nỘi dung Ôn tẬp tẠi nhÀ phẦn 1: Ôn tẬp kiẾn thỨc cŨ i. … · với đồng bào,...
TRANSCRIPT
1
NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ
PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ
I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Kiến thức cần nhớ
a. Các phương thức biểu đạt
Phương thức Đặc điểm nhận diện Thể loại
Tự sự
Trình bày các sự việc (sự kiện) có
quan hệ nhân quả dẫn đến kết
quả. (diễn biến sự việc)
- Bản tin báo chí
- Bản tường thuật, tường trình
- Tác phẩm văn học nghệ thuật
(truyện, tiểu thuyết)
Miêu tả Tái hiện các tính chất, thuộc tính
sự vật, hiện tượng, giúp con
người cảm nhận và hiểu được
chúng.
- Văn tả cảnh, tả người, vật...
- Đoạn văn miêu tả trong tác phẩm tự
sự.
Biểu cảm
Bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp
tình cảm, cảm xúc của con người
trước những vấn đề tự nhiên, xã
hội, sự vật...
- Điện mừng, thăm hỏi, chia buồn
- Tác phẩm văn học: thơ trữ tình, tùy
bút.
Thuyết minh Trình bày thuộc tính, cấu tạo,
nguyên nhân, kết quả có ích hoặc
có hại của sự vật hiện tượng, để
người đọc có tri thức và có thái
độ đúng đắn với chúng.
- Thuyết minh sản phẩm
- Giới thiệu di tích, thắng cảnh, nhân
vật
- Trình bày tri thức và phương pháp
trong khoa học.
Nghị luận Trình bày ý kiến đánhgiá, bàn
luận, trình bày tư tưởng, chủ
trương quan điểm của con người
đối với tự nhiên, xã hội, qua các
luận điểm, luận cứ và lập luận
thuyết phục.
- Cáo, hịch, chiếu, biểu.
- Xã luận, bình luận, lời kêu gọi.
- Sách lí luận.
- Tranh luận về một vấn đề trính trị, xã
hội, văn hóa.
Hành chính –
công vụ
- Trình bày theo mẫu chung và
chịu trách nhiệm về pháp lí các ý
kiến, nguyện vọng của cá nhân,
tập thể đối với cơ quan quản lí.
- Đơn từ
- Báo cáo
- Đề nghị
b. Các phong cách ngôn ngữ
Phong cách ngôn ngữ Đặc điểm nhận diện
1 Phong cách ngôn ngữ
khoa học
Dùng trong những văn bản thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập
và phổ biến khoa học, đặc trưng cho các mục đích diễn đạt
chuyên môn sâu
2 Phong cách ngôn ngữ
báo chí (thông tấn)
Kiểu diễn đạt dùng trong các loại văn bản thuộc lĩnh vực
truyền thông của xã hội về tất cả các vấn đề thời sự.
3 Phong cách ngôn ngữ
chính luận
Dùng trong lĩnh vực chính trị - xã hội, người giao tiếp thường
bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm tư tưởng, tình
cảm của mình với những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội
2
4 Phong cách ngôn ngữ
nghệ thuật
-Dùng chủ yếu trong tác phẩm văn chương, không chỉ có chức
năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con
người; từ ngữ trau chuốt, tinh luyện…
5 Phong cách ngôn ngữ
hành chính
-Dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực giao tiếp điều hành và
quản lí xã hội.bb
6 Phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt
- Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày, mang tính tự
nhiên, thoải mái và sinh động, ít trau chuốt…trao đổi thông tin,
tư tưởng, tình cảm trong giao tiếp với tư cách cá nhân
c. Các thao tác lập luận
TT Thao tác
lập luận
Đặc điểm nhận diện
1 Giải
thích
Giải thích là vận dụng tri thức để hiểu vấn đề nghị luận một cách rõ
ràng và giúp người khác hiểu đúng ý của mình.
2 Phân
tích
Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều bộ phận,
yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong
của đối tượng.
3 Chứng
minh
Chứng minh là đưa ra những cứ liệu – dẫn chứng xác đáng để làm sáng
tỏ một lí lẽ một ý kiến để thuyết phục người đọc người nghe tin tưởng
vào vấn đề. ( Đưa lí lẽ trước - Chọn dẫn chứng và đưa dẫn chứng. Cần
thiết phải phân tích dẫn chứng để lập luận CM thuyết phục hơn. Đôi khi
thuyết minh trước rồi trích dẫn chứng sau.)
4 Bác bỏ Bác bỏ là chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó đưa ra nhận định
đúng đắn và bảo vệ ý kiến lập trường đúng đắn của mình.
5 Bình
luận
Bình luận là bàn bạc đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng… đúng hay
sai, hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại…; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử
phù hợp và có phương châm hành động đúng.
6 So sánh So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật,
đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để chỉ ra những nét giống
nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự
vật mà mình quan tâm.
Hai sự vật cùng loại có nhiều điểm giống nhau thì gọi là so sánh tương
đồng, có nhiều điểm đối chọi nhau thì gọi là so sánh tương phản.
d. Các biện pháp tu từ
Biện pháp tu từ Hiệu quả nghệ thuật (Tác dụng nghệ thuật)
So sánh Giúp sự vật, sự việc được miêu tả sinh động, cụ thể tác động
đến trí tưởng tượng, gợi hình dung và cảm xúc
Ẩn dụ Cách diễn đạt mang tính hàm súc, cô đọng, giá trị biểu đạt
cao, gợi những liên tưởng ý nhị, sâu sắc.
Nhân hóa Làm cho đối tượng hiện ra sinh động, gần gũi, có tâm trạng và
có hồn gần với con người
3
Hoán dụ Diễn tả sinh động nội dung thông báo và gợi những liên tưởng
ý vị, sâu sắc
Điệp từ/ngữ/cấu
trúc
Nhấn mạnh, tô đậm ấn tượng – tăng giá trị biểu cảm, tạo âm
hưởng nhịp điệu cho câu văn, câu thơ.
Nói giảm Làm giảm nhẹ đi ý muốn nói (đau thương, mất mát) nhằm thể
hiện sự trân trọng
Thậm xưng Tô đậm, phóng đại về đối tượng
Câu hỏi tu từ Bộc lộ, xoáy sâu cảm xúc (có thể là những băn khoăn, ý
khẳng định…)
Đảo ngữ Nhấn mạnh, gây ấn tượng sâu đậm về phần được đảo lên
Đối Tạo sự cân đối, đăng đối hài hòa
Im lặng Tạo điểm nhấn, gợi sự lắng đọng cảm xúc
Liệt kê Diễn tả cụ thể, toàn diện nhiều mặt
e. Các phép liên kết (liên kết các câu trong văn bản):
Các phép liên kết Đặc điểm nhận diện
Phép lặp Lặp lại ở câu đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước
Phép thế Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế
các từ ngữ đã có ở câu trước
Phép nối Sử dụng ở câu sau các từ ngữ biểu thị quan hệ (nối kết)với
câu trước
2. Một số bài tập thực hành:
Đề 1:
Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu dưới đây:
“Trên đường đời của bạn cũng có lúc vấp ngã. Tôi cũng vậy. Ngay cả người
tài giỏi, khôn ngoan nhất cũng có lúc vấp ngã. Vấp ngã là điều bình thường, chỉ có
những người không bao giờ đứng dậy sau vấp ngã mới là người thật sự thất bại. Điều
chúng ta cần ghi nhớ là, cuộc sống không phải là một cuộc thi đỗ - trượt. Cuộc sống
là một quá trình thử nghiệm các biện pháp khác nhau cho đến khi tìm ra một cách
thích hợp. Những người đạt được thành công phần lớn là người biết đứng dậy từ sai
lầm ngớ ngẩn của mình bởi họ coi thất bại, vấp ngã chỉ là tạm thời và là kinh nghiệm
bổ ích. Tất cả những người thành đạt mà tôi biết đều có lúc phạm sai lầm. Thường thì
họ nói rằng sai lầm đóng vai trò quan trọng đối với thành công của họ. Khi vấp ngã,
họ không bỏ cuộc. Thay vì thế, họ xác định vấn đề của mình là gì, cố gắng cải thiện
tình hình và tìm kiếm giải pháp sáng tạo hơn để giải quyết. Nếu thất bại năm lần, họ
cố gắng đứng dậy năm lần, mỗi lần một cố gắng hơn, Winston Churchill đã nắm bắt
được cốt lõi của quá trình này khi ông nói: "Sự thành công là khả năng đi từ thất bại
này đến thất bại khác mà không đánh mất nhiệt huyết và quyết tâm vươn lên".
(Nick Vujicic Cuộc sống không giới hạn, NXB tổng hợp tp HCM, 2013, tr 236)
Câu 1. Tác giả quan niệm như thế nào về chuyện vấp ngã trong cuộc sống?
Câu 2. Theo tác giả, người thực sự thất bại là người như thế nào?
4
Câu 3. Anh, chị có đồng tình với quan điểm của Winston Churchill được nêu trong
đoạn trích: “Sự thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không
đánh mất nhiệt huyết và quyết tâm vươn lên"? Vì sao?
Câu 4: Từ nội dung phần đọc - hiểu, hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày
suy nghĩ của anh/ chị về ý nghĩa của việc thất bại trong cuộc sống.
Đề 2:
Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu dưới đây:
Mỗi người đều phải leo lên những bậc thang đời mình. Có những mơ ước xa:
đến đỉnh cao nhất. Có người ước mơ gần: một hai bậc, rồi sau đó, một hai bậc tiếp
theo. Có người cứ lặng lẽ tiến bước theo mục tiêu của mình, gạt bỏ mọi thị phi. Có
người đi chu du một vòng thiên hạ, nếm đủ đắng cay rồi mới chịu trở về với ước mơ
ban đầu… Tôi nhận ra rằng, ước mơ chẳng đưa ta đến đâu cả, chỉ có cách thức mà
bạn thực hiện ước mơ mới đưa bạn đến nơi bạn muốn.
Nếu tất cả đều là doanh nhân thành đạt thì ai sẽ quét rác trên những đường
phố? Nếu tất cả là bác sĩ nổi tiếng trên thế giới thì ai sẽ là người dọn vệ sinh bệnh
viện? Nếu tất cả đều là nhà khoa học thì ai sẽ là người tưới nước những luống rau?...
Phần đông chúng ta cũng sẽ là người bình thường. Nhưng điều đó không thể
ngăn cản chúng ta vươn lên từng ngày. Bởi luôn có một đỉnh cao cho mỗi nghề bình
thường.
(Phạm Lữ Ân, Nếu biết trăm năm là hữu hạn, NXB Hội nhà văn, 2017)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Tại sao tác giả cho rằng: “ước mơ chẳng đưa ta đến đâu cả, chỉ có cách thức
mà bạn thực hiện ước mơ mới đưa bạn đến nơi bạn muốn”.
Câu 3. Việc tác giả nhắc đến những doanh nhân thành đạt, những người quét rác,
những bác sĩ nổi tiếng, những người dọn vệ sinh có ý nghĩa gì?
Câu 4. Anh/ chị có đồng tình với quan niệm: “Phần đông chúng ta cũng sẽ là người
bình thường. Nhưng điều đó không thể ngăn cản chúng ta vươn lên từng ngày. Bởi
luôn có một đỉnh cao cho mỗi nghề bình thường” không? Vì sao?
Đề 3:
Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu dưới đây:
“Anh bạn thân yêu! Giờ đây tôi đang ở trên thiên đàng – một thế giới diệu kì
mà lung linh biết mấy. Nơi này chẳng có ngày hay đêm. Mặt trời, vầng trăng và cả
những vì sao lấp lánh cùng nhau tỏa sáng, không gian lúc nào cũng trong veo như
pha lê. Mẹ và anh trai tôi đang mỉm cười cùng những linh hồn khác. Chúng tôi không
có quốc gia, không phải di cư, không phân biệt tôn giáo, không có khủng bố hay bạo
lực… Tất cả đều như nhau – những linh hồn bay nhẹ nhõm thanh thản và yên bình.
Giờ đang là giao thừa. Từ trên đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn cả trái đất.
Ngắm nhìn những chùm pháo hoa lộng lẫy bung nở trong màn đêm và lắng nghe tiếng
chuông ngân vang. Dưới đó là những mảng màu tương phản. Có những nơi rực rỡ
trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng
súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… Chao ôi, cuộc
sống nơi trần thế! Giờ thì tất cả đã xa vời”.
(Trích bức thư đoạt giải Nhất, Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 45)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên.
Câu 2. Phân tích hiệu quả của biện pháp nghệ thuật trong đoạn văn sau:“Có những nơi
rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong
tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… ”
Câu 3. Xác định phương thức biểu đạt chính.
5
Câu 4. Qua việc dựng lên hai thế giới đối lập giữa trần gian và thiên đàng, tác giả bức
thư muốn gửi gắm ước mơ gì?
Đề 4:
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:
Đừng phiến diện
Tôi đọc báo, lướt Facebook hay thấy những so sánh quá khập khiễng của nhiều
người khi dẫn chứng những điều tiến bộ ở Mỹ, Anh, Pháp, Thụy Điển... và đặt vấn đề
tại sao Việt Nam không làm được điều đó.
Dĩ nhiên so sánh là một trong những tiền đề để tạo sự thay đổi và phát triển,
nhưng chúng ta đem so một đất nước đang phát triển không đồng đều với những quốc
gia giàu có văn minh nhất nhì thế giới và thất vọng. Có đáng không?
Đôi khi, một vài người bạn, đồng nghiệp từng học ở nước ngoài về cũng hay sa
vào so sánh, thất vọng, thậm chí sốc nặng vì cho rằng con người ở Việt Nam quá tồi
tệ. Tôi ước gì họ kể cho tôi nghe những điều tốt đẹp ở nước bạn, thay vì không tiếc lời
chỉ trích cuộc sống và con người ở quê hương mình. Tôi chỉ mong trước khi chúng ta
sợ hãi hay lo lắng một vấn đề gì hệ trọng của một quốc gia thì nên cân nhắc. Chúng ta
đã nhìn đa chiều, đã thử lý giải hay chưa. Và nhất là khi một trong số chúng ta là
người có lượng theo dõi lớn trên mạng xã hội, mỗi nhận xét của chúng ta sẽ ảnh
hưởng tới nhiều người.
Dường như ta dễ phán xét nhưng luôn thiếu một điều cơ bản: suy nghĩ thấu đáo.
Sự thấu đáo sẽ dẫn dắt bạn đến sự bao dung, nhìn nhận vấn đề một cách nhẹ nhàng.
Nếu có một du khách than phiền với tôi họ bị giật đồ, tôi sẽ nói đó chỉ là một vài
hình ảnh xấu xí mà thôi. Chúng tôi vẫn có những cơ quan trợ giúp du khách, có những
bạn trẻ sẵn sàng làm hướng dẫn viên không công, cả những người dân bình thường
tốt bụng dễ gần. Đời còn nhiều người tử tế, có điều bạn không chịu "thấy" thôi.
(Trích Nhiều người tử tế lắm, là bạn không chịu 'thấy' thôi - Báo Tuổi trẻ.online)
Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản.
Câu 2: Theo người viết khi phán xét người ta luôn thiếu điều cơ bản gì?
Câu 3: Anh/ chị hiểu thế nào là “phiến diện".
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn (từ 7 – 9 dòng) trình bày suy nghĩ của anh chị về ý kiến
nêu ra ở phần Đọc - hiểu: "Đời còn nhiều người tử tế, có điều bạn không chịu “thấy”
thôi!
Đề 5:
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:
“Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền, cũng bén mùi làm quan. Nào
lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, nào chạy xuôi, dầu cố bán ruộng dầu
bán trâu cũng vui lòng, chỉ cần được lấy một chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng ngồi
trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những kẻ như thế mà vẫn không ai
khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi! Làng có một trăm dân mà
người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức
là luân lí cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau, chí như đối với dân kiều cư
kí ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng
nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không
có là cũng là vì thế”.
(Trích Đạo đức và luân lí Đông Tây của Phan Châu Trinh, SGK Ngữ văn 11, tập 2)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên?
Câu 2: Đọc đoạn văn trên anh/chị liên tưởng đến thực trạng nào của xã hội hiện nay?
Câu 3. Tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ nào? Ý nghĩa sử dụng của những
biện pháp ấy?
6
Câu 4. Từ nội dung đoạn trích trên, anh chị hãy viết một đoạn văn (5 - 7 dòng) trình
bày suy nghĩ của mình về việc thực hiện pháp luật Nhà nước của giới trẻ hiện nay?
Đề 6:
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Mất hàng triệu năm mới định hình những nếp nhăn ngôn ngữ trong não bộ, khó
khăn lắm con người mới có tiếng nói. Không có tiếng nước bạn dở, tiếng nước tôi hay.
Không có tiếng làng tôi nhẹ nhàng, làng bạn nặng trịch. Ý thức kì thị đó có thể lưu giữ
được "bản sắc" văn hóa làng xã nhưng nghèo tính tiến hóa biết bao. Tiếng nói của
nước nào cũng đáng kính trọng, bởi tiếng nói suy cho cùng là di sản từ tổ tiên loài
người sinh học có chung một nguồn cội, chung một cây tiến hóa. Một loại di sản đặc
biệt. Bởi nó không chỉ nằm trong kí ức mà nối dài trong hiện tại và bắc cầu đến tương
lai. Người ta thường dùng di sản vào những mục đích tốt đẹp. Tiếng nói cũng vậy. Xin
em đừng lộng ngữ tà ngôn. Biết dành những lời yêu thương cho cha mẹ. Dành những
lời tốt đẹp, trung thực cho bạn bè. Tuổi hoa chỉ nói những lời "hoa cười, ngọc thốt
đoan trang". Và muôn đời, lời nói thành thực vẫn là lời hay nhất. Bởi mất đi sự chân
thực, mất đi trách nhiệm trong lời nói, con người sẽ tuột dốc lỗi lầm.
(Trích Lắng nghe lời thì thầm của trái tim , Nhiều tác giả, NXB Văn hóa – Văn
nghệ TP. HCM, 2015, tr.33)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2. Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến cho rằng tiếng nói là: "Một loại di sản đặc biệt.
Bởi nó không chỉ nằm trong kí ức mà nối dài trong hiện tại và bắc cầu đến tương
lai."?
Câu 3. Nêu thông điệp văn bản gửi đến người đọc.
Đề 7:
Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Nhà” chỉ là một từ ngắn ngủi, nó không đồng nghĩa với sự bình yên, nhưng
chúng ta vẫn luôn khao khát rằng nó gắn với sự bình yên. Và khi nào “nhà” trái
nghĩa với bình yên thì đó là khởi đầu của sự bất hạnh.
Tôi tin rằng, mái nhà nào cũng từng có lúc đồng nghĩa với niềm vui và cả sự
bình yên. Nhưng bạn của tôi ơi, sự bình yên của nhà không phải là điều có sẵn.
“Nhà” là phần cứng, còn sự bình yên, hạnh phúc, niềm vui là phần mềm. Gia đình là
phần cứng, còn tình yêu và sự thấu hiểu là phần mềm.
Vậy cho nên, sự bình yên là thứ phải được thiết lập, và vì thế, có thể tái thiết
lập. Nếu ta là một phần của “nhà”, dù chỉ là một phần nhỏ, nếu ta thật mong muốn
mái nhà thân yêu của ta có được sự bình yên, hay lại có nó một lần nữa, thì ta phải
tham gia vào quá trình thiết lập đó. Bằng một nụ cười xoa dịu, bằng một câu nói vị
tha, bằng sự thương yêu nhẫn nhịn, bằng trái tim sẵn sàng sẻ chia, bằng một cái nắm
tay thấu hiểu, hay có thể bằng một giọt nước mắt. Dù thế nào cũng không phải bằng
sự buông xuôi. Để kéo những trái tim về gần với nhau. Để biến “nhà” thành một nơi
ta phải luyến tiếc khi rời xa và luôn mong mỏi quay về.
Bạn của tôi ơi, tôi còn nhớ khi chúng ta còn nhỏ, cùng ngồi chung một chiếc
ghế mây dưới tán mận trong vườn nhà, mẹ của bạn đã hát cho chúng ta nghe câu này:
“Ai qua là bao chốn xa, thấy đâu vui cho bằng mái nhà”
(Trích Ai qua là bao chốn xa…, Nếu biết trăm năm là hữu hạn – Phạm Lữ Ân,
PhuongNam Book, 2012)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2: Theo anh/chị, tại sao nhà và gia đình là phần cứng, còn sự bình yên, hạnh
phúc, niềm vui, tình yêu và sự thấu hiểu là phần mềm?
7
Câu 3: Tác giả viết “…sự bình yên là thứ phải được thiết lập, và vì thế, có thể tái thiết
lập”. Vậy từ văn bản, hãy cho biết làm thế nào để ta có thể tham gia vào quá trình
thiết lập đó?
Đề 8:
Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Tôi có đọc bài phỏng vấn Ngô Thị Giáng Uyên, tác giả cuốn sách được nhiều
bạn trẻ yêu thích “Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương”. Trong đó cô kể rằng khi
đi xin việc ở công ti Unilever, có người hỏi nếu tuyển vào không làm marketing mà
làm sales thì có đồng ý không. Uyên nói có. Nhà tuyển dụng rất ngạc nhiên bởi hầu
hết những người được hỏi câu này đều trả lời không. “Tại sao phỏng vấn marketing
mà lại làm sales ?”. Uyên trả lời: “Tại vì tôi biết, nếu làm sales một thời gian thì bộ
phận marketing sẽ muốn đưa tôi qua đó, nhưng đã quá muộn vì sales không đồng ý
cho tôi đi.”
Chi tiết này khiến tôi nhớ đến câu chuyện về diễn viên Trần Hiểu Húc. Khi đó
cô đến xin thử vai Lâm Đại Ngọc, đạo diễn Vương Phù Lâm đã đề nghị cô đóng vai
khác. Hiểu Húc lắc đầu “Tôi chính là Lâm Đại Ngọc, nếu ông để tôi đóng vai khác,
khán giả sẽ nói rằng Lâm Đại Ngọc đang đóng vai một người khác.” Đâu là điều
giống nhau giữa họ? Đó chính là sự tự tin. Và tôi cho rằng, họ thành công là vì họ tự
tin.
Có thể bạn sẽ nói: “Họ tự tin là điều dễ hiểu. Vì họ tài năng, thông minh, xinh
đẹp. Còn tôi, tôi đâu có gì để mà tự tin”. Tôi không cho là vậy. Lòng tự tin thực sự
không bắt đầu từ gia thế, tài năng, dung mạo … mà nó bắt đầu từ bên trong bạn, từ sự
hiểu mình. Biết mình có nghĩa là biết điều này: Dù bạn là ai thì bạn cũng luôn có trong
mình những giá trị nhất định.
(Theo Phạm Lữ Ân – Nếu biết trăm năm là hữu hạn, NXB Hội Nhà văn, 2012)
Câu 1: Văn bản trên sử dụng phương thức biểu đạt nào là chính ?
Câu 2: Xác định nội dung chính mà văn bản đề cập?
Câu 3: Tại sao tác giả cho rằng: Lòng tự tin thực sự không bắt đầu từ gia thế, tài năng,
dung mạo… mà nó bắt đầu từ bên trong bạn, từ sự hiểu mình ?
Câu 4: Rút ra thông điệp cho bản thân.
Đề 9:
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “(1) Cuộc sống vốn đã đủ phức tạp rồi, không cần phải trầm trọng hóa mọi thứ
thêm nữa. Nếu bạn có thể làm điều gì đó để đơn giản nó, hãy làm. Nếu không, hãy để
mọi thứ được tự nhiên! Nếu bạn thèm hamburger, hãy ăn hamburger. Nếu bạn thấy
mình quá béo, hãy giảm béo. Nếu bạn yêu ai đó, nói với họ. Nếu bạn chưa tìm thấy
đam mê thực sự, hãy thử nhiều công việc khác nhau cho đến khi tìm thấy nó. Nếu bạn
thích làm nhiều việc, hãy làm tất cả, lần lượt từng việc một. Bạn thấy chứ? Mọi thứ
không nghiêm trọng như chúng ta nghĩ. Chỉ có những ý nghĩ phức tạp mới khiến ta lo
lắng. Hãy suy nghĩ đơn giản, làm những gì mình muốn (miễn là hợp pháp và không
phương hại ai) và tận hưởng cuộc sống!
(2) Niềm vui khi nhận được điểm 9 sẽ sớm phai đi, nhưng lòng đố kị với kẻ
được điểm 10 sẽ còn vương lại mãi trong tâm trí. Đó là chuyện muôn thuở. Ta thường
thèm muốn nhiều hơn nhưng hiếm khi dừng lại để nhận ra những gì chúng ta thực sự
có. Chúng ta so sánh mình với người khác chỉ để thấy rằng hiện tại của ta không đủ
tốt. Và bằng cách đó, ta gây áp lực không cần thiết lên chính mình. Và đó là khởi
nguồn của mọi bi kịch.
Khao khát chinh phục những điều tốt hơn là việc đáng hoan nghênh, bởi lẽ nó
là nguồn động lực để ta hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, cũng cần phải trân trọng cái
8
nền tảng nơi ta đang đứng, những gì ta đang có trong tay. Đôi khi ta dồn sức chiến đấu
vì những điều to tát, mà bỏ qua những niềm vui hàng ngày: tiếng cười của con trẻ, sự
quan tâm chăm sóc của người thân, một cuốn sách hay, hay một mái nhà che chở ta
khỏi sương gió nắng mưa. Đừng bao giờ quên những điều nhỏ bé mà quý giá vô cùng
đó!”.
(Bình an nội tâm - Cân bằng cuộc sống, dẫn theo wallstreetenglish.edu.vn)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2. Nêu nội dung chính và thông điệp tác giả muốn gửi gắm ở đoạn (1) của văn
bản?
Câu 3. Theo anh/chị, vì sao mọi người lại “thường thèm muốn nhiều hơn nhưng hiếm
khi dừng lại để nhận ra những gì chúng ta thực sự có”?
Câu 4. Việc khao khát những điều tốt đẹp hơn và trân trọng những gì ta đang có trong
tay có mâu thuẫn nhau hay không? Hãy bàn luận trong 5 - 7 dòng.
Đề 10:
Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
(1) Ứng xử là thái độ, hành vi, lời nói thích hợp trong quan hệ giao tiếp giữa
người với người, giữa người với thiên nhiên. Thuật ngữ văn hóa đặt trước ứng xử có
nghĩa là tô đậm chiều cao phẩm chất, chiều rộng quan hệ của người ứng xử. Có con
người là có cách ứng xử giữa họ với nhau, giữa họ với môi trường sống. Nhưng văn
hóa ứng xử được hình thành từ khi văn minh phát triển ở một cấp độ nào đó nhằm
diễn đạt cách ứng xử con người đối với thiên nhiên, đối với xã hội và đối với chính
mình...
(2) Ở các nền văn hóa khác nhau có hệ chuẩn không giống nhau, nhưng vẫn có
giá trị chung. Đó là sống có lý tưởng, trung với nước, hiếu với cha mẹ, tình thương đối
với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn hóa
phương Đông, Khổng tử khuyên mọi người tu tâm dưỡng tín với sáu chữ: nhất nhật
tam tĩnh ngô thân. Đối với người Nhật, nhân cách văn hóa được công thức hóa: thiện,
ích, đẹp. Nước ta coi trọng mục tiêu giá trị: chân, thiện, mỹ. Ở châu Âu, người ta nói
tính cách, khi bàn giá trị nhân cách tiêu biểu dân tộc. Tính cách Nga được thể hiện ở
lòng đôn hậu, tình thủy chung, nghĩa cử quốc tế cao cả. Khẩu hiệu tri thức là sức
mạnh được nhiều nước tư bản châu Âu viện dẫn và ảnh hưởng tới hành động đã mấy
trăm năm. Bí quyết hàng đầu của người Do Thái là sự trọng học, đề cao vai trò của trí
tuệ, tôn sùng học vấn và tài năng. Để con gái lấy được học giả, hoặc lấy được con
người là học giả làm vợ thì không tiếc tài sản. Tuy nhiên, họ cũng coi tri thức mà thiếu
thực tiễn chẳng khác nào chú lừa chỉ biết thồ trên lưng sách vở.
Câu 1. Nêu nội dung chính của từng đoạn trong văn bản trên.
Câu 2. Xác định thao tác lập luận chủ yếu được sử dụng ở đoạn (1) và (2).
Câu 3. Hãy nên ít nhất 2 tiêu chí giao tiếp thể hiện văn hóa ứng xử trong cuộc sống
hàng ngày. Trả lời trong khoảng 3-5 câu.
Câu 4. Điều gì khiến anh chị tâm đắc nhất qua đoạn trích.
Đề 11: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Trang Tử nói: “Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt thức ăn, đi trăm
bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được sống trong
lồng”. Chúng ta có giống được những con gà rừng không ? Nếu chúng ta vì ưa thích
thóc gạo bày sẵn mà chịu chui vào chiếc lồng. Rồi từ sau những song tre đó, chúng ta
đòi trả tự do?
Từ xúc cơm, xếp quần áo, sách vở, đến chọn trường, chọn nghề, tìm việc, kiếm
sống, chọn chồng chọn vợ, chọn tương lai… Chúng ta sẽ quá quen với việc được sắp
9
sẵn. Chúng ta ưa làm việc đã được người khác lên kế hoạch hơn là tự mình vạch ra.
Chúng ta chuộng thói quen hơn sáng tạo. Chúng ta chỉ vui khi có người tâng bốc, chỉ
hết buồn nếu có người an ủi vuốt ve. Chúng ta thậm chí không muốn tự phân biệt sai
đúng trừ khi có người làm thay. Chúng ta không thể làm chủ đời mình. Cứ như vậy,
chúng ta đánh mất bản năng của gà rừng và biến thành con chim trong lồng lúc nào
không biết nữa. Thậm chí, một con chim trong rất nhiều lớp lồng.
[…] Robert Fulghum từng trở thành tác giả best seller với một cuốn sách có
tựa đề thú vị “Tất cả những gì cần phải biết tôi đều được học ở nhà trẻ”. Đó là những
nguyên tắc sống: chia sẻ, chơi công bằng, không đánh bạn, để đồ đạc vào chỗ cũ,
không lấy những gì không phải của mình, dọn dẹp những gì bạn bày ra, nói xin lỗi khi
làm tổn thương ai đó, rửa tay trước khi ăn, học một ít, suy nghĩ một ít, vẽ và hát và
nhảy múa và chơi và làm việc một ít mỗi ngày, ngủ trưa, có ý thức về những điều kỳ
diệu, cây cối và các con vật đều chết – và chúng ta cũng vậy, từ đầu tiên và quan
trọng nhất cần phải học: quan sát.
Hãy đếm xem:100 chữ. Những gì cần phải học chỉ như vậy. Chúng ta được học
ở nhà trẻ nhưng đã đánh rơi dần trong quá trình lớn lên. Cũng như khi sinh ra, ta đã
có sẵn bản năng độc lập nhưng lại đánh mất nó trong quá trình sống. Không có bản
năng độc lập, chúng ta không thể nắm giữ được tự do. Nghĩa là trước khi đòi tự do,
bạn phải tìm lại bản năng độc lập của mình.
(Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, Nxb Hội nhà văn, 2012, tr 135)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Vấn đề chính được tác giả nêu trong đoạn trích là gì ?
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói: “Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt
thức ăn, đi trăm bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được
sống trong lồng”?
Câu 4. Trong tất cả các nguyên tắc sống được học ở nhà trẻ, anh/chị thấy nguyên tắc nào có
giá trị với mình nhất ? Vì sao? (viết đoạn văn từ 8 đến 10 dòng)
Đề 12: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: Mẹ ẩn trong khăn bay về núi
Con buồn đứng ngóng tiếng gà trưa
Chợt thấy mái nhà xanh ngọn khói
Lá tre già rụng góc sân xưa.
Con muốn trở về thời thơ nhỏ
Úp mặt vào giếng nước mát trong
Lòng ngọt ngào như mùi hoa cỏ
Mẹ về mang hương lúa hương đồng
Ngày tết đẫm trong khăn áo mới
Hồn nhẹ tênh như cánh ong bay
Hoa mai rụng cánh vàng như xối
Chợt đầu năm rắc hại mưa gầy
(Mẹ và quê nhà - Từ Kế Tường)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên?
Câu 2: Những hình ảnh nào đã xuất hiện trong kí ức quê nhà của tác giả?
Câu 3: Ghi lại những câu thơ trong văn bản có sử dụng nghệ thuật so sánh. Phân tích tác dụng
của nghệ thuật so sánh trong một câu thơ cụ thể.
Câu 4: Tình cảm của tác giả được thể hiện thế nào trong đoạn thơ trên? (viết đoạn văn từ 8 đến
10 dòng)
10
PHẦN LÀM VĂN
VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
I. KHÁI QUÁT
1. Tác giả: Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá
khác nhau trên đất nước ta. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” tác giả nói
lên cuộc sống, con người vùng Tây Bắc.. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về
số phận bi thảm của người dân nghèo.
2. Tác phẩm: Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm
1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc
sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà thống lí Pá Tra; phần sau kể
về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách
mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mi đánh Pháp bảo vệ dân làng.
Đoạn trích trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm.
II. NỘI DUNG TÁC PHẨM
1. Nhân vật Mị
a. Mị - cô gái đủ điều kiện hưởng hạnh phúc nhưng bị vùi dập phũ phàng. - Mị là người phụ nữ có tài năng, co nhân phẩm cao đep : Mi thổi sáo giỏi “thổi
lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê…”; Mi hiếu thảo với cha già, Mi yêu
lao động….
- Mi co cuộc sống khốn khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước
đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: + Mị bị bóc lột sức lao động nặng nề
+ Mị bị hành hạ về thể xác và tinh thần sống tủi nhục hơn trâu ngựa
- Hậu quả Mị gánh chịu thật thê thảm:
+ Mị mất khả năng giao tiếp, mất ý thức không gian thời gian
+ Bây giờ thì Mi cũng tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngưạ … Môi ngày
Mi càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”…
b. Trong đau thương, Mị vẫn có sức sống tiềm tang và phản kháng mãnh liệt:
- Hồi mới về làm dâu:
+ Có hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc vì ý thức được số phận làm dâu trừ nợ.
+ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, bởi Mị nhận ra chết còn ý nghĩa hơn sống mà đánh
mất mình. Chết cũng là cách Mị phản kháng lại số phận.
+ Thương cha, Mị ném lá ngón, ném luôn khát vọng giải thoát cho chính mình.
+ Cha chết, nhiều năm sau, Mị cũng không hề nghĩ đến lá ngón tự tử nữa. Mị đã hoàn
toàn chai sạn, vô cảm.
- Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài.
+ Khi nghe tiếng sáo gọi bạn “lấp ló ngoài đầu núi” vọng lại “thiết tha, bổi hổi”, Mị
ngồi “nhẩm thầm” bài hát.
+ “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị say, lòng nhớ về thời con gái của
mình “ngày trước Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người
mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”
+ Mị nhận ra “Mị trẻ lắm, Mị vân còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Rồi lại tủi thân khi nghĩ
về A Sử “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mi sẽ ăn cho chết ngay chứ không
buồn nhớ laị nữa”.
+ Khát vọng tự do không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà còn thể hiện trong hành động:
“Mi đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn môt miếng bỏ thêm vào diã đèn cho sáng…
Mi muốn đi chơi, Mi cũng sắp đi chơi…Mi cuốn laị tóc, Mi với tay lấy cái váy hoa
vắt ở phía trong vách… Mi rút thêm cái áo”. Đây chính là sư “nổi loan ” trong Mi với
khát vọng tự do trào dâng mãnh liệt.
11
+ Dù bị dập vùi phũ phàng, khát vọng tự do trong Mị không hề mất đi: A Sử trói đứng
Mị bằng một thúng dây đay. Mị không biết mình đang bị trói vẫn “vùng bước đi”.
Chứng tỏ trong Mị sức sống rất mãnh liệt.
Như vậy, cuộc trôi dậy thứ nhất của Mị không thành, Mị không thoát khỏi
cảnh ngục tù trần gian nhưng ít ra Mị cũng đã sống lại những thời khắc tươi đẹp của
tuổi trẻ. Sức sống của Mị, sự hồi sinh của Mị được đặt trong một thử thách khắc
nghiệt, một hiện thực phũ phàng nhưng qua đó lại càng khẳng định một chân lí rằng:
sức sống của con người dù bị dẫm đạp, bị trói chặt nhưng nó không chết mà luôn âm ỉ
cháy, chỉ gặp dịp là bùng lên mạnh mẽ.
- Đỉnh điểm của sức sống tiềng tàng và phản kháng của Mị thể hiện rõ nhất
trong đêm cởi trói cho A Phủ. + Lúc đầu, khi chứng kiến cảnh thấy A Phủ bị trói mấy ngày đêm: “Nhưng Mị vẫn
thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Đó là dấu ấn của sự tê liệt tinh thần.
+ Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại…” của A Phủ, Mị thức tỉnh dần. Thương người, thương mình rồi lại thương người.
+ Mị nhớ tới cảnh người đàn bà đời trước cũng bi t rói đến chết. Mị nhận thức được
tội ác của nhà thống lí: “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Chúng nó thật độc
ác…”. – Và Mị thương cảm cho A Phủ: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết,
chết đau, chết đói, chết rét”. Từ lạnh lùng, dần dần Mị nhận ra nôi đau khổ của mình,
của người khác và liều lĩnh hành động: “Mị rón rén bước lại…. lấy con dao nhỏ cắt
lúa cắt nút dây mây trên người A Phủ”. Hành động cởi trói cho A Phủ là hành động
phản kháng của Mị trước cái ác.
+ Khi A Phủ chay đi rồi, “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Trong giây phút “đứng lặng”
ngắn ngủi ấy, Mị đã có một quyết định táo bạo “Mị cũng vụt chạy ra”, đuổi kịp A Phủ,
cùng A Phủ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, trốn khỏi Hồng Ngài. Bước chân vụt chạy
của Mị là bước chân đạp đổ mọi áp chế của phong kiến miền núi để đến với ánh sáng
tự do. Câu nói “A Phủ cho tôi đi. Ở đây thì chết mất” thể hiện lòng ham sống, khát
vọng tự do mãnh liệt của Mị.
Tóm lại, hành động cởi trói chính là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị. Từ
thân phận nô lệ, Mị thành chủ nhân của cuộc đời mới. Từ sức sống tiềm tàng đã phát
triển thành sức mạnh giải phóng để làm thay đổi cuộc sống.
2. Vài nét nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Nhà văn Tô Hoài giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng
- Kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
- Đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách
cụ thể, hợp lí.
- Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. Ngôn
ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ.
3. Giá tri hiện thực và nhân đaọ sâu săc của tác phâm: a. Giá trị hiện thực:
- Nhà văn miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo miền núi Tây Bắc
dưới ách thống trị của bọn phong kiến và thực dân.
- Tác giả phơi bày bản chất tàn bạo, tội ác tày trời của giai cấp thống trị miền núi .
b. Giá trị nhân đạo:
- Nhà văn thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của
người dân lao động nghèo miền núi trước Cách mạng.
- Tác giả tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa,tàn bạo của giai cấp thống trị miền
núi.
- Thể hiện thái độ trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả
năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc. Đây là một biểu hiện quan trọng của giá trị
nhân đạo trong tác phẩm.
12
III. Một số dạng đề bài “Vợ chồng A Phủ”: 1. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài miêu tả hai con người của Mị. Một cô Mị vô
cảm, cô độc: “Lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi… Mỗi ngày Mị càng không nói,
lùi lũi như con rùa trong xó cửa và một cô Mị tiềm tàng sức sống và phản kháng mãnh
liệt: Mùa xuân, Mị thấy mình còn trẻ và khao khát đi chơi… Mùa đông mị cắt dây trói
cho A Phủ và chạy theo A Phủ” Phân tích hình ảnh hai cô Mị ở trên và từ đó làm nổi bật sự thay đổi ở nhân vật này. 2. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài hai lần miêu tả Mị Ăn lá ngón. Hồi mới về làm
dâu: Mị có ý định tự tử nhưng vì thương cha, “Mị ném nắm lá ngón xuống đất… Mị
không đành lòng chết. mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành
trở lại nhà thống lý”. Đêm tình mùa xuân, Mị nghĩ A Sử và Mị không có lòng với nhau
mà vẫn phải ở với nhau. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay,
chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn
lửng lơ bay ngoài đường”. Phân tích hình ảnh hai cô Mị ở trên và từ đó làm nổi bật sự thay đổi tâm trạng ở nhân
vật này. 3. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài hai lần miêu tả Mị thức tỉnh. Đêm tình mùa
xuân, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình: Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết.” và đêm mùa đông, khi thấy giọt nước mắt
A Phủ: Mị nhớ lại đời mình, mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ
chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải
trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị
cũng không thấy sợ…” Phân tích hình ảnh hai cô Mị ở trên và từ đó nhận xét về sự thức tỉnh ở nhân vật này.
4. Trong “Vợ chồng A Phủ”, trong đêm mùa đông, thấy A Phủ bị trói, ban đầu: Mị
vẫn thản nhiên sửi lửa, hơ tay. A Phủ là cái xác chết đứng ở đấy cũng thế thôi…” nhưng
khi thấy giọt nước mắt A Phủ: Mị cắt dây trói cho A Phủ và chạy theo A Phủ khỏi Hồng
Ngài Phân tích hình ảnh hai cô Mị ở trên và từ đó nhận xét về sự thức tỉnh ở nhân vật này.
13
PHẦN 2: CHUẨN BỊ BÀI - KIẾN THỨC MỚI
SOẠN BÀI “VỢ NHẶT” – Kim Lân
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Đôi nét về Kim Lân
– Kim Lân (1920 – 2007). Trước CMT8: Ông chủ yếu viết về nông thôn, đề tài người
nông dân. Sau CMT8: Làm báo, viết văn. Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên
chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)…
– Phong cách sáng tác: Cây bút chuyên viết truyện ngắn, chủ yếu viết về đề tài nông
thôn, người nông dân.
2. Đôi nét về “Vợ nhặt”
– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác
phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản
thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết
truyện Vợ nhặt.
– Xuất xứ: Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
3. Tóm tăt truyện “Vợ nhặt” Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là
dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện
theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa
cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa
tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ
sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng,
họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.
4. Ý nghĩa nhan đề
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người
ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là
việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người
Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí.
Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà
có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng
liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ
đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người.
Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của
người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tình huống truyện
– Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy
được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong
manh.
– Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo !
Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ !
Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi
người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng
cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
14
– Ý nghĩa tình huống truyện: không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu
chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía
cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
2. Nhân vật
2.1. TRÀNG
*Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
– Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại.
Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.
– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bông nhiên “nhặt”
được vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh
chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:
+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt
“Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng
thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình
tứ đến như thế.
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác
quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời
đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối
cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết
hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá
tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng
hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về
thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”
* Niềm hạnh phúc khi có vợ :
– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười
tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc
nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong
xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người-
Tràng đã có vợ.
– Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu
nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông
ăn nói cục cằn kia bông văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và
thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng
mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo
lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải
kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.
Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ.
Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát
khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới
bủa vây.
– Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau :
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước
sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân
hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp.
Rõ ràng những cảnh tượng rất đôi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động,
hạnh phúc với anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh
sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
15
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền
hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một
nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như
tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự
chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn
ngập sự đầm ấm, hoà hợp.
– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói
đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại,
về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo,
giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc
của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống
hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
2.2 THỊ - NGƯỜI VỢ NHẶT
– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một
không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng
với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ,
không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị.
Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình
và tính cách của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà
ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị
cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một
chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về
chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát
vọng về hạnh phúc và sự sống.
– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ
nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp
của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ
cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên
đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm
vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân,
đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều
lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên
trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa
mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản
thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp
nhận bước vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng
thương
– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm
gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ
trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn,
16
đanh đá bông trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ
sức mạnh làm thay đổi một con người.
– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do
chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ
đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề
bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc
đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc,
và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
2.3. BÀ CỤ TỨ
– Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện
ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản
chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim
Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy
chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.
– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con
từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu,
nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng
bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở
đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không
còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải.
Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị
vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo
và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến
thế.
– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào,
là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không
chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi
mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của
con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ
gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự
trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà
lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của
Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình
người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ
nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng
tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của
cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là
chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan
chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng
dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai
giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước
qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay
về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều
mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều
mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng
tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để
17
mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng
ròng.
– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ
về một tương lai tươi sáng phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn,
giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy
vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối
thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán
– cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những
nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về
sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho
mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung-
mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo
vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát
vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi-
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và
tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen
lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng
thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc,
tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người
mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng
cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn
gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
3. GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO
3.1. Giá trị hiện thực:
– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân
tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.
+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.
+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn
đói năm 1945.
– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang
tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
3.2. Giá trị nhân đạo
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng
khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao
động nghèo.
18
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới
tương lai tươi sáng
III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách
nhân vật.
– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.
– Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh
tế.
– Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất
Bắc Bộ.
2. Chủ đề: Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn
cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo
khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc
gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.