 đồn cấp đại đội, 1 đồn cấp tiểu đoàn, 1 đội bình định từ 10 – 12

tên, 1 tiểu đội cảnh sát...

80

xã bức rút từ một đến hai lần, kể cả những đồn địch đóng tới cấp đại đội, cấp tiểu

đoàn. Tại xã Phú Hội (huyện Nhơn Trạch), trong điều kiện địch đã tổ chức đƣợc 1

ban tề xã, 4 ban tề ấp và lực lƣợng thanh niên chiến đấu, ngày đêm tổ chức ruồng

càn để thực hiện âm mƣu bình định, lập ấp chiến lƣợc, đội du kích xã vẫn phát

triển lên đƣợc 16 chiến sĩ, trong đó có 3 đảng viên trẻ và 8 đoàn viên thanh niên.

Thực hiện chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay

sai coi việc dồn dân lập ấp chiến lƣợc là nội dung cơ bản, là “xƣơng sống” và đƣợc

nâng lên hàng “quốc sách”, với mƣu toan bình định miền Nam Việt Nam trong

vòng 18 tháng. Biên Hòa – Đồng Nai là một địa bàn chiến lƣợc quan trọng, là cửa

ngõ che chắn cho thủ phủ ngụy quyền Sài Gòn ở phía đông... đế quốc Mỹ và ngụy

quyền tay sai càng ra sức đẩy mạnh kế hoạch bình định bằng mọi giá. Chúng sử

dụng gần nhƣ toàn bộ lực lƣợng chủ lực, kể cả lực lƣợng tổng trù bị, bảo an, dân

vệ... liên tiếp mở những cuộc hành quân qui mô lớn từ cấp đại đội đến cấp trung

đoàn, càn quét vào vùng căn cứ cách mạng, hy vọng đánh bật lực lƣợng cách mạng

ra bên ngoài, xúc tát dân về trên các trục lộ giao thông, Quốc lộ 1, Quốc lộ 15, 20

và các liên tỉnh lộ 2, 24. Chúng xây dựng mỗi ấp chiến lƣợc nhƣ một pháo đài bất

khả xâm phạm, tiếp tục phân loại dân, phân ô, phân vùng, cài cắm những tên mật

vụ vào các liên gia, theo dõi sát sao mọi di biến động của ngƣời dân. Ở một số nơi,

chúng còn tách các gia đình có ngƣời tham gia kháng chiến tập trung tại một khu

vực riêng, gọi là “khu biệt lập” để dễ bề khống chế, đồng thời làm “hàng rào” che

chắn cho chúng mỗi khi lực lƣợng ta tiến công vào ấp.

Thâm độc hơn, để hỗ trợ âm mƣu gom dân lập ấp chiến lƣợc, từ ngày 23–4–

1962, bọn địch ở tiểu khu Biên Hòa đã triển khai thực hiện kế hoạch “2R–63” rải

chất khai quang (chất độc màu da cam) và chọn 2 huyện Long Thành, Nhơn Trạch

làm mục tiêu thí điểm. Tại các tọa độ YS067929 (vùng lúa xã An HòaHƣng),

YS055905 (vùng lúa xã Tam An – Phƣớc Nguyên), YS250979 (vùng lúa Tam

Phƣớc – An Lợi), YS028959 (vùng cao su Bình Sơn – An Viễng)... hàng ngày, từ

4 giờ chiều đến 5 giờ sáng hôm sau, từng tốp máy bay Mỹ lợi dụng đêm tối và

sƣơng đêm, khi trời lặng gió để phun chất độc xuống những vƣờn cây ăn trái,

những ruộng lúa của ngƣời dân ở hai huyện Nhơn Trạch và Long Thành. Một vùng

cây trái trù phú bị nhiễm chất khai quang làm trụi lá cứ lụi tàn dần. Mùa màng thất

bát.

Đến giữa năm 1962, ở những nơi địch lập đƣợc ấp chiến lƣợc, lực lƣợng cách

mạng phần lớn đều bị đánh bật khỏi địa bàn. Nhiều nơi, lực lƣợng cách mạng

không thể đột nhập đƣợc vào ấp. Có ấp chiến lƣợc, 10 đêm du kích đột ấp thì 8

đêm bị chúng phục kích, gây nhiều thiệt hại.

Thực hiện chủ trƣơng của Tỉnh ủy, kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công: chính

trị, quân sự, binh vận đánh phá kế hoạch bình định lập ấp chiến lƣợc của địch, tạo

81

điều kiện cho quần chúng bung về làng cũ làm ăn, tổ chức Đoàn các cấp đã thƣờng

xuyên bố trí đƣa các cán bộ Đoàn và cán bộ Hội Thanh niên Giải phóng, Hội Học

sinh Giải phóng... về bám sát từng cơ sở gây dựng phong trào trong từng ấp chiến

lƣợc. Nhiều cơ sở Đoàn đã phối hợp với các ngành móc nối, tổ chức đƣa những

thanh niên nòng cốt ra vùng căn cứ, tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về

cách mạng, xây dựng lòng yêu nƣớc thƣơng dân, phát động lòng căm thù Mỹ –

Diệm... Từ đó tạo điều kiện để những thanh niên này từng bƣớc phát triển các cơ

sở trong lòng địch, thƣờng xuyên nắm các di biến động của chúng, thông báo kịp

thời cho các lực lƣợng cách mạng. Cơ sở thanh niên nòng cốt phát triển, cán bộ

càng có điều kiện ngày đêm bám sát trong dân, phát động quần chúng nhân dân nổi

dậy diệt ác phá kềm, giành quyền làm chủ. Nhiều ấp chiến lƣợc bị phá đi phá lại

nhiều lần. Nhiều tên ác ôn bị diệt, nhiều tên phản cách mạng, bọn tề ngụy phản

động bị trấn áp, bị bắt đƣa ra giáo dục trƣớc đông đảo quần chúng nhân dân. Các

đồn bốt địch bị bao vây, bị đánh phá, buộc bọn lính địch phải co thun lại, không

dám bung ra quấy phá nhân dân. Ở nhiều cơ sở, phần lớn ban đêm đều do ta làm

chủ.

Huyện Vĩnh Cửu là một địa bàn giáp ranh giữa Chiến khu Đ và thị xã Biên

Hòa, để bảo vệ vành đai sân bay Biên Hòa và các căn cứ, hậu cứ của chúng, kẻ

địch đã tập trung xây dựng ở đây một hệ thống đồn bốt dày đặc. Trong đó Đại An

là trọng điểm bình định của địch. Là một xã nằm bên bờ sông Đồng Nai, dọc theo

tỉnh lộ 24, Đại An có vị trí hết sức quan trọng. Phía bắc Đại An là Chiến khu Đ,

phía nam là rừng Đại An, một căn cứ của cách mạng. Chọn Đại An làm điểm tập

trung xây dựng ấp chiến lƣợc kiểu mẫu, kẻ địch đã dùng nhiều thủ đoạn, từ lừa mị

đến cƣỡng bức, khủng bố để dồn dân. Chúng tập trung một lực lƣợng lớn bảo an,

dân vệ, công an... ruồng càn nhiều ngày đêm, bắt ép từng ngƣời dân đi đào hào,

đắp đê, vót chông tre rào ấp chiến lƣợc. Ai không đi chúng dí súng bắt làm xâu. Ai

chống đối, chúng bắt giam, đánh đập dã man. Thực hiện quyết tâm phá ấp chiến

lƣợc Đại An bằng 3 mũi giáp công kết hợp của Huyện ủy Vĩnh Cửu, hầu nhƣ tất cả

cán bộ Đoàn và đoàn viên thanh niên trong các ngành của huyện đều đƣợc tăng

cƣờng xuống giúp chi bộ Đại An phát động quần chúng nhân dân nổi dậy. Nhiều

thanh niên đƣợc giác ngộ, bổ sung cho đội du kích mật, an ninh mật, tích cực hoạt

động tạo địa bàn đứng chân để lực lƣợng vũ trang huyện bám trụ, hỗ trợ nhân dân.

Liên tục nhiều ngày đêm, đoàn viên và thanh niên trong đơn vị vũ trang tập trung

của huyện Vĩnh Cửu (C270) đã kiên trì bao bó địch trong các đồn bốt xung quanh

ấp chiến lƣợc, hỗ trợ cán bộ, du kích đột nhập vào ấp gỡ trái, tuyên truyền, phát

động nhân dân. Cuối tháng 6–1962, C270 phục kích đánh địch ở Gò Chùa, xã Đại

An, diệt 6 tên. Tháng 7–1962, đƣợc sự hỗ trợ của cơ sở bên trong ấp, bộ đội huyện

và du kích xã tiến công đồn dân vệ Đại An. Đồn dân vệ Đại An bị đánh rã, ấp

chiến lƣợc Đại An cũng bị phá, nhân dân có cơ hội bung ra sản xuất, ổn định đời

82

sống, thanh niên có điều kiện thoát ly tham gia công tác kháng chiến, vào du kích

xã, ấp...

Phong trào đấu tranh chống địch gom dân lập ấp chiến lƣợc cũng diễn ra

quyết liệt ở các xã Thiện Tân, Tân Định, Lợi Hòavà ở nhiều địa phƣơng khác, buộc

địch phải tập trung lực lƣợng để đối phó, kể cả lính chủ lực. Riêng các xã ở ngoại ô

thị xã Biên Hòa, tuy còn nhiều khó khăn nhƣng mạng lƣới cơ sở cách mạng vẫn

tiếp tục phát triển, kể cả lực lƣợng bên trong (cơ sở tự vệ mật) và lực lƣợng bên

ngoài (cán bộ, chiến sĩ biệt động, du kích thoát ly) và thƣờng xuyên phối hợp với

nhau trong các hoạt động. Trong các năm 1961 – 1962, hàng chục nam nữ thanh

niên thị xã Biên Hòa và các xã vùng ven đã hăng hái thoát ly gia đình và đƣợc bổ

sung cho các đội công tác và đơn vị vũ trang của thị xã. Đến cuối năm 1962, cả 3

cánh của thị xã (CZ1, CZ2, CZ3) mỗi cánh đều có từ 10 – 15 cán bộ, chiến sĩ, phần

lớn đều là những đoàn viên, thanh niên còn rất trẻ và nhiệt tình với công tác cách

mạng.

Các hoạt động vũ trang, hỗ trợ phong trào diệt ác phá kềm đƣợc đẩy mạnh. Tổ

chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên tại các địa phƣơng luôn sáng tạo những cách

đánh địch hết sức táo bạo, kể cả trong trƣờng hợp phải ứng chiến bất ngờ. Tại

huyện Long Thành, sau khi một số thanh niên cốt cán đƣợc học tập về các bƣớc

công tác cách mạng đƣợc đƣa về ấp Rạch Bảy (xã Phú Hữu) chuẩn bị vận động

nhân dân đồng loạt nổi dậy diệt ác phá kềm, nhiều trận đánh địch ruồng càn đã

diễn ra dƣới nhiều hình thức. Tiêu biểu là trận phục kích tiêu diệt tên Tƣ Nở – một

tên ác ôn khét tiếng tại xã Phú Hữu.

Khí thế cách mạng của quần chúng các xã Phú Hữu, Phƣớc Khánh, Đại

Phƣớc... dâng lên mạnh mẽ. Thanh niên ấp Phƣớc Lƣơng (Phú Hữu) bắt và trừng

trị một lúc 3 tên ác ôn, giải tán toàn bộ tề ấp và các tổ chức chính trị phản động.

Thanh niên ấp Chợ (Phƣớc Khánh), các ấp Bến Cộ, Cầu Kê, Gò Keo, Giồng Ông

Đông... đều tổ chức các hoạt động vũ trang tuyên truyền và diệt các tên ác ôn có

nhiều nợ máu với nhân dân. Trong khi đó, hàng chục thanh niên khác lại nô nức

tìm đƣờng đi ra căn cứ tham gia kháng chiến. Trong đó, riêng xã Phú Hữu đã có 30

thanh niên tham gia tòng quân. Các xã Phƣớc Khánh, Đại Phƣớc cũng có 50 thanh

niên thoát ly tham gia kháng chiến. Một số anh em đƣợc đƣa về bổ sung cho đơn vị

19–5. Số còn lại tham gia xây dựng căn cứ kháng chiến tại chỗ. Số thanh niên ở

các xã tình nguyện tòng quân ngày càng đông, đến mức không thu nhận hết. Ở

nhiều địa phƣơng phải thuyết phục anh em tạm thời trở về nhà, chờ khi có điều

kiện sẽ tham gia.

Tháng 3–1963, Trung ƣơng Cục và Khu ủy miền Đông quyết định sáp nhập 2

tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa thành tỉnh Bà Biên, nhằm tạo điều kiện khắc phục khó

khăn về địa bàn bị chia cắt, tập trung lực lƣợng, phối hợp mở hành lang chiến lƣợc,

83

mở mảng mở vùng. Hệ thống tổ chức Đoàn đƣợc phát triển đến hầu khắp các

huyện, xã. Ở tỉnh, đồng chí Nguyễn Trung Hiếu tiếp tục đƣợc giao trách nhiệm Bí

thƣ Tỉnh Đoàn, cùng một số cán bộ nhƣ Tâm, Cang, Thanh Tuyền... Trong đó có

nhiều cán bộ từ Tỉnh Đoàn Bà Rịa chuyển về nhƣ Nguyễn Việt Nhân, Mã Tuyết

Mai, Năm Sinh... đã tập trung chỉ đạo vừa củng cố, phát triển cơ sở Đoàn các cấp,

vừa tổ chức, động viên đoàn viên, thanh niên đẩy mạnh các phong trào hành động

cách mạng. Nhiều chi đoàn thanh niên đƣợc xây dựng, nhiều đoàn viên đƣợc phát

triển ở nhiều xã vùng nông thôn của tỉnh, góp phần xây dựng, phát triển một số căn

cứ ở đông và tây tỉnh lộ 2, khu lòng chảo Nhơn Trạch, khu vực Trảng Bom, Gia

Kiệm... Phong trào thanh niên thoát ly tham gia lực lƣợng vũ trang, tham gia các

công tác cách mạng ngày càng đông. Chỉ riêng ở đồn điền Cao su Cẩm Mỹ (Long

Khánh), số lƣợng công nhân của đồn điền chỉ có khoảng 5.000 ngƣời, nhƣng trong

vòng một năm, từ cuối 1963 đến cuối 1964 đã có hơn 100 thanh niên công nhân

tòng quân, gia nhập lực lƣợng vũ trang tỉnh, huyện và tham gia lực lƣợng du kích.

Lực lƣợng du kích lộ và mật ở các địa phƣơng phát triển nhanh chóng. Một số xã ở

huyện Long Thành nhƣ Tam An, Tam Phƣớc; ở huyện Nhơn Trạch nhƣ Phƣớc An,

Phú Hội...; ở huyện Vĩnh Cửu nhƣ Thiện Tân, Tân Định, Đại An... lực lƣợng du

kích đã phát triển đến 1 tiểu đội, phần lớn đều là đoàn viên, thanh niên.

Tổ chức Đoàn Thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang cũng đƣợc phát triển

mạnh. Hầu hết các đơn vị đều thành lập đƣợc chi đoàn thanh niên. Ở những đơn vị

mới thành lập chƣa có đoàn viên, chi bộ Đảng đã trực tiếp kết nạp đoàn viên và

thành lập tổ chức Đoàn của đơn vị để làm nòng cốt tập hợp thanh niên thực hiện

những nhiệm vụ chính trị đƣợc đặt ra, nhất là cổ vũ tinh thần chiến đấu ngoan

cƣờng dũng cảm của đông đảo thanh niên. Những năm từ 1963, phong trào “Thi

đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” thƣờng xuyên diễn ra khá sôi nổi trong các lực

lƣợng vũ trang. Ấp Bắc là một địa danh thuộc tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền

Giang) đã đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, con chủ bài của

chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và ngụy quyền tay sai. Phát huy khí thế

tiến công, Trung ƣơng Cục miền Nam phát động rộng rãi phong trào “Thi đua Ấp

Bắc, giết giặc lập công”. Hƣởng ứng phong trào thi đua, Tỉnh ủy Bà Biên chủ

trƣơng: Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống phá kế hoạch bình định nông thôn của

địch bằng hai lực lƣợng: chính trị và quân sự, kết hợp 3 mũi giáp công, phá ấp

chiến lƣợc, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, xây dựng căn cứ cách mạng,

xây dựng và phát triển lực lƣợng về mọi mặt, phát động phong trào du kích chiến

tranh, xây dựng làng, xã chiến đấu...

Thực hiện chủ trƣơng của Tỉnh ủy, tổ chức Đoàn trong các đơn vị vũ trang

của tỉnh, của huyện đã tổ chức cho đoàn viên, thanh niên trong đơn vị học tập

gƣơng chiến đấu của các chiến sĩ Ấp Bắc, phát động đoàn viên, thanh niên nêu cao

84

tinh thần ngoan cƣờng, dũng cảm bám đánh địch trong mọi tình huống. Nhiều đoàn

viên, thanh niên đã thể hiện ý chí và nguyện vọng đƣợc trực tiếp cầm súng chiến

đấu bằng nhiều hành động cụ thể, ngày đêm miệt mài rèn luyện, không ngừng nâng

cao kỹ, chiến thuật, luôn đề cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đánh địch, hỗ trợ

nhân dân nổi dậy diệt ác phá kềm. Tháng 4–1963, kết hợp 2 lực lƣợng bên trong và

bên ngoài, lực lƣợng vũ trang huyện Xuân Lộc tiến công đồn dân vệ Hƣng Nghĩa,

tạo điều kiện cho nhân dân phá banh ấp chiến lƣợc, bắt sống toàn bộ 13 tên tề ấp

và bọn cầm đầu các tổ chức chính trị phản động, thu 13 súng các loại. Cùng thời

gian, tại xã Bảo Vinh, vùng ven thị xã Long Khánh, du kích và tự vệ mật liên tục

đánh phá ấp chiến lƣợc Bảo Vinh C. Ban đêm, lực lƣợng thanh niên nòng cốt trong

ấp chiến lƣợc vận động nhân dân dùng kềm cắt dây kẽm gai, phá từng đoạn rào

gần chỗ ở, mở một lối đi, sau đó dùng chân giẫm nát cỏ xung quanh và phao tin có

đông Quân giải phóng về phá ấp chiến lƣợc. Địch bắt rào lại, đồng thời tăng cƣờng

gài mìn, lựu đạn dày đặc ở bờ rào kẽm gai. Đêm đến, đoàn viên, thanh niên trong

đội du kích của xã áp sát gỡ hết trái mìn này đến quả lựu đạn khác, kết hợp đột

nhập vào ấp vận động nhân dân tiếp tục phá ấp chiến lƣợc. Địch bắt rào lại lần nữa,

đồng bào không chịu: “Rủi lựu đạn nổ, chết bỏ con cái ai nuôi?”. Một tên dân vệ

hung hăng nhảy đến kéo rào để thị uy, trái lựu đạn còn sót nổ tung xác, làm bọn

địch sợ xanh mặt. Cuối cùng chúng phải bỏ dở việc xây dựng ấp chiến lƣợc Bảo

Vinh C. Bà con gọi đó là “ấp giải phóng độc đáo”.

Phối hợp với các anh, chị, nhiều em thiếu nhi trong các ấp chiến lƣợc đã lợi

dụng khi đi chăn trâu, bò, dò tìm những chỗ địch gài trái, báo lại cho du kích tháo

gỡ. Có em còn dũng cảm, bí mật gỡ trái gài vào nơi bọn lính địch và bọn cán bộ

bình định thƣờng hay tụ tập để tiêu diệt chúng. Ở Mỹ Bình (huyện Tân Uyên) một

em nhỏ chăn bò hàng ngày thấy bọn lính ở bót Thầy Phòng thƣờng hay kéo vào

làng hỗ trợ bọn cán bộ bình định trắng trợn bắt giữ đánh giết nhiều ngƣời dân để

thực hiện âm mƣu dồn dân lập ấp chiến lƣợc, rất căm ghét, muốn tìm cách trả thù,

nên đã bí mật dò hỏi học cách gài trái của các anh chị du kích. Vì muốn giữ bí mật

để còn tiếp tục đánh nữa nên em đã không cho ai biết, tự mình đi gỡ trái, và cũng

tự mình đem trái đến gài nơi bọn địch hay tụ tập đùa giỡn. Trái nổ, 2 tên lính địch

bị banh xác. Nhƣng mãi sau này ngƣời dân trong xã mới biết tiếng nổ ở gần bót

Thầy Phòng đó là do em làm nên.

Tháng 12–1963, tỉnh Bà Biên đƣợc tách ra, thành lập lại 2 tỉnh Biên Hòa và

Bà Rịa. Tiếp đó, tháng 4–1964, thị xã Biên Hòa đƣợc tách ra thành lập một đơn vị

hành chính riêng, trực thuộc Khu ủy miền Đông. Tỉnh Biên Hòa còn lại các huyện:

Long Thành, Nhơn Trạch, huyện Cao Su, Ban cán sự di cƣ. Thời kỳ này, kế hoạch

Stalay – Taylor, với tham vọng bình định miền Nam Việt Nam trong vòng 18

tháng đã hoàn toàn bị phá sản, ngụy quyền Sài Gòn có nguy cơ sụp đổ, cùng với

85

việc chỉ đạo các tƣớng lĩnh quân đội Sài Gòn làm đảo chính lật đổ anh em Ngô

Đình Diệm, đƣa Dƣơng Văn Minh, sau đó là tƣớng Nguyễn Khánh, rồi Nguyễn

Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ thay nhau chấp chính, vừa bƣớc chân vào Nhà

Trắng thay Kennơđi bị ám sát, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã cho triển khai kế hoạch

chiến lƣợc mới, “kế hoạch Giônxơn – Mắc Namara”, âm mƣu bình định có trọng

điểm miền Nam Việt Nam trong vòng 2 năm (1964 – 1965). Trong đó Biên Hòa là

một trong những tỉnh nằm trong vùng trọng điểm bình định của địch, đƣợc đế quốc

Mỹ và ngụy quyền tay sai tập trung lực lƣợng tổ chức nhiều cuộc hành quân đánh

phá sâu vào vùng căn cứ cách mạng, lấn chiếm vùng giải phóng. Chúng sử dụng

Sƣ đoàn 18 ngụy mở cuộc hành quân lớn đánh vào căn cứ Tỉnh ủy Biên Hòaở Suối

Cả (Long Thành). Ở phía bắc Biên Hòa chúng đổ quân chiếm lại đồi Kim Liên

(Vĩnh Cửu), chiếm lại Trị An... Từ đó bung ra càn quét đánh phá, khôi phục các

đồn bốt dọc tỉnh lộ 24 và vùng giáp ranh huyện Vĩnh Cửu, mở rộng và củng cố đồn

bốt cả hai phía tả và hữu ngạn sông Đồng Nai, hỗ trợ cho bọn tề ngụy địa phƣơng

củng cố và khôi phục các ấp chiến lƣợc đã bị ta phá rã, tạo vành đai để bảo vệ các

căn cứ, hậu cứ, sân bay, kho tàng của chúng ở Biên Hòa và các cơ quan đầu não

của chúng ở Sài Gòn.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục và quyết tâm của Tỉnh ủy, cùng với

cán bộ các ban, ngành, toàn bộ cán bộ Đoàn và cán bộ Hội Thanh niên Giải phóng

hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch đều chuyển về bám trong các xóm ấp, ngày

đêm vận động nhân dân chống phá nội dung và hình thức ấp chiến lƣợc của địch,

móc nối đƣa thanh niên ra vùng căn cứ tham gia kháng chiến. Nhiều cán bộ của

Đoàn, của Hội thƣờng xuyên phải ăn ngủ dƣới hầm bí mật từ ngày này qua ngày

khác để bám dân, kịp thời chỉ đạo các cuộc đấu tranh của nhân dân và thanh niên

tại địa phƣơng. Thời kỳ này, hầm bí mật đƣợc xây dựng gắn với ô, ụ chiến đấu ở

Tam An, Phƣớc Nguyên (Long Thành), Phú Hội, Phƣớc Thiền (Nhơn Trạch), Bàu

Ngỗng, xóm Đình Bình Sơn (vùng cao su). Có hầm chứa đƣợc cả bán đội. Nhƣng

cũng có những hầm bí mật chỉ đủ cho một ngƣời, chật chội, nóng bức ngột ngạt,

thậm chí có lúc còn ngập đầy nƣớc. Tại ấp Phú Hội, cán bộ Đoàn khi bám cơ sở

phải mƣợn lu của dân chôn xuống bàu trũng để làm hầm bí mật. Còn ở Long

Thành, khi vào móc nối với một đoàn viên mật, không có điều kiện đào hầm bí

mật, hàng ngày, đồng chí cán bộ Đoàn phải sống trong một thùng phuy nổi để bám

dân, chỉ đạo phong trào. Nhiều cán bộ Đoàn, cán bộ Hội bám cơ sở chỉ thoát hiểm

trong gang tấc. Nhƣng không một ai lùi bƣớc, góp phần tổ chức đoàn viên, thanh

niên cùng bà con cô bác trong các ấp chiến lƣợc ở các xã Phƣớc An, Phƣớc Thọ,

Phƣớc Thiền, Phƣớc Nguyên, Phú Hội, Phú Hữu, Tam An, Tam Phƣớc, Đồn điền

Cao su An Viễng, Hêlêna... nổi dậy. Nhiều thanh niên sống trong vùng địch tạm

kiểm soát đƣợc móc nối, đƣợc giáo dục, giác ngộ đã trở thành nòng cốt trong các

cuộc đấu tranh. Một số đƣợc kết nạp vào Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng

86

theo hai phƣơng thức: lộ và không lộ. Số đoàn viên lộ phần lớn đƣợc bố trí hoạt

động trong các đội du kích tập trung, trực tiếp cầm súng chiến đấu chống địch càn

quét, lấn chiếm. Số đoàn viên không lộ trụ bám trong dân, tham gia du kích bí mật,

hƣớng dẫn, tổ chức thanh niên đấu tranh chống lại các thủ đoạn nham hiểm của

địch dƣới nhiều hình thức, góp phần phá rã nhiều ấp chiến lƣợc, tham gia xây dựng

những làng, xã chiến đấu, tạo thành những thế trận liên hoàn vững chắc, chặn đứng

nhiều cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của địch.

Những tháng cuối năm 1964 đầu năm 1965, thực hiện chủ trƣơng mở đợt hoạt

động mùa khô 1964–1965 trên khắp chiến trƣờng miền Nam, tổ chức Đoàn trong

từng đơn vị vũ trang tập trung cũng nhƣ trong lực lƣợng du kích xã, ấp đã sáng tạo

nhiều hình thức động viên đoàn viên, thanh niên lập công trong từng trận đánh,

nhất là trong đợt ra quân hỗ trợ nhân dân vùng Long Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh

Cửu đánh phá ấp chiến lƣợc của địch. Nhiều hình thức đánh địch táo bạo đã đƣợc

các đoàn viên và thanh niên vận dụng đạt hiệu suất chiến đấu cao nhƣ dùng rơm

chất xung quanh ấp chiến lƣợc, châm lửa kích nổ hàng loạt mìn, lựu đạn gài trong

hàng rào; diệt đồn Đại An bằng kết hợp ba mũi giáp công làm bọn lính địch trong

đồn hoang mang phải xin đầu hàng, hạ đồn Trị An không cần bắn một phát đạn

nào, trừ khi tên đồn trƣởng và 3 tên an ninh quân đội ngoan cố, tìm cách thoát ra

ngoài, không chịu đầu hàng, ta phải bắt đƣa về căn cứ trừng trị.

Sau những chiến thắng diệt gọn Tiểu đoàn 37 biệt động ngụy ở Tân Uyên,

đánh phá đồn Cây Gáo, tiêu diệt chi khu Hiếu Liêm; bao vây, tiêu diệt đồn Trị An

và đánh địch trên các tuyến đƣờng bộ, đƣờng sắt... làm tiêu hao nhiều sinh lực

địch, phá hủy nhiều phƣơng tiện chiến tranh của chúng, mở rộng vùng giải phóng...

thực hiện quyết tâm của Đảng, đoàn viên và thanh niên trong các đơn vị bộ đội địa

phƣơng Biên Hòa, Long Khánh, cũng nhƣ đoàn viên và thanh niên bộ đội chủ lực

Miền, chủ lực Quân khu đã trực tiếp tham gia những trận đánh lớn, có tính quyết

định đến cục diện chiến trƣờng, trong đó có trận tiến công sân bay Biên Hòa bằng

súng cối 81 ly và ĐKZ75.

Sân bay Biên Hòa là một trong những sân bay quân sự lớn nhất của Mỹ –

ngụy ở miền Nam Việt Nam, rộng khoảng 40 km2, với 2 đƣờng băng dài 3.600 mét

và 1.000 mét, nằm cách trung tâm Sài Gòn 30 km. Sân bay đƣợc trang bị hệ thống

ra đa, hệ thống chỉ huy liên lạc hiện đại. Máy bay có thể cất cánh và hạ cánh trong

bất cứ thời tiết nào, ngày cũng nhƣ đêm. Bên trong sân bay có 6 khu vực rộng cho

từ 170 – 190 máy bay cùng đậu, thƣờng xuyên có 500 sĩ quan, phi công, nhân viên

kỹ thuật và hàng trăm binh lính Mỹ – ngụy đồn trú bảo vệ. Lực lƣợng bảo vệ sân

bay gồm một đại đội pháo binh, một đại đội xe tăng, một tiểu đoàn quân khuyển

(100 chó bécgiê). Bên cạnh sân bay là sở chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy.

87

Phục vụ trận đánh, nhiều chiến sĩ trinh sát trẻ tuổi của Biên Hòa đƣợc các cơ

sở nội tuyến trong sân bay hỗ trợ đã bằng mọi cách áp sát mục tiêu, nghiên cứu cụ

thể cách bố phòng, hệ thống doanh trại, khu để máy bay, kho bom... Nhiều đoàn

viên và thanh niên của huyện Vĩnh Cửu đƣợc sự chỉ đạo của Huyện ủy, đã hăng

hái tham gia công tác vận tải đạn từ Chiến khu Đ về phục vụ cho trận đánh và

chuẩn bị trận địa cho lực lƣợng pháo binh. Các chiến sĩ biệt động thị xã Biên Hòa,

bộ đội, du kích huyện Vĩnh Cửu và cơ sở mật phục vụ, hƣớng dẫn các đơn vị pháo

cối của Miền và của Quân khu bí mật nhanh chóng hành quân đến vị trí tập kết, bố

trí trận địa tại Hóc Bà Thức (Tân Phong) cách sân bay Biên Hòa 1 km về phía

đông – bắc.

Trận tiến công sân bay Biên Hòa đêm 31–10–1964, đã để lại nhiều ấn tƣợng

sâu sắc đối với không ít đoàn viên, thanh niên Biên Hòa, cổ vũ mạnh mẽ các tầng

lớp thanh niên trong tỉnh thêm vững tin ở sức mạnh chiến thắng của cách mạng.

Chỉ trong vòng 15 phút, đạn pháo ta dội bão lửa vào sân bay, làm rung chuyển cả

thị xã Biên Hòa và các vùng phụ cận. 130 quả đạn cối của quân ta đã rơi gọn và

chính xác xuống các mục tiêu, phá hủy 59 máy bay, trong đó có 21 máy bay B57,

loại máy bay tối tân nhất, Mỹ mới đƣa từ Philippin sang chuẩn bị cho kế hoạch gây

tội ác đối với miền Bắc Việt Nam, 11 máy bay AD6, một máy bay U2, diệt và làm

bị thƣơng 293 tên địch, tiêu hủy và làm nổ tung hai kho đạn lớn, một kho xăng,

một đài quan sát và 18 căn trại lính.

Bác Hồ kính yêu, khi đánh giá chiến thắng trận đánh sân bay Biên Hòa, đã

viết lời ca ngợi:

Uy danh lừng lẫy khắp năm châu

Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu

Thành đồng trống thắng lay Lầu trắng

Điện Biên Mỹ chẳng phải chờ lâu

CS (1)

Cuối năm 1964, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam, Quân

ủy và Bộ chỉ huy Miền quyết định mở Chiến dịch Bình Giã trên tỉnh lộ số 2 (Bà

Rịa). Mặc dù chỉ là một địa bàn phối hợp, nhƣng tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh

niên Biên Hòa – Đồng Nai vẫn thể hiện rõ vai trò xung kích cách mạng, sẵn sàng

đón nhận và hoàn thành nhiều nhiệm vụ đặt ra. Trong đó có 200 thanh niên các địa

phƣơng trong tỉnh nhanh chóng lên đƣờng tòng quân, kịp thời bổ sung quân số cho

các đơn vị bộ đội của Miền, cũng nhƣ của địa phƣơng. Hàng trăm thanh niên khác

đã góp phần xây dựng các cửa khẩu Bình Sơn, Phƣớc Thái, Long Phƣớc, Long An,

(1) CS (Chiến sĩ), một bút danh của Bác Hồ – Bài đăng trên báo Nhân Dân ngày 12–11–1964.

88

Tam An, Phƣớc Nguyên, An Lợi, Phú Hội, Long Tân, Phƣớc Thiền... làm nhiệm

vụ cung cấp sức ngƣời, sức của đáp ứng nhu cầu của chiến trƣờng; gần 1.000 đoàn

viên và thanh niên hăng hái đi dân công, ngày đêm vận chuyển vũ khí từ Bình

Châu, Xuyên Mộc về Bà Rịa, Biên Hòa, Chiến khu Đ. Công nhân cao su thực hiện

“6 cạo, 3 trút, 1 đi” (tức là : 6 ngƣời đi cạo mủ, 3 ngƣời đi trút mủ, để một ngƣời

thoát ly tham gia dân công phục vụ chiến dịch), những ngƣời ở nhà làm việc thay

thế cho những thanh niên trẻ, khoẻ đi dân công phục vụ chiến dịch.

Trong lúc đó, đoàn viên và thanh niên trong lực lƣợng vũ trang của tỉnh, của

huyện cũng nhƣ du kích các địa phƣơng đã đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở

vùng Long Thành – Nhơn Trạch, thu hút lực lƣợng địch, đảm bảo cho các đơn vị

chủ lực trên hƣớng chính của chiến dịch bí mật triển khai thế trận đánh địch. Nhiều

trận đánh giao thông địch đã diễn ra trên Quốc lộ 15, diệt nhiều sinh lực địch, thu

hàng chục tấn gạo. Đoàn viên và thanh niên trong lực lƣợng du kích các xã ở hai

huyện Long Thành và Nhơn Trạch cũng tổ chức nhiều hoạt động táo bạo, thọc sâu

bao vây đồn bốt địch ở Tam An, Tam Phƣớc, An Lợi, Phƣớc Nguyên, Phƣớc An,

Phú Hữu, Phú Hội... Đoàn viên, thanh niên trong các đơn vị du kích và bộ đội địa

phƣơng huyện Xuân Lộc, đƣợc sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực Quân khu, phối hợp

với Chiến dịch Bình Giã cũng đã đẩy mạnh tiến công địch ở các xã dọc Quốc lộ 1,

tỉnh lộ 2, giải phóng các xã Cẩm Đƣờng, Thừa Đức, Bình Phú, Bảo Chánh... Tiếp

đó, thừa thắng, bộ đội chủ lực Quân khu đã liên tiếp đánh thắng địch ở Tà Lài, Ba

Sa, chi khu Định Quán... Tiêu biểu có trận phục kích tiêu diệt bọn địch đi giải toả

trên Quốc lộ 20 của đoàn viên và thanh niên Trung đoàn 4, bộ đội chủ lực Quân

khu. Toàn bộ 2 tiểu đoàn quân biệt động và 1 đại đội bảo an địch, cùng 26 xe quân

sự, gồm cả xe tăng, thiết giáp đi giải toả đã lọt vào trận địa phục kích của các chiến

sĩ Trung đoàn 4, tiến không đƣợc, lùi cũng không xong, hoàn toàn bị tiêu diệt, để

lại xác chết la liệt trên tuyến đƣờng dài 2 km.

Cục diện trên chiến trƣờng thay đổi nhanh chóng. 2/3 vùng nông thôn của tỉnh

chuyển lên thế tranh chấp mạnh. Kể cả ở vùng đồng bào Công giáo di cƣ nhƣ Bàu

Hàm, ngƣời dân cũng đã nổi dậy chống đối không chịu vào ấp chiến lƣợc, thanh

niên không chịu đi lính làm bia đỡ đạn cho địch. Nhiều thanh niên trốn lính vào ở

luôn trong rẫy làm ăn...

“Tình hình Việt Nam nghiêm trọng và sẽ nghiêm trọng hơn nữa, quân đội

Việt Nam cộng hòa không thể đƣơng đầu với Việt cộng, tƣơng quan lực lƣợng ở

mức báo động, quyền chủ động đã quay về tay cộng sản” (1). Chiến lƣợc “Chiến

(1) Nhận định của phái đoàn Mắc Namara sau khi đi thị sát tình hình tại chiến trƣờng miền Nam

Việt Nam – Dẫn theo Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, tập 2,

Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2000, tr. 159–160.

89

tranh đặc biệt” của Mỹ – ngụy phá sản đã rõ ràng, nhƣng các thế lực hiếu chiến Mỹ

vẫn chƣa chịu rút ra bài học thất bại, vẫn còn điên cuồng đẩy mạnh cuộc chiến

tranh lên một nấc thang mới, thực hiện chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đƣa

quân Mỹ và quân đội các nƣớc chƣ hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt

Nam, đồng thời cho không quân và hải quân đánh phá miền Bắc ngày càng ác liệt,

nhƣng đoàn viên, thanh niên đã cùng quân và dân Biên Hòa – Đồng Nai, cũng nhƣ

quân và dân cả nƣớc ra sức khắc phục khó khăn, tiến công tiêu diệt địch, góp phần

tạo ra thế và lực mới cho cách mạng, vƣợt qua thử thách, giành thắng lợi quyết

định.

II. ĐẨY MẠNH CÁC PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG, CÙNG QUÂN

VÀ DÂN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA

MỸ, TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN BIÊN HÒA –

ĐỒNG NAI TRƢỞNG THÀNH VƢỢT BẬC.

Bƣớc vào cuộc đọ sức trực tiếp với đế quốc Mỹ trong chiến lƣợc “Chiến tranh

cục bộ”, tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên miền Nam đã có những bƣớc phát

triển trên nhiều mặt. Từ ngày 17 đến ngày 26 tháng 3 năm 1965, Đoàn Thanh niên

Nhân dân Cách mạng Việt Nam (ngày nay là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh) đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất, tại vùng căn cứ kháng chiến Tây

Ninh. Đoàn đại biểu thanh niên miền Đông, bao gồm cả đại biểu thanh niên Biên

Hòa – Đồng Nai do đồng chí Võ Văn Ấn, Bí thƣ Khu Đoàn dẫn đầu đã mang đến

Đại hội những kinh nghiệm tổ chức, động viên thanh niên phát huy vai trò xung

kích cách mạng tại một địa bàn chiến lƣợc, luôn diễn ra sự tranh chấp quyết liệt

giữa ta và địch. Thấu suốt những vấn đề đang đặt ra cho công tác Đoàn và phong

trào thanh niên miền Nam trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội Đoàn Thanh

niên Nhân dân cách mạng Việt Nam đã khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của tổ

chức Đoàn và của đoàn viên, thanh niên trong giai đoạn cách mạng mới là: “Đánh

giặc, sản xuất, xây dựng cuộc sống mới ở vùng giải phóng, đoàn kết và tổ chức, tập

hợp lực lƣợng thanh niên học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành lực lƣợng hậu bị

của Đảng”. Đại hội quyết định phát động sâu rộng trong đoàn viên, thanh niên trên

toàn Miền phong trào “Năm xung phong”, bao gồm:

1. Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch.

2. Xung phong tòng quân và tham gia du kích chiến tranh.

3. Xung phong đi dân công và thanh niên xung phong phục vụ tiền tuyến.

4. Xung phong đấu tranh chính trị và chống bắt lính.

5. Xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông hội.

90

Cùng với phong trào “Ba sẵn sàng” đang dấy lên mạnh mẽ trong thanh niên

các tỉnh miền Bắc, phong trào “Năm xung phong” thực sự đã thể hiện rõ ý chí của

thế hệ thanh niên các tỉnh miền Nam trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nƣớc, không

ngừng phát huy vai trò xung kích cách mạng, luôn đi đầu trong trận tuyến đánh Mỹ

và quyết tâm thắng Mỹ trong mọi tình huống.

Thời kỳ này, thị xã Biên Hòa đƣợc nâng lên thành một đơn vị tƣơng đƣơng

cấp tỉnh, có phiên hiệu là U1, gồm thị xã Biên Hòa và huyện Vĩnh Cửu. Nhƣ vậy,

trên địa bàn Đồng Nai, thời kỳ này có 3 đơn vị hành chính cấp tỉnh: Biên Hòa

(nông thôn), Long Khánh và U1. Bên cạnh U1, tỉnh Biên Hòa có các huyện Long

Thành, Nhơn Trạch, Ban cán sự Cao Su; tỉnh Long Khánh có thị xã Long Khánh

và các huyện Xuân Lộc, Định Quán và huyện Cao Su. Tổ chức Đoàn Thanh niên

Nhân dân cách mạng Việt Nam đƣợc xây dựng theo các đơn vị hành chính, từ cơ

sở đến huyện và cấp tỉnh, kể cả trong thị xã và vùng ven. Đồng chí Phạm Văn

Dũng đƣợc cử làm Bí thƣ Đoàn Thanh niên U1; đồng chí Nguyễn Trung Hiếu tiếp

tục đƣợc giao nhiệm vụ Bí thƣ Tỉnh Đoàn Biên Hòa. Tham gia Tỉnh Đoàn Biên

Hòa còn có các đồng chí Trần Văn Phong, Trần Thị Minh Hoàng...

Thực hiện sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của các Tỉnh ủy, tổ chức Đoàn

Thanh niên Nhân dân cách mạng và Hội Thanh niên Giải phóng Biên Hòa, Long

Khánh và U1 đã tổ chức, động viên đoàn viên, thanh niên trong từng địa phƣơng

“nhận thức rõ mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền

Nam, thống nhất Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng quan điểm đánh lâu

dài, giành thắng lợi cuối cùng, chủ động đánh địch trong mọi tình huống, đồng thời

thấy rõ thời cơ chiến lƣợc, nỗ lực tiến công tiêu diệt địch; khẩn trƣơng xây dựng

phát triển lực lƣợng ta về mọi mặt, nhằm giành một bƣớc thắng lợi quyết định

trong thời gian tƣơng đối ngắn” (1), với khẩu hiệu “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà

diệt”, phấn đấu trở thành “Dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt xe cơ giới”.

Phong trào “Năm xung phong” do Đại hội Đoàn Thanh niên Nhân dân cách

mạng Việt Nam lần thứ nhất phát động nhanh chóng đƣợc triển khai rộng khắp

trong các cơ sở Đoàn, lôi cuốn đông đảo đoàn viên, thanh niên ở cả 3 vùng: vùng

giải phóng, vùng tranh chấp và vùng địch còn tạm chiếm tham gia. Trong đó sôi

nổi nhất vẫn là phong trào thoát ly tham gia các lực lƣợng vũ trang của Miền cũng

nhƣ của các địa phƣơng, góp phần xây dựng, củng cố các đơn vị bộ đội tập trung

của huyện, của tỉnh. Phần lớn các đại đội bộ đội địa phƣơng các tỉnh đều đƣợc

nâng lên thành các tiểu đoàn, đủ khả năng chiến đấu cơ động trên địa bàn, làm

nòng cốt trong chiến tranh nhân dân, nhƣ K8 của Long Khánh; 240 và 260 của

Biên Hòa và 238 của U1. Bộ đội địa phƣơng các huyện cũng đƣợc tổ chức thành

(1) Ý kiến chỉ đạo của Khu ủy miền Đông trƣớc những diễn biến mới trên chiến trƣờng.

91

đại đội. Các huyện Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Xuân Lộc, Định Quán, Cao su Bình

Sơn (C207)... đều thành lập đƣợc các đại đội bộ đội tập trung. Phần lớn các xã đều

thành lập đƣợc một bán đội hoặc một tiểu đội du kích lộ hoặc không lộ. Một số xã

đã phát triển đƣợc cả một trung đội du kích tập trung, nhƣ ở Phƣớc An, một xã

nằm trên vòng cung tỉnh lộ 19, năm 1964, lực lƣợng du kích của xã và cán bộ

phong trào chỉ có 7 ngƣời, đến cuối năm 1964, phát triển lên đƣợc 12 ngƣời.

Nhƣng đến năm 1965, đã phát triển lên thành một trung đội du kích có 27 chiến sĩ

và 1 đại đội dân quân đƣợc trang bị 8 súng, phần lớn đều ở độ tuổi trên dƣới hai

mƣơi. Đặc biệt là sự ra đời của các sƣ đoàn chủ lực Miền, nhƣ Sƣ đoàn 9 đƣợc

thành lập tháng 9–1965, Sƣ đoàn 5 thành lập tháng 11–1965 và sau đó là Sƣ đoàn

7... đều có sự đóng góp tích cực của đoàn viên và thanh niên các địa phƣơng trong

tỉnh. Thanh niên ở nhiều địa phƣơng đã nhờ cả bố, mẹ dẫn đến gặp chi bộ xin cho

đi theo cách mạng chiến đấu chống giặc, dù có phải hy sinh cũng vui lòng, vì “Còn

hơn là để địch bắt đi lính chống lại Đảng, chống lại cách mạng” (lời một bà mẹ khi

dẫn con đến tham gia công tác cách mạng). Khi đƣợc giải thích, do điều kiện chiến

tranh chƣa có đủ trang bị và cấp dƣỡng cho bộ đội, bà con nói: “Chúng tôi sẽ nuôi

bộ đội, trƣớc mắt mỗi gia đình cho con em đi sẽ đảm bảo thóc ăn trong một năm

(khoảng 20 giạ lúa). Còn súng thì anh em tự cƣớp của giặc để trang bị cho mình”.

Đƣợc sự cổ vũ của bà con cô bác, thanh niên càng thêm quyết tâm tòng quân tham

gia các đơn vị vũ trang. Ở nhiều cơ sở, không đợi sự đồng ý của các cơ quan chức

năng, anh em đã tìm cách tự sắm quần áo, sắm thắt lƣng, bình toong và tự gánh

gạo vào rừng tham gia lực lƣợng vũ trang.

Đáng chú ý là phong trào xung phong tham gia lực lƣợng Thanh niên xung

phong Giải phóng các cấp đã đƣợc thanh niên Biên Hòacũng nhƣ Long Khánh và

U1 hƣởng ứng sôi nổi. Thực hiện quyết định của Đại hội lần thứ nhất Đoàn Thanh

niên Nhân dân Cách mạng Việt Nam về việc “Tổ chức các Đội Thanh niên xung

phong công tác phục vụ chiến trƣờng”, một trong 5 mũi của phong trào “Năm xung

phong”, nhiều cán bộ Đoàn các cấp đã trực tiếp về tận cơ sở vừa triển khai Nghị

quyết của Đại hội Đoàn, vừa vận động, tổ chức thanh niên vào đội hình Thanh niên

xung phong Giải phóng. Chỉ sau một thời gian, ở Biên Hòa đã thành lập đƣợc Đội

Thanh niên xung phong Giải phóng tập trung của tỉnh, mang tên “Biên Hòa anh

dũng”. Về sau, Đội Thanh niên xung phong Giải phóng của Biên Hòa đã đƣợc sáp

nhập với Đội Thanh niên xung phong Giải phóng mang tên “Bình Giã chiến

thắng”, trực tiếp phục vụ Sƣ đoàn 5 Quân giải phóng, chiến đấu ngay trên vùng

tam giác sắt, làm nhiệm vụ tải súng đạn, khiêng cáng thƣơng binh, vận chuyển

lƣơng thực và đảm bảo thông tin lƣu động tại trận địa...

92

Thời kỳ đầu mới thành lập, xa sự chỉ đạo của Tổng Đội (1), Thanh niên xung

phong Giải phóng Đội “Bình Giã chiến thắng” phải độc lập tổ chức lực lƣợng, đảm

bảo phục vụ tối đa yêu cầu nhiệm vụ của chiến trƣờng. Đơn vị gặp rất nhiều khó

khăn, thiếu đói triền miên, trong khi luôn phải làm nhiệm vụ ở một chiến trƣờng vô

cùng ác liệt, thƣờng xuyên bị địch chà đi xát lại. Biệt kích, thám báo luôn rình rập,

B52 rải thảm, pháo bầy đánh vào đội hình. Một lần tại trảng Ba Mẫu, máy bay địch

phát hiện, đánh vào đội hình hành quân của đơn vị, làm 2 đội viên Hồng và Nhỏ hy

sinh, khi mở ba lô của 2 ngƣời, anh em chỉ phát hiện đƣợc 3 quả đu đủ làm lƣơng

thực cho cả cuộc hành quân. Nhƣng Thanh niên xung phong Đội “Bình Giã chiến

thắng” vẫn kiên cƣờng bám sát từng trung đoàn bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ

chuyển thƣơng, tải đạn trên cung đƣờng thƣờng xuyên phải vƣợt qua các Quốc lộ

1, 20, tỉnh lộ 3... những nơi kẻ địch thƣờng phục kích đánh chặn. Một lần phải

chuyển 60 thƣơng binh về tuyến sau, gặp lúc địch đang mở trận càn quét vào La

Ngà, Bãi Cát Tiên, phải cắt rừng để tránh đụng đầu địch, vẫn không thoát đƣợc

vòng vây của chúng. Bọn địch mỗi lúc càng áp sát, phi pháo liên tục dội vào đội

hình đơn vị. Định vƣợt qua sông La Ngà để thoát ra khỏi khu vực địch đang càn

quét, lại không tìm đâu ra phƣơng tiện, trong khi dòng sông đang mùa lũ, nƣớc

chảy nhƣ thác đổ, các đội viên Thanh niên xung phong: Trân, Phƣớc, Hoàng... có

sáng kiến, dùng dây võng nối lại vƣợt qua bờ bên kia căng dây để đồng đội bám

theo đƣa từng thƣơng binh qua sông. Do địa hình trống trải, máy bay trinh sát của

địch phát hiện gọi pháo bắn vào đội hình làm 2 đội viên Thanh niên xung phong hy

sinh. Nhƣng không để thƣơng binh bị thƣơng lần thứ hai, các đội viên Thanh niên

xung phong vẫn kiên cƣờng bơi qua bơi lại nhƣ con thoi, dầm mình dƣới nƣớc suốt

3 tiếng đồng hồ để đƣa hết thƣơng binh qua sông. Vừa vƣợt qua sông, chƣa kịp đi

tiếp lại đụng biệt kích địch, tổ trinh sát đi đầu phát hiện lập tức nổ súng diệt ngay 3

tên và triển khai đánh chặn địch, để đơn vị cắt rừng đƣa thƣơng binh ra khỏi vùng

địch phục kích, đến địa điểm tập kết an toàn.

Sau khi Đội Thanh niên xung phong Giải phóng “Biên Hòa anh dũng I” đƣợc

sáp nhập với Đội “Bình Giã chiến thắng” bổ sung cho lực lƣợng Thanh niên xung

phong giải phóng tập trung của Miền, tỉnh Biên Hòa đã thành lập Đội Thanh niên

xung phong “Biên Hòa anh dũng II”, phục vụ nhiệm vụ tại địa phƣơng, chủ yếu

làm nhiệm vụ chuyển tải hàng hóa, súng đạn tại các cửa khẩu.

(1) Thanh niên xung phong Giải phóng miền Nam thành lập theo quyết định của Đại hội Đoàn

toàn Miền lần thứ nhất, với C100 mở đầu. “Bình Giã chiến thắng” là một trong nhiều Đội

của Tổng Đội Thanh niên xung phong Giải phóng Miền. Ngoài ra, ở nhiều địa phƣơng còn

thành lập những đơn vị Thanh niên xung phong Giải phóng của địa phƣơng để phục vụ

nhiệm vụ tại địa bàn.

93

Thực hiện phong trào “Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch”, trong

các tầng lớp thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai luôn sôi nổi khí thế “Tìm Mỹ mà

đánh, tìm ngụy mà diệt”. Từ những ngày đầu khi Mỹ đặt chân đến Biên Hòa –

Đồng Nai, chúng đã vấp phải thế trận chiến tranh nhân dân đã dàn sẵn và phải chịu

những tổn thất ngày càng nặng nề. Đêm 23 rạng 24 tháng 8–1965, đƣợc sự hỗ trợ

tích cực của đội biệt động thị xã Biên Hòa trong việc điều nghiên và chuẩn bị chiến

trƣờng, đoàn pháo binh U1, đoàn pháo binh Miền và Quân khu đã tiến công sân

bay Biên Hòa lần thứ hai, phá hủy 68 máy bay các loại, 8 dàn hoả tiễn, 30 xe ôtô,

22 bồn dầu, tiêu diệt 300 tên lính cả ngụy lẫn Mỹ. Cũng trong tháng 8–1965, hàng

trăm tên Mỹ càn quét vào rẫy K95 đã phải đền tội trƣớc mũi súng của đoàn viên và

thanh niên trong đơn vị vũ trang tỉnh Biên Hòa – C240. Tháng 10–1965, anh Vinh

(Tuấn) một thanh niên công nhân Sở cao su Hàng Gòn, mặc dù chỉ có một mình

vẫn dùng lựu đạn đánh diệt 2 sĩ quan thiết giáp Mỹ và 1 sĩ quan ngụy khi chúng

đang nghiên cứu địa hình để đóng đồn. Ngày 11–11–1965, Lữ đoàn dù 173 của Mỹ

có pháo binh Tân Tây Lan yểm trợ đã mở cuộc hành quân vào đồi Giang Tói, căn

cứ của Tỉnh ủy và Tỉnh đội U1, đã bị đoàn viên và thanh niên Đại đội 238, dựa vào

công sự vững chắc, kiên cƣờng bẻ gãy từng đợt tiến công, diệt và làm bị thƣơng 78

tên Mỹ.

Đối phó với sức mạnh quân sự của Mỹ, đƣợc sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp

ủy Đảng, thanh niên các địa phƣơng đã đẩy mạnh phong trào xây dựng ô, ụ chiến

đấu, nhất là các xã ở dọc tỉnh lộ 17, 19 nhƣ Phƣớc An, Phú Hội; dọc tỉnh lộ 24,

nhƣ Tân Định, Đại An... Tại xã Phƣớc An, phong trào xây dựng ô, ụ chiến đấu đã

phát triển từ năm 1964. Tháng 9–1964, Phƣớc An xây dựng ụ chiến đấu đầu tiên.

Biết tin, địch điều Tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 4 ở Bà Rịa và bọn bảo an gồm

2 tiểu đoàn chia thành nhiều mũi đánh vào ụ. Lực lƣợng du kích địa phƣơng chỉ có

7 tay súng, đều là đoàn viên, thanh niên nhƣng đã mƣu trí, kiên cƣờng bám ụ chiến

đấu, đánh bật nhiều đợt tiến công của địch, diệt và làm bị thƣơng 32 tên địch, trong

đó có 1 tên đại uý đại đội trƣởng.

Nhiều cuộc chiến đấu đã diễn ra hết sức ác liệt xung quanh các ô, ụ chiến đấu.

Quân Mỹ, quân ngụy và quân các nƣớc chƣ hầu quyết tâm san phẳng các ô, ụ chiến

đấu bằng các cuộc hành quân, kết hợp phi pháo đánh phá ác liệt. Thanh niên du

kích các địa phƣơng phối hợp cùng các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện thƣờng xuyên

bám ô, ụ chiến đấu, bẻ gãy nhiều trận càn cấp đại đội, tiểu đoàn của địch, kể cả

những cuộc hành quân của quân Mỹ, có sự yểm trợ của hoả lực mạnh. Tháng 4–

1965, Mỹ – ngụy mở cuộc hành quân càn quét lớn đánh vào căn cứ đội du kích

Phƣớc An. Du kích Phƣớc An dựa vào ô, ụ chiến đấu chống trả địch quyết liệt. Kẻ

địch nham hiểm dùng lựu đạn ném tới tấp vào ụ chiến đấu. Đoàn viên Nguyễn Văn

Minh, chỉ huy đội du kích bình tĩnh cùng các đội viên thoăn thoắt nhặt từng quả

94

lựu đạn ném trở lại vào đội hình địch đang áp sát, gây cho chúng nhiều thƣơng

vong. Bọn địch ngoan cố thay đổi cách đánh, chúng rút chốt lựu đạn, chờ giây lát

khi sắp nổ mới liệng vào ụ chiến đấu. Để bảo toàn tính mạng cho đồng đội,

Nguyễn Văn Minh đã nhanh chóng nằm đè lên quả lựu đạn. Lựu đạn nổ. Minh hy

sinh, nhƣng trận địa đƣợc giữ vững. 112 tên địch, có 2 cố vấn Mỹ bị diệt. Nguyễn

Văn Minh đƣợc Huyện ủy truy tặng danh hiệu đảng viên chính thức của Đảng

Nhân dân cách mạng (Đảng Cộng sản Việt Nam).

Tháng 7–1965, ụ chiến đấu thứ hai của Phƣớc An đƣợc xây dựng tại khu vực

chợ Phƣớc An. Địch hoảng hốt tập trung trên 1.600 tên, gồm cả lực lƣợng Cao Đài

và Sƣ đoàn 18 quyết tâm san phẳng ụ chiến đấu. Lực lƣợng bảo vệ ụ có 14 tay

súng và 2 nữ y tá. Trận đánh không cân sức diễn ra từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều.

Địch dựa vào số đông nhiều lần ồ ạt đánh vào ụ chiến đấu của du kích. Những tay

súng du kích trẻ tuổi, những đoàn viên, thanh niên làm nhiệm vụ bảo vệ ụ chiến

đấu đã bình tĩnh chờ địch tiến đến gần mới nhả đạn. Nhiều tên địch ngã ngay trƣớc

ụ chiến đấu của các chiến sĩ du kích. Cuối cùng chúng phải thu quân. 72 tên bị diệt.

Ta thu một súng tự động và hàng ngàn viên đạn, bắn cháy 1 trực thăng.

Cùng với việc xây dựng các ô, ụ chiến đấu, phong trào đào hầm bí mật để

bám trụ chiến đấu cũng đƣợc đoàn viên và thanh niên các địa phƣơng hƣởng ứng

sôi nổi. Khi địch muốn đánh bật lực lƣợng của ta ra xa các căn cứ của chúng, tổ

chức Đoàn trong các đơn vị bộ đội địa phƣơng huyện, du kích các xã và nhất là lực

lƣợng đặc công U1 đã động viên đoàn viên, thanh niên, dựa vào dân, tổ chức đào

hầm bí mật, kiên cƣờng bám trụ địa bàn để chiến đấu. Chỉ riêng xã Thiện Tân,

trong 6 tháng đầu năm 1966, bộ đội, du kích đã đào 10 hầm bí mật để ém quân, tạo

bàn đạp đứng chân cho lực lƣợng đặc công đánh vào kho tàng và cơ quan đầu não

của Mỹ, ngụy ở Biên Hòa, đặc biệt là trận đánh vào Khu kho liên hợp Long Bình.

Thực hiện chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ”, cùng với việc mở rộng và tiếp tục

xây dựng các căn cứ quân sự, nhƣ căn cứ Sƣ đoàn 101 Mỹ ở Hóc Bà Thức (Biên

Hòa), Hoàng Diệu, Suối Râm (Long Khánh), Nƣớc Trong (Long Thành),...; biến

thị xã Biên Hòa, thị xã Long Khánh thành cụm căn cứ dày đặc của quân Mỹ, quân

chƣ hầu và các dịch vụ phục vụ sĩ quan, binh lính viễn chinh..., đế quốc Mỹ và bè

lũ tay sai đã cho xây dựng Long Bình thành một tổng kho liên hợp có nhiệm vụ

cung ứng toàn bộ các phƣơng tiện chiến tranh của Mỹ cho các chiến trƣờng trên

toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Tổng kho liên hợp Long Bình nằm trên 2 trục Quốc lộ 1 và 15, cách Sài Gòn

30 kilômét về hƣớng đông bắc, với diện tích rộng hơn 40 kilômét vuông, đƣợc bố

phòng hết sức chặt chẽ với hàng chục lớp rào dây kẽm gai có cài lựu đạn và mìn.

Đƣờng hành lang trong kho luôn có xe quân cảnh tuần tra; kho đƣợc trang bị hệ

thống báo động tối tân cùng nhiều đơn vị bảo vệ cả bên trong và bên ngoài khu

95

kho. Đánh phá Tổng kho liên hợp Long Bình không chỉ đánh vào “dạ dày” của

địch mà còn xây dựng một vành đai diệt phƣơng tiện chiến tranh của Mỹ ở Long

Bình. Trọng điểm của trận đánh đƣợc chọn là khu kho đồi 50 và 53.

Dƣới sự chỉ huy của các đồng chí Nguyễn Tấn Vàng và Nguyễn Văn Thái

(Tƣ Già), đoàn viên và thanh niên trong đơn vị đặc công của U1 đã nhanh chóng

nghiên cứu nắm chắc qui luật hoạt động và sự bố phòng của địch trong khu kho.

Trong đó, riêng Bùi Văn Hòa đã nhiều lần vào tận căn cứ địch để điều tra. Bùi Văn

Hòa là một thanh niên nhà nghèo tham gia bộ đội, anh đƣợc phân công về đơn vị

đặc công của U1. Hiền lành nhƣng nhanh nhẹn, Hòa thƣờng đƣợc giao những

nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm, nhƣng anh luôn hoàn thành xuất sắc. Đƣợc giao

nhiệm vụ điều nghiên Tổng kho Long Bình, Hòa đã vƣợt qua mọi bố phòng của

địch, áp sát mục tiêu lên đƣợc sơ đồ chi tiết của khu kho, để đêm 22–6–1966, cùng

với các đoàn viên và thanh niên của đơn vị, Bùi Văn Hòa nhanh chóng dùng mìn

hẹn giờ đánh vào những mục tiêu đã đƣợc lựa chọn, phá hủy 40.000 quả đạn pháo

155 ly của Mỹ, làm chấn động cả thị xã Biên Hòa và cả Sài Gòn, cổ vũ mạnh mẽ

quân dân Biên Hòa cũng nhƣ trên khắp các chiến trƣờng miền Nam đẩy mạnh các

hoạt động vũ trang “tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”.

Để phù hợp với thực tế chiến trƣờng, tháng 11–1966, Trung ƣơng Cục miền

Nam quyết định nhập 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh thành tỉnh Bà Biên

(trừ U1). Tháng 1–1967, Ban chấp hành Tỉnh ủy Bà Biên đã tổ chức Hội nghị đầu

tiên tại căn cứ Cà Mum (Xuân Sơn, Bà Rịa), trong đó khi đề cập đến công tác vận

động thanh niên, Ban chấp hành Tỉnh ủy đã nhấn mạnh: phải vận động rút thanh

niên xây dựng du kích xã, lực lƣợng huyện, tỉnh. Xây dựng Đoàn, xây dựng chi bộ

Đảng mạnh, chủ động công tác... thông qua đấu tranh, chọn ngƣời xây dựng cơ sở

mật, Đảng, Đoàn, xây dựng tổ chức công khai, bán công khai, tập hợp lực lƣợng

quần chúng đấu tranh chống địch.

Cuộc chiến đấu của quân và dân Biên Hòa – Đồng Nai trong giai đoạn đế

quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai thực hiện chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ” đã diễn

ra vô cùng quyết liệt, vừa phải đối phó với những cuộc phản công chiến lƣợc của

đội quân nhà nghề Mỹ, cũng nhƣ quân đội các nƣớc chƣ hầu và quân ngụy Sài

Gòn (1) vừa phải đối phó với những cuộc hành quân càn quét bình định vòng trong,

tiếp tục xúc tát dân gom vào các khu tập trung, lập các ấp tân sinh (ấp chiến lƣợc)

của địch. Những hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Thanh niên, Hội

Học sinh Giải phóng đều tập trung chủ yếu vào việc vận động, tổ chức thanh niên

(1) Mở đầu việc triển khai chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ”, đế quốc Mỹ đã tiến hành liên tiếp 2

cuộc phản công chiến lƣợc: mùa khô lần thứ nhất vào cuối năm 1965 đầu năm 1966 và

mùa khô lần thứ hai từ tháng 9–1966 đến tháng 7–1967.

96

chống lại những hành động chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay

sai, cũng nhƣ đội quân đánh thuê của các nƣớc chƣ hầu.

Đoàn viên và thanh niên ở nhiều địa phƣơng trong tỉnh và cả các em thiếu nhi

ngày càng đƣợc tập hợp, tổ chức trong nhiều hình thức thích hợp, tham gia chiến

đấu, phục vụ chiến đấu. Tại Sở cao su Bình Sơn (Biên Hòa) đƣợc sự chỉ đạo trực

tiếp của chi bộ Đảng, hƣởng ứng phong trào “Việc nhỏ chí lớn” do Đoàn phát

động, 35 em thiếu niên có độ tuổi từ 13 đến 16 đã đƣợc tập hợp, xây dựng thành tổ

chức tự vệ mật vừa làm nhiệm vụ nắm tin tức phục vụ bộ đội đánh địch, vừa làm

giao liên, hậu cần, vừa tổ chức đánh địch, bảo vệ cán bộ bám trụ địa bàn. Đội đã

nhiều lần dùng mìn diệt các xe Thái Lan, đánh lẻ, bắn tỉa vào các chốt Mỹ đóng ở

sở cao su, gây cho địch nhiều thƣơng vong. Ngoài đội du kích thiếu nhi, nhiều

đoàn viên, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, đã đƣợc tổ chức thành mạng lƣới cơ

sở binh vận, hoặc chăm lo công tác hậu cần, đảm bảo nhu cầu lƣơng thực và các

vật dụng cần thiết khác cho lực lƣợng bên ngoài. Nhiều nữ thanh niên đã tích cực

học tiếng Anh, tiếng Thái để tiếp xúc với lính Mỹ, lính Thái Lan, vận động, thuyết

phục để chúng thấy rõ cuộc chiến tranh chống lại nhân dân Việt Nam là một tội ác,

hạn chế đến mức tối đa những hành động tàn bạo của những tên lính viễn chinh và

những tên lính đánh thuê đối với nhân dân trong vùng.

Tại các vùng, các lõm căn cứ, mặc dù ở thế cài răng lƣợc, nhƣng nhiều hoạt

động của Đoàn vẫn đƣợc triển khai, từng bƣớc đi dần vào nề nếp, với nhiều phong

trào hành động thiết thực. Nhiều cơ sở Đoàn của các địa phƣơng đã bằng nhiều

hình thức thƣờng xuyên tổ chức giáo dục đoàn viên, thanh niên nhận rõ tình hình

và nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng, phát huy vai trò xung kích trong từng

nhiệm vụ cụ thể phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhiều cơ sở Đoàn đã tổ

chức cho đoàn viên và thanh niên đẩy mạnh sản xuất tự túc, tham gia công tác xoá

mù chữ... nhất là luôn phát huy vai trò nòng cốt vận động đông đảo thanh niên lên

đƣờng tòng quân giết giặc, bổ sung lực lƣợng cho các đơn vị vũ trang tại chỗ cũng

nhƣ đƣa về bổ sung cho lực lƣợng vũ trang của tỉnh, Quân khu và Miền.

Nhiều cán bộ của Đoàn, của Hội Thanh niên Giải phóng đã đƣợc tăng cƣờng

cùng với các đoàn cán bộ Dân – Chính – Đảng đi sâu vào vùng địch, móc nối, gây

dựng cơ sở, tạo điều kiện phối hợp với các lực lƣợng vũ trang, hỗ trợ đoàn viên và

thanh niên tại các địa phƣơng, kể cả ở vùng tranh chấp và vùng địch còn tạm kiểm

soát, liên tục tiến công, làm thất bại mọi âm mƣu, thủ đoạn tàn bạo của địch. Đáng

chú ý là dù cán bộ Đoàn, cán bộ Hội hay cán bộ các ngành Dân – Chính – Đảng

khi tìm cách móc nối cơ sở đều chú ý trƣớc hết đến tầng lớp thanh niên. Nhiều cơ

sở cốt cán đƣợc xây dựng cũng đều là những thanh niên đủ mọi tầng lớp, mọi đối

tƣợng: học sinh, viên chức, tiểu thƣơng và cả sĩ quan, binh lính ngụy... Chị Huỳnh

97

Lang Anh, lúc này chƣa phải là một cán bộ Đoàn (1), đƣợc cử vào nội thị Biên

Hòađể xây dựng cơ sở. Là một thanh nữ (22 tuổi) nên chị rất dễ gần với lớp trẻ, và

nhận thấy ở lớp trẻ những bản chất tốt đang tiềm ẩn bên trong, nếu biết khơi dậy,

chắc chắn họ sẽ có những đóng góp có ích cho cách mạng, cho kháng chiến. Trong

những năm kháng chiến chống Mỹ, phần lớn thanh niên sống trong vùng địch kiểm

soát đều phải đứng ở 2 mé của chiến tranh: Ta và địch. Chỉ cần bƣớc chệch một

bƣớc đã sang phía bên kia. Đáng chú ý là, mặc dù phải sống trong sự kìm kẹp của

chế độ Mỹ – ngụy, thƣờng xuyên bị đầu độc bởi những thuyết duy linh, nhân vị đồi

trụy, phản động... nhƣng đại đa số thanh niên vẫn không muốn đi lính để chết thay

cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Nếu buộc phải đi lính, họ cũng tìm cách để đƣợc

vào các sắc lính “kiểng”, không phải trực tiếp cầm súng chống lại đồng bào mình.

Bằng trực quan mẫn cảm của một cán bộ hoạt động trong lòng địch, chị Huỳnh

Lang Anh nhận thấy trong các tầng lớp thanh niên đều có một số đông biết sống có

trách nhiệm, chất phác, sẵn sàng nghe theo lẽ phải. Một số khác ít quan tâm đến

thời cuộc, chỉ chí thú làm ăn. Một số ít sống buông thả, đua đòi, dễ sa ngã. Từ

những cảm nhận ban đầu, chị đi sâu tìm hiểu, dần dần móc nối gây dựng cơ sở từ

những thanh niên tích cực, xây dựng họ thành những nòng cốt. Chỉ một thời gian

chị đã xây dựng đƣợc hơn mƣời nòng cốt trong thanh niên học sinh Trƣờng trung

học Ngô Quyền, trong cảnh sát ngụy, tạo điều kiện đi lại hoạt động dễ dàng trong

thị xã. Tiến thêm một bƣớc, chị đã thành lập đƣợc cả một chi đoàn thanh niên

trong Trƣờng trung học Ngô Quyền, với nhiều hoạt động thiết thực, tổ chức rải

truyền đơn tuyên truyền chủ trƣơng, chính sách của cách mạng, đấu tranh vạch trần

tội ác của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai, tổ chức các đêm văn nghệ “Hát cho

đồng bào tôi nghe”... Chi đoàn thanh niên Trƣờng Ngô Quyền còn ra đƣợc tập san

tuyên truyền chống chiến tranh do Mỹ và ngụy quyền tay sai gây ra, chống bắt

lính, chống quân sự hóa học đƣờng...

Cũng với phƣơng pháp tiếp cận, chú trọng trƣớc hết đến đối tƣợng thanh niên,

Hồ Văn Thiệp, một cán bộ phong trào của U1 (Biên Hòa đô thị) khi đƣợc cử theo

một hƣớng vào xây dựng cơ sở trong nội ô thị xã Biên Hòađã xây dựng đƣợc 12 cơ

sở, tạo thành 12 đầu mối nòng cốt, từ đó tổ chức thành những tổ tam tam, cứ mỗi

thanh niên nòng cốt phát triển thêm 2 đối tƣợng thanh niên tích cực khác, hình

thành một nhóm hoạt động độc lập. Mỗi thanh niên tích cực lại phát triển thêm 2

thanh niên khác... Cứ thế tạo thành một mạng lƣới cơ sở, sẵn sàng tổ chức quần

chúng trên địa bàn vào những hoạt động phục vụ kháng chiến, kể cả việc rút lực

lƣợng ra căn cứ bổ sung cho các đơn vị vũ trang, cho các đoàn chuyển tải...

(1) Chị Huỳnh Lang Anh sau này có thời kỳ là Bí thƣ Tỉnh Đoàn.

98

Cùng với việc tổ chức, động viên thanh niên hăng hái tòng quân, kịp thời bổ

sung lực lƣợng cho các đơn vị vũ trang đang phải ngày đêm trực tiếp chiến đấu

chống lại mọi hành động chiến tranh tàn bạo của địch, tổ chức Đoàn trong các lực

lƣợng vũ trang ngày càng lớn mạnh, trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của các cấp chỉ

huy đơn vị. Nhiều cơ sở Đoàn trong các đơn vị vũ trang tập trung của tỉnh, của

huyện đã sáng tạo nhiều hình thức có sức lôi cuốn đoàn viên, thanh niên trong đơn

vị không ngừng rèn luyện nâng cao bản lĩnh chiến đấu. Ở nhiều đơn vị nhƣ Tiểu

đoàn 445, bộ đội tỉnh Bà Biên, đoàn viên, thanh niên không chỉ chiến đấu dũng

cảm, mà còn không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật để đạt hiệu suất

cao trong chiến đấu. Hầu hết đoàn viên, thanh niên trong đơn vị đều tranh thủ mọi

lúc, mọi nơi, giữa hai đợt chiến đấu để rèn luyện từng yếu lĩnh kỹ thuật. Rèn luyện

ngay trong chiến hào, giữa hai đợt phản công của địch. Vì thế, nhiều đoàn viên,

thanh niên trong đơn vị đã trở thành những tay súng cự phách, từng làm kẻ thù

khiếp đảm. Ngoài Đại đội trƣởng Sáu Chí “sừng sững nhƣ trời trồng, quật trung

liên nhƣ mƣa, mà bắn tỉa nhƣ đấm mút cơ tông”, Tiểu đoàn 445 còn có Chín Thắng

có tài bắn trung liên phát một nhƣ bắn súng trƣờng và Nguyễn Văn Quang, với

khẩu đại liên trên tay, đã trở thành một “Triệu Tử Long” của thời đánh Mỹ. Sinh ra

và lớn lên tại miền quê Biên Hòa, ngày nhỏ Quang có tên là Xên. Lên 6 tuổi, cậu

bé Xên đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ sau trận càn của bọn lính “com-măng-đô”

Pháp, phải đi ở làm công cho địa chủ Cả Đình, lại đến chủ đồn điền cà phê Tƣ On.

Ở đâu, cậu bé Xên cũng bị đối xử tàn tệ, bị hành hạ nhƣ thú vật. Thậm chí có lần

đánh chán tay, Tƣ On còn đang tâm ném Xên xuống hố phân bò suốt cả một đêm,

buộc Xên phải tìm đƣờng vào rừng để tìm con đƣờng sống. Chính ở đây, Xên đã

gặp đƣợc ngƣời cần gặp, đƣợc giao làm liên lạc cho tỉnh, kế tục công việc của

ngƣời chiến sĩ giao liên gan dạ có bí danh là Vinh đã hy sinh trƣớc đó. Bởi thế Xên

mới có tên Quang, nhƣ một sự tiếp nối truyền thống ngƣời đi trƣớc. Ở tuổi 20,

Quang trở thành đoàn viên của Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng (nay là

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), anh tình nguyện chuyển sang đơn vị bộ

đội chủ lực của tỉnh, lúc này mang phiên hiệu 45 và đƣợc phân công giữ khẩu súng

đại liên, một cây súng gắn trên xe lội nƣớc của Mỹ, bị Đại đội bắn cháy trƣớc năm

1960. Súng đƣợc dỡ ra, nhƣng lâu nay chƣa đƣợc đem ra sử dụng vì thiếu đạn và

súng lại nặng, khó cơ động. Đƣợc giao giữ khẩu đại liên, Quang đã quyết tâm rèn

luyện, để không những có thể sử dụng thành thạo trong mọi tình huống mà còn đề

xuất ý kiến táo bạo, để một mình anh sử dụng đại liên, kể cả một dây đạn và một

thùng đạn dự bị trên lƣng. Hàng ngày anh say mê luyện tập nắm vững các yếu lĩnh,

từ việc cắp súng vào nách vừa vận động vừa phát hoả đến việc bắn điểm xạ từng

phát một sao cho chính xác. Trong trận đánh phá ấp Phƣớc Thạnh, gặp bọn “da

beo”, đƣợc Đại đội biệt kích 612 ứng cứu, đội hình đơn vị bị chia cắt làm hai,

Quang đã một mình cắp súng vào hông cùng một trung đội bí mật vòng ra phía sau

99

đánh tấp ngang hông làm bọn chúng không kịp trở tay. Tiếp đó, cùng Đại đội

trƣởng Sáu Chí đánh thốc vào chỗ tên chỉ huy đang đứng, cũng với lối bắn “ứng

dụng” rất điệu nghệ, đánh tan cả một trung đội địch đang bảo vệ cạnh sƣờn tên chỉ

huy, góp phần cùng đơn vị diệt gọn 3 trong 4 trung đội “da beo” của địch trong

một trận đánh.

Trong các trận chiến đấu ở Hắc Dịch, ở Phú Lý... với lối đánh táo bạo, một

mình, một súng đại liên, Nguyễn Văn Quang đều gây cho bọn địch nỗi khiếp đảm

triền miên. Khi Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam, trực tiếp đối mặt với đội quân

thiện chiến, đƣợc trang bị đến tận răng của Mỹ, Nguyễn Văn Quang vẫn không hề

ngán ngại, sẵn sàng ôm khẩu đại liên trên tay, chia lửa với đồng đội, tiêu diệt từng

toán lính Mỹ. Trong trận chiến đấu không cân sức để bảo vệ đoàn văn công tỉnh

bất ngờ bị bọn biệt kích Mỹ tiến công, khi toàn Đại đội đã đi công tác đặc biệt ở

vùng sâu, Nguyễn Văn Quang đã cùng Trung đội trƣởng “Bé nện” và Bồng, Vọng,

Quyến... bất chấp lƣới lửa dày đặc của Mỹ, bám sát đội hình địch, chia cắt chúng

ra để tiêu diệt. Với cây đại liên trong tay, Quang đã bẻ gãy hết đợt xung phong này

đến đợt xung phong khác của địch cho tới tận đêm, khi Đại đội kịp tới ứng cứu và

bọn Mỹ cũng dùng trực thăng tới kéo xác lính Mỹ về Sài Gòn. Trận đó, với năm

trăm viên đạn, Nguyễn Văn Quang đã cùng đồng đội tiêu diệt hơn 300 tên lính Mỹ.

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, nguyên ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung

ƣơng Đảng (khóa III), Bí thƣ Trung ƣơng Cục miền Nam những năm 1966 – 1967,

khi nghe kể về cách đánh Mỹ của Quang đã đánh giá: “Đúng là “Triệu Tử Long”

của thời đánh Mỹ, không sử dụng đại đao mà xài đại liên, cắp nách, đuổi Mỹ, diệt

ngụy!”. Về sau, Nguyễn Văn Quang đã đƣợc Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh

hùng Lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Còn ở Đoàn pháo binh Biên Hòa, học tập kinh nghiệm của Hoàng Viết

Tuyên, một pháo thủ số 2 đã nêu kỷ lục lao 40 trái đạn trong một trận đánh. Khi

đƣợc giao nhiệm vụ, là một thanh niên luôn có ý chí vƣơn lên, Kỳ đã ngày đêm tập

luyện cách bê đạn giơ lên, bỏ xuống sao cho chắc, cho nhanh gọn. Anh còn rèn cho

mình đức tính bình tĩnh gan dạ, chịu đựng gian khổ, nhất là cái khổ váng tai, nhức

óc khi bắn. Trong một trận chiến đấu, mới đầu Kỳ phải lấy bông nhét vào hai lỗ

tai, nhƣng màng nhĩ tai anh vẫn rung lên tƣởng muốn nứt rạn. Lao đến trái đạn thứ

20 thì ngƣời anh mệt bã ra, hai cục bông ở tai bật ra lúc nào không biết. Hai tai anh

ù đặc. Kỳ muốn xin thay pháo thủ, nhƣng nhớ lời đồng chí chính trị viên thƣờng

nhắc nhở: “Một giây khi bắn là rất quí giá, nếu để phải thay rất dễ mất thời cơ diệt

địch”, nên mặc dù tay chân rã rời, đầu óc chóang váng, hơi lửa cháy sém cả tóc,

mặt nóng ran, Kỳ vẫn bình tĩnh thoăn thoắt lao từng viên đạn và chỉ trong 15 phút

của trận đánh, anh đã lao tới 50 viên đạn cối 120 ly, vƣợt kỷ lục của Hoàng Viết

Tuyên, góp phần cùng đơn vị diệt 450 tên địch, phá hủy 40 xe pháo. Đáng chú ý là

100

nhiều nữ thanh niên tham gia lực lƣợng vũ trang cũng đã không ngừng nỗ lực rèn

luyện, làm chủ đƣợc cả những vũ khí hiện đại, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Trong

đó có các nữ pháo thủ trong đơn vị nữ pháo binh Biên Hòa, đã nhiều lần tham gia

các trận chiến đấu phối thuộc, bắn chính xác, chặn đứng nhiều mũi tiến công của

địch, gây cho chúng những thiệt hại đáng kể.

Kẻ địch càng tàn bạo, xảo quyệt, quân và dân các địa phƣơng trong tỉnh càng

sáng tạo nhiều cách đánh địch có hiệu quả. Tháng 11–1967, trong 2 ngày 12 và 13,

bọn lính đánh thuê Thái Lan đã tổ chức hành quân 14 lần vào các ấp Phƣớc Thọ,

Phƣớc Lai, Phƣớc Kiển. Tiếp đó, các ngày 14 và 15, chúng càn qua các ấp thuộc

xã Phú Mỹ, gây nhiều tội ác. Quyết tâm chặn đứng hành động của đội quân đánh

thuê Thái Lan, Huyện ủy Nhơn Trạch đã quyết định thành lập “Đội vành đai diệt

Thái”, gồm 28 chiến sĩ, phần lớn đều là đoàn viên, thanh niên, có nhiệm vụ bám

sát, theo dõi, bắn tỉa và đánh chặn kịp thời các hành động càn quét của đội quân

đánh thuê Thái Lan, đồng thời liên tục bao vây các chốt do lính Thái Lan đóng giữ.

Phong trào đánh diệt lính đánh thuê Thái Lan diễn ra hết sức sôi nổi ở hầu khắp

các địa phƣơng. Ngày 25–11, “Đội vành đai diệt Thái” diệt gọn 1 tiểu đội lính Thái

Lan khi chúng rời chốt ở vƣờn Điều đi lùng sục vào ấp Bàu Nâu. Cũng trong ngày

25–11, tại Bình Sơn, 2 em thiếu nhi Lý và Trung tổ chức gài mìn, diệt một lúc 9

tên lính Thái Lan khi chúng lùng sục vào khu vực nhà máy. Ngày 27–11, đơn vị bộ

đội địa phƣơng 240 chặn đánh 1 tiểu đoàn lính Thái Lan càn vào Bàu Bông, diệt 26

tên, làm bị thƣơng 17 tên khác. Ngày 28–11, “Đội vành đai diệt Thái” gài mìn tại

Mả Đen, đánh lật một xe quân sự, diệt 7 tên. Cũng trong ngày 28–11, Đoàn 10

pháo kích vào chốt do lính Thái Lan đóng giữ ở chùa Nƣớc Nhỉ, diệt 4 tên. Ngày

29–11, lính Thái Lan càn vào Phƣớc Thọ, đến miễu Mặt Tăng bị phục kích, chỉ sau

30 phút chiến đấu, 17 tên bị diệt, 2 xe tăng bị phá hủy...

Tháng 12–1967, thực hiện chủ trƣơng chuyển hƣớng chiến lƣợc của Đảng,

các huyện Long Thành, Nhơn Trạch và huyện Cao su Bình Sơn đƣợc sáp nhập với

quận 1, quận 9, nam huyện Thủ Đức, quận Cần Giờ (Sài Gòn), để lập Phân khu 4.

Còn lại U1, gồm thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu, huyện Trảng Bom. Tổ chức

Đoàn Thanh niên trên địa bàn đƣợc kiện toàn theo từng phân khu, trên cơ sở 5 mũi

tiến công đƣợc xác định. Trong đó đồng chí Sáu Biên đƣợc tăng cƣờng cho U1.

Đồng chí Nguyễn Trùng Phƣơng đƣợc giao nhiệm vụ phụ trách tổ chức Đoàn

Thanh niên Phân khu 4. Trên thực tế, cán bộ Đoàn các cấp sau khi nhận nhiệm vụ

đều đƣợc phân công cùng các đoàn công tác đi sâu vào vùng địch gây dựng cơ sở,

chuẩn bị địa bàn cho các hoạt động vũ trang. Đoàn viên, thanh niên các địa phƣơng

thuộc Phân khu 4, kể cả cán bộ lãnh đạo của Đoàn hầu hết đƣợc huy động tham gia

cùng các lực lƣợng vũ trang phân khu đi sâu vào các huyện Thủ Đức, quận 1, quận

9 (Thủ Thiêm) vận động nhân dân nổi dậy diệt ác ôn, tề điệp, bao vây đồn bót, phá

101

rã bộ máy kềm kẹp của địch ở xã, phƣờng... Nhiều cán bộ đã đƣợc bố trí đi theo

con đƣờng hợp pháp để vào hoạt động trong các nội thành, nội thị nhƣ Nguyễn

Trung Hiếu, nguyên Bí thƣ Tỉnh Đoàn Bà Biên trong vai một nhà giáo đã vào hoạt

động ở quận 1 (Sài Gòn), Phạm Điền Sơn, cán bộ Tỉnh Đoàn, đi về huyện Thủ

Đức... Các cán bộ Đoàn các cấp đều đƣợc bố trí bám sát từng hƣớng tiến công.

Đoàn viên Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng ở các địa phƣơng phần lớn đều

đƣợc bổ sung cho các đơn vị vũ trang. Chỉ trong một thời gian ngắn, 250 thanh

niên của Phân khu 4 đã hăng hái lên đƣờng tòng quân, kịp thời bổ sung lực lƣợng

cho các đơn vị vũ trang của phân khu và của T7. Một số đƣợc cử đi phụ trách các

đơn vị dân công hỏa tuyến và trung tuyến làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu theo

các hƣớng tiến công vào nội ô Sài Gòn, phối hợp với Đội Thanh niên xung phong

“Bình Giã chiến thắng”, bám sát các đơn vị bộ đội chủ lực, làm nhiệm vụ tải

thƣơng, vận tải vũ khí, đạn dƣợc. Các đội viên Thanh niên xung phong Giải phóng

cũng nhƣ thanh niên dân công các địa phƣơng bám sát các đơn vị chủ lực Quân

giải phóng, đã ngày đêm bền bỉ chuyển vũ khí, đạn dƣợc từ Chiến khu Đ về cất

giấu ở các kho vừa mới thiết lập xung quanh thị xã Biên Hòa.

Thời kỳ này, Đội Thanh niên xung phong Bình Giã chiến thắng, cũng nhƣ

Liên đội 5 Thanh niên xung phong Giải phóng (1) đƣợc chuyển sang phục vụ

Trung đoàn pháo binh ĐKB, chuẩn bị cho nhiệm vụ tiến công vào sân bay Biên

Hòa và căn cứ Quân đoàn 3 ngụy. Phần lớn đội viên Thanh niên xung phong đều là

nữ. Quá trình phục vụ, sức khỏe của nhiều chị em giảm sút đáng kể, nhiều chị em

bị bệnh. Theo kế hoạch hành quân ra trận, mỗi ngƣời phải mang từ 50kg trở lên.

Nhiều đội viên phải mang choàng 2 suất để bù cho những chị em bị đau ốm, không

để hàng bị ứ đọng. Anh em nêu khẩu hiệu: “Bám trụ chiến trƣờng, bám trụ tuyến

đƣờng”, thƣờng xuyên đảm bảo chỉ tiêu chuyển tải, phục vụ kịp thời các đơn vị

chiến đấu.

Những đoàn viên, thanh niên khác đƣợc tăng cƣờng cho các đội du kích địa

phƣơng, sẵn sàng hỗ trợ nhân dân nổi dậy, bí mật tham gia vận chuyển vũ khí về

cất giấu tại Gò Me, Hiệp Hòa, Bình Đa..., đồng thời xây dựng hầm bí mật để lực

lƣợng biệt động bám trụ đột nhập vào nội ô nắm tình hình, hƣớng dẫn trinh sát Sƣ

đoàn 5, đơn vị chủ lực Quân giải phóng đang hoạt động trên địa bàn, điều nghiên

các mục tiêu trong nội ô thị xã... Thanh niên, học sinh trong các nội thị tham gia

đấu tranh chống địch dƣới nhiều hình thức, tham gia đƣa đón, dẫn đƣờng cho các

mũi tiến công của các lực lƣợng vũ trang cách mạng...

(1) Bao gồm Đội Bình Giã chiến thắng (12.65), Đội Hoàng Lệ Kha (23.11) và Đội Ấp Bắc II

(204).

102

Thực hiện lời kêu gọi của Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đoàn Thanh niên

Nhân dân Cách mạng Việt Nam: “Mỗi cán bộ, đoàn viên và thanh niên trong giờ

phút thiêng liêng này phải đứng ở hàng đầu trong hàng trận chống Mỹ, cứu nƣớc”

(1), đoàn viên và thanh niên trong các đơn vị bộ đội chủ lực cũng nhƣ trong các

đơn vị du kích đều tập trung sinh lực cho chiến dịch, sẵn sàng “Quyết tử cho Tổ

quốc quyết sinh”. Những ngày giáp Tết Mậu Thân 1968, không khí chuẩn bị cho

một trận đánh quyết định càng trở nên khẩn trƣơng. Không một ai nghĩ đến ngày

Tết cổ truyền đang đến cận kề.

Đƣợc lệnh “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa”, đoàn viên và thanh niên trong

các đơn vị tham chiến đều đồng loạt nổ súng tiến công các mục tiêu đã định, trong

sân bay Biên Hòa; Bộ Tƣ lệnh Quân đoàn 3 ngụy; Bộ Tƣ lệnh dã chiến 2 Mỹ; Khu

kho đồi 53 Long Bình; trên sông Lòng Tàu; Bộ Tƣ lệnh hải quân ngụy; chi khu

Thủ Đức, chi khu Nhơn Trạch và kho bom Thành Tuy Hạ... gây nhiều tổn thất cho

địch: một góc sân bay Biên Hòa bị Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, bộ đội đặc công U1 và

Trung đoàn 4 bộ binh đánh chiếm, sau khi sân bay bị Trung đoàn pháo binh ĐKB

724 bắn phá; Bộ Tƣ lệnh Quân đoàn 3 ngụy và Bộ Tƣ lệnh dã chiến 2 Mỹ ở Long

Bình bị Đại đội đặc công và một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 5, Sƣ đoàn 5 tiến

công; Tiểu đoàn 2, bộ đội đặc công U1 tiến công khu đồi 53, Tổng kho Long Bình,

phá hủy 127 kho bom đạn của Mỹ. Đoàn viên và thanh niên Đoàn 10 đặc công

Rừng Sác hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm đánh chìm nhiều tàu địch, làm

chủ sông Lòng Tàu, ngăn chặn việc tiếp tế vũ khí, xăng dầu của địch, trong đó có

tàu trọng tải 10 ngàn tấn, bắn rơi 3 máy bay, bắn cháy 8 xe cơ giới... Nhiều đoàn

viên, thanh niên khi nhận nhiệm vụ đi đánh tàu địch đều xác định có thể sẽ phải hy

sinh, nhƣng tất cả đều sẵn sàng đón nhận và đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Tiêu biểu là đoàn viên, tổ trƣởng Trịnh Xuân Ban, luôn mƣu trí và sáng tạo, đã ra

trận là đánh thắng. Anh đã đƣợc Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực

lƣợng vũ trang nhân dân.

Tại hầu hết các địa phƣơng trong tỉnh, bộ đội địa phƣơng các huyện phối hợp

với lực lƣợng du kích tại chỗ đều mở các cuộc tiến công quyết liệt vào các chi khu,

các đồn bốt của địch, giải phóng nhiều xã, ấp. Có nơi, nhƣ ở khu vực cao su Bình

Sơn đã làm chủ nhà máy, đồn điền, làng xã trong 3 ngày liền. Có cả những địa

phƣơng nhƣ ở xã Phƣớc An, bằng 3 mũi giáp công, kết hợp hoạt động vũ trang với

đấu tranh chính trị và binh vận đã làm chủ ấp đƣợc tới 10 ngày. Trong khi đoàn

viên và thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang đẩy mạnh tiến công địch, tổ chức

(1) Thƣ của Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Việt Nam gửi thanh niên miền

Nam, tháng 1–1968 – Tài liệu lƣu tại Phòng lƣu trữ Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh.

103

Đoàn ở các địa phƣơng đã đi sâu vận động các tầng lớp thanh niên tại các xã, ấp

hăng hái tham gia phục vụ chiến đấu, cáng tải thƣơng binh, đạn dƣợc, tranh thủ

thời cơ, thoát ly tham gia vào các lực lƣợng vũ trang. Tại khu vực cao su Bình Sơn,

gần 100 thanh niên công nhân đã tình nguyện tham gia bộ đội, kịp thời bổ sung

cho lực lƣợng vũ trang huyện, tỉnh. Khi địch phản công quyết liệt, lực lƣợng vũ

trang rút về căn cứ, một số đảng viên, đoàn viên mật và lộ vẫn bám trụ địa bàn tiếp

tục chỉ đạo phong trào.

Cuộc chiến đấu không cân sức đã diễn ra trên hầu hết các hƣớng tiến công.

Kẻ địch điên cuồng tổ chức chống trả quyết liệt. Tiểu đoàn bộ đội chủ lực thuộc

Trung đoàn 5, Sƣ đoàn 5 đánh vào Bộ Tƣ lệnh dã chiến số 2 Mỹ ở Long Bình đã bị

địch cho xe tăng vây kín; Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 đặc công U1 đánh vào sân bay

Biên Hòa hầu hết đều bị thƣơng vong, chỉ còn lại 1 chiến sĩ. Tại Long Khánh, sáng

ngày 2–2, Mỹ sử dụng 90 xe tăng từ Suối Râm xuống phản kích dữ dội, bắn phá ác

liệt các vị trí bị quân ta bao vây để giải toả thị xã... Cuộc chiến đấu mỗi lúc càng

trở nên khó khăn. Đoàn viên và thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang đều phải

bám từng góc tƣờng, từng ụ đất để chống lại một lực lƣợng địch đông gấp bội, có

xe tăng và phi pháo yểm trợ tối đa. Nhiều chiến sĩ đã phải bắn đến viên đạn cuối

cùng. Nhƣng không một ai rời vị trí. Càng chiến đấu càng trƣởng thành, càng bộc

lộ rõ phẩm chất một thế hệ thanh niên cầm súng. Anh em nêu quyết tâm “còn

ngƣời còn trận địa” còn kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tiêu biểu nhƣ chiến sĩ

Có, một đoàn viên thanh niên còn rất trẻ, đã một mình dùng súng B40 bắn cháy 3

chiếc thiết giáp địch, trƣớc khi trúng đạn hy sinh. Còn đoàn viên và thanh niên Đại

đội 9, Tiểu đoàn 2 đặc công U1 tiến công vào khu kho ở cao điểm 50, 53 trong

Tổng kho Long Bình, sau khi phá hủy hàng chục dãy kho bom, nhiên liệu của Mỹ,

đã bị bọn địch cho một trung đoàn xe tăng hàn kín lối ra vào khu kho, cho máy bay

trực thăng vũ trang vừa rọi đèn pha, vừa bắn phá ác liệt xuống trận địa. Cả Đại đội

bị kẹt lại trong khu kho suốt 7 ngày đêm. Đoàn viên và thanh niên trong đơn vị đã

phân tán thành từng tổ, bám vào các dãy kho còn lại, đánh trả quyết liệt từng đợt

phản kích của địch. Trong đó, riêng đoàn viên Bùi Văn Hòa, một thanh niên gan dạ

và mƣu trí, luôn tạo đƣợc lợi thế để tiến công địch, dù chúng đến từ hƣớng nào.

Cũng nhƣ nhiều đoàn viên, thanh niên khác, anh đã chiến đấu đến viên đạn cuối

cùng và hy sinh anh dũng. Cả Đại đội chỉ còn lại một chiến sĩ và đồng chí Đại đội

trƣởng trở ra đƣợc. Sau này, Đại đội 9 đặc công U1 và Bùi Văn Hòa đã đƣợc Đảng

và Nhà nƣớc truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Đoàn viên và thanh niên du kích tại các địa phƣơng trong điều kiện phải đối

mặt với những đội quân nhà nghề Mỹ và bè lũ tay sai, đƣợc trang bị hiện đại cũng

đã không ngừng sáng tạo nhiều cách đánh địch hết sức táo bạo. Xã đội trƣởng

Nguyễn Quyết Chiến, chỉ với một tổ 3 ngƣời, nhƣng đã 3 lần dùng mìn ĐH và tiểu

104

liên tiêu diệt 1 trung đội lính ngụy và 2 trung đội Mỹ. Với thành tích đó, sau Chiến

dịch Xuân Mậu Thân 1968, Nguyễn Quyết Chiến đã đƣợc phong tặng danh hiệu

Anh hùng Lực lƣợng vũ trang nhân dân. Kể cả những thanh niên ngƣời dân tộc,

nhƣ Điểu Cải, ngƣời con của dân tộc Châu Ro, đều trở thành những chiến sĩ đánh

Mỹ, diệt ngụy hết sức sáng tạo. 16 tuổi (Điểu Cải sinh năm 1948) gia nhập đội du

kích. Trở thành xã đội trƣởng xã Túc Trƣng (nay là xã Phú Túc, huyện Định Quán,

Đồng Nai) Điểu Cải đã từng nhiều lần cùng đội du kích tổ chức phục kích đánh

địch dọc Quốc lộ 20, đẩy địch vào thế co cụm. Với giọng hát hay và biệt tài hóa

trang, Điểu Cải thƣờng giả dạng cảnh sát ngụy hoặc ngƣời hát rong đột nhập về

làng rải truyền đơn, tuyên truyền cho đội du kích. Khi bọn địch đánh hơi tìm đến,

anh đã biến mất dạng. Chỉ với 3 lần cải trang nhƣ thế, Điểu Cải đã diệt gọn 24 tên

bình định và dân vệ tại bốt Cây Xăng chợ Túc Trƣng. Các địa danh dọc Quốc lộ

20, từ cây số 86 đến 99, nhƣ ấp Chợ, Thái Hòa, Đức Thắng... liên tục bị đội du

kích của Điểu Cải tiến công. Sau những tiếng súng nổ chỉ thấy xác bọn giặc nằm la

liệt, không hề thấy bóng một du kích nào. Với tài xuất quỉ nhập thần, thoắt ẩn thoắt

hiện, Điểu Cải và đội du kích của anh luôn là nỗi kinh hoàng của bọn địch trong

vùng. Bọn địch ở chi khu Kiệm Tân đã tung hàng trăm thám báo lùng sục quanh

vùng để tìm tung tích của “tên du kích trẻ con” mà nhân dân thƣờng tôn xƣng là

“Kòn Trô” (1). Đầu năm 1968, bọn địch phát hiện đƣợc căn cứ du kích Bình Hòa

của Cải, chúng cho phi pháo bắn phá ác liệt để dọn đƣờng cho bộ binh càn vào căn

cứ, Điểu Cải đã chỉ huy đội du kích gồm 6 ngƣời đều là thanh niên, lợi dụng địa

hình phức tạp, phục kích đánh địch từ sáng đến chiều. Cả tiểu đoàn biệt động Mỹ

với trang bị đầy đủ vũ khí vẫn không thể đột nhập đƣợc vào căn cứ của du kích,

phải lui quân, để lại 31 xác lính Mỹ chết, 30 tên khác bị thƣơng.

Nhiều thanh, thiếu niên trong vùng đã rủ nhau vào rừng theo quân của anh

Cải ngày càng đông. Đội du kích của Cải phát triển nhanh chóng, có thể đánh

thẳng vào cả yếu khu Bình Hòa, làm chủ mấy giờ liền. Trong khí thế tiến công và

nổi dậy, tháng 6–1968, chỉ với 1 khẩu AK, Điểu Cải vẫn dám đánh và quyết đánh

địch, bắn rơi một máy bay thám thính của chúng trên Quốc lộ 20, diệt 2 tên Mỹ đi

trên máy bay. Tháng 11 cùng năm, Điểu Cải còn bắn rơi 1 máy bay trực thăng Mỹ

ở Gia Kiệm, diệt 3 tên địch. Một lần khác, anh cùng 3 chiến sĩ du kích trong đội

dùng mìn chống tăng đánh 3 xe tăng địch gần cầu Tam Bung, diệt 24 tên Mỹ trên 3

xe tăng. Về sau, do có chỉ điểm, trên đƣờng đi công tác Điểu Cải đã sa vào bãi mìn

gài sẵn của địch và hy sinh. Anh đƣợc Nhà nƣớc truy tặng danh hiệu Anh hùng

Lực lƣợng vũ trang nhân dân năm 1978.

(1) Kòn Trô, một danh hiệu cao quí, theo quan niệm của ngƣời Châu Ro có nghĩa là con trời,

ngƣời trời, những ngƣời siêu phàm.

105

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thật sự đã có tác động

sâu sắc, làm chuyển biến cục diện trên chiến trƣờng, buộc đế quốc Mỹ phải xuống

thang chiến tranh, chấm dứt đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân và

chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Pari. Chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ” bị phá

sản, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lƣợc, thực hiện “Việt Nam hóa chiến

tranh”.

III. THỰC HIỆN DI CHÖC THIÊNG LIÊNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ

CHÍ MINH VĨ ĐẠI, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “VIỆT

NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ.

Thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, đế quốc Mỹ mƣu toan mở

rộng và kéo dài chiến tranh ở Việt Nam với 4 mục tiêu, trong đó mục tiêu “Bình

định cho đƣợc nông thôn, kiểm soát đƣợc tuyệt đại bộ phận đất đai và dân số”

đƣợc chúng xem là quan trọng hàng đầu, là nhân tố sống còn. Các đoàn bình định

(mỗi đoàn 59 tên) đƣợc chúng tung về tận xã, ấp. Mỗi tỉnh, chúng thành lập một ủy

ban phƣợng hoàng nhằm “diệt và vô hiệu hóa hạ tầng cơ sở Việt Cộng, bình định

quần chúng nhân dân”. Tại các xã, phƣờng, chúng thành lập các “trung tâm điều

hợp”, cục cảnh sát và khối hành chính làm công cụ chủ yếu cho công tác bình định.

Tại Biên Hòa, Long Khánh, địch thành lập 2 hội đồng bình định do 2 tên tiểu

khu trƣởng trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Chúng tổ chức phản kích ác liệt ở vùng bắc

Trảng Bom, nam bắc Quốc lộ 1, bắc sông Đồng Nai, đông tây tỉnh lộ 2, khu lòng

chảo Nhơn Trạch... Quân viễn chinh Mỹ, quân ngụy và quân các nƣớc chƣ hầu Öc,

Thái Lan liên tục tổ chức các cuộc hành quân càn quét, kết hợp sử dụng bom B52

rải thảm, pháo bầy và xe cơ giới ủi phá rừng ở khu lòng chảo Nhơn Trạch, Cây

Gáo, Bàu 17, Bàu Sình, Bàu Hàm, Vũng Rễ (Vĩnh Cửu)... Các địa bàn đứng chân

của lực lƣợng cách mạng ở Hƣng Lộc, Hƣng Nghĩa, Trảng Bom, Cẩm Đƣờng,

Suối Cả, Sông Buông... thƣờng xuyên bị đánh phá ác liệt.

Đi đôi với việc tăng cƣờng kiểm soát, theo dõi phát hiện cán bộ, cơ sở cách

mạng, địch ra sức tăng cƣờng bắt lính, đôn quân. Nam thanh niên từ 17 tuổi trở lên

đều bị chúng cƣỡng ép vào các sắc lính. Kể cả những ngƣời đã 50 tuổi cũng bị

chúng bắt vào phòng vệ dân sự, bắt luyện tập quân sự và làm nhiệm vụ canh gác ở

xóm ấp, từ đó đôn lên bảo an và bổ sung cho các đơn vị chính qui.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam, tiếp tục “xốc tới tổng

công kích, tổng khởi nghĩa trên cả vùng”, quân và dân Biên Hòa, Long Khánh đã

liên tục tổ chức các đợt tiến công địch với nhiều cách đánh sáng tạo, mƣu trí và hết

sức kiên cƣờng dũng cảm. Tại địa bàn thị xã Biên Hòa, mặc dù địch tăng cƣờng

phòng thủ nghiêm ngặt nhƣng nhờ có hàng loạt hầm bí mật ở Gò Me, Lân Thành

106

(nội ô thị xã) làm nơi đứng chân, đoàn viên, thanh niên trong đội biệt động và lực

lƣợng chủ lực đã bám trụ, tổ chức nhiều trận đánh táo bạo vào những mục tiêu

quan trọng trong thị xã nhƣ sân bay quân sự Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, Quân

đoàn III ngụy...

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của quân và dân cả nƣớc ta

đang bƣớc vào giai đoạn quyết định thì ngày 2–9–1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh,

lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng

sản quốc tế, ngƣời sáng lập Đảng, Nhà nƣớc, quân đội và Đoàn ta, ngƣời thầy,

ngƣời Bác vô cùng kính yêu đã đào tạo, bồi dƣỡng các thế hệ thanh niên Việt Nam

thành những chiến sĩ cách mạng kiên cƣờng, đã vĩnh biệt chúng ta!

Cũng nhƣ quân và dân trong tỉnh, thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai chƣa một

lần có vinh dự đƣợc gặp Bác Hồ, nhƣng hình ảnh vị cha già dân tộc đã ăn sâu trong

tâm trí mỗi ngƣời. Tháng 3–1946, đồng chí Điểu Xiển, ngƣời con của dân tộc

Châu Ro, đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên đƣợc nhân dân Đồng Nai bầu ra trong

ngày 6–1–1946, trên đƣờng ra Hà Nội dự khóa họp lần thứ nhất, không may bị sa

vào tay thực dân Pháp. Không khuất phục đƣợc bằng mua chuộc, cực hình, kẻ địch

hèn hạ giết chết đồng chí. Thanh niên Châu Ro cùng bà con cô bác ở Định Quán

thƣơng tiếc đã làm lễ truy điệu ngƣời con của quê hƣơng và cùng nhau cắt máu ăn

thề, chuyển từ họ Điểu sang họ Hồ, khẳng định trƣớc sau nhƣ một sống chết theo

Bác Hồ, một lòng một dạ: “Ngƣời Châu Ro không ăn cơm hai nồi, không ăn ở hai

lòng, sống chết chỉ theo Bác Hồ”.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết, đất nƣớc tạm chia làm hai miền, tín

phiếu Cụ Hồ có in hình của Bác không còn đƣợc sử dụng trong vùng kiểm soát của

địch, nhiều thanh niên trong tỉnh đã tìm cách cất giấu tờ tín phiếu nhƣ một kỷ vật

vô giá của đời mình. Đồng chí Ngô Bá Cao, nguyên Bí thƣ Tỉnh ủy Biên Hòa, bị

địch bắt năm 1959 và bị kết án tử hình, trong xà lim ngục tối vẫn một lòng sắt son

tin tƣởng:

... Mặc án tử hình giặc buộc con

Lời Bác còn đây dạ sắt son

Còn dân, còn Đảng, còn non nước

Con vẫn bên Cha mãi mãi còn...

Đồng chí Cẩm Y, một đảng viên trẻ, cán bộ thị xã Biên Hòa, bị địch bắt trên

đƣờng đi công tác đêm 1–9–1968. Qua nhiều nhà lao, bị địch tra tấn cực hình, chị

vẫn một lòng sắt son với cách mạng. Với chị, cũng nhƣ với những chiến sĩ cách

mạng khác: “Hình ảnh thiêng liêng và sâu nặng nghĩa tình in đậm trong tim ngƣời

cộng sản là hình ảnh của Bác. Chính trong những lúc đứng trƣớc thử thách đối mặt

với kẻ thù thì hình ảnh của Bác Hồ càng trở nên thiêng liêng gần gũi, rực sáng nhƣ

107

vì sao dẫn đƣờng, có sức mạnh cổ vũ, khích lệ lòng dũng cảm, sự hy sinh không hề

tiếc xƣơng máu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và ƣớc mơ hoài bão của

Ngƣời...” (1).

Bác Hồ qua đời là một tổn thất lớn lao đối với mỗi đoàn viên và thanh niên,

cũng nhƣ đối với toàn dân tộc. Với những đoàn viên và thanh niên đang trực tiếp

cầm súng chiến đấu trên các chiến trƣờng miền Nam càng thấy “mình có lỗi, vì

chƣa giải phóng đƣợc miền Nam để kịp đón Bác vào thăm đồng bào, đồng chí của

Nam bộ Thành đồng” (2). Đoàn viên, thanh niên Tiểu đoàn 445, bộ đội địa phƣơng

Bà Rịa – Long Khánh, vào thời điểm những tháng cuối năm 1969 đang phải đối

phó với chiến thuật ụ ngầm của đội quân đánh thuê Öc tại vùng Long Đất (3). Vừa

ra quân trận đầu không thành công thì đƣợc tin Bác Hồ qua đời, cả Tiểu đoàn nhƣ

đều nghẹn ngào trong nƣớc mắt. Sau lễ truy điệu Bác tại căn cứ, đêm 21–9 và đêm

28–9, các chiến sĩ Tiểu đoàn 445, lần lƣợt chia thành nhiều tổ dùng kỹ thuật đánh

đặc công, bí mật áp sát, đƣa thủ pháo vào lỗ châu mai của các ụ ngầm. Bị bất ngờ,

bọn địch không kịp phản ứng. Các ụ ngầm tinh quái của đội quân hoàng gia Öc lần

lƣợt bị phá tan. Đến tháng 10–1969, 25 trên 36 ụ ngầm của địch đã bị phá, tạo điều

kiện dễ dàng cho nhân dân bung ra sản xuất, cán bộ, bộ đội đột nhập đƣợc vào ấp,

gây dựng và phát triển phong trào quần chúng.

Còn ở Đồn điền Cao su Courtenay (nay là Nông trƣờng Cao su Cẩm Mỹ) có

một con đƣờng nối từ liên tỉnh lộ 2 xuyên qua những lô cao su, qua cánh rừng già

tới Cổng Trắng, Nha Trào. Sau Cách mạng tháng Tám – 1945, khi trở lại chiếm

Đồn điền, tiến hành khủng bố trắng, lùng bắt đƣợc cán bộ cách mạng, giặc Pháp

thƣờng mang ra xử bắn tại con đƣờng này. Trƣớc khi ngã xuống, các cán bộ, chiến

sĩ cách mạng thƣờng hô vang khẩu hiệu: “Hồ Chí Minh muôn năm”, thể hiện khí

phách kiên trung bất khuất trƣớc kẻ thù, truyền lại niềm tin tất thắng cho bao lớp

ngƣời sau. Nhiều chiến sĩ cách mạng của vùng cao su Cẩm Mỹ không ngại hy sinh,

vẫn kiên cƣờng bám trụ dọc theo tuyến đƣờng để hoạt động, móc nối cơ sở, tuyên

truyền giác ngộ quần chúng, tổ chức nhiều trận đánh địch táo bạo nhƣ trận đánh

thắng giòn giã mở đầu phong trào Đồng khởi năm 1960, hoặc nhƣ trận đánh dinh

điền Bình Phú của Đội vũ trang tuyên truyền cao su A... Có những chiến sĩ bám

tuyến đƣờng từ khi tuổi còn niên thiếu nhƣ Nguyễn Thị Thoại, là một trong những

(1) Những ngày kỷ niệm và lịch sử – Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai, 2000, trang 89.

(1) Lời của chị Cẩm Y, nguyên Thƣờng vụ Thành ủy Biên Hòa– Bác Hồ với Đồng Nai, Đồng

Nai với Bác Hồ – Tỉnh ủy Đồng Nai; 2002, trang 249.

(2) Long Đất trong kháng chiến chống Mỹ có thời kỳ thuộc tỉnh Bà Biên (Bà Rịa – Biên Hòa).

Sau này, từ 1991 trở về trƣớc thuộc tỉnh Đồng Nai. Hiện nay thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu.

108

thiếu niên tham gia cách mạng sớm nhất của Cẩm Mỹ, từng bị địch cầm tù ở Côn

Đảo suốt mƣời lăm năm, cũng đã từng nhiều lần bám theo tuyến đƣờng tìm cách

bắt mối liên lạc với nhiều cán bộ cách mạng, trong những ngày đế quốc Mỹ và

ngụy quyền Sài Gòn đang tiến hành khủng bố trắng với các chiến dịch “tố cộng,

diệt cộng” tàn bạo. Những lúc ấy và cả sau này, khi bị giam cầm trong nhà tù đế

quốc, hình ảnh Bác Hồ với nụ cƣời hiền hậu, ánh mắt tinh anh đầy khích lệ mà

Thoại chỉ đƣợc xem qua một tấm ảnh, vẫn có sức cổ vũ sâu sắc, luôn nhắc nhở

Thoại bền gan, vững chí...

Cứ thế, con đƣờng gắn bó với nhiều cán bộ, chiến sĩ cách mạng vùng Cẩm

Mỹ, trở thành con đƣờng Hồ Chí Minh tự lúc nào cũng không ai biết rõ. Chỉ biết

trong tâm trí nhiều thanh niên công nhân và bà con cô bác vùng Cẩm Mỹ luôn hiện

hữu một con đƣờng mang hình ảnh sáng ngời niềm tin của Bác Hồ để họ có thể

vƣợt qua mọi thử thách cam go và đứng vững. Ngày Bác mất, cả ngàn công nhân,

cán bộ, bộ đội đã đổ ra tuyến đƣờng để tƣởng nhớ Bác, nhƣ một sự khẳng định tấm

lòng của ngƣời dân cao su đi theo con đƣờng Bác Hồ đã chọn.

Trong từng chiến hào, trong mỗi xóm ấp và cả trong ngục tối của kẻ thù, hình

ảnh của Bác luôn có sức cổ vũ mạnh mẽ đoàn viên và thanh niên không ngừng nêu

cao ý chí, nguyện “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gƣơng Bác Hồ vĩ

đại!”.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3–2–1930 – 3–2–1970),

thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ, thể theo nguyện vọng của tuổi trẻ cả

nƣớc và theo đề nghị của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Ban Chấp hành

Trung ƣơng Đảng (khóa III) đã ra Nghị quyết cho phép tổ chức Đoàn Thanh niên,

tổ chức Đội Thiếu niên, Đội Nhi đồng đƣợc mang tên Bác.

– Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam nay là Đoàn Thanh niên Lao động Hồ

Chí Minh.

– Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam nay là Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ

Chí Minh

– Đội Nhi đồng Việt Nam nay là Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh.

Từ ngày 30–6–1970, tổ chức Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng và tổ

chức Đội Thiếu niên, Đội Nhi đồng miền Nam cũng đƣợc chính thức mang tên

Bác.

Nhận rõ niềm vinh dự to lớn, Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách

mạng Hồ Chí Minh phát động rộng rãi trong đoàn viên và thanh niên toàn Miền

phong trào hành động “Tuổi trẻ thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ”.

109

Cuối năm 1969 đầu năm 1970, tình hình trên chiến trƣờng Phân khu 4 cũng

nhƣ ở U1 và Bà Rịa – Long Khánh đặc biệt gặp nhiều khó khăn. Kẻ địch ra sức

thực hiện bình định nông thôn một cách quyết liệt, tàn bạo. Chúng bằng mọi cách

ủi phá, rải chất độc hóa học khai quang hết khu rừng lòng chảo Nhơn Trạch đến

khu Rừng Sác. Khu lòng chảo bị xẻ ngang cắt dọc thành nhiều mảnh. Các cửa khẩu

hậu cần ở Phƣớc Thái, Long Phƣớc thƣờng xuyên bị địch phục kích, gây cho ta

nhiều khó khăn.

Trong điều kiện đánh phá quyết liệt của địch, tổ chức Đoàn các cấp của U1,

Phân khu 4 cũng nhƣ của Bà Rịa – Long Khánh, thực hiện Di chúc thiêng liêng của

Bác Hồ, một mặt đƣa hầu hết cán bộ lên tuyến trƣớc, động viên thanh niên giữ

vững ý chí chiến đấu, phát huy khí thế tổng công kích, tổng khởi nghĩa; móc nối

khôi phục, phát triển từng cơ sở, một mặt khác tổ chức thanh niên tham gia xây

dựng hàng loạt hầm bí mật để các đơn vị vũ trang của tỉnh, của huyện có thể bám

trụ đánh địch dài ngày. Riêng ở ấp Bình Quan, xã Hiệp Hòa (thị xã Biên Hòa) đã

đào đƣợc 40 hầm bí mật. Tổ chức Đoàn ở nhiều địa phƣơng đƣợc khôi phục, trực

tiếp tổ chức thanh niên thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng bộ địa phƣơng

vạch ra, nhất là trong việc xây dựng, phát triển lực lƣợng du kích ở địa phƣơng,

đảm bảo hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh chính trị của bà con cô bác chống

lại chính sách bình định tàn bạo, chống gom dân lập vành đai trắng của địch.

Hầu hết đoàn viên, thanh niên đều nêu cao ý chí “một tấc không đi, một ly

không rời”. Thời kỳ 1969 – 1970, trên chiến trƣờng Đông Nam bộ cũng nhƣ toàn

chiến trƣờng miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ra sức đẩy mạnh

chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trên hƣớng Rừng Sác và Phân khu 4, địch

bao vây cả trên bộ và trên sông. Nhiều chiến sĩ đi tải gạo lọt vào ổ phục kích của

giặc bị thƣơng, bị hy sinh, có Đại đội quân số chỉ còn 13 – 15 chiến sĩ. Địch ruồng

bố gắt gao. Việc rút thanh niên bổ sung cho các đơn vị gặp khó khăn. Cuộc chiến

đấu chống phá kế hoạch bình định của địch, phát triển phong trào làm chủ xã, ấp

trở thành một thử thách không chỉ đối với những cán bộ, đảng viên, đoàn viên,

thanh niên bám sát ở cơ sở. Hầu hết các đơn vị vũ trang tập trung cũng phải không

ngừng bám dân, xây dựng cơ sở để đứng chân. Vừa phối hợp đánh địch ruồng bố,

tổ chức Đoàn Thanh niên ở nhiều đơn vị đã động viên đoàn viên, thanh niên phát

huy tinh thần chủ động móc nối, xây dựng cơ sở trong dân. Riêng Đoàn 10 đặc

công Rừng Sác đến cuối năm 1970 đã xây dựng đƣợc 200 cơ sở ở Phƣớc Khánh,

Phƣớc Lý, bƣớc đầu tạo đƣợc cơ sở hậu cần và làm nhiệm vụ trinh sát cho Đoàn.

Nhờ đó, trong chiến dịch CD, đoàn viên và thanh niên Đoàn 10 đã góp phần đánh

thắng địch 57 trận, bắn chìm 50 tàu các loại, trong đó có một tàu trọng tải 23.000

tấn trên sông Lòng Tàu. Đoàn viên, thanh niên bộ đội đặc công U1, Đoàn 274

ĐKB đã cùng đơn vị nhiều lần đánh tập kích, pháo kích vào sân bay Biên Hòa,

110

Tổng kho Long Bình, căn cứ Nƣớc Trong... phá hủy hàng chục lô cốt, nhiều dãy

nhà lính, bắn cháy 4 kho dầu, trong đó có một kho chứa 12 triệu lít xăng và 5 tàu

dầu với sức chở 58.000 tấn.

Trong điều kiện gian khổ, ác liệt, đoàn viên, thanh niên càng tỏ ra vô cùng

ngoan cƣờng dũng cảm, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Đoàn viên Đoàn Thanh Châu,

chiến sĩ tiểu đoàn bộ đội Phân khu 4 một mình bắn 7 quả B40, đã hạ 7 xe tăng

địch. Đội trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh với lực lƣợng chỉ 3 đồng chí, nhƣng

đã có những hoạt động hết sức táo bạo. Đội đƣợc thành lập tháng 5–1968, đã kiên

trì bám đất, bám dân, dũng cảm và mƣu trí, lấy vũ khí địch đánh địch, nhiều lần táo

bạo đột nhập vào thị xã và các ấp vùng ven ngay giữa ban ngày, diệt ác phá kìm,

xây dựng cơ sở mật và lộ. Tiêu biểu là trận đánh vào quán Ly Ly nằm sâu trong

nội ô thị xã đêm 4–11–1970, diệt tên Sáu Bá ác ôn khét tiếng. Mặc dù địch phòng

thủ gắt gao, cả đội vẫn cải trang vƣợt qua lƣới phòng thủ của địch luồn sâu vào nội

ô dùng tạc đạn đánh sập quán Ly Ly, diệt 11 tên, trong đó có 2 tên Mỹ, 1 tiểu đoàn

trƣởng xây dựng nông thôn, 3 cảnh sát đặc biệt, 1 phó chi cảnh sát, 1 đại uý tình

báo tiểu khu, 3 trung uý tình báo khu 33. Trên đƣờng trở về căn cứ, cả đội lọt vào ổ

phục kích của địch, trúng mìn do địch gài sẵn. Đoàn viên thanh niên Nguyễn Văn

Ngọc bị thƣơng gãy 2 chân, đoàn viên Nguyễn Thanh Xuân bị gãy một chân và bị

thƣơng ở bụng; Lƣơng Văn Thọ, đội trƣởng bị thƣơng ở tay và cháy một nửa

ngƣời. Trƣớc tình hình đó, hai đoàn viên Ngọc và Xuân đã tình nguyện ở lại chiến

đấu để đồng chí đội trƣởng tìm đƣờng về địa phƣơng gần đó nhờ giúp đỡ. Ngọc và

Xuân đã gom hết số vũ khí lại xung quanh mình, nằm tựa vào nhau để đối phó với

mọi hƣớng tiến công của địch. Nghe tiếng mìn nổ, bọn địch phát hiện đƣợc hƣớng

rút của đội biệt động đã tổ chức tiến công dồn dập. Hai đoàn viên Ngọc và Xuân đã

chiến đấu liên tục 4 tiếng đồng hồ, bắn hết 20 băng đạn. Khi địch áp sát, cả hai đã

dùng thủ pháo đánh trả quyết liệt cho đến lúc hy sinh, sau khi đã diệt đƣợc 11 tên

và làm bị thƣơng 12 tên bảo an khác, trong đó có 1 tên đại uý Mỹ.

Sau này, năm 1976, Đội trinh sát vũ trang của thị xã Long Khánh đã đƣợc

Đảng và Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Trên mặt trận đấu tranh chính trị và binh vận, đoàn viên và thanh niên xã Suối

Cát, khi địch bắn pháo làm bị thƣơng ngƣời dân, đƣợc sự chỉ đạo của chi bộ Đảng,

đã cùng khiêng ngƣời bị thƣơng lên đồn địch, sau đó kéo về thị xã Long Khánh

đấu tranh đòi bồi thƣờng. Thanh niên còn tham gia rải hàng trăm nghìn truyền đơn,

thông lệnh giải tán phòng vệ dân sự, trong đó có 5.000 truyền đơn bằng tiếng Anh,

tiếng Thái đã đƣợc rải khắp vùng Long Thành, nơi lính chƣ hầu Thái Lan đóng

quân, góp phần hạn chế sự đánh phá của chúng. Mặt khác, một số quân Thái, nhờ

đó hiểu rõ và đồng tình với các cuộc đấu tranh của nhân dân địa phƣơng đã không

đàn áp.

111

Năm 1971, sau khi chiến trƣờng đƣợc bố trí lại thành hai phân khu: Phân khu

Bà Rịa và Phân khu Thủ Biên, thực hiện chủ trƣơng của Thị ủy Biên Hòa xây dựng

các bàn đạp từ nhiều hƣớng để móc nối cơ sở từ nội thành ra huấn luyện, Thị Đoàn

Biên Hòa đã tập trung xây dựng bàn đạp ở Bình Lộc (Quốc lộ 20). Hầu hết cán bộ

Thị Đoàn Biên Hòa đều về bám sát cơ sở, móc nối, tổ chức tuyên truyền trong các

tầng lớp thanh niên về tình hình cuộc kháng chiến, về nhiệm vụ của ngƣời thanh

niên trong giai đoạn cả nƣớc có chiến tranh, vạch rõ bản chất phản dân hại nƣớc

của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai... Thông qua công tác tuyên truyền giáo dục, các

cán bộ Đoàn đã phát hiện, bồi dƣỡng những thanh niên tích cực trở thành những

cốt cán, từ đó phát triển hệ thống chuỗi rễ tại địa bàn, tạo ra ở Bình Lộc một bàn

đạp vững chắc, cán bộ từ căn cứ có thể vào ra thuận lợi, nhất là các lực lƣợng vũ

trang có thể đứng chân để triển khai các hoạt động chiến đấu chống địch.

Các hoạt động của Đoàn ngày càng đi vào nề nếp. Đến cuối năm 1972, Tỉnh

Đoàn Biên Hòa đã đƣợc củng cố hoàn thiện, do đồng chí Öt Đoàn (Phan Hồng

Đoàn – Phan Hồng Nghĩa) làm Bí thƣ, đồng chí Sáu Biên làm Phó bí thƣ, đồng chí

Bảy Huệ (nữ) là ủy viên thƣờng vụ. Trong Ban chấp hành Tỉnh Đoàn còn có đồng

chí Hai Quân, ủy viên Ban chấp hành; đồng chí Năm Truyền, Phó bí thƣ Thị Đoàn

Biên Hòa, ủy viên; đồng chí Phạm Điền Sơn, ủy viên và đồng chí Sơn, Bí thƣ

Huyện Đoàn Vĩnh Cửu, ủy viên; cùng 3 cán bộ khác. Ban chấp hành các Huyện

Đoàn cũng đƣợc hoàn thiện gồm: Huyện Đoàn Nhơn Trạch có 7 đồng chí, do đồng

chí Sáu Trung, Huyện ủy viên phụ trách Bí thƣ Huyện Đoàn, đồng chí Sáu Quang,

Phó bí thƣ; Huyện Đoàn Vĩnh Cửu có 3 cán bộ, đồng chí Sơn đƣợc giao trách

nhiệm Bí thƣ Huyện Đoàn; cơ sở cao su Bình Sơn chỉ có 1 cán bộ nữ (đồng chí

Yến); Thị Đoàn Biên Hòa có 8 đồng chí, do đồng chí Khánh Băng (Hồ Văn Thiệp)

làm Bí thƣ.

Tất cả các huyện trong tỉnh đều xây dựng đƣợc các cơ sở Đoàn, bao gồm cả tổ

chức Đoàn bí mật và tổ chức Đoàn công khai. Trong đó, huyện Nhơn Trạch có 6

chi đoàn mật với 22 đoàn viên, 6 chi đoàn lộ với 33 đoàn viên, ngoài ra còn có 13

đoàn viên lẻ hoạt động dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng ở các địa

phƣơng.

Huyện Vĩnh Cửu xây dựng đƣợc 3 chi đoàn mật với 11 đoàn viên và 1 chi

đoàn lộ với 3 đoàn viên, ngoài ra còn có 9 đoàn viên lẻ; Thị Đoàn Biên Hòa có 1

chi đoàn lộ với 5 đoàn viên, ngoài ra còn có 10 đoàn viên lộ hoạt động đơn tuyến

theo sự chỉ đạo của chi bộ Đảng và 21 đoàn viên mật cũng hoạt động đơn tuyến; cơ

sở cao su Bình Sơn có 1 chi đoàn mật với 9 đoàn viên, 1 chi đoàn lộ với 3 đoàn

viên và 4 đoàn viên lẻ...

Thời kỳ 1971 – 1972, bị thất bại nặng nề trong chiến lƣợc “Việt Nam hóa

chiến tranh”, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai càng tăng cƣờng đôn quân bắt lính với

112

nhiều thủ đoạn thâm độc và tàn bạo. Chúng vây ráp bắt cả những thanh niên tàn tật

vào lính. Trong trƣờng học, chúng đánh trƣợt hàng loạt học sinh. Thậm chí chúng

đóng cửa trƣờng, hạn chế hoặc bãi bỏ chế độ hoãn quân dịch, bắt cả những học

sinh đang thi tú tài, dù đậu hay rớt, vào lính. Đi đôi với hành quân lục soát, bắn

pháo, phá ủi địa hình những nơi thanh niên bung ra trốn lính, ở thị xã, thị trấn,

chúng còn bắt ép các chủ cơ sở sản xuất sa thải công nhân lao động trẻ tuổi. Ở các

vùng tôn giáo, di cƣ, chúng càn ráp, bao cả nhà thờ, thánh thất, tìm cách loại số

thanh niên “không đủ 4 năm công quả” ra ngoài để bắt lính.

Tổ chức Đoàn ở các địa phƣơng đã đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tƣ

tƣởng, làm cho thanh niên nhận thức rõ vai trò trách nhiệm của đoàn viên và thanh

niên trong giai đoạn mới. Nhiều đoàn viên thấy rõ nhiệm vụ đều hăng hái tham gia

mọi công tác cách mạng, nhất là trong các đợt “chồm lên, chiếm lĩnh”, phát triển

các hình thức đấu tranh vũ trang cũng nhƣ chính trị. Đặc biệt là phong trào chống

bắt lính diễn ra khá sôi nổi. Những lúc địch tập trung vây ráp thanh niên, tổ chức

Đoàn ở nhiều cơ sở đã tìm mọi cách kịp thời thông báo để thanh niên có thể trốn

lính, kể cả việc móc nối đƣa thanh niên ra vùng căn cứ. Kết hợp đấu tranh chống

bắt lính với xây dựng các căn cứ du kích. Nhiều nơi đã tổ chức cho thanh niên đào

hầm bí mật để trốn lính. Những nơi địch sử dụng các biện pháp tàn bạo để bắt lính,

đã dùng cả áp lực quần chúng, cả bạo lực để chống bắt lính. Một số nơi hình thành

đƣợc cả mặt trận chống bắt lính nhƣ ở thị xã Biên Hòa, vùng di cƣ Công giáo Gia

Kiệm... Ở nhiều nơi, quần chúng đã tổ chức giật chuông nhà thờ, đánh trống, mõ

mỗi khi giặc ruồng bố bắt lính. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 2.000 Việt kiều từ

Campuchia trở về năm 1970, chống địch bắt thanh niên đi lính. Ở Gia Kiệm, 4.000

giáo dân đã xuống đƣờng đấu tranh chống bắt lính, chống gom thanh niên vào

phòng vệ dân sự. Giáo dân đã bắt trói cả cảnh sát khi chúng đến bắt thanh niên đi

lính để cảnh cáo.

Đi đôi với công tác chống kế hoạch đôn quân bắt lính của địch, công tác binh

vận cũng đƣợc các cơ sở Đoàn đặc biệt chú ý phát triển. Nhiều cán bộ Đoàn, đoàn

viên, thanh niên đã kiên trì vận động thuyết phục những binh sĩ ngụy lầm đƣờng

tìm cách trở về nhà làm ăn. Đáng chú ý là thời kỳ địch bắt lính ồ ạt, nhiều đoàn

viên và thanh niên cốt cán của ta cũng bị chúng vây ráp bắt vào lính. Khi có điều

kiện, chính những đoàn viên, thanh niên này đã làm nòng cốt vận động binh sĩ

ngụy bỏ ngũ về nhà làm ăn. Nhất là trong lực lƣợng phòng vệ dân sự, nhiều nơi đã

bị phá rã từng mảng. Có cả những cán bộ Đoàn bám trụ trong dân để gây dựng cơ

sở cũng đã bị địch bắt lính, không những tìm đƣợc cách trở về, còn vận động đƣợc

nhiều binh sĩ ngụy đào, rã ngũ nhƣ đồng chí Sáu Phụ, một cán bộ Đoàn của Thủ

Biên đƣợc tăng cƣờng vào xây dựng cơ sở trong nội thành Sài Gòn, không may bị

113

địch bắt lính đƣa ra miền Trung, đã vận động đƣợc cả một trung đội quân ngụy ra

vùng giải phóng.

Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, đoàn viên và thanh niên các địa phƣơng đều

kiên trì bám trụ, liên tục chiến đấu làm thất bại kế hoạch bình định của địch. Đội

du kích xã Bình Lộc đều còn rất trẻ. Lớn tuổi nhất là xã đội trƣởng Luyến cũng chỉ

mới 20 tuổi, còn lại đều 16, 17 tuổi, kể cả xã đội phó Lê A cũng chỉ mới 17.

Những đội viên ở bộ phận mật còn nhỏ hơn, chỉ 13, 14 tuổi. Thế nhƣng đội đã từng

bám sát dân nhiều năm, đánh địch cả khi chúng đi càn quét, ruồng bố, cả bọn đang

chốt giữ trong các bốt. Ngày ít nhất, đội cũng đánh 4 trận, ngày nhiều nhất, đội

đánh hàng chục trận. Bọn địch ở Bình Lộc và vùng xung quanh bị phục kích liên

miên. Chúng rất sợ và rất căm đội du kích. Chúng treo giải thƣởng đến hàng chục

ngàn đồng nếu ai lấy đƣợc đầu của đội trƣởng, đội phó.

Lê A là một xã đội phó trẻ, gan dạ và táo bạo. 15 tuổi đã trở thành một cơ sở

mật của đội, thƣờng xuyên nắm tình hình địch ở 3 đồn của chúng đóng trong xã,

phát hiện những toán tuần tiễu của chúng báo cho đội du kích. Năm 1970, ở tuổi

16, Lê A tham gia trận đánh đầu tiên, diệt bọn sĩ quan địch tại tiệm kem Ba Thế

(tức quán Ngọc Hƣơng), nơi bọn chúng thƣờng tụ tập ăn chơi. Trận đó, anh cùng

Tiết, một đội viên trong đội du kích Bình Lộc, diệt hơn 40 tên sĩ quan vừa Mỹ vừa

ngụy mà vẫn bảo vệ đƣợc dân, mặc dù thời gian của trận đánh có bị chậm lại và

sau đó khi vừa chạy ra đến đầu đƣờng, các anh đã bị cảnh sát ngụy bắt. Rất may là

Lê A ngƣời ốm nhom, đen đúa nhƣ một đứa trẻ mƣời ba, mƣời bốn tuổi. Sau một

ngày đêm hết bị dụ dỗ đến dọa nạt, cả hai đều một mực không nhận. Không có

chứng cứ, bọn chúng đành phải thả cả hai. Từ đó, Lê A đƣợc rút hẳn về bộ phận

mật, để một năm sau, ở tuổi 17, anh trở thành một xã đội phó gan dạ và xông xáo.

Rồi 6 tháng sau đó, tháng 4–1972, khi xã đội trƣởng Luyến hy sinh, Lê A lại trở

thành một xã đội trƣởng gan góc. Trong một trận đột nhập vô ấp, bị thƣơng, cánh

tay trái bị dị tật khòng khoèo, vẫn không bao giờ anh rời vị trí chiến đấu.

Ngày 25–6–1972, đội du kích xã Bình Lộc đã phối hợp với đại đội bộ đội

huyện tiến công đồn Bình Lộc, do một đại đội bảo an địch chốt giữ. Với phƣơng án

đánh địch khá táo bạo, hai đơn vị đã phục kích đánh địch khi chúng vừa từ trong

đồn ra đi lùng sục trong vùng (Bọn địch đóng ở Bình Lộc 3 đồn. Đồn trung tâm do

một đại đội bảo an chốt giữ. Hàng ngày, cứ 5 giờ sáng, chúng thƣờng ra khỏi đồn

vào vƣờn xoài bà Bảy lùng sục và nghỉ trƣa tại đó đến sẩm tối mới trở về đồn).

Ngay từ tối hôm trƣớc, du kích và bộ đội địa phƣơng đã chia thành 4 mũi ém sẵn ở

các vị trí. Mờ sáng hôm sau, khi cả trung đội địch ra khỏi đồn đi lùng sục nhƣ

thƣờng lệ, lọt hẳn vào ổ phục kích, Lê A liền cho nổ hai trái ĐH khóa đầu. Tiếp đó

là 2 trái mìn claymo của xã đội phó Một nổ khóa đuôi, chặn đƣờng rút của địch.

Bọn địch sống sót chạy dạt vào bên đƣờng, lập tức bị AK, tiểu liên cực nhanh,

114

M79, thủ pháo của các chiến sĩ dồn dập tiến công. 21 tên lính ngụy, trong đó có tên

trung đội phó bị diệt tại chỗ. Ta thu 17 súng các loại. Trong trận đó, Lê A đã hy

sinh khi anh đang ở giữa tuổi 18. Năm 1978, anh đƣợc Nhà nƣớc truy tặng danh

hiệu Anh hùng Lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Tháng 10 năm 1972, thực hiện chỉ thị của Trung ƣơng Cục miền Nam, giải

thể các phân khu, lập lại tỉnh Bà Rịa – Long Khánh và tỉnh Biên Hòa. Tỉnh Biên

Hòa thời kỳ này có các huyện Vĩnh Cửu, Trảng Bom (từ tháng 10–1973 trở thành

huyện Thống Nhất), Long Thành, Nhơn Trạch, Duyên Hải, Tân Uyên, Dĩ An (từ

năm 1973, Tân Uyên, Dĩ An trở về tỉnh Thủ Dầu Một), huyện Cao su Bình Sơn và

thị xã Biên Hòa. Đồng chí Öt Đoàn, Tỉnh ủy viên, đƣợc giao nhiệm vụ Bí thƣ Tỉnh

Đoàn. Tổ chức Đoàn ở cơ sở có 14 chi đoàn mật, ngoài ra còn có 89 đoàn viên lẻ,

31 hội viên Hội Thanh niên Giải phóng, 25 hội viên Hội Học sinh Giải phóng. Cụ

thể: huyện Long Thành có 6 chi đoàn mật với 20 đoàn viên và 34 đoàn viên lẻ;

huyện Nhơn Trạch có 5 chi đoàn mật với 19 đoàn viên và 27 đoàn viên lẻ; huyện

Vĩnh Cửu có 2 chi đoàn với 8 đoàn viên và 11 đoàn viên lẻ; xã Bình Sơn có 1 chi

đoàn với 3 đoàn viên và 6 đoàn viên lẻ; thị xã Biên Hòa có 11 đoàn viên lẻ.

Tổ chức Đoàn loại A (lộ) có 88 đoàn viên, trong đó huyện Nhơn Trạch có 37

đoàn viên; huyện Vĩnh Cửu có 7 đoàn viên; SIPH Bình Sơn có 3 đoàn viên; huyện

Long Thành có 14 đoàn viên, thị xã Biên Hòa có 27 đoàn viên... Đáng chú ý là

phần lớn các địa phƣơng, số đoàn viên, kể cả mật và lộ, đều ít hơn số đảng viên rất

nhiều lần. Số cơ sở mật trong toàn tỉnh có 33 chi bộ với 114 đảng viên và 160 đảng

viên lẻ thì chỉ có 14 chi đoàn với 50 đoàn viên và 89 đoàn viên lẻ. Số cơ sở lộ có

528 đảng viên, nhƣng chỉ có 88 đoàn viên. Đi sâu vào các huyện đều có tình trạng

tƣơng tự, nhƣ ở huyện Long Thành có 11 chi bộ mật với 43 đảng viên và 39 đảng

viên lẻ; nhƣng chỉ có 6 chi đoàn với 20 đoàn viên và 34 đoàn viên lẻ. Nhất là số cơ

sở lộ có tới 125 đảng viên, nhƣng chỉ có 14 đoàn viên. Huyện Vĩnh Cửu cũng có

tình trạng tƣơng tự, trong khi có 7 chi bộ mật với 21 đảng viên và 17 đảng viên lẻ,

107 đảng viên lộ thì chỉ có 2 chi đoàn với 8 đoàn viên và 11 đoàn viên lẻ, 7 đoàn

viên lộ...

Tình trạng số cơ sở Đoàn và đoàn viên ít hơn số cơ sở Đảng và đảng viên là

một khó khăn trong việc vận động, tổ chức thanh niên thực hiện những nhiệm vụ

của cách mạng trong giai đoạn có tính quyết định. Tuy nhiên, các phong trào do

Đoàn phát động vẫn đƣợc duy trì và phát triển ở nhiều cơ sở. Trong những tháng

cuối năm 1972, đoàn viên và thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang của Quân

khu, của tỉnh, của huyện và du kích các địa phƣơng đã đồng loạt ra quân ở hầu

khắp các địa bàn dọc các tỉnh lộ 17, 19 (Nhơn Trạch), Quốc lộ 15 (Long Thành),

tỉnh lộ 24 (Vĩnh Cửu), Quốc lộ 1 (Trảng Bom), cắt đứt các Quốc lộ 1, Quốc lộ 15,

tỉnh lộ 17, 19.... Du kích các xã Bàu Hàm, Hƣng Nghĩa (Trảng Bom), Phƣớc Long,

115

Phƣớc Thiền (Nhơn Trạch) đã vào ấp diệt một số tên tề ngụy ác ôn, phá rã nhiều

toán phòng vệ dân sự hỗ trợ nhân dân đấu tranh chống địch bằng nhiều hình thức

nhƣ mít tinh, biểu tình, xuống đƣờng tham gia phục vụ chiến đấu, bung ra sản xuất

ở đồi 64 Bình Sơn, cánh đồng Tam An, Tam Phƣớc, Phƣớc Nguyên, Long Hƣng,

An Hòa, Phƣớc Thiền (Long Thành, Nhơn Trạch...). Đặc biệt trong đợt “chồm lên

chiếm lĩnh” trƣớc khi Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở

Việt Nam đƣợc ký kết (27–1–1973), đoàn viên và thanh niên các địa phƣơng đã

cùng quân và dân trong tỉnh đồng loạt đánh chiếm hơn 60 ấp, làm chủ 2/3 thị trấn

Trảng Bom, bức rút hàng loạt đồn bốt địch, làm chủ nhiều đoạn trên các Quốc lộ 1,

15, 20... tạo ra nhiều vùng giải phóng rộng lớn. Vùng giải phóng mở rộng đến đâu,

cán bộ Đoàn các cấp đều đƣợc tăng cƣờng đến đó, góp phần ổn định tình hình, tổ

chức thanh niên phát huy vai trò xung kích cách mạng tham gia phát triển sản xuất,

mở các lớp học dạy chữ cho con em nhân dân trong vùng, vận động nhân dân thực

hiện nếp sống mới, ăn ở hợp vệ sinh. Những thanh niên có sức khỏe đƣợc tổ chức

Đoàn động viên, hƣớng dẫn đã lên đƣờng tham gia các lực lƣợng vũ trang và đi

dân công phục vụ hoả tuyến. Phong trào thanh niên tại các vùng mới đƣợc giải

phóng từng bƣớc phát triển. Một số vùng ở Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu...

đã phát triển thêm đƣợc một số đoàn viên, hình thành đƣợc chi đoàn, tạo thành

những nòng cốt đáng tin cậy, góp phần đẩy mạnh các phong trào hành động, đáp

ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng đang phát triển nhanh chóng.

Từ sau cao trào “Đồng khởi” đến trƣớc ngày Hiệp định Pari về chấm dứt

chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam đƣợc ký kết là một thời kỳ hết sức quyết

liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của quân và dân ta. Đế quốc Mỹ

và bè lũ tay sai của chúng đã liên tiếp tiến hành 3 chiến lƣợc chiến tranh, từ chiến

lƣợc “Chiến tranh đặc biệt” đến chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ”, chiến lƣợc “Việt

Nam hóa chiến tranh”, với một lực lƣợng quân Mỹ, quân các nƣớc chƣ hầu cùng

đội quân của ngụy quyền tay sai Sài Gòn, đƣợc trang bị những loại vũ khí hiện đại

nhất, có không quân, pháo binh yểm trợ một cách tối đa, áp dụng nhiều chiến thuật,

thực hiện hai gọng kìm “tìm diệt và bình định”, “trực thăng vận, thiết xa vận”...

nhƣng đều vấp phải sự kháng cự ngoan cƣờng của quân và dân ta, trong đó có sự

đóng góp xứng đáng của các tầng lớp thanh niên, buộc chúng phải gánh chịu

những thất bại nặng nề. Trải qua những năm tháng chiến đấu ác liệt, tổ chức Đoàn

và đoàn viên, thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai luôn nêu cao tinh thần xung kích

cách mạng, kiên cƣờng vƣợt qua mọi gian khổ, hy sinh, giữ vững ý chí tiến công

địch trong mọi tình huống để cùng quân và dân Biên Hòa – Đồng Nai và cả nƣớc

giành thắng lợi vẻ vang, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari cam kết tôn

trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; rút hết quân đội Mỹ và

chƣ hầu ra khỏi miền Nam, chấm dứt sự dính líu quân sự và can thiệp vào nội bộ

của miền Nam; tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam; công nhận trên

116

thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm

soát và ba lực lƣợng chính trị... Cho dù vẫn còn nhiều những thử thách cam go trên

con đƣờng đi tới thắng lợi hoàn toàn, nhƣng một thế hệ thanh niên Biên Hòa –

Đồng Nai đã đi qua những năm tháng quyết liệt sẽ càng vững tin ở sức mình,

không ngừng vƣơn lên cống hiến và trƣởng thành.

117

Chƣơng V

CÙNG QUÂN VÀ DÂN TIẾN LÊN

GIÀNH TOÀN THẮNG

1973 – 1975

I. KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO Ý CHÍ CHIẾN ĐẤU, GÓP

PHẦN GIỮ VỮNG THẾ CHỦ ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƢỜNG.

Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam đƣợc ký

kết ngày 27–1–1973. Nhƣng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, đế quốc Mỹ vẫn

chƣa từ bỏ dã tâm xâm lƣợc miền Nam Việt Nam. Hiệp định Pari ký chƣa ráo mực,

bè lũ tay sai Nguyễn Văn Thiệu đã hô hào thực hiện “tràn ngập lãnh thổ”, tập trung

các lực lƣợng chủ lực, bảo an, dân vệ đồng loạt mở các đợt tiến công lấn chiếm

vùng giải phóng, vùng làm chủ của ta trƣớc ngày ký kết Hiệp định. Chúng lấn

chiếm sâu vào vùng giải phóng ở Đại An, Tân Định, Thiện Tân (Vĩnh Cửu); Hƣng

Lộc, Hƣng Nghĩa, Bàu Hàm (Trảng Bom), khu lòng chảo Nhơn Trạch, phía tây

Quốc lộ 15 (Long Thành), đông tây tỉnh lộ 2 (Long Khánh)... Chúng tiến hành

đóng thêm nhiều chốt dọc các Quốc lộ 1, 15, cắm cờ lấn chiếm các lộ giao thông,

khôi phục lại thế kìm kẹp và đẩy lực lƣợng ta ra xa.

Đi đôi với lấn chiếm lãnh thổ, xoá thế “da beo”, chúng tăng cƣờng đánh phá

phong trào cách mạng của nhân dân đang sôi nổi khí thế mừng Hòabình, nhất là ở

vùng cao su, chúng tăng cƣờng cảnh sát, tình báo đánh vào phong trào công nhân.

Chỉ trong hai tháng 2 và 3–1973, chúng đã bắt hàng trăm công nhân ở Hàng Gòn,

An Lộc, Long Thành. Trong đó, chúng đặc biệt chú ý khủng bố thanh niên để bắt

lính, tăng cƣờng cho lực lƣợng bảo an. Chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc tinh

thần Hiệp định Pari. Khi lực lƣợng vũ trang của ta đánh trả lại các cuộc hành quân

lấn chiếm của chúng, chúng vu cho ta vi phạm Hiệp định, kích động thanh niên là

chiến tranh sẽ tái phát. Đi đôi với lừa mị, chúng tăng cƣờng các cuộc hành quân

cảnh sát, vây ráp, dùng trực thăng đổ chụp để bắt lính. Chúng bắt cả những thanh

niên tàn tật, những thiếu niên có vóc dáng tƣơng đối lớn. Chúng sẵn sàng bắn chết

những thanh niên trốn lính. Chúng ra sức thực hiện đôn quân, đôn nhiệm. Đến

tháng 6–1974, theo số liệu chƣa đầy đủ, chúng đã củng cố đƣợc 13.768 phòng vệ

dân sự. Riêng Hố Nai đã có 2.030 phòng vệ dân sự. Có 300 phòng vệ dân sự đƣợc

đôn lên bảo an và 740 thanh niên đƣợc chúng đƣa thẳng vào lực lƣợng chủ lực.

Thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục miền Nam và sự chỉ đạo trực tiếp

của cấp ủy Đảng địa phƣơng, thời kỳ đầu, sau khi Hiệp định Pari đƣợc ký kết, hàng

118

nghìn đồng bào và thanh niên khắp các địa phƣơng trong tỉnh đã sôi nổi phong trào

đấu tranh đòi kẻ địch nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pari. Tổ chức Đoàn các cấp

nhanh chóng chuyển hƣớng hoạt động, tăng cƣờng bám sát cơ sở, tuyên truyền

thắng lợi của việc ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở

Việt Nam, cổ vũ thanh niên giữ vững ý chí chiến đấu. Trải qua những năm tháng

ác liệt, hầu hết đoàn viên và thanh niên, nhất là những thanh niên trong các lực

lƣợng vũ trang, thanh niên trong các đơn vị làm nhiệm vụ chuyển tải, thanh niên

xung phong và thanh niên trong các lực lƣợng phục vụ kháng chiến khác đã phải

chịu nhiều hy sinh gian khổ, nhiều thời kỳ phải ngủ hầm, ăn lá bép, củ chụp... nay

có Hiệp định hòa bình nhiều ngƣời không khỏi nảy sinh tƣ tƣởng xả hơi, muốn

đƣợc nghỉ ngơi, đi đến mất cảnh giác trƣớc những âm mƣu, thủ đoạn của kẻ thù,

khi kẻ địch cho quân lấn chiếm chỉ bị động đối phó. Địch lấn chiếm đến đâu chống

lấn chiếm đến đó. Thậm chí một số đoàn viên, thanh niên khi thấy địch ồ ạt tổ chức

các cuộc hành quân lấn chiếm đã nảy sinh tƣ tƣởng hoài nghi việc ký kết Hiệp định

Pari, không tin tƣởng ở thắng lợi của Hiệp định.

Đƣợc sự chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy Đảng, tổ chức Đoàn các cấp đã tăng

cƣờng giáo dục đoàn viên, thanh niên dƣới nhiều hình thức, làm cho đoàn viên,

thanh niên thấy rõ việc ký kết Hiệp định Pari chỉ mới là thắng lợi bƣớc đầu, muốn

giành thắng lợi hoàn toàn phải kiên quyết chủ động tiến công địch trên tất cả các

mặt đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị cũng nhƣ binh vận. Một mặt khác, tổ

chức Đoàn các cấp đã tổ chức cho các tầng lớp thanh niên lợi dụng pháp lý của

Hiệp định Pari đẩy mạnh đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ, đòi trở về đất

cũ làm ăn, chống đôn quân bắt lính. Nhiều thanh niên ở các địa phƣơng đã cùng

gia đình nhanh chóng về quê cũ. Riêng ở Biên Hòa, ngay sau ngày Hiệp định Pari

đƣợc ký kết đã có 125 gia đình bung ra sản xuất.

Tại nhiều địa phƣơng, đƣợc sự hỗ trợ tích cực của các lực lƣợng vũ trang,

nhiều cán bộ Đoàn đã luồn sâu từng bƣớc bám các địa bàn xã, ấp, phát động quần

chúng, xây dựng cơ sở, diệt ác phá kìm, kết hợp tiến công binh vận, tranh thủ sự

đồng tình của binh sĩ địch, phân hóa cô lập bọn ác ôn, vô hiệu hóa bọn tề ngụy ở

cơ sở. Ở Hƣng Lộc, Trảng Bom, Bàu Hàm... các cuộc đấu tranh chống lấn chiếm,

chống chính sách bình định của địch diễn ra hết sức ác liệt. Trong đó, nhờ biết kết

hợp đấu tranh bằng 3 mũi, chính trị, binh vận và vũ trang, đoàn viên và thanh niên

cùng quân và dân Bàu Hàm đã làm thất bại mọi âm mƣu lấn chiếm của kẻ địch,

giành lại quyền làm chủ xã ấp. Ngay từ tháng 5–1973, khi lực lƣợng bảo an của

địch hành quân càn quét lấn chiếm, đƣợc sự chỉ đạo của chi bộ Đảng, du kích Bàu

Hàm, do lực lƣợng đoàn viên, thanh niên làm nòng cốt đã phối hợp với lực lƣợng

vũ trang Quân khu và lực lƣợng của huyện bao vây, pháo kích vào đội hình hành

quân gây cho địch nhiều thiệt hại. Đến sáng hôm sau (5–5–1973) hàng chục thanh

119

niên đã cùng bà con cô bác ngƣời Hoa, Nùng ở địa phƣơng kéo đến trụ sở tề xã đòi

bồi thƣờng những thiệt hại do Đại đội bảo an 113 gây ra cho đồng bào. Đồng thời

ở một cánh khác, thanh niên và bà con cô bác kéo đến vây bốt Lò Than kêu gọi

binh sĩ trong đồn không đi tiếp viện, không đàn áp khủng bố nhân dân. Bọn lính

bót Lò Than không dám ra khỏi đồn. Khi buộc phải đi ứng cứu Đại đội bảo an 113,

chúng cũng chỉ kéo lên chiếu lệ rồi rút về ngay. Bọn bảo an 113 không có lực

lƣợng tiếp ứng cũng buộc phải rút lui sau 3 ngày càn quét lấn chiếm Bàu Hàm

không thành. Riêng khu vực nông thôn, 3 tháng sau khi Hiệp định Pari đƣợc ký

kết, đoàn viên và thanh niên các địa phƣơng đã tham gia 4.716 cuộc đấu tranh của

quần chúng đòi địch thi hành Hiệp định Pari, đòi quyền lợi và bảo vệ đƣợc 170

thanh niên khỏi bị địch bắt lính.

Tháng 6–1973, tỉnh Biên Hòa đƣợc tách thành hai đơn vị ngang cấp tỉnh:

Biên Hòa nông thôn có các huyện: Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Long Thành, Nhơn

Trạch, Duyên Hải, Cao Su. Biên Hòa đô thị đƣợc gọi là thành phố Biên Hòa. Đồng

chí Hồ Văn Thiệp đƣợc cử làm Bí thƣ Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Hồ

Chí Minh thành phố Biên Hòa. Tổ chức Đoàn Thanh niên tỉnh Biên Hòa (Biên Hòa

nông thôn) do đồng chí Phan Hồng Đoàn làm Bí thƣ.

Tháng 7–1973, Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Hồ Chí Minh (nay là

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) đã tiến hành Đại hội lần thứ hai. Phong

trào “Năm xung phong” đƣợc qui gọn lại thành phong trào “Ba xung phong giành

giữ hòa bình”, bao gồm:

– Xung phong đấu tranh chính trị.

– Xung phong tham gia xây dựng lực lượng vũ trang.

– Xung phong xây dựng vùng giải phóng và căn cứ cách mạng.

Hƣởng ứng phong trào “Ba xung phong giành giữ hòa bình” do Đại hội Đoàn

Thanh niên Nhân dân cách mạng Hồ Chí Minh phát động, tổ chức Đoàn các địa

phƣơng tại địa bàn Biên Hòa – Đồng Nai mới đƣợc tách ra thành những đơn vị

hành chính mới, vừa ổn định tổ chức, vừa khẩn trƣơng củng cố, phát triển phong

trào hành động cách mạng của các tầng lớp thanh niên. Nhiều cán bộ Đoàn đã trực

tiếp về bám sát các cơ sở trong lòng địch, móc nối, tổ chức thanh niên làm nòng

cốt trong các cuộc đấu tranh. Trong đó, đồng chí Hồ Văn Thiệp, Bí thƣ Đoàn

Thanh niên thành phố Biên Hòa trực tiếp tham gia phân ban Thành ủy trong nội

thành, nắm thanh niên công nhân, thanh niên học sinh, tổ chức phong trào đấu

tranh của thanh niên trong nội thành. Ban chấp hành Thành Đoàn thời kỳ này có 11

đồng chí, chỉ có một phần ba trong số đó ở lại căn cứ nắm các đầu mối chỉ đạo, còn

lại hai phần ba đều tăng cƣờng về cơ sở tổ chức phong trào hành động của thanh

niên.

120

Từ đầu năm 1974, Tỉnh ủy Biên Hòa đã tăng cƣờng cán bộ cho huyện Trảng

Bom (lúc này lấy tên huyện Thống Nhất). Đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Liên, ủy

viên Ban chấp hành Khu Đoàn miền Đông, Phó bí thƣ Huyện ủy Thống Nhất,

đƣợc tăng cƣờng xuống các địa phƣơng cùng một số cán bộ khác bám sát dân xây

dựng cơ sở vùng đồng bào Công giáo di cƣ. Chỉ một thời gian ngắn đã có 60 cơ sở

đƣợc xây dựng. Ngoài ra, còn có 39 nòng cốt, làm chủ ấp Bùi Chu, Bắc Hòa,

Thanh Hóa, Kẻ Sặt, Ngũ Phúc, Tân Bắc (Hố Nai)... tạo ra những cơ sở hậu cần và

nguồn tài chính cần thiết cho những bƣớc phát triển của phong trào cách mạng.

Phong trào đấu tranh chính trị trong các tầng lớp nhân dân ngày càng phát triển,

nhất là trong các tầng lớp công nhân và thanh niên học sinh ở Biên Hòa. Thời kỳ

này, địch ra sức tổ chức biệt đoàn trù bị trong khu kỹ nghệ, đoàn ngũ hóa thiếu nhi

ở các trƣờng học, củng cố lực lƣợng “học sinh bảo vệ tổ quốc” hoặc “học sinh bảo

vệ địa phƣơng” ở thị xã, thị trấn, đƣa bọn ác ôn vào làm giám thị ở các trƣờng, lập

trật tự ở các hãng, xƣởng, các nghiệp đoàn tận ca, kíp, lớp học, loại những ngƣời

có xu hƣớng tiến bộ ra ngoài.

Hàng nghìn công nhân, trong đó có không ít thanh niên, thuộc các xí nghiệp

Cogido (làm giấy), Vicasa (cán sắt), xà bông, cá hộp... đã bằng mọi hình thức đấu

tranh đòi bọn chủ phải trả đủ lƣơng tháng cho công nhân (không đƣợc trừ những

ngày chủ nhật). Học sinh Trƣờng Ngô Quyền sôi nổi đấu tranh vạch trần tội tham

nhũng của tên hiệu trƣởng Phạm Đức Bảo... Thông qua các cuộc đấu tranh, nhiều

thanh niên tích cực đã đƣợc tổ chức xây dựng thành những cơ sở nội tuyến xung

quanh sân bay Biên Hòa. Ở tỉnh căn cứ Tân Phú, một tỉnh mới thành lập tháng 10–

1973 gồm các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Độc Lập và Định Quán, địa bàn phía

bắc chi khu Định Quán đƣợc mở rộng. Nhiều cán bộ Đoàn đã đƣợc bố trí xuống

tận cơ sở để bám dân. Riêng tỉnh Biên Hòa đã bố trí 50 cán bộ, trong đó có cả cán

bộ Đoàn Thanh niên xuống hai huyện điểm là Long Thành và Nhơn Trạch phối

hợp cùng lực lƣợng vũ trang của hai huyện và Tiểu đoàn 240 của tỉnh xây dựng

các cơ sở. Thành phố Biên Hòa cũng đƣa nhiều cán bộ đi miền Tây làm căn cƣớc

ngụy tạo thế hợp pháp để vào hoạt động trong nội thành, nắm thanh niên học sinh,

công nhân... chỉ đạo đấu tranh chống địch. Nhiều lõm chính trị, lõm căn cứ đƣợc

xây dựng ở những địa bàn xung yếu, nhƣ khu phố 1, khu phố 5, ấp Núi Đất, ấp Lân

Thành (xã Bình Trƣớc), ấp Tân Bản (xã Bửu Hòa), các xã Tân Vạn, Hiệp Hòa,

Bình Đa, An Hảo, ấp Vĩnh Cửu (Tam Hiệp), Bửu Long... Mỗi lõm chính trị, lõm

căn cứ đều có từ 10 – 30 gia đình quần chúng tốt, có tinh thần đoàn kết đấu tranh

cao. Ngoài ra, còn có 9 phòng vệ dân sự của địch ở các lõm chính trị đƣợc giác

ngộ, sẵn sàng làm nhiệm vụ canh gác bảo vệ quần chúng, thông báo tin cho thanh

niên trốn lính...

121

Thấy rõ thắng lợi của cách mạng và thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ

và bè lũ tay sai, đông đảo đồng bào giáo dân ở Hố Nai ngày càng tin tƣởng và sẵn

sàng tham gia các công tác cách mạng. Đặc biệt là phong trào chống bắt lính và

bảo vệ thanh niên trốn lính đã đƣợc đông đảo đồng bào hƣởng ứng tích cực. Nhiều

cuộc đấu tranh chống địch bắt thanh niên đi lính đã diễn ra hết sức quyết liệt.

Thanh niên và gia đình có thanh niên đƣợc cơ sở mật hƣớng dẫn, đã tổ chức những

tổ thông báo tin kịp thời khi có bọn cảnh sát ngụy đi càn quét bắt lính, để thanh

niên kịp lẩn tránh. Khi lính địch càn vào, thanh niên chạy trốn, đƣợc nhân dân che

chở. Nhiều chủ lò gạch đã cho thanh niên ẩn tránh nhiều ngày. Một số tề xã, dân vệ

đƣợc giáo dục cũng đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống bắt lính của nhân dân.

Khi có cảnh sát ngụy đi càn, anh em đã tìm cách báo cho thanh niên biết để lẩn

tránh, không cho chúng bắt đi lính.

Phong trào chống bắt lính thời kỳ này có những bƣớc phát triển đáng chú ý.

Các tổ, nhóm thanh niên trốn lính và lính trốn phát triển khá rộng. Thanh niên một

mặt dựa vào sự che giấu và bảo vệ của phong trào quần chúng, đồng thời tranh thủ

sự đồng tình của một số binh sĩ địch để trốn lính. Ngƣợc lại, nhiều binh sĩ địch bỏ

ngũ (lính trốn) cũng đã dựa vào phong trào trốn lính của thanh niên để thoát khỏi

sự lùng bắt của địch. Các tổ, nhóm trốn lính và lính trốn do đó đều thống nhất về

quyền lợi, nên đã nƣơng tựa vào nhau để chống lại âm mƣu bắt lính của địch. Có

những cuộc đấu tranh chống địch bắt lính đã tập hợp đƣợc tới 500 quần chúng

cùng tham gia. Khi một tên cảnh sát có hành động phát xít, bắn chết một thanh

niên trốn lính, 20 thanh niên trốn lính khác, đƣợc sự hỗ trợ của bà con cô bác, đã

vây đánh chết tại chỗ tên cảnh sát ác ôn. Kết hợp với phong trào chống bắt lính,

nhiều nhóm thanh niên trốn lính đã đƣợc tổ chức Đoàn các cấp tạo điều kiện để

anh em sản xuất tự túc. Tại các huyện Định Quán, Xuân Lộc... đã có 25 nhóm

thanh niên trốn lính và lính trốn tổ chức đƣợc sản xuất, từng bƣớc ổn định đời

sống.

Đi đôi với các cuộc đấu tranh chính trị và binh vận, mở rộng căn cứ đứng

chân tại những vùng sâu, vùng yếu, đoàn viên và thanh niên trong các lực lƣợng vũ

trang đã đóng góp nhiều công sức và cả xƣơng máu liên tục tiến công địch, góp

phần chống phá kế hoạch bình định của chúng, mở mảng, mở vùng, nâng cao

quyền làm chủ của dân, xây dựng và phát triển thực lực Đảng, Đoàn và các tổ chức

quần chúng. Hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch tiếp tục đƣợc chọn là những

huyện điểm và hai vùng điểm là vùng di cƣ Hố Nai – An Hòa, Long Hƣng (Long

Thành); vùng điểm sâu yếu là các xã Hƣng Lộc, Trảng Bom, Bàu Hàm 1. Nhiều

trận chiến đấu đã diễn ra ở Trại Cùi, Cây Điệp (Phƣớc Thái), trung tâm phát triển

cộng đồng Phƣớc Hòa (Long Thành), góp phần hỗ trợ phong trào bung về quê cũ

sản xuất đang phát triển tại các địa phƣơng. Khi các lực lƣợng vũ trang liên tiếp

122

mở các chiến dịch mùa khô, rồi mùa mƣa, phá banh các ấp chiến lƣợc, các khu

dinh điền, các nông trƣờng do địch lập ra thì thanh niên cùng gia đình đã đồng loạt

trở về quê cũ làm ăn, sinh sống. Đến cuối năm 1974, toàn tỉnh đã có 160 nghìn dân

trở về quê cũ làm ăn.

Trong các cuộc tiến công tiêu diệt sinh lực địch, nhiều đoàn viên và thanh

niên đã tỏ ra vô cùng dũng cảm, luôn tìm mọi cách tiến công địch và giành thắng

lợi, dù chỉ một ngƣời cũng tiến công. Ở xã Hƣng Lộc, khi địch đã càn quét lấn

chiếm dừng chân ở rẫy Bàu Nếp trong xã, ngay giữa ban ngày, nhƣng phát hiện

thấy địch sơ hở, một đoàn viên thanh niên trong đội du kích của xã đã dùng B40

diệt tại chỗ 1 xe tăng địch. Cũng tại Hƣng Lộc, trong một lần khác, địch dùng trực

thăng để tiếp tế vũ khí và lƣơng thực cho bọn đi càn. Khi trực thăng địch đáp

xuống rẫy, một đoàn viên thanh niên trong đội du kích đã lẻn đến dùng lựu đạn

đánh cháy và tiêu diệt toàn bộ bọn địch đi trên chiếc trực thăng.

Tiêu biểu cho tinh thần quả cảm của đoàn viên, thanh niên Đồng Nai thời kỳ

này phải kể đến tấm gƣơng ngƣời con gái anh hùng Hồ Thị Hƣơng. Ra đời đúng

ngày Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dƣơng đƣợc ký kết (20–7–

1954), nhƣng cuộc đời của cô gái quê ở Bình Định – Hồ Thị Hƣơng chƣa một ngày

đƣợc hƣởng không khí hòa bình. Năm Hƣơng lên 9 tuổi, không chịu đƣợc cảnh

lùng sục, bắt bớ của bè lũ Mỹ – ngụy, cha Hƣơng đành đƣa gia đình vào các tỉnh

phía Nam hy vọng tìm đƣợc kế sinh nhai. Nhƣng đến miền đất mới, gia đình ông

cũng chỉ toàn gặp những chuyện đầu rơi máu chảy, do chính sách tàn bạo tố cộng

diệt cộng của Mỹ – Diệm gây ra. Ở thị xã Long Khánh, nơi gia đình Hƣơng dừng

chân là cửa ngõ quan trọng, trấn giữ phía đông bắc Sài Gòn, đế quốc Mỹ và ngụy

quyền Sài Gòn đã bố trí ở đây một lực lƣợng dày đặc. Chúng thƣờng tăng cƣờng

hành quân càn quét, lập vành đai trắng khống chế địa bàn thị xã.

Đƣợc tổ chức Đoàn móc nối, hƣớng dẫn, 16 tuổi, Hƣơng đã chính thức trở

thành đội viên an ninh mật của đội trinh sát vũ trang Long Khánh. Đây cũng là thời

kỳ đội đang gặp khó khăn, các cơ sở bên trong nội ô thị xã hầu nhƣ đã mất trắng.

Địch tăng cƣờng ruồng bố, kìm kẹp ngày đêm. Lực lƣợng của ta phải tạm rút ra

ngoài để bảo toàn lực lƣợng. Trở thành đội viên an ninh mật, Hƣơng đƣợc giao

nhiệm vụ tìm cách bắt mối gây dựng lại cơ sở trong nội ô. Hàng ngày, Hƣơng phải

vƣợt qua các đồn bốt, trạm kiểm soát, các toán lính địch hành quân càn quét, các

mạng lƣới tình báo, mật báo của địch để đi sâu vào các ngõ ngách, bắt mối liên lạc,

gây dựng cơ sở. Trong 23 tháng gắn bó với đội trinh sát vũ trang, Hƣơng đã xây

dựng đƣợc 12 cơ sở nội thành, góp phần tạo điều kiện cho những trận đánh của đội

đạt hiệu quả cao. Có lần, Hƣơng còn đƣợc giao nhiệm vụ điều nghiên khu vực

quán bar Ly Ly để đội tổ chức trận đánh diệt tên Sáu Bá ác ôn khét tiếng và bọn sĩ

quan cả Mỹ lẫn ngụy thƣờng tụ tập ăn nhậu ở đây đêm 4–11–1970.

123

Đƣợc chiến đấu trong một tập thể quả cảm, Hồ Thị Hƣơng nhanh chóng

trƣởng thành, nhiều lần đƣợc giao nhiệm vụ đột nhập vào trong thị xã đánh diệt các

tụ điểm bọn ác ôn, bọn cảnh sát địch thƣờng tụ tập. Đêm 1–11–1974, Hƣơng dẫn

một tổ 3 đội viên, gồm có Phùng Thị Thận (bí số HC8T) và Lê Thị Lệ (bí số H120)

còn Hƣơng (bí số H25) đột nhập vào quán Ngọc Hƣơng nằm trên đƣờng Hoàng

Diệu, là tụ điểm ăn chơi của bọn sĩ quan Mỹ, ngụy. Trong vai những cô gái ăn vận

lịch sự, xinh đẹp, các cô đàng hoàng bƣớc vào quán, gọi kem ăn, phớt lờ những lời

chọc ghẹo của bọn sĩ quan lố bịch. Không ngờ chính đó là thời điểm các cô quyết

định số phận của bọn chúng. Ăn kem xong, các cô ung dung bƣớc ra khỏi quán và

10 phút sau, một tiếng nổ dữ dội phát ra từ quán Ngọc Hƣơng đã làm rung chuyển

cả thị xã, 15 tên sĩ quan vừa ngụy, vừa Mỹ đã phải đền tội.

Sau trận thắng lớn ở quán Ngọc Hƣơng, Hồ Thị Hƣơng lại đƣợc giao nhiệm

vụ dùng mìn định giờ để tiêu diệt bọn lính địch thƣờng tụ tập ở quán Yến Lan mỗi

khi đi lùng sục về. Nhƣng lần đó, bất ngờ bọn lính địch bỏ đi sớm, Hƣơng phải

nhanh chóng ôm khối thuốc nổ ra khỏi quán hủy ngòi nổ rút kíp để bảo vệ khối

thuốc nổ, tiết kiệm đƣợc vũ khí, đợi thời cơ đánh địch, vừa không gây kinh động

vô ích. Lần khác, ngày 30–1–1975, đƣợc giao đánh bọn địch đang tụ tập ở quán

Song Nga, tổ của Hƣơng cũng gặp tình huống tƣơng tự, bọn địch bất ngờ rút hết ra

khỏi quán trƣớc thời gian mìn có thể phát nổ. “Phải bảo vệ hàng”, nghĩ vậy Hƣơng

và Thận nhanh chóng rời khỏi quán, cố đạp thật nhanh để thoát ra khỏi tầm kiểm

soát của các vọng gác và tìm cách tháo ngòi nổ, bảo vệ vũ khí, bảo đảm bí mật cho

những trận đánh sau này. Nhƣng các cô đã không kịp thực hiện ý đồ táo bạo của

mình. Khi lao qua đƣờng ray xe lửa, bất ngờ quả mìn phát nổ, Hồ Thị Hƣơng và

Phùng Thị Thận đều hy sinh ở tuổi hai mƣơi đầy sức sống.

Trong các cuộc chiến đấu sinh tử, thiếu nhi Biên Hòa – Đồng Nai cũng là một

lực lƣợng đáng kể. Từ rất sớm, thiếu nhi trong tỉnh đã hƣởng ứng phong trào “Việc

nhỏ chí lớn” do Đoàn Thanh niên phát động (1), đã có nhiều hình thức hoạt động

phong phú. Các em ở vùng giải phóng đã tham gia các phong trào trồng luống rau,

nuôi con gà chống Mỹ. Bên cạnh việc giúp đỡ gia đình, tham gia xây dựng nếp

sống mới sạch sẽ, vui chơi lành mạnh, các em lớn tuổi còn tham gia nhiều công

việc quan trọng phục vụ kháng chiến, nhƣ tham gia tuần tra, canh gác bảo vệ xóm

làng. Nhiều em không chỉ làm nhiệm vụ đƣa tin, làm liên lạc cho các chú, các

anh... mà đã thật sự cầm súng trực tiếp chiến đấu đối mặt với những tên lính Mỹ,

lính các nƣớc chƣ hầu cao lớn. Các em thƣờng lợi dụng thân hình bé nhỏ của mình

để luồn lách vào những nơi bọn địch hay tụ tập, gài trái, lấy cắp vũ khí của chúng

(1) Phong trào “Việc nhỏ chí lớn” do Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng Việt Nam phát

động từ năm 1966.

124

đƣa ra cho du kích. Em Nguyễn Phú Huỳnh, tuy tuổi nhỏ nhƣng đã tham gia đội

biệt động thị xã Long Khánh trong nhiều năm, với bí số ĐF 66. Trong ngày 2–1–

1975, Huỳnh đã 3 lần tiến công bọn địch ở các quán ăn trên đƣờng Hồng Bàng,

diệt 9 tên địch, làm bị thƣơng nhiều tên khác.

Thông qua việc tổ chức thanh niên đi vào các phong trào hành động cách

mạng, tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai đã có những

bƣớc trƣởng thành nhanh chóng. Nếu năm 1972, ở Biên Hòa có 30 chi đoàn, trong

đó có 16 chi đoàn mật (75 đoàn viên) với tổng số 192 đoàn viên, gồm 116 đoàn

viên sinh hoạt trong các chi đoàn và 76 đoàn viên lẻ thì đến tháng 5 năm 1974,

toàn tỉnh đã phát triển lên đƣợc 43 chi đoàn, gồm 32 chi đoàn lộ với 151 đoàn viên

và 11 chi đoàn mật với 52 đoàn viên. Đáng chú ý là trong số đoàn viên mật tất cả

đều là nữ. Trong 43 chi đoàn có 16 chi đoàn xã. Ngoài ra, còn có 110 đoàn viên lẻ,

trong đó có 40 đoàn viên mật lẻ. Bên cạnh tổ chức Đoàn Thanh niên Nhân dân

cách mạng Hồ Chí Minh, tổ chức Hội Thanh niên Giải phóng cũng có những bƣớc

phát triển. Đến tháng 5–1974, toàn tỉnh đã phát triển đƣợc 63 tổ Thanh niên Giải

phóng với 279 hội viên và 15 hội viên lẻ. Công tác thiếu nhi cũng từng bƣớc đƣợc

quan tâm, đã phát triển đƣợc 3 phân đội Thiếu niên Tiền phong với 13 em; 5 chi

đội Thiếu niên Tiền phong với 60 em và 9 tổ thiếu nhi khác. Đến đầu tháng 3–

1975, riêng trong nội ô thị xã Biên Hòa đã thành lập đƣợc 3 chi đoàn với 12 đoàn

viên, nhiều thanh niên đã trở thành những cơ sở nòng cốt, tham gia các lõm chính

trị, tổ chức đƣợc 9 tổ nhóm chống bắt lính, có 78 thanh niên tham gia.

Trong khí thế tiến công và nổi dậy, từ những tháng đầu năm 1975, đƣợc sự

chỉ đạo trực tiếp của Khu Đoàn miền Đông, tổ chức Đoàn các cấp trong tỉnh đã

triển khai nhiều nhiệm vụ cụ thể, nhƣ đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tƣ

tƣởng, củng cố thêm một bƣớc lòng tin vào sự tất thắng của cách mạng, tạo ra khí

thế mới trong hành động tiến công và nổi dậy đều khắp với khí thế “Đồng khởi”; tổ

chức thanh niên thực hiện các phong trào hành động: chống đôn quân bắt lính, làm

tan rã hàng ngũ địch, giành và bảo vệ thanh, thiếu nhi; ra sức tiêu diệt địch, chống

càn quét lấn chiếm, tham gia dân quân du kích, hăng hái tòng quân; đẩy mạnh sản

xuất, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng, xây dựng căn cứ

kháng chiến vững mạnh; hăng hái học tập, rèn luyện, xây dựng đời sống mới lành

mạnh, chống văn hóa phẩm đồi trụy phản động của Mỹ – ngụy... Tùy theo từng

vùng: vùng nông thôn phía trƣớc, vùng tranh chấp, vùng tranh chấp yếu, vùng địch

tạm chiếm, vùng đô thị... tổ chức Đoàn các cấp đều đề ra những biện pháp và mục

tiêu phấn đấu cụ thể trên các mặt công tác, trong xây dựng lực lƣợng vũ trang,

cũng nhƣ công tác xây dựng Đoàn và Hội Thanh niên Giải phóng...

Nhằm làm thay đổi tƣơng quan lực lƣợng tại chỗ giữa ta và địch, tổ chức

Đoàn các cấp còn tập trung phá rã nhiều “túi thanh niên” do địch lập ra để khống

125

chế thanh niên trong các thị xã, thị trấn, nhất là tổ chức phòng vệ dân sự. Nhiều

cán bộ Đoàn có kinh nghiệm đã tìm cách bám vào các “túi thanh niên”, dựa vào số

cốt cán tại chỗ và một số đoàn viên cốt cán đƣợc điều từ nơi khác đến, móc nối,

gây dựng cơ sở, hƣớng dẫn thanh niên tổ chức đấu tranh từng bƣớc, tiến tới chỉ đạo

và tạo điều kiện cho anh em bung ra các vùng, các lõm giải phóng làm ăn sinh

sống... Nhiều thanh niên nhận rõ thời cơ đã hăng hái tham gia các công tác cách

mạng, tạo nên một lực lƣợng đáng kể sẵn sàng bƣớc vào giai đoạn quyết định của

cuộc kháng chiến chống Mỹ.

II. TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN BIÊN HÒA

– ĐỒNG NAI NỖ LỰC VƢỢT BẬC, GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG QUÊ

HƢƠNG.

Cuộc chiến tranh giải phóng của quân và dân ta phát triển nhanh chóng. Ngày

31–3–1975, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam hạ

quyết tâm: “Nắm vững thời cơ chiến lƣợc hơn nữa, với tƣ tƣởng chỉ đạo thần tốc,

táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích – tổng khởi nghĩa trong thời

gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4–1975, không thể để chậm” (1). Nắm vững

thời cơ lịch sử, tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai đã có

những nỗ lực lớn trên nhiều mặt. Hƣởng ứng phong trào “Xung phong xây dựng

lực lƣợng vũ trang”, một trong 3 mũi của phong trào “Ba xung phong giành giữ

hòa bình”, do Đại hội Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng Hồ Chí Minh phát

động, đặc biệt từ sau khi Chiến dịch Tây Nguyên mở màn với trận đột phá Buôn

Ma Thuột, tháng 3–1975, tổ chức Đoàn các cấp của Biên Hòa đô thị, cũng nhƣ

Biên Hòa nông thôn và Tân Phú đều thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, vừa tổ

chức, động viên thanh niên hăng hái tòng quân, kịp thời bổ sung lực lƣợng cho các

đơn vị bộ đội chủ lực, cũng nhƣ bộ đội địa phƣơng, đồng thời tạo điều kiện để

đoàn viên và thanh niên tích cực tham gia các khóa huấn luyện nâng cao năng lực

chiến đấu, phù hợp với điều kiện của cuộc chiến tranh đang bƣớc vào giai đoạn

tiến công chiến lƣợc có tính quyết định. Không chỉ tham gia huấn luyện những bài

kỹ, chiến thuật cá nhân, mà đoàn viên, thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang còn

đƣợc huấn luyện phƣơng pháp “đánh địch trong công sự vững chắc”, với các bài

cơ bản về động tác tiềm nhập và gỡ mìn; cách đánh ĐH10 và liên kết ĐH10; cách

mở cửa bí mật và mở cửa bằng mìn ĐH10; đánh thọc sâu, kết hợp đặc công với bộ

binh... Hàng trăm đoàn viên và thanh niên Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 240 bộ đội tỉnh

và đoàn viên, thanh niên trong các đơn vị bộ đội các huyện Long Thành, Thống

(1) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954–1975 – Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, trang

302.

126

Nhất, Vĩnh Cửu... đã hăng say tập luyện ngày đêm. Luyện tập ngay cả trong quá

trình đang thực hành chiến dịch mùa khô 1974 – 1975, giữa thời gian kết thúc từng

bƣớc của chiến dịch. Thông qua các đợt huấn luyện kỹ, chiến thuật, tinh thần và ý

chí chiến đấu của đoàn viên và thanh niên đều đƣợc nâng lên rõ rệt, tất cả đều sẵn

sàng bƣớc vào những trận đánh quyết định, với niềm tin ở thắng lợi cuối cùng.

Biên Hòa – Đồng Nai là một địa bàn có tầm quan trọng chiến lƣợc sống còn

đối với dinh luỹ cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. Khi những quân đoàn, quân

khu của chúng hoặc bị xoá sổ (Quân khu, Quân đoàn 1 và 2), hoặc bị bao vây, ép

sát vào các thành phố, thị xã, bị ép sát đến tận hang ổ Sài Gòn, chiến trƣờng Biên

Hòa – Đồng Nai càng có ý nghĩa quyết định, chí ít cũng để chúng hy vọng tìm

kiếm một giải pháp chính trị có thể duy trì đƣợc cái chính thể ngụy quyền đã thối

rỗng. Và vì thế mà chúng quyết tâm tử thủ, bằng tất cả lực lƣợng có đƣợc, gồm Sƣ

đoàn 18 bộ binh, với 12 tiểu đoàn của 3 chiến đoàn 43, 48, 52; một lữ đoàn biệt

động quân, 18 tiểu đoàn bảo an, 2 chi đoàn thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo... Chính đế

quốc Mỹ cũng phải cử tƣớng Owen trở lại Sài Gòn và trực tiếp thị sát chiến trƣờng

miền Đông, để đi đến quyết định chuyển hƣớng phòng thủ chính từ Tây Ninh về

hƣớng đông – bắc Sài Gòn, với tuyến phòng thủ kéo dài từ Phan Rang đến Xuân

Lộc, trong đó thị xã Long Khánh trở thành điểm phòng thủ chiến lƣợc.

Ngay từ giữa tháng 3–1975, khi trận mở màn Buôn Ma Thuột đang liên tiếp

giành những thắng lợi quyết định, chiến trƣờng Biên Hòa – Đồng Nai đã nóng lên

từng ngày. Trong đó, trận đánh chiếm chi khu Định Quán, một điểm phòng thủ của

địch trên Quốc lộ 20, đã bộc lộ rõ ý đồ cố thủ của địch để chặn đứng mọi bƣớc tiến

của các lực lƣợng vũ trang giải phóng, trong khi ta quyết tâm chiếm Định Quán,

giải toả Quốc lộ 20, để mở một mũi tiến công về hƣớng đông. Vì thế, trận đánh

diễn ra hết sức quyết liệt, từ 5 giờ 40 phút sáng ngày 17–3–1975 đến 17 giờ cùng

ngày, bọn địch ở trong chi khu mới bị tiêu diệt và phải 3 ngày sau, đến ngày 20–3–

1975, ta mới hoàn toàn làm chủ đƣợc chi khu Định Quán, bắt sống đƣợc toàn bộ

ban chỉ huy chi khu, trong đó có tên thiếu tá quận trƣởng kiêm chi khu trƣởng

Định Quán, thiếu tá trƣởng ty cảnh sát, thiếu tá tiểu đoàn trƣởng tiểu đoàn 2, 4 đại

uý và 50 lính. Chính trong những giờ phút quyết liệt của cuộc chiến đấu, đoàn viên

và thanh niên trong các đơn vị bộ đội chủ lực, cũng nhƣ bộ đội địa phƣơng Tân

Phú (nay thuộc tỉnh Đồng Nai) và lực lƣợng du kích tại địa bàn đã thể hiện rõ

phẩm chất quên mình, sẵn sàng giành với địch từng tấc đất. Khi bộ đội ta tiến vào

chi khu Định Quán, địch đã co cụm vào các hang đá, chiếm điểm cao 258 chống

trả quyết liệt. Đoàn viên và thanh niên trong các đơn vị tham chiến đã mƣu trí áp

sát, lợi dụng các bờ đá, điểm từng loạt đạn chính xác, tiêu diệt từng cụm quân địch.

Bọn địch không thể chịu đựng nổi, đành chịu để thất thủ Định Quán và cuối cùng

cả Tân Phú đều rơi vào quyền kiểm soát của các lực lƣợng cách mạng, sau khi một

127

loạt các điểm co cụm của địch ở núi Tràn, Phƣơng Lâm, đông – tây cầu La Ngà,

Kiệm Tân, Túc Trƣng... lần lƣợt bị tiêu diệt. Quốc lộ 20 đƣợc giải toả, tạo điều

kiện để các lực lƣợng bộ đội chủ lực tiến về hƣớng đông.

Mất Định Quán, địch quyết định xây dựng tuyến phòng thủ Xuân Lộc, coi đó

“là chiếc xoáy ốc cuối cùng” quyết định số phận của thành phố Sài Gòn, “Mất

Xuân Lộc, Việt Cộng sẽ thiết lập được một vòng cung vững chắc chỉ cách Sài Gòn

có 80 km, vòng cung đó bắt đầu từ Tây Ninh chạy ra tới Vũng Tàu. Như vậy Sài

Gòn sẽ bị thắt chặt trong một cái thòng lọng khổng lồ bằng sắt vô cùng nguy

hiểm”, nhƣ báo chí phƣơng Tây từng nhận định. Ngoài Sƣ đoàn 18, cộng với đội

quân ngụy bại trận từ miền Trung chạy vào, bè lũ Mỹ, ngụy đã tung toàn bộ lực

lƣợng của Quân đoàn 3, quân chủ lực trù bị của ngụy nhƣ Lữ đoàn dù số 1, Lữ

đoàn 3 thiết giáp, các thiết đoàn 315, 318, 320 thiết giáp... vào mặt trận Long

Khánh, Xuân Lộc, hy vọng chặn đƣợc các mũi tiến công của quân ta ở phía đông.

Thực hiện quyết tâm mở hƣớng tiến công ở phía đông của Bộ Chỉ huy Chiến

dịch, đồng loạt tiến công vào thị xã Long Khánh, điểm phòng ngự chính của địch

trên tuyến phòng thủ phía đông một lần nữa càng làm bộc lộ rõ ý chí của đoàn viên

và thanh niên không chỉ trong các lực lƣợng vũ trang, trực tiếp cầm súng đối mặt

với địch trên chiến trƣờng, mà cả những đoàn viên, thanh niên ở hậu phƣơng, trong

đó có không ít thanh niên ở các vùng vừa mới đƣợc giải phóng, ở Định Quán, ở

Bàu Hàm, Hƣng Nghĩa, Kiệm Tân... ngƣời hăng hái tòng quân, số khác tham gia

các đội dân công hỏa tuyến. Ngày này qua ngày khác, hàng chục đoàn viên, thanh

niên dùng xe thồ tải hàng từ bắc sông Đồng Nai qua Cây Gáo về Bàu Hàm, vƣợt

Quốc lộ 1 về Hƣng Nghĩa; từ tỉnh lộ 10 Bình Sơn xuống Phƣớc Thái qua Quốc lộ

15 về Nhơn Trạch, đảm bảo cung ứng kịp thời lƣơng thực cho hàng ngàn bộ đội

đang chiến đấu tại mặt trận. Tại các huyện Long Thành, Nhơn Trạch, ngoài phong

trào tiến công và nổi dậy ở địa phƣơng, góp phần giải phóng nhiều vùng rộng lớn,

đông đảo đoàn viên và thanh niên đã hăng hái sử dụng hàng trăm ghe máy, đƣa bộ

đội vƣợt qua sông Cát Lái phát triển cuộc tiến công. Nhiều đoàn viên, thanh niên

các cơ quan cũng xung phong ra tuyến trƣớc phục vụ, chuyển tải hàng hóa, khiêng

cáng thƣơng binh. Đoàn viên và thanh niên trong ngành an ninh với phƣơng châm

“Ngày làm việc cho cả tháng, tháng làm hết công việc cho cả năm”, một mặt bám

sát phối hợp với các lực lƣợng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng, tổ chức bao vây,

tiêu diệt các cụm cứ điểm của địch, một mặt đi sâu phát hiện những tàn binh địch

từ các nơi khác tràn về cải trang trà trộn trong dân...

Đƣợc trực tiếp tham gia chiến dịch đập tan cánh cửa thép Xuân Lộc, đoàn

viên và thanh niên trong Tiểu đoàn bộ đội địa phƣơng 445, Đại đội K8 (Xuân Lộc),

Đại đội 207 (Cao Su), Đại đội 41 (Châu Đức)... đƣợc tổ chức thành một đơn vị

tƣơng đƣơng trung đoàn, có nhiệm vụ tiến công từ hƣớng nam, trên Quốc lộ 1. Tổ

128

chức Đoàn trong các đơn vị đã quán triệt đến từng đoàn viên, thanh niên ý chí tiến

công, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để giải phóng quê hƣơng. Trong bƣớc đƣờng

cùng, kẻ địch trên tuyến phòng thủ Xuân Lộc – Long Khánh đã quyết tâm tử thủ

bằng mọi giá. Mặc dù ngay ngày đầu của chiến dịch, ta đã chiếm đƣợc dinh tỉnh

trƣởng, toà hành chính, phát triển xuống đến căn cứ biệt động và đánh chiếm phía

tây sân bay thị xã... nhƣng bọn địch vẫn tung mọi lực lƣợng phản kích quyết liệt.

Chúng tăng cƣờng thêm lực lƣợng, lập trận địa chốt chặn tại ngã ba Tân Phong,

cho Lữ đoàn 3 kỵ binh án ngữ từ Trảng Bom đến ngã ba Dầu Giây, sử dụng cả

bom hơi ngạt CBU để đánh vào đội hình tiến công của quân ta. Nhiều chiến sĩ đã

phải ngã xuống do bom, pháo của địch (1). Có mũi tiến công của quân ta, mặc dù

đã đƣợc tăng cƣờng thêm lực lƣợng, vẫn không đột phá đƣợc, phải thay đổi cách

đánh, chuyển phần lớn lực lƣợng ra bên ngoài thị xã, luân phiên củng cố, chấn

chỉnh lực lƣợng, chặn đánh và tiêu diệt các lực lƣợng địch từ hƣớng Biên Hòa lên

tăng viện, đánh chiếm chi khu Kiệm Tân, giải phóng Quốc lộ 20, từ Kiệm Tân đến

ngã ba Dầu Giây. Trong khi đoàn viên và thanh niên bộ đội Tiểu đoàn 445 chốt giữ

khu vực Bảo Hòa, Bảo Toàn... kiên cƣờng đẩy lùi các đợt phản kích của địch, đoàn

viên và thanh niên các đơn vị bộ đội huyện, kết hợp lực lƣợng thanh niên du kích

các địa phƣơng Bình Lộc, Suối Tre (huyện Cao Su); Phƣớc Nguyên, An Lợi, thị

trấn... liên tục tiến công địch, hỗ trợ nhân dân giải phóng xã, ấp. Nhiều đoàn viên

và thanh niên đã dũng cảm thọc sâu làm công tác vũ trang tuyên truyền vùng sau

lƣng địch, đắp mô, gài trái phục kích đánh địch, giải phóng từng đoạn trên tỉnh lộ

17, 19...

Bọn địch trong thị xã Long Khánh hoàn toàn bị cô lập. Đêm 20–4–1975,

trƣớc tình thế không thể cứu vãn, chúng phải rút chạy theo hƣớng tỉnh lộ 2. Sáng

21–4–1975, cánh cửa thép Xuân Lộc bị đập tan, mở toang hƣớng tiến công ở phía

đông cho các binh đoàn chủ lực của ta bƣớc vào Chiến dịch Hồ Chí Minh giải

phóng hoàn toàn miền Nam.

Mặc dù kẻ địch vẫn hết sức ngoan cố, sau khi rút chạy khỏi thị xã Long

Khánh, một bộ phận lớn quân địch, với lực lƣợng tƣơng đƣơng 3 sƣ đoàn, đã co

cụm lại tổ chức phòng thủ ở Trảng Bom, nhƣng chúng đã không thể chặn đƣợc

bƣớc tiến của các lực lƣợng vũ trang giải phóng tiến vào Biên Hòa, về Sài Gòn với

ý chí “Đánh tiêu diệt lớn, đánh tan rã lớn, mở cửa chiến dịch lớn” (2). Co cụm lại ở

(1) Trong 3 ngày đầu của Chiến dịch đã có khoảng 1.100 cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị tham

chiến bị thƣơng vong, 9 xe tăng của ta bị bắn cháy – Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Đồng

Nai – Nxb. Quân đội nhân dân, tr. 314.

(1) Yêu cầu của Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đối với các đơn vị đang làm nhiệm vụ tiến

vào Biên Hòa và Sài Gòn ở hƣớng đông.

129

Trảng Bom, Trảng Bom bị tiêu diệt, những tên sống sót rút chạy tan tác; cố thủ căn

cứ Nƣớc Trong. Căn cứ Nƣớc Trong, với Trƣờng sĩ quan thiết giáp, Trƣờng sĩ

quan bộ binh... cũng không thoát khỏi sự truy quét của xe tăng Sƣ đoàn 304 bộ đội

giải phóng. Chi khu Nhơn Trạch, căn cứ Hóc Bà Thức, kho Thành Tuy Hạ và cả

sân bay Biên Hòa... đều không thể chịu đựng nổi sức tiến công mãnh liệt của quân

và dân ta, kể cả khi chúng lợi dụng các nhà thờ dọc tuyến đƣờng từ Hố Nai đến

Kiệm Tân để xây dựng các cứ điểm chống trả các mũi tiến quân của các lực lƣợng

giải phóng, làm một số cán bộ, chiến sĩ của ta hy sinh, một số xe tăng của ta bị bắn

cháy, nhƣng những cố gắng cuối cùng của chúng cũng không thể cứu vãn đƣợc

tình hình. Ngày 26–4–1975, pháo binh Quân giải phóng nã vào thị xã Biên Hòa.

Các cứ điểm cuối cùng của địch lần lƣợt bị đập tan. Đến 10 giờ 30 ngày 30–4–

1975, lá cờ chiến thắng của quân và dân ta đã đƣợc cắm lên nóc dinh tỉnh trƣởng

Biên Hòa.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của nhân dân ta đã giành đƣợc thắng

lợi trọn vẹn, miền Nam hoàn toàn đƣợc giải phóng, Tổ quốc thống nhất cùng đi lên

chủ nghĩa xã hội. Sự đóng góp của tuổi trẻ Biên Hòa – Đồng Nai là không nhỏ.

Mặc dù phải sống trong hoàn cảnh địch thƣờng xuyên khủng bố ác liệt với nhiều

thủ đoạn hòng đầu độc lôi kéo, trụy lạc thanh niên làm cho họ ngày càng xa rời

những lý tƣởng cách mạng, nhƣng dƣới sự lãnh đạo và giáo dục của Đảng, sự chỉ

đạo trực tiếp của các cơ sở Đảng ở địa phƣơng, trải qua nhiều thử thách, hy sinh,

thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai đã từng bƣớc trƣởng thành, đáp ứng ngày càng

cao những đòi hỏi của cách mạng. Đông đảo đoàn viên, thanh niên Biên Hòa –

Đồng Nai đƣợc tổ chức Đoàn và tổ chức Hội tổ chức, động viên đã hăng hái tham

gia các công việc kháng chiến đòi hỏi, ở tiền tuyến cũng nhƣ ở các vùng căn cứ,

vùng tranh chấp. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã luôn tỏ ra kiên định lập trƣờng

cách mạng, kể cả khi đƣợc bố trí vào hàng ngũ địch, vẫn vững vàng trƣớc mọi thử

thách cám dỗ, để khi có thời cơ đã làm nội ứng hoặc tác động để làm chuyển biến

hàng ngũ địch. Có khi đƣa đƣợc cả một lực lƣợng đáng kể của địch về với cách

mạng. Đó là một thành quả đáng tự hào của thế hệ thanh niên Biên Hòa – Đồng

Nai chống Mỹ. Từ đó, đoàn viên, thanh niên Biên Hòa – Đồng Nai càng vững tin

bƣớc vào thời kỳ mới, không ít thử thách cam go, nhƣng cũng mở ra những cơ hội

mới để đoàn viên, thanh niên Đồng Nai có thể bộc lộ hết mình, cống hiến ngày

càng nhiều cho Tổ quốc.

130

PHẦN THỨ BA

TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN,

THANH NIÊN ĐỒNG NAI TRONG

SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ

TỔ QUỐC

1975 – 2000

131

Chƣơng VI

ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG

CÁCH MẠNG, XÂY DỰNG VÀ

PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐOÀN

1975 – 1986

I. PHÁT HUY VAI TRÒ XUNG KÍCH CÁCH MẠNG, THANH

NIÊN ĐỒNG NAI NỖ LỰC KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH.

Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến

dịch Hồ Chí Minh lịch sử, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của nhân

dân ta trong cả nƣớc đã giành đƣợc thắng lợi trọn vẹn, miền Nam Việt Nam hoàn

toàn đƣợc giải phóng, kết thúc 30 năm máu lửa, kể từ ngày cả Nam bộ bƣớc vào

cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lƣợc, 23–9–1945.

Là một tỉnh ở cửa ngõ phía đông, Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, cả về

kinh tế cũng nhƣ quốc phòng, an ninh, là nơi tập trung các cơ quan đầu não Vùng

ba chiến thuật của địch, nơi đọ sức quyết liệt giữa cuộc chiến tranh nhân dân và

sức mạnh quân sự khổng lồ của Mỹ, là cánh cửa thép cuối cùng để tiến vào Sài

Gòn và vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn. Trong bƣớc đƣờng cùng, không

ít các sắc lính ngụy, các tổ chức phản động... từ Tây Nguyên, từ miền Trung đã

dồn về Đồng Nai và tan rã tại chỗ. Trong khi một bộ phận không nhỏ nhân dân

Đồng Nai vì lo sợ đã bỏ ruộng vƣờn, nhà cửa chạy vào thành phố, thị xã để nƣơng

thân, làm cho tình hình xáo trộn nghiêm trọng. Ở một số vùng nhƣ Xuân Lộc,

những ngày đầu sau giải phóng, cùng với tàn binh địch chƣa chịu ra trình diện cải

tạo, vẫn thƣờng xuất hiện những thanh niên lạ mặt không rõ nguồn gốc và thƣờng

lẩn tránh đụng đầu với lực lƣợng an ninh của ta. Những tệ nạn xã hội, lúc mới giải

phóng biến mất hẳn, nhƣng chỉ một thời gian ngắn sau đó đã xuất hiện trở lại,

nhằm chủ yếu lôi kéo đối tƣợng thanh niên các địa phƣơng sa vào các tệ nạn xã hội

nhƣ tụ tập cờ bạc, rƣợu chè, ăn chơi trụy lạc, xì ke, ma tuý... Tại một số địa

phƣơng các tổ chức phản động, nhƣ bọn “thanh niên phục quốc”, đảng “Rồng

Xanh”,... đã nhen nhóm trở lại. Một số tên phản động còn tìm cách chui vào tổ

chức của ta, lợi dụng trụ sở các cơ quan cách mạng ở địa phƣơng để hoạt động phá

rối, xuyên tạc chính sách của Đảng, Nhà nƣớc, nói xấu cán bộ, kích động quần

chúng chống phá công cuộc xây dựng hòa bình ở địa phƣơng.

Thấy rõ thực trạng tình hình những ngày đầu mới đƣợc giải phóng, bên cạnh

việc tổ chức đông đảo thanh niên, và cả các em thiếu niên tham gia các đội xung

132

kích, xuống đƣờng truy lùng tàn binh địch, giữ gìn an ninh trật tự, đảm bảo giao

thông thông suốt trong các thành phố, thị xã, thị trấn... tổ chức Đoàn Thanh niên

các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa – Long Khánh, Tân Phú (lúc này tỉnh Đồng Nai chƣa

thành lập) đã đặc biệt coi trọng công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng, làm chuyển

biến một bƣớc nhận thức của thanh niên trong tỉnh. Với nhiều hình thức giáo dục

phù hợp, tổ chức Đoàn các địa phƣơng đã thu hút 255.029 lƣợt đoàn viên, hội viên,

thanh niên học sinh tham gia các buổi báo cáo chuyên đề, hội thảo về các nội dung

nhƣ “Vai trò của thanh niên trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nƣớc và hiện nay”,

“Tiểu sử Bác Hồ”, “5 điều Bác Hồ dạy thanh, thiếu niên”, “Thắng lợi vĩ đại của

dân tộc ta”... Có những nội dung hết sức cụ thể và thiết thực đối với công cuộc xây

dựng lại quê hƣơng, nhƣ “Tầm quan trọng của công tác thủy lợi đối với sự nghiệp

xây dựng đất nƣớc giàu mạnh, xã hội chủ nghĩa”. “Thanh niên với các công trình

thủy lợi” v.v.. 70.000 lƣợt các em thiếu nhi các địa phƣơng cũng đã tham gia các

đợt sinh hoạt học tập về “5 điều Bác Hồ dạy”, “Gƣơng anh hùng măng non trong

lịch sử”, “Điều lệ Đội, nghi thức Đội”... đạt tỷ lệ 80% tổng số thiếu nhi trong các

địa phƣơng.

Đi đôi với công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng, các cơ sở Đoàn ở các địa

phƣơng đã tổ chức cho thanh niên đi vào 4 phong trào hành động cách mạng, trong

đó có phong trào “Truy quét tàn binh địch”, phong trào “Lao động sản xuất”,

phong trào “Vui khoẻ”... góp phần lôi cuốn đông đảo thanh niên các địa phƣơng nỗ

lực tham gia hàn gắn những vết thƣơng của cuộc chiến tranh 30 năm để lại. Hàng

ngàn thanh niên ở các huyện Vĩnh Cửu, Xuân Lộc... đã tham gia vào các đội thanh

niên xung kích an ninh, truy quét tàn binh địch dƣới nhiều hình thức. Nhiều đoàn

viên, thanh niên đã đi sâu tìm hiểu, phát hiện những tên ác ôn, có nợ máu trƣớc

đây, hiện nay vẫn còn lẩn trốn không chịu trình diện cải tạo. Tại Gia Tân, Trảng

Bom, Hố Nai, Thiện Tân... thanh niên đã tham gia truy bắt 107 tên địch đang lẩn

trốn. Ở Vĩnh Cửu, 3 tên địch có vũ khí đang lẩn trốn cũng bị tóm gọn. Đoàn viên,

thanh niên huyện Tân Phú cùng lực lƣợng vũ trang địa phƣơng truy quét, diệt gọn

cả một tiểu đoàn “vũ trang phục quốc” do địch mới nhen nhóm. Thanh niên các địa

phƣơng còn khám phá cả hầm chứa vũ khí địch chôn giấu, phát hiện bọn buôn lậu,

bọn vƣợt biên trốn đi nƣớc ngoài. Công tác thanh lọc làm trong sạch đội ngũ cũng

đƣợc các cơ sở Đoàn và tổ chức Hội Thanh niên Giải phóng quan tâm. Riêng Hội

Thanh niên Giải phóng đã loại ra khỏi tổ chức của mình 374 tên ngụy chui vào

hàng ngũ.

Trong phong trào “Lao động sản xuất”, thanh niên các địa phƣơng đã hăng

hái tổ chức các hình thức làm công tác xã hội. Thanh niên các thành phố, thị xã, thị

trấn mở chiến dịch “Làm đẹp thành phố”, thu hút hàng ngàn nam nữ thanh niên và

các em thiếu nhi thu dọn, sửa chữa, giữ gìn đƣờng phố luôn phong quang, sạch

133

đẹp; trên nhiều đƣờng phố, thanh niên đã tổ chức trồng cây gây bóng mát, làm

cổng chào; thu hồi, tiêu hủy các loại văn hóa phẩm đồi trụy, phản động. Hàng vạn

ấn phẩm, sách báo, tranh ảnh phản động, trụy lạc, hàng ngàn băng nhạc, đĩa hát

nhạc đƣợc thanh niên thu gom, tiêu hủy. Thanh niên các địa phƣơng đã tích cực

tham gia sản xuất vụ Đông Xuân đạt hiệu quả thiết thực, góp phần nhanh chóng ổn

định đời sống nhân dân. Trong đó 4.700 thanh niên, học sinh, sinh viên, giáo viên

huyện Châu Thành đã tham gia phong trào vét mƣơng, đắp đập cho các cánh đồng

Don, Dầu. Ngoài nhiệm vụ sản xuất cùng gia đình, ở nhiều địa phƣơng, thanh niên

còn tổ chức sản xuất riêng một số sản phẩm, tham gia chăn nuôi heo, gà, vịt,

ngỗng; thanh niên học sinh Trƣờng cấp 2, 3 Xuân Lộc tham gia sản xuất rau cải,

nấm rơm... Thanh niên trong các nhà máy, xí nghiệp bên cạnh việc chăm lo giữ

gìn, bảo vệ máy móc, thiết bị, khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, đẩy mạnh sản

xuất, ổn định tình hình... còn tích cực tham gia phong trào sản xuất tự túc. Hàng

trăm thanh niên công nhân đã không quản mƣa nắng khai phá nhiều vùng đất

hoang hóa dọc tỉnh lộ số 2 để trồng mì, trồng bắp... góp phần giải quyết một phần

khó khăn về lƣơng thực trong những ngày đầu mới đƣợc giải phóng.

Phong trào văn hóa văn nghệ, vui chơi giải trí đƣợc thanh niên, các em thiếu

nhi các địa phƣơng đặc biệt hƣởng ứng sôi nổi, tạo nên không khí vui tƣơi lành

mạnh trong sinh hoạt cộng đồng. Một số địa phƣơng đã tổ chức những đêm hội

diễn với các tiết mục ca, múa, nhạc, kịch tự biên, nói lên niềm tự hào của thế hệ

đƣợc sống trong không khí hòa bình xây dựng, nguyện cùng nhau đem công sức

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tƣơi đẹp, ca ngợi công ơn của Đảng, của Bác Hồ đã

đem lại cuộc sống độc lập, tự do cho ngƣời dân hôm nay. Huyện Đoàn Châu

Thành còn có sáng kiến tổ chức ăn Tết hòa bình đầu tiên với chi hội Sinh viên,

Thanh niên Giải phóng, sau đó cùng đi thăm các gia đình có công với cách mạng,

gia đình thƣơng binh, liệt sĩ; chi hội sinh viên Bà Rịa phối hợp với Đoàn Trƣờng

Nguyễn Trãi tổ chức đêm văn nghệ gây quĩ giúp đỡ các gia đình nghèo, đƣợc đông

đảo nhân dân trong vùng tích cực hƣởng ứng. Riêng ở huyện Xuân Lộc, các trƣờng

phổ thông cấp 2, 3 đã tổ chức Ban văn nghệ, phối hợp cùng Huyện Đoàn tổ chức

đêm văn nghệ, tạo nên không khí lạc quan cách mạng trong đông đảo thanh niên.

Huyện Đoàn còn tổ chức cho các em thiếu nhi tham gia hội trại, với 165 em tham

dự...

Tháng 12–1975, tỉnh Đồng Nai đƣợc thành lập trên cơ sở sáp nhập 3 tỉnh:

Biên Hòa, Bà Rịa – Long Khánh và Tân Phú và chính thức đi vào hoạt động từ

ngày 1 tháng 1 năm 1976. Khi mới thành lập, tỉnh gồm các đơn vị hành chính là:

thành phố Biên Hòa, thị xã Vũng Tàu, các huyện Châu Thành, Long Đất, Thống

Nhất, Xuân Lộc, Long Thành, Duyên Hải, Vĩnh Cửu và Tân Phú. Trong 1.275.000

ngƣời dân của toàn tỉnh thời kỳ này có 327.939 thanh niên độ tuổi từ 16 đến 30,

134

chiếm 1/4 dân số, gồm đủ các thành phần: công nhân, nông dân, học sinh, tiểu

thƣơng... Số dân có nguồn gốc tại địa phƣơng chỉ chiếm 50% dân số, còn lại là dân

di cƣ và số di dân trong các thời kỳ chiến tranh ác liệt, Mỹ–ngụy gom tát đến.

Trong đó, dân theo đạo Phật, đạo Công giáo chiếm đa số.

Tổ chức Đoàn Thanh niên theo cơ cấu tỉnh mới nhanh chóng đƣợc ổn định,

hình thành 8 Ban, trong đó Ban Thiếu nhi và Ban Công nghiệp đã từng bƣớc đi vào

hoạt động tƣơng đối rõ nét. Ban chấp hành Tỉnh Đoàn cũng đƣợc hoàn thiện gồm

có 21 ủy viên, do đồng chí Nguyễn Việt Nhân làm Bí thƣ, các đồng chí Trần Thị

Minh Hoàng và Thái Văn Dũng làm Phó bí thƣ. Các đồng chí Phạm Điền Sơn,

Huỳnh Văn Quân, Hoàng Thanh Ngọc, Huỳnh Lang Anh là ủy viên Ban Thƣờng

vụ. Tổ chức Đoàn các huyện cũng từng bƣớc đƣợc củng cố và phát triển, trong đó

có 10 huyện và khu công nghiệp Biên Hòa đã có Ban chấp hành, tuy mỗi huyện

mới chỉ có 1 – 2 cán bộ chủ chốt.

Hệ thống tổ chức Đoàn bƣớc đầu đƣợc hoàn thiện đã góp phần chỉ đạo phong

trào thanh niên trong tỉnh có những chuyển biến tích cực. Bƣớc sang năm 1976,

sau khi tỉnh mới đƣợc thành lập, tổ chức Đoàn Thanh niên tỉnh Đồng Nai đã phát

động rộng rãi trong thanh niên toàn tỉnh phong trào hành động cách mạng, bao

gồm:

– Phong trào Lao động tình nguyện xây dựng Tổ quốc.

– Phong trào Quyết thắng.

– Phong trào Học tập.

– Phong trào Rèn luyện thân thể và thực hiện nếp sống mới.

Trong đó, phong trào Lao động tình nguyện xây dựng Tổ quốc đƣợc cụ thể

hóa theo 3 nội dung là: Tình nguyện lao động vƣợt mức kế hoạch; tình nguyện gia

nhập thanh niên xung phong xây dựng vùng kinh tế mới và nông trƣờng; tình

nguyện lao động cộng sản chủ nghĩa.

Ngay từ những ngày đầu năm, phong trào tình nguyện lao động vƣợt mức kế

hoạch đã diễn ra sôi nổi ở một số cơ sở xí nghiệp và nhanh chóng lan rộng trong

thanh niên công nhân Khu Công nghiệp Biên Hòa và thanh niên trong các đồn điền

cao su vùng Xuân Lộc. Thực hiện khẩu hiệu: “Xí nghiệp là nhà, công nhân là chủ”

gần 4.000 thanh niên công nhân các nhà máy, xí nghiệp trong Khu Công nghiệp

Biên Hòa đã không ngừng thi đua sản xuất, cải tiến kỹ thuật, phát huy nhiều sáng

kiến cải tiến, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu. Ở nhiều cơ

sở, thanh niên công nhân đã tổ chức gom những phế liệu đem chế biến lại, sản xuất

ra những mặt hàng cần thiết, góp phần tiết kiệm đƣợc hàng ngàn đồng, vừa đảm

bảo cho nhà máy duy trì hoạt động trong điều kiện thời kỳ đầu sau giải phóng

135

nguyên vật liệu chƣa đƣợc cung cấp đầy đủ. Chỉ trong một đợt thi đua tăng năng

suất lao động, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm... chào mừng Hội nghị

Hiệp thƣơng thống nhất hai miền Nam Bắc Tổ quốc, đoàn viên, thanh niên công

nhân Nhà máy Vikyno đã bằng nhiều hình thức đƣa năng suất lao động tăng lên

gấp 32 lần, hoàn thành 100 chiếc máy cày Đại thắng 5A và tiết kiệm đƣợc hàng

ngàn đồng (theo giá trị năm 1976). Trong quá trình phấn đấu hoàn thành vƣợt mức

kế hoạch đƣợc giao, thanh niên công nhân Nhà máy Vikyno đã phát huy 98 sáng

kiến các loại, làm thêm 4.531 giờ, trong đó có trên 2.000 giờ không hƣởng lƣơng.

Cũng trong phong trào thi đua lao động sản xuất vƣợt mức kế hoạch, đoàn viên,

thanh niên công nhân Nhà máy Cogivina đã phát huy 92 sáng kiến có giá trị. Trong

đó có sáng kiến cải tiến lƣới lọc bột giấy, một công việc khó khăn, chính các kỹ sƣ

làm việc lâu năm trong Nhà máy cũng chƣa dám nghĩ đến, chƣa dám làm, nhƣng

chi đoàn thanh niên đã cùng tập thể thanh niên trong Nhà máy dám đảm nhận và đã

thực hiện thành công, làm lợi cho Nhà máy 30 tấn bột giấy. Nhiều thanh niên công

nhân nhƣ Huỳnh Văn Hòa, vốn trƣớc đây thƣờng bị coi thƣờng, chỉ đƣợc làm thợ

phụ, tay nghề không đƣợc sử dụng, cứ mai một dần. Đƣợc tổ chức Đoàn Nhà máy

động viên, đƣợc giao các phần việc cụ thể trong dây chuyền sản xuất, anh trở nên

hoạt bát hẳn, lúc nào cũng miệt mài với công việc, cũng tìm tòi phát huy nhiều

sáng kiến, cải tiến có giá trị, góp phần giải toả những khó khăn trong quá trình sản

xuất. Hòa còn tham gia làm thêm giờ không hƣởng lƣơng để kịp hoàn thành những

công trình do Đoàn Thanh niên Nhà máy đảm nhận, tham gia thu gom nguyên vật

liệu, cố gắng tiết kiệm trong sản xuất... vì anh nghĩ: “Bây giờ mình làm cho nhà

máy của mình, cho đất nƣớc mình, không phải làm cho bọn tƣ bản nƣớc ngoài nhƣ

trƣớc đây. Dù mình có làm thêm ngày công cũng không thấm tháp gì so với anh

em thanh niên trƣớc đây đã đổ xƣơng máu trong các cuộc chiến đấu chống giặc

Pháp và chống giặc Mỹ”. Chính với tinh thần làm chủ ấy mà thanh niên công nhân

ở Khu Công nghiệp Biên Hòa, ở các đồn điền cao su đã chắt chiu từng sáng kiến

cải tiến, đã thu gom từng chiếc bulông, con tán rơi vãi; gom góp từng mảnh giấy

vụn để tích tiểu thành đại, chế biến đƣợc 30,5 tấn giấy báo phục vụ đời sống xã

hội.

Ở nhiều cơ sở, tổ chức Đoàn trong các nhà máy, xí nghiệp đã mạnh dạn đảm

nhận nhiều công trình phần việc thiết thực thúc đẩy quá trình sản xuất của đơn vị.

Chỉ riêng thanh niên công nhân Khu Công nghiệp Biên Hòa trong năm 1976 đã

đảm nhận 24 công trình có giá trị kinh tế cao. Đáng chú ý là công trình khoan lỗ

thân hộp số máy cày Đại Thắng 5A của thanh niên công nhân Nhà máy Vikyno;

công trình 120 thân máy của thanh niên công nhân Nhà máy Vinapro; công trình

250 thân máy TS 60C thực hiện trong 28 ngày, vƣợt năng suất 120% so với kế

hoạch; công trình lập hệ thống hút khí Amôniac sử dụng Sulphát đồng nội địa... là

136

những công trình nổi bật đƣợc ghi vào sổ vàng lập công của thanh niên Đồng Nai

dâng lên Đại hội đại biểu lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam (tháng 12–1976).

Một nét mới đang xuất hiện ngày càng phổ biến trong thanh niên công nhân,

thanh niên đƣờng phố, thanh niên trong các trƣờng học là phong trào lao động xã

hội chủ nghĩa, nhận thêm việc, làm thêm giờ. Chỉ trong 3 nhà máy ở Khu Công

nghiệp Biên Hòa trong 6 tháng đầu năm 1976, thanh niên công nhân đã làm thêm

25.438 giờ lao động xã hội chủ nghĩa. Tổ chức Đoàn ở các thành phố, thị xã, thị

trấn đã huy động 76.751 ngày công tham gia làm vệ sinh đƣờng phố, khai thông

cống rãnh, xây dựng trụ sở, phòng thông tin, sửa chữa, nâng cấp trƣờng học, bệnh

viện... góp phần ổn định cuộc sống nhân dân sau ngày giải phóng.

Cũng trong 6 tháng đầu năm 1976, đã có 21.332 thanh niên tình nguyện đi

xây dựng vùng kinh tế mới Bàu Lâm, Xuyên Mộc, Cu Nhí có thời hạn. Đến 6

tháng cuối năm 1976, thanh niên các địa phƣơng đã nâng phong trào tình nguyện

đi xây dựng vùng kinh tế mới ngắn ngày lên dài ngày. Riêng thành phố Biên Hòa

đã có 15.084 thanh niên đăng ký tình nguyện đi xây dựng vùng kinh tế mới dài

hạn. Tổ chức Đoàn Thanh niên ở thành phố Biên Hòađã tổ chức thành những đội

hình Thanh niên xung phong tham gia xây dựng vùng kinh tế mới theo hai hình

thức không thoát ly và thoát ly dài hạn, thu hút nhiều đối tƣợng thanh niên, trong

đó có cả những thanh niên là tệ nạn xã hội, xì ke, ma tuý trƣớc đây, những thanh

niên từng đi lính cho chế độ ngụy... tình nguyện tham gia, tích cực cải tạo trở thành

những ngƣời lao động có ích cho xã hội. Có nhiều thanh niên chậm tiến trƣớc đây

đã trở thành thanh niên tiên tiến, có ngƣời đƣợc kết nạp vào tổ chức Đoàn Thanh

niên.

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, thanh niên nông thôn Đồng Nai đã vƣợt

qua nhiều khó khăn, khắc phục những tập quán lạc hậu, cải tạo thiên nhiên, cải tạo

đồng ruộng, từng bƣớc đƣa nền sản xuất nông nghiệp, ngƣ nghiệp của tỉnh đi vào

sản xuất ổn định. Đồng Nai là một vùng đất trù phú, có trên 823.000 héc ta diện

tích trồng trọt; có nhiều đồn điền cao su chạy dọc theo tỉnh lộ số 2, các Quốc lộ 1,

20; có nhiều vƣờn cây ăn trái nổi tiếng ở Xuân Lộc, Long Thành, Tân Phú, Châu

Thành, nhƣ bƣởi Tân Triều, sầu riêng Long Khánh, chôm chôm Long Thành...

Nhƣng năm 1975, nhân dân trong tỉnh phải chịu cảnh thiếu đói tới 9 tháng. Đảng

bộ Đồng Nai quyết tâm lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất lƣơng thực, đảm bảo

đời sống nhân dân, phát động rộng rãi phong trào sản xuất vụ Đông Xuân 1976.

Thực hiện quyết tâm của Đảng, trên 103.000 đoàn viên, thanh niên ở hầu khắp các

huyện, thành phố, thị xã, thị trấn trong tỉnh đã tình nguyện đến các công trình thủy

lợi, đắp đập, đào mƣơng, dẫn nƣớc vào đồng.

Chỉ trong một thời gian ngắn ra quân làm thủy lợi, đoàn viên, thanh niên

Đồng Nai đã cùng bà con cô bác trong tỉnh đắp 14 đập, làm 33 kênh mƣơng, dài 74

137

km, với khối lƣợng đào đắp tới 51.323 m3 đất, góp phần biến 7.590 héc ta ruộng

lúa một vụ thành 2 vụ. Trong phong trào ra quân làm thủy lợi, đoàn viên, thanh

niên các địa phƣơng đã thể hiện rõ vai trò xung kích cách mạng của tuổi trẻ trong

điều kiện mới. Ở huyện Thống Nhất, hàng ngày thƣờng xuyên có 2.000 đoàn viên,

thanh niên đƣợc huy động lên các công trƣờng. Có gia đình có 4–5 thanh niên thì

cả 4 – 5 ngƣời đều tình nguyện lên công trƣờng. Lâm Văn Nguyên, một thanh niên

Công giáo di cƣ, sống dƣới chế độ Mỹ, ngụy đã từng bị chúng đầu độc lừa mị. Quê

hƣơng đƣợc giải phóng, Nguyên không khỏi có những mặc cảm. Nhƣng rồi thực tế

cuộc sống đã cho anh thấy rõ trắng đen. Anh hăng hái tình nguyện lên công trƣờng

làm thủy lợi cùng đông đảo đoàn viên, thanh niên ở địa phƣơng. Ở huyện Xuân

Lộc, tổ chức Đoàn chỉ yêu cầu 40 em học sinh tham gia làm thủy lợi, nhƣng tất cả

học sinh Trƣờng cấp II, III Xuân Lộc đã xin đƣợc cùng tham gia. Ai không đƣợc

tham gia thì cảm thấy nhƣ mình bị bỏ rơi, phải giải thích nhiều lần các em mới yên

tâm ở lại học tập. Không chỉ nô nức xung phong đi làm thủy lợi, ngay cả khi nhìn

thấy con đập bị nƣớc lũ làm vỡ, các em học sinh Trƣờng cấp II, III Xuân Lộc cũng

đã không quản ngại nguy hiểm, cùng nhảy xuống vật lộn với sóng lũ để cứu đập,

cứu lúa.

Cùng với phong trào làm thủy lợi, phong trào làm phân bón cũng đƣợc thanh

niên các địa phƣơng quan tâm phát triển với nhiều hình thức và biện pháp có hiệu

quả. Trƣớc đây, ngƣời dân Đồng Nai vốn vẫn quen sử dụng phân hóa học để bón

ruộng. Đoàn viên và thanh niên các địa phƣơng trong tỉnh đã dấy lên phong trào

làm phân xanh rộng khắp. Từ huyện Long Thành, thanh niên xã Vĩnh Thanh luôn

dẫn đầu phong trào. Nhiều kiện tƣớng làm phân xanh xuất hiện. Thi đua với Long

Thành, thanh niên huyện Thống Nhất cũng nhanh chóng vƣơn lên mạnh mẽ, chỉ

trong 6 tháng cuối năm 1976 đã làm đƣợc 1.550 tấn phân xanh, kịp thời phục vụ vụ

sản xuất Đông Xuân.

Mặc dù đƣợc sống trong hòa bình, thanh niên Đồng Nai vẫn không ngừng

nâng cao cảnh giác, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong phong trào thi đua Quyết thắng, bên cạnh việc không ngừng tham gia truy

quét tàn binh địch, bọn phản động tìm cách quấy phá cuộc sống của nhân dân, đấu

tranh chống lại những nọc độc văn hóa phẩm đồi trụy, phản động... thanh niên các

địa phƣơng đều coi việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là trách nhiệm và quyền lợi

của mỗi ngƣời. Chỉ trong những tháng cuối năm 1976 đã có 5.000 đoàn viên, thanh

niên lên đƣờng, đạt 100% chỉ tiêu đƣợc giao.

Nhiều đoàn viên, thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang, trong điều kiện hòa

bình vẫn tỏ ra vững vàng trƣớc mọi thử thách, và cả những cám dỗ đời thƣờng, ra

sức rèn luyện phẩm chất, đạo đức, rèn luyện nâng cao kỹ năng chiến đấu, bảo vệ

cuộc sống bình yên của nhân dân. Trong công tác giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã

138

hội, nhiều đoàn viên, thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang đã tỏ ra vô cùng dũng

cảm, mƣu trí kịp thời xử lý các tình huống xảy ra, nhƣ trƣờng hợp chiến sĩ công an

Trần Quốc Khải, khi một kho đạn bốc cháy, đã không quản nguy hiểm, dẫn đầu

đồng đội xông đến dập tắt lửa, cứu kho đạn, đảm bảo sự bình yên cho nhân dân

trong khu vực. Không chỉ dũng cảm trong khi làm nhiệm vụ, trong đời thƣờng,

Trần Quốc Khải cũng luôn tỏ ra là một chiến sĩ công an mẫu mực. Nhặt đƣợc cả

một xấp tiền, Khải cũng đã tìm cách trả tận tay ngƣời đánh rơi, nêu một tấm gƣơng

sáng về phẩm chất của ngƣời công an trong xã hội mới.

Tháng 7–1976, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã tổ

chức Đại hội thanh niên tiên tiến toàn tỉnh lần thứ nhất, đánh giá phong trào thanh

niên trong tỉnh sau một năm hoàn toàn đƣợc giải phóng. Đại hội đã biểu dƣơng 68

tập thể và 508 cá nhân tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Đồng Nai trong thời kỳ mới,

thời kỳ nỗ lực vƣợt bậc hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, xây dựng quê hƣơng Đồng

Nai trở thành một tỉnh giàu và mạnh, xứng đáng với những tiềm năng vốn có và

những truyền thống khai canh mở đất, truyền thống giữ đất giữ làng hàng trăm

năm để lại. Chỉ một năm sau ngày giải phóng, thanh niên Đồng Nai đã thật sự đổi

đời, vƣợt lên tất cả mọi khó khăn, gian khổ, một lòng hƣớng theo tiếng gọi của

Đảng, của Đoàn mà nỗ lực phấn đấu, không ngừng vƣơn lên, trở thành lực lƣợng

xung kích cách mạng trong mọi nhiệm vụ, lao động sản xuất, đảm bảo trật tự an

ninh và an toàn xã hội, xây dựng nếp sống mới lành mạnh... góp phần nhanh chóng

ổn định cuộc sống nhân dân vùng mới giải phóng.

Thông qua hoạt động thực tiễn, tổ chức Đoàn và công tác đoàn kết tập hợp

thanh niên đã có những bƣớc phát triển đáng chú ý. Riêng công tác phát triển đoàn

viên đã tăng lên gấp 3 lần năm 1975. Cuối năm 1975, toàn tỉnh có 1.500 đoàn viên,

đến cuối năm 1976, số đoàn viên trong toàn tỉnh đã tăng lên 4.500 đồng chí. Riêng

đợt kết nạp đoàn viên chào mừng Đại hội đại biểu lần thứ IV Đảng Lao động Việt

Nam (tháng 12–1976) số lƣợng đoàn viên đƣợc kết nạp đã tăng hơn tháng bình

thƣờng gấp 2 lần, có 300 thanh niên đƣợc kết nạp vào Đoàn, góp phần xoá nhiều

cơ sở trắng. Đến năm 1977, trong toàn tỉnh đã có 624 chi đoàn, trong đó có 298 chi

đoàn thuộc các cơ quan Nhà nƣớc, 156 chi đoàn ở các phƣờng, xã, 52 chi đoàn

trƣờng học, 54 chi đoàn xí nghiệp và 64 chi đoàn quân đội, với tổng số 10.436

đoàn viên. Trong đó, khối cơ quan có 3.302 đoàn viên, khối xã, phƣờng có 2.170

đoàn viên, khối trƣờng học có 889 đoàn viên. Ngoài ra, còn có 676 đoàn viên trong

các xí nghiệp công nghiệp, 1.347 đoàn viên làm việc tại các nông trƣờng, 987 đoàn

viên tại các vùng kinh tế mới và 865 đoàn viên trong lực lƣợng vũ trang. Công tác

đoàn kết tập hợp thanh niên ngày càng đƣợc các cấp bộ Đoàn coi trọng. Riêng

trong năm 1976, đã phát triển đƣợc 21.974 hội viên. Một số địa phƣơng, nhƣ

huyện Thống Nhất, đã đi sâu vận động tập hợp thanh niên Công giáo có hiệu quả.

139

Nhiều thanh niên theo đạo đã tích cực tham gia các công tác do Đoàn Thanh niên

tổ chức, thực hiện “tốt đời đẹp đạo”. Đến năm 1977, tổng số hội viên đã phát triển

lên tới 68.047 thanh niên (chỉ thống kê ở 6 huyện).

Đi đôi với củng cố, phát triển tổ chức Đoàn, tổ chức Hội, các cấp bộ Đoàn

đều coi trọng công tác Đội và phong trào thiếu nhi. Phần lớn thiếu nhi trong độ

tuổi đều đƣợc tập hợp rộng rãi vào tổ chức Đội ở trong trƣờng học hoặc tổ chức

Đội ở xã, ấp. Lấy 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng làm nội dung cơ bản, tổ

chức Đoàn các địa phƣơng đã đặc biệt coi trọng giáo dục rèn luyện các em trở

thành những con ngoan, trò giỏi, phấn đấu trở thành những con ngƣời phát triển

toàn diện, những cháu ngoan Bác Hồ. Chỉ tính đến tháng 5 – 1976, đã có trên

70.000 lƣợt thiếu niên, nhi đồng, chiếm 80% tổng số thiếu niên, nhi đồng trong

tỉnh tham gia các đợt sinh hoạt chính trị theo các chủ đề, nhƣ học 5 điều Bác Hồ

dạy thiếu niên, nhi đồng; truyền thống 35 năm Đội lớn lên cùng đất nƣớc; gƣơng

anh hùng măng non và lịch sử; nghi thức và điều lệ Đội... Thiếu niên, nhi đồng ở

nhiều địa phƣơng không những nỗ lực trong học tập, rèn luyện, còn tích cực tham

gia các công tác xã hội, nhất là công tác Trần Quốc Toản, tham gia sửa sang các

nghĩa trang liệt sĩ, thăm hỏi, giúp đỡ các gia đình chính sách có hoàn cảnh khó

khăn. Các em còn tổ chức tham gia các buổi lao động xã hội chủ nghĩa, cùng các

anh chị thanh niên làm vệ sinh đƣờng phố, ngõ xóm, khơi thông cống rãnh. Một số

cơ sở, nhƣ ở Trƣờng cấp II, III Xuân Lộc từ chỗ tổ chức những hình thức sản xuất

nhỏ, trồng những bồn hoa, luống rau bán lấy tiền gây quĩ hoạt động, các em đã tiến

lên tìm kiếm những khoảng đất trống để trồng mì, trồng bắp vừa lấy tiền gây quĩ

Đội, vừa đƣợc rèn luyện trong lao động... Tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ

Chí Minh, nhờ đó đã không ngừng phát triển cả về tổ chức cũng nhƣ chất lƣợng

hoạt động. Đến cuối năm 1976, toàn tỉnh đã xây dựng đƣợc 100 liên đội, 473 chi

đội, 686 phân đội với 20.353 đội viên. Đến năm 1977, con số đó đã tăng lên 110

liên đội, 865 chi đội, 3.354 phân đội, với 32.062 đội viên và 1.955 cán bộ Tổng

phụ trách, trong đó có trên 1.000 ngƣời đã đƣợc tập huấn nghiệp vụ công tác.

Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ là một việc làm luôn đƣợc đặt ra cấp bách

đối với một tỉnh vừa đƣợc giải phóng, sau nhiều năm chiến tranh ác liệt, tổ chức

Đoàn chậm phát triển. Ngay từ năm 1975, tổ chức Đoàn các cấp trong tỉnh đã mở

nhiều lớp đào tạo cán bộ cho cơ sở. Riêng các huyện, phần lớn đều mở các lớp

ngắn ngày có tính chất bổ túc nghiệp vụ công tác Đoàn cho cán bộ chi đoàn. Năm

1976, các huyện đã tổ chức tập huấn cho 3.092 cán bộ từ chi đoàn trở xuống. Một

số huyện còn tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho cơ sở, nhƣ

huyện Long Thành đã tổ chức tập huấn về phƣơng pháp làm phân xanh cho 1.000

cán bộ, đoàn viên, thanh niên của các xã, tạo điều kiện để các địa phƣơng phát

triển phong trào đi vào chiều sâu.

140

II. ĐẠI HỘI ĐOÀN TOÀN TỈNH LẦN THỨ NHẤT ĐÃ KHẲNG

ĐỊNH VAI TRÕ CỦA TỔ CHỨC ĐOÀN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH

MẠNG MỚI.

Tháng 12–1976, Đại hội đại biểu lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam đã

quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đó, tổ chức Đoàn

trong cả nƣớc cũng đƣợc mang tên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (trƣớc

đó là Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh).

Tháng 8 năm 1977, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai

đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn tỉnh lần thứ nhất. Đại hội đã tập trung đánh giá

những cống hiến của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai từ Đại

hội lần thứ III Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, tháng 3–1961 đến thời kỳ 2

năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (tháng 5–1975 – tháng 8–1977).

Trải qua 16 năm kiên cƣờng vƣợt qua nhiều gian khổ, thử thách ác liệt, tổ chức

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã không ngừng trƣởng

thành về mọi mặt, trở thành trƣờng học cộng sản chủ nghĩa của thanh niên, là đội

quân xung kích, đi đầu trong việc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng mà Đảng

đã vạch đƣờng chỉ lối, là đội hậu bị đáng tin cậy của Đảng, có khả năng lôi cuốn,

tập hợp đông đảo thanh niên vƣơn lên hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng giải

phóng dân tộc, cũng nhƣ trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ

nghĩa xã hội, thể hiện rõ phẩm chất anh hùng của thế hệ trẻ trong thời kỳ mới của

cách mạng, luôn đi đầu, dám đột phá vào những nhiệm vụ to lớn đang đặt ra cho

Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai.

Sau khi chỉ ra những bài học kinh nghiệm thành công và những tồn tại trong

quá trình xây dựng và trƣởng thành, Đại hội Đoàn toàn tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất

đã khẳng định quyết tâm của toàn Đoàn, của thế hệ trẻ Đồng Nai, nỗ lực vƣơn lên

“Phát huy quyền làm chủ tập thể của thanh niên và vai trò nòng cốt của Đoàn,

thực hiện tốt chế độ làm chủ tập thể, đẩy mạnh công tác giáo dục cộng sản chủ

nghĩa cho thanh niên, động viên tổ chức tuổi trẻ thành đội quân xung kích trong 3

cuộc cách mạng, tạo ra sự chuyển biến mới trong phong trào thanh niên và công

tác Đoàn tại địa phương; nỗ lực phát triển đoàn viên mới, xây dựng và củng cố tổ

chức Đoàn vững mạnh, đều khắp; khẩn trương đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; tăng

cường đoàn kết rộng rãi thanh niên trong các phong trào hành động cách mạng, tổ

chức và giáo dục thiếu niên nhi đồng; quyết tâm thực hiện thắng lợi kế hoạch 2

năm do Tỉnh Đảng bộ Đồng Nai đề ra, xây dựng Đồng Nai thành một tỉnh có công,

nông nghiệp giàu mạnh, góp phần xây dựng thắng lợi tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa”.

141

Đại hội Đoàn toàn tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất đã bầu 39 đồng chí vào Ban

chấp hành Tỉnh Đoàn khóa I (có 2 dự khuyết). Đồng chí Trần Thị Minh Hoàng đã

đƣợc bầu làm Bí thƣ Tỉnh Đoàn, các đồng chí Hoàng Thanh Ngọc, Phạm Điền Sơn

đƣợc bầu làm Phó bí thƣ Tỉnh Đoàn. Ban Thƣờng vụ Tỉnh Đoàn khóa I còn có các

đồng chí: Huỳnh Lang Anh, Đƣờng Nhƣ Tài, Huỳnh Công Trạch, Bùi Thế Ba,

Phạm Minh Tánh, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Văn Công, Phạm Thị Sơn. Khi

đồng chí Trần Thị Minh Hoàng đƣợc cử đi học dài hạn, đồng chí Huỳnh Công

Trạch đƣợc bầu làm Bí thƣ Tỉnh Đoàn, đồng chí Trần Văn Khánh đƣợc bầu làm

Phó bí thƣ và đồng chí Nguyễn Văn Lâm đƣợc bầu bổ sung vào Ban Thƣờng vụ

Tỉnh Đoàn.

Từ sau Đại hội Đoàn toàn tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất, tổ chức Đoàn và phong

trào thanh niên Đồng Nai ngày càng đi vào thế phát triển ổn định, trở thành lực

lƣợng xung kích đáng tin cậy của Đảng bộ trên mọi lĩnh vực sản xuất cũng nhƣ

đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh.

Trong điều kiện khó khăn nhiều mặt, đời sống nhân dân trong tỉnh sau ngày

hoàn toàn đƣợc giải phóng đã có nhiều cải thiện, nhƣng vẫn chƣa thật ổn định, thực

hiện chủ trƣơng của Tỉnh ủy Đồng Nai, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh, cũng nhƣ đoàn viên và thanh niên Đồng Nai đã tập trung mọi nỗ lực tác

động trực tiếp vào những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình sản xuất, trƣớc hết là

khâu thủy lợi, cải tạo đồng ruộng, khai hoang phục hóa, và nhất là cùng gia đình đi

vào con đƣờng làm ăn tập thể.

Những năm 1977–1979, công tác thủy lợi, cải tạo đồng ruộng đòi hỏi phải nỗ

lực rất lớn trên nhiều mặt. Riêng năm 1977, toàn tỉnh đã thực hiện 82 công trình

thủy lợi lớn nhỏ, với khối lƣợng đào đắp tới 689.552 m3 đất, xây dựng 3 tuyến

kênh mƣơng dài tổng cộng 111,5 km, phục vụ tƣới tiêu cho hàng vạn héc ta. Các

cơ sở Đoàn trong tỉnh đã phải huy động 68.288 lƣợt đoàn viên và thanh niên đóng

góp 220.424 ngày công cho nhiệm vụ trọng tâm thủy lợi. Trong đó, riêng huyện

Long Thành đã huy động 29.490 lƣợt đoàn viên, thanh niên đào đắp 400.000 m3

đất, thực hiện 60 công trình thủy lợi lớn nhỏ, đào đắp 60,7 km kênh mƣơng, 25 ao

chứa nƣớc và xây dựng 2 trạm bơm điện phục vụ tƣới nƣớc cho 4.000 héc ta; thanh

niên huyện Tân Phú đã đào đắp 93.746 m3 đất, hoàn thành việc xây dựng đập dâng

nƣớc Đồng Hiệp, ngoài ra còn đắp 3 con đê dài 7.271 mét...

Đi đôi với công tác thủy lợi, cải tạo đồng ruộng, các cấp bộ Đoàn Thanh niên

trong tỉnh Đồng Nai, thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy và Chƣơng trình hành động

10 điểm của Trung ƣơng Đoàn đã tổ chức, động viên thanh niên đẩy mạnh khai

hoang phục hóa, xây dựng những vùng kinh tế mới. Thanh niên huyện Long Thành

đã mở chiến dịch “Đồng khởi khai hoang”, với hàng ngàn đoàn viên, thanh niên

xung kích tập trung khai phá 600 héc ta diện tích hoang hóa. Công việc khai hoang

142

phục hóa ở nhiều địa phƣơng thực sự là một cuộc chiến đấu, đòi hỏi phải có tinh

thần quả cảm, dám lao vào những nơi khó khăn nguy hiểm mới thực hiện đƣợc, vì

những quả bom, mìn địch cài, rải còn sót lại không ít trên nhiều cánh đồng, trên

các nƣơng rẫy. Riêng ở huyện Long Thành, để giải phóng một diện tích 57 héc ta,

đoàn viên và thanh niên các địa phƣơng trong huyện đã phải phá gỡ tới 23.038 quả

bom, mìn các loại. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã không ngồi chờ các lực lƣợng

công binh về tháo gỡ. Đoàn viên, thanh niên xã Long Hƣơng, đoàn viên Phan Thị

Thới (xã Long Tân, cùng huyện Châu Thành) đã không quản nguy hiểm xung

phong tháo gỡ bom mìn, dọn đốt rẫy, để nhân dân kịp sản xuất.

Bên cạnh lực lƣợng thanh niên xung kích tham gia làm thủy lợi, khai hoang

phục hóa có thời hạn ở địa phƣơng, các cấp bộ Đoàn còn tổ chức lực lƣợng thanh

niên xung phong tham gia xây dựng các nông trƣờng, lâm trƣờng, các vùng kinh tế

mới. Đến năm 1978, đã có gần 5.000 đoàn viên, thanh niên tham gia các đơn vị

Thanh niên xung phong phục vụ tại 11 nông trƣờng quốc doanh của tỉnh. Nhiều

công, nông, lâm trƣờng đã mang tên thanh niên, nhƣ Lòng Tàu, Hiếu Liêm, An

Lợi... Trong đó, Công trƣờng thanh niên trồng đƣớc Lòng Tàu đƣợc triển khai từ

tháng 6–1978. Mới đầu, chỉ có 350 thanh niên của một số đơn vị cấp xã trực tiếp

hợp đồng với công trƣờng, năng suất đạt thấp, bình quân chỉ 200 m2/công. Sau 20

ngày lao động, 350 lao động chỉ phát dọn thực bì đƣợc 98 héc ta. Tỉnh Đoàn Đồng

Nai đã quyết tâm tập trung chỉ đạo thống nhất, lấy cấp huyện làm đầu mối tổ chức

lực lƣợng lao động trên công trƣờng. Ở cấp tỉnh, do một đồng chí Phó bí thƣ Tỉnh

Đoàn trực tiếp làm Trƣởng ban chỉ đạo. Trong thời gian 5 tháng (tính đến ngày 8–

11–1978), đã có 5.500 lƣợt đoàn viên, thanh niên trong toàn tỉnh tham gia, đóng

góp hàng chục ngàn ngày công lao động cho công trình, trong đó có cả thanh niên

học sinh, giáo viên các trƣờng phổ thông cấp III và các trƣờng chuyên nghiệp.

Đáng chú ý là có trên 1.000 thanh niên từng làm việc cho chế độ cũ đã học tập cải

tạo dài hạn đƣợc trả tự do, nhƣng chƣa đƣợc khôi phục quyền công dân cũng đã

tình nguyện đến công trƣờng lao động để đƣợc rèn luyện. Không ít thanh niên chƣa

quen lao động, chƣa quen cuộc sống tập thể, ăn chung một mâm, nằm chung một

chiếu, lúc mới đến công trƣờng 3 đêm liền không ngủ. Cuộc sống ở công trƣờng

hết sức gian khổ, khó khăn. Nơi ăn ở chỉ là những mái lá dừa không đủ che nắng

che mƣa. Nhiều lúc mƣa xuống, anh em thanh niên phải ngồi tựa lƣng vào nhau,

choàng ni lông che đỡ để qua đêm và hôm sau, cứ thế ra công trƣờng, với một khí

thế thi đua hăng say của những con ngƣời thực sự ý thức đƣợc công việc mình làm.

Theo chỉ tiêu qui định, cứ 35 thanh niên làm trong một ngày phải hoàn thành 1 héc

ta, nhƣng thanh niên xã Long Tân (Long Thành) có 25 lao động làm trong 1 ngày

đã hoàn thành 3 héc ta, bình quân mỗi ngƣời làm 1.000 m2; thanh niên học sinh

Trƣờng cấp III Long Thành chỉ làm trong 5 ngày cũng vƣợt chỉ tiêu 7 héc ta, bình

quân mỗi ngƣời làm 700 m2 (chỉ tiêu qui định 400 m

2/công). Riêng một em học

143

sinh lớp 10 của Trƣờng cấp III Nam Hà, mới 16 tuổi, trong một ngày cũng đã làm

đƣợc 800 m2.

Mặc dù không đạt đƣợc mục tiêu 1.500 héc ta nhƣ chỉ tiêu ban đầu, do có

những khó khăn khách quan, nhƣng với 1.050 héc ta đã thực hiện cũng cho thấy

khả năng của một lớp thanh niên mới, dám dấn thân vào những việc lớn, kể cả

những công việc vƣợt quá khả năng của mình và vẫn đảm bảo chất lƣợng kỹ thuật

theo yêu cầu, với 95% phát dọn thực bì và từ 85 – 95% trồng trái đƣớc đạt yêu cầu

của chuyên môn ngành Lâm nghiệp. Một con số không chỉ có ý nghĩa đối với khả

năng lao động của thanh niên, quan trọng hơn khẳng định ý chí của những con

ngƣời có thể tiến công vào mọi mặt của cuộc sống. Thông qua lao động, rèn luyện

trên công trƣờng đã có 300 thanh niên đƣợc kết nạp vào Đoàn, 230 thanh niên khác

đƣợc tham gia sinh hoạt trong tổ chức Hội Liên hiệp Thanh niên.

Một trong những biểu hiện cho tinh thần giác ngộ, khả năng tiếp thu cái mới

nhạy bén của thanh niên Đồng Nai thời kỳ sau khi đƣợc hoàn toàn giải phóng là

việc đông đảo thanh niên ở các địa phƣơng sẵn sàng đi vào con đƣờng làm ăn tập

thể, hơn thế đã tác động tích cực vận động gia đình, dòng tộc cùng hƣởng ứng chủ

trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc. Từ những hình thức sản xuất tập thể có tính riêng

biệt của tổ chức Đoàn nhƣ trồng bồn hoa, trồng rau, đậu... để gây quĩ, khi có chủ

trƣơng tổ chức làm ăn tập thể, tổ chức Đoàn cũng nhƣ đoàn viên và thanh niên ở

nhiều địa phƣơng sau khi học tập quán triệt đã hăng hái đăng ký vào làm ăn trong

các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.

Ấp Đất Mới (xã Long Phƣớc, huyện Long Thành) là cơ sở đƣợc chọn thí

điểm xây dựng hợp tác xã đầu tiên của tỉnh. Bên cạnh ấp Đất Mới, còn có bà con

xã Long Hƣơng cũng nhiệt tình hƣởng ứng phong trào hợp tác hóa. Nhận thức rõ

tính ƣu việt của con đƣờng làm ăn tập thể, từ các tổ vần đổi công, tổ đoàn kết sản

xuất, đoàn viên và thanh niên ấp Đất Mới cũng nhƣ đoàn viên, thanh niên xã Long

Hƣơng đã làm nòng cốt vận động gia đình và những ngƣời trong thân tộc, tiến lên

xây dựng tập đoàn sản xuất và sau đó thành lập hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.

Riêng ở Đất Mới đã có 73 đoàn viên, thanh niên trở thành những xã viên trẻ. Đi

vào con đƣờng làm ăn tập thể, đoàn viên và thanh niên trong các hợp tác xã càng

có điều kiện phát huy vai trò xung kích cách mạng, đi đầu thực hiện các biện pháp

sản xuất tiên tiến, từng bƣớc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ

vào quá trình gieo trồng và chăm sóc cây lúa. Năng suất cây trồng và vật nuôi của

hợp tác xã đƣợc nâng lên rõ rệt, phần lớn đều cao hơn hẳn các gia đình còn sản

xuất dƣới các hình thức cá thể.

Tổ chức Đoàn thông qua phong trào làm ăn tập thể đƣợc củng cố một bƣớc

vững chắc, đủ khả năng làm hạt nhân tập hợp, đoàn kết đông đảo thanh niên thực

hiện các nhiệm vụ chính trị đặt ra cho địa phƣơng. Từ một chi đoàn yếu, không

144

làm đƣợc công tác phát triển đoàn viên, Long Phƣớc (thời kỳ này, phần lớn các xã

chỉ có chi đoàn) đã trở thành một chi đoàn khá, với số lƣợng 55 đoàn viên và tập

hợp đƣợc 70% thanh niên vào tổ chức Hội. Ngoài ra, còn tổ chức đƣợc một liên

đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, thƣờng xuyên có những hoạt động phong

phú, lôi cuốn đƣợc đông đảo thiếu niên trong độ tuổi tham gia.

Từ điểm chỉ đạo Long Phƣớc (Long Thành) và điểm đột phá Long Hƣơng,

các cơ sở Đoàn ở các địa phƣơng đã kịp thời rút kinh nghiệm, phát huy vai trò

xung kích cách mạng của đoàn viên, thanh niên trong từng hộ gia đình, trong từng

dòng tộc làm nòng cốt vận động bố mẹ, anh em. Trong nhiều trƣờng hợp, thanh

niên đã phải kiên trì vừa thuyết phục, vừa đấu tranh phân tích phải trái để gia đình

cùng đồng tình thực hiện chủ trƣơng của Đảng. Đến tháng 12–1978, đã có 55.637

đoàn viên, thanh niên trong toàn tỉnh tham gia làm ăn trong 10 hợp tác xã, 508 tập

đoàn sản xuất. Ở các xã Xuân Tâm (Xuân Lộc), Gia Tân, Giang Điền (Thống

Nhất), Phú Điền (Tân Phú) 100% đoàn viên, thanh niên đã đi vào con đƣờng làm

ăn tập thể. Trong đó có 1.927 đoàn viên, 16.829 hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên

và 36.881 thanh niên.

Đoàn viên, thanh niên trong các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất đã có những

hoạt động thiết thực. Ở huyện Long Thành, phát huy vai trò lá cờ đầu trong phong

trào làm phân bón của tỉnh, đoàn viên và thanh niên nông thôn thƣờng xuyên có

nhiều hình thức khai thác nguồn phân tại chỗ, năm nào cũng hoàn thành vƣợt mức

chỉ tiêu làm phân bón. Năm 1977, tổ chức Đoàn các địa phƣơng trong huyện đã

huy động tập trung 22.698 lƣợt đoàn viên, thanh niên ủ đƣợc 50.511 tấn phân

xanh. Năm 1978, phong trào làm phân bón trong thanh niên nông thôn càng phát

triển mạnh mẽ. Toàn tỉnh đã có 567.206 lƣợt đoàn viên, thanh niên tham gia làm

đƣợc 68.114,5 tấn phân bón các loại, đạt gấp 3,5 lần so với chỉ tiêu đề ra, góp phần

khắc phục một bƣớc khó khăn về phân bón cho đồng ruộng. Sau lá cờ đầu Vĩnh

Thanh, đoàn viên và thanh niên các xã Gia Tân, Xuân Tâm, Đại Phƣớc và ở nhiều

địa phƣơng khác cũng đã từng bƣớc đƣa phong trào làm phân bón đi vào nề nếp

thƣờng xuyên.

Ở một số địa phƣơng, thanh niên nông thôn bắt đầu thí điểm xây dựng cánh

đồng thực nghiệm thanh niên, một hình thức hoạt động có khả năng phát huy toàn

diện vai trò của tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên, nhất là trong việc đi đầu

ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Đoàn viên,

thanh niên xã Lợi Hòac(Vĩnh Cửu) đã xây dựng cánh đồng thực nghiệm trên diện

tích 5 héc ta. Sau khi tiến hành cải tạo đồng ruộng, đảm bảo chủ động nguồn nƣớc

tƣới tiêu, đoàn viên, thanh niên xã Lợi Hòacđã đƣa giống mới IR.2153 vào gieo

cấy trên cánh đồng mẫu của mình và mặc dù một số biện pháp kỹ thuật liên hoàn

về xử lý giống, về phân bón... chƣa đƣợc tuân thủ chặt chẽ, nhƣng năng suất vẫn

145

đạt 8,5 tấn/ha, cao hơn hẳn ruộng đại trà. Cùng với Lợi Hòa, đoàn viên và thanh

niên xã Gia Tân và ở một số địa phƣơng khác cũng đã tiến hành cải tạo đồng

ruộng, xây dựng hoàn chỉnh bờ vùng, bờ thửa, áp dụng các biện pháp cải tạo đất...

xây dựng cánh đồng Thanh niên. Riêng huyện Thống Nhất đã huy động đƣợc

96.742 lƣợt đoàn viên, thanh niên đóng góp 100.258 ngày công đào đắp 63.533

mét bờ vùng, bờ thửa, với khối lƣợng 228.354 mét khối đất.

Cùng thi đua lao động sản xuất, thanh niên trong các ngành công nghiệp đã

đẩy mạnh phong trào “Tuổi trẻ xung kích làm chủ tập thể vƣợt mức kế hoạch”.

Trong điều kiện có nhiều khó khăn về nhiều mặt, nguyên vật liệu thiếu thốn, trong

khi chỉ tiêu đƣợc giao tăng lên gấp từ 2 đến 3 lần những năm trƣớc, tổ chức Đoàn

và đoàn viên, thanh niên trong các nhà máy, xí nghiệp đã tập trung mọi suy nghĩ,

phát huy tinh thần xung kích sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn phát huy và

ứng dụng nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm nguyên vật liệu, tận dụng mọi

nguồn phế thải thay thế nguyên vật liệu nhập để sản xuất. Thanh niên Nhà máy

Vinappro, Trụ bê tông, May Đồng Nai, Gạch ngói Đồng Nai... nhất là thanh niên

Nhà máy Thanh Thanh (gạch men) đã có nhiều sáng kiến có giá trị, góp phần khắc

phục nhiều khó khăn về thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, về thiếu nguyên vật liệu, sản xuất

đƣợc nhiều mặt hàng thiết yếu, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong

đó có những sáng kiến, nhƣ sáng kiến sử dụng phế thải Khu Công nghiệp thay thế

nguyên vật liệu nhập ngoại trong sản xuất gạch men của thanh niên Nhà máy

Thanh Thanh, tiết kiệm đƣợc 121.000 đồng (giá cố định năm 1978), đƣợc gửi tham

dự triển lãm “Tuổi trẻ sáng tạo” của thanh niên các nƣớc xã hội chủ nghĩa tổ chức

ở Liên Xô (cũ) và đã đƣợc tặng thƣởng huy chƣơng.

Trong các cơ sở cao su, tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên đã nỗ lực khắc

phục nhiều khó khăn, luôn tìm tòi sáng tạo, đảm bảo năng suất lao động thƣờng

xuyên đƣợc nâng cao. Riêng 6 tháng đầu năm 1978, đã hoàn thành vƣợt mức kế

hoạch đƣợc giao 50 tấn mủ. Đến tháng thứ 9 của năm 1978, đã có 75 tổ, 840 đoàn

viên, thanh niên hoàn thành kế hoạch năm trƣớc thời hạn. Thanh niên công nhân ở

các nông trƣờng cao su thƣờng xuyên tổ chức làm tăng thêm giờ, thêm ngày để kịp

hoàn thành những phần việc trong các khâu sản xuất. Ngoài ra, đoàn viên và thanh

niên các nông trƣờng cao su còn khai hoang và trồng mới đƣợc 2.978 héc ta cao

su.

Một trong những nét nổi bật của thanh niên công nhân trong các nhà máy, xí

nghiệp thời kỳ này là đã phát triển phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi và phong

trào xây dựng tập thể thanh niên xã hội chủ nghĩa. Tuy bƣớc đầu mới đƣợc triển

khai nhƣng phong trào “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi” đã có sức cuốn hút đông đảo

thanh niên trong các cơ sở công nghiệp tham gia luyện và thi. Một trong những chỗ

yếu của thanh niên là trình độ tay nghề thƣờng thấp, không đáp ứng đƣợc nhu cầu,

146

nhất là ở những khâu đòi hỏi trình độ công nghệ cao. Nhiều đoàn viên, thanh niên

đã tự tìm đến những thợ bậc cao trong nhà máy, xí nghiệp để học hỏi kinh nghiệm.

Tổ chức Đoàn ở một số nhà máy, xí nghiệp còn tổ chức kết nghĩa, hình thành

những “đôi bạn” giúp nhau nâng cao tay nghề. Riêng trong năm 1978, năm đầu

tiên phát triển phong trào “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi” đã có 210 thanh niên ở các

cơ sở công nghiệp đăng ký dự thi và đã có 72 ngƣời đƣợc công nhận là thợ giỏi.

Phong trào xây dựng “Tập thể thanh niên xã hội chủ nghĩa” nhanh chóng phát

triển ở hầu khắp các cơ sở Đoàn trong các xí nghiệp, nhà máy. Từ điểm chỉ đạo

Vinappro, chỉ một thời gian ngắn, ở tất cả các xí nghiệp, nhà máy đều có đông đảo

đoàn viên và thanh niên đăng ký xây dựng tập thể đơn vị mình thành những “Tập

thể thanh niên xã hội chủ nghĩa”. Đến giữa năm 1979, khi sơ kết phong trào, số

lƣợng các tập thể đạt tiêu chuẩn “Tập thể thanh niên xã hội chủ nghĩa” đã vƣợt chỉ

tiêu đề ra, góp phần cùng các nhà máy, xí nghiệp, công trƣờng hoàn thành kế

hoạch đƣợc giao.

Trong thanh niên công nhân còn xuất hiện các hình thức tổ chức sản xuất có

khả năng lôi cuốn đông đảo thanh niên vào các hành động cách mạng cụ thể, tạo

điều kiện để thanh niên cống hiến hết sức mình, nhƣ ở các nhà máy Vinappro,

Vikyno đã xây dựng các xe, máy, ca thanh niên. Ở nhiều cơ sở còn xây dựng cả

khu máy thanh niên, nhƣ khu máy thanh niên lò đúc, khu hàn gò của Dinuco, Cơ

khí Biên Hòa... Các hình thức ca, máy, xe thanh niên và khu sản xuất mang tên

thanh niên thực sự là những nơi tạo điều kiện để thanh niên có thể học làm quản lý,

tổ chức các hình thức kèm cặp nâng cao tay nghề và nhất là hình thành các tổ,

nhóm sáng tạo khoa học kỹ thuật. Nhờ đó, phong trào phát huy sáng kiến cải tiến

kỹ thuật trong thanh niên công nhân luôn đƣợc duy trì và phát triển liên tục. Năm

1977, chỉ thống kê ở 25/65 nhà máy ở Khu Công nghiệp Biên Hòa, thanh niên

công nhân đã phát huy 480 sáng kiến, làm lợi 188.641 đồng (giá trị năm 1977).

Phong trào lao động tình nguyện vƣợt mức kế hoạch của thanh niên công

nhân ngày càng có những bƣớc phát triển sáng tạo, đi dần vào hoạt động theo qui

trình của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng ý thức tự lực tự cƣờng và

tinh thần làm chủ tập thể cho đoàn viên, thanh niên công nhân. Bên cạnh việc xuất

hiện ngày càng nhiều các tổ, nhóm khoa học kỹ thuật, các tập thể lao động xã hội

chủ nghĩa... các tổ chức thanh niên xung kích an ninh, kiểm tra, các tổ thanh niên

tự quản và cả những đội phòng cháy chữa cháy thanh niên cũng xuất hiện ở nhiều

cơ sở, thu hút nhiều thanh niên chậm tiến cùng tham gia, góp phần giáo dục thanh

niên ý thức tập thể, có trách nhiệm bảo vệ nhà máy, bảo vệ của công. Nhiều cơ sở,

thanh niên công nhân đã tổ chức lao động ngoài giờ làm vệ sinh công nghiệp, bảo

quản máy móc. Chỉ riêng năm 1978, thanh niên công nhân Khu Công nghiệp Biên

147

Hòa đã đóng góp 15.665 giờ ngoài kế hoạch để làm vệ sinh công nghiệp, đảm bảo

khu vực sản xuất luôn giữ đƣợc nề nếp ổn định.

Trong học tập, rèn luyện và xây dựng cuộc sống mới, từng bƣớc tổ chức Đoàn

các cấp đã cải tiến nhiều phƣơng thức hoạt động có tác dụng thu hút đông đảo

thanh niên học sinh và các đối tƣợng thanh niên khác tích cực tham gia. Nét nổi bật

đáng chú ý là phong trào thi đua xây dựng “Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa” đã

diễn ra ở hầu khắp các trƣờng trong tỉnh. Ngay sau khi Tỉnh Đoàn và Ty Giáo dục

thống nhất chủ trƣơng triển khai, đã có 8/9 huyện, 19/25 trƣờng và 38 lớp đăng ký

phấn đấu trở thành “Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa”. Tỉnh Đoàn phối hợp với

Ty Giáo dục tổ chức chỉ đạo thí điểm ở lớp 11 C1 và 11 C2 Trƣờng cấp III Vũng

Tàu (lúc này vẫn thuộc tỉnh Đồng Nai) và Trƣờng cấp III Ngô Quyền để rút kinh

nghiệm chỉ đạo các tập thể khác cùng phấn đấu, góp phần đƣa nhà trƣờng đi dần

vào quĩ đạo của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn

diện, xây dựng một lớp ngƣời mới có giác ngộ lý tƣởng cách mạng, có ý chí vƣơn

lên trong học tập và rèn luyện, khắc phục tình trạng học sinh yếu kém, làm cho đại

bộ phận học sinh xác định đúng đắn mục đích, động cơ học tập, đoàn kết giúp nhau

xây dựng tập thể cùng tiến bộ. Cùng với tập thể lớp 11 C1, 11C2 và Trƣờng cấp III

Ngô Quyền đã đƣợc Trung ƣơng Đoàn tặng cờ, công nhận là “Tập thể học sinh xã

hội chủ nghĩa”, các lớp 11 D4 (Tân Phú), 10 D4 (Xuân Lộc)... cũng đã đƣợc công

nhận là “Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa” ngay trong năm đầu triển khai phong

trào.

Cùng với phong trào xây dựng “Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa” trong các

trƣờng học phổ thông và chuyên nghiệp, các cơ sở Đoàn đã chú trọng phát triển

phong trào “Ánh sáng văn hóa”. Riêng trong năm 1978, đã có 2.700 thanh niên

xung kích thƣờng xuyên tham gia giảng dạy trong các lớp bổ túc văn hóa cho

40.327 học viên, góp phần phát triển phong trào phổ cập lớp hai cho toàn dân, kể

cả về biện pháp, khí thế và diện huy động. Nhiều trƣờng, lớp bổ túc văn hóa liên

cơ, bổ túc văn hóa tập trung các cấp đƣợc mở ra đến tận từng nhà máy, nông

trƣờng, xã, ấp... đã góp phần nâng cao trình độ học vấn của cán bộ, đoàn viên,

thanh niên trong tỉnh từng bƣớc đi lên, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công

cuộc xây dựng đất nƣớc. Xã Giang Điền (huyện Thống Nhất) và 5 xã của huyện

Châu Thành đã hoàn thành chƣơng trình bổ túc văn hóa cả năm 1978 ngay trong 6

tháng đầu năm.

Công tác giáo dục, chăm sóc thiếu niên, nhi đồng từng bƣớc đƣợc quan tâm

phát triển cả về nội dung cũng nhƣ hình thức. Bên cạnh việc tổ chức cho các em

học tập nâng cao nhận thức mọi mặt về Đảng quang vinh, về Bác Hồ vĩ đại, về đất

nƣớc và con ngƣời Việt Nam, các cấp bộ Đoàn đã chú trọng tổ chức cho các em

tham gia các phong trào hành động cách mạng tuỳ theo trình độ và lứa tuổi của

148

từng đối tƣợng thiếu nhi, nhƣ phong trào “Thi đua kế hoạch nhỏ, xây dựng tƣơng

lai huy hoàng”, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, phong trào “Ngàn hoa việc tốt,

dâng Đảng quang vinh, mừng Đại hội Đoàn lần thứ IV”... Mỗi phong trào đều có

những mục tiêu phấn đấu và những biện pháp thích hợp, thu hút đông đảo các em

cùng tham gia, đem lại những hiệu quả thiết thực không chỉ ở những hàng cây các

em trồng đƣợc, ở số tiền góp vào tài khoản kế hoạch nhỏ hoặc ở những tấn sắt vụn

thu gom, mà sâu xa hơn, thông qua các phong trào, các em ngày càng có ý thức

hơn đối với cộng đồng, đối với những giá trị cuộc sống, các thế hệ đi trƣớc đã

giành lại đƣợc, từ đó các em có ý thức phấn đấu vƣơn lên ngay trong từng phần

việc để giành từng bông hoa việc tốt. Trong đó, riêng năm 1978, thiếu niên, nhi

đồng trong toàn tỉnh đã phấn đấu thực hiện đƣợc 462.459 bông hoa việc tốt, tăng

hơn 2 lần so với năm 1977 (năm 1977 có 200.000 bông hoa việc tốt), 4.827 em đã

giúp đỡ 693 gia đình thƣơng binh, liệt sĩ, bộ đội, gia đình có công với cách mạng

có hoàn cảnh neo đơn. Ngoài ra, các em còn tham gia tu sửa 830 ngôi mộ liệt sĩ,

trồng cây, trồng hoa, chăm sóc các nghĩa trang liệt sĩ.

Phong trào quần chúng phát triển, tổ chức Đoàn càng có điều kiện củng cố và

nâng cao. Từ chỗ chỉ có 1.500 đoàn viên ở những ngày đầu mới giải phóng, đến

cuối năm 1978, toàn tỉnh đã có 10.887 đoàn viên, góp phần xoá nhiều cơ sở trắng.

Riêng năm 1978, đã thành lập mới 173 chi đoàn, 4 liên chi đoàn, nâng lên 16 Đoàn

cơ sở, đƣa số cơ sở Đoàn trong toàn tỉnh lên 51, bao gồm 688 chi đoàn, 4 liên chi

đoàn, xoá đƣợc 2 xã trắng.

Công tác đoàn kết tập hợp thanh niên đƣợc coi trọng. Ngoài việc tập hợp

thanh niên trong tổ chức Hội Liên hiệp Thanh niên, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã coi trọng tập hợp thanh niên theo nhiều hình thức thích

hợp, nhất là tổ chức lực lƣợng thanh niên xung kích thực hiện những nhiệm vụ

trọng tâm đột xuất, vừa góp phần động viên thanh niên đóng góp công sức, phấn

đấu hoàn thành những nhiệm vụ đƣợc giao, đồng thời đƣa thanh niên đứng vào

một tổ chức nhất định để quản lý và giáo dục. Nhờ đó, diện thanh niên đứng ngoài

tổ chức đƣợc thu hẹp rõ rệt, có đến 71,7% thanh niên đã đƣợc tập hợp dƣới các

hình thái hoạt động. Riêng năm 1978, đã phát triển đƣợc 6.159 hội viên, xây dựng

mới 15 chi hội, tập hợp 36.707 thanh niên vào 311 tổ, đội, 16 tiểu đoàn, 52 đại đội,

184 trung đội thanh niên xung kích. Nhiều cơ sở Đoàn trong tỉnh đã tập hợp đƣợc

100% thanh niên vào các hình thức thích hợp, nhƣ ở Hiệp Hòa, từ một cơ sở yếu

kém, thông qua các phong trào hành động cách mạng, đã có 97% thanh niên và

92% thiếu nhi đƣợc tập hợp. Các xã Xuân Tân, Lợi Hòa, Phú Mỹ, Gia Tân, Tân

Hiệp cũng tập hợp đƣợc 100% thanh niên vào các tổ chức, chủ yếu bằng con

đƣờng làm ăn tập thể và bằng tổ chức lực lƣợng xung kích.

149

III. KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO TINH THẦN CẢNH GIÁC

CÁCH MẠNG, SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ VỮNG CHẮC BIÊN

CƢƠNG CỦA TỔ QUỐC.

Những năm từ 1977, 1978, tình hình kinh tế, chính trị và xã hội ở Đồng Nai

cũng nhƣ trên phạm vi cả nƣớc có những diễn biến phức tạp. Những khó khăn

trong đời sống kinh tế, xã hội bắt đầu xuất hiện. Sản xuất đình trệ. Đời sống nhân

dân giảm sút đáng kể. Bọn phản động các loại, nhân cơ hội ra sức tập hợp lực

lƣợng, tiến hành các hoạt động bạo loạn, lật đổ. Chỉ trên một địa bàn huyện Tân

Phú, và chỉ trong hai tháng 3 và 4 năm 1977, bọn chúng đã gây ra 12 vụ vũ trang

chống chính quyền và tập kích vào các lực lƣợng của ta, làm 9 đồng chí vừa công

an, vừa cán bộ, bộ đội và du kích các xã, trong đó có một Phó tiến sĩ khoa học thổ

nhƣỡng đang trên đƣờng đi công tác hy sinh, 7 ngƣời khác bị thƣơng. Chúng còn

bắt đi 22 ngƣời dân, cƣớp 7 khẩu súng, trong đó có một đại liên M60 và nhiều tài

sản, hàng hóa khác.

Thực hiện chủ trƣơng của Tỉnh ủy Đồng Nai về việc tiến hành đồng bộ các

biện pháp, đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động chống phá cách mạng của các

thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên địa

bàn, quét sạch nội gián và các toán, cụm tàn quân vũ trang; bóc gỡ cơ bản về màng

lƣới gián điệp do địch cài lại; bịt kín bờ biển, chống địch xâm nhập và bọn vƣợt

biên trái phép... tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên Đồng Nai đã không ngừng

nâng cao cảnh giác cách mạng, phối hợp có hiệu quả với các lực lƣợng có liên

quan, truy quét, phá rã nhiều toán, cụm vũ trang, các nhóm phản động vừa nhen

nhóm, chặn đứng nhiều âm mƣu gây bạo loạn, lật đổ chính quyền, góp phần ổn

định tình hình trật tự xã hội, làm giảm đến mức thấp nhất các loại tội phạm và các

tệ nạn xã hội. Nhiều cán bộ Đoàn các cấp đã đƣợc tăng cƣờng xuống các cơ sở,

phối hợp cùng các cơ quan chức năng ở địa phƣơng, tổ chức tuyên truyền vận động

quần chúng tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng chính quyền cơ

sở. Đoàn viên, thanh niên trong lực lƣợng công an, dân quân, du kích, tự vệ và

trong các đơn vị bộ đội địa phƣơng cũng nhƣ bộ đội chủ lực, luôn làm nòng cốt

trong các hoạt động bóc gỡ các tổ chức chính trị phản động, truy quét các toán,

cụm tàn quân địch đang lẩn trốn ngoài rừng. Nhiều đoàn viên và thanh niên đã trở

thành những mũi nhọn xung kích, cùng đồng đội luồn sâu vào rừng, tập kích các

căn cứ, nơi đóng quân của bọn tàn quân địch, truy quét bọn địch quanh các vƣờn,

rẫy, chặn đánh nhiều toán phản động có vũ trang đột nhập vào các xã, ấp gây rối

trật tự trị an, chống phá chính quyền cách mạng. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1977,

đoàn viên và thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang của Đồng Nai đã góp phần

làm tan rã hoàn toàn hoặc tan rã từng mảng 17 toán tàn quân địch, trong đó có 11

toán tan rã hoàn toàn, tiêu diệt 69 tên, thu 129 súng các loại, có cả đại liên. Ngoài

150

ra, còn kêu gọi 115 tên ra đầu thú, thu 22 súng các loại; phát hiện khoảng 300 tên

ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ, trong đó có cả những tên từng

cộng tác với CIA, là trƣởng, phó ty chiêu hồi, sĩ quan cảnh sát ngụy và cả những

đảng viên, cán bộ trƣớc đây bị địch bắt, không giữ đƣợc khí tiết đã đầu hàng, phản

bội, cộng tác với địch chống phá cách mạng... chui vào hàng ngũ chính quyền cơ

sở ở xã, ấp, thậm chí chui vào cả một số ban, ngành cấp huyện để che giấu tung

tích, che giấu quá khứ tội lỗi.

Liên tiếp trong những tháng cuối năm 1977 và trong năm 1978, hàng chục tổ

chức phản động của bọn ngụy quân, ngụy quyền đƣợc các thế lực phản động ở

trong nƣớc và cả ở nƣớc ngoài hậu thuẫn đã bị phá rã, chặn đứng kịp thời nhiều

hoạt động phá hoại của chúng, nhƣ chặn đứng âm mƣu đánh chiếm Đài phát thanh

tỉnh của tổ chức phản động “Mặt trận liên quân Việt Nam” do tên Nguyễn Tịch

cầm đầu; âm mƣu dùng lựu đạn tập kích trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tân Phú của tổ

chức “Đoàn dân quân phục quốc quận Châu Thành” do tên Lê Văn Hoa cầm đầu.

Kể cả những tên đã tìm đƣợc cách chui vào hàng ngũ du kích chiến đấu của ta vẫn

không thoát khỏi con mắt cảnh giác của đoàn viên và thanh niên ở các địa phƣơng,

nhƣ 7 tên phản động thuộc tổ chức “Liên minh phục quốc Á châu chống cộng”

chui vào hàng ngũ du kích chiến đấu xã dọc tỉnh lộ 25.

Thời kỳ này, bọn phản động Fulro, lợi dụng đồng bào dân tộc ít ngƣời cũng

đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng, đòi “tự trị”, khôi phục tỉnh

Goongcar. Nhiều băng nhóm tội phạm hình sự sau một thời gian nằm im cũng

ngóc đầu dậy quấy phá, thậm chí gây ra những tội ác man rợ, nhƣ ngày 26–9–

1978, 2 tên cƣớp đã đột nhập vào nhà anh Phúc ở xã Hố Nai 2, giết chết một lúc 6

ngƣời, vất xác xuống giếng để phi tang và cƣớp đi nhiều tài sản. Đoàn viên và

thanh niên trong lực lƣợng công an Đồng Nai đã bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ,

kiên quyết tiến công bọn tội phạm, đập tan âm mƣu khôi phục Fulro tỉnh Goongcar

lần thứ hai, tiêu diệt, bắt sống, gọi hàng hầu hết bọn cầm đầu khung hành chính

cấp tỉnh và cấp huyện của chúng, trong đó có 1 tỉnh phó và gần chục tên vừa quận

trƣởng, trƣởng phòng, trƣởng ban của cái gọi là Fulro tỉnh Goongcar; phá tan 5 ban

tề ấp, gọi hàng gần 500 tên Fulro ngầm. Nhiều băng nhóm trộm cƣớp hình sự cũng

bị bắt, bị xử lý.

Nhiều đoàn viên, thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang, nhất là trong lực

lƣợng công an Đồng Nai đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, nhiều ngày đêm

luồn sâu vào rừng, tiến công truy quét bọn phản động, bọn tội phạm hình sự. Nhiều

chiến sĩ trẻ đã hy sinh anh dũng trong khi làm nhiệm vụ. Ngày 13–4–1977, các

chiến sĩ trẻ Trung và Sáng (tự Hon) công tác tại trung đội cảnh sát cơ động công an

huyện Tân Phú trong khi làm nhiệm vụ truy quét địch tại đồi 118 thuộc xã Phú

Hòa đã hy sinh anh dũng, còn chiến sĩ Hùng bị thƣơng nặng. Cũng trong thời gian

151

này, các chiến sĩ trẻ Phạm Hồng Lách, Bùi Văn Tỏ, Nguyễn Bùi cũng đã hy sinh

trong khi làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, bóc gỡ các tổ chức chính trị phản

động.

Không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tổ chức Đoàn ở các cơ

sở đã thƣờng xuyên tổ chức, động viên đoàn viên, thanh niên phát huy vai trò nòng

cốt trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, sẵn sàng

nhập ngũ, sẵn sàng đi lên tuyến trƣớc làm nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vững chắc

biên cƣơng của Tổ quốc. Chỉ riêng năm 1978, tổ chức Đoàn ở các cơ sở đã động

viên 6.224 đoàn viên, thanh niên các địa phƣơng tham gia dân quân du kích, ngày

đêm tuần tra canh gác, truy quét bọn phá hoại, bọn tội phạm hình sự, bắt 201 vụ

vƣợt biên, gồm 2.257 ngƣời; phá hàng chục tổ chức phản động; bắt giữ 22 vụ vi

phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, 75 tàu thuyền xâm nhập và buôn bán trái phép.

Coi trọng công tác động viên thanh niên lên đƣờng tham gia các lực lƣợng vũ

trang, tổ chức Đoàn Thanh niên ở nhiều địa phƣơng đã tổ chức cho đoàn viên và

thanh niên thƣờng xuyên sinh hoạt theo các chủ đề: “Nghĩa vụ và trách nhiệm vẻ

vang của thanh niên đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; tổ chức diễn

đàn thanh niên, với chủ đề: “Lý tƣởng, ƣớc mơ và nghĩa vụ”. Sau khi tổ chức học

tập sâu rộng trong đoàn viên và thanh niên, các cơ sở Đoàn đã tổ chức những ngày

hội đăng ký khám tuyển nghĩa vụ quân sự, với nhiều hình thức sinh động có sức cổ

vũ thanh niên, nhƣ mời các chiến sĩ lớp trƣớc đến nói chuyện về truyền thống đấu

tranh giữ nƣớc của dân tộc, của địa phƣơng, kể chuyện về cuộc sống, về những tấm

gƣơng tiêu biểu trong quân đội, ca ngợi hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ. Ở nhiều địa

phƣơng, nhƣ xã Hòa Hiệp (huyện Xuân Lộc), xã Láng Dài (huyện Long Đất – lúc

này vẫn thuộc Đồng Nai) đã có nhiều hình thức sinh động giáo dục thanh niên về

nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Nhờ đó, số thanh niên tình nguyện lên đƣờng nhập ngũ

luôn vƣợt chỉ tiêu đề ra. Riêng xã HòaHiệp đã có 200 thanh niên lên đƣờng trong

một đợt, trong tổng số 500 thanh niên nhập ngũ của cả huyện. Năm 1976, chỉ tiêu

đăng ký tuyển quân đƣợc giao là 4.500 thanh niên thì đã có 5.500 thanh niên toàn

tỉnh đăng ký khám tuyển nghĩa vụ quân sự; năm 1977 trong tổng số 66.181 thanh

niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự đã có 52.242 thanh niên đăng ký thực hiện

nghĩa vụ quân sự, chiếm tỷ lệ 78,93% tổng số thanh niên, kể cả những huyện thanh

niên Công giáo chiếm đa số nhƣ huyện Thống Nhất cũng có tỷ lệ thanh niên đăng

ký thực hiện nghĩa vụ quân sự khá cao, chiếm tới 95% tổng số thanh niên; năm

1978, trong tổng số 90.231 thanh niên trong độ tuổi đã có 60.968 thanh niên đăng

ký thi hành nghĩa vụ quân sự.

Nhiều đoàn viên, thanh niên lên đƣờng nhập ngũ thời kỳ này đã phát huy

truyền thống quê hƣơng, tham gia chiến đấu trên tuyến biên giới Tây Nam và cả

trên đất bạn Campuchia, lập nhiều chiến công xuất sắc, có ngƣời đƣợc tặng thƣởng

152

huân chƣơng, đƣợc phong tặng danh hiệu cao quí, Anh hùng Lực lƣợng vũ trang

nhân dân, nhƣ trƣờng hợp Bùi Văn Bình, một cán bộ Đoàn của thành phố Biên

Hòa, nhập ngũ ngay trong những ngày tình hình biên giới Tây Nam của Tổ quốc

nóng bỏng nhất, tháng 10 – 1978 và đã ra ngay chiến trƣờng, mặt trận 779, đúng

vào dịp các đơn vị tham chiến của Quân khu 7 đã đẩy lui quân Pônpốt – Iêng Xari

sang bên kia biên giới, giải phóng hoàn toàn 3 huyện Tà Nung, Mimốt, Snoul

thuộc tỉnh Kông Pông Chàm của nƣớc bạn, mở ra vùng giải phóng đầu tiên của

“Mặt trận Giải phóng Dân tộc cứu nƣớc Campuchia” rộng 1.300 km2, làm điểm

tựa cho bƣớc phát triển mới của cách mạng Campuchia. Từ đó, Bùi Văn Bình tham

gia lần lƣợt 5 chiến dịch đánh địch trên đất bạn, trong đó có cả những trận đánh

trong đội hình phối hợp binh chủng cấp sƣ đoàn, nhƣng cũng có những trận đánh

chỉ với một lực lƣợng nhỏ, làm nhiệm vụ thọc sâu và đều giành thắng lợi lớn, nhƣ

trận Sông Pốt, với 15 chiến sĩ đã truy đuổi một lực lƣợng lớn địch, cài răng lƣợc

đánh nhau gần một ngày trời, diệt 20 tên, làm bị thƣơng 60 tên khác. Còn tại phum

Bông Sang Khao, nơi giáp ranh hai huyện Ba Rài và San Túc lại diễn ra trận đánh

cuối cùng của Bùi Văn Bình. Lúc bấy giờ Bình đã là Trợ lý tham mƣu của Tiểu

đoàn 14 anh hùng, thuộc Đoàn 7702, Mặt trận 779. Anh đƣợc giao nhiệm vụ dẫn

một mũi xung kích gồm 12 chiến sĩ Việt Nam và 5 dân quân Campuchia đi theo

một nhánh sông truy quét bọn tàn quân Pônpốt. Bọn địch ngoan cố cụm lại chống

trả quyết liệt. Chúng dùng cả đại liên, B40 phát quang cả một vạt rừng. Lợi dụng

các gò mối, các cây đổ, Bình tổ chức đơn vị nhanh chóng tiếp cận địch, bằng

những điểm xạ chính xác tiêu diệt từng tên. Nhƣng đơn vị cũng bị thƣơng vong

nhiều, chỉ còn lại ngƣời chiến sĩ bộ đàm bị thƣơng nặng đang bám sát Bình. Anh ra

lệnh cho ngƣời chiến sĩ bộ đàm phải bằng mọi cách trở về đơn vị để báo cáo, còn

anh ở lại bám địch, sử dụng các loại vũ khí có trong tay, kể cả B40, AK, RPD và

lựu đạn bình tĩnh đánh trả hàng trăm tên địch đang điên cuồng xông đến. Khi biết

chỉ còn một mình Bình, bọn địch đợi cho anh bắn hết đạn, mới tiến lên kêu gọi anh

đầu hàng. Nhƣng Bùi Văn Bình đã đứng bật dậy, với khẩu súng AK đã giƣơng lê

sẵn, từ từ tiến về phía bọn địch. Nhìn thấy tƣ thế hiên ngang của Bình, nhiều tên

lính Pônpốt sợ hãi buông vũ khí bỏ chạy, chỉ có tên chỉ huy là vẫn ngoan cố. Hắn

chộp lấy khẩu AK bắn chết những tên lính bỏ chạy rồi hƣớng nòng súng về phía

Bình, xả hết những viên đạn còn lại. Bùi Văn Bình khựng lại, lƣỡi lê khẩu AK trên

tay anh cắm xuống đất, lồng ngực đẫm máu của anh tựa trên báng súng và anh cứ

đứng nhƣ thế cho đến khi đồng đội tìm thấy anh. Đó là ngày 25–1–1984. Năm

1985, anh đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lƣợng vũ

trang nhân dân.

Cùng với những thanh niên trực tiếp cầm súng, hàng ngàn thanh niên khác đã

hăng hái tham gia các đơn vị xung kích làm nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tuyến

phòng thủ biên giới Tây Nam. Riêng năm 1978, thanh niên Đồng Nai đã thành lập

153

đƣợc một trung đoàn (thiếu), gồm 1 tiểu đoàn của thanh niên huyện Thống Nhất và

một đại đội của thanh niên thành phố Biên Hòa, do đồng chí Bí thƣ Tỉnh Đoàn trực

tiếp làm chính trị viên, lên đƣờng làm nhiệm vụ trên tuyến biên giới Sông Bé, góp

phần xây dựng tuyến phòng thủ dài 15 km. Nhiệm vụ đƣợc giao hết sức khó khăn.

Dọc tuyến biên giới, bọn phản động Pônpốt đã cài mìn dày đặc. Phải vừa gỡ mìn,

vừa phát cây, phá đá, đào hào. Nhiều thanh niên Công giáo (phần lớn các chiến sĩ

thuộc tiểu đoàn thanh niên huyện Thống Nhất đều theo đạo) và cả những thanh

niên của thành phố Biên Hòa mới chỉ đƣợc học qua về cách tháo gỡ mìn, nhƣng tất

cả đều không một ai ngán ngại nguy hiểm. Gặp mìn, anh em đều tự tháo gỡ để tiếp

tục thi công. Suốt thời gian 3 tháng trên tuyến biên giới, phải vƣợt qua nhiều gian

khổ, phải thƣờng xuyên đối phó với bọn biệt kích Pônpốt... đoàn viên, thanh niên

các đơn vị tham gia xây dựng tuyến biên giới Tây Nam vẫn hăng say, hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ. Trong lúc đó, những thanh niên ở hậu phƣơng đã làm thêm giờ,

thu đƣợc 12.086 đồng, 2 tấn gạo để ủng hộ lực lƣợng làm nhiệm vụ trên tuyến biên

giới. Hàng ngàn thanh niên Đồng Nai còn tích cực tham gia trồng cây, xây dựng

tuyến phòng thủ bờ biển dài hàng chục km, tạo nên một vành đai vững chắc sẵn

sàng đối phó với mọi âm mƣu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù cho dù chúng đến từ

hƣớng nào.

IV. VƢỢT QUA KHÓ KHĂN THỬ THÁCH, TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ

ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN ĐỒNG NAI TỪNG BƢỚC VƢƠN LÊN

TỰ KHẲNG ĐỊNH.

Tháng 7–1981, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã tổ

chức Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ II. Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội

Đoàn toàn quốc lần thứ IV (họp từ ngày 20 đến ngày 22–11–1980) và Nghị quyết

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ II (tháng 7–1979), các đại biểu dự

Đại hội đã kiểm điểm sâu sắc những đóng góp to lớn của tổ chức Đoàn và của

đoàn viên, thanh niên Đồng Nai trong thời gian từ sau Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần

thứ nhất, năm 1977, trên các mặt sản xuất, xây dựng cuộc sống mới cũng nhƣ trong

nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ trật tự, trị an và an toàn xã hội. Phần lớn các cơ

sở Đoàn trong tỉnh cũng nhƣ đoàn viên và thanh niên trên các lĩnh vực sản xuất và

đời sống đã từng bƣớc khẳng định đƣợc vai trò của mình, xung kích và sáng tạo,

luôn đi đầu trong những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, góp phần hoàn thành và

hoàn thành vƣợt mức kế hoạch Nhà nƣớc đƣợc giao, đồng thời nghiêm khắc kiểm

điểm những thiếu sót, tồn tại trong công tác xây dựng, phát triển công tác Đoàn,

trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác trọng tâm, chƣa thực sự chú

trọng đến cơ sở. Công tác củng cố xây dựng tổ chức Đoàn, công tác đoàn kết, tập

hợp thanh niên có lúc chững lại... Từ đó, các đại biểu dự Đại hội đã chỉ ra những

154

nhiệm vụ của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai và

phong trào thanh niên trong thời gian tới là không ngừng nỗ lực vƣơn lên, cống

hiến hết sức mình cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Những nhiệm vụ cụ thể của tổ

chức Đoàn và của đoàn viên và thanh niên trong thời gian trƣớc mắt đƣợc Đại hội

Đoàn toàn tỉnh lần thứ II đề ra tập trung chủ yếu trên các mặt: đi đầu, xung kích và

sáng tạo thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981

– 1985); học tập và rèn luyện, xây dựng cuộc sống mới, con ngƣời mới xã hội chủ

nghĩa; hăng hái thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội; xây dựng tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh, tập hợp đoàn kết

thanh niên và chăm lo tổ chức, giáo dục thiếu niên nhi đồng.

Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ II đã nhất trí bầu 43 đồng chí vào Ban Chấp

hành Tỉnh Đoàn khóa II. Đồng chí Huỳnh Công Trạch đƣợc bầu làm Bí thƣ và

đồng chí Nguyễn Thị Thanh đƣợc bầu làm Phó bí thƣ Tỉnh Đoàn. Đƣợc bầu vào

Ban Thƣờng vụ Tỉnh Đoàn còn có các đồng chí Phạm Công Trữ, Trần Anh Kiệt,

Hoàng Văn Việt, Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Thị Lệ Hồng, Trần Xuân Phỉ,

Nguyễn Xuân Kim, Nguyễn Thị Cát Thảo, Phạm Thanh Quang. Sau Đại hội, đến

tháng 12–1981, các đồng chí Phạm Thanh Điền và Nguyễn Minh Hoàng đƣợc bầu

bổ sung vào Ban Thƣờng vụ; đồng chí Trần Văn Khánh đƣợc Tỉnh ủy điều động

về Tỉnh Đoàn giữ chức vụ Bí thƣ Tỉnh Đoàn thay đồng chí Huỳnh Công Trạch

chuyển công tác khác; tháng 11–1982, đồng chí Huỳnh Lang Anh đƣợc bầu bổ

sung vào Ban Thƣờng vụ. Tháng 6–1983, các đồng chí Nguyễn Minh Hoàng,

Huỳnh Lang Anh đƣợc bầu làm Phó bí thƣ Tỉnh Đoàn; tháng 12–1986, đồng chí

Huỳnh Lang Anh đƣợc giao Quyền Bí thƣ và tháng 3–1987, đồng chí Huỳnh Lang

Anh đƣợc bầu làm Bí thƣ thay đồng chí Trần Văn Khánh chuyển công tác về tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu, đồng chí Đào Văn Minh đƣợc bầu làm Phó bí thƣ Tỉnh Đoàn.

Tinh thần Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IV và Nghị quyết Đại

hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ II đã từng bƣớc đƣợc cụ thể hóa trong từng hoạt động

của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Đồng Nai, khi bƣớc vào thực hiện kế

hoạch Nhà nƣớc 5 năm lần thứ ba, với khí thế của những con ngƣời đang có những

chuyển biến sâu sắc về nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội, trên từng

mảnh ruộng, trong mỗi nhà máy, phân xƣởng và cả trong từng lớp học, mà phong

trào làm chủ tập thể đang chi phối nhiều hoạt động thực tiễn ở cơ sở: tập thể hợp

tác xã sản xuất nông nghiệp, tập đoàn sản xuất; tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa;

trong các nhà máy, xí nghiệp, đó là tập thể tổ, ca, xe, máy thanh niên; tổ, đội sản

xuất xã hội chủ nghĩa...

Tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã coi trọng

trƣớc hết đến việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở của Đoàn trở thành hạt nhân tổ

chức, động viên thanh niên xung kích, sáng tạo trong việc thực hiện mọi Nghị

155

quyết, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng và phát triển kinh tế – xã

hội, về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Những năm trƣớc 1980, mặc dù đã có nhiều cố gắng, hầu hết các địa phƣơng,

cơ sở đã phát triển đƣợc tổ chức Đoàn, tổ chức Hội Liên hiệp Thanh niên, số lƣợng

đoàn viên tăng lên đáng kể... nhƣng so với yêu cầu, nhiệm vụ của một tổ chức quần

chúng trung kiên, gần Đảng, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh

Đồng Nai vẫn còn nhiều bất cập, lực lƣợng đoàn viên trong từng đối tƣợng thanh

niên có sự mất cân đối nghiêm trọng: thanh niên nông thôn chiếm 74% lực lƣợng

thanh niên toàn tỉnh, nhƣng tỷ lệ đoàn viên chỉ chiếm 0,8%. Trong khu vực công

nghiệp, trong các công ty cao su có tỷ lệ đoàn viên 30%, nhƣng trong khu vực sản

xuất tiểu thủ công nghiệp, số lƣợng đoàn viên không đáng kể. Đứng trƣớc những

khó khăn về đời sống, nhất là trƣớc những âm mƣu phá hoại nhiều mặt của các thế

lực thù địch, trƣớc những tệ nạn xã hội có nhiều phát sinh theo chiều hƣớng tiêu

cực... một bộ phận không nhỏ đoàn viên, thanh niên có những biểu hiện giảm sút ý

chí phấn đấu vƣơn lên, thậm chí hoài nghi con đƣờng đi tới tƣơng lai của bản thân

và xã hội, thiếu trách nhiệm công dân, trốn tránh nghĩa vụ, sống buông thả; trong

bộ phận khá đông thanh niên chƣa có việc làm hoặc việc làm không ổn định

thƣờng phát sinh nhiều kiểu, nhiều lối sống thiếu lành mạnh, phi pháp, thậm chí đi

vào con đƣờng phạm pháp, giết ngƣời, cƣớp của... Trong lúc đó, tổ chức Đoàn các

cấp ở một số địa phƣơng chƣa đƣợc kiện toàn, có nhiều biểu hiện yếu kém, buông

lỏng công tác chỉ đạo cơ sở...

Nhận rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quá trình tổ chức, động viên thanh

niên thực hiện những nhiệm vụ của Đảng, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh tỉnh Đồng Nai đã bằng nhiều biện pháp đồng bộ chăm lo xây dựng, củng cố

tổ chức cơ sở của Đoàn cả về mặt chính trị – tƣ tƣởng cũng nhƣ về mặt tổ chức. Tổ

chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các cấp trong tỉnh đã sáng tạo nhiều

hình thức đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị – tƣ tƣởng sâu rộng trong đoàn

viên, thanh niên, làm chuyển biến một bƣớc nhận thức của đoàn viên, thanh niên

trong tỉnh về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng, về vai trò và trách nhiệm của

ngƣời đoàn viên, thanh niên trong việc thực hiện những nhiệm vụ chiến lƣợc Đảng

đã vạch ra trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sau Đại hội

Đoàn toàn tỉnh lần thứ hai (1981) đã có 80% số cơ sở Đoàn với 90% đoàn viên,

thanh niên trong tỉnh đã tham gia đợt sinh hoạt chính trị học tập Nghị quyết Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại

biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ III và IV, tạo nên sự nhất trí cao trong đoàn

viên và thanh niên đối với đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng trong giai đoạn cách

mạng mới, góp phần giải toả một số tâm tƣ, băn khoăn của một bộ phận cán bộ

Đoàn và của đoàn viên, thanh niên đối với tiền đồ của đất nƣớc và của bản thân.

156

Đợt học tập về Luật Nghĩa vụ quân sự và sau đó là đợt học tập Nghị quyết của

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng về chống chiến tranh phá hoại

nhiều mặt của các thế lực thù địch cũng đã tạo đƣợc bƣớc chuyển biến đáng kể

trong nhận thức của thanh niên về nhiệm vụ quốc phòng và phong trào bảo vệ an

ninh Tổ quốc. Vai trò của tổ chức Đoàn trong công tác gọi thanh niên nhập ngũ

đƣợc nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ đoàn viên nhập ngũ ngày càng tăng, từ 25% năm 1982

đến năm 1984 đã tăng lên 52%. Lực lƣợng thanh niên xung kích an ninh tại các xã,

phƣờng phát triển đáng kể, đến năm 1984, ở 25 xã, phƣờng đã có 165 tổ thanh niên

xung kích an ninh, bên cạnh các tổ an ninh nhân dân, thƣờng xuyên làm nhiệm vụ

bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Phong trào đoàn kết 3 lực lƣợng (thanh

niên quân đội, thanh niên trong lực lƣợng công an và thanh niên địa phƣơng) từng

bƣớc phát triển, góp phần phối hợp hành động của các lực lƣợng thanh niên trên

địa bàn trong việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nhiều vụ án

điểm, những nhen nhóm hoạt động phá hoại, gây rối của kẻ địch, nhờ đó đƣợc phát

hiện và ngăn chặn kịp thời, nhƣ việc lần lƣợt dập tắt âm mƣu bạo loạn của bọn

ngụy quân, ngụy quyền không chịu cải tạo trong các tổ chức phản động: “Lực

lƣợng nghĩa quân phục quốc”, “Mặt trận dân quân giải phóng”, “Việt Nam tự do

phục quốc”, “Mặt trận liên quân Việt Nam”... Trong đó, đáng chú ý là việc đập tan

âm mƣu bạo loạn của tổ chức “Lực lƣợng nghĩa quân phục quốc” của Trần Cao

Hùng, một tên thiếu uý không quân ngụy trốn tránh cải tạo, đang bị công an tỉnh

Sông Bé truy nã về tội cầm đầu tổ chức phản cách mạng, khi hắn chạy dạt về Đồng

Nai, tập hợp lực lƣợng, lập mật khu tại Phú Lộc.

Bắt đầu từ năm 1983, đứng trƣớc những diễn biến về tình hình tƣ tƣởng và tổ

chức, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã triển khai

chƣơng trình giáo dục lý luận chính trị cơ bản cho đoàn viên và thanh niên, trƣớc

hết là tổ chức giáo dục theo 5 bài học cơ bản, kết hợp giáo dục những vấn đề về

đƣờng lối chính sách của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng, nhƣ Nghị quyết

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay thời kỳ đầu

triển khai đã có 6/9 huyện, thành phố với hơn 300 cơ sở Đoàn, 15.000 đoàn viên

trong toàn tỉnh tham gia năm học. Các cơ sở Đoàn trong tỉnh đã sáng tạo nhiều

hình thức sinh động để chuyển tải những nội dung giáo dục đến đoàn viên, thanh

niên một cách hấp dẫn, phù hợp với từng đối tƣợng thanh niên. Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã tổ chức thí điểm Hội thi tuyên truyền

viên trẻ tại thành phố Biên Hòa, thu hút đông đảo đoàn viên và thanh niên tham gia

và đã chọn đƣợc 21 tuyên truyền viên giỏi cấp thành phố. Đồng thời, các cơ sở

Đoàn đã triển khai đợt sinh hoạt chính trị: “Tôi – ngƣời đoàn viên Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh” với gần 10.000 đoàn viên của 6/9 huyện, thành phố và

16/16 cơ sở Đoàn trực thuộc tham gia, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của

đông đảo cán bộ, đoàn viên đối với những nhiệm vụ đang đặt ra.

157

Đi đôi với việc đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị – tƣ tƣởng theo những

bài học cơ bản và những Nghị quyết của Đảng, của Đoàn... tổ chức Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai còn coi trọng công tác giáo dục truyền

thống, nâng cao tinh thần tự hào đối với quê hƣơng, đất nƣớc. Hàng năm, tổ chức

Đoàn các cấp đã phối hợp với Bộ chỉ huy quân sự địa phƣơng tổ chức ngày Hội

truyền thống 22 tháng 12 đến tận từng cơ sở Đoàn xã, phƣờng. Từ năm 1981, 9/9

huyện, thành phố và 16/16 Đoàn trực thuộc đã thƣờng xuyên tổ chức các cuộc họp

mặt truyền thống với các thế hệ thanh niên cầm súng trong hai cuộc kháng chiến

thần thánh của dân tộc. Hàng trăm chiến sĩ lão thành từng chiến đấu trên các mặt

trận qua các thời kỳ đã trực tiếp đến với tuổi trẻ, kể chuyện truyền thống quân đội,

về gƣơng anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu, chiến thắng La Ngà, chiến thắng sân bay

Biên Hòa, về Chiến khu Đ, đặc công Rừng Sác... Chỉ tính trong 3 năm, từ 1981

đến 1984, đã có 300.000 lƣợt đoàn viên, thanh niên trong tỉnh tham gia các buổi

sinh hoạt truyền thống do Đoàn tổ chức.

Từ năm 1983, 1984, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh

Đồng Nai, cùng với thanh niên cả nƣớc đã tổ chức cuộc “Hành quân truyền thống

theo bƣớc chân những ngƣời anh hùng”. Trong gần 2 năm, đã có 186 ngàn lƣợt

đoàn viên, thanh niên thành phố Biên Hòa tham dự cuộc hành quân có ý nghĩa giáo

dục truyền thống của Đoàn. Những ngƣời tham dự cuộc hành quân đã xây dựng

đƣợc 37 công trình thanh niên cấp cơ sở và 2 công trình thanh niên cấp thành phố;

củng cố đƣợc 56 cơ sở Đoàn, đồng thời tham gia xây dựng hệ thống nhà văn hóa

cơ sở ở phƣờng, xã và tham gia sƣu tập những hiện vật lịch sử có liên quan đến

hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai qua

các thời kỳ.

Cùng với việc nâng cao chất lƣợng công tác giáo dục chính trị – tƣ tƣởng,

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã đẩy mạnh công tác xây

dựng cơ sở Đoàn về mặt tổ chức, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn

quốc lần thứ IV là “Tổ chức toàn bộ thế hệ trẻ trong cả nƣớc vào hệ thống tổ chức

của tuổi trẻ do Đoàn làm nòng cốt”, và Nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Tỉnh

Đảng bộ “... phải kiện toàn củng cố bộ máy Ban chấp hành Đoàn từ tỉnh đến tận cơ

sở... để đủ sức phát huy quyền làm chủ tập thể của tuổi trẻ”.

Trong các cơ sở Đoàn trên phạm vi toàn tỉnh đã triển khai mạnh mẽ cuộc vận

động “Nâng cao chất lƣợng đoàn viên, xây dựng cơ sở Đoàn vững mạnh, tiến tới

trao thẻ đoàn viên” theo 5 nhiệm vụ của tổ chức Đoàn cơ sở và 5 nhiệm vụ của

đoàn viên. Một trong những khó khăn của hoạt động Đoàn là bộ máy cán bộ Đoàn

luôn biến động, thƣờng xuyên phải đổi mới theo tinh thần trẻ hóa đội ngũ cán bộ

chủ chốt của Đoàn, ảnh hƣởng không nhỏ đến quá trình chỉ đạo cuộc vận động. Từ

đó, một số cơ sở Đoàn sau khi tổ chức trao thẻ cho đoàn viên đã lâm vào tình trạng

158

sa sút trên nhiều mặt, không thực hiện đƣợc vai trò nòng cốt trong tổ chức, động

viên thanh niên thực hiện những nhiệm vụ công tác trọng tâm đã đề ra. Tình trạng

nặng về hình thức, chạy theo thành tích, đấu tranh phê bình và tự phê bình trong

xét duyệt tƣ cách đoàn viên chƣa cao đã ảnh hƣởng nhiều mặt đến kết quả cuộc

vận động. Nhƣng trong thời gian từ năm 1981 đến 1984, trên phạm vi toàn tỉnh

cũng đã có 62,84% số cơ sở Đoàn với 54,32% tổng số đoàn viên đã tham gia cuộc

vận động “Nâng cao chất lƣợng đoàn viên, xây dựng cơ sở Đoàn vững mạnh”.

Nhiều cơ sở Đoàn đã thực hiện có nề nếp công tác xét tƣ cách và phân loại đoàn

viên, định kỳ 6 tháng và hàng năm. 18.184/ 33.447 đoàn viên đã tham gia xét và

đƣợc công nhận đủ tƣ cách đoàn viên. Chất lƣợng đoàn viên từng bƣớc đƣợc nâng

lên. Ý thức phấn đấu vƣơn lên của đoàn viên, thanh niên ngày càng rõ nét, có tác

dụng lôi cuốn một bộ phận không nhỏ thanh niên đến với tổ chức Đoàn, tự nguyện

tham gia nhiều công tác do Đoàn tổ chức. Số lƣợng thanh niên đƣợc kết nạp vào

Đoàn nhờ đó cũng đƣợc tăng lên hàng năm. Năm 1981 có 2.246 thanh niên đƣợc

kết nạp vào Đoàn, năm 1982 con số đó là 3.413 thanh niên, năm 1983 có 4.461

thanh niên đƣợc đứng vào hàng ngũ của Đoàn. Thống kê 9 tháng đầu năm 1984

cho thấy số thanh niên đƣợc kết nạp vào Đoàn đã tăng lên gấp gần 3 lần so với cả

năm 1981, 6.600 so với 2.246 đoàn viên đƣợc kết nạp của năm 1981.

Điều đáng chú ý là mặc dù công tác phát triển đoàn viên đã có bƣớc chuyển

biến đáng kể, nhƣng tỉ lệ đoàn viên trong tổng số thanh niên vẫn còn rất thấp, chỉ

đạt 8,88%, nhất là cơ cấu lực lƣợng thanh niên trong các lĩnh vực vẫn mất cân đối

nghiêm trọng. Đến cuối năm 1984, trong tổng số 33.447 đoàn viên toàn tỉnh, chỉ có

9.363 đoàn viên sinh hoạt ở khu vực nông thôn và đƣờng phố, trong đó riêng các

hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp chỉ có 650 đoàn viên. Trong thời gian

từ 1981 đến 1984, tỉ lệ phát triển đoàn viên trong khu vực nông thôn và đƣờng phố

chỉ tăng 2,4% (năm 1980 đạt tỉ lệ 0,8%, năm 1984 tỉ lệ đó tăng lên 3,2%). Trong

khu vực công nghiệp (nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, cơ quan)

tỉ lệ đoàn viên chiếm 30,94%, với 10.349 đoàn viên; trong khu vực nông, lâm

trƣờng có 3.735 đoàn viên, chiếm tỉ lệ 11,17%; trong trƣờng học có 7.048 đoàn

viên, chiếm tỉ lệ 21,07%.

Năm 1981, công tác đoàn kết tập hợp thanh niên, xây dựng Hội Liên hiệp

Thanh niên trên phạm vi toàn tỉnh có phần chững lại. Đến đầu năm 1983, sau khi

có Chỉ thị 11 và 01 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đoàn, một số cơ sở nhƣ Tân Phú,

Biên Hòa, Thống Nhất... bắt đầu có những chuyển biến. Tiếp đó, một số cơ sở

khác nhƣ ở Xuân Lộc, Long Thành... cũng bắt đầu quan tâm đến công tác mở rộng

mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên, mặc dù vẫn còn bó hẹp trong phạm vi cơ sở.

Đến cuối năm 1984, toàn tỉnh mới xây dựng đƣợc 1 ủy ban Hội của thành phố

Biên Hòa, 47 ủy ban Hội cơ sở, 429 chi hội, phát triển đƣợc 72.817 hội viên, trong

159

tổng số 119.570 thanh niên đƣợc tập hợp dƣới nhiều hình thức, đạt tỉ lệ 29,31% so

với tổng số thanh niên (72.817/ 381.207 thanh niên).

Công tác Đoàn tham gia xây dựng Đảng bƣớc đầu đƣợc các cơ sở Đoàn chú

ý. Trong 3 năm, từ 1981 – 1984, các cơ sở Đoàn đã giới thiệu 7.683 đoàn viên ƣu

tú để Đảng xem xét kết nạp và các cơ sở Đảng đã xem xét và kết nạp đƣợc 526

đoàn viên vào Đảng, đạt tỷ lệ 6,7% so với tổng số đoàn viên đƣợc giới thiệu và

1,55% so với tổng số đoàn viên.

Tổ chức Đoàn đƣợc tăng cƣờng, củng cố và phát triển đã góp phần nâng cao

chất lƣợng hoạt động của Đoàn trên các lĩnh vực đời sống xã hội của tỉnh. Tổ chức

Đoàn các cấp đã tập trung mọi nỗ lực động viên thanh niên thực hiện 6 chƣơng

trình hành động, bao gồm:

– Chƣơng trình Học tập, rèn luyện và xây dựng cuộc sống mới.

– Chƣơng trình Tuổi trẻ lao động sáng tạo và tiết kiệm.

– Chƣơng trình Tuổi trẻ xung kích trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, trong

đó mũi nhọn là sản xuất lương thực.

– Chƣơng trình Phân phối lưu thông và quản lý thị trường.

– Chƣơng trình Hướng nghiệp và giải quyết việc làm cho thanh niên.

– Chƣơng trình Tuổi trẻ xung kích bảo vệ an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ

quốc.

Trong mỗi chƣơng trình hành động, tổ chức Đoàn các cấp đều có những biện

pháp thích hợp, tạo điều kiện để tuổi trẻ có thể phát huy mọi tiềm năng vốn có,

thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ đƣợc đề ra. Với chƣơng trình “Học tập, rèn luyện

và xây dựng cuộc sống mới”, các cơ sở Đoàn đã tổ chức cho thanh niên tham gia

các diễn đàn, hội thảo, sinh hoạt câu lạc bộ, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu... trong

đó riêng cuộc thi tìm hiểu về Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V

Đảng Cộng sản Việt Nam đã thu hút 100% đoàn viên tham gia.

Giáo dục chính trị – tƣ tƣởng thƣờng xuyên đƣợc các cấp bộ Đoàn gắn chặt

chẽ với giáo dục truyền thống, giáo dục nếp sống văn hóa lành mạnh, giáo dục

pháp luật, giáo dục thể chất... với nhiều hình thức sinh động, phù hợp với từng đối

tƣợng, từng lứa tuổi. Các hình thức hội trại truyền thống, đốt đuốc truyền thống,

gặp mặt 3 thế hệ, 3 lực lƣợng, hội diễn văn nghệ, thi tuyên truyền viên trẻ, hội

khoẻ Phù Đổng... luôn có sức cuốn hút đông đảo đoàn viên, thanh niên tham gia.

Có hình thức rầm rộ, tạo không khí hào hứng không chỉ với các tầng lớp thanh

niên, nhƣ đua thuyền, chạy việt dã... Nhƣng cũng có nhiều hình thức đi vào chiều

sâu, có tác dụng nâng cao nhận thức cho đoàn viên, thanh niên về những vấn đề

đang đặt ra cho đất nƣớc, nhƣ “Năm học Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng”,

160

“Năm học Bác Hồ”. Có cả những hình thức mang lại hiệu quả về vật chất, nhƣ

đảm nhận các công trình thanh niên. Thanh niên huyện Long Đất (lúc này vẫn

thuộc Đồng Nai) có công trình xây dựng Nhà tƣởng niệm liệt sĩ Võ Thị Sáu; thanh

niên nông thôn có công trình thủy lợi Hóa An; thanh niên thành phố Biên Hòa có

công trình xây dựng công viên Biên Hùng. Đƣợc giáo dục thông qua thực tiễn

tham gia xây dựng các công trình, ý thức xã hội của đoàn viên và thanh niên đƣợc

nâng lên một bƣớc đáng kể.

Tất cả các huyện, thị và thành phố đều thành lập các ban vận động xây dựng

nếp sống mới, trong đó tổ chức Đoàn là một thành viên tích cực, thƣờng xuyên có

những hoạt động thiết thực, nhƣ tổ chức “Ngày thanh niên làm chủ đƣờng phố”,

“Tháng thanh niên thực hiện nếp sống mới”, chiến dịch “Ánh sáng văn hóa”... Các

lực lƣợng thanh niên xung kích, thanh niên cờ đỏ thƣờng xuyên phối hợp với các

lực lƣợng vũ trang địa phƣơng ra quân truy quét, xoá bỏ các tụ điểm văn hóa thiếu

lành mạnh, thu giữ hàng nghìn sách báo, băng nhạc đồi trụy. Ở nhiều địa phƣơng,

đi đôi với việc xoá bỏ các tụ điểm văn hóa thiếu lành mạnh, các cơ sở Đoàn đã nỗ

lực xây dựng những khu vui chơi, sinh hoạt văn hóa cho thanh, thiếu niên. Đến đầu

năm 1985, 10 năm sau ngày miền Nam đƣợc hoàn toàn giải phóng, trên phạm vi

toàn tỉnh đã có 3 nhà văn hóa, 20 câu lạc bộ, nhà văn hóa cơ sở. Phong trào văn

hóa, văn nghệ quần chúng ngày càng phát triển lành mạnh. Các cơ sở Đoàn đã xây

dựng đƣợc 198 nhóm, đội ca khúc chính trị, 276 cơ sở có phong trào múa hát tập

thể.

Trong trƣờng học, phong trào xây dựng “Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa”

tiếp tục đƣợc duy trì và phát triển đi vào chiều sâu. Hầu hết các trƣờng học trong

tỉnh đều triển khai cuộc vận động “Tăng cƣờng giáo dục đạo đức cách mạng trong

nhà trƣờng”, thực hiện phƣơng châm giáo dục “Học đi đôi với hành”. Nhiều chi

đoàn giáo viên và chi đoàn học sinh đã làm tốt công tác giáo dục hƣớng nghiệp cho

học sinh, nhất là những lớp cuối cấp, tổ chức tốt cho các em tham gia công tác xã

hội và tham gia lao động sản xuất dƣới nhiều hình thức.

Góp phần giáo dục, cải tạo những con ngƣời lầm lỡ là một việc làm nhân đạo

đƣợc các cấp ủy Đảng và chính quyền ở Đồng Nai quan tâm. Trƣờng “Thanh niên

xây dựng cuộc sống mới” đƣợc hình thành từ rất sớm, ngay sau ngày miền Nam

hoàn toàn đƣợc giải phóng. Nhiều thanh niên là đối tƣợng tệ nạn xã hội do chế độ

cũ để lại đã đƣợc tập trung về Trƣờng để quản lý và giáo dục, tạo điều kiện cho họ

trở lại cuộc sống lƣơng thiện. Qua những năm đƣợc học tập, rèn luyện trong môi

trƣờng lành mạnh, đã có 300 thanh niên đƣợc ra trƣờng trở về cuộc sống đời

thƣờng, trong đó không ít ngƣời cảm thấy gắn bó với Trƣờng, đã xin ở lại phục vụ,

góp phần cảm hóa nhiều thanh niên tệ nạn xã hội khác.

161

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Đoàn và của đoàn viên,

thanh niên là xung kích thực hiện những nhiệm vụ chiến lƣợc của Đảng và Nhà

nƣớc, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, góp phần nâng cao

đời sống mọi mặt của nhân dân. Thực hiện các nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần

thứ III, thanh niên công nhân trong các cơ sở Đoàn khối Công nghiệp, Công ty Cao

su Đồng Nai đã đẩy mạnh “Chƣơng trình tuổi trẻ lao động, sáng tạo và tiết kiệm”.

Ở các cơ sở Đoàn, hầu hết đoàn viên và thanh niên đều đăng ký hoàn thành vƣợt

mức kế hoạch. Có năm, nhƣ năm 1983 đã có tới 5 cơ sở Đoàn hoàn thành các chỉ

tiêu kế hoạch đƣợc giao trƣớc 5 tháng. Đó là các cơ sở: Việt Thái, Mạch Nha, Gốm

số 2, Đèn ống thủy tinh, Công ty Nông trƣờng; 4 cơ sở hoàn thành kế hoạch trƣớc

từ 2 đến 3 tháng, gồm: Luyện cán thép Biên Hòa, Gạch ngói Đồng Nai, Trụ bê

tông, May Đồng Nai. Phong trào lao động sáng tạo của tuổi trẻ trong Khu Công

nghiệp có những bƣớc phát triển mới, tổ chức Đoàn ở nhiều cơ sở đã mạnh dạn

đảm nhận hoàn thành nhiều đề tài khoa học, kỹ thuật có giá trị. Nhiều ban khoa

học kỹ thuật trẻ, nhiều tổ hỗ trợ sáng kiến hoạt động có nề nếp, hỗ trợ tích cực cho

phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản

xuất có hiệu quả. Nhiều cơ sở, hàng năm tổ chức Đoàn đều mở các hội nghị khoa

học bàn về chất lƣợng sản phẩm và những yêu cầu mới đặt ra về kỹ thuật, gợi ý để

thanh niên công nhân suy nghĩ, tìm tòi các giải pháp thích hợp nâng cao năng suất

lao động và chất lƣợng sản phẩm. Đến đầu năm 1985, riêng thanh niên Công ty

Cao su đã đảm nhận và thực hiện có kết quả 840 công trình thanh niên có giá trị,

nhƣ công trình lai ghép 6 héc ta cao su, đảm bảo 95% cây sống; công trình tận thu

30,03 tấn mủ; công trình làm đập nƣớc, máng, chén mủ; công trình đào 19.819 mét

hào. Toàn công ty có 207 tổ, nhóm thanh niên xung kích, với 9.000 thanh niên

công nhân tham gia; có 2 tập thể Cẩm Đƣờng, Cẩm Mỹ, phấn đấu xây dựng thành

“Tập thể thanh niên xã hội chủ nghĩa”... là lực lƣợng nòng cốt trong việc giải toả

nhiều khó khăn ách tắc trong quá trình sản xuất của công ty.

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, với chƣơng trình “Tuổi trẻ xung kích trên

mặt trận sản xuất nông nghiệp, mũi nhọn là lƣơng thực”, thanh niên nông thôn,

cùng với việc đi đầu thực hiện chủ trƣơng hợp tác hóa của Đảng, đã xây dựng các

tổ, đội chuyên do thanh niên quản lý, bao gồm: chuyên giống, chuyên thủy lợi,

chuyên làm phân bón, chuyên bảo vệ thực vật... mạnh dạn ứng dụng các tiến bộ

khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp phần tăng đáng kể năng suất cây trồng và vật

nuôi. Nhiều đội chuyên đã thực sự làm nòng cốt trong sản xuất của các hợp tác xã,

tập đoàn sản xuất, nhƣ đội chuyên giống của hợp tác xã Tân Yên (xã Gia Tân,

huyện Thống Nhất) nhờ biết áp dụng các biện pháp kỹ thuật đồng bộ, năng suất

ruộng lúa giống của đội đã vƣợt hơn hẳn, tăng 30% so với mức khóan; đội thanh

niên xung kích của trại lúa giống Hiệp Hòa (Biên Hòa) không những góp phần tạo

nên giống lúa mới L.9, còn đƣa năng suất lên 7 tấn/ha. Nhiều cơ sở Đoàn đã đảm

162

nhận xây dựng các công trình thanh niên, trƣớc hết là các công trình thủy lợi, cải

tạo đồng ruộng, trong đó nhiều công trình trọng điểm của tỉnh, có qui mô lớn, nhƣ

công trình Thiện Tân, Lợi Hòa, đê ngăn mặn Chu Hải (Châu Thành). Đoàn viên,

thanh niên Gia Tân (huyện Thống Nhất) đã đào đắp hàng ngàn mét khối đất đá, mở

con kênh vƣợt qua đồi cao, dẫn nƣớc vào đồng, biến ruộng một vụ thành 2 vụ.

Đẩy mạnh một bƣớc hoạt động của Đoàn trong sản xuất lƣơng thực, học tập

tinh thần cách mạng tiến công của các chiến sĩ Quân Giải phóng trong Chiến dịch

Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam mùa Xuân 1975, thanh niên nông

thôn Đồng Nai đã mở chiến dịch “Hồ Chí Minh toàn thắng”, xung kích và sáng tạo

trên hầu hết các lĩnh vực có liên quan, kể cả trong điều tra điều chỉnh ruộng đất, cải

tạo đồng ruộng. Nhiều cơ sở Đoàn ở các địa phƣơng đã đảm nhận xây dựng những

cánh đồng, thửa ruộng vƣợt khóan, thửa ruộng tăng sản, cao sản, thửa ruộng nhân

giống... Phần lớn những cánh đồng do thanh niên đảm nhận đều cho năng suất cao

hơn hẳn các thửa ruộng đại trà của bà con nông dân, có những cánh đồng vƣợt mức

khóan tới 30 – 50%. Nhiều đề tài khoa học, kỹ thuật thanh niên đảm nhận đã đem

lại hiệu quả rõ rệt, nhƣ công trình “Trồng thử nghiệm thông Caribê” của thanh niên

Nông lâm trƣờng Hiếu Liêm; công trình nhân giống điền thanh của thanh niên

huyện Vĩnh Cửu; công trình cải tạo đồng ruộng, xây dựng bờ vùng bờ thửa của

tuổi trẻ Xuân Phú...

Một nét mới đáng chú ý trong thời kỳ này là bắt đầu xuất hiện mối quan hệ

phối hợp giữa thanh niên công nhân và thanh niên nông thôn. Thanh niên Nhà máy

Giấy Tân Mai phối hợp với thanh niên nông thôn xã Hiệp Hòatổ chức thu mua

rơm. Huyện Đoàn và Công đoàn huyện Long Thành phối hợp xây dựng mô hình

liên minh công nông giữa Nhà máy Vicasa, Trụ bê tông và xã Long Phƣớc sản xuất

các công cụ phục vụ nông nghiệp nhƣ thuyền bơm, bình xịt. Đoàn thanh niên Nhà

máy Cơ khí Đồng Nai nhận công trình sản xuất thuyền bơm nƣớc cung cấp cho các

tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp huyện Long Thành...

Trong điều kiện tình hình kinh tế – xã hội đầu những năm 80 có nhiều diễn

biến phức tạp, nhiều kẻ cơ hội lợi dụng khó khăn đã “đục nƣớc béo cò”, gây rối

loạn thị trƣờng và giá cả, lạm phát tăng vọt, tổ chức Đoàn ở nhiều địa phƣơng đã

sáng tạo nhiều hình thức tổ chức, góp phần ổn định thị trƣờng. Nhiều đoàn viên và

thanh niên đã xung phong vào công tác trong hệ thống hợp tác xã mua bán. Ở một

số địa phƣơng, nhƣ ở phƣờng Hòa Bình, Hố Nai, tổ chức Đoàn đã xây dựng “chợ

thanh niên”, kết hợp cùng các ban, ngành và Ban quản lý chợ thƣờng xuyên kiểm

tra việc niêm yết giá cả. Ở thành phố Biên Hòa, nhiều chi đoàn, phân đoàn thanh

niên đã đƣợc xây dựng ở các chợ, các hợp tác xã mua bán, góp phần đấu tranh với

những biểu hiện tiêu cực trong lƣu thông phân phối. 1.500 đoàn viên, thanh niên

trong ngành phân phối lƣu thông đã đăng ký phấn đấu trở thành “mậu dịch viên

163

giỏi”. Một số hình thức tổ chức đƣợc Đoàn xây dựng, nhƣ “tổ đại lý thu mua do

thanh niên quản lý”, “cửa hàng thanh niên”, “kho thanh niên”... đã phát huy tác

dụng nâng cao một bƣớc chất lƣợng phục vụ của ngành. Tổ chức Đoàn Thanh niên

thành phố Biên Hòa còn xây dựng Ban điều hành thanh niên tại Bến xe khách Hố

Nai, đảm bảo trật tự, an toàn cho hành khách đi xe, kịp thời phát hiện, xử lý những

hành vi bắt chẹt khách. Nhiều đầu xe thanh niên cũng đƣợc xây dựng, đi vào hoạt

động có hiệu quả, đƣợc hành khách đi xe đánh giá cao.

Cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động xung kích và sáng tạo trên các lĩnh

vực sản xuất và đời sống, các cấp bộ Đoàn Thanh niên ở các địa phƣơng trong tỉnh

đã thƣờng xuyên chú ý chăm lo đến những quyền lợi chính đáng của thanh niên,

trong đó có vấn đề hƣớng nghiệp và giải quyết việc làm. Chỉ riêng năm 1983, trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai đã có khoảng 60.000 thanh niên đến tuổi lao động, trong đó

có 12.000 thanh niên tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Vấn đề

công ăn việc làm cho số đối tƣợng này ngày càng trở nên gay gắt. Chƣa kể những

thanh niên chƣa có việc làm từ những năm trƣớc tồn đọng lại, thanh niên hết hạn

nghĩa vụ quân sự trở về địa phƣơng... Mặc dù còn nhiều lúng túng, chƣa có đƣợc

những biện pháp đồng bộ và tích cực để tạo điều kiện cho thanh niên chƣa có công

ăn việc làm đƣợc vào làm việc trong các cơ sở tiểu thủ công nghiệp đang có chiều

hƣớng mở rộng... nhƣng tổ chức Đoàn các cấp đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề có

tính chất cơ bản của việc giải quyết công ăn việc làm cho thanh niên. Tổ chức

Đoàn các cấp đã mở rộng các “Trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp” để trang bị

nghề cho thanh niên, để họ có thể tìm đƣợc một việc làm thích hợp. Một số cơ sở

Đoàn trong trƣờng học đã tổ chức kết nghĩa với các trƣờng trung học chuyên

nghiệp để tổ chức dạy nghề cho học sinh; tổ chức cho các em đi tham quan các nhà

máy, xí nghiệp. Tại Trƣờng bổ túc văn hóa Thanh niên, Trƣờng phổ thông trung

học Xuân Lộc còn hình thành các tổ rèn, mộc, may trong nhà trƣờng để các em học

sinh làm quen dần với nghề nghiệp.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đƣợc các cấp bộ Đoàn trong tỉnh quan

tâm chỉ đạo trong thời gian này là xung kích bảo vệ an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ

quốc. Tổ chức Đoàn các cấp đã từng bƣớc chủ động phối hợp với các ngành có

liên quan, thực hiện tốt từ việc giáo dục thanh niên có ý thức trách nhiệm đối với

nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đến việc gọi thanh niên nhập ngũ, làm công tác hậu

phƣơng quân đội. Các phong trào kết nghĩa 3 lực lƣợng, vì điểm tựa tiền tiêu của

Tổ quốc đƣợc duy trì và phát triển lên một bƣớc, có tác dụng giáo dục sâu sắc đối

với những thanh niên đang làm nhiệm vụ trong các lực lƣợng vũ trang thƣờng trực,

cũng nhƣ đối với đông đảo thanh niên đang lao động, học tập ở hậu phƣơng. Hàng

vạn lƣợt đoàn viên và thanh niên trong tỉnh hàng năm đều đƣợc học tập, tìm hiểu

về Luật Nghĩa vụ quân sự, kết hợp với những hoạt động truyền thống, nhân những

164

ngày kỷ niệm lớn, ngày hội quốc phòng toàn dân 22 tháng 12. Ở Xuân Lộc, hàng

năm, sau mỗi đợt tổ chức sinh hoạt truyền thống, các cơ sở Đoàn đều kết hợp vận

động thanh niên đăng ký tình nguyện thi hành nghĩa vụ quân sự. Những thanh niên

đã đăng ký thi hành nghĩa vụ quân sự đều đƣợc tổ chức vào Hội Liên hiệp Thanh

niên. Những thanh niên tích cực đều đƣợc bồi dƣỡng và kết nạp vào hàng ngũ của

Đoàn. Trong số thanh niên lên đƣờng làm nghĩa vụ quân sự hàng năm, tỷ lệ đoàn

viên đã tăng lên nhanh chóng, từ 11% những năm đầu mới giải phóng đã tăng lên

53%, năm 1985.

Bên cạnh số thanh niên lên đƣờng thi hành nghĩa vụ quân sự, hàng vạn đoàn

viên và thanh niên khác đã tham gia lực lƣợng vũ trang làm nhiệm vụ tại địa bàn.

Đến đầu năm 1985, đã có 25.000 đoàn viên, thanh niên ở các địa phƣơng tham gia

các lực lƣợng tự vệ, dân quân du kích; 12.000 đoàn viên, thanh niên tham gia các

tổ an ninh nhân dân.

Thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang thƣờng trực có các phong trào phấn

đấu trở thành “Chiến sĩ trẻ vẻ vang”, “Tập thể chiến sĩ trẻ vẻ vang”. Trong thanh

niên công an nhân dân có phong trào “Học tập 6 điều Bác Hồ dạy”. Thông qua các

đợt diễn tập N82, N83, N84... đều cho thấy ý thức sẵn sàng của tuổi trẻ trong các

lực lƣợng vũ trang, trong các đơn vị thƣờng trực cũng nhƣ trong lực lƣợng dân

quân tự vệ đều đƣợc nâng lên, đảm bảo khả năng làm tròn nhiệm vụ trên mặt trận

an ninh quốc phòng. Những tập thể tiêu biểu, quên mình vì nhiệm vụ xuất hiện

ngày một nhiều, nhƣ tập thể đơn vị bộ đội biên phòng 762 không quản gian khổ,

nguy hiểm, ngày đêm giữ vững vùng biên cƣơng của Tổ quốc; Đội bảo vệ Nhà

máy Vicasa, Đội thiếu niên Phù Đổng Tân Triều (Vĩnh Cửu), Đội an ninh Sao Đỏ

Cẩm Đƣờng (Cao Su)... đã thƣờng xuyên nâng cao cảnh giác bảo đảm an toàn, trật

tự xã hội, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Nhiều tấm gƣơng tiêu biểu đã thể hiện

phẩm chất tốt đẹp của một thế hệ thanh niên mới, không ham của bất chính, sẵn

sàng hy sinh tính mạng mình để cứu ngƣời, cứu tài sản của dân, nhƣ các đoàn viên

Phạm Tiến Điền, Nguyễn Thành Long, Vũ Hồng Quang (công an), Đỗ Duy Luật,

Trịnh Văn Đức (bộ đội) nhảy xuống giếng sâu 18 mét để cứu sống một em bé...

Công tác xây dựng Đội và chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng đầu những

năm 80 đã đƣợc đặt ra trong cuộc vận động “Toàn dân chăm sóc và bảo vệ thiếu

niên nhi đồng”, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai luôn phát

huy vai trò nòng cốt của mình, tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp của

chính quyền và của các ngành chức năng, thực hiện nhiều biện pháp, tổ chức xây

dựng, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ phụ trách năng động, tự chủ, thành lập Hội đồng

Đội các cấp, tạo ra cơ chế phối hợp chặt chẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển

khai các chủ trƣơng chăm sóc giáo dục thiếu niên theo phƣơng châm kết hợp giữa

gia đình, nhà trƣờng và xã hội, thực hiện triệt để “toàn Đoàn làm công tác Đội”. Đến

165

đầu năm 1985, đã có 7/10 huyện, thành phố thành lập đƣợc Hội đồng Đội, 35/149 cơ

sở xã, phƣờng thành lập đƣợc Hội đồng Đội của cơ sở mình.

Tháng 9 năm 1984, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai

đã tiến hành Đại hội cán bộ phụ trách toàn tỉnh để đánh giá một cách toàn diện tình

hình công tác xây dựng Đội và công tác chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng,

cũng nhƣ vai trò của ngƣời phụ trách trong nhiệm vụ vẻ vang đó. Từ chỗ chỉ có 2

liên đội Thiếu niên đầu tiên: Liên đội Khiết Tâm (Trƣờng Trần Hƣng Đạo, thành

phố Biên Hòa) và liên đội Ngô Quyền đƣợc thành lập tháng 6–1975, sau ngày quê

hƣơng Đồng Nai đƣợc giải phóng hơn 1 tháng, với 60 em đội viên, các anh chị phụ

trách đã tập hợp, dìu dắt các em quen dần với công tác Đội và đến năm 1976, số

đội viên trong toàn tỉnh đã phát triển lên đến 10.435 em. 10 năm sau, con số đó đã

là 103.335 đội viên, chiếm 58,3% tổng số các em trong độ tuổi (103.335/176.750

em). Đội Nhi đồng cũng phát triển từ 317 em (năm 1976) lên 47.797 em (năm

1984) đạt tỷ lệ 70,6% tổng số nhi đồng trong toàn tỉnh (47.797/67.109 em).

Bằng các phong trào hành động cách mạng phù hợp, nhƣ thực hiện các chủ

đề: “Bay đến tầm cao của Tổ quốc”, “Tổ quốc em biết mấy tự hào”, “Ngàn hoa

việc tốt dâng Đảng quang vinh”, “Hành quân theo bƣớc chân những ngƣời anh

hùng”... thiếu niên, nhi đồng ở các địa phƣơng trong tỉnh đã đƣợc tập hợp, đƣợc

quản lý, giáo dục dƣới nhiều hình thức sinh động. Trong cuộc “Hành quân theo

bƣớc chân những ngƣời anh hùng” đƣợc chia làm 2 chặng: chặng thứ nhất kết thúc

vào ngày kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7–5–1954 – 7–5–1984),

chặng thứ hai kết thúc vào ngày kỷ niệm 10 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam

(30–4–1975 – 30–4–1985) các em đội viên thiếu niên, nhi đồng đã nêu lên các mục

tiêu phấn đấu: “Mỗi đội viên tốt là một học sinh chăm, mỗi chúng em là một bông

hoa nhỏ, cả chúng em là một vƣờn hoa” và “Mỗi tiết học tốt là một khẩu pháo, mỗi

điểm 10 là một viên đạn tiến về chiến dịch”. Các liên đội, chi đội đã tổ chức cho

các đội viên cùng thi đua phấn đấu giành từng điểm tốt để ghi vào sổ chiến công

của mình. Các em tổ chức nhau thành những “đôi bạn điểm 10”, thực hiện truy bài

đầu giờ, tiếng kẻng văn hóa, đã giúp các em không ngừng nâng cao chất lƣợng học

tập. Các em đã giành đƣợc 935.202 viên đạn (điểm 10), 36.255 giờ học tốt, làm

đƣợc 476.772 việc tốt. Trong đó, riêng thành phố Biên Hòađã giành đƣợc 12.115

“khẩu pháo”, 335.660 “viên đạn” trong học tập; thiếu niên, nhi đồng Xuân Lộc đã

bình chọn đƣợc 1.035 chiến sĩ nhỏ, trong hai đợt thực hiện cuộc “Hành quân theo

bƣớc chân những ngƣời anh hùng”.

Các hoạt động xã hội của thiếu niên, nhi đồng Đồng Nai ngày càng phát triển

phong phú, từ những hoạt động đền ơn đáp nghĩa, công tác Trần Quốc Toản, hoạt

động kế hoạch nhỏ, vì dòng điện Trị An, vì điểm tựa tiền tiêu của Tổ quốc... các

em còn tiến lên tham gia xây dựng các công trình thiếu nhi, góp phần phục vụ

166

chính những hoạt động của các em. Với các hình thức thu nhặt giấy vụn, vỏ chai,

lƣợm hạt điều, hạt cao su, làm phân bón... các em đã đóng góp vào quĩ xây dựng

đoàn tàu mang tên “Đội Thiếu niên Tiền phong” số tiền 14.000 đồng, vào tài khoản

xây dựng khách sạn Khăn quàng đỏ ở Hà Nội số tiền 72.129 đồng (giá trị năm

1984). 790 em đã đƣợc chọn là dũng sĩ kế hoạch nhỏ. Cũng bằng phƣơng thức hoạt

động kế hoạch nhỏ, các em còn ủng hộ công trình thủy điện Trị An 70.000 đồng,

tham gia phong trào toàn dân mua công trái xây dựng Tổ quốc, ngay trong đợt 1 đã

đạt hơn 97.000 đồng.

Một nét mới trong hoạt động Đội thời kỳ này là phát triển phong trào “Tình

bạn bốn phƣơng” trong thiếu niên, nhi đồng ở hầu khắp các địa phƣơng trong tỉnh.

Hoạt động của các em không dừng lại ở việc tìm hiểu về đất nƣớc, con ngƣời của

bạn, ủng hộ phong trào đấu tranh cho hòa bình, chống vũ khí hạt nhân trên thế

giới... các em đã có những hoạt động thiết thực thể hiện tình cảm của mình đối với

bạn bè thế giới, nhƣ gửi những bộ trống Đội tặng các bạn thiếu nhi Kôngpông

Thom (Campuchia), gửi giấy bút tặng thiếu nhi Cuba...

Tổ chức Đoàn các cấp đã có nhiều hình thức sáng tạo, tạo điều kiện đƣa công

tác xây dựng Đội Thiếu niên và Đội Nhi đồng đi vào nề nếp. Trong nhiều năm,

nhất là từ năm học 1983 – 1984, tổ chức Đoàn và ngành Giáo dục đã phối hợp chặt

chẽ, thống nhất chỉ đạo công tác Đội từ tỉnh đến cơ sở. Nhiều Ban Giáo dục các

cấp, Ban Giám hiệu nhà trƣờng đã thật sự coi công tác Đội nhƣ công tác chuyên

môn. Phong trào toàn trƣờng làm công tác Đội phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh.

Hoạt động của Nhà văn hóa Thiếu nhi cũng góp phần không nhỏ trong hệ

thống giáo dục thiếu nhi ngoài nhà trƣờng bằng nhiều hình thức sinh động, thu hút

đông đảo các em tham gia, nhƣ triển lãm, đố em, kể chuyện sách, cắm trại, tham

quan, hội diễn với nhiều chủ đề khác nhau có tác dụng giáo dục các em nâng cao

nhận thức về các vấn đề xã hội, về truyền thống của Đảng, của dân tộc. Nhà văn

hóa Thiếu nhi tỉnh đã mở nhiều lớp năng khiếu phổ cập ngắn hạn, giúp các em có

những hiểu biết cơ bản về văn học nghệ thuật, về âm nhạc, khoa học kỹ thuật, thể

dục thể thao, về truyền thống địa phƣơng...

Đáng chú ý là tổ chức Đoàn các cấp đã bƣớc đầu quan tâm tập hợp các em

thiếu nhi nghèo chƣa đƣợc đến trƣờng, mở các lớp học tình thƣơng (Biên Hòa), lớp

bổ túc văn hóa cho con em công nhân nghèo (Cao Su), tạo điều kiện cho các em

đƣợc hòa nhập với cộng đồng.

Công tác Đội và phong trào thiếu nhi của Đồng Nai đã không ngừng phát

triển trên mọi mặt. Từ 160/1.320 chi đội đạt danh hiệu chi đội mạnh, đến năm học

1984 đã có 735/2.285 chi đội mạnh, đạt tỷ lệ 32,2%; 59.265 lƣợt các em đã phấn

đấu đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”. Tỷ lệ đội viên thiếu niên trƣởng thành

167

đƣợc đứng vào hàng ngũ của Đoàn cũng tăng lên nhanh chóng. Năm 1979, chỉ có

176 em thiếu niên trƣởng thành đƣợc kết nạp vào Đoàn, đến năm 1984 đã có

3.313/11.921 em thiếu nhi trƣởng thành đƣợc đứng vào hàng ngũ của Đoàn, chiếm

tỷ lệ 27,7%. Nhiều em thiếu niên, nhi đồng trƣởng thành đã trở thành những công

dân tốt, những cán bộ tin cậy của Đảng, nhƣ Nguyễn Thanh Sơn, vốn là Liên đội

trƣởng liên đội phƣờng Quyết Thắng những năm đầu mới giải phóng, khi trƣởng

thành đƣợc kết nạp vào Đoàn, sau đó đƣợc đứng vào hàng ngũ của Đảng quang

vinh, trở thành một sĩ quan quân đội, công tác tại Tỉnh đội Đồng Nai; Trần Văn

Minh, ủy viên thƣờng vụ Huyện Đoàn Xuân Lộc; Thái Văn Đức, Phó công an xã

Xuân Tân... đều trƣởng thành từ những đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ

Chí Minh từ sau ngày quê hƣơng đƣợc giải phóng. Có cả những ngƣời trƣởng

thành đã trở lại làm cán bộ phụ trách Đội nhƣ Nguyễn Văn Xinh (Long Đất),

Nguyễn Toàn Hạnh (Thành Đoàn Biên Hòa), Bùi Thị Thu (Huyện Đoàn Vĩnh

Cửu)...

Một chặng đƣờng nỗ lực phấn đấu, tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên

Đồng Nai đã vƣợt qua nhiều thử thách trong điều kiện tình hình kinh tế xã hội có

những biến động phức tạp, đã từng bƣớc khẳng định bản chất cách mạng của một

tổ chức quần chúng trung kiên gần Đảng, luôn vững tin ở sự lãnh đạo và chỉ đạo

trực tiếp của Đảng, thƣờng xuyên bám sát những nhiệm vụ chính trị của Đảng, lấy

đó làm mục tiêu hành động cho mọi phong trào, tập hợp, đoàn kết thanh niên đi

theo một định hƣớng đƣợc lựa chọn, cống hiến và trƣởng thành. Thực tiễn hoạt

động trong 10 năm kể từ sau ngày quê hƣơng đƣợc hoàn toàn giải phóng và cùng

cả nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội cho thấy hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh cũng nhƣ của phong trào thanh niên luôn luôn phải có

những đổi mới phù hợp với mọi đối tƣợng thanh niên, đồng thời phải kịp thời

chuyển hƣớng theo kịp yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn, với

sự phát triển kinh tế xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công tác vận động

thanh niên; không ngừng mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên, quan tâm

thích đáng đến những quyền lợi của họ, tạo điều kiện để thanh niên có cơ hội thuận

lợi đƣợc đem hết sức lực và khả năng cống hiến cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.

Thời cơ và thách thức luôn đòi hỏi tuổi trẻ những nỗ lực không ngừng.

168

169

Chƣơng VII

GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI

CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI DO ĐẢNG

KHỞI XƢỚNG VÀ LÃNH ĐẠO,

TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN ĐỒNG NAI

TRƢỞNG THÀNH NHANH CHÓNG

1986 – 2000

I. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC, ĐỔI MỚI HÀNH ĐỘNG.

Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đƣờng lối

đổi mới toàn diện tình hình kinh tế – xã hội của đất nƣớc, đánh dấu bƣớc chuyển

cơ bản của cách mạng Việt Nam trên con đƣờng đƣa đất nƣớc thoát khỏi cảnh

nghèo nàn lạc hậu, từng bƣớc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho

dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Ý thức rõ trách nhiệm của tuổi trẻ trƣớc thời điểm có tính bƣớc ngoặt của

cách mạng, Đại hội Đoàn toàn tỉnh Đồng Nai lần thứ III, họp tháng 7–1987, sau

khi kiểm điểm sâu sắc những thành quả đạt đƣợc sau 5 năm nỗ lực phấn đấu thực

hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ II (1981 – 1987), đã đề ra những

nhiệm vụ trọng tâm của công tác Đoàn và phong trào thanh niên Đồng Nai, nhằm

động viên tuổi trẻ trong tỉnh nỗ lực vƣơn lên, vƣợt qua những khó khăn thử thách

trƣớc mắt, thực hiện thắng lợi đƣờng lối đổi mới của Đảng, kiên quyết đổi mới nội

dung cũng nhƣ phƣơng thức hoạt động của tổ chức Đoàn, xung kích thực hiện

thắng lợi những mục tiêu kinh tế xã hội do Tỉnh Đảng bộ Đồng Nai đề ra, trong đó

có việc xung kích thực hiện chƣơng trình lƣơng thực, thực phẩm; xung kích thực

hiện chƣơng trình sản xuất hàng tiêu dùng; chƣơng trình sản xuất hàng xuất khẩu;

xung kích trên mặt trận quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc cũng nhƣ xung kích

trên mặt trận văn hóa xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho thanh niên,

đẩy mạnh các hoạt động chống tiêu cực, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ quyền

lợi cho thanh niên.

Để đảm bảo thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đề ra, các đại biểu dự Đại

hội lần thứ III Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã đặc biệt

coi trọng đề ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động mọi mặt của tổ

chức Đoàn và phong trào thanh niên theo tinh thần đổi mới tổ chức, đổi mới hành

động, trên cơ sở khả năng sáng tạo và sức vƣơn lên mạnh mẽ của tuổi trẻ.

170

Ban Chấp hành Tỉnh Đoàn do Đại hội lần thứ III bầu ra có 43 đồng chí. 11

đồng chí đã đƣợc bầu vào Ban Thƣờng vụ Tỉnh Đoàn khóa III, gồm: Đồng chí Đào

Văn Minh, Bí thƣ Tỉnh Đoàn, các đồng chí Nguyễn Ngọc Đức, Phạm Thanh Điền,

Lê Trần Thiên Lý, Phó bí thƣ và các đồng chí Bùi Ngọc Thanh, Trịnh Thế Minh,

Võ Thanh Tâm, Trƣơng Văn Nhân, Phan Văn Trƣớc, Nguyễn Hoàng Lƣu, Nguyễn

Thị Lệ Hồng là Ủy viên Thƣờng vụ. Sau Đại hội, đến tháng 8–1988, đồng chí

Huỳnh Sơn đƣợc bầu bổ sung vào Ban Thƣờng vụ và lần lƣợt các đồng chí sau đây

đƣợc bầu bổ sung vào Ban Thƣờng vụ: đồng chí Nguyễn Thành Trí đƣợc bầu bổ

sung tháng 7–1989, đồng chí Hồ Quế Hậu đƣợc bầu bổ sung tháng 3–1990, đồng

chí Đinh Văn Tố đƣợc bầu bổ sung tháng 3–1991. Đến tháng 11–1991, đồng chí

Bùi Ngọc Thanh đƣợc bầu thay đồng chí Đào Văn Minh làm Bí thƣ Tỉnh Đoàn.

Những năm sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tình hình kinh tế – xã

hội của đất nƣớc tiếp tục đứng trƣớc những khó khăn gay gắt. Sản xuất trong nƣớc

sa sút nghiêm trọng, lạm phát tăng vọt, trong lúc tình hình thế giới có những biến

động phức tạp. Liên Xô (cũ) và các nƣớc trong hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông

Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện và lần lƣợt tan rã.

Ở Đồng Nai, cũng nhƣ tình hình chung của cả nƣớc, có nhiều diễn biến phức

tạp. Sản xuất công nghiệp đình đốn, sản xuất nông nghiệp không có khả năng kích

thích lực lƣợng sản xuất. Hàng loạt chính sách mới về kinh tế tạo sự chủ động cho

cơ quan xí nghiệp, nhƣng cơ chế mới thay đổi chƣa đồng bộ, nên ngƣời sản xuất

phải đối mặt với nhiều thách thức. Lực lƣợng lao động dôi dƣ, chủ yếu là thanh

niên công nhân mới vào nghề. Tổ chức Đoàn bị xáo trộn do việc sáp nhập, giải thể

các công ty, xí nghiệp. Ở nông thôn, hàng loạt tập đoàn sản xuất và hợp tác xã tan

rã, nảy sinh vấn đề tranh chấp ruộng đất, ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động của

tổ chức Đoàn...

Nhiều tệ nạn xã hội phát sinh và phát triển làm tha hóa một bộ phận thanh

niên vốn thiếu ý thức rèn luyện vƣơn lên trong cuộc sống. Tệ nạn mại dâm, ma tuý

không chỉ phát triển ở thành phố, thị xã mà còn ở nhiều vùng nông thôn.

Đứng trƣớc những biến động phức tạp của tình hình, ngay từ sau Đại hội

Đoàn toàn tỉnh lần thứ III, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh

Đồng Nai đã tập trung mọi nỗ lực, năng động và sáng tạo, chỉ đạo những chƣơng

trình công tác trọng tâm, trƣớc hết là tập trung chỉ đạo cuộc vận động xây dựng chi

đoàn mạnh, với nhiều biện pháp đồng bộ, vừa quán triệt từng yêu cầu, nội dung,

tiêu chuẩn và bƣớc đi của cuộc vận động đến tận từng đoàn viên, vừa lựa chọn đội

ngũ cán bộ nòng cốt, tiến hành bồi dƣỡng ngắn ngày, biên soạn tài liệu dành cho

Bí thƣ chi đoàn, tổ chức hội thi Bí thƣ chi đoàn giỏi. Một số cơ sở Đoàn ở các địa

phƣơng đã tìm tòi nhiều biện pháp sáng tạo làm cho cuộc vận động ngày càng đi

vào chiều sâu. Trong đó có biện pháp xây dựng chi đoàn mạnh thông qua công tác

171

đoàn kết tập hợp thanh niên của Đoàn cơ sở thị trấn Bà Rịa (lúc này vẫn thuộc

Đồng Nai). Là một địa bàn nửa thành thị, nửa nông thôn, với lực lƣợng thanh niên

chiếm khoảng 30% dân số, trong đó khoảng 30% sống bằng đồng lƣơng, 40% hoạt

động trong lĩnh vực nông, ngƣ nghiệp, 20% làm dịch vụ thƣơng mại, số còn lại

chƣa có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Số đoàn viên chiếm tỷ lệ rất thấp,

chỉ có 286 đoàn viên trên tổng số 9.000 thanh niên của thị trấn, chiếm 0,03%; số

hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên cũng chỉ có 432 ngƣời, chiếm chƣa đến 0,05%.

Điều đáng chú ý là phần lớn hoạt động của Đoàn đều chỉ bó hẹp trong phạm vi

đoàn viên và một số ít hội viên. Thanh niên hầu nhƣ không quan tâm đến tổ chức

Đoàn. Những hoạt động của tổ chức Đoàn nhƣ vận động tiêm chủng mở rộng, xây

nhà tình nghĩa, thi hành nghĩa vụ quân sự, bổ túc văn hóa... thanh niên trong thị

trấn đều thờ ơ.

Đổi mới hoạt động của Đoàn, Đoàn cơ sở thị trấn Bà Rịa đã lựa chọn biện

pháp chỉ đạo cuộc vận động xây dựng chi đoàn mạnh thông qua công tác đoàn kết

tập hợp thanh niên và chọn chi đoàn thôn Phƣớc Trung, là một chi đoàn yếu, hầu

nhƣ không hoạt động để tiến hành các bƣớc củng cố. Sau khi nắm lại toàn bộ lực

lƣợng thanh niên trong thôn, chi đoàn Phƣớc Trung đã phối hợp chặt chẽ với tổ

chức thống kê, du kích và công an thôn nắm số thanh niên đang hoạt động ở các

lĩnh vực này làm nòng cốt trong quá trình tập hợp thanh niên. Nhiều mô hình hoạt

động đƣợc vận dụng nhƣ hoạt động vui chơi giải trí có đội bóng đá, đội văn nghệ;

lao động sản xuất có xây dựng cánh đồng mẫu thanh niên, ứng dụng nhiều biện

pháp kỹ thuật thâm canh tiến bộ về bón phân, về phun thuốc trừ sâu bệnh... Ngoài

ra, còn có câu lạc bộ kỹ năng, bồi dƣỡng những kỹ năng về nghề nghiệp và cũng

bồi dƣỡng cả những kỹ năng trong cuộc sống... Từng bƣớc, thanh niên trong thị

trấn thấy rõ vai trò tổ chức Đoàn trong việc quan tâm đến những quyền lợi chính

đáng của thanh niên nên đã tự nguyện đến với Đoàn, tham gia nhiều hoạt động do

Đoàn tổ chức. Một số đoàn viên bỏ sinh hoạt, nhận thấy những đổi mới trong hoạt

động của tổ chức Đoàn ở địa phƣơng cũng tự nhận khuyết điểm và xin trở lại tham

gia sinh hoạt Đoàn.

Cũng theo hƣớng từng bƣớc đổi mới hoạt động, trên địa bàn dân cƣ bắt đầu

xuất hiện những chi hội Thanh niên tập hợp đối tƣợng của mình theo sở thích và

nghề nghiệp. Chi hội Thanh niên chặt mía ở ấp Miếu (Phƣớc Tân); chi hội Lò

gạch, chi hội nhân giống (Tam Phƣớc); chi hội mai táng (Phú Hội); chi hội công

tác xã hội (Long Điền). Riêng năm 1989, trên phạm vi toàn tỉnh đã có 20 chi hội

theo sở thích và theo nghề nghiệp đƣợc thành lập, bên cạnh các loại hình tập hợp

thanh niên trong các đội hình thanh niên xung kích, thanh niên cờ đỏ, thanh niên

kiểm tra, các tổ, nhóm khoa học kỹ thuật...

172

Đổi mới phƣơng thức giáo dục của Đoàn, cùng với việc triển khai đi vào

chiều sâu năm học Bác Hồ, năm học Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, tổ chức

Đoàn các cấp đã phát triển hình thức đối thoại thanh niên, một hình thức hấp dẫn,

thu hút đông đảo thanh niên muốn tìm hiểu những vấn đề đang đặt ra cho đất nƣớc,

cho địa phƣơng và cả những vấn đề đang diễn ra trên thế giới. Nhiều đoàn viên và

thanh niên đã đến với các buổi đối thoại một cách tự giác và nêu ra nhiều vấn đề

đang bức xúc. Thông qua các buổi đối thoại, các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền

và tổ chức Đoàn kịp thời nắm bắt đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng của thanh niên, có

biện pháp tháo gỡ những khó khăn, vƣớng mắc ở cơ sở, phát hiện đƣợc những điều

chƣa phù hợp để điều chỉnh. Ở Tân Phú, nhiều vấn đề của thanh niên đặt ra, thông

qua các cuộc đối thoại trực tiếp, đồng chí Bí thƣ Huyện ủy đã nhanh chóng tìm

biện pháp giải quyết, tạo niềm tin cho đoàn viên, thanh niên, trong đó có cả những

vấn đề về việc làm, về chế độ cho cán bộ Đoàn cơ sở đều đƣợc xem xét giải quyết

kịp thời. Những đề xuất chƣa phù hợp với tình hình địa phƣơng, đồng chí Bí thƣ

Huyện ủy cũng phân tích rõ, tạo sự thống nhất trong nhận thức của đông đảo thanh

niên trƣớc những biến động phức tạp của tình hình trong nƣớc và trên thế giới.

Tổ chức Đoàn các cấp của Đồng Nai đặc biệt quan tâm đổi mới công tác chỉ

đạo phong trào hành động cách mạng, tập trung thực hiện 3 chƣơng trình kinh tế

lớn của Đảng. Ngay từ sau Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ III, tổ chức Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã tập trung triển khai mạnh mẽ

chƣơng trình công tác thanh niên khu vực nông thôn. Cùng Ban Kinh tế Tỉnh ủy và

Ty Nông nghiệp tiến hành khảo sát tình hình thanh niên nông thôn ở 4 huyện.

Trong đó, đã tổ chức 11 cuộc đối thoại và thu thập 250 phiếu điều tra nguyện vọng

của thanh niên, trực tiếp tiếp xúc trao đổi với 20 đoàn viên, thanh niên, 11 cán bộ

quản lý hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, 40 cán bộ Đảng và chính quyền

ở cơ sở... Trên cơ sở kết quả của một tháng khảo sát thực tế, Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã tổ chức cuộc hội thảo chuyên đề về đổi

mới công tác thanh niên nông thôn, để từ đó xây dựng và triển khai thực hiện đề án

“Đổi mới công tác thanh niên nông thôn góp phần thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ

Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, với 3 mục tiêu cơ bản: Tập

trung giải quyết vấn đề trọng tâm là phát huy vai trò thanh niên tham gia quản lý

kinh tế nông nghiệp; thực hiện dân chủ và công bằng xã hội ở nông thôn; củng cố

chi đoàn gắn với mở rộng và phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt

Nam, đa dạng hóa các phƣơng thức tập hợp thanh niên theo các nhóm sở thích, nhu

cầu và nghề nghiệp, đổi mới và ứng dụng các kỹ năng sinh hoạt tập thể trong thanh

niên đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần của tuổi trẻ, đẩy mạnh các hoạt động xã

hội trong thanh niên nông thôn.

173

Bƣớc đầu triển khai chƣơng trình, mỗi huyện đã chọn một cơ sở làm điểm chỉ

đạo. Theo hƣớng không ngừng đổi mới phƣơng thức hoạt động, trong một số hợp

tác xã và tập đoàn sản xuất bắt đầu hình thành các “nhóm nông nghiệp trẻ”, là một

tổ chức xã hội nghề nghiệp do những thanh niên đang trực tiếp sản xuất nông

nghiệp tự lập nên và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự lực với sự

hỗ trợ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên

Việt Nam, Hội Nông dân và ngành Nông nghiệp, nhằm tạo điều kiện để thanh niên

nông thôn giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống, góp phần phát huy vai trò

của tuổi trẻ trong khu vực nông thôn tham gia tổ chức quản lý sản xuất, đi đầu ứng

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; trên cơ sở đó góp

phần xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn, Hội ở nông thôn. Nhiều “nhóm nông nghiệp

trẻ” ở Phƣớc Bửu, Tân Bình, Phƣớc Thiền... đã thật sự làm nòng cốt trong quá

trình đổi mới các mặt hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp và tập đoàn sản

xuất, nhất là trong công tác quản lý và tổ chức sản xuất. Phƣớc Thiền là một xã

thuộc vùng trọng điểm lúa của huyện Long Thành, có phong trào hợp tác hóa

mạnh, nhƣng hoạt động của tổ chức Đoàn một thời gian dài không đƣợc củng cố,

một số đoàn viên bỏ sinh hoạt. Cơ sở Hội không có, thanh niên không đƣợc tập

hợp. “Nhóm nông nghiệp trẻ” ra đời đã thực sự có tác động đến nhiều mặt hoạt

động của sản xuất cũng nhƣ đối với tổ chức Đoàn. Nhóm tập trung thực hiện chủ

yếu 4 nội dung:

– Tổ chức thông tin khoa học kỹ thuật.

– Làm dịch vụ khoa học kỹ thuật.

– Phản ánh tâm tư nguyện vọng của thanh niên.

– Động viên người sản xuất kinh doanh giỏi.

Cùng với việc tổ chức dịch vụ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất, “nhóm

nông nghiệp trẻ” Phƣớc Thiền còn xây dựng điểm trình diễn khoa học kỹ thuật trên

2000 m2 giống lúa IR64, tiến hành so sánh đối chứng quy trình kỹ thuật giữa sạ và

cấy trên cùng giống lúa IR64, cho kết quả thực tế: lúa cấy đạt năng suất 5 tấn/héc

ta, trong khi lúa sạ chỉ đạt 4 tấn/héc ta. Nhóm còn tìm cách phát triển ngành nghề

để tận dụng thời gian nhàn rỗi trong sản xuất nông nghiệp, tổ chức cho một số

thành viên trong nhóm đi tham quan và triển khai kỹ thuật làm nấm mèo, thu hút

46 đoàn viên, thanh niên tham gia. Một số thành viên của nhóm nhanh chóng trở

thành những ngƣời sản xuất kinh doanh giỏi có tác động đến phong trào sản xuất

kinh doanh của địa phƣơng, nhất là số thanh niên đã là chủ của gia đình, hoặc có

vai trò quan trọng trong hộ sản xuất nông nghiệp.

Sau khi tổ chức thử nghiệm các mô hình đổi mới hoạt động của Đoàn và

phong trào thanh niên nông thôn ở Tam Phƣớc và Phƣớc Thiền (Long Thành) để

rút kinh nghiệm, từ năm 1990, phối hợp với Sở Nông Lâm và Công ty Dịch vụ kỹ

174

thuật cây trồng, tổ chức Đoàn các cấp đã triển khai sâu rộng trong thanh niên nông

thôn chƣơng trình “Thanh niên khuyến nông” và phong trào “Thanh niên sản xuất

kinh doanh giỏi”. Tỉnh Đoàn đã tổ chức tập huấn cho 352 kỹ thuật viên để làm

nòng cốt trong phong trào chuyển giao kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp;

xây dựng 8 điểm trình diễn giống mới, gồm giống lúa IR 5040, đậu nành L.2, đậu

xanh, bắp...

Phong trào “Thanh niên nông thôn sản xuất kinh doanh giỏi”, đƣợc các cơ sở

Đoàn triển khai rộng khắp, từng bƣớc tạo ra cơ chế phối hợp, tạo dựng các mô hình

hoạt động thích hợp với việc khai thác triệt để các phƣơng tiện vật chất kỹ thuật tại

chỗ, tạo điều kiện để thanh niên nông thôn có cơ hội phát triển sản xuất có hiệu

quả. Phối hợp với Công ty Dịch vụ kỹ thuật cây trồng, Tỉnh Đoàn đã tổ chức tập

huấn khoa học kỹ thuật cho cán bộ Đoàn, đã tổ chức cho thanh niên nông thôn

tham gia hoạt động dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp. 8/9 Huyện Đoàn và Thành Đoàn

đã xây dựng đƣợc đề án xây dựng điểm đại lý vật tƣ thanh niên, nhân giống mới...

Đến đầu năm 1989, có 2 điểm đã đi vào hoạt động có hiệu quả: đại lý vật tƣ thanh

niên Tân An (Vĩnh An) và công trình nhân giống lúa 3020 Tam Phƣớc (Long

Thành) với diện tích 6 héc ta. Chỉ qua vụ lúa hè thu đầu tiên, điểm nhân giống Tam

Phƣớc của thanh niên Long Thành cũng đã cho năng suất 4 tấn/héc ta, không

những góp phần tạo thêm nguồn giống cho sản xuất tại địa phƣơng, còn gây đƣợc

quĩ hoạt động của Đoàn 180 kg, trị giá 54.000 đồng (giá trị năm 1989).Tổ chức các

hội thi tay nghề trong bảo vệ thực vật nhƣ : hội thi cấy giỏi (huyện Long Thành,

Biên Hòa, Vĩnh Cửu), hội thi cấy giỏi, hội thi chăn nuôi giỏi....

Phong trào thanh niên trong các nông trƣờng, lâm trƣờng quốc doanh cũng

bắt đầu chuyển hƣớng hoạt động, đi vào nhận “khóan chỉ tiêu sản lƣợng, chăm sóc

và khai thác” và đảm nhận “công trình thanh niên tự hạch toán”, tăng cƣờng ứng

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đảm bảo 4 đƣợc: đƣợc ngƣời,

đƣợc việc, đƣợc nâng cao đời sống, đƣợc kinh phí hoạt động. Thông qua các phong

trào hành động cách mạng, 3 năm liền, từ 1990 – 1992, đoàn viên, thanh niên Công

ty Cao su Đồng Nai đều hoàn thành vƣợt mức các chỉ tiêu kế hoạch, đời sống của

đoàn viên, thanh niên đƣợc cải thiện rõ rệt; đoàn viên, thanh niên Lâm trƣờng Hiếu

Liêm thƣờng xuyên đổi mới phƣơng thức hoạt động, có nhiều hình thức tổ chức

thanh niên xung kích giải quyết những khâu khó khăn đột xuất, cùng Lâm trƣờng

tháo gỡ nhiều ách tắc, đảm bảo duy trì sản xuất trong mọi hoàn cảnh, năng suất lao

động tăng, mức thu nhập của ngƣời lao động cũng tăng đáng kể.

Thanh niên công nhân cao su Đồng Nai với các chiến dịch sản xuất mủ, trồng

mới đã làm xuất hiện nhiều nhân tố mới trong sản xuất kinh doanh, nhƣ đoàn viên

Trần Bách Chiến, trong chiến dịch DH 5 (1989) đã phấn đấu hoàn thành vƣợt mức

kế hoạch tới 270%, góp phần cùng Công ty sản xuất tăng thêm 250 tấn mủ so với

175

chỉ tiêu kế hoạch đƣợc giao. Không chỉ sản xuất kinh doanh giỏi, thanh niên công

nhân cao su, nêu cao vai trò làm chủ đã tham gia chống tệ nạn ăn cắp mủ của Nhà

nƣớc, thành lập 33 tổ, với 1.276 thanh niên tham gia, thƣờng xuyên làm nhiệm vụ

truy quét bọn trộm cắp và bảo vệ an ninh chính trị tại địa phƣơng. Riêng năm

1989, bắt và thu hồi cho Nhà nƣớc tới 110 tấn mủ, 164,5 site củi và 10 triệu đồng

tiền phạt.

Thanh niên trong khu vực công nghiệp, cơ quan... đổi mới hoạt động trên cơ

sở phát huy triệt để vai trò xung kích trong việc thực hiện những nhiệm vụ trọng

tâm công tác, sản xuất: tham gia thiết kế mẫu mã sản phẩm, tổ chức lực lƣợng đi

chào hàng, góp phần tiêu thụ sản phẩm tồn đọng. Ở nhiều cơ sở, từ phong trào tổ,

đội, xe, máy, ca sản xuất thanh niên, công trình thanh niên, tổ chức Đoàn đã đổi

mới, đảm nhận những công trình thanh niên tự hạch toán, góp phần cải tiến các

công đoạn trong qui trình sản xuất. Một số công trình, thanh niên vừa tìm tòi các

giải pháp kỹ thuật, cải tiến mẫu mã mặt hàng, vừa chế thử, đồng thời đƣa vào ứng

dụng trong sản xuất đã góp phần nhanh chóng đƣa ra thị trƣờng những mặt hàng

mới, tiết kiệm vật tƣ, nguyên vật liệu và hạ giá thành, đƣợc ngƣời tiêu dùng đón

nhận.

Mô hình Ban khoa học kỹ thuật trẻ phát triển, hỗ trợ đắc lực đoàn viên, thanh

niên trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh, phát huy nhiều sáng kiến, cải tiến, ứng

dụng nhiều giải pháp khoa học kỹ thuật tiến bộ, đổi mới qui trình công nghệ. Các

biện pháp khuyến khích nâng cao trình độ nghề nghiệp đƣợc triển khai. Đáng chú ý

là ở nhiều cơ sở, nhiều công ty, Đoàn Thanh niên đã tổ chức các hội thi chọn “bàn

tay vàng”, “hội thi tay nghề”, thu hút đông đảo đoàn viên và thanh niên tham gia.

Nhiều công trình thanh niên, nhiều đề tài sáng tạo kỹ thuật của thanh niên đƣợc

phát huy làm lợi hàng trăm triệu đồng. Đoàn Thanh niên Nhà máy Gạch men

Thanh Thanh có đề tài chế tạo vòng bi sứ đƣợc đánh giá cao; Đoàn Thanh niên

Nhà máy Viettronic Biên Hòa nghiên cứu chế tạo sản phẩm Radio 3 băng; Đoàn

Thanh niên Nhà máy Phụ tùng máy nổ số 2 có công trình thiết kế chế tạo, gia công

máy ép dầu; Đoàn Thanh niên Nhà máy Gạch Đồng Nai đi sâu tìm tòi các biện

pháp quản lý chất lƣợng. Chỉ riêng các cơ sở Điện cơ Đồng Nai và Thiết bị điện 4

đã có 29 đoàn viên, thanh niên đƣợc tặng huy hiệu Lao động sáng tạo. Tính đến hết

năm 1991, thanh niên công nhân trong các cơ sở công nghiệp đã đảm nhận 368

công trình, trị giá hàng trăm triệu đồng, tiết kiệm đƣợc 1.500 tấn nguyên vật liệu,

nhiên liệu và thiết bị phụ tùng, trị giá 426 triệu đồng... góp phần ổn định sản xuất

cho nhà máy, xí nghiệp, thu nhập của ngƣời đoàn viên, thanh niên cũng đƣợc nâng

lên đáng kể.

Một trong những nét mới của hoạt động Đoàn trong quá trình đổi mới tổ

chức, đổi mới hành động là tổ chức Đoàn các cấp tham gia hoạt động kinh tế, dƣới

176

các hình thức: tham gia trồng cây công nghiệp, sản xuất lƣơng thực, làm dịch vụ

(mở quầy văn phòng phẩm, bán sách báo, chiếu phim, sinh hoạt câu lạc bộ, căng-

tin, uốn tóc, may đo, sửa chữa điện tử, xe máy, đại lý vật tƣ nông nghiệp... có

những cơ sở hoạt động tốt, nhƣ Long Hải, có thể thu nhập tới 1 triệu đồng/tháng,

góp phần tăng thêm chi phí cho hoạt động của Đoàn và bồi dƣỡng cho cán bộ

Đoàn cơ sở. Ở thành phố Biên Hòa, nhờ có nguồn kinh phí của các hoạt động kinh

tế đã có thể phụ cấp cho số cán bộ Hội ở 22 phƣờng, xã và trƣờng học, bình quân

27.000 đồng/ ngƣời/ tháng (giá trị năm 1989); Đoàn xã Gia Tân 3 (Thống Nhất),

Đoàn phƣờng Thanh Bình, An Bình (Biên Hòa) cũng có thể trích quĩ do hoạt động

kinh tế mà có để trợ cấp cho Bí thƣ chi đoàn.

Trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, bên cạnh việc thực hiện tốt công

tác gọi thanh niên nhập ngũ, với những đổi mới đi vào chiều sâu, tổ chức Đoàn các

cấp đã đẩy mạnh phong trào đoàn kết 3 lực lƣợng lên một bƣớc phát triển mới. Các

cơ sở Đoàn đã chủ động gắn việc đoàn kết 3 lực lƣợng với công tác xây dựng lực

lƣợng vũ trang tại chỗ, phát triển hình thức xây dựng các tổ đội dân phòng, tổ đội

thanh niên xung kích làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trên địa bàn, chống văn hóa

phẩm đồi trụy, phản động. Ở nhiều địa phƣơng, nhƣ thành phố Biên Hòa, Đoàn

Thanh niên phối hợp với lực lƣợng bộ đội đóng quân trên địa bàn, trong 3 năm,

1987 – 1989, phát hiện và triệt phá 4 vụ nhen nhóm phá hoại của kẻ địch, thu hồi

80 kg thuốc nổ, ngòi nổ; xử lý 102 vụ có tính chất phá hoại khác; kết hợp với lực

lƣợng công an xử lý gần 1.000 vụ thuộc về trật tự an toàn xã hội, thu gom, truy

quét, giáo dục và cải tạo trên 2.000 đối tƣợng tệ nạn xã hội. Cùng thời gian, ở Tân

Phú, Xuân Lộc, tổ chức Đoàn đã kết hợp với các lực lƣợng vũ trang địa phƣơng và

các đoàn thể quần chúng giáo dục tại chỗ hàng trăm đối tƣợng có hành vi gây rối

trật tự trị an, phá rã nhiều băng nhóm trộm cắp, truy quét và đƣa đi cải tạo ở

Trƣờng Thanh niên xây dựng cuộc sống mới hàng trăm đối tƣợng nghiện hút, gái

mại dâm. Nhất là từ sau khi triển khai thực hiện Chỉ thị 135/CT–HĐBT, tổ chức

Đoàn các cấp trong tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các lực lƣợng công an, bộ đội

trên địa bàn truy quét mạnh các đối tƣợng hình sự, cùng quần chúng nhân dân vạch

mặt những tên tội phạm nguy hiểm đang lẩn trốn tại địa bàn. Tổ chức Đoàn các cấp

đã tiến hành khảo sát nắm lại số đối tƣợng thanh niên chậm tiến, đề xuất các biện

pháp giáo dục. Nhiều cơ sở Đoàn, nhƣ Xuân Thọ, Xuân Vinh, Xuân Bình, Xuân

Định, thị trấn Xuân Lộc (huyện Long Khánh); Trảng Bom 1, Trảng Bom 2, Bàu

Hàm 1 (huyện Thống Nhất); Quyết Thắng, Tam Hiệp, Bình Đa, An Bình (thành

phố Biên Hòa); Nhà máy Giấy Tân Mai, Vikyno, Trƣờng phổ thông trung học Ngô

Quyền... có sự phối hợp chặt chẽ với các lực lƣợng vũ trang trong phong trào bảo

vệ an ninh Tổ quốc, phát hiện và trấn áp 10.746 vụ phạm pháp, kết hợp các biện

pháp xử lý, tập trung đƣa đi cải tạo tại Trƣờng Thanh niên xây dựng cuộc sống

mới. Nhiều tấm gƣơng tiêu biểu cho tinh thần tiến công tội phạm đã xuất hiện, nhƣ

177

đoàn viên Trần Văn Công cùng 2 em thiếu niên mƣu trí bắt gọn bọn trộm cắp dây

điện; Cao Thanh Vân tay không bắt bọn cƣớp có vũ trang; Nguyễn Văn Phƣơng

cùng lực lƣợng công an xã bắt gọn một băng cƣớp xe Honđa; Trần Hữu Cảnh, tự

vệ Nông trƣờng Dầu Giây, không quản ngại hy sinh tính mạng đã kiên quyết tiến

công bọn trộm cắp mủ cao su...

Cùng với các biện pháp xử lý kiên quyết đối với các đối tƣợng thanh niên

chậm tiến, Thành Đoàn Biên Hòa còn tổ chức những lớp học tình thƣơng, thu hút

một số thanh, thiếu niên nghèo thất học, thanh, thiếu niên đƣờng phố... nhƣ một

biện pháp tích cực ngăn chặn thanh, thiếu niên sa vào con đƣờng lầm lạc. Cũng

theo hƣớng đó, tổ chức Đoàn các cấp đã thƣờng xuyên coi trọng việc tạo dựng

nghề nghiệp cho các đối tƣợng thanh niên, trƣớc hết cho nhóm thanh niên có nhiều

khó khăn trong hòa nhập với cộng đồng. Trong 3 năm, từ 1987 đến 1989, các cơ sở

Đoàn đã trực tiếp giới thiệu cho hơn 6.000 thanh niên đủ các trình độ, lứa tuổi và

các đối tƣợng khác nhau đến làm việc tại các nông, lâm trƣờng, trạm trại và các

hợp tác xã sản xuất tiểu, thủ công nghiệp. Riêng thành phố Biên Hòa đã giới thiệu

cho 1.200 thanh niên, trong đó có 300 bộ đội xuất ngũ, có công ăn việc làm. Tổ

chức Đoàn các cấp còn chú ý phối hợp với các ngành có liên quan tổ chức dạy

nghề cho thanh niên, thực hiện giảm 50% kinh phí học nghề cho đối tƣợng thanh

niên nghèo và bộ đội xuất ngũ.

Phong trào thanh niên trong các lực lƣợng vũ trang tiếp tục có những bƣớc

phát triển theo hƣớng tìm tòi đổi mới các phƣơng thức hoạt động có sức cổ vũ các

chiến sĩ trẻ phấn đấu “Xứng danh anh bộ đội Cụ Hồ”. Các cơ sở Đoàn trong quân

đội đứng chân trên địa bàn tỉnh đã triển khai thực hiện cuộc “Hành quân dã ngoại

tham gia công tác vận động quần chúng”, góp phần rèn luyện phong cách giữ vững

kỷ luật, nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật, tăng cƣờng quan hệ quân – dân trong

điều kiện mới. Đáng chú ý là phong trào thanh niên trong quân đội đã thật sự động

viên thanh niên an tâm phục vụ, kể cả làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn

Campuchia, tại tỉnh Kongpong Thom, xuất hiện ngày càng nhiều tập thể và cá

nhân mƣu trí, dũng cảm trong chiến đấu. Tiêu biểu là tập thể Đoàn cơ sở Trung

đoàn 16 (nay là Trung đoàn Đồng Nai), đƣợc Trung ƣơng Đoàn tặng cờ “Tuổi trẻ

anh hùng bảo vệ Tổ quốc”.

Trong lực lƣợng công an, nổi lên phong trào thanh niên phấn đấu thực hiện “6

điều Bác Hồ dạy công an nhân dân”, từng bƣớc phát huy đƣợc vai trò của tuổi trẻ

trong bảo vệ an ninh Tổ quốc, nhất là từ sau khi có Chỉ thị 135/CT–HĐBT. Nhiều

cán bộ, chiến sĩ trong lực lƣợng công an của tỉnh đã trở thành chiến sĩ thi đua và

chiến sĩ quyết thắng, nhƣ đoàn viên Nguyễn Thành Sơn, chi đoàn 504, công an

tỉnh, kịp thời phát hiện bắt giữ 72 ngƣời vƣợt biên trái phép cùng tàu thuyền; đoàn

viên Lê Thuận Tám, chi đoàn 484, dũng cảm xông vào căn nhà đang cháy, cứu

178

sống 2 em nhỏ. Có đoàn viên thanh niên đã dũng cảm hy sinh trong khi làm nhiệm

vụ truy bắt tội phạm, nhƣ thiếu uý Huỳnh Ngọc Sơn, công an Đồng Nai...

Đáng chú ý là cùng với các phong trào hành động cách mạng phát triển theo

hƣớng coi trọng hiệu quả thiết thực, tổ chức Đoàn Thanh niên các cấp ngày càng

quan tâm hơn đến công tác xã hội – từ thiện. Thông qua các mô hình “Đội thanh

niên công tác xã hội”, “Lớp học tình thƣơng”... tuổi trẻ Đồng Nai đã góp phần tháo

gỡ nhiều vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống, nhất là sau khi cơ chế quản lý chuyển

đổi, trong xã hội bắt đầu bộc lộ những bất cập, xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo

trong một bộ phận dân cƣ, trong đó có cả đối tƣợng thanh niên. Ở nhiều cơ sở, tổ

chức Đoàn đã bằng nhiều biện pháp vận động xây dựng “Quĩ trợ vốn” giúp thanh

niên nghèo có vốn sản xuất, kinh doanh, giúp đỡ gia đình cán bộ Đoàn có nhiều

khó khăn. Thanh niên các địa phƣơng còn quyên góp đƣợc hàng trăm triệu đồng,

góp vào quĩ cứu trợ thiên tai, hoả hoạn, ủng hộ đồng bào miền Bắc và đồng bằng

sông Cửu Long bị lũ lụt. Một số cơ sở Đoàn đã tổ chức các đợt khám bệnh, phát

thuốc miễn phí cho nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cho các gia đình

chính sách neo đơn, nghèo đói. Chỉ tính từ năm 1990 đến đầu năm 1992, trên phạm

vi cả tỉnh đã hình thành 26 đội, nhóm công tác xã hội từ thiện. Trong đó, Trung

tâm công tác xã hội từ thiện Thành Đoàn Biên Hòa đã vận động thanh niên đóng

góp xây dựng đƣợc một căn nhà tình nghĩa; Đoàn Thanh niên bệnh viện Đồng Nai,

Trung tâm Nhi đồng có sáng kiến lập “Quĩ giúp đỡ bệnh nhân nghèo”, nhiều lần tổ

chức khám và phát thuốc miễn phí cho những bệnh nhân nghèo ở vùng sâu vùng

xa, không có điều kiện đến bệnh viện điều trị.

Cơ chế quản lý chuyển đổi, tình hình kinh tế – xã hội có những chuyển biến

sâu sắc, tác động đến cả tầng sâu ý thức của mỗi ngƣời dân, trƣớc hết ở lớp ngƣời

trẻ tuổi. Quá trình đổi mới hành động trong thực tiễn của tổ chức Đoàn và phong

trào thanh niên cũng là quá trình đổi mới nhận thức của đoàn viên, thanh niên

trƣớc nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra trong cuộc sống. Một bộ phận quen sống trong

môi trƣờng bao cấp, mọi thứ đều đƣợc sắp đặt sẵn, kể cả công ăn việc làm, khi cơ

chế quản lý chuyển đổi, không khỏi hụt hẫng, nhƣng đại bộ phận thanh niên đều

xác định đƣợc con đƣờng phấn đấu vƣơn lên để tự khẳng định mình. Trƣớc hết ở

bộ phận thanh niên trong trƣờng học. Từ năm học 1989 – 1990, thanh niên trong

trƣờng học đã bắt đầu có sự chuyển biến rõ nét hơn về động cơ, thái độ học tập và

giảng dạy. Tình trạng sa sút về đạo đức của học sinh có chiều hƣớng giảm đáng kể.

Tổ chức Đoàn trong nhà trƣờng phổ thông cũng nhƣ trong các trƣờng chuyên

nghiệp đều tìm tòi nhiều phƣơng thức hoạt động, thiết thực động viên tinh thần

phấn đấu vƣơn lên của mọi đối tƣợng học sinh. Tổ chức “Tuần, tháng học tập và

giảng dạy tốt”, xây dựng “Quĩ hỗ trợ tài năng trẻ”, “Quĩ học bổng cho học sinh

nghèo”... Nhiều phƣơng thức hoạt động mang tính định hƣớng cho học sinh, nhƣ

179

phong trào “Học văn hóa gắn với học nghề” và xây dựng “Tập thể học sinh làm

theo lời Bác”. Hàng năm, ở hầu hết các trƣờng học trong tỉnh đều tổ chức các hội

thi học sinh giỏi và hội giảng, đã góp phần khuyến khích thầy và trò vƣơn lên trong

học tập và giảng dạy.

Không chỉ thanh niên trong trƣờng học coi trọng việc nâng cao trình độ học

vấn, nhƣ một điều kiện cần có trong hành trang vào đời, trong thanh niên công

nhân, thanh niên ở các cơ quan và cả trong thanh niên nông thôn đều có phong trào

học tập nâng cao trình độ văn hóa và nghề nghiệp. Riêng Trung tâm dạy nghề của

thành phố Biên Hòa, do Thành Đoàn làm nòng cốt, trong một thời gian ngắn đã

liên tục mở 287 lớp dạy nghề và dạy ngoại ngữ cho 7.238 thanh niên.

Trong điều kiện đổi mới hoạt động, công tác Đội và phong trào thiếu nhi cũng

đƣợc đổi mới trên nhiều mặt. Nội dung hoạt động của Đội chủ yếu tập trung cho

việc nâng cao chất lƣợng học tập, rèn luyện đạo đức cho học sinh. Ngoài ra, các tổ

chức Đoàn cơ sở đã thƣờng xuyên tổ chức cho các em tham gia nhiều công tác xã

hội, tạo điều kiện nâng cao nhận thức mọi mặt cho các em, giáo dục các em ý thức

đối với cộng đồng.

Cùng với việc nhanh chóng ổn định hoạt động của Đội Nhi đồng Hồ Chí

Minh khi có chủ trƣơng tách trƣờng cấp I ra khỏi trƣờng phổ thông cơ sở, đầu

những năm 90, trên địa bàn toàn tỉnh bƣớc đầu đã mở rộng việc tập hợp giáo dục

thiếu nhi trên địa bàn dân cƣ, thông qua một số hình thức, nhất là các tổ nhóm theo

sở thích và “Lớp học tình thƣơng”. Trong thời gian 5 năm kể từ năm 1987, tổ chức

Đoàn các cấp đã mở đƣợc 300 lớp học tình thƣơng, cho 6.400 em thiếu nhi có hoàn

cảnh khó khăn.

Tháng 8 năm 1992, một năm sau khi tỉnh Đồng Nai có sự điều chỉnh địa giới

hành chính (1), đánh giá đúng thực trạng công tác Đoàn và phong trào thanh niên,

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã tiến hành Đại hội Đoàn

toàn tỉnh lần thứ IV. Thay mặt cho trên 30 ngàn đoàn viên trong toàn tỉnh, các đại

biểu dự Đại hội đã kiểm điểm sâu sắc các mặt hoạt động của Đoàn và phong trào

thanh niên Đồng Nai kể từ sau Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ III (1987), chỉ rõ

những nguyên nhân khách quan và chủ quan làm hạn chế hiệu quả hoạt động của

Đoàn và phong trào thanh niên trong tỉnh, từ đó đề ra những mục tiêu cơ bản cho

công tác Đoàn và phong trào thanh niên Đồng Nai trong thời gian 5 năm, kể từ

năm 1992 và chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể:

(1) Tháng 8–1991, thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII, 3 huyện ven biển là

Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc đƣợc tách ra cùng Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo

thành lập tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

180

Một là, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng của Đoàn, nhằm

mục tiêu nâng cao nhận thức của cán bộ, đoàn viên, thanh niên về chủ nghĩa Mác –

Lênin, tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh, thấm nhuần ý nghĩa dân tộc đi đôi với con

đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội. Phối hợp cùng nhà trƣờng, gia đình và xã hội phát

triển nhân cách của thanh niên.

Hai là, đổi mới công tác tổ chức của Đoàn, tăng cƣờng đoàn kết tập hợp thanh

niên. Tiếp tục phấn đấu nâng cao chất lƣợng đoàn viên, xây dựng tổ chức Đoàn

vững mạnh về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức, tăng cƣờng công tác đào tạo bồi

dƣỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ Đoàn cơ sở, đặc biệt là ở hai khu vực

nông thôn và trƣờng học. Tập hợp đông đảo thanh niên vào các loại hình tổ chức,

giáo dục và động viên mọi tầng lớp thanh niên tham gia vào sự nghiệp cách mạng.

Coi đó là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của Đoàn. Tăng

cƣờng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng mối quan hệ với chính quyền và với các

ngành.

Ba là, đẩy mạnh chƣơng trình hành động của tuổi trẻ trong sự nghiệp đổi mới

vì mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh, bao gồm:

– Chƣơng trình Tuổi trẻ tham gia ổn định – phát triển kinh tế và giải quyết

việc làm cho thanh niên

– Chƣơng trình Tuổi trẻ xây dựng nếp sống văn hóa mới và tham gia hoạt

động xã hội

– Chƣơng trình Tuổi trẻ tham gia bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự an

toàn xã hội.

Và bốn là, phát huy vai trò nòng cốt của Đoàn trong phong trào Toàn dân

chăm sóc bảo vệ trẻ em và xây dựng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.

Các đại biểu dự Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ IV đã nhất trí bầu 29 đồng chí

vào Ban chấp hành Tỉnh Đoàn. Các đồng chí Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Thành Trí,

Nguyễn Hoàng Lƣu, Đinh Văn Tố, Đặng Mạnh Trung, Nguyễn Thị Kim Hoàng,

Hoàng Ngọc Khôi, Lê Văn Lộc, Phan Văn Trƣớc đƣợc bầu vào Ban Thƣờng vụ

Tỉnh Đoàn. Đồng chí Bùi Ngọc Thanh đƣợc bầu làm Bí thƣ Tỉnh Đoàn khóa IV,

đồng chí Nguyễn Thành Trí đƣợc bầu làm Phó bí thƣ. Tại Đại hội Đoàn toàn quốc

lần thứ VI, đồng chí Bùi Ngọc Thanh đã đƣợc bầu vào Ban chấp hành Trung ƣơng

Đoàn. Sau Đại hội, năm 1995, đồng chí Đặng Mạnh Trung đƣợc bầu bổ sung làm

Phó bí thƣ Tỉnh Đoàn và năm 1996, đồng chí đƣợc bầu làm Bí thƣ Tỉnh Đoàn thay

đồng chí Bùi Ngọc Thanh. Đƣợc bầu bổ sung sau Đại hội còn có 12 đồng chí ủy

viên Ban chấp hành Tỉnh Đoàn.

181

II. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG, THANH NIÊN ĐỒNG NAI

VƢƠN LÊN TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA.

Ngày 14–4–1993, quán triệt những vấn đề đặt ra trong Nghị quyết Hội nghị

lần thứ tƣ Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng về công tác thanh niên trong tình hình

mới (1), Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ Đồng Nai (khóa V) trong kỳ họp lần thứ 7

đã ra Nghị quyết “Về chƣơng trình hành động thực hiện Nghị quyết 04 Ban Chấp

hành Trung ƣơng Đảng (khóa VII) về công tác thanh niên”. Sau khi đánh giá toàn

diện tình hình thanh niên và công tác thanh niên của tỉnh, Ban Chấp hành Tỉnh

Đảng bộ Đồng Nai đã đề ra những mục tiêu cụ thể của công tác thanh niên trong

năm 1993 và đến năm 1995, trên các mặt: đào tạo bồi dƣỡng, tạo điều kiện cho

thanh niên phấn đấu để hình thành một thế hệ con ngƣời mới, biết quí trọng và

phát huy truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng của dân tộc, sống có lý

tƣởng cao đẹp, có ý thức trách nhiệm công dân; không ngừng chăm lo giải quyết

việc làm cho thanh niên, mở mang các cơ sở kinh tế để thu hút lao động trẻ, xem

xét trợ vốn, hỗ trợ các dự án tạo việc làm cho thanh niên; xây dựng Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh cả về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức, xứng

đáng là đội hậu bị của Đảng, trở thành hạt nhân chính trị trong phong trào thanh

niên; đẩy mạnh công tác đoàn kết tập hợp thanh niên, coi đó là chiến lƣợc lâu dài

trong công tác thanh niên của Đảng. Để làm tốt công tác thanh niên, Tỉnh Đảng bộ

Đồng Nai chủ trƣơng xây dựng môi trƣờng xã hội lành mạnh, từ đơn vị nhỏ nhất là

gia đình, đến khu phố, xóm ấp, trƣờng học, cơ quan. Tăng cƣờng trách nhiệm gia

đình trong giáo dục, chăm sóc thanh, thiếu niên, chuẩn bị những điều kiện tốt cho

thanh, thiếu niên bƣớc vào đời... Đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn

thể, Nghị quyết 19 – NQ/TU của Đảng bộ Đồng Nai khẳng định “Công tác thanh

niên trong giai đoạn mới là sự kết hợp chặt chẽ giữa vận động, thuyết phục với

việc ban hành các chế độ chính sách, qui định đồng bộ, thống nhất của Đảng, Nhà

nƣớc, của chính quyền đòi hỏi sự tham gia của các cấp, các ngành” do đó cần nâng

cao hơn nữa trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, của các cấp chính quyền và của các

ngành, tạo điều kiện cho thanh niên phấn đấu vƣơn lên.

Những năm từ sau Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ IV (1992), tình hình kinh tế

– xã hội của đất nƣớc cũng nhƣ của Đồng Nai từng bƣớc đi dần vào thế ổn định,

sản xuất phát triển, đời sống nhân dân bƣớc đầu đƣợc cải thiện. Đƣợc rèn luyện,

phấn đấu trong môi trƣờng xã hội đang có những chuyển đổi căn bản trên nhiều

mặt, thanh niên Đồng Nai ngày càng tin tƣởng vào đƣờng lối đổi mới của Đảng,

(1) Tháng 1–1993, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá VII, trong Hội nghị lần thứ tƣ đã ra

Nghị quyết số 04–NQ/HNTW “Về công tác thanh niên trong tình hình mới”.

182

năng động và sáng tạo, phấn đấu không ngừng cho sự nghiệp công nghiệp hóa và

hiện đại hóa đất nƣớc.

Thực hiện Nghị quyết 04 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng và Nghị quyết

19 của Tỉnh ủy, tiếp tục đổi mới phƣơng thức tổ chức và hoạt động của Đoàn và

phong trào thanh niên, tổ chức Đoàn Thanh niên các cấp trong tỉnh đã đặc biệt

hƣớng mạnh về cơ sở, tăng cƣờng đào tạo và bố trí đội ngũ cán bộ Đoàn trên địa

bàn khu vực (trƣờng học, lực lƣợng vũ trang, hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh

doanh, phƣờng, xã...). Các chi đoàn cơ quan cấp xã, phƣờng, thị trấn đều đƣợc giải

thể, đƣa đoàn viên cơ quan về sinh hoạt tại ấp, vận động đoàn viên là bộ đội xuất

ngũ, học sinh phổ thông trung học tham gia sinh hoạt tại địa phƣơng để củng cố và

xây dựng tổ chức Đoàn trên các địa bàn ngày càng vững mạnh, góp phần xoá toàn

bộ số ấp trắng trong toàn tỉnh. Đến năm 1995, toàn tỉnh vẫn có 47 ấp trắng hoặc

chỉ có đoàn viên lẻ, nhờ những nỗ lực tập trung của các cấp bộ Đoàn, đến năm

1996 đã có 100% ấp có tổ chức Đoàn.

Cùng với việc xây dựng và củng cố tổ chức, các cấp bộ Đoàn đều đặt lên hàng

đầu việc nâng cao chất lƣợng hoạt động của tổ chức Đoàn cơ sở. Từ giữa năm

1995, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã tổ chức khảo sát

toàn diện tình hình công tác Đoàn và phong trào thanh niên trên phạm vi toàn tỉnh.

Các cơ sở Đoàn đã phân công cán bộ xuống từng ấp, khóm để khảo sát nắm chắc

thực lực Đoàn, Hội và tình hình thanh niên trên địa bàn. Nhiều cán bộ Đoàn đã đến

từng gia đình để nắm chính xác số lƣợng thanh niên. Trên cơ sở kết quả của đợt

khảo sát, ngày 10–7–1995, Ban chấp hành Tỉnh Đoàn Đồng Nai đã ra Nghị quyết

về “Cuộc vận động xây dựng cơ sở Đoàn vững mạnh chủ động công tác”, trong đó

nêu lên những nội dung chủ yếu, nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, có hiệu

quả thật sự trong công tác xây dựng Đoàn, làm cho tổ chức Đoàn ở cơ sở trở thành

chỗ dựa vững chắc của đông đảo thanh niên, đƣợc xã hội thừa nhận, phấn đấu

vƣơn lên tƣơng xứng với sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc; không ngừng nâng cao

chất lƣợng hoạt động của đoàn viên, bảo đảm mỗi đoàn viên phải đảm nhận một

công việc nhất định; chăm lo bồi dƣỡng lý tƣởng xã hội chủ nghĩa cho đoàn viên,

giáo dục thanh niên thấm nhuần tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và truyền thống của cách

mạng, của dân tộc; nâng cao chất lƣợng hoạt động của Đoàn gắn với những nhiệm

vụ chính trị của Đảng, kế hoạch kinh tế – xã hội của địa phƣơng, đơn vị; đồng thời

phải tăng cƣờng công tác Đoàn tham gia xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn ngày càng đi dần vào nề nếp. Chất

lƣợng hoạt động của tổ chức Đoàn cơ sở ngày càng đƣợc nâng lên, đảm bảo phát

huy vai trò nòng cốt của tổ chức Đoàn trong việc tổ chức, động viên thanh niên

thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đặt ra. Số cơ sở Đoàn vững mạnh tăng lên

đáng kể. Năm 1992, số cơ sở Đoàn vững mạnh và khá chỉ chiếm 28,39%, đến năm

183

1996 đã có 74,48% số cơ sở Đoàn đƣợc công nhận vững mạnh và khá. Số cơ sở

Đoàn yếu kém giảm rõ rệt. Đến cuối năm 1996 chỉ còn 22,22% số cơ sở Đoàn

trung bình và yếu kém, trong khi năm 1992 tỷ lệ đó là 28,39%.

Đi đôi với công tác xây dựng cơ sở Đoàn vững mạnh, tổ chức Đoàn các cấp

đã hết sức coi trọng việc nâng cao chất lƣợng và phát triển đoàn viên theo hƣớng

nâng cao tính chất chính trị của Đoàn. Trong khoảng thời gian 5 năm, từ 1992 đến

1997, các cơ sở Đoàn đã bồi dƣỡng kết nạp đƣợc 47.780 đoàn viên mới, trong đó 2

đối tƣợng thanh niên trƣờng học và thanh niên trên địa bàn dân cƣ đƣợc quan tâm

trƣớc hết. So với nhiệm kỳ III thì số lƣợng đoàn viên đƣợc phát triển trong nhiệm

kỳ IV cao hơn 2,27 lần (47.780/20.987 đoàn viên). Chƣơng trình “Rèn luyện đoàn

viên” đƣợc triển khai sâu rộng, bƣớc đầu đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng

cao chất lƣợng đoàn viên. Đến cuối năm 1996 đã có 80% đoàn viên trong toàn tỉnh

đăng ký thực hiện chƣơng trình “Rèn luyện đoàn viên”. Trong đó có 90% đã đƣợc

xếp loại xuất sắc và khá (năm 1991 chỉ có 20 – 30% đoàn viên đƣợc đánh giá tích

cực).

Đáng chú ý là mặc dù chƣa có Luật Thanh niên, nhất là trong Luật Đầu tƣ

nƣớc ngoài chƣa có qui định cụ thể việc tập hợp thanh niên vào tổ chức, nhƣng các

cấp bộ Đoàn đã chủ động khảo sát, tìm hiểu, xây dựng nòng cốt và tiến hành thử

nghiệm xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong các xí nghiệp, công ty tƣ nhân và

liên doanh với nƣớc ngoài. Riêng năm 1996 đã xây dựng đƣợc 5 chi đoàn và bƣớc

đầu đã phát huy tác dụng trong việc đoàn kết tập hợp thanh niên trong các xí

nghiệp tƣ nhân và liên doanh, góp phần đảm bảo quyền lợi chính đáng cho đội ngũ

lao động trẻ ở các cơ sở này, trong đó có cả việc hỗ trợ nhau nâng cao trình độ

nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu công nghệ ngày càng cao.

Công tác xây dựng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và mở rộng mặt trận

tập hợp đoàn kết thanh niên từng bƣớc có những đổi mới, hƣớng các hoạt động đi

vào những vấn đề thiết thực, nhất là tham gia thực hiện 5 chƣơng trình công tác và

3 cuộc vận động do Trung ƣơng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam phát động

(tiết kiệm – xoá mù chữ – và hiến máu nhân đạo), cũng nhƣ các phong trào và

chƣơng trình hành động do tổ chức Đoàn và tổ chức Hội ở địa phƣơng phát động.

Nhiều hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên đã tự nguyện hiến máu nhân đạo, tự

nguyện đi về vùng sâu vùng xa tham gia chiến dịch xoá mù chữ, tham gia các

“ngày chủ nhật xanh”, làm đẹp đƣờng phố, thôn ấp, tham gia hoạt động trong các

câu lạc bộ tiền hôn nhân, gia đình trẻ... Ở nhiều địa phƣơng đã hình thành những

đội, nhóm chi hội công tác xã hội với một số trang bị cần thiết và hoạt động có nề

nếp, nhƣ ở Biên Hòa, Xuân Lộc, Long Khánh, Vĩnh Cửu. Thanh niên xã Tân An

(Vĩnh Cửu) đã phát triển “hũ gạo tình thƣơng” để giúp đỡ những gia đình nghèo

khó khăn. Thanh niên Biên Hòa có chƣơng trình bảo trợ, thƣờng xuyên tổ chức

184

thăm hỏi những bệnh nhân đang điều trị tại trại phong, trại nuôi dƣỡng cha mẹ liệt

sĩ... Nhiều thanh niên theo đạo Công giáo ở Hố Nai 3, ở Gia Kiệm (huyện Thống

Nhất), Tân Hòa, Tân Biên (Biên Hòa) cũng đã tích cực tham gia các hoạt động từ

thiện, thể hiện tấm lòng nhân ái của thế hệ thanh niên luôn gắn bó với cộng đồng

dân tộc. Nhiều hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam của Đồng Nai đã trở

thành những tuyên truyền viên tích cực cho chƣơng trình dân số, kế hoạch hóa gia

đình, chƣơng trình phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống HIV/AIDS; tham gia

vận động quyên góp giúp đỡ đồng bào các vùng bị lũ lụt, thiên tai; tham gia khám

chữa bệnh, sửa chữa, xây dựng nhà tình nghĩa...

Tổ chức Hội ngày càng đƣợc củng cố và phát triển. 100% số huyện và thành

phố đã có ủy ban Hội. Toàn tỉnh có 93 ủy ban Hội cơ sở/163 xã, phƣờng, thị trấn,

chiếm tỷ lệ 57,05%. Một số trƣờng học và doanh nghiệp tƣ nhân cũng đã xây dựng

đƣợc tổ chức Hội. Đến năm 1996, trên phạm vi toàn tỉnh đã phát triển đƣợc 54.015

hội viên, so với năm 1991 tăng gấp 3,5 lần (54.015/15.395). Hội Liên hiệp Thanh

niên Việt Nam tỉnh Đồng Nai đã tiến hành Đại hội lần thứ nhất, khẳng định vai trò

của tổ chức Hội trong đời sống chính trị của địa phƣơng và trong việc tập hợp, tổ

chức thanh niên thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế – xã hội cũng nhƣ an

ninh quốc phòng ở địa phƣơng, với 5 chƣơng trình hành động:

– Chƣơng trình Xây dựng tổ chức Hội.

– Chƣơng trình Lập thân lập nghiệp.

– Chƣơng trình Thanh niên giữ nước.

– Chƣơng trình Thanh niên tham gia phát triển văn hóa, thể dục, thể thao.

– Chƣơng trình Công tác xã hội.

Đi đôi với công tác tổ chức, xây dựng cơ sở Đoàn vững mạnh, Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã không ngừng đổi mới hình thức và

nội dung công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, góp phần nâng cao nhận thức mọi

mặt cho đoàn viên và thanh niên, từ những năm học theo các chuyên đề về Đảng,

về Bác Hồ, đến các đợt sinh hoạt tập trung về truyền thống của dân tộc, của cách

mạng, tình hình nhiệm vụ của đất nƣớc, vai trò của ngƣời đoàn viên, thanh niên; về

lý tƣởng và lối sống của tuổi trẻ; về dân số – sức khoẻ và môi trƣờng... tổ chức

Đoàn các cấp đều tìm tòi nhiều biện pháp sinh động để chuyển tải các nội dung cần

thiết đến đoàn viên, thanh niên: thuyết trình, hội thảo, hội trại, sinh hoạt câu lạc bộ,

mít tinh, du khảo, thi tìm hiểu... để đoàn viên, thanh niên có thể tự tìm hiểu, tự suy

nghĩ và điều chỉnh mình trong nhận thức thông qua sự định hƣớng của tổ chức

Đoàn, Hội. Năm 1994, với chủ đề “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh –

nguồn bổ sung cho Đảng”, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 64 ngày thành lập Đảng, Tỉnh

Đoàn, các Huyện Đoàn và Đoàn ngành Giáo dục cấp huyện đã tổ chức hội thảo,

185

thu hút 71.232 lƣợt đoàn viên, thanh niên tham gia. Năm 1995, thi tìm hiểu về

Đảng, về Bác Hồ, đã có 48.333 bài dự thi của mọi đối tƣợng thanh niên; thi thuyết

trình “Những lời Bác Hồ dạy thanh niên” thu hút 287.202 lƣợt đoàn viên, thanh

niên dự và tham gia thuyết trình. Các chiến dịch truyền thông về dân số – sức khoẻ

– môi trƣờng, về HIV/AIDS liên tục đƣợc tổ chức ở thành phố Biên Hòa, ở các

huyện Long Thành, Tân Phú, Long Khánh... Hàng chục ngàn tài liệu bƣớm, hàng

trăm băng rôn, băng cassette tuyên truyền cổ động phòng chống ma tuý,

HIV/AIDS đƣợc phổ biến rộng rãi đến tận tay nhiều đoàn viên và thanh niên. Tổ

chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã thành lập 5 đội

tuyên truyền viên tại 4 huyện: Xuân Lộc, Long Khánh, Định Quán, Long Thành và

tại thành phố Biên Hòa, với 106 đội viên thƣờng xuyên làm nhiệm vụ tuyên truyền

về con đƣờng lây nhiễm HIV/AIDS. Có đến 80% thanh niên trong tỉnh đã đƣợc

tuyên truyền hiểu rõ 2 con đƣờng có thể dẫn đến lây nhiễm HIV/AIDS. Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai cũng đã phát hành tài liệu

“Thông tin trong Đoàn” mỗi quí 2 số, đến tận các chi đoàn trong toàn tỉnh, giới

thiệu những mô hình hoạt động Đoàn có hiệu quả, hƣớng dẫn nghiệp vụ công tác

Đoàn, kỹ năng sinh hoạt thanh niên, có tác dụng nâng cao nhận thức và năng lực tổ

chức hoạt động công tác Đoàn cho cán bộ Đoàn các cấp, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu

về tổ chức Đoàn và tổ chức Hội, Đội và những vấn đề có liên quan của đông đảo

đoàn viên, thanh niên.

Mối quan hệ phối hợp, cùng cộng đồng trách nhiệm với các ngành chức năng,

nhất là với ngành Giáo dục, với Hội Cựu chiến binh trong công tác giáo dục chính

trị, tƣ tƣởng cho đoàn viên, thanh niên ngày càng đi vào chiều sâu, thể hiện công

tác thanh niên đang từng bƣớc đƣợc xã hội hóa. Nhiều mô hình hoạt động mang

tính giáo dục cao ngày càng đƣợc nhân rộng ở nhiều cơ sở: Câu lạc bộ ông cháu,

Câu lạc bộ tiền hôn nhân, gia đình trẻ, đội thanh niên tình nguyện bảo vệ môi

trƣờng, các cuộc du khảo về nguồn... luôn có sức hấp dẫn thanh niên.

Công tác giáo dục thanh niên đặc biệt đƣợc các cấp ủy Đảng quan tâm chỉ

đạo. Thành ủy Biên Hòa, Đảng ủy khối Kinh tế tỉnh, Huyện ủy Thống Nhất... đã

thành lập Ban chỉ đạo giáo dục thế hệ trẻ; các ngành, các cấp cũng quan tâm đầu tƣ

nhiều mặt, còn dƣ luận xã hội luôn đồng tình ủng hộ, làm cho chất lƣợng công tác

giáo dục của Đoàn đƣợc nâng lên rõ rệt. Trong 5 năm kể từ sau Đại hội Đoàn toàn

tỉnh lần thứ IV (1992), tổ chức Đoàn các cấp đã bằng nhiều hình thức và biện pháp

chuyển tải các nội dung giáo dục đến trên 2,1 triệu lƣợt đoàn viên, thanh niên, góp

phần nâng cao một bƣớc nhận thức của đại bộ phận thanh niên trên nhiều mặt. Và

những chuyển biến đáng kể trong nhận thức của đông đảo thanh niên đã đƣợc thể

hiện rõ trong nhiều hoạt động thực tiễn, từ phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ kinh tế

– xã hội, đảm bảo công tác an ninh quốc phòng đến các hoạt động tình nghĩa, tham

186

gia vào chiến dịch “Ánh sáng văn hóa”, “Xây dựng nhà tình nghĩa”, “Xây dựng

trƣờng học cho trẻ thơ vùng sâu, vùng xa”, “Tặng áo cho bạn”...

Đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng trong các đối tƣợng thanh

niên luôn là mối quan tâm hàng đầu của các cấp bộ Đoàn trong quá trình tự đổi

mới. Tháng 1–1993, quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp

hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VII) về công tác thanh niên

trong tình hình mới và trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VI,

Ban chấp hành Trung ƣơng Đoàn trong Hội nghị lần thứ hai đã quyết định phát

động rộng rãi trong thanh niên cả nƣớc 2 phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp”

và “Tuổi trẻ giữ nƣớc”, đánh dấu bƣớc đổi mới phƣơng thức hoạt động của Đoàn

theo hƣớng ngày càng gắn bó hơn với những nhiệm vụ chính trị đang đặt ra cho

đất nƣớc.

Ngay trong những tháng đầu năm 1993, trong khi tiến hành tổ chức quán triệt

Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng và Nghị quyết 19 của Ban

chấp hành Tỉnh Đảng bộ Đồng Nai về công tác thanh niên trong tình hình mới,

cũng nhƣ các Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VI và Nghị quyết Đại hội

Đoàn toàn tỉnh lần thứ IV, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai

đã nhanh chóng triển khai thực hiện hai phong trào “Thanh niên lập nghiệp” và

“Tuổi trẻ giữ nƣớc” do Trung ƣơng Đoàn phát động. Bên cạnh việc tổ chức tập

huấn, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ cấp huyện và cơ sở, đảm bảo triển khai phong trào

đúng hƣớng và đạt hiệu quả, tạo đƣợc niềm tin trong đông đảo đoàn viên, thanh

niên, Tỉnh Đoàn Đồng Nai đã chủ động làm việc với các ngành nhƣ Lao động,

Nông Lâm, Ngân hàng, Kho bạc Nhà nƣớc, Tỉnh đội... để tạo cơ chế phối hợp, tạo

điều kiện cho thanh niên những cơ hội thuận lợi trong quá trình lập thân, lập

nghiệp. Ngay trong năm đầu triển khai phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, tổ

chức Đoàn các cấp đã triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, tổ chức dạy nghề và

tham gia giới thiệu việc làm cho thanh niên; tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học

kỹ thuật cho thanh niên và nhất là khai thác mọi nguồn trợ vốn giúp thanh niên

phát triển sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm

đƣợc khai thác thông qua kênh của Trung ƣơng Đoàn và của tổ chức Nhà nƣớc địa

phƣơng, tổ chức Đoàn các địa phƣơng đã đặc biệt coi trọng vận động thanh niên tự

tạo nguồn vốn giúp nhau sản xuất. Tổ chức Đoàn các cấp còn tạo điều kiện cho

thanh niên vay vốn bằng tín chấp tại các ngân hàng. Đến năm 1994, đoàn viên và

thanh niên trong tỉnh đã hỗ trợ vốn giúp nhau sản xuất đƣợc 55.300.000 đồng và

năm 1995, con số đó đã là 289.700.000 đồng. Cùng với các nguồn vốn từ quĩ quốc

gia giải quyết việc làm, quĩ xoá đói giảm nghèo... thực sự đã là nguồn hỗ trợ lớn

đối với thanh niên trong việc tạo dựng công ăn việc làm, ổn định đời sống, nhất là

đối với những hộ gia đình trẻ. Nhiều dự án nhỏ đã đƣợc triển khai thực hiện có

187

hiệu quả. Từ năm 1994, dự án nuôi tôm càng xanh ở xã Phú Hữu (huyện Long

Thành cũ) đã thu hồi đƣợc vốn, giải quyết đƣợc việc làm cho hàng trăm lao động.

Đến năm 1995, trên phạm vi toàn tỉnh đã có 12 dự án nhỏ đƣợc triển khai, với tổng

giá trị 1.158 triệu đồng, giải quyết việc làm cho 921 thanh niên. Một số dự án

mang lại hiệu quả rõ rệt, thu hồi vốn nhanh, nhƣ dự án trồng mía ở cơ sở Đoàn

Công ty Mía đƣờng La Ngà (Định Quán), thu lợi hàng trăm triệu đồng, đóng góp

cho quĩ hoạt động của Đoàn; dự án nuôi cá của Đoàn phƣờng Tam Hiệp... Nhiều

đoàn viên, thanh niên đã trở thành những nhà doanh nghiệp trẻ, chủ các cơ sở sản

xuất, nhƣ Phạm Đức Bình, Lý Minh Thanh, Lê Thành Long... đã tạo ra hàng trăm

nơi làm việc cho nhiều thanh niên chƣa có việc làm ở địa phƣơng. Một số còn hỗ

trợ vốn cho những thanh niên khác phát triển sản xuất, kinh doanh.

Thông qua Trung tâm sinh hoạt – đào tạo thanh, thiếu niên của tỉnh và Trung

tâm dạy nghề Thành Đoàn Biên Hòa, Tổ chức Đoàn các cấp đã đẩy mạnh công tác

dạy nghề cho thanh, thiếu niên, tạo ra khả năng để thanh niên có thể tự tìm kiếm

việc làm hoặc tự tổ chức các hoạt động sản xuất, dịch vụ sau khi đã đƣợc đào tạo

nghề. Phần lớn các trung tâm đều chú ý dạy những nghề có thời gian đào tạo ngắn,

phù hợp với nhu cầu có việc làm của thanh niên, nhƣ kế toán, điện tử, may công

nghiệp... Trong công tác tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, tổ chức

Đoàn các cấp đã sử dụng nhiều phƣơng thức nhƣ thông tin, trao đổi kinh nghiệm,

tập huấn chuyên đề, xây dựng các điểm trình diễn, tọa đàm, hội thảo đầu bờ, thi

cấy, thi bảo vệ thực vật... thu hút hàng nghìn cán bộ, đoàn viên thanh niên ở nhiều

địa phƣơng tham gia, cùng trao đổi, bổ sung những kinh nghiệm sản xuất, kinh

doanh góp phần hoàn thiện phƣơng pháp, qui trình sản xuất một loại cây, con...

thực sự đã mang lại nhiều hiệu quả đáng kể, có sức cuốn hút thanh niên đến với

những cái mới, tiến bộ.

Trong thanh niên công nhân, phong trào thanh niên lập nghiệp đƣợc triển khai

trên nhiều mặt hoạt động, có tác động lôi cuốn thanh niên đi sâu vào khoa học kỹ

thuật, đổi mới công nghệ, làm ra nhiều sản phẩm có chất lƣợng cao phục vụ sản

xuất và tiêu dùng. Hoạt động chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thanh

niên công nhân đƣợc thực hiện thông qua các hình thức: Câu lạc bộ khoa học kỹ

thuật trẻ, hội thảo chuyên đề, hoạt động tự tìm tòi, nghiên cứu, ôn luyện tay nghề,

thi thợ giỏi, công trình thanh niên... Các phong trào CKT (chất lƣợng, kiểu dáng,

tiết kiệm), TTS (tuổi trẻ, tay nghề cao, sản xuất giỏi)... từng bƣớc đƣợc mở rộng,

tạo điều kiện tích cực để đoàn viên, thanh niên công nhân phát huy những tiềm

năng vốn có. Hàng trăm sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã đƣợc phát huy và đƣợc ứng

dụng vào sản xuất, làm lợi cho Nhà nƣớc hàng trăm triệu đồng. Chỉ riêng năm

1995, trong thanh niên công nhân đã có 87 sáng kiến có giá trị. Cùng thời gian

thanh niên công nhân ở Công ty Đƣờng Biên Hòa, Thiết bị điện 4, Nhà máy Thép

188

Biên Hòa, Bƣu điện tỉnh, Đoàn cơ sở Nông trƣờng Túc Trƣng, Hàng Gòn... đã đảm

nhận 84 công trình thanh niên, vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa đáp ứng nhu cầu

rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thanh niên. Trong đó, riêng

công trình thi công đƣờng dây trung hạ thế của thanh niên Đoàn Khối Công nghiệp

đã góp đƣợc cho quĩ hoạt động của Đoàn tới 50 triệu đồng. Đến năm 1996, đã có

82/94 cơ sở Đoàn Khối Công nghiệp hoàn thành 135 công trình, phần việc thanh

niên, làm lợi cho Nhà nƣớc 1.825.768.000 đồng. Nhiều câu lạc bộ khoa học kỹ

thuật trẻ đã ra đời, tập hợp nhiều đoàn viên, thanh niên ham mê lao động sáng tạo

đến cùng trao đổi, bàn bạc tìm tòi các giải pháp cho nhiều vấn đề đang đặt ra trong

sản xuất. Nhiều vấn đề đƣợc tháo gỡ, góp phần thúc đẩy sản xuất. Nhiều hội thi tay

nghề, thi thợ giỏi các cấp đƣợc tổ chức, với nhiều ngành nghề khác nhau: thi bóc

vỏ hạt điều (Đoàn Công ty Donafoods), thi giao dịch viên duyên dáng (Đoàn Bƣu

điện tỉnh), thi thợ giỏi ngành may (Công ty May Đồng Nai, May Đồng Tiến, May

công nghiệp), thi điều dƣỡng viên giỏi (Bệnh viện Đồng Nai, Trung tâm Nhi đồng

Đồng Nai, Bệnh viện Thống Nhất), thi thợ giỏi cạo mủ cao su (Đoàn Công ty Cao

su). Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai cũng đã tổ chức thành

công Hội thi Bàn tay vàng ngành may cấp tỉnh với 5 công ty may, trong đó có 2

công ty liên doanh với nƣớc ngoài.

Trong trƣờng học, phong trào “Thanh niên lập nghiệp” đƣợc triển khai theo

nội dung “Học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp”, khơi gợi trong thanh niên

học sinh ý thức, trách nhiệm của tuổi trẻ trong sự nghiệp nâng cao dân trí, chuẩn bị

hành trang cho một thế hệ con ngƣời có hoài bão lớn, năng động và tự chủ, sống có

văn hóa, giàu tình nghĩa. Phong trào khuyến học, khuyến tài từng bƣớc đƣợc triển

khai, trở thành động lực thúc đẩy đoàn viên, thanh niên trong nhà trƣờng không

ngừng vƣơn lên tự khẳng định mình qua các phong trào thi đua học tốt. Nhiều hình

thức, phƣơng pháp học tập có hiệu quả đƣợc phát huy, nhân rộng, câu lạc bộ học

tập, đôi bạn điểm 10. Tổ chức Đoàn trong nhà trƣờng thƣờng xuyên có những biện

pháp tích cực hỗ trợ phong trào học tập vì ngày mai lập nghiệp của đoàn viên,

thanh niên, nhƣ tổ chức hội thảo phƣơng pháp học tập tốt, hỗ trợ đoàn viên, thanh

niên học thêm vi tính, ngoại ngữ. Tổ chức Đoàn các cấp còn thành lập các loại quĩ

hỗ trợ những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học giỏi. Trong đó có “Quĩ hỗ trợ

tài năng trẻ” và “Quĩ vì bạn nghèo hiếu học”. Riêng năm 1995, với 2 quĩ này đã

trao 1.631 suất học bổng, trị giá 210.253.000 đồng cho học sinh, sinh viên các

trƣờng. Năm 1996, còn có thêm quĩ “Giúp bạn vƣợt khó” và đã trao 3.681 suất học

bổng, trị giá 510.248.900 đồng.

Nhiều em, thông qua phong trào “Học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp”

đã thực sự vƣơn lên trong học tập và rèn luyện, trở thành những học sinh phát triển

toàn diện. Năm học 1994 – 1995, đã có 5.828/21.140 học sinh đạt loại khá, giỏi,

189

chiếm gần 40% tổng số học sinh trong toàn tỉnh. Trong kỳ thi đại học cùng năm đã

có nhiều học sinh đậu một lúc tới 4 – 5 trƣờng, trong đó có Nguyễn Minh Dũng

(Trƣờng phổ thông trung học Ngô Quyền, thành phố Biên Hòa) đã đậu thủ khoa.

Cùng với việc không ngừng vƣơn lên trong học tập, vào các dịp nghỉ hè,

nhiều học sinh, sinh viên các trƣờng trong tỉnh đã tình nguyện tham gia chiến dịch

“Ánh sáng văn hóa”. Trong 2 năm 1995 – 1996, đã có 1.300 đoàn viên, thanh niên

học sinh tình nguyện tham gia chiến dịch “Ánh sáng văn hóa”, đi đến các vùng sâu

trong tỉnh, nhƣ Xuân Lộc, Tân Phú, Định Quán vận động đƣợc 15.052 thanh niên

và đồng bào các dân tộc thiểu số ra lớp học xoá mù chữ. Thanh niên trong các

trƣờng học còn nỗ lực rèn luyện phấn đấu trở thành những học sinh phát triển toàn

diện thông qua các hoạt động xã hội nhƣ tham gia và trở thành một tuyên truyền

viên cho công tác phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng chống HIV/AIDS và nhất

là đăng ký không sử dụng các chất kích thích gây nghiện. Nhiều cuộc ra quân đã

thu hút đông đảo thanh niên học sinh tham gia, góp phần giải quyết nhiều vấn đề

về tệ nạn xã hội, về vệ sinh môi trƣờng.

Năm 1996, phong trào “Thanh niên lập nghiệp” trong thanh niên Đồng Nai đi

sâu vào những chƣơng trình mục tiêu, nhƣ: Chƣơng trình “Phát triển thanh niên,

tiếp tục phát triển phong trào học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp”; chƣơng

trình “Thanh niên tham gia phát triển nông nghiệp và nông thôn”; chƣơng trình

“Thanh niên tham gia phát triển công nghiệp và dịch vụ”; chƣơng trình “Thanh

niên tham gia phát triển và làm lành mạnh môi trƣờng xã hội”. Mỗi chƣơng trình

đều có những mục tiêu cụ thể, gắn với những nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ địa

phƣơng đang đặt ra trong từng thời kỳ. Nhƣ chƣơng trình “Phát triển thanh niên,

tiếp tục phát triển phong trào học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp” đã góp

phần thúc đẩy thanh, thiếu niên trong tỉnh không ngừng vƣơn lên trong học tập rèn

luyện, tạo động lực cho thanh niên đi sâu nghiên cứu tiếp thu khoa học công nghệ

và trang bị nghề cho thanh niên. Tổ chức Đoàn các cấp đã vận động đoàn viên và

thanh niên, đội viên thiếu nhi đóng góp đƣợc 218 triệu đồng xây dựng 4 phòng học

cho các em học sinh nghèo tại xã Phƣớc Bình, huyện Long Thành. Hoạt động dạy

nghề và giải quyết việc làm đƣợc quan tâm đầu tƣ nhiều mặt. Các cơ sở dạy nghề

của Đoàn đƣợc mở rộng và đƣợc trang bị một số dụng cụ cần thiết, đã tổ chức dạy

nghề cho 8.459 thanh niên, tƣ vấn học nghề và giới thiệu việc làm cho 85.621 lƣợt

thanh niên, trong đó đã giới thiệu 18.937 thanh niên vào làm việc tại các doanh

nghiệp liên doanh với nƣớc ngoài, doanh nghiệp tƣ nhân và doanh nghiệp có vốn

đầu tƣ nƣớc ngoài, bƣớc đầu cung cấp cho Khu Công nghiệp một nguồn nhân lực

trẻ, năng động và có trình độ tay nghề nhất định.

Chƣơng trình Thanh niên tham gia phát triển nông nghiệp và nông thôn, bên

cạnh việc tiếp tục khai thác các nguồn vốn hỗ trợ thanh niên giải quyết việc làm,

190

phát triển sản xuất, kinh doanh; phát triển các điểm trình diễn, các câu lạc bộ khoa

học kỹ thuật ở cơ sở, các chi hội, đội, nhóm khuyến nông trẻ...163/163 cơ sở Đoàn

các phƣờng, xã trong tỉnh đã tổ chức động viên thanh niên đóng góp nhiều công

sức phát triển cơ sở hạ tầng và môi trƣờng ở nông thôn. 35.156 ngày công đã đƣợc

huy động để thực hiện 185 công trình thanh niên, làm 38 km đƣờng nông thôn,

trồng mới 15.000 cây xanh, đào đắp 1.250 mét kênh, nạo vét 2.950 mét mƣơng...

Với các phƣơng thức chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vốn giúp nhau

sản xuất, kinh doanh, nhiều thanh niên nông thôn đã vƣơn lên làm giàu chính đáng,

trở thành những ông chủ vƣờn, chủ trang trại trẻ, có thu nhập hàng chục triệu

đồng/ năm nhƣ Nghiêm Xuân Huyền, thanh niên xã Bắc Sơn, huyện Thống Nhất;

Bùi Văn Nhiều, xã Nam Cát Tiên, huyện Tân Phú; Nguyễn Văn Đôn, huyện Định

Quán...

Chƣơng trình Thanh niên tham gia phát triển công nghiệp và dịch vụ đã đƣợc

triển khai ở 100% cơ sở Đoàn trong Khối Kinh tế, Công nghiệp và Công ty Cao su,

thúc đẩy đoàn viên và thanh niên thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, thi đua vƣợt

sản lƣợng khai thác. Với các phong trào CKT, TTS, luyện tay nghề, thi thợ giỏi,

sản xuất kinh doanh giỏi, công trình thanh niên và bằng nhiều phƣơng thức nhƣ: ký

thoả ƣớc lao động tập thể, tổ chức các hội thi “Bàn tay vàng”, “Thợ trẻ giỏi ngành

may”... đƣợc triển khai rộng rãi, đã có tác dụng thúc đẩy thanh niên công nhân,

viên chức đi sâu nghiên cứu, tìm biện pháp nâng cao trình độ nghề nghiệp, không

ngừng đổi mới công nghệ, mạnh dạn ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Nhiều giải pháp sáng tạo của thanh niên đã góp phần tháo gỡ những khó khăn

trong sản xuất của cơ sở và đã đoạt nhiều giải thƣởng tại các cuộc triển lãm, hội thi

sáng tạo trẻ toàn quốc. Nhiều công trình thanh niên đã đáp ứng đòi hỏi sản xuất

của đơn vị, qua đó vai trò, vị trí của tổ chức Đoàn trong các cơ sở sản xuất công

nghiệp đƣợc nâng lên rõ rệt. Trong đó có những công trình tiêu biểu nhƣ các công

trình thanh niên, các sáng kiến cải tiến của Đoàn Công ty Đƣờng Biên Hòa, Đoàn

cơ sở Công ty Thiết bị Điện, Đoàn cơ sở Bƣu điện. Trong khoảng thời gian 5 năm,

1992 – 1997, đoàn viên thanh niên Khối Công nghiệp đã đảm nhận 649 công trình

có giá trị. Riêng năm 1996, đã có 82/94 cơ sở Đoàn trong Khối Công nghiệp thực

hiện 125 công trình, phần việc thanh niên, làm lợi cho Nhà nƣớc 1.825.768.000

đồng.

Hoạt động dạy nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên ngày càng đƣợc các

cấp bộ Đoàn quan tâm. Với nhiều hình thức khai thác các nguồn vốn, kể cả việc tín

chấp vay vốn ngân hàng, tổ chức Đoàn đã hỗ trợ thanh niên 9.074.150.000 đồng,

góp phần giải quyết việc làm cho 6.670 thanh niên. Trong đó, riêng chƣơng trình

120, từ năm 1994 đến năm 1996, tổ chức Đoàn các cấp đã thực hiện 38 dự án, theo

chƣơng trình giải quyết việc làm của tỉnh và của Trung ƣơng Đoàn, giải quyết việc

191

làm cho 2.389 đoàn viên, thanh niên với tổng số vốn 3.525 triệu đồng. Tổ chức

Đoàn các cấp cũng đã dạy nghề cho 28.978 đoàn viên, thanh niên, giới thiệu giải

quyết việc làm cho 30.916 lƣợt thanh niên...

Chƣơng trình Thanh niên tham gia phát triển và làm lành mạnh môi trường

xã hội, đƣợc hầu hết các cơ sở Đoàn tổ chức với nhiều hình thức có sức lôi cuốn

đông đảo thanh niên cùng thực hiện, nhƣ thanh niên thành phố Biên Hòa, thanh

niên các huyện Long Thành, Nhơn Trạch, Long Khánh tham gia giải đua xe đạp

cấp tỉnh, tổ chức chạy việt dã cấp huyện. Phong trào Thanh niên khoẻ để lập

nghiệp và giữ nước đƣợc triển khai sâu rộng trong đông đảo đoàn viên và thanh

niên, tạo nên không khí vui tƣơi lành mạnh trong cuộc sống tại cộng đồng. Trong

năm 1996, đã có 7.748 đoàn viên trên tổng số 28.000 thanh niên đăng ký đƣợc

công nhận đạt danh hiệu “Thanh niên khoẻ”, 149 chi đoàn, chi hội cũng đƣợc công

nhận là những tập thể thanh niên khoẻ.

Cũng trong năm 1996, các cấp bộ Đoàn đã tổ chức 5 đợt ra quân “chủ nhật

xanh”, hƣởng ứng tuần lễ an toàn, sạch đẹp, văn minh ở cấp tỉnh, huyện và xã với

hơn 10.000 lƣợt đoàn viên, thanh niên tham gia. Tỉnh Đoàn phát động sâu rộng

chiến dịch “Ánh sáng văn hóa hè” tại các xã vùng sâu, vùng xa.... thu hút đông đảo

đoàn viên, thanh niên các trƣờng cấp III, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tham

gia tạo thành một phong trào lớn về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học cho thanh

thiếu niên, những ngƣời lớn tuổi không có điều kiện đến trƣờng. Thực hiện Chỉ thị

814/ TTg của Thủ tƣớng Chính phủ, đoàn viên và thanh niên trong tỉnh đã thu gom

và tiêu hủy 10.216 băng video ngoài luồng có nội dung xấu. Tổ chức Đoàn các cấp

cũng đã ra quân hƣởng ứng Ngày Quốc tế phòng chống AIDS và ngăn chặn tệ nạn

ma tuý trong trƣờng học, thu hút hơn 23.000 đoàn viên, thanh niên tham gia. Các

hình thức câu lạc bộ, đội, nhóm tuyên truyền dân số – sức khoẻ – môi trƣờng,

phòng chống HIV/AIDS phát triển. 115/163 phƣờng, xã trong toàn tỉnh đã xây

dựng đƣợc các câu lạc bộ, đội, nhóm với hơn 1.000 thành viên, thƣờng xuyên hoạt

động có hiệu quả, trực tiếp truyền thông đến 302.681 lƣợt đoàn viên, thanh niên

những vấn đề có liên quan đến công tác phòng chống ma tuý, ngăn chặn nạn dịch

HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác.

Phong trào Tuổi trẻ giữ nước thực sự đã góp phần nâng cao nhận thức của

tuổi trẻ đối với nhiệm vụ thiêng liêng “bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa”. Sự phối hợp đồng bộ giữa tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh với Hội Cựu chiến binh và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã làm cho phong trào

ngày càng đi vào chiều sâu. Từ việc chuẩn bị cho thanh niên trƣớc khi lên đƣờng

làm nghĩa vụ quân sự đến việc thực hiện công tác hậu phƣơng quân đội, tổ chức

Đoàn các cấp đều có sự phối hợp chặt chẽ với Hội Cựu chiến binh và Bộ Chỉ huy

quân sự của địa phƣơng, trong việc tập trung giáo dục truyền thống, giáo dục lòng

192

yêu nƣớc, tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm của ngƣời thanh niên đối với nhiệm

vụ bảo vệ Tổ quốc. Ngay trong năm đầu triển khai phong trào “Tuổi trẻ giữ nƣớc”

(1993), tổ chức Đoàn các cấp đã phối hợp với Hội Cựu chiến binh và Bộ Chỉ huy

quân sự địa phƣơng tuyên truyền cho 49.048 lƣợt đoàn viên, thanh niên về Luật

Nghĩa vụ quân sự, tăng gấp 3 lần so với năm 1992 (49.048/16.600). Đáng chú ý là,

đƣợc tổ chức Đoàn động viên, nhiều đoàn viên, thanh niên đã tình nguyện đi học sĩ

quan để phục vụ lâu dài trong quân đội. Ở hầu hết các địa phƣơng, các cơ sở Đoàn

đều xây dựng đƣợc sổ tiết kiệm “Vì ngƣời bạn tòng quân”, dành tặng những thanh

niên lên đƣờng làm nghĩa vụ quân sự. Các hình thức họp mặt đoàn viên, thanh niên

trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, tổ chức giúp đỡ gia đình thƣơng binh liệt sĩ, gia đình

bộ đội neo đơn, có hoàn cảnh khó khăn, tổ chức thăm hỏi và tặng quà tân binh, liên

hoan điển hình tuổi trẻ Đồng Nai giữ nƣớc... đƣợc tổ chức Đoàn các cấp triển khai

rộng rãi, có tác dụng động viên thanh niên yên tâm lên đƣờng nhập ngũ. Năm

1995, tổ chức Đoàn các cấp đã chỉ đạo cơ sở chọn điểm tổ chức “Lễ hội tòng

quân” (Tân An – Vĩnh Cửu, Suối Nho – Định Quán), “Hội trại giao quân” (Long

Thành – Nhơn Trạch). Trong các buổi lễ hội – hội trại, ngoài các hình thức động

viên số thanh niên lên đƣờng làm nghĩa vụ quân sự, các cơ sở Đoàn còn tổ chức ký

kết trách nhiệm giữa tân binh – Đoàn Thanh niên và chính quyền, góp phần nâng

cao trách nhiệm cho tân binh, hạn chế đào, bỏ ngũ. Hoạt động giao lƣu, kết nghĩa

với các đơn vị quân đội đóng trên địa bàn đƣợc nhiều cơ sở Đoàn phƣờng, xã,

trƣờng học... tổ chức dƣới nhiều hình thức, nhƣ giao lƣu văn nghệ, thi đấu thể

thao... làm phong phú thêm các nội dung hoạt động của tổ chức Đoàn ở địa phƣơng

cũng nhƣ trong các đơn vị quân đội. Tổ chức Đoàn các cấp còn triển khai các cuộc

vận động tặng quà các chiến sĩ biên giới, hải đảo. Riêng các em thiếu nhi trong

tỉnh, chỉ một năm 1994, cũng đã bằng nhiều hoạt động đóng góp quà trị giá 20

triệu đồng tặng bộ đội Trƣờng Sa. Năm 1996, Ban Chấp hành Tỉnh Đoàn đã cử

đoàn đại biểu đi thăm và tặng quà bộ đội Trƣờng Sa trị giá 20 triệu đồng.

Các hoạt động “Uống nƣớc nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” đƣợc duy trì và

phát triển. Tổ chức Đoàn các cấp đã bằng nhiều hình thức vận động quyên góp, tổ

chức lao động gây quĩ... lấy kinh phí xây dựng đƣợc 24 căn nhà tình nghĩa, trị giá

407 triệu đồng, tặng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, các gia đình thƣơng binh liệt

sĩ, gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn. Thƣờng xuyên tổ chức các đợt

khám, chữa bệnh, phát thuốc miễn phí cho đồng bào ở vùng sâu vùng xa, vùng căn

cứ cách mạng; triển khai các công trình thanh niên, huy động hàng ngàn ngày

công, hàng trăm triệu đồng sửa chữa đƣờng, sửa chữa nhà cho các gia đình chính

sách. Tổ chức Đoàn các cấp cũng đã nhận phụng dƣỡng 101 Bà mẹ Việt Nam Anh

hùng hiện còn sống tại Đồng Nai.

193

Trong các lực lƣợng vũ trang, phong trào “Tuổi trẻ giữ nƣớc” đƣợc các cơ sở

Đoàn triển khai thông qua các phong trào “Xứng danh anh bộ đội Cụ Hồ” và “Làm

theo 6 điều Bác Hồ dạy công an nhân dân” với các trọng tâm: thực hiện tốt điều

lệnh nội vụ, xây dựng quân đội chính qui, hiện đại, ngăn chặn tội phạm, phòng

chống bạo loạn, giữ gìn phẩm chất ngƣời chiến sĩ. Nhiều cơ sở Đoàn trong các đơn

vị quân đội đóng quân trên địa bàn đã phấn đấu xây dựng chi đoàn văn hóa; trong

thanh niên công an phát triển phong trào “Dạy hay, học giỏi, thực hành tốt”.

Tổ chức Đoàn trong các lực lƣợng vũ trang còn chủ động phối hợp với thanh

niên trên địa bàn làm nhiệm vụ trấn áp tội phạm, phòng chống tệ nạn xã hội, đảm

bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Các tổ an ninh xung kích, tổ dân phòng, đội tự

vệ phát triển ở hầu khắp các địa phƣơng, cơ sở. Đến năm 1996, đã có 100% cơ sở

Đoàn khối đƣờng phố, 80% cơ sở Đoàn khối nông thôn tập hợp đƣợc 27.425 thanh

niên hoạt động trong 2.951 tổ an ninh xung kích, đội tự vệ thƣờng xuyên làm

nhiệm vụ canh gác giữ gìn trật tự, an ninh tại địa phƣơng, cơ sở, góp phần phòng

chống các tệ nạn xã hội. Nhiều vụ gây rối trật tự công cộng đã đƣợc kịp thời giải

quyết, nhiều vụ cƣớp tài sản công dân, lấy cắp mủ cao su đƣợc phát hiện, thu giữ,

trả lại ngƣời mất. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã phối

hợp với công an tỉnh triển khai có hiệu quả Nghị quyết 01 giữa Trung ƣơng Đoàn

và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc “Ngăn ngừa tội phạm trong lứa tuổi

thanh, thiếu niên”. Tổ chức Đoàn các cấp từ tỉnh đến huyện và cơ sở đã ký kết

chƣơng trình phối hợp hành động. 163/163 cơ sở Đoàn phƣờng, xã trong tỉnh đã

vào cuộc, giáo dục, cảm hóa hàng ngàn thanh niên chậm tiến, giúp đỡ nhiều ngƣời

trong số đó có công ăn việc làm ổn định, tạo môi trƣờng thuận lợi để họ hoàn

lƣơng.

Thực hiện chƣơng trình Chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng và xây dựng

Đội Thiếu niên Tiền phong, từ sau Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ IV (1992), bên

cạnh việc duy trì hoạt động Đội trong trƣờng phổ thông, các cấp bộ Đoàn đã từng

bƣớc tiến hành tổ chức hoạt động Đội trên địa bàn dân cƣ. Thông qua các phong

trào “Nghìn việc tốt”, “Giúp bạn vƣợt khó”, “Quĩ vì bạn nghèo”, “Việc nhỏ nghĩa

lớn”... các hoạt động Đội đã góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục, ổn định nề

nếp, kỷ cƣơng và phẩm chất đạo đức học sinh trong nhà trƣờng.

Từ năm học 1994 – 1995, hoạt động Đội đã từng bƣớc đi sâu vào từng chuyên

đề, nhƣ “Phƣơng pháp nâng cao chất lƣợng học tập bằng các loại hình câu lạc bộ”

(chuyên đề 4); “Bồi dƣỡng phụ trách sao, sao nhi đồng, sao tự quản, chuẩn bị kết

nạp Đội” (chuyên đề 5); “Bồi dƣỡng đội viên lớn lên Đoàn” (chuyên đề 6)... Quá

trình triển khai các chuyên đề, Hội đồng Đội các cấp đều tổ chức chỉ đạo điểm và

tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm tại chỗ trƣớc khi nhân rộng. Chuyên đề 4

“Phƣơng pháp nâng cao chất lƣợng học tập bằng các loại hình câu lạc bộ” đƣợc

194

chọn xây dựng điểm ở Trƣờng phổ thông trung học Hùng Vƣơng, thành phố Biên

Hòa đã xây dựng đƣợc những tổ, nhóm học tập thích hợp với từng đối tƣợng học

sinh, giúp các em nâng cao chất lƣợng từng môn học, với sự trợ giúp của các giáo

viên bộ môn. Chuyên đề 5 “Bồi dƣỡng phụ trách sao, sao nhi đồng, sao tự quản,

chuẩn bị kết nạp Đội”, liên đội Trƣờng phổ thông cơ sở Hiếu Liêm, huyện Vĩnh

Cửu đƣợc chọn làm điểm chỉ đạo, đã chọn đƣợc những thiếu niên tích cực ở các

khối 6, 7 ,8 để bồi dƣỡng lực lƣợng phụ trách sao theo định kỳ mỗi tuần 2 buổi.

Quá trình xây dựng các sao cũng đƣợc làm từng bƣớc, từ những em chăm ngoan,

học giỏi, chủ yếu ở khối lớp 1, lớp 2 tổ chức thành sao mẫu, sau đó mới nhân rộng

mô hình và hình thức sinh hoạt lên từng khối lớp, tạo không khí thi đua học tập,

rèn luyện trong các em học sinh nhỏ tuổi. Chƣơng trình 6 “Bồi dƣỡng đội viên lớn

lên Đoàn” đƣợc tổ chức thí điểm tại liên đội Trƣờng La Ngà, huyện Định Quán.

Vấn đề “Bồi dƣỡng đội viên lớn lên Đoàn” luôn đặt ra những vấn đề đòi hỏi tổ

chức Đoàn các cấp phải thƣờng xuyên quan tâm. Trong nhiều năm, tỷ lệ đội viên

trƣởng thành đƣợc kết nạp vào Đoàn ở Đồng Nai chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ khoảng

12 – 15%. Có những địa phƣơng, tỷ lệ đó còn thấp hơn, dƣới 10%. Nhiều em đội

viên hết tuổi Đội đã không đƣợc tập hợp vào một tổ chức nào, kể cả Hội Liên hiệp

Thanh niên Việt Nam. Duy trì đƣợc hoạt động “Bồi dƣỡng đội viên lớn lên Đoàn”,

không chỉ tạo đƣợc nguồn bổ sung đáng kể cho tổ chức Đoàn, còn là nguyện vọng

của nhiều thiếu niên lớn tuổi, muốn đƣợc đứng trong một tổ chức để đƣợc phấn

đấu vƣơn lên. Thực hiện chuyên đề “Bồi dƣỡng đội viên lớn lên Đoàn” là một quá

trình giúp những đội viên lớn tuổi hoàn chỉnh chƣơng trình “Rèn luyện đội viên

Thiếu niên Tiền phong sẵn sàng”, với các nội dung:

– Giáo dục truyền thống dân tộc, lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc; có hiểu biết

về Đảng, về Đoàn, Đội, về Bác Hồ và các ngày lễ lớn.

– Bồi dƣỡng tính tự quản và kỹ năng công tác Đội.

– Nâng cao tinh thần đoàn kết, thƣơng yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau cho

từng đội viên.

Những năm tiếp theo, phƣơng thức hoạt động Đội theo từng chuyên đề tiếp

tục đƣợc mở rộng, thông qua các hội nghị giao ban và mỗi Hội đồng Đội cấp

huyện đƣợc giao đi sâu tổng kết một chuyên đề, nhƣ thành phố Biên Hòađi sâu

tổng kết chuyên đề “Phƣơng pháp bồi dƣỡng Ban chỉ huy liên, chi đội, xây dựng

liên, chi đội mạnh”; huyện Long Khánh tổng kết chuyên đề “Rèn luyện đội viên,

phƣơng pháp triển khai và thực hiện có hiệu quả”; huyện Tân Phú phụ trách

chuyên đề “Tổ chức và sinh hoạt đội viên lớn tuổi – bồi dƣỡng kết nạp đoàn viên

mới”; huyện Thống Nhất với chuyên đề “Sinh hoạt truyền thống” và huyện Nhơn

Trạch với chuyên đề “Công nhận hoàn thành chƣơng trình rèn luyện đội viên”...

195

Năm học 1995 – 1996, với chủ đề “Sáng ngời trang sử Đội”, công tác Đội và

phong trào thiếu nhi tỉnh Đồng Nai, bên cạnh việc triển khai thực hiện các chuyên

đề, đã thực hiện các chủ điểm:

– Vòng tay bè bạn, từ 3–9 đến 15–9–1995.

– Tấm lòng vàng, từ 15–9 đến 15–10–1995.

– Ghi ơn thầy cô, từ 15–10 đến 20–11–1995.

– Tiếp bƣớc cha anh, từ 20–11 đến 22–12–1995.

– Mừng sinh nhật Đoàn tròn 65 tuổi, từ 22–12–1995 đến 26–3–1996.

– Đội ta lớn lên cùng đất nƣớc, từ 26–3 đến 15–5–1996.

Thông qua các chƣơng trình hoạt động:

Chƣơng trình 1: Tự hào về Đoàn – Đội.

Chƣơng trình 2: Vƣợt khó học tập, yêu khoa học.

Chƣơng trình 3: Tấm lòng vàng.

Chƣơng trình 4: Vì màu xanh quê hương.

Chƣơng trình 5: Vui khoẻ.

Thực hiện các chƣơng trình hoạt động, hầu hết các liên đội, chi đội trong nhà

trƣờng cũng nhƣ trên địa bàn dân cƣ, đều có nhiều hình thức sinh động, tạo điều

kiện cho các em thiếu niên, nhi đồng có thể vừa đƣợc cống hiến phần công sức bé

nhỏ của mình cho xã hội, vừa đƣợc tạo điều kiện để học tập và rèn luyện. Nhiều

hình thức mang tính chất “chơi mà học”, có tác dụng giúp các em nhận biết vấn đề

nhanh chóng nhƣ “Em là cảnh sát nhỏ”, “Đố em”, có những phong trào có ý nghĩa

xã hội, có tác dụng giáo dục các em, nhƣ “Vì bạn nghèo”, “Vì ngày mai phát triển

– ngôi trƣờng cho trẻ thơ vùng xa”. Chỉ riêng hoạt động trong chƣơng trình “Tấm

lòng vàng”, thiếu nhi toàn tỉnh đã bằng nhiều hình thức đóng góp đƣợc

186.188.500 đồng, xây dựng đƣợc 3 căn nhà tình nghĩa tặng Bà mẹ Việt Nam Anh

hùng và mẹ liệt sĩ. Với chƣơng trình “Vì màu xanh quê hƣơng”, 100% liên đội đã

hình thành đƣợc đội sao đỏ, thƣờng xuyên kiểm tra việc thực hiện nếp sống mới,

nội qui. Các em còn trồng đƣợc 12.436 cây xanh...

Từ những thành tích đạt đƣợc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh

Đồng Nai đã vinh dự đƣợc Chủ tịch Nƣớc tặng Huân chƣơng Lao động hạng 3

(năm 1996).

Tháng 10 năm 1997, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai

đã tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ V. 309 đại biểu thay mặt cho hàng vạn đoàn

viên trong toàn tỉnh đã dự Đại hội.

196

Những năm từ sau Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ IV, tổ chức Đoàn và phong

trào thanh niên Đồng Nai đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc, trên tất cả các mặt

công tác, giáo dục chính trị tƣ tƣởng, xây dựng Đoàn, Hội cũng nhƣ Đoàn tham gia

xây dựng Đảng, đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng... Trên cơ sở đổi

mới toàn diện các hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên trong điều kiện

tình hình kinh tế – xã hội đang từng bƣớc đi dần vào thế ổn định, nhiều phƣơng

thức hoạt động của Đoàn đã có sức cuốn hút đông đảo đoàn viên, thanh niên và cả

các em thiếu niên, nhi đồng tìm đến với tổ chức của Đoàn.

Thông qua các hoạt động thực tiễn, tổ chức Đoàn, tổ chức Hội Liên hiệp

Thanh niên Việt Nam của tỉnh không ngừng đƣợc củng cố và phát triển ngày càng

vững mạnh. Sự giảm sút về số lƣợng đoàn viên từng bƣớc đƣợc ngăn chặn, chất

lƣợng hoạt động của cơ sở Đoàn đƣợc nâng lên, nhất là từ sau khi triển khai thực

hiện các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ƣơng Đoàn về “Xây dựng cơ sở

Đoàn vững mạnh, chủ động công tác” và “Xây dựng tổ chức Đoàn trên địa bàn ấp

(khóm, khu phố) và đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh”. Năm 1992, tổng số đoàn

viên trong toàn tỉnh là 25.414 ngƣời, đến 6 tháng đầu năm 1997 đã tăng lên gấp 2,2

lần, tức là 56.239 đoàn viên. Trong thời gian 5 năm đã có 61.308 thanh niên đƣợc

kết nạp vào Đoàn. Chƣơng trình rèn luyện đoàn viên đƣợc triển khai thực hiện ở

hầu hết các cơ sở Đoàn, đã góp phần nâng lên một bƣớc chất lƣợng đoàn viên. Đến

cuối năm 1996, qua khảo sát đã có 90% đoàn viên đƣợc xếp loại khá và xuất sắc.

Số cơ sở Đoàn vững mạnh cũng tăng lên nhanh chóng. Năm 1992, số cơ sở Đoàn

khá, vững mạnh chiếm 28,39%, đến cuối năm 1996 đã có 153/163 cơ sở Đoàn

đƣợc công nhận vững mạnh và khá, chiếm tỷ lệ 84,14%. Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai còn xây dựng đƣợc tổ chức Đoàn ở 5 doanh

nghiệp tƣ nhân và liên doanh với nƣớc ngoài.

Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên, xây dựng, phát triển tổ chức Hội Liên

hiệp Thanh niên đƣợc chú trọng. Nhiều đối tƣợng thanh niên trong tỉnh đã thực sự

tìm thấy ở tổ chức Hội một ngƣời bạn đồng hành, góp phần hỗ trợ bản thân nhiều

mặt trong cuộc sống và đã tự đến với tổ chức Hội. Năm 1992, trên phạm vi toàn

tỉnh chỉ có 23.498 hội viên, đến 6 tháng đầu năm 1997, số hội viên trong toàn tỉnh

đã tăng lên tới 59.009 hội viên, sinh hoạt trong 1.085 chi hội, 1.768 đội nhóm, tăng

gấp 2,52 lần so với năm 1992. 9/9 huyện, thành phố đã thành lập đƣợc ủy ban Hội;

ủy ban Hội cũng đƣợc xây dựng ở 129/163 xã, phƣờng, thị trấn; 13/43 cơ sở

trƣờng học có ủy ban Hội. Ngoài ra, còn có 3 chi hội hoạt động trong các cơ sở sản

xuất tƣ nhân. Các chƣơng trình, các cuộc vận động đƣợc triển khai mạnh mẽ, thông

qua các đội thanh niên tình nguyện: công tác xã hội từ thiện, xoá mù chữ, hiến máu

nhân đạo, thanh niên khuyến nông, nhóm tiết kiệm... đã góp phần thu hút đông đảo

197

thanh niên đến với các hoạt động của Hội, thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản

xuất, học tập, sinh hoạt văn hóa lành mạnh.

Công tác Đoàn tham gia xây dựng Đảng, ngày càng đi vào nề nếp ở hầu hết

các cơ sở Đoàn trong tỉnh. Bên cạnh việc thƣờng xuyên tham mƣu, đề xuất với các

cấp ủy Đảng những vấn đề cụ thể về lãnh đạo công tác thanh niên, nhƣ ra Nghị

quyết chuyên đề về xây dựng tổ chức cơ sở Đoàn, xoá ấp trắng (Huyện ủy Tân

Phú), thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Đoàn (Huyện ủy Long Thành); thành lập

Ban chỉ đạo giáo dục thế hệ trẻ (Thành ủy Biên Hòa, Huyện ủy Thống Nhất)... tổ

chức Đoàn các cấp đã thƣờng xuyên giới thiệu với Đảng những đoàn viên ƣu tú để

Đảng xem xét kết nạp. Trong 5 năm, tổ chức Đoàn các cấp đã giới thiệu 7.204

đoàn viên ƣu tú để Đảng xem xét, và các cơ sở Đảng đã xem xét và kết nạp đƣợc

1.877 đoàn viên ƣu tú vào Đảng.

Từ sau khi có Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng về công

tác thanh niên trong tình hình mới, sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phƣơng đối với

công tác thanh niên ngày càng đƣợc quan tâm. Ngoài việc ra Nghị quyết 19 về thực

hiện Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng, Tỉnh ủy và các cấp ủy

Đảng ở các địa phƣơng đã thƣờng xuyên nghe báo cáo về tình hình thanh niên và

công tác thanh niên tại địa phƣơng và cho nhiều ý kiến chỉ đạo giúp tổ chức Đoàn

các cấp tháo gỡ nhiều khó khăn trong việc xây dựng tổ chức Đoàn và đẩy mạnh

các phong trào hành động cách mạng. Hàng năm, tổ chức Đoàn các cấp đều sơ kết

đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng và

Nghị quyết 19 của Tỉnh ủy, đánh giá đúng thực trạng thanh niên và có những giải

pháp thích hợp, không ngừng đổi mới mọi mặt hoạt động của Đoàn và phong trào

thanh niên trong từng thời kỳ, trong đó có việc chuyển hƣớng hoạt động của Đoàn

trong việc thực hiện những chƣơng trình mục tiêu, nhƣ chƣơng trình “Phát triển

thanh niên”; chƣơng trình “Thanh niên tham gia phát triển nông nghiệp và nông

thôn”; chƣơng trình “Thanh niên tham gia phát triển công nghiệp và dịch vụ”;

chƣơng trình “Thanh niên tham gia phát triển và làm lành mạnh môi trƣờng xã

hội”... đã có tác động làm chuyển biến nhiều mặt hoạt động của tổ chức Đoàn và

phong trào thanh niên.

Các đại biểu dự Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ V, sau khi khẳng định những

thành quả đã đạt đƣợc sau 5 năm kể từ Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ IV (1992 –

1997), đã chỉ ra những mặt yếu kém làm hạn chế nhiều mặt quá trình phát triển của

tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Đồng Nai trong điều kiện những đòi hỏi

ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng... đã đề ra phƣơng hƣớng nhiệm vụ công

tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu niên nhiệm kỳ 1997 – 2002, với mục tiêu tổng

quát là: “Nâng cao vai trò, vị trí tổ chức Đoàn đối với xã hội, góp phần giáo dục

và hình thành nhân cách lớp thanh niên mới sống có lý tưởng, đạo đức và tri thức,

198

xứng đáng là lực lượng xung kích đi đầu thực hiện thắng lợi 12 chương trình phát

triển kinh tế – xã hội của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích

cực tham gia giữ gìn an ninh, trật tự và an toàn xã hội”. Trong đó, phƣơng hƣớng

cơ bản là: “Không ngừng cải tiến và đổi mới nội dung phương pháp giáo dục

nhằm hình thành nhân cách của lớp thanh niên mới có những đức tính: nhân – trí

– dũng, biết yêu quê hương đất nước và chủ nghĩa xã hội.

Quyết tâm xây dựng Đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm

thực hiện tốt vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, tập hợp đoàn kết thanh niên, tích

cực tham gia xây dựng Đảng và chăm sóc giáo dục thiếu nhi”.

Cùng với việc chỉ rõ những nhiệm vụ của Đoàn trong công tác tuyên truyền

giáo dục; công tác xây dựng Đoàn, Hội và tham gia xây dựng Đảng; công tác Đội

Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và giáo dục chăm sóc thiếu nhi, các đại biểu

dự Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ V đã đề ra các chƣơng trình hành động của Đoàn

trong thời gian 5 năm trƣớc mắt, bao gồm:

– Chƣơng trình Tham gia phát triển nguồn nhân lực trẻ, tiến quân vào khoa

học công nghệ.

– Chƣơng trình Thanh niên tình nguyện xây dựng nông thôn.

– Chƣơng trình Thanh niên tình nguyện giữ nước, tham gia giữ gìn an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội.

– Chƣơng trình Phòng chống tệ nạn xã hội – xây dựng môi trường xã hội lành

mạnh vì sự phát triển của tuổi trẻ.

– Chƣơng trình Đền ơn đáp nghĩa và công tác xã hội.

Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai lần

thứ V đã nhất trí bầu 37 đồng chí vào Ban Chấp hành Tỉnh Đoàn khóa V. Đồng chí

Đặng Mạnh Trung đƣợc bầu làm Bí thƣ Tỉnh Đoàn, các đồng chí Hoàng Ngọc

Khôi và Nguyễn Sơn Hùng đƣợc bầu làm Phó bí thƣ. Đƣợc bầu vào Ban Thƣờng

vụ Tỉnh Đoàn còn có các đồng chí: Trần Thị Minh, Đinh Thị Minh Châu, Nguyễn

Tiến Dũng, Võ Thị Ngọc Bảy, Nguyễn Thế Dƣơng, Nguyễn Hoàng Phƣơng, Lê

Văn Lộc, Trần Văn Hùng. Sau Đại hội, 11 đồng chí khác đƣợc bầu bổ sung vào

Ban chấp hành Tỉnh Đoàn khóa V.

Những năm 1998 – 2000, tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Đồng Nai

tiếp tục phát triển, đi vào thế ổn định trên các mặt, giáo dục chính trị tƣ tƣởng, xây

dựng tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh, cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng các

phong trào hành động của Đoàn.

Năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 300 năm Biên Hòa – Đồng Nai, Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã bằng nhiều hình thức tổ chức tuyên

199

truyền giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp thanh, thiếu nhi của tỉnh truyền thống

lịch sử đáng tự hào của Biên Hòa – Đồng Nai trong 300 năm phát triển. Trong đó

có những hình thức có sức hấp dẫn thanh niên nhƣ, thi thuyết trình “Thanh niên

Đồng Nai với truyền thống Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm”, đƣợc tổ chức từ cơ sở

đến cấp huyện và tƣơng đƣơng, cuối cùng chọn những thí sinh xuất sắc nhất dự thi

thuyết trình ở tỉnh; thi tìm hiểu Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm, đã có tới 42.146

bài dự thi, trong đó thí sinh dự thi nhỏ tuổi nhất mới 11 tuổi và có cả những cụ già

65 tuổi cũng hăng hái tham gia. Ngoài ra, tổ chức Đoàn các cấp còn tổ chức các

hoạt động về nguồn, thăm viếng mộ Đức Ông Nguyễn Hữu Cảnh, ngƣời đầu tiên

thiết lập hệ thống hành chính trên miền đất Đồng Nai – Gia Định, góp phần nâng

cao nhận thức của tuổi trẻ Đồng Nai đối với mảnh đất quê hƣơng, thấy rõ trách

nhiệm phải giữ gìn và phát triển, xây dựng Đồng Nai trở thành một tỉnh giàu mạnh,

xứng đáng với những gì cha ông đã tạo dựng. Đặc biệt, trong năm 1998, Tỉnh

Đoàn đã phát động công trình thanh niên là phát hành đợt vé số đặc biệt xây dựng

Trƣờng phổ thông trung học Nguyễn Hữu Cảnh với số tiền là 1,8 tỷ đồng. Tại liên

hoan thanh niên tiên tiến cụm miền Đông Nam bộ, đoàn viên thanh niên các tỉnh

đã hỗ trợ xây dựng ngôi nhà mở cho trẻ em lang thang cơ nhỡ, không nơi nƣơng

tựa với tổng kinh phí là 204 triệu đồng, trong đó các tỉnh ủng hộ 65 triệu đồng, số

tiền còn lại do đoàn viên, thanh niên tỉnh ủng hộ.

Các công tác tuyên truyền về những ngày lễ lớn và tình hình nhiệm vụ của đất

nƣớc; tuyên truyền chƣơng trình “Dân số – sức khoẻ – môi trƣờng” đƣợc duy trì, đi

dần vào nề nếp. Đáng chú ý là tổ chức Đoàn các cấp đã chú trọng tôn vinh “ngƣời

tốt việc tốt” và nhân rộng mô hình sinh hoạt văn hóa lành mạnh, tổ chức liên hoan

gia đình văn hóa trẻ lần đầu tiên của tỉnh, có 240 cặp vợ chồng trẻ tham dự; liên

hoan thanh niên có nghĩa cử đẹp; thi “Ngƣời đẹp Đồng Nai”; phối hợp cùng Báo,

Đài Đồng Nai nêu gƣơng những cá nhân, tập thể đạt đƣợc nhiều thành tích trên các

mặt công tác cũng nhƣ phấn đấu, rèn luyện. Cuộc thi “Bảy sắc cầu vồng” cấp tỉnh

đƣợc duy trì và đã đăng cai tổ chức cuộc thi cấp khu vực miền Đông Nam bộ. Đội

tuyển Trƣờng phổ thông trung học Ngô Quyền của Đồng Nai đã đoạt giải nhất và

đƣợc cử đại diện cho khu vực dự thi toàn quốc và đoạt chức vô địch.

Những năm tiếp theo, công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng tiếp tục đi vào

chiều sâu với nhiều hình thức và biện pháp có sức thu hút đông đảo đoàn viên và

thanh niên tham gia. Đáng chú ý là những cuộc họp mặt truyền thống cựu cán bộ,

đội viên Thanh niên xung phong các thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, họp mặt và

giao lƣu với các cựu chiến binh Tiểu đoàn 303... đã để lại những ấn tƣợng sâu sắc.

Tổ chức Đoàn các cấp đã không ngừng sáng tạo nhiều hình thức hấp dẫn để

chuyển tải những nội dung cần thiết đến các đối tƣợng thanh niên. Giáo dục lối

sống, nếp sống có cuộc vận động “Tuổi trẻ sống đẹp”, diễn đàn “Tầm nhìn thế kỷ”;

200

giáo dục dân số – sức khoẻ – môi trƣờng, các cơ sở Đoàn tổ chức tuần hành động

“Thanh niên học đƣờng quyết tâm phòng chống ma tuý và tệ nạn xã hội”; thực

hiện tháng thanh niên “Hành trang thế kỷ 21”, với những cuộc xuống đƣờng tuần

hành bằng xe đạp và tổ chức thi tiểu phẩm, hùng biện “Vì một mái trƣờng không

có ma tuý và tệ nạn xã hội”...

Đẩy mạnh công tác xây dựng Đoàn – Hội – Đội, tổ chức Đoàn các cấp đã tiến

hành khảo sát tình hình hoạt động của các chi đoàn cơ sở, nhất là chi đoàn ấp.

Đáng chú ý là đồng chí Bí thƣ Tỉnh ủy và Ban Dân vận Tỉnh ủy cũng trực tiếp đi

khảo sát ở nhiều cơ sở và cho ý kiến chỉ đạo cụ thể về công tác xây dựng tổ chức

Đoàn vững mạnh và công tác tập hợp, đoàn kết thanh niên. Ban Thƣờng vụ Tỉnh

Đoàn đã chỉ đạo các huyện và thành phố Biên Hòa xây dựng mỗi nơi 2 điểm để rút

kinh nghiệm, nhân rộng mô hình tốt.

Thông qua chƣơng trình “Rèn luyện đoàn viên” và coi trọng bồi dƣỡng đối

tƣợng Đoàn, công tác phát triển đoàn viên mới có những bƣớc chuyển biến rõ rệt.

Năm 1998, đã phát triển đƣợc 25.267 đoàn viên mới, nâng tổng số đoàn viên trên

phạm vi toàn tỉnh lên 76.203 đoàn viên, đạt tỷ lệ 16,37% tổng số thanh niên trong

độ tuổi từ 15 đến 28 tuổi. Trong đó, tập trung chủ yếu ở hai đối tƣợng: địa bàn dân

cƣ, chiếm 39,32% tổng số đoàn viên mới kết nạp; trƣờng học, chiếm 54,95% tổng

số đoàn viên mới kết nạp. Năm 1999, trong tổng số 32.629 thanh niên đƣợc bồi

dƣỡng đối tƣợng Đoàn đã có 27.961 thanh niên đƣợc kết nạp vào Đoàn, nâng tổng

số đoàn viên trong toàn tỉnh lên 84.059 đoàn viên, chiếm tỷ lệ 16,72% tổng số

thanh niên toàn tỉnh, tính đến độ tuổi 30 (năm 1998, nếu tính đến độ tuổi 30, tỷ lệ

đoàn viên chỉ chiếm 14,49% trong tổng số). Tổ chức Đoàn các cấp đặc biệt coi

trọng bồi dƣỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ Đoàn. Riêng năm 1998, đã có 100% Bí

thƣ Đoàn cơ sở đƣợc bồi dƣỡng nghiệp vụ công tác Đoàn, kỹ năng tổ chức các

hoạt động thực tiễn. Công tác xây dựng tổ chức Đoàn trong các doanh nghiệp tƣ

nhân và có vốn đầu tƣ của nƣớc ngoài đƣợc coi trọng. Tỉnh Đoàn đã chủ trì nghiên

cứu thành công đề tài khoa học “Quy trình xây dựng tổ chức Đoàn – Hội trong

doanh nghiệp tƣ nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài”, đã thành lập tổ

xây dựng Đoàn – Hội trong doanh nghiệp tƣ nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài. Đến năm 1999, đã xây dựng đƣợc 8 cơ sở Đoàn với 409 đoàn viên, 6

chi hội với 165 hội viên trong các doanh nghiệp tƣ nhân và doanh nghiệp có vốn

đầu tƣ nƣớc ngoài.

Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên trong các năm từ sau Đại hội Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai lần thứ V đã có bƣớc phát triển

trên tất cả các mặt, xây dựng tổ chức Hội cũng nhƣ công tác hội viên và thực hiện

các chƣơng trình hành động cách mạng. Đến năm 1999, trên phạm vi toàn tỉnh đã

có 98.685 thanh niên đƣợc tập hợp trong tổ chức Hội Liên hiệp Thanh niên, chiếm

201

tỷ lệ 19,63% tổng số thanh niên. 99,38% tổng số phƣờng, xã, thị trấn đã có tổ chức

Hội (162/163 phƣờng, xã, thị trấn) với 1.808 chi hội và 2.193 tổ, đội, nhóm thanh

niên, thƣờng xuyên tổ chức, động viên thanh niên thực hiện các chƣơng trình công

tác xã hội từ thiện cũng nhƣ các chƣơng trình nâng cao đời sống dân trí và phát

triển nhân lực trên địa bàn.

Năm 1999, Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh Đồng Nai đã tiến hành Đại hội đại

biểu lần thứ III. Thông qua hiệp thƣơng đã bầu 33 thành viên, đại diện cho các tầng

lớp, các đối tƣợng thanh niên tham gia ủy ban Hội của tỉnh. Đồng chí Nguyễn Sơn

Hùng đƣợc bầu làm Chủ tịch Hội và các đồng chí Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn

Minh Mẫn đƣợc bầu làm Phó chủ tịch Hội.

Với 5 chƣơng trình và 4 cuộc vận động lớn, tổ chức Hội Liên hiệp Thanh niên

tỉnh Đồng Nai đã triển khai nhiều loại hình hoạt động sinh động, thu hút đông đảo

thanh niên tham gia, nhƣ tổ chức các cuộc du khảo về nguồn, công tác xã hội từ

thiện, tham gia các chiến dịch “Ánh sáng văn hóa”, đội thanh niên tình nguyện làm

công tác xã hội, hội trại truyền thống... Nhiều hoạt động đã mang lại hiệu quả thiết

thực nhƣ năm 1999 đã xoá mù chữ cho 386 học viên; cảm hóa, giáo dục và giúp đỡ

18 em thiếu niên đƣờng phố có điều kiện tái hòa nhập với gia đình. Trong đó có cả

những loại hình có tác dụng hỗ trợ thanh niên sản xuất kinh doanh. Riêng năm

1999, tổ chức Hội các cấp đã vận động trợ vốn cho thanh niên đƣợc 373.400.000

đồng, giới thiệu cho 2.263 hội viên có việc làm ổn định. Tiêu biểu nhƣ Văn Văn

Do Em, chi hội thủy lợi xã Phú Đông (huyện Nhơn Trạch), đội bốc xếp phƣờng An

Bình (thành phố Biên Hòa), các tổ tiết kiệm tích luỹ ở Long Khánh, các tổ vần đổi

công ở Xuân Lộc...

Thông qua hoạt động trong thực tiễn, nhiều đoàn viên, thanh niên đã nỗ lực

phấn đấu trƣởng thành về nhiều mặt. Nhiều đoàn viên ƣu tú đã đƣợc tổ chức Đoàn

các cấp giới thiệu và đã đƣợc các cơ sở Đảng xem xét, kết nạp vào Đảng. Trong 2

năm 1998 – 1999, tổ chức Đoàn các cấp đã giới thiệu với Đảng 2.975 đoàn viên ƣu

tú và Đảng đã xem xét, kết nạp 1.042 đoàn viên ƣu tú vào Đảng.

Nhận rõ công tác xây dựng Đội Thiếu niên Tiền phong là một mặt không thể

thiếu của công tác xây dựng tổ chức Đoàn, tổ chức Đoàn các cấp đã không ngừng

chăm lo củng cố phát triển tổ chức Đội vững mạnh, thông qua 5 chƣơng trình của

Đội và chƣơng trình “Rèn luyện đội viên”. Bên cạnh việc tập trung chỉ đạo công

tác xây dựng Đội trong nhà trƣờng, tổ chức Đoàn các cấp đã đẩy mạnh công tác

xây dựng Đội trên địa bàn dân cƣ. Đến năm 1999, đã có 92 xã, phƣờng, thị trấn

trên tổng số 163 phƣờng, xã, thị trấn có tổ chức Hội đồng Đội, đạt tỷ lệ 56,44%,

với 3.080 đội viên, bƣớc đầu có những hoạt động phối hợp có hiệu quả với tổ chức

Đội trong trƣờng học, trong việc quản lý, giáo dục và chăm sóc thiếu niên, nhi

đồng, nhất là trong những dịp nghỉ hè.

202

Nhiều loại hình hoạt động phù hợp với từng đối tƣợng thiếu nhi đƣợc triển

khai sâu rộng đã thu hút các em đến với những hoạt động tập thể vui tƣơi, lành

mạnh: Hội thi “Chỉ huy Đội giỏi”, Hội thi “Tin học trẻ không chuyên”, trại hè dành

cho đội viên xuất sắc, Hội thi “Vẽ, kể chuyện theo phim – sách” hè 1999, Hội diễn

“Hoa phƣợng đỏ”, Liên hoan các điển hình học sinh nghèo vƣợt khó, Hội thi

“Tiếng hát học sinh – sinh viên” hè 1999... Nhằm không ngừng nâng cao hoạt

động của tổ chức Đội, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai

cũng đã tổ chức Hội thi “Giáo viên, tổng phụ trách giỏi tỉnh Đồng Nai 1999” để

biểu dƣơng và khẳng định vai trò, vị trí của đội ngũ giáo viên, tổng phụ trách trong

sự nghiệp giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, đồng thời tạo điều kiện để đội ngũ tổng

phụ trách rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ công tác

Đội.

Các phong trào hành động cách mạng Thanh niên lập nghiệp và Tuổi trẻ giữ

nước tiếp tục đƣợc triển khai dƣới nhiều hình thức, góp phần tổ chức, động viên

thanh niên trên các lĩnh vực sản xuất, công tác cũng nhƣ học tập không ngừng nỗ

lực phấn đấu cống hiến hết sức mình, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị

đƣợc Đảng giao. Thanh niên nông thôn phát triển các loại hình: quĩ giúp nhau vốn

sản xuất, đầu tƣ vay vốn, mở rộng chƣơng trình khuyến nông, đảm nhận các công

trình... tạo ra nhiều cơ hội để thanh niên có điều kiện lập nghiệp, nâng cao thu

nhập, ổn định cuộc sống. Từ nhiều nguồn vốn: vay ngân hàng, quĩ xoá đói giảm

nghèo, quĩ quốc gia giải quyết việc làm và nguồn vốn trợ giúp nhau trong đoàn

viên và thanh niên, kể cả việc hỗ trợ nhau về cây, con giống mới, tổ chức vần đổi

công... đoàn viên, thanh niên nông thôn từng bƣớc tháo gỡ đƣợc nhiều khó khăn,

mở rộng đƣợc sản xuất kinh doanh. Năm 1997, từ các nguồn vốn, tổ chức Đoàn,

Hội các cấp đã trợ giúp đƣợc 4.161 thanh niên nông thôn có việc làm, thu nhập ổn

định, với số vốn 4.364.288.000 đồng. Đến năm 1998, các cơ sở Đoàn, Hội trong

thanh niên nông thôn đã khai thác đƣợc 5,55 tỷ đồng, giải quyết đƣợc việc làm cho

7.671 đoàn viên, thanh niên. Trong đó, nguồn vốn từ các dự án là 2,1 tỷ đồng (24

dự án), nguồn vốn tự giúp nhau là 740.554.000 đồng. Ngoài ra, thanh niên nông

thôn còn giúp nhau 36.179 ngày công lao động. Năm 1999, nguồn vốn hỗ trợ thanh

niên nông thôn sản xuất kinh doanh đã tăng lên tới trên 6,995 tỷ đồng và đã giải

quyết đƣợc việc làm cho 26.704 đoàn viên, thanh niên. Trong đó, nguồn vốn từ quĩ

quốc gia giải quyết việc làm, thông qua các dự án nhỏ giải quyết việc làm tại chỗ

đã có 3.213.600.000 đồng (33 dự án), giải quyết cho 1.242 đoàn viên, thanh niên

có việc làm ổn định. Riêng Huyện Đoàn Vĩnh Cửu, các cơ sở Đoàn đã phối hợp

với các ban, ngành có liên quan bảo lãnh tín chấp cho các hộ gia đình có 1.700

đoàn viên, thanh niên vay số vốn tới 5,8 tỷ đồng để phát triển sản xuất.

203

Công tác hoạt động chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày

càng đƣợc đoàn viên, thanh niên nông thôn quan tâm. Các lớp tập huấn chuyển

giao khoa học kỹ thuật thƣờng xuyên thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên nông

thôn tham gia. Năm 1998, các cơ sở Đoàn, Hội các cấp tổ chức đƣợc 204 lớp tập

huấn chuyển giao công nghệ cho 8.128 đoàn viên, thanh niên. Đến năm 1999, tổ

chức 266 lớp đã có 17.818 đoàn viên, thanh niên tham gia. Cùng với các tổ, đội,

nhóm, câu lạc bộ thu hút hàng ngàn đoàn viên, thanh niên nông thôn thƣờng xuyên

sinh hoạt, trao đổi kinh nghiệm và tiếp nhận những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các

cơ sở Đoàn trong nông thôn còn tổ chức hàng chục điểm trình diễn kỹ thuật để phổ

biến những vấn đề mới mẻ trong sản xuất. Riêng năm 1999, các cơ sở Đoàn thanh

niên nông thôn đã tổ chức đƣợc 85 điểm trình diễn kỹ thuật. Đảm nhận các công

trình thanh niên trên địa bàn cũng là một loại hình đƣợc các cơ sở Đoàn thanh niên

nông thôn triển khai sâu rộng và ngày càng mang lại hiệu quả trên nhiều mặt. Đến

năm 1999, trong 163 phƣờng, xã, thị trấn, thanh niên nông thôn đã đảm nhận 2.671

công trình, đào đắp hàng vạn mét khối đất đá, sửa chữa hàng trăm km đƣờng nông

thôn, nạo vét và làm mới hàng ngàn mét kênh mƣơng nội đồng, trồng hàng vạn cây

xanh. Trong đó, riêng năm 1999 đã trồng 68.547 cây xanh các loại.

Đáng chú ý là các cơ sở Đoàn thanh niên nông thôn đã từng bƣớc quan tâm

đến công tác dạy nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên nông thôn, kịp thời

giải quyết một phần số thanh niên dƣ thừa phát sinh trong quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ở nông thôn. Năm 1997, các Trung tâm Dịch vụ việc làm thanh niên

của Tỉnh Đoàn và của Thành Đoàn Biên Hòađã tổ chức các lớp dạy nghề tin học,

ngoại ngữ, kế toán, nghiệp vụ văn phòng, điện công nghiệp cho 37.478 lƣợt đoàn

viên và thanh niên nông thôn; tổ chức tƣ vấn giới thiệu việc làm cho 18.904 thanh

niên và đã giới thiệu cho 11.959 thanh niên có việc làm ổn định. Năm 1999, đã có

3.365 đoàn viên, thanh niên đƣợc dạy nghề và tƣ vấn việc làm cho 12.600 thanh

niên, trong đó phần lớn là thanh niên nông thôn và bộ đội xuất ngũ.

Trong thanh niên công nhân, với phong trào CKT, thực hiện các công trình

thanh niên, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, các cơ sở Đoàn trong các nhà máy, xí

nghiệp, các công ty đã phát động các phong trào thi đua trong thanh niên, tập trung

chủ yếu trên các lĩnh vực sản xuất, hoạt động khoa học kỹ thuật và đảm nhận các

công trình thanh niên. Trong phong trào tiến quân vào khoa học kỹ thuật, phần lớn

các cơ sở Đoàn đều hƣớng thanh niên tham gia sinh hoạt trong các câu lạc bộ và

ban khoa học kỹ thuật trẻ, nghiên cứu phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật và ứng

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, không ngừng đổi mới

công nghệ, đạt năng suất lao động cao, chất lƣợng và mẫu mã sản phẩm ngày càng

đƣợc nâng lên. Đảm nhận các công trình thanh niên, sáng kiến cải tiến kỹ thuật là

một thế mạnh trong thanh niên công nhân, qua đó khẳng định vai trò, uy tín của tổ

204

chức Đoàn đối với lãnh đạo các đơn vị. Hàng năm, các cơ sở Đoàn thanh niên

Khối Công nghiệp và cả trong các cơ quan, các công ty, các nông trƣờng, trạm

trại... đã đảm nhận hàng trăm công trình thanh niên, làm lợi hàng trăm triệu đồng.

Tiêu biểu có công trình “Cải tiến qui trình sấy ống đất” của chi đoàn Xí nghiệp

Thủy tinh, đã nâng sản lƣợng hàng năm lên 120 tấn; công trình “Chuyển đổi đƣờng

kính thuốc lá điếu từ 7,9 lên 8,2 dây chuyền máy vấn điếu không đầu lọc –

đóng bao – bọc kiếng” của Đoàn cơ sở Công ty Thuốc lá Đồng Nai, đáp ứng nhu

cầu và thị hiếu ngƣời tiêu dùng và góp phần đa dạng hóa các sản phẩm của Công

ty. Đoàn Thanh niên Khối Công nghiệp còn có sáng kiến tổ chức Đội thanh niên

tình nguyện chuyên làm nhiệm vụ tƣ vấn về khoa học kỹ thuật, kỹ năng ngành

nghề, công tác xã hội; Tổ chức Hội thi hùng biện “Thanh niên công nhân trƣớc

thềm thế kỷ 21”, góp phần định hƣớng cho thanh niên công nhân chuẩn bị hành

trang bƣớc vào thiên niên kỷ mới. Đoàn thanh niên Công ty Cao su với mô hình

gây quĩ tƣơng trợ giúp nhau làm kinh tế gia đình đã tạo ra những điều kiện thuận

lợi để mọi thanh niên đều có thể lập thân lập nghiệp...

Phong trào Học tập rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp đƣợc triển khai rộng rãi

trong 100% cơ sở trƣờng học. Hầu hết các cơ sở đều hình thành các phƣơng thức

hoạt động nhƣ: câu lạc bộ học tập, tổ chức giáo dục hƣớng nghiệp, hội thảo về

phƣơng pháp học tập, Đại hội học tốt, tổ chức những tuần, tháng thi đua học tập,

đố em... Chỉ trong năm học 1997 – 1998, đã có 1.732 đoàn viên giáo viên dạy giỏi.

Các cơ sở Đoàn trong trƣờng học đã phát huy 258 sáng kiến cải tiến đồ dùng dạy

học, tổ chức đƣợc 145 câu lạc bộ môn học, thu hút 5.600 học sinh tham gia... Quĩ

học tập “Vì bạn nghèo” ngày càng phát triển. Năm 1998, quĩ có số vốn

111.250.000 đồng và đã cấp học bổng cho 2.355 học sinh nghèo có tinh thần vƣợt

khó học giỏi; năm 1999, số vốn của quĩ đã tăng lên tới 557.935.000 đồng và đã cấp

2.536 suất học bổng.

Phong trào Tuổi trẻ giữ nước tiếp tục có những bƣớc phát triển mới, trong

việc động viên thanh niên tòng quân, vấn đề đoàn kết 3 lực lƣợng, sự phối hợp

giữa tổ chức Đoàn, Hội Cựu chiến binh và cơ quan quân sự địa phƣơng. Năm

1999, Hội nghị tổng kết 5 năm chƣơng trình phối hợp giữa 3 tổ chức đã đánh giá

một cách khách quan hiệu quả chƣơng trình giáo dục truyền thống cho đoàn viên,

thanh niên và triển khai chƣơng trình phối hợp trong những năm 1999 – 2003.

Tỉnh Đoàn và Công an tỉnh cũng đã phối hợp kiểm tra tình hình triển khai Nghị

quyết liên tịch 02 giữa Trung ƣơng Đoàn và Bộ Công an về phòng ngừa ngăn chặn

tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên. Đã có 100% Huyện Đoàn, Thành

Đoàn và 100% cơ sở Đoàn tổ chức ký kết liên tịch với cơ quan công an địa

phƣơng.

205

Công tác gọi thanh niên nhập ngũ đƣợc quan tâm nâng cao chất lƣợng. Phần

lớn thanh niên trong diện thi hành nghĩa vụ quân sự đều đƣợc bồi dƣỡng về Đoàn

và đƣợc xem xét kết nạp vào Đoàn. Riêng năm 1999, các cơ sở Đoàn đã mở 178

lớp bồi dƣỡng đối tƣợng Đoàn cho 6.918 thanh niên và đã kết nạp đƣợc 1.639

thanh niên vào Đoàn. Trong số 1.500 thanh niên nhập ngũ năm 1999 đã có 1.395

đoàn viên, chiếm tỷ lệ 82,27%. Ngoài số thanh niên lên đƣờng làm nghĩa vụ quân

sự, đến năm 1999 còn có 50.600 thanh niên tham gia trong 3.557 tổ, đội thanh niên

xung kích an ninh, thƣờng xuyên làm công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội tại địa phƣơng, cùng các lực lƣợng chức năng tham gia xử lý các vụ

gây rối trật tự công cộng, cƣớp tài sản công dân...

Năm 2000 đƣợc chọn là “Năm Thanh niên”, tổ chức Đoàn các cấp của Đồng

Nai bên cạnh những công tác thƣờng xuyên nhƣ giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, xây

dựng Đoàn vững mạnh, đẩy mạnh công tác kiểm tra... đã triển khai thực hiện 6

chuyên đề, gồm:

– Vận động đoàn viên, thanh niên xung phong đảm nhận các công trình thanh

niên.

– Phong trào Ngày thứ bảy tình nguyện.

– Phong trào Thanh niên tình nguyện.

– Chương trình Giải quyết việc làm cho thanh niên.

– Phong trào Tuổi trẻ giữ nƣớc.

– Thực hiện các chương trình dự án phát triển thanh niên.

Bên cạnh những công trình thanh niên trong các cơ sở sản xuất, tổ chức Đoàn

các cấp đã triển khai nhiều công trình trong lĩnh vực công tác xã hội, nhƣ chăm sóc

các gia đình chính sách, khám chữa bệnh miễn phí cho đồng bào dân tộc thiểu số ở

vùng sâu vùng xa, hiến máu nhân đạo... Riêng trong lĩnh vực sản xuất, các cơ sở

Đoàn đã đảm nhận 1.098 công trình thanh niên, với 37.090 đoàn viên, thanh niên

tham gia, trong đó có 280 công trình của thanh niên công nhân đã làm lợi cho các

cơ sở nhà máy, xí nghiệp, công ty... hàng tỷ đồng. Có 21 công trình tiêu biểu, nhƣ

công trình nhân giống lúa mới của đoàn viên, thanh niên xã Vĩnh Thanh (huyện

Nhơn Trạch); công trình máy ép di động mủ bánh của Đoàn cơ sở Xí nghiệp Cơ

khí vận tải Công ty Cao su Đồng Nai; công trình thiết kế dây chuyền tráng men

gạch ốp tƣờng của Đoàn cơ sở Công ty Gạch men Thanh Thanh... Trong lao động

sản xuất và công tác đã xuất hiện nhiều tấm gƣơng đoàn viên, thanh niên tiêu biểu,

nhƣ Phạm Hòa Bình, đoàn viên Đoàn Xí nghiệp Ắc qui Đồng Nai, đã có 3 sáng

kiến làm lợi cho Xí nghiệp trên 700 triệu đồng; Nguyễn Đức Vân, đoàn viên chi

đoàn PC17 công an tỉnh đã góp phần triệt phá 8 vụ mua bán tàng trữ chất ma tuý...

206

Trong phong trào “Ngày thứ bảy tình nguyện”, tính đến ngày 30–11–2000, tổ

chức Đoàn các cấp đã tổ chức 669 buổi ra quân, có 127.637 đoàn viên, thanh niên

tham gia, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở, tham gia các hoạt

động xã hội, từ thiện nhân đạo, giữ gìn vệ sinh, đảm nhận các công trình thanh

niên... “Ngày thứ bảy tình nguyện” thực sự đã tạo nên những ấn tƣợng tốt trong xã

hội, góp phần đoàn kết, tập hợp thanh niên tại địa bàn.

Mô hình thanh niên tình nguyện đƣợc triển khai dƣới nhiều loại hình: Với

chiến dịch “Mùa hè xanh”, 100 đoàn viên, thanh niên đã tình nguyện đi về 88 xã

vùng sâu, vùng xa của tỉnh, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ và dạy chữ

cho hàng ngàn lƣợt thanh, thiếu niên và học sinh nghèo có hoàn cảnh khó khăn.

Chiến dịch kéo dài 30 ngày trong điều kiện có nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở

vật chất. Nhƣng ý chí tình nguyện đã vƣợt lên tất cả để hoàn thành nhiệm vụ trong

niềm vui lƣu luyến của những ngƣời dân quê chất phác. Trong khi đó, trên đƣờng

phố, cũng có 52 thanh niên tình nguyện làm giáo dục viên do Hội Liên hiệp Thanh

niên quản lý, đã tổ chức khảo sát 56 đợt, tiếp cận 62 trẻ em đƣờng phố, vận động

đƣa 29 em về nhà mở và 9 em trở về với gia đình.

300 đội viên thanh niên tình nguyện với khẩu hiệu “Ta về vùng lũ” đã kịp thời

có mặt tại Đắc Lua – Tân Phú, góp phần khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra. Chỉ

trong 1 tuần lễ đã đào đắp 1.880 mét mƣơng tƣới tiêu cấp I và cấp II, phục vụ nhân

dân sản xuất vụ Đông Xuân đầu tiên ở địa phƣơng.

Mô hình hoạt động của đội thanh niên tình nguyện ngày càng đa dạng phong

phú, thông qua các hoạt động công tác xã hội, từ thiện nhân đạo. Trong năm 2000,

đã thực hiện 38 đợt công tác xã hội, giúp đỡ 1.697 đồng bào dân tộc thiểu số với

tổng giá trị hơn 2 tỷ đồng; 2.694 đoàn viên, thanh niên đã đăng ký tham gia hiến

máu nhân đạo... Trên mặt trận xoá mù chữ đã có 3.060 thanh niên tham gia, tổ

chức đƣợc 263 lớp xoá mù chữ cho 1.796 thanh niên và 89 lớp phổ cập tiểu học

cho 621 thanh niên, tổ chức ôn tập văn hóa hè cho 12.672 học sinh...

Tƣ vấn dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên là việc làm thƣờng

xuyên của các cấp bộ Đoàn, càng đƣợc quan tâm đẩy mạnh trong “Năm Thanh

niên”. Tổ chức Đoàn các cấp đã tƣ vấn giúp 39.612 thanh niên có định hƣớng tìm

việc làm. Riêng Trung tâm tƣ vấn việc làm thanh niên đã tƣ vấn cho 7.200 lƣợt

thanh niên và đã tạo đƣợc việc làm ổn định cho 3.350 thanh niên.

Từ chƣơng trình quĩ quốc gia giải quyết việc làm (dự án 120) trong “Năm

Thanh niên” tổ chức Đoàn các cấp đã xây dựng và triển khai thực hiện 40 dự án,

với tổng số vốn 4.267,6 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 2.467 đoàn viên, thanh

niên. Ngoài ra, các cơ sở Đoàn còn khai thác các nguồn vốn khác nhau hỗ trợ cho

22.760 lƣợt đoàn viên, thanh niên số vốn trên 4 tỷ đồng để phát triển sản xuất kinh

207

doanh; mở 420 lớp tập huấn kiến thức khoa học kỹ thuật cho 13.006 đoàn viên,

thanh niên, xây dựng 130 điểm trình diễn, 525 tổ, đội, nhóm khuyến nông trẻ với

9.012 thanh niên tham gia.

Thực hiện các chƣơng trình dự án phát triển thanh niên là một trong những

hoạt động có ý nghĩa trong “Năm Thanh niên”, với nhiều việc làm thiết thực: xây

dựng cụm vui chơi cho thiếu nhi tại Khu du lịch Bửu Long; chuẩn bị triển khai dự

án Khu sinh hoạt văn hóa truyền thống thanh, thiếu niên Nam Cát Tiên tại xã Nam

Cát Tiên – huyện Tân Phú; xây dựng chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc

làm cho số thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Đặc biệt là sự quan tâm của

cấp ủy Đảng và chính quyền địa phƣơng đã tạo cơ hội để thanh niên có điều kiện

phát triển mọi mặt: Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành quyết định về việc thực hiện

mức chi phí hoạt động chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, ban hành

chủ trƣơng xây dựng các tụ điểm sinh hoạt cho thanh, thiếu niên cấp huyện và cơ

sở, quyết định miễn giảm học phí cho bộ đội xuất ngũ khi học văn hóa và học

nghề, cấp kinh phí để Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai thực

hiện các công trình nghiên cứu khoa học phục vụ công tác giáo dục, xây dựng tổ

chức Đoàn trên địa bàn địa phƣơng...

Trong “Năm Thanh niên”, thanh niên Đồng Nai đã coi nhiệm vụ “Tuổi trẻ giữ

nƣớc” là một biểu hiện ý thức trách nhiệm của những thanh niên hiểu rõ nghĩa vụ

đối với Tổ quốc. Tổ chức Đoàn các cấp tiếp tục phối hợp với các ngành có liên

quan tổ chức tuyên truyền giáo dục thanh niên về Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ

quan quân đội. 39.811 đoàn viên, thanh niên đã tham gia các đợt tìm hiểu về nghĩa

vụ của thanh niên đối với Tổ quốc. Cuộc vận động “Vì nghĩa tình biên giới hải

đảo” đã đƣợc thanh niên trong tỉnh tham gia rộng rãi, góp phần nâng cao nhận thức

của đoàn viên, thanh niên đối với chủ quyền an ninh quốc gia. Tổ chức Đoàn các

cấp còn phối hợp với các ngành chức năng cảm hóa giáo dục nhiều thanh niên

chậm tiến. 942 thanh niên chậm tiến đã đƣợc tổ chức Đoàn các cấp giúp đỡ tiến bộ,

trong đó có 180 thanh niên đã đƣợc kết nạp vào tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh. Tổ chức Đoàn các cấp còn xây dựng đƣợc 3.857 tổ, đội thanh

niên xung kích và 600 tổ an ninh nhân dân, với 12.268 đoàn viên, thanh niên

thƣờng xuyên tuần tra canh gác bảo vệ trật tự an toàn xã hội.

Tổ chức Đoàn các cấp đã thƣờng xuyên gắn phong trào thi đua bảo vệ an ninh

Tổ quốc với vai trò xung kích của tuổi trẻ trên các lĩnh vực công tác chuyên môn,

sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ đƣợc giao thông qua phong trào giao

ƣớc thi đua thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy và phong trào xứng danh bộ đội Cụ Hồ.

Đoàn Thanh niên Công an tỉnh đã thực hiện nhiều công trình đạt hiệu quả cao

trong công tác ngăn ngừa và phòng chống tội phạm, nhƣ công trình phòng chống

tham nhũng, gian lận thƣơng mại do chi đoàn PC15 thực hiện đã đấu tranh làm rõ

208

8 vụ tham nhũng, gồm 39 đối tƣợng, thu hồi cho Nhà nƣớc trên 30,976 tỷ đồng;

phát hiện 52 vụ gian lận thƣơng mại, xử lý 50 vụ buôn bán hàng cấm, nộp ngân

sách Nhà nƣớc 140.500.000 đồng. Đoàn Thanh niên Quân sự tỉnh với phong trào

thi đua “Giành 3 đỉnh cao quyết thắng” đã thực hiện tốt các nội dung: “Lý tƣởng

đẹp, trách nhiệm cao; học tập tốt, hành động giỏi; đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm”.

Năm 2000, năm kết thúc một thế kỷ đấu tranh oanh liệt của dân tộc Việt Nam

bất khuất, cũng là “Năm Thanh niên”, là năm tình nguyện, xông pha đem hết sức

trẻ và hoài bão cách mạng không ngừng vƣơn lên cống hiến và trƣởng thành, là

năm kết thúc một chặng đƣờng phấn đấu của tuổi trẻ trên con đƣờng xây dựng nền

móng cho sự phát triển đất nƣớc, khi thiên niên kỷ thứ ba đang mở ra cánh cửa cho

những khám phá không ngừng, đòi hỏi thế hệ tuổi trẻ đối diện với nó một vóc dáng

mới, có trí tuệ và nhân cách thời đại. Cho dù vẫn còn hết sức khiêm tốn, nhƣng

những gì tuổi trẻ Đồng Nai đã làm, đã cống hiến trong 25 năm kể từ sau ngày miền

Nam hoàn toàn đƣợc giải phóng, cùng cả nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng đã

cho thấy một thế hệ thanh niên Đồng Nai đang trong tƣ thế sẵn sàng nhập cuộc,

góp phần xây dựng Đồng Nai trở thành một tỉnh giàu về kinh tế, vững về chính trị,

mạnh về quốc phòng, xứng đáng với mảnh đất đã có truyền thống trên 300 năm

lịch sử.

209

KẾT LUẬN

Biên Hòa – Đồng Nai, là một vùng đất có vị trí đặc biệt. Trong tiến trình khai

canh mở đất, các cƣ dân Đàng Ngoài và cả những ngƣời Hoa thất thế khi muốn tìm

đến một vùng đất để dung thân, cũng đã chọn Đồng Nai làm nơi dừng chân, cùng

với cƣ dân bản địa đoàn kết gắn bó, đồng lòng chống chọi với thiên nhiên, giặc giã,

biến một vùng đất hoang vu, đầy thú dữ thành ruộng đồng, làng xóm trù phú. Khi

mở rộng khai thác thuộc địa, thực dân Pháp cũng đã chọn Đồng Nai và cả miền

Đông Nam bộ để đầu tƣ phát triển cây công nghiệp, đặc biệt là cây cao su. Chính

sự đầu tƣ ồ ạt của thực dân Pháp hồi đầu thế kỷ đã hình thành một tầng lớp cƣ dân

mới, có ảnh hƣởng trực tiếp đến quá trình tiếp thu những tƣ tƣởng của thời đại,

tầng lớp công nhân công nghiệp tập trung. Trong quá trình giữ nƣớc, Đồng Nai

luôn là địa bàn lý tƣởng cho việc xây dựng và phát triển lực lƣợng, xây dựng các

căn cứ làm bàn đạp, là nơi đọ sức quyết liệt giữa các thế lực cách mạng và phản

cách mạng, tạo nên những bƣớc phát triển có tính quyết định đến cuộc chiến.

Truyền thống khai canh mở đất và truyền thống chống giặc ngoại xâm đã góp

phần đào luyện cho các thế hệ thanh niên Đồng Nai một tinh thần yêu nƣớc nồng

nàn, một ý chí dám chấp nhận thử thách, trở thành động lực để tuổi trẻ Đồng Nai

không ngừng vƣơn lên và dám làm việc lớn. Đặc biệt là từ sau khi đƣợc tiếp thu

những tƣ tƣởng của thời đại do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các học trò của Ngƣời

truyền thụ, các thế hệ thanh niên Đồng Nai, từ những năm hai mƣơi của thế kỷ đã

không ngừng vƣơn lên trên con đƣờng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, có

những đóng góp xứng đáng, cùng quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi

khác, xứng đáng với truyền thống con ngƣời Đồng Nai bất khuất, với sự tin cậy

của Đảng, của nhân dân.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn đƣợc giải phóng, cùng cả nƣớc đi lên chủ

nghĩa xã hội, nhất là từ sau ngày Đảng vạch ra đƣờng lối đổi mới toàn diện tình

hình kinh tế – xã hội của đất nƣớc, thanh niên Đồng Nai đã không ngừng tự vƣợt

lên chính mình, năng động và sáng tạo, trong điều kiện của những biến động nhiều

mặt tình hình trong nƣớc và thế giới, để đứng vững, để cống hiến và trƣởng thành.

Tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai đã trải qua

một chặng đƣờng đầy thử thách cam go và đã góp phần tổ chức, động viên các

tầng lớp thanh niên, cùng quân và dân trong tỉnh, dƣới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực

tiếp của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai thực hiện thắng lợi

những nhiệm vụ lịch sử vẻ vang, góp phần xây dựng Đồng Nai trở thành một tỉnh

giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng, an ninh.

210

Từ thực tiễn hơn 70 năm đi theo Đảng làm cách mạng của tổ chức Đoàn và

các phong trào thanh niên Đồng Nai, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau

đây:

Một là, là một tỉnh có vị trí đặc biệt quan trọng, thanh niên Đồng Nai luôn

phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là trong hai cuộc kháng chiến thần thánh

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhưng nhờ không ngừng nêu cao tinh thần

yêu nước, luôn giữ vững niềm tin cách mạng và tuyệt đối tuân theo sự lãnh đạo,

giáo dục và rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam, thanh niên Đồng Nai đã vượt

qua mọi thử thách cam go và làm nên thắng lợi, kể cả những khi kẻ địch khủng bố

trắng, cũng như khi chúng ra sức đầu độc, lôi kéo. Sự lãnh đạo, giáo dục và rèn

luyện của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của tổ chức

Đoàn, của quá trình rèn luyện, cống hiến và trưởng thành của các thế hệ thanh

niên Đồng Nai.

Ngay từ những ngày đầu, khi những tổ chức Cộng sản mới đƣợc hình thành

trên đất Đồng Nai, các cơ sở Đảng đã đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức các tầng

lớp thanh niên phát huy vai trò xung kích trong những nhiệm vụ cách mạng. Tại

Phú Riềng, khi tổ chức công nhân đấu tranh, chi bộ Đảng đã cử ngƣời đứng ra

chăm lo công tác thanh niên và đã nhanh chóng tổ chức họ đứng vào đội ngũ tự vệ

đỏ, là lực lƣợng nòng cốt trong cuộc đấu tranh. Khi chi bộ Đảng ra đời tại Bình

Phƣớc – Tân Triều, lực lƣợng đƣợc quan tâm phát triển cũng chính là thanh niên.

Không ít thời kỳ tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai đã bị địch

khủng bố trắng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,

đoàn viên và thanh niên Đồng Nai luôn phải sống trong vòng kìm kẹp, bị đầu độc,

bị tha hóa bằng mọi thủ đoạn tàn bạo, thâm hiểm. Kẻ địch không từ cả những việc

làm hèn hạ để xô đẩy thanh niên đi vào con đƣờng tội lỗi, cam tâm làm tay sai cho

chúng, kể cả việc rún ép, úp bộ thanh niên vào trong những tổ chức chính trị phản

động, nhồi nhét vào đầu óc thanh niên đủ mọi thứ lý thuyết đồi trụy, phản dân hại

nƣớc... Chính trong những thời điểm thử thách sống còn đó, những cán bộ của

Đảng trong những đoàn “khai hoang” khi luồn sâu vào trong vùng địch tạm chiếm

đóng để tổ chức nhân dân đứng lên đấu tranh chống địch đã quan tâm trƣớc hết đến

việc móc nối, xây dựng cơ sở nòng cốt trong các tầng lớp thanh niên. Có những

đoàn “khai hoang” đã phải kiên trì đào hầm bí mật đƣa từng thanh niên xuống hầm

để giáo dục, rèn luyện họ trở thành những cốt cán của cách mạng. Không ít thời kỳ

việc phát triển tổ chức Đoàn gặp nhiều khó khăn, chính các cấp ủy Đảng ở các địa

phƣơng và nhiều đảng viên đã trực tiếp bồi dƣỡng kết nạp từng thanh niên vào

Đoàn và tổ chức thành những chi đoàn, trực tiếp hƣớng dẫn họ tổ chức động viên

thanh niên thực hiện những nhiệm vụ Đảng giao.

211

Những năm xây dựng hòa bình, không ít thời kỳ tổ chức Đoàn và phong trào

thanh niên Đồng Nai phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp, làm một bộ phận

không nhỏ thanh niên tỏ ra hoài nghi, thậm chí mất phƣơng hƣớng. Trong những

điều kiện ấy, chính các cấp ủy Đảng đã đến với thanh niên, bằng cơ chế chính

sách, bằng nhiều biện pháp đồng bộ, tạo điều kiện cho thanh niên không chỉ đứng

vững, mà còn tìm thấy con đƣờng phấn đấu vƣơn lên, đi cùng nhân dân và thời đại,

trong xu thế đổi mới không ngừng. Thực hiện đƣờng lối đổi mới toàn diện tình

hình kinh tế – xã hội của Đảng, bƣớc đầu, tổ chức Đoàn trong nhiều lĩnh vực gặp

không ít khó khăn, lúng túng. Chính đồng chí Bí thƣ Tỉnh ủy và nhiều đồng chí cấp

ủy đã trực tiếp đi khảo sát thực trạng tổ chức và hoạt động của tổ chức Đoàn và

phong trào thanh niên ở nhiều cơ sở, để từ đó cùng các cấp bộ Đoàn tháo gỡ những

vƣớng mắc, làm chuyển mạnh hoạt động của tổ chức Đoàn phù hợp với cơ chế

đang chuyển đổi. Nhiều cấp ủy Đảng còn trực tiếp đối thoại với thanh niên, lắng

nghe tâm tƣ, nguyện vọng của họ để đề ra những quyết sách đúng đắn trong nhiều

vấn đề kinh tế – xã hội có liên quan. Nhiều Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh ủy, của

các cấp ủy Đảng địa phƣơng đã trực tiếp đề cập và góp phần giải quyết những vấn

đề bức xúc đang đặt ra, thúc đẩy quá trình phát triển công tác Đoàn và phong trào

thanh niên trong tỉnh...

Sự lãnh đạo, tổ chức và giáo dục, rèn luyện của Đảng vừa là nhu cầu nội tại,

vừa là vấn đề có tính qui luật của quá trình phát triển, khi tuổi trẻ muốn vƣơn tới

những tầm cao lý tƣởng, trong hiện tại cũng nhƣ trong tƣơng lai, trong tâm thế một

bản lĩnh nhập cuộc đầy trí tuệ. Là một tổ chức quần chúng trung kiên gần Đảng, tổ

chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng nhƣ các tầng lớp thanh niên

Đồng Nai luôn hiểu rõ quá trình trƣởng thành của tổ chức Đoàn cũng nhƣ phong

trào thanh niên trong tỉnh luôn gắn liền một cách hữu cơ với sự lãnh đạo, giáo dục

và rèn luyện của Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Sự quan tâm lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp

của Đảng là cơ sở để đoàn viên và thanh niên Đồng Nai, cho dù trong những thời

điểm kẻ địch kìm kẹp gắt gao vẫn nuôi lớn mãi niềm tin lý tƣởng, luôn gắn bó máu

thịt với nhân dân, với Đảng, với cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, sẵn sàng

xả thân vì nghiệp lớn, không ngừng vƣơn lên cống hiến hết sức mình và trƣởng

thành nhanh chóng.

Hai là, không ngừng xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh ngày càng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ

chức, gắn liền một cách hữu cơ công tác xây dựng Đoàn với công tác Đoàn tham

gia xây dựng Đảng, xây dựng Đội Thiếu niên, Đội Nhi đồng... làm cho tổ chức

Đoàn trở thành hạt nhân đoàn kết, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp thanh niên, lôi

cuốn, phát huy sức sáng tạo, ý chí tiến công cách mạng của thanh niên, trở thành

212

lực lượng xung kích cách mạng trên mọi lĩnh vực chiến đấu, lao động, sản xuất,

xây dựng đời sống văn hóa tinh thần... luôn là nhiệm vụ có tính quyết định.

Từ những năm ba mƣơi của thế kỷ, những cơ sở ban đầu của các tổ chức

thanh niên cách mạng đã hình thành ở Đồng Nai và nhanh chóng phát triển trở

thành một bộ phận không thể thiếu trong tiến trình vận động, tổ chức thanh niên

thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Trong điều kiện

bị địch kìm kẹp, khủng bố gắt gao, ở những địa phƣơng có tổ chức Đoàn hoặc có

những đoàn viên lẻ, luôn là chỗ dựa vững chắc của các tổ chức Đảng ở cơ sở, là

lực lƣợng xung kích, sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành những nhiệm vụ của Đảng,

kể cả những nhiệm vụ nguy hiểm, có thể hy sinh cả tính mạng. Nhƣng cũng không

ít thời kỳ tổ chức Đoàn không đƣợc phát triển, hoặc phát triển chậm, không tƣơng

xứng với tiềm năng vốn có, số cơ sở Đoàn, số đoàn viên thanh niên chiếm tỷ lệ còn

quá thấp so với số cơ sở Đảng và đảng viên. Thậm chí có thời kỳ nhƣ năm 1972, số

đoàn viên lộ chƣa bằng một phần năm số đảng viên (88/528), đã ảnh hƣởng không

nhỏ đến việc tổ chức, động viên thanh niên ở cơ sở, cũng nhƣ việc bảo vệ thanh

niên, đƣa thanh niên đứng về phía cách mạng.

Là một tổ chức quần chúng trung kiên gần Đảng, tổ chức Đoàn bao giờ cũng

là cầu nối giữa Đảng với đông đảo quần chúng thanh niên, là trƣờng học cộng sản,

thƣờng xuyên góp phần tổ chức giáo dục, rèn luyện các thế hệ thanh niên vững

bƣớc trên con đƣờng Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, tổ chức các tầng lớp thanh niên

không ngừng phát huy vai trò xung kích, luôn đi ở hàng đầu, làm tròn sứ mệnh lịch

sử đặt ra trong từng giai đoạn cách mạng, đặc biệt ở những thời điểm có tính bƣớc

ngoặt, đòi hỏi những nỗ lực vƣợt bậc của thế hệ thanh niên cùng thời. Chính do vai

trò chính trị và vị trí chủ đạo của mình, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

trong quá trình tác động tới đối tƣợng thanh niên nhằm tập hợp họ đi theo những

định hƣớng đã đƣợc lựa chọn, đã không ngừng củng cố tổ chức, tập hợp và đoàn

kết thanh niên phấn đấu vì những mục tiêu cao cả của thời đại, của Tổ quốc và

nhân dân. Thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển tổ chức Đoàn ở Đồng Nai cho

thấy, mặc dù trong những thời điểm ngặt nghèo, tổ chức Đoàn chậm đƣợc phát

triển, nhiều nơi chỉ có những đoàn viên lẻ, hoạt động đơn tuyến, nhƣng đó vẫn là

những hạt giống đỏ, chỗ dựa đáng tin cậy của tổ chức Đảng trong công tác vận

động, tổ chức quần chúng. Đó cũng là chỗ dựa của không ít thanh niên khi muốn

tìm đến với cách mạng. Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên vì thế luôn là một

mặt không thể coi nhẹ trong quá trình xây dựng, phát triển tổ chức Đoàn. Trong

nhiều giai đoạn của cách mạng, thanh niên Đồng Nai luôn thể hiện là một lực

lƣợng đông đảo, sẵn sàng chấp nhận thử thách, sẵn sàng tham gia mọi mặt công tác

cách mạng giao phó. Trong nhiều thời kỳ, mặc dù tổ chức Đoàn chƣa đƣợc phát

triển, nhƣng các tầng lớp thanh niên Đồng Nai vẫn không ngừng phấn đấu theo

213

những lý tƣởng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.

Những năm đầu hòa bình mới đƣợc lập lại, không ít thanh niên từng cộng tác với

chính quyền cũ, thanh niên tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại cũng đã sẵn sàng đến

với những công trình do Đoàn tổ chức để rèn luyện và nhiều ngƣời đã trƣởng thành

nhanh chóng, trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Đồng Nai là tỉnh có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, có cƣ dân bản địa

từng gắn bó lâu đời với mảnh đất ruột thịt, nhƣng cũng có không ít ngƣời dân từ

nhiều miền của đất nƣớc đã tụ hội về cùng sinh cơ lập nghiệp. Trong cộng đồng cƣ

dân của Đồng Nai lại có không ít ngƣời theo đạo, trong đó riêng đạo Công giáo đã

có khoảng 700.000 ngƣời, đứng vào hàng nhất nhì trong cả nƣớc. Công tác đoàn

kết, tập hợp thanh niên vì thế luôn đƣợc các cấp bộ Đoàn trong tỉnh đặc biệt quan

tâm. Với 5 bƣớc công tác, trong từng thời kỳ, tổ chức Đoàn các cấp cũng nhƣ

nhiều cán bộ Đoàn, nhiều đoàn viên đã luôn tìm tòi nhiều phƣơng thức, biện pháp,

đa dạng hóa các hình thức tập hợp, đoàn kết thanh niên, lôi cuốn họ tham gia từng

công tác, từng nhiệm vụ cụ thể, từ đó từng bƣớc cảm hóa, thậm chí từng thanh niên

một, nhất là trong những điều kiện bị kẻ địch kìm kẹp gắt gao, hƣớng cho họ đứng

về phía cách mạng, về phía tiến bộ, nhƣ việc vận động thanh niên Công giáo tích

cực tham gia phong trào chống địch bắt lính và khi chiến tranh biên giới Tây Nam

nổ ra, đã tổ chức đƣợc cả một tiểu đoàn thanh niên theo đạo cùng lên biên giới xây

dựng phòng tuyến.

Đoàn kết, tập hợp đông đảo thanh niên xung quanh những định hƣớng đã

đƣợc lựa chọn, không chỉ vì nhiệm vụ chính trị đòi hỏi, còn để bảo vệ những quyền

lợi chính đáng của thanh niên, không để các thế lực thù địch lôi kéo họ đi vào

những con đƣờng lầm lạc, chống lại nhân dân, phản bội lại Tổ quốc. Đó còn là nhu

cầu nội tại, khi tổ chức Đoàn muốn không ngừng phát triển, làm tròn sứ mệnh lịch

sử mà nhân dân giao phó. Chỉ có thể thông qua việc đoàn kết, tập hợp rộng rãi các

tầng lớp thanh niên, trở thành ngƣời bạn đồng hành của họ, tổ chức Đoàn mới có

thể thông qua các phong trào hành động cách mạng, phát hiện những nhân tố mới

bổ sung cho đội ngũ của mình.

Nhƣng cũng phải nhận rằng ở một số cơ sở, trong không ít thời kỳ, công tác

đoàn kết, tập hợp thanh niên đã không đƣợc chú ý đúng mức, số thanh niên đƣợc

tập hợp còn ít hơn số thanh niên đƣợc kết nạp vào Đoàn. Một phần do hoạt động

của tổ chức Đoàn ở nhiều cơ sở còn xơ cứng, phƣơng thức tập hợp chƣa phù hợp

với từng đối tƣợng, từng tầng lớp thanh niên, chƣa thật sự đại diện cho những

quyền lợi thiết thân của họ, làm cho không ít thanh niên thấy “khô Đoàn”, không

muốn gắn bó với tổ chức Đoàn. Chỉ khi tổ chức Đoàn không ngừng đổi mới tổ

chức, đổi mới phƣơng thức hoạt động, tạo ra đƣợc những “sân chơi” hấp dẫn, thiết

thực, nhƣ hình thành các điểm trốn lính và lính trốn để bảo vệ thanh niên khỏi bị

214

địch bắt đi lính, các đội hình thanh niên xung phong... trong hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ; các điểm trình diễn khoa học kỹ thuật, các hoạt động

chuyển giao công nghệ, các tổ, đội, xe, máy thanh niên và cả trong phƣơng thức

“Học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp”, các hoạt động về nguồn... trong công

cuộc xây dựng Hòabình, thanh niên mới thật sự muốn tìm đến tổ chức của mình,

mới tìm thấy ở tổ chức Đoàn một ngƣời bạn đồng hành có thể chia sẻ với họ mọi

biến cố, thử thách trên con đƣờng hành trình đến chân lý.

Rõ ràng không ai hiểu thanh niên bằng tổ chức Đoàn Thanh niên. Nhƣng chỉ

khi tổ chức Đoàn thật sự đại diện cho quyền lợi của thanh niên, quan tâm đến

những lợi ích thiết thân của thanh niên, kể cả trong cuộc sống đời thƣờng, mới có

khả năng lôi cuốn đƣợc họ, tập hợp và đoàn kết, định hƣớng cho họ đi theo con

đƣờng đã đƣợc lựa chọn – điều đã đƣợc chứng minh qua quá trình đổi mới, khi tổ

chức Đoàn thật sự quan tâm đến những vấn đề thiết thân của thanh niên, tạo điều

kiện để thanh niên “lập thân, lập nghiệp” thì thanh niên tự tìm đến tổ chức của

mình ngày càng đông đảo.

Công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn còn liên quan mật thiết đến quá

trình Đoàn tham gia xây dựng Đảng, chăm lo tổ chức, giáo dục thiếu niên, nhi

đồng. Thiếu niên, nhi đồng là thế hệ kế tục, là nguồn bổ sung không ngừng cho tổ

chức Đoàn. Trong nhiều thời kỳ, kể cả trong những năm kháng chiến đầy hy sinh

gian khổ, công tác thiếu niên, nhi đồng đã đƣợc tổ chức Đoàn các cấp quan tâm,

trên tất cả các mặt, tạo điều kiện để các em phấn đấu vƣơn lên, đồng thời bảo vệ

các em. Từ tỉnh đến các quận, huyện và cơ sở đều có Ban công tác Thiếu nhi để tổ

chức các em vào những hoạt động thiết thực, tùy theo sức mình. Nhƣng không phải

bao giờ công tác chăm lo giáo dục thiếu niên, nhi đồng cũng đƣợc quan tâm đúng

mức. Nhiều em thiếu nhi trƣởng thành vẫn không đƣợc Đoàn đƣa vào tổ chức của

mình, trong khi có lúc ở một số cơ sở vẫn trắng Đoàn, là một vấn đề cần đƣợc đặt

ra một cách nghiêm túc, không chỉ vì quyền lợi của những thiếu niên đã trƣởng

thành muốn đƣợc đứng vào một tổ chức để phấn đấu và rèn luyện.

Việc lựa chọn, sắp xếp đội ngũ cán bộ Đoàn cũng tác động nhiều mặt đến

công tác xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh. Thực tế luôn chứng minh trong bất

cứ giai đoạn cách mạng nào, nếu lựa chọn cán bộ chủ chốt của Đoàn tốt thì phong

trào Đoàn phát triển mạnh mẽ, hoạt động có hiệu quả cao. “Cán bộ nào phong trào

ấy”. Bởi công tác Đoàn là một khoa học và vai trò của ngƣời cán bộ luôn có tính

quyết định, làm cho tổ chức Đoàn có sức sống, tạo dựng nên những hoạt động phù

hợp với đối tƣợng.

Ba là, mặc dù trong nhiều thời kỳ, tổ chức Đoàn ở Đồng Nai chậm được phát

triển, nhưng ngay từ những ngày đầu khi mới chỉ hình thành được những tổ, nhóm

thanh niên cộng sản, thậm chí mới chỉ là những nhóm thanh niên vũ trang yêu

215

nước đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của tổ chức Đảng ở cơ sở, tổ chức

Đoàn và phong trào thanh niên Đồng Nai vẫn luôn bám sát những nhiệm vụ chính

trị trong từng thời kỳ, không ngừng phát huy vai trò xung kích cách mạng, phấn

đấu cho những mục tiêu, lý tưởng cao cả vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội,

năng động và sáng tạo, trong mối quan hệ gắn bó trên cơ sở Đảng lãnh đạo, Nhà

nước quản lý, với sự phối hợp nhiều mặt của các tổ chức đoàn thể quần chúng

trong khối liên minh công nông... làm cho tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên

luôn khẳng định được vị thế của mình trong xã hội.

Những nhiệm vụ chính trị của Đảng, những mục tiêu của sự nghiệp cách

mạng trong mọi thời kỳ luôn đặt ra những vấn đề đòi hỏi thế hệ thanh niên đƣơng

thời phải dồn tất cả tâm huyết cùng nhân dân giành những thắng lợi quyết định.

Lịch sử đã từng chứng kiến lớp lớp thanh niên siết chặt đội ngũ dƣới bóng cờ của

tổ chức thanh niên cộng sản, cùng hành quân theo một hƣớng, ra tiền tuyến, chấp

nhận thử thách, chấp nhận hy sinh. Là thời kỳ xếp bút nghiên lên đƣờng tranh đấu,

“Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nƣớc, nhất định không chịu làm

nô lệ” (Hồ Chí Minh). Khi chân lý “Không có gì quí hơn độc lập, tự do!” trở thành

biểu tƣợng của một dân tộc không cam chịu sống quì thì lớp lớp thanh niên đã sẵn

sàng “Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch – Xung phong tòng quân và

tham gia du kích chiến tranh – Xung phong đi dân công và Thanh niên xung phong

phục vụ tiền tuyến – Xung phong trong đấu tranh chính trị và chống bắt lính”...

(mục tiêu của phong trào “Năm xung phong”)... Trong mọi thời kỳ của cách mạng,

tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên Đồng Nai luôn coi những nhiệm vụ chính

trị của Đảng, chiến đấu cũng nhƣ xây dựng là mục tiêu hành động, đã không ngừng

phát huy những tiềm năng vốn có, nỗ lực vƣơn lên cống hiến hết sức mình cho

những thắng lợi của cách mạng. Kể cả trong những hoàn cảnh gian khổ ác liệt,

luôn bị kẻ địch tìm cách tách ra khỏi Đảng, khỏi cách mạng, tuổi trẻ Đồng Nai vẫn

luôn tìm thấy trong những nhiệm vụ chiến lƣợc của Đảng cơ hội để có thể đến với

con đƣờng đi đúng đắn và bộc lộ năng lực hành động một cách tự chủ, phù hợp với

tâm sinh lý lứa tuổi. Đó là thời kỳ của những tự vệ đỏ của Phú Riềng bất khuất,

thời kỳ của “nóp với giáo mang ngang vai...”, nhƣng tuổi trẻ không chỉ biết xông

pha, nề chi gian khó, họ còn là những con ngƣời năng động và sáng tạo. Năng

động, sáng tạo trong mỗi hành động. Khi kẻ địch nham hiểm triển khai chiến thuật

“Điểm và đƣờng” thì tuổi trẻ Đồng Nai không chỉ sẵn sàng xả thân, mà còn tìm tòi

phƣơng pháp đánh tháp canh hiệu quả nhất. Ai ngờ đó lại là một sáng tạo của lối

đánh đặc công độc đáo. Đó còn là những ụ chiến đấu để chỉ với 14 tay súng, cũng

có thể đánh thắng hàng nghìn tên địch ở khu vực chợ Phƣớc An... Trong xây dựng

hòa bình, đó là những sáng tạo trong tạo dáng công nghiệp, trong mẫu mã sản

phẩm mới. Là một tỉnh công nghiệp phát triển, không ít những công trình, sản

phẩm thanh niên đã góp phần mang lại những lợi thế phát triển cho nhiều mặt hàng

216

có tính cạnh tranh. Đó còn là những điểm trình diễn khoa học kỹ thuật, những cánh

đồng mẫu của thanh niên nông thôn...

Gắn bó với Đảng, bám sát những nhiệm vụ chiến lƣợc Đảng đặt ra cũng tức là

thanh niên đã gắn bó với Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa. Thông qua sự quản lý của

Nhà nƣớc, Đảng ta luôn hƣớng những hành động của thanh niên thực hiện những

nhiệm vụ cụ thể: tòng quân, đi thanh niên xung phong, xây dựng làng chiến đấu,

chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong chống Pháp và chống Mỹ; khai hoang phục

hóa, tiến công vào nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội công bằng, văn minh...

trong xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Và tuổi trẻ Đồng Nai hôm

qua, cũng nhƣ hôm nay đã luôn phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, tình nguyện

đến với những nơi gian khổ, ác liệt, đến với những công trình... vì một tỉnh Đồng

Nai ổn định và phát triển.

Quá trình trƣởng thành đó của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Đồng

Nai cũng không tách rời sự phối hợp giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể quần chúng

trong mặt trận đoàn kết thống nhất, nhƣ Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội

Cựu chiến binh và các lực lƣợng, các cơ quan trong hệ thống quản lý Nhà nƣớc,

nhƣ quân đội, công an, sự giúp đỡ, hỗ trợ của thanh niên cả nƣớc và bạn bè quốc

tế, mà những hoạt động kết nghĩa giữa 3 lực lƣợng (thanh niên, quân đội, công an),

những Nghị quyết liên tịch đƣợc ký, đƣợc triển khai, những cuộc giao lƣu bè bạn...

là những biểu hiện sinh động, tạo cơ hội cho thanh niên khẳng định chỗ đứng của

mình trong xã hội.

Bốn là, trong từng thời kỳ của cách mạng, tổ chức Đoàn các cấp trong tỉnh

Đồng Nai luôn coi trọng đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng, tổ chức

thanh niên phát huy vai trò xung kích, tinh thần xung phong tình nguyện đi đầu

thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị của Đảng. Đó vừa là một đòi hỏi

khách quan nhằm định hướng giáo dục lý tưởng cộng sản cho thanh niên, vừa tạo

cơ hội đoàn kết, tập hợp và cổ vũ thanh niên phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng vẻ

vang mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

Tuổi trẻ vốn năng động và luôn sáng tạo không ngừng, luôn muốn vƣơn tới

những cái mới, cái tiến bộ để đƣợc khẳng định, đƣợc cống hiến và trƣởng thành.

Đƣợc cổ vũ bởi những phong trào hành động cách mạng, tuổi trẻ càng có cơ hội

phát huy mọi tiềm năng đang ẩn chứa bên trong thành hành động, làm nên những

điều kỳ diệu, đôi khi không thể lƣờng trƣớc đƣợc, mà những thành công của các

phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ Đồng Nai những thập kỷ qua là

những minh chứng đáng tự hào. Không phải ngẫu nhiên mà ngay trong những

ngày đầu cách mạng mới thành công, thực dân Pháp đang lăm le trở lại xâm chiếm

nƣớc ta một lần nữa, tiếng súng kháng chiến đã nổ ở Sài Gòn và đang lan đến Biên

Hòa, hàng trăm thanh niên trong tỉnh đã đăng ký xin đƣợc gia nhập lực lƣợng vũ

217

trang. Khí thế ấy ngày càng đƣợc phát huy, kể cả khi phải sống trong vòng kìm kẹp

của địch, nhiều thanh niên vẫn tìm đƣờng đi ra chiến khu. Cách mạng chƣa đủ điều

kiện thu nhận hết thì thanh niên tự gánh gạo theo, tự mua sắm thắt lƣng, bình

toong... chỉ mong đƣợc làm một chiến sĩ đánh giặc giữ làng.

Trong mọi thời kỳ của cách mạng, thanh niên Đồng Nai luôn dấy lên những

phong trào hành động có sức cổ vũ mạnh mẽ. Với các lõm trốn lính và lính trốn

trong phong trào chống bắt lính; với những cuộc đấu tranh của nữ thanh niên trong

phong trào chống phá ấp chiến lƣợc... thanh niên Đồng Nai đã làm thất bại những

âm mƣu thủ đoạn của kẻ địch, góp phần tạo thế và lực cho cách mạng. Đặc biệt

phong trào tòng quân, đi ra chiến khu luôn cuốn hút mọi tầng lớp thanh niên lên

đƣờng với khí thế “nóp với giáo mang ngang vai nhƣng thân trai nào sá chi chông

gai”... Ngày nay, sứ mệnh lịch sử lại đặt lên vai các thế hệ thanh niên Đồng Nai

những thử thách, luôn phải đƣơng đầu với nhiều vấn đề kinh tế – xã hội phức tạp,

nhƣng tuổi trẻ luôn là những cuộc dấn thân. Những cuộc ra quân cải tạo đồng

ruộng, những hoạt động sáng tạo khoa học kỹ thuật... với những nỗ lực không

ngừng vƣơn lên để “Lập nghiệp” và “Giữ nƣớc”... thanh niên Đồng Nai vẫn luôn là

lực lƣợng xung kích đáng tin cậy.

Với vai trò của một tổ chức quần chúng trung kiên gần Đảng, tổ chức Đoàn

và đoàn viên, thanh niên bao giờ cũng đại diện cho những tƣ tƣởng tiên tiến nhất

của thế hệ mình. Tổ chức đƣợc những phong trào hành động cách mạng có sức

cuốn hút đông đảo thanh niên cùng tham gia, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh vừa thể hiện đƣợc mình là một tổ chức quần chúng năng động, sẵn

sàng đón nhận và biết tổ chức thế hệ mình hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ

chính trị trong từng thời kỳ của cách mạng, đồng thời vừa tiếp cận đƣợc với quần

chúng thanh niên đông đảo, trong tâm thế một ngƣời bạn đồng hành của tuổi trẻ,

sẵn sàng chia sẻ với thanh niên mọi thử thách trên hành trình tới những khát vọng

lớn lao. Trong khi hòa mình trong đông đảo quần chúng thanh niên trong những

phong trào hành động cách mạng, tổ chức Đoàn sẽ có cơ hội hiểu hơn về lớp ngƣời

mà mình đại diện, hiểu rõ nhu cầu và nguyện vọng của họ, từ đó tổ chức cho họ

phát huy những tiềm năng vốn có, cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc và nhân dân,

cũng tức là đã tạo ra những cơ hội thuận lợi để họ rèn luyện, phấn đấu không

ngừng vƣơn lên trên con đƣờng lập thân, lập nghiệp.

*

* *

Vƣợt qua những chặng đƣờng đầy thử thách gian lao và lập nên những kỳ tích

đáng tự hào, tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Đồng Nai đã không ngừng

khẳng định mình và đã trƣởng thành nhanh chóng, trở thành lực lƣợng xung kích

218

đáng tin cậy luôn đi ở hàng đầu trong chiến đấu cũng nhƣ trong xây dựng, góp

phần cùng quân và dân, làm nên một Đồng Nai đang khởi sắc.

Thực hiện đƣờng lối đổi mới do Đảng khởi xƣớng và lãnh đạo, tổ chức Đoàn

và phong trào thanh niên Đồng Nai không ngừng đổi mới nội dung cũng nhƣ

phƣơng thức hoạt động, nhanh chóng tiếp cận những vấn đề đang đặt ra trong quá

trình xây dựng Đồng Nai trở thành một tỉnh giàu mạnh, cả về kinh tế cũng nhƣ

quốc phòng, an ninh, xứng đáng với truyền thống các thế hệ cha anh. Một thế hệ

tuổi trẻ Đồng Nai đang lớn dậy trong bề dày truyền thống của một vùng đất “gian

lao mà anh dũng”, đang không ngừng vƣơn lên trong tâm thế một bản lĩnh nhập

cuộc, năng động và trí tuệ, cùng quân và dân xây dựng nên một Đồng Nai không

ngừng chuyển động đi lên trên con đƣờng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nƣớc

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

219

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH

TỈNH ĐOÀN ĐƢỢC BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƢƠNG ĐOÀN CHUẨN Y

KHÓA ĐẦU TIÊN (1976–1977)

1. Nguyễn Việt Nhân Bí thƣ

2. Thái Văn Dũng Phó bí thƣ

3. Trần Thị Minh Hoàng Phó bí thƣ

4. Hoàng Thanh Ngọc ủy viên Thƣờng vụ

5. Huỳnh Văn Quân ủy viên Thƣờng vụ

6. Phạm Điền Sơn ủy viên Thƣờng vụ

7. Huỳnh Lang Anh ủy viên Thƣờng vụ

8. Lê Hữu Hạnh ủy viên Ban chấp hành

9. Bùi Thế Ba ủy viên Ban chấp hành

10. Trần Chí Trung ủy viên Ban chấp hành

11. Trƣơng Văn Öt ủy viên Ban chấp hành

12. Huỳnh Văn Tân ủy viên Ban chấp hành

13. Nguyễn Chí Thâm ủy viên Ban chấp hành

14. Trịnh Ngọc Mÿ ủy viên Ban chấp hành

15. Nguyễn Thị Gái ủy viên Ban chấp hành

16. Nguyễn Văn Sáu ủy viên Ban chấp hành

17. Đồng chí Tƣ Nam ủy viên Ban chấp hành

18. Đặng Ngọc Huệ ủy viên Ban chấp hành

19. Đồng chí Bé ủy viên Ban chấp hành

20. Nguyễn Văn Lâm ủy viên Ban chấp hành

(Dự khuyết)

21. Nguyễn Ánh Hồng ủy viên Ban chấp hành

(Dự khuyết)

220

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH

TỈNH ĐOÀN KHÓA I

(NHIỆM KỲ 1977–1981)

1. Trần Thị Minh Hoàng Bí thƣ

2. Hoàng Thanh Ngọc Phó bí thƣ

3. Phạm Điền Sơn Phó bí thƣ

4. Huỳnh Lang Anh ủy viên Thƣờng vụ

5. Huỳnh Công Trạch ủy viên Thƣờng vụ

6. Phạm Minh Tánh ủy viên Thƣờng vụ

7. Nguyễn Văn Quang ủy viên Thƣờng vụ

8. Bùi Thế Ba ủy viên Thƣờng vụ

9. Dƣơng Nhƣ Tài ủy viên Thƣờng vụ

10. Nguyễn Chí Thâm ủy viên Ban chấp hành

11. Trần Anh Kiệt ủy viên Ban chấp hành

12. Phạm Công Trữ ủy viên Ban chấp hành

13. Lê Văn Hùng ủy viên Ban chấp hành

14. Nguyễn Thị Thanh ủy viên Ban chấp hành

15. Trịnh Ngọc Mÿ ủy viên Ban chấp hành

16. Trần Văn Nam ủy viên Ban chấp hành

17. Nguyễn Văn Thỉnh ủy viên Ban chấp hành

18. Nguyễn Văn Công ủy viên Ban chấp hành

19. Dƣơng Minh Ngà ủy viên Ban chấp hành

20. Nguyễn Thị Gái ủy viên Ban chấp hành

21. Trần Chí Trung ủy viên Ban chấp hành

22. Lê Hữu Hạnh ủy viên Ban chấp hành

23. Nguyễn Thị Mận ủy viên Ban chấp hành

24. Đoàn Thị Thọ ủy viên Ban chấp hành

25. Đồng chí Bá Sơn ủy viên Ban chấp hành

26. Nguyễn Long ủy viên Ban chấp hành (Dự khuyết)

221

27. Bùi Ngọc Thanh ủy viên Ban chấp hành (Dự khuyết)

222

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH

TỈNH ĐOÀN KHÓA 2

(NHIỆM KỲ 1981–1987)

1. Huỳnh Công Trạch Bí thƣ

2. Nguyễn Thị Thanh Phó bí thƣ

3. Trần Anh Kiệt ủy viên Thƣờng vụ

4. Phạm Công Trữ ủy viên Thƣờng vụ

5. Hoàng Anh Việt ủy viên Thƣờng vụ

6. Phạm Thanh Quang ủy viên Thƣờng vụ

7. Nguyễn Thị Cát Thảo ủy viên Thƣờng vụ

8. Nguyễn Thị Lệ Hồng ủy viên Thƣờng vụ

9. Nguyễn Ngọc Đức ủy viên Thƣờng vụ

10. Nguyễn Xuân Kim ủy viên Thƣờng vụ

11. Trần Xuân Phỉ ủy viên Thƣờng vụ

12. Nguyễn Anh Tuấn ủy viên Ban chấp hành

13. Nguyễn Xuân Thảo ủy viên Ban chấp hành

14. Sầm Văn Mão ủy viên Ban chấp hành

15. Trần Thanh Minh ủy viên Ban chấp hành

16. Lê Văn Trong ủy viên Ban chấp hành

17. Nguyễn Phạm Thông ủy viên Ban chấp hành

18. Nguyễn Viết Sản ủy viên Ban chấp hành

19. Trƣơng Văn Nhân ủy viên Ban chấp hành

20. Trần Văn Hùng ủy viên Ban chấp hành

21. Huỳnh Cao Hải ủy viên Ban chấp hành

22. Nguyễn Thị Nguyệt ủy viên Ban chấp hành

23. Trần Văn Nam ủy viên Ban chấp hành

24. Đỗ Hoàn Thành ủy viên Ban chấp hành

25. Đào Văn Minh ủy viên Ban chấp hành

26. Hồ Văn Thìn ủy viên Ban chấp hành

223

27. Nguyễn Minh Hoàng ủy viên Ban chấp hành

28. Phạm Thanh Điền ủy viên Ban chấp hành

29. Nguyễn Thành Trí ủy viên Ban chấp hành

30. Hoàng Ngọc Khôi ủy viên Ban chấp hành

31. Phạm Thị Phƣơng Lan ủy viên Ban chấp hành

32. Lê Thị Mỹ Phƣợng ủy viên Ban chấp hành

33. Huỳnh Thị Nghĩa ủy viên Ban chấp hành

34. Nguyễn Trọng Hiền ủy viên Ban chấp hành

35. Lâm Hữu Hiệp ủy viên Ban chấp hành

36. Nguyễn Thanh Sơn ủy viên Ban chấp hành

37. Phùng Kỳ Hiệp ủy viên Ban chấp hành

38. Trần Văn Nâng ủy viên Ban chấp hành

39. Ao Văn Thinh ủy viên Ban chấp hành

40. Nguyễn Hoàng Hùng ủy viên Ban chấp hành

41. Đoàn Văn Thống ủy viên Ban chấp hành

42. Nguyễn Xuân Chiến ủy viên Ban chấp hành

43. Phạm Thị Kim Dung ủy viên Ban chấp hành

224

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH

TỈNH ĐOÀN KHÓA 3

(NHIỆM KỲ 1987–1992)

1. Đào Văn Minh Bí thƣ

2. Nguyễn Ngọc Đức Phó bí thƣ

3. Lê Trần Thiên Lý Phó bí thƣ

4. Phạm Thanh Điền Phó bí thƣ

5. Nguyễn Thị Lệ Hồng ủy viên Thƣờng vụ

6. Võ Thanh Tâm ủy viên Thƣờng vụ

7. Nguyễn Hoàng Lƣu ủy viên Thƣờng vụ

8. Phan Văn Trƣớc ủy viên Thƣờng vụ

9. Trƣơng Văn Nhân ủy viên Thƣờng vụ

10. Bùi Ngọc Thanh ủy viên Thƣờng vụ

11. Trịnh Thế Minh ủy viên Thƣờng vụ

12. Lê Thị Mỹ Phƣợng ủy viên Ban chấp hành

13. Đào Văn Từ ủy viên Ban chấp hành

14. Hồ Quế Hậu ủy viên Ban chấp hành

15. Hoàng Ngọc Khôi ủy viên Ban chấp hành

16. Đào Văn Sang ủy viên Ban chấp hành

17. Vũ Hữu Quang ủy viên Ban chấp hành

18. Nguyễn Trọng Hiền ủy viên Ban chấp hành

19. Bùi Cảnh ủy viên Ban chấp hành

20. Nguyễn Thị Kim Hoàng ủy viên Ban chấp hành

21. Lê Trung Kiên ủy viên Ban chấp hành

22. Dƣơng Văn Khanh ủy viên Ban chấp hành

23. Lê Văn Lộc ủy viên Ban chấp hành

24. Ngô Văn Nở ủy viên Ban chấp hành

25. Trần Văn Nâng ủy viên Ban chấp hành

26. Lê Đức Thắng ủy viên Ban chấp hành

225

27. Giang Văn Bình ủy viên Ban chấp hành

28. Trần Văn Nén ủy viên Ban chấp hành

29. Võ Văn Trƣờng ủy viên Ban chấp hành

30. Huỳnh Sơn ủy viên Ban chấp hành

31. Trần Cảnh Tuệ ủy viên Ban chấp hành

32. Nguyễn Chính ủy viên Ban chấp hành

33. Hoàng Trọng Cẩn ủy viên Ban chấp hành

34. Phạm Văn Hòa ủy viên Ban chấp hành

35. Phan Anh Tuấn ủy viên Ban chấp hành

36. Nguyễn Công Bình ủy viên Ban chấp hành

37. Trần Quang Liên ủy viên Ban chấp hành

38. Phạm Thị Kim Hồng ủy viên Ban chấp hành

39. Trịnh Thị Xuyên ủy viên Ban chấp hành

40. Đỗ Văn Nghĩa ủy viên Ban chấp hành

41. Dƣơng Hồ Lệ Xuân ủy viên Ban chấp hành

42. Dƣơng Văn Cải ủy viên Ban chấp hành

43. Lƣu Thị Phƣợng ủy viên Ban chấp hành

226

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH

TỈNH ĐOÀN KHÓA 4

(NHIỆM KỲ 1992–1997)

1. Bùi Ngọc Thanh Bí thƣ

2. Nguyễn Thành Trí Phó bí thƣ

3. Đinh Văn Tố ủy viên Thƣờng vụ

4. Nguyễn Hoàng Lƣu ủy viên Thƣờng vụ

5. Nguyễn Thị Kim Hoàng ủy viên Thƣờng vụ

6. Phan Văn Trƣớc ủy viên Thƣờng vụ

7. Lê Văn Lộc ủy viên Thƣờng vụ

8. Đặng Mạnh Trung ủy viên Thƣờng vụ

9. Hoàng Ngọc Khôi ủy viên Thƣờng vụ

10. Nguyễn Sơn Hùng ủy viên Ban chấp hành

11. Hoàng Văn Cƣờng ủy viên Ban chấp hành

12. Trần Thị Minh ủy viên Ban chấp hành

13. Đinh Thị Minh Châu ủy viên Ban chấp hành

14. Đào Văn Sang ủy viên Ban chấp hành

15. Trần Văn Chiến ủy viên Ban chấp hành

16. Châu Phƣớc Thuận ủy viên Ban chấp hành

17. Lê Khắc Sinh ủy viên Ban chấp hành

18. Lƣơng Văn Nay ủy viên Ban chấp hành

19. Nguyễn Thế Hùng ủy viên Ban chấp hành

20. Phan Sƣơng ủy viên Ban chấp hành

21. Lê Thanh Sơn ủy viên Ban chấp hành

22. Bùi Cảnh ủy viên Ban chấp hành

23. Nguyễn Văn Thắng ủy viên Ban chấp hành

24. Trần Minh Thắng ủy viên Ban chấp hành

25. Mai Xuân Chiến ủy viên Ban chấp hành

26. Phan Văn Lợi ủy viên Ban chấp hành

227

27. Hoàng Anh Thuần ủy viên Ban chấp hành

28. Phạm Văn Hòa ủy viên Ban chấp hành

29. Trần Văn Luyện ủy viên Ban chấp hành

228

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH

TỈNH ĐOÀN KHÓA 5

(NHIỆM KỲ 1997–2002)

1. Đặng Mạnh Trung Bí thƣ

2. Hoàng Ngọc Khôi Phó bí thƣ thƣờng trực

3. Nguyễn Sơn Hùng Phó bí thƣ

4. Đinh Thị Minh Châu ủy viên Thƣờng vụ

5. Trần Thị Minh ủy viên Thƣờng vụ

6. Nguyễn Tiến Dũng ủy viên Thƣờng vụ

7. Nguyễn Thế Dƣơng ủy viên Thƣờng vụ

8. Võ Thị Ngọc Bảy ủy viên Thƣờng vụ

9. Nguyễn Hoàng Phƣơng ủy viên Thƣờng vụ

10. Trần Văn Hùng ủy viên Thƣờng vụ

11. Lê Văn Lộc ủy viên Thƣờng vụ

12. Trần Cam Cƣơng ủy viên Ban chấp hành

13. Nguyễn Minh Mẫn ủy viên Ban chấp hành

14. Phạm Thị Kim Chung ủy viên Ban chấp hành

15. Trần Trọng Thể ủy viên Ban chấp hành

16. Trịnh Đức Thắng ủy viên Ban chấp hành

17. Phùng Khôi Phục ủy viên Ban chấp hành

18. Phạm Thị Kim Thanh ủy viên Ban chấp hành

19. Vũ Đức Dũng ủy viên Ban chấp hành

20. Trần Minh Thắng ủy viên Ban chấp hành

21. Mai Xuân Chiến ủy viên Ban chấp hành

22. Nguyễn Đức Thạnh ủy viên Ban chấp hành

23. Nguyễn Văn Tài ủy viên Ban chấp hành

24. Võ Tuấn Dũng ủy viên Ban chấp hành

25. Lê Thanh Sơn ủy viên Ban chấp hành

26. Nguyễn Thị Mai Thu ủy viên Ban chấp hành

229

27. Huỳnh Thanh Sa ủy viên Ban chấp hành

28. Võ Văn Cƣờng ủy viên Ban chấp hành

29. Trần Văn Chiến ủy viên Ban chấp hành

30. Phan Văn Lợi ủy viên Ban chấp hành

31. Phạm Văn Hòa ủy viên Ban chấp hành

32. Phạm Văn Nhân ủy viên Ban chấp hành

33. Phan Trọng Nghĩa ủy viên Ban chấp hành

34. Nguyễn Thanh Hùng ủy viên Ban chấp hành

35. Đinh Văn Bản ủy viên Ban chấp hành

36. Lâm Hữu Phƣớc ủy viên Ban chấp hành

37. Trịnh Cƣờng ủy viên Ban chấp hành

230

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH

TỈNH ĐOÀN ĐỒNG NAI CÁC THỜI KỲ TỪ NĂM 1945–1975

Năm 1945 – 1946

Tỉnh Đoàn trưởng (Bí thư Tỉnh Đoàn): Huỳnh Bá Bích.

Năm 1947 – 1949

Tỉnh Đoàn trưởng: Thanh Sơn.

Tỉnh Đoàn phó: Hồ Thiện Ngôn, Thanh Phong.

Năm 1950 – 1951

Tỉnh Đoàn trưởng: Thanh Phong.

Năm 1951 – 1954

Tỉnh Đoàn trưởng: Nguyễn Việt Trai (Ba Tạo).

Năm 1961 – 1965

Bí thư Tỉnh Đoàn: Nguyễn Trung Hiếu (Öt Hiếu).

Năm 1965 – 1966

Thành phố Biên Hòa(U1): Bí thư Thành Đoàn: Phạm Văn Dũng.

Tỉnh Biên Hòa: Bí thư Tỉnh Đoàn: Nguyễn Trung Hiếu.

Năm 1967 (Tỉnh Bà Biên)

Bí thư Tỉnh Đoàn: Phạm Hữu Nghĩa (Phạm Trung Hiếu, Tƣ Hiếu), Nguyễn Việt

Nhân – Tỉnh ủy viên dự khuyết (1963 – 1968).

Phó bí thư: Nguyễn Văn Trừ (Nguyễn Tánh, Ba Nhân).

Ủy viên thường vụ: Trần Văn Thành, Trần Thị Minh Hoàng.

Ủy viên Ban chấp hành: Nguyễn Văn Tuấn (Ba Tuấn), Lê Văn Bảnh (Lê Đức Hòa,

Hòa Lửa).

Năm 1972:

Bí thư Tỉnh Đoàn: Phan Hồng Đoàn (Phan Hồng Nghĩa, Öt Đoàn).

Phó bí thư: Sáu Biên.

Ủy viên Ban thường vụ: Bảy Huệ.

Ủy viên Ban chấp hành: Huỳnh Văn Quân, Năm Truyền, Phạm Điền Sơn.

231

Năm 1973

Tỉnh Biên Hòa (Biên Hòa nông thôn): Bí thư Tỉnh Đoàn: Phan Hồng Đoàn

Thành phố Biên Hòa (Biên Hòa đô thị): Bí thư Thành Đoàn: Hồ Văn Thiệp (Hồ

Khánh Băng)*

(*) Danh sách cán bộ Đoàn các thời kỳ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ chƣa đƣợc

sƣu tầm đầy đủ và chính xác, khi có điều kiện sẽ tiếp tục bổ sung.

232

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH

TỈNH ĐOÀN ĐỒNG NAI CÁC THỜI KỲ TỪ NĂM 1975 – 2000

(BỔ SUNG)

Năm 1976 – 1977 (Tỉnh Đồng Nai)

Ủy viên Ban thường vụ: Đồng chí Hai Tài.

Khóa I (8–1977 – 7–1981):

Ủy viên Ban thường vụ: Phạm Thị Sơn.

Ủy viên Ban chấp hành: Nguyễn Thị Tám, Trần Thị Hồng Thắm, Trƣơng Văn

Öt, Nguyễn Thị Hoa, Hoàng Trung Tính, Nguyễn Đình Thắng, Dƣơng Văn Xạ,

Trần Thị Thanh, Nguyễn Đặng Tiến, Lê Thị Huệ, Nguyễn Bá Phúc, Trần Tấn Huy,

Huỳnh Văn Quân, Hoàng Hữu Nam, Lê Đức Nhẫn, Nguyễn Ban, Đỗ Chu Lƣợng,

Phạm Văn Sơn, Lê Văn Dung.

– Tháng 12–1978, bổ sung các đồng chí sau đây vào Ban chấp hành:

Nguyễn Minh Cƣờng, Lê Hữu Hạnh, Trần Văn Đấu, Đặng Nhƣ Hiển, Nguyễn

Văn Phóng, Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Phạm Thông, Võ Văn Nở.

– Đồng chí Nguyễn Văn Lâm đƣợc bổ sung vào Ban thƣờng vụ Tỉnh Đoàn.

Khóa II (7–1981 – 7–1987):

– Tháng 12–1981:

Bổ sung Ban Thƣờng vụ: Phạm Thanh Điền, Nguyễn Minh Hoàng.

– Trong thời gian này, đồng chí Trần Văn Khánh đƣợc Tỉnh ủy điều động về

Tỉnh Đoàn giữ chức vụ Bí thƣ Tỉnh Đoàn thay đồng chí Huỳnh Công Trạch

chuyển công tác khác.

– Tháng 11–1982:

Bổ sung Ban Thƣờng vụ: Huỳnh Lang Anh.

– Tháng 6–1983:

Bổ sung Ban chấp hành: Võ Thanh Tâm, Nguyễn Hoàng Lƣu, Võ Chí Thành,

Trần Thanh Hùng, Nguyễn Đức Thạnh, Trần Thanh Sỹ, Lê Trần Thiên Lý.

– Bổ sung Phó bí thƣ: Nguyễn Minh Hoàng, Huỳnh Lang Anh.

– Tháng 12–1986, đồng chí Huỳnh Lang Anh, Quyền Bí thƣ thay đồng chí

Trần Văn Khánh chuyển công tác về tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu.

233

– Tháng 3–1987, đồng chí Huỳnh Lang Anh, Bí thƣ Tỉnh Đoàn, đồng chí Đào

Văn Minh, Phó bí thƣ.

Khóa III (7–1987 – 8–1992):

Ủy viên Ban chấp hành: Nguyễn Thành Ngọc, Lã Văn Bé, Nguyễn Thành Trí,

Nghiêm Đinh Vững, Tống Thị Hồng, Trần Thanh Luận, Trần Văn Mùi, Huỳnh

Ngọc Chánh, Nguyễn Xuân Bình, Phạm Hữu Hùng, Đỗ Minh Trí, Nguyễn Thanh

Điền.

– Tháng 3–1988, đồng chí Huỳnh Sơn đƣợc chỉ định vào Ban chấp hành.

Tháng 8–1988, đồng chí Huỳnh Sơn đƣợc bổ sung vào Ban Thƣờng vụ.

– Tháng 2–1989, bổ sung Ban Thƣờng vụ: Lê Thị Mỹ Phƣợng.

Bổ sung vào Ban chấp hành: Đinh Văn Tố, Trần Văn Chiến, Mai Xuân Chiến,

Hoàng Văn Cƣờng, Trần Văn Thu, Phan Sƣơng.

– Tháng 7–1989, bổ sung Ban Thƣờng vụ: Nguyễn Thành Trí.

Bổ sung vào Ban chấp hành: Châu Phƣớc Thuận, Trần Minh Thắng.

– Tháng 3–1990, bổ sung Ban chấp hành: Lƣơng Văn Nay, Võ Văn Mân,

Nguyễn Toàn Hạnh.

Bổ sung Ban Thƣờng vụ: Hồ Quế Hậu.

– Tháng 3–1991, Bổ sung Ban chấp hành: Đặng Mạnh Trung, Đinh Thị Minh

Châu.

Bổ sung Ban Thƣờng vụ: Đinh Văn Tố.

– Tháng 11–1991, đồng chí Bùi Ngọc Thanh đƣợc bầu làm Bí thƣ Tỉnh Đoàn.

Khóa IV (8–1992 – 10–1997):

ủy viên Ban chấp hành:

– Tháng 5 năm 1994, bổ sung Ban Thƣờng vụ: Nguyễn Sơn Hùng, Đinh Thị

Minh Châu, Trần Thị Minh.

– Tháng 3–1995, bổ sung Phó bí thƣ: Đặng Mạnh Trung.

– Tháng 7 năm 1996, đồng chí Đặng Mạnh Trung đƣợc bầu làm Bí thƣ Tỉnh

Đoàn.

– Nhiệm kỳ khóa IV, có 12 đồng chí đƣợc bổ sung vào Ban chấp hành, gồm:

Nguyễn Đức Thạnh, Võ Tuấn Dũng, Lâm Hùng Phƣơng, Phạm Thị Kim Thanh,

Nguyễn Ngọc Tầm, Huỳnh Công Hải, Nguyễn Hoàng Phƣơng, Võ Thị Ngọc Bảy,

Nguyễn Thế Dƣơng, Huỳnh Thanh Sa, Nguyễn Thị Mai Thu, Nguyễn Văn Tài.

234

Khóa V (10–1997 – 2002):

Sau Đại hội, tính đến tháng 12–2000 có 11 đồng chí đƣợc bổ sung vào Ban

chấp hành, gồm:

Huỳnh Phi Long, Trần Văn Ngọc, Nguyễn Thị Mộng Bình, Mai Văn Hiền,

Trần Đăng Ninh, Châu Thanh Phong, Nguyễn Thị Kiều Oanh, Bùi Hoàng Quyên,

Nguyễn Đức Hóa, Phạm Anh Dũng, Lê Minh Thông.

235

THÀNH TÍCH KHEN THƢỞNG TRONG

CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO

THANH, THIẾU NHI TỈNH ĐỒNG NAI TỪ NĂM 1992 – 2000

Năm 1992; 1993: Đơn vị khá công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi

toàn quốc do Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng.

Năm 1994: Đơn vị khá nhất công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi

toàn quốc do Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng.

Năm 1995: Đơn vị xuất sắc công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi

toàn quốc do Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng.

Năm 1996:

+ Đơn vị xuất sắc công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi toàn quốc do

Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng.

+ Đƣợc Chủ tịch nƣớc Cộng òa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân

chƣơng Lao động hạng 3.

Năm 1997: Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng

cờ đơn vị dẫn đầu công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi toàn quốc (Quyết

định số: 28 KT/TWĐ ngày 10–2–1998).

Năm 1998:

– Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng cờ: “Đơn vị

xuất sắc phong trào thi đua toàn quốc (từ năm 1998 bỏ đơn vị dẫn đầu) – (Quyết

định số: 323 KT/TWĐ ngày 4–2–1999).

– Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng bằng khen

“Thực hiện tốt chƣơng trình vay vốn giải quyết việc làm cho thanh niên” (Quyết

định số: 490 KT/TWĐ ngày 23–8–1999).

Năm 1999:

– Cờ “Đơn vị xuất sắc” phong trào thi đua toàn quốc theo Quyết định số 629

KT/TWĐ.

Năm 2000:

– Cờ “Đơn vị xuất sắc” 3 năm liền (Quyết định số 629 KT/TWĐ năm 2000).

– Trung ƣơng Đoàn trao tặng bằng khen “Thực hiện tốt công tác phòng ngừa

đấu tranh chống ma tuý”.

– Bằng khen của Ủy ban nhân dân tỉnh “Đạt thành tích xuất sắc trong hè năm

2000”.

236

– Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh công nhận danh hiệu

“Đơn vị xuất sắc” trong công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi năm 2000

(Từ năm 2000, Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không tặng

cờ cho đơn vị đạt danh hiệu xuất sắc năm) theo Quyết định số 1249 ngày 18–05–

2000.

Năm 2002: Đƣợc Chủ tịch nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng

Huân chƣơng Lao động hạng II.

237

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1– Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 1930–1995, tập I.

Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 1997.

2– Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 1930–1995, tập II.

Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2000.

3– Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai. Nxb. Quân đội nhân dân, 1999.

4– Lịch sử Công an nhân dân tỉnh Đồng Nai. Nxb. Công an nhân dân. Tập I –

1945–1954. Tập II – 1954–1975. Tập III – 1975–1995.

5– Lịch sử Bưu điện tỉnh Đồng Nai, 1945–2000. Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2000

6– Bác Hồ với Đồng Nai – Đồng Nai với Bác Hồ. Nxb. Tổng hợp Đồng Nai,

2000.

7– Những ngày kỷ niệm và lịch sử. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai, 2000.

8– Đồng Nai niềm tin và kỳ vọng. Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2000.

9– Những Anh hùng đất Đồng Nai, tập I. Nxb. Đồng Nai, 2000.

10– Miền Đông Nam bộ kháng chiến. Nxb. Quân đội nhân dân, 1993.

11– Những dấu ấn của một thời hào hùng. Nxb. Thanh niên, 2000.

12– Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam. Ban Liên lạc Thanh niên xung

phong Giải phóng miền Nam, 2001.

13– Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên

Việt Nam. Nxb. Thanh niên, 2000.

14– Văn kiện Đảng về công tác thanh niên, tập I. Nxb. Thanh niên, 1973.

15– Lịch sử Đội Thiếu niên và phong trào thiếu niên. Nxb. Thanh niên, 2000.

16– Hồ Chí Minh – Về giáo dục thanh niên. Nxb. Thanh niên, 1980.

17– Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Nxb. Chính trị Quốc gia.

18– Hồi ký của đồng chí Nguyễn Văn Thông – bản viết tay.

19– Những chặng đường đấu tranh cách mạng của công nhân cao su Đồng Nai.

Công ty Cao su Đồng Nai, 1985.

20– Phú Riềng Đỏ. Trần Tử Bình. Nxb. Lao động, 1965.

21– Đứng lên đáp lời sông núi. Nxb. Trẻ, 1996.

22– Làng Bến Gỗ xưa và nay. PGS–TS Diệp Đình Hoa. Nxb. Đồng Nai, 1995.

238

23– Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước – Những sự kiện quân sự. Nxb. Quân

đội nhân dân, Hà Nội 1995.

24– Những chặng đường vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Nxb. Thanh niên, 1986.

25– Thế hệ ban đầu. Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1980.

26– Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh – từ Đại hội đến Đại hội. Nxb.

Thanh niên, 1992.

27– Thanh niên miền Đông Nam bộ kháng chiến. Hồi ký của Võ Văn Ấn, bản đánh

máy.

28– Các tài liệu thuộc Phòng miền Đông, lƣu trữ tại Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung

ƣơng Đảng, bao gồm: Báo cáo tình hình. Công văn, chỉ thị về công tác thanh

niên. Danh sách cán bộ theo thứ tự từ vần A đến vần Y.

29– Các báo cáo công tác Đoàn lƣu trữ tại Văn phòng Tỉnh ủy Đồng Nai, từ 1970

đến 1975.

30– Báo cáo tổng kết hàng năm và các báo cáo chuyên đề của Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai năm 1976 và các năm từ 1986 – 2000.

31– Báo cáo và Nghị quyết Đại hội Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh

Đồng Nai từ khóa I đến khóa V.

32– Nghị quyết, Chỉ thị của Tỉnh ủy Đồng Nai về công tác thanh niên.

33– Tập hợp đoàn kết thanh niên thông qua phong trào hành động cách mạng

trong thời kỳ đổi mới – Đặng Cảnh Khanh – Nguyễn Hồng Thanh. Nxb. Thanh

niên, 1997.

34– Địa chí Đồng Nai, các tập I, II, III, IV, V. Nxb. Tổng hợp Đồng Nai 2001.

Và nhiều tài liệu khác.

239

MỤC LỤC

Lời giới thiệu

Mở đầu

ĐỒNG NAI – MIỀN ĐẤT, CON NGƢỜI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ TRUYỀN

THỐNG

I. TỈNH ĐỒNG NAI TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

II. NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG

III. ....................... NHỮNG LỢI THẾ PHÁT TRIỂN

PHẦN THỨ NHẤT

TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN BIÊN HÒA– ĐỒNG NAI

TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG

CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC (1930 – 1954)

Chƣơng I

DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, THANH NIÊN BIÊN HÒA– ĐỒNG NAI

ĐỨNG LÊN CÙNG NHÂN DÂN TIẾN HÀNH CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH

CHÍNH QUYỀN

(1930 – 1945)

I. ....................................................... LỚP THANH NIÊN YÊU

NƢỚC ĐẦU TIÊN ĐƢỢC GIÁC NGỘ, SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU

DƢỚI NGỌN CỜ CỦA ĐẢNG

II. ...................................................... II. THAM GIA

KHÔI PHỤC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VÀ TÍCH CỰC ĐẤU

TRANH ĐÕI CÁC QUYỀN DÂN SINH, DÂN CHỦ III. KIÊN

CƢỜNG TRONG NAM KỲ KHỞI NGHĨA, ĐẤU TRANH

CHỐNG KHỦNG BỐ, TIẾN TỚI CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA

GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN

Chƣơng II

CÙNG QUÂN VÀ DÂN THAM GIA XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH

QUYỀN CÁCH MẠNG NON TRẺ VÀ TIẾN HÀNH KHÁNG CHIẾN

CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC (1945 – 1954)

I. ....................................................... VỮNG BƢỚC TIẾN LÊN

TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN

240

II. VƢỢT QUA MỌI GIAN LAO, THỬ THÁCH, GÓP PHẦN XỨNG

ĐÁNG GIÀNH THẮNG LỢI VẺ VANG

PHẦN THỨ HAI

TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN BIÊN HÒA– ĐỒNG NAI

TRONG SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1954 –

1975)

Chƣơng III

GIỮ VỮNG NIỀM TIN CÁCH MẠNG, VƢỢT QUA THỬ THÁCH, TIẾN LÊN

CÙNG QUÂN VÀ DÂN GIÀNH QUYỀN LÀM CHỦ (1954 – 1960)

I. KIÊN CƢỜNG ĐẤU TRANH ĐÕI MỸ VÀ NGỤY QUYỀN TAY SAI THI

HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ

II. CÙNG NHÂN DÂN ĐỨNG LÊN “ĐỒNG KHỞI”, GIÀNH QUYỀN LÀM

CHỦ

Chƣơng IV

PHÁT HUY TINH THẦN ĐỒNG KHỞI, TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN,

THANH NIÊN BIÊN HÒA– ĐỒNG NAI CÙNG QUÂN VÀ DÂN TIẾN LÊN

ĐÁNH BẠI CÁC CHIẾN LƢỢC CHIẾN TRANH CỦA ĐẾ QUỐC MỸ VÀ

NGỤY QUYỀN TAY SAI (1961 – 1973)

I. GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA

MỸ.

II. ĐẨY MẠNH CÁC PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG, CÙNG QUÂN VÀ

DÂN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA MỸ, TỔ

CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI

TRƢỞNG THÀNH VƢỢT BẬC

III. THỰC HIỆN DI CHÖC THIÊNG LIÊNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

VĨ ĐẠI, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN

TRANH” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ

Chƣơng V

CÙNG QUÂN VÀ DÂN TIẾN LÊN GIÀNH TOÀN THẮNG (1973 – 1975)

I. ....................................................... KHÔNG NGỪNG NÂNG

CAO Ý CHÍ CHIẾN ĐẤU, GÓP PHẦN GIỮ VỮNG THẾ CHỦ

ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƢỜNG

241

II. ...................................................... II. TỔ CHỨC ĐOÀN

VÀ ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN BIÊN HÒA– ĐỒNG NAI NỖ

LỰC VƢỢT BẬC, GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG QUÊ HƢƠNG

PHẦN THỨ BA

TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN ĐỒNG NAI TRONG SỰ

NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 – 2000)

Chƣơng VI

ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG XÂY DỰNG VÀ

PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐOÀN

(1975 – 1986)

I. ....................................................... PHÁT HUY VAI TRÒ

XUNG KÍCH CÁCH MẠNG, THANH NIÊN ĐỒNG NAI NỖ

LỰC KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH

II. ĐẠI HỘI ĐOÀN TOÀN TỈNH LẦN THỨ NHẤT ĐÃ KHẲNG ĐỊNH

VAI TRÕ CỦA TỔ CHỨC ĐOÀN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG

MỚI

II. ...................................................... KHÔNG NGỪNG NÂNG

CAO TINH THẦN CẢNH GIÁC CÁCH MẠNG, SẴN SÀNG

CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ VỮNG CHẮC BIÊN CƢƠNG CỦA TỔ

QUỐC

III. ..................................................... IV. VƢỢT QUA KHÓ

KHĂN THỬ THÁCH, TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ ĐOÀN VIÊN,

THANH NIÊN ĐỒNG NAI TỪNG BƢỚC VƢƠN LÊN TỰ

KHẲNG ĐỊNH

Chƣơng VII

GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI DO ĐẢNG

KHỞI XƢỚNG VÀ LÃNH ĐẠO, TỔ CHỨC ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO

THANH NIÊN ĐỒNG NAI TRƢỞNG THÀNH NHANH CHÓNG (1986 – 2000)

I. ........................................................ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC, ĐỔI

MỚI HÀNH ĐỘNG

II. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG, THANH NIÊN ĐỒNG NAI

VƢƠN LÊN TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA

KẾT LUẬN

242

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐOÀN ĐƢỢC BAN CHẤP HÀNH

TRUNG ƢƠNG ĐOÀN CHUẨN Y KHÓA ĐẦU TIÊN (1976–1977) DANH

SÁCH BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐOÀN KHÓA 1 (NHIỆM KỲ 1977–1981)

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐOÀN KHÓA 2 (NHIỆM KỲ 1981–

1987)

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐOÀN KHÓA 3 (NHIỆM KỲ 1987–

1992)

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐOÀN KHÓA 4 (NHIỆM KỲ 1992–

1997)

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐOÀN KHÓA 5 (NHIỆM KỲ 1997–

2002)

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐOÀN ĐỒNG NAI CÁC THỜI KỲ

TỪ NĂM 1945–1975

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐOÀN ĐỒNG NAI CÁC THỜI KỲ

TỪ NĂM 1975 – 2000 (BỔ SUNG)

THÀNH TÍCH KHEN THƢỞNG TRONG CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ PHONG

TRÀO THANH, THIẾU NHI TỈNH ĐỒNG NAI TỪ NĂM 1992 – 2000

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỤC LỤC

243

LỊCH SỬ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀ PHONG

TRÀO THANH NIÊN TỈNH ĐỒNG NAI

1930–2000

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai

Chịu trách nhiệm xuất bản

ĐẶNG TẤN HƢỚNG

Biên tập: VŨ ĐỨC TÖ

Sửa bản in: ANH VŨ

Bìa: HỒ GIÁO

In 1500 bản. Khổ 14,5x20,5 cm.

In tại Xí nghiệp in Việt Hƣng

Số đăng ký KHXB: 19–1454/ XB-QLXB

Cục Xuất bản cấp ngày: 20-10-2003

Giấy trích ngang số: 442/ GTNXB

do NXBTH Đồng Nai cấp ngày: 8-12-2003

In xong và nộp lƣu chiểu: tháng 1 năm 2004

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP ĐỒNG NAI

210, Quốc lộ 1K, TP Biên Hòa, Đồng Nai

Điện thoại: (061)946519, Ban Biên tập: (061)825292

Ban Giám đốc: (061)946529 – (061)822613 – FAX: (061)946530

Email: [email protected]