nguyenthicamhuong - luan an - full+bia- noptv -in file1 mỞ ĐẦu 1. lí do chọn đề tài...
TRANSCRIPT
xviii
Phụ lục 6.2a: Các dạng bài tập nhóm I – Nhóm bài tập phối hợp nhận thức
thị giác với vận động ..................................................................................216
Phụ lục 6.2b: Các dạng bài tập nhóm II – Nhóm bài tập chuyển tải biểu
tượng thị giác ..............................................................................................220
Phụ lục 6.2c: Các dạng bài tập nhóm III – Bài tập mã hóa âm vị (ghi lại âm
vị) ................................................................................................................230
Phụ lục 7: Hồ sơ các trường hợp nghiên cứu điển hình.........................233
Phụ lục 7.1: Hồ sơ trường hợp nghiên cứu 1 (HS A2) ...............................233
Phụ lục 7.2: Hồ sơ trường hợp nghiên cứu 2 (HS A4) ...............................246
Phụ lục 8: Một số kết quả học viết của các trường hợp nghiên cứu điển
hình ............................................................................................................260
Phụ lục 8.1: Một số kết quả học viết của trường hợp nghiên cứu 1 (HS
A2) ..............................................................................................................260
Phụ lục 8.2: Một số kết quả học viết của trường hợp nghiên cứu 2 (HS
A4) ..............................................................................................................263
Phụ lục 9: Đánh giá thực nghiệm.............................................................266
Phụ lục 9.1: Phiếu đánh giá các biểu hiện của HS có KKVV trong lớp hòa
nhập ............................................................................................................266
Phụ lục 9.2: Phiếu tự đánh giá về giờ học viết (dành cho HS) ...................267
Phụ lục 9.3: Phiếu hỏi ý kiến GV về tính khả thi của một số biện pháp hỗ trợ
trong dạy học viết cho HS có KKVV ở tiểu học ........................................268
Phụ lục 9.4: Phiếu đánh giá kĩ năng hỗ trợ HS có KKVV ở tiểu học ........273
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong trường tiểu học hiện nay, có một bộ phận HS có KKVV với
những mức độ khác nhau. HS có KKVV là một dạng HS khuyết tật học tập
có nhiều hạn chế trong sự lĩnh hội và vận dụng kĩ năng viết ở cấp độ viết
chữ hoặc tạo lập văn bản hoặc ở cả hai cấp độ. Càng học lên cao, sự phát
triển kĩ năng viết của HS có KKVV càng gặp nhiều khó khăn [112]. Việc
gặp KKVV không chỉ ảnh hưởng đến kết quả học tập mà còn ảnh hưởng tới
sự phát triển tâm lí, sự tự tin của HS, từ đó ảnh hưởng đến sự tham gia học
tập và hòa nhập xã hội sau này. Vì vậy, việc hỗ trợ, giúp đỡ để HS KKVV
học tập hiệu quả là việc làm hết sức cần thiết.
KKVV không phải do sự yếu kém, hạn chế kĩ năng vận động tinh gây
ra. Nguyên nhân của KKVV nằm sâu bên trong các chức năng thần kinh bất
thường của não bộ, dẫn tới sự bất thường, mất cân bằng trong các NLNT có
liên quan đến kĩ năng viết. Sự bất thường trong NLNT là yếu tố chính, nội
tại bên trong làm giảm thiểu hiệu suất nhận thức, hạn chế sự phát triển kĩ
năng viết nói riêng, kĩ năng học tập nói chung [99]. Các biện pháp hỗ trợ HS
có KKVV cần đặc biệt chú trọng đến yếu tố này.
Trên thế giới, công cụ đánh giá xác định các vấn đề về NLNT hay kĩ
năng viết của HS có KKVV đã được xây dựng gần như hoàn chỉnh. Các kết
quả nghiên cứu đều cho thấy biểu hiện của KKVV có thể thay đổi theo thời
gian và có nhiều điểm khá tương đồng với các rối loạn khác như rối loạn
phối hợp phát triển, rối loạn kĩ năng vận động tinh,.... Hiện nay, không thể
có một công thức nào như "giấy quỳ" để nhận biết HS có KKVV [78]. Càng
tổng hợp nhiều thông tin về HS việc nhận biết KKVV càng thuận lợi, giúp
quá trình hỗ trợ HS có hiệu quả [79]. Đồng thời, do sự đa dạng về đặc điểm
NLNT, về mức độ phát triển kĩ năng viết của các cá nhân có KKVV, các
2
biện pháp hỗ trợ không thể cứng nhắc vận dụng cho mọi HS, mà cần linh
hoạt theo đặc điểm của từng HS cụ thể.
Tại Việt Nam, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm
hơn và tạo nhiều điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, giáo
dục cho trẻ khuyết tật nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Khóa VIII về Chiến lược Phát triển giáo dục và đào
tạo thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa khẳng định: "Nâng cao chất lượng
toàn diện bậc tiểu học. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo.
Tạo điều kiện để ai cũng được học hành". Năm 2012, theo Quyết định
711/QĐ-TTg, Chiến lược Phát triển giáo dục quốc gia từ năm 2011 đến
2020 khẳng định: “Thực hiện đổi mới chương trình và SGK từ sau năm 2015
theo định hướng phát triển năng lực HS”. Đối với lĩnh vực giáo dục trẻ
khuyết tật định hướng phát triển theo xu hướng giáo dục hòa nhập, "cần đạt
mục tiêu đến năm 2020, tỉ lệ trẻ em khuyết tật được đi học là 70%" [7]. Điều
này cũng đặt ra cho giáo dục tiểu học và giáo dục đặc biệt những yêu cầu và
điều kiện quan trọng về đổi mới giáo dục, nâng cao cơ hội đến trường cho
HS có nhu cầu giáo dục đặc biệt nói chung, HS có KKVV nói riêng.
Trong trường tiểu học, kĩ năng viết của HS được coi là một trong các
kĩ năng ngôn ngữ nền tảng cơ bản để học tập. Nhiều phương pháp dạy học
đã được đổi mới và áp dụng nhằm tăng hiệu quả học tập cho HS. Điều này
tạo cơ hội thuận lợi cho nhiều HS có nhu cầu đặc biệt được đến trường. Tuy
nhiên, HS có KKVV vẫn gặp nhiều trở ngại trong việc học tập, trong đó có
học viết. Điều này có một phần nguyên nhân không nhỏ do sự thiếu vắng các
biện pháp hỗ trợ phù hợp với đặc điểm, nhu cầu của các em. Nếu không
được hỗ trợ kịp thời, phù hợp, HS có KKVV có thể gặp nhiều khó khăn thứ
phát về mặt tâm lí, phát triển và phải đối diện với nguy cơ bỏ học.
Từ những lí do trên, chúng tôi thấy rằng việc nghiên cứu về biện pháp
hỗ trợ trong dạy học viết nhằm nâng cao kĩ năng viết chữ cho HS có KKVV
ở tiểu học, từ đó nâng cao hiệu quả học tập và cơ hội đến trường cho các HS
3
này là một việc làm hết sức cần thiết. Nghiên cứu này không chỉ góp phần
xây dựng cơ sở lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong lĩnh vực nghiên
cứu về trẻ em có KKVV ở Việt Nam. Do đó, chúng tôi quyết định chọn đề
tài "Một số biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có khó khăn
về viết ở tiểu học" làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất một số biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho
HS có KKVV ở tiểu học nhằm cải thiện kĩ năng viết của HS có KKVV.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động dạy học viết cho HS có KKVV ở
tiểu học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho HS
có KKVV ở tiểu học.
4. Giả thuyết khoa học
Trong trường tiểu học hiện nay đang tồn tại một bộ phận HS có
KKVV. Trong quá trình dạy học viết cho HS, nếu có biện pháp hỗ trợ phù
hợp với đặc điểm NLNT và mức độ phát triển kĩ năng viết của HS thì có thể
cải thiện kĩ năng viết của các em, góp phần nâng cao chất lượng học tập của
nhóm HS này.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu làm rõ các khái niệm và các vấn đề lý luận có liên quan:
kĩ năng viết, KKVV và HS có KKVV ở tiểu học, dạy học viết ở tiểu học, hỗ
trợ HS có KKVV ở tiểu học.
5.2. Nghiên cứu thực tiễn
Nghiên cứu đặc điểm HS có KKVV ở tiểu học, thực trạng hỗ trợ
trong dạy học viết cho HS có KKVV ở tiểu học hiện nay, từ đó định hướng
những khó khăn, thách thức của vấn đề hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có
KKVV ở tiểu học nhằm cải thiện kĩ năng viết của những HS này.
4
5.3. Đề xuất
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất một số
biện pháp hỗ trợ HS có KKVV ở tiểu học, từ đó tiến hành thực nghiệm một
số biện pháp ở các HS có KKVV để khẳng định giả thuyết của đề tài luận án.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
- KKVV là một dạng của KTHT, còn gọi là KTHT về viết. KKVV trong
đề tài này không kèm theo rối loạn tăng động giảm chú ý, rối loạn phổ tự kỉ,
rối loạn phối hợp phát triển.
- Giới hạn kĩ năng viết ở cấp độ kĩ năng tạo chữ (handwriting) và kĩ năng
viết chính tả (kĩ năng ghép vần, sử dụng dấu thanh) (spelling). Giới hạn hình
thức thể hiện kĩ năng tạo chữ và viết chính tả là hình thức nhìn viết
(copying). Mối liên hệ giữa đặc điểm NLNT với các đặc điểm kĩ năng viết
đặt trong hình thức nhìn viết.
- Giới hạn các biện pháp hỗ trợ nhằm cải thiện kĩ năng viết ở cấp độ tạo
chữ, kĩ năng viết chính tả dưới hình thức nhìn viết dành cho đối tượng HS
đầu cấp tiểu học.
- Giới hạn nội dung hỗ trợ: Nội dung hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có
KKVV được đề xuất dựa trên chương trình dạy học kĩ năng viết ở các cấp độ
cụ thể trong trường tiểu học. Việc sử dụng nội dung hỗ trợ nào tùy thuộc vào
mức độ phát triển kĩ năng viết thực tế, đặc điểm khả năng, nhu cầu phát triển
kĩ năng viết của mỗi HS có KKVV.
- Hình thức tổ chức biện pháp hỗ trợ: Trong môi trường hòa nhập nhưng
tiến hành dưới các tiết cá nhân ngoài giờ lên lớp chung, tại phòng hỗ trợ riêng.
6.2. Khách thể và địa bàn nghiên cứu khảo sát
- 4444 HS tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5 tại một số trường tiểu học ở Hà Nội và
Nghệ An.
- 11 HS có KKVV ở một số trường tiểu học tại Hà Nội.
5
- 97 GV tại các lớp có HS có KKVV thuộc một số trường tiểu học ở Hà
Nội và Bình Dương (trong đó có 45 GV đã được tập huấn về biện pháp hỗ
trợ HS có KKVV).
- Thực nghiệm được tiến hành với 02 HS có KKVV, gồm 01 HS có
KKVV dạng tạo chữ ở lớp 1 và 01 HS có KKVV dạng chính tả ở lớp 3 tại
một trường tiểu học ở Hà Nội.
7. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
- Tiếp cận duy vật biện chứng: Vấn đề hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có
KKVV ở tiểu học được xem xét trong mối quan hệ tác động qua lại với các
yếu tố khách quan và chủ quan của quá trình dạy học HS KKVV như: đặc
điểm nội tại cá nhân HS có KKVV, đặc điểm hệ chữ viết tiếng Việt, đặc
điểm mục đích, nội dung, chương trình, phương pháp, biện pháp dạy học
viết ở tiểu học, điều kiện cơ sở vật chất, ....
- Tiếp cận hệ thống: Các nghiên cứu thực tiễn được tiến hành toàn diện và
có tính hệ thống để cho thấy một bức tranh toàn cảnh cả về đặc điểm HS có
KKVV và việc hỗ trợ của GV dành cho HS. Đồng thời, các biện pháp đề xuất
cũng được xây dựng mang tính hệ thống và toàn diện không chỉ chú ý đến kĩ
năng viết mà còn chú ý tới sự phát triển tâm lí, lòng tự tin, tính tự chủ của HS
để tác động một cách tổng thể lên quá trình phát triển ở HS có KKVV.
- Tiếp cận lịch sử: Xuất phát từ việc mỗi HS có đặc điểm, hoàn cảnh, tiểu
sử phát triển khác nhau, kinh nghiệm, thói quen, khả năng khác nhau, các
biện pháp hỗ trợ tôn trọng sự khác biệt này và được áp dụng cho những
trường hợp cụ thể khác nhau.
- Tiếp cận cá nhân hóa: Đây là quan điểm cơ bản, trọng yếu của giáo dục
đặc biệt HS có nhu cầu đặc biệt trong đó có HS KKVV. Sự đa dạng trong
năng lực viết, năng lực nhận thức của HS có KKVV là điều bình thường trong
sự phát triển tự nhiên. Sứ mệnh của giáo dục là nhằm phát triển từng cá nhân
cụ thể. Sự thay đổi của các biện pháp hỗ trợ HS có KKVV được coi là việc
6
làm cần thiết để đáp ứng nhu cầu học tập của từng cá nhân HS dưới phương
châm: "HS không phải học theo cách dạy của GV mà là GV dạy theo cách
học của HS".
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, so sánh, tổng hợp,
hệ thống hóa các tài liệu, các đề tài nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm
xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu điều tra và các
bảng hỏi để sàng lọc HS có KKVV ở tiểu học, xác định các đặc điểm phát
triển, đặc điểm hành vi, khả năng, nhu cầu của HS và tìm hiểu đánh giá của
GV tiểu học về thực trạng hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có KKVV.
- Phương pháp bài tập đo nghiệm: Sử dụng các trắc nghiệm trí tuệ đã được
chuẩn hóa để đánh giá trí tuệ và năng lực nhận thức của HS có KKVV: Trắc
nghiệm khuôn hình tiếp diễn Raven đen trắng, Trắc nghiệm trí tuệ dành cho
trẻ em Wechsler – phiên bản 4 (WISC-IV). Nghiên cứu cũng xây dựng và
kiểm nghiệm độ tin cậy bộ công cụ đo nghiệm sự phát triển kĩ năng viết
(hình thức nhình viết) của HS tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5.
- Phương pháp quan sát: Vận dụng phương pháp quan sát để thu thập
thông tin về đặc điểm của HS có KKVV, quan sát quá trình dạy học viết cho
HS có KKVV và hỗ trợ HS có KKVV trong trong trường tiểu học.
- Phương pháp phỏng vấn: Vận dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với
GV dạy HS có KKVV về thực trạng biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho
HS có KKVV và đặc điểm, biểu hiện của các HS.
- Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu hồ sơ
về HS, các sản phẩm bài viết, hoạt động học tập của HS có KKVV, nghiên
cứu các kế hoạch giảng dạy của GV dạy HS có KKVV.
7
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Nghiên cứu một số trường hợp
điển hình HS có KKVV bao gồm việc tìm hiểu đặc điểm phát triển, trí tuệ,
NLNT, hành vi, đặc điểm KKVV, các điều kiện môi trường, từ đó áp dụng
các biện pháp hỗ trợ trong dạy viết cho HS và rút ra những kết luận cần thiết
liên quan đến các biện pháp đã đề xuất cho từng trường hợp điển hình.
- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Thu thập, tham khảo ý kiến của các
chuyên gia về các biện pháp hỗ trợ HS có KKVV trước khi tiến hành đánh
giá xác định HS và thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Vận dụng các biện pháp thực nghiệm
hình thành, thực nghiệm điều tra, thực nghiệm giảng dạy và thực nghiệm đối
chứng để kiểm chứng hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ đã đề xuất.
7.2.3. Nhóm phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học
Phân tích và xử lí các số liệu bằng các phương pháp toán thống kê:
Tính trung bình, độ lệch chuẩn, phương pháp tính xác suất trực tiếp (Direct
Probability Calculation Method), kiểm định χ-bình phương (Chi-square
Test), phân tích phương sai (ANOVA Test), phân tích hồi quy tuyến tính,...
Toàn bộ các phép toán thống kê này được tiến hành bằng phần mềm Java
Script-Star version 5.5.0j, SPSS phiên bản 19.0 và phần mềm Excel.
8. Những luận điểm bảo vệ
- HS có KKVV chiếm số lượng và tỉ lệ nhất định trong tổng số học sinh,
đặc biệt là học sinh ở các trường tiểu học. Các em có khả năng học tập và
phát triển trong môi trường hòa nhập, tuy nhiên, có một số đặc điểm đặc thù
về năng lực nhận thức và kĩ năng viết cần được tập trung hỗ trợ.
- Dạy học tiết cá nhân kết hợp cùng với dạy học hòa nhập trên lớp là cách
thức giúp HS có KKVV ở tiểu học nâng cao kĩ năng viết của các em.
- Sử dụng các biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết phù hợp với đặc điểm
năng lực nhận thức, mức độ phát triển kĩ năng viết của HS có KKVV sẽ giúp
8
cải thiện kĩ năng viết của các em, góp phần nâng cao chất lượng học tập của
nhóm HS này.
9. Đóng góp mới của luận án
- Làm rõ và bổ sung định nghĩa HS có KKVV theo các tiêu chí nhận biết;
cách phân loại theo đặc điểm kĩ năng viết giúp định hướng cho việc phát
hiện và hỗ trợ giáo dục trong nhà trường; làm rõ xu hướng xác định HS có
KKVV theo quan điểm tổng hợp các thông tin dựa vào bằng chứng nghiên
cứu, chỉ rõ tầm quan trọng của việc đánh giá NLNT, đặc điểm, mức độ
KKVV trong việc xác định và hỗ trợ HS có KKVV; làm rõ xu hướng nghiên
cứu về dạy học viết cho HS có KKVV ở tiểu học, biện pháp hỗ trợ HS có
KKVV, các yếu tố tác động đến biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho HS
có KKVV ở tiểu học.
- Bổ sung các thông tin mới về thực trạng tồn tại của HS có KKVV trong
trường tiểu học hiện nay, đặc điểm của HS có KKVV trên các phương diện:
kĩ năng viết, phát triển, NLNT; cung cấp thông tin về hiện trạng hỗ trợ trong
dạy học viết cho HS có KKVV của GV tiểu học, làm rõ những điểm tích cực
và hạn chế của thực trạng này, ảnh hưởng của các yếu tố đến biện pháp hỗ
trợ HS có KKVV.
- Xây dựng các công cụ đánh giá và các bước đánh giá để nhận biết HS có
KKVV ở tiểu học dựa trên định nghĩa về HS có KKVV; trên cơ sở đó, đưa
biện pháp nhận biết HS có KKVV, xác định đặc điểm khả năng, nhu cầu HS
có KKVV ở tiểu học thành biện pháp tiền đề trong hỗ trợ HS có KKVV ở
tiểu học.
- Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ chính và biện pháp bổ trợ trong dạy học
viết cho HS có KKVV gắn liền với đặc điểm NLNT, đặc điểm phát triển kĩ
năng viết của HS, nhằm tác động đến những hạn chế, yếu kém trong NLNT
vốn là nguyên nhân gây ra KKVV để cải thiện kĩ năng viết phù hợp với đặc
điểm khả năng, nhu cầu của HS trên quan điểm bù trừ.
9
- Các biện pháp đề xuất được kiểm chứng qua thực nghiệm sư phạm và ý
kiến đánh giá của GV có hiểu biết, kinh nghiệm về hỗ trợ HS có KKVV, từ
đó cung cấp nguồn tư liệu có giá trị tham khảo về biện pháp hỗ trợ HS có
KKVV ở tiểu học hiện nay.
10. Cấu trúc của luận án
Luận án bao gồm phần Mở đầu, Kết luận – Khuyến nghị và 3 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP HỖ TRỢ TRONG DẠY
HỌC VIẾT CHO HỌC SINH CÓ KHÓ KHĂN VỀ VIẾT Ở TIỂU HỌC
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẶC ĐIỂM HỌC SINH CÓ KHÓ KHĂN VỀ
VIẾT VÀ HỖ TRỢ TRONG DẠY HỌC VIẾT CHO HỌC SINH CÓ KHÓ
KHĂN VỀ VIẾT Ở TIỂU HỌC
Chương 3: BIỆN PHÁP HỖ TRỢ TRONG DẠY HỌC VIẾT CHO HỌC
SINH CÓ KHÓ KHĂN VỀ VIẾT Ở TIỂU HỌC VÀ THỰC NGHIỆM
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP HỖ TRỢ TRONG DẠY HỌC VIẾT
CHO HỌC SINH CÓ KHÓ KHĂN VỀ VIẾT Ở TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về học sinh có khó khăn về viết ở tiểu học
1.1.1.1. Trên thế giới
Trong khi khó khăn về đọc được chú ý từ những năm đầu của thế kỉ XIX,
KKVV được quan tâm muộn hơn, bắt đầu từ thập kỉ 60 của thế kỉ XX. So
với các nghiên cứu chuyên sâu về KKVĐ, còn gọi là chứng đọc khó
(dyslexia), những nghiên cứu chuyên sâu về KKVV (chứng viết khó –
dysgraphia) hiện nay không nhiều.
Các công trình nghiên cứu về KKVV cho tới nay chủ yếu tập trung vào
các hướng: định nghĩa khái niệm, xác định HS có KKVV; đặc điểm của HS
có KKVV trên các lĩnh vực: học tập, nhận thức, phát triển, vận động, ... các
yếu tố ảnh hưởng đến KKVV của HS; các biện pháp hỗ trợ HS có KKVV.
a) Nghiên cứu về khái niệm khó khăn về viết
Khái niệm KKVV được nghiên cứu theo nhiều cách, nhưng chủ yếu tập
vào hai khuynh hướng chính. Khuynh hướng thứ nhất gọi là khuynh hướng
mô tả loại trừ, chủ yếu dựa trên định nghĩa sơ khai về KTHT do Samuel
Kirk giới thiệu năm 1963, trong đó mô tả các đặc điểm nổi bật của KTHT và
các đặc điểm giúp loại trừ các yếu tố không gây ra KTHT. Đa phần các định
nghĩa về KKVV theo khuynh hướng này với các đại diện như định nghĩa của
Ủy ban Liên hiệp KTHT Hoa Kỳ (National Joint Committee on Learning
Disabilties - NJCLD) năm 1988, Đạo luật về giáo dục cho người khuyết tật
(Individual with Disabilities Education Act., 2004 – IDEA 2004), Sổ tay chẩn
đoán các rối nhiễu tâm trí phiên bản 5 - DSM-5 (The Diagnostic and Statistical
Manual of Mental Disorders, Fifth Edition) năm 2013, định nghĩa của các tác
giả Berninger V.W, Graham S., Fayol M.
11
Khuynh hướng thứ hai, khuynh hướng mô tả tổng hợp, xuất hiện khoảng
từ những năm 2000 trở lại đây, bao gồm định nghĩa của một bộ phận các nhà
khoa học với đại diện như James B. Hale, Catherine A. Fiorello, Flanagan &
Alfoson. Trên quan điểm không định nghĩa đơn lẻ nào đủ tư cách mô tả
chính xác các khái niệm KTHT hay KKVV, các tác giả tập trung định nghĩa
khái niệm bằng cách mô tả và tổng hợp rất nhiều biểu hiện đặc thù của HS
trên nhiều phương diện như: NLNT, năng lực học tập, kĩ năng học đường, sự
phát triển tâm lí, v..v...[79], [91]. Cách định nghĩa này đã bổ sung cách nhìn
nhận đa chiều về KTHT và KKVV, bổ sung nhiều thông tin giúp cho việc
đánh giá xác định HS có KKVV thuận tiện và chính xác hơn.
b) Nghiên cứu về xác định học sinh có khó khăn về viết
Các xu hướng định nghĩa khác nhau về KTHT đã dẫn tới những cách
thức nhận biết, xác định KTHT khác nhau. Việc xác định KTHT trong đó có
KKVV đã trải qua hơn 50 năm nhưng chưa bao giờ là việc dễ thực hiện và
cũng chưa bao giờ nhận được sự đồng thuận hoàn toàn của giới chuyên môn.
Khuynh hướng mô tả loại trừ đã dẫn tới 2 phương pháp xác định KKVV
có tính truyền thống (còn gọi là phương pháp cổ điển): phương pháp Chênh
lệch năng lực – học lực (Abilities – Achievement Discrepancy) và phương
pháp Đáp ứng với chương trình can thiệp (Response to Intervention).
Phương pháp Chênh lệch năng lực – học lực xác định KKVV chỉ dựa trên
tiêu chuẩn: NLNT của HS ở mức bình thường (từ trung bình trở lên) và có
sự chênh lệch có ý nghĩa với kết quả học tập. Phương pháp Đáp ứng với
chương trình can thiệp xác định HS có KKVV nếu tình trạng thấp kém trong
kĩ năng viết của HS không thay đổi sau thời gian được hỗ trợ theo các vòng
can thiệp cơ bản (Standard Intervention Tier 1, Tier 2) [79]. Cả hai phương
pháp đều đòi hỏi phải có thời gian để những thiếu hụt trong kĩ năng viết của
HS thể hiện rõ ràng, đều thiếu các tiêu chí rõ ràng để phân biệt nhóm HS
KKVV với HS học lực kém dẫn tới dễ xác định nhầm nhóm HS ở đầu bậc
tiểu học và thụ động trong việc hỗ trợ HS [79].
12
Từ những năm 2000, khuynh hướng mô tả tổng hợp đã dẫn tới phương
pháp thứ ba trong xác định KKVV với tên gọi Quy trình can thiệp trên cơ sở
nghiên cứu tỏ ra có nhiều hiệu quả trong việc xác định đối tượng, kết nối
nhận diện và hỗ trợ HS, đem lại nhiều kết quả, lợi ích thiết thực cho HS [78].
Trong phương pháp này, quá trình đánh giá HS có KKVV là quá trình đánh
giá toàn diện, tập trung vào mô tả và tổng hợp các biểu hiện đặc thù của HS
có KKVV trên nhiều phương diện, xác định được các điểm mạnh, điểm yếu
trong NLNT và ảnh hưởng của nó tới kĩ năng viết của HS. Sự tổng hợp các
kết quả đánh giá theo quan điểm kiểm tra giả thuyết nhận thức giúp xác định
HS có KKVV, làm sáng tỏ các đặc điểm, khả năng, nhu cầu nhận thức và
định hướng rõ ràng cho biện pháp hỗ trợ. Quy trình này tiến tới sự đánh giá
tổng thể, không phụ thuộc vào kết quả chẩn đoán cuối cùng, những khó khăn
của HS vẫn được hỗ trợ kịp thời. Đây là xu hướng hiện đại trong việc xác
định HS có KKVV và đang nhận được nhiều sự quan tâm. Trong phương
pháp thứ ba, các trắc nghiệm trí tuệ xây dựng trên cơ sở lí thuyết nhận thức
đa tầng Cattell-Horn-Carrol (Lí thuyết CHC), đặc biệt là Trắc nghiệm trí tuệ
trẻ em Wechsler (WISC), được coi là trắc nghiệm có tính chất trung tâm.
c) Nghiên cứu về đặc điểm học sinh có khó khăn về viết
Các nghiên cứu về đặc điểm của HS có KKVV được triển khai để tìm
tòi cách hỗ trợ phù hợp cho HS có KKVV. Nghiên cứu của tác giả Volman
và cộng sự (2006) hay Berninger (2004) khẳng định HS KKVV có sự phát
triển vận động bình thường, kĩ năng vận động tinh, cụ thể là kĩ năng chuyển
động liên tục của các ngón tay và kĩ năng phối hợp vận động tay mắt có biểu
hiện kém hơn các bạn không KKVV song không phải HS KKVV nào cũng
có đặc điểm này [57], [131]. Do vậy, đây không phải là đặc điểm cơ bản của
HS có KKVV.
Theo Graham (2006) và Berninger (2004), kĩ năng tạo chữ/ viết chữ
(handwriting), kĩ năng viết chính tả (spelling) và kĩ năng tạo lập văn bản
(composing) của HS KKVV đều có những biểu hiện hạn chế nghiêm trọng
13
về chất và lượng. Trong nhiều trường hợp, hạn chế trong kĩ năng tạo lập văn
bản là hạn chế thứ phát từ hạn chế trong 2 kĩ năng viết cơ bản: kĩ năng tạo
chữ và kĩ năng viết chính tả. Đây là những dấu hiệu khá đặc trưng để nhận
diện KKVV [57], [83]. Các tác giả cũng nhấn mạnh rằng nếu không tìm ra
được chuẩn phát triển kĩ năng viết theo độ tuổi và theo giới tính ở HS bình
thường, việc xác định một đứa trẻ yếu kém trong kĩ năng viết là do khuyết
tật trong năng lực viết hay do khả năng viết của chúng vẫn đang ở trạng thái
phát triển chưa đầy đủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn [58].
Nhiều nhóm nghiên cứu cũng tiến hành tìm hiểu đặc điểm NLNT của
các HS có KKVV nhằm tìm ra cơ chế tác động của NLNT tới KKVV, điển
hình có các tác giả Berninger (1999) [58], Berninger et al. (2008) [60],
Flanagan & Kaufman (2009) [80], nhóm nghiên cứu của Emiko Tanaka
(Tanaka et al., 2008, 2012) [149], [150]. Các kết quả nghiên cứu cho thấy
HS có KKVV có sự yếu kém năng lực ghi nhớ công việc, khả năng mã hóa
chính tả, đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những bất thường trong kĩ
năng viết của HS, việc hỗ trợ HS có KKVV cần phải đặc biệt chú ý đến
những đặc điểm này.
1.1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nghiên cứu chuyên sâu về khái niệm KKVV rất ít,
chủ yếu thông qua khái niệm khó khăn về học. Bên cạnh đó, hiện nay có một
số nghiên cứu về chữ viết của HS tiểu học để phát hiện các HS có kĩ năng
viết phát triển bất thường. Có thể coi các nghiên cứu này là một hướng
nghiên cứu có liên quan đến KKVV.
Đối với hướng nghiên cứu về chữ viết của HS tiểu học để phát hiện
các HS có kĩ năng viết phát triển bất thường, tiêu biểu có các tác giả Nguyễn
Thị Hạnh (1992), Đỗ Xuân Thảo (1996), Đào Duy Tuấn (2012)... Các
nghiên cứu này cho thấy: HS lớp 1 đến lớp 4 chủ yếu mắc các lỗi bỏ từ, sai
con chữ khi viết [20]; khoảng 60% HS lớp 1 đã đạt yêu cầu của Bộ GD&ĐT
về chữ viết, 25% HS mắc lỗi sai là do viết chữ sai kích cỡ, sai hình dạng, bị
14
thiếu hoặc thừa nét chữ [34]; còn nhiều em viết chữ xấu, bẩn, viết sai chính
tả, sai mẫu chữ, sai cự ly, dẫn đến bài làm trình bày không đẹp [32].
Từ năm 2002, Bộ GD&ĐT đã đưa ra tiêu chuẩn về kiến thức, kĩ
năng viết cho từng khối lớp ở tiểu học: về tốc độ viết của HS các lớp 1, 2, 3,
4, 5: cần đạt tốc độ viết lần lượt là 30 tiếng/15 phút, 50 tiếng/15 phút, 60-
70 tiếng/15 phút, 80-90 tiếng/20 phút, 100 tiếng/20 phút; về độ chính xác:
đúng kiểu dáng chữ, khoảng cách giữa các chữ, hình dạng con chữ, kích cỡ
chữ, vị trí của thanh điệu, sự liền mạch và viết đúng chính tả [9], [12]. Năm
2013, Chương trình Đảm bảo chất lượng giáo dục trường học (SEQAP)
tiến hành khảo sát định lượng kết quả học tập môn Toán và Tiếng Việt của
HS lớp 5 cho thấy hầu hết HS đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu
[15]. Mặc dù các HS được lên lớp đều đặn, nhưng trong thực tế vẫn còn
một nhóm những HS không đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng tương ứng với lớp
đang học, đó là những HS "ngồi nhầm lớp". Một bộ phận HS trong số này
có những biểu hiện của KKVV song nhà trường chưa có biện pháp xác
định, chưa thể xác nhận KKVV và chưa thể hỗ trợ HS một cách phù hợp.
Đối với các nghiên cứu chuyên sâu về khó khăn về học trong đó có
KKVV, cách tiếp cận khái niệm, cách xác định KKVV đang theo khuynh
hướng mô tả loại trừ. Hướng nghiên cứu này xuất hiện từ những năm 1980,
có thể chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn khai phá (kéo dài đến khoảng những
năm 1997) và giai đoạn mở rộng (từ năm 2006 đến nay).
Giai đoạn khai phá được đánh dấu bởi những nghiên cứu về HS có
chứng khó học và phương pháp giáo dục HS của Trung tâm Nghiên cứu
Tâm sinh lý trẻ em. Tiếp theo là nghiên cứu ứng dụng lí thuyết tâm lí học
thần kinh của Vưgốtxki để giải quyết vấn đề lưu ban, học kém, khó học do
các rối loạn liên quan đến phát triển não bộ của tác giả Võ Thị Minh Chí vào
năm 1996, nghiên cứu của tác giả Trần Trọng Thủy về Dạy học chỉnh trị cho
HS khó học vào năm 1997. Giai đoạn mở rộng khởi đầu bởi Dự án hợp tác
giữa Trường Đại học Tự do Bruxelle (ULB), Trường Đại học Công giáo
15
Louvain (UCL) của Vương quốc Bỉ và Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh năm 2007 về đánh giá khả năng ngôn ngữ và khả năng tính
toán của trẻ 3-9 tuổi. Tiếp đó là Dự án "Giáo dục tiểu học cho trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn” đề cập đến nhóm trẻ em khó khăn về học của Bộ
GD&ĐT năm 2009. Sau đó, năm 2012, Khoa Giáo dục Đặc biệt - Trường
Đại học sư phạm Hà Nội tổ chức “Hội thảo Giáo dục trẻ KTHT”, năm 2013,
Khoa chính thức phát triển chuyên ngành đào tạo về Giáo dục trẻ KTHT đầu
tiên ở Việt Nam. Năm 2014, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tiếp tục tổ
chức Hội thảo Giáo dục trẻ KTHT liên kết với Đại học Wakayama (Nhật
Bản). Cùng trong năm đó, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và Tổ chức
World Human Nature, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng tổ chức hội thảo về nhận biết,
đánh giá và can thiệp trẻ có KTHT. Các hội thảo đều nhận được sự quan tâm,
chia sẻ của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đến năm 2015, một
số dự án đào tạo, bồi dưỡng GV về phương pháp dạy HS có khó khăn về học
của Bộ GD&ĐT, Sở Khoa học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu
được thực hiện.
Trong giai đoạn khai phá (từ năm 1980 đến năm 1997), thuật ngữ
KKVV chưa được đề cập chính thức. Thuật ngữ đầu tiên được nhắc đến là
chứng khó học để chỉ "hiện tượng vụng đọc, vụng viết, khả năng chú ý kém
hoặc yếu, chán học, không hứng thú học tập, kết quả học tập yếu kém" [38],
HS khó học (Children with learning difficulties) "là các HS có thể lực bình
thường, tham gia vui chơi hòa nhập với các bạn khác, không có khuyết tật về
ngôn ngữ hay thính giác, thị giác. Mọi chuyện rắc rối chỉ diễn ra khi các em
học tập với những biểu hiện kém về nhận thức và rối loạn hành vi tác phong
học tập" [17, 99].
Trong giai đoạn mở rộng, thuật ngữ Khó khăn về học chính thức được
đưa vào sử dụng trong Dự án của Bộ GD&ĐT (2009), trong đó khái niệm
HS khó khăn về học có nhiều tiêu chí tương ứng với khái niệm HS khó học
16
của tác giả Võ Thị Minh Chí. Năm 2007, thuật ngữ rối loạn chuyên biệt
trong học tập được dùng để các HS có khó khăn trong ngôn ngữ và tính toán,
rối loạn chuyên biệt trong học tập được công nhận là một dạng rối loạn ẩn,
không nhìn thấy cho đến khi HS học tập các kĩ năng ngôn ngữ (đọc, viết) và
tính toán trong nhà trường [18], [39]. Từ năm 2012, các nhà nghiên cứu đề
cập đến việc sử dụng thuật ngữ Khó khăn về học và KTHT sao cho phù hợp
với nghiên cứu và thực tiễn giáo dục ở Việt Nam. Về cơ bản, các nhà nghiên
cứu thống nhất sử dụng cả hai khái niệm, các khái niệm được tiếp nhận, kế
thừa từ các nghiên cứu nước ngoài, KKVV, KKVĐ và khó khăn về tính toán
là những dạng đặc thù của KTHT.
Các công cụ nhận biết HS có KKVV ở nước ta cũng còn nhiều hạn
chế. Cách xác định KKVV được thực hiện theo quan điểm Chênh lệch năng
lực nhận thức – học lực [14]. Rải rác trong công trình nghiên cứu của các tác
giả Bùi Thế Hợp (2013) [24], Trần Quốc Duy và cộng sự (1997) [18], các
công cụ đánh giá có kiểm tra kĩ năng viết của HS nhưng chưa đề cập tới
cách xác định nhóm HS có KKVV, đặc biệt là KKVV liên quan đến kĩ năng
nhìn viết. Nếu coi chuẩn kiến thức, kĩ năng về kĩ năng viết của Bộ GD&ĐT
là một chuẩn phát triển theo độ tuổi của HS bình thường thì chỉ có thể xác
định được HS đang ở trạng thái chưa đạt chuẩn nhưng chưa đủ căn cứ để xác
định đó là KKVV trong kĩ năng nhìn viết. Trong nhà trường, không thể vận
dụng phương pháp chẩn đoán bằng kĩ thuật điện não đồ để nhận biết KKVV
nếu không có sự tham gia của các bác sĩ tâm thần nhi.
Nhìn chung, ở Việt Nam vẫn chưa có công trình nghiên cứu riêng
đánh giá thực trạng HS có KKVV. Những khoảng trống thông tin về đặc
điểm của HS có KKVV trên phương diện NLNT, tình cảm xã hội, hành vi,
cảm xúc..., cách xác định HS có KKVV là những rào cản đối với việc hỗ trợ
HS có KKVV ở tiểu học hiện nay.
17
1.1.2. Nghiên cứu về hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có khó khăn
về viết ở tiểu học
1.1.2.1. Trên thế giới
Việc hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có KKVV được một số tác giả
như Berninger (2004, 2011), Graham (2000, 2010), Lynne-Lane et al. (2010)
đặc biệt chú trọng quan tâm. Các nghiên cứu cho thấy, kĩ năng sao chép
(transcription) gồm kĩ năng tạo dựng chữ và viết theo quy tắc chính tả trong
hình thức nhìn viết (copying), nghe viết (dictation) và kĩ năng tạo lập văn
bản (composing) là các nội dung hỗ trợ được chú trọng. Đối với kĩ năng tạo
chữ và viết chính tả, yêu cầu về viết được quan tâm gồm: viết đúng, viết
chính xác, viết rõ ràng và trôi chảy [57], [53], [84]. Việc hướng dẫn bằng lời
phải rõ ràng, cụ thể, có các hướng dẫn bổ sung, hệ thống các kí hiệu bổ trợ
để giúp HS bớt gặp khó khăn trong quá trình học viết [57], [87]. Sự tích cực
hoạt động, tự chủ trong việc viết như tự nhắc nhớ khi viết, tự kiểm tra trong
quá trình viết cũng góp phần giúp HS có KKVV học viết tốt hơn [83].
Đồng thời, để nâng cao kĩ năng viết, các HS có KKVV nói riêng, các
HS có KTHT nói chung cần được hỗ trợ đặc thù do có những đặc trưng
riêng trong NLNT [77]. Các biện pháp hỗ trợ đặc thù thường xoay quanh
việc cải thiện các yếu tố ảnh hưởng và nguyên nhân gây ra KKVV, cải thiện
hướng dẫn viết cho HS và tập trung vào 3 nhóm chính: hỗ trợ kĩ năng vận
động cho HS KKVV (tiểu biểu có Gerald Getman vào năm 1964, Newell
Kephart vào năm 1971 [122], biện pháp tăng cường hướng dẫn về kĩ thuật
viết chữ (nhóm tác giả Graham S. và Berninger W.Verninger) và biện pháp
nâng cao năng lực tự nhận thức về kĩ năng viết (Graham S. Harris R.K. tại
Hoa Kỳ, nhóm tác giả Jongmans J.M, Linthorst-Bakker E., Westenberg Y.,
Smits-Engelsman C.M.B. ở Hà Lan, tác giả Oba Shigeji ở Nhật). Các nghiên
cứu chỉ ra sự tác động khác nhau của các nhóm biện pháp tới sự phát triển
độ lưu loát và chính xác trong kĩ năng viết ở HS KKVV phụ thuộc rất nhiều
vào đặc điểm NLNT và mức độ phát triển kĩ năng viết của mỗi cá nhân. Các
18
nghiên cứu đã khẳng định biện pháp phát hiện, xác định KKVV là một biện
pháp quan trọng, không thể thiếu trong việc hỗ trợ HS, việc nhận biết
KKVV không chỉ xác định khó khăn, hạn chế của HS mà cần chỉ ra các căn
cứ, cơ sở để xác định biện pháp hỗ trợ hiệu quả trong việc nâng cao kĩ năng
viết cho HS KKVV. Những kết quả này cần được xem xét để vận dụng cho
các nghiên cứu tiếp theo về biện pháp hỗ trợ HS có KKVV.
1.1.2.2. Ở Việt Nam
Trong trường tiểu học, việc dạy và học viết rất được quan tâm, các
biện pháp rèn chữ viết cho HS đã được chú trọng, tuy nhiên còn thiếu vắng
các biện pháp chuyên sâu để hỗ trợ cho HS có KKVV.
Kĩ năng viết được Bộ GD&ĐT quy định là một trong bốn kĩ năng cơ
bản của môn Tiếng Việt cần phải hình thành cho HS ngay từ lớp 1 [12]. Việc
học kĩ năng viết được cụ thể hóa thành các phân môn Tập Viết, Chính tả,
Tập làm văn với những mục đích cụ thể khác nhau. HS tiểu học thực hành
và áp dụng kĩ năng viết chủ yếu thông qua ba hình thức: nhìn viết, nghe viết
và tự luận (tự suy nghĩ và viết ra) [40]. HS các lớp 1, 2, 3 được học viết tổng
cộng 140 phút/tuần, nhiều gấp 2 lần HS ở Mỹ [103]. Thời gian học viết của
HS lớp 4 và 5 giảm xuống chỉ còn 120 phút/tuần.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu đề cập đến phương pháp và mục
tiêu dạy học viết là của các tác giả gồm: Đỗ Xuân Thảo (1994, 1996) khi nói
về quy trình dạy và rèn luyện chữ viết cho HS lớp 1; Hoàng Văn Thung
(1990) nêu các yêu cầu cần thiết để đảm bảo tốc độ viết cho HS lớp 1; nhóm
tác giả Trần Mạnh Hưởng, Phan Quang Thân, Nguyễn Hữu Cao (2005) bàn
về vấn đề dạy và học tập viết ở tiểu học với mẫu chữ mới do Bộ GD&ĐT
ban hành năm 2002; nhóm tác giả Đặng Thị Lanh, Nguyễn Thị Hạnh và
Nguyễn Thị Kim Anh (2009) khi xây dựng sách chuyên khảo để HS từ lớp 1
đến lớp 5 thực hành viết đúng viết đẹp; tác giả Đào Duy Tuấn (2012) với hệ
thống các bài luyện viết chữ đẹp cho HS. Với nhiều công trình nghiên cứu
khác nhau, các tác giả tập trung vào biện pháp và kĩ thuật dạy học và rèn
19
luyện để HS tiểu học sớm làm chủ được chữ viết và đảm bảo được các yêu
cầu về viết ở nhà trường, tập trung vào cung cấp cho HS các kĩ thuật nắm bắt
con chữ, kĩ thuật cầm bút và viết theo quy trình hợp lí để đảm bảo tính liền
mạch, tính thẩm mĩ [26], [32], [33], [34], [37].
Đối với biện pháp hỗ trợ HS có KKVV, cho tới nay có nghiên cứu
của các tác giả Võ Thị Minh Chí (1996), Trần Trọng Thủy (1997) đã áp
dụng hiệu quả biện pháp hỗ trợ theo tác động chỉnh trị, tức tác động vào
chức năng chậm phát triển ở vùng não dựa trên nguyên tắc bù trừ chức năng
[38], [17, 102]. Tác giả Bùi Thế Hợp (2013), đã thiết kế các biện pháp dạy
đọc cho HS có KKVĐ trong đó có sử dụng cả chữ viết (từ, câu) để cải thiện
KKVĐ [24], tác giả Nguyễn Thị Ly Kha (2013) sử dụng các bài tập trị liệu
nhận thức không gian để HS học đọc một cách có hiệu quả. Các kết quả này
cho thấy xu hướng khả thi của việc hỗ trợ KKVV ở HS tiểu học dựa trên
việc sử dụng chức năng bù trừ để tác động vào các chức năng kém phát triển.
1.1.3. Những vấn đề luận án cần giải quyết
- Về mặt lý luận:
Cần làm sáng tỏ định nghĩa HS có KKVV theo xu hướng mô tả tổng
hợp với nhiều thông tin về HS, giúp ích cho việc hiểu KKVV một cách cụ
thể; làm sáng tỏ những đặc điểm của HS có KKVV trên các lĩnh vực: kĩ
năng viết, NLNT, hành vi, cảm xúc, ..., nguyên nhân gây ra các KKVV, yếu
tố ảnh hưởng đến kĩ năng viết; làm rõ cách xác định HS có KKVV; làm sáng
tỏ cách thức hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có KKVV ở tiểu học.
- Về mặt thực tiễn:
Cần xây dựng công cụ và quy trình đánh giá nhận biết HS có KKVV
ở hình thức nhìn viết theo phương pháp hiện đại. Để thực hiện điều đó, một
trong những nội dung cần phải nghiên cứu là sự phát triển kĩ năng viết dưới
hình thức nhìn viết của HS tiểu học làm cơ sở khoa học để xây dựng công cụ,
phương pháp xác định KKVV.
20
Cần nghiên cứu xác định đặc điểm HS có KKVV trong đó đặc biệt
làm rõ các đặc điểm về NLNT và đặc điểm KKVV, mối liên hệ của hai đặc
điểm cơ bản này, đồng thời làm rõ thực trạng hỗ trợ trong dạy học viết cho
HS có KKVV ở tiểu học, từ đó đề xuất các biện pháp hỗ trợ phù hợp.
Các biện pháp hỗ trợ đặc thù dành cho HS có KKVV dựa trên đặc
điểm khả năng, nhu cầu NLNT và kĩ năng viết của HS là hết sức cần thiết.
Cần gắn kết chặt chẽ biện pháp hỗ trợ KKVV với các kết quả đánh giá HS.
Nói cách khác, biện pháp đánh giá nhằm xác định KKVV là biện pháp quan
trọng trong quá trình hỗ trợ HS.
1.2. Học sinh có khó khăn về viết
1.2.1. Các khái niệm
1.2.1.1. Chữ viết
Chữ viết là hệ thống kí hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói, ghi lại
ngôn ngữ, bao gồm các kí hiệu có thể tự mình hoặc kết hợp với kí hiệu khác
để biểu thị các âm vị (ghi âm vị) trong chữ viết ghi âm và biến thể cơ bản của
chúng [42], [19]. Chữ viết được thể hiện bằng hệ thống các chữ cái (còn được
gọi là con chữ). Trong tiếng Việt, chữ viết bao gồm hệ thống các dấu thanh,
được tạo thành bởi các nét chữ là các đường nét vạch bằng bút [42], [2], [3].
Mỗi chữ cái có tên gọi riêng trong bảng chữ cái (a-a, b-bê, c-xê…), chữ cái
cũng có tên gọi theo âm (a-a, b-bờ, c-cờ) là cách gọi phù hợp với việc ghép
các âm vị thành âm tiết, ghép chữ cái ghi âm vị thành chữ ghi âm tiết [26].
Hệ thống chữ viết không chỉ bao gồm các kí hiệu về chữ cái, dấu
thanh mà còn bao gồm cả hệ thống các quy ước sử dụng kí hiệu nhằm mã
hóa ngôn ngữ, tức các quy ước chính tả [35]. Nếu ngôn ngữ là hệ thống ký
hiệu (mã bậc 1) thì chữ viết là hệ thống kí hiệu của kí hiệu (mã bậc 2) [1].
Trong phạm vi luận án, chữ viết được hiểu là dạng chữ viết tay, chữ
viết bằng bút trên giấy, không phải là chữ in, chữ đánh máy. Việc dạy viết chữ
là dạy chữ ghi âm tiết tiếng Việt theo kiểu chữ viết tay.
21
1.2.1.2. Viết
Viết được hiểu là việc vạch những đường nét tạo thành chữ. Viết chữ
là ghi ra những nội dung muốn nói đã được sắp xếp theo các quy tắc chính tả
để diễn đạt ý tưởng nào đó [42], [1], [33]. Hoạt động viết về cơ bản là hoạt
động mã hóa, chuyển đổi mã bậc 1 sang mã bậc 2, chuyển từ ý sang lời, từ lời
sang văn bản viết dùng các kí hiệu theo quy ước kí mã đã được định sẵn.
Trong quá trình mã hóa, nhiều hành vi phức tạp diễn ra dưới sự điều khiển
của lí trí ở cả cấp độ thấp (quá trình tri giác vận động) và cấp độ cao (quá
trình nhận thức). Hai cấp độ này diễn ra theo thứ tự và song song trong quá
trình viết [112].
Theo quan điểm tâm lí học và giáo dục học, viết không chỉ đơn
thuần là hành động có tính chất kĩ thuật mà được xem xét dưới góc độ là một
kĩ năng bởi luôn gắn liền với kết quả của hành động trong mối quan hệ với
mục đích, phương tiện, điều kiện và cách thức tiến hành hành động.
Kĩ năng viết (writing skill) là khả năng của chủ thể triển khai đúng
đắn các hành động viết, kĩ thuật viết để tạo ra sản phẩm chữ viết theo những
mục đích yêu cầu cụ thể trên cơ sở các em đã hiểu biết về các các thao tác
thực hiện hành động viết. Trong trường tiểu học, viết là một trong bốn kĩ
năng ngôn ngữ quan trọng.
Mặc dù một vài thao tác viết có thể phát triển ở trình độ kĩ xảo, một
vài phong cách viết trở thành thói quen nhưng bản thân kĩ năng viết không
thể xem là kĩ xảo bởi hành động viết luôn gắn với những tình huống cụ thể
có mục đích, các yêu cầu về viết thay đổi khác nhau.
Kĩ năng viết được thể hiện dưới các hình thức khác nhau gồm: nhìn
viết (copying), nghe viết (dictation) và viết tự luận (composing). Nhìn viết
và nghe viết là các hình thức sao chép, lưu giữ thông tin nhìn thấy, nghe thấy,
có sự chuyển tải từ các biểu tượng thị giác, biểu tượng thính giác thành hình
ảnh chữ viết. Trong khi đó, hình thức viết tự luận lại đòi hỏi tính sáng tạo
cao, là cách lưu giữ, thể hiện các ý nghĩa xuất hiện ở trong đầu ra bên ngoài.
22
Mỗi hình thức biểu đạt kĩ năng viết này đòi hỏi một cơ chế xử lí thông tin
đặc trưng [147], [135]. Trong phạm vi luận án, chúng tôi chú trọng đến hình
thức nhìn - viết.
Nhìn - viết là sự sao chép, viết lại một cách chính xác những gì nhìn
thấy. Hình thức này được hình thành và sử dụng sớm hơn các hình thức viết
khác và luôn cần thiết trong việc ghi chép thông tin. Trên phương diện học
tập, giao tiếp, tư duy, hoạt động nhìn - viết là một hoạt động lưu trữ thông
tin nhanh chóng. Khi HS chưa thuần thục kĩ năng nghe để ghi chép, chưa tự
ghi chép theo ý tưởng của bản thân thì việc nhìn - viết (chép lại) các thông
tin nhìn thấy trên bảng, trong sách vở giúp HS lưu giữ lại một cách nhanh
chóng và chính xác.
Khi nhìn – viết, HS không chỉ dựa trên phương pháp mô phỏng, sao
lại đúng hình thức chữ viết của văn bản mà cần phải thường xuyên duy trì
mối liên hệ giữa hình ảnh thị giác với biểu tượng âm thanh ngôn ngữ (đánh
vần, phát âm âm vị, đọc trơn âm tiết, đọc thầm và hiểu nghĩa), phải kết hợp
kênh thị giác, định vị được chữ viết trong mối quan hệ âm chữ [1]. Việc nhìn
- viết do vậy dựa trên các thao tác tư duy cao cấp: năng lực hiểu nghĩa, tư
duy tri giác, sự ghi nhớ, tốc độ xử lí thông tin ngôn ngữ, phi ngôn ngữ, vị trí
không gian một cách nhanh chóng chính xác để có thể sao lại đúng thông tin
chữ viết một cách có ý nghĩa và chủ định [135], [75], [100].
Theo các tác giả Usinxki [1, 134], Đỗ Xuân Thảo [34, 42], Kellogg
[100], kĩ năng viết phát triển ở 2 giai đoạn, trước hết là viết chữ (cấp độ cơ
bản) sau đó là sử dụng chữ để ghi chép (cấp độ nâng cao):
- Kĩ năng viết cấp độ cơ bản: thể hiện trước hết ở khả năng nhận diện,
phân biệt các đường nét, các con chữ với nhau (kĩ năng nhận diện chữ), khả
năng tạo ra các đường nét của chữ đảm bảo sự khu biệt các đường nét với
nhau. Các kĩ năng này còn gọi là kĩ năng viết chữ hay kĩ năng tạo chữ
(handwritings). Kĩ năng viết cấp độ cơ bản còn thể hiện ở khả năng kết hợp
các chữ thành chữ ghi âm, thành từ theo các quy tắc kí mã, tức quy tắc chính
23
tả, còn gọi là kĩ năng viết chính tả (spelling skills) (được hình thành sau khi đã
có khả năng tạo chữ). Kĩ năng viết chính tả chú trọng đến khả năng sử dụng
chữ theo đúng quy tắc mã hóa trong quá trình sao chép. Khi kĩ năng tạo chữ
và sử dụng chữ theo đúng quy tắc chính tả diễn ra một cách thuần thục, tự
động, viết trở thành cách thức hữu hiệu để thể hiện ý tưởng, tư duy.
- Kĩ năng viết cấp độ nâng cao: Khả năng tạo dựng văn bản/viết văn
là khả năng cá nhân có thể sử dụng chữ viết để kí mã tư tưởng, kí mã các
phát ngôn của mình dưới dạng câu, đoạn, bài là mức độ cao nhất của kĩ năng
viết, kĩ năng viết văn bản. Kĩ năng tạo chữ, kĩ năng viết chính tả và kĩ năng
viết văn bản có chức năng tích hợp trong quá trình viết nhưng là ba quá trình
riêng biệt [100]. Luận án chú trọng đến các kĩ năng viết ở cấp độ cơ bản, bao
gồm kĩ năng tạo chữ và kĩ năng viết chính tả.
Sự phát triển kĩ năng viết cấp độ cơ bản hiện được đánh giá ở hai
tiêu chí chính là: Kĩ năng viết đúng và kĩ năng viết nhanh [1, 129], [133],
[64], [94], [124], [86], [112], [137].
Kĩ năng viết đúng: Là kĩ năng viết các chữ đảm bảo tính chính xác,
độ khu biệt (không mắc lỗi tạo chữ hay chính tả), tức đảm bảo giá trị mã hóa
của chữ được viết ra. Chữ viết đúng và rõ ràng giúp đọc chữ dễ dàng, chính
xác, từ đó hiểu được. Chữ viết đúng là những chữ có khả năng chuyển mã,
khả năng chuyển tải thông tin, có "chất".
Kĩ năng viết nhanh phản ánh độ trôi chảy, độ thuần thục và khả năng
tự động hóa trong khi viết, thể hiện ở số lượng chữ viết ra trong một đơn vị
thời gian. Kĩ năng viết nhanh giúp người viết có khả năng kí mã ý tưởng, từ
đó truyền tải ý tưởng, lĩnh hội và sử dụng các ý tưởng thông qua hình thức
chữ viết một cách nhanh chóng, từ đó học tập và giao tiếp hiệu quả hơn.
Giữa kĩ năng viết đúng và kĩ năng viết nhanh có mối liên hệ với
nhau. Với tốc độ viết chậm, HS thường viết được những chữ dễ đọc, ít mắc
lỗi (độ chính xác cao) [86], [135], [137].
24
1.2.1.3. Khó khăn về viết
Trong việc học tập, trẻ em có thể gặp rất nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả nguyên nhân nội tại và nguyên nhân khách quan. Có những cá thể phát triển hoàn toàn bình thường về mọi mặt nhưng khi bước vào lĩnh vực học thuật, sự lĩnh hội và vận dụng các kĩ năng học đường, trong đó có kĩ năng viết lại vô cùng khó khăn. Trên thế giới, nhiều thuật ngữ được sử dụng để gọi nhóm HS có KKVV (writing difficulties) như khuyết tật về viết (writing disabilities), rối loạn viết (dysgraphia), rối loạn biểu đạt ngôn ngữ viết (written expression disorders), do đó có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này.
Chúng tôi chú ý tới hai cách định nghĩa KKVV phổ biến gồm cách định nghĩa theo khái niệm rộng hơn, khái niệm KTHT và cách định nghĩa cụ thể, dựa vào các biểu hiện đặc thù trong kĩ năng viết. a) Định nghĩa khó khăn về viết theo khái niệm khuyết tật học tập
Trên cả trên phương diện y tế lẫn giáo dục, KKVV được xem là một dạng của KTHT nên thường được định nghĩa theo khái niệm KTHT.
Trong số các định nghĩa về KTHT trên phương diện y tế, luận án rất coi trọng định nghĩa về KTHT của Sổ tay chẩn đoán và phân loại khuyết tật – phiên bản 5 - DSM-5 ra đời năm 2013 [45]. Trong DSM-5, KTHT được gọi bằng thuật ngữ rối loạn học tập cục bộ (Specific Learning Disorder) và được định nghĩa như sau:
Rối loạn học tập cục bộ là một dạng rối loạn phát triển thần kinh có căn nguyên sinh học (biological origin) vốn là cơ sở của các bất thường (abnormalities) ở cấp độ nhận thức được thể hiện bởi các dấu hiệu hành vi rối loạn. Sự bất thường này ảnh hưởng đến khả năng cảm nhận hay xử lí một cách hiệu quả và chính xác thông tin bằng lời nói hoặc thông tin phi lời nói của não bộ, biểu hiện ở những khó khăn trong việc đọc, viết, tính toán.
Rối loạn học tập cục bộ có 4 đặc trưng cơ bản:
(A) Khó khăn trong việc học và vận dụng các kĩ năng học đường (ít nhất 1
trong số những biểu hiện: đọc từ thiếu chính xác hoặc chậm và ngắc ngứ;
kém hiểu nghĩa bài đọc; đánh vần khó khăn; diễn đạt bằng chữ viết khó khăn;
25
khó thành thục cảm giác số, phép tính hoặc tính toán; khó khăn trong suy
luận toán học) trong thời gian ít nhất 6 tháng bất kể đã được cung cấp các can
thiệp nhằm giải quyết các khó khăn đó.
(B) Kĩ năng học đường bị tác động thấp hơn cả về chất và lượng so với
mức độ phát triển độ tuổi cá nhân và dẫn tới những ảnh hưởng rõ rệt tới thể
hiện trong học tập hoặc hoạt động nghề nghiệp, hoạt động hàng ngày đã được
dự báo bởi các đánh giá tiêu chuẩn về học lực cơ bản của cá nhân và đánh giá
lâm sàng tổng quát. Đối với cá nhân từ 17 tuổi trở lên, đánh giá tiêu chuẩn
phải được thay thế bởi hồ sơ tiểu sử những khó khăn về học.
(C) Khó khăn trong học tập bắt đầu thể hiện trong suốt tuổi đến trường
nhưng cũng có thể chưa thể hiện đầy đủ cho tới khi những yêu cầu về kĩ năng
đó vượt quá khả năng của cá nhân trẻ.
(D) Những khó khăn trong học tập không phải do KTTT, thị giác, thính
giác không hoàn chỉnh độ nhạy bén, rối loạn tâm thần hoặc thần kinh khác,
rối loạn tâm lí xã hội, thiếu hụt năng lực trong ngôn ngữ hướng dẫn học
đường, phương pháp giáo dục bất phù hợp.
Trong DSM-5, quan điểm về KTHT có sự thay đổi có tính phát triển
và tích cực khi: nhìn nhận KTHT là rối loạn trong học tập xảy ra cục bộ, hạn
định trong kĩ năng học đường cụ thể; lần đầu tiên sự phân loại KTHT được
cho là không cần thiết, các vấn đề về đọc chữ, viết chữ, làm toán,... đều
chung tư cách là các biểu hiện của KTHT; coi trọng tính đơn lẻ cũng như
tích hợp của các khó khăn đặc thù trong các kĩ năng học đường; xác định cơ
chế nảy sinh KKVV, bắt đầu từ rối loạn trong chức năng não bộ, dẫn tới sự
bất thường trong NLNT, những biểu hiện KKVV theo cơ chế này là “phần
nổi”, là hành vi thể hiện bên ngoài của những bất thường này.
Những thay đổi này tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhìn nhận, đánh
giá và hỗ trợ toàn diện cho HS có KKVV trong trường học.
Định nghĩa này cũng phản ánh khá sát định nghĩa về KTHT trên
phương diện giáo dục, được ghi trong Tiêu chuẩn của Liên bang Hoa Kỳ về
26
KTHT (Federal Definition/Criteria for Specific Learning Disabilities) thuộc
Luật về Quyền giáo dục của người khuyết tật (IDEA) năm 2004.
Tại Nhật Bản, “KTHT về cơ bản không có sự chậm phát triển về trí
tuệ nhưng trong việc lĩnh hội và vận dụng các năng lực nghe, nói, đọc, viết,
tính toán và suy luận có những khó khăn đặc thù biểu hiện ở những dạng
khác nhau. Nguyên nhân của khuyết tật học tập là do sự khiếm khuyết nào
đó về cơ chế hoạt động của hệ thần kinh, những khuyết tật khác về thính
giác, thị giác, trí tuệ, cảm giác, những yếu tố môi trường không phải là
nguyên nhân trực tiếp của KTHT” [153]. Đây được xem là định nghĩa theo
quan điểm giáo dục, phù hợp với GV và thuận lợi cho GV trong việc hiểu và
bước đầu nhận diện HS.
Tại Việt Nam, năm 2009, thuật ngữ Khó khăn về học chính thức được
đưa vào sử dụng trong bộ tài liệu Tập huấn kĩ năng dạy học cho trẻ tiểu học
có hoàn cảnh khó khăn thuộc Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn, trong đó: “HS KKVH là HS có biểu hiện mất cân đối
nghiêm trọng giữa trí thông minh thực tế và trí thông minh học tập. Kết quả
học tập vê môn Toán hoặc môn tiếng Việt thấp hơn hẳn so với các bạn cùng
lớp từ 1 đến vài năm; những HS này không gặp khó khăn lớn về các kỹ năng
sống trong nhà trường và ngoài xã hội... Học kém không phải do lười biếng
hay bị khiếm thính, khiếm thị, khuyết tật trí tuệ, khuyết tật vận động, mắc
các rối loạn cảm xúc hoặc ít có cơ hội học tập” [14].
Đối chiếu với các khái niệm về KTHT trên thế giới có thể thấy nội
hàm khái niệm KKVH ở Việt Nam khá tương đồng với khái niệm KTHT
theo quan điểm giáo dục. Trong phạm vi luận án, để tạo sự thuận lợi cho GV
và các nhà nghiên cứu trong việc nhận biết và hỗ trợ KTHT theo quan điểm
giáo dục, chúng tôi tổng hợp và sử dụng khái niệm KTHT như sau:
KTHT là dạng rối loạn phát triển trong đó việc lĩnh hội và vận dụng
năng lực nghe, nói, đọc, viết, tính toán và suy luận có những khó khăn đặc thù
biểu hiện ở các dạng khác nhau do sự khiếm khuyết nào đó về chức năng của
27
hệ thần kinh dẫn tới những bất thường trong khả năng nhận thức, những
khuyết tật khác về thính giác, thị giác, trí tuệ, cảm giác, điều kiện hoàn cảnh -
môi trường không phải là nguyên nhân trực tiếp của KTHT.
KKVV là một biểu hiện của KTHT và mang các đặc trưng như sau:
(1) Là một rối loạn phát triển thần kinh có căn nguyên từ sự rối loạn nào đó
trong chức năng não bộ dẫn đến sự bất thường trong NLNT;
(2) Sự bất thường trong NLNT thể hiện thành sự rối loạn về hành vi viết dẫn
tới sự yếu kém trong việc học tập và phát triển các kĩ năng hành vi này;
(3) Sự bất thường trong NLNT vốn không gây ra KTTT. Cá nhân mang
KKVV có sự phát triển tương đối bình thường ở các lĩnh vực kĩ năng xã hội,
cảm xúc;
(4) Các khuyết tật giác quan, khuyết tật cảm xúc, điều kiện hoàn cảnh - môi
trường không phải là nguyên nhân gây ra KKVV.
b) Định nghĩa khó khăn về viết theo các biểu hiện đặc thù trong kĩ năng viết
KKVV cũng được định nghĩa theo nghĩa hẹp dựa vào các biểu hiện
đặc thù trong kĩ năng viết thông qua các khái niệm tương đương: Rối loạn
viết (Dysgraphia – trong tiếng Anh, Dysorthographie – trong tiếng Pháp),
Khuyết tật về viết (Writing Disability).
Dysgraphia là một từ Hi Lạp, được ghép bởi 3 thành tố: tiền tố "Dys"
tương đương với "impaired", chỉ sự khiếm khuyết, thân từ "graph" tương
đương với "making letter forms by hand", chỉ chức năng viết của tay và chỉ
các con chữ được viết bằng tay để biểu thị âm vị, hậu tố "ia" chỉ trạng thái
[57]. Tựu chung lại, Dysgraphia là trạng thái các con chữ viết bằng tay bị
khiếm khuyết, có nghĩa là trạng thái khiếm khuyết về chữ viết tay
(handwriting) và đôi khi là về chính tả (spelling/ orthography), ảnh hưởng
đến sự phát triển kĩ năng viết tay và kĩ năng viết chính tả [104]. Hiệp hội Rối
loạn về đọc quốc tế (The International Dyslexia Associaion) định nghĩa
Dysgraphia là một loại khuyết tật học tập cục bộ có ảnh hưởng tới khả năng
lĩnh hội ngôn ngữ viết và mức độ sử dụng ngôn ngữ viết để diễn đạt suy nghĩ
28
[123]. Cá nhân có rối loạn Dysgraphia ngoài sự thiếu hụt kĩ năng này không
có sự thiếu hụt các kĩ năng vận động khác như chạy nhảy, đi lại; kĩ năng vận
động tinh như cầm nắm, bắt chụp đồ vật, phối hợp vận động đều phát triển ở
mức bình thường. Đây là đặc điểm cơ bản phân biệt Dysgraphia với Rối loạn
phối hợp phát triển (Developmental Coordination Disorder) (theo DSM-5).
Theo Berninger (2004), Writing Disability - Khuyết tật về viết là dạng
khiếm khuyết về khả năng viết với biểu hiện: sự phát triển vận động, cảm
giác, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm xã hội trong phạm vi bình thường của
độ tuổi nhưng kĩ năng sao chép (transcription skills) bao gồm kĩ năng tạo
dựng chữ (handwriting) và viết chính tả (spelling) phát triển dưới mức thông
thường một cách rõ rệt so với khả năng tư duy bằng lời và khả năng tổ chức
suy nghĩ. Kĩ năng sao chép không đầy đủ này làm tổn hại tới khả năng viết ở
cấp độ cao hơn (khả năng viết văn bản) [110].
Tổng hợp các quan điểm, định nghĩa trên đây về KTHT, về KKVV,
luận án tiếp cận khái niệm KKVV theo quan điểm giáo dục, coi đây là một
trong các biểu hiện của KTHT với định nghĩa cụ thể như sau:
KKVV là trạng thái khiếm khuyết năng lực viết chữ bằng tay
(handwriting) và/hoặc viết chính tả (spelling/ orthography), thể hiện thành
những khó khăn đặc thù trong việc lĩnh hội và vận dụng kĩ năng viết (đặc
biệt là trong kĩ năng sao chép gồm kĩ năng tạo chữ và kĩ năng viết chính tả)
biểu hiện ở những dạng và mức độ khác nhau, bao gồm việc viết những chữ
rất khó đọc, tốc độ viết chậm, độ trôi chảy, độ chuẩn xác của chữ kém hơn
so với yêu cầu chung của độ tuổi. Những khó khăn đặc thù này do những bất
thường trong NLNT gây ra. Căn nguyên sinh học của KKVV là do sự khiếm
khuyết nào đó trong chức năng hoạt động của hệ thần kinh. Những khuyết
tật khác về thính giác, thị giác, trí tuệ, cảm giác, những điều kiện hoàn cảnh
- môi trường không phải là nguyên nhân trực tiếp của KKVV.
29
1.2.1.4. Học sinh có khó khăn về viết
Từ định nghĩa khái niệm KKVV như trên, chúng tôi định nghĩa HS có
KKVV như sau:
HS có KKVV là HS có những khó khăn đặc thù trong việc lĩnh hội và
vận dụng kĩ năng viết (đặc biệt là trong kĩ năng sao chép gồm kĩ năng tạo chữ
và kĩ năng viết chính tả) biểu hiện ở những dạng và mức độ khác nhau, bao
gồm: viết những chữ rất khó đọc, tốc độ viết chậm, độ trôi chảy, độ chuẩn xác
của chữ kém hơn so với yêu cầu chung của độ tuổi. HS có KKVV có hiểu biết
về thao tác, hành động về kĩ năng viết nhưng chưa đảm bảo được mục đích về
chất và lượng của chữ viết. HS có KKVV không có khuyết tật khác về thính
giác, thị giác, trí tuệ, cảm giác, những điều kiện hoàn cảnh - môi trường
không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra những khó khăn đặc thù đó.
Để thuận lợi cho việc nhận diện HS có KKVV ở tiểu học, chúng tôi
đề xuất định nghĩa HS có KKVV theo các tiêu chí/tiêu chuẩn như sau:
HS có KKVV là các HS hội đủ các tiêu chí/tiêu chuẩn sau:
- Thứ nhất: Có các khó khăn đặc thù trong kĩ năng viết (biểu hiện KKVV),
các biểu hiện này xuất hiện thường xuyên trong khoảng thời gian dài.
- Thứ hai: Không KTTT, rối loạn hành vi, cảm xúc, khuyết tật thính giác,
thị giác, vận động. Không gặp phải điều kiện, hoàn cảnh môi trường sống,
văn hóa, giáo dục, kinh tế bất lợi dẫn tới thiếu hụt kinh nghiệm học tập.
- Thứ ba: Không đạt được yêu cầu phát triển tương ứng với độ tuổi về kĩ
năng viết (về tốc độ và độ chính xác trong kĩ năng viết) dựa trên bằng
chứng nghiên cứu tin cậy.
- Thứ tư: Có những đặc trưng riêng trong đặc điểm NLNT có liên quan đến
kĩ năng viết.
Trong định nghĩa này, tiêu chuẩn thứ nhất nhằm phát hiện HS có
KKVV. Tiêu chuẩn có tính chất loại trừ (loại trừ nguyên nhân khuyết tật
khác, yếu tố môi trường) được đưa thành tiêu chuẩn thứ hai nhằm tạo sự
30
thuận lợi cho việc sàng lọc HS có KKVV. Hai tiêu chuẩn còn lại giúp chẩn
đoán, xác định HS có KKVV trên cơ sở tổng hợp các đặc điểm của HS.
Tại Hoa Kỳ, tỉ lệ HS có KKVV ở tiểu học chiếm khoảng từ 5 - 27%
[98]. Trong khi đó tại Nhật Bản, HS tiểu học và trung học cơ sở có KKVV
chiếm khoảng 2.4% [154]. Tỉ lệ HS có KKVV không cố định và phụ thuộc
vào giới tính, độ tuổi, tiêu chuẩn đánh giá [98]. Tại nhiều nước trên thế giới,
HS nam có KKVV nhiều hơn HS nữ [112].
KKVV có thể tồn tại độc lập hoặc kết hợp với các dạng KTHT và rối
loạn phát triển khác như tăng động giảm chú ý (ADHD), rối loạn phát triển
diện rộng chức năng cao (HFPDD), rối loạn phối hợp phát triển (DCD), rối
loạn cảm xúc, chứng trầm cảm, rối loạn hành vi [153], [73].
1.2.1.5. Hỗ trợ và biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có khó
khăn về viết ở tiểu học
Hỗ trợ là giúp đỡ lẫn nhau, giúp thêm vào; Biện pháp là cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể [42].
Biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có KKVV được hiểu là
cách trợ giúp thêm có tính chất chỉnh trị đặc thù, tác động, bù đắp những
chức năng kém phát triển của HS có KKVV, được thực hiện trong quá trình
dạy học viết ở tiểu học, phối hợp với các biện pháp dạy học viết thông
thường để giải quyết vấn đề về viết mà HS gặp phải trong quá trình học viết,
để HS đạt được sự phát triển kĩ năng viết tốt hơn phù hợp với đặc điểm, nhu
cầu của HS. Nói ngắn gọn, biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có
KKVV ở tiểu học là các biện pháp hỗ trợ HS có KKVV, được thực hiện
trong quá trình dạy học viết ở tiểu học nhằm giúp HS cải thiện kĩ năng viết.
Biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có KKVV về bản chất
cũng là biện pháp dạy học bởi nhằm giải quyết các nhiệm vụ dạy học viết
trong trường phổ thông. Đây là cách thức sử dụng hay áp dụng riêng biệt
hoặc phối hợp các yếu tố khác nhau như phương pháp, phương tiện, công cụ,
31
tài liệu, tình huống, môi trường, thời gian, công nghệ, các nhân tố tâm lí, xã
hội của quá trình học tập và người học để tiến hành dạy học viết [25].
Biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có KKVVcũng nhằm phát
triển kĩ năng viết cho HS nhưng có cách tác động dựa trên nguyên tắc bù trừ
chức năng là chính, do đó là các biện pháp hỗ trợ đặc thù, mang tính chất
dạy học chỉnh trị. Nguyên tắc bù trừ chức năng được hiểu theo nghĩa dùng
các chức năng đang phát triển bình thường (được coi là sức mạnh ưu thế) để
bù đắp cho những chức năng kém phát triển (được coi là hạn chế) theo quan
điểm linh hoạt và có hệ thống của hệ thống các chức năng [17]. Như vậy,
các biện pháp hỗ trợ HS có KKVV nhằm tác động lên cá nhân HS, do đó là
các biện pháp hỗ trợ theo tiếp cận cá nhân.
1.2.2. Nguyên nhân gây khó khăn về viết
Hiện nay đang tồn tại nhiều cách lí giải khác nhau về nguyên nhân
gây KKVV. Các cách lí giải này chủ yếu thuộc về hai nhóm: nguyên nhân
sinh học và nguyên nhân nhận thức. Hai nhóm nguyên nhân này không xung
đột mà thống nhất nhau trên quan điểm của tâm lí học thần kinh với nguyên
tắc định khu các chức năng trên vỏ não. Nhóm nguyên nhân sinh học thu hút
các nghiên cứu trong lĩnh vực y tế (về gen, sinh lí thần kinh...) với các đại
diện như Shaywitz B.A., Shaywitz S.E., Pugh K.R., Menci W.E., Lyon G.R.,
Fulbright R.K., Demonet J.F, Taylor M.J. Chaix Y.,... Nhóm nguyên nhân
nhận thức nhận được sự quan tâm của các nhà tâm lí học, ngôn ngữ học và
giáo dục học tiêu biểu như Kaufman A.S., Berninger W.V., Flanagan D.P,
Autmann D., Mascolo J.T., Abbott R., Alfonso V.C.,....
1.2.2.1. Nguyên nhân sinh học
Trên vỏ não có các vùng não bộ đảm nhiệm chức năng liên quan đến
năng lực đọc và viết. Nổi bật là vùng ngôn ngữ tiếp nhận Broca và vùng
ngôn ngữ biểu đạt Weiknicke đều nằm trên bán cầu não trái, đảm nhận
nhiệm vụ phân tích âm vị, xử lí ngữ nghĩa. Trong khi đó, tại bán cầu não
phải không tồn tại 2 vùng ngôn ngữ này song vẫn tham gia quá trình xử lí
32
ngữ nghĩa ở mức độ nào đó và chức năng chính của bán cầu não phải tham
gia quá trình xử lí thông tin chữ viết là xử lí thông tin liên quan đến hình
dạng, không gian và trực tiếp gắn kết chúng với ngữ nghĩa [151].
Sơ đồ 1.1: Các khu vực chức năng của não có liên quan đến việc đọc và viết
(tổng hợp từ Shaywitz et al. (2002, 2006) [115] [116], Demonet et al.(2004) [70]
Các kết quả nghiên cứu về chức năng não bộ cho thấy ở những trẻ phát
triển điển hình, tại các bán cầu não, sự âm vị hóa chữ viết được kích hoạt bởi
hồi trên bờ (hồi lục thượng) và hồi góc. Hai vùng chức năng này đảm nhận
việc xử lí âm vị, nhận thức chữ và đọc chữ, ưu tiên chữ ghi âm tiết như tiếng
Anh, tiếng Việt, nhóm chữ Kana trong tiếng Nhật, nhận thức không gian.
Trong khi đó, việc tập hợp các con chữ và giải mã chúng được kích hoạt bởi
vùng chẩm-thái dương (đặc biệt ưu tiên với chữ ghi ý như Hán tự) (xem Sơ đồ
1.1). Ở các HS có KKVV, sự hoạt động của các vùng này có sự bất thường
như hoạt động không đầy đủ, kém nhạy bén so với các HS không KKVV.
Rãnh trung tâm
Thùy thái dương
Thùy đỉnh
Vùng Wernicke
Đường thay thế xuất hiện khi trưởng thành(Đọc với nhiều nỗ lực)
Hiểu tập hợp các từ ngữ
Hiểu nội dung đã đọc
Hồi trên bờ
Thùytrán
Hồi góc
Thùy chẩm Vùng chẩm thái dương
(Hồi tháp)
Vùng Broca
Âm vị hóa từng con chữ
33
Điều này chứng tỏ có một sự tổn thương nào đó trong chức năng hoạt động
của các vùng não này [140].
Theo các tác giả Ueno (2009), Ono (2007), những tổn thương này có
thể do người mẹ bị nhiễm vi rút, nhiễm độc thai nghén, bào thai bị suy dinh
dưỡng (các trường hợp sinh nhẹ cân), sinh non, ... [145], [140]. Cho đến nay,
nguyên nhân yếu tố di truyền chưa được chứng minh rõ ràng song được cho
là có liên quan. Nhiều báo cáo cho rằng tỉ lệ xuất hiện KKVV ở trẻ có cha
mẹ hoặc anh chị em ruột mang khó khăn này cao hơn thông thường [145].
1.2.2.2. Nguyên nhân nhận thức
NLNT được xem là yếu tố nền tảng tạo nên các hoạt động trí tuệ,
phát triển các năng lực học tập ở con người trong đó có năng lực viết [75].
Nhận thức là quá trình tâm lí có liên quan đến việc đạt được kiến thức và
thông hiểu sự vật hiện tượng (tri nhận thế giới), gồm nhiều quá trình như tri
giác và lập kế hoạch, chú ý, trí nhớ và trí nhớ công việc, ngôn ngữ, suy nghĩ
(tư duy), trí tưởng tượng, cách thức xử lí thông tin..v..v.. [41], [120]. Năng
lực nhận thức là sự tổng hợp các năng lực này trong việc tri nhận thế giới
khách quan.
Nghiên cứu của các tác giả Kaufman A.S., Berninger W.V.,
Flanagan D.P, Autmann D., Mascolo J.T., Abbott R., Alfonso V.C.,....về
NLNT của HS có KKVV đã ghi nhận sự yếu kém trong khả năng ghi nhớ
công việc (working memory) và mã hóa chính tả (orthographic coding) là
nguyên nhân gây KKVV [58], [60], [80], [149], [150], [152], [5], [88], [47].
a) Khiếm khuyết khả năng ghi nhớ công việc
Ghi nhớ công việc hay trí nhớ công việc là một dạng ghi nhớ ngắn
hạn, là dạng ghi nhớ ngay tức thời, ngay tại lúc đó. Đó là khả năng ghi nhớ
thông tin trong tâm trí và xử lí /thao tác với nó ngay lập tức, chỉ diễn ra trong
vài giây, liên tục các thông tin mới được chuyển đến và chuyển đi [152],
[51]. Ghi nhớ công việc có giới hạn nhất định, trung bình khoảng không gian
ghi nhớ này chỉ có thể chứa đựng và thao tác với từ 5 đến 9 thông tin và lưu
34
giữ trong khoảng 20-30 giây [50], [52]. Ghi nhớ công việc rất cần thiết trong
học tập để nắm bắt các thông tin chuyển đến từ rất nhiều nguồn khác nhau
và tiến hành thao tác với các thông tin đó trong thời gian rất ngắn, có liên kết
chặt chẽ với trí nhớ dài hạn để tiến hành quá trình học tập.
Hạn chế trong ghi nhớ công việc khiến độ chính xác, khả năng duy
trì và độ lớn của thông tin, khả năng thao tác, làm việc với thông tin giảm sút
cả về số lượng và độ chính xác, gây suy giảm chất lượng của hoạt động viết
ở HS [56], [112], [80], [150]. Năng lực ghi nhớ công việc cùng với tốc độ xử
lí kém hơn năng lực ghi nhớ dài hạn, tư duy tri giác ở HS có KKVV thường
dẫn tới việc chậm xử lí và thực hành với các thông tin thu được, việc lưu giữ
thông tin và thực hành với nó kém chính xác.
Sự suy giảm ghi nhớ công việc còn ảnh hưởng tới khả năng mã hóa
chính tả, một yếu tố có liên quan trực tiếp và có ý nghĩa rõ rệt tới sự phát
triển khả năng viết ở trẻ em [56], [110].
b) Khiếm khuyết khả năng mã hóa chính tả
Mã hóa chính tả là khả năng thể hiện thông tin cấu trúc con chữ, chữ
trong từ từ trí nhớ, liên kết với phát âm và ý nghĩa của chúng. Nó cũng là
năng lực chuyển tải ý nghĩa, chuyển tải phát âm (âm vị) thành hình ảnh chữ
viết theo quy tắc kí mã [57], [100]. Việc mã hóa chính tả được diễn ra trong
sự chi phối của năng lực trí nhớ công việc, năng lực thực hành, đồng thời
cũng có sự liên lạc với vùng trí nhớ dài hạn. Mã hóa chính tả cũng có liên
quan đến mã hóa âm vị (phonological coding) là khả năng xử lí âm vị, tạo
dựng, thể hiện thông tin cấu trúc âm thanh, phân biệt và thao tác với cấu trúc
âm vị hoặc âm thanh từ trí nhớ [60], [110], [88].
Những HS có biểu hiện thiếu hụt khả năng mã hóa chính tả và thiếu
hụt khả năng nhớ lại và tái tạo con chữ một cách tự động thường có nguy cơ
bị hạn chế độ trôi chảy của thao tác viết, giảm khả năng phối hợp thị giác -
vận động, hạn chế chất lượng chữ viết (handwriting, nói đến con chữ) [87]
35
và chất lượng chính tả (spelling, hay khả năng viết đúng quy tắc ghép chữ)
[63], [88].
Nghiên cứu của Shaywit (2006) và Vellutino (1996) về năng lực mã
hóa âm vị, xử lí âm vị cũng cho thấy sự rối loạn các năng lực này kéo theo
sự rối loạn trong khả năng mã hóa chính tả, dẫn tới rối loạn năng lực viết ở
dạng hỗn hợp [116]. Điều này phần nào giải thích cho hiện tượng nhiều
trường hợp KKVV kết hợp với KKVĐ và/ hoặc KKTT do có chung sự bất
thường trong hoạt động nhận thức.
1.2.3. Phân loại và đặc điểm các loại khó khăn về viết
Hiện có nhiều cách phân loại KKVV, tùy vào tiêu chí phân loại. Xét
theo thời điểm xuất hiện, KKVV gồm 2 dạng: KKVV phát triển và KKVV
mắc phải [139]. KKVV phát triển là dạng KK trong đó trẻ từ khi sinh ra đã
mang sẵn những khiếm khuyết trong chức năng não bộ, các vấn đề về viết sẽ
dần dần bộc lộ theo thời gian trong giai đoạn học đường. KKVV mắc phải
thường dùng để chỉ những người lớn vốn có chức năng viết đã phát triển
bình thường song chức năng này mất đi do tổn thương não. Trong phạm vi
luận án, các đối tượng KKVV thuộc nhóm KKVV phát triển.
Các tác giả Berninger W.V. và cộng sự, Kaizu A., Ueno K., Swanson
H.L.,... hiện phân loại KKVV theo nguyên nhân nhận thức (các khiếm
khuyết trong chức năng nhận thức) và các cấp độ phát triển kĩ năng viết [57],
[109], [110]. Cách phân loại này tỏ ra dễ hiểu đối với GV, phụ huynh và
thuận tiện cho việc nhận biết, hỗ trợ trong trường tiểu học và được nhiều nhà
nghiên cứu khác sử dụng. Đây là cách phân loại sẽ được sử dụng trong luận
án. Dưới đây là các loại KKVV theo cách phân loại này. Đặc điểm của mỗi
loại KKVV được tổng hợp từ kết quả nghiên cứu của các tác giả Berninger
(2004) (2009) [110] [58], Swanson et al. (2006) [122], Ueno (2001) (2009)
[143], [145], Kaizu (2008) [138], Eda (2010) [134].
36
1.2.3.1. Khó khăn về viết dạng tạo chữ
KKVV dạng tạo chữ còn được gọi là KKVV trong kĩ năng viết chữ
(handwriting disabilities) vì chủ yếu liên quan đến kĩ năng tạo chữ.
Dạng KKVV này do hạn chế khả năng ghi nhớ công việc liên quan
đến thị giác – không gian, rối loạn khả năng chuyển đổi hình ảnh thị giác sang
chữ viết (năng lực mã hóa chính tả) mặc dù HS có thể đọc, phân tích âm vị tốt,
không rối loạn khả năng phối kết hợp vận động. Nhóm KKVV này có liên
quan chặt chẽ với KKVV dạng bề mặt (surface dysgraphia) hay KKVV kênh
thị giác.
HS có KKVV dạng tạo chữ thường gặp khó khăn ngay ở giai đoạn
đầu khi học viết đúng hình dạng chữ, kĩ năng này thường kém hơn rất nhiều
so với các bạn cùng lớp, sau đó các khó khăn tăng lên dần ở các giai đoạn
viết thành thục và viết tự động.
Đặc điểm của KKVV dạng tạo chữ là thường xuyên viết hỏng chữ
(chữ viết ra không xác định được hình dạng chữ), vị trí chữ bất thường (viết
sai vị trí nét chữ, chữ gương), sai hoặc thiếu bộ phận của con chữ, hay mắc
lỗi về hình dáng chữ, lỗi về chiều hướng, hay mắc lỗi chuyển đổi chữ in –
chữ viết tay lộn xộn, ... Đồng thời, tốc độ của kĩ năng viết chữ thường chậm
hơn thông thường.
1.2.3.2. Khó khăn về viết dạng chính tả/đánh vần
KKVV dạng chính tả (Spelling Disabilities) là dạng khó khăn liên
quan đến kĩ năng viết chữ theo các quy tắc chính tả, các yêu cầu về sắp xếp,
sử dụng con chữ, dấu thanh để tạo thành từ đúng quy tắc.
Dạng KKVV này có nguyên nhân là do rối loạn năng lực xử lí âm vị
(năng lực đề xuất văn tự từ các âm vị) hoặc mã hóa chính tả hoặc cả hai,
kém khả năng lưu giữ âm vị trong trí nhớ và đưa chúng vào trật tự phù hợp
để viết từ đúng mục đích (ghi nhớ công việc và năng lực thực hành). Nhóm
KKVV này có liên quan đến KKVV âm vị học (phonological dysgraphia),
đôi khi còn gọi là KKVV kênh thính giác, thường kèm theo khó khăn về đọc.
37
Đặc trưng của KKVV kênh thính giác là khó thiết lập lại quan hệ âm
– chữ từ các thông tin nhìn thấy mặc dù HS có khả năng nhận biết, tri giác
thị giác tốt. HS có KKVV dạng chính tả thường mắc các lỗi liên quan đến
tạo dựng từ, sắp xếp con chữ lộn xộn so với phát âm (sai vị trí, đảo lộn trật
tự con chữ trong từ), thừa – thiếu chữ trong từ, không viết được chữ theo
như phát âm, đặc biệt là với những từ ngữ không quen thuộc, từ rỗng, từ dài
(nhiều con chữ) và từ có cách ghi âm bất quy tắc. Ở một số trường hợp, tốc
độ viết cũng chậm hơn so với mức phát triển chung.
1.2.3.3. Khó khăn về viết dạng hỗn hợp
Đây là dạng KKVV bao gồm cả KKVV dạng chữ viết tay và dạng
viết chính tả. Đồng thời, dạng KKVV này cũng được dùng để chỉ các trường
hợp có KKVV trên phương diện tạo lập văn bản. HS có KKVV dạng hỗn
hợp trên phương diện tạo lập văn bản thường có cách trình bày bất thường
(viết nhảy dòng, nhảy ô, thiếu dấu câu), khó tuân theo các quy tắc ngữ pháp
như liên kết từ, cụm từ, quy tắc viết hoa, sử dụng dấu câu (sắp xếp lộn xộn
từ ngữ, cấu trúc câu, dấu câu..., sử dụng ít từ ngữ và ít quy tắc ngữ pháp), bài
viết thường nghèo nàn về từ vựng, cấu trúc, ý tưởng.
Những khó khăn trong kĩ năng viết chữ và kĩ năng viết chính tả có liên
quan trực tiếp và đáng kể tới độ dài và chất lượng bài văn viết của các HS tiểu
học, có tác động tới kĩ năng viết văn bản như hạn chế cách thể hiện ý tưởng,
kém phát triển vốn từ, lặp đi lặp lại câu văn, cấu trúc câu, hạn chế năng lực
thể hiện ý tưởng bằng ngôn ngữ viết, thậm chí còn làm tổn hại tới khả năng
này, dẫn tới khó khăn trong năng lực tạo lập văn bản [54]. Ở các lớp đầu tiểu
học, các hạn chế trong kĩ năng sao chép gồm kĩ năng tạo chữ và kĩ năng viết
theo quy tắc chính tả thường chiếm ưu thế. Ở giai đoạn sau của cấp tiểu học,
HS có KKVV thường có thêm những KKVV hỗn hợp trong khả năng tạo lập
văn bản [110].
Trong ba loại KKVV trên đây, KKVV dạng tạo chữ và KKVV dạng
chính tả được nhiều tác giả xác nhận là những loại KKVV cơ bản [102].
38
1.2.4. Nhận biết học sinh có khó khăn về viết ở tiểu học
1.2.4.1. Mục đích, yêu cầu nhận biết học sinh có khó khăn về viết
Nhận biết là “nhận ra mà biết được” [42]. Xét trong hàm nghĩa này,
nhận biết bắt đầu từ việc nhận ra các dấu hiệu, biểu hiện nào đó của sự vật,
hiện tượng, bằng cách thức đánh giá và tri nhận phù hợp để biết được sự vật
có đúng là sự vật được quan tâm không. Nhận biết HS KKVV là việc phát
hiện (tìm ra) các khó khăn đặc thù trong kĩ năng viết (biểu hiện KKVV) ở
HS và xác nhận (xác định) HS đó có KKVV hay không dựa trên các cách
lượng giá phù hợp.
Nhận biết HS có KKVV trong giáo dục nói chung, ở tiểu học nói
riêng nhằm mục đích xác định KKVV, xác định đặc điểm, mức độ KKVV từ
đó đưa ra các định hướng hỗ trợ cho HS [143]. Với mục đích này, việc nhận
biết HS có KKVV bao gồm các đánh giá phát hiện và sàng lọc HS có
KKVV, các đánh giá để xác định (chẩn đoán) KKVV ở HS, tổng hợp các
kết quả đánh giá này giúp xác định các đặc điểm của HS KKVV và định
hướng hỗ trợ HS.
Theo Flanagan và các cộng sự (2013), việc nhận biết HS KTHT nói
chung, HS có KKVV nói riêng thường được thực hiện bởi một bộ liên trắc
nghiệm (multi-test battery/ cross-battery assessment) gồm nhiều công cụ
đánh giá các vấn đề học tập, NLNT, sự chú ý, đặc điểm phát triển, ... nhờ đó
việc nhận biết được hiệu quả và tin cậy hơn [81, 178].
Trong thực tế, thông qua quan sát, tiếp xúc hàng ngày với HS, GV có
thể phát hiện được các biểu hiện khó khăn trong lĩnh vực viết từ rất sớm
song thường nhầm lẫn, cho rằng do HS lười biếng, không cố gắng [96].
Những biểu hiện này không chỉ xuất hiện ở HS có KKVV mà có thể bắt gặp ở
HS có rối loạn phối hợp phát triển, HS phát triển bình thường nhưng khả năng
vận động, tập trung chú ý, kĩ năng vận động tinh chưa phát triển thuần thục,
thiếu động cơ học tập, ... Vì vậy, cần có các công cụ, cách thức sàng lọc và
cách thức xác định KKVV cụ thể, giúp xác nhận đúng đối tượng KKVV,
39
phân biệt KKVV với các nhóm dễ nhầm lẫn khác, do đó, phương pháp xác
định KKVV trở nên có vai trò đặc biệt quan trọng.
Khi đánh giá HS KKVV, phải có sự kết hợp giữa GV, phụ huynh HS
và các chuyên gia chuyên trách các đánh giá chính thức [129], [102], [141];
kết hợp đánh giá không chính thức bằng các quan sát và nhận xét của GV để
thu thập các biểu hiện, đặc điểm của HS có KKVVvới đánh giá chính thức
bằng các công cụ được chuẩn hóa, cách thức đánh giá được cấu trúc chặt chẽ,
kết quả đánh giá được so sánh với mẫu định chuẩn để xác định KKVV ở HS.
1.2.4.2. Nội dung, công cụ đánh giá học sinh có khó khăn về viết
Nội dung đánh giá nhận biết HS có KKVV phải bao phủ được nhiều
khía cạnh phát triển của HS trong đó các nội dung nhất thiết phải có gồm:
(1) đặc điểm kĩ năng viết, đặc biệt là các biểu hiện của KKVV, (2) đặc điểm
NLNT (yếu tố nguyên nhân trực tiếp của KKVV) và mối liên hệ của NLNT
với kĩ năng viết, (3) đặc điểm phát triển [143], [79], [139]. Để nắm bắt được
các đặc điểm này cần có các công cụ đánh giá riêng biệt.
* Nội dung, công cụ đánh giá đặc điểm kĩ năng viết
Theo Đạo luật IDEA 2004 của Hoa Kỳ, khi đánh giá đặc điểm kĩ năng
viết cần phải làm sáng tỏ các khó khăn đặc thù trong kĩ năng viết mà HS gặp
phải, đặc điểm, mức độ khó khăn trong kĩ năng viết so với yêu cầu phát triển
chung của độ tuổi (sự chậm trễ, hạn chế, yếu kém trong kĩ năng viết) và đặc
điểm các kĩ năng học đường khác (đọc, nghe, nói, tính toán, ..) [129].
- Các khó khăn đặc thù trong kĩ năng viết: Bao gồm các biểu hiện hạn chế
trong kĩ năng viết (về độ chính xác, về tốc độ viết), tình trạng các hạn chế đó
(mức độ nặng, nhẹ, mức độ thường xuyên), mức độ cải thiện các hạn chế đó
dưới các hỗ trợ của GV.
Những hạn chế trong kĩ năng viết thường thể hiện rõ trong quá trình
học tập trên lớp nên GV là người dễ nhận biết nhất [143]. Do đó nội dung
đánh giá này thường do GV kết hợp với phụ huynh thực hiện.
40
Hiện tại, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có thể đánh giá nội dung
này bằng cách sử dụng các công cụ đánh giá sàng lọc HS có KTHT như
Bảng kiểm đánh giá HS KTHT (Learning Disabilities Inventory – Rivised/
LDI-R) (Nhật Bản), Bảng kiểm HS KTHT (Learning Disabilities Checklist)
của Trung tâm quốc gia về KTHT ở Hoa Kỳ (The National Center for
Learning Disabilities, NCLD), Bảng kiểm các nhu cầu hỗ trợ giáo dục đặc
biệt của HS trường phổ thông ở Nhật [153], Tài liệu đảm bảo KTHT đặc thù
(Specific Learning Disabilities Eligibility Documentation) tại Hoa Kỳ [128],
Bảng hỏi nhu cầu của HS có nhu cầu đặc biệt trong Tài liệu Một số kĩ năng
dạy trẻ khó khăn về học trong lớp hòa nhập của Bộ GD&ĐT [14]. Các bảng
hỏi này rất phù hợp với GV vì không đòi hỏi kĩ thuật đánh giá phức tạp, thời
gian thực hiện nhanh.
Đáng chú ý là Tài liệu đảm bảo KTHT đặc thù tại Hoa Kỳ. Trong bộ
tài liệu này, ngoài nội dung đánh giá biểu hiện, mức độ hạn chế của kĩ năng
viết còn có các câu hỏi thông tin về tình trạng khuyết tật, bệnh tật, yếu tố văn
hóa, môi trường giáo dục – kinh tế, sự tác động của các hỗ trợ tới kĩ năng viết
nói riêng, kĩ năng học đường nói chung của HS có KKVV giúp bước đầu loại
trừ các đối tượng các vấn đề về viết do tác động của khuyết tật khác, của
môi trường, hoàn cảnh.
- Đặc điểm, mức độ khó khăn trong kĩ năng viết: Bao gồm đặc điểm, mức độ
chậm trễ, hạn chế, yếu kém trong kĩ năng viết so với yêu cầu chung của độ
tuổi. Nội dung đánh giá này cần thiết và quan trọng trong xác định KKVV
và cần được thực hiện bằng công cụ có tính chất tiêu chuẩn hóa [129].
Có thể xác định đặc điểm, mức độ khó khăn trong kĩ năng viết thông
qua các tiểu trắc nghiệm liên quan đến năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ viết
trong các trắc nghiệm thành tích học tập như: Trắc nghiệm thành tích học tập
Wechsler (Wechsler Individual Achievement Test - WIAT), Trắc nghiệm
Năng lực nhận thức Woodcook Johnson (Woodcook Johnson Test of
Cognitive Abilities – WJ, Bộ công cụ đánh giá nhận thức Kaufman (Kaufman
41
Test of Educational Achievement – KTEA)…. . Cũng có thể sử dụng các
công cụ đánh giá chính thức dành riêng cho kĩ năng viết hay sự phát triển
ngôn ngữ diễn đạt bằng chữ viết (Evaluation Tool of Children’s Handwriting,
Test of Written Language (TOWL) tại Mỹ; Trắc nghiệm nhìn viết hoặc nghe
viết của Kono [135], Trắc nghiệm đọc viết của Morita và các cộng sự [146]
tại Nhật, Trắc nghiệm Viết chính tả (nghe viết) trong Bộ trắc nghiệm đánh giá
khả năng ngôn ngữ và tính toán cho trẻ từ 6 đến 9 tuổi của tác giả Trần Quốc
Duy và cộng sự.
Các công cụ này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển
kĩ năng viết ở HS phát triển bình thường. Kĩ năng viết được đánh giá gồm
các cấp độ: kĩ năng viết chữ (tạo chữ), kĩ năng viết chính tả, kĩ năng viết bài
văn (paragraph), trên các tiêu chí về chất và lượng chữ viết. Tuy nhiên, mỗi
công cụ thường tập trung đánh giá kĩ năng viết ở những hình thức viết rất cụ
thể như nhìn - viết hoặc nghe – viết hoặc viết sáng tạo (tạo dựng văn bản)
[137], [147]. Do đó, người đánh giá phải lựa chọn công cụ cẩn thận sao cho
phù hợp với mục đích nghiên cứu.
* Nội dung, công cụ đánh giá đặc điểm phát triển, đặc điểm hành vi
Khi đánh giá phát triển, đặc điểm hành vi cần xác định các vấn đề trên
phương diện phát triển của HS, hướng tới làm sáng tỏ các vấn đề như KTTT,
học kém, thiếu động cơ, bị bệnh tật, sang chấn tâm lí, khuyết tật, thiếu điều
kiện giáo dục..., các vấn đề về hành vi, cảm xúc, .... Đây là các nội dung có
tính chất sàng lọc, giúp phân biệt HS có KKVV với các HS không KKVV,
được thực hiện bằng các đánh giá chính thức kết hợp với đánh giá không
chính thức, cần sự kết hợp của GV và phụ huynh HS.
Hồ sơ bệnh án, sơ yếu lí lịch, hồ sơ HS là những tài liệu cần thiết để
thu thập các thông tin này. Các bảng kiểm phát triển cũng là các công cụ
thường được sử dụng. Đặc điểm hành vi của HS có KKVV, tập trung vào
hành vi tăng động giảm chú ý, rối loạn phổ tự kỉ, hành vi thích ứng được đánh
42
giá bởi các bảng hỏi như Bảng hỏi hành vi rối loạn tăng động giảm chú ý, rối
loạn phổ tự kỉ theo các tiêu chuẩn của DSM-5.
* Nội dung, công cụ đánh giá đặc điểm trí tuệ, đặc điểm năng lực nhận thức
Đánh giá đặc điểm trí tuệ của HS bao gồm việc xác mức độ phát
triển trí tuệ chung, kết hợp với đặc điểm hành vi để sàng lọc KTTT. Có thể
đánh giá bằng các trắc nghiệm trí tuệ Raven.
Đánh giá đặc điểm NLNT bao gồm việc xác định các đặc trưng riêng,
những điểm mạnh, hạn chế trong NLNT, đặc biệt là các NLNT có liên quan
đến kĩ năng viết.
Những năm gần đây, nhờ có các trắc nghiệm trí tuệ xây dựng theo Lí
thuyết đa tầng về NLNT (The three-stratum theory of Cognitive Abilities –
Lí thuyết Cattell-Horn-Caroll hay Lí thuyết CHC), các NLNT cụ thể, chuyên
biệt có liên quan đến kĩ năng viết đã được làm sáng tỏ.
Các trắc nghiệm đánh giá NLNT nhận thức theo quan điểm Lí thuyết
này gồm Trắc nghiệm Trí tuệ Wechsler dành cho trẻ em – phiên bản 4
(Wechsler Intelligence Scale for Children, Fourth Edition– WISC - IV), Bộ
trắc nghiệm dành cho trẻ em Kaufman - phiên bản 2 (Kaufman Assessment
Battery for Children, Second Edition - K-ABC II, Trắc nghiệm trí tuệ
Stanford-Binet – phiên bản 5 (Stanford-Binet Intelligence Scale, Fifth
Edition)... Trong số đó, Trắc nghiệm WISC phiên bản IV được chuẩn hóa và
sử dụng khá phổ biến tại nhiều nước trên thế giới (Canada, Tây Ban Nha,
Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc...) như một phần của đánh giá tổng thể để nhận
diện năng khiếu trí tuệ, chậm phát triển trí tuệ, KTHT, … [78].
Trắc nghiệm trí tuệ WISC-IV không chỉ cho biết một cách cụ thể, rõ
ràng mức độ phát triển của NLNT tổng thể (FSIQ) mà còn nhằm đưa ra các
điểm số đo lường các NLNT chuyên biệt như: Hiểu lời nói (VCI), Tư duy tri
giác (PRI), Trí nhớ làm việc (WMI), Tốc độ xử lí (PSI), giúp hiểu được năng
lực nhận thức chung (GAI) và năng lực nhận thức thành thạo (CPI). Các kĩ
thuật diễn giải trong WISC-IV giúp xác định các điểm mạnh hay điểm yếu
43
trong các năng lực nhận thức chuyên biệt của một cá nhân [109], [142].
WISC-IV là trắc nghiệm trí tuệ theo Lí thuyết đa tầng về NLNT duy nhất
được chuẩn hóa tại Việt Nam.
1.2.4.3. Phương pháp nhận biết học sinh có khó khăn về viết
Phương pháp nhận biết HS có KKVV là sự tổng hợp các phương pháp
phát hiện, sàng lọc và xác định HS có KKVV. Phương pháp phát hiện, sàng
lọc HS có KKVV là các cách nhận ra khó khăn đặc thù trong kĩ năng viết
của HS và sàng lọc HS có KKVV. Như phân tích ở phần trên, có thể sử dụng
một số bảng kiểm các khó khăn đặc thù trong kĩ năng viết kết hợp với các
bảng kiểm phát triển để phát hiện và sàng lọc đối tượng HS có KKVV.
Hiện có nhiều phương pháp xác định HS có KKVV, các phương pháp
phân biệt nhau ở quan điểm sử dụng các kết quả đánh giá HS để xác định
KKVV ở HS. Phương pháp xác định HS có KKVV theo Quy trình thay thế
dựa vào các nghiên cứu (Alternative Research-based Procedure – Quy trình
ARP) được khởi xướng từ những năm 2006 được nhiều nhà khoa học quan
tâm, ủng hộ vì đảm bảo giá trị sinh thái và giáo dục HS có KKVV [76]. Đặc
trưng của phương pháp này là cách xác định HS có KKVV theo quan điểm
tổng hợp các thông tin dựa vào bằng chứng nghiên cứu (gọi tắt là phương
pháp tổng hợp).
Về cơ bản, phương pháp tổng hợp cho rằng cần sử dụng các kết quả
nghiên cứu có tính chất chuẩn hóa, kiểm chứng giả thuyết về điểm mạnh,
điểm yếu của NLNT có ảnh hưởng chính và trực tiếp tới các khó khăn trong
lĩnh vực viết ở HS để xác định HS có KKVV. Phương pháp này chú trọng
nhưng không tuyệt đối hóa vai trò của NLNT bằng cách xem xét ảnh hưởng
của các yếu tố ngoài nhận thức, yếu tố môi trường tới các biểu hiện KKVV,
từ đó tăng tính khách quan và độ tin cậy trong việc xác định KKVV [76],
[78; 16]. Phương pháp này bao gồm 2 nội dung chính sau:
* Mô hình điểm mạnh - điểm yếu (Pattern of Strenghs and Weaknesses
Model):
44
Bước đầu tiên của phương pháp này là xác định mối liên hệ giữa
NLNT với các đặc điểm KKVV của HS theo Mô hình điểm mạnh - điểm yếu
bao gồm ba thành tố chính: điểm mạnh trong NLNT, điểm yếu trong NLNT
và điểm yếu trong kĩ năng viết (xem [79], [81]) (Sơ đồ 1.2).
Sơ đồ 1.2. Mô hình điểm mạnh – điểm yếu trong Quy trình thay thế dựa vào các nghiên cứu
Giải thích: NLNT: Năng lực nhận thức, XLTT: Xử lí thông tin, YNTK: Ý nghĩa thống kê, TB: Trung bình, * Ngoài mong đợi, ** đặc thù, không rộng khắp
Mối quan hệ của ba thành tố trong Mô hình này là: (1) Điểm mạnh và
điểm yếu trong NLNT khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tính toàn vẹn của
nhận thức (từ mức trung bình trở lên) với sự hạn chế NLNT hoặc thiếu hụt
năng lực xử lí thông tin; (2) Điểm mạnh trong NLNT và điểm yếu trong kĩ
năng viết cũng khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tính toàn vẹn của nhận
thức với sự thiếu hụt trong kĩ năng học đường; (3) Điểm yếu trong nhận thức
(rối loạn NLNT) và điểm yếu trong kĩ năng viết (thiếu hụt kĩ năng, kiến
thức...) là phù hợp với nhau [79]. Mô hình này được khởi xướng trong
Điểm MẠNH trong NLNT
NLNT và quá trình XLTT ở mức độ TB hoặc cao
hơn. Có thể gồm cả điểm mạnh trong kĩ năng học
đường
Điểm YẾU trong học lực/THẤT BẠI
trong học tập Thiếu hụt kiến thức, kĩ năng học đường
Điểm YẾU/THIẾU HỤT trong năng
lực nhận thức Rối loạn NLNT hoặc
quá trình XLTT
Khôngnhất quán/ Trái ngược
Khôngnhất quán/ Trái ngược
Thống nhất, nhất quán/ Phù hợp
Khác biệt có YNTK giữa tính toàn vẹn của NLNT với thiếu hụt trong kĩ năng học đường. Thiếu hụt kĩ năng học đường > <* NLNT từ mức TB trở lên
Khác biệt có YNTK giữa tính toàn vẹn của nhận thức với sự hạn chế NLNT hoặc thiếu hụt năng lực XLTT Thiếu hụt NLTN > <** NLNT tổng thể từ mức TB trở lên
45
Phương pháp Phù hợp – Không phù hợp của nhóm tác giả Naglieri [93], gần
đây, được phát triển thành Mô hình khác biệt kép và nhất quán trong các
đánh giá Liên trắc nghiệm để xác định KTHT [81].
Bằng các phương pháp thống kê suy luận vốn có của các trắc nghiệm
trí tuệ xây dựng theo Lí thuyết Cattell-Horn-Carol, mối liên hệ giữa các
NLNT được phân tích một cách cụ thể để xác định có hay không sự chênh
lệch giữa cá nhân HS so với chuẩn phát triển, sự chênh lệch giữa các NLNT
chuyên biệt trong cá nhân HS (điểm mạnh – điểm yếu trong NLNT), mối
liên hệ giữa NLNT với đặc điểm KKVV. Tuy nhiên, theo Prifitera et al.
(2011), Flanagan (2010) và Hale & Fiorello (2006), sự chênh lệch trong
NLNT ở mỗi cá nhân là một hiện tượng phổ biến, do đó nếu chỉ dựa vào lập
luận của phương pháp này có thể sẽ xác định không chính xác HS KTHT
[110], [79], [93]. Mối liên hệ này nên được coi là một giả thuyết nhận thức
và cần được kiểm chứng một cách toàn diện hơn.
* Mô hình Kiểm tra giả thuyết nhận thức (Cognitive Hypothesis Testing
Model)
Quy trình Kiểm tra giả thuyết nhận thức đượcc đề xướng bởi Fiorello
& Hale (2006) [76]. Kiểm tra giả thuyết nhận thức là kiểm chứng mối liên
hệ giữa NLNT và đặc điểm KKVV trên cơ sở xem xét một cách tổng hợp
các thông tin liên quan đến yếu tố ngoài nhận thức và yếu tố môi trường [76].
Quy trình này được thực hiện thông qua các bước trọng tâm: (1) diễn
giải các kết quả trắc nghiệm ở cấp độ tiểu sử (idiographic) và cấp độ chuẩn
thức (nomothetic) (tức phải được liên hệ với các thông tin về khó khăn trong
học tập, tiểu sử phát triển, những hỗ trợ trước đây và kết quả hỗ trợ); (2)
điểm mạnh, điểm yếu trong NLNT của HS được kết nối với các trắc nghiệm
có tính chất chuẩn hóa khác (trí tuệ, kĩ năng học đường có liên quan đến
NLNT đó); (3) các kết quả được đối chiếu với tiêu chuẩn KKVV, khi hội đủ
các điều kiện của HS có KKVV thì có thể xác định KKVV.
46
Việc đưa giả thuyết về mối liên hệ giữa điểm mạnh/ điểm yếu trong
NLNT với điểm yếu trong học tập (kĩ năng viết) (giả thuyết về điểm mạnh –
điểm yếu) vào quy trình kiểm tra như trên sẽ giúp hồ sơ về đặc điểm NLNT
trở nên tin cậy hơn để xác định KKVV một cách tin cậy, phân biệt KKVV
với những dạng khuyết tật khác có liên quan đến NLNT bất thường. Các kết
quả đánh giá được sử dụng một cách tổng hợp. Sự nhận biết KKVV nhờ đó
được đặt trong bối cảnh môi trường tự nhiên đảm bảo giá trị sinh thái và
giáo dục [79]. Những đặc điểm và yêu cầu trong quá trình nhận thức của HS
được mô tả rõ ràng, trên cơ sở đó, các biện pháp giải quyết vấn đề ở HS
được đề xuất, thực hiện và điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu học tập của HS.
1.3. Hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có khó khăn về viết ở tiểu học
1.3.1. Mục đích hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có khó khăn về viết
ở tiểu học
Trong quá trình dạy học viết cho HS có KKVV, việc hỗ trợ HS nhằm
giúp HS có KKVV cải thiện kĩ năng viết vốn gặp nhiều hạn chế do KKVV
gây ra, đạt được mức độ phát triển cao hơn phù hợp với xu hướng phát triển
của HS [143]. Dưới các hình thức viết khác nhau, sự tham gia của các chức
năng nhận thức cũng có phần khác nhau, do đó việc hỗ trợ HS có KKVV cần
xác định rõ hình thức thể hiện kĩ năng viết cần được hỗ trợ.
Theo định nghĩa và nguyên nhân gây KKVV, những biểu hiện của
KKVV là biểu hiện bên ngoài của những NLNT yếu kém. Nghiên cứu trong
lĩnh vực y học cho thấy chưa thể khắc phục được các rối loạn chức năng thần
kinh não bộ song những phương pháp hướng dẫn và hỗ trợ có thể giảm thiểu
những ảnh hưởng của NLNT bất thường đến hành vi học tập [148], [77]. Biện
pháp hỗ trợ do đó nhằm mục đích tác động vào các yếu kém trong NLNT
bằng cách tận dụng các điểm mạnh trong NLNT để hạn chế ảnh hưởng của
các điểm yếu, giúp HS học bằng các điểm mạnh, học từ các điểm mạnh
[143], [17], [139].
47
Do những đặc trưng trong NLNT được quy định bởi các định khu
chức năng thần kinh và không thể mất đi nên việc hỗ trợ nhằm cung cấp cho
HS các điều kiện học tập, các tri thức liên quan đến chữ viết, kĩ thuật viết
phù hợp với cách thức nhận thức của HS. Việc hỗ trợ cũng hướng tới trang
bị cho HS cách thức học tập (cách nhận thức, xử lí thông tin) phù hợp với
khả năng của HS, giúp HS hiểu và làm chủ những vấn đề của bản thân, nắm
được phong cách học tập phù hợp với khả năng của mình, hiểu cách làm và
có thể tự vượt qua trở ngại trong hoạt động viết [139], [144].
Mỗi HS có KKVV cho đến khi được hỗ trợ thường đã phải trải qua
không ít thất bại, nhiều trường hợp chán nản học tập, thiếu tin tưởng vào khả
năng của bản thân [144], [139]. Ngoài mục tiêu giúp HS cải thiện được tình
trạng KKVV, việc hỗ trợ HS KKVV nhằm mục đích hình thành mong muốn
và ý thức tích cực với việc viết bằng cách tạo các hoạt động để HS có trải
nghiệm cảm giác thành công, cảm giác đã hiểu, đã làm được, giảm cảm giác
thất bại, giảm cảm giác chống đối với hoạt động viết, từ đó tăng cường sự tự
tin vào khả năng của bản thân.
1.3.2. Nội dung, hình thức hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có khó
khăn về viết ở tiểu học
a) Nội dung hỗ trợ
Nội dung hỗ trợ HS có KKVV ở tiểu học trong quá trình dạy học viết
không chỉ bao gồm kĩ năng viết mà còn bao gồm các kĩ năng nhận thức, xử
lí thông tin [144], [145], [139].
* Kĩ năng viết:
Nội dung hỗ trợ trong dạy viết cho HS có KKVV ở tiểu học trước hết
chính là các nội dung phát triển kĩ năng viết ở cấp độ tạo chữ và viết chính tả
trong trường tiểu học. Các kĩ năng viết này được vận dụng để viết các nội
dung sau: hệ thống các nét chữ, các chữ cái , hệ thống thanh điệu, các tổ hợp
chữ cái ghi âm –vần, chữ ghi tiếng [1], [26].
48
Để đảm bảo tính chất hỗ trợ cá nhân, hỗ trợ phù hợp với đặc điểm
năng lực của học sinh, do tính chất hỗ trợ trong dạy viết là các hoạt động dạy
học chỉnh trị nên tùy thuộc vào mức độ phát triển kĩ năng viết hiện tại của
HS KKVV, GV lựa chọn nội dung phát triển kĩ năng viết phù hợp với vùng
phát triển gần nhất của HS. Thực tế, có những HS KKVV học ở lớp 4, lớp 5,
tức ở giai đoạn yêu cầu phát triển kĩ năng viết cấp độ nâng cao, nhưng kĩ
năng viết chỉ ở mức tạo chữ, do vậy nội dung hỗ trợ trong dạy viết khác rất
xa so với nội dung dạy viết trong lớp học hòa nhập, thậm chí không lệ thuộc
vào chương trình ở lớp học hiện tại của HS [139].
Dưới tác động của NLNT hạn chế, có một số nội dung học tập dễ gặp
khó khăn như các chữ viết gần giống nhau về nét, về chiều hướng, vị trí (p/q,
b/d, n/u...). Các chữ ghi âm ngoài quy tắc, các chữ ghi âm phức tạp cũng là
các nội dung thường xuất hiện các KKVV [84], [89].
* Kĩ năng nhận thức, xử lí thông tin:
HS KKVV vốn có nhiều hạn chế trong trí nhớ công việc, mã hóa
chính tả, đây cũng là những kĩ năng học tập cần thiết phải trang bị cho HS có
KKVV, cụ thể là những kĩ năng chú ý vào ý chính, kĩ năng làm theo kế
hoạch, kĩ năng ghi nhớ... , và vận dụng các kĩ năng học tập này trong hoạt
động viết một cách hiệu quả, khắc phục các hạn chế trong việc học tập của
bản thân [152].
Hai nội dung hỗ trợ này cần được kết hợp, lồng ghép trong quá trình
giáo dục HS có KKVV. Chẳng hạn, để dạy HS hình thành kĩ năng tạo chữ,
HS cần được trang bị các kĩ năng ghi nhớ công việc với các thông tin về nét
chữ, cách kết nối nét chữ, kĩ năng làm theo kế hoạch kết nối nét chữ.
b) Hình thức hỗ trợ
Để đáp ứng những nhu cầu nhận thức đặc thù của HS có KKVV, các
hỗ trợ có tính chất chỉnh trị, tác động trực tiếp vào các lĩnh vực khó khăn rất
riêng của HS nếu tiến hành trong lớp hòa nhập là rất khó khăn [152], do đó
các biện pháp hỗ trợ thường được tiến hành theo hình thức hỗ trợ cá nhân
49
trực tiếp, tại phòng hỗ trợ riêng, theo giờ học riêng ngoài các giờ học thông
thường [144], [78].
Hình thức hỗ trợ cá nhân hướng vào người học, nhằm thích ứng các
nhu cầu học tập của cá nhân người học tới mức cao nhất trên cơ sở tổ chức
các tiết cá nhân phù hợp với đặc điểm, năng lực, mức độ phát triển, sở
thích, ... của HS [43], [140]. Một tiết học cá nhân có thể kéo dài khoảng 20
đến 30 phút, trong thời gian đó chỉ có một HS và một GV/ chuyên gia nhằm
thực hiện các nội dung dạy học nhằm phát triển các lĩnh vực khác nhau ở HS,
đặc biệt là các lĩnh vực nhận thức, ngôn ngữ, kĩ năng tư lập,.... [43]. Nội
dung dạy học trong tiết cá nhân là sự cụ thể hóa các mục tiêu và nội dung
của kế hoạch giáo dục cá nhân.
Việc tổ chức tiết cá nhân cho HS có KKVV có thể diễn ra trong môi
trường lớp học (phòng học cá nhân), khi đó, nhà trường dành riêng một
phòng trống cho việc hỗ trợ HS. Phòng học này có thể gọi là phòng hỗ trợ
mở và dành cho các HS khác cần có sự hỗ trợ cá nhân ngoài giờ học bình
thường. Việc hỗ trợ HS có KKVV có thể được tiến hành tại một phòng riêng,
được thiết kế dành cho giáo dục đặc biệt - phòng nguồn (resource room).
Hình thức hỗ trợ cá nhân được chứng minh là có hiệu quả đối với việc
cải thiện chữ viết ở HS có KKVV. Hiện nay khoảng 56% các nhà trị liệu
thực hiện hỗ trợ cho HS hàng tuần [74] theo các chương trình hỗ trợ dài từ 9
đến 10 tiếng dưới hình thức tiết cá nhân, chữ viết của HS có KKVV có thể
được cải thiện về chất hoặc lượng hoặc cả hai [67].
1.3.3. Biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có khó khăn về
viết ở tiểu học
1.3.3.1. Cách tiếp cận ngôn ngữ trong biện pháp hỗ trợ
Biện pháp hỗ trợ HS có KKVV nhằm cải thiện kĩ năng viết của HS
cũng không nằm ngoài quá trình giáo dục ngôn ngữ trong trường tiểu học
học. Bởi vậy, các biện pháp hỗ trợ cũng lấy 2 cách tiếp cận cơ bản sau đây
khi tiến hành dạy học viết cho HS.
50
* Tiếp cận âm:
Cách tiếp cận âm còn được gọi là cách dạy đi từ chi tiết tới tổng thể.
Theo Bùi Thế Hợp (2011) [24,37], đây là con đường truyền thống trong dạy
viết cũng như dạy đọc ở hầu hết các ngôn ngữ sử dụng bảng chữ cái ghi âm
trong đó có tiếng Việt. Trong cách tiếp cận này, HS được hướng dẫn từng
bước và có hệ thống để lĩnh hội chữ viết từ đơn vị nhỏ đến lớn hơn, từ cấu
trúc đơn giản đến phức tạp. Con đường này phù hợp với cách tư duy trong
quá trình nhìn – viết: bắt đầu đi từ việc nhận diện các nét chữ đến tổ hợp các
nét chữ (chữ cái) (kết hợp với phát âm được âm vị mà chữ cái đó ghi) đến
các chữ ghi tiếng (kết hợp với phát âm âm tiết mà tổ hợp chữ cái đó ghi) đến
từ và đến câu. Tiếp cận âm thường được sử dụng trong dạy kĩ năng tạo chữ
và kĩ năng viết chính tả (kĩ năng viết ở cấp độ viết cơ bản).
* Tiếp cận nghĩa:
Tiếp cận nghĩa còn gọi là kiểu tiếp cận đi từ tổng thể đến chi tiết.
Theo các tác giả Cao Xuân Hạo (2005, 2007) [22], [23], Goodman (1976)
[trích theo 24;38], quá trình viết (đặc biệt là nhìn - viết), cũng như quá trình
đọc, diễn ra theo cách HS chú trọng nhận diện chữ viết dưới dạng một đơn
vị chỉnh thể (một chữ ghi tiếng), dựa vào nghĩa của chữ ghi tiếng đó để đọc
và viết lại một cách tự động. Sau đó, HS phân tích các chữ cái ghép thành
chữ ghi tiếng và phân tích, so sánh, nhận diện để khắc sâu kĩ năng mã hóa
theo quy tắc chính tả.
1.3.3.2. Các dạng hoạt động trong biện pháp hỗ trợ
Biện pháp hỗ trợ HS có KKVV được tiến hành trong quá trình dạy
học viết thông qua tổ chức các dạng hoạt động đặc trưng trong phương pháp
dạy học viết ở tiểu học: hoạt động phân tích và miêu tả ngôn ngữ, giao tiếp
và luyện tập.
* Hoạt động phân tích và miêu tả ngôn ngữ:
Theo tác giả Lê Phương Nga (2013) [28;83], Lê A (2013) [1], hoạt
động phân tích ngôn ngữ trong dạy học viết là việc xem xét tất cả các mặt
51
của kí hiệu chữ viết bao gồm ngữ âm, ngữ nghĩa, hình dạng biểu tượng. Các
dạng phân tích ngôn ngữ trong dạy học viết gồm: quan sát ngôn ngữ để các
kí hiệu chữ viết để tìm ra điểm giống và khác nhau của chúng, phân tích các
tự vị thành các nét khu biệt và thành cách đối hệ dựa trên sự đối lập các nét
khu biệt, phân tích âm vị để tìm mối liên hệ giữa âm vị và tự vị, phân tích
chính tả để tìm mối liên hệ giữa tiếng và chữ ghi tiếng.
Khi thể hiện âm vị (phát âm) các nét khu biệt đồng thời xuất hiện. Sự
thể hiện chữ viết xảy ra theo trình tự thời gian và không gian nhất định, do
đó sự thể hiện chữ viết là một chuỗi hoạt động nhằm liên kết các nét chữ
(thành một chữ cái hay một chữ) theo một trình tự thời gian và sắp xếp trong
một không gian cụ thể (vật liệu để viết). Do vậy, thao tác phân tích ngôn ngữ
đồng thời kết hợp với việc miêu tả và tổng hợp ngôn ngữ gồm các tao tác
tháo ra, gộp lại, đối lập, so sánh, thay thế [1]. Đồng thời, do tính chất của
mối quan hệ giữa âm – nghĩa – chữ là chặt chẽ nên quá trình dạy học viết
phải kết hợp hoạt động đọc với hoạt động viết.
* Hoạt động giao tiếp:
Giao tiếp là một hoạt động rất đặc trưng trong dạy học tiếng Việt. Hoạt
động này dựa vào lời nói, vào những thông báo sinh động, vào việc tổ chức quá
trình giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách có hiệu quả trong những tình huống nói
năng điển hình và cụ thể [28]. Trong quá trình học viết, HS được phát biểu tìm
các từ, tiếng, âm theo tình huống, từ đó học cách mã hóa các thông tin bằng chữ
viết. Thông qua giao tiếp, HS thể hiện các suy nghĩ, cách tư duy trong việc
phân tích, so sánh, miêu tả chữ viết, từ đó mã hóa chính tả chính xác hơn.
* Hoạt động luyện tập theo mẫu:
Luyện tập theo mẫu còn gọi là mô phỏng, bắt chước, là cách thức làm
việc đặc thù của HS tiểu học và HS có KKVV. Khi đó, HS tạo ra chữ viết
trên cơ sở mô phỏng các hình ảnh về chữ viết đã được biết, được quan sát.
HS được yêu cầu viết theo mẫu, thao tác theo GV... Các bài tập chuyên về kĩ
năng viết là một phương tiện hiệu quả và không thể thay thế được trong việc
52
giúp HS có năng lực ngôn ngữ viết, phát triển tư duy [28]. Các biện pháp hỗ
trợ cũng được tổ chức thực hiện bằng hệ thống các bài tập rèn luyện kĩ năng
viết với tính chất đặc thù riêng.
1.3.3.3. Các biện pháp hỗ trợ học sinh có khó khăn về viết
Biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có KKVV tác động vào
các lĩnh vực yếu kém của HS theo nguyên tắc bù trừ chức năng, do đó các
biện pháp hỗ trợ HS có KKVV thường được gọi tên theo các lĩnh vực được
tác động. Dưới đây là một số biện pháp hỗ trợ HS có KKVV đã được nghiên
cứu đến nay.
* Biện pháp hỗ trợ năng lực nhận thức:
Các biện pháp hỗ trợ NLNT cho HS có KKVV hiện nay thường tập
trung tác động khả năng mã hóa âm vị, mã hóa chính tả và ghi nhớ công việc
có nhiều yếu kém của HS. Một số nghiên cứu của Yuzawa (2013) [152],
Alloway (2008) [47] tác động trực tiếp đến khả năng ghi nhớ công việc của
HS bằng cách bài tập trị liệu nâng cao khả năng ghi nhớ, mở rộng khoảng
nhớ cho HS. Kết quả cho thấy việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ là có hiệu
quả song cần kết hợp với việc thay đổi phương pháp hướng dẫn, phương
pháp trực quan của GV.
Nhằm tăng cường khả năng ghi nhớ và khả năng mã hóa chính tả cho
HS, các tác giả Graham, Harris & Fink (2000) [87], Graham, Berninger et al.
(1997) [85] tăng cường thời gian học viết cho HS, đồng thời điều chỉnh, thay
đổi hướng dẫn của GV về cách viết. Các hướng dẫn được nêu một cách cụ
thể , rõ ràng, mở rộng nội dung hướng dẫn và được đưa ra nhiều hơn so với
thông thường. Các hướng dẫn bằng lời được kết hợp với hình ảnh, gợi ý thị
giác như tranh ảnh minh họa con chữ, từ, nghĩa của từ, đưa vào các mũi tên
chỉ dẫn nét viết, các nét chấm, các nét cấu tạo...
Những hướng dẫn như vậy giúp HS ghi nhớ và tái hiện chữ tốt hơn,
do đó độ chính xác và thuần thục của chữ (cả cấp độ tạo chữ và chính tả) của
HS có KKVV đều có sự tăng lên đáng kể so với các HS không nhận được
53
các hướng dẫn này. Đa số các HS có KKVV trong các nghiên cứu này kèm
theo KKVĐ.
* Biện pháp hỗ trợ cảm giác vận động:
Tiêu biểu cho nghiên cứu tác động đến cảm giác vận động là công
trình của các tác giả Sudsawad et al. (2002) [121], Denton et al.. 2006) [71],
Roberts et al. (2010) [111]. Điều đáng nói là HS có KKVV trong các nghiên
cứu này đều kèm theo khó khăn về vận động.
Dưới biện pháp hỗ trợ này, HS được tham gia các chương trình rèn
luyện cảm giác vận động nhằm nâng cao chất và lượng chữ viết tay. HS
được tập trung rèn luyện kĩ năng tạo chữ, đặc biệt là kĩ năng kết nối các nét,
các chữ cái. Các chữ cái được dạy thành nhóm trên cơ sở những chuyển
động giống nhau. Biện pháp hỗ trợ đã kết hợp kĩ thuật điều hòa cảm giác vận
động (sensorimotor techniques) với thực hành tạo hình dạng chữ (letter
formation practice), kết hợp làm mẫu viết chữ và phân tích chữ bằng lời, học
thao tác viết thông qua đồ dạng chữ, tái thị giác hóa, tự hướng dẫn bằng lời,
viết theo trí nhớ và tự đánh giá sự chính xác của chữ. HS ghi nhớ thao tác
viết và cung cấp các gợi ý thị giác, giúp HS có cảm giác về con chữ.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng biện pháp này có tác động lên tốc độ
viết song không có tác động rõ rệt lên độ chính xác của chữ.
* Biện pháp hỗ trợ năng lực tự nhận thức về kĩ năng viết:
Tiêu biểu cho nhóm nghiên cứu này là các tác giả Graham S. Harris
R.K. tại Mỹ, các tác giả Jongmans J.M, Linthorst-Bakker E., Westenberg Y.,
Smits-Engelsman ở Hà Lan, tác giả Oba Shigeji ở Nhật.
Đặc điểm của biện pháp hỗ trợ này là trang bị cho HS khả năng tự đặt
mục tiêu phấn đấu trong giờ luyện viết, tạo cơ hội để HS tự viết và tự phát
hiện các lỗi sai hoặc những điểm chưa phù hợp với mục tiêu đặt ra sau đó
HS tự sửa chữa, tạo dựng lại bài viết cho chất lượng hơn. Cho tới nay, các
nghiên cứu theo nhóm này đã chỉ ra rằng, có trường hợp chữ viết của HS có
sự tăng lên về độ rõ ràng, nhưng về tốc độ, không có sự thay đổi đáng kể nào
54
[97], nhưng cũng có những trường hợp, chữ viết của HS giảm thiểu đáng kể
về lỗi sai và tăng lên về tốc độ viết, độ rõ ràng trong chữ viết [89], [118].
Nhìn chung, các biện pháp hỗ trợ dành riêng cho HS có KKVV ít
thống nhất về hiệu quả hỗ trợ. Một biện pháp hỗ trợ cụ thể nào đó không thể
phù hợp cho mọi đối tượng HS có KKVV bởi mỗi HS có những đặc điểm
riêng biệt, các yếu tố gây ra, ảnh hưởng tới KKVV cũng khác nhau. Như
Nikhil Goyal đã nói về giáo dục trong nhà trường rằng: "One size does not
fit all" (tạm hiểu "không có chiếc áo nào vừa với mọi cỡ"), trong hỗ trợ HS
có KKVV, tính cá nhân của mỗi HS phải được đề cao, các biện pháp giáo
dục phải tính đến những đặc điểm riêng biệt của HS.
1.3.4. Đánh giá kết quả hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có khó
khăn về viết ở tiểu học
Đánh giá kết quả hỗ trợ trong dạy học viết cho HS có KKVV nhằm xác
định mức độ phát triển kĩ năng viết của HS dưới tác động của biện pháp hỗ trợ.
Nội dung đánh giá kĩ năng viết ở cấp độ tạo chữ và kĩ năng viết chính
tả của HS trong trường tiểu học hiện nay được quy định bởi yêu cầu phát
triển các kĩ năng này theo đơn vị ngôn ngữ (nét chữ, chữ cái, tổ hợp chữ/chữ
ghi tiếng, câu, đoạn, bài) trên 2 phương diện: kĩ năng viết đúng và kĩ năng
viết nhanh. Nội dung đánh giá kĩ năng viết không chỉ chú trọng đến kết quả
mà còn chú ý đến quá trình viết. Do tính đặc thù trong kĩ năng viết của HS
có KKVV, hiện nay các tiêu chí đánh giá kĩ năng viết hình thức nhìn viết
của HS có KKVV bao gồm tiêu chí về chất và về lượng chữ viết ở các cấp
độ cụ thể từ thấp đến cao (nét chữ, con chữ, từ...) [136], [135].
Phương pháp đánh giá trong dạy viết chủ yếu là các phương pháp
đánh giá không chính thức, thông qua quan sát, thu thập thông tin, nhận định
của GV về thái độ, biểu hiện học tập hàng ngày, sản phẩm/bài viết của HS,
vở ghi chép của HS, phản ánh của phụ huynh [21].
55
1.3.5. Yếu tố ảnh hưởng đến việc hỗ trợ trong dạy học viết cho học sinh có
khó khăn về viết ở tiểu học
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc hỗ trợ kĩ năng viết có thể là những
yếu tố nội tại bên trong HS và những yếu tố bên ngoài [106], [74], [3], [32].
1.3.5.1. Yếu tố bên trong
Kĩ năng viết chịu tác động từ hiểu biết của cá nhân về mục đích, yêu
cầu viết, kinh nghiệm về các thao tác viết, hành động viết, chịu ảnh hưởng
bởi khả năng cá nhân lựa chọn và vận dụng hành động để đạt mục đích và
thái độ liên quan tới hoạt động cụ thể, hứng thú của cá nhân với hoạt động
viết, khả năng tập trung chú ý khi viết... Mặc dù vậy, yếu tố nền tảng tác
động tới sự phát triển kĩ năng viết của một cá nhân chính là các chức năng
thần kinh của não bộ gắn liền với hoạt động nhận thức [75]. Ảnh hưởng của
yếu tố nhận thức như ghi nhớ công việc, năng lực mã hóa chính tả, mã hóa
âm vị, định hướng không gian,... được xem là nguyên nhân gây ra các khiếm
khuyết, hạn chế trong kĩ năng viết của HS có KKVV.
Để giúp HS có KKVV cải thiện kĩ năng viết, biện pháp hỗ trợ HS cũng
cần phải chú ý tới các yếu tố bên trong dưới đây:
- Mức độ hiểu biết của cá nhân về mục đích, nội dung, yêu cầu viết, kinh
nghiệm về các thao tác viết.
- Sự phối hợp đồng bộ của cơ thể tham gia vào việc viết chữ: bao gồm quá
trình phối hợp vận động của việc viết toàn thân đến việc viết bằng 3 ngón
tay một cách thoải mái chủ động, tư thế ngồi viết đúng, phối hợp chuyển
động cả ngón tay, bàn tay và cánh tay, sự phối hợp giữa các cử động của tay
và mắt.
- Động cơ, hứng thú với hoạt động viết: Đây là những yếu tố cần thiết và
quan trọng để HS có thể tham gia hoạt động viết một cách tích cực, chủ
động và liên tục. HS có KKVV hay bị căng thẳng mệt mỏi trong các hoạt
động viết (do HS thường mất nhiều thời gian và sức lực quá mức bình
thường vào các hoạt động viết) dẫn tới chán nản trong hoạt động viết, trốn
56
tránh hoạt động viết, cảm giác nặng nề mỗi khi phải viết (do sau thời gian
dài dù cố gắng liên tục nhưng không cải thiện được tình trạng viết chữ), mất
động cơ học tập. Những đặc điểm này cần được chú ý trong hỗ trợ HS.
Trong nhiều trường hợp, việc hỗ trợ để HS tìm lại sự tự tin, niềm tin vào khả
năng của bản thân là việc cần làm trước khi đưa ra các biện pháp hỗ trợ để
cải thiện các yếu kém, hạn chế của HS.
1.3.5.2. Yếu tố bên ngoài
* Đặc điểm ngôn ngữ tiếng Việt:
Những đặc trưng riêng của hệ chữ viết trong ngôn ngữ có liên quan
đến tốc độ và chất lượng lĩnh hội ngôn ngữ [54]. Tiếng Việt mang những
đặc trưng riêng, do vậy có ảnh hưởng nhất định tới việc học kĩ năng viết và
hỗ trợ kĩ năng viết cho HS có KKVV.
Tiếng Việt là một loại hình ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính với hệ
thống chữ viết được xác định theo nguyên tắc ghi âm. Hệ chữ cái trong tiếng
Việt là hệ chữ ghi âm vị. Mỗi thành phần chữ cái ghi một thành phần âm vị
trong cấu trúc âm tiết (bao gồm cả âm vị đoạn tính và siêu đoạn tính). Về cơ
bản, một âm tương ứng với một kí tự hoặc một nhóm kí tự. Tên gọi các chữ
cái thống nhất và cũng được gọi theo âm mà nó biểu đạt. Đại đa số các kí tự
đều thể hiện nhất quán âm cụ thể, theo quy tắc, không thay đổi trong các tình
huống. Tính tường minh của quan hệ âm – chữ trong hệ chữ viết tiếng Việt
tương đối cao, mối quan hệ âm-chữ dường như trong suốt, sự tương ứng âm
– chữ cao, việc ghép các âm vị thành âm tiết trong quá trình đánh vần tương
ứng với ghép chữ cái ghi âm vị thành chữ ghi âm tiết. Nhờ vậy, việc viết chữ
khá tương ứng với việc đọc, HS dễ nắm bắt cách viết. Tuy nhiên, có một số
trường hợp ngoại lệ, một âm được thể hiện thành nhiều chữ cái, điều này có
thể khiến HS có KKVV gặp nhiều lỗi sai liên quan đến quy tắc biểu âm,
nhiều HS có KKVV có thể kèm theo khó khăn về đọc, khó khăn trong đánh
vần. Đối với những âm ngoại lệ đó, HS cần phải học cả mối quan hệ giữa âm
và chữ, tạo thuận lợi cho viết phân tích và tổng hợp trong khi đọc và viết.
57
Âm tiết tiếng Việt luôn kèm theo thanh điệu và có cấu trúc cố định. Các
kí tự phải kết hợp theo trật tự hình tuyến tạo thành một khối biểu thị âm tiết
(chữ ghi âm tiết/ chữ). Để có thể ghi âm bằng con chữ, người viết bắt buộc phải
nắm được cấu tạo âm, phân tích được âm vị để ghi đúng quy tắc ghi âm (quy
tắc chính tả). Với các HS có khó khăn trong nhận thức âm vị, việc ghi âm tiếng
Việt sẽ gặp nhiều hạn chế. Chữ viết trong tiếng Việt dễ nhận biết thành hình
cụm, thuận tiện ghi nhớ công việc dạng hình ảnh thị giác không gian (ghi nhớ
kiểu Logo, Gestalt) [22]. Tuy nhiên, để ghi nhớ chính xác cần phải tăng cường
năng lực đánh vần. Do đặc điểm này, nhiều HS có KKVV thường có những
khó khăn liên quan đến đánh vần và khả năng mã hóa dấu thanh.
Chữ viết tiếng Việt có tính chất thuần túy ghi âm nên khi "tiếng"
được tháo rời thành âm thì người viết có thể sao đúng chính tả của bất cứ từ
ngữ nào. Nhưng nếu không lĩnh hội được kĩ thuật phân tích tiếng hoặc kém
ghi nhớ các thành phần của tiếng, người học sẽ gặp khó khăn trong việc ghi
âm. Đồng thời, hệ chữ viết tiếng Việt hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu
hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương [22]. Do đặc điểm này, việc liên kết
giữa chữ và âm có thể dễ dàng hơn so với liên kết giữa chữ và nghĩa vì thế
việc hỗ trợ KKVV phải gắn kết ngữ nghĩa với chữ viết sao cho phù hợp.
* Điều kiện vật chất:
Những yếu tố về điều kiện vật chất có thể ảnh hưởng đến việc học
viết của HS bao gồm: vị trí ngồi, âm thanh ánh sáng của môi trường xung
quanh, giấy, bút, mực viết... Một số nghiên cứu của Feder & Majnemer
(2007), Kono (2007, 2008) cho thấy vị trí bài viết, khoảng cách đến bảng có
ảnh hưởng tới tốc độ và độ chính xác trong kĩ năng nhìn viết của HS với tốc
độ viết và độ chính xác tăng khi viết bài ở khoảng cách gần [74], [135],
[136].
Những HS có KKVV do rối loạn khả năng chuyển đổi hình ảnh thị
giác sang chữ viết có thể gặp nhiều khó khăn hơn với những bài mẫu ở
khoảng cách xa. Những HS có KKVV do rối loạn khả năng phối kết hợp vận
58
động tay – mắt và/hoặc khả năng ghi nhớ âm vị kém cũng sẽ gặp khó khăn
hơn trong trường hợp này.
Kết luận chương 1.
1. KKVV là một dạng của KTHT, biểu hiện ở những khó khăn đặc thù
trong kĩ năng sao chép (transcription). KKVV dạng tạo chữ và dạng
chính tả là hai dạng KKVV cơ bản, thường gặp ở tiểu học. Việc phát
triển các kĩ năng viết này của HS có KKVV gặp nhiều hạn chế và khó đạt
được mục tiêu phát triển như HS không KKVV.
2. Sự bất thường trong NLNT là nguyên nhân trực tiếp của KKVV. HS có
KKVV không chỉ yếu kém trong các NLNT chuyên biệt so với các HS
không KKVV, mà còn có sự chênh lệch giữa các NLNT chuyên biệt với
nhau tạo ra điểm mạnh, điểm yếu trong NLNT. Điều này đã cản trở sự
lĩnh hội, vận dụng kĩ năng viết của HS.
3. Trên thế giới, việc nhận biết HS có KKVV theo quan điểm kiểm tra giả
thuyết nhận thức rất hữu ích trong việc xác định đúng đối tượng và đề
xuất biện pháp hỗ trợ hiệu quả. NLNT là nhân tố quan trọng trong việc
nhận biết và hỗ trợ HS có KKVV bên cạnh những thông tin về kĩ năng
viết, sự phát triển của HS. Ở nước ta hiện nay còn thiếu những công cụ
sàng lọc và chẩn đoán giúp xác định HS có khó khăn trong kĩ năng viết
cấp độ cơ bản dưới hình thức nhìn viết.
4. Ở Việt Nam, việc dạy học viết cho HS trong trường tiểu học rất được chú
trọng nhưng còn thiếu những biện pháp hỗ trợ trong dạy học viết cho HS
có KKVV một cách cụ thể. Các biện pháp hỗ trợ được xây dựng trên cơ
sở các kết quả đánh giá HS, tác động trực tiếp đến các lĩnh vực nhận thức,
tiến hành theo hình thức cá nhân, phù hợp với đặc điểm khả năng, nhu
cầu NLNT, phát triển kĩ năng viết của HS là hướng hỗ trợ hứa hẹn nhiều
hiệu quả trong việc cải thiện kĩ năng viết cho HS có KKVV.