những điểm nổi bật của kinh tế trong...
TRANSCRIPT
1
Kinh tế vĩ mô tháng 5 năm 2017: Những điểm nổi bật
Những điểm nổi bật của kinh tế, giá cả, tài chính tiền tệ quốc tế
- Các nền kinh tế đầu tàu vẫn trên đà phục hồi, ngoại trừ một số tín hiệu thiếu tích
cực từ Mỹ;
- Chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu đã tăng trở lại nhờ sự gia tăng của các mặt hàng
LTTP và kim loại, tuy nhiên giá dầu giảm khá mạnh;
- Đồng USD chịu ảnh hưởng bất lợi từ những diễn biến của kinh tế trong nước, các
đồng tiền mạnh trong khu vực châu Âu đã có diễn biến trái chiều, trong khi đó
đồng JPY và CNY đã tăng giá trở lại;
- Giá vàng vẫn tiếp tục gia tăng nhưng mức tăng thấp hơn tháng trước;
- TTCK toàn cầu vẫn duy trì đà tăng điểm;
- Định hướng điều hành CSTT của các NHTW lớn không có nhiều thay đổi, 12
NHTW tại các nước đang phát triển điều chỉnh lãi suất chính sách với chiều hướng
nới lỏng là chủ đạo.
Những điểm nổi bật của kinh tế trong nước
- Sản xuất công nghiệp vẫn yếu hơn so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi đó chỉ số
nhà quản trị mua hàng cũng giảm mạnh;
- Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đã tăng
chậm lại;
- Vốn đầu tư từ NSNN tiếp tục cải thiện, trong khi đó tình hình thu hút mới và giải
ngân vốn FDI vẫn gặp nhiều khó khăn;
- Kim ngạch xuất khẩu so với tháng trước đã suy giảm, nhập khẩu tiếp tục gia tăng,
cán cân thương mại tiếp tục nhập siêu; hoạt động xuất khẩu của khu vực FDI vẫn
giảm so với tháng trước;
- Chỉ số giá tiêu dùng ghi nhận tháng giảm đầu tiên kể từ đầu năm;
- Thu NSNN tiếp tục cải thiện, bội chi ngân sách hiện ở mức thấp nhất trong vòng 5
năm trở lại đây;
- Lãi suất huy động tiếp tục xu hướng tăng ở các kỳ hạn dài, lãi suất cho vay diễn
biến ổn định, lãi suất liên ngân hàng đang giảm mạnh;
- Tỷ giá giao dịch trên thị trường diễn biến phù hợp, vàng đã giảm giá tháng thứ hai
kể từ đầu năm;
- TTCK Việt Nam khởi sắc trở lại.
2
I. KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Kinh tế thế giới
Kinh tế Mỹ đón
nhận những tín
hiệu trái chiều
Tại Mỹ, trong khi hoạt động sản xuất có sự tăng tốc trở lại với chỉ số PMI tổng
hợp gia tăng từ mức 53,2 điểm trong tháng 4 lên 53,9 điểm trong tháng 5 thì
tiêu dùng vẫn diễn biến khá trì trệ với mức tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa
hiện chỉ đạt 4,5% - mức thấp nhất kể từ đầu năm đến nay. Tỷ lệ thất nghiệp
trong tháng 5 vừa qua đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 16 năm qua là
4,3%, nhưng tốc độ tạo việc làm lại chậm hơn so với tháng trước khi chỉ đạt
138.000 việc làm, thấp hơn mức mục tiêu 160.000 – 170.000 việc làm hàng
tháng nhằm đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định.
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Số việc làm được tạo thêm (nghìn việc làm)
Doanh số bán lẻ hàng hóa so với cùng kỳ (%)
Chỉ số PMI sản xuất của Mỹ
Nguồn: Trading economicsics
Các chỉ số vĩ mô
cơ bản của khu
vực EU vẫn tiếp
tục khởi sắc
Khu vực sản xuất duy trì đà mở rộng mạnh mẽ với chỉ số PMI tháng 5 không
thay đổi so với tháng 4 ở mức 56,8 điểm – mức cao nhất trong vòng 6 năm
qua. Hoạt động tiêu dùng cũng diễn biến tích cực khi tăng trưởng doanh số
bán lẻ hàng hóa trong tháng gần đây nhất đã đạt mức tăng trưởng 2,3% so với
cùng kỳ - mức cao nhất kể từ đầu năm đến nay. Hoạt động kinh tế càng được
củng cố nhờ những tín hiệu lạc quan đến từ thị trường lao động1 và khu vực
thương mại2. Ngoài ra, tình hình chính trị trong khu vực mặc dù vẫn còn
những diễn biến tốt xấu đan xen3, nhưng cũng đang dần ổn định trở lại, từ đó
càng củng cố cho đà phục hồi kinh tế đang diễn ra.
Tỷ lệ thất nghiệp
Doanh số bán lẻ hàng hóa so cùng kỳ (%)
1 Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 4 đã giảm xuống 9,3%, mức thấp nhất kể từ tháng 3/2009 2 Kim ngạch xuất khẩu tháng gần đây nhất của khu vực EU đạt mức trên 200 triệu USD, mức cao nhất trong vòng hơn 10 năm trở lại đây
nhờ sự phục hồi hoạt động giao thương xuất khẩu tại các đối tác truyền thống như Nhật Bản, Trung Quốc, Thụy Sỹ,.. 3 2 cuộc bầu cử quan trọng diễn ra tại Pháp và Hà Lan đã đón nhận kết quả thuận lợi khi chặn được làn sóng chủ nghĩa dân túy, tuy nhiên
trong tháng 5 đã phát sinh những quan ngại mới về bầu cử sớm sắp diễn ra tại Anh và những lo ngại về tình hình nợ tại Ý và Hy Lạp.
3
Thống kê kim ngạch xuất khẩu (triệu EUR)
Chỉ số PMI sản xuất của Châu Âu
Nguồn: Trading economicsmics
Hoạt động xuất
khẩu tiếp tục
tạo đà cho tăng
trưởng kinh tế
của Nhật Bản
Kinh tế Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng nhờ sự tăng tốc của hoạt
động xuất khẩu và diễn biến ổn định của các chỉ số vĩ mô trong nước. Kim
ngạch xuất khẩu nối dài chuỗi tăng trưởng sang tháng thứ 6 liên tiếp với mức
tăng mới nhất là 7,5%. Hoạt động sản xuất duy trì đà mở rộng mạnh mẽ kể từ
đầu năm trong khi tiêu dùng vẫn cho thấy xu hướng phục hồi vững chắc. Hơn
nữa, kinh tế Nhật Bản cũng đang hưởng lợi từ tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất
trong 22 năm qua. Thất nghiệp ở mức thấp và lương trung bình tăng đã làm
tăng niềm tin của người tiêu dùng vào thời điểm hiện tại4. Nhờ sự cải thiện của
hoạt động kinh tế, lạm phát tại Nhật Bản đã liên tục duy trì ở mức dương từ
tháng 10 năm ngoái đến nay, trái ngược hoàn toàn với xu hướng giảm phát của
nửa đầu năm 2016.
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Tốc độ tăng CPI so với cùng kỳ (%)
Doanh số bán lẻ hàng hóa so cùng kỳ (%)
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Nguồn: Trading economics
Kinh tế Trung
Quốc tiếp tục tốt
hơn so với cùng
kỳ
Kinh tế Trung Quốc trong những tháng đầu năm 2017 vẫn đang cho thấy sự phụ
thuộc mạnh mẽ vào hoạt động tiêu dùng nội địa và xuất khẩu hàng hóa. Xuất
khẩu hàng hóa trong những tháng đầu năm nay đã liên tục duy trì được tốc độ
tăng trưởng cao, trái ngược hoàn toàn với xu hướng giảm sút của cùng kỳ năm
2016. Bên cạnh đó, tiêu dùng nội địa vẫn diễn biến khả quan, thể hiện qua tăng
trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa cũng có tháng thứ 2 liên tiếp đạt tốc độ tăng
4 Chỉ số niềm tin người tiêu dùng duy trì ở mức trên 43 điểm kể từ đầu năm đến nay, trong đó tháng 3 vừa qua đạt mức cao kỷ lục trong
vòng nhiều năm qua là 43,9 điểm.
4
trưởng trên 10%. Trong khi đó, sản xuất có chiều hướng mở rộng hơn với chỉ số
PMI tổng hợp đã tăng nhẹ từ mức 51,2 điểm trong tháng 4 lên mức 51,5 điểm
trong tháng 5.
Tăng trưởng xuất khẩu so với cùng kỳ (%)
Doanh số bán lẻ hàng hóa so với cùng kỳ (%)
Chỉ số niềm tin người tiêu dùng
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Nguồn: Trading Economics
Chỉ số giá cả hàng
hóa toàn cầu tăng trở
lại trong tháng 6
Theo thống kê của Bloomberg, thị trường hàng hóa toàn cầu đã tăng nhẹ
trở lại trong tháng 6 với mức tăng 0,82%. Nguyên nhân là do hầu hết các
mặt hàng kim loại và nông sản đã lấy lại đà tăng giá trong tháng mặc dù
mức tăng nhẹ chỉ giao động trên dưới 1%.
Trong khi đó, trên thị trường năng lượng, giá dầu duy trì được đà gia tăng
trong suốt 3 tuần đầu của tháng nhưng lại sụt giảm mạnh trong tháng cuối
cùng do những lo ngại về sự gia tăng nguồn cung sau cuộc họp của
OPEC5. Theo đó, giá dầu WTI đã giảm 2,7% và giá dầu Brent giảm 3% so
với cuối tháng trước.
Giá hàng hóa thế giới
Diễn biến giá dầu WTI
Nguồn: Bloomberg
5 Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu (OPEC) cùng một số cường quốc dầu mỏ, trong đó có Nga trong tháng 5 đã họp và thống nhất kéo dài
chương trình cắt giảm sản lượng khai thác dầu thêm khoảng 1,8 triệu thùng dầu/ngày cho tới cuối quý I/2018. Tuy nhiên, một số thành viên OPEC, trong đó có Libya, Nigeria và Mỹ không tham gia thỏa thuận này, do đó vẫn có khả năng các nước này gia tăng sản lượng khai thác.
Ngoài ra, theo khảo sát của hãng tin Reuters, sản lượng dầu thô của OPEC tháng 5 đã tăng tháng đầu tiên trong năm nay do sự gia tăng sản
xuất và khai thác dầu tại Libya.
5
2. Điều hành chính sách của NHTW các quốc gia
12 NHTW đã
thay đổi lãi suất
điều hành trong
tháng 5
Định hướng điều
hành CSTT của
các NHTW chủ
chốt chưa có
nhiều thay đổi
Trong tháng 5, có 12 NHTW các quốc gia điều chỉnh lãi suất chính sách, trong
đó 8 NHTW đã tiến hành cắt giảm lãi suất từ 0,25% đến 1% và chỉ có 4 NHTW
tiến hành tăng lãi suất từ 0,5% đến 2%. Đáng chú ý, trong số các quốc gia giảm
lãi suất có đến một nửa thuộc khu vực Mỹ La Tinh là Brazil, Colombia, Peru và
Chi Lê, đồng thời đây cũng không phải là lần giảm lãi suất đầu tiên của các
quốc gia này trong năm 2017.
NHTW Mỹ Fed trong cuộc họp điều hành CSTT diễn ra vào đầu tháng 5 đã
quyết định thông qua việc giữ nguyên lãi suất liên bang ở mức 0,75-1% như dự
đoán của hầu hết các nhà phân tích. Đồng thời, Fed cũng nhận định nếu dữ liệu
kinh tế đáp ứng kỳ vọng, thì thời điểm phù hợp để Ủy ban này quyết định tiến
thêm một bước nữa trong việc dỡ bỏ chính sách nới lỏng tiền tệ đã đến rất gần.
Trong cuộc họp này, Fed cũng đã quyết định sẽ chấm dứt việc tái đầu tư vào
trái phiếu kho bạc cũng như các loại chứng khoán thế chấp trong năm nay để
giảm dần lượng chứng chỉ trái khoán nắm giữ trong bảng cân đối tài sản NHTW
từ mức 4,3 nghìn tỷ USD xuống còn khoảng 2,75 nghìn tỷ USD.
NHTW Anh mặc dù đã quyết định vẫn giữ nguyên lãi suất điều hành và quy
mô các chương trình nới lỏng định lượng nhưng cũng đã phát đi tín hiệu về khả
năng thắt chặt CSTT trong thời gian tới trước áp lực lạm phát đang gia tăng trở
lại.
NHTW Nhật Bản vẫn duy trì quan điểm điều hành chính sách tiền tệ theo
hướng nới lỏng thông qua việc tiếp tục các chương trình nới lỏng định lượng và
định tính để đạt được và duy trì mục tiêu lạm phát 2%.
3. Diễn biến thị trường ngoại hối, chứng khoán
Thị trường ngoại hối
Đồng USD chịu
ảnh hưởng bất
lợi từ những
diễn biến kinh tế
chính trị trong
nước
Trong tháng 5, những thông tin kinh tế tích cực của nền kinh tế Mỹ chỉ nâng đỡ
được đà tăng của đồng bạc xanh trong 10 ngày giao dịch đầu của tháng với tổng
mức tăng là 0,67%. Tuy nhiên ngay sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump bất
ngờ sa thải Giám đốc FBI James Comey, đồng USD đã liên tục xuống giá do
giới đầu tư lo ngại về cuộc tranh cãi giữa lưỡng đảng trong tương lai không xa
và qua đó có thể ảnh hưởng tới tiến trình cải cách thuế và kích thích kinh tế của
Chính phủ Mỹ. Những rắc rối bủa vây người đứng đầu của nhà trắng vô hình
chung đã trở thành cái bóng đè nặng lên diễn biến của đồng USD trong suốt
thời gian còn lại của tháng mặc dù có thời điểm kỳ vọng tăng lãi suất vào tháng
6 của Fed đã hỗ trợ tích cực cho đồng USD. Chỉ số USD index đã có chuỗi
giảm đáng chú ý từ ngày 11 – 17/5, ghi nhận tổng mức giảm 2,11% lớn hơn
tổng mức giảm của tháng.
Sức mạnh của đồng bạc xanh càng bị kéo xuống vào những ngày cuối tháng khi
Fed công bố biên bản cuộc họp trong tháng 5 về khả năng giãn tiến độ tăng lãi
suất. Kỳ vọng tăng lãi suất trong tháng tới vào thời điểm cuối tháng 5 đã giảm
từ mức 90% vào đầu tháng xuống mức 75%. Kết thúc tháng 5, đồng USD đã
giảm hơn 6% so với mức đỉnh thiết lập sau cuộc bầu cử của nước Mỹ (chốt giao
dịch ở mức 96.85, giảm hơn 2% so với tháng trước).
6
Diễn biến chỉ số USD
Nguồn: investing.com
Các đồng tiền
mạnh trong khu
vực Châu Âu đã
có diễn biến trái
chiều
Trong tháng 5, diễn biến của đồng EUR và đồng GBP đã không cùng chiều, đồng
thời cũng không bị tác động bởi diễn biến của đồng USD một cách mạnh mẽ như
tháng trước. Thay vào đó, diễn biến của hai đồng tiền này bị chi phối khá mạnh
bởi tình hình kinh tế và chính trị tại mỗi nước cũng như trong khu vực, đáng chú
ý là cả hai đồng tiền này đều giảm giá mạnh khi xuất hiện các quan ngại mới về
Hy Lạp, Ý cũng như diễn biến của cuộc bầu cử tại Anh.
Đồng EUR đã có một tháng tăng điểm mạnh nhất kể từ đầu năm, tăng hơn 3%.
Xu hướng tăng của đồng tiền chung được hỗ trợ mạnh mẽ bởi sự phục hồi của
kinh tế trong khu vực, hỗ trợ bởi kết quả bầu cử của nước Pháp với chiến thắng
thuộc về ông Macron – đã làm dịu đi nỗi lo sợ về chủ nghĩa dân túy sẽ gia tăng
tại khu vực Châu Âu. Mặc dù vậy, đồng EUR cũng vẫn trải qua những phiên
giảm giá khi có những diễn biến bất ổn mới trong khu vực. Kết thúc tháng 5, tỷ
giá EUR/USD chốt giao dịch ở mức 1.1243.
Trong khi đó, đồng GBP đã quay đầu giảm 0,47% sau hai tháng tăng liên tiếp.
Trong tháng, mặc dù đồng GBP đã ghi nhận chuỗi tăng liên tục từ ngày 12 – 17/5
với tổng mức tăng là 0,68% và có diễn biến tăng giảm đan xen đến hết tháng, tuy
nhiên những tín hiệu kinh tế thấp hơn kỳ vọng và những diễn biến mới xoay xung
quanh cuộc bầu cử đã không giữ vững được đà tăng này. Khi các cuộc thăm dò
cho thấy lợi thế dẫn điểm của Bà Theresa May so với Đảng Lao động đối lập đã
giảm mạnh từ mức 20 điểm phần trăm tháng trước xuống còn 5 điểm phần trăm,
đồng GBP đã lập tức mất giá mạnh hơn 1% - quyết định xu hướng cuối cùng của
đồng tiền trong tháng. Kết thúc tháng, tỷ giá GBP/USD chốt giao dịch ở mức
1.2890.
Bên cạnh đó, đồng CAD và đồng AUD cũng có diễn biến trái chiều, đồng CAD
đã tăng trở lại sau 3 tháng giảm liên tiếp, tăng khoảng 1,11% và đồng AUD đã
giảm tháng thứ 3 liên tiếp ở mức 0,79%. Xu hướng tăng của đồng CAD diễn ra rõ
nét nhất từ 15 – 22/5, được hỗ trợ mạnh mẽ bởi những thông tin bất lợi của tình
hình kinh tế, chính trị của Mỹ và xu hướng tăng của giá dầu. Trong khi đó, đồng
AUD lại giảm liên tục vào tuần giao dịch cuối tháng và giảm mạnh hơn 1,5% vào
ngày 3/5 mặc dù cũng đã hưởng lợi từ xu hướng giảm của đồng USD từ ngày 11
– 17/5. Kết thúc tháng, tỷ giá giao dịch USD/CAD chốt ở mức 1.3501 và tỷ giá
AUD/USD là 0.743.
7
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh
Nguồn: investing.com
1.061.071.081.09
1.11.111.121.13
1-M
ay-1
7
3-M
ay-1
7
5-M
ay-1
7
7-M
ay-1
7
9-M
ay-1
7
11
-May
-17
13
-May
-17
15
-May
-17
17
-May
-17
19
-May
-17
21
-May
-17
23
-May
-17
25
-May
-17
27
-May
-17
29
-May
-17
31
-May
-17
EUR/USD
1.2651.27
1.2751.28
1.2851.29
1.2951.3
1.3051.31
GBP/USD
0.720.725
0.730.735
0.740.745
0.750.755
0.76
1-M
ay-1
7
3-M
ay-1
7
5-M
ay-1
7
7-M
ay-1
7
9-M
ay-1
7
11
-May
-17
13
-May
-17
15
-May
-17
17
-May
-17
19
-May
-17
21
-May
-17
23
-May
-17
25
-May
-17
27
-May
-17
29
-May
-17
31
-May
-17
AUD/USD
1.32
1.33
1.34
1.35
1.36
1.37
1.38
USD/CAD
109110111112113114115
1-M
ay-1
7
3-M
ay-1
7
5-M
ay-1
7
7-M
ay-1
7
9-M
ay-1
7
11
-May
-17
13
-May
-17
15
-May
-17
17
-May
-17
19
-May
-17
21
-May
-17
23
-May
-17
25
-May
-17
27
-May
-17
29
-May
-17
31
-May
-17
USD/JPY
6.766.78
6.86.826.846.866.88
6.96.92
1-M
ay-1
7
3-M
ay-1
7
5-M
ay-1
7
7-M
ay-1
7
9-M
ay-1
7
11
-May
-17
13
-May
-17
15
-May
-17
17
-May
-17
19
-May
-17
21
-May
-17
23
-May
-17
25
-May
-17
27
-May
-17
29
-May
-17
31
-May
-17
USD/CNY
Tại khu vực
Châu Á, đồng
JPY và đồng
CNY đã tăng giá
trở lại
Trong tháng 5, hai đồng tiền mạnh của khu vực Châu Á đều có được lợi thế trước
sự mất giá của đồng bạc xanh. Mặc dù cả hai đồng tiền này đều mất giá trong
khoảng 10 ngày giao dịch đầu của tháng, tuy nhiên những thông tin kinh tế khởi
sắc của Nhật Bản và tích cực của Trung Quốc đã chặn lại đà giảm giá của 2 đồng
tiền này. Trong đó đáng chú ý là nhu cầu đầu tư tài sản an toàn trước những bất
ổn của nước Mỹ cũng như những quan ngại mới của khu vực đồng tiền chung
châu Âu vẫn tiếp tục gia tăng đã giúp cho đồng JPY bật tăng trở lại, thậm chí vào
ngày 17/5, đồng JPY đã tăng hơn 2% gần bằng với tổng mức giảm điểm trong
thời gian đầu tháng. Bên cạnh đó, đồng CNY duy trì xu hướng tăng rải đều từ
ngày 12 đến hết tháng, trong đó đồng CNY đã có chuỗi tăng điểm liên tiếp từ
ngày 12 – 17/5 với tổng mức tăng là 0,31% và mức tăng mạnh vào ngày cuối
tháng ở mức 0,66%.
Kết thúc tháng 5, đồng JPY đã tăng 0,69%, tỷ giá USD/JPY chốt giao dịch ở mức
110.78; đồng CNY tăng 1,21%, tỷ giá USD/CNY chốt ở mức 6.8101.
8
Diễn biến thị trường vàng
Diễn biến giá vàng thế giới
Nguồn: usagold.com
Thị trường chứng khoán toàn cầu
6 Lợi nhuận từ các công ty thuộc S&P 500 đã nhảy vọt 14.9% trong quý 1/2017, mức tăng mạnh nhất kể từ năm 2011, trái ngược hoàn toàn
so với mức sụt giảm gần 7% vào quý 1/2015. 7 Cáo buộc Nga can thiệp vào cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, ông Trump sa thải giám đốc FBI,…
Giá vàng đã tăng
thấp hơn tháng
trước
Diễn biến của giá vàng trong tháng 5, mặc dù tiếp tục được hưởng lợi từ những
bất ổn chính trị và thị trường của nước Mỹ nhưng đà tăng của giá vàng đã thấp
hơn tháng 4/2017. Theo đó, giá vàng giao ngay chỉ tăng 0,14%; giá vàng kỳ hạn
tăng 0,56%. Diễn biến của giá vàng cũng ghi nhận mối quan hệ nghịch giữa
đồng USD và giá vàng tại một số thời điểm, đáng chú ý là chuỗi tăng điểm liên
tục từ ngày 11 – 17/5 với mức tăng lớn hơn 3% đối với cả vàng giao ngay và
vàng kỳ hạn. Trong chuỗi tăng điểm này giá vàng giao ngay đã tăng mạnh xấp
xỉ gần 2% vào ngày 17/5 - chạm mức cao nhất 2 tuần khi các nhà đầu tư tìm
kiếm nơi trú ẩn khi các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới hầu hết đã giảm
điểm do phải chịu áp lực nghi ngờ xung quanh tương lai chính trị của chính
quyền tổng thống Trump. Tuy nhiên, chuỗi tăng này chỉ cao hơn không đáng kể
so với chuỗi giảm của vàng hồi đầu tháng. Kết thúc tháng, giá vàng giao ngay
chốt ở mức 1.268,71$/ounce và giá vàng kỳ hạn ở mức 1.275,4$/ounce.
TTCK toàn cầu
diễn biến tích
cực
Thị trường chứng khoán toàn cầu trong tháng 5 ghi nhận những diễn biến khác
nhau giữa các khu vực do chịu tác động từ các bối cảnh kinh tế vĩ mô cũng như
biến động địa chính trị đặc thù tại mỗi quốc gia.
Thị trường chứng khoán Mỹ được hỗ trợ mạnh mẽ từ kết quả báo cáo lợi nhuận
kinh doanh khả quan của các doanh nghiệp niêm yết6. Nhờ đó, cả 3 chỉ số
chứng khoán chủ chốt vẫn giữ được đà tăng điểm mặc dù có những thời điểm
tuột dốc do chịu tác động từ các thông tin trái chiều của chính quyền tổng thống
Donald Trump7. Kết thúc tháng 5, Dow Jones tăng nhẹ 0,32%, S&P 500 tăng
1,13% và Nasdaq tăng 2,49%.
9
KINH TẾ TRONG NƯỚC
1. Tăng trưởng kinh tế
8 IPP tháng 5/2016 tăng 7,8; IIP Khai khoáng giảm 4,4% % so với cùng kỳ.
Trong khi đó, chứng khoán châu Âu diễn biến trầm lắng hơn khi hiệu ứng tích
cực của kết quả cuộc
bầu cử Tổng thống
Pháp đã qua đi và
những lo ngại mới phát
sinh liên quan đến cuộc
bầu cử sắp diễn ra tại
Anh. Mặc dù vậy, thị
trường vẫn được hỗ trợ
từ đà cải thiện kinh tế
trong khu vực và sự gia
tăng làn sóng đầu tư của
khối ngoại. Chốt tháng,
hầu hết các chỉ số
chứng khoán tại các thị
trường chính trong khu vực đều giữ được đà tăng điểm nhưng mức tăng không
mạnh như tháng trước: chỉ số DAX của Đức tăng 1,42%, CAC 40 của Pháp
tăng 0,3%. Đáng chú ý là chỉ số FTSE 100 của Anh đã phục hồi trở lại với mức
tăng 4,38% trong tháng 5 nhờ được hưởng lợi từ việc đồng bảng Anh suy yếu.
Thị trường chứng khoán châu Á tiếp tục đón nhận một tháng giao dịch thành
công với chỉ số Nikkei 225 của Nhật tăng 1,76%, HangSeng của Hồng Kông
tăng 3,91%. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc cũng đạt mức tăng trưởng cao
nhất khu vực 6,4% sau khi cuộc bầu cử tổng thống diễn ra thành công. Riêng
chỉ số Shanghai của Trung Quốc tiếp tục có tháng giảm thứ 2 liên tiếp 1,17% do
nhà đầu tư vẫn lo ngại về việc chính phủ Trung Quốc thắt chặt các quy định
kiểm soát đòn bẩy tài chính.
Sản xuất công nghiệp
vẫn yếu hơn so với
cùng kỳ năm ngoái
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp – IIP trong tháng 5/2017 tiếp tục
tăng nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm ngoái. Đóng góp
chính vào tốc độ tăng của IIP vẫn là sự tăng trưởng của nhóm ngành sản xuất
công nghiệp chế biến, chế tạo. Bên cạnh đó nhóm ngành khai khoáng chưa
có dấu hiệu cải thiện, thậm chí xu hướng giảm đang diễn ra mạnh mẽ.
Theo đó, IIP tháng 5/2017 ước tính tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước,
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,2%; sản xuất và phân phối điện
tăng 13,8%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,2%; duy nhất
vẫn là ngành khai khoáng giảm 7,8%. Diễn biến của các chỉ số trên nhìn
chung đều yếu hơn so với cùng thời điểm so sánh của năm ngoái8.
Tính chung 5 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng
5,7% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 7,5% của cùng kỳ năm
2016. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,7%,
đóng góp 6,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân
phối điện tăng 10,4%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước
và xử lý rác thải, nước thải tăng 7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành
khai khoáng giảm 9,1%, làm giảm 2 điểm phần trăm mức tăng chung.
Diễn biến các chỉ số chứng khoán chủ chốt trong tháng 5
Nguồn:Bloomberg
0.32%
1.13%
2.49%
3.72%
-0.14%
1.42%
4.38%
1.76%
-1.17%-2.00%
-1.00%
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
10
Diễn biến chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Diễn biến chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Nguồn: TCTK
Diễn biến IIP so với tháng trước
Diễn biến IIP so với cùng kỳ
Nguồn: TCTK
Chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm gần như đã tăng ở hầu hết các địa
phương có quy mô công nghiệp lớn, ngoại trừ Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 5%.
Trong đó IIP đã tăng mạnh, cao hơn mức tăng chung của cả nước tại một số tỉnh
thành lớn như Hải Phòng tăng 20,5%; Thái Nguyên tăng 17%; Đà Nẵng tăng
10,8%; Bình Dương và Hải Dương cùng tăng 8,1%; Đồng Nai tăng 7,8%; thành
phố Hồ Chí Minh tăng 7,2%; Bắc Ninh tăng 6,5%; Hà Nội tăng 5,9%.
Mặc dù, công nghiệp chế biến chế tạo đóng vai trò dẫn dắt nhưng xu hướng tăng
trưởng có chiều hướng chững lại của nhóm ngành này cũng đã ảnh hưởng rõ nét
lên chỉ số tiêu thụ và chỉ số tồn kho. Cụ thể, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo tháng 4/2017 giảm 0,9% so với tháng trước và tăng
8,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ
ngành chế biến, chế tạo tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng
9,3% của cùng kỳ năm 2016. Trong khi đó, chỉ số tồn kho toàn ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/5/2017 tăng 11% so với cùng thời điểm
năm trước, cao hơn mức tăng 8,7% của cùng kỳ năm 2016.
Chỉ số Nhà quản
trị mua hàng đã
giảm mạnh
Trong tháng 5, chỉ số Nhà quản trị mua hàng – PMI đã giảm từ 54,1 điểm của
tháng trước xuống 51,6 điểm. Đây là ngưỡng điểm thấp nhất kể từ đầu năm,
đồng thời phản ánh tốc độ cải thiện điều kiện kinh doanh ở mức yếu nhất kể từ
tháng 3/2016. Mặc dù các tham số thành phần vẫn nằm trong vùng mở rộng
nhưng quan ngại về khả năng suy giảm của lĩnh vực sản xuất đã xuất hiện,
mức độ lạc quan đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm.
Nguyên nhân chính làm suy giảm chỉ số PMI đó là số lượng đơn đặt hàng mới
đã giảm tại một số công ty tham gia khảo sát tính chỉ số, đặc biệt là tổng số
11
Hoạt động bán lẻ
hàng hóa đã
chững lại
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 5 ước tính
đạt 323,5 nghìn tỷ đồng, chỉ tăng nhẹ 0,1% so với tháng trước và tăng 11,6%
so với cùng kỳ năm trước. Như vậy sau 2 tháng có sự bứt phá thì tốc độ tăng
trưởng của tháng 5 đã bắt đầu chững lại. Mặc dù vậy, nếu so sánh với cùng kỳ
2 năm liền trước thì hoạt động bán lẻ hàng hóa vẫn có những diễn biến khả
quan hơn9.
Tính chung 5 tháng đầu năm nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng ước tính đạt 1.600,8 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ
năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,4%, mặc dù thấp hơn mức tăng 7,9%
của cùng kỳ năm 2016 nhưng đã hình thành xu hướng tăng trưởng liên tục kể
từ tháng 2 trở lại đây.
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu DV TD so với tháng trước và cùng kỳ (%)
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đã loại trừ yếu tố giá (% yoy)
Nguồn: TCTK
9 Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng so với cùng kỳ của tháng 5 năm 2015 và 2016 lần lượt đạt mức tăng
9,3% và 9%.
lượng đơn đặt hàng mới và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đều tăng yếu
hơn nhiều so với tháng 4. Sự tăng trưởng chậm lại cũng được thể hiện thông
qua sản lượng hàng hóa sản xuất trong tháng, quyết định tuyển dụng nhân
công, hoạt động mua hàng đã có dấu hiệu tăng yếu hơn so với các tháng trước
và tồn kho hàng thành phẩm trong tháng 5 đã tăng lên.
Diễn biến tích cực duy nhất trong tháng là chi phí đầu vào trong tháng 5 đã
chậm lại tháng thứ hai liên tiếp, trong điều kiện nhu cầu đang suy yếu thì đây
sẽ là cơ hội để nhà sản xuất giảm chi phí đầu ra, kích thích nhu cầu của khách
hàng.
Diễn biến chỉ số PMI
Nguồn: nikkei.com
12
Vốn đầu tư từ
NSNN tiếp tục đà
cải thiện của
tháng trước
Tiếp nối đà cải thiện của tháng 4, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực
hiện tháng 5 đã tăng khá mạnh, ước đạt 23,05 nghìn tỷ đồng, tăng 18% so với
tháng trước. Đây là một diễn biến phù hợp với quy luật hàng năm khi hoạt
động đầu tư từ nguồn vốn NSNN sẽ bắt đầu tăng tốc trở lại kể từ quý II. Tính
chung 5 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
đạt 88,8 nghìn tỷ đồng, bằng 30,6% kế hoạch năm và tăng 6% so với cùng kỳ
năm 2016, vẫn thấp hơn mức tăng trưởng 11,5% của 5 tháng đầu năm 2016.
Diễn biến vốn đầu tư từ NSNN
Nguồn: TCTK
Hoạt động thu
hút mới và giải
ngân FDI đang
gặp nhiều khó
khăn
Tính đến 20/5/2017, nhìn chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp
vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần đạt xấp xỉ 12,13
tỷ USD, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, đóng góp vào mức
tăng chung chủ yếu đến từ các dự án FDI cấp vốn bổ sung. Trong 5 tháng,
lượng vốn cấp bổ sung đã ước đạt khoảng 4,72 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so
với cùng kỳ năm 2016. Trong khi đó, hoạt động thu hút vốn FDI mới vẫn
đang gặp nhiều khó khăn khi tổng lượng vốn FDI đăng ký mới hiện chỉ đạt
5,59 tỷ USD, giảm 26,1% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh diễn biến kém tích cực của vốn FDI thu hút mới, việc giải ngân FDI
trong những tháng đầu năm cũng đang cho thấy sự chững lại. Vốn FDI thực
hiện 5 tháng ước tính đạt 6,2 tỷ USD, chỉ tăng 6% so với cùng kỳ năm 2016,
thấp hơn mức tăng thường lên đến hai con số của cùng kỳ các năm trước.
Diễn biến vốn FDI thu hút và thực hiện tháng 1/2016 – tháng 5/2017
Nguồn: TCTK
13
Tính đến hết tháng 5, trong tổng số vốn FDI cấp mới, tăng thêm và góp vốn
mua cổ phần, lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước
ngoài vẫn là công nghiệp chế biến, chế tạo, xếp ngay sau đó là khai khoáng
và bán buôn, bán lẻ. Như vậy, bất động sản đã không còn là lĩnh vực thu hút
sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài như những tháng trước. Theo số liệu
thống kê tích lũy, tính đến cuối tháng 5, vốn FDI vào lĩnh vực kinh doanh bất
động sản đã sụt giảm 2 bậc so với thời gian trước10, đưa ngành này hiện chỉ
đứng ở vị trí thứ 4 trong số những lĩnh vực thu hút vốn FDI.
Cơ cấu đầu tư FDI vào các ngành trong nền kinh tế từ đầu năm đến nay
Nguồn: Cục xúc tiến đầu tư
Kim ngạch xuất
khẩu giảm trong
khi nhập khẩu
gia tăng
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 5 ước tính đạt 17,2 tỷ USD, giảm 1,9%
so với tháng trước. Sự giảm sút này xuất phát từ khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài với mức giảm 3,7%; trong khi đó khu vực kinh tế trong nước lại đạt
mức tăng 3,1%. Những khó khăn trong hoạt động xuất khẩu của khu vực có
vốn FDI cũng được phản ánh ở việc sụt giảm kim ngạch xuất khẩu so với
tháng trước của nhiều mặt hàng chủ lực vốn là thế mạnh của khu vực này11.
Trái với xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu tháng 5 ước tính đạt 18 tỷ USD, tăng
3,7% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,1 tỷ USD,
tăng 8,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,9 tỷ USD, tăng 1%. Nhập
khẩu hầu hết các mặt hàng chủ chốt đều có sự gia tăng so với tháng trước,
ngoại trừ một số mặt hàng phục vụ gia công các mặt hàng xuất khẩu đang có
kim ngạch giảm sút12.
Cán cân thương mại tháng 5 ước tính nhập siêu 800 triệu USD. Tính chung 5
tháng đầu năm 2017 nhập siêu trên 2,7 tỷ USD, bằng 3,4% tổng kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,36 tỷ
USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 7,65 tỷ
USD. Như vậy, cùng với sự phục hồi mạnh mẽ của nhập khẩu trong khi xuất
khẩu đang chững lại trong một số tháng gần đây, nhập siêu qua 5 tháng đầu
năm đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2016.
10 Trong 3 tháng đầu năm 2017, ngành kinh doanh bất động sản luôn đứng vị trí thứ 2 trong số những lĩnh vực thu hút nhiều vốn FDI.
11 Xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện giảm 11%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 1,7%; phương tiện vận tải và phụ tùng
giảm 2%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 5,2%; dầu thô giảm 5,9% so với tháng trước,… 12 Nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 1,9%; chất dẻo nguyên liệu tăng 9,2%; kim loại thường khác tăng 16,2%;
nguyên phụ liệu dệt may tăng 3,8%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng giảm 1,2%; điện thoại các loại và linh kiện giảm 7,8%; xăng dầu
giảm 11,6%...
14
Diễn biến XK, NK và nhập siêu giai đoạn 1/2016 – 5/2017
Nguồn: TCTK
Một số chính sách quan trọng trong công tác quản lý, điều tiết kinh tế được ban hành trong tháng 5
Quyết định số 676/QĐ-TTg ngày 18/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án xây dựng nông thôn mới
trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn cấp huyện giai đoạn 2017 - 2020
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng nông thôn mới trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn cấp huyện
giai đoạn 2017 - 2020. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2020, có 30% số huyện được lập quy hoạch xây dựng vùng
huyện (ưu tiên các huyện có mức độ đô thị hóa cao).
Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ: Về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ 4
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan
Trung ương, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong thời gian từ nay đến năm 2020 tập
trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả 06 nhóm giải pháp, nhiệm vụ để chủ động nắm bắt cơ hội, tận dụng
tối đa các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đối
với Việt Nam.
2. Lạm phát
Nguồn: Tổng cục thống kê
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
01
/2015
03
/2015
05
/2015
07
/2015
09
/2015
11
/2015
01
/2016
03
/2016
05
/2016
07
/2016
09
/2016
11
/2016
01
/2017
03
/2017
05
/2017
CPI SO VỚI CÙNG KỲ
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017
CPI cơ bản CPI Chung
-0.60-0.40-0.20
- 0.20 0.40 0.60 0.80 1.00
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
CPI SO VỚI THÁNG TRƯỚC
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017
CPI chung CPI cơ bản
Chỉ số giá tiêu
dùng giảm do
nhiều nhóm
hàng chiếm tỷ
trọng lớn trong
rổ CPI giảm
mạnh
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2017 giảm 0,53% so với tháng trước - lần giảm sâu
nhất kể từ tháng 9/2015, tăng 3,19% so với cùng kỳ năm trước và tăng 0,37% so
với tháng 12/2016. CPI bình quân 5 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước
tăng 4,47%.
Lạm phát cơ bản tháng 5/2017 tăng 0,08% so với tháng trước, tăng 1,33% so
với cùng kỳ năm trước và 5 tháng đầu năm so cùng kỳ tăng 1,56%.
15
Nguồn: TCTK
Một số chính sách quan trọng về điều tiết giá cả được ban hành trong tháng 5 năm 2017
Công văn số 4442/BCT-TTTN ngày 20/5/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: giảm 211 đồng/lít; Xăng E5: giảm 197 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: giảm
343 đồng/lít; Dầu hỏa: giảm 261 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: giảm 6 đồng/kg.
Công văn số 3886/BCT-TTTN ngày 05/5/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: giảm 309 đồng/lít; Xăng E5: giảm 314 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: giảm
216 đồng/lít; Dầu hỏa: giảm 285 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: giảm 64 đồng/kg.
13 Giáo dục tăng 0,02%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%; May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,05%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,08%; Thiết
bị và đồ dùng gia đình tăng 0,1%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,15%. 14 Giá thịt lợn giảm 9,94%, thịt gia cầm giảm 0,99% do nguồn cung tăng mạnh trong khi nhu cầu không tăng và thương lái Trung Quốc hạn
chế thu mua. 15 Giá xăng giảm 520 đồng/lít, dầu diezen giảm 550 đồng/lít vào các ngày 05/5/2017 và ngày 20/5/2017. 16 Từ ngày 1/5/2017 giá gas trong nước điều chỉnh giảm 23.000đ/bình 12 kg, giảm 6,73% do giá gas thế giới giảm bình quân 72,5 USD/tấn so
với tháng 4/2017, xuống còn 387,5 USD/tấn.
-1.43
0.08
0.05
-0.02
0.1
0.04
-0.34
-0.05
0.02
0.13
0.15
-2 -1.5 -1 -0.5 0 0.5
Hàng ăn và dịch vụ ăn …
Đồ uống và thuốc lá
May mặc, mũ nón, giày …
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Thiết bị và đồ dùng gia …
Thuốc và dịch vụ y tế
Giao thông
Bưu chính viễn thông
Giáo dục
Văn hóa, giải trí và du lịch
Hàng hóa và dịch vụ khác
%
CPI THÁNG 5/2017
SO VỚI THÁNG TRƯỚC
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 7 nhóm hàng tăng giá không đáng
kể13 và có 4 nhóm hàng hóa giảm giá - hầu hết là các nhóm hàng hóa, dịch vụ
chiếm tỷ trọng lớn trong rổ tính CPI. Cụ thể:
+ Chỉ số giá nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm tháng thứ ba liên tiếp ở
mức 1,43%, tác động làm giảm CPI khoảng 0,51%. Trong đó, giảm sâu nhất là
nhóm Thực phẩm ở mức 2,27% và kéo dài chuỗi suy giảm liên tục từ đầu năm
nay do giá thịt tươi sống (thịt lợn và thịt gia cầm) giảm mạnh14. Tiếp đến, chỉ số
giá nhóm Lương thực giảm 0,06% do các tỉnh phía Bắc đang bước vào vụ thu
hoạch lúa Đông Xuân cùng với tình hình xuất khẩu gạo sụt giảm.
+ Chỉ số giá nhóm Giao thông giảm 0,34% do việc điều chỉnh giảm giá bán
xăng dầu tại các thời điểm 5/5/2017 và 20/5/201715 khiến giá nhiên liệu giảm
0,71%, từ đó tác động làm CPI giảm 0,03% so với tháng trước.
+ Chỉ số giá nhóm Nhà ở và vật liệu xây dựng giảm nhẹ 0,02% chủ yếu do giá
một số mặt hàng nhiên liệu trong nước giảm 16.
+ Chỉ số giá nhóm Bưu chính viễn thông tiếp tục giảm 0,05% so với tháng
trước.
16
3. Thu chi ngân sách Nhà nước
17 5 tháng đầu năm 2016, thu NSNN đạt 346,2 nghìn tỷ đồng, bằng 34,1% dự toán trong đó thu nội địa đạt 36,2% dự toán, thu từ dầu thô
bằng 25,5% dự toán và thu từ hoạt động XNK bằng 27,8% dự toán. 18 Tổng chi ngân sách Nhà nước 5 tháng đầu năm 2016, bằng 32,4% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 25,2% dự toán; chi
phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh bằng 35,1% dự toán; chi trả nợ và viện trợ 55 nghìn tỷ đồng, bằng 35,4% dự toán.
Thu NSNN tiếp
tục cải thiện góp
phần kiềm chế
bội chi ngân
sách ở mức thấp
nhất trong vòng
5 năm trở lại
đây, chi đầu tư
phát triển thấp
hơn so với cùng
kỳ năm trước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/5/2017 ước tính đạt
416,7 nghìn tỷ đồng, bằng 34,4% dự toán năm. Trong đó thu nội địa đạt 334,9
nghìn tỷ đồng, bằng 33,8%; thu từ dầu thô 16,6 nghìn tỷ đồng, bằng 43,4%; thu
cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 65,1 nghìn tỷ đồng, bằng
36,2%. Mức thu ngân sách 5 tháng năm nay cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái
nhờ sự phục hồi của hai nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và thu từ dầu
thô17 .
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/5/2017 ước tính đạt
438,5 nghìn tỷ đồng, bằng 31,5% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt
323,8 nghìn tỷ đồng, bằng 36,1% dự toán; chi trả nợ lãi 41,5 nghìn tỷ đồng,
bằng 42% dự toán; chi trả nợ gốc ước tính đạt 77,7 nghìn tỷ đồng, bằng 47,4%
dự toán. Riêng chi đầu tư phát triển mới đạt 72,4 nghìn tỷ đồng, bằng 20,3% dự
toán năm. Trong khi các cấu phần chi khác không có nhiều thay đổi thì chi đầu
tư phát triển đang ở mức thấp hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm trước18, một
dấu hiệu không tốt đối với hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
Như vậy, từ đầu năm đến nay bội chi ngân sách khoảng 21,8 nghìn tỷ đồng,
mức bội chi thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây.
So sánh mức bội chi ngân sách 5 tháng đầu năm giai đoạn 2013 - 2017
Nguồn: GSO
Trong tháng 5, KBNN tổ chức gọi thầu TPCP với các kỳ hạn từ 5 năm cho đến
30 năm. Trong đó, giá trị gọi thầu lớn nhất rơi vào kỳ hạn 7 năm và 5 năm. Kết
quả huy động trong tháng cho thấy tỷ lệ TPCP trúng thầu đạt tỷ lệ cao với kỳ
hạn 7 năm và 15 năm.
Theo đó, lãi suất trúng thầu của trái phiếu KBNN kỳ hạn 5 năm nằm trong
khoảng 5,03-5,22%/năm, 7 năm trong khoảng 5,34-5,5%/năm, 10 năm trong
khoảng 5,91-6%/năm, 15 năm trong khoảng 6,64-6,76%/năm, 20 năm trong
khoảng 7-7,09%/năm, 30 năm trong khoảng 7,55-7,63%/năm. So với tháng
4/2017, lãi suất trúng thầu của trái phiếu Chính phủ đều giảm ở tất cả các kỳ
hạn, giảm mạnh nhất rơi vào kỳ hạn dài từ 20 năm cho đến 30 năm với mức
giảm tương ứng là 0,19%/năm và 0,15%/năm. Sau đó đến kỳ hạn 15 năm giảm
0,07%/năm và 03 kỳ hạn (5 năm, 7 năm và 10 năm) đều giảm 0,04%/năm.
Kết thúc tháng 5, KBNN huy động thành công 21.816 tỷ đồng trái phiếu Chính
phủ qua đấu thầu với tổng giá trị gọi thầu là 29.000 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 75,23% -
thấp hơn so với tỷ lệ 89,11% của tháng 4/2017.
17
Một số chính sách quan trọng về điều tiết thu chi NSNN được ban hành trong tháng 5 năm 2017
Nghị định số 63/2017/NĐ-CP ngày 19/5/2017 của Chính phủ: quy định một số cơ chế, chính sách tài chính ngân
sách đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội
Theo Nghị định số 63/2017/NĐ-CP quy định một số cơ chế, chính sách tài chính ngân sách đặc thù đối với Thủ
đô Hà Nội, dự toán chi ngân sách của TP. Hà Nội được xác định trên cơ sở định mức phân bổ chi ngân sách cao
hơn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác được áp dụng cho thời kỳ ổn định ngân sách địa phương.
Bên cạnh đó, để việc vay nợ phù hợp với khả năng trả nợ của từng địa phương, Luật Ngân sách nhà nước quy
định mức dư nợ vay của Hà Nội không vượt quá 60% số thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp.
Quy định này đã gắn mức huy động với nguồn thu ngân sách, khả năng trả nợ nhằm giúp Thành phố có thể huy
động thêm nguồn lực đầu tư vào những dự án, công trình, kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật quan trọng. Các
khoản vay được tính trong bội chi ngân sách của Thành phố và do Quốc hội quyết định hằng năm, nên vẫn kiểm
soát được khả năng trả nợ của ngân sách Thành phố.
Thông tư 46/2017/TT-BTC ngày 12/5/2017 Hướng dẫn hoạt động thanh toán gỉao dịch tráỉ phiếu Chính phủ,
trái phỉếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phỉếu chính quyền địa phương
Theo đó, các giao dịch thiếu tiền tại ngày thanh toán được quyền đề nghị Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt
Nam áp dụng biện pháp lùi thời hạn thanh toán:
- Thời hạn lùi tối đa là 02 ngày làm việc kể từ ngày thanh toán.
- Trường hợp bên mua có đủ tiền thanh toán trong thời hạn nêu trên thì giao dịch được thực hiện thanh toán như
giao dịch thông thường.
- Trường hợp hết thời hạn lùi nêu trên mà bên mua không đủ tiền thanh toán thì giao dịch sẽ bị loại bỏ.
- Trường hợp giao dịch không được thanh toán đúng hạn, bên mua phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các
tổn thất phát sinh cho khách hàng và thành viên có liên quan.
Mức bồi thường do các bên tự thỏa thuận theo quy định pháp luật hiện hành. Thông tư có hiệu lực từ ngày
01/8/2017.
4. Tình hình doanh nghiệp
Giá trị trúng thầu qua các kỳ hạn trong tháng 5 năm 2017
Nguồn: hnx.vn
Tình hình hoạt
động doanh
nghiệp tiếp tục
có những cải
thiện so với
tháng trước
Trong tháng 5, số lượng vốn đăng ký kinh doanh mới đạt mức kỷ lục 119.243 tỷ
đồng, cao hơn tháng trước và tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2016. Trên cả
nước, số lượng doanh nghiệp thành lập mới là 10.954 doanh nghiệp, tăng 9,3%
so với cùng kỳ năm trước. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng
ký kinh doanh trong ba tháng gần đây của năm 2017 đạt mức cao nhất trong hai
năm vừa qua.
-
1,000
2,000
3,000
4,000
5,000
6,000
7,000
5 7 10 15 20 30
Tỷ đ
ồn
g
Kỳ hạn
18
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
0
2,000
4,000
6,000
8,000
10,000
12,000
14,000
SỐ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
Số doanh nghiệp thành lập mới
Số doanh nghiệp hoạt động trở lại
0
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
140,000
tỷ đồng
VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
0
2,000
4,000
6,000
8,000
10,000
12,000
2014 2015 2016 2017
SỐ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP
THÁNG 5 GIAI ĐOẠN 2014 - 2017
0
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
140,000
2014 2015 2016 2017
tỷ đồng
VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
THÁNG 5 GIAI ĐOẠN 2014 - 2017
Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, ngừng đăng ký và
tạm ngừng kinh doanh trong tháng 5 đã giảm đi so với tháng trước. Cả nước có
628 doanh nghiệp giải thể, giảm 20,4% so với tháng trước; có 3755 doanh
nghiệp ngừng đăng ký kinh doanh (giảm 17,7%) và 1577 doanh nghiệp tạm
ngừng đăng ký kinh doanh có thời hạn (giảm 9,6%) so với tháng 4/2017.
19
III. DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ, CHỨNG KHOÁN
Một số chính sách quan trọng điều tiết hoạt động trên thị trường tiền tệ, ngân hàng được ban hành trong
tháng 5 năm 2017
Quyết định số 630/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ: Về lãi suất cho vay ưu đãi nhà ở xã hội
tại ngân hàng chính sách xã hội theo quy định tại Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ
Cụ thể, lãi suất cho vay ưu đãi tại Ngân hàng Chính sách xã hội đối với các đối tượng quy định tại Nghị định
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội trong năm 2017 là
4,8%/năm (0,4%/tháng).
Quyết định số 751/QĐ-TTg ngày 30/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ: quy định mức cho vay tối đa đối với học
sinh, sinh viên là 1,5 triệu đồng/tháng/học sinh, sinh viên
Theo Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh quy định tại Khoản 1 Điều 5 Quyết định số
157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên thành: Mức
cho vay tối đa là 1.500.000 đồng/tháng/học sinh, sinh viên.
Thông tư 02/2017/TT-NHNN ngày 17/5/2017 quy định về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài
Thông tư số 02/2017/TT-NHNN quy định, đơn vị bao thanh toán không được bao thanh toán đối với khoản phải
thu, khoản phải trả sau đây:
- Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bị pháp luật cấm.
- Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn thanh toán còn lại dài hơn 180 ngày kể
từ ngày nhận được đề nghị bao thanh toán.
- Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ có thoả thuận không được chuyển giao quyền và
nghĩa vụ trong hợp đồng.
- Phát sinh từ hợp đồng cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và bảo hiểm theo quy định của Thủ
tướng Chính phủ về Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam.
- Đã được bao thanh toán hoặc đã được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ nợ khác.
- Đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
- Đang có tranh chấp.
Theo quy định của Thông tư 02/2017/TT-NHNN thì ngoài pháp nhân, cá nhân cũng được xem xét, quyết định
bao thanh toán khi đáp ứng các điều kiện sau:
- Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Nhu cầu bao thanh toán để sử dụng tiền ứng trước vào mục đích sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
- Có khả năng tài chính để trả nợ;
- Có phương án sử dụng vốn khả thi.
Khi có nhu cầu bao thanh toán, khách hàng phải gửi cho đơn vị bao thanh toán hồ sơ đề nghị, bao gồm tài liệu
chứng minh đủ điều kiện bao thanh toán và các tài liệu khác theo hướng dẫn.
Thông tư có hiệu lực từ ngày 30/9/2017.
19 Số liệu tổng hợp 3 ngành của Cục đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và đầu tư
Về tình hình đăng ký doanh nghiệp theo nhóm ngành, trong tháng 5 không có
nhiều thay đổi so với tháng trước khi hầu hết các nhóm ngành đều có số lượng
doanh nghiệp gia nhập thị trường và vốn đăng ký kinh doanh tăng lên so với
cùng kỳ năm trước.
Tính trong 5 tháng đầu năm, những ngành nghề có số doanh nghiệp mới cao
nhất vẫn là các nhóm: Kinh doanh bất động sản (đăng ký 1.859 doanh nghiệp,
tăng 72,8%); Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (đăng ký 553 doanh nghiệp,
tăng 38,9%)19; Giáo dục và đào tạo (đăng ký 1.304 doanh nghiệp, tăng 31,3%);
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (252 doanh nghiệp, tăng 27,3%).
Xét về vốn, tỷ lệ vốn đăng ký giảm ở một số ngành so với cùng kỳ như: Thông
tin và truyền thông (đăng ký 9.796 tỷ đồng, giảm 35,8%); Nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản (8.382 tỷ đồng, giảm 17,8%); Khoa học công nghệ & dịch vụ tư vấn
(18.359 tỷ đồng, giảm 12,2%). Các ngành còn lại đều có tỷ lệ vốn đăng ký tăng
so với cùng kỳ năm trước.
20
Nghị định 61/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ: quy định chi tiết việc thẩm định giá khởi điểm của
khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và việc thành lập hội đồng đấu giá nợ xấu, tài sản bảo đảm
của khoản nợ xấu đối với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị lớn
Theo đó, những trường hợp phải thẩm định giá khởi điểm bao gồm:
- Khoản nợ xấu được Công ty quản lý tài sản mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt mà khi xác định giá
khởi điểm, Công ty không thỏa thuận được với tổ chức tín dụng bán nợ về giá khởi điểm.
- Khoản nợ xấu được Công ty quản lý tài sản mua theo giá trị thị trường.
- Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, Công ty quản lý tài sản không
thỏa thuận được với bên bảo đảm về giá khởi điểm.
Việc lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá trong các trường hợp nêu trên được quy định cụ thể tại Điều 5 Nghị
định này.
Nghị định 61/2017/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/7/2017 và bãi bỏ Khoản 1 Điều 27 Nghị định 53/2013/NĐ-
CP.
Diễn biến lãi suất huy động bình quân của Khối
NHTM Nhà nước
Diễn biến lãi suất huy động bình quân Khối
NHTM Cổ phần
Nguồn: Tổng hợp
Lãi suất huy
động tiếp tục xu
hướng tăng ở các
kỳ hạn dài, lãi
suất cho vay tiếp
tục ổn định
Trong tháng 5, lãi suất huy động vẫn tiếp tục được điều chỉnh tăng ở các kỳ hạn
huy động từ 6 tháng trở lên. Theo đó, trong khối các NHTMCP có yếu tố Nhà
nước, BIDV đã điều chỉnh tăng 0,2%/năm đối với lãi suất kỳ hạn 24 tháng và
GP Bank đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng lên mức
6,9%/năm. Nhìn chung mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng của khối các
ngân hàng này giao động trong khoảng 4,8 - 5,5%/năm; lãi suất huy động kỳ
hạn từ 6 tháng – 12 tháng trong khoảng 5,3 - 7,5%/năm; lãi suất huy động kỳ
hạn từ 24 tháng – 36 tháng trong khoảng 6,5 – 7,4%/năm.
Bên cạnh đó, trong khối các NHTM CP, xu hướng điều chỉnh tăng lãi suất huy
động dài hạn chỉ diễn ra tại các ngân hàng có quy mô nhỏ như NHTMCP Bản
Việt; NHTMCP Việt Á; NHTMCP Việt Nam Thương Tín với mức tăng từ 0,1 –
0,3%/năm. Trong tháng, trong số các ngân hàng khảo sát chỉ có NHTMCP Tiên
Phong và NHTMCP Đại chúng Việt Nam là giảm lãi suất, đáng chú ý là bước
điều chỉnh giảm ở hầu hết các kỳ hạn của NHTMCP Tiên Phong từ 0,1 -
0,2%/năm sau khi đồng loạt tăng trong tháng 4. Kết thúc tháng, mặt bằng lãi
suất huy động kỳ hạn 3 tháng của khối các ngân hàng này giao động trong
khoảng 4,9 - 5,5%/năm; lãi suất huy động kỳ hạn từ 6 tháng – 12 tháng trong
khoảng 5,4 - 7,7%/năm; lãi suất huy động kỳ hạn từ 24 tháng – 36 tháng trong
khoảng 6,5 – 8%/năm.
Diễn biến tăng của lãi suất huy động dài hạn trong tháng tiếp tục được nhìn
nhận là bước điều chỉnh cần thiết của một số ngân hàng trong hệ thống để
khuyến khích thu hút các nguồn tiền gửi kỳ hạn dài, cơ cấu lại nguồn vốn hoạt
động đáp ứng nhu cầu vốn của thị trường, đáp ứng kịp thời các yêu cầu đảm
bảo an toàn trong hoạt động.
21
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng trong tháng 5
(%)
Doanh số giao dịch liên ngân hàng trong tháng 5
(tỷ đồng)
Nguồn: NHNN
Mặc dù mặt bằng lãi suất huy động nhìn chung đã điều chỉnh tăng, nhưng mặt
bằng lãi suất cho vay trong nền kinh tế vẫn tiếp tục ổn định, cụ thể lãi suất cho
vay VND đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn, các
NHTM nhà nước áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến đối với các
lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3-11%/năm đối với
trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh,
minh bạch, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 2,8-6,0%/năm; trong đó lãi
suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 2,8-4,8%/năm, lãi suất cho vay trung, dài
hạn ở mức 4,8-6,0%/năm.
Lãi suất liên
ngân hàng giảm
mạnh
Lãi suất liên ngân hàng đã liên tiếp giảm trong hầu hết thời gian của tháng, xu
hướng này diễn ra trên tất cả các kỳ hạn ngoại trừ kỳ hạn 12 tháng. Xu hướng
giảm mạnh nhất diễn ra từ trung tuần thứ 3 cho đến hết tháng và diễn ra rõ nét
trên các kỳ hạn ngắn từ qua đêm đến 1 tháng. Theo đó, lãi suất các kỳ hạn
tương ứng trong khoảng thời gian này đã giảm giao động từ 1,22 – 2,44 điểm
phần trăm.
Kết thúc tháng, so với thời điểm đầu năm lãi suất các kỳ hạn từ qua đêm đến 1
tuần đã giảm hơn 2 điểm phần trăm, kỳ hạn 1 tháng giảm 1,52 điểm phần trăm.
Hiện tại, lãi suất kỳ hạn ngắn đang có xu hướng diễn biến giống với 5 tháng đầu
năm 2016.
Xu hướng giảm liên tục của lãi suất liên ngân hàng trong 02 tháng gần đây phản
ánh trạng thái thanh khoản của hệ thống ngân hàng là khá ổn định. Trạng thái
này hiện đang được hỗ trợ rất mạnh bởi trạng thái ổn định của thị trường ngoại
hối và sự hỗ trợ của NHNN trong công tác xử lý nợ xấu.
Tỷ giá giao dịch
trên thị trường
diễn biến phù
hợp
Về cơ bản, tỷ giá trong tháng 5 có xu hướng vận động tương tự như tháng
trước, theo đó tỷ giá trung tâm tiếp tục được điều chỉnh tăng, tỷ giá giao dịch
niêm yết tại các NHTM và giao dịch trên thị trường tự do tiếp tục giảm. Mặc dù
vậy các mức biến động của tỷ giá tham chiếu và tỷ giá giao dịch đã thấp hơn
các tháng trước.
Diễn biến của tỷ giá trung tâm tiếp tục tăng 0,21% mặc dù chỉ số USD index
trên thị trường quốc tế đã giảm khá mạnh trong tháng 5. Trong tháng, tỷ giá
trung tâm được điều chỉnh khá linh hoạt, tăng giảm đan xen và đã có 03 ngày
điều chỉnh tăng mạnh nhất vào ngày 10,19,24/5 với mức điều chỉnh tăng là 9
đồng. Kết thúc tháng, tỷ giá trung tâm chốt ở mức 22.396 VND/USD. Thực tế
22
20 Trong 14 ngày (12-25/5) tỷ giá tham khảo tại Sở giao dịch NHNN cao hơn mức tỷ giá niêm yết tại các NHTM.
này cùng với những bước điều chỉnh của tỷ giá tham khảo tại Sở giao dịch
NHNN trong tháng 520 vẫn được đánh giá là bước điều hành phù hợp với diễn
biến của thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế, hỗ trợ cho các diễn
biến kinh tế vĩ mô khác.
Trong khi đó, tỷ giá giao dịch trong nền kinh tế diễn biến khá sát với diễn biến
của đồng USD trên thị trường quốc tế. Mặc dù kết thúc tháng, tỷ giá giao dịch
trên cả hai thị trường đều giảm nhưng trong tháng tỷ giá giao dịch trên 2 thị
trường vẫn có những ngày tăng mạnh. Cụ thể, tỷ giá niêm yết của Vietcombank
và Eximbank đều tăng mạnh lần lượt là 0,13% và 0,18% vào ngày 26/5, tỷ giá
trên thị trường tự do cũng có chung diễn biến nhưng điều chỉnh tăng chậm hơn
tỷ giá niêm yết của các NHTM 03 ngày, tăng 0,13% vào ngày 29/5.
Kết thúc tháng, tỷ giá giao dịch của Vietcombank giảm 0,07%, chốt ở mức
22.680 – 22.750 VND/USD, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do giảm 0,13%,
giao dịch ở mức 22.670 – 22.730 VND/USD – thấp hơn tỷ giá giao dịch của các
NHTM.
Diễn biến tỷ giá VND/USD trong tháng 5 năm 2017
Nguồn: NHNN
Vàng trong nước
đã giảm giá
tháng thứ hai kể
từ đầu năm
Diễn biến của thị trường vàng trong nước tiếp tục trầm lắng, giá vàng biến động
quanh mức 36,5 – 36,6 triệu đồng/lượng trong suốt cả tháng, mức giá trên 36,6
triệu đồng/lượng cũng đã xuất hiện nhưng không duy trì được lâu. Giá vàng
biến động khá sát với giá vàng thế giới trong hơn nửa thời gian đầu của tháng 5
nhưng sau đó đã xuất hiện biến động lệch pha. Kết thúc tháng 5, giá vàng trong
nước giao dịch ở chiều mua, chiều bán lần lượt ở mức 36,22 – 36,42 triệu
đồng/lượng; giảm 0,85% và 0,9% so với cuối tháng trước. Tính đến cuối tháng,
giá vàng đã giảm gần 400.000 đồng/lượng so với hồi đầu tháng. Xu hướng giảm
của giá vàng trong tháng cũng bị ảnh hưởng đáng kể bởi trạng thái giao dịch ảm
đảm của thị trường vàng. Giá vàng trong nước không nhận được sự hỗ trợ từ lực
cầu trên thị trường, nhu cầu giao dịch chủ yếu là nhỏ lẻ.
Bên cạnh đó, do mức độ thay đổi của giá vàng trong nước thấp so với giá vàng
quốc tế, cộng với diễn biến ổn định của tỷ giá trong nước nên chênh lệch giữa
giá vàng trong nước và thế giới đã thu hẹp nhanh từ mức trên 3 triệu
đồng/lượng tại một số thời điểm giao dịch trong tháng xuống còn hơn 1,5 triệu
đồng/lượng vào cuối tháng.
23
Diễn biến giá vàng trong nước 5 tháng đầu năm 2017
Diễn biến giá vàng trong nước và quốc tế quy đổi
Nguồn: sjc.com.vn
Nguồn: UBCKNN
01000200030004000500060007000
600620640660680700720740760
3/5
/201
7
5/5
/201
7
9/5
/201
7
11
/5/2
017
15
/5/2
017
17
/5/2
017
19
/5/2
017
23
/5/2
017
25
/5/2
017
29
/5/2
017
31
/5/2
017
tỷ đồng
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE 5/2017
Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
0
200
400
600
800
1000
1200
75
80
85
90
95
3/5
/201
7
5/5
/201
7
9/5
/201
7
11
/5/2
…
15
/5/2
…
17
/5/2
…
19
/5/2
…
23
/5/2
…
25
/5/2
…
29
/5/2
…
31
/5/2
…
tỷ đồng
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX 5/2017
Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
600
650
700
750
800
03
/01/1
7
13
/01/1
7
25
/01/1
7
13
/02/1
7
23
/02/1
7
07
/03/1
7
17
/03/1
7
29
/03/1
7
11
/04/1
7
21
/04/1
7
05
/05/1
7
17
/05/1
7
29
/05/1
7
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE 2017
75
80
85
90
95
03
/01/1
7
10
/01/1
7
17
/01/1
7
24
/01/1
7
07
/02/1
7
14
/02/1
7
21
/02/1
7
28
/02/1
7
07
/03/1
7
14
/03/1
7
21
/03/1
7
28
/03/1
7
04
/04/1
7
12
/04/1
7
19
/04/1
7
26
/04/1
7
05
/05/1
7
12
/05/1
7
19
/05/1
7
26
/05/1
7
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX 2017
TTCK Việt Nam
đã lấy lại đà tăng
điểm
Sau những diễn biến thiếu tích cực trong tháng 4, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã trải qua tháng 5 rất khởi sắc khi cả hai chỉ số đều liên tục tăng điểm.
Chỉ số VN-Index kết thúc phiên giao dịch cuối cùng ngày 31/5 ở mức 737,82
điểm - tăng 20,09 điểm tương đương 2,8% so với cuối tháng 4. Cũng với diễn
biến khởi sắc, chỉ số HNX-Index kết thúc tháng đạt 94,26 điểm – tăng 4,37
điểm tương đương 4,9% so với phiên đóng cửa tháng trước.
Trong tháng, chỉ số VN-Index đạt đỉnh ngày 29/5 với 746,25 điểm, HNX-Index
đạt đỉnh trong ngày giao dịch cuối cùng với 93,91 điểm. Diễn biến tích cực
trong tháng đã giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam nằm trong nhóm các
nước có tốc độ tăng trưởng cao ở khu vực châu Á.
24
Nguồn: Bloomberg
Nguồn: UBCK
Nguồn: UBCK
3.74% 2.51%
-1.19%
4.10%6.05%
-0.12%
0.93%
-0.79%
2.80%
-10%
0%
10%
HangSeng Nikkei 225 Shanghai BSE Index
India
Kospi 200
Korea
FTSE
Malaysia
JCI
Indonesia
Set 50
Thailand
VN-Index
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CHÂU Á THÁNG 5/2017
0
2000
4000
6000
triệu cpKHỐI LƯỢNG GIAO DỊCH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
HOSE HNX
0
50
100
150
nghìn tỷ đồng
GIÁ TRỊ GIAO DỊCH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
HOSE HNX
-400
-200
0
200
400
600
3/5
/20
17
4/5
/20
17
5/5
/20
17
8/5
/20
17
9/5
/20
17
10
/5/2
01
7
11
/5/2
01
7
12
/5/2
01
7
15
/5/2
01
7
16
/5/2
01
7
17
/5/2
01
7
18
/5/2
01
7
19
/5/2
01
7
22
/5/2
01
7
23
/5/2
01
7
24
/5/2
01
7
25
/5/2
01
7
26
/5/2
01
7
29
/5/2
01
7
30
/5/2
01
7
31
/5/2
01
7
tỷ đ
ồn
g
HOẠT ĐỘNG CỦA KHỐI NGOẠI
TRÊN HOSE T5/2017
-50
0
50
3/5
/20
17
4/5
/20
17
5/5
/20
17
8/5
/20
17
9/5
/20
17
10
/5/2
01
7
11
/5/2
01
7
12
/5/2
01
7
15
/5/2
01
7
16
/5/2
01
7
17
/5/2
01
7
18
/5/2
01
7
19
/5/2
01
7
22
/5/2
01
7
23
/5/2
01
7
24
/5/2
01
7
25
/5/2
01
7
26
/5/2
01
7
29
/5/2
01
7
30
/5/2
01
7
31
/5/2
01
7
tỷ đ
ồn
g
HOẠT ĐỘNG CỦA KHỐI NGOẠI
TRÊN HNX T5/2017
Không chỉ tăng trưởng về mặt điểm số, thanh khoản của thị trường cũng là điểm
nổi bật trong tháng qua khi tăng mạnh cả về khối lượng và giá trị giao dịch. Chỉ
tính riêng sàn HOSE, tổng giá trị giao dịch đã đạt 104,51 nghìn tỷ đồng, tăng
mạnh 36,6% so với tháng 4. Trên sàn HNX, tổng giá trị giao dịch cũng tăng
18% so với tháng trước và đạt 10,53 nghìn tỷ đồng. Tổng khối lượng giao dịch
trên cả hai sàn đạt 6183,83 triệu cổ phiếu tương ứng với tổng giá trị là 115,04
nghìn tỷ đồng, là tháng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Vốn hóa hai sàn HOSE và HNX tại thời điểm 31/5/2017 đạt hơn 1,9 triệu tỷ
đồng, tăng 2,57% hay hơn 50 nghìn tỷ đồng so với cuối tháng 4. Tại sàn HOSE,
vốn hóa tháng 5 đạt 1,79 triệu tỷ đồng tăng 44,8 nghìn tỷ đồng (2,61%). Trong
khi đó, vốn hóa sàn HNX đạt hơn 173 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 5,17 nghìn tỷ
đồng (3,08%).
Sự khởi sắc của thị trường là nhờ nhiều cổ phiếu có sự tăng trưởng vượt bậc so
với tháng trước. Trong đó nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn tiếp tục đóng vai trò trụ
cột dẫn dắt và tạo động lực thúc đẩy cho thị trường, đặc biệt là các nhóm ngành
Ngân hàng, Bảo hiểm và Bất động sản tăng trưởng mạnh trong tháng vừa qua.
25
Khối ngoại trên thị trường tiếp tục giao dịch rất tích cực. Tổng giá trị mua ròng
trong tháng 5 trên cả hai sàn đạt 1.280,85 tỷ đồng và là tháng thứ năm liên tiếp
mua ròng kể từ đầu năm.
Trên sàn HOSE, khối ngoại duy trì chuỗi mua ròng khi tiếp tục mua ròng hơn
1.192 tỷ đồng, trong đó lượng mua ròng tập trung mạnh nhất vào hai tuần giao
dịch cuối cùng. Các mã đứng đầu về giá trị mua ròng trên HOSE trong tháng 5
là: PLX (693,7 tỷ đồng); VNM (604,77 tỷ đồng); HPG (138,3 tỷ đồng). Trên
sàn HNX, khối ngoại bán ròng trong tuần giao dịch đầu tiên sau đó mua ròng
trở lại cho đến hết tháng. Tổng giá trị mua ròng đạt hơn 88,7 tỷ đồng, tập trung
chủ yếu ở các mã: SHS (23,6 tỷ đồng); VND (22,3 tỷ đồng); MAS (19,7 tỷ
đồng).