nỘi dung Ôn tẬp tẠi nhÀ phẦn 1: Ôn tẬp kiẾn thỨc cŨ i. … · với đồng bào,...

18
1 NI DUNG ÔN TP TI NHÀ PHN 1: ÔN TP KIN THỨC CŨ I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN 1. Kiến thức cần nhớ a. Các phương thức biểu đạt Phương thức Đặc điểm nhận diện Thể loại Tự sự Trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả dẫn đến kết quả. (diễn biến sự việc) - Bản tin báo chí - Bản tường thuật, tường trình - Tác phẩm văn học nghệ thuật (truyện, tiểu thuyết) Miêu tả Tái hiện các tính chất, thuộc tính sự vật, hiện tượng, giúp con người cảm nhận và hiểu được chúng. - Văn tả cảnh, tả người, vật... - Đoạn văn miêu tả trong tác phẩm tự sự. Biểu cảm Bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp tình cảm, cảm xúc của con người trước những vấn đề tự nhiên, xã hội, sự vật... - Điện mừng, thăm hỏi, chia buồn - Tác phẩm văn học: thơ trữ tình, tùy bút. Thuyết minh Trình bày thuộc tính, cấu tạo, nguyên nhân, kết quả có ích hoặc có hại của sự vật hiện tượng, để người đọc có tri thức và có thái độ đúng đắn với chúng. - Thuyết minh sản phẩm - Giới thiệu di tích, thắng cảnh, nhân vật - Trình bày tri thức và phương pháp trong khoa học. Nghị luận Trình bày ý kiến đánhgiá, bàn luận, trình bày tư tưởng, chủ trương quan điểm của con người đối với tự nhiên, xã hội, qua các luận điểm, luận cứ và lập luận thuyết phục. - Cáo, hịch, chiếu, biểu. - Xã luận, bình luận, lời kêu gọi. - Sách lí luận. - Tranh luận về một vấn đề trính trị, xã hội, văn hóa. Hành chính công vụ - Trình bày theo mẫu chung và chịu trách nhiệm về pháp lí các ý kiến, nguyện vọng của cá nhân, tập thể đối với cơ quan quản lí. - Đơn từ - Báo cáo - Đề nghị b. Các phong cách ngôn ngữ Phong cách ngôn ngữ Đặc điểm nhận diện 1 Phong cách ngôn ngữ khoa học Dùng trong những văn bản thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoa học, đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu 2 Phong cách ngôn ngữ báo chí (thông tấn) Kiểu diễn đạt dùng trong các loại văn bản thuộc lĩnh vực truyền thông của xã hội về tất cả các vấn đề thời sự. 3 Phong cách ngôn ngữ chính luận Dùng trong lĩnh vực chính trị - xã hội, người giao tiếp thường bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm tư tưởng, tình cảm của mình với những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội

Upload: others

Post on 18-Feb-2020

8 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

1

NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ

PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ

I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1. Kiến thức cần nhớ

a. Các phương thức biểu đạt

Phương thức Đặc điểm nhận diện Thể loại

Tự sự

Trình bày các sự việc (sự kiện) có

quan hệ nhân quả dẫn đến kết

quả. (diễn biến sự việc)

- Bản tin báo chí

- Bản tường thuật, tường trình

- Tác phẩm văn học nghệ thuật

(truyện, tiểu thuyết)

Miêu tả Tái hiện các tính chất, thuộc tính

sự vật, hiện tượng, giúp con

người cảm nhận và hiểu được

chúng.

- Văn tả cảnh, tả người, vật...

- Đoạn văn miêu tả trong tác phẩm tự

sự.

Biểu cảm

Bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp

tình cảm, cảm xúc của con người

trước những vấn đề tự nhiên, xã

hội, sự vật...

- Điện mừng, thăm hỏi, chia buồn

- Tác phẩm văn học: thơ trữ tình, tùy

bút.

Thuyết minh Trình bày thuộc tính, cấu tạo,

nguyên nhân, kết quả có ích hoặc

có hại của sự vật hiện tượng, để

người đọc có tri thức và có thái

độ đúng đắn với chúng.

- Thuyết minh sản phẩm

- Giới thiệu di tích, thắng cảnh, nhân

vật

- Trình bày tri thức và phương pháp

trong khoa học.

Nghị luận Trình bày ý kiến đánhgiá, bàn

luận, trình bày tư tưởng, chủ

trương quan điểm của con người

đối với tự nhiên, xã hội, qua các

luận điểm, luận cứ và lập luận

thuyết phục.

- Cáo, hịch, chiếu, biểu.

- Xã luận, bình luận, lời kêu gọi.

- Sách lí luận.

- Tranh luận về một vấn đề trính trị, xã

hội, văn hóa.

Hành chính –

công vụ

- Trình bày theo mẫu chung và

chịu trách nhiệm về pháp lí các ý

kiến, nguyện vọng của cá nhân,

tập thể đối với cơ quan quản lí.

- Đơn từ

- Báo cáo

- Đề nghị

b. Các phong cách ngôn ngữ

Phong cách ngôn ngữ Đặc điểm nhận diện

1 Phong cách ngôn ngữ

khoa học

Dùng trong những văn bản thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập

và phổ biến khoa học, đặc trưng cho các mục đích diễn đạt

chuyên môn sâu

2 Phong cách ngôn ngữ

báo chí (thông tấn)

Kiểu diễn đạt dùng trong các loại văn bản thuộc lĩnh vực

truyền thông của xã hội về tất cả các vấn đề thời sự.

3 Phong cách ngôn ngữ

chính luận

Dùng trong lĩnh vực chính trị - xã hội, người giao tiếp thường

bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm tư tưởng, tình

cảm của mình với những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội

Page 2: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

2

4 Phong cách ngôn ngữ

nghệ thuật

-Dùng chủ yếu trong tác phẩm văn chương, không chỉ có chức

năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con

người; từ ngữ trau chuốt, tinh luyện…

5 Phong cách ngôn ngữ

hành chính

-Dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực giao tiếp điều hành và

quản lí xã hội.bb

6 Phong cách ngôn ngữ

sinh hoạt

- Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày, mang tính tự

nhiên, thoải mái và sinh động, ít trau chuốt…trao đổi thông tin,

tư tưởng, tình cảm trong giao tiếp với tư cách cá nhân

c. Các thao tác lập luận

TT Thao tác

lập luận

Đặc điểm nhận diện

1 Giải

thích

Giải thích là vận dụng tri thức để hiểu vấn đề nghị luận một cách rõ

ràng và giúp người khác hiểu đúng ý của mình.

2 Phân

tích

Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều bộ phận,

yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong

của đối tượng.

3 Chứng

minh

Chứng minh là đưa ra những cứ liệu – dẫn chứng xác đáng để làm sáng

tỏ một lí lẽ một ý kiến để thuyết phục người đọc người nghe tin tưởng

vào vấn đề. ( Đưa lí lẽ trước - Chọn dẫn chứng và đưa dẫn chứng. Cần

thiết phải phân tích dẫn chứng để lập luận CM thuyết phục hơn. Đôi khi

thuyết minh trước rồi trích dẫn chứng sau.)

4 Bác bỏ Bác bỏ là chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó đưa ra nhận định

đúng đắn và bảo vệ ý kiến lập trường đúng đắn của mình.

5 Bình

luận

Bình luận là bàn bạc đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng… đúng hay

sai, hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại…; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử

phù hợp và có phương châm hành động đúng.

6 So sánh So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật,

đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để chỉ ra những nét giống

nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự

vật mà mình quan tâm.

Hai sự vật cùng loại có nhiều điểm giống nhau thì gọi là so sánh tương

đồng, có nhiều điểm đối chọi nhau thì gọi là so sánh tương phản.

d. Các biện pháp tu từ

Biện pháp tu từ Hiệu quả nghệ thuật (Tác dụng nghệ thuật)

So sánh Giúp sự vật, sự việc được miêu tả sinh động, cụ thể tác động

đến trí tưởng tượng, gợi hình dung và cảm xúc

Ẩn dụ Cách diễn đạt mang tính hàm súc, cô đọng, giá trị biểu đạt

cao, gợi những liên tưởng ý nhị, sâu sắc.

Nhân hóa Làm cho đối tượng hiện ra sinh động, gần gũi, có tâm trạng và

có hồn gần với con người

Page 3: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

3

Hoán dụ Diễn tả sinh động nội dung thông báo và gợi những liên tưởng

ý vị, sâu sắc

Điệp từ/ngữ/cấu

trúc

Nhấn mạnh, tô đậm ấn tượng – tăng giá trị biểu cảm, tạo âm

hưởng nhịp điệu cho câu văn, câu thơ.

Nói giảm Làm giảm nhẹ đi ý muốn nói (đau thương, mất mát) nhằm thể

hiện sự trân trọng

Thậm xưng Tô đậm, phóng đại về đối tượng

Câu hỏi tu từ Bộc lộ, xoáy sâu cảm xúc (có thể là những băn khoăn, ý

khẳng định…)

Đảo ngữ Nhấn mạnh, gây ấn tượng sâu đậm về phần được đảo lên

Đối Tạo sự cân đối, đăng đối hài hòa

Im lặng Tạo điểm nhấn, gợi sự lắng đọng cảm xúc

Liệt kê Diễn tả cụ thể, toàn diện nhiều mặt

e. Các phép liên kết (liên kết các câu trong văn bản):

Các phép liên kết Đặc điểm nhận diện

Phép lặp Lặp lại ở câu đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước

Phép thế Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế

các từ ngữ đã có ở câu trước

Phép nối Sử dụng ở câu sau các từ ngữ biểu thị quan hệ (nối kết)với

câu trước

2. Một số bài tập thực hành:

Đề 1:

Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu dưới đây:

“Trên đường đời của bạn cũng có lúc vấp ngã. Tôi cũng vậy. Ngay cả người

tài giỏi, khôn ngoan nhất cũng có lúc vấp ngã. Vấp ngã là điều bình thường, chỉ có

những người không bao giờ đứng dậy sau vấp ngã mới là người thật sự thất bại. Điều

chúng ta cần ghi nhớ là, cuộc sống không phải là một cuộc thi đỗ - trượt. Cuộc sống

là một quá trình thử nghiệm các biện pháp khác nhau cho đến khi tìm ra một cách

thích hợp. Những người đạt được thành công phần lớn là người biết đứng dậy từ sai

lầm ngớ ngẩn của mình bởi họ coi thất bại, vấp ngã chỉ là tạm thời và là kinh nghiệm

bổ ích. Tất cả những người thành đạt mà tôi biết đều có lúc phạm sai lầm. Thường thì

họ nói rằng sai lầm đóng vai trò quan trọng đối với thành công của họ. Khi vấp ngã,

họ không bỏ cuộc. Thay vì thế, họ xác định vấn đề của mình là gì, cố gắng cải thiện

tình hình và tìm kiếm giải pháp sáng tạo hơn để giải quyết. Nếu thất bại năm lần, họ

cố gắng đứng dậy năm lần, mỗi lần một cố gắng hơn, Winston Churchill đã nắm bắt

được cốt lõi của quá trình này khi ông nói: "Sự thành công là khả năng đi từ thất bại

này đến thất bại khác mà không đánh mất nhiệt huyết và quyết tâm vươn lên".

(Nick Vujicic Cuộc sống không giới hạn, NXB tổng hợp tp HCM, 2013, tr 236)

Câu 1. Tác giả quan niệm như thế nào về chuyện vấp ngã trong cuộc sống?

Câu 2. Theo tác giả, người thực sự thất bại là người như thế nào?

Page 4: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

4

Câu 3. Anh, chị có đồng tình với quan điểm của Winston Churchill được nêu trong

đoạn trích: “Sự thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không

đánh mất nhiệt huyết và quyết tâm vươn lên"? Vì sao?

Câu 4: Từ nội dung phần đọc - hiểu, hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày

suy nghĩ của anh/ chị về ý nghĩa của việc thất bại trong cuộc sống.

Đề 2:

Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu dưới đây:

Mỗi người đều phải leo lên những bậc thang đời mình. Có những mơ ước xa:

đến đỉnh cao nhất. Có người ước mơ gần: một hai bậc, rồi sau đó, một hai bậc tiếp

theo. Có người cứ lặng lẽ tiến bước theo mục tiêu của mình, gạt bỏ mọi thị phi. Có

người đi chu du một vòng thiên hạ, nếm đủ đắng cay rồi mới chịu trở về với ước mơ

ban đầu… Tôi nhận ra rằng, ước mơ chẳng đưa ta đến đâu cả, chỉ có cách thức mà

bạn thực hiện ước mơ mới đưa bạn đến nơi bạn muốn.

Nếu tất cả đều là doanh nhân thành đạt thì ai sẽ quét rác trên những đường

phố? Nếu tất cả là bác sĩ nổi tiếng trên thế giới thì ai sẽ là người dọn vệ sinh bệnh

viện? Nếu tất cả đều là nhà khoa học thì ai sẽ là người tưới nước những luống rau?...

Phần đông chúng ta cũng sẽ là người bình thường. Nhưng điều đó không thể

ngăn cản chúng ta vươn lên từng ngày. Bởi luôn có một đỉnh cao cho mỗi nghề bình

thường.

(Phạm Lữ Ân, Nếu biết trăm năm là hữu hạn, NXB Hội nhà văn, 2017)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2. Tại sao tác giả cho rằng: “ước mơ chẳng đưa ta đến đâu cả, chỉ có cách thức

mà bạn thực hiện ước mơ mới đưa bạn đến nơi bạn muốn”.

Câu 3. Việc tác giả nhắc đến những doanh nhân thành đạt, những người quét rác,

những bác sĩ nổi tiếng, những người dọn vệ sinh có ý nghĩa gì?

Câu 4. Anh/ chị có đồng tình với quan niệm: “Phần đông chúng ta cũng sẽ là người

bình thường. Nhưng điều đó không thể ngăn cản chúng ta vươn lên từng ngày. Bởi

luôn có một đỉnh cao cho mỗi nghề bình thường” không? Vì sao?

Đề 3:

Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu dưới đây:

“Anh bạn thân yêu! Giờ đây tôi đang ở trên thiên đàng – một thế giới diệu kì

mà lung linh biết mấy. Nơi này chẳng có ngày hay đêm. Mặt trời, vầng trăng và cả

những vì sao lấp lánh cùng nhau tỏa sáng, không gian lúc nào cũng trong veo như

pha lê. Mẹ và anh trai tôi đang mỉm cười cùng những linh hồn khác. Chúng tôi không

có quốc gia, không phải di cư, không phân biệt tôn giáo, không có khủng bố hay bạo

lực… Tất cả đều như nhau – những linh hồn bay nhẹ nhõm thanh thản và yên bình.

Giờ đang là giao thừa. Từ trên đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn cả trái đất.

Ngắm nhìn những chùm pháo hoa lộng lẫy bung nở trong màn đêm và lắng nghe tiếng

chuông ngân vang. Dưới đó là những mảng màu tương phản. Có những nơi rực rỡ

trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng

súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… Chao ôi, cuộc

sống nơi trần thế! Giờ thì tất cả đã xa vời”.

(Trích bức thư đoạt giải Nhất, Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 45)

Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên.

Câu 2. Phân tích hiệu quả của biện pháp nghệ thuật trong đoạn văn sau:“Có những nơi

rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong

tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… ”

Câu 3. Xác định phương thức biểu đạt chính.

Page 5: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

5

Câu 4. Qua việc dựng lên hai thế giới đối lập giữa trần gian và thiên đàng, tác giả bức

thư muốn gửi gắm ước mơ gì?

Đề 4:

Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:

Đừng phiến diện

Tôi đọc báo, lướt Facebook hay thấy những so sánh quá khập khiễng của nhiều

người khi dẫn chứng những điều tiến bộ ở Mỹ, Anh, Pháp, Thụy Điển... và đặt vấn đề

tại sao Việt Nam không làm được điều đó.

Dĩ nhiên so sánh là một trong những tiền đề để tạo sự thay đổi và phát triển,

nhưng chúng ta đem so một đất nước đang phát triển không đồng đều với những quốc

gia giàu có văn minh nhất nhì thế giới và thất vọng. Có đáng không?

Đôi khi, một vài người bạn, đồng nghiệp từng học ở nước ngoài về cũng hay sa

vào so sánh, thất vọng, thậm chí sốc nặng vì cho rằng con người ở Việt Nam quá tồi

tệ. Tôi ước gì họ kể cho tôi nghe những điều tốt đẹp ở nước bạn, thay vì không tiếc lời

chỉ trích cuộc sống và con người ở quê hương mình. Tôi chỉ mong trước khi chúng ta

sợ hãi hay lo lắng một vấn đề gì hệ trọng của một quốc gia thì nên cân nhắc. Chúng ta

đã nhìn đa chiều, đã thử lý giải hay chưa. Và nhất là khi một trong số chúng ta là

người có lượng theo dõi lớn trên mạng xã hội, mỗi nhận xét của chúng ta sẽ ảnh

hưởng tới nhiều người.

Dường như ta dễ phán xét nhưng luôn thiếu một điều cơ bản: suy nghĩ thấu đáo.

Sự thấu đáo sẽ dẫn dắt bạn đến sự bao dung, nhìn nhận vấn đề một cách nhẹ nhàng.

Nếu có một du khách than phiền với tôi họ bị giật đồ, tôi sẽ nói đó chỉ là một vài

hình ảnh xấu xí mà thôi. Chúng tôi vẫn có những cơ quan trợ giúp du khách, có những

bạn trẻ sẵn sàng làm hướng dẫn viên không công, cả những người dân bình thường

tốt bụng dễ gần. Đời còn nhiều người tử tế, có điều bạn không chịu "thấy" thôi.

(Trích Nhiều người tử tế lắm, là bạn không chịu 'thấy' thôi - Báo Tuổi trẻ.online)

Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản.

Câu 2: Theo người viết khi phán xét người ta luôn thiếu điều cơ bản gì?

Câu 3: Anh/ chị hiểu thế nào là “phiến diện".

Câu 4: Viết đoạn văn ngắn (từ 7 – 9 dòng) trình bày suy nghĩ của anh chị về ý kiến

nêu ra ở phần Đọc - hiểu: "Đời còn nhiều người tử tế, có điều bạn không chịu “thấy”

thôi!

Đề 5:

Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:

“Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền, cũng bén mùi làm quan. Nào

lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, nào chạy xuôi, dầu cố bán ruộng dầu

bán trâu cũng vui lòng, chỉ cần được lấy một chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng ngồi

trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những kẻ như thế mà vẫn không ai

khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi! Làng có một trăm dân mà

người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức

là luân lí cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau, chí như đối với dân kiều cư

kí ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng

nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không

có là cũng là vì thế”.

(Trích Đạo đức và luân lí Đông Tây của Phan Châu Trinh, SGK Ngữ văn 11, tập 2)

Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên?

Câu 2: Đọc đoạn văn trên anh/chị liên tưởng đến thực trạng nào của xã hội hiện nay?

Câu 3. Tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ nào? Ý nghĩa sử dụng của những

biện pháp ấy?

Page 6: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

6

Câu 4. Từ nội dung đoạn trích trên, anh chị hãy viết một đoạn văn (5 - 7 dòng) trình

bày suy nghĩ của mình về việc thực hiện pháp luật Nhà nước của giới trẻ hiện nay?

Đề 6:

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Mất hàng triệu năm mới định hình những nếp nhăn ngôn ngữ trong não bộ, khó

khăn lắm con người mới có tiếng nói. Không có tiếng nước bạn dở, tiếng nước tôi hay.

Không có tiếng làng tôi nhẹ nhàng, làng bạn nặng trịch. Ý thức kì thị đó có thể lưu giữ

được "bản sắc" văn hóa làng xã nhưng nghèo tính tiến hóa biết bao. Tiếng nói của

nước nào cũng đáng kính trọng, bởi tiếng nói suy cho cùng là di sản từ tổ tiên loài

người sinh học có chung một nguồn cội, chung một cây tiến hóa. Một loại di sản đặc

biệt. Bởi nó không chỉ nằm trong kí ức mà nối dài trong hiện tại và bắc cầu đến tương

lai. Người ta thường dùng di sản vào những mục đích tốt đẹp. Tiếng nói cũng vậy. Xin

em đừng lộng ngữ tà ngôn. Biết dành những lời yêu thương cho cha mẹ. Dành những

lời tốt đẹp, trung thực cho bạn bè. Tuổi hoa chỉ nói những lời "hoa cười, ngọc thốt

đoan trang". Và muôn đời, lời nói thành thực vẫn là lời hay nhất. Bởi mất đi sự chân

thực, mất đi trách nhiệm trong lời nói, con người sẽ tuột dốc lỗi lầm.

(Trích Lắng nghe lời thì thầm của trái tim , Nhiều tác giả, NXB Văn hóa – Văn

nghệ TP. HCM, 2015, tr.33)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.

Câu 2. Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến cho rằng tiếng nói là: "Một loại di sản đặc biệt.

Bởi nó không chỉ nằm trong kí ức mà nối dài trong hiện tại và bắc cầu đến tương

lai."?

Câu 3. Nêu thông điệp văn bản gửi đến người đọc.

Đề 7:

Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

“Nhà” chỉ là một từ ngắn ngủi, nó không đồng nghĩa với sự bình yên, nhưng

chúng ta vẫn luôn khao khát rằng nó gắn với sự bình yên. Và khi nào “nhà” trái

nghĩa với bình yên thì đó là khởi đầu của sự bất hạnh.

Tôi tin rằng, mái nhà nào cũng từng có lúc đồng nghĩa với niềm vui và cả sự

bình yên. Nhưng bạn của tôi ơi, sự bình yên của nhà không phải là điều có sẵn.

“Nhà” là phần cứng, còn sự bình yên, hạnh phúc, niềm vui là phần mềm. Gia đình là

phần cứng, còn tình yêu và sự thấu hiểu là phần mềm.

Vậy cho nên, sự bình yên là thứ phải được thiết lập, và vì thế, có thể tái thiết

lập. Nếu ta là một phần của “nhà”, dù chỉ là một phần nhỏ, nếu ta thật mong muốn

mái nhà thân yêu của ta có được sự bình yên, hay lại có nó một lần nữa, thì ta phải

tham gia vào quá trình thiết lập đó. Bằng một nụ cười xoa dịu, bằng một câu nói vị

tha, bằng sự thương yêu nhẫn nhịn, bằng trái tim sẵn sàng sẻ chia, bằng một cái nắm

tay thấu hiểu, hay có thể bằng một giọt nước mắt. Dù thế nào cũng không phải bằng

sự buông xuôi. Để kéo những trái tim về gần với nhau. Để biến “nhà” thành một nơi

ta phải luyến tiếc khi rời xa và luôn mong mỏi quay về.

Bạn của tôi ơi, tôi còn nhớ khi chúng ta còn nhỏ, cùng ngồi chung một chiếc

ghế mây dưới tán mận trong vườn nhà, mẹ của bạn đã hát cho chúng ta nghe câu này:

“Ai qua là bao chốn xa, thấy đâu vui cho bằng mái nhà”

(Trích Ai qua là bao chốn xa…, Nếu biết trăm năm là hữu hạn – Phạm Lữ Ân,

PhuongNam Book, 2012)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?

Câu 2: Theo anh/chị, tại sao nhà và gia đình là phần cứng, còn sự bình yên, hạnh

phúc, niềm vui, tình yêu và sự thấu hiểu là phần mềm?

Page 7: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

7

Câu 3: Tác giả viết “…sự bình yên là thứ phải được thiết lập, và vì thế, có thể tái thiết

lập”. Vậy từ văn bản, hãy cho biết làm thế nào để ta có thể tham gia vào quá trình

thiết lập đó?

Đề 8:

Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Tôi có đọc bài phỏng vấn Ngô Thị Giáng Uyên, tác giả cuốn sách được nhiều

bạn trẻ yêu thích “Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương”. Trong đó cô kể rằng khi

đi xin việc ở công ti Unilever, có người hỏi nếu tuyển vào không làm marketing mà

làm sales thì có đồng ý không. Uyên nói có. Nhà tuyển dụng rất ngạc nhiên bởi hầu

hết những người được hỏi câu này đều trả lời không. “Tại sao phỏng vấn marketing

mà lại làm sales ?”. Uyên trả lời: “Tại vì tôi biết, nếu làm sales một thời gian thì bộ

phận marketing sẽ muốn đưa tôi qua đó, nhưng đã quá muộn vì sales không đồng ý

cho tôi đi.”

Chi tiết này khiến tôi nhớ đến câu chuyện về diễn viên Trần Hiểu Húc. Khi đó

cô đến xin thử vai Lâm Đại Ngọc, đạo diễn Vương Phù Lâm đã đề nghị cô đóng vai

khác. Hiểu Húc lắc đầu “Tôi chính là Lâm Đại Ngọc, nếu ông để tôi đóng vai khác,

khán giả sẽ nói rằng Lâm Đại Ngọc đang đóng vai một người khác.” Đâu là điều

giống nhau giữa họ? Đó chính là sự tự tin. Và tôi cho rằng, họ thành công là vì họ tự

tin.

Có thể bạn sẽ nói: “Họ tự tin là điều dễ hiểu. Vì họ tài năng, thông minh, xinh

đẹp. Còn tôi, tôi đâu có gì để mà tự tin”. Tôi không cho là vậy. Lòng tự tin thực sự

không bắt đầu từ gia thế, tài năng, dung mạo … mà nó bắt đầu từ bên trong bạn, từ sự

hiểu mình. Biết mình có nghĩa là biết điều này: Dù bạn là ai thì bạn cũng luôn có trong

mình những giá trị nhất định.

(Theo Phạm Lữ Ân – Nếu biết trăm năm là hữu hạn, NXB Hội Nhà văn, 2012)

Câu 1: Văn bản trên sử dụng phương thức biểu đạt nào là chính ?

Câu 2: Xác định nội dung chính mà văn bản đề cập?

Câu 3: Tại sao tác giả cho rằng: Lòng tự tin thực sự không bắt đầu từ gia thế, tài năng,

dung mạo… mà nó bắt đầu từ bên trong bạn, từ sự hiểu mình ?

Câu 4: Rút ra thông điệp cho bản thân.

Đề 9:

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “(1) Cuộc sống vốn đã đủ phức tạp rồi, không cần phải trầm trọng hóa mọi thứ

thêm nữa. Nếu bạn có thể làm điều gì đó để đơn giản nó, hãy làm. Nếu không, hãy để

mọi thứ được tự nhiên! Nếu bạn thèm hamburger, hãy ăn hamburger. Nếu bạn thấy

mình quá béo, hãy giảm béo. Nếu bạn yêu ai đó, nói với họ. Nếu bạn chưa tìm thấy

đam mê thực sự, hãy thử nhiều công việc khác nhau cho đến khi tìm thấy nó. Nếu bạn

thích làm nhiều việc, hãy làm tất cả, lần lượt từng việc một. Bạn thấy chứ? Mọi thứ

không nghiêm trọng như chúng ta nghĩ. Chỉ có những ý nghĩ phức tạp mới khiến ta lo

lắng. Hãy suy nghĩ đơn giản, làm những gì mình muốn (miễn là hợp pháp và không

phương hại ai) và tận hưởng cuộc sống!

(2) Niềm vui khi nhận được điểm 9 sẽ sớm phai đi, nhưng lòng đố kị với kẻ

được điểm 10 sẽ còn vương lại mãi trong tâm trí. Đó là chuyện muôn thuở. Ta thường

thèm muốn nhiều hơn nhưng hiếm khi dừng lại để nhận ra những gì chúng ta thực sự

có. Chúng ta so sánh mình với người khác chỉ để thấy rằng hiện tại của ta không đủ

tốt. Và bằng cách đó, ta gây áp lực không cần thiết lên chính mình. Và đó là khởi

nguồn của mọi bi kịch.

Khao khát chinh phục những điều tốt hơn là việc đáng hoan nghênh, bởi lẽ nó

là nguồn động lực để ta hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, cũng cần phải trân trọng cái

Page 8: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

8

nền tảng nơi ta đang đứng, những gì ta đang có trong tay. Đôi khi ta dồn sức chiến đấu

vì những điều to tát, mà bỏ qua những niềm vui hàng ngày: tiếng cười của con trẻ, sự

quan tâm chăm sóc của người thân, một cuốn sách hay, hay một mái nhà che chở ta

khỏi sương gió nắng mưa. Đừng bao giờ quên những điều nhỏ bé mà quý giá vô cùng

đó!”.

(Bình an nội tâm - Cân bằng cuộc sống, dẫn theo wallstreetenglish.edu.vn)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?

Câu 2. Nêu nội dung chính và thông điệp tác giả muốn gửi gắm ở đoạn (1) của văn

bản?

Câu 3. Theo anh/chị, vì sao mọi người lại “thường thèm muốn nhiều hơn nhưng hiếm

khi dừng lại để nhận ra những gì chúng ta thực sự có”?

Câu 4. Việc khao khát những điều tốt đẹp hơn và trân trọng những gì ta đang có trong

tay có mâu thuẫn nhau hay không? Hãy bàn luận trong 5 - 7 dòng.

Đề 10:

Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

(1) Ứng xử là thái độ, hành vi, lời nói thích hợp trong quan hệ giao tiếp giữa

người với người, giữa người với thiên nhiên. Thuật ngữ văn hóa đặt trước ứng xử có

nghĩa là tô đậm chiều cao phẩm chất, chiều rộng quan hệ của người ứng xử. Có con

người là có cách ứng xử giữa họ với nhau, giữa họ với môi trường sống. Nhưng văn

hóa ứng xử được hình thành từ khi văn minh phát triển ở một cấp độ nào đó nhằm

diễn đạt cách ứng xử con người đối với thiên nhiên, đối với xã hội và đối với chính

mình...

(2) Ở các nền văn hóa khác nhau có hệ chuẩn không giống nhau, nhưng vẫn có

giá trị chung. Đó là sống có lý tưởng, trung với nước, hiếu với cha mẹ, tình thương đối

với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn hóa

phương Đông, Khổng tử khuyên mọi người tu tâm dưỡng tín với sáu chữ: nhất nhật

tam tĩnh ngô thân. Đối với người Nhật, nhân cách văn hóa được công thức hóa: thiện,

ích, đẹp. Nước ta coi trọng mục tiêu giá trị: chân, thiện, mỹ. Ở châu Âu, người ta nói

tính cách, khi bàn giá trị nhân cách tiêu biểu dân tộc. Tính cách Nga được thể hiện ở

lòng đôn hậu, tình thủy chung, nghĩa cử quốc tế cao cả. Khẩu hiệu tri thức là sức

mạnh được nhiều nước tư bản châu Âu viện dẫn và ảnh hưởng tới hành động đã mấy

trăm năm. Bí quyết hàng đầu của người Do Thái là sự trọng học, đề cao vai trò của trí

tuệ, tôn sùng học vấn và tài năng. Để con gái lấy được học giả, hoặc lấy được con

người là học giả làm vợ thì không tiếc tài sản. Tuy nhiên, họ cũng coi tri thức mà thiếu

thực tiễn chẳng khác nào chú lừa chỉ biết thồ trên lưng sách vở.

Câu 1. Nêu nội dung chính của từng đoạn trong văn bản trên.

Câu 2. Xác định thao tác lập luận chủ yếu được sử dụng ở đoạn (1) và (2).

Câu 3. Hãy nên ít nhất 2 tiêu chí giao tiếp thể hiện văn hóa ứng xử trong cuộc sống

hàng ngày. Trả lời trong khoảng 3-5 câu.

Câu 4. Điều gì khiến anh chị tâm đắc nhất qua đoạn trích.

Đề 11: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Trang Tử nói: “Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt thức ăn, đi trăm

bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được sống trong

lồng”. Chúng ta có giống được những con gà rừng không ? Nếu chúng ta vì ưa thích

thóc gạo bày sẵn mà chịu chui vào chiếc lồng. Rồi từ sau những song tre đó, chúng ta

đòi trả tự do?

Từ xúc cơm, xếp quần áo, sách vở, đến chọn trường, chọn nghề, tìm việc, kiếm

sống, chọn chồng chọn vợ, chọn tương lai… Chúng ta sẽ quá quen với việc được sắp

Page 9: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

9

sẵn. Chúng ta ưa làm việc đã được người khác lên kế hoạch hơn là tự mình vạch ra.

Chúng ta chuộng thói quen hơn sáng tạo. Chúng ta chỉ vui khi có người tâng bốc, chỉ

hết buồn nếu có người an ủi vuốt ve. Chúng ta thậm chí không muốn tự phân biệt sai

đúng trừ khi có người làm thay. Chúng ta không thể làm chủ đời mình. Cứ như vậy,

chúng ta đánh mất bản năng của gà rừng và biến thành con chim trong lồng lúc nào

không biết nữa. Thậm chí, một con chim trong rất nhiều lớp lồng.

[…] Robert Fulghum từng trở thành tác giả best seller với một cuốn sách có

tựa đề thú vị “Tất cả những gì cần phải biết tôi đều được học ở nhà trẻ”. Đó là những

nguyên tắc sống: chia sẻ, chơi công bằng, không đánh bạn, để đồ đạc vào chỗ cũ,

không lấy những gì không phải của mình, dọn dẹp những gì bạn bày ra, nói xin lỗi khi

làm tổn thương ai đó, rửa tay trước khi ăn, học một ít, suy nghĩ một ít, vẽ và hát và

nhảy múa và chơi và làm việc một ít mỗi ngày, ngủ trưa, có ý thức về những điều kỳ

diệu, cây cối và các con vật đều chết – và chúng ta cũng vậy, từ đầu tiên và quan

trọng nhất cần phải học: quan sát.

Hãy đếm xem:100 chữ. Những gì cần phải học chỉ như vậy. Chúng ta được học

ở nhà trẻ nhưng đã đánh rơi dần trong quá trình lớn lên. Cũng như khi sinh ra, ta đã

có sẵn bản năng độc lập nhưng lại đánh mất nó trong quá trình sống. Không có bản

năng độc lập, chúng ta không thể nắm giữ được tự do. Nghĩa là trước khi đòi tự do,

bạn phải tìm lại bản năng độc lập của mình.

(Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, Nxb Hội nhà văn, 2012, tr 135)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2. Vấn đề chính được tác giả nêu trong đoạn trích là gì ?

Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói: “Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt

thức ăn, đi trăm bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được

sống trong lồng”?

Câu 4. Trong tất cả các nguyên tắc sống được học ở nhà trẻ, anh/chị thấy nguyên tắc nào có

giá trị với mình nhất ? Vì sao? (viết đoạn văn từ 8 đến 10 dòng)

Đề 12: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: Mẹ ẩn trong khăn bay về núi

Con buồn đứng ngóng tiếng gà trưa

Chợt thấy mái nhà xanh ngọn khói

Lá tre già rụng góc sân xưa.

Con muốn trở về thời thơ nhỏ

Úp mặt vào giếng nước mát trong

Lòng ngọt ngào như mùi hoa cỏ

Mẹ về mang hương lúa hương đồng

Ngày tết đẫm trong khăn áo mới

Hồn nhẹ tênh như cánh ong bay

Hoa mai rụng cánh vàng như xối

Chợt đầu năm rắc hại mưa gầy

(Mẹ và quê nhà - Từ Kế Tường)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên?

Câu 2: Những hình ảnh nào đã xuất hiện trong kí ức quê nhà của tác giả?

Câu 3: Ghi lại những câu thơ trong văn bản có sử dụng nghệ thuật so sánh. Phân tích tác dụng

của nghệ thuật so sánh trong một câu thơ cụ thể.

Câu 4: Tình cảm của tác giả được thể hiện thế nào trong đoạn thơ trên? (viết đoạn văn từ 8 đến

10 dòng)

Page 10: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

10

PHẦN LÀM VĂN

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI

I. KHÁI QUÁT

1. Tác giả: Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam

hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá

khác nhau trên đất nước ta. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” tác giả nói

lên cuộc sống, con người vùng Tây Bắc.. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về

số phận bi thảm của người dân nghèo.

2. Tác phẩm: Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm

1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc

sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà thống lí Pá Tra; phần sau kể

về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách

mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mi đánh Pháp bảo vệ dân làng.

Đoạn trích trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm.

II. NỘI DUNG TÁC PHẨM

1. Nhân vật Mị

a. Mị - cô gái đủ điều kiện hưởng hạnh phúc nhưng bị vùi dập phũ phàng. - Mị là người phụ nữ có tài năng, co nhân phẩm cao đep : Mi thổi sáo giỏi “thổi

lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê…”; Mi hiếu thảo với cha già, Mi yêu

lao động….

- Mi co cuộc sống khốn khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước

đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: + Mị bị bóc lột sức lao động nặng nề

+ Mị bị hành hạ về thể xác và tinh thần sống tủi nhục hơn trâu ngựa

- Hậu quả Mị gánh chịu thật thê thảm:

+ Mị mất khả năng giao tiếp, mất ý thức không gian thời gian

+ Bây giờ thì Mi cũng tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngưạ … Môi ngày

Mi càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”…

b. Trong đau thương, Mị vẫn có sức sống tiềm tang và phản kháng mãnh liệt:

- Hồi mới về làm dâu:

+ Có hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc vì ý thức được số phận làm dâu trừ nợ.

+ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, bởi Mị nhận ra chết còn ý nghĩa hơn sống mà đánh

mất mình. Chết cũng là cách Mị phản kháng lại số phận.

+ Thương cha, Mị ném lá ngón, ném luôn khát vọng giải thoát cho chính mình.

+ Cha chết, nhiều năm sau, Mị cũng không hề nghĩ đến lá ngón tự tử nữa. Mị đã hoàn

toàn chai sạn, vô cảm.

- Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài.

+ Khi nghe tiếng sáo gọi bạn “lấp ló ngoài đầu núi” vọng lại “thiết tha, bổi hổi”, Mị

ngồi “nhẩm thầm” bài hát.

+ “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị say, lòng nhớ về thời con gái của

mình “ngày trước Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người

mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”

+ Mị nhận ra “Mị trẻ lắm, Mị vân còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Rồi lại tủi thân khi nghĩ

về A Sử “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mi sẽ ăn cho chết ngay chứ không

buồn nhớ laị nữa”.

+ Khát vọng tự do không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà còn thể hiện trong hành động:

“Mi đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn môt miếng bỏ thêm vào diã đèn cho sáng…

Mi muốn đi chơi, Mi cũng sắp đi chơi…Mi cuốn laị tóc, Mi với tay lấy cái váy hoa

vắt ở phía trong vách… Mi rút thêm cái áo”. Đây chính là sư “nổi loan ” trong Mi với

khát vọng tự do trào dâng mãnh liệt.

Page 11: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

11

+ Dù bị dập vùi phũ phàng, khát vọng tự do trong Mị không hề mất đi: A Sử trói đứng

Mị bằng một thúng dây đay. Mị không biết mình đang bị trói vẫn “vùng bước đi”.

Chứng tỏ trong Mị sức sống rất mãnh liệt.

Như vậy, cuộc trôi dậy thứ nhất của Mị không thành, Mị không thoát khỏi

cảnh ngục tù trần gian nhưng ít ra Mị cũng đã sống lại những thời khắc tươi đẹp của

tuổi trẻ. Sức sống của Mị, sự hồi sinh của Mị được đặt trong một thử thách khắc

nghiệt, một hiện thực phũ phàng nhưng qua đó lại càng khẳng định một chân lí rằng:

sức sống của con người dù bị dẫm đạp, bị trói chặt nhưng nó không chết mà luôn âm ỉ

cháy, chỉ gặp dịp là bùng lên mạnh mẽ.

- Đỉnh điểm của sức sống tiềng tàng và phản kháng của Mị thể hiện rõ nhất

trong đêm cởi trói cho A Phủ. + Lúc đầu, khi chứng kiến cảnh thấy A Phủ bị trói mấy ngày đêm: “Nhưng Mị vẫn

thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Đó là dấu ấn của sự tê liệt tinh thần.

+ Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen

lại…” của A Phủ, Mị thức tỉnh dần. Thương người, thương mình rồi lại thương người.

+ Mị nhớ tới cảnh người đàn bà đời trước cũng bi t rói đến chết. Mị nhận thức được

tội ác của nhà thống lí: “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Chúng nó thật độc

ác…”. – Và Mị thương cảm cho A Phủ: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết,

chết đau, chết đói, chết rét”. Từ lạnh lùng, dần dần Mị nhận ra nôi đau khổ của mình,

của người khác và liều lĩnh hành động: “Mị rón rén bước lại…. lấy con dao nhỏ cắt

lúa cắt nút dây mây trên người A Phủ”. Hành động cởi trói cho A Phủ là hành động

phản kháng của Mị trước cái ác.

+ Khi A Phủ chay đi rồi, “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Trong giây phút “đứng lặng”

ngắn ngủi ấy, Mị đã có một quyết định táo bạo “Mị cũng vụt chạy ra”, đuổi kịp A Phủ,

cùng A Phủ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, trốn khỏi Hồng Ngài. Bước chân vụt chạy

của Mị là bước chân đạp đổ mọi áp chế của phong kiến miền núi để đến với ánh sáng

tự do. Câu nói “A Phủ cho tôi đi. Ở đây thì chết mất” thể hiện lòng ham sống, khát

vọng tự do mãnh liệt của Mị.

Tóm lại, hành động cởi trói chính là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị. Từ

thân phận nô lệ, Mị thành chủ nhân của cuộc đời mới. Từ sức sống tiềm tàng đã phát

triển thành sức mạnh giải phóng để làm thay đổi cuộc sống.

2. Vài nét nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Nhà văn Tô Hoài giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng

- Kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.

- Đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách

cụ thể, hợp lí.

- Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. Ngôn

ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ.

3. Giá tri hiện thực và nhân đaọ sâu săc của tác phâm: a. Giá trị hiện thực:

- Nhà văn miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo miền núi Tây Bắc

dưới ách thống trị của bọn phong kiến và thực dân.

- Tác giả phơi bày bản chất tàn bạo, tội ác tày trời của giai cấp thống trị miền núi .

b. Giá trị nhân đạo:

- Nhà văn thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của

người dân lao động nghèo miền núi trước Cách mạng.

- Tác giả tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa,tàn bạo của giai cấp thống trị miền

núi.

- Thể hiện thái độ trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả

năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc. Đây là một biểu hiện quan trọng của giá trị

nhân đạo trong tác phẩm.

Page 12: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

12

III. Một số dạng đề bài “Vợ chồng A Phủ”: 1. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài miêu tả hai con người của Mị. Một cô Mị vô

cảm, cô độc: “Lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi… Mỗi ngày Mị càng không nói,

lùi lũi như con rùa trong xó cửa và một cô Mị tiềm tàng sức sống và phản kháng mãnh

liệt: Mùa xuân, Mị thấy mình còn trẻ và khao khát đi chơi… Mùa đông mị cắt dây trói

cho A Phủ và chạy theo A Phủ” Phân tích hình ảnh hai cô Mị ở trên và từ đó làm nổi bật sự thay đổi ở nhân vật này. 2. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài hai lần miêu tả Mị Ăn lá ngón. Hồi mới về làm

dâu: Mị có ý định tự tử nhưng vì thương cha, “Mị ném nắm lá ngón xuống đất… Mị

không đành lòng chết. mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành

trở lại nhà thống lý”. Đêm tình mùa xuân, Mị nghĩ A Sử và Mị không có lòng với nhau

mà vẫn phải ở với nhau. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay,

chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn

lửng lơ bay ngoài đường”. Phân tích hình ảnh hai cô Mị ở trên và từ đó làm nổi bật sự thay đổi tâm trạng ở nhân

vật này. 3. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài hai lần miêu tả Mị thức tỉnh. Đêm tình mùa

xuân, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình: Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui

sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao

nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết.” và đêm mùa đông, khi thấy giọt nước mắt

A Phủ: Mị nhớ lại đời mình, mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ

chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải

trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị

cũng không thấy sợ…” Phân tích hình ảnh hai cô Mị ở trên và từ đó nhận xét về sự thức tỉnh ở nhân vật này.

4. Trong “Vợ chồng A Phủ”, trong đêm mùa đông, thấy A Phủ bị trói, ban đầu: Mị

vẫn thản nhiên sửi lửa, hơ tay. A Phủ là cái xác chết đứng ở đấy cũng thế thôi…” nhưng

khi thấy giọt nước mắt A Phủ: Mị cắt dây trói cho A Phủ và chạy theo A Phủ khỏi Hồng

Ngài Phân tích hình ảnh hai cô Mị ở trên và từ đó nhận xét về sự thức tỉnh ở nhân vật này.

Page 13: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

13

PHẦN 2: CHUẨN BỊ BÀI - KIẾN THỨC MỚI

SOẠN BÀI “VỢ NHẶT” – Kim Lân

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Đôi nét về Kim Lân

– Kim Lân (1920 – 2007). Trước CMT8: Ông chủ yếu viết về nông thôn, đề tài người

nông dân. Sau CMT8: Làm báo, viết văn. Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên

chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)…

– Phong cách sáng tác: Cây bút chuyên viết truyện ngắn, chủ yếu viết về đề tài nông

thôn, người nông dân.

2. Đôi nét về “Vợ nhặt”

– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác

phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản

thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết

truyện Vợ nhặt.

– Xuất xứ: Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).

3. Tóm tăt truyện “Vợ nhặt” Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là

dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện

theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa

cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa

tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ

sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng,

họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.

4. Ý nghĩa nhan đề

– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người

ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là

việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người

Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.

– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí.

Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà

có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng

liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ

đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người.

Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của

người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1.Tình huống truyện

– Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy

được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong

manh.

– Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo !

Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ !

Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi

người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng

cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.

Page 14: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

14

– Ý nghĩa tình huống truyện: không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu

chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía

cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

2. Nhân vật

2.1. TRÀNG

*Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:

– Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.

– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn

những búi cỏ dại.

Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.

– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bông nhiên “nhặt”

được vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh

chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:

+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt

“Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng

thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình

tứ đến như thế.

+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác

quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời

đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối

cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết

hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá

tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng

hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về

thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”

* Niềm hạnh phúc khi có vợ :

– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười

tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc

nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong

xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người-

Tràng đã có vợ.

– Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu

nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông

ăn nói cục cằn kia bông văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và

thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng

mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo

lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải

kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.

Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ.

Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát

khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới

bủa vây.

– Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau :

+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.

+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước

sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân

hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp.

Rõ ràng những cảnh tượng rất đôi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động,

hạnh phúc với anh thật giản dị.

+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh

sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.

Page 15: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

15

+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền

hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.

+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.

Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một

nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên

người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như

tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự

chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.

+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn

ngập sự đầm ấm, hoà hợp.

– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói

đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại,

về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo,

giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc

của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống

hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.

2.2 THỊ - NGƯỜI VỢ NHẶT

– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một

không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng

với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ,

không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị.

Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.

– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình

và tính cách của chị:

+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà

ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”

+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị

cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một

chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về

chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát

vọng về hạnh phúc và sự sống.

– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ

nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp

của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ

cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên

đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm

vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân,

đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều

lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.

– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên

trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:

+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa

mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản

thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận

+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp

nhận bước vào cuộc đời của Tràng.

+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng

thương

– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm

gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ

trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn,

Page 16: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

16

đanh đá bông trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ

sức mạnh làm thay đổi một con người.

– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân

+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do

chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ

đồ rẻ rúng có thể nhặt được

+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề

bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc

đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc,

và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

2.3. BÀ CỤ TỨ

– Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện

ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản

chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim

Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy

chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.

– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con

từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu,

nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng

bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở

đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không

còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải.

Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị

vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo

và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến

thế.

– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào,

là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không

chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi

mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của

con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ

gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự

trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà

lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của

Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.

Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình

người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ

nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên

phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng

tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của

cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là

chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan

chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng

dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai

giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước

qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.

– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay

về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều

mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều

mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng

tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để

Page 17: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

17

mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng

ròng.

– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ

về một tương lai tươi sáng phía trước:

+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn,

giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy

vọng đời sẽ có cơ khấm khá.

+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối

thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán

– cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những

nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.

+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về

sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho

mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung-

mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo

vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát

vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi-

Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.

– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và

tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen

lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng

thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc,

tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.

Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người

mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng

cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn

gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.

3. GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO

3.1. Giá trị hiện thực:

– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân

tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :

+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.

+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.

+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.

+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.

+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.

+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.

+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.

+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.

– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn

đói năm 1945.

– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang

tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.

3.2. Giá trị nhân đạo

+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.

+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng

khiếp.

+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao

động nghèo.

Page 18: NỘI DUNG ÔN TẬP TẠI NHÀ PHẦN 1: ÔN TẬP KIẾN THỨC CŨ I. … · với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn

18

+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới

tương lai tươi sáng

III. TỔNG KẾT

1. Nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.

– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách

nhân vật.

– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.

– Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh

tế.

– Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất

Bắc Bộ.

2. Chủ đề: Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn

cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo

khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc

gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.