phân tích tác động của đòn bẩy hoạt động, đòn bẩy tài chính amp; đòn bẩy...
TRANSCRIPT
Lời mở đầu
Trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế thị trường như ngày nay, bất kỳ doanh
nghiệp nào đều mong muốn có được số lợi nhuận cao nhất từ số vốn mà họ đã bỏ ra.
Muốn được vậy thì tiềm lực tài chính là vô cùng quan trọng để các doanh nghiệp đưa
ra các chính sách hợp lý và thành công. Đòn bẩy như là công cụ để khuếch đại lực,
biến một lực nhỏ thành một lực lớn hơn tác động vào vật thể cần dịch chuyển. Trong
vật lý người ta dựa vào điểm tựa cố định để khuếch đại lực nhằm mục tiêu di chuyển
một vật thể nào đó. Thuật ngữ “đòn bẩy” trong tài chính ám chỉ việc sử dụng chi phí
cố định để gia tăng khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đòn bẩy trong tài
chính là con dao hai lưỡi. Nếu hoạt động của doanh nghiệp tốt, đòn bẩy sẽ khuếch đại
cái tốt lên gấp bội lần và ngược lại. Chính vì vậy việc nghiên cứu tác động của đòn
bẩy hoạt động, đòn bẩy tài chính và đòn bẩy tổng hợp tới lợi nhuận và rủi ro của
doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp hoạch định chính xác hay đưa ra các biện pháp
phù hợp.
I/ Tác động của đòn bẩy hoạt động, đòn bẩy tài chính tới lợi nhuận và rủi ro
của doanh nghiệp
1. Đòn bẩy hoạt động
a. Phân tích ảnh hưởng của đòn bẩy hoạt động
Đòn bẩy hoạt động (operating leverage) là mức độ sử dụng chi phí cố định để tạo
ra sự khuyếch đại khả năng sinh lợi trong hoạt động của công ty. Ở đây chúng ta chỉ
phân tích trong ngắn hạn vì trong dài hạn tất cả các chi phí đều thay đổi.
Chi phí cố định là chi phí không thay đổi khi số lượng thay đổi. Chi phí cố định
có thể kể ra bao gồm các loại chi phí như khấu hao, bảo hiểm, một bộ phận chi phí
điện nước và một bộ phận quản lý...
Chi phí biến đổi là chi phí thay đổi khi số lượng thay đổi chẳng hạn chi phí nguyên
vật liệu, lao động trực tiếp, một phần chi phí điện nước, hoa hồng bán hàng, một phần
chi phí quản lý hành chính...
Ảnh hưởng của đòn bẩy hoạt động đến lợi nhuận của công ty:
Trong kinh doanh, chúng ta đầu tư chi phí cố định với hi vọng số lượng tiêu thụ sẽ
tạo ra doanh thu đủ lớn để trang trải chi phí cố định và chi phí biến đổi. Giống như
chiếc đòn bẩy trong cơ học, sự hiện diện của chi phí hoạt động cố định gây ra sự thay
đổi trong số lượng tiêu thụ để khuyếch đại sự thay đổi lợi nhuận (hoặc lỗ). Để minh
hoạ chúng ta xem xét ví dụ cho ở bảng sau:
Đơn vị : triệu đồng
Công ty A Công ty B Công ty
CPhần A: Trước khi thay đổi doanh thuDoanh thu 150 100 120Chi phí kinh doanhChi phí cố định 80 60 80Chi phí biến đổi 20 10 30Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) 50 30 10Tỉ số đòn bẩy hoạt độngChi phí cố định ∕ tổng chi phí 0,8 0,86 0,73Chi phí cố định / doanh thu 0,53 0,6 0,67Phần B: Sau khi doanh thu tăng 40% trong những năm kế tiếpDoanh thu 210 140 168Chi phí kinh doanhChi phí cố định 80 60 80Chi phí biến đổi 28 14 42Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) 102 66 46Phần trăm thay đổi EBIT 104% 120% 360%
Kết quả phân tích ảnh hưởng của đòn bẩy hoạt động thể hiện ở phần B. Đối với
mỗi công ty đều có doanh thu và chi phí biến đổi tăng 40% trong khi chi phí cố địn
không thay đổi. Tất cả các công ty đều cho thấy sự ảnh hưởng của đòn bẩy hoạt động
thể hiện ở chỗ doanh thu chỉ tăng 40% nhưng lợi nhuận tăng với tốc độ lớn hơn, cụ
thể 104%, 120%, và 360% lần lượt với công ty A, B và C. So sánh giữa công ty A, B
và C ta thấy rằng tốc độ tăng EBIT của công ty B, C lớn hơn công ty A. Tuy nhiên,
nếu so sánh giữa công ty B và C chúng ta thấy rằng tốc độ tăng EBIT của công ty C
lớn hơn công ty B. Điều này có nghĩa là sử dụng đòn bẩy hoạt động hợp lý có tác
dụng khuyếch đại sự gia tăng EBIT. Tuy nhiên sự khuyếch đại này không phải tuyến
tính mà theo quy luật giảm dần.
b. Phân tích điểm hòa vốn
Phân tích điểm hoà vốn là kỹ thuật phân tích mối quan hệ giữa chi phí cố địn, chi
phí biến đổi, lợi nhuận và số lượng tiêu thụ. Để minh hoạ kỹ thuật phân tích hoà vốn,
chúng ta lấy ví dụ sau đây:
Giả sử công ty gạch ốp lát Thắng Lợi sản xuất một loại gạch đặc biệt có đơn giá
bán trung bình là 255000 đồng/sản phẩm. Chi phí cố định cho sản xuất loại gạch này
là 5 tỷ đồng một năm. Chi phí biến đổi trên mỗi sản phẩm là 175000 đồng/sản phẩm.
Chúng ta sẽ phân tích quan hệ giữa tổng chi phí hoạt động và tổng doanh thu.
Về mặt toán học, để tìm điểm hoà vốn chúng ta thực hiện như sau:
Đặt EBIT = lợi nhuận trước thuế và lãi ( lợi nhuận hoạt động).
P = đơn giá bán
V = chi phí biến đổi của mỗi đơn vị sản phẩm
(P – V) = lãi gộp
Q = số lượng sản xuất và tiêu thụ
F = chi phí cố định
QBE = số lượng hoà vốn
Ở điểm hoà vốn thì doanh thu bằng chi phí và EBIT bằng 0. Do đó:
P.QBE = V.QBE +F
( P – V) QBE = F
QBE = F/ (P – V)
Áp dụng công thức, chúng ta sẽ có điểm hoà vốn QBE =5000000000/ (255000 –
175000) = 62500 sản phẩm. Nếu số lượng tiêu thụ vượt qua điểm hoà vốn thì sẽ có lợi
nhuận, ngược lại nếu số lượng tiêu thụ dưới mức hoà vốn thì công ty bị lỗ. Điểm hoà
vốn QBE như vừa xác định trên đây thể hiện sản lượng hoà vốn. Muốn biết doanh thu
hoà vốn, chúng ta lấy sản lượng hoà vốn nhân với đơn giá bán. Trong ví dụ trên sản
lượng hoà vốn QBE = 62500 sản phẩm và đơn giá bán P = 255000 đồng/sản phẩm.
Do đó doanh thu hoà vốn sẽ là 62500 × 255000 = 15,9375 tỷ đồng.
Đồ thị điểm hoà vốn:
5000 10937,5
DT và CF (trđ)
15937,5
0 62500 SL SX và TT
(sản phẩm)
Hình vẽ 1: Mô tả quan hệ giữa tổng doanh thu, tổng chi phí hoạt động và lợi nhuận
tương ứng với từng sản lượng và số lượng tiêu thụ.
Cần lưu ý rằng, ở đây chúng ta chỉ quan tâm đến chi phí hoạt động nên lợi nhuận ở
đây được xác định là lợi nhuận trước thuế. Như vậy, lãi nợ vay và cổ tức ưu đãi không
liên quan khi phân tích đòn bẩy hoạt động.
c. Độ bẩy hoạt động
Dưới tác động của đòn bẩy hoạt động, một sự thay đổi trong số lượng hàng bán
đưa đến kết quả lợi nhuận (lỗ) gia tăng với tốc độ lớn hơn. Để đo lường mức độ tác
Chi phí cố định
chi phí biến đổi
Tổng chi phí
Doanh thu
động của đòn bẩy hoạt động, người ta sử dụng chỉ tiêu độ bẩy hoạt động (degree of
operating leverage - DOL). Độ bẩy hoạt động được định nghĩa là phần trăm thay đổi
của lợi nhuận hoạt động so với phần trăm thay đổi của sản lượng (hoặc doanh thu).
(1)
EBITEBITDOL
/
/
∆∆= (2)
Cần lưu ý rằng độ bẩy có thể khác nhau ở những mức sản lượng (hoặc doanh thu)
khác nhau. Do đó, khi nói đến độ bẩy phải chỉ rõ độ bẩy ở mức sản lượng Q, doanh
thu S nào đó. Chúng ta thực hiện thêm một số biến đổi công thức (1) để có thể dễ
dàng tính DOL theo cách khác:
Lợi nhuận hoạt động EBIT = PQ – VQ – F = Q(P-V) – F
Bởi vì đơn giá P, định phí F, và biến phí đơn vị V là cố định nên:
∆EBIT = ∆Q(P-V). Thay vào công thức (1) ta được:
FQVP
VPQDOL
FQVP
VPQ
Q
Qx
FVPQ
VPQ
Q
QFVPQ
VPQ
DOL
Q
Q
−−−=
−−−=
∆−−−∆=
∆−−
−∆
=
)(
)(
)(
)(
)(
)()(
)(
Công thức trên dùng để tính độ bẩy hoạt động theo sản lượng Q, công thức này chỉ
thích hợp đối với những công ty mà sản phẩm có tính đơn chiếc. Đối với công ty sản
xuất sản phẩm đa dạng và không thể tính thành đơn vị, chúng ta sử dụng chỉ tiêu độ
bẩy theo doanh thu. Công thức tính độ bẩy theo doanh thu như sau:
EBIT
FEBIT
FVS
VSDOLS
+=−−
−=
Độ bẩy hoạt động (DOL)ở mức sản lượng Q
(doanh thu S)
Phần trăm thay đổilợi nhuận hoạt động
Phần trăm thay đổisản lượng (hoặc doanh thu)
=
S: doanh thu, V: tổng chi phí khả biến
Giả định có hai công ty cùng doanh thu và lợi nhuận, nếu tăng cùng một lượng
doanh thu như nhau, thì những công ty có tỷ lệ số dư đảm phí lớn, lợi nhuận tăng lên
càng nhiều, vì vậy tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn và độ bẩy hoạt động sẽ lớn hơn. Điều
này cho thấy những công ty mà tỷ trọng chi phí bất biến lớn hơn khả biến thì tỷ lệ số
dư đảm phí lớn, từ đó đòn bẩy hoạt động sẽ lớn và lợi nhuận sẽ rất nhạy cảm với sự
thay đổi doanh thu, sản lượng bán.
Ta có ví dụ như đã xét từ đầu, vận dụng công thức DOLQ có:
DOL72500 = 72500/ (72500-62500)= 7.25
DOL75000 = 75000/ (75000-62500)= 6
Như vậy độ bẩy hoạt động ở mức sản lượng Q= 72500 bằng 7.25. Điều này có
nghĩa là từ mức sản lượng tiêu thụ 72500 đơn vị, cứ mỗi phần trăm thay đổi sản lượng
tiêu thụ thì lợi nhuận hoạt động sẽ thay đổi 7.25%. Nhưng khi sản lượng tăng từ
72500 lên 75000 đơn vị thì độ bẩy hoạt động giảm từ 7.25 xuống 6, nghĩa là từ mức
sản lượng 75000 đơn vị, cứ mỗi phần trăm thay đổi sản lượng tiêu thụ thì lợi nhuận
hoạt động thay đổi 6%. Do đó, kể từ điểm hòa vốn nếu sản lượng càng tăng thì độ bẩy
hoạt động càng giảm.
d. Quan hệ giữa độ bẩy hoạt động với điểm hòa vốn
Để thấy được mối quan hệ giữa độ bẩy hoạt động và điểm hoà vốn chúng ta lập
bảng tính lợi nhuận và độ bẩy hoạt động ở nhiều mức độ sản lượng khác nhau. Bảng
dưới đây cho chúng ta thấy lợi nhuận và độ bẩy hoạt động ở những mức độ sản lượng
khác nhau.
Đơn vị: triệu đồng
SL SX và TD (Q) LN hoạt động (EBIT) Độ bẩy hoạt động (DOL)0 - 5000 0,0010000 - 4.200 -0,1920000 - 3.400 - 0,47
Độ bẩy hoạt độngSố dư đảm phí
Lợi nhuận
=
30000 - 2.600 - 0,92QBE = 62500 0 Không xác định70000 600 9,380000 1.400 4,5790000 2.200 3,27Bảng 2: Lợi nhuận và độ bẩy hoạt động ở những mức độ sản lượng khác nhau
Bảng trên cho thấy rằng nếu sản lượng di chuyển càng xa điểm hoà vốn thì lợi
nhuận hoạt động hoặc lỗ sẽ càng lớn, ngược lại độ bẩy hoạt động (DOL) càng nhỏ.
Quan hệ giữa sản lượng tiêu thụ và lợi nhuận hoạt động là quan hệ tuyến tính như đã
thấy trên hình vẽ 1.
e. Quan hệ giữa độ bẩy hoạt động và rủi ro doanh nghiệp
Rủi ro doanh nghiệp là rủi ro do những bất ổn phát sinh trong hoạt động của doanh
nghiệp khiến cho lợi nhuận hoạt động giảm. Cần chú ý rằng độ bẩy hoạt động chỉ là
một bộ phận của rủi ro doanh nghiệp. Các yếu tố khác của rủi ro doanh nghiệp là sự
thay đổi hay sự bất ổn của doanh thu và chi phí sản xuất. Đây là hai yếu tố chính của
rủi ro doanh nghiệp, còn đòn bẩy hoạt động làm khuyếch đại sự ảnh hưởng của các
yếu tố này lên lợi nhuận hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên bản thân đòn bẩy
hoạt động không phải là nguồn gốc của rủi ro, bởi lẽ độ bẩy cao cũng chẳng có ý
nghĩa gì cả nếu như doanh thu và cơ cấu chi phí cố định. Do đó, sẽ sai lầm nếu như
đồng nghĩa độ bẩy hoạt động với rủi ro doanh nghiệp, bởi vì cái gốc là sự thay đổi
doanh thu và chi phí sản xuất. Tuy nhiên, độ bẩy hoạt động có tác dụng khuyếch đại
sự thay đổi của lợi nhuận và do đó khuyếch đại rủi ro doanh nghiệp.
Từ giác độ này, có thể xem độ bẩy hoạt động như là một dạng rủi ro tiềm ẩn, nó
chỉ trở thành rủi ro hoạt động khi nào xuất hiện sự biến động DT và CP sản xuất.
f. Ý nghĩa của độ bẩy hoạt động đối với quản trị tài chính
Sau khi nghiên cứu về độ bẩy hoạt động, chúng ta đặt ra câu hỏi: Hiểu biết về độ
bẩy hoạt động của công ty có ích lợi thế nào đối với giám đốc tài chính? Là giám đốc
tài chính, bạn cần biết trước xem ở một mức định phí nào đó, sự thay đổi doanh thu sẽ
ảnh hưởng thế nào đến lợi nhuận hoạt động. Độ bẩy hoạt động chính là công cụ giúp
bạn trả lời câu hỏi này. Khi doanh thu tăng hay giảm X % thì EBIT có chiều hướng
tăng hay giảm X %×DOL. Nếu doanh nghiệp có độ bẩy hoạt động cao, chỉ có biến
động nhỏ trên doanh thu sẽ gây ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận.
Đôi khi biết trước độ bẩy hoạt động, công ty có thể dễ dàng hơn trong việc quyết
định chính sách doanh thu và chi phí của mình. Nhưng nhìn chung, công ty không
thích hoạt động dưới điều kiện độ bẩy hoạt động cao, bởi vì trong tình huống như vậy
chỉ cần một sự sụt giảm nhỏ của doanh thu cũng dễ dẫn đến sụt giảm lớn lợi nhuận.
Trái lại, một số doanh nghiệp dự đoán kinh tế sẽ phát triển tốt, thị phần và doanh
số ngày càng khả quan hơn, sẽ trang bị thêm cơ sở vật chất và máy móc hiện đại, độ
bẩy hoạt động lớn sẽ đẩy mạnh mức gia tăng lợi nhuận.
Sử dụng độ bẩy hoạt động hợp lý có tác dụng khuếch đại gia tăng EBIT. Tuy
nhiên sự khuếch đại này không phải tuyến tính mà theo quy luật giảm dần.
2. Đòn bẩy tài chính
Khái niệm: Đòn bẩy tài chính là hệ số biểu thị mức độ sử dụng các nguồn tài trợ
có chi phí cố định (nợ và cổ phiếu ưu đãi) để gia tăng lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
hay gia tăng lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phiếu.
Hay: Đòn bẩy tài chính là hệ số biểu thị việc sử dụng nợ phải trả (chủ yếu là vốn
vay) trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích gia tăng tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu hay gia tăng lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phiếu của công ty.
Công ty có thể lựa chọn đòn bẩy tài chính trong khi không thể lựa chọn đòn bẩy
hoạt động. Đòn bẩy hoạt động do đặc điểm hoạt động của công ty quyết định, chẳng
hạn như công ty hoạt động trong ngành hàng không thì có đòn bẩy hoạt động cao
trong khi công ty hoạt động trong ngành dịch vụ như tư vấn và du lịch thì lại có đòn
bẩy hoạt động thấp. Đòn bẩy tài chính thì khác. Không có công ty nào bị ép buộc phải
sử dụng nợ và cổ phiếu ưu đãi để tài trợ cho hoạt động của mình mà thay vào đó có
thể sử dụng nguồn vốn từ việc phát hành cổ phiếu thường.
Công ty sử dụng đòn bẩy tài chính với hi vọng là sẽ gia tăng được lợi nhuận cho
cổ đông thường. Nếu sử dụng phù hợp, công ty có thể dùng các nguồn vốn có chi phí
cố định, bằng cách phát hành trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi để tạo ra lợi nhuận lớn hơn
chi phí trả cho việc huy động vốn có lợi tức cố định. Phần lợi nhuận còn lại sẽ thuộc
về cổ đông thường. Điều này sẽ được thể hiện rõ hơn khi chúng ta phân tích quan hệ
giữa lợi nhuận trước thuế và lãi (EBIT) và lợi nhuận trên cổ phần (EPS).
a. Phân tích mối quan hệ EBIT và EPS
Tác động của đòn bẩy tài chính đến thu nhập một cổ phần: Khi thay đổi quy mô sử
dụng vốn vay sẽ dẫn đến việc thay đổi lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phần (EPS).
Phân tích quan hệ EBIT- EPS là phân tích sự ảnh hưởng của những phương án tài
trợ khác nhau đối với lợi nhuận trên cổ phần. Từ sự phân tích này chúng ta sẽ tìm một
điểm bang quan, tức là điểm của EBIT mà ở đó các phương án tài trợ đều mang lại
EPS như nhau.
Ví dụ: Công ty cổ phần Falcon Đồng Trúc chuyên sản xuất sản phẩm gạch, kế hoạch
kinh doanh như sau:
- Doanh thu: dự kiến nếu nền kinh tế tăng trưởng nhanh thì có thể đạt doanh thu thuần
là 6.000 triệu đồng/năm. Nếu nền kinh tế tăng trưởng bình thường thì doanh thu thuần
có thể đạt được là 4.000 triệu đồng/năm. Nếu nền kinh tế suy thoái thì doanh thu
thuần đạt 2.000 triệu đồng/năm.
- Chi phí: chi phí cố định là 600 triệu đồng/năm. Tổng chi phí biến đổi là 60% doanh
thu thuần.
- Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%.
Để thực hiện kế hoạch trên, doanh nghiệp dự kiến số vốn cho hoạt động kinh doanh
là 3.000 triệu đồng. Công ty xem xét hai phương án huy động vốn:
1. Tài trợ 100% bằng vốn cổ phần theo đó sẽ phát hành 100.000 cổ phiếu phổ thông.
2. Tài trợ 50% bằng vốn cổ phần, 50% bằng vốn vay, theo đó sẽ phát hành 50.000 cố
phiếu phổ thông và vay 1.500 triệu đồng với lãi suất 12%/năm.
Với PA1, công ty không sử dung đòn bẩy tài chính. Còn PA2, công ty có sử dụng đòn
bẩy tài chính. Tác động của đòn bẩy tài chính đến ROE được thể hiện qua bảng sau:
Bảng kết quả kinh doanh của công ty Falcon Đồng Trúc Đv: triệu đồng
Chỉ tiêuNền kinh tế
suy thoái
Nền kinh tế
tăng trưởng
bình thường
Nền kinh tế tăng
trưởng nhanh
I. Tính LNTT và lãi vay (EPS)
1. Doanh thu thuần 2.000 4.000 6.000
2. Tổng chi phí cố định 600 600 600
3. Tổng chi phí biến đổi 1.200 2.400 3.600
4. Tổng chi phí 1.800 3.000 4.200
5. EBIT 200 1.000 1.800
II. Tính EPS (TH: không vay)
1. EBIT 200 1.000 1.800
2. Lãi vay 0 0 0
3. LNTT 200 1.000 1.800
4. Thuế TNDN 50 250 480
5. LNST 150 750 1.320
EPS 0,0015 0,0075 0,0132
III. Tính EPS (TH: có vay)
1. EBIT 200 1.000 1.800
2. Lãi vay (12%) 180 180 180
3. LNTT 20 820 1.620
4. Thuế TNDN 5 205 405
5. LNST 15 615 1.215
EPS 0,0003 0,0123 0,0243
Qua bản trên ta thấy, trong điều kiện bình thường doanh nghiệp đạt được tỷ suất
sinh lời tổng tài sản (ROAE) lớn hơn lãi suất tiền vay thì việc sử dụng đòn bẩy tài
chính đã làm gia tăng EPS mặc dù cả hai trường hợp không vay vốn và vay vốn đều
có EBIT giống nhau. Khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, doanh nghiệp đạt được EBIT
cao hơn, việc sử dụng đòn bẩy tài chính đã làm cho EPS có tốc độ tăng trưởng cao
hơn nhiều so với trường hợp không vay vốn. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái,
EBIT giảm sút, thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ làm cho EPS giảm sút nhanh hơn
và nếu công ty thua lỗ thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ làm cho cổ đông gánh
chịu sự thua lỗ nặng nề hơn so với trường hợp công ty không sử dụng vốn vay.
* Điểm cân bằng lợi nhuận trước thuế và lãi vay (điểm cân bằng EBIT):
Trong điều kiện bình thường, việc tài trợ hoàn toàn bằng vốn cổ phần hoặc tài trợ
có sử dụng vốn vay có thể đưa đến kết quả là EBIT giống nhau nhưng EPS có sự khác
nhau. Tuy nhiên, có thể tìm ra được một mức EBIT mà khi đạt được mức lợi nhuận
này đều đưa ra kết quả EPS là như nhau cho dù khác nhau về cách thức tài trợ. Đó
chính là điểm cân bằng lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
Điểm cân bằng EBIT là một mức lợi nhuận trước thuế và lãi vay với mức lợi
nhuận đó đạt được sẽ đưa lại EPS là như nhau cho dù tài trợ bằng vốn vay hay vốn cổ
phần thường. Có 2 cách xác định điểm cân bằng EBIT:
Cách 1: Dùng phương pháp đại số
Từ công thức EPS =
Trong đó: I: Lãi suất hàng năm phải trả, PD: Cổ tức hàng năm phải trả
t: Thuế suất thuế thu nhập công ty, SH: Số lượng cổ phần thường
Giải phương trình sau để tìm điểm cân bằng EBIT: EPS1 = EPS2
↔ =
↔ =
↔ 7,5.10-6.EBIT = -3,6.10-3 + 15.10-6.EBIT
↔ EBIT = 480 triệu đồng; tại đây: EPS =0,0036 trđ/cp = 3.600 đ/cp
Như vậy, tại EBIT = 480 triệu đồng thì cả 2 phương án tài trợ đều đưa lại EPS
=0,0036 trđ/cp
Cách 2: Dùng phương pháp đồ thị
Sử dụng đồ thị biểu diễn quan hệ giữa EBIT và EPS chúng ta có thể tìm ra được
điểm cân bằng EBIT, tức là điểm giao nhau giữa các phương án tài trợ ở đó EBIT
theo bất kỳ phương án nào cũng mang lại EPS như nhau.
Đối với mỗi phương án chúng ta lần lượt vẽ đường thẳng phản ánh quan hệ giữa
EPS với tất cả các điểm của EBIT.
EPS1 = 7,5.10-6.EBIT
EPS2 = -3,6.10-3 + 15.10-6.EBIT
Ý nghĩa của điểm cân bằng EBIT: Đây là một trong những căn cứ giúp doanh nghiệp
lựa chọn phương án tài trợ có lợi hơn. Nếu lợi nhuận trước lãi vay và thuế đạt được
thấp hơn điểm cân bằng EBIT thì phương thức tài trợ bằng cổ phiếu phổ thông đưa
lại EPS cao hơn so với phương án tài trợ có sử dụng vốn vay. Nếu EBIT đạt được cao
hơn điểm cân bằng EBIT thì việc sử dụng phương thức tài trợ có sử dụng vốn vay sẽ
mang lại EPS cao hơn so với phương thức tài trợ không sử dụng vốn vay. Việc xem
xét điểm cân bằng EBIT có thể cho phép mở rộng phương án tài trợ bằng vốn vay với
mức độ sử dụng đòn bẩy khác nhau hay các phương án tài trợ khác nhau.
b. Độ bẩy tài chính
Để đánh giá sự ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đến EPS ở mức độ như thế nào-
người ta sử dụng thước đo gọi là mức độ tác động của đòn bẩy tài chính( DFL) mức
độ tác động của đòn bẩy tài chính có thể được hiểu là thước đo mức độ thay đổi của tỷ
suất lợi nhận trên vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi của lợi nhuận trước lãi vay
và thuế ( EBIT). Có thể xác định theo công thức sau:
Mức độ tác động của đòn bẩy tài chính =
Viết theo cách khác: DFL =
Qua các biến ta có:
Trong đó PD là cổ tức trả cho cổ phiếu ưu đãi, I là lãi vay, t là thuế suất thuế
TNDN.
Trường hợp doanh nghiệp không tài trợ bằng cổ phiếu ưu đãi thì PD = 0, ta có:
Kết hợp với việc xác định EBIT theo chi phí cố định và chi phí biến đổi (trong phần
đòn bẩy hoạt động) ta có:
Ý nghĩa của DFL:
Mức độ tác động của đòn bẩy tài chính phản ánh khi tăng lên hay giảm đi 1% thì
EPS sẽ tăng lên hay giảm đi bao nhiêu %
Ví dụ: công ty chuyên sản xuất kinh doanh sữa chua có số vốn kinh doanh là 1000
triệu đồng, trong đó vốn vay là 400 triệu đồng với lãi suất là 10%/ năm. Năm tới dự
kiến công ty có khả năng tiêu thụ 100.000 sản phẩm với giá 3000 đồng một sản phẩm,
chi phối biến đổi cho một sản phẩm là 1000đồng và tổng chi phí cố định trong năm là
100 triệu đồng( không bao gồm lãi vay)
Với dữ kiện trên có thể xác định mức độ tác động của đòn bẩy tài chính:
I = 400 * 10% = 40 triệu đồng
EBIT = 100.000( 3000 – 1000) – 100.000.000 = 100 triệu đồng
Từ ví dụ ta thấy, tại mức lợi nhuận trước lãi vay và thuế là 40 triệu đồng, nếu doanh
nghiệp tăng thêm hoặc giảm bớt 1.67%
Như vậy, tại mỗi mức EBIT khác nhau thì mức tác độ tác động của đòn bẩy tài chính
cũng khác nhau. Đây cũng là một trong những thước đo mức độ rủi ro tài chính của
doanh nghiệp.
c. Độ bẩy tài chính và rủi ro tài chính
Rủi ro tài chính có thể được hiểu là rủi ro do biến động lợi nhuận trên mỗi cổ
phần và mất khả năng thanh toán phát sinh do công ty sử dụng đòn bẩy tài chính. Khi
công ty gia tăng tỷ trọng nguồn tài trợ có chi phí cố định trong cơ cấu nguồn vốn thì
dòng tiền tệ cố định chi ra để trả lãi hoặc cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi cũng gia tăng. Từ
đó làm cho xác suất mất khả năng thanh toán cũng tăng theo. Chẳng hạn, công ty A và
B đều có EBIT là 300 triệu. công ty A không sử dụng nợ, công ty B phát hành thêm
4000 triệu trái phiếu vĩnh cửu với lãi suất 15%/năm. Như vậy hàng năm công ty B
phải trả 600 triệu tiền lãi. Nếu EBIT của 2 công ty giảm xuống còn 100 triệu thì công
ty lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán trong khi công ty A thì không.
3. Tổng hợp đòn bẩy hoạt động và đòn bẩy tài chính
Khi đòn bẩy tài chính được sử dụng kết hợp với đòn bẩy hoạt động chúng ta có
đòn bẩy tổng hợp. Như vậy, đòn bẩy tổng hợp là việc công ty sử dụng kết hợp cả chi
phí hoạt động và chi phí tài trợ cố định.Khi sử dụng kết hợp, đòn bẩy hoạt động và
đòn bẩy tài chính có tác động đến EPS khi số lượng tiêu thụ thay đổi, tác động này
được thể hiện qua 2 bước. Bước thứ nhất, số lượng tiêu thụ thay đổi làm thay đổi
EBIT (tác động của đòn bẩy hoạt động). Bước thứ 2, EBIT thay đổi làm thay đổi EPS
(tác động của đòn bẩy tài chính). Mức độ tác động của đòn bẩy tổng hợp có thể được
hiểu là thước đo phản ánh tỷ lệ thay đổi của tỷ suất lợi nhuận trên cổ phần thường
(EPS) khi doanh thu tiêu thụ hay sản lượng tiêu thụ có sự thay đổi. Có thể biểu hiện
mức độ tác động của đòn bẩy tổng hợp theo công thức:
Tỷ lệ thay đổi của EPSMức độ tác động của đòn =
bẩy tổng hợp(DTL-degree Tỷ lệ thay đổi của sản lượng (hoặc doanh thu)
of total leverage)
Về mặt tính toán DTL chính là tích số của độ bẩy hoạt động với độ bẩy tài chính:
Tỷ lệ thay đổi của EBIT x Tỷ lệ thay đổi của EPSDTL =
Tỷ lệ thay đổi của sản lượng Tỷ lệ thay đổi của EBIT(hoặc doanh thu)
DTLQ(hoặc S)= DOL x DFL
Khi thay các công thức DOL và DFL theo Q, P, V, F, I… vào thì DTL có thể viết là:
Q(P-V) Hoặc Q(P-V) (Nếu PD=0)DTLQ =
Q(P-V)-F-I-[PD/(1-t)] Q(P-V)-F-I
EBIT+F Hoặc EBIT+F (Nếu PD=0)DTLs =
EBIT- I- [PD/(1-t)] EBIT-I
Trong đó: PD là cổ tức trả cho cổ phiếu ưu đãi
I là lãi vay; t là thuế suất thuế TNDN
P :giá bán đơn vị sp ; Q : số lượng sp sản xuất và tiêu thụ
V : chi phí biến đổi của mỗi đơn vị sp ; F : chi phí cố định
Ý nghĩa của đòn bẩy tổng hợp:
Ở mỗi mức doanh thu hay sản lượng khác nhau thì mức độ tác động của đòn bẩy
tổng hợp cũng khác nhau. DTL cũng là một thước đo cho phép đánh giá mức độ rủi ro
tổng thể của daonh nghiệp bao gồm cả rủi ro hoạt động và rủi ro tài chính. Khi xem
xét, đành giá DTL nhà quản trị tài chính cầm phối hợp DOL và DFL để làm EPS tăng
lên nhưng đồng thời phải đảm bảo an toàn tài chính cho daonh nghiệp.
DTL cho biết khi doanh thu hoặc sản lượng tiêu thụ tăng lên hoặc giảm đi 1% thì tỉ
suất lợi nhuận trên cổ phần thường (EPS) tăng lên hay giảm đi bao nhiêu %
VD1: Công ty Albert chuyên sản xuất kinh doanh loại sản phẩm A có tổng nhu
cầu vốn kinh doanh là 2000 trđ, trong đó vốn vay là 1200 trđ với lãi suất là 12%/năm
năm tới, công ty dự kiến có khả năng tiêu thụ 100000 sản phẩm với giá bán dự kiến là
50000 đ/sp, chi phí biến đổi cho 1 sp là 34000 đ và tổng chi phí cố định trong năm là
450 trđ (không bao gồm lãi vay).
Với mức sản lượng 100000 sp mức độ tác động của đòn bẩy tổng hợp được xác định
như sau:
Q(P- V)DTLQ =
Q(P- V)-F- I
Với I= 1200x12%= 144 trđ
100000(50000- 34000)
Thay số ta có DTL100000= = 1.59
100000(50000- 34000)- 450000000- 144000000
Như vậy ở mức sản lượng 100000 sp nếu sản lượng tăng thêm hoặc giảm đi 1% thì
EPS tăng thêm hoặc giảm đi 1.59%
VD2 : Công ty sản xuất xe đạp có đơn giá bán là 50$, chi phí biến đổi đơn vị là
25$,chi phí cố định là 100000$. Giả sử cho biết thêm công ty sử dụng nguồn tài trợ từ
nợ vay 200000$ với lãi suất 8%/năm và thuế suất thuế thu nhập của công ty là 25%.
DTL ở mức sản lượng 8000 chiếc sẽ được tính là :
8000(50-25)DTL8000= =2.38
8000(50-25)-100000-16000
Như vậy ở mức sản lượng 8000 chiếc nếu doanh nghiệp tăng hoặc giảm sản lượng
sản xuất 1% thì EPS sẽ tăng thêm hoặc giảm đi 2.38%
II/ Liên hệ thực tế về tác động của đong bẩy hoạt động , đòn bẩy tài chính
tới lợi nhuận và rủi ro của công ty cổ phần xi măng X18
1. Giới thiệu chung về công ty
Công ty cổ phần xi măng X18 thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng được thành
lập vào ngày 14/4/1977 theo quyết định số 92/QĐ- QP ngày 14/4/1977 của Bộ trưởng
Bộ quốc phòng, trên địa bàn: Xã Ngọc Lương – Huyện Yên Thủy – Tỉnh Hòa Bình.
Chuyên sản xuất xi măng thường PCB30– PCB40 và xi măng bền Sunphát
PCsr30– PCsr40 (xi măng chịu mặn) và kinh doanh vật liệu xây dựng, xây lắp thiết bị.
Năm 2000 công ty là đơn vị đầu tiên của Tổng cục CNQP và là doanh nghiệp thứ
hai của toàn quân được cấp chứng chỉ ISO 9001 : 1994. Năm 2003, Công ty chuyển
đổi sang phiên bản quản lý chất lượng ISO 9001 : 2000 và hiện nay công ty đang áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 : 2008 .
Cũng trong năm 2003 bằng nguồn vốn tự có, công ty tiếp tục đầu tư mở rộng sản
xuất xây dựng lò nung Klinke số 2, nâng tổng công suất nhà máy lên 10 vạn tấn/ năm.
Sang đến năm 2007, sản lượng của Công ty đã nhanh chóng đạt con số mới, 13,5 vạn
tấn/ năm, nâng vượt công suất thiết kế 135 %.
Hiện tại, hơn 380 cán bộ công nhân viên trong Công ty có mức thu nhập bình quân
đạt gần 3.000.000 đồng/ người/tháng. Hằng năm, Công ty thường xuyên đảm bảo chế
độ khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ, công nhân viên lao động.
Cùng với sự phát triển của đất nước, Công ty Cổ phần Xi măng X18 đang nỗ lực
vươn mình và khẳng định thương hiệu, chất lượng “Xi măng quốc phòng X18” trong
các công trình xây dựng và uy tín trên thị trường.
2. Phân tích cơ cấu nguồn vốn
Năm
Chỉ tiêu
2010
1. Nợ phải trả 176.718.162.641,5
2. Nguồn vốn chủ sở hữu 44343906395,5
3. Tổng nguồn vốn (Tổng TS) 221.062.169.037
4. Hệ số nợ 79,94%
5. Hệ số vốn chủ sở hữu 20,06%
6. Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu 4
Hệ số nợ của công ty năm 2010 rất cao. Các khoản vay của công ty chiếm một tỷ
trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Thông thường doanh nghiệp sẽ
không để tỷ lệ nợ cao như thế này.
Năm 2010, hệ số nợ là 79,94%, có nghĩa là cứ 100 đồng tài sản của công ty thì đã
có 79,94 đồng nợ. Hệ số nợ của công ty năm 2010 cao là do khả năng tự chủ tài chính
của công ty đang giảm sút. Đối với các doanh nghiệp thì họ thích tỷ lệ này cao bởi vì
sử dụng nguồn nợ trong hoạt động kinh doanh của công ty, họ có thể tạo ra nhiều lợi
nhuận hơn trong khi đó không sử dụng nguồn vốn của mình, nhưng tỷ lệ nợ cao thì
công ty có thể gặp rủi ro về tài chính cao hơn, đồng thời với đó là việc vay thêm vốn
từ các đơn vị khác cũng gặp nhiều khó khăn bởi họ lo lắng về khả năng thanh toán khi
tỷ lệ nợ ở mức cao.
Năm 2010, hệ số vốn chủ sở hữu của công ty là 20,06%, có nghĩa là cứ 100 đồng
tài sản của công ty thì có 20,06 đồng vốn chủ. Hệ số vốn chủ sở hữu của công ty năm
2010 thấp cho thấy khả năng tự chủ tài chính của công ty là thấp. Công ty cần điều
chỉnh để tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu để tránh gặp rủi ro về tài chính, và tránh gặp nhiều
khó khăn khi họ lo lắng về khả năng thanh toán của oanh nghiệp khi hệ số vốn chủ sở
hữu ở mức cao.
Năm 2010, kinh tế đang trong giai đoạn khủng hoảng, vì vậy để tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh bình thường, hoặc mở rộng thêm quy mô sản xuất, doanh
nghiệp cũng cần một lượng vốn không phải là nhỏ, chính vì vậy, điều chỉnh hệ số nợ
để phù hợp với tình hình tài chính của công ty là điều rất cần thiết. Công ty không thể
giảm nợ vì sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu vốn hiện tại của doanh nghiệp, do vậy tăng
nguồn vốn chủ sở hữu là điều rất quan trọng đối với công ty, đồng thời với đó công ty
có thể thực hiện một số biện pháp như cải tiến tình hình tài chính của công ty, sử dụng
hiệu quả nguồn vốn vay, tăng vòng quay vốn… để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn vay.
Qua việc phân tích chung tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua việc
đánh giá cơ cấu nguồn vốn của công ty thì chúng ta có thể thấy rằng việc phân bổ vốn
của doanh nghiệp chưa tốt. Nợ phải trả chiếm một tỷ lệ khá cao trong cơ cấu nguồn
vốn của doanh nghiệp, cho thấy khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp ở mức thấp, nếu
công ty sử dụng tốt đòn bẩy tài chính thì công ty sẽ phát triển rất nhanh nhờ “lá chắn
thuế” của các khoản đi vay, nhưng nếu công ty không sử dụng tốt các khoản nợ thì
nguy cơ công ty rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán là rất cao.
3. Phân tích đòn bẩy hoạt động
Bảng ảnh hưởng của đòn bẩy hoạt động lên lợi nhuận
DOL (2009)=29.28/10=2.928
DOL (2010)=30.28/10=3.028
Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010
A/ Trước khi thay đổi doanh thu
1. Doanh thu 98409301549 73340470987
2. Chi phí kinh doanh 89284046463 67782543692
3. Chi phí cố định 17597066514 11269062302
4. Chi phí biến đổi 71686979949 56513481390
5. Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
(EBIT)
9125255086 5557927295
6. Tỷ số đòn bẩy hoạt động
7. Chi phí cố định/Tổng chi phí (%) 19.71% 16.625%
8. Chi phí cố định/Doanh thu (%) 17.88% 15.36%
B/ Sau khi doanh thu giảm 10%
1. Doanh thu 88568371394 66006423888
2. Chi phí kinh doanh 82115348468 62131195553
3. Chi phí cố định 17597066514 112690623024. Chi phí biến đổi 64518281954 50862133251
5. Lợi nhuận trước thuế và lãi vay 6453022926 3875228335
6. Phần trăm thay đổi EBIT (29.28%) (30.28%)
Độ bẩy hoạt động (DOL)
ở mức doanh thu
Phần trăm thay đổi
lợi nhuận hoạt động
Phần trăm thay đổi
doanh thu
=
Độ bẩy hoạt động 2 năm đều dương chứng tỏ công ty đã vượt qua điểm hòa vốn.
Độ bẩy hoạt động năm 2009 bằng 2.928 có nghĩa là từ mức doanh thu 98409301549
Đ cứ 1% thay đổi trong doanh thu sẽ đưa đến 2.928% thay đổi trong lợi nhuận theo
cùng chiều với thay đổi của doanh thu. Tức là doanh thu tăng 10% sẽ làm cho lợi
nhuận tăng 29.28%. Độ bẩy hoạt động của năm 2010 bằng 3.028 có nghĩa là từ mức
doanh thu 73340470987Đ cứ 1% thay đổi trong doanh thu sẽ đưa đến 3.028% thay
đổi trong lợi nhuận theo cùng chiều với thay đổi của doanh thu. Tức là doanh thu tăng
10% sẽ đem đến lợi nhuận tăng 30.28%.
Việc tăng trong độ bẩy hoạt động của năm 2010 so với năm 2009 thể hiện khi
doanh thu thay đổi thì lợi nhuận năm 2010 nhạy cảm hơn và rủi ro cũng hơn so với
năm 2009.
4. Phân tích đòn bẩy tài chính
Bảng ảnh hưởng của đòn bẩy lên lợi nhuận khi công ty sử dụng vốn vay trong 2
năm 2009 và 2010:
Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010I: Tính lợi nhuận trước thuế và lãi vay1. Doanh thu 98409301549 73340470987
2. Tổng chi phí cố định 17597066514 112690623023. Tổng chi phí biến đổi 71686979949 56513481390
4. Tổng chi phí sản xuất kinh doanh 89284046463 677825436925. Lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT) 9125255086 5557927295II: Tính EPS trong TH không sử dụng vốn vay1. Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) 9125255086 55579272952. Lãi tiền vay 0 03. Lợi nhuận trước thuế 9125255086 55579272954. Thuế thu nhập doanh nghiệp (25%) 2281313771,5 13894818245. Lợi nhuận sau thuế 6843941315,5 4168445471Lợi nhuận trên mỗi cổ phần (EPS) 2013 1366,7III: Tính EPS trong TH có sử dụng vốn vay1. Lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT) 9125255086 55579272952. Chi phí lãi vay 324678473 11363360523. Lợi nhuận trước thuế 8800576613 4421591243
4. Thuế thu nhập doanh nghiệp 867237519 3416892255. Lợi nhuận sau thuế 7933339094 4079902018Lợi nhuận trên mỗi cổ phần (EPS) 2601 1200Phần trăm thay đổi EBIT (%) 0 0Phần trăm thay đổi EPS (%) 29,21% (12,2%)
Nhận xét: Từ việc phân tích EBIT và EPS trong trường hợp doanh nghiệp không
sử dụng vốn vay, sau đó đối chiếu so sánh với số liệu thực tế của công ty chúng ta có
thể rút ra một số nhận xét như sau:
Năm 2009 công ty sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay do nếu sử dụng vốn vay thì
mức tăng EPS là 29,21%, cao hơn mức tăng EBIT là 0% so với khi không sử dụng
vốn vay. Cụ thể, nếu không dùng vốn vay, doanh nghiệp có thể đạt EPS là 2013 đồng,
trong khi đó công ty sử dụng vốn vay để hoạt động kinh doanh thì EPS đạt 2610 đồng
Nhưng năm 2010, công ty đã tăng vay nợ đồng thời hiệu quả sử dụng vốn vay giảm
làm cho khi chưa sử dụng với khi đã sử dụng vốn vay thì EBIT không đổi còn EPS
giảm 12,2%.
Mức độ tác động của đòn bẩy tài chính (DFL – Degree of Financial Leverage).
Mức độ của đòn bẩy tài chính = (tỉ lệ thay đổi EPS)/(tỉ lệ thay đổi EBIT)
Hay DFL = EBIT: (EBIT- I)
- Năm 2009: DFL = 9125255086: (9125255086- 324678473) = 1,037
- Năm 2010: DFL = 5557927295: (5557927295–1136336052) = 1,257
Điều đó có nghĩa là: tại mức lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) là
5557927295 đồng thì nếu công ty tăng thêm hoặc giảm bớt đi 1% số lợi nhuận này thì
tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu sẽ tăng thêm hoặc giảm đi 1,257%. Tại mức lợi
nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) là 9125255086 đồng thì nếu công ty tăng thêm
hoặc giảm bớt đi 1% số lợi nhuận này thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu sẽ
tăng thêm hoặc giảm đi 1,037%.
5. Phân tích đòn bẩy tổng hợp
Mức độ tác động của đòn bẩy tổng hợp DTL – Degree Total Leverage
DTL = (EBIT + F) : (EBIT – I)
- Năm 2009, tại mức EBIT = đồng thì
DTLs = (9125255086 + 17597066514) : (9125255086 – 324678473) = 3,036
- Năm 2010, tại mức EBIT = 5557927295 đồng thì:
DTLs = (5557927295 + 11269062302) : (5557927295–1136336052) = 3,8056
Từ đó ta thấy năm 2009 tại mức doanh thu 94841973758 đồng, nếu doanh thu tăng
thêm hoặc bớt đi 1% thì EPS sẽ tăng thêm hoặc giảm đi 3,036%. Năm 2010, tại mức
doanh thu 76907798778 đồng, nếu doanh thu tăng thêm hoặc bớt đi 1% thì EPS sẽ
tăng thêm hoặc giảm đi 3,8056%.
Đòn bẩy tổng hợp là việc công ty sử dụng kết hợp đòn bẩy hoạt động với đòn bẩy
tài chính. Đòn bẩy tổng hợp tác động đến EPS khi doanh thu thay đổi qua hai bước:
bước doanh thu thay đổi làm thay đổi lợi nhuận hoạt động, và bước lợi nhuận trước
thuế và lãi vay thay đổi làm thay đổi EPS. Ở năm 2009, độ bẩy tài chính bằng 1,037
nên công ty chỉ chịu sự tác động của đòn bẩy hoạt động là 2,928. Sang năm 2010, đòn
bẩy hoạt động lại tiếp tục tăng đồng thời các khoản nợ vay đã bắt đầu phát huy tính
hiệu quả làm độ bẩy tài chính tăng đến 1,257 dẫn đến độ bẩy tổng hợp cao hơn năm
2009, ở mức 3,8056. Độ bẩy tổng hợp năm 2010 tác động lớn hơn năm 2009 làm EPS
biến động nhiều hơn khi doanh thu thay đổi, hay lợi nhuận trên mỗi cổ phần có thể
tăng nhanh hơn và rủi ro cũng lớn hơn khi doanh thu giảm.
Kết luận
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, muốn tồn tại và phát triển được thì các doanh
nghiệp phải thích nghi được với sự biến đổi liên tục của nền kinh tế trên thế giới cũng
như nền kinh tế ở trong nước. Hội nhập tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp
nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều thách thức và rủi ro. Chính vì vậy các doanh
nghiệp phải luôn cố gắng tận dụng các cơ hội, sử dụng các thế mạnh làm đòn bẩy để
phát triển bền vững.