nghiên cứu sự tham gia của một số tổ chức xã hội dân sự trong lĩnh
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------------------
Lê Quốc Hùng
NGHIÊN CỨU SỰ THAM GIA CỦA MỘT SỐ TỔ CHỨC XÃ
HỘI DÂN SỰ TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Lê Quốc Hùng
NGHIÊN CỨU SỰ THAM GIA CỦA MỘT SỐ TỔ CHỨC XÃ
HỘI DÂN SỰ TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Mã số: 60440301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Thị Hoàng Liên
Hà Nội - 2015
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào trước đây.
Học viên
Lê Quốc Hùng
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các tập thể, cá nhân trong và
ngoài trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Hoàng Liên, giảng viên
Khoa Môi trường – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
đã trực tiếp giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Bộ môn Quản lý môi
trường - Khoa Môi trường - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia
Hà Nội đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi và đóng góp ý kiến giúp cho luận văn tốt
nghiệp của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân và bạn
bè đã quan tâm, chia sẻ khó khăn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Học viên
Lê Quốc Hùng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................
LỜI CẢM ƠN ..............................................................................................................
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ...................................................... 2
3. Mục tiêu của đề tài ............................................................................................. 5
4. Ý nghĩa của đề tài .............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................. 6
1.1. Tổng quan về các tổ chức xã hội dân sự ....................................................... 6
1.1.1. Khái niệm về xã hội dân sự ........................................................................ 6
1.1.2. Khái niệm về tổ chức xã hội dân sự ........................................................... 8
1.1.3. Đặc trưng của các tổ chức xã hội dân sự .................................................... 9
1.1.4. Các loại hình tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay ....................... 11
1.2. Sự hình thành và phát triển của các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh
vực BVMT ở Việt Nam và một số nước trên thế giới ....................................... 14
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh
vực BVMT ở Việt Nam ...................................................................................... 14
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh
vực BVMT ở một số nước trên thế giới ............................................................. 19
- Tại Trung Quốc ........................................................................................... 19
- Tại Mỹ ......................................................................................................... 20
1.3. Rà soát quy định về sự tham gia của các tổ chức XHDS trong văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành ở Việt Nam ...................................................... 21
1.3.1. Cơ sở pháp lý cho các tổ chức XHDS ...................................................... 21
1.3.2. Quy định về sự tham gia của các tổ chức XHDS trong lĩnh vực BVMT. 22
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
................................................................................................................................... 28
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 28
2.2. Nội dung nghiên cứu ..................................................................................... 28
iv
2.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 29
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 31
3.1. Đánh giá thực trạng tham gia của một số tổ chức XHDS trong lĩnh vực
BVMT ở Việt Nam hiện nay ............................................................................... 31
3.1.1. Giới thiệu về các tổ chức ENV, CPSE, VUSTA...................................... 31
3.1.2. Sự tham gia của ENV, CPSE, VUSTA trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam
hiện nay .............................................................................................................. 37
3.1.2.1. Phát hiện, tố giác vi phạm về BVMT .................................................. 41
3.1.2.2. Kiểm tra, giám sát môi trường ............................................................. 43
3.1.2.3. Phản biện xã hội về môi trường ........................................................... 48
3.1.2.4. Tư vấn, vận động chính sách về môi trường ....................................... 51
3.1.2.4. Giáo dục - đào tạo, phổ biến, tuyên truyền về BVMT ........................ 54
3.2. Những thuận lợi và khó khăn của các tổ chức VUSTA, CPSE, ENV khi
hoạt động trong lĩnh vực BVMT tại Việt Nam ................................................. 59
3.3. Đề xuất những giải pháp phát huy vai trò của các tổ chức VUSTA, CPSE
và ENV trong lĩnh vực BVMT. ........................................................................... 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 72
PHỤ LỤC 1. NHỮNG VĂN BẢN PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
TỔ CHỨC XHDS TẠI VIỆT NAM ...................................................................... 76
PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ TỔ CHỨC XHDS HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ....................................................................................... 79
PHỤ LỤC 3. BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU MỘT SỐ CÁN BỘ CỦA CPSE,
ENV, VUSTA………………………………………………………………….….86
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Các tổ chức xã hội dân sự chính ở Việt Nam ........................................... 12
Bảng 1.2. Năm thành lập của một số tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường giai đoạn 1980-2010 ............................................................................... 17
Bảng 2.1. Danh sách một số cán bộ của ENV, CPSE, VUSTA được phỏng vấn .... 29
Bảng 3.1. Trình độ chuyên môn của cán bộ trung tâm CPSE .................................. 33
Bảng 3.2. Một số dự án của CPSE về BVMT và liên quan đến BVMT ................... 34
Bảng 3.3. Các hoạt động chính của tổ chức XHDS trong lĩnh vực BVMT .............. 37
Bảng 3.4. Hoạt động chính của các tổ chức ENV, CPSE, VUSTA .......................... 40
Bảng 3.5. Số vụ vi phạm về bảo vệ ĐVHD qua một số năm do ENV tiếp nhận và
lưu trữ hồ sơ .............................................................................................................. 43
Bảng 3.6. Hoạt động kiểm tra, giám sát môi trường của ENV, CPSE, VUSTA ...... 45
Bảng 3.7. Hoạt động tư vấn, vận động chính sách môi trường của ENV, CPSE,
VUSTA...................................................................................................................... 52
Bảng 3.8. Những thuận lợi và khó khăn của các tổ chức ENV, CPSE, VUSTA khi
hoạt động trong lĩnh vực BVMT ............................................................................... 59
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Ranh giới mờ của Xã hội dân sự ................................................................. 8
Hình 1.2. Tam giác thể chế cho sự phát triển bền vững.............................................. 8
Hình 1.3. Mức độ tham gia của cộng đồng trong các dự án phát triển ..................... 25
Hình 3.1. Cơ cấu tổ chức của ENV ........................................................................... 31
Hình 3.2. Cơ cấu tổ chức của CPSE ......................................................................... 32
Hình 3.3. Cơ cấu tổ chức của VUSTA ...................................................................... 36
Hình 3.4. Mô hình hoạt động của mạng lưới tình nguyện viên ENV ....................... 42
Hình 3.5. Mô hình hoạt động giáo dục, truyền thông về BVMT của các tổ chức
XHDS ........................................................................................................................ 55
Hình 3.6. Hoạt động đào tạo, lồng ghép các kiến thức địa phương vào dự án BVMT
của CPSE ................................................................................................................... 57
vi
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng Phát triển châu Á
BĐKH Biến đổi khí hậu
BVMT Bảo vệ môi trường
CBO Tổ chức Cơ sở Cộng đồng
CPSE Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Dân số, Xã hội và Môi trường
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
ĐMC Đánh giá môi trường chiến lược
ĐVHD Động vật hoang dã
ENV Trung tâm Giáo dục thiên nhiên
NGO Tổ chức phi chính phủ
VGCL Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
VUFO Liên hiệp Các tổ chức Hữu nghị Việt Nam
VUSTA Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
XHDS Xã hội dân sự
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trên thế giới, hiện nay các tổ chức xã hội dân sự (XHDS) đang ngày càng có
nhiều đóng góp quan trọng vào nỗ lực phát triển bền vững của nhiều quốc gia, đồng
thời giải quyết các vấn đề xã hội mà Nhà nước “không với tới” hoặc hoạt động kém
hiệu quả trong đời sống của cộng đồng dân cư. Ở Việt Nam, tổ chức XHDS bao
gồm những loại hình và tên gọi khác nhau như: hiệp hội, hội, câu lạc bộ, quỹ, trung
tâm, viện, NGOs, uỷ ban, nhóm tình nguyện,... Đây là những tổ chức tự nguyện, tự
quản, dân chủ, công khai của người dân, không vì mục tiêu lợi nhuận, độc lập tương
đối với Nhà nước và thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu và lợi ích nhất định của cá
nhân hoặc cộng đồng.
Sự hình thành và phát triển của các tổ chức XHDS là một tất yếu khách quan
gắn liền với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mỗi tổ
chức XHDS, tuỳ theo mục đích và điều kiện hoạt động cụ thể đều trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở một hoặc một số
lĩnh vực khác nhau, trong khuôn khổ của Hiến pháp và Pháp luật.
Trong thời gian gần đây, rất nhiều tổ chức XHDS đã hình thành và hoạt động
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT) ở Việt Nam. Họ đã chung sức cùng với
Nhà nước tham gia quá trình giám sát, BVMT. Tuy nhiên, do chưa có một khung
pháp lý đồng bộ và một cơ chế thực thi hiệu quả nên sự tham gia của các tổ chức
XHDS trong công tác BVMT còn nhiều hạn chế. Vì vậy, các tổ chức XHDS ở Việt
Nam hoạt động trong lĩnh vực BVMT chưa thực sự tạo ra được sức mạnh góp phần
hỗ trợ Chính phủ quản lý, bảo vệ, giám sát môi trường; đặc biệt là chưa mang lại
nhiều tác động hiệu quả từ hoạt động vận động chính sách, tư vấn, phản biện xã hội
đối với những chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở cấp trung ương và địa phương
có tác động đến môi trường. Trong khi đó, nhiều vụ vi phạm pháp luật về môi
trường diễn ra hàng ngày và thường xuyên, với cấp độ ngày càng nghiêm trọng hơn.
2
Luật Bảo vệ Môi trường được Quốc hội thông qua ngày 23/6/2014 đã có
bước tiến lớn khi dành riêng Chương 15 quy định về trách nhiệm và quyền hạn của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp và cộng đồng dân cư trong công tác BVMT. Nghị định số 19/2015/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường dành riêng
Chương 8 quy định về cộng đồng dân cư tham gia BVMT, và Nghị định
18/2015/NĐ-CP quy định các nội dung về tham vấn cộng đồng trong việc lập quy
hoạch, kế hoạch, chiến lược bảo vệ môi trường, đánh giá tác động môi trường.
Những văn bản pháp luật này mở ra cơ hội để sự tham gia của cộng đồng và các tổ
chức XHDS trong lĩnh vực BVMT được cụ thể hóa bằng hành lang pháp lý.
Hiện nay, một trong những khó khăn của các tổ chức XHDS trong việc bảo
vệ, giám sát môi trường đó là nhận thức của chính quyền, ban, ngành địa phương,
thậm chí của xã hội nói chung, về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của các tổ chức XHDS
còn chưa đầy đủ. Vì chưa có luật về tiếp cận thông tin nên các tổ chức XHDS
không dễ dàng tiếp cận thông tin cần thiết cho hoạt động giám sát, BVMT. Thêm
vào đó, sự liên kết và mối quan hệ tương tác giữa các tổ chức XHDS trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường còn rời rạc, thiếu hệ thống và thiếu cơ chế điều phối, hợp tác nên
hiệu quả thu được còn hạn chế.
Trong bối cảnh trên, việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sự tham gia của
một số tổ chức xã hội dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam”
có ý nghĩa rất cấp thiết, không chỉ cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, mà còn góp
phần đổi mới nhận thức về sự tham gia của các tổ chức XHDS trong lĩnh vực
BVMT.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về khái niệm, bản chất, đặc điểm và
chức năng của tổ chức XHDS. Các tổ chức này có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với quá trình quản lý, phát triển xã hội nói chung và lĩnh vực BVMT nói riêng.
3
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu nước ngoài có những cách tiếp cận và quan điểm lý
luận khác nhau do bối cảnh mối quan hệ Nhà nước - Thị trường - Xã hội khác nhau.
Nghiên cứu “Vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong vấn đề bảo vệ môi
trường” của Anjali Agarwal đã chỉ ra vai trò quan trọng của các tổ chức XHDS đối
với việc giải quyết những vấn đề xã hội mà nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Các
tổ chức phi chính phủ đã và đang có những hoạt động nhằm nâng cao nhận thức
BVMT cho cộng đồng, về sự phát triển bền vững, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và
phục hồi hệ sinh thái; tổ chức các khóa đào tạo BVMT; tiến hành nghiên cứu về
môi trường và những vấn đề liên quan đến phát triển [24].
Nghiên cứu “Tăng cường vai trò của các tổ chức XHDS để bảo vệ môi
trường và thúc đẩy phát triển bền vững” của LI Lei cho thấy, các tổ chức XHDS hỗ
trợ nhà nước đạt được những mục tiêu môi trường quốc gia, thúc đẩy hoạt động
giám sát và BVMT của người dân, tham gia BVMT toàn cầu thông qua thông qua
hợp tác với các tổ chức XHDS, chính phủ và tổ chức quốc tế khác [28].
Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của các Chương trình khoa học cấp Nhà
nước KX.04 (2001-2005) do GS. VS. Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm [17] và
KX.10.06 (2004-2006) do PGS. TS.Trần Đình Hoan chủ nhiệm [5] đã bước đầu xác
định khái niệm XHDS và cho rằng XHDS không phải là một thực thể do ý định chủ
quan tạo lập ra, mà là sản phẩm của quá trình lịch sử - tự nhiên, chịu sự chi phối, tác
động của những nhân tố khách quan và chủ quan nhất định, nhằm mục đích đáp ứng
những nhu cầu của sự phát triển xã hội. Theo đó, XHDS ở Việt Nam là kết quả tất
yếu của quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, là một điều kiện đảm bảo cần thiết
để củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển dân chủ.
Công trình “Vai trò các tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN - Cơ sở lý luận và thực tiễn” do TS. Khang Văn Phúc
chủ biên đã phân tích nội hàm khái niệm XHDS, đề cập đến chức năng của các tổ
chức XHDS như: cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân
4
đến với Nhà nước; tham gia việc hoạch định các chủ trương, chính sách của Nhà
nước, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý; thực hiện giám sát, phản
biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước; phát huy nguồn lực và
tính năng động, sáng tạo của các tầng lớp dân cư, tham gia hoạt động cung cấp dịch
vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, bảo vệ môi trường [20].
Bài báo “Vai trò và hoạt động của các tổ chức xã hội trong việc giám sát, bảo
vệ môi trường” đăng tải trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp của TS. Hoàng Văn Nghĩa
đã trình bày những nhận thức chung về tổ chức XHDS, đồng thời chỉ ra rằng việc
bảo vệ và giám sát việc thực thi pháp luật BVMT không chỉ thuộc trách nhiệm của
các cấp chính quyền, mà còn là quyền và nghĩa vụ của mọi công dân và của toàn xã
hội, trong đó có các tổ chức XHDS. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và pháp lý của
các tổ chức XHDS trong việc bảo vệ, giám sát môi trường ở Việt Nam [11].
Nghiên cứu “Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển bền
vững” của Vũ Thị Hiền thuộc Trung tâm Nghiên cứu & Phát triển Vùng cao
(CERDA) đã bước đầu phân tích những đóng góp của các tổ chức XHDS trong quá
trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Hoạt động của các tổ chức XHDS tại Việt
Nam được đánh giá là có nhiều đóng góp tích cực trong việc liên kết và động viên
các thành viên trong xã hội thực hiện có hiệu quả một số lĩnh vực quan trọng, trong
đó có vấn đề bảo vệ môi trường [7].
Cuốn “Tài liệu đào tạo tập huấn viên về biến đổi khí hậu” được biên soạn
theo kế hoạch thực hiện Dự án “Xây dựng năng lực về biến đổi khí hậu cho các tổ
chức XHDS” do Đại sứ quán Phần Lan tài trợ cho Nhóm làm việc về Biến đổi khí
hậu (CCWWG), Mạng lưới các Tổ chức phi chính phủ Việt Nam và Biến đổi khí
hậu (VNGO&CC) do Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD) điều phối
theo sự ủy quyền của hai mạng lưới. Tài liệu này góp phần nâng cao nhận thức và
năng lực cho các tổ chức XHDS trong việc giảm thiểu, thích ứng với biến đổi khí
hậu và lồng ghép nhiệm vụ này vào những chương trình liên quan hiện có hoặc
5
trong tương lai, nhằm đóng góp vào sự phát triển bền vững lâu dài của Việt Nam
[6].
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên
cứu một cách có hệ thống và toàn diện vấn đề sự tham gia của các tổ chức XHDS
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
3. Mục tiêu của đề tài
- Mục tiêu tổng quát
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của các tổ chức XHDS trong
lĩnh vực BVMT, đồng thời đề xuất một số giải pháp cụ thể cho việc tăng cường sự
tham gia của các tổ chức XHDS trong hoạt động BVMT ở Việt Nam hiện nay.
- Mục tiêu cụ thể
+ Làm sáng tỏ vai trò, chức năng của các tổ chức XHDS trong lĩnh vực BVMT;
+ Đánh giá hiện trạng tham gia của một số tổ chức XHDS trong lĩnh vực BVMT ở
Việt Nam hiện nay;
+ Đề xuất giải pháp tăng cường vai trò và sự tham gia của các tổ chức XHDS trong
lĩnh vực BVMT ở Việt Nam.
4. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của các tổ chức
XHDS đối với việc giám sát, BVMT trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kết quả nghiên cứu của đề tài
cung cấp luận cứ phục vụ xây dựng, hoàn thiện chính sách, thể chế quản lý các tổ
chức XHDS, qua đó phát huy vai trò của những tổ chức này trong lĩnh vực BVMT,
góp phần phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về các tổ chức xã hội dân sự
1.1.1. Khái niệm về xã hội dân sự
"Xã hội dân sự" (civil society) là khái niệm xuất hiện khá sớm ở Châu Âu từ
thế kỷ XVII và sớm nhất ở nước Anh (1594), nó được hiểu là những con người
sống trong cộng đồng. Trong lý thuyết của nhà triết học Scottish (thế kỷ XVIII),
XHDS có nghĩa là xã hội văn minh với một nhà nước không độc đoán. Đến thế kỷ
XIX, Heghen mô tả XHDS như là một phần của đời sống đạo đức, bao gồm ba yếu
tố: gia đình, XHDS và nhà nước, trong đó các cá nhân theo đuổi những lợi ích riêng
trong giới hạn đã được pháp luật thừa nhận. Nhà triết học này nhấn mạnh rằng, một
XHDS tự tổ chức cần phải do nhà nước cân nhắc và đặt trật tự cho nó, nếu không xã
hội đó sẽ trở thành tư lợi và không đóng góp gì cho lợi ích chung [4].
K. Marx đã bàn nhiều về XHDS trong các tác phẩm đầu tay về Hệ tư tưởng
Ðức và vấn đề Do Thái. Cũng như Hegel, ông xem XHDS là một hiện tượng lịch
sử, là kết quả của sự phát triển lịch sử mà không phải là “vật ban tặng” của tự nhiên
và XHDS có tính chất tạm thời [4].
Mặc dù các khái niệm về XHDS có lịch sử phát triển khá lâu dài và phong
phú, tuy nhiên chỉ vào khoảng hai thập kỷ gần đây (sau khi Chiến tranh Lạnh kế
thúc năm 1990, nó mới trở thành trọng tâm được chú ý tại các diễn đàn công luận
quốc tế [21].
Trong xã hội hiện đại, do bối cảnh lịch sử và các mối quan hệ nhà nước - xã
hội khác nhau, có những cách tiếp cận và quan điểm lý luận khác nhau về XHDS.
Theo TS. Irenne Norlund, có ba cách tiếp cận đối với XHDS là: Thuyết tân tự do
cho rằng XHDS tồn tại một cách độc lập, thuộc “khu vực thứ ba”, “khu vực tự
nguyện”, ở đó các công dân tự tổ chức thành nhóm và giải quyết các vấn đề phát
sinh thông qua đối thoại “dân sự” và biện pháp phi bao lực. Vai trò của các tổ chức
này là kiểm soát và làm cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Theo
mô hình Xã hội tốt lành (Good Society), XHDS là một bộ phận cấu thành xã hội,
7
không hoàn toàn tách biệt với nhà nước, thị trường và gia đình mà nằm ở khu vực
giao nhau của ba bộ phận này; ranh giới của nó cũng không rạch ròi, luôn có sự
tương tác giữa nhà nước, thị trường và các tổ chức XHDS nhằm đem lại sự đồng
thuận tốt lành cho mọi người. Mô hình Hậu hiện đại (Postmodern) xem XHDS
thuộc khu vực thứ ba và đề cao vai trò chia sẻ, thông cảm và liên kết, hợp tác giữa
các bên tham gia đối thoại, thảo luận [20].
Marlies Glasius, David Lewis và Hakan Seckinelgin định nghĩa rằng, XHDS
được lập nên bởi cộng đồng dựa trên cơ sở tự nguyện, nằm ngoài phạm vi nhà
nước; tổ chức và hoạt động của các tổ chức XHDS phụ thuộc vào chế độ chính trị,
cấu trúc của hệ thống quyền lực chính trị của quốc gia và các yếu tố văn hoá, dân
tộc [29].
Theo Gerassimos Fourlanos, XHDS được hiểu là tổng thể các tổ chức, thiết
chế xã hội tự nguyện, không phụ thuộc vào hình thức pháp lý, cùng tự nguyện tham
gia vào các hoạt động vì những giá trị, mục tiêu, lợi ích chung [20].
Theo Liên minh Thế giới vì Sự tham gia của Công dân (CIVICUS), XHDS
là diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con người bắt tay
nhau để thúc đẩy quyền lợi chung. Theo đó, muốn cải thiện tính hiệu quả của Nhà
nước, cần phải dựa vào sức mạnh tương đối của thị trường và XHDS. Các tổ chức
XHDS có thể vừa là cộng sự vừa là đối thủ cạnh tranh trong việc cung ứng các dịch
vụ công cộng; các tổ chức này có thể gây áp lực có ích đối với chính quyền để cải
thiện việc cung cấp và chất lượng các dịch vụ công cộng.
Ranh giới giữa XHDS, Nhà nước, Thị trường và Gia đình là mờ nhạt (Hình
1.1). Đây là một phần quan trọng của định nghĩa. Trong một số định nghĩa khác,
XHDS được cảm nhận một cách chặt chẽ hơn, đó là các hoạt động “bên ngoài Nhà
nước”. Ở Việt Nam, các nước châu Á khác và ở hầu hết các nước châu Âu, không
thể tách hẳn Nhà nước ra khỏi XHDS ngay cả trong trường hợp có những điểm
chồng chéo, trùng lặp giữa hiệp hội này với hiệp hội khác [13].
8
Hình 1.1. Ranh giới mờ của Xã hội dân sự
Một xã hội muốn đạt mục tiêu phát triển bền vững phải được điều hành trong
một hệ thống thể chế gồm ba “đỉnh” gắn kết chặt chẽ với nhau (Hình 1.2), đó là: thể
chế Nhà nước; thể chế Thị trường; và thể chế XHDS. Trong đó: Thể chế nhà nước
tập trung vào cải tiến chính sách; Thể chế thị trường/doanh nghiệp tập trung vào
công nghệ và các giải pháp kinh tế; và Thể chế XHDS tập trung vào huy động sự
gắn kết của cộng đồng, phát huy sự tham gia của các tổ chức xã hội trong công cuộc
phát triển bền vững.
Hình 1.2. Tam giác thể chế cho sự phát triển bền vững
1.1.2. Khái niệm về tổ chức xã hội dân sự
- Theo định nghĩa của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)
Thể chế
Nhà
nước
Thể chế
thị
trường
Thể chế
xã hội
dân sự
Phát triển
bền vững
9
Tổ chức xã hội dân sự (CSO) là tổ chức của những người hoạt động phi nhà
nước không nhằm mục tiêu lợi nhuận cũng như tìm kiếm quyền lực quản lý. Các tổ
chức XHDS đoàn kết mọi người nhằm thúc đẩy các mục tiêu và lợi ích chung. Các
tổ chức này hiện diện trong đời sống công cộng, đại diện thể hiện lợi ích và giá trị
của các thành viên trong tổ chức hoặc của những người khác, và thành lập dựa trên
cơ sở đạo đức, văn hóa, tôn giáo hoặc từ thiện.
Tổ chức XHDS bao gồm các tổ chức phi chính phủ (NGO), hiệp hội nghề
nghiệp, quỹ, viện nghiên cứu độc lập, tổ chức cộng đồng (CBOs), tổ chức tín
ngưỡng, tổ chức nhân dân, phong trào xã hội và công đoàn [10].
1.1.3. Đặc trưng của các tổ chức xã hội dân sự
Các tổ chức xã hội dân sự trên thế giới nói chung có 5 đặc trưng cơ bản sau:
- Là tổ chức “phi nhà nước”, không phải là đảng chính trị, bao gồm các quan hệ và
tổ chức không mang dấu hiệu quyền lực công.
- Là liên kết xã hội hoàn toàn mang tính tự nguyện của các thành viên (công dân).
- Hoạt động không nhằm mục tiêu lợi nhuận (phi lợi ích kinh tế), theo đuổi mục tiêu
phúc lợi cộng đồng và dịch vụ xã hội, trong đó chứa đựng lợi ích của từng người.
- Được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự quản (bao gồm tự quản lý, điều
hành, độc lập về tài chính, không lệ thuộc vào ngân sách của chính phủ hay bất cứ
đảng phái chính trị nào,...).
- Đa dạng về cách thức và hình thức tổ chức, phong phú về nhu cầu và lợi ích, mục
tiêu cụ thể; quan hệ với các cơ quan, tổ chức khác theo chiều ngang, không mang
tính hệ thống theo chiều dọc.
Sự khác nhau trong việc xác định và cách hiểu về tổ chức XHDS ở mỗi quốc
gia đôi khi phụ thuộc vào mức độ biểu hiện của những đặc trưng trên. Chẳng hạn ở
những quốc gia phát triển có truyền thống dân chủ lâu đời như Bắc Âu, một số nước
Tây Âu và Bắc Mỹ, đặc trưng về tính độc lập luôn được tôn trọng, bảo đảm thực thi
10
hiệu quả. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia đang phát triển, đặc trưng này còn tương đối
hạn chế [20].
Trên thực tế, do lịch sử hình thành và phát triển nên nhiều tổ chức XHDS ở
Việt Nam khó đạt được đầy đủ cả 5 tiêu chí này. Ngoài đặc tính chung của tổ chức
XHDS trên thế giới, nhiều tổ chức XHDS ở Việt Nam còn có những đặc điểm riêng
đó là:
- Phần lớn tổ chức XHDS ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm
quyền và tích cực phối hợp hoạt động với Nhà nước.
Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhiều tổ chức được Đảng
Cộng sản vận động, giúp đỡ thành lập và trở thành những tổ chức quần chúng của
Đảng. Ngày nay, khi Đảng trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, xã hội và là
đảng cầm quyền, các tổ chức XHDS ở Việt Nam hoạt động theo đường lối chính trị
do Đảng Cộng sản đề ra, chịu sự lãnh đạo của Đảng và gắn bó mật thiết với Nhà
nước. Nhiều tổ chức được Nhà nước hỗ trợ về ngân sách, cơ sở vật chất. Vì vậy, tuy
các tổ chức XHDS ra đời nhằm thực hiện yêu cầu lợi ích của các thành viên, hội
viên, song ở Việt Nam những yêu cầu lợi ích đó chỉ có thể được thực hiện khi
chúng được phản ánh trong đường lối chính trị của Đảng, chính sách của Nhà nước,
tức là có sự thống nhất cao giữa lợi ích của Đảng, Nhà nước và lợi ích của các thành
viên, hội viên trong tổ chức. Người dân tự nguyện tham gia tổ chức XHDS vì họ
thừa nhận tôn chỉ, mục đích của tổ chức đó, cũng đồng thời thừa nhận mục tiêu
chính trị của Đảng lãnh đạo.
- Phần lớn các tổ chức XHDS ở Việt Nam đều tham gia Mặt trận tổ quốc Việt Nam,
một liên minh chính trị - xã hội rộng lớn có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cấp
cơ sở, hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, thống nhất và phối hợp hành
động.
- Một số tổ chức XHDS được Nhà nước hỗ trợ gần như hoàn toàn kinh phí hoạt
động, trụ sở làm việc, biên chế cán bộ chuyên trách.
11
Những đặc điểm mang tính lịch sử nói trên của các tổ chức XHDS ở Việt
Nam, một mặt tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, đồng thuận xã hội,
góp phần tạo nên những thắng lợi trong kháng chiến giải phóng dân tộc và là động
lực phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong những bối cảnh nhất định, các đặc điểm
này làm phát sinh một số vấn đề sau:
- Tính độc lập của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam chưa cao.
Chính do đặc điểm ra đời như đã nêu trên, các tổ chức XHDS ở Việt Nam
còn thiếu chủ động, lúng túng trong tìm kiếm các nội dung và phương thức hoạt
động, còn chưa chú ý đúng mức các hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của hội viên, còn xem nhẹ chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với các chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy tầm ảnh hưởng của
các tổ chức XHDS trong cộng đồng, giới, nhóm hoặc nghề nghiệp chuyên môn của
mình còn hạn hẹp.
- Tính hành chính hóa trong mô hình tổ chức và hoạt động thể hiện khá rõ và chậm
được khắc phục. Tổ chức hệ thống các cấp và tổ chức bộ máy lãnh đạo, điều hành
rập khuôn theo tổ chức hành chính nhà nước; nội dung hoạt động thường trông chờ
vào chỉ đạo, giao việc của các cơ quan nhà nước, hoặc chỉ thị của cấp trên, thiếu
năng động, sáng tạo; kinh phí hoạt động dựa nhiều vào sự hỗ trợ kinh phí từ phía
nhà nước; đội ngũ cán bộ chủ chốt của các tổ chức XHDS thường là các cán bộ,
công chức nhà nước nghỉ hưu trong cơ quan đảng, nhà nước. Do đó trong phong
cách hoạt động chưa chú trọng sử dụng phương thức vận động, thuyết phục hội viên
là phương thức hoạt động chủ yếu phổ biến của các tổ chức XHDS [20].
1.1.4. Các loại hình tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, các tổ chức XHDS ở Việt Nam rất phong phú, đa dạng. Chúng
khác nhau về quy mô, cơ cấu tổ chức và được gọi với nhiều tên khác nhau như Liên
hiệp hội, Hiệp hội, Câu lạc bộ, Quỹ, Viện, Trung tâm, Ủy ban và cả Nhóm tình
nguyện [20].
12
Mặc dù tổ chức XHDS mới thu hút được sự quan tâm của xã hội trong những
năm gần đây, nhưng đã có minh chứng cho rằng các tổ chức XHDS ở Việt Nam bắt
nguồn sâu xa trong cấu trúc làng xã của xã hội truyền thống. Do vậy, khu vực
XHDS ở Việt Nam không chỉ bao gồm các NGO, mà còn có cả các tổ chức quần
chúng, các tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức tại cộng đồng, quỹ từ thiện và trung
tâm hỗ trợ.
Một trong số những nỗ lực mang tính hệ thống nhằm phác họa XHDS tại
Việt Nam do Liên minh toàn cầu vì sự tham gia của công dân (CIVICUS) thiết lập
vào năm 2005-2006 [2]. Với cách tiếp cận bao rộng và toàn diện, bao gồm cả các tổ
chức quần chúng có quan hệ với Đảng - Nhà nước, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức
bảo trợ, nhóm nghiên cứu Chỉ số Xã hội Dân sự Việt Nam đã đưa ra một cách phân
loại dành cho các tổ chức XHDS ở Việt Nam như sau:
Bảng 1.1. Các tổ chức xã hội dân sự chính ở Việt Nam [2]
Nhóm Các tổ chức trong
nhóm
Quan hệ với
Nhà nước
Định nghĩa của
Việt Nam
Tổ chức quần
chúng
• Hội Phụ nữ
• Hội Nông dân
• Đoàn Thanh niên
• Hội Cựu chiến binh
• Tổ chức của người lao
động (Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam)
Mặt trận Tổ quốc Các tổ chức
chính trị-xã hội
Các hiệp hội nghề
nghiệp và tổ chức
bảo trợ
• Các tổ chức bảo trợ
như Chữ Thập đỏ,
VUSTA, VUAL, Liên
minh các Hợp tác xã,…
• Các hiệp hội nghề
• Mặt trận Tổ
quốc
• Đăng ký với
một tổ chức bảo
trợ, các tổ chức
cấp trung ương
• Các hiệp hội
nghề nghiệp xã
hội
• Các hiệp hội
xã hội và nghề
nghiệp; đôi khi
13
nghiệp hoặc tỉnh/ thành
phố
trực thuộc các
NGO.
Các NGO Việt
Nam
• Từ thiện
• Nghiên cứu
• Tư vấn
• Giáo dục
• Y tế
VUSTA, các bộ
ngành, Ủy ban
nhân dân tỉnh/
thành phố hoặc
quận/huyện
Các tổ chức xã
hội, NGO
Các tổ chức dựa
vào cộng đồng
(CBO)
• Các tổ chức cung cấp
dịch vụ và làm dự án
phát triển hoặc hướng
đến sinh kế
• Các tổ chức dựa vào
tín ngưỡng
• Các nhóm dân cư
• Các gia tộc
• Các nhóm nghỉ ngơi
giải trí
• Các nhóm sáng kiến
• Quan hệ gián
tiếp với các tổ
chức khác hoặc
Bộ luật Dân sự
• Nhiều tổ chức
không đăng ký
• Các nhóm hợp
tác nông thôn
• Các tổ chức
dựa trên tín
ngưỡng
• Các nhóm dân
cư
• Các gia tộc
Định nghĩa của CIVICUS tương đối khác với các định nghĩa trước đó khi
đưa tổ chức quần chúng là một trong những thành phần của XHDS ở Việt Nam.
Hiện tượng trên xuất phát từ quan điểm cho rằng các tổ chức quần chúng là một
phần của tổ chức Đảng, do lãnh đạo của các tổ chức này thường là nhân sự của
Đảng hoặc các cơ quan nhà nước [26]. Thậm chí trong giai đoạn giữa những năm
90 của thế kỷ trước, có ý kiến cho rằng Việt Nam không có XHDS, cho dù có một
vài tổ chức có tiềm năng là tổ chức XHDS [31]. Trong Luận văn này sử dụng cách
phân loại, định nghĩa của CIVICUS như là phương tiện cho những lập luận và phân
tích khác.
14
1.2. Sự hình thành và phát triển của các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh
vực BVMT ở Việt Nam và một số nước trên thế giới
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh
vực BVMT ở Việt Nam
Những năm gần đây, các tổ chức XHDS tại Việt Nam đang ngày càng có
nhiều đóng góp tích cực hơn trong lĩnh vực BVMT, góp phần giúp đất nước thực
hiện những mục tiêu quốc gia hướng tới sự phát triển bền vững. Vai trò của các tổ
chức XHDS trong lĩnh vực BVMT dần được Chính phủ và xã hội công nhận.
Quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh
vực BVMT ở Việt Nam gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của các tổ chức
XHDS nói chung. Có thể chia làm 3 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Gắn liền với xã hội truyền thống
Lịch sử hàng nghìn năm của Việt Nam đã tồn tại các tổ chức liên kết, tự
nguyện có tính chất tự quản cộng đồng của người dân nhằm mục đích giúp đỡ lẫn
nhau, trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ tâm tư, tình cảm, bảo vệ lợi ích của người dân,
đáp ứng các yêu cầu khác nhau của đời sống xã hội. Hiện nay, hình thức tổ chức xã
hội truyền thống này vẫn còn tồn tại ở một số vùng nông thôn, làng xã như: loại
hình tổ chức dựa trên huyết thống (gia tộc), theo nguồn gốc và địa bàn cư trú (đồng
hương, xóm, làng), theo nghề nghiệp (phường, hội, chẳng hạn: phường gốm,
phường mộc, phường chèo, phường tuồng, phường Quan họ,...) theo sở thích, thú
vui, như: hội văn phả (các nhà Nho trong làng không ra làm quan), hội bô lão (các
cụ ở trong làng), hội đồng môn (cùng học), hội đồng niên (cùng tuổi), hội tổ tôm,...
Các tổ chức nói trên chính là những hình thức sơ khai của các tổ chức XHDS
ở Việt Nam. Chúng có 2 đặc điểm nổi bật sau: (1) Mang tính tự nguyện, tự giác:
Các phường, hội do từng nhóm người lập ra, tự giác thực hiện vì mục đích chung
của nhóm người đó; (2) Mang tính ràng buộc: Tuy không có hình thức pháp luật
hay cơ quan hành chính, tổ chức nào kiểm tra, giám sát, nhưng các tổ chức xã hội
15
mang tính ràng buộc cao. Nguyên nhân không chỉ vì tính tự nguyện mà còn do
người dân thân quen nhau, tin nhau từ tấm bé, sống trong hàng loạt mối quan hệ của
cộng đồng làng xã. Mọi hành vi bỏ hay phản lại phường, hội đều bị lên án gay gắt
và người vi phạm sẽ bị cộng đồng tẩy chay bằng nhiều biện pháp. Ở giai đoạn này
chưa xuất hiện các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh vực BVMT.
- Giai đoạn 2: Thời kỳ trước đổi mới
Trước năm 1986, các tổ chức XHDS ở Việt Nam chủ yếu bao gồm các tổ
chức quần chúng có liên kết ở cấp cơ sở rất mạnh và đông hội viên, thường được
gọi là tổ chức chính trị - xã hội như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ và Đoàn thanh niên.
Đây là những tổ chức được thành lập vào những năm 1930, gắn bó mật thiết với
Đảng, kết nối với Nhà nước từ trung ương đến cấp làng xã.
Đầu thập niên 80, có 3 hiệp hội nghề nghiệp đã được thành lập để thúc đẩy
sự giao lưu giữa những người quan tâm tới các lĩnh vực khoa học, văn hóa và đoàn
kết bao gồm: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA); Liên
hiệp Văn học và Nghệ thuật Việt Nam (VWAA) và Liên hiệp các Hiệp hội Hòa
bình, Hữu nghị và Đoàn kết Việt Nam (VUPSFO và sau này gọi là VUFO). Hiện
nay, VUSTA và rất nhiều tổ chức thành viên đã tư vấn, đóng góp nhiều ý kiến cho
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực BVMT; tham gia
các hoạt động góp phần sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, cải thiện môi
trường; giáo dục, tuyên tryền nâng cao nhận thức của người dân, xây dựng phong
trào quần chúng bảo vệ thiên nhiên và môi trường.
Trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp trước thời kỳ đổi mới, các quan hệ
kinh tế - xã hội mang nặng tính hành chính và nhà nước hóa, quyền tự do kinh
doanh, sự đa đạng của các hình thức sở hữu và quan hệ thị trường bị hạn chế; quyền
dân chủ của người dân chưa được đảm bảo; các tổ chức XHDS nói chung và các tổ
chức XHDS hoạt động trong lĩnh vực BVMT nói riêng chưa có điều kiện hình
thành và phát triển.
- Giai đoạn 3: Thời kỳ sau khi đổi mới đến nay
16
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam chính thức được thực hiện vào năm 1986,
khi đất nước bắt đầu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, khuyến khích kinh tế
hộ gia đình, mở cửa cho thành phần tư nhân, đầu tư nước ngoài.
Nhận thức được vị trí, vai trò của các tổ chức quần chúng, các hội trong sự
nghiệp đổi mới, Nghị quyết số 8B-NQ/HNTW (khóa VI) của Đảng đã nêu ra chủ
trương: “Trong giai đoạn mới cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về
nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương
thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự
nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật”. Nghị định
35/HDBT ban hành ngày 28/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng, về việc thành lập các
tổ chức khoa học và công nghệ phi lợi nhuận là văn bản pháp lý đầu tiên xác định
quyền của cá nhân, tổ chức XHDS và tổ chức kinh tế trong việc tổ chức và thực
hiện các hoạt động khoa học công nghệ kể từ sau thời kỳ đổi mới.
Do đó, các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh vực BVMT bắt đầu hình
thành và phát triển từ nửa đầu thập niên 1990 và phát triển mạnh mẽ nhất từ năm
2000 đến nay, bao gồm chủ yếu là các hiệp hội, hội, NGOs, tổ chức tự nguyện,….
Những tổ chức này thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải về tài
chính, phi lợi nhuận; trình độ chuyên môn và tính chuyên nghiệp ngày càng tăng
lên.
Căn cứ vào cuốn “Danh tập một số tổ chức hội, liên hiệp hội, và phi chính
phủ Việt Nam” do Quỹ Châu Á và Viện Nghiên cứu Xã hội xuất bản năm 2011 và
lĩnh vực hoạt động của các tổ chức nói trên [16], có thể thống kê được một số tổ
chức XHDS tham gia hoạt động trong lĩnh vực BVMT tại Việt Nam trong phần Phụ
lục 2. Các tổ chức XHDS này có phạm vi hoạt động rộng khắp cả nước; tham gia
nhiều dự án, đóng góp tích cực vào hoạt động BVMT. Đa số các tổ chức đều tham
gia hoạt động trong mạng lưới của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
(VUSTA).
17
Bảng 1.2. Năm thành lập của một số tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường giai đoạn 1980-2010 (dựa trên 75 tổ chức trong Phụ lục 2)
Giai đoạn 1981-
1985
1986-
1990
1991-
1995
1996-
2000
2001-
2005
2006-
2010
Số lượng tổ
chức thành
lập
2 2 11 9 24 27
Theo thống kê của Ban Điều phối vận động nhân dân (PACCOM), năm 2009
các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước giải ngân viện trợ trị giá 271,5 triệu
USD, trong đó có 14% để giải quyết các vấn đề về tài nguyên và môi trường.
Bối cảnh và vấn đề đặt ra cho các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh vực
BVMT tại Việt Nam giai đoạn hiện nay
Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch
hóa tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thu hút các dự án đầu tư, đã tạo ra ngày
càng nhiều việc làm cho người lao động, nhờ đó kinh tế tăng trưởng, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhưng cũng kéo theo đó là sự xuống
cấp nghiêm trọng của môi trường. Vì vậy, vấn đề BVMT không chỉ thách thức đối
với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhất là
những nước đang phát triển.
Yêu cầu đặt ra là Nhà nước cần phải huy động được mọi nguồn lực của xã
hội cho quá trình phát triển bền vững. Chính vì vậy, Nhà nước đã đề ra chủ trương
“xã hội hoá” bao gồm cả lĩnh vực BVMT nhằm huy động các nguồn lực từ các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các tổ chức XHDS và cộng đồng tham gia các
hoạt động BVMT.
Chủ trương xã hội hóa trong BVMT được cụ thể hóa thông qua một số văn
bản pháp luật như: Nghị quyết 41/NQ-TW (ngày 15/11/2004) của Bộ Chính trị đã
nêu cần xác định rõ trách nhiệm BVMT của Nhà nước, cá nhân, tổ chức và cộng
18
đồng. Luật bảo vệ môi trường 2014 đã khẳng định BVMT là sự nghiệp của toàn xã
hội, là quyền và trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân. Nhà nước khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia
hoạt động BVMT. Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 nêu rõ: “BVMT là trách nhiệm của toàn xã hội, là nghĩa vụ của mọi người
dân; phải được thực hiện thống nhất trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của các Bộ,
ngành, phân cấp cụ thể giữa Trung ương và địa phương; kết hợp phát huy vai trò
của cộng đồng, các tổ chức quần chúng và hợp tác với các nước trong khu vực và
trên thế giới”.
Khái niệm “xã hội hóa” mà chúng ta thường dùng hiện nay thực chất là một
thuật ngữ mang tính quy ước, dùng để chỉ một cách làm, cách thực hiện chủ trương
của nhà nước trong nhiều lĩnh vực trong đó có BVMT, bằng con đường huy động
tổng lực của toàn xã hội hay một số cộng đồng, trên một lãnh thổ hay một vùng,
liên vùng nhằm phát huy tiềm năng của toàn xã hội. Xã hội hóa về bản chất là thực
hiện quyền dân chủ, những hoạt động dân chủ trong quá trình xây dựng và thực thi
chính sách, pháp luật một cách công bằng [8]. Xã hội hóa trong BVMT là sự phân
quyền hạn và trách nhiệm từ Trung ương xuống địa phương, là sự huy động sự tham
gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức quần chúng, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và
người dân vào hoạt động BVMT.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về “phát triển xã hội” ở Copenhaghen
(Đan Mạch) tháng 3/1995 và các hội nghị sau đó khẳng định một vấn đề có tính
nguyên lý của thời đại là các chính sách xã hội phải gắn bó trong một cơ chế: kết
hợp thể chế Nhà nước, thể chế công dân, thể chế thị trường; các thể chế đó được
thực thi trên cơ sở quyền tiếp cận của công dân, quyền tiếp cận luật pháp và quyền
được tham gia; và tất cả các quyền đó được thực thi trên nguyên tắc: dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra đã được xác định trong cương lĩnh của Nhà nước về
quản lý đất nước theo cơ chế nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
19
Trước tình hình mới, các tổ chức XHDS đóng vai trò là một kênh và cầu nối
quan trọng giữa Nhà nước, khu vực tư nhân và người dân. Các tổ chức XHDS cần
phải tham gia hoạt động hiệu quả hơn, giúp cơ quan Nhà nước tăng cường năng lực
xây dựng và thực thi pháp luật về BVMT, bảo đảm quyền tham gia của người dân
vào hoạt động BVMT.
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh
vực BVMT ở một số nước trên thế giới
Tại Trung Quốc
Sau năm 1949, cùng với việc thiết lập thể chế chính trị - kinh tế tập trung cao
độ, Trung Quốc đã hình thành nên một nhà nước toàn năng, khống chế và lũng đoạn
toàn diện mọi nguồn lực xã hội, nhà nước bao trọn xã hội, bao trọn tư hữu, và do
đó, về cơ bản XHDS không còn không gian phát triển. Từ năm 1978, cùng với việc
thực hiện chính sách cải cách, mở cửa, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu tạo
không gian rộng rãi cho sự phát triển của các tổ chức XHDS. Các tổ chức XHDS
chỉ cần không vi phạm pháp luật sẽ được đăng ký thành lập. Chính vì thế, giai đoạn
này các tổ chức XHDS ở Trung Quốc phát triển tương đối nhanh về mặt số lượng
[20].
Lịch sử phát triển của các NGO về môi trường ở Trung Quốc tuy không dài
nhưng đã trải qua nhiều thách thức, khó khăn. Nhiều tổ chức NGO phải đối mặt với
trở ngại về thể chế trong quá trình phát triển, gặp khó khăn trong việc đăng ký, tài
chính và năng lực hoạt động [27]. Các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh vực
BVMT ở Trung Quốc phải đăng ký thành lập và hoạt động theo Quy định đăng ký
và quản lý của các tổ chức xã hội, ban hành năm 1998.
Kể từ đầu những năm 1990, số lượng các tổ chức XHDS ở Trung Quốc tăng
lên nhanh chóng. Đến cuối tháng 10 năm 2008, Trung Quốc có 3.600 tổ chức
XHDS hoạt động trong lĩnh vực BVMT, bao gồm: những tổ chức được Chính phủ
hỗ trợ, NGOs, hội và hiệp hội bảo vệ môi trường của sinh viên, các tổ chức XHDS
quốc tế có trụ sở tại Trung Quốc [28].
20
Các tổ chức XHDS ở Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức của người dân về môi trường, hỗ trợ Nhà nước hoạch định chính
sách, tăng cường thực thi pháp luật về BVMT, tố giác những cơ sở hoạt động kinh
doanh trái phép, thúc đẩy giải quyết tranh chấp môi trường, có quan hệ đối tác với
NGO quốc tế và các nhà tài trợ nước ngoài, thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện
trách nhiệm xã hội của công ty để mở rộng nguồn tài trợ [27].
NGO đi tiên phong trong lĩnh vực BVMT ở Trung Quốc là “Friends of
Nature-Bạn của Tự nhiên” thành lập năm 1994. Đây là tổ chức có nền tảng của một
tổ chức NGO hiện đại, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Trung Quốc. Kể từ
đó, Chính phủ Trung Quốc đã tạo điều kiện và khuyến kích thành lập các NGO hoạt
động trong lĩnh vực BVMT, chẳng hạn như Ngôi làng toàn cầu Bắc Kinh, Tình
nguyện viên vì Trái Đất xanh, Lưu vực xanh,…. Nhiều nhóm học sinh tham gia bảo
vệ môi trường và "Câu lạc bộ xanh" được thành lập ở các trường đại học trên khắp
cả nước. Không giống như mối quan hệ giữa chính phủ và NGO hoạt động trong
lĩnh vực BVMT ở các nước phương Tây như Mỹ, NGO ở Trung Quốc có một cách
tiếp cận ít đối đầu [25].
Kể từ năm 2006, Liên đoàn Môi trường Trung Quốc (ACEF) đã tổ chức
thành công 7 Hội nghị thường niên của các tổ chức XHDS hoạt động trong lĩnh vực
BVMT ở Trung Quốc về phát triển bền vững. Khoảng 450 tổ chức XHDS tham gia
hội nghị đã gặp gỡ, chia sẻ thông tin, thảo luận, hợp tác với nhau để có nhiều đóng
góp tích cực hơn trong hoạt động BVMT [28].
Tại Mỹ
Sự nổi lên của phong trào BVMT ở Mỹ bắt đầu vào năm 1962, khi tác phẩm
Mùa xuân thầm lặng (Silent Spring) của Rachel Carson được xuất bản. Silent
Spring cảnh báo cho công chúng về khả năng thuốc trừ sâu có thể tích lũy trong
chuỗi thức ăn, gây ra những tổn hại môi trường lâu dài và nghiêm trọng.
Năm 1967, Quỹ Bảo vệ môi trường được thành lập bởi một nhóm các nhà
khoa học. Họ vận động cấm sử dụng thuốc trừ sâu DDT. Một nhóm khác là Hội
21
đồng Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên (NRDC) hình thành với nỗ lực yêu cầu Ủy
ban Năng lượng Liên bang phải để ý đến vấn đề môi trường khi xem xét một dự án
điện có thể phá hủy danh lam thắng cảnh và lịch sử của sông Hudson. Vào thời
điểm này, không có cơ quan Liên bang nào quan tâm đến vấn đề BVMT. Kể từ đó
có nhiều tổ chức hoạt động BVMT được thành lập mới, vận động Chính phủ giải
quyết tốt hơn những vấn đề BVMT. Trong khoảng thời gian từ năm 1970 – 1976,
Quốc hội Mỹ ban hành hàng loạt các bộ Luật về vấn đề môi trường như: Đạo luật
không khí sạch, Đạo luật nước sạch, nước uống an toàn, Đạo luật Bảo tồn thiên
nhiên và Phục hồi, Đạo luật kiểm soát chất độc…[27].
Vào những năm 1960, có khoảng 150.000 người đã đóng góp ngân sách cho
những tổ chức NGO hoạt động ở Mỹ trong lĩnh vực BVMT. Tổng ngân sách hàng
năm của những tổ chức này lên đến gần 20 triệu USD. Đến cuối những năm 1980,
khoảng 8 triệu người Mỹ đã đóng góp cho 100 NGO hoạt động BVMT của quốc gia
hơn 500 triệu USD. Sự gia tăng số lượng của các NGO Mỹ hoạt động BVMT được
thúc đẩy một phần bởi các quỹ tài trợ. Quỹ tài trợ Ford (Ford Foundation) cung cấp
nhiều khoản kinh phí quan trọng để hình thành những tổ chức BVMT mới. Những
thành công sớm của phong trào BVMT ở Mỹ đã thu hút thêm nhiều hội viên, thúc
đẩy các nhà doanh nghiệp tham gia BVMT [30].
1.3. Rà soát quy định về sự tham gia của các tổ chức XHDS trong văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành ở Việt Nam
1.3.1. Cơ sở pháp lý cho các tổ chức XHDS
Địa vị pháp lý của tổ chức XHDS đã sớm được xác lập bằng các nguyên tắc
hiến định và luật định. Thực tế ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Hiến pháp 1946, quyền lập hội đã được ghi nhận. Sắc lệnh số
102/SL-L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa quy định về quyền lập hội của công dân. Trong Hiến pháp Việt Nam năm
2013, điều thứ 25 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
22
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định”. Vì vậy, quyền lập hội là một quyền cơ bản của công dân.
Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng có những điều khoản liên quan đến hình thức
và cơ chế hoạt động của hội. Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2003
của Chính phủ đã quy định chi tiết về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, theo đó có
những quy định về chức năng, vai trò, thẩm quyền của hội. Nghị định này đã được
sửa đổi, bổ sung và thay thế bằng Nghị định 45/2010/NĐ - CP có hiệu lực từ
1/7/2010 theo đó xác lập quyền tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu và
giám định xã hội, cung cấp dịch vụ công về các vấn đề thuộc lĩnh vực của hội.
Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định hội có
tính chất đặc thù tiếp tục củng cố địa vị pháp lý của các tổ chức XHDS thông qua
quy định về chức năng và đặc trưng của tổ chức xã hội đặc thù, với tư cách là một
hình thức của tổ chức xã hội nói chung. Tổng hợp tương đối đầy đủ các văn bản
pháp lý đối với tổ chức XHDS tại Việt Nam có trong phần Phụ lục 1.
Như vậy, địa vị pháp lý của tổ chức XHDS bắt nguồn từ địa vị pháp lý của
công dân được xác định bằng những nguyên tắc hiến định và luật định. Đặc biệt
nguyên tắc này là sự cụ thể hóa hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra/giám sát” của Đảng và Nhà nước [22]. Sự ra đời các tổ chức XHDS là vô
cùng cần thiết và là kênh thông tin tất yếu, là yêu cầu chính đáng của nhân dân
trong việc thực hiện quyền lực của mình vốn không thể và không bao giờ ủy thác
được hết vào các cơ quan công quyền đại diện cho mình.
1.3.2. Quy định về sự tham gia của các tổ chức XHDS trong lĩnh vực BVMT
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) khẳng định “phát triển bền vững là cơ sở để
phát triển nhanh”, là “yêu cầu xuyên suốt” của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
2011-2020, trong đó BVMT là mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng. Đại hội XI nhấn
mạnh quan điểm cốt lõi của Đảng và Nhà nước Việt Nam: “BVMT là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân”. Không có sự lãnh đạo
kiên quyết của Đảng, sự quản lý chặt chẽ của nhà nước và sự tham gia tích cực thật
23
sự của nhân dân, không thể bảo vệ được môi trường. Cùng với việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về BVMT, cần xây dựng các cơ
chế, chính sách và giải pháp cần thiết để đẩy mạnh xã hội hóa công tác BVMT, huy
động sức mạnh tổng hợp của cộng đồng, các tổ chức xã hội trong BVMT.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 chỉ có 01 điều quy định về trách nhiệm của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (Điều 124), trong đó quy
định các tổ chức này có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các thành viên tham gia
BVMT, giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước là tạo điều kiện cho các hoạt động trên. Ngoài ra,
Điều 105 quy định về thực hiện dân chủ cơ sở về BVMT, trong đó có trách nhiệm
phổ biến thông tin môi trường của các cơ quan liên quan, tổ chức đối thoại.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã tích hợp các nội dung trên, mở rộng đối
tượng và nội dung về trách nhiệm, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đặc biệt là cộng đồng
dân cư tại 01 chương riêng (Chương XV). Theo các quy định này, các tổ chức nói
trên và cộng đồng dân cư có trách nhiệm và quyền hạn rộng hơn, góp phần quan
trọng vào việc xã hội hóa công tác BVMT và vai trò của người dân trong BVMT
được phát huy tốt hơn.
Quy định về quyền tiếp cận thông tin môi trường của tổ chức XHDS (Dân
biết)
Quyền tiếp cận thông tin được cụ thể hóa trong những quy định của Luật
BVMT 2014 về nghĩa vụ công khai thông tin và quyền yêu cầu cung cấp thông tin
của các bên liên quan như cơ quan quản lý các cấp, doanh nghiệp, người dân, các tổ
chức xã hội. Điều 145 của Luật BVMT 2014 quy định về quyền của tổ chức chính
trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp: “Được cung cấp và yêu cầu cung cấp thông tin về
BVMT theo quy định của pháp luật”. Điều 146 quy định về quyền đại diện cộng
đồng dân cư trên địa bàn chịu tác động môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ có quyền yêu cầu chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cung cấp thông
24
tin về BVMT thông qua đối thoại trực tiếp hoặc bằng văn bản; tổ chức tìm hiểu thực
tế về công tác BVMT của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thu thập, cung cấp
thông tin cho cơ quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin cung cấp và
có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cung cấp kết quả thanh tra,
kiểm tra, xử lý đối với cơ sở.
Phạm trù cộng đồng khá rộng, gồm nhiều cấp, trong đó cấp trực tiếp nhất là
người dân chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một dự án cụ thể. Cấp thứ hai
là cộng đồng dân cư (tổ, thôn, xóm, cao hơn là làng bản), và tiếp theo là các tổ chức
có tư cách pháp nhân nhưng không trực tiếp liên quan đến hoạt động dự án (NGO,
tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, chuyên gia, thông tấn báo chí).
Đây là những đối tượng mà Luật BVMT 2014 nhìn nhận vai trò trong ngữ cảnh làm
thế nào để tăng cường sự tham gia của cộng đồng, hay còn gọi là các bên liên quan
[1].
Theo Điều 131 Luật BVMT 2014, có 5 nhóm thông tin môi trường phải được
công khai bao gồm: (1) Báo cáo ĐMC, ĐTM và kế hoạch BVMT; (2) Thông tin về
nguồn thải, chất thải, xử lý chất thải; (3) Khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái
ở mức nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, khu vực có nguy cơ xảy ra sự cố môi
trường; (4) Các báo cáo về môi trường; và (5) Kết quả thanh tra, kiểm tra về
BVMT. Tuy nhiên nếu “các thông tin quy định tại khoản này mà thuộc danh mục bí
mật nhà nước thì không được công khai”.
Quy định của pháp luật về sự tham gia của tổ chức XHDS trong hoạt động
xây dựng chủ trương, chính sách, kế hoạch và các quy định về BVMT (Dân bàn)
Luật BVMT 2014 quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tư vấn,
phản biện, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT theo quy định
của pháp luật. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia BVMT.
Tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp có quyền được tham vấn đối
với dự án có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tư vấn, phản
25
biện về BVMT với cơ quan quản lý nhà nước và chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ có liên quan theo quy định của pháp luật.
Đại diện cộng đồng dân cư có quyền tham gia đánh giá kết quả BVMT của
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi
ích của cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật.
Theo Tài liệu hướng dẫn ĐTM của Chương trình Môi trường của Liên Hợp
quốc [32], sự tham gia của cộng đồng và công chúng nói chung trong các dự án
được phân chia thành 4 cấp độ như sau: (1) Thông báo: một chiều thông tin từ
người đề xuất tới cộng đồng, (2) Tham vấn: hai chiều thông tin giữa người đề xuất
và cộng đồng với cơ hội cho cộng đồng bày tỏ quan điểm về đề xuất, (3) Tham gia:
sự trao đổi tương tác giữa người đề xuất và cộng đồng bao gồm chia sẻ phân tích và
thiết lập chương trình làm việc, tăng cường hiểu biết và những điểm thỏa thuận
được về đề xuất và tác động của nó, (4) Đàm phán: thảo luận trực tiếp giữa người
đề xuất và các bên chủ chốt liên quan nhằm xây dựng sự đồng thuận và hướng tới
giải pháp các bên có thể chấp nhận, ví dụ gói giảm thiểu tác động và các biện pháp
bồi thường.
Hình 1.3. Mức độ tham gia của cộng đồng trong các dự án phát triển
Nếu so sánh với biểu đồ về mức độ tham gia của người dân (Hình 1) với các
văn bản hướng dẫn Luật BVMT 2005, sự tham gia của cộng đồng trong quá trình
thực hiện ĐTM ở Việt Nam mới chỉ vừa bước qua giai đoạn sơ khai nhất là Thông
26
báo để bước sang giai đoạn Tham vấn. Tuy nhiên, tham vấn mới chỉ dừng lại ở lấy
ý kiến cộng đồng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi dự án đề xuất thay vì công khai rộng
rãi cho mọi đối tượng quan tâm có thể đóng góp ý kiến. Như vậy, cả đối tượng được
tham vấn và hình thức trao đổi thông tin đều rất hạn chế, tính tương tác hai chiều
giữa đơn vị thực hiện tham vấn và đối tượng được tham vấn thấp.
Để rút bớt khoảng cách giữa thực tiễn áp dụng trong nước và chuẩn mực
quốc tế, Luật BVMT 2014 đã có những bước tiến bộ nhất định khi mở rộng đối
tượng tham vấn không chỉ bao gồm cộng đồng mà còn các cơ quan, tổ chức chịu tác
động trực tiếp bởi dự án. Bên cạnh đó, vai trò của cộng đồng và Mặt trận tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong phản biện và giám sát các
vấn đề môi trường của dự án cũng được tăng cường. Để cụ thể hóa những nguyên
tắc và quy định chung trong Luật BVMT 2014 về sự tham gia của cộng đồng và các
tổ chức xã hội, Nghị định 18/2015/NĐ-CP hướng dẫn về tham vấn trong quá trình
lập ĐTM và Nghị định 19/2015/NĐ-CP hướng dẫn sự tham gia, giám sát trong
công tác BVMT đã được ban hành [15].
Quy định của pháp luật về sự tham gia của tổ chức XHDS vào hoạt động
BVMT (Dân làm)
Điều 43, Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người có quyền được sống trong
môi trường trong lành và có nghĩa vụ BVMT. Điều 4, Luật BVMT 2014 quy định:
BVMT là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá
nhân. Như vậy, mọi chủ thể trong xã hội phải có nghĩa vụ BVMT, trong đó có tổ
chức XHDS.
Biểu hiện sự tham gia (thực hiện nghĩa vụ BVMT) của tổ chức xã hội và
cộng đồng dân cư được thực hiện dưới các hình thức như thành lập tổ chức tự quản
về BVMT. Tổ chức tự quản về BVMT có trách nhiệm xây dựng và thực hiện hương
ước về BVMT; tuyên truyền, vận động nhân dân xóa bỏ hủ tục, thói quen mất vệ
sinh, có hại cho sức khỏe và môi trường.
27
Một trong những nội dung hoàn toàn mới của Luật BVMT 2014 là tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp có quyền kiến nghị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật về BVMT và đại diện cộng đồng dân
cư có quyền tham gia đánh giá kết quả BVMT của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ; thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư theo
quy định của pháp luật [14].
Như vậy, Luật BVMT 2014 đã quy định tương đối đầy đủ về sự tham gia của
các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong
BVMT.
Quy định của pháp luật về sự tham gia của tổ chức XHDS trong hoạt động
giám sát, phát hiện hành vi vi phạm pháp luật BVMT (Dân kiểm tra)
Tổ chức tự quản về BVMT có quyền tham gia giám sát việc thực hiện pháp
luật về BVMT của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn.
Tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp có quyền tham gia hoạt động
kiểm tra về BVMT tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xử lý hành vi vi phạm pháp luật về BVMT.
28
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các hoạt động BVMT của 3 tổ chức XHDS
bao gồm: Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Trung
tâm Nghiên cứu và Phát triển Dân số, Xã hội và Môi trường (CPSE) và Trung tâm
giáo dục thiên nhiên (ENV). Trong đó:
- VUSTA là tổ chức bảo trợ của 140 hội thành viên, và 119 tổ chức khoa học
– công nghệ ngoài Nhà nước. VUSTA tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học
và công nghệ; điều hoà, phối hợp hoạt động của các hội thành viên trong nhiều lĩnh
vực, trong đó có hoạt động BVMT.
- CPSE là một tổ chức phi chính phủ (NGO) chuyên thực hiện những dự án
nghiên cứu, phát triển bền vững và BVMT cho đồng bào dân tộc thiểu số, người
nghèo vùng trung du, miền núi phía Bắc.
- ENV là tổ chức xã hội hoạt động chuyên sâu về lĩnh vực bảo tồn thiên
nhiên và bảo vệ các loài động vật hoang dã.
Mặc dù VUSTA, CPSE, ENV có mục tiêu, phương thức hoạt động khác
nhau, tuy nhiên những tổ chức này đã thể hiện vai trò, chức năng chính của các tổ
chức XHDS khi hoạt động trong lĩnh vực BVMT đó là: (1) Phát hiện, tố giác vi
phạm về BVMT, (2) Phản biện xã hội về môi trường, (3) Tư vấn, vận động chính
sách về môi trường, (4) Kiểm tra, giám sát môi trường, (5) Giáo dục, phổ biến,
tuyên truyền về BVMT.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Sự tham gia của một số tổ chức XHDS trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam,
cụ thể là 3 tổ chức VUSTA, CPSE và ENV.
- Những thuận lợi và khó khăn của các tổ chức VUSTA, CPSE, ENV khi
hoạt động trong lĩnh vực BVMT tại Việt Nam.
29
- Đề xuất những giải pháp phát huy vai trò của các tổ chức VUSTA, CPSE
và ENV trong lĩnh vực BVMT.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu
Thu thập, tổng quan tài liệu, kế thừa kết quả liên quan đến vấn đề cần nghiên
cứu dựa trên những báo cáo khoa học trong và ngoài nước, các tài liệu, ấn phẩm,
báo cáo dự án về BVMT do VUSTA, CPSE, ENV cung cấp.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu một số cán bộ của các tổ chức CPSE,
ENV, VUSTA để thu thập thêm thông tin. Các câu hỏi phỏng vấn bao gồm những
nội dung được liệt kê trong Phụ lục 3.
Bảng 2.1. Danh sách một số cán bộ của ENV, CPSE, VUSTA được phỏng vấn
STT Họ và tên Chức danh Tổ chức Thời gian
phỏng vấn
1 Đặng Nghĩa Phấn Giám đốc CPSE Tháng 4/2015
2 Đặng Minh Ngọc Điều phối viên dự án CPSE Tháng 4/2015
3 Nguyễn Thị Thúy Kế toán CPSE Tháng 4/2015
4 Vũ Thị Quyên Giám đốc ENV Tháng 5/2015
5 Bùi Thị Hà Phó giám đốc ENV Tháng 5/2015
6 Ninh Phương Thảo Điều phối viên mạng
lưới tình nguyện viên
ENV Tháng 5/2015
7 Phạm Văn Tân Phó Chủ tịch kiêm
Tổng Thư ký
VUSTA Tháng 5/2015
- Phương pháp phân tích tổng hợp
Dựa trên những thông tin thu được và tham vấn ý kiến của một số chuyên
gia, tác giả tiến hành phân tích sự tham gia của các tổ chức VUSTA, CPSE, ENV
trong lĩnh vực BVMT thông qua 5 hoạt động chính: (1) Phát hiện, tố giác, (2) Phản
30
biện xã hội về môi trường, (3) Tư vấn, vận động chính sách, (4) Kiểm tra, giám sát,
(5) Giáo dục, phổ biến, tuyên truyền. Qua đó tìm ra những thuận lợi và khó khăn, đề
xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của những tổ chức này trong lĩnh vực
BVMT tại Việt Nam thời gian tới. Thao tác tính toán và xử lý số liệu, vẽ biểu đồ
được thực hiện bằng phần mềm Microsoft Excel 2007.
31
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đánh giá thực trạng tham gia của một số tổ chức XHDS trong lĩnh vực
BVMT ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Giới thiệu về các tổ chức ENV, CPSE, VUSTA
3.1.1.1. Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV)
Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (Education for Nature - ENV) là tổ chức xã
hội được thành lập từ năm 2002 với 30 nhân viên, và có trụ sở tại phòng 1701, Tòa
17T5, Đường Hoàng Đạo Thúy, Quận Cầu Giấy, Hà Nội. Mục tiêu của ENV là bảo
vệ đa dạng sinh học thông qua việc hỗ trợ các cơ quan chức năng tăng cường thể
chế, chính sách và thực thi pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã (ĐVHD), giáo
dục nâng cao nhận thức, khuyến khích cộng đồng cùng tham gia bảo vệ ĐVHD.
Cơ cấu tổ chức của ENV theo mô hình có phòng ban, bao gồm Ban giám
đốc, dưới là các phòng hành chính kế toán, phòng quản lý chương trình dự án và 3
phòng chức năng (phòng giáo dục môi trường, phòng bảo vệ ĐVHD, phòng tư vấn
và vận động chính sách). Mỗi phòng, ban, bộ phận được bố trí sắp xếp từ 2-10 cán
bộ tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận được giao.
Hình 3.1. Cơ cấu tổ chức của ENV
Ban giám đốc
Phòng
hành
chính kế
toán
Phòng
giáo dục
môi
trường
Phòng
quản lý
chương
trình dự
án
Phòng
Bảo vệ
ĐVHD
Phòng tư
vấn, vận
động
chính
sách
32
3.1.1.2. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Dân số, Xã hội và Môi trường
(CPSE)
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Dân số, Xã hội và Môi trường (tên tiếng
Anh: Research and Development Center for Population, Social and Environmental
Affairs, tên viết tắt: CPSE) là một NGO được thành lập theo Quyết định số
1112/TC-LHH ngày 16/11/2000 của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam (VUSTA). Giấy phép hoạt động số A - 472 ngày 12/01/2006 do Bộ Khoa học
và Công nghệ cấp. Trụ sở của CPSE tại số 9 phố Nguyễn Đình Chiểu, Quận Hai Bà
Trưng, Hà Nội.
Cơ cấu tổ chức
Khác với ENV, mô hình hoạt động của CPSE chưa phân hóa rõ rệt thành các
phòng ban khác nhau và phân định thành nhiều chức năng riêng rẽ. Cơ cấu tổ chức
bao gồm: Ban giám đốc (giám đốc và phó giám đốc), bên dưới là các cán bộ chuyên
môn theo dõi phụ trách từng lĩnh vực. Với mô hình này một cán bộ có thể đảm
nhiệm nhiều chức năng khác nhau.
Hình 3.2. Cơ cấu tổ chức của CPSE
Nguồn nhân lực của CPSE
CPSE có 12 thành viên làm việc chính thức với trình độ đại học và sau đại
học ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có 3 chuyên viên về Lâm nghiệp (2 tiến sĩ,
1 thạc sĩ), 2 chuyên viên về dân tộc học (1 nghiên cứu sinh, 1 thạc sĩ), 1 cử nhân xã
hội học, 2 thạc sĩ làm chuyên viên về môi trường, 2 chuyên viên về nông nghiệp (1
Ban giám đốc
Cán bộ hành
chính, kế
toán
Cán bộ
nghiên cứu
Cán bộ
truyền thông
và đào tạo
Cán bộ
chương
trình, dự án
33
thạc sĩ chăn nuôi, 1 kỹ sư trồng trọt), 2 chuyên viên về y tế cộng đồng. CPSE có 15
cộng tác viên của nhiều cơ quan có trình độ đại học và sau đại học làm chuyên gia
cho các lĩnh vực có liên quan của dự án.
Bảng 3.1. Trình độ chuyên môn của cán bộ trung tâm CPSE
Tổng số Trình độ chuyên môn
12 Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng/trung
cấp
2 (16,67%) 6 (50%) 2 (16,67%) 2 (16,67%)
Lĩnh vực hoạt động
Lĩnh vực hoạt động của CPSE khá đa dạng, bao gồm dân số (nghiên cứu về
dân số, lực lượng lao động, sức khỏe), xã hội (Luật, giới tính, bình đẳng giới), môi
trường (nghiên cứu, triển khai công nghệ xử lý môi trường và phát triển bền vững).
Trong lĩnh vực BVMT tại Việt Nam, hình thức hoạt động chủ yếu của CPSE
là tư vấn, thực hiện các chương trình, dự án xây dựng mô hình kết hợp BVMT với
xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ rừng, canh tác nông nghiệp bền vững, tạo sinh kế ổn
định cho người dân. Đối tượng hưởng lợi chủ yếu từ dự án BVMT của CPSE là
đồng bào dân tộc thiểu số (người Mông, Dao, Tày…) và người nghèo ở trung du,
miền núi phía Bắc. Thu nhập chính của người dân ở vùng dự án chủ yếu dựa vào
khai thác tài nguyên rừng và trồng ngô, cấy lúa một vụ trên ruộng bậc thang, sườn
núi dốc. Trồng trọt dựa vào nguồn nước trời, tập quán canh tác lạc hậu nên thu nhập
bấp bệnh. Nhiều năm gặp thời tiết xấu, ảnh hưởng của biến đối khí hậu, gieo trồng
chậm thời vụ nên năng suất thấp, hay bị mất mùa. Bên cạnh đó, cộng đồng chưa có
ý thức BVMT, bảo vệ đa dạng sinh học và do khai thác tài nguyên quá mức nên
rừng cũng như đất canh tác ngày càng nghèo kiệt. Vai trò của CPSE trong dự án là
cầu nối giữa các nhà tài trợ và cộng đồng địa phương. Bảng 3.2 là một số dự án của
CPSE về BVMT và liên quan đến BVMT được thực hiện trong khoảng thời gian từ
năm 2000 đến nay.
34
Bảng 3.2. Một số dự án của CPSE về BVMT và liên quan đến BVMT
Thời gian Tên dự án Cơ quan
tài trợ
2000-2005 Nghiên cứu mối quan hệ giữa du canh, du cư và môi
trường, kiến nghị các biện pháp phát triển bền vững
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi
VUSTA
2001-2003 Hỗ trợ các nhóm nông dân nòng cốt trong làng của
người H’Mông, xã Mường Mùn, huyện Tuần Giáo,
tỉnh Lai Châu phát triển bền vững
ICCO-Hà
Lan
2006-2007 Nâng cao nhận thức về thực hiện bảo vệ môi trường
của cộng đồng dân tộc Dao ở vùng sâu xa huyện Sơn
Động, Bắc Giang
VUSTA
2006-2008 Pháp luật và sinh kế cho người H’Mông ở Lào Cai VUSTA
2007-2008 Bảo vệ nguồn nước ngầm có sự tham gia của cộng
đồng thôn Tạ Xá, xã Đại Thắng, huyện Phú Xuyên,
tỉnh Hà Tây
Quỹ Môi
trường
Sida (SEF)
2008-2009 Hỗ trợ người H’Mông định canh định cư, bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững tại thôn Suối Đồng, xã
Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
VUSTA
2010-2011 Hỗ trợ dân tộc bản địa xây dựng mô hình bảo vệ môi
trường vùng thung lũng và vùng đồi núi trọc phía trên
các ngòi, khe và các suối lớn ở các tỉnh phía Bắc.
VUSTA
2013-2015 Điều tra các tác động môi trường và kinh tế xã hội của
chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế lâm nghiệp ở khu
vực miền núi phía Bắc (Tuyên Quang, Bắc Kạn, Sơn
La, Điện Biên)
VUSTA
35
2015-2017 Hỗ trợ Kỹ thuật cho dự án “Khuyến khích người dân
tham gia cải thiện quản trị rừng và giảm nghèo Việt
nam (PFG)” tại huyện Chợ đồn, tỉnh Bắc Cạn
ActionAid
Quốc tế tại
Việt Nam
(AAV)
3.1.1.3. Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)
Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) được thành lập
theo Quyết định số 121/HĐBT ngày 29/7/1983 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Có thể xem VUSTA là tổ
chức bảo trợ lớn nhất hoạt động trong lĩnh vực khoa học – công nghệ ở Việt Nam
hiện nay. VUSTA tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ ở trong
nước, người Việt Nam ở nước ngoài, đại diện; bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của các hội thành viên trong cả nước; phản ánh nguyện vọng và ý kiến đóng góp
của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ.
Khi thành lập VUSTA chỉ có 15 hội thành viên. Đến nay, con số đó đã lên
đến 140 hội thành viên, trong đó có 63 liên hiệp hội tỉnh, thành phố và 77 hội ngành
toàn quốc. Ngoài ra, trong hệ thống của Liên hiệp Hội Việt Nam còn có hơn 500
đơn vị nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo; 192 tờ báo, tạp chí,
bản tin, đặc san, trang tin, báo điện tử. Các hội thành viên hoạt động theo điều lệ
hoặc quy chế của hội mình, có quyền tự chủ, tự quản rộng rãi trong mọi hoạt động,
nhưng phải tôn trọng điều lệ của VUSTA và chịu sự chỉ đạo và kiểm tra của Hội
đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam.
36
Hình 3.3. Cơ cấu tổ chức của VUSTA
VUSTA thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây: (1) Củng cố, phát triển tổ
chức và đẩy mạnh hoạt động của các hội thành viên, (2) Tham gia thực hiện xã hội
hoá hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân
Đại hội đại biểu toàn quốc
Hội đồng Trung ương
Đoàn chủ tịch Ủy ban Kiểm tra
Hội ngành toàn quốc Cơ quan Liên hiệp
hội Việt Nam
Liên hiệp hội
tỉnh, thành phố
Tạp chí khoa học &
tổ quốc
Báo đất việt
Báo khoa học đời
sống
Nhà xuất bản tri
thức
Quỹ hỗ trợ sáng tạo
kỹ thuật Việt Nam
Các tổ chức khoa
học, công nghệ trực
thuộc
Văn phòng
Ban tổ chức - cán bộ
Ban thông tin và phổ biến
kiến thức
Ban Khoa học, Công nghệ
và Môi trường
Ban kế hoạch – tài chính
Ban hợp tác quốc tế
Ban tư vấn, phản biện và
giám định xã hội
Văn phòng đại diện phía
nam
37
dân, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, (3) Phát triển
công tác vận động trí thức khoa học và công nghệ, (4) Tăng cường hợp tác với các
hội, các tổ chức phi chính phủ của các nước, tham gia các tổ chức khoa học và công
nghệ của khu vực và quốc tế.
Trong lĩnh vực BVMT, VUSTA đã triển khai 85 dự án BVMT từ năm 2004
đến 2014. Trung bình mỗi năm có 8,5 dự án với kinh phí 3,4 tỷ đồng/năm. Các dự
án tập trung vào việc hỗ trợ xây dựng các mô hình vệ sinh, BVMT tại cộng đồng
(27 dự án); điều tra đánh giá tác động môi trường (33 dự án); tuyên truyền, nâng
cao nhận thức về BVMT (16 dự án); hoạt động nghiên cứu khác, tư vấn phản biện
và giám định xã hội (9 dự án) [23]. Các dự án đã tập hợp đông đảo các nhà khoa
học có chuyên môn sâu trong từng lĩnh vực, giải quyết nhiều vấn đề môi trường
trong đó nổi bật nhất là việc chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ môi
trường vào thực tiễn, thể hiện qua hàng loạt các mô hình BVMT hiệu quả tại cộng
đồng. Các hoạt động điều tra cơ bản môi trường và tư vấn phản biện đã cung cấp
các cơ sở khoa học có giá trị cho việc hoạch định chính sách, pháp luật về môi
trường.
3.1.2. Sự tham gia của ENV, CPSE, VUSTA trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam
hiện nay
BVMT không chỉ là trách nhiệm của các cấp chính quyền mà còn là quyền
và nghĩa vụ của mọi công dân và toàn xã hội, trong đó có các tổ chức XHDS. Các tổ
chức XHDS Việt Nam hiện nay tuy có nhiều loại hình tổ chức và tham gia vào lĩnh
vực BVMT dưới nhiều hình thức khác nhau, bằng nhiều con đường khác nhau,
nhưng đều hoạt động trong 5 nội dung chính như sau: (1) Phát hiện, tố giác vi phạm
về BVMT, (2) Phản biện xã hội về môi trường, (3) Tư vấn, vận động chính sách về
môi trường, (4) Kiểm tra, giám sát môi trường, (5) Đào tạo, phổ biến, tuyên truyền
về BVMT.
Bảng 3.3. Các hoạt động chính của tổ chức XHDS trong lĩnh vực BVMT
38
STT Các hoạt động Nội dung
1 Phát hiện, tố
giác
- Với tư cách là những cộng đồng tự quản ở địa phương
mà thành viên đều là lực lượng nhân dân, các tổ chức
XHDS đóng một vai trò quan trọng trong việc phát
hiện, tố giác những sai phạm trong việc thực thi pháp
luật về BVMT.
- Các tổ chức XHDS cũng hoàn toàn có quyền tố giác
những vi phạm về BVMT do những tổ chức sản xuất,
kinh doanh gây ra. Cùng với vai trò tố giác của các tổ
chức XHDS là vai trò hành động tập thể để cải thiện
tình hình, chẳng hạn việc đệ đơn kiện tập thể, thay mặt
cho một nhóm xã hội (chẳng hạn như phụ nữ, trẻ em,
người già) hay một cộng đồng, dân cư lên chính quyền
địa phương hoặc tòa án về những vi phạm nghiêm trọng
đối với môi trường.
2 Kiểm tra, giám
sát
- Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay có hai
loại giám sát là giám sát mang tính quyền lực nhà nước
(Quốc hội, Hội đồng nhân dân) và giám sát xã hội mang
tính quyền lực nhân dân (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, phương tiện thông tin đại chúng
và các cá nhân, cộng đồng).
- Dựa trên khía cạnh giám sát xã hội của cộng đồng, có
thể hiểu giám sát xã hội về BVMT là việc xem xét,
đánh giá hiệu quả và năng lực thực hiện công tác
BVMT của chính quyền các cấp cũng như của tổ chức
XHDS, cá nhân tại địa phương trong cả nước, từ đó có
những khuyến nghị và triển khai biện pháp can thiệp kịp
thời để tăng cường hiệu quả BVMT.
39
3 Phản biện xã
hội về môi
trường
- Phản biện xã hội về môi trường có thể được xem là
một dạng của hoạt động phản biện xã hội với đối tượng
tập trung vào các vấn đề liên quan đến môi trường của
một chính sách, dự án, chương trình, kế hoạch, đề án
(gọi chung là đề án về môi trường). Trong bối cảnh
ngày càng gia tăng các xung đột về môi trường thì vai
trò của phản biện chính sách môi trường càng quan
trọng và cần được thúc đẩy. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa
có quy định cụ thể về loại hình phản biện này.
- Hoạt động phản biện xã hội có một đặc trưng cơ bản,
đó là một hoạt động khoa học thực sự. Vì vậy, đòi hỏi tổ
chức phản biện phải có các hội viên với trình độ chuyên
môn, nghề nghiệp nhất định thì mới có thể nghiên cứu,
xem xét, đánh giá, tổng hợp và đề xuất, kiến nghị những
nội dung cần thiết. Các tổ chức XHDS có quyền thực
hiện hoạt động phản biện xã hội, nhưng kết quả và mức
độ đóng góp cho xã hội lại khác nhau, chủ yếu phụ
thuộc vào năng lực chuyên môn của các hội viên tập
hợp trong tổ chức.
4 Tư vấn, vận
động chính
sách
- Vai trò tư vấn, khuyến nghị của các tổ chức XHDS
được xác lập trong các quy định tại Mục d, Điều 150
của Luật BVMT 2014. Theo đó các tổ chức, cá nhân
đều được khuyến khích thúc đẩy phát triển dịch vụ
BVMT với chức năng bao gồm tư vấn, đào tạo, cung
cấp thông tin về môi trường.
- Thông qua các tổ chức XHDS, người dân có thể bày tỏ
trực tiếp sự đóng góp ý kiến của mình vào việc đưa ra
những quyết định chính trị, chính sách và chương trình,
kế hoạch về BVMT ở địa phương và cấp quốc gia.
40
5 Đào tạo, phổ
biến, tuyên
truyền
- Luật BVMT 2014 quy định Nhà nước phải ưu tiên đào
tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường; khuyến khích
mọi tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục về môi trường
và đào tạo nguồn nhân lực BVMT. Phổ biến, giáo dục
pháp luật về BVMT phải được thực hiện thường xuyên
và rộng rãi. Chương trình chính khóa của các cấp học
phổ thông phải có nội dung giáo dục về môi trường.
- Vai trò và nhiệm vụ giáo dục, phổ biến của các tổ
chức XHDS trong lĩnh vực BVMT còn được tái khẳng
định trong những điều lệ về hội của những tổ chức này.
Rất nhiều tổ chức XHDS đã thực thi tốt sứ mệnh phổ
biến, tuyên truyền về hoạt động BVMT giúp nâng cao
nhận thức, thay đổi hành vi BVMT của cộng đồng. Đây
chính là bài học kinh nghiệm mà các tổ chức XHDS
mới thành lập có thể học hỏi.
Tùy thuộc vào loại hình tổ chức, mục tiêu và lĩnh vực BVMT mà mỗi tổ
chức XHDS có thế mạnh ở một hoặc nhiều hoạt động đã đề cập ở trên. Cụ thể đối
với 3 tổ chức tiến hành nghiên cứu bao gồm ENV, CPSE, VUSTA thì hoạt động
chính của các tổ chức này như sau:
Bảng 3.4. Hoạt động chính của các tổ chức ENV, CPSE, VUSTA
STT Hoạt động ENV CPSE VUSTA
1 Phát hiện, tố giác vi phạm về BVMT
2 Kiểm tra, giám sát môi trường
3 Phản biện xã hội về môi trường
4 Tư vấn, vận động chính sách về môi trường
5 Đào tạo, phổ biến, tuyên truyền về BVMT
41
3.1.2.1. Phát hiện, tố giác vi phạm về BVMT
Trong 3 tổ chức ENV, CPSE, VUSTA thì chỉ có tổ chức ENV tham gia các
hoạt động phát hiện, tố giác vi phạm về BVMT. Năm 2005, ENV thành lập Phòng
Bảo vệ Động vật hoang dã (WCU) nhằm tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia
của cộng đồng vào việc ngăn chặn tình trạng buôn bán động vật hoang dã (ĐVHD)
trái phép, đồng thời hỗ trợ các cơ quan chức năng trong việc thực thi pháp luật bảo
vệ ĐVHD đang bị đe dọa. ENV thực hiện vai trò phát hiện, tố giác vi phạm về bảo
vệ ĐVHD thông qua mạng lưới các tình nguyện viên.
Tính đến tháng 5/2015, WCU quản lý mạng lưới tình nguyện viên bảo vệ
ĐVHD lên tới hơn 5.200 thành viên tại 33 tỉnh thành trên cả nước, với sự có mặt
của 13 câu lạc bộ ở 13 tỉnh, thành phố lớn: Thái Nguyên, Hải Phòng, Hà Nội, Hà
Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng,
Bình Dương, Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh. Các tình nguyện viên đăng ký tham
gia mạng lưới bảo vệ ĐVHD sẽ được: (1) Tập huấn kiến thức và kỹ năng bảo vệ
ĐVHD, (2) Tập huấn kỹ năng truyền thông và quan hệ công chúng, (3) Rèn luyện
khả năng lãnh đạo và làm việc nhóm, (4) Tham gia triển lãm bảo vệ ĐVHD, (5)
Được hướng dẫn về phương pháp khảo sát các vi phạm về ĐVHD. Mô hình hoạt
động của mạng lưới tình nguyện viên về bảo vệ ĐVHD có thể được diễn tả qua sơ
đồ sau (Hình 3.4).
42
Hình 3.4. Mô hình hoạt động của mạng lưới tình nguyện viên ENV
WCU khuyến khích các tình nguyện viên thông báo những vi phạm mới do
tình cờ quan sát được hoặc phát hiện từ các đợt khảo sát. Một số hành vi thường gặp
có thể là: quảng cáo ĐVHD trái phép trên mạng, báo chí, biển hiệu, thực đơn; nuôi
nhốt, tàng trữ và trưng bày trái phép ĐVHD và các sản phẩm có nguồn gốc từ
ĐVHD; buôn bán ĐVHD và các sản phẩm làm từ ĐVHD.
- Khuyến khích mọi người cùng tham gia
Các tình nguyện viên có thể giới thiệu, khuyến khích bạn bè, người thân của
mình thông báo cho WCU nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ ĐVHD
qua đường dây nóng miễn phí của ENV là 1800-1522, hoặc sử dụng ứng dụng điện
thoại di động “ENV – SOS Động vật hoang dã”, giúp người dân tố cáo hành vi
buôn bán ĐVHD một cách dễ dàng, nhanh chóng và chính xác.
Những kết quả thu được
Cơ quan chức năng
(Xử lý vi phạm)
(
Trung tâm ENV
Mạng lưới tình
nguyện viên
Hồ sơ lưu trữ các
vụ vi phạm
Cơ sở kinh
doanh từng vi
phạm pháp luật
bảo vệ ĐVHD
Các vụ vi
phạm mới
Người dân
43
Tính đến hết Quý I/2015, hơn 8.400 vụ việc vi phạm đã được lưu trữ trong
hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia các vi phạm về bảo vệ ĐVHD, kể từ khi Phòng Bảo
vệ ĐVHD của ENV được thành lập vào năm 2005. Số lượng gấu nuôi nhốt trong
các trang trại đã giảm từ 4.300 cá thể năm 2005 còn 1.245 cá thể vào đầu năm 2015
(Số liệu do WCU cung cấp). Thống kê số vụ vi phạm săn bắt, vận chuyển và buôn
bán ĐVHD trái phép trên cả nước qua các năm 2006, 2007, 2008, 2010 cụ thể như
sau (Bảng 3.5).
Bảng 3.5. Số vụ vi phạm về bảo vệ ĐVHD qua một số năm do ENV tiếp nhận và
lưu trữ hồ sơ (Nguồn: WCU cung cấp)
Năm Số vụ
buôn bán,
vận
chuyển
trái phép
Số vụ
bày bán
trái
phép
Số vụ
quảng
cáo
Số vụ
trưng bày,
nuôi nhốt
trái phép
Các vụ
khác
Tổng
2006 70 77 10 53 25 235
2007 128 269 35 123 15 570
2008 129 255 23 143 9 559
2010 147 412 53 300 28 940
Trong Quý I/2015, Phòng Bảo vệ ĐVHD của ENV đã tiếp nhận tổng cộng
145 trường hợp vi phạm mới (trung bình khoảng 02 vụ/ngày), 07 vụ việc đã được
thông báo qua ứng dụng trên điện thoại thông minh về tội phạm ĐVHD, 69 vụ việc
được tiếp nhận qua thư điện tử và 69 vụ việc được thông báo qua đường dây nóng.
3.1.2.2. Kiểm tra, giám sát môi trường
Vấn đề kiểm tra giám sát việc thực thi pháp luật về môi trường không chỉ là
trách nhiệm của các cấp chính quyền, mà còn là quyền và nghĩa vụ của công dân và
toàn xã hội. Hoạt động kiểm tra, giám sát BVMT có thể được cụ thể hóa dưới nhiều
hình thức và bằng nhiều con đường khác nhau, với sự tham gia của nhiều bên liên
44
quan, trong đó tổ chức XHDS đóng vai trò vô cùng quan trọng, cần được khuyến
khích và thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Khó khăn hiện nay là Luật Tiếp cận thông tin vẫn
chưa được ban hành để làm cơ sở cho việc công khai và minh bạch hoạt động theo
dõi, giám sát những sai phạm về pháp luật BVMT.
Điều 5 trong Luật BVMT 2014 quy định: “Nhà nước cần tạo điều kiện thuận
lợi cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động BVMT; kiểm tra, giám sát
việc thực hiện hoạt động BVMT theo quy định của pháp luật”. Tại điều 144, 145,
146 Luật BVMT 2014 nhấn mạnh đến nguyên tắc thực hiện cơ chế dân chủ trong
BVMT, giúp người dân và các tổ chức cộng đồng địa phương thực hiện tốt hoạt
động kiểm tra, giám sát công tác BVMT. Đây là hình thức giám sát mang tính
quyền lực nhân dân, có tính sâu rộng, cùng với giám sát mang tính quyền lực nhà
nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) tham gia tích cực trong công tác BVMT ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Đáng chú ý, Điều 83 của Luật BVMT 2014 đã xác định quyền lập hội trong
hoạt động giám sát BVMT của người dân, các hội này chính là tổ chức tự quản dựa
vào cộng đồng (CBO), hay nói cách khác là tổ chức XHDS ở địa phương trong quá
trình kiểm tra, giám sát BVMT. Đây là nhóm người có chung mục tiêu BVMT, tự
tập hợp nhau lại thành tổ chức dựa trên nguyên tắc tự nguyện và hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật. Như vậy, cộng đồng dân cư và tổ chức tự quản về môi
trường ở địa phương cũng được tạo điều kiện để tham gia kiểm tra, giám sát trong
quá trình triển khai, vận hành dự án; kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về
BVMT của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn.
Đối với các tổ chức ENV, CPSE, VUSTA, hoạt động kiểm tra, giám sát môi
trường được thể hiện như sau (Bảng 3.6).
45
Bảng 3.6. Hoạt động kiểm tra, giám sát môi trường của ENV, CPSE, VUSTA
STT Tên tổ
chức
Các hoạt động kiểm tra, giám sát
1 ENV - Giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan chức năng: sau
khi tiếp nhận thông tin vi phạm về bảo vệ ĐVHD do cộng tác
viên hoặc người dân cung cấp, ENV sẽ chuyển thông tin tới các
cơ quan chức năng và theo sát vụ việc nhằm đảm bảo các cơ
quan chức năng kiểm tra và xử lý dứt điểm. Sau khi có kết quả,
ENV sẽ thông báo lại cho người đã báo tin (Hình 3.4). Quy trình
này nhằm nâng cao tính hiệu quả và minh bạch của công tác
thực thi pháp luật bảo vệ ĐVHD, đồng thời khuyến khích người
dân có phản ánh kịp thời và hành động nhanh chóng khi phát
hiện các vi phạm về ĐVHD.
- Kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh trước đây đã từng vi
phạm: Phòng Bảo vệ Động vật hoang dã (WCU) của ENV cung
cấp cho tình nguyện viên tên và địa chỉ của các cơ sở kinh
doanh vi phạm pháp luật nằm trên địa bàn tình nguyện viên phụ
trách. WCU cung cấp thông tin chi tiết về các hành vi vi phạm
trước đó của các cơ sở này như: quảng cáo thịt thú rừng trong
thực đơn, biển hiệu, trưng bày mẫu vật, bày bán các bình rượu
ngâm ĐVHD, nuôi nhốt trái phép ĐVHD. Mục đích của công
tác kiểm tra, giám sát nhằm xác định các cơ sở kinh doanh này
đã chấm dứt các hành vi vi phạm sau khi đã được khuyến cáo
hoặc bị xử phạt hay chưa, qua đó có biện pháp xử lý nhanh
chóng đối với các trường hợp tái phạm.
- Tại 12 Quận ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh cũng như các thành
phố Huế (Thừa Thiên Huế) và Đông Hà (Quảng Trị), ENV đã
hợp tác chặt chẽ với Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh
46
thực hiện chiến dịch tăng cường thực thi pháp luật nhằm chấm
dứt vi phạm về tiêu thụ ĐVHD bắt đầu vào năm 2013 và kết
thúc vào đầu năm 2015. Mục tiêu của chiến dịch là giảm thiểu
vi phạm về tiêu thụ ĐVHD tại nhà hàng, quán rượu, khách sạn,
cửa hàng chim/thú cảnh, các hiệu thuốc y dược cổ truyền và chợ
trên địa bàn các đô thị lớn. Tổng cộng, đã có 4.974 cơ sở kinh
doanh được kiểm tra, khảo sát. Chiến dịch đã góp phần giảm
thiểu khoảng 42% các vi phạm liên quan đến tiêu thụ ĐVHD,
thành công nhất là quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) với 75% các vi
phạm về ĐVHD được xử lý thành công từ khi chiến dịch bắt
đầu vào năm 2013. Quận Đống Đa (Hà Nội) cũng đạt được kết
quả khá tích cực, chỉ đứng sau quận Hoàn Kiếm với tỷ lệ xử lý
thành công các vi phạm là 66%. Trung bình, 17% số cơ sở được
khảo sát có ghi nhận các dấu hiệu vi phạm liên quan đến
ĐVHD.
2 CPSE - Hoạt động kiểm tra, giám sát về BVMT của CPSE được thể
hiện qua quá trình giám sát việc thực hiện dự án về xây dựng
mô hình kết hợp BVMT với xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ rừng,
canh tác nông nghiệp bền vững, tạo sinh kế ổn định cho người
dân tộc, người nghèo vùng trung du, miền núi phía Bắc. Giám
sát dự án về BVMT của CPSE bao gồm nhiều cấp độ:
+ Giám sát của cán bộ CPSE
+ Giám sát của ban quản lý dự án
+ Giám sát cộng đồng: được thực hiện bởi những người hưởng
lợi từ dự án, các nhóm dự án nòng cốt tại địa phương (CBO),
cộng tác viên, lãnh đạo cộng đồng và thôn bản. Những
người hưởng lợi từ dự án luôn được khuyến khích cung
47
cấp những ý tưởng, sáng kiến và phản hồi cho Ban quản lý dự
án hoặc CPSE trong việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt
động BVMT trong dự án.
- Đánh giá nội bộ được tiến hành bởi nhân viên của CPSE. Đánh
giá dự án giữa kỳ hoặc cuối kỳ được thực hiện bởi các chuyên
gia độc lập. Kết quả giám sát và đánh giá dự án được sử dụng
như một bài học kinh nghiệm để cải thiện việc lập kế
hoạch, thực hiện dự án, phân bổ nguồn lực, trách nhiệm, quyết
định và thiết kế dự án BVMT trong tương lai.
3 VUSTA - Với vai trò là tổ chức bảo trợ: VUSTA kiểm tra, giám sát các
tổ chức trực thuộc đang hoạt động trong lĩnh vực BVMT thông
qua Ủy ban Kiểm tra. Ủy ban Kiểm tra thường xuyên kiểm tra
hoạt động BVMT của những tổ chức này xem có thực hiện đúng
theo giấy phép hoạt động và Điều lệ đã được phê duyệt, tuân thủ
các quy định của pháp luật hiện hành hay không. Qua đó, kịp
thời phát hiện các đơn vị chưa thực hiện tốt hoặc có biểu hiện vi
phạm điều lệ, quy chế để có biện pháp xử lý thích hợp.
- Với vai trò là nhà tài trợ cho dự án BVMT: VUSTA thực hiện
giám sát và đánh giá hoạt động dự án BVMT của tổ chức thành
viên mà VUSTA cấp kinh phí dự án. Trách nhiệm giữa VUSTA
và tổ chức thành viên được nhận tài trợ như sau:
+ VUSTA: (1) Cung cấp tài chính cho các hoạt động của dự án
BVMT trên cơ sở của khung kế hoạch hoạt động của tổ chức
nhận tài trợ, (2) Hỗ trợ mối quan hệ đối tác giữa tổ chức nhận
tài trợ với các tổ chức phát triển, các cơ quan Nhà nước trong và
ngoài địa bàn hoạt động của dự án nhằm hỗ trợ, chia sẻ kinh
nghiệm lẫn nhau trong hoạt động BVMT, (3) Giám sát và đánh
48
giá các hoạt động BVMT của dự án do tổ chức nhận tài trợ thực
hiện, (4) Cùng đối tác xây dựng cơ chế trao đổi thông tin, kinh
nghiệm thường xuyên trong quá trình thực hiện dự án.
+ Tổ chức nhận tài trợ: (1) Xây dựng kế hoạch và ngân sách chi
tiết cho từng hoạt động được thống nhất trong dự án BVMT, (2)
Xây dựng và đề xuất tiến độ thực hiện dự án, (3) Báo cáo kịp
thời và thường xuyên cho VUSTA về chi tiết tình hình thực hiện
dự án, (4) Thông báo trước bằng văn bản cho VUSTA về mọi
thay đổi của hoạt động dự án.
3.1.2.3. Phản biện xã hội về môi trường
Phản biện xã hội (Social Criticsm) là sự tham gia của các tổ chức XHDS,
doanh nghiệp và người dân vào một chủ trương, chính sách của Nhà nước: Chính
phủ, Bộ/Ngành ở Trung ương và ở địa phương: tỉnh, thành phố, huyện, xã trong các
hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường [8]. Phản biện xã hội bên
cạnh thuộc tính khoa học còn có thuộc tính xã hội, tức là phản ánh các quan điểm,
quyền lợi và trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân trong xã hội đối với chính trị,
kinh tế, xã hội ở địa phương và Nhà nước.
Phản biện xã hội xuất phát từ khái niệm và hoạt động về phản biện. Có nhiều
cách định nghĩa về phản biện, song trong phạm vi của Luận văn này, khái niệm
“phản biện” được hiểu theo nội dung được quy định tại Quyết định số 14/2014/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ: “Phản biện là hoạt động đưa ra nhận xét, đánh giá,
phê bình và các khuyến nghị về sự phù hợp của nội dung đề án với mục tiêu và các
điều kiện đã quy định hoặc thực trạng đặt ra”.
Phản biện xã hội nói chúng và phản biện xã hội trong lĩnh vực BVMT nói
riêng phải dựa trên cơ sở quy định của luật pháp và mang tính khoa học chắc chắn,
có tính liên ngành vì nó là hành động có tác động xã hội rộng rãi. Phản biện xã hội
đòi hỏi phải phân tích hết các chiều của một Chương trình hay một dự án phát triển,
49
qua đó xây dựng văn kiện phản biện xã hội hợp lý và có sức thuyết phục. Các tổ
chức XHDS không được lạm dụng quyền tham gia phản biện để gây áp lực lên
chính quyền phải thực hiện các kiến nghị của mình.
Quy trình thực hiện phản biện
- Bước 1: Xác định các vấn đề cần phản biện
- Bước 2: Khảo sát, điều tra, nghiên cứu về vấn đề cần phản biện
- Bước 3: Lấy ý kiến của các chuyên gia về vấn đề cần phản biện
- Bước 4: Tổ chức hội thảo, tọa đàm, lấy ý kiến các tổ chức khác
- Bước 5: Tổng hợp các ý kiến tư vấn, phản biện hoặc xây dựng văn kiện phản biện
- Bước 6: Gửi văn bản phản biện đến cơ quan đặt hàng hoặc cơ quan có thẩm quyền
Từ năm 2002, trách nhiệm phản biện xã hội ở Việt Nam được giao cho
VUSTA và các Hội thành viên. Tư vấn, phản biện và giám định xã hội là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA. Hoạt động này cung cấp các thông tin
khách quan, trung thực giúp cho các cơ quan chức năng có thêm luận cứ khoa học
để quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Sau khi Luật BVMT ban hành
năm 2014, trách nhiệm phản biện xã hội được giao cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong 3 tổ chức nghiên
cứu, hiện nay ENV và CPSE chưa tham gia vào hoạt động phản biện xã hội.
Ngày 14/02/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
14/2014/QĐ-TTg về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của VUSTA,
thay thế cho Quyết định số 22/2002/NĐ-TTg. Theo Quyết định, hoạt động phản
biện xã hội của các tổ chức được thực hiện theo ba phương thức: (i) Đặt hàng trực
tiếp của các cơ quan Đảng, nhà nước, các cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc trình
phê duyệt đối với các đề án cần lấy ý kiến phản biện xã hội; (ii) Đề xuất của các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp đối với các đề án có tác động lớn về kinh tế - xã hội, môi
trường sau khi có sự đồng ý của cơ quan Đảng, nhà nước có thẩm quyền giao cho
các hội xã hội - nghề nghiệp tổ chức phản biện xã hội trước khi các cấp có thẩm
50
quyền xem xét, quyết định; (iii) Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp chủ động đề xuất
các đề án cần lấy ý kiến phản biện xã hội trong lĩnh vực có liên quan.
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định 501/QĐ-TTg ngày 15/4/2015
về việc thí điểm tổ chức diễn đàn khoa học chuyên nghiệp của trí thức khi tham gia
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội các chủ trương, chính sách, dự án
phát triển kinh tế - xã hội. Theo Quyết định 501, VUSTA (tổ chức XHDS) và 2 cơ
quan khoa học thuộc Chính phủ (không phải tổ chức XHDS) gồm: Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS), Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam (VAST) được giao tổ chức thí điểm diễn đàn trong 5 năm. Bộ Khoa học và
Công nghệ có chức năng quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của diễn
đàn. Quyết định này sẽ tạo điều kiện để các nhà khoa học tham gia đóng góp một
cách khách quan cho những chương trình, đề án, vấn đề lớn của đất nước trước khi
được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trong lĩnh vực BVMT, VUSTA đã triển khai nhiều hoạt động tham gia phản
biện về môi trường có hiệu quả. Trong đó tiêu biểu nhất là việc đóng góp ý kiến vào
dự án thủy điện Sơn La để Quốc hội lựa chọn phương án Sơn La thấp, chuyển từ
phương án mực nước hồ từ 265 m xuống mức 215 m; Phản biện dự án thay nước hồ
Tây, đề nghị các cơ quan chức năng không thông qua phương án thay thế nước hồ
tránh được việc đầu tư tới 30 triệu USD vào Dự án này; Góp ý kiến vào Dự án
đường Hồ Chí Minh đi qua rừng Cúc Phương, đã bảo vệ được rừng quốc gia không
bị xâm hại khu vực có đường quốc lộ đi qua, không làm thay đổi sinh cảnh của
nhiều khu vực rừng; Phản biện dự án quy hoạch thành phố bên bờ sông Hồng đoạn
qua Hà Nội với kiến nghị không thực hiện dự án theo quy hoạch đề xuất liên quan
đến chế độ thủy văn và vấn đề môi trường nước của sông Hồng; Tư vấn, phản biện
đánh giá chương trình khai thác bô xit tại Tây Nguyên; Phối hợp với Hội Bảo vệ
Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam phản biện dự án khu nghỉ dưỡng Tam Đảo 2,
kiến nghị không thực hiện dự án này nhằm bảo vệ tính nguyên vẹn rừng quốc gia
Tam Đảo; Đóng góp ý kiến liên quan đến vấn đề môi trường (quy hoạch cây xanh,
hệ thống xử lý nước thải, rác thải đô thị...) trong Đề án quy hoạch Thủ đô mở rộng.
51
Hiện nay, VUSTA đang xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên gia gồm các nhà
khoa học, là những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ, bao
gồm môi trường. Cơ sở dữ liệu này có thể giúp VUSTA và các Hội thành viên ở địa
phương lựa chọn chuyên gia khi thực hiện các nhiệm vụ phản biện.
Tuy nhiên, hoạt động phản biện không phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi do
nhiều nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý các cấp thường có thói quen chỉ thích
nghe các ý kiến thuận chiều, không muốn nghe các ý kiến khác chiều. Nhiều nơi,
nhiều chỗ còn xem phản biện là những ý kiến phản đối, gây khó dễ cho cơ quan
thực thi đề án. Lối tư duy này khiến hoạt động phản biện gặp nhiều khó khăn bởi rất
khó tiếp cận những thông tin chính xác về đề án để có thể đánh giá, phân tích một
cách thấu đáo, khoa học.
Cơ chế về tài chính, cũng là những rào cản làm hạn chế tính hiệu quả của
hoạt động phản biện xã hội. Đây cũng là lý do chính khiến nội dung của nhiều hoạt
động phản biện chỉ được thực hiện với quy mô, lĩnh vực hạn hẹp dưới hình thức các
tổ chức và cá nhân tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị về các bức xúc trong xã hội.
3.1.2.4. Tư vấn, vận động chính sách về môi trường
Với vai trò là một kênh thông tin quan trọng của cơ chế dân chủ trong
BVMT, các tổ chức XHDS không chỉ phản ánh đơn thuần về những vi phạm đối
với pháp luật mà còn đưa ra những kiến nghị, đề xuất cho việc xử lý và giải quyết
các vấn đề về BVMT.
Việc vận động và tư vấn các chính sách phù hợp, điều chỉnh những bất cập,
bổ sung quy định còn thiếu, nhằm đảm bảo công tác giám sát, công tác BVMT được
thực thi một cách minh bạch, trung thực, góp phần hoàn thiện quy định, chính sách,
công cụ quản lý môi trường. Đối với các tổ chức ENV, CPSE, VUSTA, hoạt động
tư vấn, vận động chính sách môi trường được thể hiện như sau (Bảng 3.7).
52
Bảng 3.7. Hoạt động tư vấn, vận động chính sách môi trường của ENV, CPSE,
VUSTA
STT Tên tổ
chức
Các hoạt động tư vấn, vận động chính sách
1 ENV - ENV tham gia hỗ trợ, tư vấn cách thức xử lý ĐVHD tịch thu
được với các cơ quan chức năng theo đúng quy định của pháp
luật.
- Bộ phận Chính sách và Pháp luật (CG) của ENV được thành
lập vào năm 2008 đã tiến hành những nghiên cứu, góp phần tư
vấn, vận động chính sách, giúp các bộ ngành liên quan trong
quá trình xây dựng, cải tiến chính sách pháp luật và thi hành luật
bảo vệ ĐVHD.
- Cuối năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số
160/2013/NĐ-CP về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý
loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo
vệ (Sau đây gọi tắt là Nghị định 160). Theo đó, hai loài tê tê
vàng và tê tê Java đều được Chính phủ nâng cấp mức độ bảo vệ
lên thành loài nguy cấp, quý, hiếm, được ưu tiên bảo vệ. Theo
quy định tại điều 190 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009),
chỉ cần có hành vi "săn bắt, giết, vận chuyển, nuôi, nhốt, buôn
bán trái phép động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm
được ưu tiên bảo vệ hoặc vận chuyển, buôn bán trái phép bộ
phận cơ thể hoặc sản phẩm của loài động vật đó" sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự bất kể khối lượng, số lượng, giá trị tang vật.
Để kịp thời giúp đỡ cơ quan chức năng nắm bắt những thay đổi
của pháp luật liên quan đến chế độ bảo vệ 2 loài tê tê tại Việt
Nam, ngày 1/8/2014, ENV đã gửi Khuyến cáo về việc xử lý vi
phạm liên quan đến tê tê tới Ủy ban Nhân dân tỉnh, Tòa án và
53
Viện kiểm sát Nhân dân cấp tỉnh, Chi cục kiểm lâm, Phòng
Cảnh sát Điều tra Tội phạm về Kinh tế và Chức vụ và Phòng
Cảnh sát Phòng chống tội phạm về Môi trường của 63 tỉnh,
thành phố trên cả nước.
Sau khuyến cáo của ENV, một số địa phương như Hà Nội và Hà
Tĩnh đã bắt đầu áp dụng điều 190 BLHS để xử lý vi phạm liên
quan đến các loài tê tê và không xử lý bán đấu giá với tang vật
tịch thu theo đúng các quy định hiện hành của pháp luật. Ngày
26/12/2014, Công an quận Cầu Giấy, Hà Nội đã ra quyết định
khởi tố vụ việc vận chuyển 02 cá thể tê tê sống và nuôi giữ trái
phép 01 cá thể tê tê được phát hiện ngày 12/12/2014.
2 CPSE - Hoạt động vận động chính sách BVMT được lồng ghép vào
các hoạt động chương trình dự án. Hình thức vận động chính
sách mới chỉ dừng lại ở đề xuất trong các báo cáo đánh giá tổng
kết dự án hoặc tham gia đóng góp ý kiến trong các buổi hội
thảo. Việc có xem xét, thay đổi điều chỉnh hay không từ cấp có
thẩm quyền nhiều khi không được phản hồi.
- Thông qua các dự án, CPSE đã tiến hành tư vấn việc thực thi
pháp luật về BVMT cho người dân và cán bộ địa phương, lồng
ghép kiến thức địa phương và các kết quả nghiên cứu vào thực
hành chính sách nông nghiệp, lâm nghiệp đi đôi với BVMT.
- Năm 2013, CPSE thực hiện dự án “Điều tra các tác động môi
trường và kinh tế xã hội của chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế
lâm nghiệp ở khu vực miền núi phía Bắc” ở các tỉnh Tuyên
Quang, Bắc Kạn, Sơn La, Điện Biên, qua đó tiến hành điều tra,
làm rõ tình hình áp dụng chính sách hỗ trợ lâm nghiệp đến việc
trồng và bảo vệ rừng, BVMT trong lâm nghiệp, tăng thu nhập
54
của người dân trong sản xuất lâm nghiệp. Từ đó, CPSE xây
dựng các khuyến nghị, đóng góp ý kiến xây dựng chính sách
phát triển lâm nghiệp bền vững phù hợp với vùng núi phía Bắc,
đồng thời lôi kéo cộng đồng và các tổ chức NGO khác tham gia
đóng góp ý kiến xây dựng các chính sách nói trên.
3 VUSTA - VUSTA và các tổ chức thành viên đã tham gia góp ý xây dựng
nhiều văn bản pháp luật chẳng hạn như: Luật Tài nguyên nước,
Luật Đa dạng sinh học, Luật BVMT (sửa đổi)… thông qua việc
tổ chức hàng loạt các hội nghị, hội thảo và cung cấp các kết quả
nghiên cứu thực tế. Những ý kiến đóng góp và tư vấn xây dựng
chính sách pháp luật về BVMT của VUSTA được các Bộ,
ngành đánh giá cao về cơ sở khoa học, tính thực tiễn cũng như
tính khả thi.
3.1.2.4. Giáo dục - đào tạo, phổ biến, tuyên truyền về BVMT
Hiện nay, các tổ chức XHDS đã và đang tham gia có hiệu quả trong lĩnh vực
giáo dục – đào tạo, phổ biến, tuyên truyền về BVMT cho nhiều đối tượng khác nhau
như: cộng đồng, các nhà quản lý, các trường trong hệ thống giáo dục đào tạo, nhân
lực chuyên môn về môi trường (công nhân lành nghề, kỹ thuật viên, kỹ sư, cán bộ
nghiên cứu, giảng dạy). Giáo dục và truyền thông giúp làm thay đổi thái độ, hành vi
của con người trong cộng đồng, từ đó thúc đẩy họ tự nguyện tham gia vào các hoạt
động BVMT từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất.
55
Hình 3.5. Mô hình hoạt động giáo dục, truyền thông về BVMT của các tổ chức
XHDS
Mục đích cuối cùng của giáo dục – đào tạo, phổ biến, tuyên truyền về BVMT
là tiến tới xã hội hóa các vấn đề môi trường, nghĩa là tạo ra các công dân có nhận
thức, có trách nhiệm với môi trường, biết sống vì môi trường. Không có giải pháp
nào kinh tế và hiệu quả bằng việc đầu tư vào con người thông qua công tác giáo
dục, truyền thông môi trường.
Công tác giáo dục, phổ biến, tuyên truyền của các tổ chức XHDS thường
được triển khai với nhiều hình thức, khả năng tiếp cận rộng rãi; nội dung thông điệp
truyền tải dễ hiểu, có tính khoa học cao và hướng vào nội dung ưu tiên, làm tăng
hiệu quả tiếp cận thông tin của người dân, kêu gọi sự tham gia của họ vào các hoạt
động BVMT.
Tổ chức
XHDS
Đối tượng
Nội
dung
Phương pháp
- Thuyết phục
- Giáo dục
- Tư vấn
- Phương tiện
truyền thông
Hiểu biết về
BVMT
- Vấn đề
- Nguyên nhân
- Hậu quả
Thông tin, ý kiến,
quan điểm, cảm xúc
Thái độ đúng đắn
với BVMT
- Nhận thức
- Thái độ
- Ứng xử
Khả năng hành
động hiệu quả vào
BVMT
- Kiến thức
- Kỹ năng
- Dự đoán tác động
- Tham gia hành động
56
Hoạt động giáo dục – đào tạo, phổ biến, tuyên truyền về BVMT của các tổ
chức ENV, CPSE, VUSTA được thể hiện cụ thể như sau:
Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV)
Phòng giáo dục môi trường của ENV thực hiện nhiều chương trình nhằm
nâng cao nhận thức của cộng đồng, truyền tải thông điệp bảo vệ ĐVHD đến nhiều
nhóm đối tượng như: học sinh, sinh viên, người dân vùng đệm Vườn Quốc gia, Khu
bảo tồn, cán bộ chức năng ở địa phương. ENV sử dụng nhiều hình thức truyền
thông đa dạng như: phát thanh, báo chí, các phim ngắn tuyên truyền chiếu trên TV,
tổ chức sự kiện, hội thảo, thực hiện các chiến dịch quảng bá (trên mạng xã hội và
Internet, trên các bảng quảng cáo dọc những trục đường cao tốc chính, trên xe buýt
và tạp chí) để tăng cường việc truyền tải thông điệp về bảo vệ ĐVHD tới người dân.
ENV thường xuyên tổ chức các buổi triển lãm nhằm tuyên truyền giảm thiểu
nhu cầu tiêu thụ ĐVHD. Chẳng hạn, ENV thực hiện các triển lãm về gấu tại các địa
điểm công cộng tại nhiều tỉnh/thành trên cả nước với mục đích tạo cơ hội cho người
dân hiểu thêm về thực trạng của loài gấu của Việt Nam và ký phiếu cam kết không
sử dụng mật gấu và các sản phẩm từ gấu. Theo dữ liệu ENV cung cấp, tính đến
ngày 31/7/2014, đã có 220.000 người dân Việt Nam ký cam kết nói không với mật
gấu và các sản phẩm từ gấu.
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Dân số, Xã hội và Môi trường
(CPSE)
- Hoạt động đào tạo: Thông qua việc thực thi các dự án, CPSE đã tiến hành tổ chức
các khóa tập huấn, đào tạo cho người dân kỹ thuật canh tác trên đất dốc, tránh gây
xói mòn đất, bảo vệ nguồn nước, chăn nuôi hợp vệ sinh, phù hợp với phong tục, tập
quán của các dân tộc, bảo quản nông sản sau thu hoạch và phổ biến thông tin tiếp
cận thị trường nông nghiệp. CPSE đã tiến hành lồng ghép kiến thức địa phương và
các kết quả nghiên cứu vào thực hành chính sách nông nghiệp, lâm nghiệp đi đôi
với BVMT.
57
Hình 3.6. Hoạt động đào tạo, lồng ghép các kiến thức địa phương vào dự án BVMT
của CPSE
Được tiếp cận với khoa học kỹ thuật thông qua mô hình trực tiếp và được
trang bị kiến thức bằng phương thức đào tạo “cầm tay chỉ việc” nên chỉ vài năm
người dân vùng dự án không chỉ biết đưa các giống cây trồng có năng suất, giá trị
kinh tế cao như giống đậu tương, ngô lai vào trồng trọt, mà còn biết dùng phân
chuồng bón cây để cải tạo đất, làm tăng năng suất cây trồng, biết cách ủ phân để giữ
vệ sinh môi trường. Thói quen chăn nuôi gia súc thả rông đã được thay thế bằng
chăn nuôi tập trung trong chuồng trại hợp vệ sinh.
- Hoạt động phổ biến, tuyên truyền về BVMT: chủ yếu thông qua các buổi hội thảo
chuyên đề về BVMT và thông qua các ấn phẩm, sách, băng đĩa, tranh ảnh, bản tin,
tờ rơi. CPSE cũng thực hiện các bản tin phát thanh thường xuyên theo tháng trên
Đài truyền thanh của huyện và UBND các xã thuộc khu vực dự án, mục đích truyền
Người
dân
Cơ sở kiến thức
Kiến thức địa
phương của các
dân tộc thiểu số
Kiến thức khoa
học, công nghệ
mới và chính
sách nông, lâm
nghiệp của Nhà
nước
Đào tạo, lồng ghép kiến thức
địa phương vào thực hành
chính sách nông, lâm nghiệp
kết hợp BVMT cho người
dân
Kiến thức khoa học, công
nghệ sẽ cung cấp các nguồn
lực có ích để xác định những
hành động hướng tới hệ sinh
thái nông nghiệp vùng cao
bền vững
Trung
tâm
CPSE
Kiến thức địa phương có tác
động tích cực tới hoạt động
BVMT
58
thông mọi nơi, mọi lúc để người dân nghe được, hiểu được và từng bước nâng cao
nhận thức về BVMT.
Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)
- Ban thông tin và phổ biến kiến thức của VUSTA thường xuyên tổ chức các lớp tập
huấn nâng cao năng lực và kiến thức BVMT cho cán bộ các cấp, cho cộng đồng và
các hội thành viên đang hoạt động trong lĩnh vực BVMT.
- Tổ chức các buổi hội thảo về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững có các đại
biểu đến từ các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức xã hội khác tham
gia.
- Xuất bản các sách, tạp chí, ấn phẩm về BVMT. Xây dựng tài liệu tập huấn môi
trường cho các đơn vị thuộc VUSTA, tài liệu tập huấn môi trường cấp huyện, tài
liệu tập huấn môi trường cho các doanh nghiệp,…
- Tổ chức các cuộc thi, triển lãm về môi trường
- Tổ chức nhiều cuộc thi ảnh, đề án về môi trường
59
3.2. Những thuận lợi và khó khăn của các tổ chức VUSTA, CPSE, ENV khi hoạt động trong lĩnh vực BVMT tại Việt
Nam
Kể từ khi hình thành, các tổ chức VUSTA, CPSE, ENV đã góp phần chung sức cùng với Nhà nước quản lý, bảo vệ,
giám sát môi trường. Trong quá trình hoạt động, những tổ chức này cũng có những thuận lợi và gặp phải những khó khăn nhất
định, được thể hiện cụ thể qua bảng 3.8.
Bảng 3.8. Những thuận lợi và khó khăn của các tổ chức ENV, CPSE, VUSTA khi hoạt động trong lĩnh vực BVMT
Tổ chức Thuận lợi Hạn chế, khó khăn
ENV - Cơ cấu tổ chức của ENV được chia ra thành 3 phòng
ban có chức năng chuyên biệt, hoạt động mang tính
chuyên nghiệp (phòng giáo dục môi trường, phòng bảo
vệ ĐVHD, phòng tư vấn và vận động chính sách).
- Mạng lưới tình nguyện viên lớn, rộng khắp cả nước và
không ngừng tăng lên (5.200 tình nguyện viên tại 33 tỉnh
thành trên cả nước). Đối tượng tình nguyện viên chủ yếu
là sinh viên, rất năng động và nhiệt huyết.
- Quy trình xử lý khi phát hiện các vi phạm về ĐVHD rất
- Hình thức kinh doanh, mua bán, vận chuyển, sử
dụng ĐVHD ngày càng tinh vi, phức tạp, lợi dụng
lỗ hổng của pháp luật.
- Mức độ hiểu biết pháp luật về bảo vệ ĐVHD của
nhiều người dân và cơ sở kinh doanh còn hạn chế.
- Có thể xảy ra hiện tượng móc ngoặc giữa cơ quan
chức năng với cá nhân hoặc cơ sở kinh doanh vi
phạm bảo vệ ĐVHD, làm ảnh hưởng đến hiệu quả
xử lý.
60
nhanh chóng và kịp thời. Huy động được mọi tầng lớp
nhân dân tham gia bảo vệ ĐVHD qua đường dây nóng
miễn phí của ENV là 1800-1522.
- Xây dựng được hồ sơ lưu trữ các vụ vi phạm đầy đủ và
chi tiết, phục vụ việc thống kê, nghiên cứu.
- Hình thức giáo dục, truyền thông rất đa dạng, phong
phú, góp phần nâng cao ý thức của người dân và cơ quan
chức năng trong bảo vệ ĐVHD (phát thanh, báo chí, các
phim ngắn tuyên truyền chiếu trên TV, tổ chức sự kiện,
hội thảo, thực hiện các chiến dịch quảng bá...).
- Nhận được sự hỗ trợ kinh phí hoạt động của nhiều
doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước như: Truyền
hình VTC, USAID, Humane Society International,
BMW, World Animal Protection, Auckland Zoo…
- Người dân và tình nguyên viên gặp khó khăn
trong việc nhận dạng các loài ĐVHD nguy cấp,
quý, hiếm.
- Do số lượng tình nguyện viên quá đông nên ENV
gặp không ít khó khăn trong việc điều phối người đi
khảo sát hàng tháng. Tình nguyện viên chủ yếu là
sinh viên nên họ phải sắp xếp thời gian hợp lý trong
những tháng mùa thi, nghỉ hè.
- Khi tiến hành điều tra các cơ sở kinh doanh thì
tình nguyện viên sẽ phải chịu những rủi ro nhất
định (mặc dù được tập huấn khá kỹ lưỡng và
khuyến khích nên tiến hành điều tra vào ban ngày
và ở các cơ sở kinh doanh công cộng; không vào
nhà riêng để thực hiện điều tra; không nên cung cấp
tên, địa chỉ, hay thông tin cá nhân của mình cho
những người có khả năng là đối tượng của các vụ
điều tra).
- Nhiều cuộc triển lãm, sự kiện về bảo vệ ĐVHD
61
không thuê được địa điểm.
CPSE - Nhân lực của CPSE là những chuyên gia đến từ nhiều
lĩnh vực khác nhau. Sự hiểu biết văn hóa dân tộc, kiến
thức truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền núi
phía Bắc như người H'Mông, Dao, Tày…là thế mạnh của
CPSE để cung cấp đầu vào kỹ thuật và tổ chức có hiệu
quả trong các dự án BVMT.
- CPSE chú trọng xây dựng mô hình kết hợp BVMT với
giảm nghèo, bảo vệ rừng, canh tác nông nghiệp bền
vững, giúp tạo sinh kế ổn định cho người dân, cung cấp
phương tiện sản xuất và trang thiết bị cho các thí nghiệm
và mô hình BVMT. Do đó, ý thức BVMT của người dân
sẽ được duy trì, ngay cả khi dự án kết thúc.
- Trước khi thực hiện dự án về BVMT, CPSE luôn tiến
hành thăm dò và đánh giá nhu cầu đào tạo của người dân
địa phương. Trong quá trình đánh giá này, nhân viên
CPSE cùng với các đối tác dự án địa phương (Ủy Ban
nhân dân xã, Trạm khuyến nông huyện, Kiểm lâm
- Do cơ cấu tổ chức chưa phân hóa thành các phòng
ban có chức năng khác nhau, nên khi có nhiều dự án
cùng lúc, một cán bộ có thể phải tham gia vào công
việc dự án không thuộc lĩnh vực chuyên môn của
mình.
- Do địa bàn hoạt động dự án của CPSE chủ yếu ở
các vùng sâu, vùng xa nên việc tiếp cận với nguồn
thông tin và tiếp cận với cộng đồng ở những giai
đoạn đầu triển khai dự án BVMT gặp nhiều khó
khăn.
- Hoạt động vận động chính sách BVMT mới chỉ
được lồng ghép vào các hoạt động chương trình dự
án. Hình thức vận động chính sách mới chỉ dừng lại
ở đề xuất trong các báo cáo đánh giá tổng kết dự án
hoặc tham gia đóng góp ý kiến trong các buổi hội
thảo.
62
huyện…) đã làm việc với người dân nghèo để tìm hiểu
vấn đề, nhu cầu, tài sản hiện tại của họ, các kiến thức bản
địa và kinh nghiệm BVMT của họ, sử dụng phương pháp
tiếp cận có sự tham gia. Do đó, dự án BVMT được cơ
quan chức năng địa phương ủng hộ, có sự đóng góp từ
phía địa phương, đảm bảo tính bền vững về mặt môi
trường trong toàn bộ quá trình dự án (từ thiết kế, thực
hiện, giám sát đến đánh giá).
- Cộng đồng địa phương được tham gia vào mọi mặt của
dự án, bao gồm cả quá trình ra quyết định. Các mục tiêu
và kết quả dự kiến về BVMT đều có thể đạt được và có
tác động lâu dài.
- Các dự án BVMT của CPSE giúp người dân có cơ hội
tiếp xúc với chính sách BVMT theo nhiều chiều từ dự án.
Từ đó người dân sẽ hiểu và tăng cường thực hiện chính
sách BVMT.
- Từ kinh nghiệm thực hiện dự án BVMT, CPSE đã tham
gia xây dựng nhiều khuyến nghị phục vụ phát triển chính
- Thông tin pháp luật, chính sách BVMT cho dân
tộc thiểu số phải có sự chuyển đổi từ tiếng Việt
sang tiếng dân tộc nên việc phổ biến, tuyên truyền
tới người dân bị hạn chế.
- Theo ông Đặng Nghĩa Phấn (giám đốc trung tâm
CPSE), nhân sự của các tổ chức NGO thường biến
động. Họ có thể chuyển đến làm việc cho các tổ
chức khác hoặc các công ty nước ngoài khác có
mức lương hấp dẫn hơn, hoặc các cơ quan nhà nước
sau khi đã tích luỹ được kinh nghiệm. Do vậy, việc
thu hút thêm cán bộ mới chuyên môn cao và giữ
chân cán bộ có năng lực của trung tâm vẫn hết sức
khó khăn.
- Trong chu trình quản lý dự án, bước viết đề xuất
dự án về BVMT đang là một thách thức với cán bộ
của trung tâm. Đề xuất dự án cần phải có chất lượng
cao để thắng thầu, cạnh tranh nguồn tài trợ với các
NGO khác có cùng lĩnh vực hoạt động. Nguồn tài
63
sách nông nghiệp, lâm nghiệp bền vững kết hợp với
BVMT, phát triển dân tộc, giảm nghèo, phát huy dân chủ
cơ sở, bình đẳng giới.
trợ có thể đến từ ngân sách Nhà nước hoặc kinh phí
từ các tổ chức quốc tế.
VUSTA - VUSTA là nơi tập hợp, đoàn kết rộng rãi đội ngũ trí
thức khoa học và công nghệ trong cả nước, huy động
được nhiều chuyên gia về môi trường thực hiện những
chương trình, dự án khác nhau, tham gia vào quá trình tư
vấn, phản biện, vận động chính sách môi trường theo quy
định của pháp luật. VUSTA là cầu nối giữa Nhà nước,
doanh nghiệp và người dân trong công tác BVMT.
- Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của
các hội khoa học bảo đảm tính khách quan và tính độc
lập cao, hầu như không bị sức ép của hệ thống hành
chính. Nguyên tắc làm việc ở các hội khoa học là hợp tác
và bình đẳng, không theo cấp bậc cao thấp mà theo mô
hình mạng lưới, ai cũng như ai, các ý kiến đóng góp đều
được coi trọng ngang nhau và chỉ được chấp nhận khi có
luận cứ thuyết phục trong tranh luận.
- Số lượng tổ chức thành viên của VUSTA tuy có
phát triển về số lượng nhưng thiếu thống nhất, chất
lượng và hiệu quả hoạt động còn hạn chế, phương
thức hoạt động chậm đổi mới. Nhiều tổ chức gặp
khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí hoạt
động.
- Công tác đào tạo, nâng cao năng lực tổ chức, quản
lý hội, hỗ trợ hoạt động chuyên môn về tư vấn,
phản biện và giám định xã hội, khoa học, công nghệ
và môi trường, phổ biến kiến thức,…của Liên hiệp
Hội Việt Nam đối với các hội thành viên còn chưa
được quan tâm đúng mức, đặc biệt là đối với các
hội thành viên mới gia nhập VUSTA.
- Hoạt động tư vấn, phản biện về môi trường của
các hội thành viên vẫn thiếu tính chủ động trong đề
64
- Nhiều tổ chức thành viên rất tích cực tham gia các hoạt
động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghê,
BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu. Các tổ chức này
hoạt động trên cơ sở tự chịu trách nhiệm và tự chủ về tài
chính.
- Các tổ chức thành viên của VUSTA có mặt ở tất cả các
tỉnh thành trong cả nước và tiếp xúc trực tiếp với cộng
đồng nên việc tuyên truyền, vận động cộng đồng tham
gia hoạt động BVMT mang lại nhiều hiệu quả.
- Hoạt động bảo vệ môi trường của VUSTA phong phú,
có tính liên ngành và đa dạng; các dự án bảo vệ môi
trường được thực hiện công khai, kết quả hoạt động
BVMT có tính khoa học và thực tiễn.
- Nguồn tài trợ của VUSTA khá đa dạng bao gồm: ngân
sách sự nghiệp môi trường, quyên góp từ khu vực tư
nhân, nhà tài trợ quốc tế, tiền bán hàng hóa, phí dịch vụ.
- VUSTA luôn coi trọng và tăng cường mối quan hệ hợp
tác với các bộ, ban, ngành, chính quyền địa phương và
xuất và triển khai thực hiện nhiệm vụ. Các Bộ,
ngành, địa phương chưa chú trọng đặt hàng tư vấn,
phản biện đối với các hội ngành toàn quốc và liên
hiệp hội địa phương. Kinh phí dành cho tư vấn,
phản biện trong các đề án, dự án còn gặp nhiều khó
khăn.
- Sự phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Liên hiệp Hội
Việt Nam và Ban kiểm tra của các hội thành viên
vẫn còn chưa thường xuyên, chặt chẽ. Một số hội
thành viên chưa xây dựng được quy chế làm việc
của Ban kiểm tra, hàng năm không ban hành
chương trình công tác kiểm tra, hoạt động kiểm tra
không đồng đều, hiệu quả thấp.
- Chưa tổ chức được nhiều diễn đàn về môi trường,
tạo môi trường để giới trí thức có thể bày tỏ được
quan điểm và phát biểu ý kiến đóng góp vào những
vấn đề BVMT.
65
các cơ quan khác. VUSTA là đối tác có uy tín đối với
nhiều tổ chức quốc tế, tham gia tích cực vào công tác
ngoại giao nhân dân của Nhà nước.
66
3.3. Đề xuất những giải pháp phát huy vai trò của các tổ chức VUSTA, CPSE
và ENV trong lĩnh vực BVMT.
Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV)
- Trong chuỗi mắt xích gồm săn bắt - buôn lậu - tiêu thụ, nếu hạn chế được việc
buôn bán và tiêu thụ thì chắc chắn sẽ làm giảm được việc săn bắt ĐVHD. Do đó,
việc ENV giáo dục, truyền thông, nâng cao nhận thức của cộng đồng, công chúng
đối với việc sử dụng ĐVHD cần phải được ưu tiên hàng đầu, đồng thời kêu gọi
người dân thông báo các vụ vi phạm tới chính quyền địa phương.
- Hỗ trợ các cơ quan chức năng, tăng cường thực thi pháp luật về bảo vệ ĐVHD. Tư
vấn cho cán bộ quản lý của các khu bảo tồn thực hiện các hành động tức thời và
khẩn cấp để bảo vệ ĐVHD, bao gồm cả việc tăng cường tuần tra vùng lõi, thu lượm
bẫy và giám sát các cửa ngõ chính dẫn vào rừng. Sự tăng cường hợp tác giữa các
nhà quản lý khu bảo tồn và chính quyền địa phương sẽ hỗ trợ cho các bên trong việc
xác minh, hiểu rõ và khởi tố các đối tượng thợ săn chuyên nghiệp, các thương nhân
địa phương và cơ sở tham gia vào việc buôn bán trái phép ĐVHD.
- Khen thưởng những cán bộ và tình nguyện viên tiêu biểu, có nhiều đóng góp trong
hoạt động bảo vệ ĐVHD.
- Công khai và minh bạch thông tin để tăng cường các hiệu quả tuyên truyền. Hỗ trợ
nhà báo trong việc tiếp cận với các nhà lãnh đạo và thông tin về các vụ việc xử lý vi
phạm thành công. Công bố rộng rãi quan điểm cứng rắn của cơ quan chức năng
trước công chúng và khuyến khích người dân tham gia, hỗ trợ các nỗ lực bảo vệ
ĐVHD.
- Cần gia tăng những tham vấn có hiệu quả đối với các nhà hoạch định chính sách
về bảo tồn ĐVHD, tăng cường tính hiệu quả của hoạt động giám sát, BVMT.
- Nâng cao năng lực hoạt động của các tình nguyện viên bằng các khóa tập huấn,
đào tạo. Đội ngũ tình nguyện viên sẽ có nhiều đóng góp trong việc tuyên truyền bảo
vệ ĐVHD cho người thân và những người xung quanh.
67
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Dân số, Xã hội và Môi trường
(CPSE)
- Do hiện tại CPSE chưa có trang web riêng và ấn phẩm xuất bản định kỳ, nên trước
mắt trung tâm có thể quảng bá hình ảnh, giới thiệu tổ chức, chia sẻ kinh nghiệm
BVMT với các NGO khác và nhà tài trợ thông qua những diễn đàn về môi trường,
hoặc trang mạng xã hội.
- CPSE có thể nâng cao năng lực về BVMT cho cán bộ bằng cách tự tổ chức các
khóa tập huấn và đào tạo, hoặc cử cán bộ tham dự khóa học về BVMT được tổ chức
bởi các nhóm, mạng lưới phi chính phủ Việt Nam như: Nhóm hợp tác Phát triển
(CDG), Nhóm các Tổ chức Phi chính phủ Việt Nam (VNGOG), Trung tâm Nghiên
cứu Sinh thái Nhân văn Vùng cao (CHESH), Mạng lưới các tổ chức phi chính phủ
Việt Nam và biến đổi khí hậu (VNGO&CC). Đồng thời, các cán bộ phải chủ động
vươn lên học hỏi dưới sự hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm của những cán bộ có kinh
nghiệm hơn trong tổ chức.
- CPSE cần chủ động tăng cường liên kết với các tổ chức khác có cùng lĩnh vực
hoạt động để dễ dàng chia sẻ thông tin với nhau, cùng nhau nghiên cứu, xây dựng
đề xuất dự án có chất lượng tốt kêu gọi tài trợ.
- Xây dựng mối quan hệ tin tưởng, hợp tác chặt chẽ với những chủ thể hoạch định
và thực thi chính sách để tham gia vận động, tư vấn chính sách BVMT có hiệu quả.
- Mở rộng thêm mạng lưới tình nguyện viên, khuyến khích họ tham gia vào các hoạt
động của trung tâm. Ghi nhận những ý tưởng sáng tạo của họ về BVMT để lồng
ghép vào các chương trình, dự án.
- Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng các kiến thức khoa học công nghệ mới
trong lĩnh vực BVMT.
Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)
- VUSTA cần bám sát các quan điểm của Đảng, quy định của Nhà nước, tạo điều
kiện thuận lợi để các tổ chức thành viên tham gia hoạt động thông tin, tuyên truyền,
68
phổ biến luật pháp, kiến thức BVMT cho cộng đồng, đưa tri thức BVMT xuống cơ
sở, đến với các tầng lớp nhân dân.
- Hỗ trợ liên kết các tổ chức xã hội thành viên hoạt động về BVMT thành một mạng
lưới để thực hiện tư vấn, phản biện và đóng góp xây dựng chính sách. Tổ chức các
lớp tập huấn về phương pháp và kỹ năng tư vấn, phản biện cho hội thành viên.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, có kiến thức về luật pháp, trình độ chuyên
môn và lòng nhiệt tình, trách nhiệm để đưa ra những ý kiến tư vấn, phản biện và
đóng góp xây dựng chính sách BVMT mang tính khoa học, độc lập và có chất
lượng. Thiết lập mối quan hệ hợp tác với cơ quan Nhà nước, đặc biệt là những cơ
quan thuộc đối tượng đặt yêu cầu tư vấn, phản biện.
- Tiến hành thêm những dự án nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học – công
nghệ vào sản xuất, đời sống kết hợp với BVMT.
- Đa dạng hóa hoạt động giáo dục, đào tạo, truyền thông về thực thi các chính sách
pháp luật liên quan đến BVMT cho người dân và cán bộ chức năng.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực phát triển bền vững và
BVMT.
69
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Thời gian gần đây, đi đôi với quá trình phát triển kinh tế thì Việt Nam cũng
như nhiều nước trên thế giới đã và đang phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường
và suy thoái tài nguyên thiên nhiên. Công tác BVMT đã thu hút được sự quan tâm
của xã hội. Bên cạnh nỗ lực của các cơ quan quản lý Nhà nước thì sự tham gia của
cộng đồng và các tổ chức XHDS có ý nghĩa rất quan trọng.
Các tổ chức XHDS ở Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực BVMT bắt đầu
hình thành và phát triển từ nửa đầu thập niên 1990 và phát triển mạnh mẽ nhất từ
năm 2000 đến nay. Những tổ chức này được ví như “cánh tay nối dài” của Nhà
nước, có kết nối mạnh mẽ với cộng đồng và do đó có thể đóng vai trò như là một
cầu nối giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong công tác BVMT.
Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Trung
tâm Nghiên cứu và Phát triển Dân số, Xã hội và Môi trường (CPSE) và Trung tâm
giáo dục thiên nhiên (ENV) mặc dù có mục tiêu, phương thức hoạt động khác nhau,
nhưng các tổ chức này đã thể hiện vai trò, chức năng chính của các tổ chức XHDS
khi hoạt động trong lĩnh vực BVMT đó là: (1) Phát hiện, tố giác vi phạm về BVMT,
(2) Phản biện xã hội về môi trường, (3) Tư vấn, vận động chính sách về môi trường,
(4) Kiểm tra, giám sát môi trường, (5) Giáo dục, phổ biến, tuyên truyền về BVMT.
Trong quá trình hoạt động, VUSTA, ENV, CPSE cũng gặp phải nhiều khó
khăn chẳng hạn như: nhận thức của chính quyền, ban, ngành địa phương, thậm chí
của xã hội nói chung, về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của các tổ chức XHDS còn chưa
đầy đủ; nguồn kinh phí, năng lực hoạt động của một số tổ chức còn hạn chế; vấn đề
tiếp cận thông tin để kiểm tra, giám sát còn khó khăn...
KIẾN NGHỊ
Đề xuất một số kiến nghị để phát huy hơn nữa sự tham gia của các tổ chức
XHDS hoạt động trong lĩnh vực BVMT:
70
- Đối với tổ chức ENV
+ Giảm thiểu nhu cầu tiêu thụ ĐVHD thông qua các chương trình nâng cao nhận
thức cho người dân.
+ Tăng cường thực thi pháp luật thông qua việc hỗ trợ trực tiếp các cơ quan chức
năng và khuyến khích sự tham gia tích cực của công chúng, cùng chung tay ngăn
chặn nạn buôn bán ĐVHD trái phép.
+ Phối hợp chặt chẽ với các nhà hoạch định chính sách để tăng cường thể chế, khắc
phục các lỗ hổng luật pháp, phát triển các chính sách hiệu quả và thúc đẩy quá trình
ra quyết định có liên quan tới vấn đề bảo vệ ĐVHD.
- Đối với tổ chức CPSE
+ Cần tập trung vào tính chuyên nghiệp và chuyên môn hóa lĩnh vực ưu tiên, tìm ra
sứ mệnh của tổ chức trong lĩnh vực BVMT. Xây dựng những dự án, hoạt động,
chương trình gắn liền với quá trình hoạch định chính sách của Nhà nước và địa
phương.
+ Liên kết với các tổ chức XHDS khác thành một mạng lưới để dễ dàng chia sẻ
thông tin, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, phối hợp với nhau thực hiện các dự án
BVMT.
+ Cần tăng cường hợp tác với khu vực tư nhân, khuyến khích sự tham gia của khu
vực tư nhân.
+ Xây dựng mối quan hệ tin tưởng, hợp tác với những chủ thể hoạch định và thực
thi chính sách, bao gồm tổ chức và cá nhân đại diện cho Nhà nước.
+ Thực hiện những nghiên cứu độc lập, cung cấp luận cứ khoa học vững chắc,
thuyết phục cho hoạt động tư vấn, vận động chính sách liên quan đến môi trường.
+ Nâng cao năng lực BVMT cho cán bộ của trung tâm, tổ chức các đợt tập huấn,
đào tạo đội ngũ giảng viên, tuyên truyền viên, cộng tác viên hiểu biết về môi trường
và quyền môi trường.
71
- Đối với tổ chức VUSTA
+ Củng cố và phát triển hệ thống tổ chức VUSTA vững mạnh ở cả Trung ương và
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động nằm tập hợp, đoàn kết rộng rãi, thu hút trí thức tham gia các hoạt động
BVMT.
+ Quan tâm hơn nữa tới công tác chính trị, tư tưởng, giúp trí thức khoa học và công
nghệ nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước. Trên cở sở đó, tiếp
tục xây dựng VUSTA trở thành tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, tin cậy của
Đảng và Nhà nước.
+ Huy động đông đảo đội ngũ các chuyên gia giỏi, các nhà khoa học, nhà quản lý
đầu ngành, có tâm huyết để chủ động tiến hành các hoạt động tư vấn, phản biện và
giám định xã hội theo Quyết định số 14/2014/QĐ-TTg ngày 14 tháng 2 năm 2014
của Thủ tướng chính phủ; tích cực tham mưu, đề xuất đối với các chương trình, dự
án, đề án quan trọng liên quan đến BVMT.
+ Tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến kiến thức BVMT; tham gia đào tạo nguồn
nhân lực, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ BVMT trong
sản xuất và đời sống.
+ Đẩy mạnh xã hội hóa nghiên cứu khoa học và sáng tạo công nghệ, gắn khoa học
và công nghệ với thị trường, với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm BVMT của các quốc gia phát
triển.
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Dương Thanh An (2015), Biên bản tọa đàm: Sự tham gia của cộng đồng và các
tổ chức xã hội: Kinh nghiệm thực tiễn và nhu cầu thể chế hóa cho Luật BVMT,
PanNature phối hợp với Vụ Chính sách và pháp chế thuộc Tổng Cục Môi trường,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hà Nội.
2. CIVICUS (2006), Xã hội dân sự đang nổi: đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại
Việt Nam, Hà Nội.
3. Trần Thị Giang, Tạ Thùy Linh (2015), “Vai trò của giám sát xã hội đối với hoạt
động bảo vệ môi trường”, Tạp chí Môi trường, số 1+2/2015, Viện Khoa học Môi
trường.
4. Đinh Thị Thúy Hằng, Nguyễn Thành Lợi, Nguyễn Thị Minh Hiền, Vũ Thị
Phương Thảo (2011), Hình ảnh các tổ chức xã hội dân sự trên một số báo in và báo
mạng, ISEE, NXB Thế Giới.
5. Trần Đình Hoan (2006), Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội
nhập quốc tế, Báo cáo kết quả nghiên cứu của các đề tài thuộc Chương trình khoa
học cấp nhà nước KX.10
6. Trương Quang Học (2011), Tài liệu đào tạo tập huấn viên về biến đổi khí hậu,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
7. Vũ Thị Hiền (2012), Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển bền
vững, Bản tin FSSP, sô 34-35 tháng 7/2012, tr 13-14
8. Nguyễn Đắc Hy (2011), Môi trường và con đường phát triển, NXB Công an
Nhân dân.
73
9. Nguyễn Phương Linh, Nguyễn Ngọc Lâm (2014), Bộ nguyên tắc thực hành cho
các tổ chức xã hội Việt Nam khi tham gia đóng góp xây dựng chính sách, Trung tâm
nghiên cứu quản lý và phát triển bền vững (MSD)
10. Ngân hàng Phát triển Châu Á (2008), Tài liệu cơ bản về Tổ chức Xã hội Dân sự:
Tài liệu hướng dẫn nhân viên về hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự,
Mandaluyong, Philippines.
11. Hoàng Văn Nghĩa (2011), Vai trò và hoạt động của các tổ chức xã hội trong
việc bảo vệ, giám sát môi trường, Nghiên cứu lập pháp số 18 (203), tháng 9/2011, tr
20-21
12. Hoàng Văn Nghĩa (2015), Thúc đẩy vai trò của các tổ chức xã hội trong giám
sát bảo vệ môi trường, Bản tin Chính sách Quý I/2015, Trung tâm Con người và
Thiên nhiên.
13. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2010), Vai trò của các tổ chức xã hội
đối với phát triển và quản lý xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Phương (2015), Vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ môi
trường, Tạp chí Môi trường, số 3/2015
15. Nguyễn Hoàng Phượng, Đỗ Hải Linh, Trần Thanh Thủy (2015), Thể chế hóa
quy trình tham vấn trong đánh giá tác động môi trường, Trung tâm Con người và
Thiên nhiên, NXB Hồng Đức 2015
16. Quỹ Châu Á (2011), Danh tập một số tổ chức hội, liên hiệp hội, và phi chính
phủ Việt Nam, Hà Nội.
17. Nguyễn Duy Quý (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân, Báo cáo kết quả nghiên cứu của các đề tài thuộc Chương trình khoa học
cấp nhà nước KX.04
18. Phạm Văn Tân (2015), Phản biện xã hội về môi trường – xu thế và đòi hỏi tất
yếu, Bản tin chính sách tài nguyên, môi trường phát triển bền vững, số 17 Quý I
(2015), tr 13-14, Trung tâm Con người và Thiên nhiên
74
19. Phạm Văn Tân (2014), Hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội về lĩnh
vực môi trường của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Tạp chí Môi
trường, số 10/2014, VUSTA
20. Viện khoa học tổ chức nhà nước - Bộ nội vụ (2010), Vai trò các tổ chức xã hội
đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Cơ sở
lý luận và thực tiễn, Hà Nội.
21. Viện Nghiên cứu Châu Âu (2009), Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của các
tổ chức xã hội dân sự ở Châu Âu đối với mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, Hà Nội.
22. Viện Nghiên cứu Quyền con người (2012), Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi
trường, Hà Nội, Việt Nam: IUCN.
23. VUSTA (2014), Báo cáo Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết liên
tịch số 01/2004/NQLT-LHH-BTNMT về việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường
phục vụ phát triển bền vững 2004 – 2014, Hà Nội
Tài liệu tiếng Anh
24. Anjali Agarwal (2008), "Role of NGOs in the protection of environment",
Journal of Environmental Research And Development, pp 933-934
25. Drew Thompson, Xiaoqing Lu (2006), China’s Evolving Civil Society: From
Environment to Health, China Environment Series 2006
26. Gray, Micheal L (1999), Establishing Civil Society: The emergence of NGOs in
Vietnam, Published in Development and Change
27. Huiyu Zhao, Robert V Percival (2014), The Role of Civil Society in
Environmental Governance in the United States and China, University of Maryland
Francis King Carey School of Law Legal Studies Research Paper
75
28. LI Lei (3013), Boost the Role of Environmental CSOs to Safeguard the
Environment and Promote Sustainable Development, All China Environment
Federation (ACEF), Cambodia
29. Marlies Glasius, David Lewis, Hakan Seckinelgin (2004), Exploring Civil
Society, Taylor & Francis e-Library
30. Robert V Percival (1998), Environmental Legislation and the Problem of
Collective Action, Duke Envtl
31. Sidel (1995), The emergence of non-profit and charity sector in Socialist
Republic of Vietnam, in The emerging civil society in Asia-Pacific region, Tadashi
Yomamoto, Singapore, ISEAS
32. UNEP (2002), Topic 3:Public involvement, pp 159 – 185
76
Phụ lục 1. NHỮNG VĂN BẢN PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ
CHỨC XHDS TẠI VIỆT NAM
Hiến pháp năm 1946, tại điều 10; Hiến pháp năm 1959, tại điều 25; Hiến pháp
năm 1980, tại điều 67; Hiến pháp năm 1992, tại điều 69, Hiến pháp năm 2013,
tại điều 25;
Bộ Luật Dân sự năm 1995, Luật sửa đổi năm 2005;
Nghị định - Luật 102/SL, 20/5/1957 của Chủ tịch nước ban hành Các quy định
về Quyền thành lập các Hiệp hội;
Nghị định 258 ngày 14/6/1957; về các quy định chi tiết hướng dẫn việc thi hành
Luật 102/SL 1957;
Thông tư 07 ban hành ngày 6/1/1989 của Ban Tổ chức của Chính phủ hướng
dẫn việc thi hành Chỉ thị 01, 1989 về quản lý việc tổ chức và các hoạt động của
các tổ chức quần chúng;
Chỉ thị 01 ngày 5/2/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về quản lý việc tổ
chức và các hoạt động của các tổ chức quần chúng;
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 27/3/1990 của Bộ Chính trị, về đổi mới chính
sách huy động quần chúng của Đảng, tăng cường các quan hệ giữa Đảng và
cộng đồng dân cư;
Chỉ thị 202 ngày 05/6/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, về việc thi hành
quy định của Chính phủ liên quan tới sự thành lập các hiệp hội;
Nghị định 35/HDBT ngày 28/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng, về việc thành lập
các tổ chức khoa học và công nghệ phi lợi nhuận;
Thông tư liên Bộ số 195-LB (tháng 11/1992) của Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường và Ban Tổ chức và Nhân sự của Chính phủ, công bố việc thực hiện
các quy định về đăng ký và các hoạt động của các tổ chức nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ;
77
Nghị định 47 L/CTN ngày 3/4/1996 về công bố Luật Hợp tác xã (20/3/1996).
Sửa đổi năm 2003: Luật 18/QH11 (26/11/2003) của Quốc hội về Hợp tác xã;
Thông tư 143/TB-TW ngày 5/6/1998 về ý kiến của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính
trị về tổ chức, hoạt động và quản lý các Hiệp hội Nghề nghiệp;
Nghị định 177/NĐ-CP, 22 tháng 12, 1999, của Thủ tướng Chỉnh phủ; Quy định
về Tổ chức và Hoạt động của các Quỹ Xã hội và Quỹ Từ thiện;
Nghị định 25/NĐ-CP ngày 30/5/2001 của Thủ tướng Chỉnh phủ về các quy định
về tổ chức và hoạt động của các trung tâm tài trợ;
Quyết định số 22/TTg, ngày 30/01/2002 của Thủtướng Chính phủ về việc tư
vấn, phản biện, giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam
Quyết định 21/QĐ-TTg ngày 29/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ, về các Quỹ
của Chính phủ cho các hiệp hội nghề nghiệp chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội và các hiệp hội nghề nghiệp liên quan tới các hoạt động có gắn với các
nhiệm vụ của Nhà nước;
Thông tư số 27/2003/TT- BTC ngày 01/4/2003 hướng dẫn cơ chế tài chính, quy
định về: Nội dung và mức chi; nguồn kinh phí và công tác quản lý cần thiết cho
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam;
Nghị định 88/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ quy định về
việc Tổ chức, Hoạt động và Quản lý các Hiệp hội;
Thông tư số123/2003/TT- BTC ngày 16/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn
việc hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước cho các tổ chức chính trị- xã
hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp đối với những hoạt động gắn với
nhiệm vụ của Nhà nước;
78
Thông tư số 01/2004/TT - BNV, ngày 15/01/2004 của Bộ Nội vụ hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định 88/2003/NĐ- CP về tổ chức hoạt động và
quản lý hội;
Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 9/3/2005 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam
Nghị định số148/2007/NĐ- CP ngày 25/9/2007 về tổ chức, hoạt động của quỹ
xã hội, quỹ từ thiện;
Nghị định số178/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 3/12/2007 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang
bộ, đã xác định nhiệm vụ của các bộ trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt
động của hội, tổ chức phi chính phủ thuộc ngành, lĩnh vực hoạt động trong phạm
vi cả nước hoặc liên tỉnh;
Thông tư số 09/2008/TT - BNV, ngày 31/12 /2008 của Bộ Nội vụ hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định số148/2007/NĐ- CP về tổ chức, hoạt động
của quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
Nghị định số 45/2010/NĐ- CP ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức, hoạt động
và quản lý hội;
Quyết định số 68/2010/QĐ- TTg, ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
việc quy định hội có tính chất đặc thù;
Nghị định số 33/2012/NĐ-CP của Chính phủ : Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy
định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
79
Phụ lục 2. MỘT SỐ TỔ CHỨC XHDS HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
STT Tên trung tâm Tên viết
tắt
Mạng lưới
tham gia
Địa bàn
hoạt động
Năm
thành
lập
1 Hội bảo vệ thiên
nhiên và môi trường
Việt Nam
VACNE VUSTA Cả nước 1988
2 Hội Khoa học kỹ
thuật Bảo vệ thực vật
Việt Nam
VUSTA Cả nước 2000
3 Hội khoa học đất
Việt Nam
VUSTA Cả nước 1991
4 Hội Khoa học Kỹ
thuật Biển Việt Nam
VIMAS
TA
VUSTA Cả nước 2008
5
Hội Khoa học Kỹ
thuật Địa Vật lý Việt
Nam
VAG VUSTA, Hội
địa vật lý một
số quốc gia
(Mỹ, Úc, Nhật)
Cả nước 2001
6 Hội khoa học kỹ thuật
lâm nghiệp Việt Nam
VUSTA Cả nước 1982
7 Hội Khoa học Kỹ
thuật Phân tích
Hóa, Lý và Sinh học
Việt Nam
VASS VUSTA Cả nước 1995
8 Hội Trắc địa Bản đồ
Viễn thám Việt Nam
VUSTA, Hiệp
hội các nhà
khảo sát quốc
tế FIG
Cả nước 1989
9 Liên hiệp các hội
khoa học và kỹ thuật
Việt Nam. VUSTA Cả nước
1983
10
Liên hiệp khoa học
Địa chất, Môi trường
và Công nghệ khoáng
GEMT VUSTA Cả nước 1994
11 Nhóm Hợp tác Phát
triển
CDG Cả nước 1998
12 Quỹ Hỗ trợ phòng
tránh thiên tai miền
Trung
VUSTA 14 tỉnh
miền
Trung
2009
80
13 Trung tâm Bảo tồn
Sinh vật biển và Phát
triển cộng đồng
MCD VNGO-CC Cả nước 2003
14 Trung tâm Bảo tồn và
Phát triển Tài nguyên
nước
WARE
COD
Mạng lưới
sông ngòi Việt
Nam (VRN)
Cả nước 2006
15 Trung tâm Con người
và Thiên nhiên
(PanNature)
PAN VUSTA Cả nước 2006
16 Trung tâm Công nghệ
bảo quản và Môi
trường
TSEC VUSTA Cả nước 2002
17 Trung tâm Công nghệ
Hoá học và Môi
trường
ECHEM
TECH
VUSTA Cả nước 1999
18 Trung tâm Công nghệ
Khí sinh học
BTC VUSTA Cả nước 2007
19 Trung tâm Đa dạng
và An toàn sinh học
CBB Biến đổi khí
hậu, thủy văn,
nghiên cứu bảo
tồn đa dạng
sinh học
Cả nước 2003
20 Trung tâm Dân số,
Môi trường và Phát
triển
PED VUSTA,
CIFPEN
Cả nước 2002
21 Trung tâm Địa môi
trường và Tổ chức
Lãnh thổ
CEGTe
P
VUSTA Cả nước 2005
22 Trung tâm Giáo dục
Môi trường và Các
Vấn đề Xã hội
CESED VUSTA Cả nước 2006
23 Trung tâm Giáo dục
Thiên nhiên
ENV VUSTA Cả nước 2000
24 Trung tâm Giáo dục
và Truyền thông môi
trường
CEACE VUSTA Cả nước 2002
25 Trung tâm Hành động
Vì sự Phát triển Đô
thị
VUSTA, GAP Hà Nội 2006
81
26 Trung tâm Hỗ trợ
cộng đồng Phát triển
Bền vững
CSD SEARAV,
CIFPEN
Hà Nội và
vùng dự án
2009
27 Trung tâm Hỗ trợ
Năng lực Cộng đồng
CAA VUSTA Hà Nội 2007
28 Trung tâm Hỗ trợ
Nguồn lực Phát triển
CENFO
RD
Mạng An ninh
lương thực và
giảm nghèo
(CIFPEN)
Hà Nội,
Kontum,
Lào Cai
2006
29 Trung tâm Hỗ trợ
Phát triển
CDA Nhóm hợp tác
phát triển,
Mạng An ninh
lương thực và
Giảm nghèo
(CIFPEN)
Cả nước 2005
30 Trung tâm Hỗ trợ
Phát triển Bền vững
Cộng đồng các Dân
tộc Miền núi
SUDEC
OM
Nhóm hợp tác
phát triển,
Mạng An ninh
lương thực và
Giảm nghèo
(CIFPEN)
Cả nước 2007
31 Trung tâm Hỗ trợ
phát triển nông thôn
đồng bằng sông Hồng
CSRD VUSTA Cả nước 2007
32 Trung tâm khoa học
công nghệ Khí tượng,
Thuỷ văn và Môi
trường
CHMES
T
VUSTA Cả nước 2002
33 Trung tâm khoa học,
công nghệ môi trường
và phát triển
CENTE
CD
VUSTA Cả nước 2004
34 Trung tâm Khoa học
Công nghệ và Môi
trường
Liên minh Hợp
tác xã Việt
Nam
Hà Nội 2004
35 Trung tâm Môi
trường và Phát triển
Nguồn lực Cộng đồng
CECAD VUSTA Sơn La,
Hòa Bình,
Bắc Ninh,
Nam Định,
Nghệ An,
Bình Định,
Gia Lai
2004
82
36 Trung tâm Nghiên
cứu Giới, Gia đình và
Môi trường trong
Phát triển
CGFED Hà Nội và
các tỉnh
khác
1993
37 Trung tâm Nghiên
cứu Môi trường và
Cộng đồng
CECR VUSTA
Cả nước 2009
38 Trung tâm Nghiên
cứu Quản lý và Phát
triển bền vững
MSD Hà Nội và
các tỉnh
khác
2008
39 Trung tâm Nghiên
cứu sản xuất các chế
phẩm sinh học
CBR VUSTA Hà Nội 1998
40 Trung tâm nghiên cứu
Sinh thái -Nhân văn
vùng cao
CHESH VUSTA Hà Nội và
miền trung
1999
41 Trung tâm Nghiên
cứu Sức khỏe cộng
đồng và Phát triển
COHED VUSTA Hà Nội,
Hải Phòng,
Quảng
Ninh
2002
42 Trung tâm Nghiên
cứu Tài nguyên và
Môi trường
CRES VUSTA,
VNGOs - CC
Cả nước 1995
43 Trung tâm Nghiên
cứu Ứng dụng Công
nghệ mới và Môi
trường
ENVIC VUSTA Hà Nội 2007
44 Trung tâm Nghiên
cứu Ứng dụng Công
nghệ sinh học và Môi
trường
CRAIB
E
VUSTA Hà Nội 2005
45 Trung tâm Nghiên
cứu và Chuyển giao
Công nghệ và Môi
trường Đô thị
CUERT
T
Cả nước 2005
46 Trung tâm Nghiên
cứu và Đào tạo về
Sức khoẻ Môi trường
RATCE
H
VUSTA Hà Nội và
các tỉnh lân
cận
2006
47 Trung tâm Nghiên
cứu và Phát triển
Công nghệ hoá sinh
CRTDB VUSTA Hà Nội,
Phú Thọ và
các tỉnh lân
cận
2005
83
48 Trung tâm Nghiên
cứu và Phát triển Dân
số, Xã hội và Môi
trường
CPSE VUSTA Hà Nội,
Bắc Giang,
Hòa Bình
và các tỉnh
khác
2000
49 Trung tâm nghiên cứu
và phát triển vùng cao
CERDA
Mạng lưới đói
nghèo và môi
trường
Hà Nội,
Lạng Sơn,
Lào Cai,
Thái
Nguyên,
Tuyên
Quang
2004
50 Trung tâm Nghiên
cứu và Trợ giúp Phát
triển cộng đồng
CDS VUSTA Hà Nội và
các tỉnh lân
cận
2004
51 Trung tâm Nghiên
cứu và Tư vấn Quản
lý Tài nguyên
COREN
ARM
VUSTA Thừa
Thiên Huế
2006
52 Trung tâm Nghiên
cứu và Ứng dụng
Khoa học về Khoáng
sản
MISAR
C
VUSTA Hà Nội và
các tỉnh lân
cận
1997
53 Trung tâm Nghiên
cứu, Giáo dục Môi
trường và Phát triển
CERED VUSTA,
VNGOs - CC
Hà Nội và
các tỉnh lân
cận
1993
54 Trung tâm Phát triển
Cộng đồng Bền vững
CSCD VUSTA Thanh
Hóa, Lạng
Sơn
2006
55 Trung tâm Phát triển
Công nghệ, Tài
nguyên và Môi
trường
CTRED VUSTA Hà Nội và
vùng dự án
2004
56 Trung tâm phát triển
công nghệ và bảo vệ
môi trường
COTDE
P
VUSTA Hà Nội và
các tỉnh
2006
57 Trung tâm phát triển
kinh tế- xã hội và môi
trường cộng đồng
CSEED VUSTA Hà Nội,
Hòa Bình
và các tỉnh
2006
58 Trung tâm Phát triển
Kinh tế Môi trường
(nay là Viện Khoa
học Môi trường và Xã
CEED VUSTA Cả nước 2008
84
hội)
59 Trung tâm Phát triển
Nông thôn miền trung
CRD Mạng RDSC Huế 1995
60 Trung tâm Tư
vấn, Chuyển giao
Công nghệ, Nguồn lợi
thuỷ sinh và Môi
trường
ACTTA
RE
VUSTA Cả nước 2002
61 Trung tâm Tư vấn Hỗ
trợ Phát triển Địa
phương
SLD VUSTA Hà Nội và
các tỉnh lân
cận
2007
62 Trung tâm Tư vấn
Quản lý Bền vững Tài
nguyên và Phát triển
Văn hóa Cộng đồng
Đông Nam Á
CIRUM SEARAV Hà Nội và
vùng dự án
2005
63 Trung tâm ứng dụng
vật lý y sinh và kỹ
thuật môi trường
CPE VUSTA Hà Nội và
vùng dự án
2005
64 Trung tâm xúc tiến
phát triển cộng đồng
và bảo vệ môi trường
CECOD
PEP
VUSTA Hà Nội,
Ninh
Thuận,
Bình
Thuận và
các tỉnh
2006
65 Viện Địa kỹ thuật VGI VUSTA Cả nước 1995
66 Viện Địa lý sinh thái
môi trường
IEGE VUSTA TP Hồ Chí
Minh
2005
67 Viện Khoa học Môi
trường và Sức khỏe
Cộng đồng
IESH VUSTA Hà Nội và
các tỉnh lân
cận
2007
68 Viện khoa học và
công nghệ Phương
Nam
PNSTI VUSTA TP Hồ Chí
Minh và
các tỉnh
đồng bằng
sông Cửu
Long
2006
69 Viện Kinh tế Sinh
thái
ECO-
ECO
VUSTA Cả nước 1993
85
70 Viện Kỹ thuật Tài
nguyên nước và môi
trường
IWRET
E
VUSTA TP Hồ Chí
Minh và
các tỉnh lân
cận
2003
71 Viện Môi trường và
Phát triển bền vững
VESDI VUSTA Cả nước 1995
72 Viện Nghiên cứu,
Đào tạo và Tư vấn
khoa học công nghệ
ITC VUSTA Hà Nội và
các tỉnh lân
cận
1993
73 Viện Nghiên cứu hợp
tác khoa học kỹ thuật
Châu Á - Thái Bình
Dương
IAP VUSTA Cả nước 1996
74
Viện Tài nguyên
nước và Môi trường
Đông Nam Á
SAIWR
E
VUSTA Hà Nội và
các tỉnh lân
cận
2007
75
Viện Tư vấn Phát
triển CODE VUSTA Cả nước
2007
86
Phụ lục 3. BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU MỘT SỐ CÁN BỘ CỦA CPSE,
ENV, VUSTA
1. Tên tổ chức:………………………………………………………………………...
2. Địa chỉ:……………………………………………………………………………..
3. Năm thành lập:……………………………………………………………………..
4. Họ tên người trả lời:………………………………………………………………..
a. Chức vụ:………………………………………………………………………
b. Thời gian làm việc cho tổ chức……….năm
c. Giới tính:………………………………………………………………………
5. Cơ quan quản lý của tổ chức:……………………………………………………....
6. Loại hình của tổ chức (hội nghề nghiệp, NGO, khác):……………………………
7. Hoạt động củng cố và phát triển tổ chức hiện nay như thế nào?
- Cơ cấu tổ chức, nguồn tài chính, vận động tài trợ, nguồn nhân lực (số lượng và
chất lượng), chế độ khuyến khích nhân viên (lương, thưởng, học tập nâng cao), sử
dụng trang web, internet, xây dựng mạng lưới với các tổ chức khác.
8. Các hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT) của tổ chức là gì?
- Lĩnh vực, hình thức, kết quả thực hiện các chương trình, dự án, hoạt động về
BVMT trong những năm gần đây.
9. Hoạt động nâng cao năng lực của tổ chức như thế nào?
- Tập huấn, tham quan, hội họp, tham gia nhóm chuyên đề để chia sẻ kinh nghiệm
BVMT. Đánh giá chung về những điểm mạnh cũng như tồn tại của những khoá tập
huấn về BVMT mà tổ chức đã cử cán bộ tham gia (nội dung, phương pháp, thời
gian, tài liệu đào tạo...).
10. Những điểm mạnh cũng như khó khăn thách thức hiện nay mà tổ chức đang
phải đối mặt trong hoạt động BVMT?