người tiến hành tố tụng trong viện kiểm sát nhân dân đối...
TRANSCRIPT
Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân đối với các vụ án hình sự
Nguyễn Trọng Nghĩa
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: PGS.TS Trần Văn Độ
Năm bảo vệ: 2010
Abstract. Những vấn đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân đối với các vụ án hình sự. Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Viện
kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Một số giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với
các vụ án hình sự.
Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật hình sự; Kiểm sát viên; Vụ án hình sự; Tố
tụng hình sự
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy công cuộc
cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND) là một đòi hỏi có tính cấp bách và chiến lược, nên đã xác định:
"Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp". Điều này đã được tái khẳng định và làm rõ tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X: "Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư
pháp khẩn trương, đồng bộ... thực hiện cơ chế công tố gắn liền với hoạt động điều tra" .
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ
án hình sự là hai chức năng quan trọng nhất của VKSND, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội,
đồng thời không để sót lọt tội phạm, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân…
Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trên, trong thời gian qua ngành kiểm sát đã không ngừng
nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là việc giải
quyết các vụ án hình sự. Kết quả cho thấy, ngành Kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các các hoạt động tư pháp, góp phần không nhỏ vào công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất
định, như: việc Tòa án, Viện kiểm sát (VKS) phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại
nhiều lần; việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự còn nhiều oan sai, đình chỉ vụ án
vì bị can, bị cáo không có tội…nhiều trường hợp VKS đã phải bồi thường cho người bị oan,
sai theo Nghị quyết số 388 ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nêu trên, trong đó có nguyên nhân từ nhận thức, trình độ,
năng lực của người tiến hành tố tụng trong VKSND; từ các quy định của pháp luật có liên
quan đến địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động của VKSND, người tiến hành tố tụng trong
VKSND… Nhưng cho dù là nguyên nhân nào, thì những hạn chế đó cũng mang lại hậu quả
rất lớn, không những gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị oan sai mà
còn làm mất uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với công lý và pháp luật.
Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực
tiễn về người tiến hành tố tụng trong VKSND đối các vụ án hình sự, từ đó đưa ra kiến giải lập
pháp là mô hình lý luận và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của những người này trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự, không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan
trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi
quyết định chọn đề tài "Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ
án hình sự " làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 và cả sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ra
đời, đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố
tụng trong cơ quan điều tra như: Đề tài nghiên cứu "Cơ quan điều tra, Thủ trưởng cơ quan
điều tra và Điều tra viên" của tác giả Đỗ Ngọc Quang, Nhà xuất bản Công an nhân dân,
2000; Luận án tiến sĩ Luật học của Đào Hữu Dân: "Mối quan hệ giữa Cơ quan cảnh sát điều
tra với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự", 2006; nhưng chưa có một công trình
nghiên cứu riêng biệt và toàn diện về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong
VKSND.
Năm 2009, tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả Trần Mạnh Đông đã công bố
luận văn thạc sĩvới đề tài: "Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tố tụng hình
sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam", nhưng luận văn này chỉ
nghiên cứu về tăng thẩm quyền của Kiểm sát viên theo Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự theo nội dung cải cách tư pháp. Ngoài ra, còn một số đề tài
nghiên cứu có liên quan, như đề tài nghiên cứu khoa học tại Trường đào tạo bồi dưỡng
nghiệp vụ kiểm sát về: "Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà hình
sự" năm 2003; Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2008 của Nguyễn Trọng Hải về đề tài "Người
tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra - những vấn đề lý luận và thực tiễn".
Như vậy, có thể nói cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành
tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, nhưng mỗi công trình đó mới chỉ dừng lại ở
một số lĩnh vực hoặc trên phạm vi nghiên cứu chung về người tiến hành tố tụng ở tất cả các
cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra, mà chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về người tiến hành tố tụng trong VKSND
đối với các vụ án hình sự.
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là khi thực
hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề này cần được làm sáng tỏ hơn về mặt
lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan,
đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND trong công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu cấp bách về cải cách tư pháp mà Đảng và
Nhà nước ta đã đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu "người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ
án hình sự" nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản liên
quan đến người tiến hành tố tụng tại VKSND và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, từ đó
xác định những điểm hạn chế, vướng mắc về lý luận cũng như thực tiễn, để đề xuất kiến giải lập
pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về người tiến hành tố tụng các vụ án hình
sự trong VKSND, cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành
tố tụng trong VKSND khi giải quyết các vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu
chủ yếu sau:
Về mặt lý luận:
+ Luận giải về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng trong VKSND đối với các vụ án hình sự, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Luật Tổ chức VKSND, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND và các văn bản pháp luật tố tụng
hình sự khác. Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng trong công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.
+ Nghiên cứu thực trạng về đội ngũ và hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta, đặc biệt là
việc cơ cấu, tổ chức lại cơ quan VKSND theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị mà trước hết là
nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hình sự.
Về mặt thực tiễn:
+ Nghiên cứu, đánh giá lại thực tiễn hoạt động của Viện trưởng, Phó viện trưởng và
Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ án hình sự ở nước ta trong thời gian qua, xác định
địa vị pháp lý đúng đắn cho người tiến hành tố tụng trong VKSND những năm tiếp theo.
+ Nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân tác động tiêu cực đến hoạt động đúng đắn của người
tiến hành tố tụng trong VKSND, từ đó có những kiến giải hữu hiệu xây dựng đội ngũ này
thực sự lớn mạnh và hoạt động chỉ tuân theo pháp luật, củng cố niềm tin của nhân dân vào
pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như thành tựu của các
chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã
hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận
điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên
tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ về mặt khoa học
từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích,
tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của
VKSNDTC. Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các công trình đã
công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề
có liên quan đến tổ chức và hoạt động của người tiến hành tố tụng trong VKSND.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả luận văn góp phần xây dựng một cái nhìn toàn diện về địa vị
pháp lý và hoạt động của người tiến hành tố tụng trong VKSND đối với các vụ án hình sự,
đồng thời thấy được trách nhiệm cũng như vai trò của VKSND trong công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm hiện nay.
Về thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập trong các
cơ sở đào tạo, trong hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên và lãnh đạo VKSND. Những đề
xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt động của người tiến hành tố
tụng các vụ án hình sự trong cơ quan VKSND.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của uận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân
dân đối với các vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các
vụ án hình sự.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố
tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò và nguyên tắc hoạt động của người tiến hành tố tụng trong
Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân
Người tiến hành tố tụng trong VKSND đối với các vụ án hình sự, bao gồm Kiểm sát viên,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, những người được bổ nhiệm và có những nhiệm vụ,
quyền hạn xác định theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm phát hiện, xử lý kịp thời tội phạm và người phạm
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm lợi ích nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
1.1.2. Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với
các vụ án hình sự
Người tiến hành tố tụng trong VKSND có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình
sự với nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng các vụ án
hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân
Nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản
được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như trong việc giải thích và trong thực
tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thông qua một hay nhiều quy phạm của nó. Viện
trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết các
vụ án hình sự cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc đó, trong đó cần chú trọng các nguyên
tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS)).
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đối
với các vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên phải tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy định của Bộ luật Hình sự và BLTTHS, bảo đảm tất cả hành vi tội phạm phải được
truy cứu trách nhiệm hình sự; việc giải quyết của Cơ quan điều tra, VKS và Toà án phải bảo
đảm tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nguyên tắc thứ hai, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4
BLTTHS)
Theo quy định của BLTTHS, khi tiến hành tố tụng, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và
Kiểm sát viên trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân; nếu thấy lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra không có căn cứ
pháp luật thì VKS kiên quyết không phê chuẩn hoặc ra quyết định huỷ bỏ, đồng thời phải trả
tự do ngay cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam.
Nguyên tắc thứ ba, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52 Hiến pháp năm
1992 và Điều 5 BLTTHS)
Người tiến hành tố tụng trong VKSND phải "công minh, chính trực, khách quan, thận
trọng" để việc giải quyết vụ án và hậu quả pháp lý của những người thực hiện hành vi trái
pháp luật giống nhau phải chịu mức hình phạt như nhau.
Nguyên tắc thứ tư, bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công
dân (Điều 7 BLTTHS)
Khi giải quyết vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND căn cứ
chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ người
bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ
khi tính mạng, sức khoẻ của người đó bị đe doạ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của họ bị xâm
phạm.
Nguyên tắc thứ năm, xác định sự thật khách quan của vụ án (Điều 10 BLTTHS)
Theo nội dung của nguyên tắc này, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên
VKSND phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội,
những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Nguyên tắc thứ sáu, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
(Điều 12 BLTTHS)
Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những
hành vi, quyết định của mình.
Nguyên tắc thứ bảy, bảo đảm quyền được bồi thường của người bi thiệt hại do cơ quan
hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30)
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp cũng đã xác định: nơi nào để xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam oan sai, thì
VKS nơi đó phải chịu trách nhiệm bồi thường. Cụ thể hoá nội dung này, Luật trách nhiệm bồi
thường nhà nước năm 2009, có hiệu lực từ 01/01/2010 cũng quy định rõ những trường hợp
VKSND phải bồi thường khi người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự ở cơ quan mình để
xảy ra oan sai.
1.2. Khái quát các quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự
trong Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1945 đến nay
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Ngày 13/9/1945, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 33C về việc thành lập toà án quân
sự, đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của nhà nước dân chủ nhân dân, đánh dấu sự ra đời của hệ
thống toà án, đồng thời cũng là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động
của cơ quan công tố trong bộ máy nhà nước ta. Tại Điều V Sắc lệnh này quy định rõ chức
năng công tố được tổ chức trong toà án quân sự: "Đứng buộc tội là một Uỷ viên quân sự hay
một Uỷ viên của ban Trinh sát".
Sau khi hoà bình đã được lập lại ở miền Bắc, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 256-TTg quy định về tổ chức và nhiệm vụ của Viện công tố. Uỷ ban công tố làm việc
theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây là cơ sở để hình thành chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS ở các giai đoạn sau này.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 2002
Theo Luật tổ chức VKSND năm 1960 thì người tiến hành tố tụng trong VKSND hoạt
động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành , không lệ thuộc vào bất cứ
cơ quan , tổ chức , cá nhân nào của nhà nước ở địa phương va thực hiện chế độ thủ trưởng .
Cuôc ca i cach tư phap lân nay thưc sư la sư thay đôi vê chât chư không chi thay đôi đơn
thuân vê tên goi cua cơ quan công tô, bơi cac le sau:
Thư nhât, vê tô chưc hoạt động, người tiến hành tố tụng trong cơ quan công tô không con
lê thuôc vao cá nhân hoặc cơ quan hanh chinh như trươc đây nưa , mà trở thành những người
hoạt động độc lập trong hệ thống cac cơ quan đôc lâp, chịu sự giám sát của Quốc hội.
Thư hai , trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người tiến hành tố tụng trong
VKSND phai tuân theo nguyê n tăc tâp trung thông nhât và nguyên tắc độc lập , không lê
thuôc vao bât ky cá nhân, tổ chức hay cơ quan nha nươc nao ơ đia phương.
Thư ba, người tiến hành tố tụng trong VKSND không chi co chưc năng thưc hanh quyên
công tô như trước đây ma thưc hiên ca chưc năng kiêm sat viêc tuân theo phap luât tr ên linh
vưc hanh chinh, kinh tê, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Đến ngay 15/4/1992, Hiên phap đa đươc Quôc hôi thông qua tai ky hop thư 11 để thể chế
hoá đường lối , quan điêm đôi mơi cua Đang ta về cải cách tư pháp. Theo nôi dung cua Hiên
pháp lân nay thi vê nguyên tăc tô chưc va hoat đông cua người tiến hành tố tụng trong VKSND
đươc bô sung hai điêm mơi:
Môt la, Viên trương VKSND đia phương chiu trach nhiêm bao cao trươc hôi đông nhân
dân vê tinh hình chấp hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu hội đồng
nhân dân.
Hai la, Uỷ ban kiểm sát có quyền thảo luận và quyết định theo nguyên tắc đa số những
vân đê quan trong cua viên kiê m sat, không con la cơ quan tư vân cho Viên trương như trươc
đây.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm nay
Năm 2003, BLTTHS ra đời thay thế BLTTHS 1988. Bộ luật này hoàn thiện một bước
đáng kể các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nói
chung, của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND nói riêng, theo các nội
dung sau:
Một là, lần đầu BLTTHS nước ta có những điều luật quy định tập trung, cụ thể nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên.
Hai là, đã có quy định phân định nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của Viện trưởng, Phó
Viện trưởng với nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trong giải
quyết các vụ án hình sự.
Ba là, đã có sư phân biệt ở mức độ nhất định nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm chung với
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong quá trình tiến hành tố tụng các vụ án hình sự của
Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên.
Bốn là, lần đầu tiên BLTTHS có chung quy định về khiếu nại, tố cáo tạo cơ sở pháp lý
cho người tham gia tố tụng cũng như công dân có công cụ pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
1.4. Mối quan hệ của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với
các vụ án hình sự
1.4.1. Mối quan hệ trong nội bộ ngành Kiểm sát
1.4.1.1. Mối quan hệ trong cùng một Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng trong VKSND khi giải quyết các vụ án
hình sự là mối quan hệ giữa Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên trong cùng một cơ
quan VKS. Về thực chất mối quan hệ này là mối quan hệ chỉ huy, mệnh lệnh, phục tùng. Ngoài
việc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật như thẩm phán, Kiểm sát viên còn phải chịu trách
nhiệm trước Viện trưởng khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
1.4.1.2. Mối quan hệ giữa các Viện kiểm sát với nhau
Mối quan hệ giữa các cơ quan VKS cùng cấp, trong quá trình giải quyết một vụ án hình
sự, là mối quan hệ phân công, phối hợp với nhau.
Đối với VKS cấp trên và cấp dưới, về nguyên tắc "Viện kiểm sát cấp dưới phải chịu sự
chỉ đạo của Viện kiểm sát cấp trên", Viện trưởng VKS cấp dưới chấp hành sự chỉ đạo của
Viện trưởng cấp trên và chịu sự chỉ đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC.
Đối với những vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, VKSNDTC sẽ tiến hành
kiểm sát trong giai đoạn điều tra và giữ quyền truy tố. Sau khi ra cáo trạng, VKSNDTC sẽ ủy
quyền cho VKSND cấp tỉnh nơi xét xử sơ thẩm giữ quyền công tố tại phiên tòa. Hoạt động
này đã nảy sinh một số bất cập như sau:
Thứ nhất, dù là chủ thể ban hành cáo trạng, nhưng VKSNDTC sẽ không thể trực tiếp tham gia
phiên tòa sơ thẩm mà phải ủy quyền cho VKS cấp dưới. Do hồ sơ vụ án do VKSNDTC giữ ở giai
đoạn điều tra, nên VKSND cấp tỉnh, huyện không đủ thời gian để nghiên cứu tham dự phiên toà.
Thứ hai, do không tham gia kiểm sát điều tra vụ án ngay từ đầu, Kiểm sát viên được uỷ
quyền trực tiếp thực hành quyền công tố tại phiên toà chỉ đọc hồ sơ rồi ra ngồi tham dự phiên
tòa thường không nắm rõ, nắm hết tình tiết của vụ án, việc tổng hợp và đánh giá toàn diện các
chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án…
Thứ ba, vì được ủy quyền nên Kiểm sát viên trực tiếp tham gia phiên tòa phải tuân thủ
triệt để ý chí của VKSNDTC. Trong trường hợp, tại phiên tòa có một tình huống mới phát
sinh khác với nội dung truy tố ban đầu của VKSNDTC, thì Kiểm sát viên không thể tự quyết
là rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về một tội nhẹ hơn.
1.4.1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự
Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng giữa VKS quân sự và VKSND trên địa bàn là mối
quan hệ phối hợp. Khi phát hiện có vụ việc xảy ra trên địa bàn thuộc thẩm quyền giải quyết của
VKS quân sự, thì VKSND phối hợp và làm thủ tục chuyển vụ án đến Cơ quan điều tra, VKS có
thẩm quyền trong quân đội để tiến hành điều tra truy tố và xét xử theo quy định của pháp luật.
1.4.2. Mối quan hệ liên ngành
1.4.2.1. Mối quan hệ với Cơ quan điều tra
Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu xét thấy việc điều tra, thu thập chứng cứ của Cơ quan
điều tra chưa đầy đủ, còn thiếu những chứng cứ quan trọng để chứng minh tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội hoặc có quyết định và hành vi của điều tra viên thủ trưởng, phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra không có căn cứ, trái pháp luật thì Kiểm sát viên kịp thời đề ra các yêu cầu
điều tra bổ sung hoặc trình Viện trưởng quyết định huỷ bỏ các quyết định đó của Cơ quan điều tra.
1.4.2.2. Mối quan hệ với cơ quan Tòa án
Ở giai đoạn xét xử, Kiểm sát viên thực hiện chức năng của VKS bao gồm: thực hành quyền
công tố nhằm đảm bảo việc truy tố đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội. Trong quá trình giải quyết vụ án, khi thấy cần xem xét thêm những
chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; có căn cứ để cho
rằng bị cáo phạm một tội khác, có đồng phạm khác hoặc phát hiện có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng thì toà án có quyền trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung.
Chương 2
THỰC TRẠNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng trong Viện
kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự
2.1.1. Chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định tại Điều 23 BLTTHS năm 2003 thì VKS "thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ". Đây là chức năng hiến định, đặc
trưng của VKS, tồn tại trong toàn bộ quá trình giải quyết một vụ án hình sự từ khởi tố điều tra,
truy tố, xét xử...
Ngoài chức năng thực hành quyền công tố, VKSND còn phải thực hiện chức năng kiểm
sát các hoạt động tư pháp, đảm bảo các hoạt động của Cơ quan điều tra, toà án, cơ quan thi
hành án tuân thủ nghiuêm chỉnh các quy định của Bộ luật Hình sự và BLTTHS.
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của Kiểm sát viên
* Về quyền của Kiểm sát viên:
Theo quy định tại Điều 37 BLTTHS thì Kiểm sát viên khi được phân công công thực
hành quyền công tố và kiểm sat các hoạt động tố tụng đối với các vụ án hình sự có những
nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
Một là, kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của
Cơ quan điều tra.
Hai là, đề ra yêu cầu điều tra.
Ba là, triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Bốn là, kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam
Năm là, tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của VKS liên quan đến việc giải
quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải
quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà.
Sáu là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người
tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án.
Bảy là, kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của toà án và những việc khác theo quy
định của pháp luật.
* Nghĩa vụ của Kiểm sát viên:
Khi tiến hành các vụ án hình sự Kiểm sát viên VKSND phải chấp hành các nghĩa vụ như:
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; chấp hành sự phân công, chỉ đạo của Viện trưởng, Phó Viện
trưởng, không được tiết lộ bí mật điều tra và phải báo trước cho người tham gia tố tụng, người
chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều tra.
2.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát
* Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng
Theo quy định tại Điều 36 BLTTHS, với tư cách là người đứng đầu VKS trong tố tụng
hình sự, Viện trưởng VKS có những nhiệm vụ quản lý chỉ đạo cơ quan về công tác hành
chính.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối
với vụ án hình sự, Viện trưởng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: quyết định khởi tố vụ án,
quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; quyết định phê chuẩn, quyết định không
phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra; quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ
và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; quyết định chuyển vụ án và tiến hành các hoạt động tố tụng
khác thuộc thẩm quyền của VKS theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 36 BLTTHS.
* Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Phó Viện trưởng
Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng VKS có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ
quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định
của BLTTHS... và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của VKS. Khi Viện
trưởng VKS vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện trưởng. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ
được giao.
2.2. Thực trạng về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các
vụ án hình sự
2.2.1. Số lượng người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ
án hình sự
Hiện nay, trên phạm vi cả nước, toàn ngành Kiểm sát nhân dân hiện nay có 793 VKS,
bao gồm 742 VKSND và 51 VKS quân sự các cấp.
VKSND được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ gồm: VKSNDTC, 63 VKS tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và 678 VKSND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Hệ thống VKS quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam theo ba cấp
gồm: VKSQSTW, 16 VKS quân sự quân khu và tương tương, 34 VKS quân sự khu vực trên
cả nước.
Tính đến tháng 12/2009, toàn ngành kiểm sát nhân dân có 12.966 Kiểm sát viên, cán bộ, công
chức. Trong số này có 11.091 Kiểm sát viên, cán bộ, công chức làm chuyên môn, nghiệp vụ kiểm
sát. Ở VKSNDTC và Viện KSQ quân sự Trung ương có 201 Kiểm sát viên, 11 điều tra viên cao
cấp, VKSND cấp tỉnh có 2.487 Kiểm sát viên và VKSND cấp huyện có 4.591 Kiểm sát viên.
2.2.2. Chất lượng người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân
dân
Trong 11.091 Kiểm sát viên, cán bộ, công chức làm nghiệp vụ kiểm sát có 9.612 người
có trình độ cử nhân luật chiếm 86,67%. Trong số này có 24 tiến sỹ, 119 thạc sỹ và 892 người
có trình độ cao đẳng kiểm sát, hơn 80% cán bộ lãnh đạo, quản lý cán bộ chủ chốt của VKS
các cấp có trình độ lý luận chính trị cao cấp.
Để nâng cao trình độ lý luận và trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp trong tình hình mới, hàng năm, Kiểm sát viên VKS các cấp được cử đi đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ tại trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành.
Riêng trong 2 năm 2008 và 2009, ngành kiểm sát cử lãnh đạo, Kiểm sát viên đi đào tạo lý
luận chính trị cao cấp, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, kiến thức điều tra tội phạm, kiểm sát
điều tra án hình sự và kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho 5.367 lượt cán bộ để phục vụ
ngành, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà đảng và nhà nước giao.
2.2.3. Việc tuyển chọn bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Kiểm sát viên, Viện trưởng
và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
Kiểm sát viên là lực lượng chủ yếu của VKSND, nên những công dân được bổ nhiệm vào
chức danh này phải có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định.
Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, cấp huyện gồm có: Chủ tịch hoặc phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân làm Chủ tịch, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, đại diễn lãnh đạo Ban
tổ chức chính quyền, UBMTTQVN, BCH hội luật gia cấp tỉnh là uỷ viên. Hội đồng có nhiệm vụ
tuyển chọn KSV theo đề nghị của Uỷ ban kiểm sát VKSND cấp tỉnh, sau đó Chủ tịch Hội
đồng đề nghị Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm.
Đối với việc bổ nhiệm Kiểm sát viên VKS quân sự cấp quân khu và khu vực, hội đồng
tuyển chọn gồm: Viện trưởng VKS quân sự Trung ương làm Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ
Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành
trung ương Hội Luật gia Việt nam là uỷ viên. Sau khi tuyển chọn, Viện trưởng VKS quân sự
Trung ương đề nghị Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm.
2.3. Những kết quả đạt được của người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong
Viện kiểm sát nhân dân
2.3.1. Kết quả công tác thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp
2.3.1.1. Kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của ngành kiểm sát trong
năm năm (từ năm 2005 đến năm 2009) toàn ngành đã thực hiện công tác kiểm đối với
399.241 vụ án hình sự với 620.251 bị can. Trong đó, VKS yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự đối với 1.271 vụ, chiếm 0,32%; VKSND các cấp trực tiếp ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự, chuyển hồ sơ sang Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra với 140
vụ.
Tuy nhiên, xem xét số liệu thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra được nêu ở bảng trên chúng ta thấy, tình trạng khởi tố điều tra, truy tố oan sai vẫn còn ở
mức cao dẫn đến việc có nhiều can phải đình chỉ điều tra do không phạm tội. Năm 2005 toàn
ngành đã công khai xin lỗi 26 người, thương lượng bồi thường cho 45 người với tổng số tiền
là 1.104.559.199 đồng; năm 2006, giải quyết 62 đơn, thương lượng bồi thường cho 31 người
với tổng số tiền là 1.095.801.447 đồng.
2.3.1.2. Kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
Trong 5 năm (2005-2009) số người bị VKS truy tố, toà án tuyên không phạm tội còn ở
mức cao, 222 người. Nguyên nhân của tình trạng toà án tuyên bị cáo không phạm tội là do
Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố tại phiên toà không bảo vệ được
quan điểm truy tố, không bảo vệ được cáo trạng đã phát hành.
Những mặt hạn chế trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Kiểm
sát viên được phân công biểu hiện cụ thể ở từng thời điểm giải quyết vụ án như sau:
- Ở thời điểm chuẩn bị xét xử, do thực hiện việc thông khâu từ giai đoạn điều tra, nên
Kiểm sát viên không nghiên cứu kỹ hồ sơ mà chủ quan hồ sơ đã nghiên cứu kỹ từ giai đoạn
điều tra.
- Tại phiên toà, nhiều Kiểm sát viên cho rằng theo quy định tại Điều 207 BLTTHS thì trách
nhiệm chứng minh sự thật khách quan của vụ án tại phiên toà thuộc về Hội đồng xét xử, do đó
Hội đồng xét xử có nhiệm vụ xét hỏi để làm rõ nội dung vụ án và Kiểm sát viên không coi trọng
việc xét hỏi tại phiên toà.
- Thực tiễn cho thấy, điểm yếu của Kiểm sát viên tại phiên toà là chưa chủ động tích cực
đối đáp, tranh luận với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
2.3.2. Các vụ án VKS, Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung
Theo số liệu báo cáo tổng kết ngành kiểm sát nhân dân trong 5 năm, từ năm 2005 đến
năm 2009, tổng số vụ án hình sự mà VKS trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bồ sung là:
14. 985 vụ, cụ thể các năm như sau:
- Năm 2005, VKS trả hồ sơ điều tra bổ sung: 2.994 vụ
- Năm 2006, VKS trả hồ sơ điều tra bổ sung: 3.332 vụ
- Năm 2007, VKS trả hồ sơ điều tra bổ sung: 3.426 vụ
- Năm 2008, VKS trả hồ sơ điều tra bổ sung: 3.042 vụ
- Năm 2009, VKS trả hồ sơ điều tra bổ sung: 2.191 vụ
Trong khi đó tổng số vụ mà Toà án trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung trong năm
năm là: 12.021 vụ, cụ thể như sau:
- Năm 2005, Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung: 2.398 vụ
- Năm 2006, Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung: 3.063 vụ
- Năm 2007, Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung: 3.297 vụ
- Năm 2008, Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung: 2.969 vụ
- Năm 2009, Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung: 2.692 vụ
Nhìn vào số liệu trên ta thấy, số vụ án mà toà án và VKS trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn ở
mức cao, điều đó thể hiện hoạt động kiểm sát của KSV ở giai đoạn kiểm sát điều tra và giai đoạn
VKS xử lý hồ sơ bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót
cần khắc phục trong thời gian tới.
2.3.3. Các vụ án Viện kiểm sát phải đình chỉ
Trong 5 năm qua (từ 01/01/2005 đến 31/12/2009), VKSND cả nước đã đình chỉ tổng số:
2.902 vụ án/ 6.439 bị can. Trong đó, có 250 trường hợp phải đình chỉ điều tra vì không phạm
tội. Cụ thể số liệu của từng năm như sau:
- Năm 2005, tổng số vụ án/bị can VKS đình chỉ: 558 vụ/1.119 bị can, trong đó số bị can
phải đình chỉ điều tra vì không phạm tội là: 51 người.
- Năm 2006, tổng số vụ án/bị can VKS đình chỉ: 495 vụ/1.226 bị can, trong đó số bị can
phải đình chỉ điều tra vì không phạm tội là: 79 người.
- Năm 2007, tổng số vụ án/bị can VKS đình chỉ: 515 vụ/1.190 bị can, trong đó số bị can
phải đình chỉ điều tra vì không phạm tội là: 40 người.
- Năm 2008, tổng số vụ án/bị can VKS đình chỉ: 473 vụ/1.000 bị can, trong đó số bị can
phải đình chỉ điều tra vì không phạm tội là: 43 người.
- Năm 2009, tổng số vụ án/bị can VKS đình chỉ: 861 vụ/1.904 bị can, trong đó số bị can
phải đình chỉ điều tra vì không phạm tội là: 37 người (riêng năm 2009, số vụ án đình chỉ tăng
lên cả số vụ và số người là do có vụ đình chỉ theo Nghị quyết số 33/NQ-QH12 hướng dẫn áp
dụng Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999)
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên
- Quy định của BLTTHS về hệ thống tổ chức của cơ quan tiến hành tố tụng:
Hiên nay, hệ thống Cơ quan điều tra hiện nay bị manh mún, xé lẻ, nằm ở nhiều đầu mối. Vì
vậy, để tương thích, VKS phải hình thành các đơn vị, bộ phận, các nhóm Kiểm sát viên nhằm
thực hiện công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
điều tra, xét xử. Tuy nhiên, thực tế lại nảy sinh các vấn đề bất cập trong việc tập trung chuyên
sâu, tập trung thống nhất, tập trung chỉ đạo, điều hành. Làm giảm sự liên thông gắn kết và hỗ
trợ nhau trong nội bộ ngành kiểm sát và giữa các Kiểm sát viên.
- Quy định BLTTHS về thủ tục tố tụng và hướng dẫn áp dụng pháp luật:
Hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự ở nước ta hiện này còn có nhiều quy định
chống chéo, mẫu thuẫn, chung chung, thiếu rõ ràng và cụ thể, do đó ảnh hưởng đến việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát
viên.
- Về trình độ, năng lực của đội ngũ Kiểm sát viên: trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ và
năng lực công tác của một bộ phận không nhỏ cán bộ Kiểm sát viên còn hạn chế. Bên cạnh
mặt hạn chế do yếu kếm về nhận thức và trình độ, năng lực công tác, một số Kiểm sát viên
còn thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, nên bị mua chuộc, khống
chế dẫn đến tha hoá, biến chất.
- Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng trong VKSND:
Theo quy định của BLTTHS thì mối quan hệ giữa Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát
viên như hiện nay cũng ảnh hưởng hạn chế đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKSND
trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay, Kiểm sát viên không thể làm việc
theo nguyên tắc "độc lập chỉ tuân theo pháp luật" như thẩm phán và hội thẩm nhân dân, điều
này ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ pháp luật của Kiểm sát viên khi được Viện trưởng
phân công thực hiện nhiệm vụ của VKS.
- Về cơ sở vật chất kỹ thuật và chế độ chính sách:
Hiện nay cơ sở vật kỹ thuật của VKSND các cấp vẫn còn hạn chế; chế độ chính sách đối
với cán bộ, Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
đông tư pháp còn hạn chế cũng là nguyên nhân dẫn đến những mặt hạn chế trong công tác thực
hiện nhiệm vụ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Đổi mới về cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát, Kiểm sát viên
Cần đổi mới chức năng công tố của VKS nhằm thực hiện đúng chủ trương cải cách tư
pháp đã được ghi trong các nghị quyết của Đảng đó là "tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn liền với hoạt động điều tra". Cơ quan công
tố gắn liền và chỉ đạo hoạt động điều tra chính là việc thực hiện tốt việc truy tố tội phạm,
tranh tụng có chất lượng tại các phiên toà xét xử vụ án hình sự, tăng cường chống bỏ lọt tội
phạm và hạn chế các trường hợp oan sai.
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Cần sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 2003 theo nội dung chiến lược cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta được nêu tại Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị,
trong đó tập trong vào những nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện đổi mới hệ thống Cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối. Cơ
quan điều tra cấp Bộ chỉ trực tiếp điều tra những loại án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên
quan đến các quan chức cao cấp nhiều bộ ngành, liên quan đến nhiều địa phương.
Thứ hai, sửa đổi BLTTHS về nội dung đổi mới chức năng công tố của VKS nêu trên để
bảo đảm VKS trực tiếp ra các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, trực tiếp điều tra bất
kỳ vụ án nào khi thấy cần thiết.
Thứ ba, sửa đổi các quy định về biện pháp ngăn chặn theo hướng xác định rõ những căn
cứ để áp dụng biện pháp tạm giam phải coi trọng các yếu tố về nhân thân người phạm tội,
chính sách hình sự và yêu cầu của hoạt động điều tra truy tố, xét xử.
Thứ tư, hoàn thiện BLTTHS theo hướng phân biệt nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức hành
chính về tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng; tăng quyền hạn cho Kiểm sát viên trong
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Thứ năm, hoàn thiện các quy định về thủ tục tố tụng hình sự nhằm tăng cường vai trò tiến
hành tố tụng của Kiểm sát viên, nhất là quyền hạn ra các quyết định tố tụng giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án; tăng cường chức năng buộc tội trong thủ tục xét xử.
3.3. Nâng cao trình độ, năng lực của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên
Viện kiểm sát làm tốt vai trò của mình trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Trước hết, cần đẩy mạnh hơn nữa việc tổ chức cán bộ của ngành đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp.
Thứ hai, chú trọng việc giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, nâng
cao trình độ về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên.
3.4. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hợp của các
ngành liên quan trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương cần bám sát và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách
tư pháp; xây dựng tổ chức đảng, quán triệt, đổi mới phương thức lãnh đạo Đảng đối với công tác
tư pháp, huy động sự tham gia, gáim sát của cơ quan dân cử, các tổ chức, đoàn thể và nhân dân
đối với công tác tư pháp.
3.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và chế độ chính sách đối với
Kiểm sát viên
Trong những năm tới, ngành kiểm sát cần tăng cường chính sách lương và phụ cấp đối
với Kiểm sát viên tương ứng với trách nhiệm cả họ trong thực hiện nhiệm vụ; đầu tư xây
dựng trụ sở làm việc, trang bị phương tiện và các loại máy móc thiết bị, kinh phí nghiệp vụ,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiệp vụ, cũng như việc xử lý tội phạm công nghệ
cao, làm tròn nhiệm vụ của ngành mà Đảng và Nhà nước giao, đáp ứng được yêu cầu cải
cách tư pháp trong tình hình hiện nay.
KẾT LUẬN
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo. Trong những năm
qua, Ban Chấp hành trung ương, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một số nghị quyết, chỉ
thị về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật, trong đó nhấn mạnh đén nội dung đổi mới tổ chức
và hoạt động của cơ quan tư pháp như Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII; Nghị quyết Trung ương 3
khoá VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; và
đặc biệt ngày 02 tháng 6 năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về "Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Vấn đề cải cách hệ thống các cơ quan tư phải từ tổ chức đến cơ
chế hoạt động trong được tiến hành đồng thời các giải pháp về thể chế cũng như thiết chế.
Trong nhiệm vụ cải cách tư pháp thì vấn đề cải cách hệ thống VKSND đã tập trung cải cách
các quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức hoạt động của người tiến hành tố
tụng trong VKSND là nội dung rất quan trọng và đang được quan tâm nghiên cứu ở các khía
cạnh và mức độ khác nhau. Để thực hiện tốt công tác này, đòi hỏi phải có sự tìm tòi, nghiên
cứu thấu đáo khẩn trương cả về lý luận và thực tiễn.
Theo chiến lược cải cách tư pháp của Đảng ta thì trong tương lai, hệ thống VKSND sẽ được
nghiên cứu để chuyển thành hệ thống Viện công tố và đi đôi với nó là việc tăng cường trách
nhiệm của công tố viên trong hoạt dộng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Việc
chuyển đổi này không đơn thuẩn chỉ là thay đổi tên gọi mà phải chuyển đổi cả về chất đối với
hoạt động công tố đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. Để làm tốt nội dung này của chiến
lược, thì không thể giữ nguyên các quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND như hiện nay, mà phải thay đổi theo
hướng tăng cường quyền quyền hạn, nhiệm vụ và tránh nhiệm của đội ngũ này làm cho hoạt
động của họ độc lập hơn, hiệu quả hơn, chức năng công tố rõ ràng và mạnh mẽ hơn.
Đề tài mà luận văn này đề cập không tránh khỏi những nội dung còn mang tính phiến diện, vì
được triển khai trong một khía cạnh hẹp so với sự rộng lớn của nội dung và yêu cầu chiến lược
cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực thực hiện. Tuy vậy, với mong muốn góp
một phần thật khiêm tốn vào yêu cầu của việc nghiên cứu, cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn, nên học viên đã mạnh dạn chọn và xin đề cập đề tài như đã nêu ở trên.
References
1. Lang Văn Bảo (2005), Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong khởi tố
điều tra vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luận văn thạc sĩ Luật
học.
2. Lê Cảm (2004), "Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định nguyên tắc của luật tố tụng
hình sự", Kiểm sát, (5).
3. Lê Văn Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Đào Hữu Dân (2006), Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát Luận án tiến
sĩ Luật học.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách đến năm 2020, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Trần Văn Độ (2003), "Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư
pháp ở nước ta hiện nay", Kỷ yếu đề tài cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hà Nội.
10. Trần Mạnh Đông (2009), Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng
hình sự một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật
Học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Đỗ Văn Đương (2007), "Tiếp tục sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách
tư pháp", Kiểm sát, (1).
12. Giáo trình Triết học Mác - Lênin (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Phạm Hồng Hải (2004), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội
14. Trần Công Hòa (2004), Kiểm sát hoạt động tư pháp trong gia đoạn khởi tố - điều tra vụ
án hình sự của Viện kiểm sát, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
15. Vương Thị Thanh Hương (2010), Chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học.
16. Nguyễn Duy Lãm (Chủ biên) (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
17. Hoàng Phê (Chủ biên) (2002), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học.
18. Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học (tái bản lần thứ mười hai).
19. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
21. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
22. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
23. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
24. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
25. Nguyễn Tiến Sơn (1996), Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, Luận
văn thạc sĩ Luật học.
26. Lê Hưu Thê (2008), Thưc hanh quyên công tô va kiêm sat cac hoat đông tư phap trong
giai đoan điêu tra, Nxb Tư phap, Hà Nội.
27. Tßa ¸n nh©n d©n tèi cao (1975), HÖ thèng hãa luËt lÖ vÒ h×nh sù, Hµ Néi
28. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Hệ thống những văn bản pháp luật về hình sự, tố tụng
hình sự, Tập I, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân tối cao (1992), Hệ thống những văn bản pháp luật về hình sự, tố tụng
hình sự, Tập II, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Hệ thống những văn bản pháp luật về hình sự, tố tụng
hình sự, Tập III, Hà Nội.
31. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề chung), Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
32. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV
đến thế kỷ XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân,
Hà Nội.
36. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3 vê
bôi thương thiêt hai cho ngươi bi oan do ngươi co thâm quyên trong hoat đông tô tung
hình sư gây ra, Hà Nội.
37. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự , Hà Nội.
38. Nguyễn Tất Viễn (2003), "Hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp", Kỷ yếu đề
tài cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, Hà Nội.
39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Tài liệu tập huấn Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Hà Nội.
40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự, Tập I, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
41. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết ngành năm 2005, Hà Nội.
42. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Quy chế Kiểm sát điều tra, Quy chế Kiểm sát xét
xử và Quy chế Kiểm sát thi hành án, Hà Nội.
43. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết ngành năm 2006, Hà Nội.
44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết ngành năm 2007, Hà Nội.
45. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết ngành năm 2008, Hà Nội.
46. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết ngành năm 2009, Hà Nội.
47. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Nguyên Hông Vinh (2007) Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm sát nhân
dân, Nxb Tư phap, Hà Nội.