ngÔ tẤt tỐ mỘt tÀi nĂng lỚn ... -...
TRANSCRIPT
NGÔ TẤT TỐ MỘT TÀI NĂNG LỚN ĐA DẠNGNGÔ TẤT TỐ
MỘT TÀI NĂNG LỚN ĐA DẠNG
MAI HƯƠNG
(Tuyển chọn và biên soạn)
LỜI GIỚI THIỆU
Chỉ với ba thập kỷ cầm bút, Ngô Tất Tố đã để lại một sự nghiệp văn
học đồ sộ, đa dạng bao gồm nhiều thể loại: Tiểu thuyết, phóng sự, truyện ký
lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, sáng tác chèo, tiểu phẩm báo chí... và ở thể loại
nào ông cũng viết đầy tâm huyết, sâu sắc và bộc lộ hết mình, và đã để lại
những dấu ấn riêng sâu đậm. Ngô Tất Tố là cây bút tiểu thuyết, phóng sự đặc
sắc với những tác phẩm tiêu biểu: Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng. Là một nhà
khảo cứu đầy tâm huyết với những công trình có giá trị: Mặc tử, Lão tử, Văn
học đời Lý, Văn học đời Trần...; một dịch giả tài hoa qua các bản dịch Đường
thi, Thơ văn Lý Trần, Hoàng Lê Nhất Thống Chí... rồi Suối thép, Trời hửng,
Trước lửa chiến đấu... Đặc biệt, ông là nhà báo rất có tài, từng nổi tiếng khắp
làng báo Bắc - Trung - Nam với hàng trăm tiểu phẩm báo chí, văn học đặc
sắc phản ánh sâu sắc, đa dạng muôn mặt hiện thực của xã hội thực dân
phong phong kiến Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nhưng, nói đến
Ngô Tất Tố, bao trùm lên tất cả, là nói đến một nhân cách lớn của một nhà
văn hóa lớn mang đậm cốt cách Việt Nam, cốt cách Á Đông. Từ một nhà nho
nghèo yêu nước, bằng tài năng và tấm lòng nhiệt thành với đất nước, với
nhân dân, ông đã đến với cách mạng và trở thành một nhà văn hiện thực có
tầm cỡ, một nhà báo cấp tiến đấu tranh không khoan nhượng, không mỏi mệt
cho quyền sống của những người lao động nghèo khổ và lương thiện, cho lẽ
phải và sự công bằng xã hội. Chính đó là cốt lõi của tài năng, là cơ sở để tạo
nên phẩm chất riêng đáng trân trọng trong sự nghiệp đồ sộ và đa dạng của
ông.
Suốt sáu thập kỷ qua, văn nghiệp và cuộc đời của nhà văn đã thu hút
được sự quan tâm, yêu mến của các nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy
văn học và nhiều thế hệ bạn đọc. Cho tới nay đã có tới hàng trăm công trình,
bài viết từ nhiều góc độ, tiếp cận khác nhau, đi sâu nghiên cứu cuộc đời và
văn nghiệp của nhà văn hiện thực xuất sắc này. Cuốn sách Ngô Tất Tố —
một tài năng lớn, đa dạng, do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành nhằm
giới thiệu với bạn đọc những bài viết thiệu với bạn đọc những bài viết tiêu
biểu được tuyển chọn từ khối lượng những công trình, bài viết phong phú đó
về Ngô Tât Tố. Cuốn sách gồm hai phần:
Phần I: Ngô Tất Tố - Một nhân cách lớn, một sự nghiệp lớn.
Phần II: Sức sống một văn nghiệp lớn, đa dạng.
Nhà xuất bản xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và mong được tiếp
nhận sự hưởng ứng cùng ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc xa gần.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN
Phần 1. NGÔ TẤT TỐ, MỘT NHÂN CÁCH LỚN, MỘT SỰ NGHIỆP LỚN
NGÔ TẤT TỐ “NHÀ VĂN” NHÀ TIỂU THUYẾT LÃO THÀNH
NGUYÊN HỒNG
Nhà văn và nhà tiểu thuyết lão thành của chúng ta, Ngô Tất Tố, không
còn nữa! Tháng 4 năm 1954, giữa một vùng đất sỏi khô cằn, nông dân đương
đội giời nắng chang chang đào chuôm, đắp đập, xẻ ngòi để lấy từng gầu
nước cho lúa Nam Ninh, cho khoai, cho đỗ sau hai năm những dòng nước
nông giang dào dạt cạn tắt từ ngày đập Thác Huống bị giặc Pháp phá tan
tành, giữa một vùng đây, kia, những địa chủ cường hào gian ác lần lượt quỳ
gối nhận tội trước nông dân, những bãi cam vàng, những đồng lúa xanh tươi
bao nhiêu đời nay ở đây dân cày ngậm ngùi giờ bật cả lên ca hát dưới lá cờ
của Đảng tiền phong và bước theo bàn tay vẫy lên phát động của Hồ Chủ
tịch, giữa một vùng quê hương thôn dã thứ hai của mình tưng bừng, quyết liệt
đấu tranh ấy, Ngô Tất Tố đã từ biệt chúng ta mãi mãi.
62 tuổi, 40 năm làm báo, viết văn, soạn sách, dịch và viết tiểu thuyết,
trước khi ngọn bút trọn đời với nghề kia nhắm mắt, còn để lại hơn 300 trang
khổ giấy bình dân trong bản thảo ba tập truyện dịch Trời hửng của Vương
Lực, Doãn Thanh Xuân của Hàn Phong và Trước lửa chiến đấu của Lưu
Bạch Vũ và hơn 100 trang sáng tác Bùi Thị Phác, một vở kịch chèo đã được
giải thưởng về kịch 1952 của Hội văn nghệ Việt Nam.
Ngô Tất Tố sinh trưởng ở tỉnh Bắc Ninh, huyện Từ Sơn, làng Lộc Hà.
Trong một khoa thi cuối cùng của khoa cử ở Bắc Ninh. Ngô Tất Tố đã đỗ đầu.
Nhân dân Bắc Bộ đã nói nhiều cái học lỗi lạc của ông xứ Tố. Anh em làng
văn, làng báo cũ cũng thường gọi Ngô Tất Tố bằng cái tên ấy nhưng đổi một
cái tên khác thân yêu hơn: bác Xứ Tố. Nhưng, bằng cấp đã thi đỗ được ấy chỉ
để cho Ngô Tất Tố vứt đi và càng làm thấy rõ thêm một chế độ mục nát đã
đến tận cùng không còn thể nào chịu được nữa, không còn lý do nào nữa tồn
tại thêm dưới ánh sáng mặt trời này.
Trong các giai đoạn thực dân Pháp cố sức dập cho tắt hẳn ngọn lửa
yêu nước âm ỉ trong nông dân, đặc biệt sự nhóm họp đấu tranh cuối cùng,
khoảng 1905, 1906 của một số những nhà nho chân chính không thể yên tâm
và cam chịu làm một dân mất nước thì một mặt khoa cử cũ bị đóng cửa hẳn,
một mặt những trường khác đã được mở ra như trường hậu bổ, trường thông
ngôn. Thực dân quỷ quyệt, phần để đào tạo một số người học mới làm nô lệ
cho được nên chúng phần xoa dịu, mua chuộc, đầu độc một lớp thanh niên trí
thức, Nho học bấy giờ; tức khắc, một lũ con em của quan lại địa chủ phong
kiến liền chạy ngay lên, nương vào quyền thế của cha anh giành giật ngay lấy
những địa vị bóc lột mới trong xã hội. Bàn chân chà đạp của thực dân, bọn
này ôm rất chặt, mơn man và ca tụng, lấy công việc đó làm thức thời cuộc
sống và trật tự đó làm vinh dự, kiểu mẫu của một phẩm giá thời đại.
Gia đình Ngô Tất Tố là một gia đình nông dân lao động, không có ruộng
phải lĩnh canh ruộng làng để sinh sống và phải làm ăn chật vật mới nuôi nổi
được con ăn học. Chung quanh Ngô Tất Tố là sự sống bần cùng ngột ngạt
dưới những uy quyền cha truyền con nối của những dòng họ đại địa chủ và
phong kiến nắm hết sinh mệnh nhân dân trong tay. Tài học và thông minh của
mình, Ngô Tất Tố thấy không dùng làm được việc gì hết với thực dân, bọn
quan lại, trừ một việc bợ đỡ chúng, theo chúng bóp cổ nhân dân để bóc lột.
Nỗi đau xót của người dân mất nước và cái căm nhục của một trí thức bị
chèn ép, khinh miệt, càng thấy sâu sắc, thấm thía.
Ngô Tất Tố đã quả quyết đi hẳn sang một con đường sống khác. Chiếc
bút lông thay bằng bút sắt. Với ngòi bút, Ngô Tất Tố kiếm sống và chống lại
những cái ngang trái bất công của xã hội, Ngô Tất Tô đã viết ở những báo
Thực nghiệp, báo Thần chung, dịch những tác phẩm tiến bộ của Trung Quốc.
Cuộc sống bán văn, viết mướn này, tuy giải quyết được một phần nhỏ nào
những dằn vặt trong tư tưởng trước cái thực tế nặng tối của chế độ lúc bấy
giờ nhưng cũng đồng thời làm cho Ngô Tất Tố rõ hơn, sâu sắc hơn sự đè nén
đến nghẹt thở của cái nhà tù thực dân trong đó Ngô Tất Tố phải hết sức giãy
giụa và tìm các cách để luồn được tư tưởng mình vào nhân dân, vạch ra ánh
sáng.
Ra báo phải có tài sản lý lịch trong sạch và xin phép... kiểm duyệt xẻo
cắt tàn nhẫn, nghiệt ngã... mật thám đòi hỏi hăm dọa... quản lý những nhà
báo và nhà xuất bản trục lợi một cách quá “chó đểu”. Đã có lần, một tên quản
lý đã gạ nhà văn của chúng ta ký giấy giao kèo viết đặc biệt cho cơ quan của
nó, và tiền báo tháng tháng thì lĩnh một nửa, còn bao nhiêu để lâu tích lại, nó
sẽ lấy đất của đồn điền nó tính giả cho! Ngô Tất Tố đã nhổ ngay vào mặt nó.
1930 - 1931. Cái chế độ xã hội bóc lột, đàn áp mà Ngô Tất Tố càng
ngày càng thấy trĩu xuống người mình ấy, bị lay chuyển mạnh. Những phong
trào công nhân ở Hồng Gai, Nam Định, ở các đồn điền cao su Nam Bộ,
những phong trào nông dân ở Thái Bình và đặc biệt cuộc thành lập Xô viết
Nghệ An đẫm máu, khủng bố và khủng bố... Nhưng đến năm 1936, 1937, cửa
các nhà ngục chính trị của đế quốc Pháp bắt đầu phải hé mở, thả ra các chiến
sĩ Cộng sản thì phong trào đấu tranh lại lên ngùn ngụt.
Ngô Tất Tố, cũng như một số cây bút tiến bộ khác, thảy đều thấy sức
mạnh phá bỏ một chế độ thối nát, dựng lên một chế độ tươi sáng tốt đẹp ở
đây, ở giai cấp công nông lao khổ được tổ chức, lãnh đạo, cùng nhau vùng
lên giành quyền sống. Sự tồn tại của những tác phẩm, lý tưởng của nhà văn,
chỉ có thể đứng về phía đấu tranh giai cấp đó, hưởng ứng cuộc đấu tranh giai
cấp đó bằng sự làm việc của mình bấy lâu bị kìm hãm, rụt rè, loanh quanh,
chập choạng chưa định rõ được phương hướng.
Ngô Tất Tố đã viết ở báo Tương lai và biên soạn liền hai tập: Việc làng
và Tắt đèn. Cuốn trên là một thiên phóng sự. Cuốn dưới, tiểu thuyết, cả hai
lấy đề tài nông thôn, cùng lúc với Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan
và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.
Thôn quê Việt Nam, dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố, không như bọn thực
dân bưng bít và một lũ nhà văn tư sản tô điểm. Trong những luỹ tre xanh gày
và gai góc kia, chiều chiều khói thổi cơm nhoi lên những mái tranh xám, tản ra
những cánh đồng lặng lẽ, không phải là những cảnh thơ mộng, mà sự thật là
những người mẹ gần chết đói, con thơ nằm bên vẫn còn kéo dài vú ra nhay,
là những người cha ốm nhìn hấp hối những bếp đầu rau chỉ còn tro lạnh và
những mảnh nồi vỡ, bao nhiêu áo cơm và hơi sức của bao nhiêu người làm
ăn lấm lưỡi đều bị sưu cao thuế nặng lột hết, lột hết...
Và những nóc đình mái cong, ngói rêu, có những cây gạo mọc vút lên
hoa đỏ rực trời, không phải chỉ có văng vẳng tiếng trống chèo và dập dìu bài
lưu thuỷ về giêng, hai, ba, đình đám! Ở đây, cả một bọn quan lại và cường
hào tranh cạnh nhau, tranh từng miếng phao câu, từng ngón tay xôi, cờ bạc,
rượu chè, cô đầu, chia nhau chấm mút cấu xé ruộng đất và sưu thuế, cưỡi
trên những sống lưng gần ngã gục của nông dân nô dịch...
Ngòi bút rắn chắc của Ngô Tất Tố đã không e dè đưa lên những sự
thật. Người nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố, chưa
ánh lên cái sức đấu tranh, nhưng sự thống khổ của họ đem phơi bày ra đã
được một phần nào thật, thật trên cái đen tối của chế độ tàn bạo và ruỗng nát
lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, những sự đè nén, lừa bịp và ăn gian nói dối của
bọn thực dân và lũ bồi bút của chúng càng ngày càng tàn tệ, trâng tráo. Cuộc
chiến tranh thứ hai nổ ra, Pháp ở Đông Dương liền quỳ ngay gối, mở cửa cho
quân phiệt Nhật vào. Hai tầng áp bức bóc lột và khủng bố xoáy lấy dân
chúng. Văn hóa trong tay hai bọn ăn cướp nọ càng khốc hại. Chúng nó cố
kéo con người trở lại với tất cả cái gì là thoái độ, dìm cho con người cắm đầu
mê muội không thể nào cất nhìn lên, trông về tương lai. Chúng nó đào lên ở
những nấm mồ đã ngàn năm những đạo đức, lễ nghi, triết học, tư tưởng
phong kiến dựng lên thành thánh đường, thành lâu đài. Thơ ca, truyện, biên
soạn, nhạc, kịch, hội họa, kiến trúc... đã hướng chặt chẽ để phục vụ cho âm
mưu đó.
Những năm đen xịt những đói kém, thất nghiệp, bắn giết, tù đày, chợ
đen, đầu cơ tích trữ này, chính sách văn hóa kiểm duyệt, mua chuộc, lung
lạc, cổ võ của bọn thống trị càng gắt gao, chặt chẽ rộng lớn! Những cuộc trao
đổi văn hóa Đông Dương và Nhật Bản, tiêu tiền triệu của nông dân hai nước,
để đi tới sự ca tụng cái chính sách ăn cướp của chúng nó... Những tối kịch
hát hoa lệ ở Nhà hát lớn Hà Nội, diễn những Trầm hương đình, Mạnh Lê
Quân thoát hài... Những tập sách dày 3, 4 trăm trang về Nho giáo, Kinh dịch...
Những sách báo chuyên khảo về các ông nghè triều Lê và các loại vũ khí tối
tân... Thơ yêu ma... Nhạc dâm loạn... tất cả một mớ thuốc độc ấy, đế quốc gọi
là những hoạt động của nền văn hóa Phục hưng, trở về giá trị cũ của học
thuật, nghệ thuật, phát huy những tư tưởng cao quý siêu việt của con ngưòi.
Sự liêm sỉ của một thái độ trọng sự thật không cho phép bất kỳ một nhà
văn nghệ chân chính nào nhận những cái đã chết thối rồi không giữ được
đem dựng lên, dù đó là đạo đức, lễ nghi, là tư tưởng, là học thuật văn hóa.
Trong Lều chõng, cuốn tiểu thuyết dày đặc của Ngô Tất Tố, sự ngay thẳng
của một ngòi bút đã dõng dạc cất tiếng chửi vào mặt những cái “hay” cái
“đẹp” của bọn thống trị đưa ra cổ võ ấy.
Cũng viết về khoa cử, nhưng đây là một sự thật trần truồng về khoa cử.
Trường ốc chỉ là nơi buôn bán gian giảo giữa bọn quan trường dốt nát và
tham ô với bọn học sinh nhà giàu và quan lại ngông nghênh, ngu xuẩn, bợm
bãi. Chung quy chỉ là những gông xích đóng lấy cổ, trói lấy tay những nhân tài
thật lòng thiết tha mong đem sự học của mình ra làm việc cho dân cho nước.
Còn cái đẹp, cái thơ của kiệu song, võng tía, biển lọng chỉ là những cái mà trí
thức có làm đĩ cho quan lại, có mất hết cả nhân cách đi thì mới hưởng được.
Những năm Nhật Pháp tối tăm ấy, Ngô Tất Tố đã trải qua ở quê hương
ông. Cả những ngày khủng khiếp của trận đói 45, hơn hai triệu nông dân đã
chết. Bắc Ninh, một trong những tỉnh cao trào cứu quốc lên ở Bắc Bộ, Cách
mạng tháng Tám thành công, những nông dân còn lại, một tay gạt máu đẫm
mình của bao nhiêu năm xiềng xích, một tay lại cầm mạ xuống, mảnh đất lần
đầu tiên trong lịch sử thành lập chính quyền dân chủ. Ngô Tất Tố đã bắt đầu
nhập sâu thêm vào cuộc đấu tranh và kiến thiết vĩ đại này. Nông dân đã bầu
ông làm uỷ viên trong Uỷ ban giải phóng xã nhà. 1946, Ngô Tất Tố vào Hội
Văn hóa cứu quốc. Trong một bữa cơm đông đủ gần hết anh chị em văn nghệ
sĩ Bắc Bộ và Trung Bộ, bế mạc Hội nghị Văn hóa cứu quốc lần thứ nhất ở Hà
Nội, ông già tóc ngắn hoa râm, áo dài khăn xếp, sắt đanh với cái tên Hy Cừ
chuyên vạch mặt chỉ trán những chuyện ngang trái của xã hội thực dân và
phong kiến trong một mục báo hàng ngày kia, hơi rượu liên hoan ngà ngà,
đứng lên khoanh tay, bẽn lẽn ngâm mấy câu thơ mừng cách mạng thành
công...
Kháng chiến toàn quốc. Quê hương Ngô Tất Tố, cái làng Cói cheo veo
ngay bờ con sông Đuống bát ngát bãi dâu và bãi ngô bị uy hiếp và trở thành
khu du kích. Trong một trận chống giặc vào làng càn quét, người con trai thứ
của Ngô Tất Tố vừa thôi học về làng, đã hy sinh cùng với một đồng chí cán
bộ huyện và một đồng chí du kích xã.
Gửi làng lại cho du kích và bộ đội địa phương vừa chống giặc, vừa cày
cấy, người cha già nay ra đi công tác. Những đau xót và căm giận biến thành
ca dao, những bài báo, những bài hát chèo, đăng trên báo Cứu quốc khu XII,
minh họa cho những bức tranh điệp cho Sở Thông tin và hát ở các làng, các
xã. Kháng chiến gian khổ càng làm tăng thêm ngòi bút, cũng như sự căm thù
của Ngô Tất Tố, bài quyết tâm của toàn dân gìn giữ đến giọt máu cuối cùng
đất nước và giành lấy nền độc lập thống nhất thực sự, càng làm Ngô Tất Tố
nhìn thấy một cách kính phục và tin tưởng sự quan trọng của sự tổ chức và
lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng tiền phong của nó. Nông dân Việt
Nam, dân tộc Việt Nam, không thể quân thù nào thắng nổi, trái lại có thể tiêu
diệt bất cứ quân thù nào, đánh tan bất cứ cuộc xâm lăng nào một khi sức
mạnh của nó được huy động và đúc lại thành một khối. Nông dân Việt Nam,
dân tộc Việt Nam sẽ chính tay mình dựng nên một đất nước tốt tươi, một xã
hội tự do và hạnh phúc một khi nó được giáo dục và có cái ý thức cách mạng
và khoa học của giai cấp công nhân, chiến đấu theo chủ nghĩa mác — Lê, với
Đảng duy nhất của nó: Đảng cộng sản.
Ngô Tất Tố tìm hiểu như thế, tin tưởng như thế, những mong chiến đấu
và tin ở chiến đấu được như thế.
Trong cuộc học tập của một số anh em văn nghệ sĩ ở một địa điểm Việt
Bắc, ngày mồng 1 tháng 5 năm 1948, Ngô Tất Tố đã gia nhập Đảng cộng sản
Đông Dương. Nguyện vọng một đời của nhà văn đã thành sự thực. Phương
hướng tiến lên của một sự nghiệp rạng rỡ. Ngô Tất Tố vững vàng thêm, quyết
liệt hơn, sắc bén hơn trong hàng ngũ của giai cấp công nhân, chiến đấu với
ngòi bút yêu dấu của mình, đập tan cái chế độ người bóc lột người gây bao
nhiêu thảm họa và giờ đây ngay trước mắt đây, tiêu diệt xâm lăng Pháp, lưỡi
lê của chúng đã vấy máu một khúc ruột của ông, tiêu diệt giai cấp phong kiến
địa chủ ngàn đời nay mặt đất đã xây nên một địa ngục đó với đại đa số nông
dân lao khổ và ông đã sống những quãng đời đến nát óc, bẹp ngực.
Nhập vào hàng ngũ của giai cấp công nhân giáo dục với chủ nghĩa của
Đảng, sức mạnh của ngòi bút Ngô Tất Tố càng được bồi dưỡng. Nghe qua
Suối thép và Trời hửng của Ngô Tất Tố dịch, người ta nghe thấy hơi thở của
công nông binh Liên Xô, Trung Quốc, của Xêrphimôvích và Vương Lực, đồng
thời cả hơi thở của Ngô Tất Tố, tin tưởng ở sự có thể làm được, có thể chiến
thắng, ở sức căm thù bốc lên thành lửa xây dựng của công nông binh Việt
Nam đứng dậy...
Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố ở chỗ dám nhìn thẳng vào sự thực,
căm giận, chửi rủa và phá bỏ. Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố còn ở chỗ đi
sâu vào những khía cạnh đen tối, sai trái của kẻ thù. Nhưng quằn quại gần
hết một đời người trong những thiếu thôn ê chề, tàn nhẫn của sự sống, và
không sớm được trau dồi ý thức đấu tranh sáng suốt, tươi tắn, quyết liệt và
đúng mực, sắt đá và rộng rãi, cái ý thức cách mạng và khoa học của công
nhân, nên trong một số sáng tác ngắn và sơ thảo trong kháng chiến của Ngô
Tất Tố, nhân vật và sự sống chưa được diễn tả đúng thực và còn nhiều chỗ
lệch lạc, không toát lên được cái hướng đi lên của xã hội.
Ngô Tất Tố thân yêu của chúng ta không còn nữa. Mối ân hận cuối
cùng của nhà văn bạc đầu với nghề này, là không được trông thấy đất nước
hoàn toàn giải phóng và được viết trọn vẹn một tác phẩm dày dặn về nông
dân vùng lên, với một cuộc đời mới, khác.
Chúng ta, những kẻ mà Ngô Tất Tố trao lại ngòi bút của mình trao lại
những khát vọng và tin tưởng của mình, chúng ta trân trọng nhận thấy. Cái
hình ảnh Ngô Tất Tố dứt khoát với thù địch, không đội giời chung với thù địch,
cái hình ảnh đôi mắt kính vằng vặc say mê cúi xuống những dòng chữ rắn rỏi
rõ ràng miết lên những trang giấy vàng ngà trên bàn tre làm việc, hình ảnh đó
chúng ta luôn luôn tưởng nhớ, xót xa thương tiếc, quyết tâm học tập và
nguyện sát cánh nhau chặt hơn nữa, làm việc nhiệt tình, tận tụy, quyết thắng.
(Tạp chí Văn nghệ, số 54, 8 - 1954)
NHÀ VĂN NGÔ TẤT TỐNGUYỄN ĐỨC ĐÀN
1. Thế giới quan và phương pháp sáng tác của Ngô Tất Tố.
Nghiên cứu thế giới quan và phương pháp sáng tác của một nhà văn
tức là nghiên cứu cơ sở tư tưởng triết học và đặc điểm mỹ học của nhà văn
ấy. Chúng ta chỉ có thể tiến hành công việc đó bằng cách dựa vào các tài liệu
cụ thể về đời sống của nhà văn và thông qua việc nghiên cứu các tác phẩm
một cách có hệ thống.
Chúng ta biết rằng Ngô Tất Tố là một nhà Nho, xuất thân từ một gia
đình có truyền thống Nho học lâu đời tuy rằng không đỗ đạt cao. Ông của nhà
văn thi hương bảy lần chỉ đỗ tú tài. Bố thi sáu lần, rốt cuộc cũng chỉ là một
ông đồ. Bản thân nhà văn đã đi thi hai lần, đỗ đầu xứ nhưng không vào được
trường tam.
Ngô Tất Tố là một nhà Nho nhưng có mấy đặc điểm đáng chú ý. Trước
hết ông là một nhà Nho nghèo. Gia đình Ngô Tất Tố không đủ ruộng cày cấy,
phải nhận ruộng công điền quanh năm nợ nần túng thiếu. Đến khi Ngô Tất Tố
đi làm báo cũng vậy. Đời sống nhà báo, nhà văn chuyên nghiệp ngày xưa
phần nhiều cực khổ như thế nào chúng ta đã biết. Lúc vào Sài Gòn, trong túi
chỉ còn một đồng xu, Ngô Tất Tô vứt nốt xuống biển. Chính cuộc sống vật
chất thiếu thốn đã tạo cho nhà văn có điều kiện thông cảm dễ dàng với quần
chúng nghèo khổ, nhất là nông dân, vì nhà văn đã sống ở nông thôn rất lâu.
Khác với nhiều môn đệ của cửa Khổng sân Trình, Ngô Tất Tố là một
nhà Nho nhưng không có tư tưởng nệ cổ, bảo thủ. Ông đã nhiều lần dùng
ngòi bút kịch liệt lên án các tục lệ lạc hậu, thối nát ở nông thôn. Trong Việc
làng, Ngô Tất Tố đã vạch rõ vì sao các tục lệ hủ lậu tồn tại lâu dài. Trong Mặc
tử, Ngô Tất Tố đã tỏ thái độ ủng hộ rõ rệt đối với các thuyết phi nhạc, phi Nho,
và phi mệnh của các nhà triết học cổ đại Trung Quốc. Quan niệm phi nhạc
của Mặc Tử có chỗ không được đúng, nhưng xuất phát từ một tinh thần thực
tiễn, chống lại tất cả những cái gì không trực tiếp có ích đối với đời sống nhân
dân. Với thuyết phi Nho Mặc tử phản đối Nho giáo ở chỗ lễ của Nho giáo quá
phiền nhiễu, nhất là ở đầu óc thủ cựu và tinh thần phục cổ. Mặc tử còn đề
xướng thuyết phi mệnh để phản đối tư tưởng định mệnh: “Hoạ phúc của
người đời đều là kết quả của sự hành vi, không có số mệnh nào hết”. Giới
thiệu và đề cao những quan điểm ấy của Mặc tử là một việc làm có ý nghĩa.
Ngô Tất Tố đã từng ca tụng tinh thần sáng tạo của Hồ Quý Ly, khen Hồ Quý
Ly “thật là một người có tư tưởng độc lập, không chịu nhắm mắt theo những
thành kiến cổ nhân”.
Ngô Tất Tố là một nhà Nho nhưng không mê tín. Ông đã từng viết một
loạt bài đả kích các mê tín dị đoan, vạch mặt bọn lợi dụng tôn giáo. Trong bài
Kiểu đất ở phố Hàng Trống (Đông Phương, số 380, 13-3-1931), Ngô Tất Tố
châm biếm ngôi đền ở phố Hàng Trống lúc bấy giờ thường có người đến lễ
bái tấp nập: “Trước kia mình tưởng vì đền này thần thiêng cho nên đông
khách lễ bái, đến nay xét ra, mới biết sự đông khách đó không tại thần thiêng
chỉ tại “được đất”. Bởi vì ở đó có phải chỉ có một mình cửa đền ấy mà thôi
đâu, hai bên tả hữu còn có hai cái “săm” nữa, nghe nói cả hai đều được “đêm
đêm hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu” cả. Theo câu tục ngữ “tốt đất cò đậu”
thì có lẽ phố Hàng Trống là chỗ đất tốt cho nên một đền, hai “săm” đều phát
phúc như thế...”
Chúng ta thấy Ngô Tất Tố là một nhà Nho tất nhiên không thể không
chịu ảnh hưởng của Nho giáo, nhưng căn bản ông là người có tinh thần tiến
bộ, có đầu óc khoa học.
Ngô Tất Tố đã viết thiên phóng sự Dao cầu thuyền tán để đả kích bọn
lang băm bịp bợm, vừa làm thuốc, vừa làm chủ nhà săm, vừa cho thuê đòn
đám ma. Ông đã chủ trương dùng khoa học hiện đại để nghiên cứu đông y.
Trong một bài báo, Ngô Tất Tố viết: “Thuốc Tàu tuy là môn thuốc rất hay
nhưng mà những người soạn ra sách thuốc đều chưa biết khoa học là gì, họ
đem thuyết “âm dương ngũ hành” mà làm cho thuốc của Tàu và của Ta phải
mờ ám giống như một môn huyền học. Bây giờ phải đem những thứ dược vật
học, sinh lý giải phẫu học, bệnh lý giải phẫu học... mà bồi bổ cho khuyết điểm
ấy... Giả sử chúng ta có một phòng thí nghiệm tính chất thuốc bắc và thuốc
nam và một trường học dùng phương pháp khoa học nghiên cứu nghề thuốc
Tàu thì may ra cái nạn giết người lấy của ở xã hội thầy lang mới trừ bớt
được”.
Về mặt tinh thần và thái độ khoa học trong phương pháp nghiên cứu, ta
thấy Ngô Tất Tố là người có ý thức thận trọng, khách quan trong việc sử dụng
các tài liệu, chống với phương pháp làm ẩu và sử dụng tài liệu theo định kiến
chủ quan của mình. Phê bình quyển Nho giáo của Trần Trọng Kim, chủ yếu
Ngô Tất Tố phê bình mặt phương pháp khoa học.
Quan niệm của Ngô Tất Tố về vũ trụ, về nhân sinh có những mặt khá
tiến bộ. Nhân đây chúng ta thử nhìn lại quyển Lão tử của Ngô Tất Tố cùng
viết chung với Nguyễn Đức Tịnh. Các tác giả Lão tử đã phân tích và biểu
dương quan niệm Đạo và Đức. Về đạo, tác giả viết: “Đạo theo Lão tử là một
vật vô hình nhưng là một vật có thực. Nó là nguyên tố của vạn vật. Ta phải
công nhận rằng ở một thời đại đương lúc hủ lậu mê muội như thời đại nhà
Chu ở Tàu mà có một quan niệm vũ trụ hoàn toàn duy vật thực là một điều
đáng phục”, về đức, tác giả viết: “Cái gốc sinh ra vạn vật là đạo nhưng làm
cho vật nào thành ra vật ấy và có thể tồn tại ở vũ trụ thì không phải là đạo mà
lại là đức… Theo danh từ mới, người ta có thể gọi đức là một sự cấu tạo và
tồn tại của vũ trụ, vạn vật”. Sau khi biểu dương vũ trụ quan của Lão tử, tác giả
phê phán quan niệm nhân sinh tiêu cực là quan niệm vô vi. Tác giả Lão tử
cho đó là một quan niệm không thực tế, không can thiệp vào quá trình phát
triển của tự nhiên, muốn chủ trương trở lại cuộc đời mê muội thời nguyên
thuỷ. Tác giả Lão tử cho rằng người ta ở đời cần phải có một quan niệm nhân
sinh quan tích cực, cần phải phấn đấu đẩy lịch sử tiến lên.
Cuộc đời hơn ba mươi năm cầm bút của Ngô Tất Tố đã cho chúng ta
thấy ông là một người có thái độ tích cực trong cuộc sống. Trong hàng loạt
bài báo và tác phẩm, Ngô Tất Tố đã đứng về phía quần chúng, vạch trần và
lên án xã hội thực dân phong kiến đầy ung nhọt và thối tha. Ngòi bút của Ngô
Tất Tố là một ngòi bút có nhiều tính chiến đấu. Cố nhiên thế giới quan của
Ngô Tất Tố còn có những mặt hạn chế. Ngô Tất Tố chưa phải là một nhà văn
cách mạng. Nhưng nhìn lại cả cuộc đời và sự nghiệp của ông phải nói rằng
Ngô Tất Tố là một nhà văn có một thế giới quan tiến bộ.
Trong phương pháp sáng tác, Ngô Tất Tố đã đạt đến chủ nghĩa khách
quan lịch sử, cơ sở triết học và phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa
Phương pháp khách quan lịch sử, tức là phương pháp miêu tả thực tế một
cách khách quan, tôn trọng hiện thực của đời sống xã hội, không bóp méo nó,
khác với phương pháp của các nhà văn lãng mạn xây dựng trên cơ sở chủ
nghĩa duy tâm chủ quan. Đặc trưng của phương pháp lãng mạn là phản ánh
các hiện tượng của cuộc sống một cách hết sức chủ quan, bóp méo, có khi
xuyên tạc cả hiện thực cho phù hợp với ý muốn chủ quan của nhà văn.
Chẳng hạn chúng ta thấy các nhà văn lãng mạn đã phản ánh cuộc sống ở
nông thôn như thế nào? Đó là thế giới của những đêm trăng huyền ảo, những
ngày hội tưng bừng, những cô thôn nữ ngây thơ xinh đẹp, tóm lại, một thế
giới của thơ và mộng. Rõ ràng là trong tác phẩm của mình, Ngô Tất Tố đã
miêu tả một nông thôn xa lạ với nông thôn trong các tác phẩm lãng mạn. Ngô
Tất Tố đã nhìn thấy một sự thực khách quan ở nông thôn: đời sống lầm than
cơ cực của quần chúng nông dân, sự áp bức, bóc lột của bọn địa chủ, cường
hào, quan lại. Việc làng chỉ miêu tả cảnh khốn cùng của người nông dân dưới
ách các hủ tục. Tắt đèn mới là một tác phẩm có giá trị trong đó nhà văn đã
nhìn thấy sự phân chia xã hội thành giai cấp và tình trạng đối kháng giữa các
giai cấp ấy. Nhân đây chúng tôi muốn dừng lại nói thêm về Tắt đèn, tác phẩm
tiêu biểu của Ngô Tất Tố để hiểu rõ thêm đặc trưng phương pháp sáng tác
của ông.
Chúng ta biết rằng lúc ra đời, Tắt đèn được dư luận trên các báo chí
nhiệt liệt hoan nghênh. Trên báo Thời sự số ra ngày 31 - 1 - 1939, Vũ Trọng
Phụng viết: “Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội, hoàn toàn
phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng
thấy”. Điều đáng chú ý là các báo chí cách mạng hết sức hoan nghênh tác
phẩm của Ngô Tất Tố, Phú Hương trên báo Đông phương số ra ngày 1-9-
1939 cho rằng “Ngô Tất Tố đã thành công một cách vẻ vang hết sức. Báo Mới
ở Sài Gòn cho rằng Ngô Tất Tố đã sáng tác theo “một phương pháp rất mới,
nhà văn đã nêu lên được “mâu thuẫn của xã hội” và “phương pháp ấy chỉ có
nhà văn xã hội theo phương pháp duy vật biện chứng mới có mà có một cách
đầy đủ”. Minh Tước viết trên báo Mới (15-6-1939): “nhà Nho đã vượt khỏi cả
thế hệ của mình. Người môn đồ của Khổng Mạnh này đã thở hút cái không
khí xã hội của K.Marx như tất cả những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu để
viết cho chúng ta quyển Tắt đèn!". Minh Tước viết thêm: “trong văn phẩm ấy
ông Ngô Tất Tố đã dùng được đắc sách cái phương pháp khách quan để tả
ra cho chúng ta biết rõ ràng những cảnh tượng nơi hương ẩm, là một chỗ mà
người ta nhờ ông, nhận thấy rất nhiều sự mâu thuẫn và hủ nát”.
Mấy ý kiến trên đây của các báo chí đương thời, nhất là báo chí cách
mạng, đã giúp chúng ta soi sáng thêm về thế giới quan và phương pháp sáng
tác của Ngô Tất Tố. Chính nhờ có thế giới quan tiến bộ và phương pháp
khách quan lịch sử mà Ngô Tất Tố đã thành công và được các nhà báo cách
mạng xem là một nhà văn ở trong hàng ngũ tranh đấu. Đó là một vinh dự lớn
đối với nhà văn. Phương pháp của Ngô Tất Tố chẳng những đối lập với
phương pháp lãng mạn và cũng hoàn toàn xa lạ đối vối phương pháp tự
nhiên chủ nghĩa. Một ví dụ: Mở đầu Hà nội lầm than, Trọng Lang viết: “Tôi
bước vào xã hội này với ngòi bút và lòng thương”. Nhưng thực ra đây chỉ là
lòng thương hại của giai cấp tư sản. Suốt tập phóng sự, Trọng Lang biểu thị
một thái độ khinh miệt coi rẻ những người cùng khổ trong xã hội, tác giả dừng
lại ở hiện tượng và giải thích hiện tượng một cách sai lầm. Trọng Lang cũng
như nhiều nhà văn tự nhiên chủ nghĩa khác, cho rằng người đàn bà sa vào
cảnh bán thân nuôi miệng chỉ là vì ngu dốt, tham lam, lười biếng hoặc đĩ thoã.
Họ không tìm nguyên nhân ở chế độ xã hội mà lại quy tội cho quần chúng. Họ
cho đó là một định mệnh và những người phụ nữ là gái giang hồ thì khó có
thể trở lại làm người lương thiện.
Phương pháp khách quan lịch sử của các nhà văn hiện thực tôn trọng
tính chân thực trong việc miêu tả thực tại xã hội, không dừng lại ở hiện tượng
mà đi sâu nghiên cứu bản chất. Phương pháp khách quan lịch sử lại giúp nhà
văn nghiên cứu hiện thực trong sự phát triển hợp với quy luật.
Chị Dậu vốn là người phụ nữ nông dân cần cù chất phác và hiền lành.
Ấy thế nhưng qua một quá trình chịu đựng những áp bất công và tàn bạo, đến
lúc chị đã vụt đứng dậy quật lại bọn đầu trâu mặt ngựa. Xem đến đoạn chị
đánh ngã bọn kẻ cướp, độc giả không ngạc nhiên vì đó là một sự phát triển
hợp với lôgíc.
Ngô Tất Tố chưa miêu tả những người đã giác ngộ mà chỉ mới miêu tả
quá trình phát triển từ chỗ bị áp bức đến chỗ hành động tự phát, nhưng ông
hé thấy được tính quy luật trong sự phát triển của hiện thực. Trong Vỡ đê, Vũ
Trọng Phụng miêu tả những người nông dân đã có ý thức hoặc nhiều. Nhưng
tác giả Vỡ đê đã miêu tả những người này như thế nào? Một phát súng chỉ
thiên cũng đủ để cho họ chạy tan tác như “một bầy nhặng xanh!”. Vũ Trọng
Phụng muốn đưa những quần chúng đã giác ngộ vào tác phẩm của mình
nhưng thực sự ông ta chẳng hiểu chút gì về họ. Vũ Trọng Phụng đã nhìn họ
bằng con mắt của giai cấp tư sản.
Khác với các nhà văn tự nhiên chủ nghĩa và các nhà văn lãng mạn tư
sản, Ngô Tất Tố đã thấy được bản chất tốt đẹp của người nông dân lao động.
Cùng khổ như chị Dậu - phải đứt ruột bán con lấy một đồng bạc nộp sưu cho
chồng - nhưng khi bị tên tri phủ toan làm nhục chị cũng quyết chống lại mặc
dầu hắn đưa cho chị hơn chục bạc. Chị đã vứt ngay mấy tờ giấy bạc xuống
đất, trước con mắt kinh ngạc của tên tri phủ. Lẽ cố nhiên tên tri phủ không thể
nào hiểu nổi hành động của người đàn bà nghèo khổ mà nó khinh rẻ. Chúng
ta có thể mở một dấu ngoặc để nói rằng giá thử chị Dậu không may đầu thai
vào tác phẩm của Trọng Lang hay Vũ Trọng Phụng thì rất có thể một bước đã
biến thành nhà thổ.
Ngô Tất Tố đã miêu tả người lao động nghèo khổ với một ngòi bút đầy
tình thương yêu, trân trọng. Nhiều nhà văn hiện thực kể cả nhà văn hiện thực
phương Tây tuy ngòi bút phê phán xã hội rất sắc xảo, mãnh liệt nhưng giữa
họ và nhân dân vẫn có một khoảng cách khá xa. Xtăngđan chẳng đã có lần
thú nhận rằng: “Tôi yêu nhân dân, căm ghét bọn áp bức nhưng phải chung
sống với nhân dân thì thật là một điều đau khổ muôn đời đối với tôi”.
Một đặc điểm mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn là tìm đề tài trong những
cái phi thường, những cái đặc biệt, hiếm có. Victo Huygô đã nói trong Bài tựa
Crômoen rằng: “Cái thông thường là cõi chết của nghệ thuật”. Nhìn lại các tác
phẩm lãng mạn phương Tây chúng ta thấy rõ điều này. Vở kịch Ecnani, cuộc
đời của Jăng Vanjăng trong Những người khốn khổ của Victo Huygô chẳng
phải là những chuyện phi thường hiếm có hay sao? Ngay ở Việt Nam cũng
vậy. Các nhà văn lãng mạn thường đi tìm cái đẹp, cái hấp dẫn trong những
cái kỳ lạ, khác thường. Điều đó hoàn toàn không giống với phương pháp của
các nhà văn hiện thực. Chuyện vợ chồng chị Dậu long đong cực khổ vì sưu
thuế, phải bán con, bán chó, phải đi ở vú... là những chuyện như cơm bữa ở
nông thôn ta thời trước, nghĩa là những chuyện rất thông thường. Nhân vật
chị Dậu trong Tắt đèn là một con người bình thường như trăm nghìn người
phụ nữ nông thôn Việt Nam. Nhưng chị Dậu là một hình tượng rất đẹp, không
phải đẹp theo kiểu lãng mạn nghĩa là với những kích thước phi thường mà
đẹp một cách hết sức chân thực. Miêu tả cái đẹp trong cái chân thực, cái lớn
trong cái bình thường là một đặc điểm mỹ học trong phương pháp sáng tác
của Ngô Tất Tố.
Nhưng đặc điểm của phương pháp Ngô Tất Tố không phải chỉ có như
vậy. Từ những con người bình thường và chân thực, Ngô Tất Tố đã khái quát
lên thành nhân vật điển hình, cố nhiên trong phụ nữ nông dân lao động lúc
bấy giờ có nhiều loại khác nhau, đứng về mặt trình độ giác ngộ. Chúng tôi
thấy rõ ràng chị Dậu của Ngô Tất Tố chưa phải là loại điển hình tiên tiến
nhưng tôi nghĩ rằng chính đó là một đặc trưng và cũng là một hạn chế lịch sử
của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Nhiệm vụ xây dựng những nhà văn điển
hình tiên tiến chỉ có thể thực hiện được đầy đủ với chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa sau này. Chị Dậu là điển hình của một loại phụ nữ nhất định, một
loại phụ nữ không phải là ít lắm trong nông thôn Việt Nam trước cách mạng.
Mặc dầu nhân vật điển hình trong Tắt đèn chưa phải là một điển hình
tiên tiến, mặc dầu cái kết cục của Tắt đèn chưa hé ra một cái gì sáng sủa -
“Trời tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị” - nhưng người đọc vẫn
không vì thế mà bi quan, hoài nghi. Tại sao vậy? Tôi nghĩ rằng cái thứ nhất là
vì chúng ta thấy được các nguyên nhân xã hội của tình trạng khổ cực của
quần chúng. Cái khổ cực ấy hoàn toàn không phải là định mệnh. Đó là điều
Tắt đèn không giống với các tác phẩm tự nhiên chủ nghĩa. Trong Làm đĩ,
dưới ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, sự sa đoạ của Huyền không bắt nguồn từ
một nguyên nhân xã hội nào cả. Huyền sinh ra là một cô gái dâm đãng và
chính nguyên nhân sinh lý ấy đã từng bước dẫn dắt Huyền vào con đường
truỵ lạc. Chính cái nguyên nhân sinh lý ấy đã tác động đến số phận của
Huyền như một thế lực mù quáng có tính chất định mệnh, nghĩa là sức con
người ta không thể cưỡng lại được. Cái thứ hai là như trên đã nói, trong Tắt
đèn, chúng ta thấy được bản chất tốt đẹp của những người cùng khổ, nhất là
tinh thần không chịu khuất phục của họ. Điều này cũng khác với các tác phẩm
tự nhiên chủ nghĩa. Trong các tác phẩm tự nhiên chủ nghĩa, cái làm cho
chúng ta ngạc nhiên là tinh thần yên phận, chịu nhẫn nhục của những con
người bị xã hội chà đạp. Trong Hà Nội lầm than chúng ta đã được nghe nhiều
mẩu tâm sự của các cô gái làm nghề mãi dâm: nhà thổ có, cô đầu có, gái
nhảy có. Tâm lý của họ phần nhiều là chịu yên phận, chịu nhẫn nhục đến
cùng để sống mặc dù những cái cực nhục của họ không thể nào nói hết
được. Có khi họ lại thấy thích thú là đằng khác. Một gái nhà thổ kể lại cuộc
đời của mình đã từng ngủ với hàng nghìn người một cách thản nhiên, pha
chút vui vẻ, hóm hỉnh, và lại khoe làm nhà thổ sướng hơn cô đào. Họ không
bao giờ nghĩ rằng cuộc đời của họ có thể đổi khác, họ yên chí rằng: “Cô đào
thì chỉ lấy kép”, ở những người kéo lê kiếp sống cực nhọc ấy, chúng ta không
hề thấy có một dấu hiệu phản kháng nào. Chính cái tư tưởng định mệnh và
cái tinh thần nhẫn nhục, yên phận ấy đã làm cho các tác phẩm tự nhiên chủ
nghĩa thường toát lên một tinh thần bi quan. Chúng ta thấy rằng Tắt đèn của
Ngô Tất Tố không giống như vậy. Ngô Tất Tố chưa đưa chúng ta đến một
khẳng định tích cực nhưng Ngô Tất Tố đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ.
Suy nghĩ về một tình trạng xã hội bất công, bỉ ổi như vậy có thể tồn tại lâu dài
được không? Những người như chị Dậu phải chăng là những người có thể
yên chịu một bề suốt đời? Là một tác phẩm hiện thực phê phán, Tắt đèn chưa
giải đáp thẳng cho chúng ta những câu hỏi ấy nhưng mặc nhiên câu trả lời đã
toát ra từ toàn bộ tác phẩm.
2. Lập trường dân tộc của Ngô Tất Tố và vị trí của nhà văn trong cuộc đấu tranh xã hội.
Ngô Tất Tố là một nhà văn nghèo, có nhân cách trong sạch, đồng thời
cũng là một nhà văn có tinh thần dân tộc. Đời ông đã từng chứng kiến nhiều
cuộc vận động cách mạng, kể cả các cuộc vận động cách mạng của sĩ phu
phong kiến, của các giai cấp tư sản, tiểu tư sản và giai cấp vô sản. Ngô Tất
Tố chưa phải là một người cách mạng nhưng có nhiều tình cảm đối với cách
mạng. Trước hết thái độ ấy biểu thị khá rõ rệt trong tiểu thuyết lịch sử của
Ngô Tất Tố.
Đặc điểm của tiểu thuyết lịch sử của Ngô Tất Tố là tác giả tôn trọng sự
thật, không lấy lịch sử làm cái cớ để xây xây dựng cốt truyện ít nhiều có tính
chất lãng mạn. Gia đình Tống trấn tả quân Lê Văn Duyệt hay Lịch sử Đề
Thám hay Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ cũng đều như vậy.
Chúng ta thử dừng lại ở tác phẩm Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ.
Trong tác phẩm này Ngô Tất Tố dựng lại cuộc kháng chiến anh dũng của
quan lại và sĩ phu yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược như Tôn Thất
Thuyết, Phan Đình Phùng, Lê Trực, Đinh Công Tráng, Nguyễn Xuân Ôn,
Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Nho Hạnh v.v... Cuốn truyện mở đầu từ khi vua
Hàm Nghi lên ngôi và kết thúc lúc Hàm Nghi bị bắt đi đày. Rõ ràng chủ đề của
tác phẩm là biểu dương tinh thần yêu nước chống xâm lăng của sĩ phu và
nhân dân Việt Nam. Ngô Tất Tố vạch trần chân tướng của bọn thực dân
Pháp. Trước hành động trắng trợn, thô bạo của bọn thực dân dùng vũ lực bắt
triều đình Huế phải xin phép chúng lúc cử người lên làm vua, mọi người đều
căm tức. Tôn Thất Thuyết nói: “Sự thế đến vậy, không đánh thì nhục cả nước.
Thà đánh mà chết còn hơn sống mà để nhục cho nước nhà”. Trong Vua Hàm
Nghi với việc kinh thành thất thủ, Ngô Tất Tố dựng lên hai tuyến nhân vật:
những người có tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh để đánh
giặc cứu nước và những kẻ vì quyền lợi cá nhân ích kỷ, cam tâm làm trâu
ngựa cho giặc. Trong tác phẩm, số sĩ phu đứng lên phất cờ chống Pháp
không phải ít. Trong Nam ngoài Bắc, đâu cũng có những tay hào kiệt dân
quân khởi nghĩa, lập căn cứ địa chống lại bọn xâm lược. Lê Trực lập được
một chiến khu rất chắc chắn, thế lực ngày càng mạnh làm cho quân Pháp
phải lo sợ. Mấy lần chúng tấn công đều thất bại. Chúng liền lấy lời ngon ngọt,
đưa danh lợi ra để mua chuộc. Lê Trực đã trả lời chúng một cách vắn tắt
nhưng cương quyết, biểu lộ một ý chí bất khuất: “Tôi vì vua và vì nước nhà
mà ra cầm quân, dù sống dù chết cũng dốc lòng làm hết phận sự, không dám
tham cái sống mà quên việc nghĩa”. Sau đó ông lại dồn dập tấn công quân đội
Pháp. Ngô Tất Tố thuật lại chuyện một người nghĩa quân bị địch bắt làm tù
binh. Trước những tra tấn và dụ dỗ, người tù binh nhất định không chịu khai,
chỉ trả lời với một giọng bình thản: “Các anh đừng hỏi mất công. Không đời
nào chúng tôi lại đem chuyện bí mật quan hệ của nước tôi mà tố cáo với các
anh. Các anh bắt được chúng tôi, cứ việc đem ra mà chém”. Thật là lời nói
của một người anh hùng. Sau đó bọn thực dân Pháp đưa một loạt tù binh ra
để hành hình. Có viên lãnh binh lúc bị bắt đã cắn lưỡi tự tử, không để cho
giặc làm nhục. Có hai tù binh bị chúng bắt dẫn đường đi tìm nghĩa quân. Họ
đùa chúng đi suốt một ngày trong rừng, trèo đèo lội suối, cuối cùng dẫn chúng
đến một cơ sở nghĩa quân rất mạnh. Chúng bị đánh bại. Chúng bắt hai người
đi tiền quân làm bia đỡ đạn nhưng họ nhảy xuống sông tự tử. Trong tác phẩm
của mình, Ngô Tất Tố đã nêu cao những tấm gương anh hùng ấy bên cạnh
những cái xấu xa, bỉ ổi của các nhân vật phản diện. Tiêu biểu cho bọn đầu
hàng giặc và làm tay sai cho giặc là Nguyễn Văn Tường, Hoàng Kế Viêm,
Đồng Khánh, Nguyễn Trọng Duật v.v... Dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố, bọn
bán nước cầu vinh này hiện ra với tất cả những cái đê tiện đáng nguyền rủa.
Ngoài ra nhà văn cũng thẳng tay tố cáo chân tướng của bọn cha cố, một công
cụ đắc lực cho việc thực hiện chính sách xâm lược của đế quốc. Vua Hàm
Nghi với việc kinh thành thất thủ rõ ràng là một tác phẩm cho phép chúng ta
khẳng định tinh thần dân tộc của Ngô Tất Tố.
Trong Gia đình tống trấn tả quân Lê Văn Duyệt, một nhân vật nông dân
chửi thẳng vào mặt Chúa Nguyễn: “Ủa, đức chúa đã rước quân Xiêm qua đây
để chúng nó giết hại làng tôi, bắt vợ tôi. Lúc này người còn hòng vào nhà tôi
để mà đòi ăn sao? Tiếc rằng tôi có một mình, không thể bắt luôn đức chúa
đem nộp cho Tây Sơn. Cơm đâu mà thết những người làm hại tôi một cách
đau đớn!”
Chúng ta biết rằng trong một số bài báo, Ngô Tất Tố đả kích cả bọn
thực dân cai trị đầu sỏ lúc bấy giờ như thống sứ Bắc Kỳ Tôlăngxơ, tên thống
đốc Nam Kỳ Pagiê.
Trong Tắt đèn có chỗ Ngô Tất Tố đã nói đến sự cấu kết giữa đế quốc
với phong kiến. Trong vụ thuế khi quần chúng kêu những điều bất công tàn
bạo, tên lý trưởng mắng: “Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không biết!”.
Ngô Tất Tố thường có những biểu hiện chứng tỏ nhà văn rất có cảm
tình với cách mạng. Sau khi Nguyễn Thái Học, lãnh tụ của Việt Nam Quốc
dân đảng bị Pháp bắn và xử án tử hình, Ngô Tất Tố vừa có một đứa con ra
đời, ông đã đặt tên cho con là Ngô Kế Học. Hay như khi trên báo Thanh Nghệ
Tĩnh, có một ông nghè nào đó lên tiếng chửi cộng sản, Ngô Tất Tố đã viết một
bài đả kích lại bằng cách chế nhạo cái dốt chữ của ông nghè nọ. Cố nhiên
không dám công khai bênh vực cộng sản nhưng ông đã làm cho lão Nghè
một phen muối mặt. Sau khi nói đến cái dốt chữ của ông Nghè, Ngô Tất Tố
đưa ra một câu chuyện rất ví von. Đó là sự tích một ông đồ dốt chữ đi theo
một tên quan làm biên bản tịch thu gia sản. Vật dụng nào trong nhà ông đồ
cũng ghi được lên giấy, chỉ khi đến chiếc váy nâu của bà chủ nhà thì ông đồ
chịu, không biết ghi như thế nào. Nghĩ quanh nghĩ quẩn mãi, ông ta bèn sáng
ý ra rằng cái váy nâu thì có nơi gọi là xống nâu mà xống nâu thì ở miền Trung
đọc là sống lâu cho nên bèn ghi vào giấy là thọ nhất bức. Tên tri huyện xem
biên bản, chịu không hiểu nó là cái gì!
Do tinh thần và thái độ của Ngô Tất Tố, tinh thần yêu nước và thái độ
có cảm tình với cách mạng, chống đối lại bọn thực dân Pháp mà chúng
thường theo dõi để dụ dỗ, mua chuộc hoặc trả thù ông. Năm 1935 tên chánh
mật thám Hà Nội gọi Ngô Tất Tố lên để mua chuộc nhưng không được, hắn
bèn bắt ông dọn hiệu thuốc ở Sinh Từ về quê. Có lúc chúng cấm nhà văn
không được viết cho Hải Phòng tuần báo và trục xuất ông khỏi ba thành phố
Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định. Cuối năm 1939, chúng ra lệnh cấm Tắt đèn,
tác giả bị khám nhà và bị giam ở Hà Nội mấy tháng. Chúng sai Phạm Lê Bổng
đến xin tha cho Ngô Tất Tố nhưng bắt hắn giao hẹn với ông là phải viết cho
báo Nam cường. Ngô Tất Tố cương quyết từ chối.
Chúng ta thấy rằng về tư tưởng chính trị, lúc bấy giờ Ngô Tất Tố còn có
những hạn chế nhất định nhưng trước sau ông vẫn giữ một thái độ rất bất
hợp tác với thực dân Pháp.
Trong cuộc đấu tranh xã hội, chỗ đứng của Ngô Tất Tố cũng rõ rệt. Ông
đứng về phía nhân dân bị áp bức, chủ yếu là đứng về phía nông dân đối lập
với giai cấp địa chủ phong kiến quan lại.
Hầu hết các yêu sách trong chương trình tối thiểu của Mặt trận Dân chủ
đều được Ngô Tất Tố đề cập đến trong nhiều bài báo của ông. Phù hợp với
yêu sách nghiêm trị nạn hối lộ: trong chương trình tối thiểu của mặt trận, Ngô
Tất Tố kịch liệt lên án tệ quan lại tham nhũng. Năm 1937, ông viết trên báo
Tương lai: “Quan lại tham nhũng chẳng những là kẻ bóp dân như là bà cô
bóp con cháu à? Thủ đoạn của họ cực kỳ màu nhiệm, họ đã bóp người nào
thì người ấy không thể không lè lưỡi ra, lè lưỡi cho đến khi nào có đồ cúng
họ... Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề vẫn là những thứ kẻ quê rất sợ,
song chưa nguy hiểm cho dân bằng họ”. Ngô Tất Tố đã nói thẳng vào mặt
Phạm Quỳnh: “Ông chủ bút Nam Phong chỉ đánh nhảy vọt một cái lên luôn
được ghế thượng thư Bộ Giáo dục, làng quan ai nấy đều phải ngạc nhiên.
Người ta tưởng tượng như đứng trước một trò rất phi thường trong rạp xiếc”
(Tương lai, 1937). Ngô Tất Tố công khai nói rằng Hội Khai trí tiến đức là một
cái hoạ cho quốc dân, hội ấy đã hóa ra hội gá bạc, hội quán đã thành ổ chứa
tổ tôm. Năm 1936, Ngô Tất Tố lên tiếng đòi giả tán Viện dân biểu, cho rằng
các ông có hai nhiệm vụ: trả lời những câu hỏi của chính phủ bằng những câu
mà chính phủ định nói, trình bày nguyện vọng của dân bằng những câu mà
chính phủ muốn nghe. Vì vậy, theo lời nhà văn, Viện dân biểu thật là một món
xa xỉ phẩm. Trong bài Cái khí giới của bọn phú hào dùng để bóc lột dân
nghèo hay là nạn vay lãi ở thôn quê, Ngô Tất Tố đã miêu tả cảnh bóc lột tàn
nhẫn của lối cho vay lãi cắt cổ. Nhà văn viết: “Làm thân kẻ vô sản ở nông
thôn, họ đã chịu đủ các thứ bóc lột. Một việc đi vay, ăn một miếng đã phải trả
đến mười miếng, cặm cụi suốt năm đến tối, thằng còng làm chưa chắc đủ cho
thằng ngay ăn. Vậy mà còn phải nộp sưu nộp thuế, còn phải đóng góp với
dân làng! Phỏng họ còn gì để nuôi con, nuôi vợ?”. Những dẫn chứng như trên
còn rất nhiều, nhưng không thể nêu hết ở đây được. Chúng ta biết rằng bọn
quan lại thù ghét báo Tương lai như thế nào. Ngô Tất Tố đã trả lời chúng: “Từ
ngày Tương lai ra đời, tội ác của họ (tức bọn quan lại) luôn luôn bị công kích
dưới ngòi bút nghiêm nghị. Bây giờ họ thấy Tương lai, tức thì hai mắt đổ dồn
một, run sợ như tà ma ngó thấy bùa trừ của Thái thượng lão quân — Mà thực
sự Tương lai chính là đạo bùa trừ họ... Hỡi những ông quan lại có máu phàm
ăn đã làm những thủ đoạn đê hèn lén lút! Chúng tôi không ghét gì các ông, rất
mong các ông cải tà quy chính. Có muốn cho mình khỏi bị Tương lai khui trừ,
tốt hơn hết là các ông hãy rửa cho sạch lòng ruột, từ nay đừng bóp nặn dân
đen như ngày trước nữa?
Chính nhờ hiểu biết sâu sắc đời sống cực khổ của nông dân, những
thủ đoạn tàn bạo của bọn địa chủ quan lại và có một lập trường đúng đắn mà
Ngô Tất Tố đã tổng hợp được để viết nên một tác phẩm như Tắt đèn. Đọc Tắt
đèn cũng như Việc làng, chúng ta thấy rõ vị trí của người cầm bút trong cuộc
đấu tranh xã hội.
Nhân đây cũng nói thêm là Ngô Tất Tố đã từng đả kích những sách báo
lãng mạn, khiêu dâm, đưa thanh niên vào con đường truỵ lạc. Ông nói thẳng
rằng: “Mấy ông trường giả ở hai cơ quan ngôn luận (Tự lực văn đoàn và
Ngày nay) chỉ sốt sắng dùng môn giáo dục đánh phấn, xoa nước hoa, chọn
màu quần áo để nhử bạn đọc phụ nữ”. Có lần Ngô Tất Tố cũng đả kích bọn
Nguyễn Trường Tam khi bọn này câu kết với Phạm Huy Lục để phá phong
trào Đông Dương đại hội.
Chúng tôi đã trình bày khá dài về lập trường dân tộc và chỗ đứng của
Ngô Tất Tố trong cuộc đấu tranh giai cấp của xã hội. Cũng cần nhắc lại rằng
cả hai mặt này, Ngô Tất Tố còn có những hạn chế. Có tinh thần yêu nước,
yêu những người làm cách mạng, ghét những kẻ bán rẻ quyền lợi dân tộc
nhưng Ngô Tất Tố chưa phải là một người cách mạng. Đứng về phía nông
dân và những người nghèo khổ để tố cáo và lên án bọn thống trị, bọn phong
kiến quan lại nhưng chưa thấy được vấn đề cốt tử của nông dân. Đó cũng là
những hạn chế có tính chất tất yếu đối với những người trí thức trong xã hội
cũ, chưa được vũ trang bằng lý luận Mác-Lênin.
3. Nghệ thuật của Ngô Tất Tố và địa vị của ông trong văn học hiện đại.
Đương thời có nhiều người phục Ngô Tất Tố là một nhà Nho mà giọng
văn rất mới, sắc xảo. Cũng như ngày nay lại có người cho rằng tư tưởng của
tác phẩm Ngô Tất Tố thì tiến bộ nhưng nghệ thuật viết văn của ông còn yếu.
Tôi thấy có lẽ vấn đề là ở chủ quan người đọc. Có anh bạn tâm sự với tôi là
ngày xưa anh từng mê đọc Ngày nay và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mà ít
thích đọc các truyện hiện đại. Anh đã từng đọc Tắt đèn nhưng không thấy thú.
Ngày nay trái lại anh thú thực rằng anh đã thử tìm đọc lại tiểu thuyết của Nhất
Linh, Khái Hưng nhưng sao thấy nhạt nhẽo, nghèo nàn, không hứng thú như
ngày trước. Trong lúc đó thì đọc Tắt đèn có nhiều đoạn anh rất xúc động. Cho
nên vấn đề thưởng thức cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học nghệ
thuật cũng còn tuỳ thuộc ở thế giới quan, ở trình độ tư tưởng và tình cảm của
mỗi người. Anh bạn tôi đọc Tắt đèn thấy xúc động chính vì tư tưởng và tình
cảm anh đã thay đổi. Nhưng điều tôi muốn nói ở đầy là sở dĩ Ngô Tất Tố có
những thành tựu về nghệ thuật trong Tắt đèn, chính là nhờ nhà văn có sự
cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ, có nhiệt tình tố cáo xã hội, có
cái nhìn và chỗ đứng đúng.
Chúng ta biết rằng làng văn, làng báo đương thời đã phải chịu Ngô Tất
Tố là một tay bút chiến cự phách. Nhiều người phải sợ Ngô Tất Tố. Trước hết
vì tính ông rất cương trực, có gì nói nấy, không sợ ai và cũng không vị nể ai.
Ông có tài viết văn bút chiến. Khi mỉa mai nhẹ nhàng, khi châm biếm một
cách sâu cay, khi thì đả kích thẳng cánh. Ví dụ như lúc Trần Bá Vinh đề nghị
ở Hội đồng kinh tế Đông Dương tăng giá tem từ 4 xu lên 6 xu, Ngô Tất Tố viết
ngay một bài báo ngắn đề nghị chính phủ từ nay nên ghi tạc công ơn Trần Bá
Vinh bằng cách thay con dấu hình tam giác có hình chữ T ở giữa (Taxơ là
thuế) bằng con dấu hình tam giác có chữ T.B.V ở giữa. Hoặc như trong bài
Không phải đánh bốc, đánh bài Tây đấy ông chửi cả đôi Quỳnh — Vĩnh rất
sâu cay, rất đau. Nhưng xét cho cùng cái chính làm cho một số người sợ Ngô
Tất Tố là tiếng nói của ông là tiếng của chính nghĩa, chứ trong làng báo ngày
xưa phải nói rằng cái lối chửi đổng, chửi bừa theo kiểu hàng tôm hàng cá
không phải ít. Trần Bá Vinh về mặt này không kém cạnh ai. Hắn lại có trong
tay một tờ báo riêng. Ấy thế nhưng trước mũi nhọn đả kích của Ngô Tất Tố,
hắn phải nín lặng. Chẳng những hắn sợ cái tài đả kích của Ngô Tất Tố, cái
tính cương trực của ông mà điều hắn sợ nhiều nhất ở đây là ý kiến của Ngô
Tất Tố phản đối việc tăng giá tem là phù hợp với quyền lợi chính đáng của
nhân dân. Đề nghị của hắn ở Hội đồng kinh tế Đông Dương là một việc làm
nhằm bợ đỡ bọn thống trị để tâng công. Có thể nói rằng vốn sống, lập trường
và nhiệt tình là cái “tam pháp bảo” quyết định thành công của Ngô Tất Tố.
Ngày xưa cùng thời với Ngô Tất Tố hoặc trước đó có nhiều người viết về
nông thôn. Những chuyện nông bán con cho địa chủ để lấy tiền nộp thuế, địa
chủ cưỡng hiếp vợ con nông dân... không phải là những chuyện mới lạ trong
văn học. Nhưng đến Ngô Tất Tố thì mới xây dựng được một tác phẩm có giá
trị.
Là một nhà văn có tài năng, lại nhờ có vốn sống, có lập trường, có
nhiệt tình mà ngòi bút của Ngô Tất Tố đã có những thành tựu về nghệ thuật.
Trong Tắt đèn đúng là có nhiều cảnh nhiều đoạn làm cho người đọc
xúc động sâu sắc: cảnh anh Dậu ôm thập tử nhất sinh mà còn bị đánh đập
tàn nhẫn; cảnh chị Dậu đến bán con cho nhà Nghị Quế; cảnh chị bị giam ở
huyện và tên quan đểu cáng toan giở trò làm nhục chị (cái đẹp của chị Dậu và
cái hèn hạ, đồi bại của tên quan, một mặt bắt vợ đi hiến thân cho quan trên
cầu danh lợi, mặt khác lại lợi dụng việc công để giở trò hãm hiếp người
nghèo).
Phải nói rằng viết về nông thôn, nghệ thuật của Ngô Tất Tố- đạt đến
trình độ già dặn. Chẳng hạn cùng một chủ đề, đề tài mà đọc Mua danh của
Nam Cao với Góc chiếu giữa đình của Ngô Tất Tố, chúng ta thấy ngòi bút của
Ngô Tất Tố quả là sắc xảo, già dặn. Cố nhiên nói như vậy là để hiểu thêm về
Ngô Tất Tố chứ mỗi nhà văn có những đặc trưng khác nhau.
Chúng ta đã từng nói đến những đóng góp của trào lưu văn học hiện
thực phê phán. Trong trào lưu ấy trước hết phải nói đến những cống hiến của
Ngô Tất Tố. Ngày xưa Tắt đèn bị cấm nhưng ngày nay Tắt đèn đã tái bản
nhiều lần và còn tái bản nữa. Tắt đèn được dịch ra nhiều thứ tiếng nước
ngoài. Tắt đèn và Ngô Tất Tố là đầu đề của nhiều công trình nghiên cứu lớn,
nhỏ. Phải khẳng định rằng trong văn học dân tộc ta, Ngô Tất Tố có một vị trí
xứng đáng. Đó là lá cờ đầu tiên của nền văn học hiện thực phê phán Việt
Nam.
(Trích sách Mấy vấn đề hiện thực phê phán.
NXB Khoa học xã hội, H, 1968)
NGÔ TẤT TỐVŨ NGỌC PHAN
Nói đến nhà Nho viết quốc văn, chúng ta thường hay nói đến Phan Kê
Bính, Trần Văn Ngoạn, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đỗ
Mục... Những bài, những sách của các ông này hoàn toàn là dịch thuật hoặc
biên soạn theo những tác phẩm chữ Hán. Còn nhà nho như Nguyễn Bá Học,
Nguyễn Trọng Thuật, viết tiểu thuyết và viết truyện cổ dân gian (Truyện ông lý
Chắm, quả dưa đỏ). Ngô Tất Tố là nhà nho đầu tiên đã không theo lối viết
trên đây. Anh là người đã đi vào lĩnh vực sáng tác và phê phán văn học như
các nhà văn lớp mới đương thời. Không những thế vào giai đoạn 1939 -
1945, trong phong trào lãng mạn đang thịnh hành, cùng với Nguyễn Công
Hoan anh đã trở thành kiện tướng trong văn học hiện thực phê phán ở nước
ta. Tôi quen biết Ngô Tất Tố từ năm 1932. Anh ở trong Nam ra Bắc được ba
năm và đang cộng tác với nhiều nhà báo ở Hà Nội. Hồi đó đối với tôi, anh là
bạn đồng nghiệp, còn tôi kính trọng anh như người anh cả, tôi đang độ thanh
niên. Tôi thích nhất anh Tố ở những bài bút chiến. Thấy anh đã 40 tuổi mà
còn hăng, tôi rất phục. Đối với cuộc đời, anh không còn nghi ngờ gì cả. Còn
tôi, có nhiều cái tôi chưa nhìn thấy rõ, còn ngờ vực nhiều...
* * *
Ngô Tất Tố sinh năm 1892 ở làng Lộc Hà, phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh
(thuộc Hà Bắc) trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông nội anh đỗ tú tài sau
khi đã lận đận bảy lần khoá thi hương; ông thân sinh qua sáu lần Lều chõng
không đỗ, về sau ngồi dạy học trong làng. Tuy vậy, làng Lộc Hà cũng là một
làng “khoa bảng”. Trong họ Ngô có hai người đỗ cử nhân: Ngô Học Liên và
Ngô Văn Bình.
Hồi nhỏ, Ngô Tất Tố học các trường hàng tổng thuộc huyện Lương Tài
và phủ Thuận Thành. Lớn lên, anh học xuất sắc nhưng hai lần thi hương ở
trường Nam, anh đều không thấy tên mình trên bảng, sở dĩ thời xưa ở Bắc
Ninh người ta thường quen gọi anh là “đầu xứ Tố” vì năm anh 22 tuổi, trong
một kỳ thi sát hạch ở tỉnh Bắc, anh đỗ đầu. Ngày xưa, học hết trường huyện
rồi mới học trường tỉnh (tức trường đốc) rồi qua sát hạch, mới được vác Lều
chõng đi thi hương tài.
Từ năm 1918, thực dân Pháp bỏ thi hương, anh Ngô Tất Tố mới gác
Lều chõng, ngồi dạy chữ quốc ngữ ở mấy nơi thuộc tỉnh Bắc, như Đông Trù,
Gia Thượng, những nơi trước kia anh đã từng ngồi dạy chữ Hán để lấy lương
ăn.
Thời thanh niên của Ngô Tất Tố là thời khá lận đận do anh chưa tìm
được hướng đi, chưa thoát khỏi nếp sống của nhà nho. Sau, vì túng thiếu
quá, anh xoay ra học thuốc và làm thuốc. Biết thuốc, nên có lúc anh đã mở
hiệu Thọ dân y quán ở phố Sinh Từ Hà Nội. Trên báo Công dân (năm 1935)
anh viết bài báo về thuốc Nam và thuôc Bắc, muốn đem phương pháp Âu Tây
áp dụng vào Đông y. Anh viết: “Giả sử chúng ta có một phòng khảo nghiệm
tính chất thuốc Bắc và thuốc Nam và một trường học dùng phương pháp
khoa học nghiên cứu nghề thuốc Tàu thì may ra cái nạn giết người lấy của ở
xã hội thầy lang mới trừ bớt được”.
Sự mong ước của anh trên 50 năm về sự kết hợp giữa Tây y và Đông y
thì ngày nay, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới thực hiện được.
Anh chỉ làm thuốc trong một thời gian ngắn, vì làm thuốc chân chính thì
hết vốn. Tuy vậy, nghề làm thuốc đã giúp anh nhìn rõ bọn lang băm đương
thời và anh đã viết lên những bài phóng sự sắc bén, với nhan đề: Dao cầu
thuyền tán, để đánh vào các thầy lang lúc ấy đang là những tay tư sản kếch
xù làm nghề lang lậu lúc bấy giờ.
Năm 1914 là năm anh rời tỉnh Bắc ra Hà Nội làm báo. Ở Hà Nội một
thời ngắn, anh vào Nam cùng Nguyễn Khắc Hiếu, nhân ông Hiếu được Diệp
Văn Kỳ ở Sài Gòn gửi biếu hai nghìn đồng và mời vào Nam. Họ Diệp chủ
nhiệm báo Thần Chung, hào phóng, muốn đóng vai Mêxen (Mécène) và
MạnhThường Quân lúc bấy giờ. Anh ở Sài Gòn gần ba năm. Thời gian này
anh viết báo Thần Chung, anh viết nghị luận và dịch nhiều hơn là sáng tác.
Năm 1928, anh dịch tiểu thuyết Ngô Việt xuân thu đăng ở An Nam tạp chí,
xuất bản ở Sài Gòn, nhưng mới đăng dở dang thì ngừng. Đây là một truyện
với những nhân vật Tây Thi, Phù Sai, Câu Tiễn, Phạm Lãi mà chúng ta đã
thấy trong Đông Chu Liệt quốc.
Năm 1929, anh dịch tập Hoàng Hoa Cương nói về 72 liệt sĩ Trung Quốc
trong cách mạng Tân Hợi. Cũng năm này, anh đăng trên báo Thần chung ở
Sài Gòn ba bài thơ sau đây ký tên là N.T.T:
THÚ QUÊ
Biển Nam, ải Bắc những đi về
Dừng gót phen này viếng thú quê
Nửa mẩu vườn hoang hoa vẫn nở
Ba gian nhà trống nguyệt thường kề
Ngâm tràn thiên địa thơ tung tác
Chén lút càn khôn rượu bét be
Non nước ví bằng trang hết nợ
Đời này cảnh ấy có ai chê?
BUỔI CHIỀU QUA SÔNG
Bảng lảng trời sông ác xế tây
Đò chiều chiều khác vội buông dây
Vướng chèo, bầy cá quanh thuyền nhảy
Bạt gió, con cò lướt sóng bay
Thăm thẳm bóng mây đùn đáy nước
Mù mù hơi khói lấp ngàn cây
Đường xa, ngày tối, người thưa vắng
Trước mạn trông trời, dạ biếng khuây
NGHE GÀ GÁY CẢM HOÀI
Tiếng gà xao xác giục bên đường
Trên gối xui người dạ ngổn ngang
Ngày tháng mài mòn đôi má trắng
Nước non đeo nặng tấm gan vàng
Cánh chim mỏi cánh bay về tổ
Kiếp ngựa tù chân lại nhớ đàng
Thôi cái cuộc đời còn thế thế
Làm trai chi giữ gốc tre làng?
Ba bài thơ trên đây là của Ngô Tất Tố được truyền tụng trong làng văn
đương thời. Qua thơ anh, người ta thấy anh có nhiều suy nghĩ về thời thế và
đất nước trước những hiện thực đau thương do bọn cướp nước và bè lũ tay
sai gây nên.
Cũng vào năm 1929, anh trở ra Hà Nội và cho đến 1941, anh viết nhiều
báo chí, có tờ là văn học, có tờ là thông tin: Thực nghiệp, Đông phương, Phổ
thông, Công dân, Thời vụ, Tương lai, Tao đàn, Hà Nội tân văn, Đông Pháp,
v.v... Ngoài những bài về văn học và thời sự, anh còn viết: Lịch sử Đề Thám
và Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ. Lòng yêu nước của tác giả thể
hiện rất rõ: Anh đề cao khí tiết của các lãnh tụ trong phong trào Cần vương
như Phan Đình Phùng, Lê Trực, Đinh Công Tráng, Nguyễn Xuân Ôn và anh
chế giễu thái độ tên tướng Pháp Đơ Cuôcxy (Courcy).
Những bài anh viết có thể chia làm bốn loại:
1. Một loại văn học bình luận, gồm những bài báo về Nho, Lão: đính
chính những sai lầm về văn học, triết học Trung Quốc, v.v...
2. Một loại bút chiến, gồm những bài đả kích những tệ tục, thói tham ô,
dởm đời của bọn quan lại, cường hào tư sản. Cũng có những bài viết dưới
dạng châm biếm, trào lộng, như những bài ở mục Nói mà chơi.
3. Một loại dịch thuật, như dịch một số tác phẩm văn học của nước nhà
hay một số sách của Trung Quốc.
4. Một loại nữa là phóng sự và tiểu thuyết.
Bất kỳ ở thể loại nào, cây bút của Ngô Tất Tố cũng sắc xảo nhiều khi
quá sôi nổi, thiếu bình tĩnh. Dù sao, các bạn đồng thời với anh đều thừa nhận
anh là một tay bút chiến đầy nhiệt tình luôn luôn đứng về phía nhân dân, đả
kích không khoan nhượng giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản.
Vì ghét cay ghét đắng giai cấp phong kiến, nên Ngô Tất Tố đả kích học
thuyết của Khổng Tử, một học thuyết phục vụ đắc lực giai cấp phong kiến
thống trị, Khổng Tử cho là mỗi cá nhân đều có thiên mệnh. Quần chúng nhân
dân phải chịu áp bức, bóc lột, phải chịu khổ cực là do số phận do trời đã định
trước, tức thiên mệnh. Học thuyết của Khổng Tử ru ngủ nhân dân, nhằm thủ
tiêu tính chiến đấu của nhân dân. Nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy,
Khổng Tử không có triết học tự nhiên như Lão Tử. Đối tượng của tri thức của
Khổng Tử là thi, thư, lễ, nhạc chứ không phải là tự nhiên.
Vào thời trước Cách mạng tháng Tám, trong khi đã dịch sách Khổng
giáo, dịch Mặc Tử và Lão Tử, Ngô Tất Tố đã không có những tài liệu đầy đủ
về triết học như chúng ta ngày nay để nghiên cứu, nhưng do nhận thức sâu
sắc của anh, do anh biết đứng về phía nhân dân lao động, thiết tha ước mong
cho quần chúng lao động có một đời sống ấm no, hạnh phúc nên anh đã dịch
và giới thiệu Mặc tử và Lão tử. Như vậy, trong việc dịch tác phẩm triết học
Trung Quốc, anh cũng đã theo một tư tưởng chủ đạo như khi anh sáng tác.
Ngay những tác phẩm hiện đại của nước ngoài mà anh dịch cũng vậy. Hoàng
Hoa Cương, Trời hửng, Suối thép do anh dịch, đều là những tác phẩm giáo
dục nhân dân lòng yêu nước và đề cao tinh thần chiến đấu của quần chúng
lao động.
Vào những năm của thập kỷ 30, khi bắt đầu quen biết anh, tôi phải
ngạc nhiên: “Sao con người lầm lỳ, ít nói, mà đến khi viết lại hăng như vậy?”.
Anh ít nói như để dành lời đanh thép trút lên trang giấy. Tuy nét mặt anh
cương nghị, nhưng anh thường nheo mắt cười một vẻ rất hiền. Khi vui anh
em, anh chỉ uống vài chén rượu là mặt đã đỏ gay, trán nổi gân, bỏ khăn xếp,
chẳng nói một lời, lăn ra ngủ. Hình như lúc nào anh cũng kìm lại mọi ý nghĩ và
tình cảm, đúc kết lại trong trí não để đưa vào tác phẩm. Anh ăn mặc xuềnh
xoàng, quanh năm chỉ cái áo the thâm, cái quần trúc bâu, đôi giầy hạ.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, vốn có lòng yêu nước, anh càng thấy
rõ hơn những nỗi khổ cực của nhân dân và vì sao mà anh mất nước. Cũng
như một số nhà văn lúc bấv giờ, anh đã hiểu một phần nào thế nào là đấu
tranh giai cấp. Anh sửa lại tập Tắt đèn bắt đầu viết từ 1936. Sách được in ra
(1939), nhưng mấy tháng sau thì thực dân Pháp ra lệnh cấm lưu hành.
Những bài của nhà văn khác giới thiệu hoặc phê bình quyển Tắt đèn cũng bị
kiểm duyệt xoá bỏ. Trước tình hình ấy, anh Tô không ngừng bút. Anh bắt đầu
viết Việc làng.
Tôi nói với anh: “Tôi mới nhận việc ở Hà Nội tân văn, anh cứ viết dần đi
và gửi cho ban biên tập”. Thế là tiểu thuyết Việc làng bắt đầu đăng ở Hà Nội
tân văn (năm 1940) mỗi tuần một trang báo. Hồi đó, anh rất túng thiếu, nhưng
không vì thế mà buồn nản. Lúc nào anh cũng nhìn về phía trước.
Anh Ngô Tất Tố đả kích rất mạnh những thói hủ bại ở hương thôn,
nhưng trong gia đình và ngoài xã hội, anh xử sự rất hoà nhã, theo đúng
phong cách nhà nho. Cứ mỗi năm hai lần, anh đến ăn giỗ nhà ông Ngô Ngọc
Liên mà anh gọi là chú ở Thái Hà, rồi anh lại sang chơi tôi ở gần đó. Tôi dám
chắc anh đi dự Việc làng ở Lộc Hà cũng đều đặn như thế. Do phong thái mực
thước ấy, anh được họ hàng làng mạc kính mến và anh mới có điều kiện
quan sát tỉ mỉ, miêu tả được sinh động nông thôn và người nông dân trong hai
tác phẩm Tắt đèn và Việc làng. Cũng do bản thân là nhà nho và gia đình anh
mấy đời theo Nho học, nên anh đã viết Lều chõng một cách cặn kẽ, nhiều
đoạn quá tỉ mỉ.
Xây dựng Lều chõng, Ngô Tất Tố muốn cho người đọc thấy được cách
học cổ hủ, giáo điều và lối thi cử lỗi thời dưới chế độ phong kiến suy tàn. Nhà
nước phong kiến muốn kén chọn nhân tài, nhưng rút cục lại loại mất những
người có tài. Người có lương tri và thông minh như Vân Hạc có một số nhận
thức về học tập, về thi cử không giống các bạn của anh, nhưng rồi “công
danh ai dứt lối nào cho qua” anh cũng vẫn Lều chõng đi thi. Còn người con
gái lấy chồng thì không phải vì tình yêu, mà vì muốn được làm bà nghè, bà
thám. Lều chõng đã miêu tả một bi kịch của những người trí thức và phụ nữ
thời phong kiến, do sự vỡ mộng về công không thành danh không toại, anh
đồ vẫn hoàn là anh đồ và chị đồ vẫn hoàn là chị đồ. Tính chất hiện thực phê
phán của cuốn tiểu thuyết rất rõ. Nhược điểm của nó là tác giả đã quá đi sâu
vào những quan hệ thầy trò, bè bạn, những lối giảng dạy và những lối giao
du, hành lạc của nhà nho làm cho người đọc có thể lầm tưởng tác giả còn
luyến tiếc, thích thú cái gì đó của đời sống nhà nho xưa.
Việc làng là một tiểu thuyết phóng sự về những hủ tục mà bọn cường
hào muốn duy trì ở nông thôn để đưa vào đó mà bóc lột nông dân đến xương
tuỷ. Mỗi mẩu chuyện trong Việc làng là một tấn bi kịch. Tác giả luôn luôn lên
án bọn “ăn trên ngồi trốc” tay sai của thực dân và phong kiến thống trị, bọn
đầu trâu mặt ngựa, đã làm cho nhiều gia đình ở nông thôn bị khánh tận, nhiều
nông dân phải tự tử, hoặc bỏ làng, chỉ vì phải đóng góp “Việc làng" quá nặng.
Trong tiểu thuyết này, chúng ta thấy có những hiện tượng tiêu cực trong tư
tưởng người nông dân và đây là một hiện thực ở nông thôn Việt Nam trước
cách mạng tháng Tám.
Ở nước ta, vấn đề nông nghiệp là vấn đề quan trọng bậc nhất, Ngô Tất
Tố là nhà văn hiện thực đã viết thành công về nông thôn trong Tắt đèn và
Việc làng. Hai tác phẩm này là những tài liệu quý giá để chúng ta có cơ sở
mà nhận định về người nông dân Việt Nam đã lột xác đến mức nào trong
cảnh nông thôn đổi mới dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nhìn một cách khái quát những sách sáng tác, phê bình, nghiên cứu và
dịch thuật của Ngô Tất Tố trong 30 năm (1924-1954), chúng ta thấy những
công trình ấy của anh là một khối thống nhất theo tư tưởng chủ đạo của một
nhà văn luôn luôn đứng về phía nhân dân.
Trích sách Những năm tháng ấy,
Nxb Văn học, H. 1987
LỜI GIỚI THIỆU TUYỂN TẬP NGÔ TÂT TỐTRƯƠNG CHÍNH
Khi Ngô Tất Tố quvết định sống bằng ngòi bút, ông chỉ mới nghĩ rằng ít
ra ông cũng có thể dùng vốn Hán học của mình mà dịch sách Tàu ra quốc
văn, như Nguyễn Đỗ Mục, Đoàn Tư Thuật... rồi in thành sách, hoặc đăng đều
kỳ trên các tạp chí, trên phụ trương văn chương các báo hàng ngày. Nhưng
từ đầu thập kỷ 30, báo chí sách vở của ta có một sự đổi mới về nội dung cũng
như về hình thức khá rõ nét. Người đọc đã chán các cuốn sách tiểu thuyết
lãng mạn Trung Quốc của Từ Trẩm á, mà đòi hỏi những thiên truyện ngắn,
truyện dài có ít nhiều tính chất hiện thực, những thiên phóng sự, điều tra, ghi
điều mắt thấy tai nghe, chuyện bất công, vô lý, cảnh đau khổ lầm than trong
xã hội... về nghị luận, họ cũng chán những bài cao đàm khoát luận đạo mạo,
đại cà sa, trên Nam Phong, Trung Bắc tân văn... mà đòi hỏi những bài ngắn
gọn, hoạt bát, châm biếm nhẹ nhàng.
Điểu đáng để ý là các nhà văn, nhà báo lúc này đều trẻ, Tây hoá. Độc
giả lúc này cũng toàn là sinh viên, học sinh, viên chức, tiểu thương ở các đô
thị lớn. Đại đa số quần chúng nhân dân, vì chính sách ngu dân của đế quốc
phong kiến, bị gạt ra ngoài hoạt động văn học nghệ thuật.
Lại nữa, từ sau những năm 1930, 1931, chế độ kiểm duyệt hết sức gắt
gao; nhà văn, nhà báo có ít nhiều tư tưởng tiến bộ không thể nói được trên
sách báo công khai những điều mình muốn nói. Hơi một tí là cắt xén, xoá bỏ,
đình bản, đóng cửa toà báo. Trong bốn năm, từ 1931- 1934, số báo bị đình
bản là 161 tờ. Do nhân dân ta đấu tranh, đầu năm 1935, chính quyền thực
dân bắt buộc phải bỏ lệnh kiểm duyệt ở Nam Kỳ, đầu năm 1937 ở Bắc Kỳ và
Trung Kỳ. Nhưng chỉ được hai năm đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, thì
đâu lại hoàn đấy.
Ngô Tất Tố xuất thân nhà nho, nay muốn theo đuổi nghề cầm bút, tất
nhiên phải thay đổi tư tưởng, thay đổi văn phong cho ngang tầm với thời đại.
Điều đó, ông đã làm được.
Về mặt tư tưởng, đúng là như thế. Đọc những bài bình luận thời sự
Ngô Tất Tố viết suốt mười lăm năm (1930 đến 1945), có thể thấy ông luôn
luôn hướng về phía trước, muốn cho kịp người. Nhưng không phải vì thế mà
nói ông theo thời, ông thực lòng như vậy. Ông không hề đứng trên quan điểm
lập trường nhà Nho mà đặt vấn đề và giải quyết vấn đề. Những người thế hệ
ông, kể cả những người tiến bộ nhất, đều hô hào hoà hợp đạo Khổng Mạnh
với văn minh Âu Tây, có công kích nho giáo cũng chỉ công kích một vài điểm
trong Hán nho, Tông nho, chứ không động đến những nhân tố chủ yếu của
đạo Khổng Mạnh. Ngô Tất Tố thì trái lại. Đề cập đến Khổng Mạnh, ông
thường lấy giọng chế nhạo. Như nói: “Cụ Khổng, cụ Mạnh đều sính làm quan”
và “tuỳ vào thời một cách dễ dãi” (Con cháu khôn hơn ông vải - Thời vụ, ngày
5-4-1938), hoặc nhắc đến chuyện tên quân phiệt Tưởng Giới Thạch, để duy
trì thế lực hắn đã “hô hào chấn hưng đạo Khổng” (Chúa trùm áo nâu sẽ xuống
địa ngục - Thời vụ ngày 3-5-1936). Cũng năm 1938, viết bài phê bình Nho
giáo của Trần Trọng Kim, ngoài việc nhận xét tác giả dùng tư liệu không chính
xác, đem tư tưởng người khác làm tư tưởng của Khổng Tử, “dịch sai nghĩa
hoặc thêm ý mình vào văn Kinh truyện”, ông còn vạch cho mọi người thấy
dụng tâm của Trần Trọng Kim là lý tưởng hoá đạo Khổng, cho rằng đạo ấy
“rất thích hợp với chân lý, thật là đạo xử thế rất hay, rất phải, ai theo cũng
được và thi hành ra đời nào cũng được”. Ông chưa trực kiện công kích triết lý
Khổng Mạnh, nhưng ông công kích những người sùng bái các vị “thánh” đó
để hưởng ứng chủ trương của thực dân đề xướng phong trào phục cổ, những
người mắc vào tròng chính lại là những người ít tuổi hơn Ngô Tất Tố và là tây
học hẳn hoi. Người thì sáng tác, người thì dịch thuật, người thì nghiên cứu, ai
nấy đều thi vị hoá quá khứ, đề cao đạo đức phong kiến, tuyên truyền ý thức
hệ duy tâm. Ngô Tất Tố bấy giờ có viết cuốn tiểu thuyết Lều chõng, nhưng từ
đầu chí cuối, ông chỉ trích nền giáo dục phong kiến là nhồi sọ, văn chương
trường ốc là sáo rỗng, cách kén chọn nhân tài theo khoa cử là vô nghĩa.
Tác giả Lều chõng làm cho chúng ta nhớ đến nhà văn châm biếm xuất
sắc Trung Quốc, Ngô Kính Tử, với Chuyện làng nho. Trong Lều chõng có
nhiều chuyện khá khôi hài: một chuyện cụ già “sức yếu vác không nổi Lều
chõng, trượt ngã, nằm chỏng gọng trên đường, lều gác chéo giữa cổ, chiếc
chõng tre và cái tráp đè trên bụng”; chuyện người đỗ “nhảy lên như choi choi
giữa phố mà hét: “Sỏ lợn về ai? Sỏ lợn về ai?”; người trượt “kêu gào chán thì
giãy đành đạch ở mặt đường như người ngộ gió”. Cũng những năm này, Ngô
Tất Tố nghiên cứu Lão tử, Mặc tử, dịch Kinh dịch với ý đồ làm ngược chủ
trương của chính quyền thực dân. Lão tử là một công trình nghiên cứu có tinh
thần phê phán khoa học, tiếp thu nhiều nhận định của các nhà nghiên cứu
tiến bộ Trung Quốc trước giải phóng. Ông khai thác những nhân tố duy vật và
quan điểm biện chứng trong học thuyết này, nói rằng “vũ trụ quan của Lão tử
là một vũ trụ quan vô thần”, phê phán chủ nghĩa vô vi của Lão tử, “đem ra thi
hành việc xử thế là một thuyết hoàn toàn tiêu cực, đem ra ứng dụng về chính
trị tức là chính sách phóng nhiệm, tự do vô chính phủ”. Ông đề cao Mặc tử
cũng là chống Nho giáo, chống phục cổ, chống thuyết hữu mệnh, chống chiến
tranh xâm lược. Cuốn Kinh dịch ông dịch năm 1943, là để mọi người thấy “cái
khó hiểu của Kinh dịch không tại ý tứ sâu xa, chỉ tại lời văn chủng chẳng rời
rã, ngớ ngẩn, đột ngột, giống như lời nói của bọn đồng cốt, không đầu đuôi,
không mạch lạc, có chỗ lại không đúng với văn pháp nữa” (Những điều nên
biết). Thái độ ấy của ông đối với một tác phẩm mà thời bấy giờ nhiều người,
kể cả cũ lẫn mới, Nho học cũng như Tây học, hết lời ca ngợi và làm cho càng
thần bí thêm, chứng tỏ Ngô Tất Tố không còn có thể gọi là một nhà “cựu học”,
một “nhà nho” nữa! Ngô Tất Tố thương hại những nhà nho “lạc bước trong
thời đại mới, bơ vơ đứng giữa ngã ba với những cơn gió mưa cát bụi để chờ
ngày chấm dấu hết cho trang lịch sử Hán học của nước Nam” (Hán học cuối
năm Kỷ Mão - Hà Nội tân văn, 1940)
Thật ra đã từ lâu, từ khi bước vào làng văn, Ngô Tất Tố luôn luôn cố
gắng vượt mình để theo kịp trào lưu tư tưởng mới. Những năm 1930-1931,
ông đã viết nhiều bài bình luận ngắn chống chủ trương “bảo tồn quốc tuý”,
“đem những cái cặn bã của cửa Khổng sân Trình mà nhồi mãi vào óc độc
giả”, “cổ động dân quê duy trì cái thói tục ở góc điếm sân đình”, “hô hào các
bạn gái cứ giữ gìn cái sinh hoạt ở cửa buồng xó bếp”. Ông mỉa mai cay đắng:
“Phải bảo tồn là phải! Có khuyến khích được nhiều người bảo tồn những món
đó mới xứng đáng là cơ quan độc nhất của phụ nữ, mới xứng đáng là hướng
tiên phong trong đội quân tiến thủ” (Kiểu đất ở phố Hàng Trống, Mười năm
nữa báo chí Bắc Kỳ sẽ cổ động đến “thò lò” “quay đất”, Hỡi đồng bào Việt
Nam, chúng ta nên vẽ mình cho con cháu chúng ta - Đông Phương, 1931).
Ý thức tự vượt mình nhất quán ở Ngô Tất Tố được biểu hiện không
phải một lần mà nhiều lần, trong những trường hợp khác nhau, về những
chuyện khác nhau. Trong cuốn Văn học đời Lý (1942), ông nói: “Vận hội một
nước trông ở tương lai nhiều hơn trông ở quá khứ”. Trong cuốn Văn học đời
Trần (1942), ông ca tụng “những kẻ học giả chưa bị trói buộc vào trong xiềng
xích của nghề từ chương”, ca tụng “những bậc đạo học cao rộng như Chu
Văn An, Trương Hán Siêu”, về Hồ Quý Ly ông nói thêm “Phải biết những điều
ông ta nói đó chẳng những ở ta từ trước đến hồi gần đây chưa nghĩ tới, mà
đến ở Tàu, trừ bọn Thanh Nho sinh sau Quý Ly ba bốn thế kỷ, cũng chưa có
ai dám nói. Như vậy đủ biết ông ta thật là một người có tư tưởng độc lập,
không chịu nhắm mắt theo những thành kiến của cố nhân”.
“Nhà nho” Ngô Tất Tố là như thế. Chỉ có thể gọi ông là “nhà nho” với ý
nghĩa ông có một cái vốn Hán học cao, so với bạn đồng nghiệp lớp sau cùng
ông làm báo, viết sách. Ông không hề bị tư tưởng nhà nho ràng buộc.
Nổi bật nhất ở “nhà nho” Ngô Tất Tố là lòng yêu nước.
Lòng yêu nước của ông không giống lòng yêu nước của “nhà nho”
cùng thời thể hiện trong thơ văn cách mạng sáo, lặp đi lặp lại những từ “non
sông đất nước”, “gánh giang sơn”, “nợ nước non”, “trời Âu bể Á”, dù cảm xúc
có chân thành đến mấy cũng không còn làm ai rung động nữa. Trong chừng
mực mà kiểm duyệt thời bấy giờ cho phép, với các bài bình luận, với sáng tác
của mình, Ngô Tất Tố thẳng thắn vạch trần bộ mặt bỉ ổi của những tên tay sai
đầu sỏ, không sợ sệt, không e dè, kiêng nể, chỉ rõ thực chất những tổ chức
tôn giáo, văn hoá, chính trị: Hội Phật giáo, Hội khai trí tiến đức, Viện dân biểu,
cho đó chỉ là “những thứ trò chơi mà thực dân bày ra cho đủ lệ bộ để lừa bịp
dân chúng mà thôi”. Ông có giấu giếm quanh co gì đâu! Đó là chưa kể những
chuyện lịch sử ông viết năm 1935 về Hàm Nghi, Đề Thám, trực tiếp nói về sự
xâm lược và chống xâm lược.
Từ năm 1937 đến 1939, chế độ kiểm duyệt bãi bỏ, ấy là dịp cho Ngô
Tất Tố đả kích thẳng vào tên thống sứ Bắc Kỳ Tôlăngxơ (Tholance) tên thống
đốc Nam Kỳ Pagiê (Pagés), tên toàn quyền Brêviê (Brevié), tên tổng trưởng
thộc địa Măngđen (Mandel). Ông dùng một hình ảnh rất sinh động để nói tính
chất giả dối của chính sách hiệp tác Pháp - Nam: “Khi ngẫm xem thân thế của
hai bên như một kẻ nằm trên giường một người nằm dưới đất, một kẻ ăn thịt,
một người nằm gặm xương, thì cái tinh thần thân ái vẫn còn lâu mới thắm
thiết được” (Hiệp tác hay hiếp tác - Thời vụ, ngày 20-12-1938). Trong nhiều
bài liên tiếp, ông nêu mánh khoé tuyên truyền mị dân, kêu gọi dân bản xứ:
“đóng góp với mẫu quốc về quân phí, về quốc trái, về lạc quyên”, cũng như
những cách đầu độc dân bản xứ bằng rượu, thuốc phiện, vi trùng hoa liễu, thì
ông không ngại nói trắng ra rằng bọn thực dân sang đây là để vơ vét: “Những
quan lại công chức hàng năm biết bao nhiêu gia đình khi nheo nhóc kéo sang,
chẳng bao lâu đã phởn phơ kéo về, hành lý kĩu kịt! Lại biết bao nhiêu những
tài chủ, nghiệp chủ và điền chủ cùng những danh công đại thương phiếu trên
thị trường quốc tế có một địa vị cao quý làm cho bao kẻ thèm muốn cái xứ bờ
xôi ruộng mật này...” (Cho no đủ đã - Thời vụ, ngày 13-12-1938).
Đành rằng trong hai năm này, báo chí ta có nhiều bài đả kích thực dân
mạnh mẽ không kém, nhưng các tác giả thường pha giọng khôi hài, đùa bỡn
vào làm cho người ta cười, vui hơn là căm giận. Ngô Tất Tố viết nghiêm
chỉnh, có châm biếm, nhưng không gây cười, hay gây cười cũng để tỏ ý khinh
bỉ. Ông lên án không úp mở chính quvền thực dân và chế độ thực dân, không
phải chỉ nói đến những cái lố lăng, dâm ô, trụy lạc của những thằng Tây đoan,
những tên chánh cẩm, những tên săng đá hoặc những mụ me Tây.
Lòng thương dân của Ngô Tất Tố cũng khác. Bản thân ông là một nhà
nho nghèo, sinh trưởng ở nông thôn, chứng kiến bao nhiêu nỗi khổ của người
dân, cho nên khi có dịp là ông đứng về phía họ mà tố cáo nỗi cơ cực của họ,
trong các bài bình luận, các thiên phóng sự, điều tra, cả trong sáng tác nữa.
Trong bình luận, ông buộc tội những kẻ gây ra tình trạng đó; trong phóng sự,
điều tra, ông nói về người thật việc thật; trong sáng tác, ông xây dựng thành
điển hình. Có so sánh tác phẩm của ông với các tác phẩm của những nhà
văn đồng thời mới thấy sự khác giữa quan điểm, lập trường của ông với lập
trường, quan điểm của những nhà văn kia. Có khi cùng sử dụng một đề tài,
xây dựng một loại nhân vật nhưng một bên cố ý phơi bày nỗi cực khổ của
quần chúng lao động, một bên cố ý nhấn mạnh khía cạnh ngây ngô, dại dột,
tục tĩu, bóp méo hiện thực khách quan, sa vào chủ nghĩa tự nhiên nhằm mục
đích thoả mãn óc tò mò của người đọc. Ngô Tất Tố- không tài hoa bằng họ.
Họ không cần biết thật rõ đối tượng phản ánh, cũng có thể viết thành những
thiên phóng sự, những cuốn tiểu thuyết dày hai ba trăm trang! Còn ông, chỉ
viết những cái ông nung nấu lâu ngày, rồi tự hạn chế trong khuôn khổ đề tài
cho phép. Nguyễn Công Hoan kể: “Thấy Vũ Trọng Phụng viết Vỡ đê (bấy giờ
Vỡ đê còn đăng trên báo Tương lai), Ngô Tất Tố nói: “Vũ Trọng Phụng viết
thế nào được truyện về nhà quê. Để tôi viết cho!”. Thế là anh viết Tắt đèn
(Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, 1971). Chính vì thế mà tác phẩm của Ngô
Tất Tố thực hơn, sát hơn, không chỗ nào giả tạo, không lấy trí tưởng tượng
thay cho quan sát. Thời kỳ 1936-1939, tức là thời kỳ Mặt trận Dân chủ, văn
học hiện thực phê phán công khai xuất hiện khá nhiều phóng sự, điều tra,
truyện ngắn, truyện dài phản ánh cuộc đời những người cùng khổ vì miếng
cơm manh áo, tố cáo bọn hương lý, cường hào, bọn tham quan ô lại, nhưng
ít tác phẩm chín chắn và được tin cậy bằng Tắt đèn và Việc làng của Ngô Tất
Tố. Khi cuốn Tắt đèn của ông ra đời, nhà phê bình Minh Tước có viết trên tờ
Mới (số 4, 1939) một câu rất có ý nghĩa: “Nhà Nho ấy đã vượt khỏi cả thế hệ
của mình. Người môn đồ của Khổng Mạnh này đã thở hút cái không khí xã
hội của K. Marx như tất cả những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu, để viết
cho chúng ta quyển “Tắt Đèn”. Trong văn phẩm ấy, ông Ngô Tất Tố đã dùng
được đắc sách cái phương pháp khách quan để tả ra cho chúng ta biết rõ
ràng những cảnh tượng nơi hương ẩm, là một chỗ mà người ta nhờ ông,
nhận thấy rất nhiều sự mâu thuẫn và hủ nát”. Nói như thế không phải nói Ngô
Tất Tố đã là một nhà văn cách mạng, một nhà văn mác-xít. Ông chưa hiểu
nhiều về cách mạng, chưa tin tưởng ở cách mạng, chưa có quan điểm giai
cấp, chưa hiểu phương pháp sáng tác duy vật biện chứng, nhưng ông phân
biệt rõ ai bạn, ai thù, bản thân ông đứng về phía nào.
Đến khi thực dân Pháp đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng, Đảng
rút vào vòng bí mật văn chương công khai đi vào con đường bế tắc, theo xu
hướng trụy lạc, siêu thoát, hình thức chủ nghĩa, quay về quá khứ, thì Ngô Tất
Tố không thể ngang nhiên viết những tác phẩm như Tắt đèn nữa, nhưng ông
vẫn cho đăng báo rồi in thành sách tập phóng sự Việc làng. Ông viết cuốn
tiểu thuyết Lều chõng, không phải để theo phong trào phục cổ. Ông nghiên
cứu Lão tử, Mặc tử, cũng không phải đề cao chủ nghĩa duy tâm như đã nói ở
trên. Ông sưu tầm văn học cổ điển, ra các cuốn Văn học đời Lý, Văn học đời
Trần, Thi văn bình chú, dịch Hoàng Lê nhất thống chí rõ ràng với tinh thần
dân tộc đúng đắn, nghiêm túc. Ông sử dụng cái vốn ông có sẵn để đặt nền
tảng cho một công việc mà bây giờ chúng ta làm tốt hơn và khoa học hơn.
Trong các công trình này, ông có ý thức đề cao những bài thơ, bài văn chứa
chan lòng yêu nước, ca ngợi cảnh đẹp non sông, dành cho văn Nôm một vị trí
xứng đáng. Có thể nói ông đã khai thác vốn cổ theo tinh thần dân tộc.
Nhìn lại cả quá trình dài từ 1930 đến 1945, Ngô Tất Tố không hề chao
đảo, ngả nghiêng như nhiều nhà văn cùng thời. Người ta thường nói đến
“nhân phẩm”, “phẩm cách”, “khí phách nhà nho” của Ngô Tất Tố là ở chỗ đó.
Ông sống về nghề văn, nghề báo, nhưng không chạy theo đồng tiền; nghèo
nhưng vẫn giữ mình trong sạch; theo cho kịp thời mà không xu thời; trung
thực, dám nói thẳng, nói thật; tôn trọng ngòi bút, không dùng ngòi bút làm
những việc trái lương tâm. Ông không tha thứ những tên bồi bút đã đành, ông
cũng rất chê những nhà văn, nhà báo tráo trở, hữu thuỷ vô chung, coi thường
vai trò “tiền phong”, “hướng đạo” của họ. Khi bị sở mật thám bắt giam, ông
cương quyết từ chối không chịu để cho tên tay sai Phạm Lê Bổng bảo lãnh
với điều kiện phải viết cho tờ báo Nam cường của hắn, một tờ báo “quốc gia”
giả hiệu, giống tờ Tổ quốc An Nam xuất bản bằng tiếng Pháp(Patri - e
annamite) cũng của hắn. Trong kháng chiến, ông không thèm nhận tiền
nhuận bút của những nhà xuất bản trong nội thành in lại tác phẩm của ông.
Rõ ràng đó là khí tiết của nhà nho: “phú quý, không ham; nghèo hèn, không
thay đổi dạ; uy quyền, không thể khuất phục”. Cách mạng tháng Tám thành
công, Ngô Tất Tố đã có mặt; bắt đầu kháng chiến toàn quốc, ông ra chiến
khu. Năm 1948, ông được vinh dự ra nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Con
đường ông đi là một con đường thẳng.
Trích sách tuyển tập Ngô Tất Tố, Tập I,
NXB Văn học, H.1994
NGÔ TẤT TỐNGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Nói đến Ngô Tất Tố, người ta không thể không nghĩ đến cái làng quê
nghèo Việt Nam thời thuộc Pháp mà tiếng trống thúc dồn sưu hàng năm đe
dọa người nông dân như một tai họa khủng khiếp.
Tiếng nói văn học của Ngô Tất Tố không những là tiếng kêu cấp cứu
đòi cơm áo cho những người nông dân cùng khổ, mà còn là tiếng nói đanh
thép, dõng dạc khẳng định nhân phẩm cao đẹp của họ trong bùn nhơ của xã
hội thực dân phong kiến.
Điều đó xác định vị trí đầy vinh dự của Ngô Tất Tố trong dòng văn học
hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945.
Ngô Tất Tố quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc
xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Quê hương nhà văn cũng là quê
hương của những điệu dân ca quan họ, của nhiều truyện thần thoại, cổ tích
rất thú vị, đồng thời cũng là xứ sở của nhiều hủ tục nặng nề được duy trì từ
ngàn xưa cùng với chế độ phong kiến.
Ngô Tất Tố sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông nội nhà
văn lận đận bảy khóa thi hương cũng chỉ đậu tú tài. Ông thân sinh đành chịu
thân phận thầy đồ, sau sáu lần Lều chõng về không. Đó là những nạn nhân
của chế độ khoa cử thối nát thời phong kiến đã góp nhiều tài liệu sống cho tác
phẩm Lều chõng sau này của nhà văn.
Gia đình Ngô Tất Tố thuộc loại gia đình nông dân nghèo phải lĩnh thêm
ruộng làng để cày cấy và thường phải vay nợ lãi. Hoàn cảnh đó giúp nhà văn
dễ dàng thông cảm với cuộc sống khổ cực của nông dân lao động dưới sự áp
bức bóc lột của bọn cường hào địa chủ.
Ngô Tất Tố xuất thân Nho học. Năm 22 tuổi, trong một kỳ khảo hạch địa
phương, ông đỗ đầu, nên người ta thường gọi ông là “đầu xứ Tố”. Nhưng
Ngô Tất Tố đã sớm bỏ bút lông, cầm bút sắt, hăng hái bước vào làng văn
làng báo, tự tạo cho mình một địa vị xứng đáng.
Sau cách mạng, Ngô Tất Tố gia nhập hội văn hoá cứu quốc. Kháng
chiến toàn quốc, quê hương ông trở thành khu du kích, ông đã hi sinh một
người con trai cho Tổ quốc và bản thân tích cực sáng tác phục vụ kháng
chiến. Ông viết cho báo Cứu quốc và báo Thông tin khu XII, phụ trách văn
nghệ liên khu I. Ông dịch Suối thép của Xêraphimôvích, Lửa chiến đấu của
Lưu Bạch Vũ, Trời hửng của Vương Lực, Doãn thanh xuân của Hàn Phong
v.v... Ông sáng tác vở chèo Bùi Thị Phác, được giải thưởng của hội văn nghệ
Việt Nam năm 1952.
Ngô Tất Tố đã chân thành chào mừng cách mạng thành công và hăng
hái đi theo cách mạng. Năm 1948, ông được vinh dự gia nhập Đảng cộng sản
Đông Dương.
Tháng 4 năm 1954, Ngô Tất Tố mất. Với 60 tuổi đời, ông đã cống hiến
cho xã hội, cho nhân dân 30 năm làm báo, viết văn, khảo cứu dịch thuật, miệt
mài, say mê.
Ngô Tất Tố là một nhà nho có một vốn Hán học khá vững vàng. Ta có
thể hiểu được phần nào tài học đó qua hàng loạt công trình khảo cứu, biên
soạn, phê bình, dịch thuật của ông. Ông là một người rất hiếu học, luôn luôn
đọc sách, tìm tòi, suy nghĩ. Theo Vũ Trọng Phụng, ông đã tìm đọc cả Mácxim
Gorki qua những bản dịch Trung Hoa.
Xuất thân cựu học, nhưng Ngô Tất Tố không phải là một người bảo thủ.
Ông sáng suốt thấy rõ sự lỗi thời, bất lực của bọn hủ nho “lạc bước trong thời
đại mới, họ vẫn bơ vơ đứng giữa ngã ba với những cơn gió mưa cát bụi, để
chờ ngày chấm hết cho trang lịch sử Hán học của nước Việt Nam". Ông phản
đối bọn người, vô tình hay hữu ý, chạy theo phong trào cổ do thực dân đề
xướng. Theo ông, dưới cái chiêu bài "bảo tồn quốc tuý" bọn này chỉ "đem
những cặn bã ở cửa Khổng sân Trình mà nhồi mãi vào óc độc giả, muốn "cổ
động dân quê nên duy trì cái thói tục ở góc điếm sân đình", muốn "hô hào bạn
gái cứ giữ gìn cái sinh hoạt ở cửa buồng xó bếp".
Trong cuốn Văn học đời Trần, ông tỏ ra khâm phục Hồ Quý Ly "một
người có tư tưởng độc lập, không chịu nhắm mắt theo những thành kiên của
cổ nhân". Chính vì vậy, nhà văn Ngô Tất Tố luôn luôn hướng về tương lai -
ông viết: "Vận hội một nước trông ở tương lai vẫn nhiều hơn trông ở quá khứ"
- và luôn luôn cố gắng theo những trào lưu tư tưởng tiến bộ của thời đại.
Ngô Tất Tố có lòng yêu nước thiết tha. Ông đã từng chứng kiến và chịu
ảnh hưởng sâu sắc những phong trào ái quốc thời kỳ Đề Thám, Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh.
Lòng yêu nước của ông thể hiện một phần trong tập ký sự lịch sử Vua
Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (1935). Trong tác phẩm này, ông kể lại
những hành động ngang ngược của bọn thực dân xâm lược Đờ Cuôcxi (De
Courcy), Bờrítxô (Brissaud)... Ông tỏ ý khinh miệt bọn Việt gian phản quốc
Hoàng Kế Viêm, Trương Quang Ngọc v.v... Ông kín đáo biểu dương gương
hy sinh anh dũng của các sĩ phu và nghĩa binh trong phong trào cần vương.
Lòng yêu nước của Ngô Tất Tố gắn liền với lòng yêu thương nhân dân,
nhất là những người nông dân lao động nghèo khổ, cần cù và tốt bụng, rất
gần gũi với cuộc sống của ông. Với lòng yêu nước đó, trong thời kỳ Mặt trận
Dân chủ, Ngô Tất Tố đã tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng, kiên quyết đứng
trên lập trường dân chủ, tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn thực dân, phong
kiến, tư sản và tha thiết đòi cải thiện đời sống cho nhân dân lao động.
Suổt cuộc đời làm văn, làm báo, nói chung, không bao giờ ngòi bút của
Ngô Tất Tố viết mà không vì lợi ích hoặc gần hoặc xa của dân tộc, của nhân
dân. Ta hiểu vì sao sau này Ngô Tất Tố đã tận tuỵ phục vụ cách mạng đến
hơi thở cuối cùng.
Ngô Tất Tố là một nhà văn có phẩm chất trong sạch và có tinh thần
chiến đấu thẳng thắn, dũng cảm. Ông đã phát huy khí tiết trong sạch của nhà
nho chân chính. Giữa cái xã hội "kim tiền" nhơ bẩn thời trước, khi khá nhiều
"nhà văn", "nhà báo" xô đẩy, chen lấn nhau quanh túi tiền của bọn thực dân,
phong kiến và bọn nhà giàu nhàn rỗi ở thành thị, thì Ngô Tất Tố vẫn tuân theo
một "đạo luật" nghiêm khắc của mình: "Phú quý thì không thể làm nhà văn.
Đã làm nhà văn thì đừng mong gì phú quý". Đạo luật đó cũng giống như câu
Dương Hán nói trong Mạnh Tử: "Vi phú bất nhân, vi nhân bất phú". Nhà văn
Ngô Tất Tố suốt đời nghèo túng vì quả thực ông viết văn không vì tiền bạc.
Hai tờ Công dân và Tương lai mà ông cộng tác "chỉ là cơ quan của một bọn
anh em nhà văn nghèo dúm rau, dúm bếp làm với nhau, ít khi trả tiền in rồi
trong két có được tiền thừa mà trả cho người cầm bút".
Với nhân cách trong sạch đó, Ngô Tất Tố tỏ ra có một bản lĩnh khá
vững vàng khi chiến đấu với kẻ thù. Ngòi bút đả kích của ông khá lợi hại, nhất
là trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, đối với bọn thực dân, quan lại, bọn đầu cơ
chính trị, văn hoá v.v...
Ngô Tất Tố là một nhà văn có tài năng về nhiều mặt: khảo cứu, phê
bình, dịch thuật, viết báo, viết tiểu thuyết, phóng sự. Trên mỗi lĩnh vực đó, ông
đều đạt được nhiều thành tích.
Về mặt dịch thuật, nhiều tác phẩm ông chọn dịch có nhân dân tính cao
như Đường thi (1940), Hoàng Lê nhất thống chí (1942) v.v...
Bản Hoàng Lê nhất thống chí hiện nay vẫn được coi là một công trình
dịch thuật có giá trị về văn học và sử học. Đường thi gồm 53 bài thơ dịch của
25 tác giả. Mỗi bài thơ đều được diễn giải rành mạch ra văn xuôi với những
chú thích cần thiết về điển cố. Dịch giả đã làm việc với tinh thần trách nhiệm
cao: "Với tập thơ này, tôi đã hao tổn rất nhiều công phu, kê cứu rất kỹ. Nhất là
về mục "dịch vần" nhiều bài tôi phải chữa đi chữa lại đến 10 lần". Giá trị các
bản dịch của Ngô Tất Tố trước hết là ở chỗ nó khá trung thành với nguyên tác
về ý thơ và nhịp điệu. Có thể coi Ngô Tất Tố là dịch giả đáng tin cậy đối với
những người muốn tìm hiểu thơ Đường một cách thận trọng. Tản Đà là một
thi sĩ, những bản dịch thơ Đường của ông có phần sáng tạo tài hoa của một
nhà thơ. Ngô Tất Tố là một nhà văn, một nhà khảo cứu, song qua một số bản
dịch trong Đường thi, không phải ta không tìm thấy ở ông một tinh thần thi sĩ.
Từ khoảng 1940 đến 1942, nhiều công trình phê bình, khảo cứu, biên
soạn của Ngô Tất Tố ra đời: Phê bình "Nho giáo" của Trần Trọng Kim (1940 -
đã đăng trên Thời vụ từ 2938), Thi văn bình chú (1941), Việt Nam văn học
(1942), Lão tử (1942), Mặc tử (1942).
Bộ Việt Nam văn học - mới hoàn thành hai phần: Văn học thời Lý và
Văn học thời Trần - là một công trình khảo cứu có giá trị. Do lòng yêu nước,
Ngô Tất Tố rất tha thiết đến việc xây dựng cuốn văn học sử Việt Nam thời cổ:
tài liệu thất lạc nhiều do chiến tranh liên miên; người biết chữ Hán ngày càng
ít đi, nên những tài liệu cổ sẽ khó sử dụng được tốt. Vì thế ông hết sức lo lắng
tìm tòi, phiên dịch, giải thích tài liệu của cổ nhân một cách khẩn trương và
nghiêm túc. Ông đã phiên dịch và chú thích hàng trăm bài chữ Hán vừa văn
xuôi, vừa văn vần, của hàng mấy chục tác giả mà ông tìm đọc được trong
những sách cổ. Nhận định đặc điểm của nền văn học xưa qua các triều đại,
Ngô Tất Tố đã theo một quan điểm khá chính xác: "Học thuật thường phải
dựa theo phương hướng chính trị. Chính trị ngoảnh về hướng nào, học thuật
cũng phải đi theo phương hướng ấy". Cho nên ông nhận xét đúng: "Trong
nền văn học nhà Lý, Nho giáo chỉ còn là phụ, Phật giáo mới là phần chính";
"đời nhà Trần, Phật giáo không được trọng đãi như Nho giáo. Vì vậy trong
nền văn học, Phật giáo phải dần dần nhường địa vị ưu thắng cho Nho giáo";
đời Trần "những kẻ học giả chưa bị trói buộc vào trong xiềng xích của nghề từ
chương. Ấy cũng vì thế, nhà Trần mới có những bậc đạo học cao rộng như
Chu Văn An, và Trương Hán Siêu, tư tưởng tự do như Hồ Quý Ly. Và cũng
chính vì thế, văn chương nhà Trần còn có khí cốt, không đến nỗi uỷ mị non
nớt như các đời khác".
Mặc tử, Lão tử cũng là những công trình nghiên cứu có giá trị. Tư
tưởng tiến bộ của Ngô Tất Tố biểu hiện rõ rệt khi ông tán thành những quan
điểm triết học, văn hoá, chính trị tích cực của Mặc tử.
Trong việc khảo cứu, biên soạn, Ngô Tất Tố luôn luôn có thái độ chiến
đấu thẳng thắn cho chân lý. Phê bình Nho giáo của Trọng Kim, ông nói dứt
khoát: "Với một cuốn sách có quan hệ đến tư tưởng học thuật của một dân
tộc, không ai được phép vì nể tác giả mà nể luôn của sự sai lầm trong sách
để di ngộ cho người đời sau". Ngô Tất Tố đã vạch trần những chỗ dốt nát và
nhất là thái độ nghiên cứu không lương thiện của Trần Trọng Kim. Qua phê
bình "Nho giáo", ta hiểu rõ Trần Trọng Kim đã dựa vào những tài liệu không
chính xác rồi dùng lối "phỏng đoán", suy luận quanh co, biến Nho giáo thành
một thứ "Trần Trọng Kim giáo" mà thực chất là một mớ lý luận phản động,
đem tất cả những mặt tiêu cực lỗi thời của Nho giáo mà đúc thành một thứ
"khuôn vàng thước ngọc" cho người đời nay: "Đạo của Khổng phu tử là đạo
trung dung, rất thích hợp với chân lý, thật là đạo xử thế rất hay, rất phải, ai
theo cũng được và thi hành ra đời nào cũng được".
Nhìn chung, trong lĩnh vực học thuật, Ngô Tất Tố luôn luôn làm việc với
mục đích hữu ích cho xã hội. Những công trình dịch thuật, khảo cứu, biên
soạn của ông, phần nhiều đều có nhân dân tính, chiến đấu tính rõ rệt.
Tóm lại, Ngô Tất Tố là nhà văn có nhiều đức tính tốt đẹp. Ông chưa
hoàn toàn thoát khỏi được ảnh hưởng tiêu cực của chế độ thực dân phong
kiến, nhưng dưới bầu trời đen tối của xã hội đương thời, ông đã cố gắng giữ
cho tâm hồn trong sáng. Lòng yêu nước, thương dân đã khiến ông phát huy
được những yếu tố tích cực của Nho giáo và của các học thuyết cổ đại Trung
Hoa nói chung. Lòng yêu nước thương dân đã khiến ông cố gắng vươn lên
tiếp thụ tinh thần dân chủ tiến bộ của phong trào Mặt trận Dân chủ do Đảng
lãnh đạo, và sau này thực sự đi theo cách mạng, gia nhập hàng ngũ với
những người cộng sản. Ngô Tất Tố là người có tài năng nhiều mặt, có sức
sáng tạo phong phú, bền bỉ. Ông có đầy đủ điều kiện cốt yếu về đức và tài để
có thể trở thành một nhà báo, một nhà văn xuất sắc.
(Trích sách lịch sử văn học Việt Nam,
Tập V, 1930 - 1945. Nxb Giáo dục, H.1973)
NGÔ TẤT TỐ MỘT CHÂN DUNG LỚN, MỘT SỰ NGHIỆP LỚNPHONG LÊ
Sinh năm 1893 mất năm 1954; toàn bộ sự nghiệp của Ngô Tất Tố là
nghiêng về phía trước 1945. Trong chưa đầy ba chục năm, tính từ khi vào
nghiệp văn, ông đã để lại một khối lượng trang in không mỏng, gồm các sáng
tác thật lực lưỡng trên rất nhiều mặt hoạt động mà một cây bút nếu không đủ
vốn, đủ hành trang, đủ nhiệt tình và bản lĩnh thì hẳn khó mà vượt tới được.
Nghiệp văn của Ngô Tất Tố là nằm trọn nửa đầu thế kỷ, thế nhưng tôi
vẫn không chút e dè khi đặt Ngô Tất Tố vào hàng những văn gia của thế kỷ.
Bởi ông luôn luôn là con người của thời sự, của hiện tại. Bởi ánh sáng trong
tác phẩm của ông luôn luôn có sức rọi sâu và xa. Sự nghiệp của ông là dự
cảm, là phát ngôn, là hiện thân những vấn đề của đất nước, của nhân dân,
của thế kỷ. Một thế kỷ dày đặc các sự kiện, các biến động, các đổi thay, các
bước ngoặt trong đời sống vật chất và tinh thần, trong văn hoá, văn học, nghệ
thuật... Mà phần xuyên suốt, liền mạch, không ngắt quãng của nó là một nhu
cầu lớn và khẩn thiết: Công cuộc canh tân và cách mạng dân tộc dân chủ
chúng ta đã hoàn thành; công cuộc đổi mới và cách mạng theo định hướng
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang theo đuổi. Đó là hai nhu cầu xen cài vào
nhau, chuẩn bị cho nhau, làm tiền đề cho nhau, cùng điều chỉnh, cùng phát
triển, ở mỗi nhà văn lớn như Ngô Tất Tố, phần giá trị tác phẩm của họ là
nhằm đạt được một mặt, hoặc gắn được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
gần hoặc xa nhu cầu ấy. Đưa văn chương vào quỹ đạo của các vấn đề xã
hội, trong đó nói lên cực kỳ gay gắt vấn đề áp bức và bóc lột, vấn đề quyền
sống và sự an toàn của con người, vấn đề sống còn của dân tộc - đó là vấn
đề bức xúc, dồn tụ suốt nửa đầu thế kỷ và đạt đỉnh điểm, để đi tới giải pháp ở
thời điểm 1945. Đưa văn chương vào con đường hiện đại hoá, và một quá
trình hoà nhập vào thế giới, để cho nền văn chương ấy thoát ra khỏi tình thế
phong bế, lạc hậu; góp phần cải tạo dân trí, khơi gợi các khát vọng dân chủ
của con người - đó cũng là một nhu cầu lịch sử cấp bức đặt ra vào đầu thế
kỷ. Nhu cầu đó tìm được cách giải quyết trong sự tiếp sức của các thế hệ Nho
học và Tây học, trong cả một phong trào liên tục nhằm truyền bá chữ quốc
ngữ, phát triển báo chí, hình thành các thể văn mới, lưu thông và hoà nhập
từng phần vào nền văn hoá hiện đại...
Ở thời điểm hôm nay, trong cuộc đổi mới, việc nhìn nhận lại các giá trị
văn chương - nghệ thuật - văn học trên yêu cầu bao quát của thế kỷ cho ta
mở rộng được nhiều giá trị mới, tránh được những nhận thức và đánh giá có
mặt chật hẹp trước đây, do hoàn cảnh cách mạng và chiến tranh, do sự phân
cách hai miền và thế đối lập hai phe, do sự bắt buộc phải lựa chọn một trong
hai con đường... Từ cách nhìn mới đó, trong nhiều tên tuổi thì Ngô Tất Tố
xứng đáng là một chân dung lớn và tiêu biểu, là người phát ngôn và thúc đẩy
cho cả hai nhu cầu cách mạng và canh tân, người đáp ứng cả hai phương
diện nội dung và hình thức của văn chương theo hướng cách mạng và hiện
đại.
Tôi cũng muốn lưu ý đây là một nhà văn hiện đại đầu tiên mà hôm nay
chúng ta kỷ niệm 100 năm ngày sinh. Với chu niên 100 năm, xem ra Ngô Tất
Tố là người có quãng cách với chúng ta hôm nay xa hơn nhiều người tưởng
là cùng thế hệ. Ông đã xích gần với Tản Đà, Đông Hồ, Trần Tuấn Khải... Thế
nhưng trong ý tưởng của nhiều tầng lớp bạn đọc ông vẫn là người của thế hệ
mới, người của thời hiện tại. Đi suốt thế kỷ đạt chẵn 100 năm sinh, ông không
phải là người gối đầu, người chuyển tiếp, người của buổi giao thời mà vẫn cứ
là người hiện đại. Nhà Nho đầu xứ tinh thông Nho học, am hiểu Đông phương
học ấy lại là người rất tân thời, rất cùng thời với chúng ta, trong toàn bộ trước
tác của ông với tư cách nhà văn, nhà báo, nhà phóng sự, nhà tiểu thuyết, nhà
tiểu phẩm, và bao trùm một nhà văn hoá, nhà học giả... Toàn bộ trước tác của
ông chứa đựng nhiều mặt giá trị. Không riêng Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái
đình nói với ta bao điều nhức nhối trong sinh hoạt người nông dân và nông
thôn Việt Nam. Không riêng tiểu phẩm, báo chí nói với ta một đời sống với
bao điều bức bối của một xã hội đã chuyển hẳn vào guồng quay của chế độ
thuộc địa. Không riêng Lều chõng và các công trình nghiên cứu về sử, văn
học sử, và tiểu thuyết lịch sử cho ta hiểu Ngô Tất Tố như một nhà văn hoá
sử. Quả là vậy, Ngô Tất Tố luôn luôn làm ta kinh ngạc, vì cách đặt các vấn đề
xã hội từ các tầng tiềm ẩn sâu xa của sự sống và của nền văn hoá, và vì sự
nhạy cảm thức thời, cập nhật của thời sự, của hiện tại. Tách riêng ra, ở mỗi
lĩnh vực, Ngô Tất Tố là người sâu sắc và bộc lộ hết mình. Tổng hợp lại, ông
càng lớn trong những tầng hiểu sâu xa về cuộc sống và con người, về xã hội
và thời cuộc, về tri thức và văn hoá, về văn chương và học thuật...
* * *
Hơn nửa thế kỷ đã qua, tên tuổi Ngô Tất Tố trước hết và gần như bao
quát là gắn liền với Tắt đèn, "một tiểu thuyết có luận đề xã hội, hoàn toàn
phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng
thấy", theo cách nói của tác giả Giông tố, Số đỏ. Nhà văn đã hoàn thành tác
phẩm ngay chính trên làng quê của mình, đã đào xới vào tận các tầng sâu nỗi
khổ của người dân như trên các luống cày của đất quê, trên số phận của
những người thân kẻ sơ một vùng quê không xa ánh sáng thành thị là mấy,
mà cứ như hun hút ngập vào đêm đen trung cổ. Tắt đèn có tất cả mọi cung
bậc một tiếng nói tố khổ quyết liệt cho số phận người nông dân trong xã hội
cũ, dường như bất dịch không thay đổi hàng nghìn năm đó, cho đến khi có
"ông Tây"; và đến lúc có ông Tây rồi, tình cảnh người nông dân vẫn chẳng có
bao nhiêu thay đổi. Một xã hội nối dài từ các "Việc làng", chung quanh một cái
đình cho đến một tư thất hoặc công đường nơi huyện sở, rồi một cảnh cụ cố -
vú em ở phố tỉnh; hoàn cảnh thì có mở rộng nhưng số phận con người thì cứ
thắt buộc trong tối tăm và oan khổ. Tắt đèn ánh lên cái nhan sắc của người
phụ nữ nông thôn, lầm lụi trong sáng và trinh trắng thì cứ ngời lên trên cái nền
tối tăm của đêm sâu, của nửa đêm tối đen như mực. Dồn ép con người đến
mức tận cùng như Tắt đèn, và đưa con người lên đỉnh cao của những giá trị
tinh thần và hình thể của con người như chị Dậu, tác phẩm của Ngô Tất Tố,
trong bất cứ tên gọi nào vẫn là tác phẩm vào loại hiếm hoi gắn nối được hai
mặt tối - sáng, phê phán – khẳng định, căm giận - yêu thương trong gia tài
văn chương một thế kỷ.
Tắt đèn ra đời vào cuối năm 30, như một báo hiệu tức nước vỡ bờ. Chỉ
dăm năm sau khi Tắt đèn ra mắt và bị cấm sẽ diễn ra một cuộc cách mạng
làm thay đổi tận gốc số phận người dân Việt Nam. Nhưng nếu sự vùng dậy là
quyết liệt, làm đổi đời hai mươi lăm triệu con người thì cái giá trị phải trả cho
sự đổi đời đó là hai triệu người gục xuống trong một cơn đói khủng khiếp nối
dài những cơn đói triền miên của lịch sử. Tôi muốn nói vấn đề của người
nông dân Việt Nam, của nông thôn Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong
hàng nghìn năm phong kiến và nông nghiệp là vấn đề đói, vấn đề con người
sống và tồn tại trên những đồng bãi màu mỡ phù sa mà vẫn thiếu cái ăn, và
không có miếng ăn. Nếu Tắt đèn là cuốn sách có một không hai về chân dung
phụ nữ Việt Nam giữa trùng điệp những tên cướp đêm và cướp ngày, thì tiểu
phẩm Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập cũng đã và cũng sẽ là
một tiểu phẩm có một không hai về cái đói và tình cảnh của người nông dân
Việt Nam, đời này qua đời khác, chống chọi và chịu đựng một cái đói lưu niên
của lịch sử. Người đói ăn rau má, củ chuối, cám bã, khô dầu, bã đậu... Người
đói ăn tất cả những gì có thể ăn, và cả những gì không ăn được, miễn là
không gây chết người. Cái nghệ thuật làm no bằng cách ăn đất sét và cách
pha chế nó sao cho có vị, để nuốt trôi được, của một người làng Ngô Tất Tố
trong một chuyến nhà văn về thăm quê giữa mênh mông ngập lụt, quả là một
cách chống đỡ đã nâng lên trình độ nghệ thuật để đánh lừa cả dạ dày và
khẩu vị. Ở đây là nghệ thuật làm no chứ không phải no thật. Chuyện no thật
sẽ có những trang khác, như Một bữa no của Nam Cao. Nói là no, nó vẫn cứ
là một biến dạng thê thảm của cái đói và chết vì no là một cực khác của đói
khổ và tủi hổ.
Gần như số đông các nhà văn Việt Nam chúng ta, theo tôi, ai cũng có
vốn hiểu biết, vốn sống, vốn chia sẻ, thông cảm với người nông dân. Nhưng
tôi nghĩ có dễ ai đạt đến độ của Ngô Tất Tố. Hiểu và thương yêu đến trân
trọng. Hiếu và lo lắng đến đau đớn. Và hiểu với bao khổ sở và thất vọng như
trong Việc làng. Những "việc làng", tôi tin là chưa ai biết cặn kẽ và chi li đến
như Ngô Tất Tố trên tất cả mọi khía cạnh của nhiêu khê, tù đọng, nhục nhằn,
bức bối, bất công qua bao nét nghĩ, phong tục, lối sống, sinh hoạt, hội hè,
đình đám, lễ tết, khao vọng, ma chay, giỗ chạp... Có lẽ cũng phải sau hai cuộc
chiến tranh, sau hơn nửa thế kỷ phấn đấu xây dựng một bộ mặt nông thôn
mới theo tiến trình và mô hình kết hợp ba cuộc cách mạng, với kết quả chưa
thật nhiều lắm ta mới thấy trở lại thật hết giá trị của bức tranh phong tục ấy,
và đồng thời để thấy những kết quả cải tạo của cách mạng, không phải trên
bề mặt mà ở các tầng sâu tâm lý, tâm linh và quan hệ giữa con người là
không dễ dàng, càng không là dễ dãi.
Số phận người nông dân Việt Nam, tình cảnh làng quê Việt Nam, con
đường đất nước và dân tộc Việt Nam đi tìm sự ấm no và thoát khỏi cảnh đói
nghèo như thế nào trong một nền canh tác thô sơ, trong sự bó chặt và dồn
nén nhiều tầng quan hệ gia tộc làng xã, trong sự kìm hãm của bao nền nếp
tâm lý, phong tục cổ hủ... Đó là các vấn đề lưu niệm của nhiều thế kỷ và vẫn
còn là vấn đề của thế kỷ. Những cuộc chiến tranh và cách mạng đã diễn ra rồi
qua đi, nhưng những vấn đề của đời sống con người, của nhu cầu phát triển
con người, trên tất cả các mặt của vật chất và tinh thần, của thể chất và tâm
hồn thì vẫn còn đó. Cái gì làm điểm tựa cho dân tộc vượt mọi thử thách để
không tàn lụi mà vươn lên và phát triển, để không chìm trong "trời tối" hoặc
"Tắt đèn", mà tìm thấy ánh sáng, đó là vấn đề Ngô Tất Tố chưa thể nhìn thấy
trên các trang viết trước 1945 của mình; ông chỉ có thể mơ ước hình ảnh một
Suối hoa đào theo dạng truyền thuyết Từ Thức vào động tiên. Nhưng nó là cả
một ám ảnh và khắc khoải không nguôi trong suốt cuộc đời nhà văn. Đọc Ngô
Tất Tố và cả Nam Cao, dẫu bị ám ảnh bởi bao tối tăm, bi kịch tôi vẫn thấy một
le lói một ánh nến thắp sáng cho nhận thức trong đêm đen nửa đầu thế kỷ.
Để rồi cuối thế kỷ lại vẫn thấy le lói ánh sáng của ngọn nến đó tiếp tục soi rọi
và hửng dần lên trong các sáng tác của thời kì đổi mới, viết về nông thôn và
người nông dân Việt Nam với dân tộc - dòng họ, với đất đai và làng quê, với
quê hương và cách mạng, sau một thời gian dài có bị khuất chìm đi trong các
vấn đề của giống má phân tro, ba sôi hai lạnh, bờ vùng bờ thửa, thâm canh
tăng vụ, định canh định cư, cao thấp - vào ra, khoán chui hoặc kinh tế vườn...
Hoá thân vào người nông dân nhưng Ngô Tất Tố vẫn là một nhà Nho,
một tri thức Tây học, một kẻ sĩ của nhân dân. Ông nhìn nhân dân với cái nhìn
của một trí thức, và đau nỗi đau của người trí thức, không phải cái nhìn và nỗi
đau của người đứng ngoài. Người trí thức ấy có một trục đi - về quen thuộc là
nông thôn và thành thị, là Từ Sơn - Hà Nội (nay là Đông Anh - Hà Nội). Gắn
với đất quê, ông cũng đồng thời tách ra khỏi đất quê, để nhìn nông thôn chìm
trong tối tăm từ phía ánh sáng thành thị, và nhìn rộng ra những vấn đề của xã
hội đang chuyển động giữa ngổn ngang những bất công và đói khổ, của sự
phân cực giàu - nghèo, của những nhố nhăng và thối ruỗng được che đậy
hoặc không cần che đậy. Tất cả đều có cách vào văn Ngô Tất Tố với những
chạm khắc thật sắc xảo qua hàng trăm phóng sự, bút chiên, tiểu phẩm, trên
nhiều mặt báo, và qua hàng chục bút danh.
Nghề báo, đó cũng chính là lĩnh vực Ngô Tất Tố chiếm lĩnh ở vị trí cao,
và tác giả Ngô Tất Tố - vẫn qua nhận xét của Vũ Trọng Phụng - là "một tay
ngôn luận xuất sắc trong đám nhà Nho". Ở đây bộc lộ sự quyết liệt sâu sắc
trong phê phán, phanh phui, lật trở các vấn đề xã hội thuộc địa. Ở đây vừa
tiếp tục các vấn đề của bóc lột, tước đoạt, bổ sung các vấn đề đề phong tục,
lối sống, ứng xử của văn hoá làng xã và đô thị vào một buổi giao thời Đông -
Tây, giao thoa mới cũ. Ở đây không hiếm các chân dung phản diện trong bộ
máy chức dịch nhà nước từ thấp lên cao, được mở ra trên một biên độ khá
rộng từ toàn quyền, thống sứ, khâm sứ, đến tổng đốc, nghị viện, dân biểu, rồi
các loại nha lại, chức dịch, cường hào... Cũng ở đây hiện lên thấp thoáng
chân dung nhà văn - người không hoà hợp được với hiện thực nhưng vẫn
phải tồn tại và gắn bó với nó trong một khát khao cải tạo và thay đổi; nếu
chưa phải là cách mạng, nếu đôi lúc có sa vào ảnh hưởng cải lương thì cũng
là điều khó tránh; bởi lẽ trên cái gốc cơ bản là nhập cuộc, là yêu nước và
thương dân, ông không một chút thoát ly, trốn tránh, hoặc sa vào những tìm
kiếm siêu hình.
Quả không dễ hình dung di sản báo chí đặc sắc ở Ngô Tất Tố nếu
không thấy ở người trí thức yêu nước yêu dân này một sự căm ghét tội ác
đến từ nhiều phía, sự vô nhân, và những điều phi nghĩa trong quan hệ giữa
người giàu, kẻ nghèo. Ở kho tiểu phẩm đồ sộ hơn tất cả mọi người viết
đương thời nào của Ngô Tất Tố, có thể cho ta một sự hình dung, một bên là
đời sống xã hội phong kiến - thuộc địa ở những mặt tối tăm, nhố nhăng và bi
đát của nó; và bên kia là đời sống văn chương báo chí trong thế nương tựa
vào nhau, làm nên đặc thù đời sống văn hoá những năm 30. Báo chí đã trở
thành cái nôi sinh thành nền học Quốc ngữ và văn chương Quốc ngữ; và văn
học đã đưa báo chí vào một trường lực hấp dẫn, sống động cho đời sống tinh
thần, góp phần thúc đẩy nhu cầu dân trí và khát vọng dân chủ của con người
và xã hội.
Bên người viết văn về nông thôn, nhà văn của dân quê đằm thắm tình
người, Ngô Tất Tố còn là nhà báo sắc xảo của đời sống thành thị. Nông thôn
và thành thị, biểu trưng cho đời sống dân tộc trong một cơn chuyển động lớn
lao của lịch sử, của thế kỷ; biểu trưng cho sự giao thoa cũ mới, trong tự
nguyện và bắt buộc, trong giao lưu và cách bức, trong riêng rẽ và gắn nối,
trong bổ sung và tương phản, trong hoà hợp mà đối nghịch... trên chặng cuối
cùng một thời kỳ chuyển động để hướng tới một giải pháp cách mạng, đã tìm
được một cách phát ngôn, một kiểu đại diện ở Ngô Tất Tố.
* * *
Tư cách nhà văn hoá, học giả, người nghiên cứu dày dặn và sâu sắc
về văn hoá dân tộc nói riêng và văn hoá phương Đông cổ truyền, có thể được
xem là phần cơ bản tạo nên cốt cách riêng của Ngô Tất Tố, so với nhiều đồng
nghiệp cùng thời. Ông làm sách Lão tử, Mặc tử, dịch Kinh dịch, Đường thi,
nghiên cứu văn học Lý Trần, viết sách Phê bình "Nho giáo" của Trần trọng
Kim... Những năm 30 và trước đó, các vấn đề của dân tộc và văn hoá dân tộc
đã được đặt ra, với nhiều động cơ, nhiều mục tiêu khác nhau. Có cái là nằm
trong ý đồ của chính quyền thuộc địa, nhằm phục vụ cho các âm mưu của giai
cấp thống trị. Có cái là cách tìm một lối thoát ly, độc lập với chính trị, để có
một khu vực riêng, độc lập cho văn chương, học thuật. Thời gian rồi sẽ dần
dần giúp cho sự nhìn nhận một cách công bằng các giá trị trên một sự phân
tích khách quan hơn, mối quan hệ giữa các động cơ và hiệu quả.
Vấn đề dân tộc và văn hoá dân tộc trong chế độ phong kiến - thuộc địa,
ở đỉnh cao, nó là vấn đề cách mạng, vấn đề thay đổi thể chế chính trị - như
được nêu trong Đề cương văn hoá Việt Nam 1943. Nhưng ở mặt bằng chung,
nó là vấn đề thanh lọc những yếu tố phản động, bảo thủ, lạc hậu trong di sản,
trên một lập trường khoa học và dân chủ. Nghiên cứu Lão tử và Mặc tử trong
quan hệ với Nho giáo, và trong bối cảnh Trung Hoa cổ đại, Ngô Tất Tố hướng
tới các giá trị duy vật - biện chứng, đồng thời với tinh thần phê phán, không
nệ cổ, đặc biệt và trước hết ông là nhà trí thức sớm và hiếm hoi đứng trên lập
trường phê phán Nho giáo, ở các mặt bảo thủ, lạc hậu, trói buộc của nó. Nhất
quán và nhận thức đó, và như thể minh chứng một cách sinh động cho nhận
thức đó, ông viết Lều chõng, theo một xu hướng khác với các sáng tác cùng
thời, như Bút nghiên, Nhà nho và Thanh đạm; mặc dầu, trên chủ trương phục
cổ của chính quyền thống trị, cuốn Lều chõng cũng được nhận giải Alexandre
de Rhodes cùng với Nho giáo và Vang bóng một thời. Lều chõng cho ta một
bức tranh vừa lịch sử, vừa hiện thực, không chút tô điểm, thi vị thế giới sĩ tử,
khoa hoạn đầy tính cách bi thảm và khôi hài của cả một thời xưa, cả một nền
học vấn xưa, mà chính Ngô Tất Tố là người đã từng dấn thân vào, với những
gương mặt của kẻ đại diện của Kẻ Sĩ, đứng hàng đầu bảng Sĩ - Nông - Công
- Thương trong sự phân tầng xã hội.
* * *
Nửa thế kỷ qua chúng ta đặt Ngô Tất Tố đứng hàng đầu nền văn học
hiện thực, căn cứ vào giá trị của Tắt đèn. Sự sắp xếp đó, đến hôm nay vẫn
không thay đổi, và giá trị Tắt đèn theo tôi vẫn vững chãi và ổn định. Kỷ niệm
100 năm năm sinh Ngô Tất Tố, chúng ta nhận ra một di sản còn đồ sộ hơn ở
ông, bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động, có ý nghĩa là điểm tựa cho các giá trị
văn chương, vượt ra khỏi đóng góp xuất sắc của một nhà văn hiện thực, hoặc
của trào lưu hiện thực chủ nghĩa.
Xứng đáng ở nhiều tư cách, nhưng với Ngô Tất Tố, tôi muốn trở lại,
nhấn mạnh lại tư cách nhà văn hoá như một tư thế bao trùm, và là điểm tựa
cho mọi lĩnh vực sáng tạo ngôn từ và bồi đắp cho tư duy hình tượng, luôn
luôn đạt được độ cao sâu và các giá trị bền vững.
Ngô Tất Tố đứng cùng vị trí vinh quang của nhiều đồng nghiệp. Đồng
thời ông có một vị thế riêng, ở giai đoạn 1930 - 1945 và cho đến hôm nay.
Những đỉnh cao văn chương như ông có người đạt được, nhưng ông còn
những giá trị mà nhiều người không có. Từ thập niên cuối thế kỷ và ở thời
điểm kỷ niệm 100 năm năm sinh của ông hôm nay mà nhìn lại, một chân dung
lớn, một sự nghiệp lớn như Ngô Tất Tố, tôi nghĩ là hiếm.
(Tạp chí Văn học, số 1, 1994)
CÂY BÚT SẮC BÉN CỦA MỘT NHÀ NHOVŨ TÚ NAM
Ông "đầu xứ Tố" - nói theo ngôn ngữ bây giờ - nổi lên như một "nhà
văn chiến đấu".
Chẳng cần phải nhắc lại cây bút sắt ấy đã tung hoành trong nhiều lĩnh
vực đề tài và nhiều thể loại khác nhau, điều mà hiếm nhà văn đạt tới. Riêng
với tư cách nhà báo cung cấp bài thường xuyên cho nhiều tờ báo dưới hơn
một chục bút danh, tư duy và phản ứng của ông tỏ ra nhanh nhạy lạ lùng đối
với thời cuộc trong hàng loạt tiểu phẩm. Tuyển tập Ngô Tất Tố đã sưu tầm
được hết chưa? Không rõ. Nhưng các bài đã được thu thập, mặc dù ký,
những tên khác nhau, người đọc đều có thể nhận ra tên tác giả của nó, cùng
một thái độ dứt khoát và dũng cảm ấy, cùng một giọng điệu, một bút pháp ấy:
khi cười cợt, khi châm biếm mỉa mai, lúc băm bổ vạch mặt chỉ tên, lúc bóng
gió từ chuyện vặt ngày thường bắt sang một vấn đề thời sự chính trị nóng hổi
một cú đá hậu. Điểm đáng chú ý nữa là ông biết nhiều biết rộng, thông hiểu
sách cổ kim, nhớ từng chi tiết nhỏ của lịch sử và văn hoá đất nước, nên có sự
liên tưởng rộng rãi và mạnh mẽ, sự khẳng định táo bạo đối với đối tượng mà
ông nhằm phê phán hoặc đả kích (dù là ở cương vị nào, thậm chí là bọn quan
trường hoặc thực dân Pháp) do "nói có sách mách có chứng". Thêm vào là
một văn phong hết sức linh hoạt, vào thang đề như một mũi lao, cách lập luận
vừa đùa vui vừa chặt chẽ, sự tố cáo có cơ sở chẳng hề là bới móc cá nhân
mà là vạch trần những hành vi có hại cho đời sống và đạo lý xã hội. Nói tóm
lại, một cây bút chiến đấu nhất quán, vững vàng trên cách nhìn nhận sự vật
của mình, và vững tin nó có thể hoàn toàn nhận được sự đồng tình rộng rãi
của bạn đọc.
Những năm 1936 đến tận 40 - 41, với sự thành lập phong trào Mặt trận
Dân chủ và trong bối cảnh chính quyền thực dân Pháp bắt buộc phải nới bớt
phần nào chế độ kiểm duyệt, một mảng lớn văn học Việt Nam có khuynh
hướng thiên về miêu tả đời sống dân quê với những cảnh nghèo đói cơ cực
và bị áp bức bóc lột. Nhiều cây bút văn xuôi đã có những cống hiến đáng kể
trong mảng đề tài này. Có thể nói rằng nổi trội hơn cả vẫn là cây bút Ngô Tất
Tố. Không ít nhà phê bình, ngay lúc ấy, đã nhấn mạnh điều này. Cả đến các
bạn văn sáng tác như Vũ Trọng Phụng chẳng hạn, cũng tỏ lòng mến phục,
cho rằng Ngô Tất Tố vốn "được" cái may mắn hơn nhiều nhà văn khác là đã
sống nhiều ở thôn quê, đã đem sự hiểu biết và thông cảm ấy viết nên những
áng văn kiệt tác "hoàn toàn phụng sự dân quê".
Ngô Tất Tố lại được dịp tung hoành, đặc biệt là trong thể loại phóng sự,
với Việc làng và Tập án cái đình. Những mẩu chuyện cực kỳ sinh động, dựa
trên tai nghe mắt thấy, cả khi tai nghe ông cũng dựng lại bằng trí nhớ và
tưởng tượng như những điều mắt thấy, nên đều gây một ấn tượng khó quên.
Với một lối văn miêu tả trực tiếp, với những tình tiết được "chộp bắt" trong
trạng thái tự nhiên (pris surle vif) như trong bức ảnh, tác giả đã phơi trần đủ
các thứ hủ tục, dù là kỳ quặc nhất, đã miêu tả cặn kẽ các trò bày vẽ của bọn
cường hào kỳ mục nhân danh một thứ thần quyền nhí nha nhí nhố hoặc nhân
danh một thứ nghi thức cộng đồng giả mạo nên càng rắc rối phức tạp, cuối
cùng chỉ cốt để vòi ăn vòi uống, khiến cho người dân quê đã khốn khổ vì nền
canh tác lạc hậu lại khốn khổ trần trụi thêm vì những đóng góp bắt buộc và vô
lý đến mức khó hình dung nổi. Chung quy vẫn là xoay quanh cái miếng ăn.
Ngần ấy thứ tục lệ rối rắm kỳ quặc do bọn hương lý và hủ nho bày đặt
đè lên đời sống vật chất và tinh thần người dân quê như một gánh nặng
chung thân, một gánh nặng truyền kiếp. Hãy xem Ngô Tất Tố miêu tả hình hài
một ông già vì những khó khăn trong đời sống mà khuynh gia bại sản, ngày
ngày phải đi gánh thuê kiếm sống.
"Tròi ơi, đôi vai mới lạ làm sao. Nó giống hệt lưng con lạc đà, mỗi bên
có một cái bướu lớn chừng bằng quả xoài tượng. Cố nhiên hai cái bướu ấy
cũng đều làm bằng thịt. Nhưng nó là thứ thịt cứng rắn, ấn không thấy lõm,
bấm không thấy đau, màu da xù xì và mốc thếch như trăn gió".
Bằng mấy nét phác cực kỳ hiện thực, nhà văn đã chốp được một hình
tượng, một thứ ẩn dụ biểu trưng cho hình hài và số kiếp người dân quê thuở
ấy. Nhẫn nhục và cam chịu, đau khổ đến chai lỳ. Phải đến chị Dậu, chúng ta
mới bắt gặp được một hình ảnh tương đối khoẻ khoắn, một nhân cách biết tự
trọng, một ý chí vùng lên, tuy còn đơn độc và yếu ớt. Trong Tắt đèn, không ít
những trang tràn đầy thương cảm tác giả dành cho người phụ nữ nông thôn
trẻ đẹp hết mình bảo vệ chồng con và đùm bọc con cái, nhưng bất lực trước
sự hung hãn của bọn tổng lý, cai lệ và thủ đoạn hiếp đáp, lợi dụng của những
quan lại vô lương.
Đó đây có ý kiến cho rằng trong thế văn hư cấu, ngòi bút Ngô Tất Tố
không "mạnh", không dễ dàng thoải mái bằng trong thể loại phóng sự sở
trường. Rằng Tắt đèn có một số tình tiết gây ấn tượng sắp xếp và cường
điệu. Do vậy, có thể nhặt ra một số nét khiến cho ngờ ngợ về mặt tâm lý và
ứng xử của nhân vật. Mà trong thể loại tiểu thuyết, dù là tiểu thuyết luận đề đi
nữa, phải chăng nghệ thuật cao nhất vẫn là chỉ ra, vẽ ra chứ không phải là
chứng minh (montre chứ không démentre).
Nhưng cũng có ý kiến cho rằng ở đây Ngô Tất Tố đã chủ động sử dụng
bút pháp "dồn nén", ông tập hợp lại một số cảnh mắt thấy tai nghe về hiện
trạng đời sống nông thôn dồn vào trong một khung thời gian và một không
gian nhất định, để làm nổi bật những mặt tương phản trong tâm lý và hành
động nhân vật, tạo nên một không khí căng thẳng ngột ngạt, thôi thúc ở người
đọc cái ý thức, ý nguyện phải làm một cái gì.
Với cuốn Lều chõng, Ngô Tất Tố viết tiểu thuyết, hay là "tiểu thuyết
phóng sự" như có nhà phê bình gọi? Một nhà phê bình khác coi là cuốn sách
có nhiều trang viết "giàu tính chất phóng sự". Các cách gọi ấy chung quy đều
nhằm nhấn mạnh phần đóng góp đáng quý của nhà văn xuất thân Nho học
khi ghi lại tỉ mỉ trung thực quang cảnh một thời chế độ khoa cử phong kiến
từng tồn tại, diễn đi diễn lại ngót ngàn năm trên đất nước. Lời nói đầu của tác
giả khi cho đăng báo từng kỳ nói rất rõ ý định sáng tác của mình.
"Lều chõng với đất nước Việt Nam không khác một ông tạo vật, đã chế
tạo đủ các hạng người hữu dụng và vô dụng. Chính nó đã làm cho nước Việt
Nam trở nên một nước có văn hoá, rồi lại chính nó đưa nước Việt Nam đến
cõi diệt vong. Vì nó, nước Việt Nam trong một thời kỳ rất dài đã hiện ra nhiều
cảnh tượng kỳ quái, có thể khiến cho người ta phải cười, phải khóc phải rùng
rợn hồi hộp".
Một cách diễn đạt hết sức rạch ròi. Một tư duy đầy tính biện chứng, xét
các mặt lại qua lại của vấn đề, nhìn nhận sự vật trong chiều dày lịch trình của
nó. Sách báo đã nói nhiều đến phần ông phê phán một cách sắc xảo tính chất
nhồi sọ của nền giáo dục chữ Hán và những luật lệ trói buộc khắc nghiệt vô
lối trong chế độ thi cử phong kiến, ở đây, tôi chỉ muốn khơi lên một khía cạnh
của vấn đề, thái độ của tác giả đối với nền văn hoá Khổng Mạnh. Ở một vài
bài tiểu luận, quả ông đã vạch ra một đôi điểm ông cho là không đúng trong tư
tưởng chính trị Khổng Tử. Nhưng tôi thiên về ý nghĩ rằng Ngô Tất Tố, một vị
túc nho, vẫn gắn bó với những giáo lý đạo Khổng mà ông thấm nhuần từ tuổi
nhỏ, chữ "đạo" ở đây hiểu theo nghĩa đạo đức, đạo lý, phương pháp ứng xử
ở đời giữa người với người. Có ý kiến phê bình Lều chõng có những trang
nhằm "thi vị hoá một số cảnh của nhà nho". Lời trách cứ ấy đúng hay sai,
hoặc đúng sai đến mức nào? Đây là một vấn đề lúc này đã trở nên thời sự.
Cái cốt lõi, cái phẩm chất thực của Nho giáo là gì? Các nước phương Đông
châu Á, gọi chung là các nước có Hán học hoặc khu vực Hán hoá, chẳng phải
gần đây đã tổ chức những hội thảo hoặc hội nghị quan trọng về Nho giáo đó
sao? Họ nghiên cứu gắng tìm ra những nét tinh tuý nhất của Nho giáo, vai trò
của nó đóng góp vào công cuộc phát triển, công cuộc cách tân về mặt xã hội
và cả về mặt kinh tế nữa của thời hiện đại. Có ý kiến phát biểu rằng tư tưởng
cơ sở của nó là tính cộng đồng xã hội, ý thức trách nhiệm người dân nước,
đối lập với ý thức cá nhân cực đoan vị kỷ của một triết lý sống nào đó.
Trong số chúng ta ở đây tiếc rằng ít người có dịp may gần gũi Ngô Tất
Tố lúc sinh thời, nhất là vì ông qua đời quá sớm. Nhưng có thể hình dung nếp
sống của ông trước sau vẫn giữ phong cách một nhà nho - nhưng là một nhà
nho với bản lĩnh và cá tính đặc biệt, vừa nghiêm túc vui tươi, sâu sắc mà hoạt
bát, trí tuệ và tâm tư luôn năng động, chân thành gắn bó với những con người
và sự vật chung quanh, cũng có nghĩa với vận mệnh chung đất nước và nhân
loại.
(Báo Văn nghệ, số 1, ngày 1 - 1 - 1994)
NGÔ TẤT TỐ, MỘT CÂY BÚT CHIẾN ĐẤU XUẤT SẮC TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
NGUYỄN ĐỨC ĐÀN
Nhà văn lão thành Ngô Tất Tố mất đã hơn sáu năm. Từ bấy đến nay
những người làm công tác nghiên cứu, phê bình chưa ai có dịp tìm hiểu,
nghiên cứu có hệ thống và toàn diện các tác phẩm của nhà văn hiện thực
xuất sắc ấy.
Viết bài này, chúng tôi chưa có cái tham vọng ấy mà chỉ tự giới hạn
trong việc nghiên cứu và giới thiệu một vấn đề: tính chiến đấu của ngòi bút
Ngô Tất Tố trong thời gian trước cách mạng. Chúng ta biết rằng Ngô Tất Tố
vốn là nhà nho, đã từng đỗ đầu xứ. Nhưng trước những biến thiên của thời
đại, vị đồ đệ của cửa Khổng sân Trình đã sớm tiếp thu được những tư tưởng
học thuật mới và đã trở thành một cây bút xuất sắc, một kiện tướng trong
dòng văn học hiện thực phê phán. Trong làng văn làng báo, cái tên Ngô Tất
Tố đã trở nên quen thuộc và được nhiều người mến phục. Từ những tác
phẩm lớn cho đến những bài báo, những bài phóng sự ngắn, ngòi bút của
Ngô Tất Tố luôn luôn biểu hiện một tinh thần chiến đấu sắc bén và mạnh mẽ.
Trước hết về mặt báo chí, Ngô Tất Tố đã từng cộng tác với rất nhiều tờ
báo cả trong Nam và ngoài Bắc. Ngòi bút của ông thường chĩa mũi nhọn vào
kẻ địch, nhiều khi làm cho đối phương phải hoảng sợ. Hầu hết các bài báo
của Ngô Tất Tố đều là những bài phê bình, đả kích hoặc châm biếm, giễu cợt.
Ngô Tất Tố có một giọng văn bút chiến linh hoạt, sắc xảo, có khi nhẹ nhàng,
tinh tế, có khi đanh thép, mạnh mẽ.
Nhà văn thường chĩa mũi nhọn vào những đối tượng nào, đó là vấn đề
quyết định giá trị của một cây bút. Có những kẻ đả kích cán bộ và quần chúng
cách mạng. Những kẻ này thực ra chỉ đội lốt nhà văn, nhà báo để làm tay sai
cho đế quốc. Cũng có những người thường chỉ nhắm mắt trước sự thật, thậm
chí có thể bịa đặt để vu khống đối phương.
Ngòi bút của Ngô Tất Tố là một ngòi bút chiến đấu có phẩm chất cách
mạng. Phẩm chất cách mạng ấy biểu hiện ở chỗ ngòi bút của ông biết tôn
trọng sự thật và biết đứng về phía quần chúng bị áp bức mà phát biểu. Sự
thật khách quan của lịch sử lúc bấy giờ là bọn thực dân Pháp cấu kết với bọn
phong kiến để áp bức bóc lột nhân dân ta.
Ngòi bút của Ngô Tất Tố chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân Pháp, bọn
quan lại và bọn cường hào địa chủ, vạch trần những xấu xa thối nát của
chúng. Ngô Tất Tố tỏ ra hoài nghi tất cả những chính sách của bọn thống trị.
Ông đả kích những hành động của bọn Pagiê (Pagèg) Tôlăngxơ (Tholance),
đến các phong trào vui vẻ trẻ trung, phong trào thể thao thể dục, chấn hưng
Phật giáo v.v... Do đó bọn thống trị thù ghét Ngô Tất Tố. Bọn thẩm phán đã
nhiều lần theo dõi nhà văn; chúng ra lệnh cấm không cho ông viết tờ Hải
Phòng tuần báo và có lần cấm không cho ông cư trú ở Hà Nội, Hải Phòng và
Nam Định.
Đối với những bọn bán lương tâm cho giặc, đi ngược lại quyền lợi của
nhân dân để mưu cầu phú quý, Ngô Tất Tố châm biếm, giễu cợt với một
giọng chua cay, nghiêm khắc. Hồi đó ông còn viết báo Thời vụ, có một lần hội
đồng kinh tế Đông Dương quyết định tăng giá tem từ bốn xu lên sáu xu.
Trong phiên họp ấy chỉ một mình Trần Bá Vinh biểu quyết tán thành. Ngô Tất
Tố viết ra một bài báo đề nghị với chính phủ đổi con dấu hình tam giác trong
có chữ truyền thống thành hình tam giác trong có chữ T.B.V để ghi lại kỷ niệm
của một ông hội viên Hội đồng có công với chính phủ! Tuy bị tổn thương đến
danh dự, nhưng Trần Bá Vinh không dám hé răng đáp lại vì hắn cũng biết giá
trị công việc của hắn làm và nhất là biết sợ cái ngòi bút đả kích của nhà văn
Ngô Tất Tố.
Ngòi bút đả kích ấy có nhiều khi đã dũng cảm giáng vào đầu bọn quan
lại những đòn chí tử. Năm 1937, trong một bài đăng trên báo Tương lai, Ngô
Tất Tố viết: "Quan lại tham nhũng chẳng là những kẻ bóp dân như bà cô bóp
cháu à? Thủ đoạn của họ cực kỳ màu nhiệm, họ đã bóp người nào thì người
ấy không thể không lè lưỡi ra, lè lưỡi cho đến khi có đồ cúng họ. Nhưng họ
chỉ bóp dân ở trong tối, trừ ra những kẻ bị bóp quỷ thần cũng không thể biết.
Hành động của họ thật chẳng khác gì một lũ tà ma. Bởi thế tục ngữ mới đem
họ mà nối liền với ma trong câu "quan tha ma bắt". Thần cây đa, ma cây gạo,
cú cáo cây đề vẫn là những thứ kẻ quê rất sợ, song chưa nguy hiểm cho dân
bằng họ".
Bọn cường hào, địa chủ ở nông thôn cũng là những đối tượng để cho
Ngô Tất Tố đưa lên báo mà mạt sát, nguyền rủa. Tóm lại, đối với cả lũ thống
trị trong xã hội đang xúm nhau hút máu mủ và mồ hôi nước mắt của nhân
dân, nhà văn Ngô Tất Tố đã không do dự dùng tài ngôn luận của mình để
vạch mặt đả kích. Ngòi bút của Ngô Tất Tố chẳng những là một vũ khí phê
bình sắc bén đối với kẻ địch mà còn bộc lộ nhiều cảm tình nồng nhiệt đối với
quần chúng và cách mạng.
Suốt trong mười mấy năm trời, ngòi bút thiện chiến của ông tung hoành
trên báo chí đã thu hút được nhiều cảm tình của công chúng, nhưng cũng bị
bọn thống trị và tay chân của chúng hết sức thù ghét, căm tức.
Tính chất chiến đấu của ngòi bút Ngô Tất Tố không phải chỉ biểu hiện
trên báo chí. Trong các tác phẩm, thái độ của Ngô Tất Tố cũng khá rõ rệt.
Trong nhiều lúc nhà văn tư sản và tiểu tư sản, tiêu biểu là các nhà văn trong
Tự lực văn đoàn, biểu thị một thái độ thừa nhận thực tại, tô son điểm phấn
cho trật tự xã hội tư sản thì Ngô Tất Tố dũng cảm vạch ra cái chân tướng bỉ ổi
của xã hội. Ngô Tất Tố để cho mọi người trông thấy cái cơ thể của xã hội
đang bị những chứng bệnh trầm trọng giày vò điêu đứng. Thái độ không công
nhận thực tại, tố cáo những cái xấu xa của thực tại là một thái độ chiến đấu.
Trước hết chúng ta thử tìm hiểu Tắt đèn, một tác phẩm xuất sắc của
Ngô Tất Tố. Nói một cách vắn tắt thì Tắt đèn là một bản cáo trạng đanh thép,
kết án nghiêm khắc bọn thống trị áp bức, bóc lột nhân dân đến tận xương tuỷ.
Ngòi bút của Ngô Tất Tố đã dũng cảm bóc trần thực trạng đen tối, ngột ngạt
của cuộc sống ở nông thôn, ở đây cũng cần nói rõ là lúc bấy giờ phong trào
cách mạng Việt Nam đã bước sang một giai đoạn phát triển mới. Sau một
thời gian thoái trào ngắn, từ 1934 phong trào đã bắt đầu hồi phục dần và từ
năm 1935 trở đi phong trào đấu tranh của quần chúng lại sôi nổi khắp toàn
quốc. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ là thời kỳ đã sản sinh ra nhiều tác phẩm văn
học có giá trị hiện thực sâu sắc. Phong trào đấu tranh của quần chúng đã tạo
điều kiện cho một số nhà văn trông thấy được những mâu thuẫn lâu nay đang
âm ỉ trong lòng xã hội. Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn đã dũng cảm
bóc trần các mâu thuẫn xã hội ấy.
Tắt đèn là tấn bi kịch của những người nông dân bị áp bức bóc lột đến
cực độ. Gia đình chị Dậu nghèo khổ đến mức không có cả khoai mà ăn. Vụ
sưu là một tai hoạ lớn đối với vợ chồng chị. Trước sự doạ nạt và khủng bố
tàn nhẫn của bọn cường hào, chị Dậu kêu khóc thảm thiết: "Ối trời ơi! Tôi bán
cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đã
đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay? Ai ngờ lại
còn suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi
còn phải đóng sưu hả trời? Tôi biết đâm đầu vào đâu cho được hai đồng bảy
bạc bây giờ?".
Thật vậy, chỉ vì một vài đồng bạc sưu mà anh Dậu bị đánh đập tơi bời,
chết đi sống lại. Đối với bọn thống trị, mạng con người cũng chỉ như mạng
con cóc, con nhái.
Chi Dậu kêu xin cho chồng, sợ chồng đang ốm nặng mà trói bị đánh thì
có thể chết. Nhưng tên lý trưởng trừng mắt quát: "Chết thì ông chôn! Mày
tưởng chồng mày chết thì ông sợ à? Muốn chồng khỏi trói, về đem nốt hai
đồng bảy nữa ra đây. Nếu không thì ông còn trói, ông trói cho đến bao giờ đủ
sưu thì thôi!"
Thảm thương nhất là cảnh chị Dậu mang con đến bán cho nhà nghị
Quế. Mụ nghị cò kè vớt một thêm hai: nếu em bé được bảy tuổi thì mụ bằng
lòng trả cho hai đồng, nhưng nếu chỉ mới sáu tuổi thì mụ chỉ cho một đồng
thôi. Con người ấy cơ hồ như không nhớ ra mình cũng đã từng làm mẹ và
lòng mẹ đối với con như thế nào mụ ta không thèm biết đến. Trước những
giọt nước mắt đau thương của người mẹ nghèo khổ, mụ nghị nói với một
giọng thản nhiên và hách dịch: "Tao không thể tin cái miệng vợ chồng nhà
mày! Người ta mách ta là nó lên sáu. Chứ tao biết đâu nó đẻ năm tý hay năm
tỵ, năm tỳ... Đáng lẽ biếu không thì phải... cho một đồng cũng quá lắm rồi...
Không phải nài nẫm gì nữa!". Thương tâm hơn nữa là cái cảnh thằng Dần,
em cái Tý, bắt mẹ phải đi tìm chị cho nó. Nó nhất định không chịu ăn, không
chịu ngủ và cố làm tình làm tội người mẹ đã đem chị nó đi bán. Đêm đã
khuya, chị Dậu phải bế cả hai con bé, đi hết ngõ này sang ngõ khác: "Trời
khuya, canh vắng, ba mẹ con thơ thẩn ôm nhau trên đường, chị Dậu thấy
mình là người điên rồ. Mấy lần chị toan quay về ngõ nhà, thằng Dần nhất định
không nghe, nó bắt chị cứ phải điên rồ như thế".
Ngô Tất Tố đã vẽ lên bức tranh chân thực về cuộc sống lầm than của
những người nghèo khồ làm cho người đọc hết lòng xót thương, căm giận.
Ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố toát ra một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa
cao quý. Một thành công lớn của Ngô Tất Tố so với nhiều nhà văn khác là
ông đã biểu hiện được quần chúng vào tác phẩm, đúng đắn và chân thực. Chị
Dậu là một nhân vật thành công, một nhân vật rất đậm nét. Cố nhiên ở đây
chúng ta không nói đến những nhà văn tư sản. Trong tác phẩm của họ ít khi
có quần chúng lao động. Xã hội trong tác phẩm của họ là xã hội của những
ông án, ông huyện, cậu cử, cậu tú, xã hội của những công tử, tiểu thư sống
trong nhung lụa. Thảng hoặc họ có phác một vài nét về quần chúng khi những
nhân vật này hiện ra thật là ngu ngốc, kệch cỡm, đáng khinh bỉ và thương hại.
Với cái nhìn và quan điểm tư sản, điều đó không có gì là lạ. Nhưng ngay đối
với những nhà văn tiểu tư sản mà chúng ta thường xếp vào khuynh hướng
hiện thực, việc thể hiện quần chúng vào tác phẩm cũng không phải dễ dàng
thành công cả. Có những người chỉ thành công trong việc thể hiện nhân vật
phản diện, đến nhân vật quần chúng thì họ thất bại, không đủ sức biểu hiện.
Quần chúng trong tác phẩm của họ vẫn là một đám người ngu dại, sống và
hành động một cách vô ý thức. Vũ Trọng Phụng là một trường hợp tiêu biểu.
Ngô Tất Tố tỏ ra hiểu biết sâu sắc đời sống và tâm trạng của quần
chúng, có cái nhìn đúng đắn đối với quần chúng. Chúng ta trở lại nhân vật chị
Dậu. Chị Dậu là người nghèo khổ, bị áp bức bóc lột tàn tệ. Cuộc đời của chị
quằn quại trong bùn lầy và bóng tối. Nhưng chị lại có một phẩm chất cao quý,
đẹp đẽ.
Chị Dậu là người hiền lành, thật thà, chăm chỉ làm ăn, thương chồng,
thương con rất mực. Chị có thể tiêu biểu cho lớp phụ nữ nông dân Việt Nam
cần cù lao động, chịu thương chịu khó. Nhưng có một lúc, con người hiền
lành ấy đã cả gan đánh lại bọn đầu trâu mặt ngựa để bảo vệ cho chồng. Tuy
hành động ấy mới chỉ có tính chất tự phát và nhất thời, nhưng cũng phần nào
lên được ý chí không chịu khuất phục của những con người bị chà đạp, giày
xéo. Đó là một hành động đẹp đẽ. Lời nói của chị Dậu là một lời phản kháng
đanh thép: "Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!". Trong lúc bị
hà hiếp quá đáng, người đàn bà ấy có thể liều chết chống lại bọn thống trị:
"Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu"...
Nếu uy lực không hoàn toàn đè bẹp được chị thì tiền tài cũng không
mua chuộc được chị, tuy có khi chỉ vì một đồng bạc, chị đã cắt đứt tình ruột
thịt, mang con đi bán cho nghị Quế. Cái đêm chị bị tên tri phủ tìm cách cưỡng
hiếp, chị đã cương quyết chống lại và đã thắng được con vật đáng ghê tởm:
"Quan phủ lóp ngóp đứng dậy. mở ví lấy nắm giấy bạc độ hơn chục đồng,
chìa vào tận mặt chị Dậu. Ngài thở và nói: "Có muốn lấy tiền tao cho!” Chị
Dậu giằng nắm bạc vứt tọt xuống đất”.
Cái đêm "quan cụ" định diễn lại tấn tuồng của tên tri phủ kia, chị Dậu
cũng cho hắn một bài học đích đáng. Bên cạnh tính chất đê hèn của bọn quan
lại giàu có, phẩm chất đạo đức của người đàn bà nông dân nghèo khổ càng
sáng tỏ, đẹp đẽ.
Đối lập với quần chúng là bè lũ thống trị, những bọn mặt người dạ thú,
tàn bạo, tham lam và dâm dục. Nếu Ngô Tất Tố thành công trong việc biểu
hiện quần chúng, thì ông cũng đã thành công trong việc tố cáo những cái xấu
xa, thối nát của giai cấp thống trị. Những lý đương, lý cựu, chánh hội, phó hội
cho đến viên tri phủ, vợ chồng nghị Quế, v.v... đều là một bọn người đang
xúm nhau lại hút máu mủ nhân dân. Sưu thuế là tai hoạ đối với nhân dân
nhưng lại là món béo bở đối với chúng. Vì sưu thuế, chị Dậu đã bán khoai,
bán lúa, bán chó, bán con, vì sưu thuế anh Dậu bị cùm kẹp, đánh đập suýt
chết; nhưng bọn cường hào, quan lại thì nhờ sưu thuế mà được ăn, được
uống, được hút lại có tiền bỏ túi. Chúng mưu mô lợi dụng cảnh hoạn nạn của
quần chúng để làm giàu, để hưởng thụ. Đọc Tắt đèn chúng ta thương cảm
những người lao động bao nhiêu thì lại càng căm ghét bọn thống trị bấy
nhiêu. Bức tranh xã hội càng chân thực thì càng có sức mạnh tố cáo và càng
có tác dụng giáo dục cho công chúng lòng căm thù sâu sắc đối với chế độ áp
bức, bóc lột.
Thái độ của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn rất rõ rệt. Đối với quần chúng,
ngòi bút của tác giả dạt dào một tấm lòng cảm thông sâu sắc, còn đối với bọn
quan lại, cường hào, ngòi bút của nhà văn lại đầy giọng đả kích, châm biếm.
Ngô Tất Tố không hề e dè trong việc vạch trần tính chất bỉ ổi, vô nhân đạo
của bọn thống trị. Thái độ của nhà văn là một thái độ chiến đấu. Tính chiến
đấu toát ra từ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Cố nhiên,
cũng như những nhà văn hiện thực khác lúc bấy giờ, với nhãn quan giai cấp
của mình, Ngô Tất Tố chưa có thể nhìn thấy bước đường sắp tới của lịch sử.
Kết thúc Tắt đèn, chị Dậu chạy vào đêm tối "mịt mù như tiền đồ của chị".
Nhưng đứng về quan điểm lịch sử, chúng ta không thể nhất thiết đòi hỏi nhà
văn phải có một cái nhìn cách mạng đối với xã hội được. Ngô Tất Tố dũng
cảm bóc trần mẫu thuẫn của xã hội, nói lên đời sống cơ cực và phẩm chất tốt
đẹp của những người bị áp bức, vạch trần chân tướng của bọn thống trị, đó là
những thành công đáng cho chúng ta trân trọng.
* * *
Như trên đã nói, Ngô Tất Tố là một nhà văn có hiểu biết sâu sắc về con
người và cuộc sống ở nông thôn. Ngoài Tắt đèn ông còn viết tập phóng sự
Việc làng cũng là một tác phẩm được nhiều người ca tụng, một tác phẩm có
tính chiến đấu rõ rệt.
Chúng ta biết rằng, trong thời gian trước cách mạng, cuộc sống lầm
than ở nông thôn thường bị các nhà văn tiểu tư sản thi vị hoá. Dưới ngòi bút
của họ, cuộc sống sau luỹ tre xanh là một thế giới riêng biệt, một cõi thiên
đường khác hẳn với chốn phồn hoa danh lợi. Đây là một thế giới đầy mơ
mộng, thế giới của những cô thôn nữ xinh tươi, chất phác, của những câu
chuyện tình duyên trong trắng, ngây thơ.
Viết Việc làng, Ngô Tất Tố đã đi ngược lại khuynh hướng ấy và vạch ra
cho mọi người trông thấy thực tế thối nát, xấu xa ở nông thôn. Thực ra cái thế
giới mơ mộng ấy là một thế giới đầy những hủ tục, một thế giới riêng trong đó
bọn cường hào, địa chủ tha hồ bóc lột, áp bức nông dân. Chúng ta hãy nghe
lời tâm sự đau xót của một người đã sống suốt đời dưới cái ách tục lệ thối
nát, nặng nề: "... những tục lệ quái gở mọi rợ tự do kế tiếp nhau chồng chất
lên vai chúng tôi. Nhiều lúc tôi muốn hất cái gánh nặng ấy đi; nhưng sức một
mình không thể làm nổi, đành phải è cổ mà chịu. Một người chăm chỉ, cần
kiệm, lao lực như tôi, chỉ vì một gánh tục lệ đè ép, đến nỗi suốt đời không
ngóc đầu được, bây giờ sắp chết, gánh tục lệ ấy vẫn còn đè ép chưa tha..."
Việc làng một tập tranh biếm hoạ về các tục lệ cổ hủ ở nông thôn Việt
Nam. Truyện Góc chiếu giữa đình là một trong những truyện tiêu biểu. Sau
những nét bút hài hước của tác giả, ẩn nấp cả một tâm sự đau xót, bi thảm.
Vợ chồng ông Luỹ hết sức cần kiệm. Ông Luỹ đi cày thuê trong mười lăm
năm trời, vợ chuyên đi ở vú sữa mới gây được cái vốn gần mẫu ruộng và nửa
con trâu. Bọn lý dịch liền tán tỉnh bán cho ông chức "lý cựu" để lấy trăm bạc.
Lúc đầu ông Luỹ phân vân vì ông không thú lắm về cái của "không tân mà
cựu". Nhưng bọn lý dịch tìm mọi cách thuyết phục ông. Thế là ông phải bán
cả ruộng và trâu để lấy trăm bạc đưa cho làng. Nhưng muốn được chính thức
trở thành ông cựu, lại còn phải khao làng một bữa. Và vì bữa khao linh đình
ấy, ông lại phải đi vay nợ. Cuối cùng, làng nước ăn khao xong, bà cựu lại
buồn bã lên Hà Nội đi ở vú. Trước sự ngạc nhiên của tác giả, bà giải thích:
"Có gần một mẫu ruộng và nửa con trâu đã bán hết cả, lại còn nợ thêm hơn
bảy chục đồng, nếu không đi làm thì lấy gì mà đóng họ? Cố nhiên ông cựu
cũng phải trở về nghiệp cũ: đi cày thuê. Chỉ vì hai tiếng "ông cựu", trong phút
chốc vợ chồng ông Luỹ đã đốt cháy sạch cả cái gia tài do bao nhiêu năm lao
động cần cù, cực nhọc mà có.
Nhưng thảm thương hơn nữa có lẽ là trường hợp của ông Linh Phúc
trong truyện cỗ oản tuần sóc. Sau khi vợ mất, ông Linh Phúc phải một mình
nuôi ba con nhỏ. Quanh năm đầu tắt mặt tối, nước mắt đổ lẫn mồ hôi, ông
mới kiếm được ít ngô khoai nuôi con qua ngày. Nhưng chẳng may ông lại
được lên ngôi "ông trùm". Mà là ông trùm thì mỗi năm phải làm hai cỗ oản sóc
vọng. Chúng ta thử tưởng tượng xem ông trùm khố rách áo ôm ấy làm thế
nào để có tiền làm cỗ oản sóc vọng. Một hôm, tác giả đi qua thấy ông đang
dỡ mái nhà, tưởng rằng vì trận bão đêm qua nên phải lợp lại. Nhưng ông
trùm đã nhanh nhẩu cắt nghĩa: "Tuần sóc tháng sau đến lượt tôi phải sửa oản
ra thờ. Nhà không sẵn, vay không ai tin, tôi đành phải dỡ hai gian nhà làm củi
để bán lấy tiền mua gạo. Đáng lẽ tôi định để vài bữa mới dỡ nhưng vì thấy
trời mưa dầm, chắc là củi đắt nên mới dỡ từ hôm nay. Thôi thì túng kiết làm
quanh, hãy cho qua cái lúc này..."
Cỗ oản tuần sóc và Góc chiếu giữa đình là một vài mẩu chuyện trong
trăm nghìn chuyện thảm thương ở nông thôn, nơi mà người nông dân từ đời
qua đời khác cúi đầu chịu đựng cuộc sống lầm than trâu ngựa.
Điều đáng chú ý là cùng với việc miêu tả các hủ tục, tác giả Việc làng
vạch rõ cho mọi người thấy rằng chính bọn cường hào địa chủ ở nông thôn là
những kẻ thủ phạm đã cố duy trì các hủ tục và còn đặt nhiều thứ tục lệ phiền
phức khác để áp bức, bóc lột quần chúng nông dân. Chúng ta biết rằng trải
qua bao nhiêu đời, sống trong nền kinh tế tự nhiên có tính chất tự cung tự cấp
của chế độ phong kiến, người nông dân Việt Nam đã có một tâm lý tập truyền
là "sống nhờ làng, chết nhờ làng". Họ phải bám sát lấy làng để sống. Bọn
thống trị đã lợi dụng tâm lý ấy, và còn gây nhiều tập tục khác, tạo cho người
nông dân cái tâm lý tranh giành ngôi thứ, miếng ăn ở đình trung, "một miếng
giữa làng bằng một sàng xó bếp", "miếng thịt làng bằng sàng thịt mua"... Bọn
cường hào địa chủ dựa vào hủ tục để tác phúc tác hoạ ở nông thôn.
Đọc Việc làng rõ ràng chúng ta thấy hủ tục ở nông thôn chẳng qua là
một phương tiện bóc lột, áp bức của địa chủ cường hào đối với nông dân mà
thôi. Một nhân vật trong Xâu lòng thờ đã nói: "Tôi đã biết mà. Lão chưởng lễ
làng tôi đểu lắm, cái gì cũng tiền... Ấy ở nhà quê khó thế ông ạ! Có của đã
chắc giữ được mà ăn đâu".
Tập phóng sự Việc làng trình bày nhiều sự thật xấu xa ở nông thôn,
không giấu giếm che đậy. Khác hẳn với nhiều nhà văn tư sản và tiểu tư sản,
cái nhìn của Ngô Tất Tố đối với nông thôn là một cái nhìn sâu sắc, chân thực.
Thái độ của nhà văn trong tác phẩm là thái độ của một người dám nhìn thẳng
vào sự thật và nói rõ sự thật. Nhưng tính chiến đấu của ngòi bút Ngô Tất Tố
còn biểu hiện ở chỗ Việc làng ra đời trong hoàn cảnh bọn thực dân Pháp
đang ra sức khuyến khích phong trào phục cổ. Việc làng xuất bản năm 1941
là lúc bọn thống trị đang lo sợ trước sự phát triển của phong trào cứu quốc.
Chúng cổ vũ phong trào phục hưng văn hoá phong kiến để làm cho nhân dân
lãng quên nhiệm vụ cách mạng trước mắt. Lúc bấy giờ có một số nhà văn
hoặc vô tình hoặc hữu ý đã làm những kẻ tuyên truyền không công cho địch.
Cố nhiên thực chất của phong trào phục cổ chỉ là phục hồi lại những cái xấu
của thời cổ, những cái lạc hậu mà lịch sử đã lên án. Người ta khuyên thanh
niên nên quay trở về thôn xóm để làm Việc làng. Người ta ca tụng những tập
quán, lễ nghi đã lỗi thời. Vạch rõ được những cái thối nát của các hủ tục ở
nông thôn lúc bấy giờ, theo chúng tôi nghĩ, là một hành động có ý nghĩa tiến
bộ, bao hàm một thái độ chiến đấu tích cực. Đương nhiên với những hạn chế
của giai cấp mình, Ngô Tất Tố chưa có thể đưa ra một biện pháp giải quyết
đúng đắn. Qua lời nói của nhân vật, chúng ta thấy hình như Ngô Tất Tố cho
rằng nếu nông dân được tầng lớp trí thức giáo dục, khai hoá thì sẽ thoát
được cuộc sống tối tăm, xoá bỏ được hủ tục. Thực ra, chúng ta đã biết rằng
có làm cách mạng đánh đổ chế độ xã hội cũ thiết lập chế độ xã hội mới, có
thủ tiêu được chế độ thực dân phong kiến thì nông dân mới được giải phóng.
Nhưng trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, chỉ một việc dám tố cáo thực chất
xấu xa của những cái mà người ta đang hô hào khôi phục đã là một ưu điểm
đáng kể.
Tính chiến đấu của tác phẩm Việc làng không phải chỉ ở nội dung hiện
thực của nó mà còn ở ý nghĩa đấu tranh kịp thời nữa.
Cùng ra đời trong một hoàn cảnh với Việc làng và cùng có ý nghĩa
chống đối lại phong trào phục cổ còn có tác phẩm Lều chõng. Trong phong
trào phục cổ, có lẽ vấn đề suy tôn đạo Nho là một trong những vấn đề quan
trọng nhất. Người ta viết sách, viết báo để ca tụng Nho giáo, ca tụng những
kẻ sĩ của thời đại phong kiến. Trong một số tác phẩm như Bút nghiên và Nhà
Nho, cuộc đời quá khứ hiện ra vô cùng nguy nga, đẹp đẽ.
Ngô Tất Tố cũng viết về thi cử, về nghiệp Lều chõng nhưng Lều chõng
đã không suy tôn cuộc đời quá khứ mà lại còn vạch ra cho mọi người thấy
chân tướng của cái xã hội Lều chõng. Chân tướng ấy chẳng có gì là đẹp đẽ.
Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu quan niệm của Ngô Tất Tố đối với vấn
đề thi cử. Một số người đương thời đang đi theo phong trào phục cổ thường
có xu hướng lý tưởng hoá chế độ giáo dục vào khoa cử thời phong kiến.
Theo họ, trường thì ngày xưa là nơi chọn lọc các nhân tài của xã hội. Đối với
những người có tài có đức thi cử là một bậc thang chắc chắn đưa lên con
đường danh vọng. Kẻ sĩ thi đỗ là cốt có điều kiện để hành đạo. Trong các tác
phẩm có khuynh hướng phục cổ, cuộc đời bằng phẳng, êm ả như dòng sông
xuôi chiều. Cái thực tế tàn nhẫn của một chế độ đã để lại trong văn thơ bao
nhiêu tiếng khóc não nùng hầu như không được chú ý đến. Cái xã hội chứa
đựng nhiều bi kịch nhất lại hiện ra với những màu sắc tươi thắm rực rỡ.
Qua Lều chõng, chúng ta thấy cái nhìn của Ngô Tất Tố đối với giáo dục
và khoa cử phong kiến là một cái nhìn sâu sắc, có suy nghĩ. Viết Lều chõng,
trong không khí phục cổ đang sôi nổi, Ngô Tất Tố đã trình bày cho chúng ta
thấy tất cả những cái bất hợp lý, những cái xấu xa của chế độ thi cử thời
trước. Ở đây kẻ sĩ vác Lều chõng đi thi hoàn toàn không phải vì mục đích
hành đạo mà chỉ cốt mưu cầu danh lợi. Vân Hạc, nhân vật chính trong truyện,
đã nhiều lần bộc lộ động cơ đi thi của mình. Chàng dùi mài kinh sử, chịu khó
chịu khố vác Lều chõng đi thi chỉ vì muốn thoả mãn người vợ đang ôm ấp
giấc mộng làm bà nghè, bà thám. Vân Hạc là một thanh niên tài hoa. Nhưng
Vân Hạc lận đận mãi ở trường ốc. Có lần đáng lẽ đỗ thủ khoa mà lại bị hỏng
tuột. Đến nỗi, có một lúc, con người thường rất tự tin ở mình đã đâm ra hoài
nghi, chán nản và chỉ còn biết tin ở số mệnh. Vân Hạc long đong với thi cử và
cuối cùng bị tống giam, đó là số phận của người có tài trong chế độ phong
kiến. Nghè Long may mắn hơn Vân Hạc, đỗ được tiến sĩ, nhưng cuối cùng
cũng chịu một số phận chua xót: con người thư sinh yếu đuối ấy phải làm lính
sung vào đội tiền quân hiệu lực. Tác giả Lều chõng đã trông thấy và nói lên
cái bi kịch của con người trí thức dưới chế độ phong kiến.
Thực tế đau xót của khoa cử đã giác ngộ được cả cô Ngọc vợ Vân Hạc
vốn là người rất ham mê công danh. Cô đã tìm đủ mọi cách khích lệ và giúp
đỡ chồng học hành để được hưởng cái cảnh "võng anh đi trước, võng nàng
đi sau". Ấy thế mà cuối cùng cô cũng đã thông cảm với những nỗi đau khổ
của chồng và đồng ý không bắt chồng đi thi nữa. Cái đêm hai vợi chồng Vân
Hạc tâm sự với nhau về cái vô nghĩa của khoa cử và công danh là cái đêm họ
đã chán nản hết mọi sự. Sau những thất bại chua xót, họ thấy rằng nghiệp lều
chõng không phải là con đường sáng sủa, vinh quang. Từ đó cặp vợ chồng
trẻ tuổi ấy nhìn đời với con mắt yếm thế.
Lều chõng chủ yếu là một tác phẩm nói về thi cử, nhưng không chỉ nói
về thi cử. Qua các câu chuyện về sĩ tử và trường ốc, chúng ta thấy Ngô Tất
Tố đã bộc lộ quan niệm của mình về kẻ sĩ. Lúc bấy giờ trong các tác phẩm có
khuynh hướng phục cổ, nhân vật nhà nho rất được đề cao. Nhà nho là người
có tài đức vẹn toàn và có sứ mệnh làm sáng đạo thánh hiền. Nguyễn Đức
Tâm trong Nhà nho của Chu Thiên có thể xem là một nhà nho kiểu mẫu. Tâm
leo lên đỉnh cao của bậc thang danh vọng một cách dễ dàng. Quan án Tâm
sống rất liêm khiết, thanh bạch. Khi nào Tâm cũng chỉ nói chuyện đạo đức, lễ
nghĩa, tu tề trị bình. Cho đến khi hấp hối trên giường bệnh, Tâm vẫn căn dặn
học trò và con cái phải cố học và thi đỗ để hành đạo, phải sống trong sạch để
làm sáng đạo thánh hiền.
Quan niệm của Ngô Tất Tố về nhà nho không giống như thế. Trong Lều
chõng, Ngô Tất Tố đã xây dựng một lớp nhân vật kẻ sĩ khác hẳn với kẻ sĩ
trong Nhà nho. Kẻ sĩ trong Lều chõng là những người chỉ biết thích danh lợi.
Họ đi thi là chỉ vì quyền lợi cá nhân và gia đình, thậm chí có khi chỉ cốt giành
được một chỗ ngồi ở đình trung, một miếng ăn ở giữa làng. Một hôm, Vân
Hạc và mấy anh em bạn đang đứng nghe xướng danh thì bỗng nhiên có một
người ở bên cạnh "nhảy lên như choi choi" vừa nhảy vừa đấm thùm thụp vào
chiếc nón, vừa thét: "Sỏ lợn về ai! Sỏ lợn về ai!". Té ra đó là một ông cử tân
khoa vừa mới nghe xướng tên mình đã nghĩ ngay đến cái sỏ lợn ở làng. Sĩ tử
đi thi chỉ vì cái danh ông nghè, ông cử, chỉ vì cái sỏ lợn, cái phao câu chứ
tuyệt nhiên chẳng vì mục đích cao quý nào cả. Cũng vì không có lý tưởng nên
những lúc hỏng thi, họ buồn rầu khóc lóc, để lộ rõ bản chất ươn hèn, yếu
đuối. Cái hôm mấy anh em Vân Hạc bị hỏng thi, họ ngồi ăn cơm mà nghẹn
ngào không ăn được, ai cũng tủi thân, mếu máo. Cũng vì động cơ danh lợi
mà có kẻ phải đưa tiền người khác làm bài hộ. Trong Lều chõng, nhân vật
Trần Đức Chinh làm cho người đọc vừa buồn cười, vừa khinh bỉ mà cũng vừa
thương hại. Kẻ sĩ đến như thế thật là sa đoạ. Hắn dùng tiền thuê Vân Hạc làm
hộ bài cho, cốt để vào trong tam trường cũng đủ để làm cho hắn có thể vênh
váo với mọi người rồi.
Kẻ sĩ trong Lều chõng chẳng đời nào nói đến đạo thánh hiền, đến tu tề
trị bình. Ngược lại họ chỉ là những kẻ thích ăn chơi, hưởng lạc. Vân Hạc nằm
suốt sáu bảy đêm ở phố Hàng Lờ, nơi có tiếng là rừng son phấn, đến nỗi hai
ông anh phải lùng đến bắt. Thậm chí có kẻ ra đường lại chòng ghẹo con gái
bán hàng để xảy ra các cuộc đánh nhau to, các quan đầu tỉnh phải đến can
thiệp.
Nói tóm lại hình ảnh kẻ sĩ trong Lều chõng chẳng có gì là đẹp đẽ. Kết
cục, ngay những kẻ sĩ ấy lại chán ngán cho cái kiếp sống vô nghĩa của họ.
Trong lúc phong trào phục cổ đang sôi nổi, Lều chõng là tiếng chuông
cảnh tỉnh cho những ai đang khát khao muốn trở về với cái thời đại gọi là
hoàng kim của kẻ sĩ. Số phận của Vân Hạc, của nghè Long trong Lều chõng
đủ cảnh cáo cho những ai còn mang những ảo tưởng đẹp đẽ về cuộc đời quá
khứ. Giá trị chiến đấu của tác phẩm Lều chõng chính là ở chỗ đó.
* * *
Ngoài ba tác phẩm chính, tính chiến đấu của ngòi bút Ngô Tất Tố còn
biểu hiện rõ ở một số tác phẩm khác. Năm 1035, ông viết quyển tiểu thuyết
lịch sử Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ. Người và việc trong truyện
hầu hết đều là người và việc thực. Tác giả biểu lộ một thái độ mến phục rõ rệt
với những người con ưu tú của dân tộc như Phan Đình Phùng, Lê Trực, Đinh
Công Tráng, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thiện Thuật v.v... Ngược lại, những
bọn phản bội, những bọn đầu hàng giặc, làm tay sai cho giặc đều bị tác giả
vạch rõ thực chất bỉ ổi, xấu xa cho mọi người trông thấy. Qua cuốn Vua Hàm
Nghi với việc kinh thành thất thủ, chúng ta còn thấy rõ rằng bọn thực dân
Pháp sang chiếm nước hoàn toàn không phải vì một mục đích vị tha nào mà
chỉ vì quyền lợi ích kỷ. Hành động của chúng là hành động của một bọn côn
đồ tàn bạo. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, nói rõ những sự thật ấy là
một hành động dũng cảm.
Chúng ta biết rằng ngoài công việc sáng tác. Ngô Tất Tố còn làm các
công việc nghiên cứu, phê bình và dịch thuật. Trong công trình nghiên cứu và
phê bình, tính chiến đấu của ngòi bút Ngô Tất Tố biểu hiện rõ rệt. Ví dụ Ngô
Tất Tố đã biểu dương những quan niệm tiến bộ phi nhạc, phi Nho, phi mệnh
của Mặc tử. Mặc tử phản đối quan niệm của nhà nho chủ trương làm nhạc để
làm nhạc mà cho thấy rằng nếu nhạc không có bổ ích gì cho đời sống của
nhân dân thì không cần làm nhạc. "Dân có ba điều lo là đói không được ăn,
rét không được mặc, mỏi không được nghỉ; ba điều đó là sự lo lớn của dân.
Song nếu vì dân mà gõ chuông lớn, đánh trống kêu, gảy đàn cầm đàn sắt,
thổi ống vu ống sinh và múa cái can cái thích thì cái ăn mặc của dân có được
gì đâu". Mặc tử cũng phản đối thuyết "phục cổ" và thuyết định mệnh của nhà
nho. Trong Mặc tử, Ngô Tất Tố biểu dương những ý kiến của Mặc tử công
kích các nhà cầm quyền đương thời. Chẳng hạn Mặc tử phản đối chế độ
chính trị của giai cấp quý tộc chỉ giao công việc trị nước cho anh em bà con
thân thích mà không biết lựa chọn người hiền để cất nhắc. Mặc tử chủ trương
dẫu người làm ruộng hay làm thợ mà có tài cũng cứ được việc trị nước: "Dẫu
người ở nghề làm ruộng và cửa hàng thợ mà có tài năng thì cũng cất nhắc...
cho nên quan không sang mãi, dân không hèn mãi...". Mặc tử cũng công kích
những nhà cầm quyền chỉ biết tìm cách mưu lợi cho mình chứ không chú ý gì
đến đời sống của nhân dân: "Họ sai dân thì vất vả, thu liễm thì hậu hĩ; của cải
của dân không đủ, chết đói chết rét không kể xiết...". Chúng tôi nghĩ rằng
nghiên cứu Mặc tử, Ngô Tất Tố không phải không có dụng ý. Khác hẳn với xu
hướng khảo cứu để khảo cứu, để thoát ly thực tế, Ngô Tất Tố cốt để giới
thiệu những yếu tố tiến bộ của các học thuyết cổ, để làm một bài học cho
những người đương thời. Nghiên cứu Lão tử cũng vậy. Tác giả Lão tử đã làm
sáng rõ được những mặt tiến bộ trong thế giới quan của nhà triết học cổ đại.
Vì vậy, phần nhiều các công trình nghiên cứu của Ngô Tất Tố đều có giá trị
thực tiễn. Trong nhiều trường hợp, Ngô Tất Tố biết vận dụng các quan điểm
triết học và chính trị tiến bộ của người xưa để đập lại các quan điểm lạc hậu
và phản động của bọn thống trị đương thời.
Ngô Tất Tố có viết một quyển sách phê bình bộ Nho giáo của Trần
Trọng Kim. Cái sai chính của Trần Trọng Kim là cố tình thêm thắt vào các ý
kiến của Khổng Tử để đề cao Nho giáo. Ngô Tất Tố đã kịch liệt chỉ trích xu
hướng này. Chẳng hạn Trần Trọng Kim viết: "Đạo của Ngài (Khổng Tử) là
đạo chí công, chí chính, khiến người ta phải theo thời mà biến đổi tức là đạo
phải tiến hoá luôn... Chữ Hiếu trong Khổng giáo là quan trọng như thế... cũng
vì nhiều người không hiểu, cứ câu nệ về hình thức bên ngoài. Đấy là cái lỗi tại
người đời sau chứ theo cái đạo của phu tử thì có điều gì là không hay?" hoặc
là: "Đạo của Khổng phu tử là đạo trung dung, rất thích hợp với chân lý, thật là
đạo phải xử thế rất hay, rất phải, ai theo cũng được và thi hành theo đời nào
cũng được...". Ngô Tất Tố không tán thành thái độ ấy của nhà nghiên cứu.
Ông viết: "Sự phê bình đó chứng rằng tác giả lúc nào cũng đứng địa vị chủ
quan, không thể bỏ hết thành kiến". Ý Ngô Tất Tố muốn nói tác giả Nho giáo
vốn yêu đạo Khổng, mang một định kiến cho rằng đạo Khổng là toàn thiện
toàn mỹ nên cô tô vẽ thêm cho học thuyết Khổng giáo.
Thái độ phê bình của Ngô Tất Tố là một thái độ thẳng thắn cương trực,
Ngay ở trang đầu, ông đã xác định ý nghĩa của công việc mình làm: "Với một
cuố sách có quan hệ đến tư tưởng học thuật của một dân tộc, không ai được
phép vì nể tác giả mà nể luôn sự sai lầm trong sách để di ngộ cho người đời
sau". Tóm lại, trong công tác phê bình, chúng ta thấy tính chiến đấu của ngòi
bút Ngô Tất Tố lại càng biểu lộ rõ rệt.
* * *
Sau khi sơ lược phân tích một số tác phẩm của Ngô Tất Tố viết trước
1945, chúng ta thấy ông là một nhà văn có phẩm chất chiến đấu đáng quý.
Trên báo chí cũng như trong sáng tác, phê bình, nghiên cứu, ngòi bút của
Ngô Tất Tố luôn luôn dũng cảm tố cáo những cái xấu xa, vạch ra những cái
thoái hoá, lạc hậu ở trong xã hội. Ngô Tất Tố chưa phải là một nhà văn cách
mạng nhưng không phải là không có công với cách mạng.
Tuy nhà văn chưa có dịp nào trình bày quan điểm của mình, nhưng qua
các tác phẩm chúng ta thấy sự sáng tạo nghệ thuật của Ngô Tất Tố có một ý
nghĩa vị nhân sinh rõ rệt.
Cái nhìn của Ngô Tất Tố đối với con người và cuộc sống xã hội là một
cái nhìn chân thực, đúng đắn, không phiến diện. Ngô Tất Tố trông thấy xã hội
nông thôn là một xã hội thối nát chứa đầy những hủ tục (Việc làng), nhưng
trong xã hội ấy, ông cũng nhìn thấy những con người đẹp đẽ, đáng cho chúng
ta quý mến (Tắt đèn). Khác hẳn với nhiều nhà văn tư sản và tiểu tư sản, một
mặt Ngô Tất Tố không lý tưởng hoá cuộc sống ở nông thôn nhưng mặt khác
ông lại nhìn quần chúng với cặp mắt đúng đắn, trông thấy được phẩm chất tốt
đẹp của những người nông dân lao động, không có thái độ khinh bỉ, miệt thị
quần chúng. Trong cái thực tế xã hội hỗn độn, phức tạp, Ngô Tất Tố phân biệt
được cái tốt với cái xấu, biểu dương, ca ngợi cái tốt, vạch mặt và đả kích cái
xấu.
Đối với tầng lớp kẻ sĩ trong xã hội cũng vậy. Ngô Tất Tố không đồng
tình với thái độ lý tưởng hoá kẻ sĩ, đề cao kẻ sĩ đến mức có tác dụng phục vụ
cho âm mưu phục cổ của bọn thống trị (Lều chõng), nhưng không phải là Ngô
Tất Tố không trông thấy trong thực tế có những sĩ phu yêu nước và có tinh
thần chiến đấu dũng cảm chống bọn xâm lược (Vua Hàm Nghi với việc kinh
thành thất thủ).
Ngô Tất Tố là một nhà văn được quần chúng yêu mến chính là vì ông
đã có một cái nhìn đúng đắn, chân thực, một quan điểm nghệ thuật tiến bộ và
một thái độ chiến đấu tích cực.
Chúng ta biết rằng nhà văn Ngô Tất Tố đã sống lâu trong xã hội nông
thôn, nên có điều kiện gần gũi, hiểu biết nhiều về con người và cuộc sống ở
nông thôn. Gia đình ông là một gia đình nghèo, thiếu ruộng, nhiều khi phải
vay nợ lãi và thuê ruộng để cày. Cho đến khi làm nghề viết văn, viết báo, cuộc
đời của ông quanh năm vẫn túng thiếu.
Những điều kiện trên đây đã giúp cho Ngô Tất Tố có một cái nhìn đúng
đắn, một quan điểm nghệ thuật tiến bộ và một thái độ chiến đấu tích cực.
Lập trường của Ngô Tất Tố lúc bấy giờ chưa phải là lập trường của một
nhà văn cách mạng mà là lập trường của một nhà văn tiểu tư sản nghèo. Ngô
Tất Tố chưa thấy rõ ngày mai sẽ như thế nào, nhưng Ngô Tất Tố đã thấy
được chân tướng của xã hội trước mắt. Bao giờ ông cũng đứng về phía
những người bị đày đoạ, bị áp bức. Chính nhờ đó mà nhà văn đã vẽ lên được
bức tranh chân thực của xã hội đương thời. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ,
ngòi bút Ngô Tất Tố dám dũng cảm tố cáo những cái xấu xa, thối nát của xã
hội, xây dựng những hình tượng đẹp đẽ về người lao động cùng khổ là một
thành công lớn.
Chính nhờ có cái nhìn đúng đắn, quan điểm nghệ thuật tiến bộ và một
thái độ chiến đấu tích cực mà Ngô Tất Tố đã đi vào cách mạng và kháng
chiến một cách dễ dàng. Sau cách mạng, Ngô Tất Tố đã tiếp thu được tư
tưởng tiên tiến của thời đại và đã vinh dự được gia nhập Đảng Cộng sản
Đông Dương. Ngay từ buổi đầu cách mạng thành công, Ngô Tất Tố đã có mặt
trong hàng ngũ văn nghệ tiên phong của dân tộc.
Sự nghiệp của Ngô Tất Tố đã dành cho ông một địa vị xứng đáng trong
lịch sử văn học nước nhà.
Tháng giêng1961
(Tạp chí nghiên cứu văn học, số 3, 1961)
MỘT NHÀ DÂN TỘC HỌC ĐƯỢC ĐÀO TẠO BẰNG THỰC TIỄN QUẦN CHÚNG
G. BUĐAREN
Dường như chẳng ai có thể vẽ cho chúng ta một bức tranh sinh động
về phong tục tập quán bằng tác giả này. Sinh trưởng tại cái nôi lịch sử Việt
Nam, vùng Lộc Hà, tỉnh Bắc Ninh, gần như ở giữa con đường từ vùng dân
quan họ tới thành An Dương Vương cổ kính, ông là người thuộc thế hệ
những nhà nho không có hy vọng gì trong việc lều chõng vàc cuộc thi văn lần
cuối ở Nam Định, năm 1916.
Tuy nhiên, về tâm lý mà nói thì đó không phải là ý định của ông. Không
từ bỏ nền văn hoá truyền thống mà ông luôn biết nêu lên những phần tinh tuý
nhất, ông thuộc những người kiên quyết đổi bút nghiên nhà nho lấy phong
cách viết hiện đại.
Con người nặng lòng yêu nước này, một người hiểu biết sâu sắc về
vốn cổ Trung - Việt cũng rất thông hiểu văn hoá Pháp và mong muốn trở
thành người cải cách, dường như không trong cả truyền thống. Phải chăng
chính Vũ Ngọc Phan đã phê phán ông là lạm dụng chữ "bị" Việt Nam trong
những văn cảnh ở đó nó chỉ được giải thích bằng một sự ảnh hưởng quá lạm
của câu bị động trong tiếng Pháp.
Từ tháng 3 năm 1931, Ngô Tất Tố đã chống đối mãnh liệt sự quay về
truyền thống "Dẫu rằng cuộc đời mỗi ngày mỗi mới mà ở xã hội "con rồng
cháu tiên" thiếu chi người ưa những lối xưa. Cái phong trào "bảo tồn quốc
tuý" im đi một độ, độ này xem chừng lại thấy rục rịch nổi lên, tờ báo nọ hô hào
bạn gái cứ giữ gìn cái sinh hoạt ở cửa buồng xó bếp, tờ báo kia cổ động dân
quê nên duy trì cái thói tục ở góc điếm sân đình, lại có cuốn tạp chí nọ hàng
tuần đem những cặn bã ở cửa Khổng sân Trình mà nhồi mãi vào óc độc giả".
Nếu Ngô Tất Tố hướng về làng thì đó không phải là sự cảm phục mà là
vì sự thúc đẩy. Tình yêu sâu sắc của ông không ngăn được ông phải thốt lên:
"Lòng mê tín dị đoan của lũ dân khờ khạo". Dưới ngòi bút của ông thì những
cái "hủ tục", "tục lệ quái gở, mọi rợ", "chỗ bẩn thỉu tối tăm trong luỹ tre xanh"
là quá xấu. Khi một gã nông dân ra trẫm mình ở một chiếc hồ nhỏ Hà Nội sau
khi mất bốn năm trăm đồng cho bọn cường hào ở làng để đổi một chức nhỏ
mà không được, thì Ngô Tất Tố không những không thương hại mà còn viết
rằng nếu ông thấy, ông sẽ dìm đầu người đó chứ không thèm cứu vì ông
muốn những tập tục vô lý đó biến mất.
Cảm hứng trong tác phẩm của ông là chống "chủ nghĩa truyền thống"
một cách mạnh mẽ, rất thực chất và mang tính xã hội nếu không muốn nói là
có màu sắc xã hội chủ nghĩa. Sự khinh bỉ công khai của tác giả đối với những
phong tục tập quán cũ đi đôi với một nỗi thương cảm sâu sắc với "những
người bị bỏ xót" trong luỹ tre làng. Ông muốn làm cho những người ưu tú ở
thành thị biết được số phận hẩm hiu của những người nông dân để cứu họ ra
khỏi lề thói của họ. Một hình ảnh rất nông thôn đã nói nên những dự định của
ông: "Một nước, giống như một chiếc xe bò vậy, lớp trí thức là người làm bò,
lớp dân quê là người đẩy xe". Niềm hy vọng của ông là được nhìn thấy cuối
cùng người ta sẽ vứt bỏ những thói cũ mà ông cảm thấy rằng người nông dân
Nam Bộ đang rũ bỏ được chúng.
Để thực sự bắt đầu việc xoá bỏ này, Ngô Tất Tố trở thành nhà khảo cổ
đối với những tục lệ cũ mà ông khinh ghét. Tác phẩm của ông ngày nay là
một nơi tàng trữ tuyệt vời, một bảo tàng mỹ lệ về những phong tục truyền
thống đó. Không phải là quá khi nói rằng nếu không có những truyện ngắn
của ông và của Nguyễn Công Hoan, thì sẽ không có một bằng chứng thực
tiễn nào về hiện thực tâm lý và xã hội của sinh hoạt làng xã. Tư liệu do ông
mang lại về chủ đề này thực ra mà nói có một trật tự khác hẳn với tư liệu của
những chuyên gia về mặt này như Nguyễn Văn Khoan, Nguyễn Văn Huyên,
Toan Anh, Nhật Thanh, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Vũ Văn Hiên và Nguyễn
Hữu Khang.
Những vấn đề về quyền hạn luật định được đề ra do quyền sở hữu
hoặc chế độ thuế khoá là những mối quan tâm chính của họ hoặc nếu không
thì cũng là những mặt chính của các lễ hội. Họ ít quan tâm đến thực tiễn sâu
sắc. Bằng kinh nghiệm cả tuổi thơ ấu và tuổi trẻ, bằng việc tham gia "nhiệt
tình" và các sinh hoạt làng xã, Ngô Tất Tố đã làm một công trình dân tộc học
và cũng dễ dàng và giản dị như người ta hít thở vậy. Người ta đã thấy được
điều đó qua hai phóng sự cũng như trong những bài đăng báo của ông.
Hai tập phóng sự chỉ nhằm vào một chủ đề duy nhất: những sinh hoạt
trong "cái đình" được quan sát dưới một góc độ khác với Nguyễn Văn Khoan
và Toan ánh, người thứ nhất (Nguyễn Văn Khoan) đề cập phần lớn đến
nguyên bản của những lễ bái và đến sự miêu tả những cấu trúc và đồ vật;
người thứ hai (Toan ánh) kém chuyên môn hơn và cũng kém hệ thống cũng
như cơ cấu hơn khi đề cập đến những cuộc hành hương và những lễ hội đại
diện cho dân tộc hơn là những lễ hội hoặc thờ cúng ở làng xã. Còn về Ngô
Tất Tố, nhà nho của chúng ta chĩa mũi dùi vào cơ cấu của bộ máy xã hội, các
mối quan hệ giữa thân hào ở địa phương với những người nông dân mù chữ
bị chúng lừa đảo, chủ yếu trong các dịp tế lễ đình đám.
Sự ngoại lệ chỉ thể hiện trong một chuyện ngắn rất lý thú và trong một
mối quan tâm lớn đối với cái bộ môn mới là tâm lý dân tộc học ngày nay, đó là
những truyện Vũng nước làng Ngang, còn những truyện của hai tập phóng sự
này là những hình ảnh của cùng một vấn đề được nhìn dưới nhiều góc độ
khác nhau: Những đình đám và ngôi thứ trong cái Đình. Song Tập án cái đình
lại nói nhiều về những ông thần và tên hèm của họ, về những lễ hội thiêng
liêng, bí hiểm và đại chúng, trong khi đó Việc làng đề cập nhiều đến những
loại đình đám khác nhau. Không có tài liệu tham khảo, nhưng nhờ được viết
bằng một vốn Hán Việt uyên bác, tác phẩm này là tác phẩm duy nhất cho ta
một lời giải về những hoạt động của cái Đình được coi như một sự kiện lịch
sử có thời gian rõ rệt và cho phép ta phân tích một cách chi tiết những sức
bật của xã hội nông thôn.
(Lê Thu Thuỷ trích dịch từ cuốn
Tín ngưỡng dân gian và các xã hội châu Á)
(Trích sách Ngô Tất Tố với chúng ta.
NxbHội Nhà văn, H. 1993)
ĐÓNG GÓP CỦA NGÔ TÂT TỐ TRONG KHÁNG CHIẾNNGUYỄN ĐỨC ĐÀN - PHAN CỰ ĐỆ
Ngô Tất Tố là một nhà báo tiến bộ, có nhân cách trong sạch. Ngô Tất
Tố cũng là một nhà văn, nhà nho yêu nước thiết tha, luôn luôn bênh vực
quyền lợi của những người nghèo khổ, nhất là trong nông dân lao động.
Nhưng cho đến những năm cao trào cứu quốc dâng lên ở Bắc bộ, Ngô
Tất Tố vẫn chưa đứng trong hàng ngũ cách mạng. Năm 1945, trước cảnh hai
triệu đồng bào chết đói, trước cảnh khủng bố, bắt bớ của Nhật - Pháp, Ngô
Tất Tố sống trong những ngày quẩn quanh, bế tắc, chưa tìm được hướng đi...
Tết năm Dậu tối tăm ấy, ông già mái tóc hoa râm gửi về cho người con
cả một bài thơ cảm kháng:
Năm mươi hai tuổi đã già chưa?
Cái tính ngông thơ vẫn chẳng chừa
Đêm lạnh thắp hương chờ bạn cũ
Ngày rỗi khép cửa đọc văn xưa
Mải ham trong cửa vun hoa cảnh
Quên hẳn ngoài tường vẫn gió mưa
Ba chén ngà ngà trời cũng nhỏ
Kể chi ai ghét, mặc ai ưa
Tâm sự của Ngô Tất Tố cũng là tâm sự của một số nhà văn đương
thời. Trừ một số người như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên
Hồng v.v... có tham gia nhóm văn hoá cứu quốc và đã tìm thấy ánh sáng cách
mạng, đa số các nhà văn khác lúc bấy giờ sống trong tâm trạng u uất, không
lối thoát.
Cách mạng tháng Tám thành công đã cứu sống các nhà văn, mở ra
cho họ một con đường mới đầy hy vọng. Ngô Tất Tố đã chào đón cách mạng
với tất cả niềm hân hoan, tin tưởng của mình. Những ước mơ xưa của Ngô
Tất Tố dần dần đã thành sự thật.
Năm 1946, Ngô Tất Tố vào Hội văn hoá cứu quốc "Trong một bữa cơm
đông đủ gần hết anh chị em văn nghệ sĩ Bắc bộ và Trung bộ, bế mạc Hội nghị
văn hoá cứu quốc lần thứ nhất ở Hà Nội, ông già tóc ngắn hoa râm, áo dài
khăn xếp, sắt đanh với cái tên Hy Cừ chuyên vạch mặt chỉ trán những chuyện
ngang trái của xã hội thực dân phong kiến trong một mục báo hàng ngày kia,
hơi rượu liên hoan ngà ngà, đứng lên khoanh tay, bẽn lẽn ngâm mấy câu thơ
mừng cách mạng thành công".
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Quê hương Ngô Tất Tố ven bờ sông
Đuống cũng bị giặc uy hiếp và trở thành khu du kích. Quân Pháp đóng hai
đầu cầu sông Đuống, hàng ngày cho xe tăng, xe bọc sắt tiến vào các làng
bắn phá. Trong làng Lộc Hà, đồng bào tản cư gần hết, chỉ còn lại một ban tình
báo và một trung đội vệ quốc đoàn đóng ở hai xóm đầu làng và cuối làng. Gia
đình Ngô Tất Tố ở lại Lộc Hà tham gia kháng chiến. Người con cả làm trung
đội trưởng tự vệ và con thứ (Ngô Thúc Luân) làm tình báo. Ngô Tất Tố ở
trong uỷ ban "Khu".
Ngô Tất Tố rất hăng hái tham gia kháng chiến nhưng có một điều làm
cho nhà văn ân hận là lúc bấy giờ tuổi đã cao, sức đã yếu. Đã có lần Ngô Tất
Tố tâm sự với Đỗ Ngọc Toại, một người bạn già:
Địch quốc trung lai nhật
Thư sinh vị lão niên
.....
Mao chuỳ thành một dụng
Hận bất chú long tuyền!
Nhưng không cầm gươm cầm súng để giết giặc, Ngô Tất Tố sẽ cầm
bút để chiến đấu. Ông kêu gọi các nhà nho yêu nước đứng dậy để kháng
chiến. Năm 1947, cùng với Đỗ Ngọc Toại ông soạn Kinh cáo toàn quốc phụ
lão thân sĩ thư bằng chữ Hán. Bức thư gửi đi khắp nơi đã có một ảnh hưởng
tốt trong nhân dân, nhất là trong hàng ngũ của các nhà nho.
Trong một trận chống giặc vào làng càn quét, Ngô Thúc Luân đã anh
dũng hy sinh, lòng căm thù giặc của Ngô Tất Tố lại càng nung nấu. Gửi quê
hương thân yêu lại cho du kích và bộ đội địa phương, Ngô Tất Tố theo cơ
quan lên Bắc Giang công tác. Gia đình ông và một số gia đình anh em văn
nghệ sĩ khác ở quây quần với nhau, làm ruộng tăng gia ở ấp cầu Trắng (Yên
Thế, Bắc Giang).
Ngô Tất Tố tham gia hoạt động ở sở Thông tin khu XII. Những đau xót
và căm thù của nhà văn đã biến thành ca dao, những bài báo, những bài hát
chèo, những mẩu truyện ngắn đăng khá đều trên các báo Cứu quốc khu XII,
Cứu quốc trung ương, tạp chí Văn nghệ. Lúc ở Đại Từ, lúc ở Nhã Nam, bất
chấp mọi sự gian khổ, Ngô Tất Tố đã say sưa dùng ngòi bút chiến đấu của
mình để phục vụ cho cách mạng. Và một vinh dự lớn nhất cho cuộc đời nhà
nho này, là trong cuộc học tập của một số anh em văn nghệ sĩ ở Việt Bắc,
ngày 1 tháng 5 năm 1948, Ngô Tất Tố đã được gia nhập Đảng Cộng sản
Đông Dương.
Trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất (1948), Ngô Tất Tố
được bầu vào Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam với tư cách là đại biểu
cho anh em văn nghệ sĩ khu I.
Trong Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc (1949), trên hàng ghế
chủ tịch đoàn, bên cạnh Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đỗ Cung... người ta
còn thấy hình ảnh nhà văn chiến đấu lão thành Ngô Tất Tố.
Tuy già yếu, ốm đau, thiếu thốn, Ngô Tất Tố đã đem hết sức mình để
tham gia kháng chiến: làm công tác Liên Việt, công tác thông tin văn nghệ, dự
Đại hội chiến sĩ thi đua nông nghiệp toàn quốc 1951, tham gia công tác thuế
nông nghiệp ở xã Quang Trung (Nhã Nam) v.v...
Có thể nói, từ sau 1945, nhất là từ khi được kết nạp vào Đảng Cộng
sản Đông Dương, nhà văn Ngô Tất Tố đã đứng vững dưới ngọn cờ của
Đảng, của cách mạng.
Trong kháng chiến, Ngô Tất Tố viết rất ít. Điều đó cũng dễ hiểu là vì lúc
bấy giờ nhà văn đã già yếu, không có điều kiện để tham gia các chiến dịch
hoặc thâm nhập quần chúng cách mạng. Một mặt khác, tuy đã đứng trong
hàng ngũ cách mạng, nhưng có lẽ cái bản chất nhà nho trí thức cũng có phần
nào hạn chế nhà văn trong lúc đi vào quần chúng.
Không có điều kiện để viết những tác phẩm lớn, Ngô Tất Tố tập trung
thì giờ viết những bài ca dao, những bản diễn ca, những truyện ngắn phục vụ
kịp thời công tác cách mạng (Vĩnh Thuỵ ca, Quà tết bộ đội, Buổi chợ trung du,
Anh Lộc v.v...). Một mặt khác, phần lớn thì giờ Ngô Tất Tố dành cho công tác
phiên dịch. Lúc bấy giờ những tác phẩm của Liên Xô, Trung Quốc về rất
nhiều mà nhiệm vụ của Hội văn nghệ là phải kịp thời phiên dịch và giới thiệu
những tác phẩm của nước bạn với quần chúng. Thấy mình có khả năng làm
việc đó, Ngô Tất Tố đã đứng ra nhận nhiệm vụ phiên dịch những tác phẩm tốt
của Trung Quốc.
Ông đã chú ý chọn lọc những tác phẩm có thể phục vụ tốt và kịp thời
cho cuộc cách mạng phản đế phản phong của dân tộc.
Trong giải thưởng văn nghệ 1951 - 1952, Ngô Tất Tố được ba giải về
dịch: Trời hửng (Vương Lực), trước lửa chiến đấu (Lưu Vũ Bằng) và giải
khuyến khích về vở chèo mười cảnh Quách Thị Tước.
Văn dịch Trời hửng sắc, mạnh, vận dụng được nhiều ngôn ngữ của
quần chúng. Trong kháng chiến, Trời hửng được xuất bản hai lần, có nhiều
tác dụng giáo dục kinh nghiệm công tác nông thôn cho anh chị em cán bộ
nông vận. Bản dịch Trước lửa chiến đấu có nhiều chỗ sắc xảo, già dặn. Lối
văn sáng sủa, gân guốc, hấp dẫn người đọc. Nhưng vì Ngô Tất Tố chưa nắm
vững đường lối chiến đấu, chiến thuật của giải phóng quân Trung Quốc nên
bản dịch còn nhiều chỗ vụng về, rối rắm, chưa diễn đạt được hết cái hay của
nội dung nguyên bản.
Vở chèo Quách Thị Tước (Sau đổi tên là Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác) là
tác phẩm lớn nhất của Ngô Tất Tố trong kháng chiến, vở này dày hơn 100
trang, gồm 10 màn. Ngô Tất Tố viết tác phẩm này trong dịp Đại hội chiến sĩ thi
đua nông nghiệp toàn quốc năm 1951. Trong thời kỳ kháng chiến, chèo là
hình thức văn nghệ rất dân tộc được quần chúng hoan nghênh và có tác dụng
lớn trong việc tuyên truyền và động viên nhân dân. Một số nhà văn quen biết
đã nhận rõ giá trị phục vụ của chèo (Tú Mỡ viết Tổ ba nhà). Xuất phát từ chỗ
ấy, Ngô Tất Tố đã cố gắng, lần đầu tiên dùng hình thức chèo đưa lên sân
khấu một điển hình tích cực của thời đại. Chèo bắt đầu nói chuyện thực, tả
người thực của kháng chiến.
Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác là tác phẩm cuối cùng của nhà văn lão thành
Ngô Tất Tố. Đây là một cố gắng lớn của ông muốn đem hết nhiệt tình sáng
tác để phục vụ cách mạng. Trong vở chèo, Ngô Tất Tố đã sử dụng khá điêu
luyện vốn ngôn ngữ quần chúng (ca dao, tục ngữ). Một số nhân vật khá đậm
đà, sinh động, vẫn giữ được cái cốt cách của chèo cũ. Ưu điểm của toàn bộ
vở chèo là tính chất dân tộc nổi rõ. "Nhưng về nội dung tác giả chưa nêu
được ý nghĩa thi đua của chiến sĩ Quách Thị Tước là: đoàn kết gia đinh, thúc
đẩy sản xuất, cải thiện sinh hoạt để phục vụ kháng chiến; vai trò gương mẫu
của chiến sĩ Quách Thị Tước chưa được nổi bật. Vì thiếu sự sống nên cách
biểu hiện của nhân vật còn sơ lược. Nhân vật nhiều đoạn không nói lời của
họ mà mang những lời giải thích của tác giả. Câu chuyện trình bày khô khan,
từ cảnh này chuyển sang cảnh kia không liên tục, vì vậy nên không hấp dẫn
và không gây được hào hứng cho người đọc"
Chúng ta đã điểm qua những bản dịch cũng như những tác phẩm của
Ngô Tất Tố trong kháng chiến. Tuy viết ít, nhưng qua những tác phẩm còn lại,
chúng ta có thể theo dõi được sự chuyển biến về tư tưởng về sáng tác của
nhà văn lão thành này. Nhờ sự giáo dục của Đảng, nhờ sự giáo dục của thực
tế kháng chiến, Ngô Tất Tố đã có một cái nhìn mới đối với nông dân, đối với
cách mạng.”
Điểm nổi bật nhất trong tác phẩm của Ngô Tất Tố là tinh thần quyết tâm
kháng chiến cứu nước và lòng căm thù giặc cao độ. Trước cách mạng, Ngô
Tất Tố yêu nước nhưng không biết phải làm gì để cứu nước. Bây giờ Ngô Tất
Tố đã thấy rõ phải làm cách mạng, phải vũ trang đấu tranh đánh đuổi bọn
xâm lược để giành độc lập dân tộc, phải thủ tiêu giai cấp địa chủ phong kiến,
đem lại ruộng đất, áo cơm cho dân cày.
Bất cứ lúc nào, hễ có dịp là Ngô Tất Tố lên án tội ác của bọn xâm lược
khát máu. Trong Quà tết bộ đội, chúng ta thấy tác giả đau xót trước những
cảnh "Máy bay giặc điên cuồng lồng lộn trên trời Hà Nội, Gia Lâm, thả bom,
xả liên thanh xuống chỗ đông người, tưới dầu xăng, bắn đạn lửa xuống các
làng xóm. Chiều chiều, một dải vòng cung từ Tầm Châu, Tứ Tổng, Phúc Xá
qua Bắc Cầu, Gia Quất sang Gia Thuỵ, Thượng Cát về Trường Lâm, Thanh
An... lần lượt hiện lên những ngọn núi khói, liên tiếp nhau, chồng chất nhau".
Trong vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác, Ngô Tất Tố lại một lần nữa tố cáo
những tội ác đốt nhà cướp của, hiếp dâm phụ nữ, những vụ thực dân Pháp
bắt bố tàn sát hàng mấy trăm người ở chợ Bo, chợ Cạn! Một mặt căm thù bọn
thực dân cướp nước tàn bạo, một mặt Ngô Tất Tố rất thông cảm với những
nỗi đau khổ, chua xót của nhân dân trong kháng chiến. Buổi chợ trung du là
một bức tranh sinh động, ghi lại được một cảnh khổ điển hình trong chiến
tranh: cảnh phiên chợ chạy máy bay. Ngày nào cũng thế, chợ đang ầm ầm
mua bán trong rừng, thế mà bỗng nghe “tà vẹt đường sắt giật giọng đánh ba
tiếng một", thế là "cả chợ cuống quýt lộn xộn, chen nhau, đẩy nhau, xéo lên
chân nhau, ngã sấp ngã ngửa. Có người bỏ cả quang gánh, có người đổ hết
tương mắm... Như đám lá khô trước cơn bão lớn, chợ sạch ngoét không còn
một người nào. Thúng mủng nồi niêu bỏ lổng chổng khắp nơi"... Tàu bay qua,
trong chợ bắt đầu vang lên nhũng tiếng nguyền rủa:
“- Cha con mẹ nó, làm cho người ta hú vía!
- Cha con mẹ nó, chợ búa người ta mua bán với nhau, việc gì nó cũng
bắn, cũng ném bom!"
Nỗi căm giận của các bà hàng vải toát ra từ những lời nguyền rủa cũng
đồng thời là nỗi căm giận của nhà văn Ngô Tất Tố. Càng căm thù bọn giặc
cướp nước và bán nước, Ngô Tất Tố càng yêu mến những người bộ đội anh
dũng chiến đấu bảo vệ nên độc lập dân tộc. Không có Tết nào Ngô Tất Tố
không có thơ mừng bộ đội. Mùa xuân năm Mậu Tý (1948), nhà văn lão thành,
trên con đường tản cư, gửi một bài thơ (thể hát nói) cho người chiến sĩ ở tiền
tuyến:
Gian nan chinh chiến
Cuộc giao tranh chuyển biến sắp ba năm
Sịch tưởng khi bùng tiếng súng ngoại xâm
Người tráng sĩ, trong tâm như lửa bốc
Thù nước ra đi lòng bái phục
Tình nhà gửi lại xóm tăng gia
Trải bao phen trận mạc xông pha
Thân bách chiến đã luyện già trong lửa đạn
Hoa muốn nở. Tết di cư ít bạn
Càng nhớ người hút gió đèo heo
Chúc nhau giết giặc cho nhiều
Mùa xuân năm sau, Ngô Tất Tố lại làm bài thơ mừng chiến công anh
bộ đội.
Đồi trọc chờ hoa nở
Trông cố nhân cách trở mấy non sông
Nghe mới rồi vừa lập chiến công
Lưỡi gươm phạt khá nhiều đầu giặc
Vừa báo: luyện quân miền Việt Bắc
Lại nghe: kịch chiến mặt Sơn Tây
Gót chân mòn dốc đá đèo cây
Sắc mặt hẳn in dày máu lửa...
Và Ngô Tất Tố ước mơ cái ngày toàn thắng, bộ đội cùng anh em văn
nghệ sĩ tiến về thủ đô:
Bóng toàn thắng, sang xuân càng sáng sủa
Chỉ non nước ta hẹn chỗ trùng phùng
Vỗ tay vào đất Thăng Long
Từ khi tham gia cách mạng và kháng chiến, Ngô Tất Tố luôn luôn tin
tưởng vào tiền đồ sán lạn của quần chúng, của cách mạng. Ngô Tất Tố đã
thấy những nông dân như anh Dậu, chị Dậu dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã
đứng dậy làm cách mạng tháng Tám. Và kháng chiến bùng nổ, cũng chính
những người nông dân áo vải đó đã cầm súng xông ra chiến trường giết giặc.
Yêu bộ đội, yêu nhân dân, căm thù giặc sâu sắc, đó là biểu hiện lòng
yêu nước thiết tha của Ngô Tất Tố. Lòng yêu nước chân chính của ông đã kết
hợp được với tinh thần quốc tế vô sản cao cả... Từ khi chiến đấu dưới ngọn
cờ vinh quang của Đảng Cộng sản, Ngô Tất Tố đã yêu mến khâm phục
những người Hồng quân Liên Xô, Trung Quốc anh dũng. Họ là ai? Đó là
Quách Như Hạc (Suối thép), Doãn Thanh Xuân, Vương Tây Lan (Anh hùng
không chết),Vương Hỷ (Duyên máu)... Những con người bình thường nhưng
đồng thời cũng là những anh hùng trong các tác phẩm của Xêraphimôvíc, của
Lưu Bạch Vũ. Ngô Tất Tố đã say sưa, nhiệt tình ca ngợi gương chiến đấu
dũng cảm, sức mạnh vĩ đại của công nông binh Liên
Xô, Trung Quốc, và qua đó cũng thể hiện lòng tin tưởng sắt đá của ông
vào khả năng vĩ đại của công nông binh Việt Nam. Ngô Tất Tố đã truyền tất
cả nhiệt tình và lòng tin vào những câu văn dịch sắc, mạnh, hừng hực lửa
chiến đấu và căm thù.
Tóm lại Đảng đã mang đến cho Ngô Tất Tố một niềm tin, một tinh thần
lạc quan cách mạng. Mặt khác, Đảng cũng mang đến cho nhà văn một cái
nhìn mới về nông thôn và nông dân.
Cách mạng tháng Tám, cuộc cách mạng thần thánh đã biến đổi hẳn bộ
mặt của nông thôn Việt Nam. Nếu như trước kia đình làng là nơi bọn cường
hào địa chủ chè chén, xôi thịt thì bây giờ đó là nơi người ta bàn chuyện đánh
giặc, cứu nước, ủng hộ bộ đội kháng chiến.
Qua chuyện Quà Tết bộ đội, nông thôn trong Việc làng và Tắt đèn của
Ngô Tất Tố đã hoàn toàn thay đổi. Mùa xuân năm Bính Tuất, chính cái làng
"xôi thịt" đó, dân làng đã chuẩn bị nấu bánh, gói giò để làm quà Tết cho bộ
đội: "Khoảng bảy giờ sáng, hai ban tiếp tế, tự vệ ra họp đông đủ tại đình. Mấy
chị tiếp tế rửa lá, đãi đậu, chiêu lại gạo nếp; mấy anh tự vệ bắt lợn, bổ củi,
mượn cối, mượn chày; các cụ bô lão thì tấn hồ tiêu, mài dao, chẻ lạt, đun
nước làm lông lợn... Chỗ thái thịt, chỗ giã giò, chỗ làm lá chuối. Mọi công tác
đồng thời phát động. Ba gian tiền tế biến thành một rạp cỗ lớn. Tiếng chày giã
huỳnh huỵch, tiếng dao bầm ký cốc xen lẫn với tiếng điếu cày sòng sọc".
Trong khi đó thì quân dân du kích phối hợp với bộ đội đánh giặc, bảo vệ làng.
Những người nông dân nghèo khổ đã đứng dậy tham gia kháng chiến.
Họ là những người yêu nước thiết tha, sẵn sàng hy sinh quyền lợi bản thân
để phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến.
Đảng và cách mạng đã thắp lại ngọn đèn cho những cuộc đời tối tăm
của chị Dậu, anh Dậu. Họ đã vùng dậy đấu tranh và trở thành những anh Lộc,
cán bộ thuế nông nghiệp xã Quang Trung, chị Bùi Thị Phác, chiến sĩ thi đua
nông nghiệp toàn quốc. Ngô Tất Tố đã ghi lại trong tác phẩm của mình vài nét
phác hoạ về những người nông dân mới đó.
Anh Lộc là cán bộ thuế nông nghiệp rất tích cực của xã Quang Trung.
Gia đình anh là một gia đình nông dân nghèo, bận bịu con nhỏ. Nhưng anh đã
đặt quyền lợi cách mạng lên trên quyền lợi gia đình, tích cực công tác, vận
động nhân dân làm việc để vừa đảm bảo công tác, vừa đảm bảo sản xuất gia
đình.
"Một hôm tan họp ra về đã chín giờ rưỡi. Trên trời giăng sáng vằng vặc.
Đến nhà thì chỉ hai đứa con đã đi ngủ, vợ vẫn còn thức. Anh nhớ thửa ruộng
trên ấp B.C. lúa chín đã sáu bảy hôm, vì bận công tác vẫn chưa gặt được,
liền bàn với vợ sang gặt ruộng đó, chị can đừng đi, để mai sẽ hay, vì đêm đã
khuya. Anh không nghe... xách liềm quẩy gánh cứ đi.
Bóng giăng từ từ chênh chếch về phía tây, sao thưa dần, sương xuống
mù mịt. Anh cặm cụi vừa cắt vừa xén, vừa lượm, được một gánh lúa quẩy về.
Sau khi rửa chân đi nằm, gà mới ấm ớ cất tiếng gáy"
Bên cạnh hình ảnh anh Lộc, ta thấy Ngô Tất Tố cũng ghi lại được một
vài nét về những người nông dân cách mạng. Đó là hình ảnh chị Bùi Thị
Phác, chiến sĩ thi đua nông nghiệp toàn quốc. Nếu như chị Dậu ngày xưa
chống lại bọn địa chủ quan lại một cách tự phát, thì này chị Bùi Thị Phác là
một phụ nữ nông dân giác ngộ cách mạng, có ý thức đấu tranh giai cấp rõ rệt.
Chị Phác đã dạy cho chị em phụ nữ học cày để thay thế nam giới phải ra tiền
tuyến giết giặc.
Một mặt khác, chị Phác đã biết kêu gọi chị em phụ nữ nông dân đoàn
kết chống bọn địa chủ cường hào gian ác:
Cùng trong một lớp dân nghèo
Chống tên địa chủ còn nhiều khó khăn
Đấu tranh quyết thắng mười phần
Tinh thần tương trợ cũng cần đề cao
Thề không dung bọn cường hào
Những nhân vật trong tác phẩm của Ngô Tất Tố quả là những con
người mới của thời đại, tuy cách biểu hiện của tác giả còn đơn giản sơ lược,
vở chèo Bùi Thị Phác; viết trước phát động quần chúng giảm tô, cải cách
ruộng đất lên vấn đề đấu tranh giai cấp đặt ra chưa rõ. Tuy nhiên ta đã thấp
thoáng thấy được mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn qua quan hệ giữa nhân vật
địa chủ Thị Đài và những người nông dân như chị Phác, chị Ất, v.v...
Tuy chưa có điều kiện để đặt vấn đề đấu tranh giai cấp trong tác phẩm
Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác, nhưng từ lâu, Ngô Tất Tố đã nhìn thấy rất rõ bộ mặt
giai cấp địa chủ Việt Nam. Hình ảnh những tên Tư thịt hôi, thầy già Mao, Năm
hổ mang bị nông dân đánh gục xuống, "lăn quèo dưới đất như đống cứt chó"
chính là những hình ảnh mà Ngô Tất Tố thích thú. Nhà văn lão thành của
chúng ta vẫn mơ ước có ngày những người nông dân Việt Nam sẽ vùng dậy
đánh gục giai cấp địa chủ, làm chủ đồng ruộng như những người nông dân
trong trại Thái Bình (Trung Quốc). Dịch Trời hửng chính là Ngô Tất Tố muốn
thể hiện ước mơ đẹp đẽ đó của mình.
Qua nội dung một số tác phẩm, chúng ta đã trình bày những chuyển
biến về tư tưởng của nhà văn Ngô Tất Tố trong cách mạng kháng chiến.
Nhưng sự chuyển biến về tư tưởng chưa phải là yếu tố hoàn toàn quyết định
sự thành công về mặt nghệ thuật. Còn phải kể đến những yếu tố khác không
kém phần quan trọng như vốn sống, phương pháp nghệ thuật v.v... như trên
đã nói, trong kháng chiến, vì già yếu nên Ngô Tất Tố không điều kiện đi sâu
vào cuộc sống mới. Ông rất có cảm tình với những con người mới nhưng ông
chưa thật hiểu tư tưởng, tâm lý, tình cảm của họ. Vì thế nên trong các tác
phẩm lúc phê phán xã hội cũ, con người cũ thì ngòi bút của Ngô Tất Tố vẫn
giữ được cái sắc xảo, già dặn nhuần nhị nhưng sau khi xây dựng hình tượng
những con người mới của cách mạng thì ông thường sa vào bệnh thuyết lý,
sơ lược, công thức (Anh Lộc, Bùi Thị Phác v.v...).
Ưu điểm của Ngô Tất Tố là vẫn tiếp tục đi sâu vào văn học dân gian,
khai thác những hình thức dân tộc có thể phục vụ tốt cho quần chúng (chèo,
diễn ca, v.v...).
Một mặt khác, Ngô Tất Tố cũng có chủ ý học tập bút pháp của các nhà
văn nước ngoài. Trong một số truyện ngắn, bút ký, ta thấy bút pháp tả cảnh
của Ngô Tất Tố đã tiếp thu được ảnh hưởng khá nhiều của Suối thép. Nếu
như trong Suối thép ta thường thấy những cảnh ồn ào, nhộn nhịp, sự việc
dồn dập, âm thanh cuống quýt, hỗn độn, thì ta cũng thấy những cảnh tương
tự trong Quà Tết bộ đội:
"Tiếng chó ăng ẳng, tiếng lợn kêu trong rọ, tiếng gà gáy trong lồng... rồi
tiếng than thở, tiếng nguyền rủa, tiếng trẻ con khóc trong thúng, tiếng người
rên trong cáng, tiếng gọi mẹ, tiếng gọi con, tiếng vặt diệt trâu bò. Các thứ
tiếng ấy hợp lại thành một vang vọng vô cùng sầu thảm".
Và trong buổi chợ trung du:
"Từ các làng xóm, từ các ấp trại, từ các túp nhà linh tinh trên sườn đồi,
người và người, và gồng gánh thúng mủng, và bị quai, tay nải, và ba lô nữa,
lũ dài lũ ngắn, lần lượt dồn lên mấy con đường lớn. Vai kĩu kịt, tay vung vẩy,
chân bước thoăn thoắt. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chíp chíp, tiếng vịt cạc cạc,
tiếng người nói chuyện léo xéo. Thỉnh thoảng lại điểm những tiếng ăng ẳng
của con chó bị lôi sau sợi xích sắt, bộ mặt buồn rầu, sợ sệt, y như những tên
Việt gian bị giải đi đường".
Sự tiếp thu ảnh hưởng của các nhà văn nước ngoài đã mang đến
những nét mới, làm giàu thêm phong cách của Ngô Tất Tố.
* * *
Tháng 4 năm 1954, giữa lúc nông dân Bắc Giang, vùng quê hương thứ
hai của Ngô Tất Tố, đang vùng lên đấu tranh chống giai cấp địa chủ thì nhà
văn qua đời.
Nhìn lại hơn 30 năm viết báo, viết văn, dịch thuật, nghiên cứu, phê
bình, Ngô Tất Tố đã để trọn cuộc đời mình đóng góp cho sự nghiệp văn học,
sự nghiệp cách mạng và đã có những cống hiến lớn lao.
(Trích sách Ngô Tất Tố. NXB Văn hoá, H. 1962)
NGÔ TẤT TỐ NHƯ TÔI ĐÃ BIẾTNGUYỄN ĐỨC BÍNH
Ngô Tất Tố với chiếc áo the đã sờn, chiếc khăn xếp không có tuổi, cây
ô đen đen tương tương đối và đôi giày trắng trắng gọi là, đủng đỉnh đi từ nhà
quê ra thành phố. Theo sau có một con mèo, hai con chó, ba con lợn, bốn
con bò, năm bảy em bé để tóc đào, đứa thổi kèn, đứa đánh trống, đứa hò hét
nô đùa.
Ngô Tất Tố cúi xuống ve vuốt các em bé và nói chuyện rất thân thiện
với con mèo, con chó, con lợn, con bò.
Còn con người?
À con người!
Tôi nói con người là con người đã đến tuổi sử dụng được đầu óc và trái
tim để mà yêu, mà ghét mà hành động theo những mục đích nhất định.
À con người!
Trên cánh đồng Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, sát cạnh ga Yên Viên, dưới thời
thực dân phong kiến, có những bóng người mờ xám và cúi rạp xuống đất, lẫn
lộn với bùn lầy và cỏ áy, để mặc năm tháng và trăng sao, tình yêu và hạnh
phúc đi qua trên lưng mà không cựa quậy. Sau những gốc tre già của làng
Lộc Hà, có những cuộc đời lại cột chặt vào cọc đói khát, những cuộc đời bị
dồn vào một góc, chôn đứng ở một chỗ như những cái ao tù túng quanh năm
không có một tia sáng xuyên qua được tầng váng xanh đặc ở trên mặt.
Ngô Tất Tố sinh ra và lớn lên giữa những cuộc đời và những con người
ấy. Nếu tôi còn nhớ không lầm thì nhà chị Dậu cách nhà tác giả không xa,
cũng chỉ là đầu làng với cuối xóm. Và tấm thảm kịch của cái gia đình nông
dân ấy trong thực tế hình như cũng não nùng không kém. Nhưng vấn đề đâu
có phải chỉ là đánh giá mức độ hiện thực của tiểu thuyết Tắt đèn. Người ta đã
nói đến giá trị tố cáo của nó khá nhiều rồi. Cái mà người ta cần phải nói nhiều
hơn là tấm lòng yêu thương và thương xót vô hạn nó làm thành máu thịt và
linh hồn của tác phẩm. Ngô Tất Tố sinh ra và lớn lên giữa đám những con
người xấu số ấy. Ngay sau khi đã xa rời quê hương, lang thang từ Bắc vào
Nam, giữa cái không khí giả tạo của các toà soạn, Ngô Tất Tố vẫn không cắt
lìa trái tim của mình với trái tim của những người ấy.
Sống chung với tác giả, tôi đã nhiều lần được gặp những anh Dậu và
chị Dậu ở nhà quê ra, người đến nhờ một ít chữ nghĩa văn chương trong các
đơn từ liên quan, người đến xin ý kiến về công việc làm, cũng có những
người ghé vào mượn tạm một đồng hay năm ba hào để ra phố mua nốt mấy
thứ đồ gia dụng. Có lần, ở phố Sinh Từ, Ngô Tất Tố đã bỏ tiền túi và bỏ công
ra để chạy lo cho một người bị nhà Đoan phạt tù rượu. Với mọi người, nhà
văn chúng ta đều có những lời nói thấm thía của chân tình.
Quyển Việc làng ra đời năm 1940. Nhưng có thể nói với tác giả đã viết
nhẩm từ lâu, trong những buổi nhàn đàm với anh em ở toà soạn tờ báo Hàng
Da. Nếu có ai cho rằng đó là một tập văn ký sự ghi lại những tệ tục ở nông
thôn, thì thật chưa hiểu được dụng ý của người viết. Mặc dù lời văn có khi
nặng tính chất khách quan của kẻ quan sát hiện thực, nhưng nên tìm ở trong
đó một tấm lòng nói thay cho nhiều tấm lòng.
Nhưng khi quyển Việc làng được ấn hành rồi thì Ngô Tất Tố cảm thấy
ngòi bút mình thật chưa làm tròn nhiệm vụ của một nhà văn, lương tâm của
những người nông dân lao động. Có những điều nên nói, có những điều đáng
nói, có những điều cần nói mà chưa nói được.
Một buổi trưa hè, Ngô Tất Tố từ nhà quê ra, cứ để cả khăn áo và đôi
giày trắng lấm bùn như thế mà nằm ngửa lên giường như có gì phải lo lắng
suy nghĩ. Một chốc, ông ngồi thẳng dậy cầm lấy điếu thuốc lào hút luôn mấy
lên và nói: "Như thế này thì chó đểu thật!". Tôi đã quen với câu nói mào đầu
thường lệ mà nhà văn hay dùng mỗi khi bắt đầu kể chuyện gì chướng lạ mới
thu nhặt được. Và Ngô Tất Tố kể cho tôi nghe câu chuyện một tên quan phủ
hạt Bắc Ninh toan giở trò ăn vụng của một người vú em. Câu chuyện đó cùng
với câu chuyện bán chó, thu nhặt được trong một chuyến đi "thực tế" trước
kia, làm nảy ra ở nhà văn chúng ta cái ý định viết một chuyện dài về đời sống
cơ cực của người nông dân Việt Nam. Quyển truyện lúc mới thành hình mang
tên Ông Nghị Quế, sau lấy tên là Chị Dậu, nhưng đến khi khám phá ra được
cuộc thám hiểu phiêu lưu của một "quan cụ" nào đó thì tác giả liền sang tên
cho nó là Tắt đèn, cái tên mà tác giả cho là rất thú vị.
Tác phẩm Tắt đèn ra đời trong những trường hợp như vậy. Gần hai
trăm năm sau Nguyễn Du, Ngô Tất Tố đã viết lại thiên Đoạn trường Tân thanh
đầy nước mắt và căm giận; viết để nói lên "chút nghĩa cũ càng" của mình đối
với người nông dân Việt Nam.
Nhưng còn với những con người khác?
Xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, nếu chỉ trông ở trên mặt
thì là một dòng sông nước lũ, dòng sông cuốn trôi theo đi từng từng lớp lớp,
những cỏ áy, gỗ mục những đống phân, những thây chó chết và mèo chết mà
mùi hôi thối làm gạt bầu không khí thị thành.
Một bà "mạng phụ" vào hầu tên thống sứ Saten bị người bồi "quan
thống" chơi nghịch thu mất quần, một viên tri phủ chuyên làm ma cô mà được
thăng chức, một tên tư sản đánh bẫy cho người thư ký của mình rơi vào tù tội
để cướp lấy vợ, một "vị” tổng đốc ngủ với con gái, một anh bồi bếp làm đến
chức tuần phủ, một chàng lái lợn không biết chữ mà đeo thẻ hàn lâm. Và còn
biết bao nhiêu người khác nữa theo Ngô Tất Tố "phải tạm gọi là người vì từ
điển Việt Nam thiếu chữ". Những tên đầu trâu mặt ngựa mà thay mặt dân,
những thằng đầu trộm đuôi cướp thì nói chuyện "khai trí tiến đức", những nhà
trí thức làm nghề đào mỏ, những gái đĩ ăn mừng sắc "tiết hạnh khả phong",
những thiếu nữ nề nếp làm tiền, những thanh niên đốt cháy trái tim cuộc đời
của mình trên ngọn đèn dầu lạc.
Trong đám những con người ấy, Gớt sẽ mất công đi tìm một "con
người".
Ngô Tất Tố thì nói: "Đồ vô liêm sỉ! Thối quá đi mất! Thật là đểu giả hết
chỗ nói!"
Người ta đã nói nhiều về Ngô Tất Tố, nhà văn, nhà tiểu thuyết; người ta
chưa nói mấy về Ngô Tất Tố, nhà báo.
Phải, Ngô Tất Tố trước hết là một nhà báo, một nhà báo cả những khi
viết tiểu thuyết, một nhà báo có biệt tài.
Nghề viết báo là một loại biệt của văn học, mà trong nghề đó thì có một
nhân vật đặc biệt làm một công việc đặc biệt.
Người viết xã luận, người viết phóng sự, truyện ngắn và tin tức, người
viết các bài điều tra, bình luận về khoa học, văn học, mỹ thuật đi ra chỗ khác
vẫn còn đất múa võ, nhưng con người ấy tách rời địa hạt tờ báo thì không
còn chỗ đứng. Con người ấy là con đẻ chính tông của nghề làm báo, còn
những người khác chẳng qua là khách nghỉ trọ qua đường. Những người này
có thể một sớm một chiều bỏ tờ báo ra đi, nhưng con người ấy nếu đi sang
một tờ báo khác thì có thể mang đi một ít linh hồn.
Vậy con người ấy là con người nào? - Đó là một loại người không
chiếm nhiều chỗ, không làm ồn ào, chỉ đi từ nhà ở tới toà soạn mà dám nói
chuyện năm châu bốn bể, chỉ có một ngòi bút và một lọ mực mà có tham
vọng đuổi bắt đàn bướm ngũ sắc là những khoảnh khắc để tuốt ra chút ít
phấn hờ là nghĩa lý của cuộc sống; một hạng người trở chứng khi cười khi
khóc, khi vui, khi buồn đều không phải lúc mà vui cười buồn khóc chẳng qua
chỉ để nói lại với người đời cuộc phiêu lưu lớn hàng ngày của nhân loại trên
trái đất mà thôi; nói tóm lại: một đứa con bất trị của cái xã hội tư sản phong
kiến, gái đĩ về già. Đó là nhà báo viết tạp văn, cái mà Âu Tây gọi là tiểu phẩm,
thời bình, một loại văn trên có nhiều nhà văn có tài như Lỗ Tấn chẳng hạn đã
xây dựng cả một sự nghiệp.
Tạp văn là một vũ khí đấu tranh trong xã hội có đấu tranh giai cấp. Một
bên là yêu cầu đấu tranh chống áp bức bóc lột không cho phép sáng tác trong
những điều kiện thời gian rộng rãi, một bên là tài năng hài hước, là nhiệt tình
xã hội của nhà văn, hai yếu tố khách quan và chủ quan ấy cộng lại làm nên
tạp văn.
Tạp văn là một lối văn đặc biệt. Nếu xương thịt của nó là sự việc hàng
ngày, thì tim óc của nó là tính khí của nhà văn, xu hướng của thời đại. Nhẹ
nhàng mà vẫn thâm thuý, thẳng thắn mà vẫn kín đáo, cứng rắn mà không làm
mất duyên dáng, nghiêm nghị mà không làm mất thân mật, bóng bẩy nhưng
vẫn rõ ràng như cục đất ném vào mặt, với một chút, nhưng chất phác, như
tinh nghịch, như dí dỏm, khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt, đó là tạp văn.
Ngô Tất Tố trước hết là một nhà viết tạp văn. Trong hơn mười năm trời,
giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, trên con đường từ Bắc vào Nam, từ Nam
ra Bắc, ông đã đăng rải rác ở một số lớn báo chí, những bài văn ngắn gọn,
phần nhiều có tính chất bút chiến. Ngày nay, điểm lại nội dung tư tưởng của
các bài văn đó, ta có thể nói rằng mặc dù thái độ chính trị của các tờ báo mà
ông cộng tác không nhất trí, những bài của ông viết ra thuỷ chung đều nhằm
một mục đích: đấu tranh chống cái xã hội thực dân phong kiến đang chà đạp
lên quyền sống của con người.
Khởi hành một buổi sáng từ chốn đồng quê u ám, nơi mà tình thương
yêu đã cột chặt trái tim của nhà văn vào số phận của người nông dân, Ngô
Tất Tố theo cái đà của nhiệt tình và tài năng đã dừng lại ở chỗ lấy những xấu
xa thối nát của xã hội làm đối tượng đấu tranh trên tờ báo.
Tình thương yêu của con người cùng khổ ở tác giả đã góp một biểu
hiện độc đáo: lòng căm ghét vô hạn áp bức bóc lột, căm ghét những cái gì
làm nhơ bẩn cuộc sống.
Ngô Tất Tố là một nhà báo bút chiến. Bút chiến với Ngô Tất Tố như
nước với cá. Chỉ trong bút chiến nhà văn mới phát huy được hết tài năng của
mình.
Không những hàng ngày, ông thường đi tìm đề tài bút chiến, mà còn
nhờ anh em tìm giúp. Có sự việc nào đáng công kích, có hạng người nào cần
phải "chửi" là ông xung phong nhận lấy trách nhiệm.
Vì thế một hôm, Vũ Trọng Phụng đã nói đùa: "Cái xã hội mũi lõ và áo
thụng xanh này nếu không có thì cũng phải tạo ra nó, nếu không thì Ngô Tất
Tố không có lý do để tồn tại".
Thật có như vậy. Nếu xã hội thực dân phong kiến để cho bao nhiêu tội
lỗi trôi đi mà không có một lời kết án, thì quả là một sự phi lý. Trong lịch sử
nhân loại, những lúc xã hội lâm vào cảnh tối tăm nhất, trong những thời kỳ
thịnh trị của phi nghĩa, ta vẫn thấy bóng dáng của chính nghĩa đứng lên sừng
sững ở phía chân trời như một thẩm phán để buộc tội. Đã có tiếng nói bất
chính, của gian tà, tất có tiếng nói của công lý, của lẽ phải. Tiếng nói trong
sạch của những tâm hồn trong sạch cất lên để biểu dương tất cả những cái gì
là trong sạch, là mới mẻ, là tiến bộ. Có như vậy mới hợp với đạo trời và lòng
người.
Đạo trời tức là quy luật của xã hội.
Lòng người là ý nguyện của quần chúng nhân dân.
Ngô Tất Tố trước chiến tranh thế giới thứ hai, một phần nào đã nói lên
tiếng nói của quần chúng lao động, tiếng nói bất khuất và không nhân
nhượng, tiếng nói căm thù và không tha thứ. Ngòi bút của Ngô Tất Tố đã
chích vào ung nhọt xã hội như một miếng sắt đỏ đánh dấu một kẻ bị chích
suốt cả cuộc đời.
Hơn mười năm qua, người chiến sĩ du kích đánh lẻ ấy đã một mình tả
xung hữu đột trên mặt trận văn hoá; và tuy có lần bị xây xát (hai lần bị kiện)
nhưng sau đó, tinh thần hăng hái chiến đấu lại chỉ thấy tăng thêm.
Vô phúc kẻ nào được nhà văn chú ý tới cứ gọi là nai lưng ra mà chịu
đòn, chịu đòn cho đến khi phải trầu cau đến tạ lỗi. Chính một ông đồng nghiệp
chủ báo nọ bị Ngô Tất Tố đánh không có đường chạy đã phải nhờ người đến
xin hộ. Cuộc bút chiến lớn nhất do Ngô Tất Tố đề xướng ra là giữa báo Phổ
thông và Ngọ báo, nó kéo dài đến mấy tháng. Rút cục Phổ thông thắng; và
Ngô Tất Tố viết bài Bình hà thành báo đại cáo.
Ngòi bút sắc bén của Ngô Tất Tố cho phép chôn sống kẻ địch ngay từ
đầu. Bàn về cuộc đua xe đạp của một số phụ nữ Hà Thành mặc quần soóc do
một tên ma cô tổ chức để làm đẹp mặt tên thống sứ Saten, Ngô Tất Tố sau
khi đã mừng các chị em đó được "quan thống biết đến", liền hạ một câu:
"Nhưng không biết các ông chồng ở nhà có đau lòng không?".
Bút chiến với một tờ báo khác, Ngô Tất Tố đã nghĩ ra được cái nhan đề
gợi hình này cho bài báo của mình: Ông chủ nhiệm X vừa chạy vừa ngoảnh
cổ lại, vừa ngoảnh cổ lại vừa chạy. Nghĩ được câu ấy, tác giả của nó rất lấy
làm thích thú, đưa cho tôi xem rồi phá lên cười: "Như thế này thì chúng nó
mọc lên mười sừng thì cũng phải câm ngay".
Rồi đến lượt Trần Bá Vinh, chủ nhiệm báo Sao Mai một tay tư sản sành
nghề làm tiền nhưng về đường "văn chương phú lục" thì cũng là quan võ làm
thơ mà thôi. Hồi gây chuyện với Ngô Tất Tố, Trần Bá Vinh có viết một bài
trong đó có một câu đại khái như sau: "Tôi thổ lộ với ông một điều...". Nói của
đáng tội câu văn chỉ là vô thưởng vô phạt mà thôi. Nhưng Ngô Tất Tố, trong
bút chiến, biết biến tất cả mọi vật thành vũ khí, liền đưa câu văn ấy ra phân
tích và kết án Trần Bá Vinh là người không có học. Rồi viết: "Nhưng cũng còn
may, chỉ mới thổ mà chưa tả, thì còn chữa được. Xin tiên sinh mau mau rước
thày mà đi học".
Cách đó ít lâu trong một khoá họp Đại hội đồng kinh tế và Tài chính
Đông Dương, viên toàn quyền Rôbanh có đề nghị tăng giá tem thư từ 5 xu lên
6 xu. Đề nghị không ai tán thành, ngay cả bọn thực dân dự buổi họp. Riêng
một mình Trần Bá Vinh bỏ phiếu ủng hộ. Cái tin ấy liền được Ngô Tất Tố chộp
lấy làm đề tài cho một bài báo "độc ác" có một. Nguyên thời thực dân, những
thư dán không đủ tem đều bị nhà bưu điện đóng lên cái dấu hình tam giác
trong đó có chữ T, nghĩa là thư phạt. Ngô Tất Tố lợi dụng cái đó để đưa ra
một đề nghị: từ nay, trên những thư không đủ tem, nhà bưu điện nên đóng
dấu tam giác trong đó nên có chữ T.B.V gọi là kỷ niệm công đức của một vị
dân biểu đã biết làm giàu cho ngân sách trên lưng của dân nghèo.
Người ta kể chuyện rằng Trần Bá Vinh, sau khi xem bài báo, rất là uất
ức đến nỗi suốt một đêm trằn trọc không ngủ được. Vốn có tính hay kiện cáo,
sáng hôm sau, hắn ta liền tới ngay bàn giấy viên án sát vốn là bạn tổ tôm
quen biết đã hỏi cách lôi cổ người thoá mạ mình ra toà. Nhưng viên án sát lại
là người có học ít nhiều nên sau khi suy nghĩ bèn trả lời một cách thất vọng:
- Không được: mặc dù nó xỏ ông đấy, nhưng đứng về luật pháp mà nói,
thì không có gì phạm pháp cả.
- Nhưng rõ ràng nó đã ngụ một ý xấu vào trong cái dấu tem phạt của
nhà bưu điện cơ mà!
- Ai bảo với ông Ngô Tất Tố là Hồ Xuân Hương? Ở đời này, tất cả cái
gì là tam giác không tất nhiên là xấu cả. Thôi đi, đã gần hai thứ tóc trên đầu
đừng gây chuyện với bọn nhà báo mà thêm dại.
Từ đấy, mặc Ngô Tất Tố nói gì thì nói, Trần Bá Vinh không dám hở
mồm.
Hồi ấy Ngô Tất Tố có lẽ chưa đọc sách báo của Đảng mấy, nhưng đã
có nhiều cảm tình với phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đang lên. Nhưng ở dưới
chế độ khắc nghiệt của thực đân, chẳng những không được tuyên truyền chủ
nghĩa cộng sản mà đến những tin tức về các cuộc biểu tình, đình công của
quần chúng cũng không được đăng. Lão Rơnê Cơrexắc, trưởng phòng kiểm
duyệt, một tên thực dân quỷ quái tinh ma, chẳng những hắn gạch bỏ một
cách không thương tiếc tất cả những tin tức có liên quan gần xa đến phong
trào mà ở chỗ những tin tức bị gạch đi như thế, hắn bắt phải kiếm những tin
tức khác thay vào, nhất thiết không để tờ báo có những khoảng trắng. Trong
điều kiện kiểm duyệt tai ác như vậy, khó lòng mà nói được gì muốn nói.
Thế mà Ngô Tất Tố đã nói: Ngô Tất Tố đã chửi vào mặt một tên phản
động.
Nguyên ở miền Trung hồi ấy có một "cụ nghè" nào đó có viết một bài
công kích cộng sản. Ngô Tất Tố xem bài ấy rồi lấy làm giận lắm, bèn tìm cách
sửa cho người viết một mẻ. Sau khi nghiên cứu tờ báo và tìm thấy một vài
câu văn bất thông. Ngô Tất Tố liền viết một bài, trong đó tác giả chỉ ra những
chỗ văn dốt, buộc tội "cụ thể" âm mưu phá hoại quốc văn và bôi nhọ đạo
Khổng; rồi ví "cụ nghè" như thầy đề trong chuyện tiếu lâm.
Nguyên trong tiếu lâm có thầy đề nọ được viên tri huyện cử đi tịch ký
nhà một người bị án. Thầy đề theo luật lệ lập biên bản ghi tất cả những tài
sản của nhà này. Còn lại một cái váy nâu đàn bà, thầy đề nghĩ mãi không biết
ghi vào biên bản chữ gì. Cuối cùng thầy nảy ra một ý: cái váy nâu ở địa
phương thầy, người ta gọi là cái sống nâu. Và thầy lại nghĩ rằng đó là một sự
đọc chệch của người ta, chính là cái "sống lâu" thì mới đúng. Thế là thầy ghi
vào biên bản: thọ nhất bức. Đến nỗi khi về huyện, viên tri huyện đọc biên bản
bóp trán nghĩ mãi không hiểu "thọ nhất bức" là cái quái gì.
Thế rồi Ngô Tất Tố kết luận rằng học lực của cụ nghè cũng xấp xỉ của
thầy đề.
Ngòi bút của Ngô Tất Tố không tha và không tha thứ bất kỳ kẻ nào đã
bị bắt quả tang đổ rác ra trong xã hội. Và nếu trong cái xã hội thực dân trước
cách mạng, ngòi bút ấy chưa có cái sức mạnh của một "đòn xoay chế độ" thì
trong một chừng mực nào, nó cũng đã làm cho người ta nhận thấy trước cái
vô đạo của bọn thống trị, cái đạo đức của nhân dân vẫn còn sống.
Vinh sự cho Ngô Tất Tố, vinh dự cho con người cầm bút, vinh sự cho
nhà báo đã biết đánh đổi cơm áo để lấy cái quyền viết theo chỉ thị của trái tim
mình.
Đọc văn Ngô Tất Tố khó mà nghĩ được đó là một nhà nho viết báo, đó
là ông "xứ Tố”, một người hay chữ, một thầy đồ chính công đã vài ba phen
liều chiếu đến trường ốc.
Vì ở Ngô Tất Tố, cái khăn đen áo the chỉ là cái vỏ ngoài che đậy một
tâm hồn mới mẻ.
Thật vậy, ông là một nhà nho nhưng lại không tin tưởng vào đạo
Khổng. Không cần phải có người tuyên truyền giác ngộ, tự mình ông sớm đã
giác ngộ cái lỗi thời của đạo Khổng. Vì thế mà ông đã viết cả một chuỗi bài
công kích Trần Trọng Kim về quyển Nho giáo. Cũng có những lúc ông đã đùa
với đạo Khổng; và có một lúc được tin cháu 72 đời của họ Khổng đi theo
Nhật, ông đã viết cả một bài nghiêm khắc lên án, trong đó bản thân Khổng Tử
cũng không tránh khỏi bị động chạm ít nhiều.
Một nhà nho ngoại đạo như anh em thường nói, nửa đùa, nửa thật.
Trước hết, Ngô Tất Tố có một lối viết mới, độc đáo nữa là khác, không
chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi thì đậm đà, khi
thì duyên dáng, nhưng đặc biệt là dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn
gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý nhị. Ông không từng đọc tiểu thuyết Âu
Tây mà quyển Tắt đèn nói rõ bút pháp của một nhà văn có nghệ thuật viết tiểu
thuyết khá điêu luyện. Những câu chuyện hàng ngày được tập trung dưới
những đề mục que biết như Gặp đâu nói đấy, không lẽ đừng, mang dấu ấn
của một tay viết tạp văn có tài.
Hình thức mới và nội dung cũng mới, Ngô Tất Tố đánh vào cái xấu xa
thối nát của xã hội đồng thời cũng chiến đấu cho những tư tưởng mới đang
nảy mầm: tự do, dân chủ, bình đẳng, lao động...
Lúc ông bước vào làng báo cũng chính là lúc Đảng ra đời. Nhưng ông
chỉ là người đứng xa xa để gián tiếp chịu ánh sáng của Đảng. Ông ít nghiên
cứu nên chưa rõ cách mạng. Nói thật, hồi ấy, ông còn thiếu khá nhiều để làm
một chiến sĩ cách mạng. Nhưng tôi cứ nghĩ rằng trong những giấc ngủ hiền
hậu của ông chắc chắn đã có lần đi qua cái mộng đẹp của ngày mai con
người tự tay xây dựng lấy thiên đường lạc quốc cho mình.
Nhưng để cái mới ra một bên, thì Ngô Tất Tố còn có gì là nhà nho nữa
không? - Có. Tôi muốn nói đến tính tình hào hiệp, phóng khoáng, không chịu
ràng buộc, ghét giả dối, khinh ti tiện, cái phong thái ung dung, lịch sự, cái tính
thích giao du, ham đời sống văn thơ đạo lý, trong những bước khó khăn túng
ngặt vẫn hết lòng với bạn hữu. Một đời làm báo của ông không chở tiền về
nhà tậu ruộng, tháng nào cũng lĩnh lương trước, nhưng với những anh em
"thất cơ lỡ vận" lại rất sẵn sàng đóng vai Bình Nguyên Quân. Hà Nội ngày
xưa có những nhà báo ngồi lên xe cao su để đi mượn tiền trả cho người kéo
xe: như thế gọi là cưỡi lên lưng hổ. Những anh em ấy đã từng chứng kiến
tấm lòng "hào hiệp" của nhà nho.
Tôi cũng muốn ghi lại đây chút ít gì tiêu biểu cho tấm lòng cương trực
của những nhà nho chân chính. Ngô Tất Tố là người có một ý kiến, một tấm
lòng và một khối óc chuyên nhất, thuỷ chung, kiên quyết bênh vực cái mình
tin là phải, đối với kẻ địch cũng như đối với bạn không nhân nhượng, không
thoa bóp, dù phải đổ vỡ cũng đành là đổ vỡ, nếu phải va chạm thì cứ việc va
chạm.
Với những tư tưởng tiến bộ, ông vẫn vướng mắc chút ít trong những
thành kiến cũ. Ví dụ, ông rất ghét thơ mới, vì ông tin như đanh đóng cột rằng
thơ mới cũng không phải là mới (đó chỉ là những từ khúc được quét lại bằng
một nước sơn) mà cũng không phải là thơ (thơ gì mà lại câu dài câu ngắn,
không theo niêm luật gì cả). Ngô Tất Tố quen thân với Hoài Thanh từ hồi báo
Phổ thông, nhưng ông đã đón quyển Thi nhân Việt Nam với tất cả sự bực
dọc: "Không ai ngờ con người như thế mà lại đi làm một việc như thế!". Sau
này, ông dịch Đường thi ra Việt văn cũng là có ngụ tâm sự ở trong: theo ông,
chỉ có Đường thi mới đáng gọi là thơ. Còn tất cả những gì khác thì chỉ nên gọi
bằng văn vần, cũng đã là quá lắm.
Quan hệ giữa Ngô Tất Tố và Tản Đà cũng có những lúc sóng gió (sóng
gió trong chiếu rượu mà thôi). Một lần, hồi ấy tác giả Khối tình con mới tái bản
An Nam tạp chí ở Hàng Bông, uống rượu với Ngô Tất Tố, nói rằng:
- Báo An Nam tạp chí lần này tái bản, mong chờ ông giúp cho một tay.
Ngô Tất Tố trả lời:
- Tôi sẽ xin viết giúp.
Tản Đà vui vẻ nói:
- Ông cứ việc giúp, tiền nhuận bút sẽ xin đưa lại tử tế.
Ngô Tất Tố khiêm tốn từ chối:
- Tôi viết giúp ông, chứ chỗ chúng mình, tiền nong làm gì!
Tản Đà (lúc này đã ngà ngà say):
- Ông không lấy tôi cũng cứ giả, đó là quyền của tôi.
Thế là hai ông cãi lộn nhau và cuộc rượu giải tán.
Lần khác nhân nói đến một truyện ngắn do tôi vừa mới dịch đăng của
một thi sĩ Sili, trong đó, tác giả kể chuyện một nhà thơ không được đời biết
đến và chết "như một con chó chết", Tản Đà tỏ ý không bằng lòng:
- Tại sao lại ví thi sĩ như chó được!
Ngô Tất Tố trả lời:
- Người ta có ví thi sĩ như chó thì oan cho chó chứ oan gì cho thi sĩ!
Thế là lại bắt đầu một cuộc cãi lộn thứ hai.
Nhưng một lần cả hai người uống rượu say rồi cùng nhau cất giọng
bình lại đoạn văn của Mạnh tử nói về người đại trượng phu: "Cư thiên hạ chi
quảng cư, hành thiên hạ chi đại đạo, lập thiên hạ vi chính vị, phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. Thứ chi vi đại trượng giả dã".
Lúc ấy, tôi phảng phất cảm thấy sống lại cái linh hồn thiên cổ của đạo
Nho.
... Biệt hiệu quen thuộc của ông là Thục Điểu. "Thục Điểu sào Nam
nhi".
Biệt hiệu ấy đủ nói lên tâm sự bình sinh của con người mang nó.
Ngô Tất Tố sinh ra khi thực dân Pháp vừa mới hoàn thành cuộc xâm
lăng Việt Nam, ông mất khi cuộc kháng chiến của dân tộc sắp kết thúc thắng
lợi. Ông lớn lên với thế kỷ XX, cuộc đời ông vắt ngang qua hai cuộc Thế giới
chiến tranh, biểu hiện chủ nghĩa đế quốc cùng đường tự huỷ hoại thân thể.
Ông bước vào đời giữa lúc chủ nghĩa thực dân cấu kết với chủ nghĩa phong
kiến sinh ra đứa con thiếu tháng giai cấp tư sản Việt Nam. Gần một nửa đời
người, ông được chứng kiến cuộc khiêu vũ dâm loạn và rùng rợn của ba
thành phần nói trên dưới sự điều khiển của đồng tiền. Bị bắt buộc sống trong
cái thế giới và cái xã hội không tình nghĩa ấy, trên đầu là một vòm trời trống
rỗng, dưới chân là một mặt đất điên đảo, cái vốn Nho học của ông không giúp
ông tìm được một chỗ đứng, cái nỗ lực chủ quan không làm cho ông nhận rõ
con đường đi. Và lòng yêu nước thương nòi bị đày đoạ, bản chất trung thực
của người trí thức Nho học thanh bần đã hướng ông về công việc hàng ngày
vạch mặt, tố cáo, lên án những con người mà sự có mặt trong xã hội là một
sự thoá mạ đối với tư cách con người.
Một ngày kia, có lẽ người ta sẽ nói nhiều hơn, nói rõ hơn về những
đóng góp của Ngô Tất Tố vào nền văn học Việt Nam; và bên cạnh những
đóng góp ấy, có thể người ta cũng nhắc đến những thiếu sót, những sai lầm,
những hạn chế nhất định của ông trên con đường sáng tác. (Vì ai mà có thể
tránh được những sai lầm, những thiếu sót trong khi mình cũng chỉ là một con
người mà thôi!). Nhưng điều mà không ai chối cãi được là một tấm nhiệt tình
đối với đất nước, đối với nhân dân, đối với nghệ thuật, trọn vẹn từ trước đến
sau.
(Tạp chí Văn nghệ, số 61, 6 - 1962)
NGÔ TẤT TỐ VÀ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HÔM NAYPHAN CỰ ĐỆ
Mỗi nhà văn chúng ta đến với văn học, đến với cách mạng bằng một
con đường riêng. Ngô Tất Tố thuộc thế hệ những nhà Nho cuối mùa như
Nguyễn Trọng Thuật, Mai Đăng Đệ, Phạm Quế Lâm, Nguyễn Khắc Hiếu...
những người đã chứng kiến cảnh chợ chiều của các nhà Nho cũng như cảnh
tiều tuỵ sa sút của một nền Hán học đã hơn nghìn năm rực rỡ. Thật là kỳ lạ
khi ta thấy từ điểm xuất phát đó, nhà nho nghèo yêu nước Ngô Tất Tố đã
phấn đấu để trở thành một nhà văn bạn đường của giai cấp công nhân trong
thời kỳ Mặt trận Dân chủ và về sau, một đảng viên cộng sản. Có thể nói, trong
quá trình "đổi mới tư duy", Ngô Tất Tố đã nêu một tấm gương sáng cho thế
hệ của mình. Tất nhiên quá trình diễn biến tư tưởng của Ngô Tất Tố cũng có
lúc đã in dấu vết của những tư tưởng Lương Khải Siêu, Khang Hữu, Vi, Hồ
Thích, đã chịu ảnh hưởng của Lưu Thoa (Rousseau), Mạnh - Đức - Tư - Cưu
(Montesquieu). Nhưng điều cần chú ý là ông đã thẳng thắn chỉ trích với phòng
trào "Âu hoá, vui vẻ trẻ trung" cũng như đã vạch mặt trái cái kiểu "đánh bài
Tây" bịp bợm của Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh. Trong không khí của thời
kỳ Mặt trận Dân chủ, ông đã tìm đọc tác phẩm của Lỗ Tấn, Quách Mạt
Nhược, Gorki và cuối cùng, ông đã tìm đến sách báo của Đảng, của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Trong những môn đệ của Khổng Mạnh, nhiều người ngơ
ngác tụt lại phía sau, nhưng Ngô Tất Tố đã phấn đấu vượt lên phía trước đuổi
kịp thế hệ trẻ và trở thành một trong những người tiến bộ nhất của lớp nhà
nho cuối mùa... Tuy là môn đệ của Khổng Mạnh, nhưng cũng giống như Lỗ
Tấn, nhiều lúc Ngô Tất Tố đã thẳng thắn phê phán giáo lý của các nho gia,
đặc biệt tỏ thái độ "bất kính" đối với cụ Khổng. Ngô Tất Tố đã vạch trần cái
chủ nghĩa trung quân mù quáng của Khổng Mạnh. Theo ông, Khổng Tử ít
nhiều đã được lý tưởng hoá, thần thánh hoá, được các thế hệ phong kiến
phương Đông sử dụng như một "tôn giáo để duy trì thể lực của mình". Ông
tán thành thái độ của Hồ Xuân Hương khi cho rằng: "Những thứ nghi lễ, chế
độ của những ông thánh, ông hiền đặt ra cho đàn bà, con gái rặt là những cái
xiềng xích, những cái đạo đức giả dối, lễ giáo bó buộc..." (Trong rừng nho).
Ngô Tất Tố cũng nhiều lần kêu gọi trở về cội nguồn dân tộc, trở về bản
sắc văn hoá Việt Nam. Điều đó theo ông là trở về cái kho tàng văn hoá dân
gian mạnh khoẻ và lạc quan, kế tục truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm
của dân tộc (Lịch sử Đề Thám, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ,
Vua Tây chúa Nguyễn). Điều đó hoàn toàn xa lạ với những phong trào mà
bọn thực dân phong kiến ra sức cổ vũ như phong trào phục cổ, bảo vệ quốc
hồn, quốc tuý, phong trào chấn hưng Phật giáo và truyền bá mê tín dị đoan,
phong trào khôi phục lại các thứ hư danh, ngôi thứ và mọi thứ hủ tục ở sau
luỹ tre xanh (Việc làng, Tập án cái đình). Trong khi một số nhà văn lãng mạn
đang ra sức tô son vẽ phấn cho chế độ khoa cử, biến chế độ phong kiến
thành thời đại hoàng kim của kẻ sĩ thì Lều chõng lại vẽ ra hình ảnh trường thi
dưới triều Nguyễn như một sân khấu rạp tuồng cho những ông "quan phường
chèo", "những ông nghè bằng giấy" múa may, quay cuồng, đồng thời cũng là
nơi diễn ra bao tấn kịch đau xót, thương tâm của những nhà nho suốt đời lấy
khoa cử làm con đường tiến thân.
Đối với cuộc sống, Ngô Tất Tố luôn luôn có một cái nhìn hiện thực tỉnh
táo, một thái độ dũng cảm, dám phanh phui mọi mâu thuẫn phức tạp, dám
vạch trần mọi mặt nạ giả dối, nhưng đồng thời cũng luôn bộc lộ một niềm tin
yêu nhân hậu và tha thiết vào bản chất tốt đẹp của con người, nhất là những
người lao động nghèo khổ. Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là một phòng triển
lãm những bức chân dung được phác thảo theo kiểu biếm hoạ của giai cấp
thống trị và những kiểu người điển hình trong xã hội cũ. Tuy nhiên đây không
phải là một bộ "văn tuyển chửi người" nhằm trả thù và thoá mạ cá nhân. Lý
lịch cá nhân của các vị tai to mặt lớn nhiều khi chúng ta không cần tra cứu,
chỉ biết đó là "những tài chủ, nghiệp chủ, điền chủ, cùng những danh công đại
thương", "những quan lại công chức người Pháp" giàu có phởn phơ trên cái
xứ "bờ xôi ruộng mật này"; đó là những người đóng vai trò ông chủ, từ chủ
hầm mỏ trở đi, phần nhiều là bậc "ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột", đó là
những hạng con buôn, "ngoài những kẻ buôn thuốc phiện lậu, buôn giấy bạc
giả, buôn dân, buôn nước, buôn thị trường, cũng có lắm kẻ nghĩ ra nghề buôn
mà đại phát tài"; đó là "một số rất lớn cụ lang, ông lang, chú lang, anh lang,
đều là tổ sư, thánh sư, tiên sư và kỹ sư của nghề bịp"; "dao cầu của mấy thầy
chém người như chém ngoé!" Qua tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, ta thấy
nhà văn có một thái độ phủ định khá mạnh mẽ đối với nhiều mặt cơ bản của
xã hội thực dân phong kiến. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo đó cũng tỏ ra đặc biệt
sắc xảo khi viết các thiên phóng sự Tập án cái đình, Việc làng, (1939 - 1940).
Một nhà Việt Nam học phương Tây cho rằng qua hai thiên phóng sự đó, Ngô
Tất Tố đã phê phán chủ nghĩa cái đình (dinguisme) tức cái tâm lý hiếu danh,
cái tâm lý xôi thịt ở chốn đình trung. "Hoàn toàn giống như Lỗ Tấn, bằng cách
của mình, Ngô Tất Tố viết nhật ký của người điên để chống lại bệnh điên tập
thể. cả hai đều chế giễu tinh thần dân tộc với hy vọng cứu dân tộc mình".
Đúng là Ngô Tất Tố có chế giễu cái tâm lý hiếu danh chạy theo xôi thịt ở chốn
đình trung. Nhưng ông không coi đó là bản chất của nông dân, càng không
xem đó là "tinh thần dân tộc". Với kiến thức uyên bác về sử học và xã hội học,
ông đã tìm hiểu "căn cước của cái đình" và chứng minh rằng việc giai cấp
thống trị chủ trương duy trì các hủ tục ở đó là cái "thuật ngu dân" rất thâm
hiểm. Nó làm cho một số người lao vào tranh cướp nhau một chỗ người ở
chốn đình trung, lấy đó làm lẽ sống cao nhất và tất cả đều quên mất cái sự
thật đau đớn, mình vẫn là thân nô lệ! Những phẩm chất tốt đẹp của nông dân
đã được Ngô Tất Tố thể hiện thành công trong một điển hình đẹp đẽ, sinh
động: chị Dậu đảm đang, chung thuỷ, giàu lòng hy sinh, giàu tinh thần lạc
quan, hiền lành yêu thương mọi người nhưng lúc cần có thể sống mái quyết
liệt với kẻ thù, đó là hình ảnh chân thật của người phụ nữ nông dân Việt Nam
thời Pháp thuộc.
Từ một người bạn đường của giai cấp nông dân, Ngô Tất Tố đã phấn
đấu trở thành một chiến sĩ trong hàng ngũ của Đảng (1948). Bốn năm sau khi
Ngô Tất Tố nằm xuống trên quê hương của Đề Thám (1954), nhà thơ Tố Hữu
đã nói đến những anh em Văn nghệ sĩ lớp trước với thái độ hết sức trân
trọng: "Chín năm kháng chiến đã làm lại cuộc đời của nhiều anh chị em...
thành người cách mạng, thành người cộng sản. Nhiều anh chị em đã đứng
trong hàng ngũ chiến đấu của Đảng. Một số đồng chí thân yêu đã anh dũng
hy sinh cho tổ quốc: Nam Cao, Trần Đăng, Tô Ngọc Vân, Ngô Tất Tố... sống
mãi trong lòng cách mạng".
(Trích sách Ngô Tất Tố với chúng ta.
NXB Hội nhà văn, H. 1993).
NHÀ NHO THỨC THỜI, NGÒI BÚT TÌNH CẢM NGÔ TẤT TỐVƯƠNG CHÍ NHÀN
Khả năng thích ứng
Mỗi khi đề cập đến thiên tiểu thuyết giàu chất tự truyện của Ngô Tất Tố
là cuốn Lều chõng, các nhà nghiên cứu văn học ở ta có thói quen đối lập nói
với Nhà nho, Bút nghiên. Trong khi Chu Thiên (tác giả Bút nghiên) thi vị hoá
chế độ thi cử, thì "Ngô Tất Tố phê phán nó một cách sắc xảo" (Từ điển văn
học). Ông "không ngại ngùng phanh phui ra trên mặt giấy tất cả những mặt
trái, những chuyện ti tiện thấp hèn của tầng lớp trí thức của một chế độ" (lời
giới thiệu Ngô Tât Tố tác phẩm, Tập I). Nhưng có lẽ không nên quên là cùng
với Nho giáo của Trần Trọng Kim, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, Lều
chõng từng được giải thưởng của Hội Alexandre de Rhodes, một hội nghiên
cứu có khuynh hướng khuyến khích phục cổ. Chỉ nhìn vào nhân vật chính của
Lều chõng là Đào Vân Hạc, người ta thấy tác giả gửi vào hết bao ưu ái. Ở
Đào Vân Hạc, như cô đúc tập trung mọi nét tài hoa mà những người xuất
thân chốn cửa Khổng sân Trình thường ngấm ngầm tự hào. Sự khuôn phép
của thi cử được miêu tả trong Lều chõng như một cái gì cực kỳ vô lý. Song,
dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố, nhân vật Đào Vân Hạc vẫn phóng túng trong
ăn nói, cư xử, vẫn đùa giỡn hồn nhiên với đám cô đầu Hà Nội; nói chung là
vẫn thanh thoát tự do trong cách sống được viết khi tác giả đã vào độ tuổi
chín chắn song Lều chõng lại có cái duyên riêng của tuổi trẻ, nó hé cho thấy
một phần cuộc đời tình cảm tự nhiên của tác giả. Giữa những dòng chữ,
người đọc không cần tinh ý lắm cũng đọc ra được nỗi ngây ngất của ông đầu
xứ trước quá khứ đẹp đẽ của mình, và có cơ sở để ngờ rằng mãi mãi về sau
ông còn nhấm nháp vẻ thi vị của nó một cách hào hứng.
Nhưng mặc dù cho bao người lưu luyến, Nho học ngày một đi vào tàn
lụi. Các khoa thi tiếp theo bị bãi bỏ, Ngô Tất Tố của chúng ta buộc phải đi vào
con đường vất bút lông đi, cầm lấy bút sắt. Theo lôgíc thông thường, hẳn một
người đã có lúc đánh cược cuộc đời mình vào sự Lều chõng thi cử, sẽ rất bỡ
ngỡ trước vận hội mới và sẽ để cho cuộc sống riêng của mình trôi qua trong
lúng túng, chán chường. Tính cách bảo thủ của các trí thức Nho học bấy lâu
vẫn được truyền tụng như một huyền thoại và giá có thêm một ông đầu xứ
bảo thủ nữa thì sự đời cũng chẳng làm ai ngạc nhiên! Song với Ngô Tất Tố,
mọi chuyện giản dị hơn nhiều. Ông có mặt ở một khu vực hết sức mới mẻ là
nghề "bán chữ", tức dùng ngòi bút để sinh sống. Trong hồi ký Bốn mươi năm
nói láo, Vũ Bằng, với tư cách một đồng nghiệp trẻ, từng cho thấy ở Ngô Tất
Tố còn nhiều chất thầy đồ cổ, thật thà như đếm, dễ bị đám trẻ lỡm đến như
thế nào! Có điều nghĩ kỹ lại, thấy đây chính là những chi tiết ghi nhận sự kiên
trì cùng là cái dẻo dai nhập cuộc, tức khả năng quyền biến để thích ứng với
hoàn cảnh của ông đầu xứ hôm qua. Từ nông thôn lên thành thị, từ cách sống
của một ông đồ, một thầy thuốc mô phạm nghiêm trang, chuyển sang cách
sống dông dài đàn đúm của đám ký giả tọc mạch đương thời, Ngô Tất Tố
luôn luôn vẫn còn là mình mà cũng đã tự khác mình khá nhiều. Hoá ra trong
hạt nhân triết lý của đạo Khổng vẫn có điểm tựa cho những người ham sống,
biết lựa chiều cuộc sống để tồn tại một cách hợp lý! về phần mình, khả năng
hoá thân liên tục đã cho phép Ngô Tất Tố có mặt trong những giai đoạn lịch
sử văn học khác nhau của nửa đầu thế kỷ, cả thời báo chí mới thành hình, cả
những năm 1932 - 1945 mà giờ đây, người ta gọi là cái thời tiền chiến huy
hoàng, cả những năm đầu của nền văn học cách mạng kháng chiến.
Tính cách chuyên nghiệp
Thòi tiền chiến, giữa giới viết văn với giới làm báo, hầu như chưa có
ranh giới rõ rệt. Các nhà văn không chỉ coi báo chí là chỗ ghé gẩm nhờ cậy
đăng bài trước khi in vào sách, mà trước tiên, họ đến với báo như một công
việc phải xúm vào làm cho nổi đình đám. Với các tờ báo nhận viết giúp, họ
sẵn sàng có mặt trong đủ loại bài vở khác nhau: viết tiểu thuyết để cắt ra
đăng làm nhiều kỳ; viết phóng sự và nhất là viết các bài vặt, để trêu chọc
thiên hạ gây sự với đám quan trường cùng đám trọc phú, hoặc cãi nhau với
các báo bạn.
Những bài báo nhỏ này - đội những cái tên ước lệ: Phiếm luận, Nhàn
đàm, Hài văn... và giờ đây được xếp chung vào một mục là Tiểu phẩm - Tiêu
huỷ một khối lượng giấy mực lớn lao và cũng bòn rút khá nhiều sức lực của
đám người viết nọ. Nhưng họ chấp nhận vì biết rằng trước tiên cầm bút là
một nghề khe khắt, đã làm là phải dấn tới. Ngô Tất Tố là một trường hợp như
thế. Ông viết nhanh, viết bạo, vừa có kiến thức, vừa có thực tế. Giống như
một cầu thủ bóng đá sẵn sàng đi với các huấn luyện viên khác nhau, và đá
được ở mọi vị trí, ông có mặt ở nhiều thể tài (từ tiểu phẩm đến phóng sự, từ
tiểu thuyết đến nghiên cứu, dịch thuật) và ngả nào cũng độc đáo, ở thể nào
cũng bộc lộ được bản sắc ngòi bút của mình. Tuyển tập hiện đang lưu hành
của Ngô Tất Tố có hai tập, trên một ngàn trang thì một phần ba là tiểu phẩm.
Song thỉnh thoảng, người ta vẫn đọc lại được, phần vì ở đó hiện lên cả cái
lỉnh kỉnh bất thành của báo chí đương thời, phần vì có những bài thuộc loại
tuyệt bút như Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập, kể chuyện
một người nông dân lấy... đất để sáng chế ra các món ăn như thế nào.
Ngòi bút tình cảm
"Ngô Tất Tố với chiếc áo the đã sờn, chiếc khăn xếp không có tuổi, cây
ô đen đen tương đối, đôi giày trăng trắng gọi là đủng đỉnh đi từ nhà quê ra
thành phố".
Một ký giả lâu năm cùng cụng đầu với Ngô Tất Tố trong nghề làm báo,
kể lại về ông như vậy. Có vẻ như ông không có tuổi. Ông đứng ngoài thời
gian, đứng ngoài mốt. Trong một xã hội đã an bài, ông dễ dàng lẫn đi, né
tránh, và để hết tâm sức vào công việc. Nếu như nhận xét này không đúng
với tính cách xông xáo trong trường văn trận bút của Ngô Tất Tố thì ít nhất nó
cũng đúng ở một điểm: trong văn chương, ông không thuộc loại người chăm
sóc đến hình thức và thích tìm tòi phương cách biểu hiện. Mải miết với những
sứ mệnh xã hội mà theo ông, ngòi bút phải đảm nhận - mà có lẽ, cũng là mải
miết với việc kiếm sống - ông không bao giờ ngả sang phía duy mỹ của sự
nghiệp sáng tác. Cách viết của ông đơn sơ chân thực, và trước tiên, đó là
cách viết tình cảm, cũng tức là một cách viết mực thước, cổ điển. Song cũng
chính vì vậy nó là một thứ văn chương thời nào người ta cũng đọc được.
Điều này thấy rõ nhất ở cuốn tiểu thuyết gắn liền với tên tuổi Ngô Tất
Tố, cuốn Tắt đèn.
Như người đồng nghiệp nọ đã kể, bao quanh chỗ làm việc của Ngô Tất
Tố ở Hà Nội thường khi là những người nông dân ở quê ra, kẻ đến nhờ một ít
chữ nghĩa văn chương trong các đơn từ lên quan, người khác đến vay vài
hào để mua mấy thứ đồ gia dụng. Khi đưa những người quen này trở thành
nhân vật tiểu thuyết, Ngô Tất Tố đã mang vào đấy nhiều xót xa thương cảm
của mình. Tắt đèn không chỉ là loại tiểu thuyết mà người ta cần đọc mỗi khi
muốn hình dung ra đời sống cùng cực ở nông thôn Việt Nam trước năm
1945. Tắt đèn còn là loại tiểu thuyết mà người đọc giàu tình cảm để ứa nước
mắt, do đó, là một phương tiện giáo dục khá hữu niệu.
(Tạp chí Văn học, số 1, 1994)
Phần 2. SỨC SỐNG CỦA MỘT VĂN NGIỆP LỚN, ĐA DẠNGNHÀ TIỂU THUYẾT, PHÓNG SỰ ĐẶC SẮC MỘT NHÀ VĂN
CỦA DÂN QUÊ NGÔ TẤT TỐ TRONG TẮT ĐÈN
TRẦN MINH TƯỚC
Viết đến đây, là tôi muốn bạn đọc được ngạc nhiên khi tôi nói đến một
ông đồ nho mà ở trong ông tôi thấy “sống” những phương pháp rất mới kia.
Tôi nói những phương pháp ấy nó “sống” là vì nó không còn là những điều
biện giải khô khan của luân lý, mà nó đã gắn luyện vào được cái nghệ thuật
uyển chuyển của tiểu thuyết gia.
Thế thì, chúng ta có ngạc nhiên không? Bởi vì ngọn bút của ông đồ nho
Ngô Tất Tố đáng lẽ là ngọn bút của cái thế hệ sản xuất những câu văn “điền
viên vui thú” kia; hoặc có muốn thiên về dân quê một cách tha thiết hơn, thì
bất quá và đáng lẽ ngọn bút ấy chỉ viết những bài có tiêu đề “cải lương hương
chính” mà mười lăm năm trước đây, chúng ta đã được đọc trên các báo.
Không, nhà Nho ấy đã vượt khỏi cả thế hệ của mình. Người môn đồ
của Khổng Mạnh này đã thở hít cái không khí xã hội của K. Marx như tất cả
những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu.
Để viết cho chúng ta quyển Tắt đèn!
Trong văn phẩm ấy, Ngô Tất Tố đã dùng được đắc sách cái phương
pháp khách quan để tả ra cho chúng ta biết rõ ràng những cảnh tượng nơi
hương ẩm, là một chỗ mà người ta nhờ ông, nhận thấy rất nhiều sự mâu
thuẫn và hủ nát. Ấy là một tổ chức mà trong đó bao giờ kẻ cùng dân cũng bị
đè nén bóc lột hơn hết. Vợ kẻ cùng đinh ở đây đã được đóng vai chính trong
truyện của tác giả (thật là mỉa mai), ở trên cái nền giai cấp hư nát: một bác
trọc phú, để tượng trưng cho cái xã hội bất lương; tất cả gồm thành một tổ
chức đẻ ra bởi cái chế độ vô nhân đạo.
Chúng ta thấy truyện Tắt đèn, kẻ cùng đinh (bác đĩ Dậu và vợ con bác)
là một nạn nhân đáng thương của chế độ, cái chế độ đó làm tiêu mất hẳn cái
nhận thức và quyền làm người. Bác đĩ Dậu hình như cho mình sống là phải đi
làm, là cơ cực, và để nộp thuế; và nếu không có đủ thuế nộp, thì người ta có
quyền hành hạ mình đến chết được. Người đàn bà khốn nạn, vợ bác đã khổ
sở vì món thuế của chồng, người sống, và món thuế của em chồng, người đã
chết. Chị đã bị đau đớn vì sự cơ cực của gia đình mình; sự đói khổ hàng ngày
không bằng cái cảnh “sẩy đàn tan nghé”; chồng vì thiếu thuế mà bị đánh gần
chết, con cũng vì cha thiếu thuế mà bị đem bán cho một nhà trọc phú bất
nhân, bán với một cái giá rẻ mạt quá giá trị của con vật (một đứa con gái bảy
tuổi với đàn chó giá cả thảy 2 đồng!).
Đứng trước cái thói tàn ác lang sói của kẻ thừa hành cai trị, người đàn
bà mất hết quyền sống ấy đã có lúc uất ức đến biết phản kháng. Nhưng khi
phản kháng thì bị chúng xách lên quan. Để nếm mùi ở tù, và để được một dịp
biết rằng: té ra chính bực “đèn trời” của dân mới lại càng giàu lòng “cẩu trệ”.
Thoát được thủ đoạn hãm hiếp của bực “cha mẹ dân” quý hoá ấy, chị lại còn
bị gạt đến một bực “cha mẹ dân” khác nữa. Vị này rất già. Nhưng đó không
phải là một lẽ để làm mất được chút đỉnh thú tính ở trong con người “thượng
lưu” sung sướng. Rồi một thủ đoạn hãm hiếp nữa suýt nữa lại xảy ra trên
mình vợ anh cùng đinh, xảy ra trong lúc “tắt đèn” - “nhà ngói cũng như nhà
tranh”, cái ông quan già ấy bảo thế!
Tắt đèn,! Một câu chuyện nó có thể căng thẳng mối bất bình của chúng
ta, từ đầu đến cuối. Căng thẳng không có chỗ nào chùng!
Bọn hào lý “xôi thịt” lúc nào cũng tìm dịp để rượu chè be bét, và để cãi
nhau, chửi nhau. Họ làm như thế, dường như đời sống họ tất nhiên phải thế.
Và “người ở chốn đình trung” phải là hống hách, giành nhau vì miếng thịt, và
khích bác nhau vì chỗ ngồi. Đó là những thói đáng khinh bỉ và đáng bất bình,
nhưng nó chỉ ở chỗ ý thức mà ra cả.
Là tay sai của một chế độ tàn ác, những tên lính lệ, lính cơ bất nhân
hưởng thụ một cách vô ý thức các bài học tham nhũng ở cửa quan cai trị.
Bác nhà giàu cũng vô ý thức mà tàn ác và chuộng rởm những cái hư
danh, những thứ “sản vật” của chế độ.
Tóm lại, những hạng người trên này đều vô ý thức mà phạm vào mọi
điều bất lương. Gây nên bọn ấy, ấy là cái chế độ; và chính kẻ này mới đáng
tội hơn hết. Cho nên chế độ ấy cần phải đổ, khi ta nghĩ đến sự cải thiện đời
sống dân quê.
Đọc Tắt đèn của nhà nho Ngô Tất Tố, tôi đã bất bình mà nghĩ như vậy.
Và đến đây, tôi chỉ đứng trên cái địa hạt xã hội mà viết bài sơ sài này.
Tôi chưa phê bình đến tài nghệ của tác giả. Để một bài sau, tôi sẽ nói
về cách kết cấu và cách hành văn trong cuốn tiểu thuyết ấy.
Là vì, với một văn phẩm giá trị như vậy, có nói đến hơn một lần cũng
không phải là quá đáng.
Báo Mới, số 4, ngày 15-6-1939
TẮT ĐÈN CỦA NGÔ TÂT TỐVŨ TRỌNG PHỤNG
Hiện thời, trong làng tiểu thuyết và trong công chúng ắt có nhiều người
đương đợi chờ một áng văn hoàn toàn thôn quê, không phải thứ chuyện ca
tụng những cái đẹp về cảnh đồng ruộng hay những thú vị của nghề nông, hay
mô tả những phong tục kỳ quái của những nơi hẻo lánh đối với văn minh và
khoa học mà thôi, nhưng mà thú chuyện có luận đề xã hội, mục dích là bênh
vực phái nhà nông và cái đại đa số dân cùng đinh của xã hội nữa, theo như
cái hiện trạng văn chương “vị nhân sinh” của Liên bang Xô Viết chẳng hạn...
Giữa lúc mục đại luận của phần đông các báo chí hoặc tả khuynh hoặc
trung lập thường để dành cho những vấn đề quanh cuộc đời cải thiện cái đời
sống đáng buồn của nông dân, thì kể về tiểu thuyết nó cũng chỉ là một thứ
hình thể của văn chiến đấu mà có lẽ lại công hiệu nhất nữa — ta phải chán
nản mà nhận đây rằng nó quả thật hãy còn vắng vẻ, đìu hiu, chỉ mới thấy có
quyển Tối tăm của Nhất Linh, quyển Bước đường cùng của Nguyễn Công
Hoan, thế thôi. Còn những thiên tiểu thuyết dài hoặc ngắn của những tác giả
khác đã thấy xuất hiện trên các báo, thiết tưởng chẳng đáng kể gì cho lắm, vì
lẽ những áng văn ấy không in thành sách, có lẽ cũng chỉ vì cái giá trị những
áng văn cũng chẳng to tát là bao.
Tại sao về tất cả mọi vấn đề, nào là tả lịch sử, tả phong tục, tả chân
cảnh của xã hội, nào là tả về ái tình, và những vấn đề phụ nữ như cuộc xung
đột mới cũ, mẹ chồng nàng dâu, dì ghẻ con chồng, chữ tiết, nền Âu hoá, nên
dung hoà mới cũ, vân vân, thì tiểu thuyết của ta cũng đã đủ mặt, có thể nói là
quá thừa nữa vì ta đã thấy có khi hai nhà văn tranh nhau một cái cốt truyện
cũng như ta đã thấy nhiều người viết đi viết lại những vấn đề mà thiên hạ đã
nói mãi rồi đến nỗi thành ra nhàm, vậy mà về loại truyện tả những nỗi khổ của
nông dân thì lại thiếu thốn đến như vậy, mặc lòng từ khi phong trào xã hội
tràn đến xứ này thì từ các nhà cầm quyền cho đến làng báo, người nào cũng
vẫn chỉ muốn tỏ rằng mình săn sóc đến người cày ruộng, nhất là bọn cùng
đinh. Tại sao lại có sự trái ngược đến thế?
Nghĩ kĩ ra, ta thấy cái lẽ người: là số người lưu tâm đến mọi điều cực
khổ của dân quê thì rất nhiều, song số người đủ tư cách viết nổi cho ra một
thiên tiểu thuyết về dân quê thì lại rất hiếm. Thật vậy, muốn có đủ tài liệu để
viết một truyện hoàn toàn phụng sự dân quê, ngoài những đức tính khác, lại
phải có cái từng trải này: được sống nhiều cái đời thôn quê. Sự từng trải ấy
đáng gọi là cái “có đủ thẩm quyền”, và sở dĩ làng văn ta ít ai đủ thẩm quyền,
ấy chỉ vì phần đông đã sống tại nơi thành thị ngay từ hồi ấu thơ. Cho nên lắm
khi ta thấy nhiều nhà văn có tên tuổi mà khi viết truyện về thôn quê thì lúng
túng, lờ mờ, ngây ngô, sai lầm, vô duyên. Biết được cho rõ cái thực của xã
hội nhà quê, ngoài sự được quả thật đã sống cho nhiều ở nhà quê, lại còn
phải có điều kiện tối cần này: là biết chữ Nho. Vì sao? Phàm đối với bất cứ
việc gì hệ trọng xảy ra ở nơi đồng ruộng, hoặc chôn đình trung, hoặc nơi công
đường, nếu ta không có Nho học thì không hiểu được. Vậy mà làng tiểu
thuyết của ta thì lại rất hiếm người có đủ chữ Nho! Dễ thường chỉ bởi thiếu
hai điều này, cho nên dẫu là Nhất Linh, dẫu là Nguyễn Công Hoan mặc lòng,
sách của hai ông này tuy vậy mà cũng chỉ đủ tả cái lòng thương đám dân quê
nghèo khổ mà thôi, chứ chưa tỏ được cái hiểu biết thấu triệt, tức là cái có đủ
thẩm quyền của hai ông, về cái xã hội cục kịch, hủ lậu quê mùa. Tôi nói thế là
để ghi lại hai điều kiện văn chương thôi chứ không có ý muốn giảm thanh thế
của hai nhà tiểu thuyết đã nổi tiếng ấy.
Nhưng nay, Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã ra đời. Tôi dám chắc rằng các
nhà phê bình chân chính sẽ đồng ý với tôi mà công nhận rằng cái áng văn
chương mà thiên hạ đương đợi ấy thì đây! Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết có
luận đề xã hội - điều ấy, cố nhiên - hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn
có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy, mà lại của một tác giả đã được
cái may hơn nhiều nhà văn khác là đã được sống nhiều ở nơi thôn quê, cho
nên có đủ thẩm quyền!
Ngô Tất Tố là một nhà báo về phái Nho học, và là một tay ngôn luận
xuất sắc trong đám nhà Nho, ngang hàng với Phan Khôi. Làng báo Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ cũng như độc giả, hẳn không ai mà lại không biết danh
tiếng người ra đời từ hồi thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu chủ trương An Nam tạp chí,
và đã nhiều bài đại luận, khảo cứu, bút chiến, phê bình, nhiều truyện lịch sử
rất có giá trị, trong nhiều tuần báo và tạp chí, cả Nam lẫn Bắc. Với cái sự
được đời hoan nghênh ấy, Ngô Tất Tố chẳng cần ai giới thiệu nữa, nếu ta chỉ
kể trong phạm vi ngôn luận.
Nhưng, nay cho dầu cái nhìn bằng hữu của chúng tôi đã khiến cho tôi
chẳng còn được sốt sắng cho lắm để giới thiệu Ngô quân với quốc dân, vậy
mà tôi cũng cứ phải viết mấy lời này, ấy là vì bạn tôi từ làng báo mà mới bước
vào làng tiểu thuyết, và Tắt đèn là áng văn đầu tiên của bạn, và cũng là áng
văn mới mẻ nhất về loại văn chương xã hội ngày nay nữa.
Trái hẳn với đa số các nhà viết báo chỉ có Nho học thường ra thì càng
về già cố nhiên càng là héo hắt, cùn mòn, viết dở thì phần nhiều mà viết cho
nghe được thì cũng là may mà thôi, bạn Ngô Tất Tố hình như lại khởi sắc
thêm nữa, cho dầu là bạn vào ngay hạt tiểu thuyết mà nhiều người có thể yên
trí rằng không phải chỗ của bạn, vì nó chỉ là địa hạt của bọn trẻ tuổi và có
Pháp học.
Thật thế, đọc quyển Tắt đèn, những độc giả khó tính cũng sẽ phải chịu
rằng óc quan sát của Ngô Tất Tố về những cảnh làm ruộng, thu thuế, chè
chén xôi thịt, hà lạm, ức hiếp, bán vợ đợ con của đám dân quê, quả là một
thứ óc quan sát rất tinh tường, rất chu đáo; cho đến cách hành văn nữa cũng
là mới mẻ, sáng sủa, tưởng chừng như chỉ có phái nhà văn thuộc Pháp học
thì mới có thể linh lợi và phô diễn nổi một cách linh hoạt như thế. Cái nghệ
thuật của một nhà văn trên bốn chục tuổi, thuộc phái cổ mà lại chỉ có Nho học
thôi, mà được thế này, thiết tưởng là rất có thể làm cho chúng ta phải thẹn
cho cái trẻ trung sung sức của chúng ta. Bạn Ngô Tất Tố đã viết được một
thiên Việt tác hoàn toàn phụng sự dân quê, một việc mà phái trẻ chúng ta
phải cho là rất mới mẻ, cái đó đã đành. Nhưng còn điều này mới thật là cái
vinh dự cực điểm cho bạn, nghĩa là trong tiểu thuyết Tắt đèn, những vai trò
chính đều không thuộc vào hạng người trí thức. Bạn đã hoàn toàn đứng vào
vị trí khách quan, mà câu chuyện bạn kể cũng đủ cảm động, cũng khiến
người đọc phải có những tư tưởng cải tạo xã hội hoặc là những ý kiến phê
bình sự vật, in như trong những tiểu thuyết mà vai trò chính là người trí thức,
nhờ đó mà các tác giả ám thị cho độc giả phải đồng ý với mình để giấu giếm
cái địa vị chủ quan của mình cho bớt rõ rệt đi.
Nếu độc giả không quên rằng trong tuần báo Les Nouvelles Lettéraires
bên Pháp, năm 1938, văn hào J.Romains đã phải than phiền về trình độ tiểu
thuyết xã hội của Pháp sẽ còn đi kém văn chương cách mệnh của Nga Xô
viết, ấy là chỉ vì các nhà văn sĩ Pháp phần đông hãy còn theo khuôn sáo cũ,
bao giờ cũng phải dùng đến những vai trò chính có tri thức để phô diễn cho rõ
những tình cảm và biệt kiến của mình, trong khi các nhà văn sĩ Nga đã tiến
lên một bậc cao hơn nữa, nghĩa là chỉ viết truyện về những người thô lỗ,
những người nhà quê, ít học, chất phác, quê mùa, giản dị mà thôi; nếu các
độc giả vẫn nhớ rằng đến văn chương Pháp cận kim, mà còn bị kêu ca là
thấp kém như thế, thì các độc giả sẽ tin rằng mấy lời giới thiệu này chỉ là công
bình thôi, chứ không phải là để tâng bốc bạn hữu.
Tác giả Tắt đèn tuy chỉ có Nho học thôi, nhưng chẳng vì vậy mà kém
bọn văn sĩ có Tây học, vì bạn đã chịu khó tìm tòi học thêm, và vì lẽ cái thế
giới Tây phương chẳng phải là đóng cửa hẳn với bọn nhà Nho, cho nên Ngô
Tất Tố đã được đọc cả sách Mácxim Gorki qua những bản văn dịch của Tàu.
Âu Tắt đèn cũng là một phần thưởng xác đáng cho người hiếu học ấy.
Báo Thời vụ, số 100, ngày 31- 1-1939
TẮT ĐÈN - TIỂU THUYẾT CỦA NGÔ TÂT TỐPHÚ HƯƠNG
Phong trào viết tiểu thuyết từ năm sáu năm lại đây đã lan rộng. Những
tác phẩm có giá trị hoặc ít hoặc nhiều đã thấy nhan nhản trong kho tiểu thuyết
Việt Nam. Nhưng tìm cho được những cuốn tả rõ cảnh thôn quê với mọi điều
khuất khúc của nó thật là hiếm.
Sau luỹ tre xanh, những sự tàn bạo ghê góm, những chuyện hà lạm
hèn hạ, những cảnh đói nghèo tai hại là những trò cơm bữa... các tiểu thuyết
gia nào có mấy ai chú ý!
Vừa rồi ông Ngô Tất Tố đã làm một điều mà phần đông văn sĩ ta không
để mắt tới. Ông đã làm trong cuốn Tắt đèn của ông và ông đã thành công một
cách vẻ vang hết sức.
Có gì nguy hiểm, khổ sở cho dân quê bằng việc chạy thuế! Phải bán vợ
đợ con, phải đánh đập tàn nhẫn, phải nhịn đói nhịn khát,... chỉ vì miếng “bài
chỉ” kia! Trong lúc như thế, anh cùng gia đình anh phải trải qua trăm sự đày
đọa; nhưng nhờ đó lắm hạng người khác được ung dung, được no say be
bét, được tha hồ đục khoét.
Dậu, anh dân cày nghèo kiệt xác, đau yếu, chạy vạy đã đủ đường,
nhưng rốt cuộc không tìm đâu ra tiền thuế! Anh bị đánh trói, bị giam đói, đến
nỗi vợ anh phải đem con đi bán để nộp thuế cho anh. Nhưng khốn nạn! Đứa
con chỉ đáng giá một đồng, chị Dậu phải bán luôn cả bầy chó để đủ tiền nộp
thuế cho chồng. Mà đã yên đâu!
Anh Dậu còn phải chịu thuế cho đứa em trai đã mất, vì theo lời bọn
cường hào: “Chết cũng không trốn được sưu nhà nước! Là vì thằng em... mới
chết tháng giêng An Nam mà sổ “thông quy” của làng đã làm từ đầu năm
Tây...”.
Thế là chị Dậu phải lo chạy. Nhưng bọn cường hào, lính phủ cứ giở
thói hành hung. Quan “phụ mẫu” không xét lại bắt giam chị... chỉ vì say đắm
nhất thời cái nhan sắc óng ả, nuột nà, tỏ vẻ cầu Lim, đình cẩm của chị.
Một phen khiếp hãi, chị lại bán thân đi ở vú cho “quan cụ” để vắt sữa
hầu “cố” (mị quan tổng đốc). Con chị phải gửi cho kẻ khác nuôi. Nhưng số
long đong, chị lại gặp phải một lão “dê xồm” nữa...
Cốt truyện của Tắt đèn rất gần với sự thật. Những cảng tượng như thế
hoặc gần như thế, luôn luôn xảy ra ở thôn quê xứ ta. Đọc ông Ngô Tất Tố,
người ta phải khâm phục sự quan sát tường tận, kỹ càng của ông. Mỗi lúc
ông tả những nhân vật sau lũy tre xanh, y như ta thấy ngay được trước mắt.
Còn câu nào để tả rõ sự hống hách, lạm quyền, đầu cơ của bọn cường
hào bằng câu nói của tên lý trưởng (xã trưởng):
“...Chúng tôi làm vua, làm việc, quanh năm đầu chày đít thớt, chỉ có
những lúc “hồng thủy chướng giật” và những khi “sưu thuế giới kỳ” như thế
này thì mới có quyền. Tha hồ đánh, tha hồ trói, trai làng thằng nào bướng
bỉnh... đánh chết vô tội vạ”.
Bởi thế, cái giá trị con người ở nơi thôn dã nhiều khi thua súc vật.
Một đứa bé chưa hiểu rõ thân phận của mình, lại “dám cả gan” không
ăn cơm thừa của chó, thì một vị dân biểu nhà giàu, có thể “hầm hầm nét mặt”
quát mắng: “Mày không ăn thừa cơm chó phải không?”
Và những khi chồng bị trói ở đình làng, vợ phải đem con và chó đi bán
để kiếm tiền nộp thuế, cái nhà tranh xiêu vẹo chỉ còn hai đứa trẻ lăn lộn với
nhau đến nỗi:
“Đôi mắt nó mọng và đỏ như đôi quả nhót. Mồm mép, chân tay, lưng
bụng, cổ áo của nó bê bết một lượt cứt với nước đái, đất lầm hoà nhau”.
Ghê gớm quá! Thảm hại quá! Nhưng tất cả điều đó không hãm chân sự
thúc thuế. Nó cay nghiệt, độc ác chừng nào:
“Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ thì ông sẽ dỡ cả nhà mày
đi, chửi mắng mà thôi à!”.
Tuy vậy đã là người, dẫu là đàn bà nhà quê đi nữa, cũng có lúc không
thể đè nén đối với trước những sự tàn bạo, sự căm tức của lũ lộng quyền, họ
đã mất hết cả sợ sệt, họ liều lĩnh:
“Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu
được...”
Nhưng nào có bị tù! Quan phủ chỉ “kêu án” chị bằng cách nắm tay chị,
lôi lại và ngọt ngào:
“Hãy vào giường này đã... mày đánh lính trong khi làm việc phận sự, tội
nặng lắm.... Vào đây.... rồi tao châm chước đi cho...”
Kể làm sao hết được những câu nói có giá trị, mỗi một câu đủ lột trần
được tâm lý của một hạng người ở sau luỹ tre xanh. Ông Ngô Tất Tố đã khéo
làm cho người đọc trông thấy những cảnh đau khổ bất bình đã xảy ra với một
lối văn rõ rệt, giản dị, rất linh hoạt. Ông làm cho a hồi hộp, căm tức, thương
hại, có lúc sung sướng nữa vì người đàn bà bị lắm nỗi áp bức quá đã liều
mạng:
“Rồi chị túm lấy cổ áo hắn (cai lệ) ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh
chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn
ngã chổng quèo trên mặt đất, miệng vẫn lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu
sưu”.
....Nhưng đó không phải là đặc sắc duy nhất của ông Tố. Nghệ thuật tả
cảnh của ông đã đạt đến một trình độ khá cao, có thể cho phép ta đặt ông đặt
ngang hàng với các nhà văn sĩ trong Tự lực văn đoàn về mặt ấy. Những câu
tả cảnh thân tình rất nhiều. Ở đây chỉ đơn cử ra một câu cũng đủ:
“Vừng trăng thăm thẳm từ trên đỉnh đầu chiếu xuống.
Bầu trời trong vắt như một khối thuỷ tinh. Gió nồm từ các ngọn cây đưa
lại hiu hiu. Bóng lá tre in dưới sân rêu, luôn luôn lay động như đám bèo nổi
trôi trên mặt sông”.
Người đọc không ngạc nhiên khi rõ ra rằng ông Ngô Tất Tố là một nhà
Nho học chuyên viết báo từ trước lại giờ, đã từ địa hạt báo giới nhảy sang địa
hạt tiểu thuyết, mà Tắt đèn lại là tác phẩm đầu tiên của ông! Ông Tố đã khiến
cho bọn thanh niên Tây học phải ghen tị cái tài của ông, vì “địa hạt tiểu thuyết
phần nhiều chỉ là địa hạt của bọn trẻ tuổi và có Pháp học” như nhà văn Vũ
Trọng Phụng đã nói trong bài tựa Tắt đèn.
Nhưng nếu bảo rằng: Tắt đèn là một “thiên kiệt tác” thì có hơi quá.
Nghệ thuật của ông Tố còn có chỗ đáng chỉ trích.
Như trên đã nói, ông Tố là một nhà Nho học mới đi qua địa hạt tiểu
thuyết lần đầu. Vì thế ông chưa thoát khỏi di tích Hán học. Chuyện ông kể
theo lối Á Đông hơn là theo lối Tây Âu, do đó có chia ra từng chương một,
nhưng nó đi luôn một mạch từ đầu đến cuối, chuyện nọ liên tiếp chuyện kia,
giá bỏ lối chia chương cũng vô hại.
Rõ rệt hơn nữa là trong mỗi chương hễ muốn kể chuyện gì là tác giả
thường bài trí cảnh vật quanh đó trước đã rồi mới đi sâu vào chuyện. Lối kể
ấy có vẻ kinh điển như một bài thơ thất ngôn bát cú, nó mất vẻ linh động của
câu chuyện mà đồng thời nó không khêu gợi tính hiếu kỳ của người đọc.
Vả lại trong Tắt đèn hình như tác giả không nỡ để người đàn bà bị ô
nhục: hai lần bị lôi kéo, hai lần chạy thoát được. Người ta sẽ nói ông Tố “giữ
trinh” cho nhân vật của ông quá, mà chính là đặc điểm của phái Nho học xưa
nay. Họ đã bị luân lý Nho giáo ảnh hưởng nhiều nên họ muốn cho câu chuyện
được trong sạch. Nếu gặp phải một văn sĩ Tây học khác, có lẽ câu chuyện sẽ
được kết cấu một cách đột ngột hơn, người đọc sẽ không hiểu thân “chị Dậu”
trong bóng tối sẽ ra thế nào.
Và muốn phê bình được đầy đủ, tôi cũng xin nhắc luôn rằng tác giả
cuốn Tắt đèn đã dùng một tiêu đề “tối tăm” không xứng đáng với giá trị, với
nội dung cuốn truyện.
Những khuyết điểm ít nhiều tôi vừa kể trên, không thể xóa nhòa giá trị
đặc biệt của cuốn Tắt đèn. Tác phẩm ấy đáng cho tất cả mọi người không
hiểu rõ về thôn quê đọc. Nó đã tố cáo sự bất công lạm quyền, đau đớn, đói
nghèo mà hạng dân ở nơi vùng lầy nước đọng hiện đang trải qua. Nó đã đem
phô bày ra ánh sáng một vấn đề tối quan trọng trong lúc này:
“Làm sao để cải thiện đời sống tối tăm của dân quê?”.
Báo Đông phương số 10, ngày 1-9-1939
ĐỌC TẮT ĐÈN CỦA NGÔ TÂT TỐNGUYỄN CÔNG HOAN
Tôi đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, lần đầu tiên, từ năm 1939, khi cuốn
tiểu thuyết ấy mới xuất bản.
Ngày ấy, vì lập trường chính trị chưa được giáo dục nên tôi mới chỉ biết
thích truyện ấy vì nó hay, gợi được mối thương tâm của tôi. Tôi còn phục Ngô
Tất Tố ở chỗ ông là nhà Nho, không biết một tiếng Pháp nào, mà câu chuyện,
từ lối trình bày, tả cảnh, cho đến cách hành văn, thật là mới mẻ — ngày ấy,
chúng tôi gọi là “Tây”, là “Âu hoá”.
Năm nay, Nhà xuất bản Văn nghệ tái bản cuốn Tắt đèn. Tôi đọc lại.
Ngoài những điểm như tôi đã thấy trước kia, tôi còn nhận ra rằng không phải
cuốn Tắt đèn chỉ gợi mối thương tâm của độc giả đối với nông dân, mà nó
còn gợi mối căm thù của độc giả đối với đế quốc và phong kiến. Hơn nữa
trong hoàn cảnh trước Đại chiến thứ hai Ngô Tất Tố đã nhìn rõ thực tế ở nông
thôn, nêu vấn đề nông dân, ông đã sáng suốt và làm một việc khác thường.
Trước đại chiến thứ hai, Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở bên Pháp.
Ở Đông Dương, một số đảng viên Đảng Cộng sản bị giam hãm, nay ra khỏi
nhà tù. Anh em tiếp tục hoạt động cho cách mạng. Bọn cầm quyền thực dân
ở Đông Dương run sợ trước phong trào đấu tranh của quần chúng, bèn nghĩ
cách đối phó.
Muốn đánh lạc hướng của nhân dân, chúng gây một phong trào trụy
lạc, hòng đầu độc một số thanh niên con nhà tư sản ở thành thị. Tên thống sứ
Saten Bắc Kỳ, cáo già và dê già, có một chính sách nịnh dân để ru ngủ một
cách rất nguy hiểm. Nó làm ra bộ bình dân. Ở Hà Nội, nó đi phố, không dùng
ôtô, thường mặc quần soóc, để đầu trần, tay phe phẩy chiếc quạt giấy già một
thước. Nó làm ra bộ thần dân. Đi thôn quê, nó ngồi xổm ở chợ, ăn củ khoai
lang luộc, vỗ vai anh lái đò. Tất cả những cử chỉ đẹp ấy - một đời nó chỉ làm
một lần - đều được phóng viên nhiếp ảnh riêng của nó và phóng viên các báo
hàng ngày đi theo, ghi lại, quảng cáo cho nó.
Nó gây phong trào thể thao để thu hút thanh niên. Không một tỉnh lỵ
nào, không thị trấn nào không đẻ ra một sân vận động. Sân vận động là ruộng
của nông dân, phải vì việc “nghĩa” mà bán rẻ cho bọn quan lại có quyền sở
hữu - hội thể dục địa phương chỉ có quyền sử dụng - nhiều sân vận động lại
mang tên Saten. Tên thống sứ đến thành, chễm chệ ngồi trên ghế bành như
cái ngai, dưới bốn chiếc lọng vàng và trước bộ hương án sơn son thờ thần.
Trước sự kính cẩn bắt buộc của nhân dân, nó ăn mặc như đồ đểu. Chiếc áo
sơ mi cụt tay và cái quần cụt ống của nó để hở màu da say rượu của nó xồm
xồm những lông. Không cuộc khánh thành nào là nó không lao đến ở bên
phải và bên trái nó hai con mụ nửa gái điếm, mặt trắng như mặt hình nhân,
môi đỏ như tĩ gà. Nó nhồm nhoàm ăn hoa quả, mắt hau háu vào những cặp
đùi non trắng nõn của những cô gái biểu diễn khúc côn cầu.
Không năm nào nó không mở ra hai ba cuộc chợ phiên, để nam thanh
niên đưa nhau vào tròng trụy lạc và để bọn địa chủ tư sản sát phạt nhau trong
các vòng xóc đĩa công khai.
Việc hủ hoá được đề cao và thi vị hoá. Trong các thành phố, mở nhan
nhản những tiệm nhảy và tiệm hút. Rất nhiều học sinh mới độ tuổi 17, 18 tuổi
nói dối cha mẹ là đi nhà trường, nhưng kẹp sách vào cạp quần, rủ nhau nằm
cạnh bàn đèn để tán với nhau, học nhau những kinh nghiệm chim gái.
Có những thiếu nữ, tóc còn để xõa sau vai, mà đã mắc bệnh tình.
Trong giới quan lại, việc hiến vợ con lên quan trên trở nên một vinh dự đáng
khoe khoang.
Sống trong xã hội dâm ô nhục dục, ngòi bút bị dùng để đánh đĩ.
Hưởng ứng và cũng để phụng sự phong trào trụy lạc do tên Saten gây
ra, các sách báo lãng mạn, các báo khiêu dâm thi nhau ra đời. Trong các
sách báo ấy, thảng hoặc cũng có đoạn nói về nông thôn, thì lại toàn những
cảnh, những việc cố ý hoặc vô tình che đậy, xuyên tạc sự thực. Người ta lấy
văn chương và kỹ thuật ra để tô điểm vẻ đẹp ở nông thôn, nào là tia khói lam
ủ ấp trên mái xám trong buổi chiều hồng, nào là cánh đồng như tấm thảm
nhung xanh, lúa rập rờn trước gió như gợn sóng. Nhưng người ta không nói
dưới mái khói ấy, có ai ở, sống ra làm sao. Người ta cũng không nói cái thảm
nhung xanh, ai làm cho nó mơn mởn, và rồi ai hưởng, khi màu xanh ấy
chuyển thành màu vàng, trĩu ngọn.
Nếu người ta có nói đến con người ở nông dân, thì lại chỉ là những
“ông chủ đồn điền” có nhà lầu, có ôtô, có kèn hát để nhảy đầm với bạn. “Ông
chủ” ấy, tính hạnh rất tốt, rất thương người nghèo, muốn nâng cao đời sống
của điền tốt. Mà điền tốt, dưới ngòi bút của họ, thì là những người rất hiền
lành, rất yêu mến và kính phục ông chủ tử tế.
Trong khi cả xã hội bị xô đẩy xuống dốc, trong khi người ta đương quen
nhìn son phấn, lụa là, và trong khi người ta đương thích đọc truyện sa đọa,
nói chuyện sa đọa, thì Ngô Tất Tố không a dua hoàn cảnh, không chiều sở
thích chung. Ông cho ra cuốn Tắt đèn. Có thể nói là Ngô Tất Tố đã mạnh dạn
làm trái tai trái mắt mọi người bằng một câu chuyện có vẻ trái mùa. Vì ông
trình bày giữa cái xã hội xa hoa đài điếm chuyện khổ sở của một người nông
dân gày gò, đen đủi, ốm yếu, rách rưới, nghèo nàn.
Vì cuốn Tắt đèn thức tỉnh độc giả nhìn thấy sự thực, nó có thể ví như
bông sen, tuy mọc trong bùn tanh nhơ, giữa những bè ngổ, bè dứa, bè bèo
Nhật Bản đương bị luồng nước lôi cuốn, thế mà bông sen ấy vẫn đứng vươn
cao mình, trong trắng và thơm ngát.
Tắt đèn là một cuốn truyện dài, chỉ tả một cảnh khổ của một người
nông dân phải đóng sưu thuế. Nhưng nó tiêu biểu cho hàng vạn, hàng triệu
cảnh khổ khác của hàng vạn, hàng triệu nông dân khác sống dưới chế độ
phong kiến và đế quốc tàn bạo.
Anh Nguyễn Văn Dậu, một cố nông, trong khi ốm thì bị bọn hương lý
đến thúc thuế. Không có tiền nộp, anh phải trói, giải ra đình và bị đánh đập
tàn nhẫn. Ở đây, ta thấy bọn cường hào như đàn giòi xúm quanh anh Dậu
hòng hút máu mủ anh. Chị Dậu thương chồng, lấy hai đồng bạc - người một
đồng, chó một đồng. Tên địa chủ làm văn tự, viết là vay đôi hoa tai vàng giá
hai mươi đồng. Nhưng đến khi nộp sưu, thì bọn phần thu trừ vào suất của em
anh Dậu mới chết hồi cuối năm ngoái, sau khi làng trình sổ thuế.
Tên tri huyện về đốc thuế, khám phá ra bọn hương lý là bậy, bèn lấy cớ
để xoay tiền. Nó thấy chị Dậu có nhan sắc, lại bắt chị lên huyện để hiếp.
Nhưng chị đã trốn thoát được tay nó. Muốn có tiền nộp đủ sưu để chồng khỏi
bị đánh đập, cùm kẹp, chị đành bỏ con măng sữa ở nhà, đi ở vú em cho bố
một tên tuần phủ bú, vì lão già đã rụng hết răng. Thằng cụ cố tuy kề miệng lỗ,
nhưng không bỏ được thói dâm ô, một đêm nó lần đến chỗ chị Dậu, ôm lấy
chị, định dối già một chuyến. Nhưng chị lại chạy thoát.
Cuốn Tắt đèn là một cuốn phim chiếu một sự thực, một sự thực thôi,
nhưng rất tỉ mỉ, để tố cáo tội ác tàn bạo và thối nát thời bấy giờ.
Là cuốn tiểu thuyết in bằng giấy trắng mực đen, nhưng đồng thời nó
cũng là bàn tay chắc nịch vả vào bọn toàn quyền, thống sứ cùng quan lại,
tổng lý, và bọn bồi bút đồng loã, đã cố lấp liếm cảnh thối tha nhơ bẩn, còn
khoe khoang công trình khai hoá nhân đạo kiểu chúng.
Là cuốn tiểu thuyết in bằng giấy trắng mực đen, nhưng đồng thời nó là
tâm hồn của tác giả tha thiết yêu nông dân, tố cáo một chế độ cần phải đạp
đổ, từ tầng trên là bọn đế quốc thống trị, quan lại tay sai, cho đến tầng dưới
của nó là bọn tổng lý cường hào gà què ăn lẩn gối.
Ngày nay cuộc đấu tranh lay trời chuyển đất đương diễn cảnh cuối
cùng quyết liệt ở nông thôn miền Bắc. Chúng ta đã đuổi được chế độ đế quốc
ra khỏi một nửa đất nước, chúng ta sắp xoá bỏ hết chế độ phong kiến ở miền
này. Chúng ta đã hiểu thế nào là người nông dân, đã biết phân biệt bạn thù.
Chúng ta đã học tập thực tế để củng cố lập trường, xác định thái độ. Cuốn
Tắt đèn được tái bản, có tác dụng không phải nhỏ. Nó cho chúng ta biết thêm
cảnh người nông dân sống trong thời thực dân và quan lại khổ ra sao. Do đó,
chúng ta được gợi thêm căm thù, nuôi thêm căm thù, để quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ phản đế phản phong, tiêu diệt chế độ tàn khốc cho đến gốc
rễ, không cho cái ý chí xâm lược của bọn đế quốc, cái ý chí phản nước hại
dân của bọn phong kiến còn có thể quay trở lại.
Báo Văn nghệ, số 116, ngày 19-4-1956
LỜI GIỚI THIỆU TRUYỆN TẮT ĐÈNNGUYỄN TUÂN
Ngô Tất Tố tuyệt đối buông hẳn tay bút vào mùa hè năm 1954. Có lẽ
cái buồn nhất tiếc nhất của nhà văn Ngô Tất Tố là rũ áo ra đi hơi vội vàng một
chút. Mất vào tháng 4-1954 hay vào tháng nào của năm 1954 đó, thì tuổi thọ
Ngô Tất Tố vẫn cứ là 62 tuổi. Nhưng cố nán được dăm bảy tuần nữa, mà để
kịp nghe cái tin Tây đế quốc hoàn toàn đại bại ở Điện Biên Phủ ngày 7-5-
1954, thì nó cũng mát vậy thay cho vong linh một nhà nho yêu nước không
lúc nào nguôi về tiền đồ nghề văn nước mình, về triển vọng Tổ quốc mình!
Sự nghiệp văn học của Ngô Tất Tố gồm nhiều mặt: sáng tác, luận bình,
bút chiến, và dịch thuật. Dịch thơ Đường, truyện Trung Quốc, truyện Liên Xô.
Viết báo, viết đoản thiên, viết phóng sự, viết truyện dài (Tắt đèn, Việc làng,
Lều chõng) Nói chung so với đồng nghiệp mình cùng sống cùng viết trong
cùng một thời với mình, thì sự nghiệp trứ tác Ngô Tất Tố không đến nỗi gày
guộc gì về số lượng. Đã thế, lại còn có chất lượng, còn có cái chất để lưu lại
về sau này. Theo tôi tiên tri, thì cuốn Tắt đèn vẫn còn phải sống lâu, thọ hơn
cả một số văn gia đương kim hôm nay. Sau này mà thôn xã miền Nam nước
Việt Nam thống nhất kinh tế, thống nhất chính trị, thống nhất văn hoá và đã
điện khí hoá nông thôn toàn quốc, điện sáng loé từ núi Tây Bắc núi Trường
Sơn ra biển, từ cổng Nam Quan thấu vô vùng bãi đước Cà Mau, sau này rất
lâu, người ta vẫn còn đọc Tắt đèn. Càng có điện mà thắp cháy khắp nơi suốt
ngày suốt đêm, người ta càng thưởng thức Tắt đèn. Lúc mà dương thịnh, thì
càng ngoái lại cái chặng âm suy, để mà so chặng đường vượt được, đó cũng
là một cái thường tình của thói đời. Vả chăng truyện Tắt đèn tự đích thân nó,
đã sẵn cái khả năng hấp dẫn của nó. về mặt văn chương, rõ ràng là nó có
chất, nó có nghệ. Và cả mấy thứ chất thứ nghệ đó đảm bảo sự tồn tại của nó.
Và Ngô Tất Tố, dù muốn hay không muốn, sẽ theo nó mà trường sinh thêm
như người đã từng được thụ bàn đào thiên nhiên.
Hãy xin cho phác ra đây ít đưòng nét chính của truyện Tắt đèn. Truyện
xảy ra ở một cái làng đói, ở những cái làng đói nơi đồng bằng Bắc Bộ. Nhân
vật Tắt đèn có lúc bị bắn lên đến phủ đến tỉnh, nhưng gốc sống của nó, chính
ra vẫn là cái làng An Nam tối om hôi thối ngày xưa. Thời gian của Tắt đèn
cũng là thời kỳ những người cộng sản Việt Nam ở trong bóng tối (có ra hoạt
động công khai ít nhiều, có lúc tranh tối tranh sáng, nhưng theo chỗ tôi nghe
được, thì hoạt động bóng tối vẫn là nhiều hơn).
Nhân vật của Tắt đèn cũng dễ nhớ thôi. Nhân vật có cả người; có cả
chó (nhân vật này chỉ hiện hình chứ không đánh tiếng lên trong truyện). Có cả
người sống ra trò, và có cả người chết, chết nhưng có vai trò giữ nhịp hơi
chuyện ở đoạn mấu chốt nhất của truyện. Có tên lý trưởng, có lão tri phủ ba
que ba dọi, có bố lão quan tỉnh dê cụ. Và cả một tràng nhân vật cầm cờ chạy
hiệu, nó nguyên là cái đám cai lệ tay sai phong kiến ở cấp xã.
Trên đầm bùn ấy, ngoi lên một đài hoa sen dã ngoại. Tên cái thứ sen
quê ấy là chị Dậu. Dậu là tên người chồng. Tên thật chị là Thị Đào mà lính lệ
quen thói xếch mé bắt chước quan thầy chúng, thường gọi là “con mẹ Đông
Xá” (tên cái làng nguyên quán của chị Dậu). Mụ đưa người thì đỡ xếch mé
hơn một tí, và gọi là “nhà chị Đông Xá”.
Chị nhân vật chính ấy có ba con: Tý, Tỉu, Dần, và sau bán mất con Tý 7
tuổi lấy tiền đóng thuế thân cho anh Dậu. Cả một chương X của Tắt đèn là
dành cho cái Tý đó. Con bé ngoan quá, hiếu thảo quá. Ngô Tất Tố đã dành
cho cái Tý những lời những ảnh quý giá nhất trong từ vị từ ngữ mình. Văn
xuôi, thể truyện, nói về trẻ em Việt Nam, cái chương X đó phải được xếp vào
loại những trang đẹp tốt và cảm kích nhất viết cho thiếu nhi. Thêm nữa, cả
chương X này dồn cái không khí kịch, củ khoai, mấy em nhỏ. Một bà mẹ đau
khổ, không muốn cho trẻ con thấy sự thật của người lớn. Một cuộc hy sinh
(giống như tử biệt) bên một cái rá khoai nghèo và khói cứ loãng dần trên củ
khoai nguội. Với bao nhiêu câu lục vấn của lũ trẻ.
Chị Dậu lành mạnh cơ thể và hồn nhiên trong cách nghĩ trong việc làm,
hồn nhiên hiểu theo cái nghĩa của sự thẳng thắn ở một tâm tính người.
Con mẹ địa chủ Quế mê tín đểu giả ấy đã gạ mua con chị Dậu cho con
gái hắn vốn hiếm hoi “phải nuôi con nuôi thì mới đứng số (...) tao muốn mua
cho cô ấy một đứa, để nó gánh vác đỡ đi”. Nghĩa là cái Tý sẽ ốm thay chết
thay, thế mạng cho cháu con nhà địa chủ! Tâm địa mụ địa chủ độc tối như
thế, và tiền nong thì mua ép tính thiếu như thế; lúc biết đến, chị Dậu cũng chỉ
hạ một câu “cái bà nghị, giàu như thế mà còn làm điêu”.
Cái thằng phong kiến khốn nạn bẩn thỉu là thế, không khoẻ chân khoẻ
tay ẩy được quan ra, chỉ một suýt nữa là nó đổ tim la vào đời mình, đối với
con thú bẩn đó, chị Dậu đã “ô hay, nhà ông này mới hay chứ” và sau này chị
Dậu cũng chỉ bảo cho người làng biết qua rằng “lão phủ Tư Ân đểu quá”.
Đến cả cái việc mà hơn cả nhiều người đàn ông khác, chị Dậu đã dám
làm, đến cả cái việc mà sau khi làm, bà cụ người làng đã liệt chị vào cái bậc
“đàn bà ngỗ nghịch” ấy, ngay cả về việc đánh một lúc hai tên sai nha đó, khi
nói thêm với các vị có tuổi ở làng, chị Dậu cũng chỉ nói là “cháu phải liều với
chúng nó”. Và như thế là còn phảng phất chút ân hận nữa: “đàn bà đi đánh
nhau như thế, là hư thân lắm, chứ không hay gì (...). Cháu đã cố nhịn mà
không nhịn được”.
Chị Dậu là một cái tâm tính mộc mạc, mộc mạc ngay cả trong sự thù
ghét. Cái mộc mạc ngay thẳng đó cắt nghĩa nhiều cho mọi cái bột phát và tự
phát ở người nữ quần chúng đó. Trên lầy bùn ruộng cũ, những thứ “cỏ nội
hoa hèn” đó vẫn hằng có để tăng thêm cho cái thơm cố hữu của lúa trổ bông.
Trên bãi ruộng oan khiên, chị Dậu là một gốc một nhành của thiện căn, của
dưỡng khí cánh đồng kết tụ lại.
Nhân vật trong Tắt đèn, đậm nét nhất vẫn là chị Dậu. Trong Tắt đèn, lũ
người ác đại biểu cho các kiểu bất nghĩa bất lương, cũng khá đông đấy.
Những cái mồm cái giọng phản diện cũng khá ồn ào. Nhưng chúng vẫn không
bịt được miệng chị Dậu. Tiếng nói chị Dậu vẫn nhiều dư vang. Qua lời qua
việc người đàn bà nhân vật chính thấy cái ý chính của người đàn ông Ngô Tất
Tố hoá thân ra mà thôi. Và sự phân thân ấy có tính tư tưởng, có tính nghệ
thuật.
Chị Dậu là tất cả cuốn Tắt đèn. Có những lúc tôi muốn xin phép tác giả,
và nếu tác giả đồng tình, (qua lớp đất nghĩa địa mà tìm được cách nào nhắn
lên cho), thì tôi lấy tên chị Dậu làm luôn tên gọi của cuốn truyện Tắt đèn. “Chị
Dậu”! Chị Dậu là cái đốm sáng đặc biệt của Tắt đèn. Nếu ví toàn truyện Tắt
đèn là một khóm cây, thì chị Dậu là cả gốc cả ngọn cả cành, và chính chị Dậu
đã nổi gió lên mà rung cho cả cái cây dạ hương Tắt đèn đó lên.
Sáng tác Ngô Tất Tố, trội nhất vẫn là cuốn Tắt đèn. Và trong tiểu thuyết
Tắt đèn, trội nhất là cái chương XIII. Lời sắc xảo, ý súc tích, cách diễn đạt thì
linh hoạt mà bố cục lại chặt. Lời nói của nhân vật và cái cách Ngô Tất Tố
khiến lời cho nhân vật, nó hệt như là ở kịch nói. Nếu trích văn Tắt đèn để lẩy
ra cái mảng đẹp những, đọng nhất, quý nhất, đại diện nhất, thì cứ một
chương XIII ấy mà trích ra là đích đáng.
Quả có thế, chương XIII Tắt đèn như là một hồi hai cảnh của kịch nói.
Cảnh I xảy ra ở nhà Nghị Quế; cảnh II xảy ra tại nhà lý trưởng. Cốt cách một
chương văn xuôi tiểu thuyết XIII ấy, đem dọn lại thành đối thoại thì hoàn toàn
kịch nói, vì nó hàm súc chất kịch tính kịch. Và càng rất có thể chuyển thành
kịch bản truyện phim điện ảnh, nếu điện ảnh ta định làm hồi ký về “Việt Nam
nông thôn tiền cách mệnh”.
Nói chung cho Tắt đèn thì toàn truyện là một đêm tối mò, truyện mở ra
tôi tối, càng đọc vào càng thấy tối, và cuối cùng, truyện đóng lại bằng một tấm
màn đen đặc. Trên cục tối và trong đống tối ấy, lũ nhân vật cả chính cả phụ,
cả thiện lẫn ác, đều thào thào giọng tiếng của lũ bóng ma. Nếu nói toàn truyện
Tắt đèn là một diện tích rộng của sự đen kịt, thì chương XIII này là một điểm
đọng cô nhất của bóng đêm vón cục lại, đặc quánh lại. Cái tôi ở đây rất ken
dày, rất căng thẳng. Chỉ có hồn ma thì mới bơi được trong bầu tối ấy, chứ
phàm đã là con người có ít nhiều trọng lượng nhân kiếp, thì không thể không
sa lao xuống như thằng mù không tin. Hoặc là phải rú lên mà tạt ngang ra một
cái ngách nào. Giống như loài cỏ loài rêu hang lạnh vẫn cố hướng ra cái phía
nào có luồng dưỡng khí của hơi ấm của tia sáng.
Chương XIII Tắt đèn không khác gì một cái lòng chảo đã nguội đi, đã
váng đọng một thứ bùn đen lưu niên, trên đó oằn một số sinh vật. Sinh vật
Nghị Quế chồng, sinh vật Nghị Quế vợ, mà lòng tham đã phá hết tính người.
Sinh vật lý trưởng, và lũ sai nha đốc thuế người, đã tan hoang đi cái tâm
người. Và trên cái sa mạc nhân tâm đó, không còn tia nước nguồn thương
nào, mà chỉ còn vương vãi lại ít thừng trói, ít roi mây, ít vỏ rượu ty, và một cái
bìa thẻ sưu in sẵn. Ở chương này, cả đến chị Dậu quý mến của tác giả của
độc giả cũng chỉ còn là một sinh vật mà thôi. Thật được làm người với tối
thiểu phẩm cách làm người, thì có đời nào chị Dậu lại phải đi đọa lạc nhân
phẩm mình đến cái mức phải đưa con bán đi như một hiện vật cũ ở chỗ chợ
giời chợ người. Tiền bán đứa con dứt ruột lại đem ra chuộc cho mạng chồng
mình, giữa một cái thế kỉ áp bức hai tầng, và mạng người bị biến đi dễ dàng
quá cái sinh mệnh côn trùng ngứt đầu cánh. (Có cần phải nói thêm rằng nếu
không có Cách mạng tháng 8 - 1945, thì trước mắt đế quốc và thực dân, tất
cả Việt Nam vẫn chỉ là lũ sinh vật do họ lùa vào các đồn điền, các sở công sở
tư, hầm mỏ, các nhà lao, lúc cần thiết?).
Tôi không là một người đi đạo, nhưng nếu tôi đã bị người ta đeo vào cổ
tôi một cái thập ác mạ vàng ấy, thì khi đọc chương XIII Tắt đèn này, tôi không
thể không tóm lấy chòm râu ông cố đạo mà rên lên rằng: “Lạy Chúa! Tôi
không dám mong gì cái Thiên đàng của Người, mà chỉ mong sao cho trần
gian đây hãy quang quẻ đi mọi thứ xấu hổ kia kìa...”.
Chị Dậu sợ hãi đến sân nhà giàu Nghị Quế, một tay cầm tay con gái
nhỏ, một tay ôm rổ bốn chó con đèo một chó mẹ nữa. cả chó, cả trẻ con, đều
đưa đến bán cả, và bán gộp vào thành một mớ, như là mớ củi mớ tép chợ
chiều nơi bãi làng. Giá trị của sáu thứ hàng hoá khác loại ấy (con chó cái, con
Tý, bốn chó cún) tính thành tiền là hai đồng bảy hào (2$70), nghĩa là đủ tiền
để cứu một mạng người (anh Dậu) đang bị gông cùm vì thiếu sưu.
Chỗ tiền ấy, người viết hộ văn tự (người bán con là chị Dậu mù chữ
của một thời không cần chống mù chữ!) bắt đầu khấu ngay hai hào tiền công
viết. Ngay lúc giao tiền, Nghị Quế ông không giao bằng tiền giấy mà giao
bằng tiền chinh, là nó đã có sẵn mẹo tính của nó. Cái mẹo của nhà giàu ăn
bẩn bằng cách đếm thiếu đi mỗi chuỗi tiền chinh là bốn xu. Tiền chinh nộp
sưu người đó, lúc đưa nộp lại chịu một nấc thuế nữa. Thuế đổi tiền chinh ra
tiền giấy, cứ 1 đồng là 3 xu tiền các. Lại còn tiền riêng “chè lá” cho ông lý áp
triện vào văn tự bán con, cái triện đồng mà ông lý bảo rằng “triện ông có phải
đâu là củ khoai” mà đem đóng không cho không! Chị Dậu không còn tiền để
lễ lý trưởng, chị Dậu phải xin khất lý trưởng là chị sẽ trả bằng sức lao động,
“con xin cấy hầu ông một mẫu” Lý trưởng còn so kè “đồng bạc một mẫu, thế
ra một hào một sào (cấy trừ) kia à? Không được! Phải (cấy trừ) một mẫu
rưỡi”. A men! Giời ôi là giời! Sống làm sao được đây! Quanh chị Dậu, quanh
cái thẻ sưu thuế người, cả một hệ thống thiên la địa võng bóc lột sự sống, ăn
hiếp sự sống, bức tử sự sống! Chao ôi!, tôi đã hiểu tại sao trước kia ở nhà
quê có vô khối đám “cướp” đã nổi lên. Nổi lên một mồi lửa cho nó cháy vèo
mẹ nó đi cái thứ làng An Nam ngột ngạt đó.
Làm sao trong đêm tối ngày xưa đó, Ngô Tất Tố đã mò ra được những
thực tế đó, và trong đêm tối, ông lụi hụi thắp được bó hương mà tự mình soi
đường cho nhân vật mình đi? Lúc đó, không phải là không ai nói về làng xóm
dân cày, nhưng người ta nói năng khác ông, người ta bàn cải lương hương
ẩm, người ta xoa xoa mà ngư ngư tiều tiều canh canh mục mục. Còn Ngô Tất
Tố thì xui người nông dân nổi loạn. Cái cách viết lách như thế, với cách dựng
truyện như thế, không là phát động quần chúng nông dân chống quan Tây
chống vua ta thì còn là cái gì nữa! Ở đây, cũng không phải là tôi tiếc cho kiểm
duyệt Pháp (tiếc một cách quá chậm) đã để lọt để sổng Tắt đèn. Ở đây, cũng
không phải là tôi thắc mắc sao hồi đó thống trị Tây Ta không bỏ tù tên phiến
loạn Ngô Tất Tố. Ở đây tôi chỉ muốn nhấn vào khía cạnh này: những oan trái
và đau đớn Tắt đèn, nó hao hao cái không khí mười bốn mười lăm năm sau
đó, các thành phần cơ bản ở nông thôn đều ầm ầm tố khổ và vạch mặt cường
hào ác bá. Tôi sợ Ngô Tất Tố đấy.
Tắt đèn in năm 1939, tức là in ra 9 năm trước khi Ngô Tất Tố được
đứng hẳn vào trong tổ chức Đảng; tức là in ra 14 năm trước khi Quốc hội
khoá II thông qua luật cải cách ruộng đất và chính sách phát động nông dân.
Chưa được kết nạp, nhưng trước những thực tế nông thôn Việt Nam, Ngô Tất
Tố đã có cái nhìn tự phát của người trí thức quần chúng cảm tình Đảng, chưa
sâu sắc chưa hệ thống hoá, nhưng là một cái nhạy cảm khỏe mạnh và gắn bó
với quần chúng lao động nông dân. Chưa được đi học các lớp phát động của
đoàn uỷ, nhưng Ngô Tất Tố đã có cái nhiệt tình của người đội viên, của người
đội trưởng phát động giảm tô, cải cách ruộng đất không tố điêu cho ai, mà đã
tố thì không khoan nhượng với kẻ thù.
Tắt đèn (nhất là chương XIII) thật là có chất lượng. Nội dung có chất
lượng tư tưởng, hình thức có chất lượng ngbệ thuật. Bút pháp Ngô Tất Tố,
nhất là ở chương XIII Tắt đèn cũng là tiêu biểu cho một khoé hiện thực phê
phán khá độc đáo. Càng thù ghét địch, cành yêu thương giai cấp. Vừa hiện
thực phê phán, vừa nhân đạo nhân văn.
Ở màn đầu chương XIII, cảnh nhà vợ chồng địa chủ nghị Quế, Ngô Tất
Tố cho bưng vào đấy một rổ nhún nhìn 4 chó con. Vợ chồng địa chủ nghị Quế
“bị” hiện nguyên hình vì lũ chó con này của Ngô Tất Tố đây. Phải có cái liều
lượng 4 chó con này pha vào truyện, thì mới xộc lên cho kỳ hết mùi đống rác
hữu cơ địa chủ đã biến chất người, mà thối khẳm đến phải nôn tháo ra hết.
Ngô Tất Tố đã hạ đến cái “kỹ thuật đàn chó”, đưa chất chó vào, để cho người
đọc nhận rõ thêm về cái chất người bất nhân của vợ chồng thằng nhà giàu
nghị Quế. Cái đáng khuyên chuỗi thưởng khen cho bút pháp Ngô Tất Tố, là
tác giả vẫn cứ cho kẻ thù giai cấp (Nghị Quế) ít nhiều cái nét gọi là nhân tính.
Cho nó phảng phất tí nhân tính, thế nó mới càng chết cha nó. Quái thay là
Ngô Tất Tố. Mới xem, ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ như mọi người
khác thích chó, yêu gia súc, tưởng người lành hoặc kẻ bất lương cũng không
khác nhau gì lắm trong việc nuôi chó, rồi xem tướng chó. Hắn sung sướng.
Vợ hắn và hắn bù khú đú đởn với nhau trên câu chuyện chó con. Ấy thế rồi là
đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. Đoạn này,
khá lắm, bác Tố ạ! Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới càng hiện
chất chó đểu của giai cấp nó ra.
Mà thực ra, đã có những tên kẻ thù giai cấp ở khắp gầm trời rất thích
nuôi chó, yêu chó, quý chó, đặt bánh đặt thịt, đặt đất nghĩa trang cho chó, coi
con chó nó nuôi quý hơn mọi mạng người khác nó đang hành hạ và bóc lột;
và cái vô nhân đạo của chúng chính cũng bật rõ lên từ cái “tình” chó của
chúng. Đã có sẵn rồi những những chuyện chó nhà giàu, chứ ở đây không
phải là cố quăng chó vào nhà địa Quế, cố tình bắt quả tang nó đang gây chó,
để mà dễ lên án nó, theo một cái hướng đánh nó đã định sẵn.
Địa chủ An Nam mà ác độc thì nó nhiều cái khía đểu giả khốn nạn vượt
hết cả sự tưởng tượng của những người lành mạnh. Đỉnh cao của tội ác là nợ
máu giết người, chân thấp làm nền cho bản chất tham ác nó là nhiều thứ chì
chiết cấu véo khác rất phong phú về hình thù và diễn biến.
Trong Tắt đèn, con mụ địa Quế nói toạc ra là “nuôi chó còn hơn là nuôi
đứa ở”. Nó đã nuôi rồi 14 con, nay lại nuôi 5 mẹ con con chó vừa mua ép của
chị Dậu. Và nó bảo thẳng vào mặt chị Dậu là “cơm chó nhà tao cũng tốn bằng
mấy cơm người của nhà mày đấy”. Thằng địa chủ Quế liền bắt cái Tý (nó vừa
mua xong của chị Dậu) ăn nốt ngay rá cơm thừa của đàn chó bỏ dở: “Con bé
kia! Cầm lấy rá cơm ăn đi, kẻo phí của giời. Ăn bốc cũng được, không phải
đũa bát gì”. Thằng chồng quát “Mày không ăn thừa cơm chó phải không?” thì
con mụ vợ lại càng hét: “Này bà bảo cho mày biết: mày ăn cơm chó nhà bà
cũng chưa đáng đâu. Con chó nhà bà còn được mấy chục, con người như
mày, bà chỉ mua một đồng đấy thôi”. Trời thẳm đất dày ôi! Như thế còn cho là
chưa đủ ác, mụ đàn bà địa chủ còn nghiến răng: “Từ giờ đến mai, phải ăn hết
rá cơm ấy, rồi mới được ăn cơm khác!”.
Cái Tý 7 tuổi, buổi đầu bị bán vào cửa nhà địa chủ, như một chồi cây bị
lũ ác cấu cụt ngọn và, tối đó, mặc dầu không xuất hiện ra như thế, tôi cứ nghĩ
Ngô Tất Tố đã như là một ông Bụt của cái Tý, - một thứ ông Bụt hao hao thứ
Bụt đã vỗ về cái Tấm trong cố tích Tấm Cám.
Rời cái nhà địa chủ Quế, chị Dậu cầm số tiền bán con và bán chó đi
chuộc chồng tại một cái nhà khác. Nhà lý trưởng, mà “đàn ông đàn bà chờ
đợi nộp thuế còn lố nhố suốt một bậc cửa”, “Lính cơ, cai lệ vẫn nằm chầu
chánh tông ở bên bàn đèn”, thủ quỹ, thư ký, chánh hội phó hội và chức dịch
ngổn ngang “ngồi ở cạnh những cuốn sổ sách bề bộn”.
Đã tưởng đến đây nộp xong suất sưu cho chồng rồi vợ chồng cùng trở
về cái túp nhà của mình. Nhưng mà không phải chỉ một suất sưu thuế của
chồng. Bây giờ hương lý mới tòi thêm ra một suất nữa. Suất của người em
chồng. Mà Hợi, em chồng, thì đã chết rồi. Xin trích ra đây cái đoạn đối thoại
khủng khiếp giữa hương lý và chị Dậu:
“Thưa ông, chú nó chết từ thánh giêng rồi mà! Nhà con vẫn chưa “khai
tử” hay sao?(....)
- Khai tử rồi cũng phải đóng sưu? Ai bảo nó không chết ngay từ tháng
mười năm ngoái? (...)
- Thưa ông, người chết đã gần năm tháng, sao lại còn phải đóng thuế
sưu?
Lý trưởng quát:
- Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không biết.
Thư ký dõng dạc cắt nghĩa:
- Chết cũng không trốn được sưu Nhà nước! Là vì thằng em chồng chị
mới chết tháng giêng An Nam mà sổ “thông quy” của làng đã làm từ đầu năm
Tây, tức là tháng một An Nam năm ngoái, sổ ấy có tên thằng Hợi lúc ấy chưa
chết. Khi đệ trình lên tỉnh, toà sứ cứ theo số đinh trong sổ mà làm bài chỉ đưa
sang sở kho bạc. Rồi đến kỳ thuế, sở kho bạc lại cứ theo đúng số thuế ghi
trong bài chỉ mà thu. Nó chết tháng giêng chứ dẫu nó chết tháng chạp cũng
vậy, bài chỉ làm rồi (...) khai tử hay chẳng khai tử mặc kệ (...) Nó chết, vợ con
chưa có, ông lý cứ lấy vào thân nhân, chồng chị không nộp cho nó thì ai
nộp?”.
Chị Dậu chỉ còn tru tréo lên: “Ôi giời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai
gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho
chồng (....) Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi!
Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở trời?”
Tôi thấy cần phải nói thêm về cái suất sưu, cái thẻ sưu này, cái thứ
thuế thân bất nhân đánh trực diện vào thân con người này, đánh cả vào
người đang sống, đánh cả vào người đã chết. Nó là một cái thẻ kỳ dị mà
trong thời cũ ai cũng phải mang luôn trên mình mình. Từ ngày có chính quyền
cách mạng, mới xoá được cái thứ thuế dã man đánh vào đầu người và thân
người. Nhắc lại cái vết nhơ ấy của ngày cũ, hẳn nhiều độc giả thế hệ hai
mươi tuổi ngày nay không khỏi cho đó là một cái quái dị tất đã có như thế,
hoặc hỏi nhau rằng sao cái sự xấu hổ đó lại có thể xảy đến cho con người!!!
Thưa vâng ạ, sự xấu hổ ấy đã có, đã xảy ra cho xã hội An Nam đấy, và ta
càng nên cảm ơn ông già Ngô Tất Tố đã ghi nó lại cho chúng ta. Để làm gì?
Để mà có cái mà so sánh giữa đời sáng sủa bữa này với cái đời tối tăm trước
đây.
Đến Cách mạng tháng 8 - 1945, chính quyền cộng hoà dân chủ của ta
lên, thiêu ra tro tất cả bằng sắc mũ áo do quan Tây vua ban phát ra, và cho
cháy vèo luôn cái thẻ sưu. Và vĩnh viễn chấm dứt chế độ thuế đinh vốn đánh
vào tuổi người tên người Việt Nam. Nhiều người đọc hồi ký cách mạng của
lãnh tụ, còn nhớ đến những cái thẻ sưu mà tù chính trị mượn của người khác
để dùng làm thẻ tuỳ thân những lúc vượt ngục đế quốc (như cái chuyến vượt
ngục Sơn La đó).
Ngày nay có nhiều người chỉ còn nhớ mang máng hình thù mặt mũi cái
thẻ sưu của thời kỳ mất nhân cách đó. Có lẽ, lại phải chạy vào Viện bảo tàng
Cách mạng thì mới thấy lại cái thẻ sưu của thời kỳ phi nhân văn chủ nghĩa đó!
Chế độ ta xé biến cái thẻ sưu, tôi cho đó là một việc cụ thể để chứng tỏ phẩm
chất nhân đạo nhân tình của chế độ ta; (nhưng, theo chỗ tôi biết, thì hình như
sách báo cũng ít nhấn vào nét này, phải chăng là vì coi nó chỉ là một chi tiết
xoàng của chỉnh thể?). Không, không đâu! Nó kinh khủng, nó xấu xa đến đều!
Và lại cũng chỉ có những người đã từng trải phải hàng năm về làng “xin ông lý
cái thẻ sưu”: thì mới thấy hết cái sỉ nhục mang thẻ, thì mới thấy hết cái hả hê
khoan khoái khi nhà nước ta đốt hẳn thẻ sưu.
Tôi nghĩ rằng, nếu cần cho thêm một cái nhan đề thứ hai nữa cho Tắt
đèn, thì riêng tôi, tôi sẽ cho gọi nó là cuốn Cái thẻ sưu. Nó là đối tượng của
sự kháng cáo của sự tố cáo. Vì nó mà anh Dậu bị nhục hình, vì nó mà chị
Dậu bán con. Vì nó mà chị Dậu phải đi ở để trả nốt suất sưu nữa cho một
người em chồng “chết dở năm Tây (...) nếu chết chẵn năm Tây thì mới được
trừ”. Chính vì cái thẻ sưu đó mà chị Dậu hai lần bị cưỡng dâm ở mấy cái tư
thất công đường nhà thổ. Cái thẻ sưu chính là một cái chủ đề cụ thể trên cái
đề tài mênh mông đau xót của nông dân ta chưa có cách mạng cứu thoát. Cái
thẻ sưu có thể coi như một hiện vật, một tang vật cực kỳ phản diện của mặt
sống cũ. Nếu lại cho tôi vẽ tĩnh vật hoặc vẽ bìa Tắt đèn, thì tôi sẽ trang trí hoá
một khuôn mặt thôn nữ vuông chữ điền, bên cạnh đó là một miếng thẻ sưu.
Hình bìa thẻ, đủ triện đồng chữ thập cộp vào, và hằn lên những chấm điểm
chỉ. Hoặc xoắn lên cái van da tay đốt ngón tay cái, nó là cái chữ ký thê thảm
của người bị mù chữ, trong suốt một thời mù đó.
Thấy phải nói thêm về cái thuế thân đó.
Thuế thân có từ chúa Trịnh. Chúa Trịnh đặt ra thuế thân từ năm Quý
Mão (1723) niên hiệu Bảo Thái thứ tư. Mỗi năm, mỗi suất đinh phải đóng 1
quan 2 tiền (tôi không rõ là tiền đồng hay tiền kẽm, và so với thời giá đồng
bạc ta thì nay là bao nhiêu). Các triều vua ta sau đó, vẫn bắt đóng thuế thân.
Tây sang cũng vẫn đánh thuế thân, lại càng đánh thuế thân. Thuế thân từ
năm 1897, mỗi người dân Bắc Kỳ tăng từ 5 hào lên 2 đồng rưỡi, gọi là thuế
đinh(!). Chúng gọi là trực thu, chúng còn bày ra nào là nội tịch, ngoại tịch. Lại
còn thuế vô sản, thẻ bần cùng 1 đồng. Giữa thời đế quốc Pháp đã cắm cò
tam tài trên nước ta để thu thuế thân, thì đặc biệt có 4 tổng của tỉnh Bắc
Giang, Pháp không dám động đến. Nhân dân Bắc Giang ở bốn tổng lẻ đó
không phải đóng sưu, và mang giấy thuế thân. Ấy là những người dân trên
“đất Đề Thám” trong thời kỳ Hoàng Hoa Thám ngừng bắn Pháp lần thứ hai.
Đất 4 tổng quanh Nhã Nam (Bắc Giang) coi như khu căn cứ giữa một xứ Bắc
Kỳ đã chiếm đóng từ hồi cuối thế kỷ XIX bắc cầu sang đầu thế kỷ XX. Dân “4
tổng Quan Đề” sống như trên một hòn đảo tự do, không biết gì thuế đinh mà
Hoàng Hoa Thám đã xóa hẳn. Được 11 năm. Và quý đẹp vậy thay, cái cử chỉ
xóa sưu của Đề Thám! Cho tới năm 1909, Pháp trở mặt đánh vào đất riêng
Đề Thám, và lại đặt thuế đinh và thu vét thuế đinh thuế điền.
Để làm tài liệu tham khảo thêm về sưu thuế thời cũ, xin trích dẫn ít
đoạn văn xuôi của nhà thơ yêu nước Nguyễn Thượng Hiền, trốn sang Nhật
Bản và viết ra vào hồi Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Những đoạn này rút ra
ở bài Rơi nước mắt mà bàn về cuộc bể dâu (trong Thơ vần Nguyễn Thượng
Hiền của Lê Thước, Vũ Đình Liên). (Những đoạn trích in chữ nghiêng dưới
đây, là do tôi - Ng.T.)
“Về thuế đinh, thì từ 18 tuổi trở lên mỗi năm phải nộp tiền thuế ba đồng.
Chúng cấp cho một miếng giấy gọi là thẻ thuế thân, ai không có thẻ ấy gọi là
lậu đinh, bị phạt rất nặng. Chúng chọn những kẻ hung ác làm cảnh binh, đứng
khắp trên ngả đường khắp nơi, để khám thẻ thuế thân cho những người qua
lại, ai không có thẻ liền bắt giam vào ngục làm tù, mãn hạn được tha thì phải
chịu tiền phạt gấp đôi tiền thuế thân, về phần cảnh binh, hễ trong một tuần lễ
mà không bắt được một người trái phép thì cũng bị phạt nặng, nên họ phải
tìm cách buộc tội cho người, để khỏi tội đến mình. Vì thế, có một người lái
buôn đi qua đường trong một tỉnh kia, cảnh binh khám thẻ thuế thân xong,
liền vò nát thẻ ra, bỏ vào miệng chực nuốt. Lái buôn hoảng sợ vội bóp chặt
lấy cổ để khỏi nuốt trôi, cảnh binh không chịu nhả, lái buôn sợ mất thẻ bị tù,
cũng không chịu buông tay. Hồi lâu chú cảnh binh tắc hơi rồi chết. Việc này
đem ra Toà xử, lái buôn cứ thẳng thắn khai sự thật. Toà sai mổ thi thể cảnh
binh ra, khám thấy trong cuống họng còn nguyên những mảnh thẻ.
“Những người ở thành phố, ngoài thuế thân ra mỗi năm còn phải nộp
hai đồng, gọi là thuế vãng lai. Có nộp thuế ấy thì hàng ngày mới được tự do
đi lại trên đường phố. Sau khi đã nộp hai đồng, chúng cấp cho một cái thẻ
dán ảnh mình vào, cảnh binh khám thẻ thấy người đúng với hình trong anh
mới cho di, chứ không thể người nọ mượn thẻ người kia được. Người ở các
làng mà có việc gì phải ra thành phố ở quá ba ngày, thì phải nộp tiền lĩnh thẻ,
không thì bị phạt cực nặng... ngay đến tiểu tiện, đại tiện cũng phải trả thuế
mỗi tháng 6 hào (...) Chẳng những thuế người còn thuế chó nữa. (Lại vẫn
chuyện chó! - Ng.T.). Ở thành phố, ai nuôi chó, mỗi con mỗi năm phải nộp
một đồng, sẽ được một mảnh thẻ đeo vào cổ chó. Hễ chó chạy ra đường mà
không có thẻ đeo thì chủ nuôi phải phạt ngay (...) Tóm lại ở trên mặt đất, một
ngọn cỏ, một gốc cây, một viên ngói hòn đá, nếu có thể dùng được việc cho
người, đều ghi vào trong sổ thuế của chúng cả (...) Trên các đường đi thì thuế
xe, thuế ngựa (...) Còn thuế đò, so với các thuế khác thì lại là một khoản thuế
to nhất, vì nước tôi, đường sông chằng chịt như mắc cửi (...).
“Công ty thuế rượu, đã được chính phủ Pháp giúp đỡ, nên không còn
sợ sệt gì, hàng ngày sai bọn tuần đinh đi khắp các làng, hoặc vào tìm sục tận
trong buồng từng nhà, hoặc theo dò từng người đi. Quanh năm ầm ĩ như đi
bắt giặc. Hễ bắt được ai nấu rượu, dù một hũ, cũng phạt tới ba bốn trăm
đồng. Ai nghèo không nộp được tiền phạt thì bắt thân thuộc phải nộp. Thân
thuộc không nộp thì bắt xóm làng nộp thay (...) Thuộc huyện Quảng Xương,
tỉnh Thanh Hoá, một thôn nhỏ có hơn 100 nóc nhà mà phạm về tội nấu rượu
tới hàng trăm người, vì dân thôn ấy xưa nay phần đông làm nghề nấu rượu
bán. Viên công sứ Pháp sức cho viên tri huyện bắt những người nấu rượu và
xóm làng phải nộp phạt chung. Bắt giam lần lượt suốt năm (tức là đi tù tập thể
và luân lưu - Ng.T.) số tiền nộp phạt vẫn không đủ. Dân thôn ấy phải lên cầu
viên tri huyện: xin nộp hết ruộng nương của mọi người trong thôn, để thay
tiền nộp phạt mà tha cho sự bắt bớ, giam cầm. Viên tri huyện trình lên, công
sứ cho chiểu giá bán ruộng, lấy tiền nộp vào công ty rượu. Thành ra thôn đó
sau này chỉ có người mà không có ruộng nữa.
“(...) Quảng Nam, một tỉnh ở phía nam kinh thành nước tôi, dân bị đánh
thuế quá nặng, mới kéo nhau đến dinh công sứ, xin tha số thuế mới tăng.
Công sứ không nghe, lại sai quân lính ra xua đuổi, bị đẩy sa xuống sông, chết
đuối mất ba người. Nhân dân căm giận, đem ba xác chết đặt trước cửa dinh
công sứ, rồi mấy nghìn người bận khăn áo trắng, xúm quanh kêu khóc vang
trời dậy đất, đến một tuần lễ không thôi. Họ còn nằm ngổn ngang trên khắp
các đường; phố. Viên công sứ phải đánh điện trình viên khâm sứ. Khâm sứ
đến hỏi: “Vì sao chúng bay làm loạn?”. Dân đáp: “Chúng tôi không có một
mẩu sắt trong tay, sao gọi là làm loạn? Chỉ vì thuế khoá quá nặng, không thể
nộp được, cho nên chúng tôi phải cùng nhau đến kêu”. Khâm sứ nói: “Chúng
bay nghèo nàn đến nỗi không nộp được thuế cho nhà nước thì chết đi còn
hơn”. Nói xong liền sai lính Pháp vây bắt, chết đến mấy trăm người, máu chảy
thành vũng, bấy giờ dân mới chịu tan...”.
Trong Tắt đèn, có một nhân vật chết. Nhân vật đó chết, nhưng rất cần
cho không khí tối đen. Nhân vật ấy sinh sự với cái trật tự ngày đó của sự
sống. Nó sinh sự và sự (của truyện) cũng sinh ra thêm từ đầu mối chìm đó.
Nhân vật chết kia làm cho các nhân vật sống khác có mặt nơi truyện được
hoàn bị hơn trong mọi sự hoặc thiện hoặc ác. Ấy là vai Hợi, em chồng chị
Dậu. Hợi hoàn toàn là nhân vật cách mặt khuất lời. Chỉ thấy chị Dậu nói về
Hợi “Cánh tay phải của cả nhà. Còn chú nó, chúng cháu đâu đến nỗi khổ sở
như thế này!”. Hẳn Hợi là một trong những lao động chính của gia đình Dậu.
Hợi chết, nhưng mà chuyện của người nghèo Hợi chưa chịu hết. Hợi thì xanh
cỏ mộ rồi, nhưng sổ thuế đinh lý trưởng vẫn chấm lấy tên. Quan Tây và vua
quan ta dựng cái xác chết Hợi dậy, đòi cho kỳ được cái suất sưu “món nợ
nhà nước” đó. Cái người chết Hợi như một thứ tang trùng làm chết lây đến
người trong nhà. Chị Dậu đã bán hết tất cả mọi thứ có thể phát mại được để
trang trải xong cái thuế đinh cho chồng. Nhà đương chức mới cho hay thêm
rằng còn suất sưu thuế của người chết Hợi nữa. Chị Dậu lại lăn đùng ngã
ngửa ra, vứt cả chồng cả con lại, đâm bổ ra tỉnh, bán sữa mình cho cửa quan,
để trả xong nốt thẻ sưu cho người chết.
Người nghèo chết ai là thiệt cho sự lao động làm ăn nhà nấy. Nhưng
người nghèo chết còn có nghĩa là chưa hết tội, chưa hết nợ. Người sống
đóng thuế đinh, mà người chết rồi vẫn đóng thuế đinh cũng như ai. Người ta
thường nói rằng dưới thời cũ, nông dân chịu những hai tầng áo bức. Tôi
muốn hiểu câu đó ở cả cái khía cạnh thuế này nữa. Chồng thêm người chết
lên mà đánh hai tầng thuế. Thuế đinh là “món nợ nhà nước” và những người
sống, thân nhân của người chết, phải trả nợ đậy cho người chết, nếu họ còn
muốn được sống để hít thở khí trời chưa ai đánh thuế tới.
Tôi không thể không liên tưởng tới một cuốn tiểu thuyết Nga, của nhà
tiểu thuyết hiện thực Gôgôn, cũng có đoạn nói đến những nông dân đã chết
rồi mà vẫn chưa yên chỗ dưới mả đất. Trong truyện dài Những linh hồn chết
của Gôgôn cũng thấy kẻ sống đào bới lên những nông dân đã chết rồi. Trong
Tắt đèn, một linh hồn mu- dích An Nam cũng làm nền nhạc u trầm để đệm
cho một đoạn bi ca về làng cũ An Nam.
Ở Những linh hồn chết, nhân vật Sítsicốp, của Gôgôn, bằng một giá
mua rất rẻ, đã đi vơ vét những tá điền nông nô chết rồi tại các trại ấp những
địa chủ thời Nga hoàng nông nghiệp lạc hậu. Nó mua lại tất cả những nông
nô chết này, đem danh sách ra cầm cho nhà băng lấy tiền. Ngân hàng bị nó
lừa, vì tưởng nó có vốn thật - nông nô là một vốn tiền lưu động của địa chủ
Nga. Còn ở Tắt đèn thì có những người nông dân đã chết rồi, cái thịt nghèo
của mình đã thành phân bón cho cây lúa còm mọc trên mảnh đất mình đã vỡ
ra và bọn khác xí đoạt mất, - đã chết rồi, mà thực dân phong kiến vẫn còn
dựng dậy để bóc lột tiền một lần nữa. Ở nông thôn Nga hoàng xưa kia và
nông thôn Việt Nam trước đây, người nông dân đều là một sự chết mòn. Và
qua hai cuốn Những linh hồn chết và Tắt đèn, đều thấy rằng người nông dân,
sống đã không sống được, cho đến lúc đã chết rồi mà vẫn chưa yên thân mà
chết, ở đây, không phải là cái chuyện đem đọ Ngô Tất Tố với Gôgôn; hai tài
văn khác nhau, môi trường lịch sử văn học khác nhau, và nhiều cái khác
nhau. Không so đọ cao thấp sâu rộng của văn tài hai bậc ấy, nhưng tôi không
khỏi vấn vương về cái chỗ gặp nhau, giữa hai thanh khí văn học đó.
Gôgôn chết trước Ngô Tất Tố được một trăm linh hai năm. Vậy mà tôi
cứ nghĩ hai người đó cùng một thời, có cách nhau chăng nữa thì chỉ xa nhau
trong không gian: giữa hai Tổ quốc hai nhà văn yêu nước, có cả một cái
Xibêri ngày nay đang cơ giới hoá điện khí hoá nông nghiệp. Nếu người ta thật
là có linh hồn, thì hai con người bất tử đó phải tìm tới nhau ở dưới đó, mà bàn
thêm về cái chết bình phương mà bội tăng lên của ông. Và cả về cái sống
cũng bình phương mà bội tăng lên của nông dân xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa hôm nay ở quê mỗi người.
Tắt đèn là một câu chuyện buồn của người nông dân lao động diễn
biến ngay ở nông thôn. Có bi buồn, nhưng không phải là trát nhọ nồi vào thực
tế. Câu chuyện nông dân ở đây không diễn ra ở mặt ruộng đất, mà lại chỉ diễn
ra ở một vài nơi công đường tư thất, loáng thoáng qua một cái phố phủ có
hàng quán, qua nhà một tên nghị viện dân biểu địa chủ, và nhất là ở một cái
đình làng. Nghé vào cái đình làng, thấy bộ mặt hai mặt quan lại và thực dân,
và những cái râu ria tổng lý ký lệ của nó. Nó chính là tứ rắn hổ mang, rắn cạp
nong có hai đầu, và đầu nào cũng đốt chết người cả. Tội ác của phong kiến ta
thông lưng với đế quốc Tây có nhiều mặt nhiều nét. Cướp nước cướp núi
cướp sông cướp biển cướp rừng cướp phố, cướp đồng ruộng và đoạt những
linh hồn người đã sống đời trên những mảnh đất nước ấy. Sự áp bức bóc lột
của hai thằng kẻ cướp ngày, thật là đủ cách. Nó lột người bằng thuế đánh
vào cái này cái kia, nó còn lột truồng người ra và dán lên sự loã lồ thân thể ấy
một cái thẻ sưu hai đồng bảy hào Đông Dương. Mà “thẻ vô sản” thì cũng phải
đóng một đồng. Tố khổ cho nông dân, Tắt đèn không nói ruộng đất, tô tức,
Tắt đèn xoáy vào cái thuế đinh bất nhân đánh vào đầu người hàng năm. Tắt
đèn là câu chuyện khốn khổ của người làm ruộng nghèo phải bán con, lìa
nhà, đi ở vú (nếu chưa là đi ở thổ, đi ăn mày, đi chết đường chết chợ) để
chạy cho xong một cái thẻ sưu. Cái thẻ sưu người thì vĩnh viễn ra tro rồi,
nhưng Tắt đèn vẫn còn truyền lại những xúc cảm phát ra từ những con người
sống ở một thời đại đánh thuế vào mạng người, đánh thuế vào hồn người
sống và cả vào xác người chết. Phải nói ngay ra là chúng ta đang sống giữa
một chế độ tuyệt đối không có sưu thuế gì đánh trực diện vào con người. Thế
hệ trẻ không trực tiếp trông thấy thời kỳ tối tăm trắng trợn kinh tởm đó. Nhưng
tại sao tuổi trẻ thuần khiết lại xúc động được với những con ngưòi “ngày xưa”
đau khổ phức tạp như thế? Người độc giả trẻ tuổi không trực tiếp sống cái
thống khổ của những nông dân tiền khởi nghĩa đó, nhưng đọc Tắt đèn, họ xúc
động với những nhân vật ngạt thở của nó. Trong Tắt đèn, cái gì đã làm cho
họ xúc động? Cái cốt truyện ư? Người trong truyện ư? Cái cách kể lại dựng
lại câu chuyện ư? Mới hay cái cách kể chuyện, cái cách dựng truyện thật
quan trọng. Cũng nội dung Tắt đèn đó, người khác kể hoặc dựng thì có thể là
rung động kém đi, hoặc không rung động gì cả. Mà Ngô Tất Tố kể thì xúc
động như thế đó. Và tôi tin rằng khi tất cả những người nông dân nước ta
được nâng cao mãi văn hoá, thì rồi đây họ càng thưởng thức Tắt đèn, như
bất cứ ai có trình độ tinh tế về mỹ lý, mỹ học, về văn chương, về văn học.
Nông thôn Việt Nam rồi sẽ cơ giới hoá mãi lên, rồi sẽ không bón phân người
một cách tự nhiên chủ nghĩa nữa, rồi sẽ hoá học hoá phân bón, rồi sẽ điện
khí hoá. Tôi muốn vẽ phác trước ra cái ngày hạnh phúc chung đó. Và trong
cái vui ấm đó ở nông thôn xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi nghĩ rằng chị thôn
nữ và anh trai làng xã hội chủ nghĩa đến thư viện nhà văn hoá xã, ngoài
những tiểu thuyết mới nhất, vẫn thích mượn cuốn Tắt đèn mặc dầu những
hình ảnh Tắt đèn rất là xa lạ với họ, xa lạ hàng thế kỷ chính trị, hàng thế kỷ kỹ
thuật canh tác. Quanh họ, quanh hợp tác xã, quanh nông trường, họ biết rằng
không có anh Dậu, chị Dậu nào nữa. Nhưng người độc giả tại thư viện hợp
tác xã ở nông thôn mắc điện sau này vẫn cảm thông với thảm kịch Tắt đèn.
Quanh họ, là ánh sáng, ánh sáng do Đảng đem tới và cho toả ra trên khắp
đồng ruộng. Cái bóng tối của làng cũ đã xua tan rồi. Chính vì cuộc sống nay
đã có ánh sáng mà họ càng xót thương cho giai cấp mình đã có một lúc - một
lúc dài hàng bao nhiêu triều đại phong kiến và cả một thế kỷ Tây chiếm đóng -
sống trong cảnh tắt đèn thường trực. Họ biết rằng từ chỗ tối đất đó họ đã đi
ra. Đảng đã đưa họ ra chỗ sáng ngời. Vợ chồng chị Dậu cũng là những con
người túng đất tối đất đó. Dựng Tắt đèn, Ngô Tất Tố chưa nói được Đảng,
nhưng đã nói được về quần chúng, những con người quần chúng cơ bản,
những con người nông dân nghèo mà tốt. Chị Dậu tiêu biểu cho cái lẽ phải
thông thường của những con người nông dân lành mạnh. Cây lúa thèm ánh
sáng như thế nào thì chị cũng tuông ra khỏi bóng tối như thế. Trong thời cũ,
văn học và văn chương chỉ diễn đạt những tâm trạng phụ nữ thị dân, và thảng
hoặc có chấm phá đến phụ nữ làng, thì chỉ đưa ra những nét thôn nữ dịu dịu,
Ngô Tất Tố đã đưa ra, đã dám đưa ra một nhân vật đàn bà nông thôn khoẻ
khoắn lành mạnh như chị Dậu. Tôi cho đó là một bằng chứng có giá trị mà
Ngô Tất Tố đã góp được vào viện bảo tàng con người Việt Nam tiến lên, tiến
lên dưới cờ Đảng. Tôi nghĩ rằng nếu tôi còn trong cái tuổi cắp sách đều đều
đến trường đại học, thì tôi phải có luận án văn khoa ở đại học về “Người đàn
bà trong văn học Việt Nam”, và tôi không thể không tán bàn đến chị Dậu của
đoản thiên Ngô Tất Tố. Trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa, thấy
sừng sững cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Chân dung chị Dậu còn thiếu
ánh sáng Đảng chiếu vào, nhưng mặc dầu thế, tôi vẫn quý tấm tranh phụ nữ
nay. Dòng cuối cùng của Tắt đèn: “Trời tối như mực và như cái tiền đồ của
chị Dậu”. Tối thật, tối quá lắm, sự sống đến như đời sống chị Dậu thì tối sầm
cả người mặt người đọc truyện hai mươi năm sau này. Nhưng câu kết của
Tắt đèn không hẳn là một câu tiêu cực về bản chất. Bản chất của nhân vật chị
Dậu rất khoẻ, cứ lăn xả vào bóng tối mà phá ra. Một nhân vật khoẻ và mạnh
như chị Dậu, có thể ngừng cuộc đời của mình ở đây không? Hay là là nó phải
tuông ra khỏi cái tối như mực? Vì cái tiền đồ tối như mực ấy mà không tuông
ra khỏi thì sao có sống được? Tôi ngờ câu kết này cũng mới chỉ là cái chấm
hết một thiên của truyện dài. Với một cái tiền thân ngay thẳng lành mạnh như
vậy, tôi nghĩ rằng chị Dậu thế tất phải có một hậu thân trong các đoàn thể
cách mạng; và tôi nhớ như đã có lần nào, tôi đã gặp chị Dậu ở một đám đông
phá kho thóc Nhật, ở một cuộc cướp chính quyền huyện kỳ Tổng khởi nghĩa;
và nếu không thì, chí ít, tôi cũng gặp chị trong những ngày địch hậu o ép, chị
tải thương hoặc đậy nắp hầm bem cho cán bộ cơ sở. Đúng như thế đấy, Tắt
đèn chỉ là một đoản thiên. Lúc bấy giờ chưa có cách mạng ruộng đất, mà đã
có những ngòi bút dồn nhân vật nông dân mình vào chỗ chân tường, dồn đến
cái mức người độc giả có suy nghĩ phải ý thức ngay được cái tuông ra tất
nhiên của nhân vật. Tôi cho đó là dư vị chính trị của Tắt đèn.
Đọc xong rồi cả tập Tắt đèn, mà trong cảm quan trong lôgíc mình,
không thấy loé ra ít nhiều dư vị chính trị đó, thì cũng nên tự phê mình nhiều
hơn là đi phê người, - phê người sao không vặn to lên tí nữa cái bấc đèn nơi
mình ít chịu hút dầu.
(Trích sách Tắt đèn. NXB Văn hoá - Viện Văn học, H. 1962)
TẮT ĐÈN - CUỐN TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC XUẤT SẮCHỒNG CHƯƠNG
Ngô Tất Tố là một cây bút hiện thực chủ nghĩa đặc biệt của nước ta.
Ông là một nhà nho được đào tạo trong nền học cũ nhưng ông tỏ ra là đã tiến
kịp và có chỗ đã vượt được các nhà văn tiên tiến của thời ông. Sự nghiệp
nghiên cứu, phê bình, phiên dịch của ông thì có nhiều, còn sự nghiệp sáng
tác của ông thì có được ít: chỉ vài thiên phóng sự và tiểu thuyết (Tắt đèn, việc
làng, Lều chõng). Tuy ông sáng tác không nhiều nhưng ông đã viết được một
tác phẩm rất có giá trị: Tắt đèn. Tiểu thuyết Tắt đèn là tác phẩm ưu tú nhất
của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam. Với Tắt đèn Ngô Tất Tố đã dựng
lên được một bức tranh về nông thôn Việt Nam dưới thời thuộc Pháp với
những nét tập trung nhất, điển hình nhất.
Trong Tắt đèn Ngô Tất Tố trình bày một gia đình nông dân nghèo vì
thuế thân mà tan nát nhà cửa. Anh Dậu không đủ tiền nộp sưu bị trói ở ngoài
đình làng. Chị Dậu chạy vạy bán con cho tên trọc phú để lấy tiền nộp sưu cho
chồng. Chị chạy vạy được hai đồng bảy hào đóng suất sưu cho chồng.
Nhưng người ta lại đòi chị phải nộp thêm một suất sưu nữa cho em chồng chị
đã chết gần năm tháng. Thế là chồng chị vẫn chưa được tha. Chị Dậu đành
phải bán mình vào nhà quan làm vú sữa. Ngô Tất Tố đã sáng tạo ra được
những hình tượng nhân vật có xương thịt, rất gân guốc, những con người
sống. Trong Tắt đèn Ngô Tất Tố cũng khai thác những đề tài tương tự những
đề tài mà Nguyễn Công Hoan đã khai thác trong Bước đường cùng, nghĩa là
những đề tài về nông thôn và nông dân. Cũng như Nguyễn Công Hoan trong
Bước đường cùng, Ngô Tất Tố trong Tắt đèn đã dùng tư duy hình tượng để
phản ánh hiện thực xã hội mà Qua Ninh và Vân Đình đã dùng tư duy lôgíc để
phản ánh trong tác phẩm vấn đề dân cày xuất bản hồi bấy giờ. Nếu trong
Bước đường cùng việc cướp ruộng của địa chủ là nguyên nhân gây ra sự tan
nát trong gia đình anh Pha thì trong Tắt đèn nguyên nhân gây ra sự tan nát
của gia đình chị Dậu là chế độ thuế thân, tức thứ thuế dã man đánh vào đầu
người (sưu) của “Nhà nước bảo hộ”:
- “Thuế của nhà nước, chị tưởng chuyện chơi đấy sao!”
- “Chết cũng không trốn được sưu của nhà nước!”
Trong Tắt đèn Ngô Tất Tố không chỉ nói đến cái mâu thuẫn giữa nông
dân và địa chủ mà còn nói đến cả cái mâu thuẫn giữa nhân dân ta và bọn đế
quốc thực dân. Vì lý do này hay lý do khác, nhất là vì lý do để tác phẩm có thể
được xuất bản dưới thời thuộc Pháp, Ngô Tất Tố không để cho bọn thực dân
đế quốc trực tiếp “ra trò” trong tác phẩm của mình, nhưng qua guồng máy đàn
áp mà ông đã trình bày trong tác phẩm, qua bộ máy “nhà nước”, “chính phủ”
mà ông thường nhắc đến, người ta thấy thấp thoáng bọn thực dân đế quốc ở
đằng sau. Lúc chị Dậu hỏi vặn tên lý trưởng sao người chết đã gần năm
tháng rồi mà còn phải đóng sưu, tên lý trưởng quát:
- “Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không biết”.
Rõ ràng bộ máy nhà nước được dừng lên trong Tắt đèn từ lý trưởng,
cai lệ, lính cơ, quan phủ, “quan cụ”, ông nghị, v.v.... chỉ là một bọn thừa hành
mệnh lệnh của bọn đế quốc thực dân. Trong Tắt đèn Ngô Tất Tố nói đến một
mâu thuẫn xã hội bao trùm hơn: mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông
dân ta và bọn đế quốc thực dân và bọn địa chủ phong kiến. Trong Tắt đèn
Ngô Tất Tố đã trình bày “một ít tài liệu về tình cảm dân quê” mà ông đã từng
dùng là “món quà” để “tiễn ông Gôđa” trong dịp ông này sang “điều tra” tình
hình Đông Dương đầu năm 1937. Trong bài Chúng tôi muốn tiễn ông Gônđa
bằng món quà này... đăng trên tuần báo Tương lai số ra ngày 25-2-1937, Ngô
Tất Tố đã từng viết: “ở thôn quê, hạng người sống về cây lúa, còn ở dưới bực
thợ thuyền. Thợ thuyền sống ở nhà máy, còn có việc làm, còn có chút cơm ăn
áo mặc, và làm việc còn có thì hạn, chớ bọn dân cày sống về cây lúa kia, thì
bất kỳ ngày đêm, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối, và lúc nào cũng đói cơm rách
áo”. Trong Tắt đèn Ngô Tất Tố đã nói về “hạng người sống về cây lúa” ấy. Nói
về nguyên nhân sự thống khổ của dân quê, trong bài báo kể trên Ngô Tất Tố
đã viết: “Bên cạnh những nạn sưu thuế nặng nề, quan lại đè nén, công xá rẻ
rúng... chúng tôi nhận thấy cái nạn vay lãi chính là thủ phạm trong sự giày vò
hạng người vô sản ở thôn quê”. Nêu trong Bước đường cùng Nguyễn Công
Hoan nhấn mạnh nạn cướp ruộng đất thì trong Tắt đèn Ngô Tất Tố nhấn
mạnh nạn cho vay lãi nặng. Trong bài báo kể trên Ngô Tất Tố gọi cái nạn vay
lãi ở thôn quê là “cái khí giới của bọn phú hào dùng để bóc lột dân nghèo”.
Ngô Tất Tố gọi bọn cho vay lãi nặng là “thứ người đầu trâu mặt ngựa, ăn thịt
người không tanh”. Thế thì bọn cho vay theo “lối bóp hầu bóp cổ, nạo tận
xương tủy” đó là ai? Ngô Tất Tố viết: “Đứng đầu bọn đó thì là một số nghị
viện, hội viên, thông già, ký giả, quan lại về hưu hay còn tại chức”. Vì thế
chúng ta không lấy làm lạ khi thấy Ngô Tất Tố chọn một trong những nhân vật
phản diện chính trong Tắt đèn là nghị Quế, một “ông chủ ruộng kiêm ông chủ
thả lãi”.
Trong Tắt đèn Ngô Tất Tố không nói đến chuyện cướp ruộng vì những
nhân vật chính diện, vợ chồng anh Dậu, không có ruộng; hai vợ chồng anh
chỉ có một cái nhà tranh và mảnh đất làm nhà thì đều đã đem cầm cho hội
ích, một người “bà con giàu có nứt đố đổ vách”. Anh Dậu là một cố nông
“chuyên cày thuê cấy mướn” cho nghị Quế nên không có ruộng để đem bán
hay bị cướp. Anh phải bán vợ bán con, anh phải bán người.
Trong Tắt đèn Ngô Tất Tố đã nêu lên vấn đề vận mệnh con người dưới
chế độ thực dân nửa phong kiến.
Đây là một trong hàng nghìn hàng vạn cảnh bán vợ bán con dưới thời
thuộc Pháp:
“Ông nghị nhắc cái điếu ống để trên chốc tủ, giặt thuốc, châm lửa, vít
cái xe chúc vào miệng. Bắt chân chữ “ngũ” ông vểnh mặt hút sòng sọc một
hơi:
- Con mẹ kia! Bán con bán thế nào? Vào đây nói chuyện với bà!
Rón rén, chị Dậu đứng nép vào cửa và ngập ngừng:
- Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp chúng con.
Bà nghị nhả miếng bã trầu cầm tay, quai thật dài cặp môi cắn chỉ:
- Chẳng cứu với vớt gì cả! Mày có bán đứa con gái tao mua!
- Xin vâng!
- Sáng ngày chồng mày nói rằng con bé ấy đã lên bảy tuổi, xin lấy ba
đồng. Cụ ông tưởng thật, bằng lòng cho nó hai đồng. Nhưng giờ nghe nói con
mày mới có sáu tuổi, thì tao chiết đi một nửa, chỉ cho một đồng thôi. Thuận
bán thì về đưa nhau sang đây!
Chị Dậu ngơ ngác:
- Thưa cụ, thật quả cháu lên bảy, nó đẻ tháng giêng năm Tý. Chúng
con không dám nói dối cửa cụ!
- Tao không thể tin cái miệng vợ chồng nhà mày! Người ta mách tao là
nó lên sáu, thì tao hay nó lên sáu. Chứ tao có biết đâu nó đẻ năm Tý hay đẻ
năm tỵ năm tỳ...!
Chị Dậu đờ mặt không biết nói sao”.
Bán con chưa đủ tiền đóng sưu, chị Dậu còn phải bán thêm đàn chó cả
mẹ lẫn con:
“Chị Dậu thẹn lẹn, nâng dải yếm sẽ chùi vào mắt:
Bà nghị yên ủi:
- Thiếu một đồng nữa, thì xem trong nhà còn có cái gì đáng tiền, thì
đem mà bán nốt đi vậy! Chứ đứa con gái sáu tuổi, bây giờ cho không cũng
không đắt thay, ai đổngồ mà trả mày hơn...
- Thưa lại hai cụ, thật quả nhà con không còn gì đáng giá hai hào.
Bà nghị cười nhạt:
- Sao bảo nhà mày có con chó cái khôn lắm?
- À! Thưa cụ, có! Nhưng mới đẻ, con nó hãy còn non lắm, có bán cũng
không ai mua. Nếu có người mua cho, chúng con đã không phải bán cháu!
- Nó đẻ mấy con? Con nó đã mở mắt chưa?
- Bẩm, bốn con! Nó biết ăn cơm đã hai hôm nay... Hay là xin cụ đỡ con
hai đồng, lờ lãi thế nào con cũng xin vâng. Chỉ độ hai phiên chợ nữa, mấy con
chó ấy cứng cáp, bán được, thì con lại xin nộp cụ.
Bà nghị bĩu môi:
- Tiền tao có phải vỏ hến đâu mà tao quăng ra cho mày bây giờ? Dễ
tao hám lãi của mày lắm đấy! Thôi thế này: chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả
con chó cái và đàn chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con bé
kia một đồng là hai.. Thế nhà mày đủ tiền nộp sưu lại khỏi nuôi chó, khỏi nuôi
con. Sướng nhé!
Rồi bà nghị vui vẻ nhìn mặt ông nghị:
- Ấy tôi cứ hay thương người thế đấy...! Người khác thì mặc kệ, ai hơi
đâu? Kêu lắm thì bã bọt mép”.
Cò kè bớt một thêm hai,cuối cùng ngã giá đàn chó con một đồng hai,
nhưng chị Dậu phải trả cho “ông giáo làm văn tự” hai hào “giấy mực”. Và chị
Dậu chỉ được hai đồng mang về, một đồng bán con, một đồng bán chó. Con
người chỉ đáng giá bằng con chó. Nhưng đó mới chỉ nói về “giá cả” - nói đúng
theo danh từ kinh tế học - còn về “giá trị” thì con người còn kém xa con chó.
Đàn chó con còn được vợ chồng nghị Quế chăm nom săn sóc, cho ăn cho
uống, còn cái Tý con chị Dậu thì bị chúng chê ỏng chê eo, hạch sách đủ điều.
Ta hãy nghe Ngô Tất Tố tả cảnh chị Dậu dẫn con và đem đàn chó tới nộp cho
vợ chồng nghị Quế:
“Mụ nghị phủ đầu bằng giọng gắt gỏng:
- Đã bảo mày lấy cái gì đậy cho mấy con chó con, kẻo nó bị nắng, sao
lại chỉ úp cho nó một cái mẹt rách thế kia?
Thèn lẹn, chị Dậu trả lời bằng câu “lạy cụ”. Rồi, nhờ thằng bếp buộc cái
xích của con chó cái vào cột, chị thong thả hạ rổ chó xuống.
Mụ nghị liếc nhìn cái Tý, the thé, mụ mắng chị Dậu:
- Thế mà cả vợ lẫn chồng cùng dám xưng xưng nói rằng con bé đã lên
bảy. Lên bảy mà bằng cái nhãi thế này à? Bà biết ngay mà! Cái đời nhà
chúng bay có câu nào nói thật!
- Bẩm cụ chúng con không dám nói dối, thật quả cháu lên bảy tuổi,
thằng em nó lên năm, còn con bé nữa lên hai. Con được ba cháu cả thẩy.
Nghị Quế ở sân vừa vào, chỉ vào mặt chị Dậu, hắn tỏ ra người rất oai:
- Im cái mồm. Đừng giở con cà con kê ra đây! Mấy cháu mặc kệ nhà
mày! Đẻ lắm thì bán nhiều, chứ làm trò gì? Mở cái rổ ra.. tao xem mấy con
chó con!”
Bên cảnh người mua lạnh lùng không còn chút nhân tính của bọn trọc
phú, tác giả dựng lên một cảnh trái ngược, rất cảm động về tình người trong
gia đình của người nghèo. Đây là bữa cơm khoai cuối cùng ở nhà mẹ của
con bé trước khi bị đem đi bán:
- “Chị Dậu vừa nói vừa mếu:
- Thôi u không ăn, để phần cho con. Con chỉ được ăn ở nhà bữa này
nữa thôi. U không muốn ăn tranh của con. Con cứ ăn cho thật no, không phải
nhường nhịn cho u.
Con Tý chưa hiểu hết ý câu nói của mẹ, nó xám mặt lại và hỏi bằng
giọng luống cuống:
- Vậy bữa sau con ăn ở đâu?
Điểm thêm một giây nức nở, chị Dậu ngó con bằng cách xót xa:
- Con sẽ ăn ở nhà cụ nghị thôn Đoài.
Cái Tý nghe nói giẫy nẩy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai
vào rổ và oà lên khóc:
- U bán con thật đấy ư? Con van u, con lạy u...?
Ngô Tất Tố có cặp mắt quan sát rất tinh. Ông tỏ ra là người rất am hiểu
nông thôn nước ta. Ông đi sâu vào tâm lý nhân vật. Chỉ vài nét “chấm phá”
ông đã vẽ lên được những con người rất sống.
Ngô Tất Tố đả kích rất sâu cay vào cái đại biểu của các giai cấp thống
trị đương thời là bọn chuyên áp bức bóc lột hà hiếp nhân dân. Ông tả người
nhà lý trưởng “nghênh ngang múa chiếc tay thước và sợi dây thừng” đưa tên
“cai lệ và cây roi song hùng dũng bước vào trong cổng” nhà anh Dậu. Cảnh
bọn cường hào say rượu ở đình làng là một cảnh rất sống, bóc trần sự thối
nát của chế độ đương thời.
Dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố, người ta có thể hình dung được giai cấp
địa chủ Việt Nam, qua những “đống rơm đống rạ lớn bằng quả núi”,qua
những “dinh cơ rộng chừng ba mẫu, quây quần trong bốn bức tường gạch
cắm mảnh chai”. Ta nghe tác giả tả nghị Quế, ông nghị có cái đức “không
thèm biết... chữ” ấy:
“Ông không đi buôn, không đi thầu, chỉ làm ông chủ ruộng kiêm ông
chủ thả lãi.
Đụng đến của ông nhẹ nhất cũng là mười phân. Và vay từ một đồng trở
lên đều phải viết ruộng thay nhà hoặc phải gửi vật gì khác làm đồ bảo đảm.
Quá hạn thì mất. Dinh của ông ở cũng như ruộng nương ông cấy, hạc đồng lọ
sứ ông thờ, phần nhiều là của những người vay nợ hết hạn không trả, bị ông
chiếm lấy và bắt lấy.
Nhà ông đời đời phát về bên hào. Bước đường công danh của ông
cũng bắt đầu từ chức lý trưởng vượt qua những bậc phó tổng, chánh tổng, rồi
cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp sức với nhau đưa ông lên ghế
nghị viện.
Không như những kẻ mặt người dạ thú mượn tiếng “thay mặt dân” để
nịnh hót chính phủ mà xin xỏ việc này việc kia, ông ra nghị trường chỉ cốt mua
cái “vị thứ tân thời”, lấy chỗ mỗi năm vài lần, ăn uống và... ngồi nằm với bọn
tai mắt trong xứ.
Cái đức “không thèm biết... chữ” của ông hơn hẳn các bạn đồng viện,
tuy những ông ấy chỉ xuất thân bằng nghề lái lợn hay cai phu. Vào viện ông
cũng như hầu hết các ông nghị khác, không bàn và không cần nghe ai bàn.
Nhưng ông cũng chỉ ngáp vặt, chứ không ngủ gật bao giờ, vì sợ đôi giày Chí
Long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi ông phải co chân đặt lên mặt
ghế cho hợp thói quen của ông”.
Đó là ông nghị “đại biểu dân”, còn ông quan “cha mẹ dân” thì ra sao?
Ta hãy nghe Ngô Tất Tố tả quan phủ:
“Cái râu mới lạ làm sao! Nó đen như vệt hắc ín và cong như cái lưỡi
liềm. Nó nhọn như mũi dùi nung và bầu như đầu dao trổ. Nó khum khum quắp
lấy hai mép, giống như hai cái cánh dơi. Nó vất vểu vành ra hai mang tai, gần
như hai sừng củ ấu. Nó châu đầu ở dưới ống mũi, như sắp chui vào trong cái
mũi dọc dừa. Nó giúp cho cái mồm lèm bèm thêm dữ dội”.
Việc viên quan phủ âm mưu đẩy vợ đi hiến mình cho quan trên để
được thăng chức và để ở nhà cưỡng hiếp chị Dậu, việc viên “quan cụ” nửa
đêm lần vào rờ chị Dậu... càng bóc trần sự xấu xa bỉ ổi của bọn thống trị
đương thời. Đối lập với sự thối nát về tinh thần của bọn bóc lột thống trị và sự
ganh ăn nhau giữa bọn chúng là phẩm chất cao quý của những người lao
động, là tình thương yêu giai cấp giữa những người nghèo. Bà con làng xóm
đổ xô nhau đến giúp đỡ gia đình anh Dậu những lúc anh gặp hoạn nạn:
“Hàng xóm láng giềng tấp nập đổ đến. Kẻ đón cái Tỉu, ngưòi ẵm thằng
Dần, người ghé tận tai anh mà gọi...”. (trang 113).
“...Một người đàn bà trong làng đi qua trông thấy thương hại, đã bê cái
Tỉu cho bú và dắt thằng Dần đưa đến tận nhà chị rồi...” (trang133).
"... Những lúc vắng chị, cái Tỉu vẫn được bà lão láng giềng đem về bên
ấy, ôm chằm chặp....”.
Bà này xin cho con bà nuôi giúp cái Tỉu đến năm 12 tuổi thì trả lại, trong
lúc tên lý trưởng giục chị Dậu đi hầu quan không để cho chị cho con bú.
Người nông dân trong Tắt đèn chưa phải là người nông dân đã có ý thức về
sức mạnh của mình, chưa biết đoàn kết nhau đứng dậy. Nhưng đó cũng
không phải là ngưòi nông dân hoàn toàn bị động. Bị đẩy đến cảnh khôn quẫn,
người nông dân đó đã đứng dậy chống lại. Ta hãy nghe đoạn chị Dậu đánh
nhau với cai lệ:
“Đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm
sập đến chỗ anh Dậu.
Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay
hắn:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
- Tha này! Tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luông vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi sấn đến để
trói anh Dậu.
Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh độp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh
Dậu.
Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn giúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng
nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã
chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu
sưu”.
Đây là một đoạn văn hay tuyệt tả cuộc đấu tranh tự phát của người
nông dân.
Trong Tắt đèn người nông dân vẫn chưa thấy được ánh sáng của cách
mạng. Đời của họ vẫn “tối như mực”. Đây là đoạn đời của chị Dậu ở trang
cuốĩ cùng của cuốn tiểu thuyết:
“Trong lúc mơ màng, thình lình chị thấy như có người nào sờ tay vào
ngực. Giật mình chị tỉnh dậy. Ngọn đèn Hoa Kỳ đã tắt lúc nào, cánh cửa khép
kín. Trong phòng tối om.
Hoảng hốt chị nắm cái bàn tay ấy và giật giọng hỏi:
- Ai đấy?
Mang tai chị thấy hơi rầm rậm như bị những sợi râu ngắn quét vào rồi
thấy tiếng thì thào:
- Taào! Taào đây! Cụ.... đây. Nằm im.
- Bẩm cụ chúng con là phận tôi tớ.
- Nói cho khẽ chứ. Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh.
Tao không cần gì cái đó.
Buông tay, chị vội vàng choàng dậy, mở cửa chạy té ra sân.
Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị”.
Cuốn truyện kết thúc bằng câu ấy. Cũng như nhiều tác phẩm hiện thực
chủ nghĩa khác hồi bấy giờ, Tắt đèn mới chỉ bóc trần chế độ xã hội đương
thòi, nó chưa thể vạch ra được con đường đi đến tương lai tốt đẹp. Nhưng
không vì thế mà ta đánh giá thấp tác phẩm nghệ thuật ưu tú đó. Với Tắt đèn,
với một cuốn tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa duy nhất đó của ông, Ngô Tất Tố
cũng đã xứng đáng được liệt vào hàng các đại biểu xuất sắc nhất của chủ
nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam.
(Trong sách Phương pháp sáng tác trong
văn học nghệ thuật NXB Sự thật, H. 1956)
TẮT ĐÈN CỦA NGÔ TÂT TỐ, MỘT TÁC PHẨM SÂU SẮC NHẤT VỀ NÔNG DÂN NƯỚC TA TRƯỚC CÁCH MẠNG
NHƯ PHONG
Tắt đèn, một tiểu thuyết của Ngô Tất Tố viết về nông dân nước ta trước
đây, đã được bắt đầu xây dựng vào khoảng đầu năm 1936, và chắc hẳn là
được viết dần từng đoạn theo cách làm việc thường thấy ở các nhà văn kiêm
viết báo, cho đến đầu năm 1939 mới được xuất bản thành sách lần thứ nhất.
Cùng trong thời gian này, từ năm 1936 đến năm 1939, người ta thấy ra
đời nhiều tác phẩm văn học đề cập những sự thật, những vấn đề ở nông thôn
dưới chế độ đương thời. Xu hướng này có cơ sở thời sự của nó. Mấy năm
ấy, dân quê hầu hết các tỉnh miền Bắc lâm vào cảnh kiệt quệ, xơ xác đến phải
bán vợ đợ con, kéo nhau xiêu bạt lên mạn ngược hay đi ăn mày, vì qua luôn
mấy trận lụt bão mất mùa liên tiếp, không còn sờ vào đâu được nữa, mà sưu
thuế của thực dân và nợ địa chủ vẫn cứ đè cái xác giơ xương của họ ra mà
xâu xé. Ở nhiều địa phương, không thể chịu đựng được nữa, họ đã đứng lên
đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, với những hình thức và khẩu hiệu
thích hợp như đòi giảm thuế, chống phù thu lạm bổ, chia lại công điền v.v...
Đời sống tối tăm, quằn quại của nông dân Việt Nam từ bao giờ vẫn là một vấn
đề nóng bỏng phải giải quyết, đến hồi ấy, càng phơi bày ra ánh sáng tất cả
những cái bất công, vô lý của nó. Thực dân Pháp, địa chủ phong kiến và tay
sai của chúng trong “nghị viện”, trong báo chí, cố tìm cách che lấp sự thật,
bày ra trò bịp “cứu tế”, “thuỷ lợi”, “cho vay nhẹ lãi”... để ru ngủ dư luận. Còn
Đảng ta, giữa nhiều nhiệm vụ cấp thiết của thời kỳ Mặt trận Dân chủ, vẫn
không hề coi nhẹ vấn đề nông dân: sách báo của Đảng không ngừng lên
tiếng tố cáo những chế độ, chính sách quái gở ở nông thôn và cổ vũ dân đấu
tranh cho quyền lợi thiết thực trước mắt. Chính trong hồi này, Đảng đưa ra
quyển Vấn đề dân cày (do đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp viết,
dưới tên ký Qua Ninh và Vân Đình), vạch rã nguyên nhân thống khổ của nông
dân, đặt bọn cầm quyền hồi đó dưới ánh sáng của sự thật khiến chúng không
còn có thể lẩn tránh hay lừa bịp được nữa. Cuộc đấu tranh để cải thiện đời
sống nông dân lúc ấy, trước hết là đấu tranh làm rõ thực trạng sau luỹ tre
xanh, đập tan sự dối trá và bưng bít. Cuộc đấu tranh này đã thúc giục các nhà
văn góp tiếng nói.
Văn nghệ bao giờ cũng chỉ là tiếng nói của một giai cấp nhất định trước
mọi vấn đề của cuộc sống.
Các nhà văn lãng mạn của nhóm Tự lực văn đoàn lúc đó cũng thấy viết
nhiều về đề tài nông thôn. Tuy họ không còn dám “phóng xe hơi chạy vụt ra
đường quê... thêu dệt lên những bức tranh đầy thi vị” như cuốn vấn đề dân
cày đã nhắc đến một cách chua chát, nhưng qua một số tác phẩm của họ đả
động đến vấn đề nông dân như Tối tăm của Nhất Linh, Gia đình của Khái
Hưng, Bùn lầy nước đọng và Con đường sáng của Hoàng Đạo v.v... người ta
thấy đôi mắt họ nhìn nông thôn vẫn là đôi mắt từ trên nhìn xuống của những
công tử con ông tuần, ông án, ông chủ đồn điền về thăm trại ấp. Do bản chất
giai cấp, họ đã không nhìn ra nguyên nhân nỗi khổ của nông dân, thậm chí lại
còn dám đổ tại nông dân lười biếng, ngu dốt, tham lợi vặt cho nên mới bị khổ
không ngóc lên được. Họ tưởng tượng ra những chuyện ngược đời: nông
dân được chính tay các địa chủ săn sóc, giúp đỡ cho được no ấm, học hành,
ăn ở có vệ sinh... Họ định giải quyết vấn đề nông dân theo đường lối cải
lương của họ là xoá nhoà mâu thuẫn giai cấp, cải cách đôi chút trên hình thức
mà không động gì đến căn bản chế độ bóc lột phong kiến.
Một số nhà văn hiện thực, trung thành với những sự thật của cuộc
sống, lại chẳng có quyền lợi gì riêng cần phải che giấu, tô vẽ cho bộ mặt thật
của xã hội lúc đó, nên khi viết về nông thôn đã tương đối nhận rõ được những
nguyên nhân đã làm cho nông dân điêu đứng. Cùng với Tắt đèn của Ngô Tất
Tố, có quyển Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng và ra đời cách sau ít lâu là quyển
Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, cả ba tác phẩm này cùng đưa ra
những cảnh ngộ khốn quẫn của người dân quê thấp cổ bé miệng và vạch rõ
những thủ đoạn bất nhân của cả một hệ thống kẻ cướp lớn nhỏ chuyên sống
bằng bóc lột, hà hiếp, đục khoét họ, cả ba cùng có tác dụng lưu ý người ta
đến những chuyện bất bình thê thảm đang xảy ra hàng ngày trong các làng
mạc xanh tươi êm đềm, tố cáo những thủ đoạn đang làm cho dân quê sống
dở, chết dở và như vậy góp được những tiếng nói khá mạnh vào cuộc đấu
tranh đòi giải quyết cấp bách và thiết thực vấn đề nông thôn lúc bấy giờ.
Tuy vậy, do vốn hiểu biết về nông thôn, thái độ đối với nông dân,
khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật của mỗi tác phẩm cũng khác nhau.
Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng quất được một roi khá mạnh vào bộ mặt
vừa gian ác, vừa đê tiện của những tên quan lại hồi ấy, gặp nạn lụt là một tai
hoạ ghê ghóm cho đời sống nông dân mà chỉ thấy ngay đó là một cơ hội tốt
để xoay tiền, ăn chặn của nhân dân và tỏ lòng mẫn cán lấy lòng “quan trên”
hy vọng thăng thưởng. Vũ Trọng Phụng cũng vẽ được khá sắc cạnh tính cách
vô lương tâm của những tên tư bản đầu cơ, thừa phái, lính lệ, kỳ hào, v.v...
cả một bọn người chỉ chuyên sống bằng những mánh khoé lừa lọc, xảo
quyệt, độc ác. Nhưng trong khi khinh bỉ bọn người xấu xa, đểu cáng này, thì
đồng thời Vũ Trọng Phụng cũng tỏ ra khinh bỉ cả nông dân là những nạn nhân
của chúng. Nhà văn này luôn luôn tả nông dân như những người không có ý
thức, không có xúc cảm, có lẽ do chịu khổ nhục mãi đã thành quen không biết
suy nghĩ nữa. Đoạn truyện tả cuộc biểu tình xin hoãn thuế mà nhiều người
vẫn ca tụng, xét kỹ ra chẳng phải để đề cao lực lượng của nông dân mà lại
chính là để gây hoài nghi đối với ý thức đấu tranh của quần chúng nông dân.
Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan tuy không tỏ ra khinh miệt
nông dân lộ liễu như Vũ Trọng Phụng, nhưng cũng chỉ thấy nhấn mạnh nhiều
vào những mặt tiêu cực, lạc hậu của họ, khiến cho đến đoạn cuối, khi thấy
ông cho những nhân vật nông dân của ông nổi dậy đấu tranh một cách có tổ
chức đối với địa chủ, người ta không khỏi thấy là giả tạo.
Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một tác phẩm, mới thấy bề ngoài có vẻ như
hẹp hơn hai quyển trên. Nó không bao gồm nhiều cảnh, nhiều nhân vật, nhiều
tình tiết. Nó cũng không để lộ ý định nêu lên một vấn đề để giải quyết. Câu
chuyện chỉ xoay quanh một cuộc thúc thuế trong một làng nhỏ, những nỗi khổ
nhục, ai oán, tan nát xảy ra đến cho một đôi vợ chồng nông dân nghèo thiếu
thuế... Tác giả chỉ kể lại câu chuyện ấy một cách giản dị, nhũn nhặn, không
đưa ra một kết luận sẵn có nào cho người đọc. Nhưng đọc xong, so với hai
tác phẩm kia, ta thấy Tắt đèn đem lại cho ta một nhận thức sâu sắc và mạnh
mẽ rất nhiều về nỗi thống khổ của nông dân, về tội ác của thực dân, phong
kiến.
Trong Tắt đèn, ta thấy người nông dân lao động Việt Nam, như hai vợ
chồng chị Dậu, là những người cần cù, chăm chỉ “hết năm ấy sang năm khác
đầu tắt mặt tối, không dám chơi ngày nào!”. Họ luôn luôn quên mình để nghĩ
đến người khác: chị Dậu lo chồng thiếu thuế bị trói, đánh đập khổ sở nên
chạy ngược chạy xuôi chẳng còn biết tiếc gì thân mình; cái Tý mới bảy tuổi
đầu đã bị đem bán đi làm đầy tớ, sợ nhất bị xa cha mẹ “không biết ăn với ai,
ngủ với ai”, nhưng hiểu cảnh nhà khó khăn cũng đành tuân lời mẹ. Họ lại có
nhân cách trong sạch: chị Dậu bị cưỡng ép nhưng không tham tiền, không sợ
thế, quyết giữ tiết với chồng. Những người như thế đáng lẽ phải được sống
no đủ trên miếng đất do chính họ đổ mồ hôi ra vun tưới, gia đình sum họp,
làng xóm vui vầy. Nhưng cuộc sống của họ cứ mỗi ngày một kiệt quệ, khôn
quẫn, tuyệt vọng. Nợ cứ mỗi ngày một một chồng chất. Con đói không moi
đâu ra được hột gạo. Ốm đau không có việc vẫn phải nai lưng ra chạy thuế
cho mình và cho cả phần người đi vắng hay đã chết. Thiếu vài đồng thuế bị
chăng trói cùm kẹp, phải rứt ruột bán đứa con mới lên tí tuổi đầu vào một cửa
địa chủ có tiếng tàn bạo, keo kiệt. Đàn bà một nách hai con mọn, mà vẫn phải
đêm ngày tất bật chạy xuôi chạy ngược, túng quá phải bỏ nhà đi kiếm ăn, thì
lại luôn luôn bị đe doạ sa vào tay những con quỷ dâm dục có tiền có thế. Tiền
đồ của họ rất mù mịt. Vì đời họ không phải chỉ qua một vụ thuế này là đã
thoát nạn, mà còn bao nhiêu tai hoạ thiên nhiên và xã hội chờ đợi sẵn...
Tại sao họ lại cực như vậy. Kẻ nào đẩy họ đến chỗ khốn quẫn cùng
đường như vậy? Ngô Tất Tố không nêu lên toàn bộ những nguyên nhân
thống khổ của nông dân, mà chỉ nêu lên hai:
1. Nạn sưu cao thuế nặng của thực dân, với những cách bổ thuế rất
độc đoán, vô lý, với hàng trăm nghìn mánh khoé phù thu lạm bố của bọn quan
lại, kỳ hào mà bọn thực dân dung túng để thu cho được thuế.
2. Nạn cho vay cắt cổ của địa chủ nhè lúc người ta cùng quẫn mà bắt
gán vợ gán con, cầm nhà cầm đất... Tác giả chỉ nêu lên hai nguyên nhân này
là hai thủ đoạn bóc lột chủ yếu của đế quốc và phong kiến đối với nông dân,
làm cho họ điêu đứng, nguy hại hơn cả.
Để bóc lột được dễ dàng, thực dân duy trì ở nông thôn một bộ máy đàn
áp gồm quan lại, lính lệ, kỳ hào... tàn bạo như thời trung cổ: không cần pháp
luật nào cả, coi khinh tính mạng và tài sản của nhân dân lao động như cỏ rác,
bất cứ lúc nào muốn trói người, cùm kẹp người, bắt giam người thì tha hồ tuỳ
tiện... Người dân quê sống trong khủng bố thường xuyên.
Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã vạch rõ thực chất nguyên nhân khổ cực
của dân quê, hơn thế nữa còn chỉ đích danh được thủ phạm: đế quốc Pháp
và địa chủ phong kiến, với cả chế độ, áp bức của chúng.Trong một thời kỳ mà
bọn thống trị cố che phủ bộ mặt thật của chúng, mà một số người còn có
những nhận thức mơ hồ, lẫn lộn về sự thật ở nông thôn, nhà văn hiện thực
của chúng ta phơi trần nguvên hình kẻ thù của nông dân ra ánh sáng.
Thái độ của Ngô Tất Tố rất dứt khoát, ông tả bọn quan lại của thực dân
và bọn địa chủ một cách khinh ghét bao nhiêu thì khi nói đến người nông dân
lao động ông tỏ ra thương yêu bấy nhiêu. Bọn quan lại, địa chủ. không còn gì
là tính người. Trái lại, người nông dân của ông, từ một em bé lên bảy, từ một
bà già hàng xóm cũng được ông trân trọng ghi lại từng lời nói, từng tình cảm
hoặc từng hành động.
Ngô Tất Tố đã góp được tiếng nói mạnh mẽ, rung động nhất trong các
tiếng nói tố cáo chế độ thực dân phong kiến và tội ác của chúng đối với nông
dân. Cuốn Tắt đèn không có kết luận, nhưng sự thật đọc xong, người ta
không thể không thấy một câu kết luận tự nhiên nảy ra tự chính lòng mình:
“Trên đời này, không thể để những cái bất công, vô lý ấy tồn tại mãi mãi
được!”. Đó là tác dụng của văn học hiện thực phê phán trước đây mà bây giờ
chúng ta có đủ lý do để nhận rằng Tắt đèn là một tác phẩm tiêu biểu sâu sắc
nhất.
Dĩ nhiên, Tắt đèn còn một nhược điểm của nó là bi quan với tiền đồ, với
vận mệnh của nông dân. Nhà văn lão thành Ngô Tất Tố, sau này là đồng chí
Ngô Tất Tố trong hàng ngũ Đảng, lúc ấy còn bị hạn chế trong nhận thức chính
trị, không thể nhìn thấy rằng dưới sự lãnh đạo và tổ chức của Đảng, nông dân
nhất định sẽ tự giải phóng khỏi chế độ thực dân và phong kiến. Nhưng dù
sao, nhà văn Ngô Tất Tố ở vào hoàn cảnh lúc ấy đã làm được một việc rất
đáng quý với cuốn tiểu thuyết Tắt đèn: đọc xong, không ai còn có thể lãnh
đạm, bàng quan với vấn đề nông dân, còn không căm thù đế quốc và phong
kiến.
Hơn hai mươi năm qua. Ngày nay, nông dân nước ta đã qua một cuộc
đấu tranh long trời lở đất, đánh bật đến gốc rễ quan hệ bóc lột phong kiến và
bước lên một cuộc đời mới, tự do và hạnh phúc. Nhưng Tắt đèn, ghi lại nỗi
thống khổ đen tối, mù mịt của nông dân trước kia, vẫn còn giữ nguyên được
giá trị của nó: vì nó giúp ta so sánh giữa cuộc đời bây giờ và cuộc đời ngày
trước, tăng thêm nhiệt tình phấn đấu trong công cuộc cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện nay.
(Trích sách Bình luận văn học. NXB Văn học, H. 1977)
TẮT ĐÈN CỦA NGÔ TÂT TỐNGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Ngay khi mới ra đời, Tắt đèn đã được thừa nhận là một tác phẩm có giá
trị.
Trên tờ Thời vụ năm 1939, Vũ Trọng Phụng viết: “Tắt đèn là một thiên
tiểu thuyết có luận đề xã hội, hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có
thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy”.
Nhiều báo chí tiến bộ cũng lên tiếng khen ngợi Tắt đèn. Phú Hương,
trên tờ Đông phương năm 1939, nhận định tác giả Tắt đèn đã mô tả được
“những sự tàn bạo ghê gớm, những chuyện hà lạm hèn mạt, những cảnh đói
nghèo tai hại” ở nông thôn, và với tác phẩm này, tác giả “đã thành công một
cách vẻ vang hết sức”. Cùng năm ấy, trên báo Mới, Minh Tước cho rằng:
“Ngô Tất Tố đã dùng được đặc sách cái phương pháp khách quan để tả ra
cho chúng ta biết rõ ràng những cảnh tượng nơi hương ẩm, là một chỗ mà
người ta nhờ ông, nhận thấy rất nhiều sự mâu thuẫn và hủ nát”, về mặt nghệ
thuật thì sự thật được trình bày trong tác phẩm “không còn là những điều biện
giải khô khan của luân lý, mà nó đã gắn với luyện vào được cái nghệ thuật
uyển chuyển của một tiểu thuyết gia”.
Ngày nay chúng ta đều nhận thấy Tắt đèn là một trong những tác phẩm
xuất sắc nhất trong dòng văn học hiện thực phê phán của nước ta từ 1930-
1945.
Chủ đề Tắt đèn đã được tác giả nghiền ngẫm từ lâu. Năm 1936, trên
báo Tương lai, Ngô Tất Tố đã đăng một truyện ngắn lấy tên Một ổ chó và một
đứa con. Đó chính là một chương trong tiểu thuyết Tắt đèn sau này.
Thực ra, cuộc sống “tắt đèn” tối tăm thê thảm của nông dân dưới ách
thực dân phong kiến, đối với Ngô Tất Tố, vốn là đề tài phổ biến của nhiều
truyện ngắn và bài báo.
Điều đó không phải là ngẫu nhiên.
Trước hết phải nói đến ảnh hưởng của đường lối của Đảng trong thời
kỳ Mặt trận Dân chủ. Trong thời kỳ này, Đảng rất chú ý đến vấn đề nông dân.
Năm 1936, tác phẩm Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình ra đời. Báo
chí của Đảng và các tờ báo tiến bộ, hàng ngày đề cập đến vấn đề nông dân,
đấu tranh chống lại chính sách sưu thuế tàn nhẫn của thực dân và sự áp bức
bóc lột của bọn quan lại, cường hào, địa chủ, đòi cải thiện đời sống cho dân
cày. Điều đó có tác dụng lớn tới sự chuyển hướng của văn học. Ngay Nhất
Linh cũng phải vội vàng ghi thêm vào lý lịch nhân vật cậu ấm giàu sang của
mình một cái tiền thân mang dòng máu nông dân lao động (Hai vẻ đẹp). Vấn
đề nông dân trở thành một đề tài lớn của văn học hiện thực phê phán. Vũ
Trọng Phụng viết Vỡ đê, Nguyễn Công Hoan viết Ông chủ, Bước đường
cùng, Chiếc quan tài...
Như vậy, không phải Ngô Tất Tố là người duy nhất viết về người nông
dân. Nhưng phải nói rằng ông đã quan tâm đến vấn đề này một cách tập
trung hơn và với tất cả tâm huyết của mình, ở ông, yêu cầu của thời đại đã
trờ thành sức thôi thúc bên trong, do tình cảm của ông vốn đã gắn bó với
nông dân lao động, trước hết là ở quê hương mình, ngay từ tuổi nhỏ.
Nói đến người nông dân ở quê hương Ngô Tất Tố, ta cũng có thể nghĩ
đến những cô gái Bắc Ninh tình tứ, đặc biệt là những cô gái cầu Lim, đình
cẩm mà nhà văn có lần nói đến trong tác phẩm Tắt đèn. Trên những cánh
đồng lúa bao quanh thành Cô Loa, chân núi Tiêu Sơn, hay trải dài hai bên bờ
sông Đuống, Ngô Tất Tố trong những ngày sống ở quê nhà hay theo cha đi
dạy học làng này, làng khác, từng nhìn thấy những cô gái Bắc Ninh ấy, không
phải chỉ biết cả ngày cúi nhìn cái bóng mình in sẫm trên mặt ruộng lầy, mà
nhiều khi cũng biết ngẩng trông một đàn cò trắng, dõi tìm một bóng người xa,
để thả hồn bay theo những ước mơ hạnh phúc, gửi trong những điệu hát, lời
ca của quê hương quan họ.
Nhưng dưới chế độ thực dân phong kiến, hạnh phúc chỉ là ước mơ,
nghèo đói, đau thương mới là sự thật. Cũng như tất cả những người dân
nghèo ở khắp nông thôn Việt Nam trước cách mạng, người nông dân Bắc
Ninh từ bao đời vẫn triền miên trong cảnh bần cùng, tăm tối. Sưu thuế, thực
dân quan lại, cường hào, địa chủ... biết bao tai hoạ đã đè lên cuộc đời họ,
cuốn phăng tất cả cái túp lều họ vẫn chui ra chui vào, cuốn phăng cả sinh
mệnh của họ nữa. Hai năm trước khi tác phẩm Tắt đèn ra đời, một nạn lụt
khủng khiếp đã tràn ngập 6 huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh khiến cho “tới 146.634
người nông dân thất cơ lỡ vận, không có kế sinh nhai. Trong số đó thực dân
chỉ chọn 33.161 người khoẻ mạnh đi phu đắp đê. Còn thì đi ăn xin, lang thang
đầu đường xó chợ!”.
Ngô Tất Tố đã chứng kiến những tai họa đó với con mắt của một người
mà chính gia đình, làng xóm là những nạn nhân trực tiếp. Ông đã cất tiếng
kêu Bắc Ninh cấp cứu - cấp cứu cho những người nông dân đói khát đến
tuyệt vọng vì bị bóc lột, vì thiên tai, vì thất nghiệp. Ông đã từng thiết tha Mời
ông Godart thăm mấy nơi này: thăm “hàng nghìn gia đình vì thiếu áo, thiếu
cơm mà muốn sống không được sống, muốn chết không được chết...”.
Mớ rau trong hòm là truyện ngắn viết về vợ chồng một cố nông đói
khát, ốm đau, phải kéo cuộc đời “như cái án chung thân” khủng khiếp. Cái đói
tàn nhẫn đã làm vợ chồng anh không thể giữ tình nghĩa với nhau được nữa:
người vợ đành phải để mặc chồng chết đói cho “thoát nạn”.
Truyện ngắn Cái bánh chưng tả cảnh sống cơ cực của một nông dân
nghèo phải nhịn đói trong ngày Tết. Tác phẩm có những đoạn cảm động viết
về những đứa trẻ đói khất giống như tình cảnh chị em Tý trong Tắt đèn.
Tóm lại, Tắt đèn không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên. Nó là sự
tổng hợp về bề rộng và nhất là về bề sâu của những điều tác giả đã quan sát,
đã từng trải, đã suy nghĩ rất nhiều từ trước về đời sống của nông dân Việt
Nam.
Tắt đèn đưa ta vào thẳng một hoàn cảnh náo động, căng thẳng nhất ở
làng Đông Xá trong vụ thuế, cổng làng đóng chặt, việc đồng áng đình đốn,
dân làng bị dồn lại, và bọn cường hào bắt đầu đốc thuế bằng gậy gộc, cùm
kẹp. Giữa tiếng thúc giục dồn dập của “mõ cá trên cột đình”, "trông cái dưới
xà đình”, người nông dân, đầu óc căng thẳng, hoặc chạy ngược xuôi vay nợ,
cầm đồ, hoặc kêu khóc thảm thiết. Sau lũy tre xanh, làng Đông Xá êm đềm,
lặng lẽ bỗng trở nên một bãi chiến trường.
Thực ra, quanh năm, không lúc nào ở nông thôn Việt Nam không diễn
ra cuộc xung đột gay gắt giữa bọn quan lại, bọn cường hào địa chủ với nông
dân lao động. Nhưng cuộc xung đột đó trở nên tập trung nhất và bộc lộ ra một
cách tàn bạo nhất trong vụ thuế.
Chọn vào một thời khắc bất bình thường, tác giả đã nói lên được cái
bình thường phổ biến nhất ở nông thôn với mức độ tập trung nhất, điển hình
nhất.
Thuế má là một tai họa khủng khiếp của nông dân trước cách mạng.
Trong mối tai họa đó, tác giả xoáy sâu vào nạn thuế thân, một thứ thuế hết
sức dã man của chế độ thực dân phong kiến.
Trong bản Dự án cải cách thuế thân thảo ra, năm 1938, Qua Ninh và
Tô Dân đã vạch rõ: Thuế thân, một di tích trung cổ còn sót lại mà hiện nay chỉ
có người Xiêm và ngưòi Đông Dương còn phải chịu; một thứ thuế đánh vào
đầu người chỉ vì cái lý do giản dị là người ấy đã sinh ra làm người...”, “nghe
nói đến thuế thân, người Âu Mỹ phải lắc đầu lè lưỡi, vì thấy cái thuế quái gở
ấy hãy còn sống sót lại trong thế kỷ thứ XX này” (Tập sách Dân chúng)
Xoáy sâu vào một thứ thuế có tính chất vô nhân đạo nhất, tác giả đã
phơi bày được tính chất dã man của chế độ thực dân phong kiến một cách
sâu sắc, điển hình nhất.
Dưới chế độ đó, người sống bị bóc lột trần ra mà đánh thuế, đến người
chết cũng bị dựng dậy để bóc lột thêm một lần nữa. Vì cái thẻ thuế thân của
người sống, anh Dậu đã bị trói ở cột đình giữa lúc ốm đau, chị Dậu đã phải
bán cả con lẫn chó, phải nhẫn nhục chịu đựng những “quả phật thủ” của bọn
lính tráng, cùng những lời rủa xả ác độc của vợ chồng nghị Quế. Nhưng còn
cái thẻ sưu của người em chồng "chết dở năm Tây”! “Quan Tây và vua quan
ta dựng cái xác chết Hợi dậy, đòi cho kỳ được cái suất sưu “món nợ nhà
nước” đó. Cái người chết Hợi như một thứ tang trùng làm chết lây đến người
trong nhà”. Chị Dậu, đến nước ấy, thì thật là cùng đường, tuyệt lộ. Tiếng kêu
uất ức của chị tưởng chừng như vút lên đến tận trời xanh: “Ôi trời ơi! Tôi bán
cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bạc. Tưởng rằng đã đủ
tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn
suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn
phải đóng sưu hở trời! Tôi biết đâm đầu vào đâu cho được hai đồng bảy bạc
bây giờ?”.
Hoàn cảnh điển hình đó đã làm nổi bật lên những tính cách điển hình.
Những người đã từng sống ở nông thôn Việt Nam trước tháng Tám
1945, hẳn là đã có lần trông thấy nghị Quế. Hắn là tên địa chủ bình thường
nhưng rất điển hình cho giai cấp địa chủ Việt Nam.
Đó là một tên trọc phú ngu dốt. Với lối bóc lột theo kiểu trung cổ thô sơ,
bọn địa chủ, nói chung, không cần đến văn hoá bao nhiêu. Nghị Quế có cái
“đức” lớn là “không thèm biết chữ”.
Tính chất trọc phú đó dễ nhận thấy ở lối kiến trúc và bài trí nhà cửa của
hắn “muốn phản đối mỹ thuật bằng những khung cửa ngang phè, những cây
cột phục phịch và những con rồng, con phượng xanh đỏ vẽ ở ngoài bộ cánh
cửa sơn vàng", ở cách bài trí trong nhà khách với cái tranh quảng cáo sữa bò
treo giữa đôi câu đối sơn đen, với một rổ trứng gà đặt trong cái tủ chè chạm
dây nho, trên một bộ khay chén.
Tính chất trọc phú của hắn còn tỏ rõ trong cách ăn uống:”… bưng bát
nước canh, trợn mắt, húp một cái đánh “soạt”, (...) vừa nhai vừa nói”, “…
bưng tách nước uống một hớp, súc miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuông
nền nhà”.v.v...
Chủ nghĩa tư bản Pháp đã đưa vào xã hội phong kiến Việt Nam, nhất là
ở thành thị, lối sinh hoạt tư sản. Đối với lối sống cũ kỹ của bọn địa chủ ở thôn
quê, cái gì ở thành thị đều là sang, là “tân thời”, “văn minh” cả. Nghị Quế đã
tiếp thu cái “văn minh” ấy một cách cũng rất trọc phú. Hắn dặn vợ phải gọi
con gái là “mợ” như những bà ký, bà phán trên tỉnh, hắn rất thoả mãn với cái
đồng hồ mua trên tỉnh đánh 11 tiếng vào lúc có còi tàu 1 giờ chiều, v.v...
Nghị Quế giàu có nhưng rất keo kiệt bủn xỉn. Đây cũng là một đặc điểm
chung của địa chủ với lối bóc lột và tích lũy tài sản hết sức bẩn thỉu lạc hậu.
Nghị Quế có một dinh cơ lớn với đoàn bịch vựa đồ sộ chứa thóc hàng bốn
năm, năm năm, nhưng vợ chồng hắn ăn một đĩa giò kho làm mấy bữa, mỗi
lần treo cái niêu giò lên lao màn lại đếm kỹ từng miếng. Mua một ổ chó và một
đứa con chị Dậu, vợ chồng cò kè mặc cả từng hào và giở đủ mánh khoé, khi
dụ dỗ, khi hăm dọa, đến lúc trả tiền lại cố tình ăn cắp mỗi đồng mấy xu...
Nghị Quế rõ ràng mang tính chất phản động của giai cấp địa chủ. Lịch
sử chính trị của hắn “bắt đầu từ chức lý trưởng, vượt qua những bậc phó
tổng, chánh tổng, rồi cơm rượu, bò lợn và quan phủ quan tỉnh hiệp sức với
nhau đưa ông hắn lên ghế “nghị viện”. Dĩ nhiên, đó chỉ là một tên “nghị gật”,
song bọn thực dân muốn tổ chức được cái trò hề “Viện dân biểu” ấy để lừa
bịp nhân dân ta, chính là phải dựa vào những người như hắn.
Trong tất cả những ngón ăn chơi của Nghị Quế chỉ có ngón xem tướng
chó là sành sỏi hơn cả. Hắn rất tự hào về cái “tài hoa” đó - “Biết cái gì vất vả
cái ấy” - vì nó đã giúp hắn làm thân với bọn quan lại, viên chức trên tỉnh.
Đối với nghị Quế, cái gì của Tây — trong quan niệm đương thời, Tây
chỉ là thực dân Pháp — cũng là sang, là oai: thời Tây thì giờ là vàng bạc,
đồng hồ Tây bao giờ cũng đúng v.v... Hắn mang trong huyết mạch tinh thần
nô lệ của giai cấp địa chủ.
Tiếng trống thúc thuế đã đẩy mẹ con chị Dậu vào nanh vuốt của nghị
Quế, ta càng thấy rõ bộ mặt hết sức vô nhân đạo của giai cấp địa chủ.
Nghị Quế không phải là một tên bạo chúa như nghị Hách trong Giông
tố. Nghị Quế cũng không có những “chương trình” chiếm đoạt đầy mưu cơ
phức tạp như nghị Lại trong Bước đường cùng. Ngô Tất Tố chỉ tả hắn như
một “ông chủ ruộng kiêm ông chủ thả lãi” bình thường, nhưng bản chất tàn ác
của hắn vẫn bộc lộ ra một cách đậm nét.
Ngô Tất Tố đã dùng một loạt chi tiết vừa chân thực, vừa điển hình để
bóc trần bản chất địa chủ của vợ chồng lão nghị. Chẳng hạn như thái độ
dửng dưng của chúng, thản nhiên ngồi ăn, mặc cho chị Dậu bị cả một đàn
chó xúm lại cắn “máu tươi chảy ra đầm đìa”v.v...
Nhưng đặc biệt, Ngô Tất Tố đã xoáy vào tính chất chó má của vợ
chồng địa chủ này, nhân việc chị Dậu đem đến bán tại nhà chúng một sinh
mệnh người và năm con chó. Cái Tý với bao nhiêu công lao sinh dưỡng của
bố mẹ nó trong sáu, bảy năm trời, với bao nhiêu tình nghĩa của mẹ con, chị
em nó, vợ chồng nghị Quế đã lạnh lùng bắc lên mà cân với mấy con chó con
để so kè tính toán xu một.
“Thôi, thế này: chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con chó cái và đàn
chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con bé kia một đồng là hai...
Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu lại khỏi phải nuôi chó, khỏi nuôi con. Sướng
nhé!”
“...Thôi, cho thêm hào nữa, thế là vừa con, vừa chó, cả thảy được hai
đồng mốt. Bằng lòng không?”....
Đểu giả hơn nữa, nó còn bắt cái Tý ăn chỗ cơm thừa của chó “kẻo phí
của giời”! Nó điên tiết lên khi cái Tý khóc không chịu ăn: “Mày ăn cơm chó
nhà bà cũng không đáng đâu. Con chó nhà bà còn được mấy chục, con
người như mày, bà chỉ mua một đồng đấy thôi”. Và như thế, cho rằng chưa
đủ ác, mụ địa chủ còn nghiến răng kèn kẹt: “Bà truyền đời báo danh cho mày,
từ giờ đến mai, phải ăn hết cái rá cơm ấy, rồi mới được ăn cơm khác!”.
Miêu tả thật sắc thái độ nghị Quế đối với con người trong một trường
hợp cụ thể, tác giả đã làm cho ta căm thù giai cấp địa chủ một cách sâu sắc,
thấm thìa.
Thực ra, thái độ miệt thị con người hơn súc vật, không phải không có ở
một số nhân vật nhà giàu của các nhà văn khác. Nhưng điều cần thấy ở đây
là thái độ tàn ác đó của địa chủ đã được tác giả miêu tả với một sức thuyết
phục mạnh mẽ. Sức mạnh đó của ngòi bút ông, căn bản là do ông đã nắm
vững sự thật, từ bản chất cho đến những chi tiết sinh động của hiện tượng.
Đối với bọn địa chủ cũng như mọi thế lực thống trị, bóc lột, thái độ phê
phán của Ngô Tất Tố nói chung là rất dứt khoát. Từ “cụ cố” dê già, lão tri phủ
hiếp người, tới lũ cường hào đầu trâu mặt ngựa tham ăn tục uống ở làng
Đông Xá, ngòi bút Ngô Tất Tố tỏ ra không một chút khoan nhượng. Ông chưa
có quan điểm giai cấp, nhưng, từ đầu đến cuối truyện không bao giờ lẫn lộn
ban thù. Đó là điều mà không phải nhà văn hiện thực phê phán nào lúc bấy
giờ cũng có thể có được.
Nhưng giá trị độc đáo nhất của Tắt đèn không phải là ở chỗ phê phán,
phủ định, mà ở chỗ khẳng định: “Ngô Tất Tố đã đưa ra, đã dám đưa ra một
nhân vật đàn bà nông thôn khoẻ khoắn lành mạnh như chị Dậu. Tôi cho đó là
một bằng chứng có giá trị mà Ngô Tất Tố đã góp được vào viện bảo tàng con
người Việt Nam”.
Chị Dậu quả thực là một điển hình phụ nữ nông dân xuất sắc nhất của
văn học Việt Nam trước cách mạng.
Chị Dậu tiếp nối hình ảnh truyền thống của người phụ nữ Việt Nam xưa
trong truyện cổ tích, truyện Nôm: người phụ nữ có tâm hồn đẹp đẽ mà gặp
phải nhiều oan trái, bị xã hội tàn bạo chà đạp xuống tận bùn đen.
Chị Dậu vốn nhà nghèo, từ ngày đi lấy chồng lại ngày một nghèo khổ
hơn. Sau khi mẹ chồng và em chồng chết thì gia đình chị đã “lên đến bậc nhì,
bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Chồng ốm nằm nhà, chị phải cáng đáng mọi
việc để nuôi sống năm miệng ăn. Tới vụ thuế, chồng bị bắt, con phải bán, bản
thân bị đánh đập, cùm kẹp, bị bắt lên quan, suýt bị hãm hiếp... chị Dậu cứ bị
đẩy mãi vào “hết hạn nọ đến hạn kia” không sao thoát ra được. “Khốn nạn!
Cái thân đàn bà như nó thật là khổ sở đủ đường” - Chồng chị cũng thấy vậy.
Nhúng chính trong cảnh khổ cực cùng đường đó, ta càng thấy rõ
những đức tính đẹp đẽ của chị.
Chị Dậu có lòng thương yêu chồng con tha thiết. Gặp bao nhiêu cảnh
khổ cực, oan ức, chị có than thở cho số phận của mình, chị có tiếc nhớ
những ngày thơ trẻ vô tư của mình để “giật mình mình lại thương mình xót
xa”. Điều đó rất chính đáng. Song tấm lòng của chị, trí não của chị chủ yếu là
dành cho chồng con. Chị thương chồng ốm đau mà bị cùm kẹp, đánh đập, chị
tìm mọi cách để cứu sống chồng. Hai lần chị lấy thân che chở cho chồng
trước đòn roi tàn nhẫn của bọn lính tráng: “Có đánh thì ông cứ đánh tôi đây
này. Bao nhiêu tôi xin chịu cả. Chồng tôi ốm đau chẳng làm gì nên tội”. Phải
bán con, chị đứt từng khúc ruột, lúc nào chị cũng nghĩ đến tình cảnh đứa con
không tội tình gì chẳng qua vì một suất sưu của bố, khiến cho nó phải lìa bố,
lìa mẹ, lìa các em, đem thân đánh đổi lấy một đồng bạc. Đến khi bị giải lên
huyện, ngồi trong quán cơm mà nhịn đói, với “sợi dây thừng gò ở hai cánh”,
chị vẫn chỉ nghĩ đến chồng, đến cái Tỉu, thằng Dần, cái Tý. Lòng vị tha, đức
hy sinh của chị Dậu, chính là một nét điển hình của người phụ nữ lao động
Việt Nam.
Trong hoàn cảnh “trăm dâu đổ đầu tằm”, ta càng thấy chị Dậu thật là
một phụ nữ đảm đang tháo vát. Một mình chị phải giải quyết mọi khó khăn đột
xuất của gia đình, phải đương đầu với những thế lực tàn bạo: quan lại, cường
hào, địa chủ và tay sai của chúng. Chị có khóc lóc, chị có kêu trời, nhưng chị
không nhắm mắt khoanh tay mà tích cực tìm cách cứu được chồng ra khỏi
cơn hoạn nạn. Hình ảnh chị Dậu hiện lên vững chãi như một chỗ dựa chắc
chắn của gia đình.
Chị Dậu không biết chữ, cũng như vợ chồng anh Pha trong Bước
đường cùng, chị cũng có nhiều cái bỡ ngỡ trước những mánh khoé của bọn
thống trị. Nhưng chị Dậu không ngu đần. Chị là một người đàn bà thông minh
sắc xảo. Nói chung, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là bị lường gạt. Trước
những thủ đoạn gian xảo của nghị Quế, của bọn hương lý, chị thường tỉnh táo
cãi lý với bọn chúng. Bị bắt lên huyện, buổi tối, quan đòi lên “xét xử”, chị thắc
mắc ngay:
“- Quan đòi cháu làm gì hử ông?”
“- Cháu tưởng việc quan thì làm ban ngày chứ sao lại làm ban đêm?...”
Bọn lính lệ phải cùm treo chân chị lại, chị mới chịu lên hầu quan. Chính
vì thế mà bọn hương lý đã bảo nhau: con mẹ cày “cứng cổ”, “lý sự lắm”.Quả
thực, chị Dậu thông minh, sắc xảo, không dễ bị lừa bịp. Đối với tâm lý của
tầng lớp trí thức tiểu tư sản đương thời, mô tả người đàn bà nông dân như
vậy, cũng là một điểm tiến bộ đặc biệt của tác giả Tắt đèn. Người ta có thể
thương xót nông dân, có thể thấy họ là tốt nữa, nhưng nhận thức được
những người “dân đen” ấy là thông minh sắc xảo thì quả thực không phải là
dễ.
Chị Dậu là một người đàn bà hiền hậu, có thể nhẫn nhục chịu đừng
nhiều oan khổ. Nói rằng “từ đầu đến cuối, chị Dậu luôn luôn sôi sục căm thù
và sẵn sàng tinh thần đấu tranh chống lại bọn bóc lột” thì quả là cũng có khen
chị quá lời. Nhưng bị dồn ép mãi đến cùng đường, chị cũng biết kháng cự lại
một cách dũng cảm, biểu lộ sức mạnh tiềm tàng, tinh thần kiên cường bất
khuất của những nông dân Việt Nam, nhưng phụ nữ Việt Nam.
Giữa đình làng, trước mặt bọn hương lý, lính tráng hùng hổ vũ phu, chị
đã gào to lên sự bất nhân của chế độ sưu thuế thực dân phong kiến.
Anh Dậu bị ném ở đình về, lo tiền sưu không biết chạy đâu, nằm khóc
em, khóc con, khóc số phận của mình. Chị Dậu ra khuyên giải: “Thịt người
tanh, chẳng ai ăn được. Thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ, không phải lo lắng gì
cả”. Và trước hành động tàn bạo của tên cai lệ và người nhà lý trưởng đối với
người chồng thập tử nhất sinh, chị đã từ thái độ van xin ôn hoà đến chỗ
nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Rồi
trước con mắt sợ hãi của chồng, chị đã đánh ngã hai tên bộ hạ hung hăng
của quan “phụ mẫu” và “cụ lý”. “Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội
mãi thế, tôi không chịu được!”. Chính vì thế mà “cụ lý” đã phải khai với quan:
“thị Đào nó bướng bỉnh thứ nhất làng con”.
Chị Dậu là một người phụ nữ có nhan sắc, chị có cái đẹp tình tứ của cô
gái “cầu Lim, đình cẩm” như tác giả nhận xét. Nhưng tấm lòng chị trắng trong
như băng tuyết. Chỉ vì suất sưu một đồng bạc, chị đã phải điêu đứng rất
nhiều, nhưng chị đã khinh bỉ, ném nắm giấy bạc vào mặt tên tri phủ dâm ô.
Hai lần bị cưỡng hiếp, hai lần chị đã kiên quyết chống lại và đã thoát ra được.
Đạo đức của chị, lòng kiên trinh của chị, tiền tài không làm hoen ố được, sức
mạnh và uy thế của bọn thống trị không lung lạc được.
Trước cách mạng, có người cho rằng, Ngô Tất Tố vì là nhà nho, nên đã
cố giữ trinh tiết cho nhân vật của mình. Ý nhà phê bình đó muốn nói rằng, ở
nhà văn cựu học này, quan điểm đạo đức phong kiến đã vi phạm vào nguyên
tắc khách quan khoa học của chủ nghĩa hiện thực. Lời phê bình đó, xét kỹ ra,
chính là xuất phát từ chỗ chưa đánh giá hết phẩm chất tinh thần cao quý của
người phụ nữ lao động Việt Nam. Ta càng thấy ở đây, sự tiến bộ của Ngô Tất
Tố so với những người trí thức tiểu tư sản đương thời. Cũng cần nói thêm
rằng, đánh giá sức mạnh tinh thần của chị Dậu khi chống lại bọn thống trị dâm
ô, không nên chỉ nhìn hẹp ở lòng tiết trinh chung thuỷ của chị đối với chồng.
Rộng hơn, đó còn là ý thức về nhân phẩm của chị nữa.
Chị Dậu thông minh sắc xảo và tiềm tàng một bản chất ngoan cường,
nhưng người đọc không thấy chị là một người đàn bà cong cớn, lắm điều.
Hồn nhiên, ngay thẳng, đẹp đẽ ngát hương mà dịu dàng, mộc mạc, đó là cái
duyên mặn mà của chị, cái duyên truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
Trong dòng văn học hiện thực trước cách mạng, không một nhà văn
nào hiểu biết sâu sắc và biết trân trọng người nông dân lao động như Ngô Tất
Tố. Ông không những đã nhìn thấu được nỗi đau khổ không cùng của họ mà
còn phát hiện ra ở những con người gọi là “bé nhỏ”, “tầm thường” ấy, những
tình cảm đẹp đẽ, thắm thiết, những tâm hồn cao thượng đáng kính, những
bản lĩnh kiên cường bất khuất. Ngô Tất Tố đã nhìn thấy bản chất của người
lao động, đã làm nổi bật lên ở chị Dậu tính cách điển hình của người nông
dân lao động, của người phụ nữ Việt Nam. Với nhân vật đó Ngô Tất Tố đã
tiếp tục và phát huy được truyền thống tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc với
những hình ảnh sáng ngời của cô Tấm, của Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Hạnh
Nguyên, Thuý Kiều, Nguyệt Nga v.v... Ở đây, ta thấy rằng, nhà văn một khi đã
đi sâu vào quần chúng nhân dân thì nhất định sẽ tìm thấy dân tộc mình.
Tuy nhiên, chị Dậu chưa phải là hình ảnh người phụ nữ tiên tiến của
thời đại, người phụ nữ nông thôn đã từng anh dũng tham gia những cuộc
biểu tình trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh vĩ đại và trong thời kỳ Mặt trận
Dân chủ. Chị Dậu chỉ là điển hình của nông dân Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc khi chưa được ánh sáng cách mạng soi tới.
Từ 1930, lịch sử đã chỉ ra cho nhân dân nói chung, cho nông dân Việt
Nam nói riêng, con đường tự giải phóng cho mình, đó là con đường cách
mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Ngô Tất Tố chỉ nhìn thấy tiền đồ
của chị Dậu “tối như mực” mà thôi. Đó là thiếu sót lớn của tác phẩm.
Nhưng sức sống mãnh liệt và tính chất kiên cường của chị Dậu không
làm cho ta hoàn toàn bi quan về tiền đồ của nông dân lao động. Bao nhiêu thế
lực đen tối đã chụp lấy chị, đã dồn ép chị, đã giày vò ức hiếp chị, nhưng
không sao khuất phục và làm hoen ố được chị, trái lại đôi lúc còn bị chị bất
ngờ trả lại những đòn quyết liệt. Hình ảnh chị Dậu hiện lên xinh đẹp, hồng
hào, mạnh khoẻ như không có gì tiêu diệt nổi. Cho nên không phải không có
lý do khi Nguyễn Tuân viết: “Trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa,
thấy sừng sững cái chân dung lạc quan của chị Dậu”.
Tắt đèn là một trong những thành tựu nghệ thuật xuất sắc nhất trong
dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước cách mạng.
Tác phẩm chỉ vẻn vẹn có hơn một trăm trang (Nguyễn Tuân gọi là một
đoản thiên) nhưng đã bộc lộ được sâu sắc tư tưởng chủ đề, đã vẽ ra được cả
một xã hội nông thôn đen tối thời thuộc Pháp, đã xây dựng được những tính
cách điển hình khá sắc xảo, trước hết là vì kết cấu của nó hết sức tập trung
xung quanh một nhân vật chính. Tác giả đã dồn nhân vật của mình vào một
không gian, thời gian rất hạn chế: làng Đông Xá trong bốn ngày, bốn đêm náo
động kịch liệt vì sưu thuế. Tính cách của nhân vật do đó phát triển rất mạnh
tới mức độ căng thẳng nhất, làm nổi bật lên ý nghĩa của tác phẩm một cách
mạnh mẽ và sâu sắc. Tắt đèn diễn ra trước mắt độc giả như một vở kịch ngắn
một hồi, nhanh mạnh, gọn gàng. Từ đầu đến cuối truyện, không một tình tiết
nào thừa, không một chi tiết nào không quan trọng.
Cách đặt các chương chứng tỏ nghệ thuật kể chuyện của Ngô Tất Tố
chưa thật hiện đại lắm. Đó là lối kể chuyện một mạch theo thời gian tự nhiên.
Nhưng cách xếp đặt các chi tiết, các tình tiết thì phải nói là có kỹ thuật khá
cao. Chẳng hạn như cái thẻ sưu người chết phải xuất hiện vào đúng lúc ấy thì
mới làm bật lên hết được tính chất dã man của chế độ sưu thuế thực dân
phong kiến và mới nói hết được cảnh ngộ thê thảm của gia đình chị Dậu cũng
như tình trạng bị áp bức đến cùng cực của chị v.v...
Có người cho rằng chân vật chị Dậu có ý nghĩa khái quát song không
có cá tính. Thực ra, chị Dậu là một thành công khá xuất sắc về nghệ thuật
điển hình chung của nông dân Việt Nam, của người phụ nữ Việt Nam, mà còn
được xây dựng khá sinh động. Tính cách của nhân vật phát triển rất hợp lý
theo quy luật nội tại của nó. Mỗi hành động của chị Dậu: chạy vạy, khóc lóc,
kêu gào, chịu đựng và vùng lên mạnh mẽ, đều diễn ra rất tự nhiên, phù hợp
với sự phát triển tâm lý của chị.
Chị Dậu không phải không có cá tính (dĩ nhiên không nên đòi hỏi chị có
cá tính theo kiểu Chí Phèo). Đó là một người đàn bà dịu dàng mà lanh lợi,
ngay thẳng mà kín đáo, hồn nhiên thật thà mà thông minh sắc xảo, nhẫn nhục
chịu đựng mà vẫn tiềm tàng một sức phản kháng mãnh liệt. Chị Dậu là con
người sống thực, sống mãnh liệt, có khả năng đi ra ngoài tác phẩm.
Chung quanh những nhân vật phản diện, cũng cần phải nói đến nghệ
thuật châm biếm của Ngô Tất Tố. Đối với những nhân vật này, có thể nói,
không một chi tiết nào ông dùng đến mà không nhằm cứa vào cái tính chất lố
bịch, ngu xuẩn, thô bỉ, nhơ bẩn của chúng, dù đó chỉ là một cách húp canh,
súc miệng của nghị Quế, cách đi đứng của lão chánh tổng để tạo những vết
chân đầy bụi trên mặt chiếu sân đình, hay là bộ râu “hắc ín” trên mép tên tri
phủ v.v...
Nghệ thuật miêu tả của Ngô Tất Tố không phải không có nhược điểm.
Ông không có khả năng đi vào tâm lý nhân vật một cách trực tiếp và sâu sắc
tinh vi như Nam Cao. Môt số bức tranh tĩnh vật của ông do lạm dụng quá
nhiều một kiểu nhân cách hoá, thành ra đơn điệu và thiếu tự nhiên. Khi vẽ
chân dung chị Dậu, cũng có lúc ông rơi vào công thức mòn sáo (Bên đám
lông mày cong rướn, mấy sợi tóc mai lả thả rủ xuống, hình như làn khói thuốc
lá phớt phơ bay trước khuôn gương. Và trên cái gò má đỏ bừng, vài ba giọt
nước mắt thánh thót đuổi nhau, chẳng khác hạt sương buổi mai lấp lánh đọng
trong cánh hoa hồng mới nở”).
Nhưng khi hoạ những bức tranh sinh hoạt, những con người đang hoạt
động, thì ngòi bút Ngô Tất Tố khá sắc xảo. Ở đây, đúng như Vũ Trọng Phụng
nói: “óc quan sát của Ngô Tất Tố (...) là thứ óc quan sát rất tinh tường, rất chu
đáo”. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu
đánh nhau với cai lệ cũng là một đoạn tuyệt khéo, rất đúng với tâm lý của dân
quê”. Thực ra trang Tắt đèn có nhiều đoạn miêu tả thành công như thế: cảnh
sáng sớm ở cổng làng, cảnh đình làng náo nhiệt trong ngày thu thuế, cảnh
mẹ con chị Dậu khi chị quyết định đem bán cái Tý, cảnh chị Dậu đem con chó
đến nhà nghị Quế, cảnh chị và lão tri phủ trong tư thất của nó, v.v... tất cả đều
diễn ra trước mắt người đọc chân thật, cụ thể, sinh động, có sức truyền cảm
mãnh liệt. Ngòi bút Ngô Tất Tố nhiều khi còn đạt tới chỗ truyền được cả
“không khí” của đời sống nông thôn vào trong tác phẩm của mình. Ở đây, kinh
nghiệm sống, sức tưởng tượng sáng tạo và khả năng chọn lựa chi tiết tiêu
biểu có ý nghĩa quyết định.
Ngô Tất Tố rất thành thạo ngôn ngữ nông thôn. Có lẽ không một nhà
văn đương thời có thể am hiểu tỉ mỉ mọi sinh hoạt ở nông thôn và có thể gọi
từng sự vật, từng sự việc bằng đúng cái tên nông thôn của nó như ông.
Tuy nhiên, câu văn của Ngô Tất Tố nói chung chưa thật linh hoạt, về
mặt này, ông không theo kịp Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao.
Cái tật cố gò lấy những vế đối nhau và gõ cho đúng bằng bằng, trắc trắc của
nhà nho đã làm phiền cho ông. Ta có thể tìm thấy trong Tắt đèn khá nhiều
câu văn biền ngẫu như: “Rồi ở giữa nhà, chiếc chiếu rách thủng xộc xệch phủ
lên tấm phản long đinh. Rồi ở dưới phản, mấy con chó con đòi ăn, ăng ẳng
kêu không dứt tiếng”, hay là “Thằng bếp bưng mâm cơm ra. Thằng nhỏ bê
chậu nước vào”, v.v...
Một điều khá đặc biệt ở Ngô Tất Tố là một mặt, ông còn chưa dứt hết
món nợ của bút pháp nhà nho, mặt khác lại có những bước quá đà trong việc
học tập lối văn phương Tây. Ta có thể tìm thấy trong Lều chõng, Việc làng,
Tắt đèn khá nhiều câu văn rất “Tây”: trong ánh lửa lập loè của chiếc mồi rơm
bị thổi”, “… ai nấy chỉ đáp lại những câu chửi trùm chửi lợp bằng sự nín im”,
v.v...
Trên đường học hỏi, trau dồi nghệ thuật để tiến hành nhanh một bậc
Nho học tới một nhà tiểu thuyết hiện đại, Ngô Tất Tố khó lòng tránh khỏi được
những chỗ chưa “nhuần nhuyễn”. Nhưng nhìn chung, với quá trình lao động
nghệ thuật bền bỉ, chân thành, với khả năng sáng tạo dồi dào, với tư tưởng
tiến bộ, Ngô Tất Tố đã đạt tới những thành tựu nghệ thuật vẻ vang.
(Trích sách Lịch sử văn học Việt Nam,
Tập V, 1930 - 1945. NXB Giáo dục, 1973)
VỀ MỘT TRUYỆN DÀI NHẤT CỦA NGÔ TÂT TỐ: TRUYỆN TẮT ĐÈNVŨ BẰNG
Nếu tình cờ hôm nào đó, có người hỏi tôi: Trong tất cả các văn hữu cũ,
mới của anh người nào làm cho anh khổ nhất? Chắc chắn tôi sẽ không ngần
ngại gì mà đáp ngay “Ngô Tất Tố”.
Nói vậy, tất thể nào cũng có người hiểu lầm rằng sinh thời Ngô Tất Tố
đã “chơi” tôi nhiều vố cay đắng mà năm tháng không làm cho quên được.
Không phải thế. Mồ ma Ngô Tất Tố quả là “bác” cũng đã có nhiều lần chửi tôi
và nói cho thực, trong tất cả bạn hữu chưa có ai mạt sát tôi thậm tệ, và “hạ”
tôi xuống hàng “súc sinh”, “vô liêm sỉ”, “quân khốn nạn” như bác. Nhưng cái
khổ của tôi không bắt nguồn từ chỗ đó, mà khổ lại chính là vì tôi... hối hận đã
“đùa dai” Ngô Tất Tố quá, đùa dai cho đến tận khi Việt Pháp ký với nhau hiệp
định Giơ Neo, mỗi người đi một ngả. Trong suốt mấy năm trời kháng Pháp, tôi
không gặp Ngô Tất Tố vì chúng tôi ở mỗi người một khu, có mấy phen tôi đi
tìm kiếm mà không được gặp. Thế rồi đến khi về thành, tôi được tin bác qua
đời, anh em không được nhìn nhau mà nói một câu vĩnh biệt... Đau nhất là tôi
không được xin lỗi bác vì những điều mất dạy tôi đã làm, vì thế cho đến giờ,
mỗi khi nhắc đến Ngô Tất Tố, tôi lại nao nao buồn khổ vì sợ rằng, cho đến
chết bác vẫn yên trí là tôi hỗn láo và coi thường bác thật.
Tại sao tôi lại bị Ngô Tất Tố liệt vào hàng súc sinh?
Tôi biết và sống với Ngô Tất Tố lúc tôi hai mươi mốt, hai mươi hai tuổi,
tức là hồi tôi ở Nam Kỳ ra làm tờ Công dân với mấy anh em quen biết là Đặng
Đức Tô, Tiết Như Ngọc, Phùng Bảo Thạch, Ngô Tất Tố, Nguyễn Triệu Luật,
Vũ Liên, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Quốc Ấn.... Trước đó, lúc còn đi học, tôi
đã biết tiếng Ngô Tất Tố qua những bài báo ký Thục Điểu, ở trên tờ Đông
phương và phụ trương văn chương báo Trung lập, Thần chung, Đuốc nhà
Nam, Phụ nữ tân văn. Biết tiếng và quý mến mà thôi chớ thiệt tình chưa được
gặp gỡ và trò chuyện bao giờ. Phải đợi đến lúc Tản Đà tục bản An Nam tạp
chí đặt quán ở nhà Thăng Long, phố Hàng Gai, Hà Nội, tôi mới được thấy
Ngô Tất Tố lần đầu, nhưng thấy và nói một vài câu xã giao thôi chớ thật tình
không thể nói là “biết” được. Tôi thật biết Ngô Tất Tố từ khi làm tờ Công dân
như đã nói ở trên kia, bởi vì anh em toà soạn báo này, sống tập đoàn với
nhau ở trụ sở 11 phố Hàng Da, ăn chung ở đụng với nhau như anh em một
nhà. Một tuần bảy ngày thì tôi ở luôn đó cả bảy. Phùng Bảo Thạch thỉnh
thoảng mới về thăm nhà ở Bưởi một hôm, Tiết Như Ngọc một tháng mới về
thăm nhà ở Hưng Yên một lần, Nguyễn Triệu Luật về Bắc Ninh một tháng đôi
lần, còn Ngô Tất Tố thì một tuần ở nhà báo ít nhất cũng bốn, năm ngày -
nhưng không phải ở luôn luôn, cứ mỗi lần ở quê ra như thế thì bác ở lại nhà
báo độ ba ngày, còn một hai ngày thì ở nhà xuất bản Mai Lĩnh (trước ở Hàng
Gai, sau dọn lên Hàng Thuốc Bắc rồi sau dọn về Hàng Điếu). Ngô Tất Tố viết
thêm cho Tiểu thuyết thứ ba và viết sách cho Mai Lĩnh... Ngô Tất Tố dịch Kinh
dịch, Mặc tử, Đường thi và nhiều sách giá trị khác là vào thời này. Có Ngô Tất
Tố ở bên cạnh, chúng tôi đều hết sức yên tâm về những danh từ chữ Nho vì
hết thảy chúng tôi đều phục Tố là một ông đầu xứ nổi tiếng là hay chữ.
Đối với anh em, họ Ngô nhũn nhặn và bình dị: Nguyễn Triệu Luật, Tiết
Như Ngọc... vận quốc phục, sau đổi ra Âu phục, riêng Ngô Tất Tố thì không
bao giờ thay đổi, lúc nào cũng khăn đóng, áo the, giầy Gia Định, để răng đen,
tay mang cái dù. Ăn uống thế nào cũng được, đi chơi với anh em, uống rượu
và hút chẳng thua ai nhưng không ghiền một thứ gì... Chúng tôi đùa là bác chỉ
ghiền có một thứ mà thôi: ghiền ngủ trưa. Đặc biệt của Ngô Tất Tố là không
chớp mắt được buổi trưa một chút, tức thì buổi chiều đừ ngay, có thể ói vặt
hay nhuốm bịnh.
Giữa một đám “quỷ sống”, “cô hồn các đảng” mà có một người ngăn
nắp, quy củ, nho nhã thế, cố nhiên, chúng tôi phải nể vì đặc biệt. Nhưng lợi
dụng tính thật thà chân chỉ của nhà nho, chúng tôi thỉnh thoảng lại “bịp vặt”
chơi, bởi vì trong bọn chúng tôi, Ngô Tất Tố là người tin anh em nhất, tin là ai
cũng thành thật, chân chỉ như mình.
Lúc đó, tôi còn trẻ lắm, không biết đó là một đức quý, lại lấy chỗ đó để
pha trò, pha trò không hề dám xấc láo hay nuôi một ác ý gì. Nói cho thật,
chung quy cũng lại tại báo Duy tân do Nguyễn Đình Thấu làm chủ nhiệm.
Lãng Nhân và? kêu Ngô Tất Tố là Đồ Tố và làm thơ chế giễu:
Anh Đồ Tố ơi, con mắt anh không sáng mà cũng không nhèm.
Suốt đời anh không biết ăn kem Bờ Hồ.
Có lẽ báo Duy tân thấy Ngô Tất Tố “ngổ” hay “sanh sự bút chiến” nên
chọc quê chớ cũng chẳng oán thù hay ghét bỏ gì Tố, cũng như chúng tôi vậy,
nhưng chính vì thế mà Tố thành ra một cái đầu để cho người ta khôi hài.
Chúng ta thường thấy có những hiện tượng như thế, trong nhà có mấy anh
em, nhưng có một người trong bọn bị người ta trêu chọc, trong khi người
khác không bị ai nói tới. Trêu trọc như thế không phải là vì ghét, trái lại, có khi
yêu, vì thấy “ngồ ngộ”, vì người bị trêu trọc có duyên hay dễ quạu, chọc để
cho mà quạu hơn lên…
Thuở nhỏ, tôi là một tên lưu manh mất dạy: chọc Ngô Tất Tố tôi vẫn
làm ra mặt lễ phép nên nhiều phen Ngô Tất Tố bị tôi “lừa” mà cứ tưởng tôi là
một thằng “khá”. Nhưng rồi đến một ngày cái mặt nạ tôi bị rớt: tôi bị Ngô Tất
Tố liệt vào hàng súc sinh, đồ mất dạy (mà không oan tí nào!). Đó là ngày tôi
nhờ Ngô Tất Tố dạy tôi chữ Nho để viết văn cho “bốp tay lo” hơn và bù lại, tôi
dạy chữ Pháp cho Tố “cho cả hai chúng mình cùng tinh thông Âu Á”. Đó là
thời kỳ tôi dạy một cách nghiêm nghị Ngô Tất Tố học “lanh nhanh” là cái tàu
điện, “đanh đông” là cái đỉnh đồng, “la bô ra toa” là Lã Bố ra toà, “băm bu huýt
ra lô” là cây mía...
Bây giờ, nhớ lại về cái vẻ tức giận và buồn rầu của bác lúc biết là bị tôi
“xỏ” tôi hối hận không bút nào tả được và cảm thấy như bị kim châm vào ruột
vì đã đem giễu cợt một linh hồn, vì đã phản bội một tấm lòng tin yêu mình, vì
đã chó má đến mức lấy tình bạn hữu thiêng liêng ra đùa giỡn... nhưng đến lúc
đó, nào tôi có biết đâu? Chế nhạo, đùa nghịch, giễu cợt, cũng như là uống
rượu, uống mềm môi lại muốn uống thêm, uống thêm mãi mãi không biết là
mình say từ bao giờ rồi!
Bị “lộ tẩy” trong vụ dạy tiếng Pháp, tôi bị bác giận một thời gian. Khốn
nạn cho tôi không biết rút lấy triết lý qua bài học đó, tôi lấy làm ra mặt lễ phép
một dạo, rình đúng cơ hội lại làm một vố nữa đánh lừa Tố ở nhà bà Đốc Sao,
hơn thế tôi lại còn xưng xưng bịa ra chuyện Tố mặc quần áo Tây đi
“Sanghaibar” kêu món “encore” và lăng xê một cái mốt mới là yêu cầu nhà
chức trách trồng “mouchoir” ở ngoài đường để cho bác Tố của chúng ta xì
mũi”.
Phá quấy, nhưng phục không chịu được.
Nơi có cả anh em đã chết hay còn sống làm chứng cho tôi mỗi khi tôi
quấy rối như thế thì tôi vẫn trình với anh em cẩn thận. Tôi thề không nuôi ác ý
gì hết, trái lại, nếu hỏi trong đời làm báo, tôi phục ai thì Ngô Tất Tố là một
trong những người tôi phục nể cả văn lẫn đạo đức.
Tản Đà có tài làm thơ, Ngô Thúc Địch, Mai Đăng Đệ đỗ cao, nhưng viết
không có gì trội lắm. Nguyễn Triệu Luật hay cả Tây lẫn Nho nhưng chỉ bật lên
về mặt “dã sử”. Phùng Bảo Thạch hay về xã thuyết và Bàn cờ thế giới... chớ
Ngô Tất Tố thì quả là... đa diện: dịch các sách học thuật, tư tưởng rất vững,
viết tiểu thuyết dài, tiểu thuyết ngắn được, viết phóng sự ký sự cũng hay, làm
thơ được, phê bình cứng mà về phim thì... nhất. Có thể từ trước có nhiều
người viết phim rất dí dỏm, rất hay, nhưng riêng với tôi thì Ngô Tất Tố (dưới
bút hiệu Ngô Công) viết phim thì tuyệt tác vì không những dí dỏm mà lại sâu
sắc (có lẽ vì bác có cái vốn chữ Nho rất khá mà lại ham học ham đọc các
sách Tàu, dịch các sách Tây ra).
Nguyễn Triệu Luận đôi khi cũng viết phim nhưng giọng hơi cáu. Ngô
Tất Tố có một đặc điểm là sống ở ngoài đời dễ quạu, hơi một tí trái ý thì đỏ
mặt lên sanh sự cãi nhau về lý thuyết, về tư tưởng nhưng đến lúc viết phim
thì lại hoà dịu, nhưng... xỏ xiên, châm biếm một cây (có phần hơn cả Phan
Khôi viết phim, ký là Thông Reo) và cố nhiên là bỏ xa Hoàng Tích Chu (lúc
viết Chuyện đâu, ký tên là Văn Tôi). Một nhà nho viết phim như thế đã là lạ,
nhưng lạ hơn là Tố viết tiểu thuyết cũng thành công ngay. Với hai cuốn tiểu
thuyết: một ký sự Lều chõng và một tiểu thuyết xã hội Tắt đèn, Ngô Tất Tố
không phải bây giờ mới nổi tiếng mà nổi tiếng ngay khi viết.
Cuốn Lều chõng Ngô Tất Tố viết cho nhà Mai Lĩnh in thành sách, ngay
khi sách viết ra, bác biếu anh em, không ai tưởng là bác thành công, nhưng
mà viết Lều chõng mà thành công còn được đi vì lều chõng, thi cử là "đất"
của Ngô Tất Tố khó ai có thể so sánh được, nhưng Tắt đèn mà thành công thì
quả là không mấy ai ngờ. Nhất là chúng tôi. Bởi vì chúng tôi cho là đùa.
Tại sao lại "Tất đèn”? "Tắt đèn" làm gì?
Phải ở cạnh Ngô Tất Tố và biết rõ từ lúc bố cục, đặt tên tiểu thuyết Tắt
đèn thì mới biết chuyện đùa mà thành ra chuyện thật, quan trọng đến chừng
nào.
Hẳn, các bạn đọc đã nghe và biết rằng trong các sách của Ngô Tất Tố
trước tác có một cuốn được dịch ra nhiều thứ tiếng Á, Âu, đó chính là tiểu
thuyết Tắt đèn vậy. Tóm tắt và bình luận sách này không phải việc của tôi,
nhưng tôi muốn nhân dịp này nói về sự thai nghén của một cuốn sách mà có
nhiều người cho là hay nhất của Ngô Tất Tố và có lẽ các bạn sẽ thấy rằng đối
với những người có thực học, thực tài, những người thực có đầu óc, tâm
huyết thì có khi "thiên tài chưa chắc đã là một sự cần cù dài lâu".
Viết về Vũ Trọng Phụng, tôi đã có dịp nói về trường hợp Phụng đẻ ra
Số đỏ và Giông tố. Trường hợp Ngô Tất Tố "hạ sanh" tiểu thuyết Tắt đèn
cũng na ná thế. Chúng ta đã từng nghe thấy có những nhà văn Đông cũng
như Tây, nói về tác phẩm thai nghén và trước tác cả mấy năm trời mới xong,
viết đi viết lại cả chục lần mới được. Có thể lắm... Có thể là họ nói thực.
Nhưng Ngô Tất Tố dựng tiểu thuyết Tắt đèn thì khác hẳn.
Nói rất trung thực, bây giờ tôi không còn nhớ tiểu thuyết Tắt đèn của
Ngô Tất Tố bắt đầu viết và đăng trên báo Việt nữ hay Tương lai, Công dân...
nhưng tôi biết chắc là Ngô Tất Tố viết truyện này để đăng trên một tuần báo
lúc đó chúng tôi cùng làm với nhau. Vì là một tờ báo mới do chúng tôi đương
chủ biên muốn cho "trội: chúng tôi bàn với nhau làm một cái gì mới hơn một
chút. Nguyễn Triệu Luật về "pôtanh", Vũ Trọng Phụng viết "pôtanh" chuyện
thế giới. Phùng Bảo Thạch thay vì xã thuyết phải viết ký sự và Ngô Tất Tố viết
tiểu thuyết (thay vì Nói hay đừng như mọi khi). Tôi nhớ hôm ấy là buổi chiều,
anh em vừa ăn cơm ở dưới nhà lên trên gác uống nước và hút thuốc. Ngô
Tất Tố băn khoăn chưa biết viết gì thì Vũ Trọng Phụng nửa đùa nửa thực, nói:
- Ấy thế mà anh em đừng có coi thường tôi. Truyện Giông tố của tôi
trên Hà Nội báo được người ta thưởng thức ghê lắm, chớ không phải đùa
đâu!
Chúng ta biết Vũ Trọng Phụng viết Giông tố trong một cơn hứng chí,
nghĩ được một kỳ đầu viết ra đưa xếp chữ rồi không biết kỳ sau sẽ viết tiếp ra
thế nào... Ngô Tất Tố nói:
- Bác nói về thằng cha nào trong đó nhỉ?
Vũ Trọng Phụng:
- Bạch Hạc lâu nay vắng tiếng đồn
Chồng thì mới chết, vợ chưa chôn
Trai ba mươi tuổi còn non mặt
Gái ngoại năm mươi, vẫn...
Phùng Bảo Thạch nói:
- Ờ, viết thế chì chắc ăn. Chẳng biết gì, sướng tay mình đã.
Ngô Tất Tố cười tít mắt (vì mắt bác nhỏ, dài lúc cười tít lại thật):
- Tôi sợ gì mà không dám viết thế. Được, để tôi lôi thằng này ra, nó còn
to hơn.
- Ai? Bác định chửi thằng quan nào?
- Thằng quan to nhất trong các quan (nói thế anh em đã biết là ai, vì
Ngô Tất Tố lúc nào cũng ghét quan, nhất là hai bố con ông Hoàng).
- Ờ, ờ được đấy! Viết đi.
Anh em tán thành.
Thế là Ngô Tất Tố nhất định viết chuyện ông Hoàng. Nhưng viết thế
nào, viết chuyện gì, bố cục và tác động nhân vật chính ra sao, nhân vật có
những ai, tuyệt nhiên không có ý kiến gì cả. Nhưng lạ nhất là truyện chưa bố
cục, chưa kết cấu, chưa có một ý niệm gì hết mà tác giả đã đặt ngay cho nó
một cái tên: Tắt đèn. Một sự tình cờ khiến cho giữa lúc chúng tôi đang nói
chuyện với nhau thì cúp điện. Đèn tắt ngúm. Gian gác tối bưng, hai ngọn đèn
dầu lạc ở cái bàn đèn là Nguyễn Như Hoàn - một bạn rất thân của Vũ Trọng
Phụng - đang nằm co ro. Tuy nhiên anh em không vì thế mà ngưng câu
chuyện. Trong bóng tối anh em nghe thấy Ngô Tất Tố nói như một giọng
cương quyết:
- Thế mà hay. Truyện dài tôi sắp viết sẽ lấy tên Tắt đèn.
Thế là cái tên Tắt đèn, một truyện không hề có bố cục trước, không hề
được kết cấu có đầu đuôi xuôi ngược được Ngô Tất Tố quyết định trước tác -
và bác đã trước tác thật, trước tác từng kỳ, viết đến đâu hay đến đó chớ
không sắp xếp trước như đa số các tác phẩm khác của các nhà văn khác.
Hoặc là Ngô Tất Tố, ở báo quán về nhà ở Bắc Ninh đêm nằm có nghĩ sắp xếp
hay không, quả thật tôi không biết, nhưng cứ theo cái lối cách thức viết của
Ngô Tất Tố thì tôi thấy bác viết đến chỗ nào thì nghĩ viết tiếp đến chỗ đó tuyệt
nhiên không có dàn truyện trước! Y như Vũ Trọng Phụng viết Giông tố và
Sốđỏ.
Thú thực là ngay khi Tắt đèn đăng từng kỳ trên báo, tôi không đọc và
cứ tưởng rằng bất quá cũng thường thôi. Nhưng sau này, thấy nhiều độc giả
theo dõi và chờ báo ra để đọc tiếp truyện này, tôi mới tìm đọc - đọc từng đoạn
- và do đó tôi đã phải tìm đọc từ số đầu và hết sức lạ làm sao Ngô Tất Tố lại
viết nên một truyện dài đến thế. Tôi nhớ rằng lúc đó tôi có một ý kiến thầm kín
như sau, không nói với ai, nhưng hoàn toàn thành thật, đối với một nhà văn
có thực học, thực tài, viết quấy quá thì dù không hay cũng không thể nào dở
được.
Thêm một lẽ nữa: viết văn cũng như đánh bạc. Nhiều khi mình chú tâm
viết một tác phẩm thật "ra gì" thì lại hỏng mà nhiều khi mình viết quấy, tưởng
là chơi, thì lại thành công và được nhiều người tán thưởng.
Trường hợp Ngô Tất Tố viết Tắt đèn cũng như trường hợp Vũ Trọng
Phụng viết số đỏ và Giông tố có lẽ cũng vậy chăng?
Dầu sao, cho đến tận bây giờ và mãi mãi, tôi vẫn thành thực nhận rằng
Ngô Tất Tố quả là một văn tài, xứng được một chỗ ngồi văn học sử quả là
xứng đáng không phải là do sự tình cờ hay may mắn khiến nên. Nói thành
thực tự đáy lòng, tôi, riêng tôi nghĩ rằng trong tất cả các nhà văn tôi được hân
hạnh quen biết, không có một nhà nho thuần tuý nào lại viết đủ các mặt như
Ngô Tất Tố - trong đó tôi kể cả Đào Trinh Nhất, Sở Bảo, Doãn Kế Thiện,
Nguyễn Triệu Luật. Đào Trinh Nhất viết xã thuyết cảo luận, học thuật, truyện
dài. Sở Bảo viết ký sự, dã sử tiểu thuyết, phê bình, pôtanh... nhưng đến Ngô
Tất Tố thì... kiêm cả phim, tiểu thuyết dài, dã sử, cảo luận, phê bình, dịch thơ,
học thuật phóng sự, ký sự... chẳng thiếu bộ môn gì mà Ngô Tất Tố không
"sông" - mà bộ môn nào cũng khá nếu như không muốn nói là "trội". Có nên
nói thêm rằng Ngô Tất Tố với một bút hiệu khác - Côi Giang - còn là một học
giả đã từng viết cho Trung Bắc chủ nhật một loại bài hiệu đính những sai lầm
trong văn thơ và cũng lại là người đã từng sưu tầm những văn thơ yêu nước
và đả kích xâm lược và quan liêu trong một loạt bài khác đăng trong Tiểu
thuyết thứ bảy tập mới (in ở Mục Xá) ký bút hiệu là X.Y.Z và A.B.C.
Ngô Tất Tố, một huấn luyện viên của tôi trong nghề làm báo.
Trong một ký sự của Phùng Bảo Thạch nói về 15 năm làm báo anh có
viết nghề báo là một nghề không trường, không thầy. Riêng tôi nhận thấy mặc
dù không trường, không thầy thật, tôi đã thụ huấn được nhiều bậc đàn anh
xứng đáng là thầy tôi như Nguyễn Văn Vĩnh, Sở Bảo, Mai Đăng Đệ, Hoàng
Tích Chu, Phùng Tất Đắc, Phùng Bảo Thạch, Ngô Tất Tố là một trong những
bạn vàng tôi vừa nói.
Không bao giờ tôi quên được một hôm ở báo Công dân Ngô Tất Tố nói
ý kiến của bác về một phóng sự tôi viết về một hoả hoạn ở đường Hàng Bột?
- Viết như cái phóng sự này được, nhưng có nhiều bài khác của bác
viết khó hiểu quá, vì bác viết y như thể là độc giả hiểu hết các tình tiết đầu
đuôi câu chuyện rồi. Như thế là lầm. Có thể Tây nó viết như thế nhưng Việt
Nam mình viết theo cách đó thì không ai hiểu vì bác không ở tỉnh và ở quê
nên không biết: trình độ độc giả của mình còn kém, viết như bác chỉ để một
vài anh trí thức đọc thôi, còn đa số thì không hiểu mô tê gì cả.
Thú thật là ngay lúc đó tôi không chấp nhận ý kiến của Ngô Tất Tố, mặc
dầu tôi không nói ra lời. Phải đợi mãi đến sau Cách mạng tháng Tám bùng
nổ, các anh em sống nhiều với nhân dân cũng "cảnh cáo" tôi phải viết cho
đông đảo dân chúng đọc chớ không nên nhắm vào một thiểu số trí thức "tạch
tạch sè" như Ngô Tất Tố đã từng khuyên tôi, tôi mới mở mắt và thay đổi hẳn ý
thức về cách viết báo và các ý niệm về nghề báo.
Bây giờ, viết văn viết báo, các bạn có thấy tôi nói lôi thôi, dài dòng hay
thấp kém, không bí mật, không cao siêu, không triết lý xin đừng trách tôi đần
độn, mà nên trách Ngô Tất Tố là một trong những bậc thầy đã khuyên tôi phải
viết cho rõ, cho sáng, phải lấy nghệ thuật phục vụ nhân sinh. Cố nhiên là nói
như vậy tôi không hề có ý nói xéo nhất ai lấy nghệ thuật phục vụ nghệ thuật,
nhưng tôi nghĩ thế nào nói thế ấy: phải giỏi giang lắm mới viết được những tư
tưởng cao siêu, mới ý thức được nghệ thuật chân chính - mà tôi thì không
phải là lớp siêu nhân như thế cho nên đành là cứ viết cái gì "tằng tằng" thôi
chớ không dám chờn vờn những cái gì cao siêu quá, ghê gớm quá và bí mật
quá, bởi những cái đó chính tôi không hiểu mà ví có đọc sách rồi chép ra đại
chúng cũng không hiểu như tôi nốt!
Ngô Tất Tố quả là một nhà văn từ trong dân chúng đi ra; sống với dân
chúng và phục vụ trung thành dân chúng thực. Hôm nay ngồi viết lại ký ức về
bác, tôi thành thực nhận rằng Ngô Tất Tố là một người bạn, mà đáng là một
trong những bậc thầy tôi.
Mà không phải bây giờ tôi mới nhận thức như thế, nhưng đã từ lâu lắm,
duy không nói ra lời mà thôi. Lúc nào tôi cũng phục Ngô Tất Tố, ngay cả khi
những khi tôi "đùa dai" bác, thật tình không một lúc nào tôi dám hỗn hay coi
thường bác, sở dĩ đùa dai như thế chỉ là vì yêu bác, quý bác, chớ thề là
không có một lúc nào dám coi thường bác, khinh khi bác.
Bây giờ nhắc lại một điều này tôi còn thấy buồn da diết. Đó là một ngày
tiền khởi nghĩa, Ngô Tất Tố sỉ vả tôi, không thèm nhìn tôi, và ghét tôi đến nỗi
không thèm đi về bên hè nhà tôi. Lúc ấy tôi đang đứng ớ trước cửa, Ngô Tất
Tố thấy tôi nguýt một cái, không thèm hỏi một câu. Thấy thế tôi mới biết là
Ngô Tất Tố giận tôi tột bực rồi. Tự vấn lòng không thấy mình đáng để cho
Ngô Tất Tố khinh như thế. Tôi đã định chạy theo lạy bác và xin tha thứ cho tất
cả tội lỗi mà tôi đã gây nên vì tinh nghịch, vì lưu manh, nhưng tôi nghĩ tiếp
"Chẳng vội gì, còn khối thì giờ, mai đây mốt nọ mình xin lỗi cũng còn kịp. Cứ
để cho bác ấy tức thêm một chút chẳng sao!".
Nghĩ thế tôi nhe răng cười, chọc quê Tố thêm một chút nữa. Đến bây
giờ tôi không biết rằng Tố có tức giận tôi chút nào không nhưng tôi có một
điều đau khổ vô cùng là chính lần đó lại là lần chót tôi gặp Ngô Tất Tố.
Chiến tranh Pháp Việt bùng nổ làm chúng tôi cùng kháng chiến nhưng
không bao giờ tôi được gặp Ngô Tất Tố nữa. Cho tới một ngày kia được tin
bác mất, tôi hối hận không bày tỏ được sự thật của con tim đối với bác thì đã
muộn mất rồi.
Thỉnh thoảng nhớ đến bác tôi lại buồn muốn chết vì tôi cảm thấy rằng
đến lúc qua đời bác vẫn yên trí tooi là một thằng lưu manh đã hỗn láo và đã
coi thường bác.
Tạp chí Văn học,
Sài Gòn, số 174, ngày 18 - 10 - 1973
PHIM CHỊ DẬU CÙNG CẢM NGHĨ TẤT NIÊN VỚI BÁC (ĐẦU) XỨ TỐNGUYỄN TUÂN
Lúc nhà văn Ngô Tất Tố viết và in Tắt đèn thì tôi mới là lúc bắt đầu viết
đều đều, coi đó như là nghề của mình bởi vì mình lúc đó chẳng có ngón nghề
gì khác nữa. Bác Tố sống ở nhiều toà soạn Sài Gòn và Hà Nội nhưng lần đầu
tiên tôi thức đêm ở toà soạn với Ngô Tất Tố thì khó mà quên đó. Bác ở làng
Cói sang trọ ở Hà Nội thường trọ ở phố Hàng Thiếc, nhưng nhiều đêm bác
ngồi viết ở cái góc phố Hàng Da của một tờ tuần báo nọ. Bác Tố là người
thỉnh thoảng cũng tham gia các cuộc vui đêm nhưng bác chính là người cần
cù làm việc. Tôi thì đêm nào cũng đi chơi bậy. Nhiều đêm bấm chuông toà
báo, bác Tố lại xuống mở cửa cho, vẫn gọi tôi là bác (bác hơn tôi chục tuổi
lẻ). “- Có vui và đông lắm không? Thôi, bác thức, tôi đi ngủ đây. Ngủ có đèn,
càng đẫy giấc". Nhiều đêm về oi ả quá, tôi cũng chỉ muốn ngủ, còn viết gì thì
viết, mai hãy hay. Nhìn những trang viết dở của bác Tố trên bàn, tự nhiên
trong người thấy đứng đắn trở lại. Và ngồi vào trước tờ giấy trắng, vừa ngáp
vừa nhìn ông bạn vong niên ngon giấc sau khi đã viết một số trang kia.
Cho đến khi toàn quốc đánh Pháp, được tin Ngô Tất Tố đi kháng chiến,
tôi thấy vui và tin quá. Ở rừng căn cứ, mỗi lần có dịp đi "hạ sơn" về trung du
và Yên Thế để đón bác Tố "lên" họp, lại càng thấy vui. Nhìn Ngô Tất Tố áo vải
đeo chéo cái chăn bông cũng nhuộm màu nâu chống gậy qua Đèo Khế, có
anh bạn đi sau đã bỏ nhỏ vào tai tôi, giọng anh nghịch "Trông kém gì năm đói
chạy đói vùng xuôi để lên khất thực ở thượng du".
* * *
Truyện Tắt đèn đã chuyển thành phim Chị Dậu chiếu buổi ra mắt tại
Cung thiếu nhi. Lũ nhân vật tí nhau khốn khổ của bác Tố có mặt ở câu lạc bộ
to đẹp hiện đại của tuổi trẻ. Văn Ngô Tất Tố cứ đọc không thôi cũng thấy no
khỏe rồi. Nay chuyển thứ văn học hiện thực phê phán đó sang điện ảnh càng
thấy nó ghê, nó dữ dội. Có người đã nói rằng hồi Pháp thuộc nó cho in Tắt
đèn chứ dứt khoát là nó không thể "cho" đóng và chiếu Tắt đèn. Tôi không nói
rằng văn học thua hẳn điện ảnh - mỗi thứ nó có cái cách, cái kiểu biểu hiện và
thể hiện của nó chứ - nhưng phải nhận rằng văn Tắt đèn khi chuyển được
sang hình và ảnh ở chị Dậu thì nó kích động người xem (cả người đã đọc
nữa) một cách thật là cụ thể đối với cảm quan và tư duy người ta. Nhiều
người xem đã rơi châu, đã khóc. Nó gợi nhớ lại những đợt ôn nghèo nhớ khổ
của nông dân ta. Phim tố khổ này lại cho chiếu vào giữa lúc mà phong trào
khoán sản phẩm từ Bắc thấu Nam làm nức lòng mọi người, càng làm cho giai
cấp nông dân thấy rõ thêm công ơn của Đảng Cộng sản Việt Nam mình.
Trước khi chiếu ra mắt chị Dậu, Hội Điện ảnh, Xưởng phim truyện và
đạo diễn Phạm Văn Khoa trao tặng bác Tố gái một bó hồng tươi, bó hồng
vinh quang trên tay một bà cụ nông dân khăn mỏ quạ, trông rất lạ và rất vui.
Bác Tố giai ạ, xưa chúng ta sống và làm việc giữa Hà Nội, làm gì có những
buổi sớm vui như thế này nhỉ.
Báo cáo thêm với nhà văn Ngô Tất Tố là năm 1962 tôi có viết một số
trang giới thiệu Tắt đèn tái bản. Tiền nhuận bút được trả tới năm trăm đồng,
giới xuất bản nói đó là cái trần tuyệt cao của loại văn đề tựa đó. Mà cao thật
bác Tố ạ. 1962 phở chỉ có 3 hào một bát, 5 hào thì đã tươi quá. Nay ở Sài
Gòn phở leo thang lên đến 12 đồng và gần đây đã bò tới cái giá 17 đồng, về
phở, nhớ xưa bác cũng như tôi lấy nó làm một thứ văn bản vị để tính toán,
như kiểu các nhà băng thế giới lấy vàng làm kim bản vị.
Sách của bác đã làm tôi được thơm lây. Rồi tôi càng thêm nhiều quần
chúng vì vai chánh tổng. Đi trên hè phố, nhiều người tôi không quen nhưng
nhìn tôi với nụ cười cảm tình với một nhân vật màn ảnh họ vừa nhận ra. Tôi
bước sang cái ngã tư thứ nhất, càng thấy Ngô Tất Tố xa xa mà như rất gần.
Cạnh tôi như có thêm một cây gậy nữa của bác Tố. Hai chúng tôi cộng lại gần
trăm sáu chục tuổi chống mỗi người một gậy, lại qua cái ngã tư thứ hai. Và tôi
nói "Qua một ngã tư nữa, thì chúng ta tới một quán rượu quen, rượu tăm. Tôi
mời bác, rồi tôi thuê xích lô cho bác về: giờ tôi cũng có đồng ra đồng vào rồi.
Lâu lắm chúng ta không có dịp nói gì với nhau.
* * *
Tết mặt trăng này là năm con chó Nhâm Tuất - trong Tắt đèn. Tết này
chị Dậu (tôi muốn nói đến cuốn phim truyện) thêm một tuổi nữa của màn bạc
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong cái thế giới hành chính của chị Dậu, trong
cái bộ máy tiểu lại ác bá ấy, tôi nhận đóng vai một tên chánh tổng; đóng chưa
giỏi vì chưa biểu hiện ra cái xấu cái ác của thứ cường hào này. Vậy mà nay
trong cái khí độc hại được mệnh danh là tiêu cực, lại thấy xuất hiện bọn làm
ăn kiểu chánh tổng và đám cường hào mới. Chúng không đến nỗi đông,
nhưng vẫn hách lắm. Ngày xưa thì chúng xoay xở làm ăn ở cái đình làng, ở
cái cổng phủ. Nay thì là cửa hàng, cái bán vé tàu bay tàu bò, ban này, kho nọ
vân vân.
Tôi có được dự một khoá học tất niên để góp bàn về giữ gìn đất nước
và sinh sống làm ăn ra sao đây từ xuân tới. Lớp học khá đông đủ các trình
độ. Không thấy một ai bạo miệng dám khẳng định rằng hoàn toàn đánh gục
các kiểu "chánh tổng lý trưởng" ăn hiếp và làm hại dân đó, nghĩa là dù chỉ còn
ít, nhưng chúng nó vẫn còn lẩn quẩn đó đây để làm khổ mình.
Cụ Hồ của chúng ta có nói đến ba thứ giặc chúng ta phải đánh. Thứ tự
của giặc bộ ba ấy thế này:
Một là giặc xâm lăng - Hai là giặc đói - Ba là giặc dốt.
Xâm lăng là giặc số một, điều này thì mọi người dễ và đã nhất trí rồi và
nay càng phải cảnh giác nó, nhất là bành trướng Trung Quốc. Còn cái giặc
hai và giặc ba thì nói chung nó vẫn ở vào cái diện giặc mà ta phải đánh mạnh.
(Tất nhiên "giặc đói" ngày nay không như hồi năm 45 và với chế độ ta, không
thể như thế được. "Giặc dốt" không còn là mù chữ mà làm ăn không khoa
học, thiếu kiến thức). Thời thuộc Pháp, đói sinh ra dốt, vị trí nó là số hai.
Nhưng thời nay là thời Ta, ta có chính quyền gần bốn chục năm, thế thì xếp
loại mấy thứ "giặc đói" và "giặc dốt" như thế nào đây? Có ý kiến cho rằng hai
thứ ảnh hưởng qua lại nhau và nên xếp là đồng hạng. Tóm lại cả ba giặc này
đều là thuộc hệ thống bóng tối và chúng đều hăm doạ và đe doạ sự sống ở ta
(có thứ bóng tối bắt nguồn từ trong Tắt đèn và trước nữa).
Mùa xuân "thiều quang chín chục" là mùa xuân của ánh sáng, ánh sáng
xua tan đi bóng tối. Mùa xuân Nhâm Tuất này, ta sẵn sàng đẩy lùi cả giặc
xâm lăng, cố gắng diệt gọn "giặc dốt", "giặc đói".
(Báo Văn nghệ, số Xuân, 1982)
TẮT ĐÈN CỦA NGÔ TÂT TỐPHAN CỰ ĐỆ
Ngô Tất Tố là một nhà văn có nhiều thuận lợi để viết về nông thôn: một
cái vốn Nho học vững chắc và một sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông
dân Việt Nam. Tắt đèn ngay từ đầu lúc mới ra đời đã được dư luận hoan
nghênh nhiệt liệt. Vũ Trọng Phụng, một nhà tiểu thuyết có luận đề xã hội,
hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa
từng thấy, mà lại của một tác giả đã được cái may hơn nhiều nhà văn khác là
đã được sống nhiều ở nơi thôn quê (...) đọc quyển Tắt đèn này, những độc
giả khó tính cũng phải chịu óc quan sát của Ngô Tất Tố về những cảnh làm
ruộng, thu thuế, chè chén, xôi thịt, hà lạm ức hiếp, bán vợ đợ con của đám
dân quê quả là một thứ óc quan sát rất tinh tường, rất chu đáo". Các báo chí
cách mạng Sài Gòn cũng cho rằng viết về cuộc đời nông dân sau luỹ tre xanh
thì Tắt đèn của Ngô Tất Tố "đã thành công một cách vẻ vang hết sức" (Phú
Hương). Nhà văn đã mang đến một cách nhìn mới, có màu sắc "duy vật biện
chứng" (Trần Minh Tước), một cách miêu tả và biểu hiện mới trong nghệ
thuật so với những tác phẩm đã viết về nông thôn đương thời.
Tắt đèn được hoan nghênh như vậy chính là vì đã đáp ứng được một
vấn đề thời sự trong thời kỳ. Mặt trận Dân chủ: vấn đề nông dân, đặc biệt là
vấn đề sưu thuế. Riêng tỉnh Bắc Ninh, quê hương của Ngô Tất Tố, năm 1937
là năm lụt lội, đã có tới 146.634 nông dân thất nghiệp. Ngô Tất Tố đã phải viết
bài Bắc Ninh cầu cứu để trình bày ra trước dư luận cái sự thật "đau đớn vô
cùng" của những người dân đói trong tỉnh: "Những kẻ ngắc ngoải muốn chết
đó, phần nhiều là dân các huyện Lang Tài, Gia Bình, Thuận Thành, Quế
Dương, Võ Giàng, Tiên Du và Đông Ngàn nữa. Trong mấy huyện đó thì khổ
nhất là Lang Tài, Gia Bình, Thuận Thành. Đời họ chỉ sống bằng nghề làm
ruộng. Vậy mà hai năm nay bị hai trận lụt nước sông, lại kèm một trận "tiêu
khô cháy đồng" ở giữa, như thế cỏ cũng chết, đừng nói người. Ai đáng phải
chịu trách nhiệm với họ trong những tai nạn thảm khốc ấy". Cũng năm 1937 là
năm tiểu thuyết Tắt đèn đang đăng tải trên báo Việt nữ, tác phẩm Vấn đề dân
cày của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp ra đời, cùng với báo chí của Đảng
phơi bày ra trước dư luận sự thật ở nông thôn, đấu tranh đòi bọn thống trị
phải chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề đời sống nông dân. Trên các báo của
Đảng, số nào cũng thấy đăng những bản thỉnh cầu của nông dân về vấn đề
sưu thuế. Ngày nào cũng thấy các báo đăng tin những người "vì không tiền
nạp thuế mà phải bị gông cùm, đánh đập, phải bỏ nhà đi trốn, phải tự tử hoặc
bán vợ đợ con". Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một bản tố khổ sâu sắc, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh chung đó. Cùng với những tiếng nói đòi cải cách
dân chủ, tiếng nói nghệ thuật của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn là một tiếng nói
đanh thép đòi huỷ bỏ chế độ thuế thân và đòi gấp rút cải thiện đời sống lam
lũ, cực khổ của nông dân. Đó là bản dự thảo dân nguyện (đặc biệt là nguyện
vọng của nông dân) được viết bằng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật.
Tấn bi kịch trong Tắt đèn căng thẳng ngay từ phút đầu: nông thôn trong
những ngày đóng thuế. Làng Đông Xá dường như bị phong toả, bị đặt trong
tình trạng "báo động". Từ mờ sáng, cổng làng đã bị đóng kín, nội bất xuất,
ngoại bất nhập và suốt trong 5 ngày liền tiếng "mõ cá, trống thúc liên hồi, hiệu
ốc, hiệu sừng thổi inh ỏi", "tiếng thét đấm thét đánh" rùng rợn. Ngô Tất Tố đã
đặt các nhân vật của mình vào một hoàn cảnh rất điển hình, một không khí
ngột ngạt, oi bức, giông bão, người nông dân trong làng cứ như "kiến bò
trong chảo nóng", chạy phía nào cũng bị bao vây bởi bọn thống trị bóc lột.
Trong một hoàn cảnh điển hình như thế, những mâu thuẫn cơ bản của xã hội,
những tính cách của các nhân vật sẽ có điều kiện bộc lộ một cách toàn vẹn.
Tắt đèn không mở rộng hoàn cảnh và môi trường, không nói chuyện
nông dân bị cướp đoạt ruộng đất, bị bóc lột địa tô, bị vỡ đê lụt lội, mất mùa,
đói kém rồi bỏ làng ra mỏ, đi phu đồn điền cao su.
Tắt đèn tập trung tố cáo cái thứ thuế bất nhân của bọn thực dân đánh
vào đầu người hàng năm, đẩy những người bần cố nông phải bán con, bỏ
làng đi ở vú hoặc đi ăn mày rồi chết đường chết chợ! Mỗi năm cái "tấn thảm
kịch lục cá nguyệt" đó lại diễn đi diễn lại và càng ngày càng bi thảm hơn.
Mỗi lần sưu thuế là mỗi lần bọn quan lại kỳ hào sâu mọt tìm cách đục
khoét, hà hiếp, đánh đập. Những cảnh thằng thúc, doạ nạt, cùm kẹp diễn ra
theo đúng cái luật lệ của lý trưởng: "Không cần gì hết, đứa nào mà trái ý đánh
luôn. Chúng tôi làm việc quanh năm đầu chày đít thớt, chỉ có những lúc "hồng
thuỷ chướng giật" và những khi "sưu thuế giới kỳ" như thế này mới có quyền.
Tha hồ đánh, tha hồ trói, trai làng thằng nào bướng bỉnh... đánh chết vô tội
vạ". Và đánh đập càng tàn nhẫn thì sự đục khoét lại càng có hiệu quả, nông
dân mới càng lo cầm đồ, bán vợ đợ con để nộp sưu thuế. Bọn địa chủ, nghị
viện (như nghị Quế) thừa cơ giở hết mọi thủ đoạn cho vay cắt cổ, mua rẻ đồ
đạc và cướp ruộng đất của nông dân.
Ngô Tất Tố đã tố cáo cái cảnh khổ điển hình "thiếu thuế mất vợ, thiếu
nợ mất con của nông dân thời Pháp thuộc. Bóc lột bằng sưu thuế là một
phương pháp bóc lột hết sức dã man của bọn thực dân nhằm bần cùng hoá
nhân dân. Tố cáo chế độ thuế thân vô nhân đạo của bọn thực dân và đòi huỷ
bỏ chế độ cho vay nặng lãi của địa chủ phong kiến, tiếng nói nghệ thuật của
Ngô Tất Tố trong Tắt đèn đã đáp ứng được nguyện vọng của nông dân
đương thời và là một cái tát vào mặt giai cấp thống trị đang cố tình bưng bít,
che giấu sự thật khủng khiếp ở nông thôn bằng những trò cứu tế, cải lương
hương chính bịp bợm.
Cái không khí oi bức, giông bão trong Tắt đèn cho ta thấy mâu thuẫn
giai cấp ở nông thôn đã đến độ đối kháng gay gắt, đòi hỏi phải được giải
quyết. Kết luận khách quan toát ra từ tác phẩm là: phải cấp bách cải thiện đời
sống nông dân và muốn giải phóng nông dân thì không có con đường nào
khác là đánh đổ bọn thực dân và quan lại, địa chủ phong kiến, mâu thuẫn đối
kháng trong Tắt đèn chủ yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp. Đấu tranh đơn
độc, tự phát của chị Dậu là một đốm lửa báo hiệu trong tương lai một cuộc nổ
bùng rộng lớn có tổ chức, có lãnh đạo của giai cấp nông dân chống lại bọn đế
quốc và phong kiến, địa chủ gian ác.
Tắt đèn không chỉ tố khổ cho nông dân. Cuốn tiểu thuyết này đã lên án
một bộ máy thống trị ở nông thôn: quan lại, nghị viên, địa chủ, cường hào
gian ác, dâm dục. Theo hồi ký của một nhà văn cùng thời với Ngô Tất Tố thì,
nếu Vũ Trọng Phụng trong khi xây dựng nghị Hách đã dựa vào những lời đồn
đại của quần chúng về gia đình một lão nghị ở Bạch Hạc (Vĩnh Phú) thì
những câu chuyện vế quan lại trong Tắt đèn ít nhiều có liên quan đến cha con
Hoàng Cao Khải, Hoàng Trọng Phu. Nghị Hách của Vũ Trọng Phụng có tính
chất tư sản mại bản hơn là địa chủ, đôi khi lại có nét của một một tên bạo
chúa ở phương Đông. Nhưng đọc đến nghị Quế trong Tắt đèn, chúng ta có
cảm tưởng đã gặp hắn một vài lần ở làng quê nào đó dưới thời Pháp thuộc.
Nghị Quế là một tên địa chủ trọc phú, dốt nát bủn xỉn, nhưng lại học làm sang
và hủ hậu một trăm phần trăm! Trong Tắt đèn, những chân dung của bọn
thống trị chỉ là một cái nền đen tối làm nổi bật lên hình tượng tươi sáng của
những người nông dân. Thành công lớn nhất của Ngô Tất Tố là đã xây dựng
được một điển hình nông dân đẹp đẽ, sinh động. Đảm đang, chung thuỷ, giàu
lòng hy sinh, giàu tinh thần lạc quan, hiền lành yêu thương mọi người nhưng
lúc cần có thể sống mái, quyết liệt với kẻ thù, đó là hình ảnh chân thật của
người phụ nữ nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc. Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố
đã tạo ra một tương quan hết sức chênh lệch. Một mình chị Dậu gần ba tháng
trời phải lo việc đóng góp, chi tiêu cho một gia đình năm miệng ăn, phải lo
suất sưu cho chồng, cho cả người em chồng chết đã sắp giỗ đầu, một "người
đàn bà con mọn" mà phải đương đầu với cả một bộ máy đàn áp khổng lồ gồm
những quan cố, quan cụ, tri phủ, chánh hội, lý trưởng, cai cơ, lính lệ gian ác,
đểu cáng, dâm dục. Cũng như một số tác phẩm trong văn học truyền thống
(ca dao, thơ Hồ Xuân Hương, Phạm Tải - Ngọc Hoa), để đề cao hình tượng
người phụ nữ, Tắt đèn dường như đã cố tình hạ thấp vai trò nhân vật nam
giới. Hình tượng chị Dậu vì thế cao đẹp hẳn lên, khỏe mạnh lạ thường. Tất
nhiên, biện pháp nghệ thuật nói trên là một cách chống trả cái xã hội phong
kiến trọng nam khinh nữ. Ngày nay, văn xuôi hiện đại không nhất thiết phải
làm như thế. Trong Người mẹ cầm súng, Nguyễn Thi đề cao chị Út nhưng
không hề hạ thấp anh Tịch, vợ chồng chị Út Tịch đều là anh hùng, "anh bá đỏ,
chị cạc bin", nắm tay nhau đánh giặc mù trời!
Rất tiếc kịch bản phim Chị Dậu đã cắt bỏ đoạn chị Dậu xô xát với lão tri
phủ Tư Ân trong phòng riêng của hắn. Ở đây, Ngô Tất Tố muốn đối lập hai
kiểu người, hai thứ đạo đức, hai triết lý sống hoàn toàn khác nhau. Một bên là
người đàn bà nghèo khổ lo rạc người đi vì thuế, bán cả con cả chó, bị đánh
đập khổ sở mà vẫn bị tù vì không chạy nổi hai đồng bảy bạc sưu cho chồng.
Ấy thế mà người đàn bà đó dám vứt tọt cả một nắm bạc trước đôi mắt
"giương tròn" ngạc nhiên của ngài phụ mẫu dâm dục. Hắn làm sao hiểu nổi
người phụ nữ chung thuỷ trong sáng đó, khi hắn vui vẻ khuyến khích vợ "cắm
sừng" lên đầu mình để chóng được cấp trên thăng quan tiến chức! Ở đây có
một điều cần phải lưu ý. Một thân một mình ở giữa nơi hang ổ của lũ hùm sói,
bị cả một bầy quan lại, cai cơ lính lệ thông đồng với nhau ức hiếp, chị Dậu rất
có thể bị làm nhục. Đã bao nhiêu người đàn bà bị hãm hiếp trong những hoàn
cảnh hiểm nghèo như thế (Thị Mịch trong Giông tố, Tám Bính trong Bỉ vỏ...).
Nhưng trong cả hai lần suýt bị ô nhục, Ngô Tất Tố đều cố tình bảo vệ đến
cùng nhân vật của mình. Tiếng còi ô tô của mụ vợ đã kịp thời cứu chị Dậu.
Chị bám vào cái lưng phàn phạt của một tên lính lệ ra khỏi căn buồng rồi chạy
thuốn vào trong bóng tối, sau lưng vẫn còn tiếng chửi bới the thé và những
tiếng rít giận dữ dồn dập đuổi theo... Bằng nghệ thuật lồng tiếng và bằng hình
ảnh, chắc chắn ở đây ngôn ngữ điện ảnh có ưu thế hơn ngôn ngữ văn học.
Điều cần chú ý trong khi chuyển thể là tình huống ở đây mang tính chất bi
kịch chứ không phải là tình huống hài kịch. Hai tấn bi kịch (một của người đàn
bà đơn độc bị một lũ đàn ông có quyền ức hiếp, một của người vợ phải chịu
bán mình ô nhục để mua danh cho một lão chồng đểu cáng, phụ bạc) cộng
vào với nhau, tô đậm thêm tấn bi kịch lớn của toàn xã hội. Tất nhiên, việc Ngô
Tất Tố trước sau bảo vệ nhân vật của mình vẫn có cái lôgíc của nó, vì chị
Dậu là người phụ nữ có nhân phẩm cao quý. Điều đáng nói ở đây là thái độ
nhân hậu của nhà văn đối với nhân vật; mặt khác, dường như cái việc một
người đàn bà bị làm ô nhục là điều tối kỵ đối với nhà nho trí thức này, vì nó
làm giảm đi rất nhiều vẻ đẹp "lý tưởng" của nhân vật chính diện trong tác
phẩm. Tuy là một nhân vật hiện thực chủ nghĩa thế kỷ XX, chị Dậu vẫn có
nhiều nét gần gũi với loại nhân vật đẹp người đẹp nết (kiểu Kiều Nguyệt Nga,
Cúc Hoa trong văn học truyền thống).
Đảm đang, tháo vát, chung thuỷ, giàu lòng hy sinh, đó là những đặc
điểm có tính chất truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trước đây. Cái
mới của chị Dậu là sức chiến đấu mạnh khoẻ lạc quan và tinh thần phản
kháng gan dạ trước kẻ thù. Nhiều người đàn bà khác rơi vào tình cảnh quẫn
bách như chị Dậu, có khi đành chịu buông tay khuất phục, nhắm mắt cho
cuộc đời trôi theo số mệnh. Nhưng người đàn bà nông dân này cứ thấy lăn xả
vào bóng tối như mực, kiếm cách phá tung ra để tìm đường sống. Và chống
trả một cách mộc mạc, hồn nhiên, không cần lý lẽ, dường như hành động
quyết liệt đó, ngôn ngữ nhân vật nhuần nhị đó là sản phẩm tất yếu của một
cuộc đời lương thiện vốn đã cơ cực lại còn bị giày xéo tàn nhẫn.
“- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!"
- “- Ô! Nhà ông này mới hay chứ! Có buông ra không thì tôi kêu lên bây
giờ!"...
“- Cháu cũng biết rằng đàn bà mà hành hung như thế là hư thân lắm.
Nhưng... cụ tính nhà cháu đau ốm như thế, mà cả hai đứa cứ xông vào đánh
thì phỏng còn gì là người! Vì thế cháu phải liều với chúng nó"...
Thái độ chống trả của chị Dậu ("cháu phải liều với chúng nó") là một
hành động đấu tranh tự phát đơn độc, chưa có ý thức, chưa có phương
hướng. Chị Dậu chưa tiêu biểu cho những người phụ nữ nông dân giác ngộ
cách mạng thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Nhưng trong văn học công khai đương
thời, nhân vật này vẫn là một cái mốc cao nhất, một hình tượng phụ nữ mạnh
khoẻ và tươi sáng nhất. Dường như trong lịch sử văn học Việt Nam từ thời kỳ
Mặt trận Dân chủ trở về trước, chị Dậu là người phụ nữ đầu tiên một mình
dám quật ngã hai kẻ thù nam giới. Vì đâu mà nhân vật này có sức chiến đấu
mạnh mẽ như thế? Lẽ tất nhiên và vì chị là người của thời kỳ Mặt trận Dân
chủ, thời kỳ có những cuộc đấu tranh rầm rộ của quần chúng dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Nhưng điều căn bản là vì chị tiêu biểu cho một giai cấp, giai
cấp nông dân lao động Việt Nam. Ý nghĩa giai cấp là một điểm mới mà Ngô
Tất Tố đã thấy được trong vấn đề xây dựng nhân vật phụ nữ. Trước đó văn
học chỉ đặt vấn đề tự do luyến ái, hạnh phúc lứa đôi, nhằm giải phóng phụ nữ
ra khỏi những sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Còn kết luận
khách quan toát ra từ tác phẩm của Ngô Tất Tố là: vấn đề giải phóng phụ nữ
chỉ có thể được thực hiện khi đại đa số quần chúng nông dân và nhân dân lao
động đã được giải phóng. Có giải phóng được giai cấp thì phụ nữ mới được
hoàn toàn giải phóng. Đó là tất cả ý nghĩa tiến bộ của vấn đề xã hội đặt ra
trong Tắt đèn.
Giá trị của một cuốn tiểu thuyết hiện thực phê phán như Tắt đèn không
phải chỉ ở sức mạnh tố cáo, đập phá xã hội cũ mà còn ở chỗ thấm đẫm một
tinh thần nhân đạo chủ nghĩa cao quý. Một cây bút tiểu thuyết lớn không phải
chỉ có một trí tuệ tỉnh táo, sắc xảo mà còn cần phải có một trái tim lớn, một
tấm lòng đôn hậu biết yêu thương tha thiết con người. Tắt đèn là một bản tố
khổ chân thật, sâu sắc, chan hoà nước mắt và lòng căm phẫn của hàng triệu
nông dân nghèo bị bóc lột. Nói lên nỗi khổ của nông dân có lẽ chính Ngô Tất
Tố cũng không cầm được nước mắt. Đọc Tắt đèn, chúng ta bồi hồi xúc động
trước tiếng khóc xé ruột của chị Dậu hoà lẫn với tiếng van lơn tha thiết tội
nghiệp của cái Tý. Tắt đèn đã đề cập một cách da diết đến vận mệnh của phụ
nữ và nhi đồng, những người ít khả năng tự vệ nhất trong xã hội lang sói. Đó
là một vấn đề mà những nhà văn lớn giàu tinh thần nhân đạo chủ nghĩa hằng
quan tâm đến. Tắt đèn là một tác phẩm có giá trị hiện thực tố cáo và giá trị
nhân đạo chủ nghĩa. Chính vì thế mà Tắt đèn trở nên một tác phẩm lớn có
tính nhân dân sâu sắc trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời
kỳ trước Cách mạng tháng Tám.
Tắt đèn không trải ra trên bề rộng, bao quát một dung lượng lớn hiện
thực như Giông tố, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, không dắt người nông dân
qua nhiều cảnh khổ điển hình, như xuống dần bậc thang, rồi cuối cùng tổng
kết thành một luận đề như Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan. Ngô
Tất Tố chỉ miêu tả một cách khách quan câu chuyện cùm trói, đánh đập, đục
khoét, hà lạm trong thời kỳ sưu thuế ở một làng quê thời Pháp thuộc và sự
khốn cùng, tan tác của một gia đình nông dân lương thiện không chạy đâu ra
để đóng cho đủ cái thứ thuế bất nhân đánh vào đầu người sống lẫn người
chết. Tuy nhiên, Tắt đèn đã có một sức tái hiện nghệ thuật lớn lao, làm cho
người đọc xúc động mãnh liệt, đồng thời cũng giúp cho họ nhận thức cuộc
sống một cách sâu sắc. Nghệ thuật của Tắt đèn là một thứ nghệ thuật đi vào
chiều sâu, vào cái tinh tuý, bản chất. Tắt đèn học được ở văn học dân gian,
đặc biệt ở tục ngữ, phương ngôn, cái nghệ thuật tập trung cô đúc, càng nén
lại thì càng gây nên những vụ nổ lớn, càng có sức vang xa rộng trong không
gian. Chỉ trong vòng hơn 100 trang mà các sự kiện dồn dập, các mâu thuẫn
cọ xát nhau đến nảy lửa. Tất cả câu chuyện sưu thuế đánh đập, chè chén,
bán con, bán chó, v.v... liên tiếp xảy ra chỉ trong một ngày ở một làng quê nhỏ
bé. Với một bút pháp đặc biệt, trong một không gian và thời gian bị nén lại,
Ngô Tất Tố đã dồn nhân vật của mình vào bước đường cùng, dồn đến mức
độ tất yếu phải nổ ra phản kháng, không chống trả thì không có cách gì sống
nổi! Cái không khí oi bức, giông bão và cách thể hiện tập trung, dồn nén như
trong Tắt đèn, sau này ta còn gặp lại trong tiểu thuyết ở xã Trung Nghĩa của
Nguyễn Thi viết về thời kỳ đen tối trước đồng khởi ở miền Nam. Tất nhiên, so
với Ngô Tất Tố, Nguyễn Thi hiện đại hơn, nhất là trong những đoạn độc thoại
nội tâm và đối thoại ngầm giữa các nhân vật.
(Văn học Việt Nam 1930 - 1945. NXB Giáo dục, H. 1997)
NHÂN VẬT CHỊ DẬU TRONG TẮT ĐÈN CỦA NGÔ TẤT TỐHÀ MINH ĐỨC
Trong dòng văn học hiện thực thời kỳ 1930 - 1945, Tắt đèn được xem
là một tác phẩm giá trị về đề tài nông dân. Điều đáng quý là qua tác phẩm,
Ngô Tất Tố đã xây dựng được một điển hình nhân vật xuất sắc, một phụ nữ
gọi theo tên chồng là chị Dậu, đã có ba mặt con. Khi tác phẩm được xuất bản
(1939) dư luận báo chí đã ngợi ca: Vũ Trọng Phụng nhận xét: "Tắt đèn là một
thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội, hoàn toàn phụng sự dân quê, áng văn có
thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy mà lại của một tác giả đã được cái
may hơn nhiều nhà văn khác là đã được sống nhiều ở nơi thôn quê (...) đọc
quyển Tắt đèn này những độc giả khó tính cũng sẽ phải chịu rằng óc quan sát
của Ngô Tất Tố về những cảnh làm ruộng, thu thuế, chè chén, xôi thịt, hà lạm
ức hiếp, bán vợ đợ con của đám dân quê quả là một thứ óc quan sát rất tinh
tường, rất chu đáo".
Các nhà báo theo khuynh hướng tiến bộ như Trần Minh Tước, Phú
Hương đều khẳng định đóng góp quan trọng của Ngô Tất Tố qua Tắt đèn.
Vấn đề nông dân là chủ đề xã hội cấp thiết trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ.
Nông dân bị bóc lột, nghèo khổ, đang sống ngắc ngoải trong cảnh sưu cao
thuế nặng, tô tức, đấy là chưa kể đến tai hoạ như hạn hán, lụt lội, rồi trộm
cướp, dịch bệnh hoành hành. Lúc này trên báo chí hai tác giả Qua Ninh và
Vân Đình, bút danh của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp, đã viết tác phẩm
vấn đề dân cày để phơi bày thực trạng nông thôn và tố cáo trước dư luận.
Ngô Tất Tố qua một bức tranh bi thảm của một làng quê, làng Đông Xá, một
cảnh ngộ gia đình nghèo khổ của anh chị Dậu để tố cáo chế độ thực dân
phong kiến và bộ máy cường hào, quan lại ở nông thôn. Nhân vật chị Dậu
được miêu tả sâu sắc, gợi nhiều chia sẻ, cảm thương ở người đọc. Nguyễn
Tuân cho rằng "Chị Dậu là tất cả cuốn Tắt đèn", "Chị Dậu là cái đốm sáng đặc
biệt của Tắt đèn. Nếu ví toàn truyện Tắt đèn là một khóm cây thì chị Dậu là cả
gốc cả ngọn cả cành và chính chị Dậu đã nổi gió lên mà rung cho cả cái cây
dạ hương Tắt đèn đó lên). Chị Dậu vừa được khắc hoạ trong bối cảnh làng
quê những ngày sưu thuế, vừa được thể hiện đậm nét trong cảnh ngộ riêng
của gia đình. Vì thế cái chung ở nhân vật cũng mang nhiều nét điển hình và
cái riêng chân thực sinh động. Có người cho rằng nếu đem so sánh giữa hai
nhân vật điển hình nông dân là chị Dậu và Chí Phèo thì nhân vật chị Dậu
nặng về tính chung phổ biến còn Chí Phèo thì nặng về tính riêng cá thể sinh
động. Nhận xét trên cũng có căn cứ về bình diện phân tích xã hội học các
nhân vật văn học. Những người như chị Dậu ở làng quê là đông đảo. Có thể
tìm thấy nhiều mẫu phụ nữ nông thôn có nét tương đồng với chị Dậu về nhân
cách, đạo đức. Còn Chí Phèo lại là một hiện tượng cá biệt không thể chiếm
số đông mà mỗi làng quê chỉ nảy sinh một vài nhân vật như Chí Phèo. Nhưng
nếu xét trên bình diện nghệ thuật thì tính chung không nhất thiết chỉ được đặt
ra cho số đông, qua số đông, cũng như tính cá thể sinh động của nhân vật
vẫn có thể miêu tả qua những hiện tượng có ý nghĩa đời thường khác biệt.
Chị Dậu đã thống nhất được tính chung và riêng một cách hoà hợp gắn bó.
Người đàn bà đã có ba mặt con ấy vẫn còn nhiều nét của một thời con gái:
"Cái nhanh nhảu của đôi mắt sắc ngọt, cái xinh xắn của cặp môi đỏ tươi, cái
mịn màng của nước da đen giòn, cái mượt mà của người đàn bà 24 tuổi".
Lẽ ra cuộc sống của anh chị Dậu những người lao động cần mẫn có
thể sung túc hoặc đủ ăn nhưng "hết năm ấy sang năm khác vợ chồng đầu tắt
mặt tối không dám chơi không ngày nào. Thế mà cơm vẫn không đủ ăn, áo
không đủ mặc". Và cái khó nhất của người nông dân nghèo là những chuyện
không may, vận hạn xảy ra trong đời khiến cho số phận điêu đứng, tan cửa
nát nhà. Anh Dậu ốm lâu ngày và gia đình lại gặp cảnh mẹ chồng và em
chồng chết. "Hai cái dớp ấy cũng đủ đưa anh lên đến bậc nhì; bậc nhất trong
hạng cùng đinh rồi". Và anh chị Dậu chính là nạn nhân của chuyện sưu thuế.
Chỉ vì một suất sưu nộp thêm cho người đã khuất mà phải bán cả cái Tý lại
đèo gánh khoai và ổ năm con chó vẫn chưa đủ. Hoàn cảnh của gia đình chị
Dậu không phải là cá biệt mà khá phổ biến ở làng quê trong những ngày sưu
thuế. Ngô Tất Tố đã vạch trần tính chất thuế khoá tàn ác của chế độ thực dân
phong kiến. Tất cả tai hoạ của gia đình chồng ốm, con cái nheo nhóc lại thiếu
sưu thuế trút nặng lên đầu chị Dậu và chị đã giữ được bản lĩnh vững vàng,
kiên quyết chống trả lại mọi thế lực thù địch ở làng quê; lý trưởng làng Đông
Xá phải thốt lên: "Bẩm ông lớn, con mẹ ấy tên là Đào, nó bướng bỉnh thứ nhất
làng con”. Ở làng Đông Xá này không phải chỉ có một bá Kiến như làng Vũ
Đại của Chí Phèo mà chị phải lần lượt chống trả lại tên lý trưởng, vợ chồng
nghị Quế, rồi tiếp đến là tri phủ Tư Ân và cụ cố. Bọn chúng đều có tâm địa
xấu bộc lộ theo những cách thức và hành động khác nhau, nham hiểm, độc
ác. Nói như là văn Nguyễn Minh Châu: "Vạch ra cái tàn ác của giai cấp địa
chủ phong kiến của nông thôn ta trước cách mạng tưởng không có cuốn sách
nào vạch ra một cách cụ thể, tàn nhẫn hơn Tắt đèn". Đúng thế. Lý trưởng thì
tham nhũng và độc ác. Chúng đã tự bộc lộ bản chất qua những câu nói tàn
nhẫn của kẻ cầm quyền lạm dụng quyền hành: "chúng tôi làm việc quanh
năm đầu chày đít thớt chỉ có những lúc "hồng thuỷ chướng giật" và những khi
"sưu thuế giới kỳ" như thế này thì mới có quyền. Tha hồ đánh, tha hồ trói, trai
làng thằng nào bướng bỉnh đánh chết vô tội vạ". Rồi lý trưởng sai người trói
chị Dậu để bát cơm trên tay chị lật đổ xuống mâm, ngăn cản chị Dậu cho con
bú để đi hầu quan. Vợ chồng nghị Quế lại tàn ác theo kiểu trọc phú ở quê. Vợ
nghị Quế nuôi đến 14 con chó và cho rằng "nuôi chó còn hơn là nuôi đứa ở".
Thị đếm từng miếng giò để đề phòng bọn con ở chấm mút, bắt cái Tý ăn cơm
thừa của chó. Nghị Quế đầu óc ngu dốt nô lệ nhưng lại rất tàn ác con ăn cái
ở. Rồi tri phủ Tư Ân vô đạo đức lập mưu mẹo để chiếm đoạt người phụ nữ
nông dân trong cảnh khốn cùng. Chị Dậu đã lần lượt chống trả lại tất cả.
Người phụ nữ này không cam chịu. Chị luôn tỉnh táo đặt ra những câu hỏi,
chất vấn những chuyện phi lý đáng ngờ vực. Chị vặn ông lý: "Thưa ông người
đã chết gần năm tháng sao lại còn phải đóng sưu". Lý trưởng bị dồn vào thế
bí liền quát: "Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không biết". Ông Tây! Kẻ chủ mưu,
tuy chỉ ló ra một lần qua câu nói của lý trưởng, nhưng cũng đủ chỉ ra đó chính
là kẻ có thế lực nhất chỉ huy bộ máy cường hào quan lại ở nông thôn. Chị
Dậu bị đưa lên phủ theo âm mưu của tên tri phủ Tư Ân. Buổi tối khi được đi
nằm lại bị gọi lên hầu việc quan. Thấy chuyện vô lý chị hỏi: "Cháu tưởng việc
quan thì làm ban ngày chứ sao lại làm ban đêm?".
Chị Dậu là người có bản lĩnh cứng rắn nhưng cũng luôn biết xử thế
mềm mại, có lý có tình. Trước những sự việc phức tạp, lúc đầu, bao giờ cũng
tìm cách nói nhẹ nhàng, thuyết phục để gỡ tình thế. Nhưng khi đã bị đẩy đến
bước đường cùng thì chị tỏ ra kiên quyết, mạnh mẽ. Trong tình cảnh anh Dậu
đang bị ốm nhưng tên cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào định đánh anh
Dậu, chị Dậu van xin:
“- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho".
Nhưng sự việc lại bị tiếp tục đẩy đến chỗ căng thẳng, bọn tay sai lý
trưởng và cai lệ xông vào đánh anh Dậu. Chị Dậu tỏ ra mạnh mẽ và có lý lẽ:
“- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ".
Và ở mức kiên quyết hơn, có tư thế hơn:
“- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem".
Rồi chị túm lấy cổ hắn ấn dúi ra cửa, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất.
Chị Dậu đã chống trả bằng cả sức mạnh của mình. Người đàn bà lực điền với
ý thức bảo vệ tổ ấm của gia đình như đã được tiếp thêm sức mạnh của người
thân và nhân lên sức mạnh của bản thân để quật ngã kẻ thù. Ở một trường
hợp khác, khi chống lại hành động xấu xa của tên tri phủ Tư Ân, sự việc cũng
diễn ra tương tự. Lúc đầu chị cũng van xin với lời lẽ nhẹ nhàng và lý lẽ chính
đáng:
“- Con lạy quan, chúng con là gái có chồng, quan lớn tha cho".
Tên quan vẫn không buông tha và chị kiên quyết hơn: "Ô! Nhà ông này
mới hay chứ. Có buông ra không thì tôi kêu lên bây giờ". Đánh trúng vào điểm
huyệt của đối phương nhưng y vẫn gan lỳ và cuối cùng chị hành động quyết
liệt: "Trận huỳnh huỵch kéo dài đến hơn mười phút, chị Dậu du được bên địch
ngã kềnh xuống đất". Tinh thần phản kháng của chị Dậu với những hình thức
chống đối đặc biệt góp phần trực tiếp tạo nên tính riêng của nhân vật rất hấp
dẫn, chân thực. Chị Dậu dám làm những việc mà nhiều người đàn ông không
dễ có thể làm. Tuy nhiên chị vẫn là người phụ nữ giàu nữ tính, luôn có ý thức
về việc mình làm "cháu cũng biết rằng đàn bà mà hành hung như thế là hư
thân lắm. Nhưng... cụ tính nhà cháu đau ốm như thế mà cả hai đứa cứ xông
vào đánh thì phỏng còn gì là người. Vì thế cháu phải liều với chúng nó".
Chị Dậu cũng bộc lộ một phương diện khác của nhân cách qua cách xử
lý để bảo vệ đạo lý làm người. Chị còn bị tên tri phủ Tư Ân tìm cách mua
chuộc bằng tiền tài. Người phụ nữ nghèo khổ vất vả để kiếm lấy từng đồng
cho đủ suất sưu nhưng sẵn sàng vứt tọt nắm bạc xuống đất trước con mắt
ngạc nhiên của tên quan vô đạo đức. Từng nét, từng nét nhân vật được bồi
đắp và hiện hình rõ nét. Tính cách riêng của nhân vật chị Dậu không bộc lộ
quá rõ rệt qua những hành động và việc lạ như Chí Phèo, một kiểu nhân vật
biến chất mà vẫn diễn ra trong khuôn khổ bình dị quen thuộc của đời thường.
Trong đời sống gia đình và quan hệ với chồng con, Ngô Tất Tố đã miêu tả
chân thực, gợi cảm hình ảnh một người mẹ thương con, một người vợ
thương chồng. Trên nhiều trang viết, khi thì người mẹ nức nở khóc trước
cảnh sắp phải xa con, đưa con đi bán cho nhà nghị Quế, khi thì tất tả ngược
xuôi vì chồng vì con. Việc bán cái Tý là chuyện bất đắc dĩ. Người đề xuất ra
chuyện này chắc chắn không phải là chị Dậu mà là gợi ý của anh Dậu. Ý định
bán con của anh Dậu có từ chương V cho mãi đến chương XI, câu chuyện
bàn đi bàn lại mới được quyết định. Chị Dậu đành dằn lòng trước cảnh xa
con. Ở đây cũng cần chú ý một khía cạnh nhỏ ở làng quê. Việc bán cái Tý
cho một người giàu có trong làng cũng khác nhiều với việc bán con cho một
người ở xa và vĩnh viễn không được gặp lại con. Cái Tý tuy không được sống
với gia đình nhưng vẫn sống trong làng, vẫn có thể trông thấy con ở đường
làng, bến nước. Và khi gia đình khấm khá lên thì có thể xin chuộc về. Cũng
cần hiểu thực tế đó thấy rằng chị Dậu không dứt tình với con cái mà ở vào
bước đường cùng nên đành phải chấp nhận cảnh ngộ đó. Tình cảm yêu
thương chồng con và làng xóm là một sức mạnh để người phụ nữ này có thể
chống trả với mọi thách thức của hoàn cảnh mà vẫn giữ được tình yêu cuộc
sống. Nhân vật chị Dậu chịu đựng nhiều bi kịch nhưng nổi lên vẫn là một chân
dung mang nhiều tính lạc quan. Nhận xét về phẩm chất này của chị Dậu,
Nguyễn Tuân đã có những ý sắc xảo: "Trên cái tối giời tối đất của đồng lúa
ngày xưa thấy sừng sững cái chân dung lạc quan của chị Dậu". Chị Dậu
không bị gục ngã trước những thử thách, chị là chỗ dựa cho cả một gia đình
ở vào thế cùng quẫn, bị đe doạ, chị Dậu là một mẫu mực vừa gần gũi, vừa
cao đẹp của người phụ nữ nông thôn Việt Nam thời kỳ trước cách mạng. Tất
nhiên nhiều hành động của chị còn mang tính tự phát, chưa gắn với một lý
tưởng chính trị xã hội nào nên không tránh khỏi có lúc bơ vơ, mờ mịt. Xong
chị Dậu đã hành động theo lương tri, theo đạo lý truyền thống nên cũng dễ
được chấp nhận. Nhân vật chị Dậu được xem là sự kết hợp giữa truyền thống
quá khứ và hiện đại. Chị Dậu mang theo ít nhiều bóng dáng của những nhân
vật như Cúc Hoa, Phương Hoa trong các truyện Nôm khuyết danh. Ở chị có
những nét thuần phác đức hạnh của người phụ nữ truyền thống Việt Nam.
Nhưng một mặt chị Dậu cũng là một nhân vật mang màu sắc hiện đại. Không
thụ động, lệ thuộc mà chủ động trong nhiều tình huống để giải quyết vấn đề.
Chị Dậu mang nhiều nét của con người có tinh thần đấu tranh để bảo vệ
mình, bảo vệ chân lý, bất chấp khó khăn, nguy hiểm. Đó là phẩm chất dễ hoà
hợp với con người hiện đại. Nếu chị Dậu là một mẫu hình có thực trong đời,
lại được chuyển từ đời cũ sang đời mới thì rất dễ trở thành một nhân vật tích
cực, trung kiên của phong trào. Chính vì phẩm chất mới có tính hiện đại đó
mà Nguyễn Tuân cho rằng hình như đã gặp người phụ nữ này ở chỗ phá kho
thóc Nhật hoặc ở đám người biểu tình cướp phủ huyện trong thời tiền khởi
nghĩa: "Với một cái tiền thân ngay thẳng lành mạnh như vậy, tôi nghĩ rằng chị
Dậu thế tất phải có một hậu thân trong các đoàn thể cách mạng; và tôi nhớ
như đã có lần nào, tôi đã gặp chị Dậu ở một đám đông phá kho thóc Nhật, ở
một cuộc họp cướp chính quyền huyện kỳ Tổng khởi nghĩa; và nếu không thì,
chí ít, tôi cũng đã gặp chị trong những ngày địch hậu o ép, chị tải thương
hoặc đậy nắp hầm bem cho cán bộ cơ sở. Ý tưởng của Nguyễn Tuân là sự
phát hiện, tiên đoán khả năng hiện thực của một nhân vật văn chương rất có
căn cứ và hợp lý. Chính vì lẽ đó mà nhân vật chị Dậu có sức thuyết phục, lôi
cuốn về nhiều mặt trong quan hệ gia đình cũng như về tư chất xã hội.
Chị Dậu là một nhân vật điển hình được người đọc yêu mến. Và người
yêu mến chị hơn cả là Ngô Tất Tố. Nhà Nho uyên thâm có gốc gác và vốn
hiểu biết sâu sắc về làng quê này đã biết chọn mặt gửi vàng. Ông hiểu rõ
nông thôn Việt Nam cũ với biết bao tệ nạn xã hội và cảnh đời bất công ngang
trái nên có một con người như chị Dậu cho dù là đứa con tinh thần của mình
càng phải bảo vệ trân trọng. Cho nên trong một số lần nhân vật của mình bị
đẩy vào tình thế hiểm nghèo rất có thể bị làm nhục nhưng Ngô Tất Tố đã cho
nhân vật được bảo đảm sự toàn vẹn, giữ chọn phẩm giá, không phải đau đớn
dằn vặt. Nhân vật chị Dậu tuy có những yếu tố mang tính lý tưởng nhưng về
cơ bản vẫn là nhân vật hiện thực. Một hoàn cảnh điển hình của làng quê
trong mùa sưu thuế, một cảnh ngộ điển hình của một gia đình nông dân
nghèo khổ đã góp phần tạo nên một tính cách nhân vật có giá trị hiện thực
sâu sắc, bền vững với thời gian.
Trích sách Văn học Việt Nam, Nxb Hà Nội, 1999
GIỌT NƯỚC MẮT CHỊ DẬU TRONG TÁC PHẨM TẮT ĐÈNHỒ GIANG LONG
Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể - sự khẳng định này từ lâu
đã được lý luận văn học công nhận. Như thế có nghĩa là bất cứ bộ phận nào
của tác phẩm cũng có quan hệ mật thiết với nhau, quy định sự tồn tại của
nhau. Ta có thể hình dung tác phẩm văn học giống như một sinh thể được
cấu thành từ nLững yếu tố nhỏ nhất. Do đó, xét ở mức lý tưởng, ta khó có thể
loại bỏ bất cứ yếu tố nào của tác phẩm, dù chỉ là dấu phẩy.
Đặc tính hệ thống chỉnh thể của văn học vừa mới nói ở trên là một lưu ý
khi tiếp nhận tác phẩm. Bởi vì trong thực tế có những từ ngữ, hình ảnh, chi
tiết... nếu chỉ nhìn nhận một cách đơn lẻ hoặc chỉ đơn giản đặt vào văn cảnh
để lý giải thì đôi lúc không nhận ra được ý đồ của nhà văn. Ngược lại, khi đặt
các yếu tố đó trong mối quan hệ rộng hơn - quan hệ với toàn bộ thế giới nghệ
thuật của tác phẩm thì có thể khám phá ra nhiều điều thú vị. Trên tinh thần ấy,
tôi thử tìm hiểu ý nghĩa giọt nước mắt chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của
Ngô Tất Tố.
Tiếng khóc và giọt nước mắt của chị Dậu chỉ là một chi tiết rất nhỏ
trong tiểu thuyết Tắt đèn. Nếu chỉ xem xét một cách tách bạch thì giọt nước
mắt này không mấy ý nghĩa, ngoài sự góp phần thể hiện trạng thái tâm lý đau
đớn của nhân vật trong từng tình cảnh. Nhưng khi đặt chi tiết này trong quan
hệ toàn bộ tác phẩm thì vấn đề không phải chỉ như vậy.
Theo thống kê bước đầu của tôi thì trong tác phẩm, nhân vật chị Dậu
khóc đến hơn 20 lần và hình ảnh giọt nước mắt của chị được miêu tả trực
tiếp hoặc gián tiếp gần 60 lần. Đối với một tác phẩm chỉ dày hơn 100 trang,
nội dung kể lại chuyện sưu thuế diễn ra tại làng Đông Xá trong thời gian rất
ngắn, nhà văn cho hình ảnh giọt nước mắt xuất hiện như thể khiến hai con số
thống kê ở trên tự nó đã lấp lánh ý nghĩa. Có thể nói mỗi trang sách Tắt đèn
đều thấm đẫm nước mắt nhân vật. Không chỉ là nước mắt chị Dậu mà còn có
nước mắt chồng chị, con chị. Theo tôi, hình ảnh giọt nước mắt được láy lại
nhiều lần như vậy trước hết nó mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc. Trong quan
hệ liên kết, tổng quát, hình ảnh giọt nước mắt là một mảng hiện thực được
nhà văn đưa vào tác phẩm, chúng không đơn thuần chỉ là nước mắt nhân vật.
Điều này cắt nghĩa vì sao nhiều tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh lịch sử bi
thương lại có số giọt nước mắt xuất hiện nhiều. Truyện Kiều là một ví dụ.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du hơn 50 lần nhắc đến hình ảnh giọt
nước mắt và để cho Kiều khóc đến gần 30 lần.
Tuy nhiên hình ảnh giọt nước mắt trong tác phẩm không chỉ là kết quả
sự cảm nhận về hiện thực như vừa nói mà còn là dụng ý nghệ thuật của tác
giả. Cụ thể ở Tắt đèn Ngô Tất Tố đã dùng hình ảnh giọt nước mắt như một
phương tiện để khắc hoạ tính cách nhân vật. Nếu như Nguyễn Du miêu tả
nước mắt để ngầm chỉ tính cách "người đâu sẵn mối thương tâm" của Kiều
thì Ngô Tất Tố dùng giọt nước mắt để phản ánh một nét tâm hồn của người
phụ nữ thôn quê. Chị Dậu không chỉ khóc khi nhìn chồng bị trói, khi phải dứt
ruột bán con mà còn nhỏ nước mắt vì câu hỏi già trước tuổi của bé Tý, vì lòng
tốt của bà hàng xóm... Nước mắt chị Dậu vừa là kết tụ của một cuộc đời đầy
khổ đau, của một tình thương sâu sắc vừa là sự hiện hữu của vẻ đẹp tâm hồn
nhạy cảm.
Vẻ đẹp lung linh trong tình cảm đối với chồng con của chị Dậu cũng
được Ngô Tất Tố khắc sâu thêm qua việc miêu tả giọt nước mắt. Sóng gió
luôn luôn ào đến quất tơi tả túp lều tranh, một mình chị Dậu phải làm chỗ dựa
cho gia đình neo đậu giữa cơn bão đời. Ngụp lặn trong đau đớn, người phụ
nữ 24 tuổi ấy dường như chỉ biết dành tất cả tình cảm cho người khác. Hơn
20 lần khóc thì chỉ 2 lần nhỏ nước mắt cho mình: ấy là khi chị tưởng mình
phải mặc quần áo tù và khi không chịu nổi ngón đòn "cùm tréo" của tên biện
lệ. Chỉ hai lần ấy thôi! Suối nước mắt còn lại trong chị đều tuôn chảy vì
thương chồng, thương con.
Dõi theo tác phẩm Tắt đèn chúng ta thấy hình ảnh nước mắt không khi
nào cạn ráo trên khuôn mặt chị Dậu. Nhưng như thế không có nghĩa là nhà
văn để cho nhân vật mình khóc một cách dễ dãi. Trong tác phẩm có ba lần
Ngô Tất Tố miêu tả bọn cai lệ, lý trưởng tay thước tay thừng hùng hổ xông
vào chị Dậu đánh đập, bắt bớ, doạ nạt. Nhưng điều vô cùng thú vị là cả ba lần
ấy tác giả không hề để cho chị Dậu khóc lóc quỳ lạy chúng. Ngược lại có lần
chị còn dám đánh trả quyết liệt để bảo vệ cho chồng. Như vậy nước mắt của
chị Dậu không phải là thứ nước mắt yếu mềm hoặc cam phận. Chị khóc nhiều
nhưng trước sau vẫn là người phụ nữ khoẻ khoắn luôn luôn tiềm tàng sức
mạnh phản kháng.
Như vậy giọt nước mắt của chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn là một tập
hợp có tính hệ thống được tác giả sắp xếp theo ý đồ nghệ thuật. Ngay cả việc
nhà văn mở đầu tác phẩm bằng sự miêu tả "cái nhanh nhẩu của đôi mắt sắc
ngọt, cái xinh xắn của cặp môi đỏ tươi" của chị Dậu rồi sau đó không hề để
cho nhân vật nở một nụ cười nào mà chỉ có nước mắt cũng là dụng ý. Đôi
mắt đẹp như luôn vương đầy nước và đôi môi đỏ tươi nhưng không bao giờ
được cười - hẳn người đọc sẽ giữ mãi sự tiếc nuối khi cái đẹp bị lấp chìm
trong nỗi đau như thế...
Tạp chí Trung học phổ thông, số 23, tháng 9 - 1998
VIỆC LÀNG CỦA NGÔ TÂT TỐVŨ NGỌC PHAN
… Ngay ngoài bìa quyển phóng sự Việc làng người ta đã đọc thấy một
dòng chữ đỏ "Tục ngữ: Phép vua thua lệ làng". Quyển Việc làng chính là
quyển nói về "lệ làng” của dân Việt Nam xứ Bắc.
Những "lệ làng" hay "việc làng" mà tác giả nói đây rất là phức tạp,
nhưng rút cục cái mục đích cuối cùng bao giờ cũng là miếng ăn. Bất kỳ là việc
vui, việc buồn, đều phải ăn cả.
Quyển phóng sự của Ngô Tất Tố làm cho người ta thấy những cảnh
khổ não, nhục nhằn, những tai nạn khủng khiếp, những việc thương tâm gây
nên bởi miếng ăn, phơi bày ra như ở trước mắt. Đọc Việc làng người ta có cái
cảm tưởng rõ rệt là dân quê nước ta là một dân lúc nào cũng đói, lúc nào
cũng thèm ăn, thèm uống.
Người ta chưa chết, dân làng đã nghĩ đến sự giết trâu như chuyện một
cụ "thượng" làng lão Việt (trang 5), nào cả làng được ăn uống no say vì một
đám vào ngôi, tiêu tốn tới hai trăm bạc (trang 12), nào mua lấy cái danh là
ông lý cựu để tốn về việc đãi làng mất tối hai trăm bạc. Mà dư luận đối với
việc này thế nào? Dư luận như thế nào:
"Một ông ở bàn thuốc phiện vào chỗ tôi ngồi, nói chuyện tiếp tôi:
- Ông nó lo một việc này, có lẽ cũng tốn đến hai trăm bạc. Song cũng
còn may! Ông tính không phải làm ngày nào, tự nhiên thành người kỳ cựu,
chễm trệ ngồi chiếu cạp điều giữa đình, há chẳng sướng sao? (trang 45).
Nhưng mới "năm hôm sau", tác giả đã gặp bà lý cựu "cắp nón ra cổng
làng với một dáng bộ không vui":
" - Chào ông ở nhà, cháu đi làm đây.
Và không đợi tôi hỏi, bà ấy vội vàng cắt nghĩa:
- Cháu sang Hà Nội làm vú già, ông ạ. Có gần mẫu ruộng và nửa con
trâu đã bán hết cả, lại còn nợ thêm hơn bảy chục đồng, nếu không đi làm thì
lấy gì mà đóng họ?" (trang 45).
Rồi đến những cách nuôi gà thờ, chăm chút hơn cả nuôi mẹ (trang 72),
cuộc đánh nhau chí mạng chỉ vì cái lăm lợn (trang 107), thật là những thói tục
rất đặc biệt, có lẽ trên thế giới, ngoài dân Việt Nam ta, không một dân tộc nào
có. Miếng ăn đối với dân Việt Nam to vô cùng, to về đường tinh thần! Vì về
đường vật chất, nó cũng không lấy gì làm to cho lắm, nó chỉ bằng đầu ngón
tay thôi. Đây hãy xem người ta chia một con gà như thế nào.
Thằng mõ (tên nó là thằng Mới) hỏi về việc chặt một con gà:
“- Thưa các cụ làm bao nhiêu cỗ?
Ông đàn anh ấy lại lên giọng:
- Mày trông xem có bao nhiêu người kiến tại.
Thắng Mới liếc mắt một lượt từ trong nhà ra đến ngoài thềm rồi thưa:
- Bẩm ba mươi người tất cả.
Ở đầu dẫy phản tay phải, thấy có tiếng hỏi:
- Hàng xóm tám mươi mấy suất, cụ có nhớ không?
Rồi có tiếng đáp:
- Năm ngoái bảy mươi tám suất, năm nay mới thêm năm suất thế là
tám mươi ba suất cả thẩy.
Ông đàn anh vừa rồi nhìn vào thằng Mới:
- Vậy thì phải làm hai mươi tư cỗ, tám cỗ kiến tại, một cỗ chứa, một chỗ
cho mày, còn mười ba cỗ làm phần" (trang 29 và 30).
Rồi đây là cái nghệ thuật "băm thịt gà" của thằng Mới. Hãy nghe nó nói
và xem nó làm:
“- Băm thịt gà cần phải dao sắc, thớt phẳng. Nếu mà dao cùn thớt
trũng, thì thịt sẽ bong hết da.
Vừa nói, hắn vừa với sang thúng đĩa, lấy đủ chục chiếc, bầy la liệt trên
mặt thềm.
Thằng nhỏ đã xách lên đó chiếc thớt mới nguyên, sắc gỗ nghiến còn đỏ
đòng đọc.
Nhanh nhẩu, hắn sờ ngón tay vào lưỡi con dao, xem có bén không. Và
hắn lật cái trôn bát liếc luôn ba lượt thật mạnh. Bấy giờ mới giở đến bộ lòng
gà. Mề, gan, tim, phổi, các thứ đều được thái riêng và được bầy riêng vào
một góc đĩa. Tuy nó chỉ được một dúm con con, nhưng trong mười đĩa, không
đĩa nào thiếu một thứ nào.
Rồi hắn nhấc cả con gà ra thớt. Bắt đầu chặt lấy cái sỏ, sau mới chặt
đến cái phao câu" (trang 30 và 31).
Sau khi đã pha sỏ gà làm năm, phao gà làm bốn, miếng sỏ nào cũng có
dính một tí mỏ và miếng phao nào cũng có đầu bầu, đầu ngọn và chặt cánh
gà và thân gà làm hơn mười miếng, thằng Mới chặt đến mình gà:
"... Hắn lách lưỡi dao vào sườn con gà, cắt riêng hai cái tỏi gà bỏ vào
góc mâm. Rồi, lật ngửa con gà lên thớt, hắn ướm dao vào giữa xương sống
và giơ dao chém luôn hai nhát theo chiều dài cái xương ấy. Con gà bị tách ra
làm hai mảnh đều có một nửa xương sống. Một tay giữ thỏi thịt gà, một tay
cầm con dao phay, hắn băm lia lịa như không chú ý gì hết. Nhưng mà hình
như tay hắn đã có cỡ sẵn, cho nên con dao của hắn giơ lên, không nhát nào
cao, không nhát nào thấp. Mười nhát như một, nó chỉ lên khỏi mặt thớt độ già
một gang, và cách cái ngón tay của hắn độ vài ba phân. Tiếng dao công cốc
đụng vào mặt thớt, dịp dàng như tiếng mõ của phường chèo, không lúc nào
mau, cũng không lúc nào thưa. Mỗi tiếng cốc là một miếng thịt băng ra. Miếng
nào như miếng ấy, đứt suốt từ xương đến da, không còn dính nhau mảy
may", (trang 32 và 33).
Tả như vậy thật như vẽ ra trước mắt. Lời văn trong Việc làng đều bình
dị như thế cả. Tập phóng sự về dân quê này thật là một tập phóng sự rất đầy
đủ về lệ làng.
Trích sách Nhà văn hiện đại, quyển ba. Nxb Vĩnh Thịnh, H. 1951
ĐỌC LẠI VIỆC LÀNG CỦA NGÔ TÂT TỐBÙI HUY PHỒN
Xưa kia, nếu ai đã từng sống ở nông thôn, nếu ai đã từng chứng kiến
cái cảnh người nông dân đang nai lưng ra làm nạn nhân của mọi thứ hủ tục ở
hương thôn, hoặc nếu chính bản thân mình lại đã từng là một nạn nhân, hẳn
đều thấy thấm thía khi đọc tập phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố.
"Phép vua thua lệ làng"! Câu tục ngữ đầy ngụ ý châm biếm đó đã được
mỗi người dân Việt Nam hiểu ra một nghĩa khác nhau, nhưng vẫn đầy châm
biếm: Người thì cho rằng nghiêm ngặt đến như pháp luật nhà vua mà về đến
nông thôn cũng phải đứng xuống hàng thứ yếu, để cho việc chấp hành những
tục lệ của làng được đứng lên hàng đầu! Người thì cho rằng pháp luật của
nhà vua hà khắc, nghiệt ngã khét tiếng trên đời, ấy thế mà đem so với cái hà
khắc, nghiệt ngã của những tục lệ ở hương thôn cũng phải chịu thua không
thấm vào đâu hết! Có người lại cho rằng phép vua hay lệ làng cũng đều là
sản phẩm của chế độ phong kiến, sở dĩ cổ nhân nói cái nọ thua cái kia là cốt
để vạch rõ những dã man tàn bạo của cả hai nó ghê gớm đến mức nào mà
thôi.
Trên mỗi khía cạnh, cả ba nghĩa trên kia đều đúng. Là cả ba nghĩa đều
được thể hiện khá đầy đủ trong Việc làng.
Bằng những tài liệu phong phú, một lối nhìn sâu sắc tinh vi, và lời văn
đanh thép như một lời cáo trạng, nhiều khi châm biếm quá đến chua cay, nhà
văn lão thành Ngô Tất Tố, trước đây hai mươi năm, đã dùng thiên phóng sự
Việc làng để lớn tiếng "tố khổ" lên những tệ lậu của bọn phong kiến địa chủ
gieo rắc ở nông thôn, mà chúng cố che đậy dưới nước sơn hào nhoáng mệnh
danh là những "thuần phong mỹ tục"!
Mở đầu thiên phóng sự, tác giả giới thiệu với chúng ta một cảnh hấp
hối rất đau thương của một nạn nhân của cái thuần phong mỹ tục đó: cụ
Thượng làng Lão Việt, một bạn quen của tác giả. Đó là một nông dân lao
động "... tuy không thông minh nhưng cũng không đến nỗi ngu đần... Từ thuở
mười bảy tuổi đầu, không chơi không ngày nào, trừ ra những ngày ốm... Một
người chăm chỉ, lao lực, cần kiệm như tôi, chỉ vì một gánh tệ tục đè ép, đến
nỗi suốt đời không ngóc đầu được, bây giờ sắp chết, gánh tệ tục ấy vẫn còn
đè ép chưa tha" cho đến lúc chỉ còn biết thở ra hơi thở cuối cùng: "Tôi là
người chết oan! Ông nên nhớ cho như thế”.
Để minh hoạ cho lời nói trên, tác giả đã kết thức cuộc đời nạn nhân
bằng hình ảnh: "Hết câu đó, cụ bỗng trợn ngược hai mắt, đờm ở trong cổ kéo
lên khè khè. Cả nhà nhớn nhác xúm lại. Trong lúc cả nhà im lặng bỏ tiền và
gạo vào miệng người chết, thì ở ngoài vườn, người ta cũng hò reo để vật con
trâu".
Và cứ như thế, hết lớp người này đến lớp người khác, hết đời nọ kế
tiếp đời kia, gánh việc làng vẫn được coi như vị thần thiêng tàn sát bao nhiêu
sinh mạng con ngươi, mà không ai đả động đến nó.
Thực không thể nào mỉa mai chua chát hơn được nữa!
Nhưng chưa hết. Cái chết của cụ Thượng Lão Việt mới chỉ là một câu
chuyện mở đầu cho nhiều những câu chuyện khác, càng chua chát và mỉa
mai hơn. Từ Một đám vào ngôi, qua Góc chiếu giữa đinh, Miếng thịt giỗ hậu...
đến Món nợ chung thân... mười bảy mẩu chuyện là mười bảy cảnh đời sống
thực trước cách mạng ở nông thôn, với bộ máy hương lý đầy rẫy những thối
nát, những lộng hành, với đám dân đen bị đè nén, áp bức đến cực độ. Và
hơn thế, đây là mười bảy bản cáo trạng lên án cái chất mọt ruỗng và đen tối
của tổ chức xã hội cũ một cách rất hùng hồn!
Nếu chúng ta đã thấy ngậm ngùi cho bác cả Mão (Một đám vào ngôi)
hay hếu chúng ta đã ngoài miệng thì bật cười mà trong lòng thì đau quặn cho
anh Hai Thuyết (Đôi giày mất dạy). Nếu chúng ta có những phút băn khoăn, lo
lắng với người trong truyện Con gà thờ, hay nếu chúng ta có thấy rợn người
trước những cái chết thê lương trong Cái án ông cụ, hoặc Một tiệc ăn vạ... và
đồng thời, sau khi đọc hết mỗi truyện, sau khi đọc hết toàn thiên phóng sự,
chúng ta đã cảm thấy không thể nào sống mãi trong cảnh ngộp thở đó được,
thì đây là cái thành công lớn, là giá trị hiện thực của Việc làng.
Đọc Việc làng, chúng ta còn thấy tác giả luôn luôn đặt ra trước mắt
chúng ta một vấn đề: phải làm gì bây giờ để chấm dứt cảnh sống ngộp thở
đó? Vấn đề đã được cuộc Cách mạng tháng Tám, rồi cải cách ruộng đất giải
quyết trong hơn mười năm sau. Song với hoàn cảnh lịch sử của hai chục năm
về trước đây, trong lúc mà bọn bồi bút của phong kiến và đế quốc đương đua
nhau "thêu hoa dệt gấm" hòng cố che đậy bộ mặt thực của chúng ở nông
thôn, trong lúc mà một số nhà văn khác đang đua nhau ca ngợi những lớp
người và cuộc sống lãng mạn suy tàn, thì Ngô Tất Tố là một trong số những
nhà văn đã nhìn thấy cái bản chất của xã hội đương thời, - dù mới chỉ là một
khía cạnh.
Đương nhiên, với trình độ nhận thức chính trị của ông lúc bấy giờ, đến
khi muốn tự giải quyết vấn đề mình nêu ra, không khỏi bị lúng túng và sai
lệch: Ông cho rằng hầu như chỉ có phái trí thức mới giải phóng được cho
người nông dân. Ý kiến này đã được tác giả nói đi nhận lại nhiều lần qua lời
dối dăng của cụ Thượng Lão Việt:
Hủ tục không phải là thứ thiên kinh địa nghĩa, nó vẫn có thể thay đổi
nếu phái trí thức để ý đến sự khai phá cho dân quê".
"Nhưng... con mắt của phái trí thức ít khi ngó tới".
"Một nước giống như một cái xe bò, lớp trí thức là người làm bò, lớp
dân quê là người đẩy xe. Nếu kẻ đẩy xe còn bị những dây lệ tục buộc chặt hai
chân, thì kẻ làm bò tài giỏi bậc nào cũng không thể kéo được cái xe bò lên
dốc..."
Không ai phủ nhận vai trò quan trọng của những người tri thức trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cải tạo xã hội. Nhưng việc cải tạo nông
thôn không thể chỉ trông chờ một vài cải cách lặt vặt, một ít sáng kiến của
người trí thức mà phải là một cuộc cách mạng rộng lớn. Có cách mạng thì
mới đả phá tận gốc mọi sự áp bức bóc lột và mọi hủ tục, mới giải phóng
người nông dân được. Nhưng vai trò lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo mọi cải
tạo xã hội - để giải phóng dân tộc nói chung và người nông dân nói riêng - chỉ
có thể là giai cấp công nhân đứng đầu là Đảng tiền phong của nó, trên nền
tảng công nông liên minh. Lịch sử cách mạng vô sản thế giới đã chứng minh
điều đó, và cuộc Cách mạng tháng Tám của chúng ta càng chứng minh điều
đó.
Đến cái đầu đề của câu chuyện thứ nhất: Lớp người bị bỏ sót cũng
biểu lộ rằng cái nhận thức chính trị của tác giả lúc bấy giờ còn bị hạn chế.
Lớp người nông dân, chiếm đến trên 90% dân số Việt Nam không hề bao giờ
bị bỏ sót. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương mới ra đời, trong bản
chính cương đầu tiên, họ đã được Đảng coi là chỗ dựa chắc chắn nhất,
người bạn trung thành nhất của giai cấp công nhân. Và thực tế họ đã được
Đảng lãnh đạo đứng lên đấu tranh trong nhiều phong trào lớn, điển hình là
phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931.
Về mặt nghệ thuật cũng có những thiếu sót, căn bản nó do lập trường
giai cấp của tác giả còn mơ hồ. Nên khi muốn tả cụ Thượng làng Lão Việt là
một nông dân lao động, nhưng qua ngôn ngữ, sinh hoạt của nhân vật, thì lại
là hạng thuộc tầng lớp trên ở nông thôn, có học thức, kiêm tiểu thương. Cũng
như những gia đình mà tác giả trọ học (hầu hết trong mười bảy truyện) qua
nét tả thì đó đều là những người nông dân "tốt" cả, nhưng qua sinh hoạt,
phong cách của nhân vật thì đó là những gia đình khá giả, phong lưu, ít hoặc
không lao động, làm chúng ta có cảm tưởng rằng đó là những gia đình phi
"địa" tất "phú" vậy!
Những sai lệch về quan điểm kể trên còn có ở Ngô Tất Tố khi viết Việc
làng, cũng không lấy làm gì lạ. Ngô Tất Tố vốn là một nhà Nho. Những tư
tưởng Văn thân, Đông du lúc bấy giờ - tuy đã tan rã vì gặp nhiều thất bại -
không tránh khỏi còn dư rớt lại trong ông. Rồi tiếp đến tư tưởng cải lương là
con đường tất nhiên của lớp người trí thức đương thời khi họ chưa tìm được
lối thoát. Nhưng với Việc làng, chúng ta thấy lối thoát của Ngô Tất Tố đã
được hé mở. Cho nên sau này, cũng không lấy gì làm lạ khi chúng ta biết ông
đứng vào hàng ngũ những người chiến sĩ Cộng sản Việt Nam.
* * *
Phải nói thực với nhau rằng khi đọc xong Việc làng, chúng ta - những
người sáng tác văn nghệ, - lại càng thấy sự hiểu biết của chúng ta về đời
sống mọi mặt của người nông dân nước ta quả còn sơ sài, phiến diện quá, do
đó mà sự thông cảm của chúng ta với những vui, buồn, sướng, khổ của họ
cũng còn hời hợt quá! Chúng ta mới chỉ biết rằng người nông dân bị bóc lột
về kinh tế, và áp bức về chính trị. Rằng cuộc cách mạng chống đế quốc và
phong kiến đã giải phóng cho người nông dân thoát khỏi quan hệ sản xuất cũ,
chế độ chính trị cũ. Nhưng còn điều mà chúng ta ít chú ý là, cũng nhờ có cách
mạng, người nông dân còn được giải phóng thoát khỏi trăm ngàn thứ hủ tục
nó trói buộc, đè nén họ hàng ngàn vạn năm. Đem truy nguyên, thì cái trước
(quan hệ sinh hoạt) là nguồn gốc đẻ ra cái sau (phong tục tập quán). Nhưng
đem cân nhắc về mặt tội ác, thì cái sau không kém dã man cường bạo so với
những cái trước, như trên kia đã nói. Vậy mà trong phát động giảm tô và cải
cách ruộng đất, ngoài việc nghe tố khổ những tội ác về kinh tế và chính trị của
giai cấp phong kiến địa chủ, hỏi mấy ai trong chúng ta đã được nghe tố khổ
những tội ác về hủ tục, tập quán hà khắc nó đã phá vỡ bao nhiêu hạnh phúc,
tàn sát bao nhiêu sinh mạng người nông dân. Chính vì thế mà chúng ta đã
chưa thông cảm được hết nỗi đau khổ của họ xưa kia, lại càng không thông
cảm được hết niềm sung sướng của họ ngày nay. Cho nên, khi phát hiện ra
những sai lầm trong thời gian qua, có người trong chúng ta đã vội vàng
cường điệu những đau xót của người nông dân, những là "tình cảm con
người bị đổ vỡ", "nhân phẩm con người bị chà đạp", làm như người nông dân
chưa lúc nào "đau khổ" như lúc này (!) mà không thấy rằng cái lúc người
nông dân thấy tình cảm mình bị tan vỡ nhất, chính là cái lúc họ phải sống
dưới chế độ cũ, với, bên cạnh bao nhiêu tầng lớp bóc lột về kinh tế, áp bức
về chính trị, lại còn thêm cả bao nhiêu tầng đè nén về hủ tục, chứ không phải
là cái lúc chúng ta mắc sai lầm. Vì mặc dù một số ít bị thiệt thòi do những sai
lầm vừa qua gây nên, có thể nói đại bộ phận nông dân lao động đều biết
rằng, nếu họ có bị mất mát cái gì trong cải cách ruộng đất thì vẫn chỉ là mất đi
hai cái xiềng phong kiến đế quốc nó khoác vào cổ họ từ ngàn vạn năm mà
thôi, và chính từ nay "con người" của họ đã được thực sự giải phóng khỏi sự
bóc lột giai cấp.
Những thái độ đúng đắn của người nông dân bị quy oan trong cải cách
ruộng đất rồi lại về tiếp tục sửa sai đã đủ trả lời cho một số nhận định vội
vàng, lầm lẫn hiện tượng ra bản chất và nó khác xa với cái thái độ tự đóng
cửa ở thành phố để thương xót vọng về nông thôn của những "con người"
tiểu tư sản dễ bi quan dao động trước bất kỳ một khó khăn nào.
Có xác định với nhau điều đó, chúng ta mới đánh giá tư tưởng và tình
cảm của người nông dân trước kia và bây giờ cho đúng. Với đánh giá những
tác phẩm viết về nông thôn cho đúng. Cũng như hôm nay, chúng ta đem đánh
giá Việc làng.
Tạp chí Văn nghệ số 8, 1- 1958
VIỆC LÀNGNGUYỄN ĐỨC ĐÀN - PHAN CỰ ĐỆ
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, làng là đơn vị tổ chức cơ sở. Làng
được tổ chức theo một tôn ti trật tự rất chặt chẽ. Trong nền kinh tế tự nhiên có
tính chất tự cung tự cấp, sự liên hệ giữa các địa phương, các cấp không chặt
lắm. Phạm vi tự trị của làng khá rộng rãi. Câu tục ngữ Phép vua thua lệ làng
chính là nói lên cái tình trạng ấy. Có thể nói, sau luỹ tre xanh là một thế giới
riêng biệt, trong đó người nông dân còng lưng chịu đựng mọi sự áp bức, bóc
lột nặng nề của bọn cường hào, địa chủ. Ngoài tô tức, còn có hàng trăm
nghìn chuyện khác đè nặng xuống đầu họ. Mỗi làng là một ổ hủ tục. Nông dân
là những nạn nhân của các hủ tục ấy. Chúng ta hãy nghe một cụ già thuật lại
cuộc đời của mình trước khi chết: Thật vậy, từ thuở mười bảy tuổi đầu đến
giờ, tôi không chơi ngày nào, trừ ra những ngày đau ốm. Thôi thì cày sâu
cuốc bẫm, buôn ngược bán xuôi, không quản ngại một việc gì cả. Có lúc đã
lên mỏ Hích lăn lội với đám phu mỏ... Những việc tôi làm, bất kỳ việc nào, tuy
không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ, chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy
mà suốt đời nghèo xác nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ, cả nhà có một
thằng con, đành phải để nó dốt nát. Ông bảo là vì cớ gì? ấy là lỗi gánh việc
làng”.
Các hủ tục trong nông thôn Việt Nam là một tai hoạ đối với nông dân.
Hàng năm, ngoài các ngày lễ chính như lễ cầu phúc về mùa xuân và mùa thu,
lễ tế thần Thành hoàng, lễ hạ điền, thượng điền v.v... bọn kỳ mục trong làng
lại lợi dụng mọi cơ hội để tổ chức chè chén, cờ bạc. Các lễ mua chiêu, mua
ấm, lễ khao, lễ vọng, lễ xin vào ngôi... đều do bọn chúng bày ra, bắt nông dân
đóng góp để ăn uống. Cho nên làng nào mà bọn kỳ mục càng xấu thì lại càng
sinh ra nhiều thứ hủ tục tệ hại.
Chính sách thâm độc của đế quốc Pháp là cấu kết với giai cấp phong
kiến để áp bức bóc lột nhân dân ta. Do đó, ở nông thôn chúng vẫn chủ trương
duy trì các hủ tục, kìm hãm nhân dân trong đời sống đen tối, lạc hậu. Cũng có
khi chúng đề ra chính sách cải lương hương tục nhưng thực chất là để củng
cố bộ máy thống trị ở cơ sở cho dễ bề sai khiến.
Trải qua hàng mấy trăm năm, sống dưới chế độ phong kiến, trên mảnh
vườn và thửa ruộng, người nông dân Việt Nam cảm thấy đời sống của mình
gắn chặt với vận mệnh của làng xóm. Cái tâm lý "sống nhờ làng, chết nhờ
làng", hầu như là một tâm lý cổ truyền. Làng là cả thế giới đối với họ. Bọn
thống trị đã lợi dụng tâm lý ấy để khoác thêm lên vai người nông dân nhiều
gánh nặng. Phép vua thua lệ làng thực ra là một câu châm ngôn bênh vực
cho cái quyền tác phúc tác hoạ của bọn cường hào địa chủ. Lệ làng tất nhiên
chỉ có thể do chúng đặt ra để quấy nhiễu nông dân.
Ngoài ra chúng lại gây cái tâm lý tranh giành ngôi thứ địa vị, tranh giành
miếng ăn ở giữa làng. Một miếng giữa làng bằng một sàng trong bếp hoặc
Một miếng thịt làng bằng một sàng thịt mua. Chỉ vì tranh chấp một chỗ ngồi
hoặc một miếng thịt ở đình làng mà có khi xảy ra án mạng hoặc có người phải
mất cả cơ nghiệp.
Nhưng trước kia, cuộc sống lầm than của những con người bị áp bức ở
sau luỹ tre xanh thường bị nhiều nhà văn tư sản và tiểu tư sản phản ánh một
cách sai lệch. Họ thường thi vị hoá cuộc sống nông thôn. Trong tác phẩm của
họ, khác hẳn với thế giới náo nhiệt của phố phường, nông thôn hiện ra như
một thế giới của những đêm trăng, những ngày hội, một thế giới của những
cô thôn nữ xinh đẹp, ngây thơ, của những mối tình đậm đà, chất phác.
Những khi trăng sáng chập chờn
Kìa bao nhiêu bóng trên đường thướt tha...
Mừng xuân ngày hội cổng làng
Là nơi chen chúc bao nàng ngây thơ
(Cổng làng - Bàng Bá Lân)
Đó là chưa nói có một số sách đại loại như Một làng An Nam của Bùi
Đình Tá, xuất bản năm 1937, hết sức ca tụng chính sách duy trì trật tự ở nông
thôn của bọn thực dân Pháp.
Chỉ đến khi các nhà văn hiện thực phê phán xuất hiện, cuộc sống ở
nông thôn mới được phản ánh vào tác phẩm văn học một cách chân thực.
Phong trào đấu tranh của quần chúng đã giúp các nhà văn trông thấy những
ung nhọt thối tha của xã hội.
Năm 1937, có vở hài kịch Miếng phao câu của Mai Lâm, chế giễu việc
tranh giành miếng ăn ở đình làng. Ông Nhiêu và ông Xã tranh nhau một
miếng phao câu, ông Xã cho là mình ở trên ông Nhiêu một bậc, ông Nhiêu lại
cho mình nhiều tuổi hơn ông Xã. Xã gắp miếng phao câu lên miệng, Nhiêu
giật xuống. Xã bỏ phao câu vào mồm, Nhiêu bóp cổ, miếng phao câu văng
xuống đất. Ông Tiên chỉ nhặt lên và được phần! Ông Xã và ông Nhiêu định
đưa nhau đi kiện.
Vở hài kịch là một bức biếm hoạ lý thú.
Trong các nhà văn hiện thực ở nước ta, Ngô Tất Tố là một trong những
người hiểu biết sâu sắc đời sống ở nông thôn, Ngô Tất Tố vốn là một nhà nho
nghèo, sinh trưởng ở nông thôn, lại có mắt quan sát, nên ngòi bút của ông rất
chân thực và sinh động. Ngoài Tắt đèn là một tác phẩm hiện thực xuất sắc,
Ngô Tất Tố còn có tập phóng sự Việc làng.
Trong Việc làng, Ngô Tất Tố đã ghi chép lại nhiều hủ tục phổ biến ở
nông thôn Việt Nam thời trước cách mạng.
Một tục lệ lưu truyền từ lâu đời trong nông thôn Việt Nam là việc chia
dân làng ra hai hạng: chính cư và ngụ cư. Người ngụ cư là người vì điều kiện
kinh tế hoặc vì một lý do nào đó phải bỏ làng của mình để đến ở nhờ một làng
khác. Cũng do quan niệm cho mỗi làng là một xã hội riêng, một "tiểu vương
quốc" riêng, cho nên người ngụ cư không được coi ngang hàng như người
chính cư. Họ bị khinh bỉ, bị bạc đãi. Kỷ luật của làng đối với họ rất hà khắc.
Nhiều nơi quy định họ phải sống từ ba đời trở lên mới được xét vấn để cho
chính thức vào làng hay không. Tục lệ này đã làm nhiều nông dân phải long
đong cực khổ. Hiện tượng dân bỏ làng đi ngụ cư không phải hiếm trong xã
hội phong kiến. Khi bị cường hào, địa chủ áp bức, bóc lột đến cực độ, nông
dân chỉ còn một lối thoát là bỏ quê hương mình đi ở nhờ một nơi khác. Trong
một đám vào ngôi, Ngô Tất Tố đã nói lên cái cảnh khổ cực của lớp người ấy:
"Theo lệ nhà quê, những người ngụ cư ba đời mới được "thành tố”. Nghĩa là
được ngang hàng với mọi người khác... Vì thế anh tôi và tôi cũng như ông
thân chúng tôi đều không có ngôi ở đình. Chắc ông cũng biết ở làng mà
không có ngôi thật là một sự nhục nhã. Những lúc tứ quỳ kỳ phúc, người ta
thì phần ăn phần ngồi, mình thì chẳng có miếng gì. Những lúc hội hè, đình
đám, người ta rước cờ, rước quạt, mình chỉ đóng vai khiêng chiêng. Như thế
cũng đã khổ rồi. Hơn nữa, lỡ có cha già mẹ héo, làng giáp có chôn cho đâu"!
Đối vối người nông dân, chết không được làng chôn là một điều rất đau
khổ. Bọn cường hào đã lợi dụng tâm lý ấy, bắt họ phải đóng góp thật nhiều
mới cho vào làng. Chúng ta hãy nghe người nông dân tâm sự về câu chuyện
xin vào làng: "Ông bảo những công việc ấy, nói bằng miệng không được ư?
Phải mất tiền cả đấy! Cụ chưởng lễ ba chục, ông chánh hội hai chục, ông lý
trưởng mười lăm đồng, ông phó lý và ông phó hội mỗi người mười hai đồng,
thư ký, trưởng bạ, mỗi người mười đồng, hương trưởng, lý cựu, tộc biểu,
trương tuần, mỗi người năm đồng. Những số tiền ấy đễ hết ngoài trăm đồng
rồi. Lại còn ăn uống từ chiều hôm qua đến giờ...". Ăn uống xong lại còn các
món giải trí như thuốc phiện, tổ tôm, chủ nhà đều phải cung ứng. Cuộc sống
của họ vì vậy càng thêm túng thiếu, cơ cực.
Trong Cái án ông cụ, chúng ta lại thấy một kết quả bi thảm hơn. Chỉ vì
mối thù hằn giữa những người chính cư và ngụ cư mà đến nỗi xảy ra án
mạng. Mối thù hằn ấy bắt nguồn từ sự tranh giành nhau địa vị trong làng.
Như trên đã nói, làng là một tổ chức rất có tôn ti trật tự. Vì vậy người ta
tranh giành nhau từng góc chiếu, miếng thịt. Trong Góc chiếu giữa đình, với
một nghệ thuật châm biếm sâu sắc, Ngô Tất Tố đã vẽ lên cái cảnh thương
tâm của một người chỉ vì ham chút chức vị mà phải sa sút, nghèo đói. Hai vợ
chồng nông dân vốn hiền lành, chăm chỉ. Vợ đi ở vú, chồng cày thuê. Khi họ
đã gây được một ít vốn, bọn lý dịch liên tìm cách đục khoét. Chúng bán cho
ông ta chức lý cựu để lấy một trăm bạc. Thoạt đầu, ông phân vân vì cái của
"không tân mà cựu" chắc chẳng được ai quý trọng. Nhưng bọn lý dịch cứ tìm
cách tán tỉnh. Chúng đã đánh đúng vào chỗ yếu của cặp vợ chồng chất phác.
Vợ cũng muốn được làm bà cựu nên khuyên chồng cô tìm cách lo cho được.
Họ đã phải bán cả trâu và ruộng, hai thứ quý nhất đối với người nông dân, để
lấy trăm bạc. Nhưng còn phải khao làng một bữa thì cái chức lý cựu mới
được mọi người thừa nhận. Bà cựu định làm qua loa cho đủ lệ làng nhưng
ông cựu không chịu. "Bây giờ ông đã là bậc kỳ cựu trong làng, không thể xử
cách nhom nhem được". Bậc "kỳ cựu" ấy đã bỏ ra một số tiền lớn để khao
làng xóm. Kết quả? Ngô Tất Tố kêt luận câu chuyện bằng một hình ảnh đơn
giản, có ý vị hài hước nhưng thực ra rất thấm thía, đau xót: chỉ năm hôm sau
ngày khao vọng, "bà cựu" cắp nón đi ra cổng làng với một dáng bộ không vui.
Hỏi ra mới biết là "bà cựu" lại lên Hà Nội làm vú già để lấy tiền trả nợ.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy Ngô Tất Tố đã am hiểu đời sống ở
nông thôn và tâm lý của người nông dân khá sâu sắc. Qua bao nhiêu thế hệ,
bọn thống trị đã nhồi sọ nông dân, tạo cho họ cái tâm lý ham thích danh vọng
hão huyền. Khi đã có đủ bát cơm, manh áo thì người ta lại muốn kiếm chút
danh vị để có một chỗ ngồi ở đình làng. Bọn cường hào, lý dịch lợi dụng điều
đó để làm tiền và chè chén. Ở đây, tác giả đã khéo dùng cái chức "lý cựu"
nên càng làm nổi bật thêm tính chất hư danh và hài hước của một tấn trò hề
bịp bợm. Đọc Góc chiếu giữa đình, chúng ta không khỏi liên tưởng đến một
số tác phẩm khác. Trong Khao của Đồ Phồn cũng chỉ vì mua chút hư danh
mà Cốc đã mất cả tiền, cả vợ, cuối cùng lại phải bỏ nhà ra đi để một mình bố
già ở nhà trong cảnh đói rét cùng cực. Cốc vốn vì nghèo đói phải đi phiêu bạt
kiếm ăn, nay tay trắng lại hoàn trắng tay, lại phải trở về cuộc sống phiêu bạt.
Góc chiếu giữa đình tuy là một bài phóng sự ngắn chỉ mấy trang nhưng
cũng đủ để tố cáo hủ tục thối nát ở nông thôn, tố cáo bọn cường hào lợi dụng
tình trạng mê muội của nông dân để bóc lột họ.
Thực ra, các hủ tục ở nông thôn đều do bọn cường hào duy trì và bày
đặt thêm ra để mưu lợi cho chúng.
Nén hương sau khi chết cũng có một ý nghĩa như vậy. Nếu trong Góc
chiếu giữa đình, bọn lý hào lợi dụng lòng ham danh vọng của nông dân thì
trong Nén hương sau khi chết, chúng lại lợi dụng lòng mê tín của họ. Bà Tư
Tỵ goá chồng từ hồi còn trẻ, lúc chồng chết, trong nhà không có một hột thóc.
Nhờ tằn tiện và chăm chỉ làm ăn, dần dần bà có một ít vốn. Tuy gọi là có vốn
nhưng cuộc đời của bà vẫn quanh năm lam lũ, đầu tắt mặt tối. "Suốt đời ăn
cơm với muối, bữa nào hoang lắm mới dám mua một mớ rau. Tháng năm
tháng mười cũng như tháng ba tháng tám, nếu không độn khoai thì phải độn
ngô, chẳng bao giờ nấu cơm toàn gạo. Những năm gạo đắt thường chỉ ăn
khoai, ăn ngô trừ cơm". Thế nhưng, thấy bà có ít vốn liếng, bọn hào lý trong
làng đã xúm đến đục khoét. Thì đây là một dịp tốt. Thằng con thừa tự thông
đồng với hào lý, bàn với bà nên xin đặt hậu ở làng, nghĩa là cúng cho làng
một số ruộng, và một số tiền thì sau khi chết, làng sẽ cúng giỗ, cúng Tết mãi
mãi. Bà ta ưng ý ngay. Sau khi đã làm đơn xin rồi, bọn lý dịch mới giở ngón
xoay tiền. Ông Điển đòi năm chục, chánh hội, lý trưởng mỗi người ba chục,
các ông kỳ dịch, tộc biểu, mỗi người đòi hai chục. Ba Tư Tỵ toan xin thôi
nhưng chúng doạ nếu lừa dối làng như vậy thì khi chết làng sẽ không khiêng.
Thế là không có tiền, bà đành phải gán ruộng cho chúng. Cả cái gia tài do mồ
hôi nước mắt của người đàn bà goá chồng một mình làm ra bị bọn cường
hào cướp dần hết.
Không những chúng đục khoét những người có máu mặt mà đến
những người khố rách áo ôm chúng cũng không tha. Cỗ oản tuần sóc cũng là
một chuyện tiêu biểu. Trong truyện này, chúng ta thấy bọn cho vay nặng lãi,
bọn địa chủ, bọn cường hào, cùng nhau xúm vào bóc lột người nông dân lao
động đến tận xương tuỷ. Vợ chồng ông Phúc cày sâu cuốc bẫm, chịu thương
chịu khó làm ăn. Nhưng từ ngày bà Phúc bị bệnh chết, những món tiền tiêu
tốn cho ma chay đã làm ông Phúc lâm nợ. Trong xã hội Việt Nam trước cách
mạng, những lễ nghi về ma chay, cưới hỏi rất phiền phức và tốn kém. Những
nhà giàu có thường lợi dụng những dịp ấy để phô trương của cải nhưng đối
với nhà nghèo, cái tục lệ ấy là những gánh nặng, có khi làm họ phải bán
ruộng, bán bò, mang công mắc nợ. Nợ ông Phúc thực ra không nhiều lắm
nhưng "ở thôn quê, cái giống nợ lãi nó đẻ dữ lắm". Ông suốt ngày phải đi
gánh thuê để nuôi con. Chúng ta hãy nghe ông Phúc tâm sự về cái nghề gánh
mướn: "Hồi tôi còn đi cày ruộng, hai vai cũng nhẵn nhụi như vai các ông. Từ
khi bắt đầu xoay sang cái nghề gánh mướn, vì chiếc đòn gánh đè xuống nặng
quá, thớ thịt đều phải dập nát và sưng u lên, lúc ấy đặt chiếc đòn gánh lên
vai, người tôi thấy buốt từ đầu đến gót, tưởng như chết điếng đi được. Vậy
nhưng tôi cứ phải gánh - nếu không gánh thì lấy gì nuôi các cháu - gánh đi độ
vài thôi đường rồi nó ê đi, không thấy đau nữa. Tôi tưởng thế nào nó cũng
mưng mủ. Nhưng mà không, nó cứ việc sưng, tôi cứ việc gánh...". Làm việc
như thế mà mỗi ngày ông chỉ kiếm được đủ mua ngô, mua khoai cho con ăn
và bớt ra mấy xu để trả lãi hàng tháng cho chủ nợ.
Nghệ thuật của Ngô Tất Tố ở đây là sau khi đã miêu tả đậm nét cuộc
sống bần cùng của ông Phúc mới nói đến tác hại của hủ tục, do đó làm nổi
bật những tai hại của tục lệ xã hội, của "lệ làng". Ông Phúc quần quật làm ăn
như vậy kể cũng đủ sống một cách kham khổ. Nhưng “chết vì đầu năm đến
giờ, ông ta lại mới lên ngôi ông trùm". Với cái chức vị ông trùm, hàng năm
ông phải làm hai lần tuần sóc nghĩa là sửa oản, chuối để cúng thần. Chỉ có
thế thôi nhưng ông Phúc đã phải đi đến kế cuối cùng là dỡ nhà ra bán. "Nhà
không sẵn, vay không ai tin, tôi đành dỡ hai gian nhà làm củi để bán lấy tiền
mua gạo. Đáng lẽ tôi định để vài bữa nữa mới dỡ nhưng vì thấy trời mưa
dầm, chắc là củi đắt nên mới dỡ từ hôm nay. Thôi thì túng kiết làm quanh,
hãy cho qua cái lúc này. Bao giờ trời cho mở mặt, bấy giờ lại làm nhà khác”.
Thê thảm đến thế là cùng! Nhưng tới hôm làm cỗ tuần sóc, người ta lại kéo
đến gian nhà trống còn lại để chè chén vui vẻ. Người ta khen ông Phúc hết
lòng lo việc thờ phụng. Người ta bảo ông Phúc phá nhà bán củi, thật là một
người tháo vát. Người ta tán dương oản của ông ấy là tốt và chuối của ông ấy
mẫm... Tối hôm ấy, ông Phúc lại phải đi mua chịu thêm mấy chai rượu nữa
cho họ uống. Nhưng đó mới là cỗ tuần sóc thứ nhất. Không biết đến cỗ tuần
sóc thứ hai thì ông ta sẽ làm thế nào. Chắc chắn là bọn lý dịch không để cho
ông ngồi yên. Hễ có thể kiếm được ăn là chúng cứ bám vào.
Có khi chỉ vì miếng ăn của họ mà thậm chí nông dân phải tự tử. Đó là
đầu đề truyện Một tiệc ăn vạ. Ở một số địa phương có tục hễ người nào
phạm lỗi thì bị làng ăn vạ. Làng ăn vạ nghĩa là làng cứ việc mua lợn, mua
rượu, mua gạo, ra đình ăn uống, phí tổn bao nhiêu, người có tội phải chịu. Ai
không chịu thì làng sẽ có cách trừng trị; làng sẽ tuyên bố là người ấy không
thèm tuân lệ làng và từ đó, mỗi khi làng có ăn uống, không ai ngồi chung với
người ấy, khi chết làng sẽ không chôn. Có làng lại có những luật lệ khắc
nghiệt hơn. Chúng ta biết rằng, đối với tâm lý người nông dân ngày trước,
sống không ai ngồi chung, chết làng không chôn là một điều sỉ nhục lớn. Vì
vậy làng đã ăn vạ ai là kẻ ấy phải cắn răng mà chịu. Nhưng điều đáng chú ý ở
đây là phần nhiều những người bị ăn vạ lại thường không có tội gì, nên
chuyện chăng là chỉ vì bọn hào lý tìm cách bới bèo ra bọ để kiếm chác, chè
chén hoặc để trả thù riêng. Cho nên, những người thường bị làng ăn vạ lại là
những nông dân nghèo khổ. Đó cũng là trường hợp trong Một tiệc ăn vạ. Lão
Sửu là một nông dân hiền lành, thật thà, nhờ siêng năng làm lụng mà có bát
cơm ăn. Một lão trùm trong làng đến ngỏ ý muốn vay lúa. Bà Sửu từ chối vì
bà thừa biết rằng bọn chúng chỉ có vay chứ không bao giờ trả. Thế là lão trùm
đem lòng thù oán, tìm cách gây sự và vu cho lão Sửu chửi làng. Hắn đem câu
chuyện đó trình làng. Làng là ai? Tác giả đã vạch rõ: "Làng là bọn đó chứ có
ai đâu. Chúng với hắn cũng như một đào một kép, cho nên khi thấy hắn trình,
chúng liền hùa nhau bắt vạ lão Sửu". Một "tiệc ăn vạ" như vậy làm lão Sửu
tốn đến hơn trăm bạc. Buổi sáng làng ăn uống linh đình vui vẻ thì buổi chiều
lão Sửu thắt cổ chết. Cái chết của lão Sửu đã tố cáo tính chất vô nhân đạo
của các hủ tục ở nông thôn.
Ngô Tất Tố không trực tiếp dùng lời lẽ của mình để đả kích nhưng qua
các bài phóng sự, qua hành động và ngôn ngữ của nhà văn, rõ ràng là bọn
cường hào lý dịch ở nông thôn đã bị vạch mặt. Còn có gì bỉ ổi bằng hành
động của tên chưởng lễ trong Xâu lòng thờ, chỉ vì bác Hai Đắc chia phần cho
hắn thiếu mất một xâu lòng mà hắn bắt bác phải đền một trăm bạc. Một nhân
vật trong truyện đã nói thẳng: "Tôi đã biết mà. Lão chưởng lễ làng tôi đểu lắm,
cái gì cũng tiền. Tôi đến nói hộ thằng Đắc, lão ta nhất định đòi hai điều này:
một là thằng Đắc giết lợn mời làng tế thánh để lấy một xâu lòng thờ biếu hắn,
hai là đền cho hắn trầm bạc. Mà hắn đã nói một trăm, ít ra cũng phải sáu chục
mới xong". Và nhân vật ấy kết luận: "Ấy ở nhà quê khó thế, ông ạ! Có của đã
chắc giữ được mà ăn đâu?".
Chẳng những bọn cường hào tìm cách bóp nặn dân chúng mà ngay
giữa bọn chúng với nhau, vấn đề tranh ăn nhiều khi cũng gay gắt. Chúng ta
còn nhớ ngày xưa, trên báo chí, nhiều cây bút trung thực đã phải nêu lên về
cái nạn xôi thịt ở thôn quê. Việc tranh giành ăn uống, tranh giành từng góc
chiếu, miếng thịt, hình như không ở làng nào không có, nhiều khi phải kéo
nhau đến cửa quan hoặc chia phe phái đánh nhau đến vỡ đầu. Trong truyện
Một chiếc lăm lợn, chỉ vì tranh nhau ngôi chủ tế và cái lăm lợn mà xảy ra một
cuộc hỗn chiến dữ dội làm nhiều người bị thương nặng. Ngô Tất Tố đã khéo
miêu tả quang cảnh "trận chiến đấu", làm nổi bật thêm tính chất hài hước: "Ồ
lạ! Tronq đám ẩu đả lại có người mặc áo thụng lam và đội mủ nhiễu hoa
bạc!... Trên bãi chiến trường còn lại một bọn tuần đinh với một đám độ hơn
mười người hầu hết có mặc áo thụng. Cái gì thế nhỉ? Cớ sao người ta lại bận
lễ phục đi đánh nhau? Hay là ở đây cũng là cửa Khổng, sân Trình, cho nên
dù là đánh nhau, cũng phải giữ lễ?". Thực ra những ông mặc áo thụng lam và
đội mũ nhiễu hoa bạc tham chiến đều là bọn "tư văn" trong làng.
Qua tập phóng sự Việc làng, chúng ta thấy sở dĩ nạn xôi thịt, rượu chè,
sở dĩ các hủ tục ở nông thôn tồn tại lâu đời vì chẳng những bọn cường hào
cố tình duy trì để mứu lợi riêng mà cũng còn vì, qua bao nhiêu đời, nông dân
đã quen với những hủ tục ấy. Bọn thống trị đã tạo cho nông dân cái tâm lý
sùng kính các hủ tục, tôn kính các "lệ làng" do chúng bày đặt ra. Những tập
quán lâu đời đã ăn sâu vào nếp sống hàng ngày của người dân ở nông thôn.
Chỉ nuôi một con gà thờ mà họ mất bao nhiêu công phu, tôn kém. Thậm chí
mẹ già ốm nằm trên giường bệnh người ta cũng không đoái hoài đến mà chỉ
để công chăm lo cho gà. "Bà cụ hình như cũng biết thân mình không quan hệ
bằng hai con gà, cho nên mỗi khi thấy cháu gọi con lên buồng xem bà làm
sao thì bà lại gạt ngay đi: Việc thờ không thể nói chơi. Cứ để thày mày trông
nom cho gà. Gọi lên làm gì?". Người ta cấm không ai được gọi gà là gà mà
phải gọi là "người". Đến khi gà bị cảm, cả làng đổ đến hỏi thăm. Không ai
nhắc đến bệnh tình bà cụ đang trầm trọng mà chỉ hỏi chứng bệnh con gà.
Hôm làm lễ xong, con gà cân nặng được bảy cân. Ông ta sung sướng nói:
"Đời tôi như thế là mãn nguyện!".
Trong truyện Hạt gạo xôi mới, chúng ta cũng thấy, tuy không có bàn tay
trực tiếp của bọn hào lý nhưng do tập tục lâu đời để lại, người nông dân vẫn
là nạn nhân của những phong tục hủ lậu. Theo tục ở nông thôn, lễ xôi mới là
một lễ long trọng. Hàng năm, làng giao cho một số người cày ruộng công của
làng phải sửa lễ ấy. Những việc trồng trọt, gặt hái rất là phiền phức, tốn kém.
Mỗi lần cày ruộng, gieo mạ, cấy lúa, làm cỏ, đều phải sửa cỗ xôi, con gà ra
đình lễ thánh. Và lần nào cũng có anh em, họ hàng đến giúp việc. Cố nhiên
anh em, họ hàng đến giúp việc thì tốn kém hơn mượn người, vì phải đài thọ
cơm rượu cho chu đáo. Nếu không làm được thế, mọi người sẽ chê cười. Rồi
từ hôm lúa bắt đầu chín, bên nội bên ngoại lại kéo về làm giúp. Có lớp người
ra ruộng gặt, có lớp người ở nhà làm đồ uống rượu. Gặt chỉ một buổi là xong
nhưng còn bao nhiêu việc khác: nhặt lúa nghển, đập, phơi, giã v.v... Người ta
cố kéo dài các công việc để được "khổ chủ" cho ăn no, uống say. "Liền trong
tám ngày, tôi thấy ngày nào vợ ông cũng phải hai lần gồng thúng đi chợ mua
đồ ăn. Mỗi bữa thường có bảy tám mâm rượu...". Vì thế có người "chỉ sửa
một ván xôi mới mà mất cơ nghiệp". Một người trong họ của "khổ chủ" kể lại
cho tác giả nghe xong kết luận: "Bác cháu lo xong việc này cũng không còn
gì. Hôm qua đã phải bán một cái chum đựng nước để lấy tiền mua rượu".
Cùng với việc bị bóc lột về tô tức, những tập tục ấy làm cho nông dân
đời đời không ngẩng đầu lên được. Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng có
những nông dân trông thấy các tác hại của hủ tục, song họ không có cách
nào thoát ra được, cũng như không có cách nào thoát ra khỏi vòng bóc lột, áp
bức của địa chủ. Bọn cường hào ở nông thôn tìm mọi cách duy trì hủ tục, bảo
vệ hủ tục.
Ngô Tất Tố đã kết thúc tập phóng sự bằng câu chuyện đau xót của một
người nông dân nghèo khổ, chỉ vì một bữa lệ làng mà mắc món nợ chung
thân. Chúng ta hãy nghe tâm sự của người đi làm thuê vì vợ chết phải vay nợ
chủ để lo bữa rượu cho làng: "Cụ con bằng lòng cho vay thêm hai nhăm đồng
nữa, với năm đồng trước thành ba chục đồng. Cho người khác vay, cụ T. vẫn
đều tính lãi mỗi đồng một tháng sáu xu, vì con là kẻ tôi tớ nên mỗi đồng một
tháng chỉ lấy năm xu... Tiền công của con ở đây, mỗi tháng được một đồng
rưỡi, trừ vào tiền lãi là vừa. Từ cuối năm ngoái đến giờ, quần áo rách như
bươm bướm, con cũng không có đồng nào để may".
Hủ tục, địa tô, nợ lãi, bấy nhiêu tai hoạ cùng nhau chồng chất lên đầu
người nông dân nghèo khổ, Ngô Tất Tố đã trông thấy những điều đó và đã
biểu thị một thái độ chống đối lại rõ rệt.
Cái thành công trước tiên của tập phóng sự Việc làng chính là ở chỗ
tác giả đã nhìn đúng sự thật. Trong Việc làng, cuộc sống ở nông thôn đã
được miêu tả một cách chân thực, không giống như những tác phẩm viết về
nông thôn của một số nhà văn tư sản và tiểu tư sản khác. Dưới ngòi bút của
Ngô Tất Tố, cuộc sống sau luỹ tre xanh không có gì là thơ mộng, đẹp đẽ mà
là một cuộc sống đen tối, cơ cực.
Ngô Tất Tố công kích, đả phá các hủ tục không phải bằng lời nói suông
mà bằng cách vẽ lên hình ảnh của người nông dân đang rên xiết dưới ách
nặng nề của hủ tục. Tác hại của hủ tục đối với nông dân được miêu tả bằng
những người và việc sinh động, chân thực. Nhưng Ngô Tất Tố không đóng
khung trong việc miêu tả các hủ tục. Cái thành công của Ngô Tất Tố và cũng
là biểu hiện cái nhìn đúng đắn của ông chính là ở chỗ thông qua việc miêu tả
các hủ tục, nhà văn đã vẽ lên được cuộc sống của nông dân và âm mưu của
bọn cường hào địa chủ lợi dụng hủ tục để áp bức, bóc lột quần chúng. Qua
các truyện, chúng ta thấy điều đó được chứng minh rất rõ rệt. Ngô Tất Tố đã
vạch cho ta thấy nguyên nhân của việc các hủ tục ở nông thôn được bảo vệ
và duy trì từ đời này sang đời khác.
Cố nhiên lúc bấy giờ, do cái nhìn hạn chế của giai cấp mình, Ngô Tất
Tố chưa có thể đề ra những biện pháp đúng đắn để thay đổi tình trạng ấy.
Trong các tầng lớp trí thức tư sản và tiểu tư sản ở nước ta trước đây cũng
như trong các tầng lớp trí thức tư sản và tiểu tư sản trên thế giới thường lưu
hành một quan niệm phổ biến, cho rằng chỉ cần truyền bá văn học về nông
thôn là cải tạo được nông thôn; những người trí thức cần phải đi về nông thôn
để gieo rắc ánh sáng văn hoá. Đó là điều kiện duy nhất và có ý nghĩa quyết
định.
Trong truyện mở đầu tập phóng sự Việc làng, Ngô Tất Tố cũng có một
quan niệm giống như vậy. Một người trong truyện Lớp người bị bỏ sót, trước
khi chết, cố mời cho được nhà văn đến để giãi bày tâm sự. Y nói: "Hủ tục
không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa; nó vẫn có thể thay đổi, nếu phái trí
thức để ý đến sự khai hoá cho dân quê. Nhưng vì chúng tôi là một lớp người
bị bỏ sót trong luỹ tre xanh, con mắt của phái trí thức ít khi ngó tới...". Rồi y so
sánh: "Một nước giống như một cái xe bò, lớp trí thức là người làm bò, lớp
dân quê là người đẩy xe. Nếu kẻ đẩy xe còn bị những dây tệ tục buộc chạt
hai chân thì kẻ làm bò tài giỏi bậc nào cũng không thể kéo được xe bò lên
dốc... Vì vậy... tôi chỉ mong mỏi các ông đưa mắt đến chỗ bẩn thỉu, tối tăm...
trong luỹ tre xanh". Quan niệm này rất phổ biến ở nhiều nước. Gần đây chúng
tôi có được đọc bài của nhà thơ Anbani Xada Siliki nói về nhà văn nổi tiếng
của Anbani hiện nay là Stêriô Spaxê Hồi trước cách mạng, Stêriô Spaxê có
viết một tác phẩm nhan đề là Aphécđita. Aphécđita là một nữ giáo viên cũng
nuôi giấc mộng đi về nông thôn để khai hoá cho nông dân. Người nữ giáo
viên cho rằng có truyền bá ánh sáng của văn học thì mới cải tạo được tình
trạng lạc hậu ở nông thôn. Thực ra đó chỉ là những ý nghĩ không tưởng. Có
làm cách mạng đánh đổ bọn địa chủ phong kiến, bọn cường hào gian ác mới
có thể nói đến chuyện chấm dứt tình trạng lạc hậu ở nông thôn được. Mà sự
nghiệp cách mạng trước hết là sự nghiệp của quần chúng nông dân chứ
không thể là sự nghiệp của những người trí thức làm để ban ơn cho họ. Ngày
nay, đối với chúng ta, những điều đó đã rõ như ban ngày. Nhưng trong thời
đại trước cách mạng, muốn có quan niệm như vậy không phải dễ dàng. Ngô
Tất Tố cũng như nhiều trí thức, văn nghệ sĩ khác, chưa thể có một nhãn quan
chính trị đúng dắn. Cho nên vấn đề biện pháp do chủ quan nhà văn trực tiếp
hoặc gián tiếp đề ra không quan trọng. Cái quan trọng là nhà văn nhìn đúng
sự thực trước mắt và miêu tả một cách trung thực.
Giá trị của tập phóng sự Việc làng chính là ở chỗ tác giả đã miêu tả
thực tại một cách chân thực và đã biểu thị thái độ không đồng tình với thực tại
ấy, phê phán nghiêm khắc thực tại ấy. Có những nhà văn cũng viết về cái tục
lệ ở nông thôn như các ngày hội đầu năm, các tục chọi gà, đánh cờ, vật trâu
v.v... nhưng chúng ta chỉ thấy cái phong vị nên thơ của các tục lệ mà không
thấy mặt trái, chỉ thấy bề ngoài mà không thấy những cái sâu kín ở trong.
Ngược lại, đọc Việc làng của Ngô Tất Tố, chúng ta thấy tất cả cái xấu xa, thối
nát trong nông thôn. Ý nghĩa phê phán của tác phẩm chính là ở chỗ đó. Giá trị
tiến bộ của nhãn quan của nhà văn cũng chính là ở chỗ đó.
Nhưng chưa đủ. Chúng ta còn cần phải thấy rõ tác phẩm Việc làng đã
ra đời trong hoàn cảnh chính trị và văn học như thế nào mới thấy hết ý nghĩa
của nó.
Việc làng xuất bản năm 1941. Lúc bấy giờ là lúc bọn thực dân Pháp
đang thi hành chính sách phục cổ. Đế quốc Pháp đã bị phát xít Đức đánh bại.
Ở Đông Dương, chúng đã phải nhượng bộ phát xít Nhật. Uy tín của Pháp
ngày càng giảm sút, lòng căm thù của quần chúng ngày càng cao. Mặt trân
Việt Minh thành lập năm 1941 đang ngày càng phát triển thế lực. Bọn thực
dân Pháp muốn kìm hãm nhân dân ta trong tình trạng lạc hậu, ngu dốt, muôn
nhân dân ta đua nhau phục hồi những tục lệ cố hủ mà lãng quên nhiệm vụ
cách mạng. Lúc bấy giờ không phải không có nhiều nhà trí thức văn nghệ sĩ
đã vô tình mắc vào âm mưu thâm độc ấy của địch.
Trong bài Dưới ánh sáng cứu quốc, xét qua văn học Việt Nam trong
sáu năm chiến tranh 1939 - 1945 đăng trên báo Tiền phong số 1, Nguyễn
Đình Thi viết về thời kỳ 1940 - 1942: "Văn hoá phong kiến được dịp tái sinh.
Nó hét đắc thắng và lên tiếng mỉa mai những sự "lầm đường lạc lối" trong
những năm xã hội ta nối gót tư sản Pháp. Nó hô hào trở lại với những giá trị
cũ, với tôn ti, trật tự, với luân lý Khổng Mạnh, với hương thôn, quan trường,
với gia đình. Những giá trị "muôn đời" ấy ngay đến Pêtanh đã chẳng phải
công nhận đó sao. Phong trào bảo thủ đã chiếm ưu thế một cách rõ rệt. Nó đã
đẻ ra "Trai nước Nam làm gì?" của Hoàng Đạo Thuý, "Thanh đạm" của
Nguyễn Công Hoan, ”Bút nghiên" của Chu Thiên, "Một nền giáo dục mới" của
Thái Phỉ, tạp chí Tri tân của nhóm Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Tường Phượng".
Phục cổ trở thành một cuộc vận động lớn cả trong chính trị và trong văn hóa,
văn học. Việc làng xuất hiện trong không khí chính trị và văn học ấy. Nhưng
Việc làng, không ca tụng trật tự cũ, không ca tụng Khổng Mạnh, không ca
tụng hương thôn, quan trường. Trái lại, Việc làng nghiêm khắc lên án các hủ
tục ở hương thôn, lên án tình trạng bọn địa chủ, cường hào lợi dụng hủ tục để
áp bức bóc lột nông dân, phơi trần cuộc sống khổ cực, đen tối của quần
chúng sau luỹ tre xanh. Việc làng là một đòn đánh vào phong trào phục cổ,
vạch rõ thực chất bỉ ổi của những cái mà người ta đang hò hét cổ vũ. Đó là ý
nghĩa lịch sử tiến bộ của tập phóng sự.
Viết Việc làng, chẳng những Ngô Tất Tố đã tỏ ra là một nhà văn cương
trực, có tính chiến đấu mà còn tỏ ra là một nhà văn hiểu biết sâu sắc về nông
thôn. Không phải Ngô Tất Tố chỉ thông thạo các "việc làng" mà Ngô Tất Tố
còn hiểu rất rõ con người ở nông thôn. Chẳng những Ngô Tất Tố có con mắt
quan sát tỉ mỉ và ngòi bút miêu tả tinh tế mà cái chính là Ngô Tất Tố rất thông
hiểu tư tưởng, tình cảm, tâm lý của những người ở nông thôn. Những ai đã
có dịp sống lâu ở nông thôn, khi xem Việc làng đều phải nhận rằng, nếu
không phải là một người đã từng sinh trưởng ở nông thôn, lăn lộn trong cuộc
sống thực tế ở nông thôn thì không thể nào viết được như vậy.
Ngô Tất Tố vốn xuất thân Nho học. Nhưng đối với một thể loại mới mẻ
như thể loại phóng sự, Ngô Tất Tố đã không tỏ vẻ bỡ ngỡ chút nào. Trái lại,
ngòi bút của ông khi nào cũng vững vàng, chắc chắn, lời văn bao giờ cũng
bình dị, sáng sủa và cô đúc.
Việc làng đã góp phần làm cho tên tuổi Ngô Tất Tố càng có thêm uy tín
trong làng văn Việt Nam.
Trích chuyên khảo Ngô Tất Tố, Nxb Văn hóa, H, 1962.
"LỀU CHÕNG" VÀ "VIỆC LÀNG” CỦA NGÔ TẤT TỐNGUYỄN ĐĂNG MẠNH
LỀU CHÕNG
Năm 1939, tập tiểu thuyết phóng sự Lều chõng được đăng lần đầu tiên
trên tờ Thời vụ. Viết tác phẩm này, tác giả đã dành nhiều trang trình bày về
chế độ khoa cử xưa một cách khá tỉ mỉ (ai là người có thẩm quyền cao hơn
Ngô Tất Tố về phương diện này?) và đã cung cấp cho ta một số tài liệu
nghiên cứu nhất định. Nhưng giá trị căn bản của Lều chõng là ở chỗ tác giả
đã dùng ngòi bút châm biếm sắc xảo, bóc trần thực chất thối nát của chế độ
giáo dục và tổ chức khoa cử thời phong kiến.
Chọn một đề tài thuộc về xã hội xưa, Ngô Tất Tố căn bản không rơi vào
khuynh hướng phục cổ đương thời. Với tinh thần dân chủ và óc khoa học,
ông không hề tô vàng son cho những sự thối nát, lỗi thời.
Trong Nhà nho của Chu Thiên, từ khung cảnh nông thôn êm đềm vui
vẻ, cậu bé thông minh, chăm chỉ Nguyễn Đức Tâm lớn dần lên, nhờ sự giáo
dục của nhà trường mà tài năng phát triển, anh lần lượt leo mãi trên thang
danh vọng, hết kỳ thi này đến kỳ thi khác, làm vinh hiển cho gia đình và làng
xóm. Lều chõng của Ngô Tất Tố- đã dựng lên những cảnh tượng khác hẳn:
bọn nhà nho của thời kỳ phong kiến thối nát hoàn toàn chỉ vì danh vọng nhỏ
nhen mà lăn lưng vào khoa cử với những bộ lều chõng nặng nề "đu cả lên cái
cổ yếu ớt".
Đến nỗi những cụ già trượt chân ngã "nằm chỏng gọng trên đường,
cuộn áo lều gác chéo trên cổ, chiếc chõng tre và cái tráp son đè sấp đè ngửa
lên bụng". Họ xô đẩy nhau, chen chúc nhau, có người vác theo cả bàn thuốc
phiện, họ mua chuộc nhau, hối lộ nhau, thông lưng gian lận.
Giữa cái trường thi ngập ngụa bùn nước và sặc mùi hôi thối của "bã
văn chương... theo gió đưa ngào ngạt không thể nào mà chịu cho nổi". Họ
hoàn toàn vứt bỏ sĩ khí, sẵn sàng cúi đầu uốn gối tuân theo những quy chế vô
lý và phức tạp hết sức để cố giật lấy mảnh bằng. Người đỗ thì "nhảy lên như
choi choi giữa phố mà hét: "Sỏ lợn về ai! sỏ lợn về ai!", kẻ trượt thì kêu gào
thảm thiết, uống rượu say, điên cuồng đi ngoài đường, nôn thốc nôn tháo ra
đường, rồi "gào chán, khóc chán, họ lại đành đạch giãy ở đường như những
người ngộ gió".
Nhân vật Đào Vân Hạc, phần nào mang tính cách của bản thân tác giả.
Anh là một thanh niên tài hoa phóng túng khác thường.
Anh phản đối lối học nhồi sọ: "Không hiểu vì sao người ta lại cứ bắt tội
trẻ con phải học những sách vở quái gở? Những đứa độ tám, chín tuổi, mới
vỡ lòng được vài bốn tháng, có biết đời "hỗn mang" là cái gì, kẻ "hiền hảo" là
người thế nào, vậy mà chúng nó cứ phải học cho thuộc lòng, thật là một sự
khổ cho con trẻ". Vân Hạc rất ghét lối văn sáo bã giả dối, bất cứ vào thời tiết
nào cũng "giò lan bạch ngọc mới nở" và "quét lối hoa rụng" để chờ khách
đến... Anh nói thẳng với thầy đồ Khắc Mẫn: "Nếu anh còn chơi với tôi thì phải
chừa lối văn sáo bã ấy đi". Vân Hạc có nhiều suy nghĩ độc lập, táo bạo, vượt
ra ngoài khuôn phép của lối học cử nghiệp. Thầy học của anh nhận xét: "Văn
chương anh ta tuy cũng khá đấy, nhưng phải cái tật rất lớn là có nhiều đoạn
rắc rối bướng bỉnh, không chịu theo đúng khuôn phép. Đó là một điều tối kỵ
trong các lối văn cử nghiệp".
Thực ra, Vân Hạc không ham khoa cử. Anh nói với vợ: "Tôi đi chẳng
qua là đi hộ mình. Vì mình háo hức muốn làm bà cử, cho nên tôi phải chiều
lòng", và ngồi trong lều thi, giữa trời mưa rét, anh bực mình: "Thà bỏ mẹ nó
mà ra cho rảnh, thi với cử thế này thật là nhục hơn con chó!".
Trong một kỳ thi, anh bị đánh trượt một cách vô lý: vì tài cao mà tuổi trẻ
quá. Đến khi vào kinh thi, anh lại bị bắt bố và suýt bị tù tội vì phạm huý.
Những tai học khủng khiếp đó của con đường "lều chõng" đã khiến cho cô
Ngọc - vợ anh - một người đàn bà say mê danh vọng bà nghè, bà cử là thế
mà cũng phải tỉnh ngộ.
Viết Lều chõng, tác giả căn bản vẫn giữ ngòi bút hiện thực phê phán
của mình. Tác phẩm gợi cho ta nghĩ đến một số hình ảnh châm biếm sắc xảo
của Ngô Kính Tử trong Chuyện làng Nho. về phương diện này, Lều chõng
quả thực có góp phần làm cho những người đang mê mải chạy theo phong
trào phục cổ phải cảm thấy ngao ngán cho "vàng son" của xã hội phong kiến
thời xưa. Dĩ nhiên, tác dụng xã hội tích cực đó của tác phẩm không thể so
sánh được với Tắt đèn, do bản thân đề tài mà nó chọn lựa.
Có người cho rằng, tỏ cảm tình rõ rệt với những nhân vật như Đào Vân
Hạc, Hải Âu, cụ bảng Tiên Kiều, chính bản thân Ngô Tất Tố cũng không hoàn
toàn thoát ra khỏi phong trào phục cổ.
Kể ra, trong hoàn cảnh đương thời, khi mà phong trào phục cổ khơi lên
khá ồn ào, trong đó có những cây bút Tây học cũng muốn khoe với độc giả
những hiểu biết của mình về chế độ thi cử ngày xưa, thì một người như Ngô
Tất Tố khó tránh khỏi ngứa ngáy, sốt ruột.
Nhưng viết về quá khứ không có nghĩa là phục cổ. Tác giả, quả thực có
cảm tình với những nhân vật kia, nhưng xét kỹ ra, chế độ phong kiến muốn
khôi phục lại, cũng khó lòng có thể trông cậy vào những con người ấy. Đó là
những kẻ bất đắc chí, chẳng những ngao ngán với chế độ khoa cử mà còn
chán chường cả mọi cái gọi là công danh phú quý của thời kỳ phong kiến suy
tàn. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã nêu lên cái gương nghè Long bị
đày làm lính đi đánh rợ Thạch Bích, và để cho cô Ngọc ngâm mấy câu Kiều:
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu...
Nhưng đi đâu, làm gì? Họ không tìm ra phương hướng. Những con
người hèn yếu và bế tắc đó, đành chỉ tỏ thái độ không làm lành với xã hội
bằng lối sống ngông nghênh trong thực tế, và mượn cánh "hải âu", "vân hạc"
để thoát ly trong mộng tưởng, tới lời ước hẹn chán chường:
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo...
Dĩ nhiên đó cũng chính là tâm sự của Ngô Tất Tố và của những người
trí thức tiểu tư sản bi quan bất lực từ sau 1930. Mặt tiêu cực của Lều chõng là
ở đó. Gọi thế là phục cổ cũng được, nếu hiểu theo nghĩa tác giả đã gợi ra một
con đường thoát ly có cái "thi vị ngày xưa" của những tâm hồn nho sĩ tài hoa
lỡ vận.
Do yêu cầu phóng sự, tác phẩm phải dành nhiều trang trình bày tài liệu
tỉ mỉ về phong tục thi cử ngày trước. Nhưng có nhiều đoạn, phải nói rằng, tác
giả đã giải quyết yêu cầu đó không hợp lý. Chẳng hạn, trong trường thi, giữa
lúc thì giờ rất gấp rút, mà Vân Hạc cứ ngồi giải thích cho Trần Đức Chinh (và
cho độc giả) đủ mọi phép tắc trường quy một cách quá tỉ mỉ, thì quả là người
đọc không chấp nhận được.
Tuy nhiên, so với những cuốn tiểu thuyết cũng viết về phong tục phong
kiến, xuất bản từ khoảng 1939 đến 1945 (như Nhà Nho, Bút nghiên của Chu
Thiên, Thanh đạm của Nguyễn Công Hoan...) thì Lều chõng vẫn là tác phẩm
xuất sắc hơn cả về phẩm chất nghệ thuật.
Có những đoạn, nếu không phải là một người đã từng sống trong hoàn
cảnh nhà nho với một óc quan sát tinh vi, thì không thể nào viết nổi. Điều đặc
biệt nhất của tác giả Lều chõng là đã làm sống lại trên nhiều trang viết của
mình, cả không khí xã hội thời xưa trong những kỳ thi cử.
Tác phẩm có nhiều đoạn miêu tả tâm lý nhà văn tương đối sắc xảo.
Chẳng hạn như đoạn tả tâm lý cô Ngọc, sau khi uất ức đến ngất đi trước cảnh
vinh quy của nghè Long – người mà lẽ ra chồng cô - cứ nằm quẩn trên
giường bệnh với quyển Truyện Kiều, để bói đi bói lại số phận của mình. Đoạn
tả tâm trạng cô nghè Long ngồi trong võng điều, ngày vinh quy của chồng,
cũng tế nhị, duyên dáng.
Thành công của Lều chõng dĩ nhiên phụ thuộc vào kinh nghiệm sống
của tác giả. Nhưng, đó còn là sản phẩm của một ngòi bút tài hoa, một tâm
hồn nghệ sĩ.
VIỆC LÀNG
Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc của nông thôn Việt Nam. Tập phóng sự
có giá trị nhất của ông là tập Việc làng, đăng trên Hà Nội tân văn đầu năm
1940.
Đây là tập phóng sự về những hủ tục nặng nề ở nông thôn Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám.
Bản thân tác giả đã sống nhiều ở nông thôn, đã từng bị những hủ tục
thối nát đe doạ, cho nên ông thông cảm sâu sắc với tâm sự uất ức của cụ
Thượng Lão Việt trong giờ hấp hối: "... Những tục lệ quái gở, mọi rợ đó kế
tiếp nhau chồng chất lên vai chúng tôi. Nhiều lúc tôi muốn hất cái gánh nặng
ấy đi, nhưng sức một mình không thể làm nổi, đành phải è cổ mà chịu. Một
người chăm chỉ, cần kiệm, lao lực như tôi, chỉ vì một gánh tệ tục đè ép, đến
nỗi suốt đời không ngóc đầu được, bây giờ sắp chết, gánh tệ tục ấy vẫn còn
đè ép chưa tha...".
Xhững tục lệ "quái gở, mọi rợ" đó được trình bày lần lượt trong 17
chương sách: Có người đã mất cả cơ nghiệp vì Một đám vào ngôi hay Hạt
gạo xôi mới. Ông Luỹ vì một chức lý cựu và một Góc chiếu giữa đình mà phải
bán cả ruộng lẫn trâu, lại mắc vào công nợ. Bà cựu vừa khao làng hôm trước,
hôm sau phải ra Hà Nội ở vú. Ông Lình Phúc phải dỡ nhà đem bán vì một Cỗ
oản tuần sóc v.v...
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, nhiều nhà văn chạy theo đề tài "bình
dân" thường chú ý đến những hủ tục "ngộ nghĩnh" ở nông thôn như Trọng
Lang, Trần Tiêu, Văn Thu v.v... Các nhà văn này thường chỉ dừng lại ở chỗ
miêu tả hiện tượng bề ngoài của hủ tục, và nói chung, quy nguyên nhân của
những tệ nạn đó ở lòng háo danh và sự dốt nát của nông dân nói chung.
Dưới chế độ thực dân phong kiến, không phải không có những nông dân mù
quáng chạy theo những danh vọng hão: "Một miếng giữa làng bằng một sàng
xó bếp". Nhưng thủ phạm gây ra những tục lệ mọi rợ và cả tâm lý háo danh
mù quáng đó chính là bọn cường hào địa chủ, đại diện trực tiếp cho chế độ
thực dân phong kiến ở nông thôn.
Trong Việc làng, Ngô Tất Tố đã nhìn thấy một phần nguyên nhân đó:
bác Hai Thìn sở dĩ phải tốn gần 200 bạc, phải bán đi một mẫu hai ruộng vì
một đám vào ngôi, chính là vì bọn hương lý đã cưỡng ép bác bằng cái luật lệ:
dân ngụ cư phải suốt đời đóng vai khiêng chiêng và "lỡ có cha mẹ già héo,
làng giáp có chôn cho đâu!". Bà cựu Luỹ mất cả cơ nghiệp, phải buồn rầu cắp
nón đi ở vú, một phần là vì bọn hương lý viện đến quỷ thần, không cho vợ
chồng bà hoãn việc khao làng đến khi gặt lúa tháng mười. Bọn cường hào đã
cấu kết với nhau, vừa dụ dỗ, vừa hăm doạ bà Tư Tỵ - một người đàn bà goá
trơ trọi có ít vốn liếng dành dụm được từ hồi còn trẻ - phải xin đặt hậu, làm
cho bà khánh kiệt gia tài. Bác Hai Đắc chỉ vì quên biếu cụ chưởng lễ một xâu
lòng thờ, đã bị "cụ" doạ nhất định đưa lên quan, để buộc bác phải theo những
điều kiện một là giết lợn mời làng tế thánh để lấy một xâu lòng thờ biếu hắn,
hai là phải "đền" hắn 100 bạc. Bác Sửu, người nông dân hiền lành thật thà
nhất làng đã bị chúng đè ra ăn vạ một cách hết sức vô lý đến nỗi tức uất lên
mà phải tự tử v.v...
Do lòng thương cảm sâu sắc đối với nông dân, Ngô Tất Tố đã dành
khá nhiều chương để nói về tình cảm của những người "nhỏ bé" lép vế nhất ở
nông thôn. Nhiều đoạn phóng sự như muốn vượt ra ngoài chủ đề "việc làng"
để đi sâu vào cuộc sống tối tăm thê thảm của nông dân lao động. Chẳng hạn
Cỗ oản tuần sóc là chuyện một người cùng dân phải bán sức lao động rẻ mạt
của mình để trả nợ lãi và nuôi 5 đứa con nhỏ mồ côi mẹ. Trong Món nợ
chung thân, tác giả đi sâu vào cuộc sống cực khổ đến tuyệt vọng của một
người phu xe bị chủ bóc lột vô cùng tàn nhẫn. Những người lao động ấy dầu
không có nạn hủ tục thì cũng đã cực khổ cùng đường rồi.
Thông cảm với nỗi khổ cực của nông dân bao nhiêu, Ngô Tất Tố lại
càng căm ghét bọn cường hào địa chủ bấy nhiêu. Dưới ngòi bút của ông, lũ lĩ
những chánh tổng, lý trưởng, tiên chỉ, chánh hội, chưởng lễ v.v... hiện ra hết
sức hèn hạ, bẩn thỉu, tàn ác. Chúng đua nhau đục khoét, ức hiếp nhân dân và
phát triển mọi bản năng đê tiện nhất của con người. Vì miếng ăn, vì một cái
lăm lợn, chúng cũng có thể ẩu đả, đâm chém nhau. Nhu cầu ăn uống và sự
đe doạ thường xuyên của những mâu thuẫn ghê gớm có thể xảy ra nếu sự
phân chia miếng ăn không đều đặn đã "sáng tạo" ra được cả một "nghệ thuật
băm thịt gà" tuyệt vời của anh Mới và nhiều tập quán hết sức thô tục.
Nghệ thuật phóng sự của Ngô Tất Tố trong Việc làng có khuynh hướng
đi gần tới lối viết truyện ngắn. Mười bảy chương sách là mười bảy câu
chuyện về hủ tục mà quanh đi quẩn lại chủ yếu vẫn là nạn xôi thịt, nhưng
người đọc không thấy đơn điệu. Lối kể chuyện của tác giả nói chung linh
hoạt: hoặc tác giả đi từ một hiện tượng kích thích hết sức nghiêm trọng như
một vụ án mạng, một cuộc ẩu đả v.v... tới nguyên nhân rất nhỏ nhen của nó:
một quân "ông cụ" (quân bài tổ tôm) giết chết hai mạng người (Cái án ông
cụ), hay đánh nhau sức đầu mẻ tai vì Một cái lăm lợn v.v... Có khi tác giả mở
đầu bằng một cuộc tranh luận giữa một số dân làng về một sự việc đột xuất
trong thôn xóm làm cho người đọc phải thắc mắc, sau đó mới đi vào câu
chuyện (Một tiệc ăn vạ) v.v...
Tác giả thường chú ý giữ thái độ bình thản lặng lẽ để cho ý nghĩa phê
phán tự nó toát ra từ sự việc. Chẳng hạn, sau khi kể những việc khao vọng
linh đình gây "danh giá" cho ông Luỹ, tác giả kết luận:
"Năm hôm sau nữa, tôi gặp bà cựu cắp nón đi ra cổng làng với dáng bộ
không vui.
- Chào ông ở nhà, cháu đi làm đây.
Và không đợi tôi hỏi, bà ấy vội cắt nghĩa:
- Cháu sang Hà Nội làm vú già ông ạ, có gần mẫu ruộng và nửa con
trâu đã bán tất cả, lại còn nợ thêm 70 đồng, nếu không đi làm thì lấy gì mà
đóng họ!".
Con mắt quan sát và ngòi bút miêu tả của Ngô Tất Tố khá sắc xảo
(người ta thường nói đến đoạn tả "nghệ thuật băm thịt gà" của anh Mới v.v...).
Ngôn ngữ của Việc làng nói chung chính xác, giàu hình ảnh. Tác giả tỏ ra khá
thông thạo ngôn ngữ nông thôn.
Việc làng là một tập án đanh thép về hủ tục và nạn cường hào ở nông
thôn Việt Nam trước cách mạng. Mở đầu tác phẩm, nhà văn muốn đưa ra một
giải pháp cải lương duy tâm chủ nghĩa: "Hủ tục không phải là thứ thiên kinh
địa nghĩa, nó vẫn có thể thay đổi nếu phái trí thức để ý đến sự khai hoá cho
dân quê". Nhưng chính những điều tác giả phơi bày trong nhiều trang sách
tiếp theo về bản chất của bọn thống trị ở nông thôn đã phần nào vạch ra tính
chất không tưởng của giải pháp đó. Chỉ có Cách mạng tháng Tám xoá bỏ chế
độ thực dân phong kiến mới thực sự giải quyết được những vấn đề đặt ra
trong Việc làng.
Ngoài ra, xuất bản vào năm 1941, Việc làng cũng có ý nghĩa chống lại
khuynh hướng phục cổ. "Cổ động dân quê nên duy trì cái thói tục ỏ góc điếm
sân đình" chẳng phải cũng nằm trong chương trình "bảo tồn quốc tuý An
Nam" của bọn thực dân và tay sai đó sao?
Trích sách lịch sử văn học Việt Nam,
Tập V, 1930 - 1945. Nxb Giáo dục, H. 1973.
"LỀU CHÕNG" CỦA NGÔ TẤT TỐVŨ NGỌC PHAN
Trong giai đoạn 1930 - 1945, tuy gặp nhiều khó khăn gian khổ, phong
trào cách mạng do Đảng lãnh đạo vẫn kiên trì dâng lên, nhiều lúc sôi nổi, làm
cho thực dân Pháp hoảng sợ chúng chỉ còn cách dựa vào giai cấp phong kiến
Việt Nam, cụ thể dựa vào bọn quan lại, địa chủ và cường hào, những tôi tớ
trung thành của chúng. Tất cả những cái gì là phong kiến đều được thực dân
Pháp đề cao: từ những mê tín trong dân gian, những hủ tục nông thôn, cho
đến Nho giáo, Phật giáo, thực dân Pháp đều cố gắng duy trì. Bọn tay sai của
đế quốc đã tuyên truyền tất cả những cái mà chúng gọi là "quốc tuý, quốc
hồn", hòng ru ngủ nhân dân ta cam chịu vĩnh viễn ách nô lệ.
Trong thời gian 1940 - 1945, chính phủ phản động Pétain (Pêtanh) sau
khi đầu hàng phát xít Đức, lấy khẩu hiệu: "Tổ quốc, gia đình, lao động" để làm
trò hề kiến thiết đất nước, thì ở Việt Nam, bọn thực dân Pháp lại càng ráo riết
tuyên truyền văn hóa nô dịch, cố gây một phong trào phục cổ, làm cho giới trí
thức Việt Nam vốn đã không sát thực tế, lại càng thoát ly thực tế, quên lãng
hơn nữa nhiệm vụ đấu tranh trước mắt. Có những người Việt Nam làm công
tác văn học trong thời kỳ này, vì vô tình hay hữu ý, đã đề cao kẻ sĩ thời phong
kiến, coi thời xưa như thời đại hoàng kim. Có một nhà văn đã đề cao cách lựa
chọn nhân tài thời xưa, đề cao "ông quan" thời xưa; và đã có lúc, một số ông
nghè, ông cử Hán học muốn phục hồi cả chế độ khoa cử phong kiến nữa.
Nhưng quần chúng nhân dân rất sáng suốt, họ đã biết giá trị những ông nghè,
ông cử và họ đã có câu: "Đứa nào nói dối, ăn câu đối nghè Bân" để chỉ vào
một nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp nho sĩ lỗi thời, tuy đỗ tiến sĩ nhưng thơ
văn thì rất là "khó ngửi". Chính vào hoàn cảnh lịch sử ấy, quyển Lều chõng
của Ngô Tất Tố ra đời, sau hai quyển Tắt đèn và Việc làng.
Trước phong trào phục cổ có tính chất phản động, Ngô Tất Tố và một
số nhà văn đả kích rất mạnh vào những cái thối nát của phong kiến. Ngô Tất
Tố đã phê bình kịch liệt Nho giáo của Trần Trọng Kim, ông đã đánh những
đòn rất nặng vào đầu não chế độ phong kiến và những kẻ muốn lấy đạo Nho
làm nền tảng để "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
* * *
Trong Lều chõng, Ngô Tất Tố, miêu tả từ lớp sơ học đến lớp đại học và
những cảnh thi hương, thi hội, thi đình thời phong kiến rất có thứ lớp và tỉ mỉ.
Thời phong kiến đó là thời nào?
"Năm Minh Mạng thứ 6 (1825) khoa Ất Dậu là năm bắt đầu có tên cử
nhân và tú tài... Năm Minh Mạng thứ 12 khoa Giáp Ngọ, chuẩn định ở Bắc Kỳ
đặt hai trường: I - Trường Hà Nội thì hợp thi các tỉnh: Hà Nội, Sơn Tây, Bắc
Ninh, Thanh Hoá, Ninh Bình, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, cộng là mười tỉnh; còn Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên,
Quảng Yên thì thi ở trường Nam Định".
Ngô Tất Tố có nói đến tú tài, cử nhân và trường thi Hà Nội. Vậy những
sự việc mà tác giả nói đến trong Lều chõng đã diễn ra trong khoảng 1831 -
1884, tức là từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đến năm Kiến Phúc Giáp Thân
(1884), năm trường Hà Nội và trường Nam Định hợp làm một. Những sự việc
trong Lều chõng là những sự việc xảy ra vào giữa thế kỷ XIX ở Việt Nam,
trước ngày thực dân Pháp đặt ách đô hộ của chúng lên toàn thể đất nước ta.
Vào một thời rất nguy ngập, trong nước thì các cuộc khởi nghĩa nông
dân nổi lên khắp nơi, ngoài thì nạn ngoại xâm đe doạ, nhưng triều đình nhà
Nguyễn vẫn ung dung đào tạo và lựa chọn "nhân tài" một cách rất lạc hậu.
Khi hãy còn để chỏm, thiếu niên Việt Nam đã nhai đi nhai lại những câu
chữ Hán rút ra từ thần thoại Trung Quốc mà thầy đồ Việt Nam thời xưa coi
như chính sử:
Hỗn mang chi sơ
Vị phân thiên địa
Bàn Cổ chủ xuất
Thuỷ phân âm dương...
Lên đến trung học, đại học, thanh niên Việt Nam thời xưa đều học kinh
truyện Trung Quốc và học Bắc sử (tức sử Trung Quốc) kỹ hơn cả Nam sử
(tức sử Việt Xam); còn văn bài thì họ làm thơ, phú, văn sách, kinh nghĩa, biểu,
v.v...; cũng vẫn nhai đi nhai lại lời lẽ thánh hiền không phê phán và cũng vẫn
làm những loại văn như thời nhà Trần, tức như năm sáu trăm năm về trước
(thế kỷ XIII).
Đi thi, không những cách làm văn gò bó, thể lệ phức tạp, mà còn phải
kiêng tên vua, tên hoàng hậu, tên hoàng tử, tên bố mẹ vua, cho đến cả những
tên cung điện, lăng tẩm cũng phải kiêng nốt. Ai "phạm huý" thì dù văn có hay
đến đâu cũng bị đánh hỏng mà có khi còn bị tù tội. Thêm vào đó, những sự
đố kỵ của quan trường và của triều đình; rồi sự gian lận trong khi thi, kẻ học
dốt có thể thuê người làm gà cho mình hay đem giấu những sách in thạch
bản chữ nhỏ li ti để vào trường chép. Trong Lều chõng, Vân Hạc chỉ vì ít tuổi
mà không được lấy đỗ thủ khoa, triều đình và quan trường sợ để anh ta đỗ
sớm sẽ sinh ra kiêu ngạo, nên lưu anh ta lại khoa sau mới cho đỗ. Đức
Chinh, một cậu ấm con quan lớn dốt đặc cán mai, thuê Vân Hạc làm gà nên
cũng vào được tam trường. Dưới chế độ phong kiến, học tập chủ yếu là học
thuộc lòng, chuộng hình thức, lấy cổ nhân làm gương mẫu, nên hình thức văn
chương rất sáo, còn nội dung tư tưởng thì rất giáo điều. Về xử thế, người ta
noi gương qua sách vở, Nghiêu Thuấn, Thang Vũ, nhân vật thời cổ sơ Trung
Quốc. Đến những việc thông thường, người ta cũng giáo điều. Trong Lều
chõng, Khắc Mẫn viết thư mời Vân Hạc đến chơi, mà trong thư nói: "Thấy một
giò lan bạch ngọc mới nở, sự khao khát càng bồn chồn... Tôi đang quét lối
hoa rụng đợi anh". Chủ ý anh bạn của Vân Hạc chỉ là lấy một điển tích làm
cho đẹp câu văn, chứ anh ta cũng không làm gì có hoa lan, vì không phải
mùa lan. Do cách học khuôn sáo, thoát ly thực tế, nên nghè Long được bổ tri
phủ và ít lâu sau có chiếu chỉ sai anh ta đi "dẹp giặc" thì anh ta đành thất bại.
Nhưng vì sao thời xưa có những người như Vân Hạc lại chán nản với
thi cử mà vẫn cứ đeo đẳng với thi cử để ôm lấy hết cái hỏng này đến cái hỏng
khác? Trong xã hội phong kiến, câu: "Công danh ai dứt lối nào cho qua" như
đã ám ảnh tất cả mọi người trong giới nhà nho. Thi cử là con đường duy nhất
để tiến thân, nên cha, mẹ, vợ con, họ hàng, bè bạn, ai nấy đều khuyến khích
anh học trò và sẵn sàng "tiền lưng gạo túi cho anh vào trường", để có ngày
"võng anh đi trước, võng nàng đi sau", và để "một người làm quan cả họ
được nhờ". Bởi thế đã có những cụ già ngoài tám mươi tuổi, râu tóc bạc phơ,
trời rét thấu xương, vẫn cứ đi thi cho đến khi chết cứng trong lều. Động cơ đi
thi trong thời phong kiến rất là rõ rệt: chỉ là "vinh thân phì gia", chứ không phải
là xuất phát từ một điều gì cao xa cả.
Lều chõng là một tiểu thuyết miêu tả một bi kịch của những người trí
thức thời phong kiến mà Vân Hạc, nhân vật chính trong truyện là người tiêu
biểu. Vân Hạc là một anh học trò thông mình, có lương tri và học giỏi. Về mặt
tư tưởng, anh không có cái gì đặc biệt, anh cũng "đi học đi hiệc, đi thi đi thiếc"
như trăm nghìn người khác. Anh hơn các bạn ở chỗ qua sách vở của thánh
hiền, qua những lề lối phức tạp của thi cử và thái độ của quan trường về lựa
chọn nhân tài, anh đã có một số nhận thức về học tập, về thi cử không giống
các bạn của anh. Nhưng trước sự mơ ước "làm bà nghè, bà thám" của vợ
anh, anh đã bị cuốn vào thi cử, cho đến khi bị cầm tù vì "phạm huý" và bị cách
tuột thủ khoa, anh mới thật vỡ mộng. Cùng lúc ấy, thấy nghè Long bị cách
chức tri phủ và phải đi "tiền quân hiệu lực", cô Ngọc, vợ anh mới yên tâm làm
một "chị đồ". Phải chăng đây cũng là một phần tâm sự của tác giả, vì tác giả
cũng đã trải qua cảnh Lều chõng và cũng từng đỗ đầu xứ ở Bắc Ninh?
Xây dựng tiểu thuyết Lều chõng, chủ ý của tác giả là làm cho người đọc
thấy được những nét chính của cái học và lối thi cử thời phong kiến với tất cả
mọi sự thối nát của nó. Tác giả đã dụng ý để cho sự việc nó nói lên hùng hồn
và tập trung tất cả vào những việc giảng dạy, học tập, thi cử, còn mọi việc
trong truyện - kể cả tình yêu - đều là phụ. Cô Ngọc, tác giả chỉ cho chúng ta
biết trước kia cô đã định lấy nghè Long, nhưng sau gia đình nghè Long đi hỏi
vợ nơi khác cho con; tác giả cũng không đi sâu vào cuộc tình duyên trắc trở
ấy. Khi nghè Long về vinh quy thì cô Ngọc rất là phẫn uất, cô bị ngất ngay ở
giữa đường. Cô Ngọc tủi phận tiếc Trần Đăng Long là tiếc cái danh "ông
nghè" của anh ta, chứ không tiếc gì anh ta vì tình, vì nghĩa, vì phẩm chất con
người. Cho nên đến đã trở thành người vợ của Vân Hạc, cô Ngọc chỉ ước mơ
chồng mình ít chất cũng được như nghè Long. Kể ra một phụ nữ như vậy
cũng khá nghèo về tình cảm, nhưng đó cũng là chỗ dụng ý của tác giả. Thời
phong kiến, một khi đỗ đạt thì trở nên ông nọ ông kia, vợ được võng bào, áo
thắm, còn nếu cứ là anh đồ xác thì vợ cũng đầu tắt mặt tối suốt đời. Do đó mà
đã có những phụ nữ như cô Ngọc không xây dựng hạnh phúc trên tình yêu,
mà đi xây dựng hạnh phúc trên một thứ công danh mơ ước cho chồng. Xây
dựng trong mộng như vậy, nên hạnh phúc không thể có được. Ngô Tất Tố
không đả động gì đến tình yêu, nhưng qua diễn biến của sự việc, cuối cùng
người ta thấy hạnh phúc của vợ chồng Vân Hạc chỉ có thể xây dựng trên mối
tình chung thuỷ, và đây mới thật là hạnh phúc lâu dài:
Chồng người xe ngựa người yêu
Chồng em áo vải, em chiều em thương
Đó là hạnh phúc của quần chúng lao động, của nhân dân Việt Nam,
không phải thứ hạnh phúc xây dựng trong mộng mị của giai cấp phong kiến.
Cả quyển tiểu thuyết tập trung vào giáo dục và thi cử, nên những quan
hệ thầy trò, bè bạn, những lối giảng dạy, những cảnh trường thi, những kiểu
hành lạc của nhà nho đều đã được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ. Đây là ưu điểm
mà đồng thời cũng có phần nhược điểm. Nhược điểm như nói quá nhiều về
một chữ, một câu, một điển tích trong bài văn, nói quá nhiều về "phạm huý".
Cũng do tính chất tập trung của tiểu thuyết Lều chõng vào các vấn đề giáo
dục và thi cử trong những năm 1831 - 1884 với mọi sự thối nát của nó, nên
Lều chõng thật là một bản án nghiêm khắc đối với cách lựa chọn và đào tạo
nhân tài của giai cấp phong kiến Việt Nam vào lúc suy tàn của nó, vào lúc nó
sắp đầu hàng quân xâm lược Pháp.
* * *
Ở Tắt đèn và Việc làng, Ngô Tất Tố đã phản ánh tình trạng người nông
dân bị giai cấp phong kiến áp bức bóc lột đến xương tuỷ và những cảnh lầm
than của người nông dân bị những tập quán và tục lệ lỗi thời ràng buộc. Khác
với hai tác phẩm trên, ở Lều chõng, Ngô Tất Tố miêu tả một cách thẳng thắn,
chân thực việc giáo dục và chế độ thi cử của phong kiến vào lúc suy tàn. Ở
đây cũng như hai tác phẩm nói trên, ngòi bút chiến đấu và biểu hiện hiện thực
của Ngô Tất Tố rất sắc xảo. Chế độ giáo dục và thi cử của phong kiến đã quá
mùa, đã đến lúc cực kỳ mục nát, nhưng ông thầy, người học trò và cả gia
đình người học trò hình như không nhìn thấy gì cả. Họ ung dung trong cảnh
sống trầm lặng của học hành và chỉ sôi nổi lên một lúc vào những khoa thi, rồi
lại rơi vào trầm lặng như cũ. Đó là một mâu thuẫn sâu sắc và thảm thương.
Cụ bảng Tiên Kiều, một ông thầy rất mực mô phạm, dìu dắt bọn thanh niên
trong những pho sách như Kinh dịch, Trung dung, Tống sử, nhưng cụ đã
không ngờ rằng cái học mà cụ truyền bá là cái học đưa đến sự mất nước.
Khắc Mẫn bản thân học chưa xong, nhưng lại gánh lấy trách nhiệm nặng nề
mà anh không biết là rèn luyện bọn thiếu niên. Trong cái cảnh bề ngoài trầm
lặng, bề trong mâu thuẫn đắng cay, phải có một nhà văn như Vân Hạc khuấy
lên những bùn nhơ dưới đáy nước xanh trong và phẳng lặng, phải có hạng
người như cô Ngọc say mê cực độ cái danh "bà nghè, bà thám", rốt cục cũng
phải tỉnh ngộ và thấy thi cử thật là thối nát.
Về mặt bố cục, Lều chõng còn có chỗ lỏng lẻo, như đoạn cô Ngọc ưng
thuận lấy Vân Hạc thông qua một sự đấu tranh tư tưởng, và Vân Hạc bằng
lòng lấy cô Ngọc một cách cũng quá dễ dàng. Nhưng diễn biến của mọi việc
nói chung có một trình tự hợp tình hợp lý như thiên tự sự. Cho nên vào thời
quyển Lều chõng ra đời, có người đã nhận định Lều chõng thuộc vào loại tiểu
thuyết phóng sự. Nghệ thuật phản ánh hiện thực cũng có những chỗ tinh vi,
đánh dấu hẳn một giai đoạn lịch sử: vào giữa thế kỷ XIX, người trí thức Việt
Nam còn bị bả công danh cám dỗ, chỉ biết bản thân bảo và gia đình không
biết Tổ quốc sắp lâm nguy; người phụ nữ thuộc gia đình nho sĩ có cái bệnh
trầm trọng là yêu danh vọng hơn yêu con người; còn ở chóp bu, giai cấp
phong kiến thống trị thì thối nát quá, sắp đến ngày rơi rụng.
Đối với thời đại nó ra đời, Lều chõng cũng có một tác dụng giáo dục
mạnh mẽ. Chúng ta còn nhớ, vào thời trước Cách mạng tháng Tám, đã có
những cô lấy câu: "Phi cao đẳng ất thành phu phụ" làm phương châm kén
chồng; rồi cũng đã có một số cô gái thành thị chỉ ước mơ lấy kỹ sư, bác sĩ,
không kể gì đến tình yêu, đến phẩm chất con người, làm cho những kẻ có
bằng cấp cũng đặt điều kiện lấy vợ. Tư tưởng tư sản ngự trị trong đầu óc con
người: vợ và chồng đều trở thành những món hàng trao đi đổi lại. Đó là một
bệ rác về đường tư tưởng, một sự suy đốn về đời sống tinh thần của một
tầng lớp người vào thời trước Cách mạng tháng Tám.
Ngày nay, quyển Lều chõng vẫn còn tác dụng. Nó cho chúng ta thấy rất
rõ cái lối đào tạo và tuyển dụng "cán bộ" lỗi thời của triều đình nhà Nguyễn
vào lúc trên thế giới khoa học đã bắt đầu phát triển, và nó nêu lên bằng
những sự việc cụ thể là lối học kinh viện và chủ nghĩa giáo điều đều nguy
hiểm đến thế nào. Ở miền Bắc hiện nay, chúng ta thấy nhiều sinh viên đại học
xuất thân từ gia đình nông dân, công nhân và hết thảy các tầng lớp nhân dân
đều có khả năng và có quyền cho con em mình đi học. Nhà trường xã hội chủ
nghĩa bây giờ là nơi đào tạo những con em của chúng ta để sau này họ trở
thành những người vừa có học thức vừa sát thực tế, những người sẽ cùng
nhau chung sức xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước yêu quý của chúng
ta. Đọc Lều chõng của Ngô Tất Tố, chúng ta càng thấy nền giáo dục của
chúng ta hiện nay là ưu việt. Việc giáo dục của chúng ta nhằm đào tạo những
con người có tài năng và có nhiệm vụ: "mình vì mọi người" trong khi "mọi
người vì mình".
Tháng 4 năm 1961
Trích sách Qua những trang văn, Nxb Văn học, H. 1976.
PHÊ BÌNH "LỀU CHÕNG"KIỀU THANH QUẾ
Chúng tôi vẫn chủ trương rằng không nên phân chia Quá khứ với Hiện
tại.
Và nếu không phân chia Quá khứ với Hiện tại, càng không nên phân
loại tuyệt đối lịch sử tiểu thuyết và phong tục tiểu thuyết.
Vì lịch sử tiểu thuyết là phản ánh Quá khứ, còn phong tục tiểu thuyết là
phản ánh của Hiện tại.
Loại sau là biến thể của loại trước.
Hai loại nếu có khác nhau, chỉ khác vì mỗi một vấn đề thời gian mà thôi!
Mà nghệ sĩ, có kẻ bảo, là ông thầy của thời gian và không gian. Nghệ sĩ
(ở đây tức là là nhà lịch sử tiểu thuyết hay phong tục tiểu thuyết) được chọn
quyền quan sát trong Hiện tại, hay ức đoán đề tài tư liệu trong Quá khứ. Nghệ
sĩ có sứ mạng phô diễn tất cả những ý tưởng quan trọng án ngữ của một thế
kỷ, những điều kiện muôn năm nó chi phối cuộc sống của một dân tộc, của
một xứ, và tất cả lễ giáo, tập tục ở xứ ấy nó điều khiển cả bộ máy chính trị, xã
hội của dân tộc ấy. Nghệ sĩ vẽ rõ bộ mặt những nơi căn cứ của thời gian, của
y phục, cũng như của tất cả cơ khí, dân trí của một nền văn minh đương sán
lạn hay đã tiêu trầm. Ngoại giả, nghệ sĩ còn phải làm sống lại giới tình cảm bí
ẩn nhất của các thế kỷ đã qua hay của cuộc sống hiện tại.
Nhân biết qua sứ mạng của nghệ sĩ, ta thấy rằng sự, đề tài tư liệu để
viết một số lượng tiểu thuyết vẫn khó nhọc không hơn sự nghiên cứu để viết
một phong tục tiểu thuyết. Hay nói khác: Giá trị lịch sử tiểu thuyết và phong
tục tiểu thuyết ngang nhau vì cùng đòi hỏi ở nghệ sĩ nhiều công phu bằng
nhau. Công việc của phong tục tiểu thuyết là công việc đào xới những hạn
chế mong manh của Hiện tại, để hoạ may cũng tạo được một hình tượng
nông nổi hay phù bạc của thời đại.
Hai công việc ấy, trong phạm vi nghệ thuật, đi liền nhau: lịch sử của
Quá khứ bổ cứu cho phong tục tiểu thuyết nó chỉ là lịch sử của Hiện tại.
Lịch sử của tiểu thuyết, được hiểu như một sự làm sung mãn Hiện tại,
có thể hồi phục và gây sanh lực cho phong tục tiểu thuyết.
Lều chõng của Ngô Tất Tố là một phong tục tiểu thuyết, nhưng nó lại có
tánh cách lịch sử - lịch sử khoa cử ngày xưa!
Các nhân vật của lịch sử không có trong đó; nhưng cả một thời đại
khoa cử của quá khứ, trong đó, được tiểu thuyết hoá bởi một nhân vật của
lịch sử khoa cử Việt Nam: ông đầu xứ Ngô Tất Tố.
Viết Lều chõng, trên bốn trăm trang giấy, ngọn bút đầy sức mạnh, Ngô
Tất Tố, trong địa hạt của mình, hoạt động được dễ dàng. Vạch được tỉ mỉ tất
cả hủ tục mục nát của khoa cử, trình bầy được khúc triết những phút vinh
nhục của khoa cử.
Vân Hạc đeo đuổi khoa cử, đã có lần được đỗ thủ khoa, vinh quang;
nhưng trong kỳ thi hội, chẳng may dùng lầm có mấy chữ và suýt mất mạng.
Ngoài ra trong khi thi hương, ôi, biết bao là khổ cực cho riêng Vân Hạc!
Khoa thi hương năm ấy, tác giả không bảo rõ là khoa năm nào, nhưng
tất cả những ai đã từng lận đận trường ốc đều rõ là khoa Nhâm Tý (1912).
Khoa thi hương Nhâm Tý, mưa to gió lớn, trường thi ngập nước, khoa
ấy, có một ông lão ở Phú Thọ đi thi, chết rét trong trường thi. Và trong
chương XI của Lều chõng, tác giả cũng cũng có thuật qua câu chuyện thương
tâm ấy.
Khoa ấy, luống đất trường thi bị nước ngấm vào, nó đã thành ra luống
bùn, không đủ sức để đỡ cái chõng và một người ngồi. Vì vậy cái chõng phải
thụt xuống, thụt cho đến khi bốn chân ngập hết như bốn cái cọc mới thôi.
"Vân Hạc cũng như hết thảy mọi người tuy ngồi trên chõng cũng không
khác gì ngồi dưới đáy ao, đít áo, đũng quần, nước bùn thấm vào bê bết. Gió
bấc như có thù riêng luôn luôn quạt cho giọt mưa hắt vào các khe lều. Vì sợ
những bắn vào quyển thi sẽ bị tỳ ố chàng phải quay lưng ra phía ngọn gió để
lưng làm cái bình phong chắn cho hạt nước tàn ác khỏi bay vào đến quyển
văn. Nhưng cái lưng chàng không phải là vật kỵ gió, kỵ mưa, nước mưa theo
gió hắt vào, nó đã thấm qua mấy lần áo bông, áo kép, lọt tới da thịt. Cái nước
ấy mới độc làm sao, nó vào đến đâu, chàng thấy ở đấy cứ buốt thon thót như
bị tên độc bắn phải; miệng thít tha, tay run lẩy bẩy, chàng không thể nào cầm
bút mà viết, tuy chàng đã nghĩ được xong bài thơ, một vần "lung", một vần
"nhập đề" và một vần thực "của bài phú" (trang 187).
Thấy ngày xưa thi cử gặp mưa gió khổ cực như thế, ắt có người tự hỏi
sao nhà vua không cất nhiều gian nhà lợp ngói đàng hoàng cho thí sanh thi?
Không phải các cụ ngày xưa đều không nghĩ đến điều đó. Nhưng trong
trường hợp thi hương, không thể cất nhà cho học trò ngồi thi. Là vì học trò
đông quá, cất đến mấy chục gian nhà cũng không đủ chứa, vả lại, thi ở giữa
trời, các quan ngự sử còn có thể đứng trên chòi mà nhìn xuống dưới để rình
kẻ gian lận, chứ nếu thi ở trong nhà, các ông ấy ngồi đâu mà canh? Nếu bảo
các ông ấy vào ngay trong vi mà canh, thì càng không được. Vì "các ông ngự
sử cũng đều là là người biết chữ. Nếu vào trong vi, lỡ các ông ấy "gà" cho
học trò thì sao? Bởi vì cần phải phòng bị chỗ đó, cho nên, người ta mới cắt
các ông đề điệu phải đem đầu bài xuống dán ở trong các vi. Ông đề điệu là
người dốt đặc, một chữ không biết, không thể gà cho ai được (trang 180 -
181).
Chế độ khoa cử ngày xưa vì dùng nhiều phương hoạch nghiêm khắc
như thế, nên chẳng những một mình thí sanh khổ não, mà riêng quan chấm
trường cũng chẳng sung sướng gì! "... trong lúc làm trường, người ta đã tính
đủ số quan trường, dựng cho mỗi ông một gian nhà lá, trong nhà có bếp, có
chuồng xí, có vại chứa nước, có nồi nấu cơm, đủ các đồ lề của một gia đình.
Bốn bên đều có phên nứa che kín, gian nọ không được thông với gian kia.
Sau khi tiến trường, người ta tống hết các ông sơ khảo, phúc khảo, giám
khảo, cho mỗi ông một gian, rồi khoá trái cánh cửa ra ngoài, giao chìa khoá
cho ông đề điệu, bao giờ thi xong, ông đề điệu mới mở cửa cho các ông này
cùng ra... Bao nhiêu đồ ăn thức đựng của các quan trường do ông tổng đốc
sở tại trích tiền công khố chi cấp cả. Sự cung đốn cho mấy ông trên thế nào
tôi không được rõ, chứ đến những ông sơ khảo, phúc khảo, thì ôi thôi, cực kỳ
bần tiện. Mỗi ông một ngày chỉ được hai lạng thịt lợn, hay là hai con tôm he,
có thịt đừng tôm, có tôm đừng thịt, ba ngày mới được một lọ nước mắm và ít
muối trắng" (trang 256 - 257).
Sau khoa Nhâm Tý thi cử khổ cực và mưa gió chết người ấy còn một
khoa thi hương năm Ất Mão (1925) ở trường thi Nam Định nữa, thì hết hội thi
khoa cử ở Bắc Kỳ.
Nghe đâu khoa thi cuối cùng ở Bắc Hà năm ấy, có một quan Thượng
làm bài thơ chữ Nho mừng các ông tân khoa:
Duy tân học giới đồng văn nhựt
Thủ cựu Nho khoa kết cục niên
Bút trận bội thành ao nhất chiến
Từ đàn sạ sách hiến tam thiên
Bình sinh tân khổ đương như thị
Tiền lộ công danh vị tất nhiên
Tiểu ngã thuần lô thu hứng văn
Nam thành tải tiếp Lộc minh diên.
Sang năm Mậu Ngọ (1918), khoa cử ở Huế cũng bãi bỏ. Từ bấy nhẫn
nay, không còn ai lận đận trường ốc nữa. Và các thiếu nữ không còn náo nức
như cô Ngọc trong Lều chõng:
Chẳng tham ruộng cả, ao liền
Chỉ ham cái bút, cái nghiên anh đồ
mà chỉ bảo nhau: "Phi cao đẳng bất thành phu phụ!". Ngày xưa, những
anh đồ như Đào Vân Hạc lận đận trường ốc cũng chỉ vì muốn làm vừa lòng
vợ. Ngày nay, đường lối tuy khác, song lắm khi cứu cánh cũng không hơn gì.
Chế độ khoa cử ngày xưa càng ngày càng hoá ra món đồ cổ ít người
mó đến. Trưng bày món đồ cổ ấy ngày nay, trong lúc phong trào Hán học bắt
đầu hồi phục lại khắp xứ ta. Tác giả Lều chõng như cố thử độc giả ai là người
hiểu cổ đâu hãy bày tỏ ra mình vẫn còn tưởng nhớ đến phường võng lọng.
Đọc Lều chõng nhiều người chỉ nghĩ đến chỗ khả quan của một chế độ
khoa cử phiền phức ngày xưa thôi. Chớ mặt trái chế độ ấy còn chứa đựng
biết bao nhiêu là chi tiết đáng thương tâm: nào là phải đóng quyển văn viết
bài thi cho hợp phép, nào là không được đồ, di, câu, cải, nếu không, phạm
trường quy. Ngoài ra, còn nào là ngoại hạn, ngoại hàm, khiếm trang, khiếm ty,
phạm huý, v.v... Kể sao cho xiết những điều vô ý thức ấy. Nó chỉ tổ làm khổ,
làm mờ tối niên lực sáng tạo của sĩ phu ta thuở trước thôi.
Phê bình Lều chõng, chúng tôi mời độc giả chú ý đến mặt trái chế độ
khoa cử ngày xưa. Vì đó phải chăng cũng là bản tâm của tác giả trong khi trứ
thuật?
Báo Tri tân, số 33, ngày 23-1-1942.
NGÔ TẤT TỐ VÀ TIỂU THUYẾT DÃ SỬ "TRONG RỪNG NHO"HOÀNG DẠ VŨ
Nếu như các nhà văn, nhà báo, nhà thơ trước Cách mạng tháng Tám
hầu hết là những người theo phái Tây học, thì Ngô Tất Tố thuộc số ít người
theo phái Nho học. Ông là người đỗ đầu khoa thi Hán học cuối cùng của tỉnh
Bắc Ninh (năm 1915), nên thường gọi là Đầu xứ Tố.
Những người theo phái Tây học hồi ấy thường chế giễu những người
nho học, cho là họ bảo thủ, hủ nho. Chính nhà báo Vũ Bằng, tác giả Bốn
mươi năm nói láo, đã từng thuật lại câu chuyện dạy tiếng Tây để giễu bác Tố,
và cứ ân hận mãi về trò nghịch quái ác ấy.
Nhưng cả Vũ Bằng và rất nhiều người đều nhầm to. Chính ông Đầu xứ
Tố, một người Nho học gốc, một thông kinh bác quyển về đạo Khổng, đạo
Nho, về tam cương ngũ thường... lại là người tuyên chiến quyết liệt nhất về
sự trì trệ bảo thủ của Nho học. Việc làng, Lều chõng là hai cuốn tiểu thuyết
phóng sự khá tiêu biểu của ông.
Có một cuốn tiểu thuyết khác, ít người biết đến vì năm 1940 nó mới
được nhà xuất bản Mai Lĩnh in rải rác trên các số báo, chưa kịp tập hợp thành
sách, đó là tiểu thuyết dã sử Trong rừng Nho viết về một quãng đời của nữ sĩ
Hồ Xuân Hương.
Việc nhà văn chọn Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm, một người đàn
bà mà cả cuộc đời lẫn thơ đều khó được tư tưởng phong kiến, Nho giáo thời
trước chấp nhận, là nhân vật chính để công phá thành hào thành luỹ Nho
giáo, thói đạo đức giả của các ông nghè, ông cống và bọn hủ nho hồi cuối thế
kỷ XIX, là một thái độ hết sức dũng cảm. Câu chuyện mà Trong rừng Nho đề
cập đến xoay quanh một kỳ thi hương ở đất Hà Thành. Ngay từ chương đầu,
bằng giọng văn sắc xảo và khôi hài, nhà văn đã dẫn người đọc vào một
quang cảnh vừa nhốn nháo vừa nhiêu khê phiền nhiễu của cái sự đi thi thời
trước. Và rồi nhân vật xuất hiện. Một chàng trai khôi ngô tuấn tú. "Quần áo đồ
đạc chàng ấy không có thứ gì phạm cấm, chỉ có cái ngực sao nở nang mẩy
lớn, hơi khác với bình thường" (trang 13). Thế rồi bọn lính kiểm soát không
quên cái chỗ mà họ đã nghi ngờ đó: "Vừa thục tay vào lần áo trong chàng ta,
thì người lính ấy lập tức rút luôn tay ra, dáng bộ giãy nảy giống như dúng phải
nước nóng". Thì ra "chàng" nho sinh ấy chính là Hồ Xuân Hương. Nàng muốn
được thi thố cùng đàn ông, muốn khẳng định cái quyền bình đẳng của mình.
Nhưng ác thay, chế độ thi cử phong kiến đã không chấp nhận nàng.
Câu chuyện mở ra đã là tấn bi kịch của một người đàn bà tài sắc bị xã
hội phong kiến, mà cụ thể là thói trọng nam khinh nữ, là lối văn chương cử tử
lỗi thời, là thói đạo đức giả của bọn hủ nho vùi dập, cho nên những chương
tiếp theo của thiên tiểu thuyết là cả một chuỗi hành động công phá, khi đanh
đá quyết liệt, khi giễu cợt ngạo đời, khi thâm thuý chua cay, nữ sĩ Hồ Xuân
Hương. Nàng công nhiên gửi thơ đến lớp học của ông nghè Hoàng, học
Đặng vạch trần cái thói đặt điều vu chuyện của họ. Nàng đề thơ ở chùa Trấn
Quốc chế giễu bọn nho sinh dốt nát. Nàng bất chấp dư luận, công khai thổ lộ
tình yêu với chàng nho sinh Đờm Thận Trung khi chàng hiểu và thông cảm
với hoàn cảnh của nàng.
Hình ảnh người nữ thi sĩ tài hoa, sắc xảo, đầy bản lĩnh nhưng cũng rất
nhân hậu, phong tình cứ hiện dần lên, rõ nét suốt gần hai trăm trang sách.
Nhà văn như hoá thân vào nhân vật, công nhiên tuyên ngôn tư tưởng của
mình: "Nhưng tôi không thể chịu nổi những thứ đạo đức giả dối, những cái lễ
giáo bó buộc, tôi phải sống bằng tư tưởng tự nhiên của trời cho tôi...". Câu nói
của Hồ Xuân Hương với ông Chiêu Bảy ấy, cũng chính là tuyên ngôn của nhà
văn bênh vực cho nữ giới.
Cũng như tiểu thuyết phóng sự Lều chõng, ở Trong rừng Nho, một
tuyến nhân vật khác đối lập với tuyến nhân vật Hồ Xuân Hương, Đờm Thận
Trung là các ông nghè, ông cống và bọn nho sinh dốt nát và đạo đức giả. Ông
nghè Hoàng trong khi dạy học phải biết giữ chữ tín, chữ nghĩa nhưng chính
ông ta lại đi lừa trộm gà của người hàng xóm. Và cái cậu học trò Đặng Như
Bích, con ông nghè Đặng, chữ nghĩa ấm ớ mà cũng dám đề thơ lên chùa
Trấn Quốc. Rồi ông cống tân hoa Nguyễn Cao Đệ, nghe tin mình đỗ liền phát
điên nhảy cả vào chuồng phân, ao bèo. Nhưng nực cười nhất, ê chề nhất cho
cái sự suy đồi của Nho giáo, của cả một tầng sĩ tử cuối mùa là cái cảnh thi cử
mà tiêu biểu là cuộc thi kỳ đệ nhị của nho sinh Đặng Như Bích. Đang làm bài
thì anh chàng dốt nát bị ông học trò bên cạnh mót đại tiện giả vờ đến ngồi
cạnh hỏi bài "để có thể ngồi vào cuối chõng mà tháo cái cặn bã văn chương
ra đó" (Trang 80). Cả một trường thi, cả một nền thi cử nho học bốc mùi hôi
thối. Công phá Nho giáo đến thế, có lẽ chỉ có ngòi bút của Ngô Tất Tố mà
thôi.
Mới hay một người sinh ra trong cái tôi của Nho giáo như Ngô Tất Tố,
khi đã hiểu ra sự mọt ruỗng, lỗi thời của nền giáo lý ấy, tất yếu sẽ trở thành
người tiên phong văn hóa, văn chương, chiến đấu cho cái mới, tất yếu sẽ trở
thành một nhà văn cách mạng.
Hà Nội 17-6- 1993
Trích sách Ngô Tất Tố nhà văn hóa lớn. Nxb Văn hóa, H, 1993
MỘT TÁC PHẨM CỦA NGÔ TÂT TỐ ÍT NGƯỜI BIẾTHỒNG DIỆU
Trong các công trình nghiên cứu, giới thiệu về Ngô Tất Tố lâu nay, hầu
như chưa công trình nào, kể cả bộ Từ điển văn học, nhắc đến tác phẩm này
của Ngô Tất Tố: Trong rừng Nho. Có lẽ vì tác phẩm mới đăng báo (nhiều kỳ),
chứ chưa được in thành sách. Mà lại đăng báo vào thời kháng chiến chống
Pháp, ít người được đọc. Mãi đến cuối năm 1990 vừa rồi, Nhà xuất bản Đà
Nẵng sưu tầm, tập hợp lại và xuất bản Trong rừng Nho, nhiều người trong
chúng ta mới được biết tác phẩm này của Ngô Tất Tố.
Với phụ đề Dã sử Hồ Xuân Hương, tác phẩm Trong rừng Nho - thật ra
cũng là một tiểu thuyết hay truyện dài - trong chưa đầy hai trăm trang đã nói
được nhiều điều.
Quyển sách khắc hoạ và tô đậm chân dung nữ sĩ họ Hồ, tác giả những
bài thơ Nôm nổi tiếng với một phong cách lạ được truyền tụng từ mấy thế kỷ
này, mà qua thơ người ta mới hình dung được phần nào.
Dưới ngòi bút Ngô Tất Tố, Hồ Xuân Hương hiện ra như một cá tính nữ
nhi độc đáo không chỉ vào lúc bấy giờ mà còn làm ngạc nhiên nhiều thời nữa.
Cô gái ấy giả trai đi thi (một cách chống lại thái độ khinh miệt phụ nữ, cấm
con gái thi cử của chế độ phong kiến), tìm mọi cách bênh vực phái yếu, giễu
cợt bọn mày râu dốt nát đi chơi chữ, chế nhạo nhà sư đi tu lại còn ghẹo gái,
đả kích bọn đạo đức giả; dám bàn luận, du ngoạn, thậm chí ăn ở với người
mà mình yêu bất chấp những lời dị nghị, dám nói và dám bảo vệ chính kiến
của mình v.v... Những tính cách như vậy, trong thời đại ngày nay không phải
là những gì đáng ngạc nhiên lắm, nhưng cách đây hai thế kỷ phải là chuyện
kinh thiên động địa.
Còn một chủ đề nữa mà Ngô Tất Tố muốn thể hiện. Nó hé mở ở ngay
tên tác phẩm và bàng bạc suốt từ những trang đầu cho đến dòng cuối cùng
(lời của hai nhà nho với hai nhà nho khác: "Các anh chỉ làm nhục nhà nho").
Với cái tên sách và dòng chữ cuối cùng ấy, hình như nhà văn muốn gửi gắm
ý tình này: Trong muôn ngàn người được gọi là nhà nho xưa nay không phải
ai cũng như ai, có những nhà nho giả hiệu lẫn với những nhà nho chân chính,
có kẻ xấu lẫn người tốt. Loại thứ nhất như cụ nghè Hoàng luôn luôn cao
giọng dạy bảo người ta lễ nghĩa thánh hiền cùng là cách lập thân xử thế,
nhưng lại ăn trộm gà hàng xóm láng giềng, và còn doạ nạt người mất gà nữa!
Như ông nghè Hưng Hoá và ông cống Tuyên Quang cũng thi cử đỗ đạt cả mà
cãi nhau lộn bậy vì mấy cái chữ giản đơn, cuối cùng cả hai đều sai. Loại
người thứ hai như ông Chiêu Bảy, khinh ghét và không ngại trêu cợt dù là bậc
trên mình đã tự trói buộc bởi những thứ đạo đức giả dối, những lễ giáo khắc
nghiệt, cảm thông với Hồ Xuân Hương, dùng mưu trí, đẩy lui bọn sĩ lâm định
đến đốt phá nhà nàng để gỡ lại cái thể diện bị Hồ Xuân Hương lật tẩy. Và đặc
biệt là Thận Trung, theo cách nhìn của Hồ Xuân Hương, là nhà nho "khoáng
đạt, hào nhã, không câu nệ, giả dối như những ông nho khác" về sau trở
thành tri âm tri kỷ của Hồ Xuân Hương và sống với nàng như vợ chồng...
Thời Ngô Tất Tố viết Trong rừng Nho (cách đây khoảng nửa thế kỷ) trở
về trước, người ta chưa đưa ra những chứng cớ để đặt nghi vấn: Phải chăng
Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán, cho nên trong tác phẩm không
thấy có tình tiết nào liên quan đến chuvện này? Giá như nó được khai thác
trong quan hệ giữa Hồ Xuân Hương với các nhà nho, biết đâu chẳng có thêm
ý vị?
Những đặc điểm của văn Ngô Tất Tố đã thấy thể hiện ở các tác phẩm
Lều chõng, Tắt đèn, Việc làng v.v... đều thấy ở Trong rừng Nho. Nhà văn có
vốn hiểu biết sâu sắc về Nho học, nên lời ăn tiếng nói, cung cách sinh hoạt...
của những ông nghè ông cống... được vẽ rất rõ nét. Cảnh trường thi với
những "lôi thôi sĩ tử..." rất hiếm nhà văn hiện đại ở ta hiểu kỹ, đã từng sinh
động trong Lều chõng lại một lần nữa sinh động ở Trong rừng Nho. Nhà văn
cũng thể hiện rõ một phong cách trào phúng dân gian. Trong rừng Nho có
những đoạn như những truyện tiếu lâm, có thắt nút, mở nút, đầy kịch tính,
dẫn đến những kết cục thật bất ngờ. Đó đây trong tác phẩm cũng có những
đoạn tả cảnh thú vị.
Có thể nói, tác phẩm Trong rừng Nho kết hợp được nhiều sở trường
của thi pháp Ngô Tất Tố. Người đọc lại được biết tài năng vốn đã rất đa dạng
của nhà văn thể hiện ở nhiều lĩnh vực, giờ đây lại được thể hiện trong một
quyển sách rất lý thú.
1992
Trích sách Phía sau dòng chữ. Nxb Thanh niên, 1997
NGÔ TẤT TỐ VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬNGUYỄN ĐỨC HÀN - PHAN CỰ ĐỆ
Ngoài mấy tác phẩm như Tắt đèn, Lều chõng, Việc làng, Ngô Tất Tố
còn viết mấy quyển tiểu thuyết lịch sử và lịch sử ký sự như Gia đình Tổng trấn
tả quân Lê Văn Duyệt, lịch sử Đề Thám, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành
thất thủ...
Một đặc điểm trong tiểu thuyết lịch sử của Ngô Tất Tố là tác giả tôn
trọng sự thật lịch sử dựa theo sự thật lịch sử là chính, không lấy sự việc lịch
sử làm cái cớ để xây dựng cốt truyện theo ý riêng như nhiều nhà viết tiểu
thuyết lịch sử khác.
Như nhan đề tác phẩm đã nêu lên, Gia đình Tổng trấn tả quân Lê Văn
Duyệt là câu chuyện về cuộc đời của Lê Văn Duyệt, một công thần nhà
Nguyễn, Lê Văn Duyệt gặp chúa Nguyễn và theo chúa Nguyễn lập công.
Duyệt là người thông minh, can đảm, hết lòng phục vụ chúa. Vì có nhiều công
lớn nên Gia Long đối đãi với Duyệt rất tử tế. Cả gia đình đều được phong
tước. Duyệt thọ được 60 tuổi. Hồi trước, Duyệt có dụ hàng được một người
tướng có tài tên là Hà Văn Khôi, Duyệt nhận làm con nuôi và đổi tên là Lê
Văn Khôi. Lê Văn Khôi cũng được trọng dụng nhưng sau khi Duyệt mất, vì có
người thù ghét gièm pha nên Khôi bị hạ ngục. Khôi vượt ngục, dấy quân
chiếm thành Gia Định, xưng là đại nguyên soái. Do đó, Minh Mệnh kết tội Lê
Văn Duyệt, lột hết quan tước, san phẳng mả, dựng bia đá kết tội... Nhưng khi
Thiệu Trị lên ngôi mới lại phục quan tước cho Lê Văn Duyệt, bỏ xiềng xích và
bia buộc tội ở mộ.
Đó là một chuyện có thật trong lịch sử. Ngô Tất Tố chỉ thêm thắt một ít
chi tiết nhỏ để dựng lại thành cốt truyện.
Tuy nhiên; không phải vì thế mà tác phẩm không có ý nghĩa. Viết Gia
đình Tổng trấn tả quân Lê Văn Duyệt, Ngô Tất Tố đã tố cáo cái tàn nhẫn của
bọn vua chúa phong kiến nói chung và của nhà Nguyễn nói riêng. Trong lịch
sử, chúng ta thấy không ít những trường hợp tương tự. Sau khi một vua mới
lên ngôi, các công thần thường bị hãm hại. Ở dây, tuy Lê Văn Duyệt bị kết tội
sau khi đã chết rồi nhưng nguyên nhân để kết tội không xác đáng. Lê Văn
Khôi chỉ là con nuôi. Việc Minh Mệnh kết tội Lê Văn Duyệt, san phẳng mồ
mả... là một hành động dã man, chứng tỏ tính chất vô nhân đạo của pháp luật
phong kiến và sự bội bạc của vua nhà Nguyễn. Sau khi kết án, Minh Mệnh
còn tuyên bố: "Triều đình xử rất công và rõ ràng cái cân ba thước nghiêm như
búa rìu nghìn thu"!...
Ngoài ra, trong tác phẩm này có những chỗ Ngô Tất Tố miêu tả lòng
căm thù cực độ của quần chúng đối với chúa Nguyễn vì chuá Nguyễn đã
rước quân nước ngoài về giày xéo đất nước, tàn sát đồng bào. Một hôm chúa
Nguyễn vào một nhà nông dân, liền bị họ chửi mắng tàn tệ: "ủa, đức chúa đã
rước quân Xiêm qua đây, để chúng nó giết hại làng tôi, bắt vợ tôi, chém con
tôi, tôi không chạy mau cũng bị chúng nó giết nữa. Lúc này người còn hòng
vào nhà tôi mà đòi ăn sao? Tiếc rằng tôi có một mình, không thể bắt luôn đức
chúa đem nộp cho Tây Sơn. Cơm đâu mà thết những người làm hại tôi một
cách đau đớn!”.
Trong các tiểu thuyết lịch sử của Ngô Tất Tố thì cuốn Vua Hàm Nghi
với việc kinh thành thất thủ là có giá trị hơn cả. Vua Hàm Nghi với việc kinh
thành thất thủ là một quyển trích trong bộ Những trận đổ máu từ hồi người
Pháp mới sang ta đến nay của Ngô Tất Tố cùng viết với một người bạn là L.T.
Sinh, năm 1935.
Cũng giống Gia đinh Tổng trấn tả quân Lê Văn Duyệt, trong Vua Hàm
Nghi với việc kinh thành thất thủ, Ngô Tất Tố trung thành với sự thật lịch sử.
Trong tác phẩm này, nhà văn kể lại cuộc kháng chiến anh dũng của quan lại
và văn thân Việt Nam như Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Lê Trực, Đinh
Công Tráng, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Nho Hạnh... chống
bọn thực dân Pháp xâm lược. Cuốn truyện mở đầu từ khi vua Hàm Nghi lên
ngôi và kết thúc lúc Hàm Nghi bị bắt đi đày. Đọc tác phẩm này, chúng ta thấy
nhiệt tình yêu nước của Ngô Tất Tố biểu lộ rõ rệt. Chủ đề tư tưởng của Vua
Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ là đề cao tinh thần yêu nước, chống
xâm lược của sĩ phu Việt Nam lúc đất nước bị đế quốc Pháp xâm chiếm.
Ngô Tất Tố đưa các sự việc lịch sử lên giấy một cách thẳng thắn,
không giấu giếm, vạch rõ chân tướng cướp nước của bọn thực dân Pháp. Có
những đoạn nói lên cái nhục mất nước của người dân Việt Nam trước những
hành động thô bạo của bọn ngoại xâm. Lúc Hàm Nghi lên ngôi vua, bọn thực
dân bắt buộc triều đình Việt Nam phải xin phép chúng. Chúng có đồng ý cho
ai làm vua thì mới được phép đưa người ấy lên ngôi. Viên khâm sứ Rena
(Rheinart) ra lệnh cho các quan trong triều: "Nước Nam muốn lập ai lên làm
vua cũng phải xin phép nước Pháp. Vì nước Pháp đã thay nước Tàu bảo hộ
nước Nam, tất nhiên cũng phải làm lễ phong vương cho vua nước Nam như
người Tàu khi trước...".
Nhiều quan lại trong triều đình phản đối chỉ thị ấy của bọn thực dân
Pháp. Chúng liền dùng vũ lực để cưỡng bức triều đình phải tuân theo.
Trước hành động trắng trợn, thô bạo ấy, mọi người đều phẫn uất:
"Thấy cái cử chỉ cường ngạnh của De Courcy, triều đình và dân sỹ đều lấy
làm nhục cho nước mình, ai nấy nổi cơn căm tức, nhất quyết phải đánh một
trận, rồi muốn ra sao thì ra”. Tôn Thất Thuyết là người tiêu biểu cho tinh thần
kháng chiến ở triều đình. Thuyết nói: "Sự thể đến vậy, không đánh thì nhục cả
nước. Thà đánh mà chết còn hơn sống để mà nhục cho nước nhà”.
Trong Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ, Ngô Tất Tố đưa lên
hai hạng người: những người có tinh thần yêu nước, thiết tha, sẵn sàng hy
sinh cả tính mệnh để đánh giặc, cứu nước và một bọn vì quyền lợi cá nhân
ích kỷ, cam tâm làm trâu ngựa cho giặc.
Trong hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ, số sĩ phu có tinh thần yêu nước,
đứng lên phất cờ chống Pháp không phải ít. Trong Nam ngoài Bắc, đâu cũng
có những tay hào kiệt, dấy quân khởi nghĩa, lập chiến khu, đánh lại bọn xâm
lược. Phan Đình Phùng, Lê Trực, Đinh Công Tráng, Nguyễn Xuân Ôn... đều
là những người con ưu tú của dân tộc. Lê Trực lập được một chiến khu rất
chắc chắn. Thế lực của ông ngày càng phát triển làm cho quân Pháp phải lo
sợ. Mấy lần chúng tấn công đều bị đánh bại. Chúng liền lấy lời ngon ngọt,
đưa danh lợi ra để mua chuộc. Lê Trực đã trả lời một cách vắn tắt nhưng
cương quyết, biểu lộ ý chí bất khuất: “Tôi vì vua vì nước mà ra cầm quân, dù
sống dù chết cũng dốc một lòng làm hết phận sự, không dám tham cái sống
mà quên việc nghĩa". Kế đó, ông lại dồn dập tấn công vào quân đội Pháp.
Một lần, bọn Pháp bắt được một tù binh quan trọng. Chúng dùng đủ
mọi cách để dò hỏi tình hình nghĩa quân, nhưng người tù binh nhất định
không chịu khai, chỉ trả lời với một giọng bình thản: "Các anh đừng hỏi mất
công. Không đời nào chúng tôi lại đem chuyện bí mật quan hệ của nước tôi
mà tố cáo với các anh. Các anh bắt được chúng tôi, cứ việc đem ra mà chém.
Nếu chúng tôi bắt được các anh chúng tôi cũng không tha đâu". Thật là lời nói
của một người có nghĩa khí, của một người anh hùng. Sau đó bọn Pháp đưa
cả một loạt tù binh ra hành hình.
Bọn thực dân nhiều lần khâm phục lòng dũng cảm của quân lính Việt
Nam. Một viên lãnh binh bị chúng bắt, trước khi chịu chết còn xin phép chúng
đi tìm xác của chủ tướng là đề đốc Khế để mang chôn. Chôn cất xong, ông ta
cắn lưỡi tự tử chứ không để cho giặc bắn. Một lần, chúng bắt được hai tù
binh và bắt họ dẫn đường đi tìm nghĩa quân. Họ đưa quân Pháp đi mội ngày
trong rừng, mất bao công trèo đèo lội suối mà chẳng gặp được một bóng
nghĩa quân nào. Sau đó, họ lại dẫn chúng đến một căn cứ vững chắc của
nghĩa quân. Quân Pháp đánh mãi không được, bị chết hại rất nhiều. Chúng
liền bắt trói hai người tù binh lại và bắt đi tiền quân để làm bia đỡ đạn cho
chúng. Họ nhảy xuống sông tự tử. Những tấm gương hy sinh anh dũng ấy
càng làm cho nghĩa quân nức lòng chiến đấu.
Khi bị bắt, Hàm Nghi cũng biểu lộ một tinh thần phản kháng rõ rệt. Bị
dẫn về Huế nhưng ông nhất định không chịu vào trong thành. Viên khâm sứ
nói bịa là Thái Hậu đang bị bệnh, hỏi Hàm Nghi có muốn vào thăm không.
Hàm Nghi trả lời: "Tôi nay nước mất, thân bị tù, còn lòng nào nghĩ đến những
người ruột thịt". Hàm Nghi không chịu khuất phục nhưng thái độ của Hàm
Nghi là thái độ tiêu cực. Trong những ngày kháng chiến gian khổ, chúng ta
không thấy vai trò tích cực của Hàm Nghi, hình như khi nào Hàm Nghi cũng
nấp dưới bóng Tôn Thất Thuyết. Cho đến khi bị một tên phản bội đang đêm
bắt đưa cho Pháp, Hàm Nghi đã nói một câu đại khái là gươm đây, anh cứ
giết ta đi chứ đừng bắt ta nộp cho người Pháp mà tội nghiệp. Vì vậy nhân vật
Hàm Nghi rất mờ nhạt bên cạnh những nhân vật anh hùng là các sĩ phu yêu
nước đang lãnh đạo nghĩa quân chống giặc.
Như trên đã nói, trong Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ, Ngô
Tất Tố đã thể hiện một lớp nhân vật chính diện và một lớp phản diện rõ rệt.
Các nhân vật phản diện hiện lên trong tác phẩm với một bộ mặt bỉ ổi, đáng
khinh bỉ. Tiêu biểu cho bọn đầu hàng giặc và làm tay sai cho giặc là những
Nguyễn Văn Tường, Hoàng Kế Viêm, Đồng Khánh, Nguyễn Trọng Duật v.v...
Trong Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ, ngoài việc đề cao tinh
thần yêu nước của một số sĩ phu và nhân dân ta, ngoài việc vạch trần bộ mặt
bỉ ổi đê tiện của một số quan lại bán nước cầu vinh, Ngô Tất Tố còn tố cáo cái
chân tướng của bọn cha cố đạo Thiên chúa. Lúc bấy giờ, bọn cha cố người
Pháp là những kẻ giúp đỡ đắc lực cho bọn thực dân xâm chiếm nước ta, vì
chúng sống đã lâu năm ở Việt Nam nên rất thông thuộc địa hình, địa vật.
Tóm lại, với cuốn lịch sử ký sự này, Ngô Tất Tố đã vẽ lại hình ảnh cuộc
kháng chiến anh dũng của nhân dân ta, của tầng lớp văn thân chống Pháp.
Đó là một trang sử đáng ghi nhớ của dân tộc. Trong tác phẩm, thái độ của tác
giả rất rõ rệt. Ở phần cuối, Ngô Tất Tố viết thêm: "Chúng tôi tự nghĩ, sau khi
ngọn lửa bốc ở toà Khâm, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Bình thì cả đất nước
Nam đều ở trong cơn binh hoả. Thật vậy, trong thời gian ấy, phía trong từ Phú
An, Bình Thuận trở ra, phía ngoài từ Bắc Ninh, Sơn Tây trở vào, chỗ nào
không có tiếng súng, ngày nào không có tiếng súng! Sĩ phu hồi đó đối với
nước nhà thế nào, tưởng chẳng cần nói lắm, sau đây sử sách sẽ ghi chép
phân minh”. Mỗi lần nói đến phong tục văn thân cần vương, ngòi bút của tác
giả bộc lộ một nhiệt tình tha thiết: "Đối với văn thân, các việc kinh đô thất thủ,
vua phải chạy trốn là việc đại biến của nước. Gặp những lúc ấy, sĩ phu không
quản sống thác, phải hết lòng trung nghĩa mà báo đáp ơn vua. Vì vậy khi tiếp
được chỉ dụ (của Hàm Nghi) quan lại các tỉnh Trung Bắc tấp nập kéo cờ mộ
binh...”.
Đọc Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ, người đọc hết lòng mến
phục những văn thân yêu nước đã hy sinh quyền lợi cá nhân, hy sinh tính
mệnh để ra sức bảo vệ đất nước. Tác giả cũng làm cho người đọc hết lòng
căm tức, khinh bỉ bọn vua quan bán nước và thấy rõ ràng bọn thực dân Pháp
xâm chiếm nước ta hoàn toàn vì quyền lợi ích kỷ chứ chẳng phải vì ý định đi
khai hoá cho các dân tộc chậm tiến. Người thật và việc thật trong tác phẩm
không hề làm giảm ý nghĩa mà còn làm tăng thêm giá trị của tác phẩm. Phơi
trần sự thật lịch sử, không giấu giếm, là một thái độ dũng cảm rất đáng hoan
nghênh đối với nhà viết sử cũng như đối với những nhà văn tiểu thuyết lịch
sử, nhất là trong hoàn cảnh lúc bấy giờ có những sự thật mà người nói ra rất
dễ mang tội vào thân.
Nhìn qua các tác phẩm của Ngô Tất Tố viết trước cách mạng, chúng ta
thấy Ngô Tất Tố quả là một nhà văn có phẩm chất đáng quý. Từ những tác
phẩm lớn như Tắt đèn, Lều chõng, Việc làng, các tác phẩm nghiên cứu, phê
bình, dịch thuật cho đến các tiểu thuyết lịch sử, chỗ nào ta cũng thấy có
những ưu điểm cần biểu dương. Với phẩm chất trong sạch và tiến bộ ấy, Ngô
Tất Tố là người đã chào đón cách mạng với tất cả nhiệt tình tha thiết và tham
gia cách mạng với một thái độ tích cực.
Trích chuyên khảo Ngô Tất Tố.
Nxb Văn hóa, H. 1962
PHÓNG SỰ VÀ TRUYỆN KÝ LỊCH SỬ CỦA NGÔ TẤT TỐTRƯƠNG CHÍNH
Phóng sự là thể tài của báo chí, có từ những năm 1931 - 1932. Báo chí
phát triển thì phóng sự cũng phát triển theo. Phóng sự là văn chương thiết
thực, tác giả tìm hiểu cặn kẽ một hiện trạng nào đó rồi ghi chép lại tỉ mỉ để
người không chứng kiến cũng biết được một cách rõ ràng, sinh động. Là một
người làm báo, Ngô Tất Tố cũng viết phóng sự, nhưng viết ít và muộn hơn
nhiều so với Tam Lang (Vũ Đình Chí), Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang (Trần
Tán Cửu) v.v... Ông chỉ có thiên Dao cầu thuyền tán tương đối ngắn, đăng
trên tờ Tương lai, năm 1936, và thêm Việc làng đăng trên Hà Nội tân văn,
năm 1940, kể cả bài ký sự Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập
đăng hai kỳ trên tờ Thời vụ, năm 1938, vị chi ba thiên cả thảy. Các bạn đồng
nghiệp của ông nhanh nhạy, xông xáo, và dồi dào hơn ông nhiều. Bất cứ đề
tài gì thỏa mãn tính hiếu kỳ của người đọc thành thị và làm cho văn chương
của họ trở thành món hàng được tầng lớp này ưa chuộng, là họ có thể viết
ngay được một thiên phóng sự dài. Họ viết về gái nhảy, gái đĩ, me Tây, về cờ
bạc bịp, hút xách, về chọi gà, về ăn cắp, lừa đảo, về ông sư bà vãi, về bọn
cơm thầy cơm cô... Họ vào nhà chứa, đến nhà lục xì, tiệm nhảy, tiệm hút,
chùa chiền. Tam Lang khoác áo phu xe, Vũ Trọng Phụng khoác áo thằng ở,
Trọng Lang làm người thất nghiệp để trà trộn vào những nơi xa lạ với họ, Ngô
Tất Tố không làm được như thế. Ông chỉ có thể viết về những con người, về
những sự việc ông biết và biết rõ. Dao cầu thuyền tán là thiên phóng sự về
bọn lang băm, nhờ lừa bịp mà trở nên giàu có. Năm 1935, không thể sống với
đồng lương của người làm báo, Ngô Tất Tố nghiên cứu Đông y và mở một
hiệu thuốc bắc nho nhỏ ở Hà Nội. Do đó, mới có thiên phóng sự này. Còn
như, Việc làng là thiên phóng sự về hủ tục ở nông thôn, thì rõ ràng ông không
phải mất thì giờ tìm hiểu thu thập tài liệu. Ông chỉ cần ngồi ghi lại là đủ.
Quan trọng hơn là mục đích làm phóng sự. Làm phóng sự mà chỉ ghi
lại những điều mắt thấy tai nghe, tìm hiểu những cái lắt léo, những điều oái
oăm trong "nghề" nọ, "nghề" kia, tả đời sinh hoạt và những hành động, những
mưu chước lạ của bọn ăn cắp, từ nhà quê đến thành thị như Trong làng chạy
của Trọng Lang, hoặc là để thừa nhận có thể thủ tiêu triệt để nghề mãi dâm
bằng cách đi "từng nhà một giảng dạy về nạn phong tình" hay "dạy bảo
những điều cần biết nam nữ giao hợp trong các trường học cho lũ trẻ con
đang tuổi dậy thì" như Lục xì của Vũ Trọng Phụng... thì có thể nói người viết
chưa nhận thức đầy đủ vai trò của thể loại văn học báo chí này, đã đưa nó đi
chệch vào hướng giải trí đơn thuần, không đặt thành vấn đề xã hội, hoặc có
đặt thì đặt sai, không làm bạn đọc căm thù kẻ phải chịu trách nhiệm, chỉ nêu
được nỗi cực khổ của hạng người này, hạng người nọ... hoặc cho rằng họ
khổ là vì họ... dốt mà thôi!
Ngô Tất Tố viết Dao cầu thuyền tán không phải là ông thương hại
người có bệnh không tìm đến những vị thầy thuốc giỏi, mà uống thuốc của
mấy ông lang băm, lang vườn đến nỗi phải bỏ mạng. Mục đích của ông là
buộc tội bọn "thánh sư nghề bịp" coi rẻ tính mạng con người, làm giàu một
cách vô lương tâm.
Thiên phóng sự ấy của Ngô Tất Tố còn làm cho bạn đọc nghĩ xa hơn
nữa, nghĩ những điều ông không nói ra. Người ta tự hỏi: tại sao những người
cầm quyền lại để cho bọn "thánh bịp" ấy hành nghề công khai như vậy? Xã
hội gì mà trên bịp, dưới bịp, ông nọ bà kia đều là những tay bịp lành nghề!
Thời bấy giờ nếu không thiếu những nhà trùm thuốc lậu trở nên chủ báo, nghị
viện, chủ nhà in, chủ nhà sách, nghĩa là những người thượng lưu trong xã
hội. Trong tạp văn của Ngô Tất Tố có một bài nói chuyện này (Thuốc lậu,
chuyện kiếm hiệp, vé xổ số giả và Cụ Nguyễn Thượng Hiền - Thời vụ, 1939;
Một người oan, một người không oan- Thời vụ, 1939).
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan khi viết về những nhà viết phóng sự của ta
có gợi ý: ở các nước, người ta thường căn cứ vào những thiên phóng sự có
giá trị để định lại pháp luật, sửa đổi hình phạt, cải tạo xã hội... Không ai mong
điều ấy ở chính quyền thực dân, chúng ta chỉ muốn những người viết phóng
sự bênh vực lẽ phải, bênh vực sự công bình, gây được lòng phẫn uất của
quần chúng đối với những người có trách nhiệm. Điều ấy Ngô Tất Tố đã làm
được. Tài năng của ông có hạn, nhưng ông chân thành thiết thực.
Việc làng viết năm 1940, sau nhiều phóng sự về đề tài này của các bạn
đồng nghiệp khá lâu, nhưng Việc làng được nhắc nhở nhiều hơn cả. Có nhiều
nguyên nhân. Ông biết nông thôn, hiểu người nông dân hơn bất cứ nhà văn
nào. Cuốn tiểu thuyết Tắt đèn ông viết năm 1939 chứng tỏ điều ấy. Ông thuộc
thành phần nghèo trong nông thôn nên cách nhìn của ông khác những nhà
văn, con cháu quan lại, địa chủ v.v... Đặc biệt là cách phản ánh, cách đặt vấn
đề.
Cứ so sánh Việc làng của Ngô Tất Tố và Làm dân của Trọng Lang
đăng trên báo Ngày nay suốt 25 số, từ tháng giêng đến tháng bảy năm 1938
thì rõ. Trọng Lang nói những gì, tả những gì trong thiên phóng sự này? Tác
giả kể về những cô gái quê ngu muội và đĩ thoã ra tỉnh để đi vào các nhà
chứa: cách báo thù kỳ khôi của một anh nhà quê có vợ ngoại tình; cách đền
con của một chị nhà quê, cách chữa chó dại ở thôn quê; thói bán con, máu
mê cờ bạc ở nông thôn... Bằng bấy nhiêu chuyện, tác giả làm nổi bật mặt truỵ
lạc, đê hèn, ngu muội, hủ bại, nghèo nàn, khổ sở của mọi người nhà quê, trai
cũng như gái.
Việc làng của Ngô Tất Tố hoàn toàn không phải như thế. Đây là một
thiên phóng sự về hủ tục ở nông thôn xung quanh miếng ăn chốn đình trung,
nhưng đọc Việc làng hay trích dẫn Việc làng mà chỉ chú ý đến nghệ thuật băm
thịt gà của thằng Mới, thì đã hiểu sai ý nghĩa và không thấy tác dụng của thiên
phóng sự này. Phải chú ý mặt tố cáo, không phải tố cáo những hủ tục ấy là
"quái gở", "mọi rợ" mà tố cáo những người đặt ra những cái "quái gở", "mọi
rợ" ấy, tố cáo chế độ phong kiến, thực dân dựa vào chúng mà củng cố thế lực
của nó ở nông thôn. Chúng là những tên chánh tổng, lý trưởng, tiên chỉ,
chánh hội, chưởng bạ, các ông quan về hưu... bọn cường hào địa chủ ở nông
thôn. Chúng là những người có thế lực nhất, nhiều chữ nghĩa nhất, nhiều lý
sự nhất ở sau luỹ tre, đồng thời là những người trong bộ máy chính quyền
phong kiến thực dân ở cơ sở. Việc làng là việc chúng bày ra để bóc lột, đàn
áp dân đen, thông qua việc ăn uống ở chốn đình trung. Suốt 17 chương sách,
không có chương nào không nói đến việc đó. Có người đã phải bán cả ruộng
lẫn trâu, lại mắc công nợ, có người phải bỏ làng ra tỉnh đi ở vú, có người phải
bán rẻ sức lao động để trả nợ và nuôi con, có người phải thắt cổ tự tử v.v...
Bọn kia có thể tìm ra bất cứ cớ gì để bóc lột, ức hiếp dân. Bác Hai Đắc quên
biếu cụ chưởng một xâu lòng thờ hôm tế ở đình, bị cụ ghép vào tội "tự nhiên
cắt phần của cụ", đòi đưa lên quan kiện. Bác lạy lục mãi, cuối cùng cụ ra hai
điều kiện, một là giết lợn mời làng tế thánh để lấy xâu lòng thờ biếu cụ, hai là
đền cho cụ một trăm bạc! (Một tiệc ăn vạ). Một trăm bạc thời buổi đó ít ỏi gì!
cả một cái gia tài! Chúng doạ một người đàn bà goá có một ít vốn dành dụm
được từ hồi còn trẻ, phải xin đặt hậu, làm cho bà khánh kiệt. Một ông trùm
làng vay lão Sửu một gánh lúa, lão không cho, tên kia để bụng thù, sinh sự
cãi nhau với lão, rồi vu cho lão "chửi làng", đưa ra trình "làng", "làng" liền bắt
vạ lão, cũng hơn trăm bạc. Lão ức quá, thắt cổ tự tử. "Làng" là ai? "Làng" là
bọn đó chứ có ai đâu!" Chúng với hắn như một đào một kép hùa với nhau ăn
hiếp lão. Những người sạt nghiệp, phải bán nhà, bán vợ đợ con như thế rất
nhiều. Chính bọn chúng mỗi năm một lần, nhân vụ sưu thuế, mà phù thu lạm
bổ, chè chén, hút xách, làm giàu trên xương máu của dân đen như đã tả
trong Tắt đèn.
Đọc Việc làng, chúng ta ngạc nhiên trước những hủ tục "quái gở, man
rợ" ấy một phần, phần lớn là căm thù bọn cường hào, địa chủ, hơn nữa, căm
thù cái chế độ đã lợi dụng quan hệ cộng đồng thời thượng cổ để biến thành
gánh nặng đè lên cuộc sống tinh thần và vật chất của người nông dân. Nổi
tiếng trong bài tạp văn Cứ để cho nó chết viết trên tờ Thời vụ ngày 5 - 4 -
1938, nhân một chuyện thời sự đã đi đến nhận định sau:
"Trong chốn hương thôn gây năm bè bảy mối chỉ vì miếng ăn, chỗ ngồi,
sinh ra đánh nhau, kiện nhau, kẻ bị giết, kẻ tự giết còn đầy rẫy ra đó. Thế mà
bề ngoài ta vẫn trông thấy đình rộng trống kêu, cờ điều tàn tía, mũ áo xênh
xang. Đó chỉ là cái lớp phủ ngoài lên trên sự thối tha, dơ dáy, thật cũng là
thảm thương thay!".
Ông còn đào sâu vào sự "thối tha, dơ dáy ấy", chỉ cho mọi người thấy
sự thật: "Bày ra một cái triều đình giả dối, lấy ông thần gỗ tôn lên ngôi báu, lấy
tổng lý làm công khanh, lấy thịt xôi làm bổng lộc để họ ham mê mũ áo xênh
xang, trống giong cờ mở. Những vị thần gỗ ấy, ngoài những đấng anh quân
lương tướng mà ngày nay họ dùng làm ông ngáo ộp để trừ tà trị bệnh, bói thẻ
cầu mộng, lợi dụng cái lòng mê tín dị đoan của lũ dân khờ dại, lại còn lẫn cả
thần ăn trộm, thần ăn mày, thần chết trôi, thần gắp phân, thần loạn dâm. Hơn
nữa, lại thờ cả con rắn, con voi, con ngựa. Đấng tối linh của họ có cái lịch sử,
cái sự nghiệp khốn nạn như thế thì kẻ sùng bái tất nhiên là kẻ ngu thậm
ngang ngạnh, thằng khôn ăn vào đấy, thằng dại khổ vì đấy. Thế mà hết đời
này sang đời khác, người ta vẫn nhẫn tâm bắt dân đeo cái xích sắt ấy mà lại
muốn cho dân cường nước thịnh thì cũng lạ thay!".
Khó tìm thấy dấu vết "cựu học" ở "nhà nho" Ngô Tất Tố trong cách suy
nghĩ của ông. So với nhiều nhà "Tây học" thời đó, Ngô Tất Tố tiến bộ rất
nhiều.
* * *
Ba cuốn truyện ký lịch sử của Ngô Tất Tố cũng có một đặc điểm chung
là tinh thần yêu nước. Năm 1936, ông viết Những trận đổ máu hồi người
Pháp mới sang, sau đổi lại thành Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ,
in sau cuốn Vua Hàm Nghi của Phan Trần Chúc. Thật ra là ông đính chính
Phan Trần Chúc. Phan Trần Chúc dựa vào tài liệu của quan Tây, ca tụng sức
mạnh của quan Tây, nói lên sự "đớn hèn" của "người An Nam". Ngô Tất Tố
thì dựa vào các cuốn lịch sử của người Việt Nam mà nhắc lại hành động
ngang ngược của những tên cướp đeo lon, mặt khác đề cao lòng dũng cảm,
khí tiết anh hùng của các lãnh tụ cần vương và quân dân Việt Nam. Khác
nhau bao nhiêu! Thời bấy giờ ai cũng thấy điều mà Nguyễn Triệu Luật vạch
trần trong cuốn Ông Phan Trần Chúc bôi nhọ quốc sử (Nhà xuất bản Công
dân, 1935). Ông ta không trả lời được, lại không biết điều, quay sang vu cáo
Ngô Tất Tố "ăn cắp" văn và tài liệu của ông ta! Với thái độ khinh bỉ của nhà
nho, Ngô Tất Tố chỉ nói nhỏ một câu: "Hắn bảo tôi là bảo văn sĩ ăn cắp. Đó là
quyền riêng của hắn, nói cho đúng, tức là quyền riêng của kẻ thất giáo, tôi
không oán trách gì. Phải, đối với những lời nói hỗn của một kẻ còn tốn nhiều
giáo dục nữa mới đáng kể là văn sĩ như Phan Trần Chúc, tôi có hơi đâu mà
cãi nhau với hắn trên báo làm gì?" (Công dân, 1935).
(Chú ý: Ngô Tất Tố không nêu cái dốt của Phan Trần Chúc, ông chỉ nói
đến tư cách của Phan Trần Chúc, điều mà ông cho là quan trọng bậc nhất
của người cầm bút, của nhà ngôn luận.)
Nói tóm lại Phan Trần Chúc, viết theo quan điểm lập trường của một
tên bồi bút tay sai, còn ông thì viết theo quan điểm lập trường của người yêu
nước.
Cũng về đề tài yêu nước, Ngô Tất Tố chọn đề tài có tính chất thời sự
hơn những nhà nho viết tiểu thuyết lịch sử vào khoảng những năm ba mươi,
che giấu dưới cái vỏ lịch sử, tư tưởng "ái quốc, ái quần, ái chủng" của thời
phong trào thơ văn Duy tân (1904 - 1908). Tránh kiểm duyệt, Nguyễn Tử
Siêu, Đinh Gia Thuyết khai thác những giai đoạn lịch sử (1936). Ngô Tất Tố
khai thác giai đoạn Pháp xâm lược, tả cuộc kháng chiến anh dũng chống
Pháp của nhân dân ta, từ vua chúa, văn thân trí thức cho đến nghĩa quân,
người dân thường. Năm 1935, chế độ kiểm duyện còn khắt khe thế mà ông in
những tập sách đầy lòng tự hào dân tộc này đủ thấy ngòi bút ông dũng cảm
như thế nào!
Tiếp theo, Ngô Tất Tố cho xuất bản cuốn Lịch sử Đề Thám, người lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài hơn hai mươi năm. Từ khi Đề Thám
bị hại (1913) cho đến khi ông ra sách, chỉ mới hơn hai mươi năm. Khí thế của
Hoàng Hoa Thám chưa tan, còn âm ỉ cháy trong hồn của những người thuộc
thế hệ ông. Ngô Tất Tố không muốn biến đề tài thành đề tiểu thuyết, sự thật
lẫn với hư cấu. Ông dùng hình thức truyện ký. Ông dựa vào những truyền
thuyết khá phong phú trong dân gian. Có thể xem cuốn Lịch sử Đề Thám như
một thiên dã sử. Ông ca tụng công khai một người mà thực dân Pháp cho là
"kẻ cướp", "phiến loạn", "giặc", ông thì gọi là "tráng sĩ nơi rừng xanh", "khí
phách ngang tàng, có chí vẫy vùng trời biển", "ít thấy trong lịch sử, chỉ với hai
bàn tay trắng, ba thước gươm cùn, một mảnh giang sơn mười năm cát cứ,
làm những chuyện vá trời lấp biển"! Với một lòng cảm thông sâu sắc với
người "anh hùng mạt lộ", Ngô Tất Tố nói quyết rằng: "Rồi đây đồn ải Phồn
Xương, núi rừng Yên Thế, mấy xứ hẻo lánh trên đường ngược hoặc có ngày
được nhắc đến trong sử xanh".
Cũng năm 1935, Ngô Tất Tố viết Gia đình Tổng trấn tả quân Lê Văn
Duyệt. Ông nói về Lê Văn Duyệt thì ít, chủ yếu là nói về con đường phản bội
Tổ quốc, phản bội nhân dân của chúa Nguyễn chạy sang cầu cứu quân xâm
lược Xiêm. Vua Xiêm lợi dụng cơ hội đó đưa năm vạn quân theo hai đường
thuỷ, bộ tiến đánh Gia Định. Nguyễn Ánh theo chân chúng về nước. Bấy giờ
Tây Sơn gánh lấy trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chúng ở Rạch
Gầm - Xoài Mít (1785). Ngô Tất Tố làm cho mọi người thấy bộ mặt "rước voi
giày mả tổ" của Nguyễn Ánh, lá cờ cứu nước của Tây Sơn và lòng đồng tình
của dân Gia Định đối với Tây Sơn. Một người nông phu trong truyện tức giận
nói: "Ủa, đức chúa (chỉ Nguyễn Ánh) đã rước quân Xiêm qua đây, để chúng
nó giết hại làng tôi, bắt vợ tôi, chém con tôi, tôi không chạy mau cũng bị
chúng nó giết nữa. Lúc này người còn hòng vào nhà tôi mà đòi ăn sao? Tiếc
rằng tôi có một mình, không thể bắt luôn đức chúa đem nạp cho Tây Sơn.
Cơm đâu mà thết những người làm hại tôi một cách đau đớn!".
Có thể thấy tác giả ngụ ý gì khi chọn đề tài này. Chỉ sau hai năm khi
rước quân Xiêm vào giày xéo Gia Định, Nguyễn Ánh đã nhờ Bá Đa Lộc làm
đại diện, mang theo con trai tên là cảnh, cầm đầu một phái đoàn sang cầu
cứu chính phủ Pháp, ký hiệp ước bán nước đầu tiên tại Vécxay (28 - 11 -
1787) nhường hẳn cho Pháp một phần lãnh thổ của Tố quốc, cam kết cho tư
bản Pháp nắm độc quyền buôn bán trên cả nước!
So sánh truyện ký lịch sử của Ngô Tất Tố với tiểu thuyết lịch sử của các
nhà văn Tây học như Lan Khai, Nguyễn Trần Chúc, Phan Triệu Luật thì biết:
Sống cùng một thời đại, cùng trong một chế độ, Ngô Tất Tố vượt hẳn những
người kia về ý thức trách nhiệm, về quan điểm lập trường như thế nào!
Trích Lời giới thiệu tuyển tập Ngô Tất Tố Tập I.
Nxb Văn học, H. 1994
MỘT NHÀ BÁO CÓ BIỆT TÀI TIỂU PHẨM CỦA NGÔ TÂT TỐTRƯƠNG CHÍNH
Thời Ngô Tất Tố, người ta chưa gọi những áng văn xuôi bàn thế sự,
thời sự gọn nhẹ này bằng cái tên "tiểu phẩm". Cũng chưa gọi "tạp cảm, tạp
văn" như Lỗ Tấn, mà dùng một từ rất cổ: "tạp trở". Có lẽ lấy ở tên sách Dậu
dương tạp trở của Đoàn Thành Thức thời Đường, trong đó có nhiều câu nói
lạ lùng, quái dị, nhiều chuyện hoang đường, không có bằng cứ. Các nhà học
giả cho là phù phiếm, thỉnh thoảng cũng có trích dẫn cho vui. Từ này, trước
kia ở Trung Quốc cũng ít dùng, sách Từ hải không có giải nghĩa, sách Hán
Việt từ điển của Đào Duy Anh thì lại có. Tạp trở nghĩa đen là "cái bàn bày
những đồ ăn vặt" nghĩa bóng là "mục sách chép những chuyện vặt vãnh".
Trong văn học ta, có thể nói tạp trở xuất hiện cùng một lần với báo chí.
Khoảng những năm 1915, 1916, 1917, trên tờ Đông Dương tạp chí, Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu đã viết nhiều bài bàn phiếm kiểu ấy rồi. Nhưng các bài
Giải sầu, Đánh bạc, Ở đời thế nào là phải, Thằng người, ngây cưỡi con ngựa
hay v.v... Vì là một thể tài nhẹ, dễ đọc, hợp với người xem báo, nên sau đó,
báo nào cũng dành cho nó vài ba cột, dưới những đề mục ý nghĩa rõ ràng:
Nhàn đàm, Thời đàm, Hài đàm, Nói chơi, Nói mà chơi, Nói hay đừng, Trắng...
đen, Người... ngợm, Đó đây, Câu chuyện hàng tuần, Câu chuyện hàng ngày,
Guồng trần xoay máy, Dưới bóng thần Vệ nữ, Trước vành móng ngựa, Bùn
lầy nước đọng. Một số bài được in thành sách: Tản Đà tùng văn, Tản Đà tản
văn, Thời hài của Ngô Bằng Dực, Sách cười của Hỳ Đình Nguyễn Tôi
(Nguyễn Đỗ Mục). Mặt trái đời của Ngọc Thơ, Trước đèn của Lãng Nhân,
Phùng Tất Đắc...
Mặc dù vậy, tiểu phẩm chưa được xem trọng và đánh giá đúng mức,
trong ý thức người viết cũng như người đọc. Người viết thì thấy được tuỳ tiện
hơn sử dụng các thể tài khác, người đọc thì có dịp được giải trí, sau khi đọc
những bài luận thuyết nặng nề, Nguyễn Khắc Hiếu khi tập hợp những bài văn
hài đàm của mình vào cuốn Tản Đà tùng văn (1922) nói trong bài tựa những
lời đùa bỡn như sau: "Tản Đà thu điếm khai trương, chủ nhân xin có mỗi thứ
văn một bài in bán rao hàng cho vui, nhân gọi là Tản Đà tùng văn".
Tính chất phù phiếm của tiểu phẩm là do hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ
quyết định, số báo chí của ta từ năm 1930 trở đi bước vào một thời kỳ mới.
Những người cầm bút phần lớn là tân học, xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản
thành thị. Tờ báo thay đổi hình thức, bắt chước văn phong báo chí phương
Tây. Họ chiều theo thị hiếu của một lớp độc giả cũng tiểu tư sản như họ: sinh
viên, học sinh, viên chức, tiểu thương. Văn chương trở thành món hàng bán
rao. Ngòi bút mất tính chất thiêng liêng. Báo chí bị tha hoá một cách khủng
khiếp.
Lại nữa, từ 1930 - 1935 chế độ kiểm duyệt hết sức gắt gao, báo dễ bị
cắt xén, xoá bỏ, phạt tiền, phạt tù, đình bản. Thống kê cho biết trong 4 năm
(1931 - 1934) có cả thảy 161 tờ báo bị đình bản. Từ 1935 đến 1939 kiểm
duyệt có nới tay hơn, nhưng không phải vì thế mà tránh được mọi cách khống
chế của chính quyền thực dân, phong kiến. Như xui đại lý đừng bán, doạ bạn
đọc không được mua, đến tận nhà dây thép biên tên vào sổ đen những người
mua năm... Bao nhiêu trò lén lút, đê hèn. Cho nên có kiểm duyệt hay không
có kiểm duyệt, người cầm bút cũng phải cân nhắc từng chữ, từng câu để cho
tờ báo khỏi chết. Tình trạng ấy thật giống như Lỗ Tấn nói đầu tập Văn học
viền hoa của ông:
"Với cách giết công khai và giết ngầm đó mà thứ văn chương có thể
kéo dài hơi thở tàn, cùng bạn đọc gặp mặt được, nếu không phải văn chương
nô lệ thì là cái gì?
Tôi có đem ra bàn chơi với mấy ông bạn. Một ông nói: "Văn chương
bây giờ không thể có cốt khí được, ví dụ gửi bài đến cho phụ trương báo nào,
trước hết người biên tập cũng rút vài cái, nhân viên kiểm duyệt lại rút thêm vài
cái nữa, thế thì còn lại gì?". Tôi nói: "Tôi thì tôi rút ra trước vài cái, nếu không
thì đến "còn lại: cũng không còn lại nữa. Cho nên, những bài đăng báo hồi ấy
có khả năng bị rút bốn lần".
Tâm trạng người viết tiểu phẩm ở Việt Nam không khác tâm trạng Lỗ
Tấn, nhất là khi tờ báo lại là cùng mình, một bọn anh em nhà văn nghèo, dúm
rau, dúm bếp làm với nhau, ít khi trả tiền in rồi, trong két còn được tiền thừa
mà trả cho người cầm bút, như trường hợp Ngô Tất Tố (Gia thế của ông Vũ
Trọng Phụng - Tao đàn, 1939). Tất nhiên đó là nói người có tâm huyết, còn
người không có tâm huyết thì thôi, không cho bàn quốc sự thì không bàn
quốc sự nữa, tiểu phẩm của họ chỉ còn là những câu chuyện ở quán trà, quán
rượu, một thứ văn chương không có ích gì cho ai cả. Phần đông những
người cầm bút đồng thời với Ngô Tất Tố là như thế.
Ngô Tất Tố cũng làm báo nhưng rất khác những nhà làm báo kia, nên
khi viết tiểu phẩm ông không để cho thể văn này trượt sang phía khôi hài, phù
phiếm. Ông đã làm được như Lỗ Tấn nói: "Văn tiểu phẩm muốn tồn tại thì
phải là mũi dao nhọn, là khẩu súng, có thể cùng với người đọc mở một con
đường sống bằng máu" (Văn tiểu phẩm khủng hoảng - Tạp văn Lỗ Tấn, Nxb
văn hóa, 1962).
Mũi dao nhọn, khẩu súng ấy, Ngô Tất Tố chĩa thẳng vào kẻ thù của dân
tộc là thực dân Pháp đang đè đầu cưỡi cổ mà hút máu mủ nhân dân ta. Hễ có
cơ hội là Ngô Tất Tố nói sự thật trần truồng trong các bài tiểu phẩm của mình,
đăng trên báo một cách công khai, cũng không cần nói bóng nói gió. Nhân bài
báo của tờ Pháp Việt tạp chí bàn về chính sách cai trị của toàn quyền Brévié
rằng "Ngài không dám như vua Henri IV mong cho một người dân quê nghèo
nhất nước Pháp có thể làm thịt một con gà trong những ngày chủ nhật, mà
chỉ mong cho một người dân quê nghèo nhất xứ Đông Dương cũng có một
báo gạo thứ hai...", ông liền tiếp lời:
"Lời nói thiết tha thành thực ấy, dân chúng tôi rất lấy làm cảm động,
nhưng không khỏi làm sửng sốt cho các nhà tư bản thực dân bên thượng
quốc, hàng ngày ngấp nghé dòm sang. Vì Đông Dương xưa nay vẫn có tiếng
là một thuộc địa giàu có nhất của nước Pháp. Chẳng thế mà vẫn đứng đầu
trong các việc đóng góp với mẫu quốc về quân phí, về quốc trái, về lạc quyên.
Lại những con số xuất cảng, nhập cảng hàng năm cộng nên con số kếch sù.
Những quan lại công chức hàng năm biết bao nhiêu gia đình khi nheo nhóc
kéo sang chẳng bao lâu đã phởn phơ kéo về, hành lý kĩu kịt!".
"Lại biết bao nhiêu những tài chủ, nghiệp chủ và điền chủ cũng những
danh công đại thương, lập nên những công ty vĩ đại, những cổ phần, những
thương phiếu trên trường quốc tế, có một địa vị cao quý, làm cho bao kẻ thèm
muốn cái xứ bờ xôi ruộng mật này. Lại những cảnh tượng rực rỡ xa hoa trong
các nơi thành thị, những công sở, những biệt thự, những lâu đài kiến trúc,
kinh phí hàng năm kể vạn kể triệu. Thế mà cái chính sách của quan thủ hiến
Đông Dương chỉ mong cho lũ dân nghèo có bát gạo thứ hai thì chẳng cũng
hẹp hòi lắm ru?...".
Rồi ông nhấn đi nhấn lại cái ý chính là xứ Đông Dương là "thuộc địa
của phái quan lại công chức, của phái tư bản thực dân bên thượng quốc" làm
cho dân bản xứ "khó lòng kiếm được bát gạo thứ hai, mà kiếm được bát gạo
thứ nhất cũng đã chật vật lắm rồi". Ông không quên nói rằng chính sách
thương dân của quan thủ hiến này cũng như các quan thủ hiến trước kia "chỉ
mới là trong thời kỳ hứa hẹn". "Không gì khôn ngoan bằng trị dân theo cách
ấy, còn dân thì đã ngao ngán ở những lời hứa hẹn, họ oán trách, căm hờn",
vì "chính phủ bấy nay chỉ chăm lo cho công quỹ mà quên kẻ làm giàu cho
công quỹ, quá chú trọng quyền lợi của quan lại thực dân của mẫu quốc mà
ngăn ngừa hắt hủi người dân thuộc quốc ở xứ này, tự gây ra một cái hố sâu
để ngăn cách đời sinh hoạt của hai dân Nam - Pháp..." (Cho no đủ đã - Thời
vụ, 23 - 12 - 1938).
Cái hay của bài này là tác giả làm cho người đọc nhận thấy lời hứa tốt
đẹp của vị thủ hiến trơ trẽn đến mức nào!
Ngô Tất Tố viết hàng loạt bài như thế, liên tiếp vạch trần bộ mặt thực
của cái chính sách ngu dân, chính sách dân tộc thể chất và tinh thần, chính
sách lừa đảo bịp bợm của thực dân Pháp thi hành ở nước ta. Ông đả kích
phong trào chấn hưng Phật giáo, phong trào phục cổ, bảo tồn quốc tuý,
phong trào vui vẻ trẻ trung, phong trào cải lương ở nông thôn và ở thành thị,
là những phong trào do thực dân Pháp khởi xướng hoặc khuyến khích, đưa
những tên tay sai đắc lực nhất của chúng ra tổ chức, hô hào. Ông tìm cách lật
mặt trái bẩn thỉu của những phong trào ấy cho mọi người xem. Ông đem
những tên "tai to mặt lớn" nhất của thời ấy châm biếm, Tây cũng như ta: vị
thủ hiến Đông Dương Brévié, thủ hiến Bắc Kỳ Tholance, thống đốc Nam Kỳ
Pagès, Võ hiển Hoàng Trọng Phu, Hiệp tá đại học sĩ Nguyễn Năng Quốc, nhà
báo Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, nghị trưởng Viện dân biểu Bắc Kỳ Phạm
Huy Lục, lãnh tụ đảng Lập hiến Bùi Quang Chiêu... cho đến nghị sĩ thầu
khoán Trần Bá Vinh.
Tất nhiên, thời đó, ngoài báo chí cánh tả, thì báo chí cánh trung gian
cũng có người người viết như Ngô Tất Tố. Nói như Lỗ Tấn, những nhà văn lật
lọng ấy, khi "đột biến về bên này" khi "đột biến về bên kia", không lường
được. Ngô Tất Tố khác họ ở chỗ ấy. Ông là một nhà văn yêu nước chân
chính, ông thành tâm chia sẻ những nỗi đau khổ của dân quê nghèo đói nên
ông chỉ có sự tiệm tiến để cuối cùng đi theo cách mạng, theo kháng chiến.
Tác phẩm của ông chứng minh điều đó một cách hùng hồn. Không kể
cuốn tiểu thuyết Tắt đèn, và thiên phóng sự Việc làng, những tiểu phẩm của
ông viết về tình hình nông thôn dưới thời thực dân phong kiến cũng là những
bài trung thực nhất, cảm động nhất, so với bất cứ tác phẩm nào viết về nông
thôn của những nhà văn đồng thời.
Đặc biệt hơn cả là những tiểu phẩm của Ngô Tất Tố về sự phản kháng
của người nông dân đối với bọn địa chủ, cường hào, quan lại. Ông bào chữa
cho dân đói ở hai tỉnh Bạc Liêu, Rạch Giáo kéo nhau đến cướp lúa của bọn
điền chủ bóc lột địa tô và cho vay nặng lãi. Hàng ngàn người tay không đến
các nhà điền chủ ấy để vay, nhưng trong khi hỏi vay, không đợi nhà chủ nợ
đồng ý, cứ ùa vào mà xúc lấy lúa. Ông nói: "Nạn đói một phần là tại mấy ông
chủ ruộng. Giả sử ngày thường các ông ấy không bòn rút bọn kia một cách
thái thậm, thì dù có gặp một năm mất mùa, may ra họ cũng không đến nổi đói.
Hay là giả sử trong lúc họ trót đói rồi, các ông bố thí bớt cái thừa thãi của
mình để cứu những bộ dạ dày trống rỗng của họ, thì đâu đến nỗi họ phải rủ
nhau đi cướp? Nhưng không thế. Những năm được mùa, người ta đã nạo
xương họ, hút tuỷ họ chỉ để cho họ đủ sống một đời ngắn ngủi, rồi khi đói khổ,
người ta khư khư khoá chặt "lẫm lúa", không chịu vung ra một hạt. Nào ai cãi
lại câu đó, để tôi xin mời hai ông hứa Quang Chiêu và Trương Quang Thành
làm chứng. Bằng một thứ giấy bạc đặc biệt, ông Chiểu đã cho tá điền vay nợ
với kiểu "một vốn tám chín mười lời"! Và trước cái cảnh nheo nhóc của hàng
nghìn dân đói, ông Thành vẫn chất lẫm một vạn ba nghìn giạ lúa để cho mọt
ăn... Thế là người ta chế tạo ra lũ dân đói để bắt họ phải đến nhà mình mà
cướp cứ gì?” (Thế thì nhà báo là ông trời - Thời vụ, 25 - 10 - 1938).
Ông cũng tán thành dân hạt Yên Định ở Thanh Hoá kéo đến cửa huyện
để hỏi quan huyện về số tiền họ góp làm nhà thương, mà nhà thương không
thấy làm, hay đã nằm trong hầu bao của ngài? Ông viết: "Đó là cuộc biểu tình
đầu tiên xảy ra giữa quan với dân. Có thể làm nhụt nhuệ khí của nhiều ông
quan khác..." Rồi ông khuyến khích: "Giả sử dân nào cũng như dân hạt Yên
Định, gặp một việc gì ám muội, không thèm kiện cáo lôi thôi, cứ việc rủ nhau
thật đông, đến tận cửa quan hỏi, thì lần sau dẫu đem tiền nấu súp mà đổ vào
miệng, các ông ấy cũng không dám làm. Hùm beo sư tử ở rạp xiếc có dữ tợn
đâu? (Biểu tình ở Thanh Hoá - Thời vụ, 29 - 4 - 1938).
Đã lấy tiểu phẩm làm vũ khí, đánh kẻ thù, thì phải đánh nhanh, đánh
gọn, đúng đối tượng, đúng chỗ hiểm, đánh thật mạnh, có thể một gậy chết
tươi. Trước hết, Ngô Tất Tố phải có một sự cố gắng tột bậc để thay đổi văn
phong. Các nhà nho thời ông thường chuộng văn biền ngẫu, lằng nhằng như
dây muống. Nhưng văn tiểu phẩm thì phải ngắn, sắc, xoay chuyển nhanh, câu
thường đặt theo lối phá cách. Đó là văn phong của báo chí phương Tây. Ngô
Tất Tố đã viết được như thế một cách dễ dàng, tự nhiên. Ông bỏ xa các nhà
văn lớp trước, theo kịp các nhà văn lớp sau, khiến ai cũng phải ngạc nhiên,
khen ngợi. Ông biết nhiều từ Hán Việt, nhưng rất ít dùng, biết nhiều điển cố
nhưng dùng vừa phải và đúng lúc, không khoe khoang. Ông viết như nói,
không trau chuốt mà cũng không thật thà. Rồi khi ông châm biếm, ông không
biến lời mình thành khôi hài, làm cho người ta bật cười, hoà cả làng. Ông đả
kích cũng không phải đánh cho sướng tay, chửi bới cho sướng miệng, mà là
để tố cáo, vạch trần một cách nghiêm chỉnh. Ông không bao giờ quên mục
đích đó, cho nên đọc ông, chúng ta không cười. Nụ cười chưa kịp nở, đã tắt
ngay, nhường chỗ cho lòng căm giận, cũng như ông đã căm giận khi nói đến
những sự việc kia. Ông thường đạt hiệu quả ấy bằng cách trần thuật sự việc
đúng như nó xảy ra, không phóng đại. Như tả một cảnh đền thờ một vị thần
nói là thiêng, mà hai bên tả hữu là hai cái nhà xăm, cả hai đều "đêm đêm hàn
thực ngày ngày nguyên tiêu". Ngôi đền ấy lù lù mọc ở giữa một đường phố
đông đúc của Hà Thành. Rồi ông kết luận thật bất ngờ: "Nào các ông nghị
viện thành phố ở đâu. Mọi ngày các ông hay soi xét những ngõ dơ, phố bẩn
mà xin sửa sang kia mà, các ngôi đền Hàng Trống này nay đối với con mắt
người ngoại quốc chẳng qua như đống rác ở giữa thành phố, các ông mần
thinh sao đành?". Như vậy là vừa đả kích thói mê tín dị đoan, vừa đả kích các
ông nghị viện thành phố. Một mũi tên hai đích...
Có bài ông đối chiếu lời nói và việc làm để vạch trần chính sách bóc lột
vơ vét của thực dân. Cách châm biếm ấy có thể khiến người bị châm biếm
cũng thấy đã đến lúc không thể ru ngủ dân chúng bằng những lời nói ngọt
ngào nữa và những trò chúng bày ra không lừa phỉnh được ai.
Có bài ông dùng một so sánh thật ngộ nghĩnh, như ví tình thân thiện
Pháp - Nam với tình thân thiện giữa một người nằm dưới đất và một người
nằm trên giường, một người gặm xương và một người ăn thịt. Thâm thuý hơn
nữa thì lấy việc ngoài cuộc đời ví với một việc chép trong sách, ví báo Tân
Việt Nam với vợ Chu Mãi Thần, ví Bộ thuộc địa với chàng Đặng Bá Đạo...
Có bài ông nêu lên một nghịch lý và chứng minh trong thực tế xã hội
phong kiến thực dân, nghịch lý đó mới là chân lý. Như các bài Dân quê chúng
tôi muốn được tự do mất cướp, Đa tạ ông thần sốt rét, Hỏi thăm ông huyện
vô danh, Từ nay dân Pháp lại khổ hơn dân An Nam thêm một tầng nữa...
Khi sự việc tồi tệ quá, ông không châm biếm nữa mà ông chửi thật sự,
có điều chửi một cách văn chương. Như chửi tên văn sĩ nọ nấp sau chiêu bài
chính trị mà quảng cáo làm giàu cho vợ chồng một tên buôn thuốc hạ bộ và
nói rằng: "Ai bảo ông ấy "thí nghiệm ngòi bút" (hắn ta có viết một cuốn sách
mỏng nhan đề như thế), với hạng người ấy. Trời cho mình có cái bút cũng
nên trân trọng mới phải. Lẽ nào cái chỗ chỉ chứa thuốc lậu mà cũng chọc nó
vào được. Huống chi ông ấy không những chỉ chọc vào đó mà lại còn đem
những tư tưởng chính trị quảng cáo cho nhà thuốc lậu, để vì nhà ấy mà mua
tín nhiệm của quốc dân nữa chứ. Ông cũng đã chửi tên nghị sĩ tán thành
chính phủ thực dân tăng thuế tem, mót từng xu, bằng cách đề nghị nhà dây
thép đánh dấu những bức thư phạt phải dán một thứ tem có hình đầu ông ta
thay vì cái dấu hình tam giác dùng trước nay.
Văn tiểu phẩm là văn tố cáo, vạch trần, châm biếm, đả kích, có khi phải
đả kích thật mạnh. Nói tóm một câu, Ngô Tất Tố đã dùng mọi phương thức,
từ nói bóng nói gió, cười mỉa mai, cười ha hả cho đến cách "bề ngoài tán
dương, bề trong công kích" để lại cho người đọc một ấn tượng sâu sắc. Và
mũi tên ông bắn đi trúng đích và trúng chỗ hiểm nghèo nhất, khiến đối thủ
không mở miệng nói năng gì được nữa. Cuối cùng điều cần ghi nhớ là tất cả
tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đều đăng báo công khai, giữa lúc chính quyền
phong kiến thực dân đang ở thế mạnh.
Phụ san báo Văn nqhệ, tháng 5 - 1993.
TIỂU PHẨM VĂN HỌC CỦA NGÔ TÂT TỐPHAN CỰ ĐỆ
Những người viết báo kỳ cựu ở nước ta từ những năm 20 của thế kỷ
này, không ai có thể quên được cái tên Ngô Tất Tố, một cây bút chiến đấu già
dặn và sắc bén, đã một thời tung hoành trên các báo Hà Nội, Sài Gòn, Ngô
Tất Tố đã từng tham gia viết An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần
chung, Phụ nữ tân văn, Phổ thông, Đông phương, Thực nghiệp, Công dân,
Hải Phòng tuần báo, Con ong, Tương lai, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Đông
thanh, Trung Bắc chủ nhật, Thời vụ, Hà Nội tân văn... với các biệt hiệu quen
thuộc như Thiết Khẩu Nhi, Thục Điểu, Dân chơi, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân,
Phó Chi, Ngô Công, Tuệ Nhỡn, Côi Giang, Thuyết Hải, Xuân Trào, Đạm Hiên,
Hy Cừ...
Ngô Tất Tố chuyên sử dụng một loại văn tiểu phẩm để vạch những
chuyện chướng tai gai mắt, những chuyện bất công ngang trái trong xã hội
cũ. Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đứng về mặt thể loại, gần gũi phần nào với tạp
văn của Lỗ Tấn đăng trên tạp chí Tân thanh niên từ 1918. Loại văn châm
biếm này phù hợp với yêu cầu kịp thời, gọn nhẹ, súc tích của thể loại văn học
chiến đấu trên báo chí hàng ngày, khuôn khổ của nó phù hợp với điều kiện thì
giờ của người viết lẫn người đọc. Các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vừa mang
tính chất của một bai bình luận thời sự chính trị, bình luận xã hội, nhưng đồng
thời cũng là một tác phẩm văn học. Do đó nó vừa phải có sức thuyết phục
logic, có căn cứ và lập luận chặt chẽ, vừa phải xây dựng được những hình
tượng và có một sức truyền cảm mạnh mẽ, sâu sắc đối với người đọc.
Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố dường như làm thành một bộ sử biên
niên của xã hội Việt Nam những năm từ trước sau 1930 cho đến hồi Đại
chiến lần thứ hai. Như một chứng nhân trung thành của thời đại, bằng nghệ
thuật tiểu phẩm, Ngô Tất Tố ghi lại cho chúng ta những sự kiện chính trị quan
trọng trong nước thời kỳ đó: phong trào Đông Dương đại hội với những cuộc
biểu tình rầm rộ đón "lao công đại sứ" Godart ở các thành phố Bắc Kỳ, phong
trào Mặt trận Dân chủ với nước cuộc đấu tranh của báo giới đòi tự do ngôn
luận, tự do hội họp, những cuộc đình công khổng lồ của "lao động Đông
Dương", từ "phu phen thuyền thợ" cho đến "mấy nghìn phu xe Hà Nội" để đòi
tăng lương, những cuộc biểu tình của nông dân Thanh Hoá và những cuộc
nổi dậy phá kho thóc địa chủ của hàng ngàn nông dân Bạc Liêu, Rạch Giá...
Ngô Tất Tố cũng lên án "chính sách độc tài của Hítle", những "thủ đoạn
chuyên chế của Muýtxôlini" và cái thói "tàn bạo của bọn quân phiệt Nhật Bản".
Toàn bộ tiểu phẩm của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng lớn
và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam những năm trước Cách
mạng tháng Tám, nó đã cung cấp cho chúng ta những tài liệu quý giá về văn
học, sử học, xã hội học, dân tộc học (phong phú nhất là những tài liệu về
nông thôn và nông dân Việt Nam).
Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố cũng là một phòng triển lãm những bức
chân dung được phác thảo theo kiểu biếm hoạ của giai cấp thống trị và
những kiểu người điển hình trong xã hội cũ. Ngày nay thanh niên đọc tiểu
phẩm của Ngô Tất Tố có thể không biết rõ lý lịch của những tên như
"Tholance đại nhân", thủ hiến Bắc Kỳ, Pagès, thống đốc Nam Kỳ, Võ Hiển
Hoàng Trọng Phu, Bắc Kỳ nghị trưởng Phạm Huy Lục, "Bắc kỳ nghị trưởng
Lê me xừ", "Bùi Quang Chiêu đại nhân", lãnh tụ đảng Lập hiến hữu danh vô
hình ở Nam Kỳ và cuối cùng là những nhân vật với những tên dài lòng thòng
như dây muống: "Hiệp tá đại học sĩ sung Bắc Kỳ Phật giáo hội hội trưởng,
kiêm Hà Nội Quán Sứ tự trụ trì Nguyễn Năng Quốc đại nhân" hoặc "Tiên sinh
Phạm Quỳnh, tức ông chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Nam Phong, tức ông
Tổng thư ký Hội Khai trí tiến đức, tức ông thư ký của Hội đồng kinh tế và tài
chính Đông Dương, tức người sáng lập ra cái "hiến pháp tam giác"!.
Tuy nhiên, điều đó không quan trọng vì tiểu phẩm của Ngô Tất Tố phê
phán những nhân vật điển hình trong xã hội thực dân phong kiến chứ không
phải là một "văn tuyển chửi người" nhằm trả thù và thoá mạ cá nhân. Tên của
những nhân vật nói trên có thể coi như những danh từ chung chỉ bọn tai to
mặt lớn, bọn vẫn xưng là quý tộc thượng lưu đương thời. Lý lịch cá nhân của
chúng nhiều khi chúng ta không cần tra cứu, chỉ biết đó là "những tài chủ,
nghiệp chủ, điền chủ, cùng những danh công đại thương", "những quan lại
công chức người Pháp" giàu có phởn phơ trên "cái xứ bờ xôi ruộng mật này":
đó là "những người đóng vai ông chủ, từ chủ hầm mỏ trở đi, phần nhiều là
bậc "ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột" chẳng có khi nào bỗng nhiên vô cớ lại
động dại mà tăng lương cho một người nào"; đó là những hạng con buôn
"ngoài những kẻ buôn thuốc phiện lậu, buôn giấy bạc giả, buôn dân, buôn
nước, buôn thị trường, cũng có lắm kẻ nghĩ ra nghề buôn tôn giáo mà đại
phát tài"; đó là những ông "dân biểu đương thứ" trên đầu treo cái án "bốn
năm đằng đẵng không làm cho dân việc gì" mà còn "dùng nghị trường làm
nơi tranh việc thầu khoán, tranh mối hàng buôn, làm chỗ lấy lòng Chính phủ
để mưu việc tư lợi"; đó là "những chiếc mặt" hội viên thành phố, "không phải
chỉ để bày cho đủ lệ bộ ở toà đốc lý", "không như những mặt nạ ở rạp Quảng
Lạc chỉ để xem chơi chơ vui"; đó là "những ông không thèm biết chủ nghĩa xã
hội là gì" nhưng cũng cứ xin vào chi nhánh đảng Xã hội (SFIO) để mượn tiếng
tranh cử nghị viện, lường gạt quần chúng. "Phường trò ra hề còn phải bôi một
lượt nhọ vào mặt chứ họ đóng vai đảng viên Xã hội không hề dính một tí sơn
nào của Quốc tế thứ hai". Đó là "một số rất lớn cụ lang, ông lang, chú lang,
anh lang đều là tổ sư, thánh sư, tiên sư và kỹ sư của nghề bịp", "dao cầu của
mấy thầy chém người như chém ngoé", "giết người lấy của là xong, các thầy
liền mở thêm hiệu "xuất thần mã xa", như vậy vừa "được lợi tiền bán thuốc",
"mà họ chết thì thầy lại được cả tiền cho thuê xe đưa họ xuống dưới suối
vàng", đó là mấy mụ đàn bà "buôn son bán phấn, không chồng không con,
bây giờ tuy đã về già hết duyên mà trong nhà cũng vẫn là nơi họp khách năm
châu, chiêu người bốn giống", ấy thế mà một bọn nhà nho vô liêm sỉ dám ca
ngợi loại đàn bà đó là "cõi tục cốt cách tiên, hiếu hạnh sắc tài Chu thái hậu;
người trần tâm tính Phật, nghi dung đức lượng Tống nguyên phi"; đó là mấy
kẻ làm nghề thuốc hạ bộ "xứng đáng treo làm câu đối hai câu "Hán tự chẳng
biết Hán, Tây tự đếch biết Tây" của ông Tú Xương", "mả tổ của hắn chỉ có
ống thụt, không có quản bút", ấy thế mà dám "táo bạo vác cái bằng sơ học
yếu lược để theo vợ vào làng báo”; cuối cùng đó là những bậc "thượng lưu
vẫn vui vẻ khuyên vợ cắm sừng lên đầu mình, muốn chóng thăng quan tiến
chức còn cố cưới thêm nàng hầu để chuyên giúp mình vào việc đó nữa", hoá
ra "cái chuyện mọc sừng... chẳng những họ không cho thế là nhục, họ còn lấy
thế làm vinh nữa chứ"! Vũ Trọng Phụng đã từng tập hợp và tố cáo những bộ
mặt đểu cáng bịp bợm của lũ công giới và thương giới của bọn quan lại Pháp,
Nam, trong cái ấp Tiểu Vạn trường thành của nghị Hách, còn ở đây Ngô Tất
Tố lần lượt điểm danh từng loại một, đóng cho chúng những dấu ấn nguyền
rủa muôn đời để mỗi khi chúng ra cửa này vào cửa kia, đeo mặt nạ giở trò
đánh tráo lộn sòng thì quần chúng sẽ vạch mặt chỉ trán.
Ngay từ đầu những năm 30, Ngô Tất Tố đã đứng trên lập trường của
chủ nghĩa hiện thực phê phán. Với khí tiết của nhà nho yêu nước và tiến bộ
sống gần quần chúng, với trí tuệ sắc xảo và nhiệt tình chiến đấu của một ngòi
bút châm biếm, Ngô Tất Tố đã tấn công vào chủ nghĩa thực dân kiểu cũ trên
một số vấn đề cơ bản, đã vạch trần những chính sách ngu dân, mị dân và mọi
thủ đoạn thâm độc nhằm làm cho thanh niên rơi vào tâm lý tự ti dân tộc hoặc
dần dần sa vào con đường truỵ lạc. Đó là phong trào "chấn hưng Phật giáo"
và truyền bá mê tín dị đoan (Kiểu đất ở phố Hàng Trống, Phải hỏi ngôi đền ấy
thờ ông nào đã?, Họ lại kiếm ăn vào nắm xương khô), phong trào phục cổ,
bảo tồn quốc tuý (Mười năm nữa báo chí Bắc Kỳ sẽ cổ động đến thò lò quay
đất, Hỡi đồng bào Việt Nam, chúng ta nên vẽ mình cho con cái chúng ta, Cái
ngày quốc tuý), phong trào "Âu hoá", "vui vẻ trẻ trung" (Xin nhờ Lơmuya Cát
Tường việc này nữa) và những phong trào cải lương, những thủ đoạn mị dân
ở nông thôn và thành thị (Quan tỉnh Bắc Giang đối với ba ngàn cơ dân).
Bước sang thời kỳ Mặt trận Dân chủ, nhờ hậu thuẫn phong trào cách
mạng của quần chúng và ảnh hưởng của sách báo cộng sản, tư tưởng yêu
nước của Ngô Tất Tố nhiều lúc được thể hiện một cách mạnh mẽ, công khai
trở nên một vũ khí lợi hại, đánh thắng vào bọn cướp nước và bán nước.
Trước 1936, tư tưởng yêu nước của nhà văn chỉ được thể hiện một cách gián
tiếp qua việc phê phán bọn bồi bút nịnh Tây (Quỳnh, Vĩnh), bọn mất gốc (Bùi
Quang Chiêu, Nguyễn Phú Khai). Bùi Quang Chiêu đã đặt tên cho tờ báo chữ
Pháp của y là "Bản xứ diễn đàn" (Tribune Indigène)! Ngô Tất Tố bình luận: "Ở
trong đất nước mình, nói với người nước mình, mà cũng dùng chữ "bản xứ"
để tặng cho mình hay tặng cho người cùng nước với mình, ấy là ngu dốt" (Hai
ông Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phú Khai chẳng phải là hết thảy người Việt
Nam). Ông cũng công kích cái thói sùng ngoại, đặt biệt hiệu theo điển tích
nước ngoài (Thục Điểu chết) thờ thần cũng "ưa thần ngoại quốc": "Quan
Công có người thờ, Thiền Hậu có người thờ, cho đến Mã Viện, Sầm Nghi
Đống là kẻ thù với mình mà cũng có người vẫn thờ!" (Người Tàu gán cho mẹ
Tống Mỹ Linh sang Việt Nam). Tư tưởng yêu nước của Ngô Tất Tố được thể
hiện da diết hơn trong các truyện và tiểu thuyết lịch sử viết vào năm 1935
(Lịch sử Đề Thám, Vua Hàm Nghi bảo với việc kinh thành thất thủ). Một trong
những hạn chế của văn học hiện thực phê phán là không trực tiếp đánh thẳng
vào bọn thực dân cướp nước, kẻ thù số một của dân tộc. Trong những điều
kiện mới của thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Ngô Tất Tố đã phần nào khắc phục
được hạn chế nói trên. Ông trực tiếp lên án những luận điệu tuyên truyền lừa
bịp của bộ máy tuyên truyền thực dân cũng như của lũ bồi bút Quỳnh, Vĩnh về
cái gọi là "công ơn khai hoá văn minh của nước Đại Pháp đối với dân An
Nam"; "Chẳng ai dùng đến chữ "đánh chiếm”, người ta bảo đó là công cuộc
rất nhân đạo của mấy nước văn minh vì thiên chức mà khai hoá cho những
dân tộc dã man... Trăm lần đúng cả trăm. Hễ mà mở miệng trước mặt lủ dân
bị chinh phục, mấy ông văn minh không bao giờ quên cái giọng chứa chan
nhân nghĩa ấy. Tôi đương thành tâm kính phục cái nhân đạo của mấy ông đó
và muốn tin rằng ở trên đời này chỉ có cuộc khai hoá, không bao giờ có cuộc
đánh chiếm. Thế nhưng tôi vẫn còn phân vân và tự hỏi thầm: "Nếu quả như
vậy thì ra cái trận Âu châu đại chiến 1914 cũng do mấy ông Nhật-nhĩ-man
định khai hoá nước Pháp à?” (Vậy thì An Nam cũng phải có thuộc địa chứ?).
Để che giấu chính sách đàn áp và phân biệt chủng tộc đối với người bản xứ,
toàn quyền Brévièr và những tên tư bản mại bản kiểu Bùi Quang Chiêu không
ngớt rêu rao khẩu hiệu "Pháp - Việt đề huề", "Pháp - Việt hiệp tác thân thiện".
Nhưng theo Ngô Tất Tố, "một kẻ nằm giường, một người nằm dưới đất, một
kẻ ăn thịt, một người gặm xương" thì làm thế nào mà thân thiện được? "Dân
quê chúng ta sống trong cảnh u uất, tối tăm, chịu thiếu thốn chật hẹp về công
lý, nhân đạo đã quen", nên họ coi những "ông Tây", "công chức của Chính
phủ" là "những giống sài lang bạo ngược. Ấy pháp luật và chính trị xứ này đã
huấn luyện cho chúng ta một cái tinh thần đặc biệt ấy!... "Hiệp tác" sinh ra
"hiếp tác" cũng vì thế!" (Hiệp tác hay hiếp tác?). Có lúc Ngô Tất Tố đã dũng
cảm tố cáo cái chính sách cướp đoạt trắng trợn cũng như những thủ đoạn
bóc lột dân chúng thuộc địa một cách dã man của chính quyền thực dân.
Đông Dương xưa nay "vẫn đứng đầu trong các việc đóng góp với "mẫu quốc"
về quân phí, về quốc trái, về lạc quyên. Lại những con số xuất cảng, nhập
cảng hàng năm cộng nên con số kếch sù. Những quan lại công chức hàng
năm biết bao nhiêu gia đình khi nheo nhóc kéo sang, chẳng bao lâu đã phởn
phơ kéo về, hành lý kĩu kịt!" (Cho no đủ đã). Không chỉ tố cáo những thủ đoạn
tuyên truyền lừa bịp, ngu dân, mị dân, Ngô Tất Tố còn vạch trần những âm
mưu đầu độc bằng rượu, thuốc phiện, nhà săm, vi trùng hoa liễu nhằm ru ngủ
và làm tê liệt ý chí phản kháng, nhằm đẩy thanh niên vào con đường trùỵ lạc,
nhằm đưa một dân tộc đến chỗ diệt vong: "Đối với dân tộc "dã man" đã bị
những người văn minh chinh phục, thuốc phiện là một đạo giáo tốt đẹp có thể
đưa họ đến cõi cực lạc. Đức chúa Phù dung là đấng vạn năng, ngài đủ quyền
phép làm cho con chiên của ngài trở nên hạng người từ bi ngoan ngoãn. Bởi
thế hết thảy những người tu theo tôn giáo "a phiến" đều chừa được tội "hăng
hái", "tiến thủ", nhất định để nghĩa vụ loài người đến kiếp sau mới làm. Giả sử
đạo giáo ấy mà được lan rộng thỉ những dân tộc "dã man" không bao giờ còn
xảy ra chuyện chính trị. Họ sẽ im lặng mà đem nòi giống lên cõi cực lạc để
hưởng cái hạnh phúc "tịch diệt" (Nhà đoan với cuộc phòng thủ Đông Dương).
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ngoài lũ thực dân, Ngô Tất Tố còn đả kích
bọn quan lại, địa chủ, tư sản, nghị viện cùng với các tổ chức bịp bợm của
chúng như Hội Khai trí tiến đức, Viện dân biểu bù nhìn, mặt khác, hễ có dịp là
ông trình bày nỗi thống khổ của dân quê và tìm cách bênh vực những người
lao động bị áp bức (Một cái thảm trạng, Làm no hay là cái ăn trong những
ngày nước ngập). Những tấn bi kịch ngắn, sinh động trong các tiểu phẩm đã
bổ sung cho cái cảnh sưu thuế trong Tắt đèn và cái cảnh xôi thịt trong Việc
làng và Tập án cái đình, làm thành một bức toàn cảnh về nông thôn và nông
dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Ngô Tất Tố đánh địch bằng một nghệ thuật châm biếm sắc xảo, đậm đà
màu sắc dân tộc. Khác với tạp văn của Lỗ Tấn giàu chất trữ tình, dường như
tự đáy lòng mà viết ra, chan hoà máu và nước mắt, nhiều khi Lỗ Tấn đem bản
thân mình ra mổ xẻ trên trang sách; phong cách châm biếm trong tiểu phẩm
của Ngô Tất Tố là sự kết hợp hài hoà cái thâm thuý của một nhà nho trí thức
với cái vui hồn hậu, lạc quan, tính chiến đấu mạnh khoẻ của văn học dân
gian. Biện pháp hình tượng hoá trong văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố thường
là mượn những chuyện có sẵn trong sử sách hoặc trong cuộc sống, những
phong dao ngạn ngữ hoặc tiểu thuyết dân gian để làm nổi bật vấn đề mình
định viết, vốn là một nhà nho nên Ngô Tất Tố hay liên hệ chuyện đời xưa để
so sánh với việc hiện nay (Ông thống sứ với trận mưa hôm nọ, Ông Pagès
chắc có đọc qua Trang tử, Bãi nước bọt trên mặt ông tuần phủ, Bộ thuộc địa
với anh chàng Đặng Bá Đạo...). Sự so sánh thật đắt đôi khi đã gây một ấn
tượng mạnh mẽ vì nó tạo cho tác phẩm một chiều sâu tư tưởng và hình
tượng hoá đối tượng đả kích thành một nhân vật văn học quen thuộc vốn xưa
nay đã bị người đời nguyền rủa. Bình luận về thái độ quay quắt, tráo trở của
Phan Trần Chúc, chủ nhiệm tờ Tân Việt Nam, kẻ đã chui vào chi nhánh đảng
Xã hội Pháp (SFIO) để tranh cử nghị viện, hô hào "anh em thợ thuyền", "chị
em lao động" rồi sau đó lại "dỗi với chủ nghĩa xã hội mà quay ra quảng cáo
cho đế quốc Nhật", Ngô Tất Tố viết: "Cái cảm tình của họ đối với quần chúng
khi ấy thật chẳng khác gì cảm tình của vợ Chu Mãi Thần đối với chồng khi
thấy chồng nghèo mà xin đi lấy người khác. Giả sử đế quốc Nhật nuôi sống
được họ thì họ đã đặt quần chúng xuống dưới gót chân từ lâu rồi. Chỉ vì bợ
đỡ đế quốc Nhật cũng chẳng được ăn là bao, cực chẳng đã họ lại quay vào
mặt thợ thuyền lao động mà hô anh em, chị em. Lần này quần chúng không
những không thưa, lại cho họ những bài học... đáng "tỉnh người ra"... Thấy cái
cảnh "có hô mà không có ứng" của họ thật cũng đáng thương. Nhưng bát
nước đã hắt xuống đất, hốt lại sao được! Vợ Chu Mãi Thần ngày xưa, chỉ có
thế mà xấu hổ đến phải tự tử” (Báo Tân Việt Nam và vợ Chu Mãi Thần).
Trong những bài văn tiểu phẩm, Ngô Tất Tố đã ít nhiều thực hiện được
yêu cầu điển hình hoá của nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Điều cần chú ý là
điển hình trong văn tiểu phẩm khác với điển hình trong kịch, trong truyện vừa,
tiểu thuyết. Ở đây hình tượng điển hình có khi không nằm trong một bài mà
phải tập hợp một số bài lại mới thấy được một cách đầy đủ. "Những cái mà
tạp văn của tôi miêu tả thường là một cái mũi, một cái miệng, một sợi lông
nhưng hợp lại thời cơ hồ đã thành một hình tượng đầy đủ rồi". Trong tiểu
phẩm của Ngô Tất Tố, những hình tượng của Phạm Huy Lục, Hoàng Trọng
Phu, Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh, Hítle... là những hình tượng được xây
dựng khá công phu: mỗi bài viết dường như tập trung soi sáng nét tiêu biểu
nào đó của một tính cách đa dạng và phức tạp.
Lập tường của một trí thức yêu nước thương dân đã làm cho tiếng cười
của Ngô Tất Tố trong văn tiểu phẩm có nội dung xã hội sâu sắc, lành mạnh,
lạc quan và nói chung, lúc nào cũng nhằm trúng đích, bắn chính xác vào kẻ
thù của dân tộc và của quần chúng bị áp bức, bóc lột. Ngô Tất Tố là một
người trước sau thuỷ chung với cách mạng. Tuy nhiên, cho đến những năm
tiền khởi nghĩa, ông vẫn chưa đứng hẳn vào hàng ngũ cách mạng. Ông chưa
thấy được lực lượng hùng hậu của phong trào quần chúng, có lúc đưa ra
những biện pháp cải lương tư sản, cá biệt, có lúc bị hấp dẫn bởi những sách
báo ca ngợi phong trào Duy tân của Nhật Bản... Tuy có những hạn chế trong
thế giới quan nhưng có thể trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Ngô Tất Tố đã
chiến đấu như một người bạn đường đáng tin cậy của giai cấp công nhân.
Trích sách Văn học Việt Nam 1930 - 1945
Nxb Giáo dục, H. 1997
TIỂU PHẨM VĂN HỌC VÀ BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐHÀ MINH ĐỨC
Trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại, Ngô Tất Tố là một nhà văn
hiện thực có tầm cỡ lớn. Ông cũng là một nhà báo với những tiểu phẩm báo
chí bất hủ và được xem là "tay ngôn luận xuất sắc trong đám nho" (Vũ Trọng
Phụng). Ngô Tất Tố cùng thế hệ với Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Khắc Hiếu.
Năm 22 tuổi đỗ đầu xứ. Ông là một nhà nho uyên thâm có nhiều tác phấm
nghiên cứu về triết học cổ Trung Quốc với quan điểm tiến bộ. Ông cũng là
một dịch giả có hạng, được tin cậy với các tác phẩm Đường thi, Hoàng Lê
nhất thống chí và Suối thép. Ngô Tất Tố có những đóng góp quan trọng cho
tiểu thuyết và phóng sự thời kỳ văn học 1930 - 1945. Nông thôn Việt Nam, mà
trực tiếp là vùng đất quê hương ông được ông miêu tả với ngòi bút phân tích
sâu sắc, thái độ yêu thương gắn bó với người lao động nghèo khổ và sự phê
phán mạnh mẽ giai cấp phong kiến bóc lột. Tác phẩm Tắt đèn được Vũ Trọng
Phụng nhận xét "Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội, hoàn toàn
phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng
thấy", Nguyễn Tuân cũng viết: "Theo tôi tiên tri, thì cuốn Tắt đèn vẫn còn phải
sống lâu, thọ hơn cả một số văn gia đương kim hôm nay". Nhưng có lẽ nhận
xét sâu sắc nhất của Nguyễn Tuân là thuộc về nhân vật chị Dậu, tính cách
điển hình của tác phẩm. Trong cảnh đời cùng khổ, bóng tối bao bọc mịt mùng
vẫn có một con người dễ làm cho ta chia sẻ cảm thương, vẫn có một tấm
lòng làm cho ta tin cậy, đó là chị Dậu: "Trên cái tối giời, tối đất của đồng lúa
ngày xưa, thấy sừng sững cái chân dung lạc quan của chị Dậu". Và chính
Ngô Tất Tố ở thể loại phóng sự cũng đã tạo được thành công xuất sắc. Tập
án cái đình và phóng sự Việc làng là những trang viết phô bày sự thực của
làng quê bị trói buộc trong những hủ tục từ bao đời và cũng bộc lộ thái độ phê
phán thẳng thắn của nhà nho tiến bộ muốn giải thoát nông thôn khỏi những
ràng buộc lâu đời. Nhiều nhà xã hội học trong và ngoài nước đánh giá cao và
xem xét các tác phẩm trên như những tư liệu tin cậy và chứng tích của một
thời của nông dân Việt Nam thời kỳ trước cách mạng.
Trong cuộc hợp năm 1982 ở trường Đại học Harvard (Mỹ) với chủ đề
"Văn học Việt Nam giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới", tác phẩm Việc làng
của Ngô Tất Tố được đặc biệt quan tâm bàn luận. Giáo sư Phan Cự Đệ đã
trình bày tham luận khoa học về Ngô Tất Tố nhà nghiên cứu người Pháp
Buđaren đề cập đến cái mà ông gọi là chủ nghĩa Đình - Đình chi phối kìm
hãm nông thôn Việt Nam trong hủ tục. Có đại biểu xem tinh thần phê phán
của Ngô Tất Tố với nông thôn Việt Nam ngày xưa cũng giống như Lỗ Tấn với
xã hội Trung Quốc, Việc làng được đánh giá cao về tính chất chân thực
phong phú, về tư liệu và tư tưởng tiến bộ trong phê phán. Đề tài về Ngô Tất
Tố tạo được cảm hứng thảo luận sôi nổi trong cuộc hội thảo. Và ở một khía
cạnh khác Ngô Tất Tố lại có một đóng góp với tác phẩm Lều chõng. Cuốn tiểu
thuyết mang màu sắc lịch sử chưa xa lạ với cuộc đời hiện tại đã tái hiện chân
thực khung cảnh thi cử, lều chõng năm xưa mà "trường thi như sân khấu rạp
tuồng". Ngô Tất Tố không thi vị hoá chế độ thi cử cũ như một vài người viết.
Mộng làm quan tan vỡ, có kẻ khóc lóc, có kẻ say rượu chửi đổng... chuyện thi
cử một thời vinh quang, tủi nhục đã được chính một nhà nho, người trong
cuộc, miêu tả thẳng thắn, chân thực.
Ngoài những đóng góp về văn học, Ngô Tất Tố có những cống hiến
quan trọng trong hoạt động báo chí, đặc biệt là với tiểu phẩm văn học và báo
chí.
Tiểu phẩm văn học, báo chí của Ngô Tất Tố vừa mang đầy đủ đặc điểm
của tiểu phẩm báo chí lại vừa là những tiểu phẩm văn học. Gọi là tiểu phẩm
báo chí vì các tác phẩm đều khai thác một cách thời sự chuyện có thật trong
đời sống hàng ngày. Người và việc trong tiểu phẩm của ông thường có địa
chỉ từ báo Ngày nay, nhóm Tự lực văn đoàn đến các nhân vật như thống sứ
Tholance, thống đốc Pagès, rồi Phạm Huy Lục, Lê Ngọc Thiều, Trương Tửu.
Nói người thật việc thật chủ yếu không phải để ca ngợi mà đả kích, châm
biếm nên tính đấu tranh, khẩu khí bút chiến của các tiểu phẩm rất rõ rệt.
Nhiều tiểu phẩm văn học và báo chí kể cả hiện nay thường hay nêu đối tượng
để luận bàn và phê phán một cách chung chung với tinh thần phiếm chỉ (có
một cơ quan nọ, có một nhà hoạt động kinh tế...) nên tính chất giáp mặt đấu
tranh không mạnh mẽ. Ký văn học nhất là ký báo chí yêu cầu có địa chỉ xác
thực về người và việc. Tính thời sự của các tiểu phẩm văn học và báo chí của
Ngô Tất Tố rất kịp thời, mới mẻ, đồng hành với câu chuyện, sự việc đang diễn
ra. Tính luận chiến của tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố không
thu hẹp trong một địa hạt nào mà mở rộng trên nhiều phạm vi chính trị, xã hội,
văn hóa, đạo lý, thẩm mỹ... do đó tác dụng xã hội khá rộng rãi. Ngô Tất Tố
không viết tiểu phẩm để in trong sách hoặc những tạp chí hàng thárg, nhiều
tháng mà chủ yếu là trên báo hàng ngày, hàng tuần với tinh thần thời sự cập
nhật, ứng chiến. Với các bút danh Thục Điểu, Đạm Hiên, Thuyết Hải, Thôn
Dân, Tuệ Nhỡn, Hy Cừm Phó Chi, Xuân Trào, Lộc Hà... trên các báo Đông
phương, Thời vụ, Tương lai, Công dân, nhà văn Ngô Tất Tố đã nhân danh và
thể hiện đúng tư cách một nhà báo chính cống.
Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố cũng là tiểu phẩm văn học, có giá trị văn
học. Đương nhiên ông là nhà văn tài năng nên các loại hình sáng tác thường
mang đậm đà dấu ấn văn học. Song mọi việc cũng không hẳn phải theo luật
nhân quả ấy vì có nhiều người viết tuy không phải là nhà văn nhưng tác phẩm
vẫn có giá trị văn chương và ngược lại. Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố chất chứa
kiến thức văn chương tạo điều kiện để cho ông liên hệ, so sánh, cảm nhận
một sự việc, một con người dưới nhiều góc độ, vừa là sự đời, vừa là báo chí,
văn chương. Rồi hình ảnh ngôn từ đều có giá trị văn học.
Tuy nhiên điều nổi bật trong tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là tinh
thần đấu tranh mạnh mẽ cho công bằng xã hội, cho quyền sống của con
người. Phẩm chất ấy thể trong các bài viết tạo nên linh hồn và dũng khí của
ngòi bút. Ngô Tất Tố là nhà báo gắn bó thiết tha với vận mệnh của những
người nghèo khổ mà trực tiếp là những người nông dân ở vùng quê ông đang
từng ngày bị bần cùng hoá, bị bóc lột cho đến hơi thở tàn. Ngô Tất Tố cũng
am hiểu môi trường văn hóa thành thị. Ông không có điều kiện đi sâu vào tìm
hiểu những tệ nạn xã hội ở thành thị như Vũ Trọng Phụng, hoặc nhập cuộc
vào lớp dân nghèo theo kiểu tác giả Tôi kéo xe. Ngô Tất Tố trên cương vị một
nhà văn, nhà báo, một người hoạt động văn hóa đã phân tích về môi trường
chính trị và văn hóa của thành thị. Tinh thần đấu tranh mạnh mẽ không dè dặt
ngại ngùng những chuyện chướng tai gai mắt kể cả với những nhân vật tai to
mặt lớn trong xã hội. Với bút danh Đạm Hiên trên báo Thời vụ (1938) Ngô Tất
Tố bàn về sự hiệp tác Pháp - Nam, một phương châm đầy tính mị dân mà
một số nhà chính trị thực dân Pháp đã từng đề xướng. Tác giả vận dụng chất
châm biếm sâu cay khi so sánh hai thân phận, hai cảnh đời: "Cứ lý thuyết thì
rất hay nhưng có một điều rất khó là khi ngẫm xem thân thế của hai bên như
"một kẻ nằm giường, một người nằm dưới đất, một kẻ ăn thịt, một người gặm
xương" thì cái tinh thần thân ái còn lâu mới thực hiện được”.
Bọn thực dân Pháp kéo sang mảnh đất này không phải với thiện chí,
thiện tâm gì. Nhiều người ở bổn quốc vốn là tay bồi bếp, kẻ không công ăn
việc làm nhưng sang Đông Dương cũng vênh vang lên mặt nhưng thực chất
là vơ vét cho đầy túi tham. Ngô Tất Tố đã vạch trần sự thực "những quan lại
công chức hàng năm biết bao nhiêu gia đình khi nheo nhóc kéo sang chẳng
bao lâu đã phởn phơ kéo về, hành lý kĩu kịt". (Cho no đủ đã). Ngô Tất Tố phê
phán trực tiếp bọn thực dân Pháp qua các tiểu phẩm báo chí. Tính chất bất
nhất của Pagès trong việc trục xuất các nhà báo Diệp Văn Kỳ và Bùi Thế Mỹ
được tác giả chỉ ra "Thế ông thống đốc Pagès năm nay phản đối ông thống
đốc Pagès năm ngoái à?". Người Pháp có mặt ở đâu là ở đấy có chuyện đàn
áp, bắt bớ, nghi kỵ, thống sứ Tholance ra đi chắc chắn vì thế không gây nỗi
buồn, nỗi nhớ nào của dân chúng với sự chia tay nếu không nói là ngược lạ.
Ngô Tất Tố đã nhẹ nhàng mà thâm thuý lấy tích xưa để nói chuyện nay "Mồng
năm ngài mới đi, mồng bốn trời đổ mưa, đó là trời cũng tỏ ý cảm động để ngài
còn kịp ngó thấy. Vậy thì những hạt mưa rào hôm nọ có thể cho là một cuộc
tiễn chân Tholance đại nhân. Nó cũng linh nghiệm như những "trận mưa theo
xe" của Trịnh Hoằng, nhưng một đằng mưa trong khi đến, một đằng mưa
trong khi đi, khác nhau chỉ có chỗ đó" (Ông thống sứ với trận mưa hôm nọ, tr.
177).
Đề cập miêu tả nhân vật thực dân Pháp trên báo chí, trong văn học,
thực chẳng dễ dàng. Nếu không phải là ca ngợi mà châm biếm, đả kích thì
hậu quả dễ thấy là cuốn sách bị cấm, tờ báo bị đóng cửa và người viết thì bị
tù đày. Vì thế để đỡ phiền phức hơn là cần tránh hoặc phê phán một cách
gián tiếp, Ngô Tất Tố không lẩn tránh mà đề cập trực diện. Đối với người dân
nghèo của bản xứ người ta không thể nhớ đến tên của một công sứ, thống sứ
cụ thể mà chỉ gọi chung là ông Tây. Và đúng như Ngô Tất Tố đã chỉ rõ: "Chỉ
một cái danh từ ông Tây cũng đủ làm cho dân quê chúng tôi rùng mình khiếp
đảm mà tưởng tượng tới sự nóng nảy mạnh hơn của một ông sem đầm".
Thực ra thì từ năm 1930, Nam Xương trong vở kịch Ông Tây An Nam đã chỉ
ra một kiểu trí thức nô lệ, mất gốc là cử nhân Lân, tên Tây là Alphonse Lân. Y
học ở Pháp về, vào làng Tây và được gọi là ông Tây An Nam. Không cứ hình
thức phải "mắt xanh, mũi lõ" mà chủ yếu ở cái đầu óc nô lệ, sùng bái thực
dân, và thái độ coi thường nòi giống, quê hương bản địa. Tác giả đã gọi châm
biếm là "Ông Tây An Nam".
Ngô Tất Tố đã tỏ ra nhạy cảm khi chỉ ra cái thực chất ngôn từ của hai
chữ ông Tây. Ông Tây là sự quy tụ của mọi quyền uy hống hách, tàn ác; ông
Tây là nguyên nhân gây nên mọi sự ngang trái trên đời. Cũng vì thế mà khi
chị Dậu thắc mắc về việc phải đóng suất sưu cho người em chồng đã mất, lý
trưởng trả lời: "Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không biết".
Đúng, y chỉ là kẻ thừa hành, là tên nô bộc ngu ngốc và trung thành, còn
mọi việc đều là do ông Tây chỉ huy cai quản. Đề cập đến nhân vật thực dân
Pháp trong tiểu phẩm báo chí để châm biếm đả kích, Ngô Tất Tố đã dựa vào
không khí dân chủ thuận lợi của thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Mặt khác ông hiểu
rõ giới hạn mà mũi nhọn châm biếm có thể tiến công từ trực tiếp đến gián
tiếp. Chuyện cô Tây Hoẻn lấy Tây rất hóm hỉnh và thú vị khi tác giả chỉ ra văn
hóa hạ cấp của những tên lính thực dân lộ ra trong sinh hoạt hàng ngày.
Ngoài súng đạn, lưỡi lê và sự thô bạo ra người lính Tây này đã tìm đến
những cái gọi là mối tình theo cách "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã". Và đây là
đôi nét về cô Tây Hoẻn, một me Tây chính hạng: “Một anh Tây lính mủi to, râu
xồm, mình cao, bụng phệ dắt chiếc xe đạp đi bên cạnh một người đàn bà
phấn son sặc sỡ, quần áo lam, giày cao gót, chiếc ô xanh biếc chúc xuống bộ
mặt phấn bì mồ hôi loang lổ, bộ răng trắng nhom nhem khấp khểnh như rã
rụa với bộ môi cong khi cười nói" (tr. 255). Chồng cũ đòi trả của, cô trợn mắt
nói: “Thày me chúng nó, tôi lấy Tây thì tôi tức là đầm rồi, đứa nào vô phúc thì
động đến chân lông tôi mà chơi, thầy đừng lo" (tr. 257). Cô vẽ ra viễn cảnh
"Rồi tôi sẽ dắt díu cho lủ trẻ làng ta ra ngoài ấy, dạy dỗ cho tiếng Tây thông
thạo, phấn son vào, ăn mặc vào rồi mối manh cho khéo, bùa thuốc cho linh,
thay quyền cha mẹ chúng nó mà gả bán cho Tây thì phải biết là khá".
Viết về bọn thực dân Pháp, một đối tượng khó, phức tạp và nguy hiểm
mà khai thác được nhiều yếu tố từ ý tưởng đến hình tượng, tiến hành phê
phán từ nhiều mặt là một thành công đáng kể của tiểu phẩm báo chí của Ngô
Tất Tố. Tiếp tục tinh thần phê phán mạnh mẽ, ngòi bút của Ngô Tất Tố tiến
công vào bọn bù nhìn tay sai phong kiến. Trước hết là những tổ chức mị dân,
núp dưới chiêu bài dân cử như Viện dân biểu, Phạm Huy Lục Viện trưởng
Viện dân biểu Bắc Kỳ được Ngô Tất Tố giới thiệu những thành tích mang
nhiều nét khôi hài: “Ông lục đã hiến trái tim cho dân mà vẫn mạnh khoẻ như
thường", "không phải bênh vực quyền lợi cho dân mà cứ làm Phó hội trưởng
Hội Nhân quyền", "không học thuốc ngày nào mà là yếu nhân trong Hội thầy
thuốc", "nghe nói kiêm luôn phù thuỷ cao tay". Những người Phạm Huy Lục
làm sao có thể là đại diện cho quyền lợi của dân. Và không phải chỉ là một cá
nhân. Ngô Tất Tố đã phê phán Viện dân biểu, một tổ chức mị dân vô tích sự.
Trong tiểu phẩm Còn chờ gì nữa mà chưa giải tán Viện dân biểu? Tác giả đã
vận dụng rất khéo phương pháp đối chiếu, so sánh tác dụng của Viện dân
biểu để cuối cùng thừa ra tổ chức này:
"Chưa có dân viện tình cảnh dân chúng đã thế này. Từ khi có dân viện
tình cảnh dân chúng cũng vẫn thế này. Dân chúng không thể mong gì vào thứ
đồ chơi ấy. Giải tán đi là phải...
Khi Chính phủ hỏi đến dân viện chỉ được trả lời bằng những cái Chính
phủ nói, khi trình bày dân nguyện, dân viện chỉ được đào đạt những điều
Chính phủ muốn nghe.
Hai nhiệm vụ ấy các viên quan lại làm cũng thừa sức không cần phải
đợi đến Viện dân biểu". Rõ ràng tác giả Ngô Tất Tố trong việc phê phán thực
dân phong kiến không chạy theo từng việc nhỏ mà có cái nhìn bao quát vào
bức tranh chung của xã hội, nhìn vào bản chất của các hiện tượng. Ông chú ý
đến những chi tiết nảy sinh trong đời thường, những chuyện tưởng như vụn
vặt nhưng từ đó phát hiện ra nhiều vấn đề cơ bản của đời sống. Trên mặt
bằng của tinh thần phê phán xã hội của văn chương và báo chí đương thời,
Ngô Tất Tố nổi lên như một mũi nhọn xung kích, tả xung hữu đột. Ngòi bút có
dũng khí, tinh thần phê phán đúng đắn và không có một động cơ riêng tư nào
khiến cho các đối thủ dù cho có khác chính kiến cũng phải kiêng nể. Không
phải ngẫu nhiên mà ông Trần Minh Tước đã hết lời ca ngợi tài năng và nghĩa
khí của ngòi bút Ngô Tất Tố: "Ngòi bút của ông đồ nho Ngô Tất Tố đáng nhẽ
là ngòi bút của cái thế hệ sản xuất những câu "điền viên vui thú", hoặc có
muốn thiên về dân quê một cách thiết tha hơn thì bất quá và đáng lẽ ngòi bút
ấy chỉ viết những bài có cái tiêu đề cải lương hương chính mà mười lăm năm
trước đây chúng ta đã được đọc trên các báo. Không, nhà nho ấy đã vượt
khỏi cả thế hệ của mình. Người môn đồ của Khổng Mạnh này đã thở hít cái
không khí xã hội của K. Marx như tất cả những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh
đấu".
Thật là một nhận xét sắc xảo, đúng đắn, chỉ ra được dũng khí và tính
tiên phong của ngòi bút báo chí của Ngô Tất Tố. Con người được đào luyện
trong lò khoa cử của Khổng Mạnh lại không hề bị ràng buộc bởi cái cũ và biết
vượt lên hoà nhập với thời đại mới. Nhà báo Phan Quang đã tìm được một
cách giải thích đúng "Phải chăng từ cái Tâm mà Ngô Tất Tố viết nên những
tiểu phẩm sắc như dao, chính ngọn lửa bên trong đã thôi thúc ông chiến đấu
không mệt mỏi, đả kích không nương tay quan Tây và quan ta, cường hào và
hãnh tiến, bọn vô lại, và tất cả những điều chướng tai gai mắt trong xã hội và
trên chính trường thời ấy. Trong lòng không có lửa làm sao có thể viết nên
những bài có sức chiến đấu cao? Cái tâm không lành, làm sao truyền cảm?".
Ở con người Ngô Tất Tố là sự quy tụ hoà hợp của nhiều con người trong một
con người. Nhà nho Ngô Tất Tố với kiến thức học vấn uyên thâm về cổ học,
nhà trí thức với khuynh hướng xã hội tiến bộ, nhà văn hiện thực am hiểu và
bênh vực cho quyền lợi của người nông dân, nhà báo năng động với ngòi bút
giàu sức chiến đấu. Đương thời cũng có những nhà Nho có học vấn cao và
giàu thiện tâm nhưng không vượt được cái ngưởng, cái giới hạn mà thời đại
họ đã ràng buộc. Và đúng là Ngô Tất Tố "đã vượt khỏi cả thế hệ của mình".
Mặt khác tuy có những nét tương đồng với "những thiếu niên văn sĩ ở hàng
tranh đấu" nhưng cũng rất khác biệt vì những cây bút trẻ này làm sao có
được cái vốn kiến thức và kinh nghiệm dày dặn của một trí thức tích luỹ học
thuật trong cả cuộc đời. Ngô Tất Tố không như một số nhà nho đương thời để
vốn tri thức cũ thành sách vở xa lạ với cuộc đời hiện tại, Ngô Tất Tố đã biết
vận dụng có hiệu quả tri thức khoa học truyền thống vào văn chương và báo
chí hiện tại.
Nói tới tiểu phẩm báo chí là nói tới thể luận, luận bàn theo tư duy chính
luận, do đó dễ có khả năng rơi vào sự luận bàn trừu tượng, thậm chí tư biện.
Có người xuất phát từ ý tưởng chủ quan, từ vấn đề cho trước và thể hiện qua
tiểu phẩm. Điểm xuất phát của tiểu phẩm Ngô Tất Tố là cuộc sống. Ngòi bút
của ông là của người đương thời có mặt, quan sát, lắng nghe và chọn lựa
những hiện tượng tiêu biểu để khai thác, phân tích. Có một cái gì đó rất trực
tiếp của hơi thở của đời sống phả vào trang viết. Ngô Tất Tố khai thác nhiều
chất liệu của nông thôn, thị thành để luận bàn, chủ yếu là những hiện tượng
xã hội bất công, chướng tai gai mắt, những nhân vật phản diện mà thành tích
của họ như một biếm hoạ, những đau khổ bi kịch của lớp dân nghèo. Các tiểu
phẩm Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập, Bắc Ninh cầu cứu,
Một cái thảm tang, Họ vẫn ăn vào cái xác chết là những trang viết chân thực
và giàu sức tố cáo. Có trường hợp chất liệu kết hợp với cái thực, có trường
hợp cái thực lại trội lên làm nên cho hình tượng. Tác phẩm Làm no hay cái ăn
trong những ngày nước ngập tuy mang chất châm biếm nhưng bên trong lại
là nỗi xót xa thật chạnh lòng. Cái ăn của con người đã được quy định trong
nếp sống không thể lẫn lộn đến mức điên dại ăn đất sét, ăn những thứ phế
thải của loài người như cùi mít, xơ mít, bã đậu vứt nơi xó chợ, đầu cầu.
Ngô Tất Tố đã chọn lọc những hiện tượng tiêu biểu để phân tích, phê
phán. Với ngòi bút sắc xảo của mình Ngô Tất Tố đã thâu tóm và đánh trúng
vào bản chất của hiện tượng báo Ngày nay. Ngày nay - một tờ báo ngoài
phần đóng góp chống lại những hủ tục phong kiến và cổ vũ cho cái mới trong
đời sống lại có nhiều hạn chế, nhiều chuyện đáng bàn. Ngô Tất Tố muốn phê
phán thói mơn trớn, màu mè của một số cây bút Ngày nay dễ làm lẫn lộn
đúng sai, hay dở. Ngô Tất Tố cho rằng mấy ông ở Ngày nay "sốt sắng" với
việc giáo dục "đánh phấn, xoa nước hoa, lựa màu quần áo để câu nhử bạn
đọc phụ nữ", "đem giọng trào phúng pha vào những chuyện quan hệ, khiến
cho trong óc độc giả, chuyện quan hệ hoá ra chuyện khôi hài. Cố nói sai lạc
sự thật, khiến cho trong óc độc giả không thể phân biệt phải trái. Ấy là những
ngón sở trường của mấy ông ấy" (Đừng giở những ngón ấy ra nữa tôi can
mấy ông Ngày nay, tr. 121).
Ngô Tất Tố là một tác giả có óc phân tích sắc xảo thẳng thắn không né
tránh một thế lực nào kể cả những gì rằng buộc với mình về hệt tưởng cũng
như sinh hoạt hàng ngày. Nhiều tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đã chỉ rõ
bản chất của khuynh hướng suy tôn Khổng giáo của Quỳnh, Vĩnh và nhà xuất
bản Alexandre de Rhodes đề xướng: "Chính nó đã làm cho nước Việt Nam
trở nên một nước có văn hóa rồi chính nó đã đưa Việt Nam đến cõi diệt
vong".
Với giọng trào phúng thâm thuý sâu cay vừa có tính triết lý vừa là suy
nghĩ về thói đời ngang trái, Ngô Tất Tố chỉ ra hàng chục, hàng trăm thứ rởm
khôi hài ở kẻ cầm quyền, bọn giàu có, bọn lừa đảo. Có khi mọi việc bắt đầu từ
một từ ngữ nhưng đằng sau lại là một trò cười, một hài kịch. Hiệp tác hay
hiếp tác rồi đánh chiếm hay khai hoả. Chỉ một cặp từ ngữ thôi nhưng lại là
một trò lừa bịp. Ngay từ đầu thế kỷ bọn thực dân Pháp đã trương lên chiêu
bài nước Pháp văn minh đi khai hoá các dân tộc thuộc địa. Hai chữ khai hoá
như mang theo thiện chí, như san sẻ cửa nhà để giúp người nhưng thực chất
là xâm chiếm, là trò bạo lực: “Chẳng ai dùng đến chữ "đánh chiếm", người ta
bảo đó là công cuộc rất nhân đạo của mấy nước văn minh vì thiên chức mà
khai hoá cho những dân tộc dã man... Trăm lần đúng cả trăm. Hễ mà mở
miệng trước mặt lũ dân bị chinh phục, mấy ông văn minh không bao giờ quên
cái giọng chứa chan nhân nghĩa ấy. Tôi đương thành tâm kính phục cái nhân
đạo của mấy ông đó và muốn tin rằng ở trên đời này chỉ có cuộc khai hoá,
không bao giờ có cuộc đánh chiếm. Thế nhưng tôi vẫn còn phân vân và tự hỏi
thầm: "Nếu quả như vậy thì ra cái trận Âu châu đại chiến 1914 cũng do mấy
ông Nhật-nhĩ-man định khai hoá cho nước Pháp à?" (Vậy thì An Nam cũng
phải có thuộc địa chứ?). Thật thâm thuý và cách dẫn vấn đề kết thúc đến bất
ngờ. Ngọn bút châm biếm của Ngô Tất Tố có nhiều giọng điệu khác nhau. Có
khi là tấn công trực diện. Phê phán tệ nạn tham nhũng của bọn quan lại, Ngô
Tất Tố đã sử dụng nhiều cách viết khác nhau từ lý thuyết để chỉ ra một kinh
nghiệm, một phương pháp đấu tranh: "Lòng tham là thiên tính của loài người
cũng như sự dữ tợn là thiên tính của giống hùm beo sư tử. Cái lòng tham ấy
có bành trướng được ở quan trường chẳng qua là dân đã xử với quan nhã
quá. Giả sử dân nào cũng như dân hạt Yên Định, gặp một việc gì ám muội,
không thèm kiện cáo lôi thôi, cứ việc rủ nhau thật đông, đến tận cửa quan hỏi,
thì lần sau dẫu đem tiền nấu súp mà đổ vào miệng, các ông ấy cũng không
dám làm. Hùm beo sư tử ở rạp xiếc có dữ tợn đâu?” (Biểu tình ở Thanh Hoá,
tr. 121).
Có lúc Ngô Tất Tố lại vận dụng một cách nói gián tiếp mỉa mai sâu cay
nhàm phê phán những tệ nạn xã hội. Bài viết Nhà Văn với cuộc phòng thủ
Đông Dương đã châm biếm tệ nạn thuốc phiện và những kẻ gây ra nói: "Đức
chúa Phù dung là đấng vạn năng, ngài đủ quyền phép làm cho con chiên của
ngài trở nên hạng người từ bi ngoan ngoãn. Bởi thế tất cả người tu theo tôn
giáo "A phiến" đều chừa được tội "hăng hái", "tiến thủ", nhất định để nghĩa vụ
loài người đến kiếp sau mới làm. Giả sử đạo giáo ấy mà được lan rộng thì
những dân tộc "dã man" không bao giờ còn xảy ra chuyện chính trị. Họ sẽ im
lặng mà đem nòi giống lên cõi cực lạc để hưởng cái hạnh phúc "tịch diệt"" (tr.
340).
Và điểm cuối cùng cần nói tới là nghệ thuật ngôn từ. Đọc tiểu phẩm
Ngô Tất Tố người đọc như bị lôi cuố vào câu chuyện, vào cảnh ngộ để rồi có
cùng một thái độ với tác giả trước sự việc. Một trong những yếu tố tạo nên
sức hấp dẫn chính là ngôn từ và ma lực của nó. Cách đặt tên tít của các tiểu
phẩm đều hấp dẫn, gợi mở. Một số nhà báo hiện nay cho rằng Ngô Tất Tố có
một cách đặt tên bài độc đáo mới mẻ, gọi theo thuật ngữ báo chí là "rút tít"
hiện đại: Hiệp tác hay hiếp tác?, Còn chờ gì nữa mà chưa giãi tán Viện dân
biểu? Ông Pagès chắc có đọc qua Trang tử, Họ vẫn ăn cái xác chết, Một
người oan, một người không oan. Dạ dày Nam không tốt bằng dạ dày Bắc,
An Nam lại sinh thánh, Đa tạ ông thần sốt rét...
Ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đã kết hợp được nét sắc
nhọn mạnh mẽ của ngôn ngữ tiểu phẩm với chất thâm tuý, nhuần nhị, hàm
súc của ngôn ngữ văn chương. Dường như ở bất kỳ tiểu phẩm văn học và
báo chí nào người đọc cũng thấy dụng công của tác giả về mặt ngôn từ. Ngôn
ngữ không chỉ nhằm biểu đạt những ý tưởng một cách thông thường mà còn
tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và kiến trúc nội dung của tác phẩm. Bày
tỏ thái độ của một nhà văn hiện thực với văn phái Tự lực văn đoàn, Ngô Tất
Tố đã sáng tạo nên một cái từ hay cộng với sự tham gia đắc lực của ngôn
ngữ nghệ thuật. Nội, cô gái trẻ bỏ nhà ra đi và Ngô Tất Tố đã chỉ cho gia đình
cái hướng để đi tìm: Sao không hỏi Tự lực văn đoàn? "Phải mỗi lúc đẻ một
con gái nuôi được mười sáu tuổi để đọc Đời mưa gió, Đoạn tuyệt và Lạnh
lùng bây giờ tự nhiên đoạn tuyệt với gia đình mà đi tìm cảnh lạnh lùng trong
đời mưa gió thì ai mà không bồn chồn nuối tiếc. Cái chân lý cô Nội đương đi
tìm đó chính là chân lý rất chắc - chứ không lép - Tự lực văn đoàn đã truyền
bá. Bởi muốn truyền bá cái chân lý ấy để cho đàn bà khỏi phải ở yên với
chồng, con gái đến thì khỏi phải ở yên với cha mẹ, cho nên cái văn đoàn ấy
mới có rất nhiều tác giả cô động cho nó” (tr. 461). Thực ra thì trong dòng văn
học thời kỳ 1930 - 1945, các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao đều là bậc thầy của nghệ thuật trào phúng. Nguyễn Công Hoan,
Nam Cao như dồn chất trào phúng, châm biếm vào truyện ngắn. Phóng sự,
tiểu thuyết, đặc biệt là Số đỏ như thâu tóm được mọi giọng cười đưa vào tác
phẩm. Nghệ thuật châm biếm lại là phẩm chất quan trọng của tiểu phẩm văn
học vào báo chí của Ngô Tất Tố. Những cây bút tiểu phẩm báo chí văn học
xuất sắc như Nguyễn Ái Quốc, Lỗ Tấn... đều có cách trào phúng, châm biếm
đặc sắc. Ngô Tất Tố thường hướng mũi tiến công và cảm hứng phê phán vào
những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Chất châm biếm, trào phúng của tiểu phẩm
văn học và báo chí Ngô Tất Tố thâm thuý, đánh trúng đích, có chiều sâu văn
hóa cổ kim và ngôn từ nhiều màu vẻ. Dấu ấn cá nhân, dấu ấn của thời đại
đều đậm nét.
Ngô Tất Tố nhà văn, Ngô Tất Tố nhà báo, sự kết hợp hài hoà hai thiên
chức ở một con người, hai phẩm chất văn chương và báo chí ở một ngòi bút
đã góp phần tạo nên những tiểu phẩm xuất sắc của Ngô Tất Tố.
Tạp chí văn học, số 11, 1998
ĐẶC SẮC TRONG TIỂU PHẨM CỦA NGÔ TẤT TỐLÊ THỊ ĐỨC HẠNH
Ngô Tất Tố không chỉ là nhà văn hiện thực ưu tú và nổi tiếng với những
tác phẩm Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng, mấy cuốn tiểu thuyết lịch sử và sách
nghiên cứu phê bình dịch thuật mà trước khi là nhà văn ông đã là người viết
báo kỳ cựu và xuất sắc trước Cách mạng tháng Tám. Những tiểu phẩm của
ông tức những bài báo rất giàu tính nghệ thuật, là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa lý trí và hình tượng, thông qua những sự kiện, những tài liệu cụ thể, tạo
nên một sức thuyết phục mạnh. Tuy nhiên, những bài viết này chưa ai nghiên
cứu kỹ, chưa được chú ý nhiều về mặt nghệ thuật, nhất là nghệ thuật trào
phúng.
Chúng tôi nghĩ, ngày nay, cũng nên đánh giá lại một loại vũ khí nghệ
thuật có giá trị thời kỳ trước cách mạng để xem xét, tiếp thụ, giúp phần nào
vào việc làm phong phú thêm cho nền văn học của chúng ta. Bởi, xã hội mới
đâu phải đã thanh toán xong trong ngày một ngày hai, những kẻ thù của chủ
nghĩa xã hội, của hạnh phúc loài người, hoặc những kẻ không có ý thức
chống lại cái mới, những việc làm của họ, khách quan lại là tiêu cực. Mặt
khác, "cái mới cũng phải trải qua những khó khăn của sự trưởng thành, nó có
những giai đoạn thấp và những giai đoạn cao, có những sai lầm, thiếu sót và
những thành công, thắng lợi. Và tất cả những cái đó là miếng đất phong phú
của lối phê phán trong bông đùa, trong u- mua".
Vì vậy, trong khi đọc lại tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, chúng tôi chỉ lược
qua quá trình viết thể loại này của ông, rồi đi sâu vào giá trị nghệ thuật, đặc
biệt là nghệ thuật trào phúng.
Là một nhà nho nghèo, yêu nước và tiến bộ, Ngô Tất Tố rất ghét bọn
hủ nho. "Nếu Nho giáo còn để lại vết tích ở ông thì chính là những đạo đức
như sự tiết tháo, tính cương trực, lòng trong sạch không chịu hạ mình để xu
phụ, cầu cạnh kẻ quyền thế, không chịu khuất phục thế lực đồng tiền, bán rẻ
lương tâm và ngòi bút cho kẻ thống trị". Với một nhân cách như vậy, Ngô Tất
Tố không chịu bịt mắt, bưng tai trước những sự ngang trái, bất công, những
điều xấu xa, bỉ ổi đầy rẫy trong xã hội đương thời. Giữa lúc đấu tranh xã hội
gay gắt, căng thẳng, ông không thể chỉ nghĩ đến chuyện viết những tác phẩm
dài hơi mà thấy cần phải dùng ngòi bút trào phúng, tác chiến kịp thời "Mỗi
ngày một chuyện" về những điều mắt thấy tai nghe lúc ấy. Trong khoảng
1930 - 1940, theo sự thống kê chưa đầy đủ, Ngô Tất Tố đã viết khoảng 120
bài. Số này xuất hiện trên các báo: Phổ thông, Đông phương, Công dân, Hà
Nội tân văn nhất là Thời vụ, Tương lai dưới các bút hiệu: Thiết Khẩu Nhi,
Thục Điểu, Tuệ Nhỡn, Lộc Đình, Phó Chi, Thôn Dân và phần nhiều là Đạm
Hiên, Thuyết Hải, Xuân Trào.
Bằng các bài ngắn gọn, đanh thép trong mục "Nói mà chơi", "Nói hay
đừng", Ngô Tất Tố đã phanh phui những điều bất công, nhơ nhuốc nhan nhản
trong cuộc sống nước mắt, làm cho không ít kẻ phải nhục nhã, ê chề trước
dư luận công chúng, khiến cho cái xã hội đương thời ấy phải hiện nguyên
hình là một cái quái thai của chủ nghĩa thực dân phong kiến.
Theo Nguyễn Công Hoan, từ 1921 khi ở An Nam tạp chí, Tản Đà đã
mời Ngô Tất Tố ra Hà Nội cộng tác. Đời làm báo của Ngô Tất Tố bắt đầu từ
đó.
Đến những năm 1930 - 1931, trước phong trào đấu tranh của quần
chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đặc biệt là cao
trào Xô viết - Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp và bọn bù nhìn phong kiến liền đối
phó bằng cách đưa ra các chính sách mị dân, ngu dân, tìm cách ru ngủ và
truỵ lạc hoá thành niên, đánh lạc hướng suy nghĩ của trí thức... để phụ hoạ
trên báo chí, bọn bồi bút dấy lên các phong trào bảo tồn quốc tuý, vui vẻ trẻ
trung, cải lương hương chính, bàn về các chuyện bảo hộ, trực trị v.v... Với cái
nhìn nhạy bén, Ngô Tất Tố chĩa ngay ngòi bút trào phúng vào những chính
sách bịp bợm đó, cụ thể là vạch trần bộ mặt của bọn bồi bút trước hết là
Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong hai năm 1930, 1931 Ngô Tất Tố viết 17 bài thì có tới 7 bài về
Quỳnh, Vĩnh, tập trung nhất vào Phạm Quỳnh (Ông Phạm Quỳnh là bạc tình
lang, Ông Thông Reo dám tiết lộ bí mật của ông Quỳnh)... Bên cạnh đó là
những bài mỉa mai phong trào bảo tồn quốc tuý (Mười năm nữa báo chí Bắc
Kỳ sẽ cổ động đến "thò lò quay đất", Hỡi đồng bào Việt Nam, chúng ta nên vẽ
mình cho con cái chúng ta...), châm biếm bọn nghị viên bù nhìn (Bọn dân biểu
suy đới ông Phạm Huy Lục là phải), giễu cợt bọn buôn thần, bán thánh, đĩ
thoã (Kiểu đất ở phố Hàng Trống) v.v...
Bẵng đi từ năm 1932 đến hết năm 1936, hầu như Ngô Tất Tố không
viết tiểu phẩm (năm 1932, 1933, 1934 không có bài nào, năm 1935 có một
bài, năm 1936 có hai bài) mà chỉ thấy năm 1935, ông cho xuất bản ba cuốn
tiểu thuyết lịch sử (Lịch sử Đề Thám, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất
thủ, Gia đình Tổng trấn tả quân Lê Văn Duyệt) và năm 1937 cho đăng báo
(Tiểu thuyết thứ ba) một cuốn (Vua Tây chúa Nguyễn). Có thể, trong mấy
năm này, địch khủng bố dữ dội, kiểm duyệt khắt khe, văn học hiện thực và
báo chí tiến bộ chưa phát triển được, trong khi văn học lãng mạn đang bành
trướng. Trong tình hình ấy, Ngô Tất Tố không viết báo, tập trung viết tiểu
thuyết lịch sử để thể hiện tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc của mình.
Bước sang thời kỳ Mặt trận Dân chủ, do có điều kiện thuận lợi, đặc biệt
là việc thực dân phải bỏ chế độ kiểm duyệt sách báo (từ 1 - 1937 ở Bắc Kỳ),
những tiểu phẩm mang tính chiến đấu cao của Ngô Tất Tố ra đời dồn dập.
Chưa lúc nào ngòi bút của ông tỏ ra sắc xảo và dũng cảm bằng lúc này. Chỉ
trong vòng ba năm (1937, 1938, 1939), ông đã viết tới 90 bài (trong số 120
bài) với nhiều đề tài khác nhau.
Ông đi trực tiếp vào mâu thuẫn của xã hội lúc ấy, tức mâu thuẫn giữa
nhân dân và bọn thực dân xâm lược. Ông viết 17 trong số 91 bài để đánh trực
diện vào bọn thực dân Pháp, trước hết là chính sách kinh tế, nhằm vơ vét,
làm kiệt quệ đời sống của nhân dân ta (Dân vô sản với những ngày đã được
gọi là kinh tế phục hưng, Cho no đủ đã...). Rồi trong lúc bọn thực dân Pháp ra
sức khoe công lao "bảo hộ", "khai hoá" cho dân Việt Nam thì Ngô Tất Tố đem
phanh phui những trò bịp bợm, đầu độc nhân dân ta bằng rượu cồn và thuốc
phiện của chúng (Từ nay dân Pháp lại khô hơn dân An Nam thêm một tầng
nữa). Ông còn đánh thẳng vào đầu cả những tên thực dân cỡ lớn như
Tholance, thủ hiến Bắc Kỳ, Pagès, thống đốc Nam Kỳ những đòn chí tử (Ông
thống sứ với trận mưa hôm nọ, Ông Pagès chắc có đọc qua Trang tử...).
Sau bọn thực dân, Ngô Tất Tố chú ý nhiều và lên án rất mạnh bọn quan
lại, với mọi thủ đoạn tàn ác, dã man, nhất là sự bóc lột của chúng (Tương lai
với Thái Thượng lão quân, Dân quê chúng tôi muốn được tự do mất cướp...).
Với cái nhìn sắc xảo, ông đả kích vào mọi mắt xích của bộ máy cai trị
của thực dân Pháp. Ông châm biếm cay độc bọn dân biểu và viết bài về
chúng, riêng tên Phạm Huy Lục tới bốn bài (Tôi muốn cử ông Phạm Huy Lục,
Đã thấy ông Phạm Huy Lục...), ông lên án bọn "cứu thế độ dân", "có tài làm
cho bệnh lở ra" (Dao cầu thuyền tán), bọn lợi dụng bóng Phật để đi chim vợ
chim con ngưòi ta (Lời của Giản Ung đã được thực hành), bọn nhà báo nịnh
bợ (Kính mừng Việt Nam Tổ quốc và tiếc thay cho làng báo của nó), bọn nhà
văn "có tài cổ động cho chủ nghĩa khoái lạc về nhục dục" mà người ta quen
gọi tránh đi là "vui vẻ trẻ trung" (Không nên quên một bọn văn sĩ).
Bên cạnh đó, ông viết không ít bài sâu sắc, xúc động nói lên những nỗi
đắng cay, cực khổ của người nông dân trước cách mạng (Một cái thảm trạng,
Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập...). Hơn nữa, người viết còn
vạch ra nguyên nhân thiếu đói và kích động tinh thần đấu tranh của nông dân
(Thế thì nhà báo là ông trời, Dạ dày Nam không tốt bằng dạ dày Bắc...). Ông
còn cổ động cho một nền âm nhạc tiến bộ, khơi dậy chí tiến thủ của thanh
niên (Tiếng đàn thần kinh) v.v...
Với cách nhìn, cách nghĩ ấy, Ngô Tất Tố xứng đáng được đánh giá cao
và là một trong những nhà văn, nhà báo tiến bộ nhất của thời kỳ Mặt trận Dân
chủ (1936 - 1939).
Đến tháng 9 - 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, bọn thực dân
Pháp lập lại chế độ kiểm duyệt ngặt nghèo hơn trước. Ngòi bút viết báo của
Ngô Tất Tố thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám coi như chấm dứt từ đó (mặc
dầu, đến tháng 10 - 1940, ông có viết thêm một bài dưới dạng truyện cổ tích,
nói lên ước mơ về một xã hội không có bóc lột, không có hư danh và ngôi
thứ: Suối hoa đào. Mãi đến năm sau cách mạng, Ngô Tất Tố mới chuyên ngòi
bút chiến đấu trên lĩnh vực báo chí sang ca ngợi, phản ánh những nét tươi
vui, lành mạnh trong chính sách mới (Quà tết bộ đội - 1949, Buổi chợ trung du
- 1949)... Nhưng chưa viết được bao nhiêu thì ông qua đời (1954).
Vấn đề không chỉ ở tấm lòng yêu thương và căm thù mãnh liệt, ở cái
nhìn sắc xảo, tinh tế, ở sự phát triển nhanh nhạy "mỗi ngày một chuyện" mà
điều khiến chúng ta đánh giá cao những bài báo của Ngô Tất Tố còn do nghệ
thuật trào phúng, lấy cái hài làm phương tiện chủ yếu. Cái hài ở đây mang
tính chất xã hội sâu sắc, khác với cái hài xa rời ý nghĩa xã hội, một nét điển
hình của mỹ học tư sản. Trong chính sách, nhiều khi những hiện tượng
dường như không có chút hài hước nào cả, nhưng với con mắt biết sáng lọc
của người nghệ sĩ, nó lại lấp lánh cái hài. Ngô Tất Tố biết sử dụng tiếng cười
làm vũ khí phê phán, có sức gợi cảm đặc biệt ở nhiều mức độ. Ở ông, có khi
tiếng cười như ngọn roi quất mạnh vào mặt đối thủ, có khi lại là sự mỉa mai,
giễu cợt, mới đọc qua tưởng như bông đùa nhẹ nhàng, nhưng sau mới ngấm
dần, càng ngấm càng đau.
Lối viết của ông giản dị, tự nhiên, nhưng giàu chất lý luận. Ông nói lý lẽ
trực tiếp với cuộc sống, nhưng không rơi vào công thức hoặc khái niệm trừu
tượng khó khăn.
Trong các bài viết, Ngô Tất Tố thường dùng những hình ảnh sinh động,
cụ thể, nhiều khi có khả năng gây cười, song vẫn giữ vững tính nghiêm túc và
tính chiến đấu mạnh mẽ.
Nếu như trong thủ pháp gây cười, Nguyễn Công Hoan hay dùng sự
cường điệu, phóng đại, thì Ngô Tất Tố lại ưa lối so sánh.
Ông dùng những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày để
so sánh, đối chiếu, làm nổi rõ sự thực về người, về việc mà ông nói tới.
Chẳng hạn, để phê phán Phạm Quỳnh với cái hiến pháp kỳ cục của hắn ("Lấy
ba quyền làm chủ là nước Pháp, triều đình Huế, dân An Nam"), Ngô Tất Tố
đem nhân vật chú Khán Ngốc ra làm người phán xét, coi cái hiến pháp ấy
như một "kiểu nhà chính trị" rồi so sánh nó với kiểu nhà "gỗ gạch" có ba cột
đối nhau, để kết luận: "Thế giới chả có kiểu "xây đắp" nào rành ra ba góc như
vậy? Rồi ông khen chú Khán Ngốc đã "không bị ông Quỳnh nhồi sọ" (Chú
Khán Ngốc nói chuyện ông Phó Quỳnh). Hoặc Ngô Tất Tố đem chuyện Phạm
Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh tranh cãi nhau về hai thuyết bảo hộ và trực trị để
so sánh với việc đánh bài Tây. Ông dùng hình ảnh "chị cái, chị con" để chỉ
Quỳnh, Vĩnh vừa nói lên được cái bề ngoài tưởng như đối lập nhau, nhưng
thực chất bên trong là cùng một giuộc, vừa vạch mặt chúng chỉ là những quân
bài của thực dân Pháp, không hơn không kém (Không phải đánh bốc, đánh
bài Tây đấy).
Ngô Tất Tố lại hay dùng điển tích trong khi so sánh, nhưng để so sánh
chuyện xưa với chuyện nay, lấy chuyện người này để nói người khác. Như
trong Ông thống sứ với trận mưa hôm nọ, tác giả sổ ra những điển tích về
mưa, về gió rồi để lại sự tích thế nào là "mưa theo xe" để cuối cùng chửi tên
thống sứ Tholance, hết hạn ở Đông Dương về nước, trời đổ một trận mưa,
rửa hết những rác rưởi nhơ bẩn mà nó đã làm ở Việt Nam. Có khi người viết
cứ so sánh một cách bình thản, dường như khách quan để cho người đọc tự
rút ra kết luận: Báo tân Việt Nam với vợ Chu Mã Thần. Lúc ông lại kết luận
một cách lửng lơ, giễu cợt, như "Đó là chuyện ở Trang tử và không hiểu ông
Pagès có biết chữ Tàu hay không, nhưng chắc có đọc qua chuyện ấy, cho
nên ngài mới làm đúng như hệt" (Ông Pagès chắc có đọc qua Trang tử).
Ngô Tất Tố còn hay dùng lối tỉ dụ để châm biếm một cách rất tài tình.
Trong bài Quan tỉnh Bắc Giang với ba nghìn cơ dân, ông chế giễu việc dân
đói lại đem phát chẩn lại đem phát chẩn nước mắm và phát quá ít bằng cách
thống kê số dân là 2842 người, số nước mắm là 5 thùng và bằng cách chia
như sau: Cách thứ I: cho mỗi người một ít; Cách thứ II: pha thêm nước lã;
Cách thứ ba: vẩy nước mắm vào mặt mỗi người rồi đọc chú; Cách thứ IV: cho
mỗi người ngửi một cái rồi về. Hoặc để đả kích chủ trương đánh thuế chó của
thực dân Pháp, ông vờ như tán thành việc đó, vì "Hữu thân tắc hữu tô", rồi
ông đá vào một chi tiết để người đọc thấy vấn đề mỉa mai nực cười. Ông bàn:
"Loài chó tuy hết thảy đều không có sản nghiệp, không có lương tháng, không
có nghề gì kiếm ăn, nhưng cũng có con sướng, con khổ. Khổ là chó nhà
nghèo, quanh năm ăn đói nhịn khát, sướng là chó nhà giàu, thường được no
bụng luôn luôn. Vậy mà nhất luật bắt mỗi đầu chó đều phải 4 hào, công sưu e
rằng không được công bằng" (Kêu thay cho mấy con chó Bắc Ninh). Cũng từ
đấy, tác giả gợi người đọc nghĩ đến chính sách thuế thân, một thứ thuế cực
kỳ vô nhân đạo do thực dân Pháp đặt ra.
Do phải viết trong tình hình kiểm duyệt khắt khe nên nhiều khi Ngô Tất
Tố phải sử dụng cả cách nói quanh co, mát mẻ, vừa khen đấy, lại vừa chê
đấy. Chẳng hạn, ông khen báo Grande Réforme đưa ra đề nghị trừ "nạn nhân
mãn", "bằng cách tuyệt đường sinh dục" là "một cách giải quyết đến tận gốc",
"cái giải pháp ấy giản dị lắm sao!", rồi "nhân đạo thay!". Sau đó ông vờ bàn
cách: "Cứ để cho nhà xăm nhà chứa và nhà cô đào tự do hoành hành thì vi
trùng hoa liễu có thể dần dần tiêu diệt cả dân tộc Việt Nam". Cuối cùng, ông
cho rằng ý kiến này không được, vì "ở xứ Đông Dương cũng cần có người
Việt Nam để làm cu li khai mỏ, lấy mủ cao su và vỡ rừng hoang cho những
nhà đại điền chủ" (Phải chừa lại số người làm cu li). Có lần ông lên tiếng:
"Chúng tôi rất lấy làm cảm động về lời nói "thiết tha, thành thực" của "quan
toàn quyền Briévié" "mong cho một người dân nghèo nhất xứ Đông Dương
cũng có một bát gạo thứ hai". Liền đó, ông phân tích: Đông Dương chính là
"bờ xôi ruộng mật" hàng năm bao nhiêu gia đình công chức Pháp "nheo nhóc
kéo sang" ít lâu sau "phởn phơ kéo về, hành lý kĩu kịt"... Việt Nam lại đứng
đầu trong các việc đóng góp với "mẫu quốc" về quân phí, quốc trái, lạc quyên,
lại những con số kếch sù về xuất cảng, nhập cảng v.v... Thế thì vì đâu dân
Việt Nam đói khổ? Sau khi đặt câu hỏi, ông đưa ra một lời giải đáp như ngọn
roi quất vào mặt bọn thực dân xâm lược: "Chính phủ bấy lâu nay chỉ chăm lo
cho công quỹ mà quên kẻ làm giàu cho công quỹ, đã quá thiên trong quyền
lợi cho quan lại thực dân của mẫu quốc mà ngăn ngừa hắt hủi người dân
thuộc quốc ở xứ này, tự gây ra một cái hố sâu để ngăn cách đời sinh hoạt
của hai dân Nam - Pháp" (Cho no đủ đã).
Nhiều khi Ngô Tất Tố vận dụng cả tục ngữ, ca dao, giai thoại văn học,
truyện cổ tích, câu đối, văn tế v.v... để đánh vào những cái xấu xa đê hèn một
cách rất tự nhiên mà sâu cay (Chúng ta phải cảm ơn đi chứ, Dân quê chúng
tôi muốn được tự do mất cướp, Bà ấy chỉ hiểu lầm một câu Kiều, Một người
oan, một người không oan v.v...).
Chẳng hạn, ông dựa vào câu cửa miệng dân gian "Trơ như mặt thớt"
để đả kích bọn ứng cử viên dân biểu Hà Nội, như: "Các ngài không ở thôn
quê có thể không hiểu nỗi khó khăn của sự đi mượn. Đừng nói mượn mặt,
mỗi khi có việc ăn uống, dân quê muốn mượn cái thớt thái thịt cũng phải xách
đi xách về. Đằng này không đợi chúng ta hỏi mượn, chính xác ông ấy tự mình
đem mặt ra thay chúng ta, há chẳng là sự hào hiệp. Với sự hào hiệp ấy, nếu
không ai tỏ lời cảm ơn, không khỏi có kẻ sẽ bảo chúng ta là người rẻ của, coi
cái mặt của người này không bằng cái thớt của người khác" (Chúng ta phải
cảm ơn đi chứ).
Đối với bọn này, Ngô Tất Tố chế giễu, nguyền rủa không tiếc lời. Ông
dùng cả đến lối văn tế:
Rồi những kẻ ngồi trong hội nghị, uể oải ngáp dài.
Rồi những kẻ nghe đọc diễn văn lim dim gật ngủ
Than ôi!
Mặt nạ cùng phường
Bù nhìn một lũ
Bốn năm chẵn dạ vâng chày cối, bảo rằng bênh
quyền lợi quốc gia
Trăm miệng thì ăn nói quàng xiên
Cũng gọi cơ quan dân chủ...
(Nhớ Viện xưa)
Có lần, Ngô Tất Tố nhắc lại (Có khi do ông sáng tác) một đoạn truyện
cổ tích mà tác giả nói là "chỉ nhớ mập mờ", không biết chuyện có thật hay "bịa
đặt" để lên án cái lối tra tấn dã man của bọn quan lại, làm cho người bị nghi là
có tội, sợ quá đành cứ nhận liều cho xong chuyện (Dưới quyền Chính phủ
bình dân, sao ở Đông Dương những ngược hình còn sống).
Hoặc để phê phán cái thứ văn chương mà ông cho là lãng mạn tiêu
cực, sướt mướt của Tự lực văn đoàn, ông kể chuyện về một cô gái bỗng
dưng bỏ nhà ra đi, rồi bình luận: "Phải mỗi lúc đẻ được, một con gái, nuôi
được 16 tuổi để đọc Đời mưa gió, Đoạn tuyệt và Lạnh lùng, bây giờ tự nhiên
đoạn tuyệt với gia đình mà tìm cảnh lạnh lùng trong đời mưa gió" (Sao không
hỏi Tự lực văn đoàn?).
Rồi để cảnh cáo, vạch mặt bọn chuyên làm nghề bán thuốc lậu là dốt
nát, bịp bợm đừng có "vác cái bằng sơ học yếu lược vào làng báo" như mấy
anh em Lê Ngọc Thiều, ông viết: "Cả ba đều xứng đáng treo làm câu đối hai
câu "Hán tự đếch biết Hán, Tây tự đếch biết Tây" của ông Tú Xương" (Một
người oan, một người không oan).
Ngô Tất Tố còn dùng cả thuyết nhân quả của nhà Phật (ở hiền gặp
lành) để châm biếm bọn quan lại gian ác. Ông đem việc phu xe đình công mà
không được gì, còn bọn quan lại không hé răng nửa lời thì đùng một cái được
tăng lương 30 phần trăm để bình luận bằng lối trào phúng, hóm hỉnh: "Phu xe
đình công mà không ăn thua chút chi, chỉ tại họ không làm thiện. Còn quan lại
không đình công mà được ăn thêm là bởi các ngài đã làm nhiều điều nhân
đức; người nào kiếp này chưa làm thì tất nhiên kiếp trước đã làm, mà nếu
kiếp trước cũng chưa làm thì có lẽ kiếp sau sẽ làm". Cuối cùng, ông chửi
cạnh bọn chúng bằng câu: "ở hiền thì lại gặp lành, dẫu rằng váy rách tan tành
trời cũng vá cho" v.v...
Thật là thiên hình vạn trạng trong cách vận dụng các thủ pháp nghệ
thuật để làm cho vấn đề trở nên có tính trào phúng sâu sắc.
Ngoài ra, các lối ngoa ngữ, chơi chữ... là những yếu tố thường thấy
trong nghệ thuật hài hước, châm biếm cũng được Ngô Tất Tố vận dụng tinh
tế, linh hoạt. Chẳng hạn, ông viết: "Ông Thông Reo, người viết báo Trung
Lập, hôm nọ đã bô bô đem việc ấy nói toẹt lên báo rồi (Ông Thông Reo dám
tiết lộ việc bí mật của ông Quỳnh). Hoặc Phạm tiên sinh (tức Phạm Quỳnh -
L.T.Đ.H) là một nhà dở học giả, dở chính trị (Chú Khán Ngốc nói chuyện ông
Phó Quỳnh) hoặc "Nếu tỉnh Hà Đông bị thiếu một ông tổng đốc thì Tổ quốc có
khi sẽ thành tổ... cò" ("Kính mừng Việt Nam Tổ quốc và tiếc thay cho làng báo
của nó”) v.v...
Rõ ràng, Ngô Tất Tố rất già dặn trong việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo
nhiều thủ pháp nghệ thuật khi đề cập đến các vấn đề của xã hội đương thời.
Ông biết khai thác đề tài bằng cách đối lập một hiện tượng nào đó với
khát vọng mong muốn của nhân dân. Ông biết tô đậm những mâu thuẫn của
hiện thực và khi thể hiện chúng thì thông qua một ngôn ngữ giàu hình ảnh,
đậm đà chất chữ tình nên ông đã tạo được một hiệu quả phê phán lớn. Sự
thông minh, hóm hỉnh là một đặc trưng quan trọng của nghệ thuật trào phúng
cũng thấy bộc lộ qua từng câu, từng chữ có khi trong toàn bài, đã làm cho văn
tiểu phẩm của Ngô Tất Tố để lại những ấn tượng khó quên trong lòng người
đọc.
Từ cách cảm nghĩ đến cách trình bày vấn đề của Ngô Tất Tố đều giản
dị tự nhiên vừa mang tính dân tộc vừa mang tính hiện đại rõ nét. Những bài
viết của ông đa số là ngắn gọn và bao giờ cũng có kết cấu chặt chẽ. Ông có
cách viết tự nhiên, dí dỏm, hấp dẫn, khiến người đọc nhiều khi có cảm giác
như tác giả đang trực tiếp nói chuyện với mình. Điều ấy thể hiện ngay cả
trong cách đặt tên các bài báo. Có khi ở dạng một câu đố: Đố biết ông Godart
là người gì?, có lúc như một lời doạ chơi: Truyện Kiều sẽ ghi vào hiến pháp
có ngày, hoặc một câu hỏi: Còn chờ gì nữa mà chưa giải tán Viện dân biểu?
hoặc một lời khuyên: Đừng giở những ngón ấy ra nữa, tôi can mấy ông Ngày
nay hay như một sự nhờ vả: Xin nhờ Lơmuya Cát Tường việc này nữa...
Quả thực, chưa nói tới các lĩnh vực khác, chỉ riêng ở văn tiểu phẩm
cũng đã thấy rõ được tính chất phong phú và đa dạng trong ngòi bút Ngô Tất
Tố. Ông vừa có tài viết "Mỗi ngày một truyện" lại vừa có tài viết "mỗi bài một
kiểu". Vì thế, qua hơn một trăm bài báo của ông không thấy có sự đơn điệu,
trùng lặp. Trái lại độc giả đễ bắt gặp những sự thú vị, bất ngờ.
Tạp chí văn học, số 6, 1983
NGÔ TẤT TỐ, NHÀ BÁOVŨ QUẦN PHƯƠNG
Ngô Tất Tố có mặt giữa chúng ta hôm nay với ba tư cách: nhà văn, nhà
báo, nhà văn hóa. Cả ba lĩnh vực ông đều đóng góp xuất sắc. Tôi xin phép
được có đôi lời về cây bút viết báo Ngô Tất Tố. Trong khoảng 10 năm từ 1931
- 1939, dưới nhiều bút danh: Tuệ Nhỡn, Lộc Đình, Phó Chi, Đạm Hiên, Xuân
Trào, Thuyết Hải... trên các báo Đông phương, Tương lai, Thời vụ,... Ngô Tất
Tố luôn luôn có ý kiến kịp thời về các vấn đề xã hội đương thời.
Từ các bài báo này, chúng ta có thể đọc thấy ý thức trách nhiệm của
Ngô Tất Tố trước đời sống xã hội. Cũng từ đây chúng ta có thuận lợi trong
việc tìm hiểu những công đoạn trong nghề văn của Ngô Tất Tố như việc tích
luỹ vốn sống, sự hình thành chủ đề, bút pháp, văn phong. Nhiều bài báo của
Ngô Tất Tố đã là văn học, có cốt cách của truyện ngắn hài hước sắc nhạy và
thâm thuý.
Ngô Tất Tố viết báo ở một tầm văn học cao, ở một ngưỡng kiến thức
rộng lớn và chính xác. Điều đó được thể hiện không chỉ ở chỗ ông vận dụng
những điển tích Đông Tây để so sánh, đối chứng, luận bàn việc bấy giờ mà
đáng lưu ý hơn là ở nội dung lý giải, phân tích của ông. Sự đời, khi mới phát
sinh không dễ phân biệt phải quấy. Có những việc, đến bây giờ hơn 60 năm
sau, khi nhân loại đã đi qua một cuộc đại chiến nóng, lại một cuộc đại chiến
lạnh, nước ta từ nô lệ đã đánh thắng cả hai đế quốc to, giành độc lập, khoa
học kỹ thuật đã can thiệp tranh với tạo hoá trong tận gien di truyền, con người
"nhìn" thấu được thiên hà, chân người đặt lên mặt trăng, và cả nhân loại cùng
vỗ đùi xem một trái banh phá lưới, bao nhiêu dâu bể mà nhiều người cầm bút
còn mơ hồ, nhưng Ngô Tất Tố đã rạch ròi từ dạo ấy.
Rất nhiều bài báo của Ngô Tất Tố đến nay vẫn thời sự, vẫn như viết ra
để nói việc bây giờ, cho người đọc bây giờ. Ngày 13 - 3 - 1931, trên báo
Đông phương với bút danh Thục Điểu, ông phê phán tệ lễ bái loạn xạ ở đền
Hàng Trống. Ngày 20 - 3 - 1931, ông vạch mặt bọn ký giả vô lương, nhân
danh bảo tồn quốc tuý để phục hồi và phát triển hủ tục, từ thói tục ngôi thứ
trong triều đình đến những món cặn bã của đạo Chu Khổng. Ngô Tất Tố có lối
mỉa mai rất sắc và vận dụng vào thời thế ấy rất đắc địa. Ông làm như biểu
dương và tán thưởng cái khuynh hướng "tiến thủ về quá khứ" ấy để rồi
khuyên nên đi xa hơn: hãy vẽ mình cho con cái, có như thế mới là "tinh hoa
tối cổ" của dân tộc. Đọc các bài báo này, bạn đọc hôm nay không thể không
nghĩ đến các thứ lễ hội rước xách tế lễ phiền nhiễu đang bùng nổ khắp nơi
mấy năm qua từ thị thành đến nơi thôn cùng xóm vắng, với sự có mặt của
các đội nữ tế, nam tế dịch vụ cho mọi nơi có đám với các cựu chiến binh, cựu
cán bộ cũng nón dấu, xà cạp điều, đeo cả huân chương huy chương ra ngoài
nẹp áo đỏ, đi rước cờ thần. Đâu là bản sắc dân tộc, đâu là hủ tục quàng xiên
mới cũ lố lăng, tác giả Lều chõng và Việc làng phân biệt rạch ròi, khuyến cáo
cặn kẽ với quốc dân. Lấy ích dân lợi nước làm mục đích cho nghề bút mực,
Ngô Tất Tố đã dành nhiều tâm lực để điều tra, tập hợp tài liệu, lấy đủ chứng
cứ để viết, nhiều bài báo đã như những bản cáo trạng, chứng cứ rất cụ thể và
còn hơn cả cáo trạng là sức khái quát cao, tác dụng ôm trùm đến tận hôm
nay. Ông công kích bọn chữa bệnh quàng xiên "mỗi quốc dân đồng bào chỉ
mắc lừa một lần là đã giầu rồi". Bọn này bịp bợm bằng cửa hàng sang trọng,
dáng đi bệ vệ, giọng nói lè nhè dẫn ra những câu y lý đầu Ngô mình Sở, và
nhất là bằng cách quảng cáo lừa bịp vô sỉ, mà ở đó có sự phụ hoạ của các
nhà thông tin đại chúng. Ở những bài báo này, Ngô Tất Tố giận dữ và đau
đớn. Đau đớn vì dân trí, vì trình độ khoa học của những nhà. Giận dữ bọn
táng tận lương tâm trong nghề "dao cầu thuyền tán". Ông thoá mạ mỉa mai,
đả kích không tiếc lời. Giá còn sống đến bây giờ, chắc Ngô Tất Tố còn nhiều
bài báo sắc xảo và khôi hài ở lĩnh vực này. Nhất là lúc này lại có những người
nhân danh khoa học, lẩm nhẩm một bài chú mới lủng củng những ngoại cảm,
trường sinh học, điện sinh vật để khoa học hoá cho đám lang băm phản khoa
học hại người. Một tiếng nói báo chí như Ngô Tất Tố lúc này rất cần cho xã
hội. Ở lĩnh vực này các nhà báo hiện đại chưa có sức chiến đấu quyết liệt,
triệt để bằng ông, chưa vận dụng kiến thức và kinh nghiệm khoa học để phân
tích, tố cáo những bùa giải và các thủ pháp lừa bịp trong cách kiếm tiền của
lang băm. Không lẽ sau già nửa thế kỷ chúng ta lại ít tin vào khoa học hơn,
trông cậy vào thần linh hơn, không chỉ lễ bái ở đền chùa mà ngay trong công
sở cũng có bát hương, điện thờ. cần phân biệt thái độ khoa học trước những
hiện tượng chưa biết với việc gieo rắc mê tín ngu dân. Ngô Tất Tố đã ý thức
được đây là vấn đề sống còn của dân tộc. Ông đã làm được nhiệm vụ mà các
nhà báo chúng ta đều tâm niệm là hướng dẫn xã hội. Sự hướng dẫn của Ngô
Tất Tố giúp cho bạn đọc tin vào chính mình. Đó cũng là sự giáo dục dân chủ
đang cần cho hôm nay. Có tự tin mới tự chủ được.
Chống tệ nhũng nhiễu của quan lại, thói hãnh tiến hư danh của người
đời, trò hề chính trị của Chính phủ Pháp và tay sai hồi ấy... Ngô Tất Tố đều
xuất phát từ những vụ việc cụ thể và điển hình. Một vụ tra tấn người tình nghi
của tri huyện Tam Nông, một vụ tranh cãi của ông Quỳnh, ông Vĩnh, một kiểu
treo ấn từ quan của Hoàng Trọng Phu, một vụ suýt tự tử của ông trượt chủ tế
cho đến cái tệ ăn quanh xác chết của ông lý bá rồi mối quan hệ giữa bệnh
hoa liễu với các nhà văn nhân danh nghệ thuật để khiêu dâm đã là những
xuất phát do lập luận của Ngô Tất Tố. Cái tài của ông là ở giữa đống bộn bề
thật giả, lẫn lộn chân nguỵ ông đã nhận ra rất nhanh, rất nhạy cái tiến bộ để
ủng hộ, cái phản động để đả phá. Ông có cách chứng minh, cách biện luận
đầy thuyết phục bằng cách vạch ra cái nghịch lý, cái mâu thuẫn ẩn giấu trong
sự việc, bằng cách so sánh với việc xưa, việc ở xứ sở khác, bằng cách suy
luận gọn chắc gắn với cách suy nghĩ của quảng đại nhân dân. Ngô Tất Tố sử
dụng giọng văn hài hước, rất sắc, đôi lúc ông khen để mà lên án, ủng hộ để
mà đả phá, mát mẻ trào lộng để mà ẩn giấu một phẫn nộ, căm giận.
Trong bài Những việc đáng ghi chép cuả phòng canh nông Nam Kỳ
đăng trên Thời vụ số 11 ngày 15 - 3 - 1938, ông ghi nhận sự hết lòng với dân
cày của cơ quan này bằng cách ca ngợi nó đã treo giải thưởng cho ai tìm ra
cách trừ sâu cắn lúa (chứ nó không tìm) và dựng tượng Thần nông để thờ
cúng. Con mắt tinh tường của nhà báo Ngô Tất Tố ở đây đã là con mắt của
nhà tổ chức tách bóc hư thực trong chức năng các công sở cơ quan. Việc
này đến bây giờ vẫn còn cần lắm.
Ở bài Ông Pasgès chắc có đọc qua Trang tử, Ngô Tất Tố như "đi guốc"
vào bụng dạ các quan chức thực dân cáo già thời ấy. Cả một thủ đoạn trị dân
được phanh phui chỉ tốn hơn nghìn chữ.
Trong bài Mấy lời nhắn nhủ các ông đồ trên Đông phương 24-3 - 1931,
ông có nhận xét bây giờ thầy đồ thì hay nói đến Nã Phá Luân, Hoa Thịnh
Đốn; Lư Thoa, Mạnh Đức Tư Cưu mà thầy ký thì luôn luôn nhắc đến Khổng
Tử, Mạnh tử, có khi còn giở cả Trang tử, Lão tử nữa kia. Nhưng mà có ăn
thua gì, đụng đâu trật đấy, thầy đồ cũng vậy, thầy ký cũng thế. Tôi đọc mà
giật mình. Ông tinh tường quá, cái bệnh mặc cảm tự ti, trích dẫn ám thị này
đâu chỉ riêng các thầy đồ thầy ký thời Ngô Tất Tố.
Lại cái sự nảy sinh ra các thứ tôn giáo mới Ngô Tất Tố nhận xét: ngót
20 thế kỷ có bốn ông thánh: ông Thích Ca, ông Giêsu, ông Môhamét, ông
Khổng Khâu, thì đã có tới ba ông sinh ở châu Á. Hoá ra châu á là nơi thổ sản
giáo chủ cũng như Sơn Tây là thổ sản rau muống, Đình Bảng là thổ sản củ
mài. Tại sao lại quý hoá thế? Ngô Tất Tố từ thực trạng tâm lý xã hội đã chạm
tới những vấn đề xa hơn về chính trị, về dân trí... Hôm nay ở thế giới cũng
như ở ta, người ta đang chế ra nhiều đạo mới, nhưng những ý kiến đúng,
sắc, nhạy còn thấy quá hiếm trên báo chí. Vụ tự sát tập thể (53 người chết) ở
Sơn La là một báo động. Nhưng người cầm bút không thể mơ hồ.
Ghi nhận tính chiến đấu, ý thức xã hội và văn phong báo chí của Ngô
Tất Tố cũng là ghi nhận sự trương thành của báo chí nước ta nửa đầu thời
kỳ, ghi nhận vai trò người trí thức trước cộng đồng, ghi nhận sự nỗ lực của
nhà nho tiến kịp với trào lưu tư tưởng tiến bộ nhất của thời đại. Trước lúc ra
đời của Đề cương văn hóa hơn 10 năm Ngô Tất Tố đã viết dưới ánh sáng
của khoa học để phục vụ đại chúng và bảo vệ dân tộc... Liên hệ với báo chí
bây giờ chúng ta mong ước có nhiều cây bút như Ngô Tất Tố cả ở phẩm cách
lẫn tài năng.
Phụ san tạp chí Thế giới mới 1996.
NHÀ KHẢO CỨU, DỊCH THUẬT ĐẦY TÂM HUYẾTNGÔ TẤT TỐ QUA NHỮNG TÁC PHẨM
NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH
NGUYỄN ĐỨC ĐÀN - PHAN CỰ ĐỆ
Ngoài việc viết báo và sáng tác, Ngô Tất Tố còn là một trong những
nhà văn có nhiều nhiệt tình đối với công tác nghiên cứu. Chẳng những ông
nghiên cứu văn học mà còn có công nghiên cứu cả triết học nữa. Những công
trình nghiên cứu này phần nhiều ra đời trong thời gian Đại chiến thứ hai, lúc
mà không khí sáng tác trên văn đàn đang ở trong tình trạng bế tắc. Một mặt
các nhà văn không có điều kiện tiếp xúc với thực tế đấu tranh của quần
chúng, mặt khác, bọn thống trị dùng mọi chính sách hà khắc đàn áp văn học
tiến bộ.
Mặc tử - Trong công tác nghiên cứu, Ngô Tất Tố tỏ ra là một người có
tác phong làm việc thận trọng, khoa học. Các tài liệu đều có xuất xứ đầy đủ rõ
ràng, điểm nào còn hoài nghi, chưa chính xác thì nói rõ còn hoài nghi, chưa
chính xác.
Về quan điểm nghiên cứu, cố nhiên Ngô Tất Tố chưa thể có quan điểm
khoa học mácxít nhưng có điều đáng chú ý là trong các học thuyết xưa có chỗ
nào tương đối tốt, tiến bộ, là ông liên hệ thực tế Việt Nam để làm sáng tỏ
thêm và có thái độ biểu dương rõ rệt.
Trong Mặc tử, Ngô Tất Tố làm sáng rõ các thuyết Phi nhạc, Phi Nho và
Phi mệnh. Mặc tử vốn là một người trọng sự thực dụng, cái gì thực tế có ích
đối với đời sống của nhân dân thì mới chủ trương bảo tồn. Do đó Mặc tử
chống lại với nhạc. Một hôm, Mặc tử hỏi một nhà nho rằng: "Sao lại làm
nhạc? Nhà nho trả lời: "Nhạc để làm nhạc". Mặc tử không bằng lòng về câu
giải đáp ấy: "Ngươi vẫn chưa trả lời ta. Nay ta hỏi rằng: "Sao lại làm buồng?”.
Ngươi nói: "Mùa đông tránh rét, mùa hè tránh nắng, buồng để cách biệt con
trai con gái!". Thế là người đã bảo ta cái cớ làm buồng. Nay ta hỏi rằng: "Sao
lại làm nhạc?". Ngươi bảo: "Nhạc để làm nhạc". Thế cũng như hỏi: "Sao lại
làm buồng?". Mà đáp: "Buồng để làm buồng". Mặc tử cho rằng nếu nhạc
không có ích lợi thiết thực gì đối với đời sống của nhân dân thì không nên duy
trì. Mặc tử tán thành việc nhà vua thu tiền của nhân dân để làm thuyền và xe
vì "thuyền dùng ở nước, xe dùng ở cạn, quân tử được nghỉ chân, tiểu nhân
được nghỉ vai lưng". Mặc tử nói thêm về nhạc: "Các thứ nhạc khí nếu cũng
trúng vào chỗ lợi của nhân dân như thế, ta cũng không dám công kích.
Nhưng dân có ba điều lo là, đói không được ăn, rét không được mặc, mỏi
không được nghỉ; ba điều đó là sự lo lớn của dân. Song nếu vì dân mà gõ
chuông lớn, đánh trống kêu, gẩy đàn cầm đàn sắt, thổi ống vu ống sinh và
múa cái can cái thích thì cái của ăn mặc của dân có được gì đâu".
Quan niệm Phi nhạc của Mặc tử tất nhiên, có chỗ không được đúng
nhưng cái tinh thần chống lại những điều không có lợi ích thiết thực đối với
đời sống của nhân dân thì có ý nghĩa tiến bộ. Giới thiệu quan niệm ấy với
người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ không phải là không có
ích.
Về quan niệm Phi Nho cũng vậy. Học thuyết Mặc tử vốn là một học
thuyết chống lại Khổng giáo. Mặc tử cho rằng "lễ của Nho giáo quá phiền
nhiễu". Nhất là Mặc tử hoàn toàn phản đối đầu óc thủ cựu, thuyết "phục cổ”
của nhà nho: "Kẻ nho giả nói: "Quân tử phải nói theo cổ, mặc theo cổ mới là
nhân". Đáp rằng: "Lời nói, đồ mặc của đời cổ cũng đã một lần mới mà người
xưa nói nó, mặc nó thì không phải quân tử. Người Việt Nam chúng ta ngày
xưa ít biết đến học thuyết Mặc tử mà chỉ biết có Khổng giáo hoặc có biết Mặc
tử thì không thấy cái nghĩa tốt vì đã bị nhồi sọ học thuyết của Khổng Tử. Giới
thiệu và làm sáng rõ giá trị của thuyết Phi Nho trong lúc có phong trào suy tôn
Khổng giáo là một việc làm có ý nghĩa, ở dây xin mở một dấu ngoặc để nói
rằng có lẽ bản thân Ngô Tất Tố cũng có chịu ảnh hưởng tốt của tư tưởng Mặc
tử. Vốn xuất thân nho gia nhưng ông không hề có tư tưởng nệ cổ, thủ cựu.
Sở dĩ Ngô Tất Tố trở thành một nhà văn, một nhà báo có tiếng cũng là do ông
sớm tiếp thu được những cái mới của thời đại, không có tinh thần nô lệ cổ
chân.
Sau thuyết Phi Nho đến thuyết Phi mệnh. Điều đáng cho chúng ta chú ý
là Mặc tử không tin ở định mệnh: "Hoạ phúc của người đời đều kết quả của
sự hành vi, không có số mệnh nào hết". Mặc tử cho rằng một khi đã tin là số
mệnh thì con người ta dễ sống tự do, không chịu khắc phục những lỗi lầm
của bản thân và khắc phục nghiên cứu khó khăn của hoàn cảnh khách quan,
nghĩ rằng cái gì cũng do định mệnh định đoạt rồi. Cho nên thuyết định mệnh
có tác hại lớn đối với xã hội. "Bảo có số mệnh tức là gây cho người ta cái thói
tàn bạo, dâm loạn, trễ nải lười biếng, không trọng sự thưởng phạt của người
trên, ấy là làm loạn thiên hạ".
Ngoài ba thuyết Phi nhạc, Phi Nho và Phi mệnh, Ngô Tất Tố còn giới
thiệu với chúng ta một số quan điểm chính trị của Mặc tử. Chủ trương chính
trị của Mặc tử trái hẳn với chế độ chính trị quý tộc. Trong chế độ chính trị quý
tộc, "con vua thì lại làm vua, con nhà sãi chùa lại quét lá đa". Mặc tử chủ
trương ai có tài, có đức mới được nắm quyền bính. Con quan mà không phải
người hiền cũng không được cất nhắc, con dân nghèo mà là người hiền thì
vẫn cứ cất nhắc: "Thánh vương ngày xưa rất tôn chuộng người hiền và sai
dùng người tài, không kéo bè với cha anh, không thiên vị kẻ giàu sang, không
say mến kẻ nhan sắc. Ai hiền thì nâng nhấc lên... Dẫu người ở nghề làm
ruộng và cửa hàng thợ mà có tài năng thì cũng cất nhắc... Cho nên quan
không sang mãi, dân không hèn mãi". Mặc tử đả kích những kẻ chỉ biết chạy
theo danh vọng mà không nghĩ rằng mình làm việc là có trách nhiệm đối với
xã hội như thế nào: "Quân tử trong đời, sai làm đồ tể cho một con lợn, không
làm được thì họ từ chối; sai làm tể tướng một nước, không làm nổi thì họ cứ
làm". Ngô Tất Tố tán thưởng ý kiến của Mặc tử và bình luận: "Câu nói thống
thiết làm sao! Thật là đáng với bệnh chứng của hết mọi người. Bảo giết con
lợn không nổi thì chối, giao cho điều khiển một nước, dù biết sức không làm
nổi vẫn cứ làm. Thế là coi một nước không quan hệ bằng một con lợn. Còn gì
bất nghĩa hơn nữa?”
Mặc tử công kích những "vương công đại nhân khi cung hỏng, ngựa
ốm hoặc may áo quần thì chuộng người hiền, sai người tài" mà khi động đến
việc nhà nước thì lại chỉ cất nhắc những kẻ cốt nhục, không kỳ có tài hay
không.
Mặc tử trực tiếp công kích các nhà cầm quyền đương thời: "Nay như
người làm việc chính trị trong thiên hạ, cái cách "làm cho nhân dân ít đi" nhiều
lắm; họ sai dân thì vất vả, họ thu liễm thì hậu hĩnh; của cải của dân không đủ,
chết đói chết rét không thể kể xiết...".
Sau khi giới thiệu thuyết Mặc tử, Ngô Tất Tố ca ngợi Mặc tử là "người
khẳng khái, cương quyết, có nhiệt thành, có nghị lực, yêu đời một cách tha
thiết...".
Chúng ta nhớ rằng Mặc tử xuất bản năm 1942, giữa lúc phong trào
phục cổ đang sôi nổi. Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đang lên tiếng ca tụng
Khổng giáo. Chúng ta không hiểu dụng ý chủ quan của Ngô Tất Tố nhưng xét
về khách quan, tác phẩm Mặc tử ra đời không phải không có ý nghĩa. Những
thuyết Phi nhạc, Phi Nho, Phi mệnh, những quan điểm chống chế độ chính trị
quý tộc, chống "phục cổ", công kích các nhà cầm quyền, chống Khổng giáo
v.v... Giới thiệu trong hoàn cảnh lịch sử ấy có một ý nghĩa rõ rệt. Nói chuyện
quá khứ để ngụ ý đả kích cái hiện tại là điều chúng ta thường thấy trong lịch
sử.
Lão tử - quyển này, Ngô Tất Tố soạn chung với Nguyễn Đức Tịnh.
Cũng như Mặc tử, Lão tử là một trong những tác phẩm nghiên cứu có công
phu và chọn lọc. Những cái hay cái dở trong học thuyết Lão tử đều được
phân tích và phê phán rõ ràng.
Trước hết, tác giả quan niệm đạo của Lão tử và cho rằng đạo là một
quan niệm duy vật. Lão tử nói: "Đạo là một vật chỉ có mập mờ, chỉ có thấp
thoáng. Thấp thoáng, mập mờ mà ở trong vẫn có hình tượng; mập mờ thấp
thoáng nhưng mà ở trong vẫn có vật thể". Tác giả nói rõ thêm: "Vậy thì đạo
của Lão tử tức là nguyên thuỷ và toàn thể của vũ trụ. Vạn vật trong vũ trụ đều
là trạng thái khác nhau của đạo".
Ngày nay, theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu triết học, thì đạo của
Lão tử là một quan niệm về vũ trụ có tính chất duy vật. Tác giả Lão tử cũng
đã biểu dương quan niệm ấy: "Đạo, theo Lão tử, là một vạn vật vô hình
nhưng là một vật có thực. Nó là nguyên tố của vạn vật. Ta phải công nhận
rằng ở một thời đại đương lúc hủ lậu mê muội như thời đại nhà Chu ở Tàu
mà có một quan niệm vũ trụ hoàn toàn duy vật thực là một điều đáng phục".
Sau quan niệm đạo đến quan niệm đức. Tác giả Lão tử giải thích rõ
quan niệm đức: "Cái gốc sinh ra vạn vật là đạo. Nhưng làm cho vật nào thành
ra vật ấy có thể tồn tại ở vũ trụ thì không phải đạo mà lại là đức". Theo tác giả
thì người Anh dịch chữ đức là power (Puissance), tức là một lực lượng làm
cho vật chất nguyên thuỷ biến thành các vật thể vô cơ và hữu cơ. Và tác giả
nói rõ thêm: "Theo danh từ mới, người ta có thể gọi đức là sự cấu tạo và sự
tồn tại của vũ trụ, vạn vật", ở một đoạn dưới, tác giả lại viết tiếp: "Căn nguyên
của đức là ở đạo mà đạo là thực chất. Vậy thì đức có thể ví với chữ thể năng
(e'nergie) trong khoa học".
Qua mấy đoạn phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng tác giả Lão tử
không đóng khung trong việc khảo cứu các học thuyết cổ xưa như xu hướng
của nhiều nhà khảo cứu lúc bấy giờ, chỉ biết giới thiệu một cách sách vở, mà
ở đây, tác giả biết vận dụng những kiến thức mới về triết học để phê phán,
nhận định. Chúng tôi nghĩ rằng ở thời bấy giờ mà tác giả Lão tử đã trông thấy
thực chất duy vật trong quan niệm đạo đức của Lão tử thì quả là một điều rất
đáng khen.
Sau đó, tác giả đề cập đến triết lý chữ vô, chữ nghĩa vô vi và quan niệm
về nhân sinh của Lão tử. Thời đại của Lão tử là thời đại ở Trung Quốc, chiến
tranh giữa các nước chư hầu xảy ra liên miên. Lão tử đã chứng kiến những
thảm hoạ ghê gớm nên rất ghét chiến tranh. Lão tử nói: "Khi mà thiên hạ có
đạo, những ngựa chạy khoẻ đều bị đưa về để cày ruộng phân. Khi mà thiên
hạ vô đạo, ngựa trận sinh ra ở cánh đồng". Chiến tranh xảy ra ở đâu là vùng
ấy bị tàn phá, người và vật bị giết, mùa màng bị phá huỷ: "Quân lính ở đâu
gai góc mọc lên ở đấy, sau trận đại chiến ắt có năm mất mùa".
Lão tử lại sống vào một thời mà lễ nghi rất được tôn trọng. Lão tử đã
hết sức phản đối những phong tục tập quán và lễ nghi phiền phức. Chính vì
tư tưởng của Lão tử có nhiều chỗ chống đối tư tưởng chính trị đương thời,
đối lập với quyền lợi của bọn vương hầu nên số người theo Lão tử rất ít. Lão
tử đã từng than rằng: "Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm nhưng thiên hạ
không ai hiểu, không ai làm theo!".
Tác giả Lão tử đề cao tinh thần yêu hoà bình, chống chiến tranh và tinh
thần chống đối các phong tục lễ giáo phiền phức của Lão tử nhưng sau đó rất
chú ý phê phán nhân sinh quan tiêu cực của bậc triết gia cổ đại ấy. Chủ nghĩa
vô vi chủ trương không can thiệp vào quá trình phát triển của tự nhiên. Do đó
nhân sinh quan của Lão tử là một nhân sinh quan tiêu cực. Lão tử muốn chủ
trương trở lại cuộc đời mê muội hồi nguyên thuỷ. Tác giả Lão tử đã phê phán
quan niệm này, cho đó là một quan niệm không thực tế, quan niệm muốn kéo
lùi bánh xe lịch sử. Thực ra đời sống của con người trong thời nguyên thuỷ
không có gì đẹp đẽ, đáng ước vọng. Người ta ở đời cần chủ trương phấn đấu
đẩy lịch sử tiến lên. Hạnh phúc chỉ có ở trong sự tiến bộ chứ không có ở trong
sự thoái hoá.
Tóm lại trong tác phẩm Lão tử, tác giả đã giới thiệu cho chúng ta thấy
rõ ràng vũ trụ quan và nhân sinh quan của Lão tử. Sau khi giới thiệu, tác giả
có nhận định, biểu dương những điểm tiến bộ và phê phán những điểm thoái
hoá, tiêu cực. Cố nhiên đối với chúng ta ngày nay, tác phẩm nghiên cứu ấy
chưa thể thoả mãn đầy đủ được. Nhưng với tình hình lúc bấy giờ, một tác
phẩm nghiên cứu như vậy đã là một cống hiến đáng quý. Đọc Lão tử, chúng
ta thấy các tác giả nghiên cứu có công phu và có một trình độ hiểu biết khá về
triết học.
Năm 1943, Ngô Tất Tố có khảo cứu Kinh dịch nhưng đây chỉ là một
quyển sách hoàn toàn có tính cách giới thiệu.
Trên đây là những tác phẩm nghiên cứu về triết học, ngoài ra, Ngô Tất
Tố còn có một số tác phẩm nghiên cứu văn học. Những tác phẩm này phần
nhiều có tính cách giới thiệu và bình luận.
Việt Nam văn học đời Lý và đời Trần - trong Việt Nam văn học đời Lý,
Ngô Tất Tố giới thiệu 23 tác giả, hầu hết là các thiền sư. Ngoài ra còn có 3 tác
giả là Thái Tôn, Nhân Tôn và Đoàn Văn Khâm. Đời nhà Lý, Phật giáo rất phồn
thịnh. Hầu hết các thơ ca đều ca ngợi tượng Phật, ca tụng các nhà sư, nói
đến các quan niệm sắc, không và hư vô. Văn học thời kỳ này nhuốm màu sắc
Phật giáo. Trong phần kết luận, tác giả cũng cho biết là văn học thời nhà Lý
có phát triển về nhiều phương diện chứ không phải là chỉ trong phạm vi nhà
chùa. Nhưng hiện nay, những thơ ca ấy đã mất mát hết. Lúc bấy giờ Phật học
cực thịnh nên chỉ có nhà chùa mới có điều kiện ghi chép để lưu truyền về sau.
Trong Văn học Việt Nam đời Trần, tác giả cũng lựa chọn một số bài thơ
nổi tiếng để giới thiệu. So với đời Lý, văn học đời Trần phát triển hơn nhiều.
Phật giáo không được trọng đãi như Nho giáo. Trong lời nói đầu, tác giả hết
sức ca tụng Hồ Quý Ly: "Về mặt chính trị, Quý Ly là một tay đại tài đã đành,
về mặt học thuật, Quý Ly cũng có rất nhiều tư tưởng mới mẻ. Phần nhiều
những bài thơ trong tập này đều là thứ nghệ thuật để tiêu khiển lúc nhàn hạ.
Tứ thơ chẳng có gì mới lạ, thường chỉ nói đến những chuyện phong, hoa,
tuyết, nguyệt. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có bài nói lên được vẻ đẹp của
đất nước và lòng thiết tha của bài thơ đối với cảnh đẹp ấy. Ngoài ra có hai bài
chúng ta thường nhắc đến là bài Phò giá về Kinh của Trần Quang Khải và bài
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Hịch tướng sĩ là một tác phẩm có giá trị
trong lịch sử văn học Việt Nam.
Thi văn bình chú - Tập này là một tập văn thơ chọn lọc của các đời Lê,
Mạc và Tây Sơn. Trong tập này, Ngô Tất Tố giới thiệu một số tác giả lớn như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Dôn, Nguyễn Gia Thiều, Ngọc Hân
công chúa v.v... Sau mỗi bài thơ trích Ngô Tất Tố đều có lời phê bình.
Việt Nam văn học đời Lý, đời Trần và Thi văn bình chú tuy chỉ là những
tuyển tập thơ văn, chưa phải là công trình nghiên cứu công phu, nhưng cũng
có tác dụng tốt. Theo ý Ngô Tất Tố, ông muốn sưu tầm, nghiên cứu và giới
thiệu những giá trị văn học cũ, nếu không một ngày kia, khi số người nắm chữ
Hán học không vững nữa, thì những giá trị ấy rất dễ bị mai một. Đó là dụng ý
tốt.
Ngoài ba bộ tuyển tập và bình luận thơ văn trên đây, có một tác phẩm
nữa cũng có thể tạm xếp vào loại này. Đó là Thơ và tình. Trong Thơ và tình,
Ngô Tất Tố viết lại những câu chuyện tình sử của Trung Quốc cũ. Đại khái là
những mẩu chuyện nói lên những nét hào hoa phóng túng của giới sĩ phu, thi
nhân Trung Quốc.
* * *
Kể về phê bình, Ngô Tất Tố viết khá nhiều, từ phê bình các nhân vật
đến phê bình các tác phẩm của thời đại. Nhưng phần nhiều là các bài ngắn
đăng trên báo chí. In thành sách thì chỉ quyển Phê bình "nho giáo" của Trần
Trọng Kim.
Chúng ta biết rằng Trần Trọng Kim đã từng viết một bộ sách nghiên
cứu về Nho giáo dày cộp. Phan Khôi đã có lần lớn tiếng ca tụng bộ Nho giáo
của Trần Trọng Kim. Theo Ngô Tất Tố thì những lời tán tụng của Phan Khôi
đã làm cho ông, trong một thời gian lâu tuy không đọc Nho giáo nhưng vẫn
yên trí đó là một bộ sách tốt. Đến khi được đọc thì vấn đề lại khác hẳn. Ông
đã phát hiện ra nhiều điều sai lầm lớn mà chính Phan Khôi cũng lại phải thừa
nhận.
Viết Phê bình "Nho giáo" của Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố nhấn mạnh
mấy điều: vấn đề sử dụng tài liệu không thận trọng, vấn đề trình bầy một số
quan niệm của học thuyết Khổng Tử không đúng đắn, vấn đề thái độ thiên
kiến của một nhà khảo cứu.
Trước hết là vấn đề tài liệu. Theo Ngô Tất Tố thì trong khi nghiên cứu,
Trần Trọng Kim đã sử dụng tài liệu một cách bừa bãi, không thận trọng. Trần
Trọng Kim dựa nhiều vào các tài liệu của các đời sau chép lại và thêm thắt
vào nhất là các tài liệu của Tống Nho. Do đó, nhiều chỗ thiếu chính xác,
không thực sự trung thành với học thuyết của Khổng Tử. Có những tài liệu
nhiều ý kiến chưa thống nhất, Trần Trọng Kim cũng không nêu thành nghi vấn
mà đưa ra với một thái độ hầu như khẳng định là tài liệu đã chính xác. Chúng
ta nghĩ rằng cần phải đưa ra đây những dẫn chứng về tài liệu: nhưng qua
phần phê bình cách sử dụng tài liệu của Trần Trọng Kim, chúng ta thấy rằng
Ngô Tất Tố là người có thái độ khoa học và nghiêm túc trong công tác khảo
cứu. Qua các tác phẩm của ông về Lão tử và Mặc tử, chúng ta cũng đã thấy
rõ điều đó.
Ngoài ra, qua cuốn Phê binh "Nho giáo" của Trần Trọng Kim chúng ta
thấy Ngô Tất Tố là người có hiểu biết sâu sắc về học thuyết Khổng Tử. Điều
đó biểu hiện trong việc Ngô Tất Tố phê phán một số quan điểm mà Trần
Trọng Kim đã hiểu sai quan niệm của Khổng Tử.
Chẳng hạn về quan niệm trung quân, Trần Trọng Kim viết: "Phàm
người ta đã quần tụ với nhau ở thành xã hội tất thế nào cũng phải có người
đứng đầu cầm quyền để giữ kỷ cương cho cả đoàn thể. Người cầm quyền ấy
tức là quân. Vậy nghĩa chữ quân là nói người giữ cái quyền chủ tế cả một
đoàn thể, cả một nước...Chính thể nào cũng phải có quân quyền. Cái quân
quyền do một người giữ thì gọi là đế là vương, mà do một bọn người của
công dân đã thừa nhận cho giữ thì gọi là thống lĩnh; Đế vương hay thống lĩnh
đều thuộc về nghĩa chữ quân cả. Vậy nên đối với việc chính trị của một nước,
Khổng giáo lấy cái nghĩa quân thần làm trọng... Hai chữ trung quân không
nên theo như người ta vẫn hiểu là chỉ trung với người làm đế, làm vương mà
thôi, nhưng có thể hiểu theo nghĩa rộng là trung với quân quyền trong nước".
Ngô Tất Tố cho rằng hiểu như vậy là không đúng. Quan niệm trung
quân của Khổng Tử không thể rộng rãi và tiến bộ như vậy được. Theo Trần
Trọng Kim, trung quân hiểu theo nghĩa rộng là trung với quân quyền và quân
quyền thì có hai loại, một loại do một người nắm giữ tức là các đế vương, một
loại do nhiều người nắm giữ và được công dân trong nước giao cho. Vì vậy,
Ngô Tất Tố đã phê bình bằng một giọng hài hước: "Trời ơi, nếu quả như thế
thì Khổng Tử chẳng những không khác Jean Jacques Rousseau mà còn
giống cả Karl Marx và Lénine nữa!... Nhưng sự thực chủ nghĩa trung quân
của Khổng Tử đâu được mênh mông vô bờ đến vậy! Nội trong các sách thuộc
về Khổng giáo, không có chỗ nào phân biệt quân quyền với bản thân người
làm đế vương...". Ngô Tất Tố đưa ra nhiều ví dụ cụ thể để chứng minh điều
đó. Khi vua Ai Công say đắm ca nhi không chú ý gì đến việc nước, Khổng Tử
đã định bỏ ngôi quan, không làm nữa. Nhưng làm như vậy thì sợ sẽ để lộ tội
mê gái của nhà vua. Khổng Tử phải chờ đến hôm tế giáo, nhà vua không chia
phần thịt cho các đại phu, mới vin vào cớ ấy để xin từ chức.
Có lần, Khổng Tử làm quen với vua Chiêu Công. Vua Chiêu Công lấy
vợ ở nước Ngô là người cùng họ. Một hôm viên Thái tế hỏi Khổng Tử: "Chiêu
Công biết lễ hay không?". Khổng Tử đáp là có biết lễ. Viên Thái tế bèn đi nói
với người khác: "Ta nghe quân tử không có bè đảng, té ra quân tử cũng bè
đảng ư? Chiêu Công lấy vợ ở nước Ngô là người cùng họ. Nếu ông ấy mà
cũng biết lễ thì ai mà không biết lễ?", sở dĩ Khổng Tử trả lời như vậy chính là
vì ngài cũng nhận Chiêu Công không biết lễ, nhưng vì ông ta là vua của
Khổng Tử nên Khổng Tử thà chịu lỗi không biết xét người chứ không dám nói
thắng chỗ xấu của nhà vua.
Và Ngô Tất Tố kết luận: "Coi mấy chuyện đó thì biết chữ trung quân
của Khổng Tử tức là trung với bản thân những người làm đế làm vương chứ
không phải chỉ trung với quyền của vua".
Về quan niệm của Khổng Tử đối với dân cũng vậy. Tác giả Nho giáo
cho rằng theo Khổng Tử, vua phải chịu trách nhiệm đối với dân và phải làm
theo ý của dân: "Hễ vua làm gì trái với dân tức là trái mệnh trời thánh thử ông
vua đối với trời được thay mệnh trời nhưng đối với dân lại phải chịu hết trách
nhiệm mà dân tuy phải chịu quyền cai trị nhưng vẫn có quyền bắt vua phải
tuân theo điều lành mà làm" Ngô Tất Tố bác ý kiến này cho rằng Khổng Tử
không bao giờ có quan niệm coi dân như thế. Khổng Tử là người không đề
cao quân quyền tuyệt đối. Học thuyết Khổng giáo là học thuyết làm cơ sở cho
chế độ quân chủ tập trung. Thực tế trong lịch sử cũng đã chứng minh rõ điều
đó. Ngô Tất Tố viết: "Trong sách luận ngữ, Khổng Tử đã nói: "Dân có thể
khiến cho nó theo, không thể khiến cho nó biết". Coi đó thì biết ngài là một
người thiên về chính trị chuyên chế, không khi nào lại chịu coi dân là trời”.
Ngoài việc sử dụng tài liệu bừa bãi, và hiểu sai một số quan niệm quan
trọng của Khổng Tử, trong Nho giáo, Trần Trọng Kim còn biểu thị thái độ biểu
dương học thuyết Khổng Tử một cách quá đáng. Ngô Tất Tố không tán thành
thái độ ấy. Ông nghĩ rất đúng rằng làm công tác khảo cứu chỉ cốt làm sao thật
trung thành với các học thuyết cũ, không nên thêm bớt ý mình vào để ca tụng.
Ngô Tất Tố viết: "Tác giả Nho giáo tuy nói rằng dùng sách ấy để làm bản đồ
vẽ chân tướng của đạo Nho mà khi khảo cứu vẫn luôn luôn tự phạm điều cấm
kỵ ấy". Trần Trọng Kim thường dùng lời bàn của mình để tán tụng đạo Nho,
bênh vực đạo Nho một cách khá lộ liễu. Chẳng hạn có đoạn, tác giả Nho giáo
viết: "Đạo của ngài (Khổng Tử) là đạo chí công, chí chính, khiến người ta phải
theo thời mà biến đổi, tức là đạo phải biến hoá luôn". Hoặc là: "Chữ hiền
trong Khổng giáo là quan trọng như thế. Cho nên, người đi học phải xét cho
kỹ, chớ nên vội vàng phán đoán nông nổi mà sai lầm. Cũng vì nhiều người
không hiểu, cứ câu nệ về cái hình thức bề ngoài... đấy là lỗi tại những người
đời sau, chứ theo cái đạo của phu tử thì có điều gì là không hay?". Trần
Trọng Kim lý tưởng hoá đạo Nho, cho rằng áp dụng vào thời đại nào cũng
được, cũng tốt cả. Học thuyết của Khổng Tử được xem như một chân lý vĩnh
cửu, tận thiện, tận mỹ: "Đạo của Khổng phu tử là đạo trung dung, rất thích
hợp với chân lý, thật là đạo xử thế rất hay, rất phải, ai theo cũng được và thi
hành ra đời nào cũng được…". Vốn là một nhà nho, Ngô Tất Tố cũng không
chịu được cái giọng điệu ấy. Ông đòi nhà nghiên cứu phải có một thái độ
khách quan, không nên mang sẵn định kiến. Ông nghiêm khắc phê phán
khuynh hướng suy tôn Nho giáo của Trần Trọng Kim: "Sự phê bình đó chứng
tỏ rằng tác giả lúc nào cũng đứng địa vị chủ quan không thể bỏ hêt thành
kiến".
Đọc phê bình "Nho giáo" của Trần Trọng Kim, chúng ta thấy Ngô Tất Tố
quả là một cây bút phê bình sắc xảo và có tính chiến đấu. Lập luận của ông
rất chặt chẽ, thái độ rất cương quyết. Thái độ đó thực đáng biểu dương.
Trong đoạn đầu, ông đã xác định rõ: "Với một cuốn sách có quan hệ đến tư
tưởng học thuật của một dân tộc, không ai được phép vì nể tác giả mà nể
luôn cả sự sai lầm trong sách để di ngộ cho người đời sau". Xuất phát từ thái
độ cương quyết ấy, có nhiều đoạn Ngô Tất Tố phê phán tác giả Nho giáo rất
mạnh.
Nếu chúng ta đặt tác phẩm của Ngô Tất Tố vào hoàn cảnh lịch sử lúc
bấy giờ thì thấy tập sách phê bình có những tác dụng tốt. Nó vạch cho mọi
người thấy dụng tâm của Trần Trọng Kim và chân giá trị của "nhà học giả ấy".
Có thể nói rằng cuốn sách phê bình của Ngô Tất Tố có tác dụng không ít
trong việc hạn chế ảnh hưởng của bộ Nho giáo. Cố nhiên ảnh hưởng của nho
giáo chỉ là ảnh hưởng xấu, hạn chế được những ảnh hưởng ấy đối với công
chúng là điều cần thiết và có lợi. Tuy vậy, chúng tôi nghĩ rằng nếu nhân lúc
phê bình khuynh hướng biểu dương nho giáo của Trần Trọng Kim, Ngô Tất
Tố đồng thời nêu lên được những điểm lạc hậu, thoái hoá trong đạo Khổng
thì tập sách phê bình sẽ còn có nhiều giá trị hơn nữa. Rất tiếc rằng Ngô Tất
Tố chỉ hoàn toàn đóng khung trong việc phê bình tác giả Nho giáo mà không
kết hợp trực tiếp phê bình ngay cả một số quan điểm của Nho giáo.
Trích Chuyên khảo Ngô Tất Tố, NXB Văn hóa, H. 1962.
TÁC PHẨM BIÊN KHẢO VÀ DỊCH THUẬT CỦA NGÔ TẤT TỐVŨ NGỌC PHAN
Quyển Thi văn bình chú (cuốn thứ nhất) của Ngô Tất Tố là một quyển
phê bình và chú giải thi văn về thời Lê, Mạc và Tây Sơn. Ngoài hai việc ấy,
soạn giả còn nói qua đến tiểu sử mỗi thi gia hay văn gia, nên công việc phê
bình chỉ có thể sơ lược thôi.
Về bài Tự thuật của Nguyễn Trãi (trang 16)
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay?
Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao?
Đã buồn về trận mưa rào
Lại đau về nỗi ào ào gió đông
Mây trôi nước chảy xuôi dòng
Chiếc thuyền hờ hững trên sông một mình.
Ngô Tất Tố: "Người ta khen bài Cầm sắt của Lý Nghĩa Sơn là tuyệt
diệu, vì nó ý nghĩa cực rõ, mà hơn một nghìn năm nay, vẫn chưa ai hiểu tác
giả định nói cái gì. Bài này cũng là hạng thơ như thế".
Theo ý tôi, bài thơ trên này sở dĩ người ta hiểu được rõ ý của tác giả là
vì người ta không biết tác giả làm về thời nào; thời chưa đánh quân Minh hay
thời vua Lê Thái Tô đã tạ thế? Vậy điều cốt yếu là phải đặt bài thơ cho đúng
vào cái thời tác giả viết nó. Trong đoạn "giải thích", Ngô Tất Tố đã viết: "Xét ra
tác giả trong khi chưa gặp vua Lê đã quyết phải giệt quân Minh chắc không
khi nào lại nghĩ đến câu "Chắc chi thiên hạ đời nay, Mà đem non nước làm
rầy chiêm bao”. Đến khi đuổi được giặc Minh tức là thù nhà trả, nợ nước
xong, cái gánh nặng trên vai đã nhẹ thì có việc gì mà buồn và đau?". Lời xét
nhận này rất chí lý; vậy bài thơ trên này chỉ có thể làm vào thời vua Lê Thái
Tôn, một ông vua còn ít tuổi và hoang dâm. Giọng thơ là cái giọng lâm ly của
người lịch duyệt, người đứng tuổi, có ý oán thán và thất vọng; ta có thể coi là
bài thơ Nguyễn Trãi làm trong khi về ẩn ở Côn Sơn.
Như thế, tâm sự anh hùng, người đời cũng có thể hiểu được vì Nguyễn
Trãi vẫn cho là mình có tài dẹp giặc và có cả tài trị dân trong lúc thái bình
nữa. Khi ông về ẩn ở Côn Sơn là lúc ông bất mãn với triều đình và không tin
cậy tương lai của Tổ quốc.
Về những thơ của Lê Thánh Tôn như những bài: Con cóc, Thằng bù
nhìn, Thằng mõ v.v..., những bài thơ mà người ta thường gọi là thơ khẩu khí,
Ngô Tất Tố xét đoán rất đúng. Trong đoạn lược sử về Lê Thánh Tôn, ông viết:
"Một điều có thể biết chắc là cuộc ra đời của ngài tất nhiên không được minh
bạch. Chỗ đó rất có quan hệ đến văn chương của ngài... Cho được cải chính
sự nghi ngờ đó, ngài phải luôn luôn tỏ mình là một vì thiên tử đích đáng do ở
mệnh trời ban cho. Vì thế mà mỗi khi ngâm vịnh, bất kỳ gặp đầu đề nào,
Thằng mõ, Thằng ăn mày, Cái cối xay, Thằng bồ nhìn... gì gì ngài cũng làm ra
khí tượng đế vương" (trang 21 và 22). Xét thân thế của tác giả để giảng giải
thi văn bao giờ cũng thú vị.
Trong Thi văn bình chú, có nhiều bài Ngô Tất Tố chú dẫn công phu. Ví
dụ bài Tây Hồ Tụng của Vũ Huy Lượng (trang 109); phi một tay Nho học chắc
chắn như ông, không thể chú dẫn rõ ràng như thế được.
Quyển Thi văn bình chú phải có cái khô khan, vì sau mỗi bài thơ hay
mỗi bài văn, Ngô Tất Tố chia ra nhiều mục quá, như: chú dẫn, tham khảo, giải
thích, phê bình. Theo ý tôi chỉ có mục chú dẫn là cần đề riêng, còn các mục
kia nên dồn cả vào một mục phê bình. Vì phê bình là gì? Là chỉ trích cái dở
tìm ra cái hay và giảng giải cái hay ấy cho người ta hiểu.
Nếu đem so sánh giọng phê bình trong Thi văn bình chú với giọng phê
bình trong Phê bình "Nho giáo” của Trần Trọng Kim, người ta thấy trong Thi
văn bình chú giọng văn Ngô Tất Tố tuy kém phần dồi dào, nhưng thật là bình
tĩnh, không gắt gao như trong Phê bình "Nho giáo...”, có lẽ vì đối với cổ nhân,
nên ông dè dặt hơn là đối với người đồng thời. Nhưng thật ra đối với người
thời nào cũng vậy, giọng phê bình văn học bao giờ cũng cần phải là giọng
bình tĩnh đúng mực, rất không nên pha giọng bút chiến vào.
* * *
Trong số những sách khảo cứu và phiên dịch của Ngô Tất Tố, có quyển
Đường thi tỏ ra ông không những là một tay dịch có tài mà còn là một thi sĩ
nữa, nhưng bộ Việt Nam văn học của ông mới đáng cho người ta lưu tâm
hơn cả.
Quyển Việt Nam văn học (tập thứ nhất: Văn học đời Lý) này chỉ là một
tập đầu trong sáu tập ông dự định lần lượt cho ra đời. Bộ sách này, theo lời
ông, chỉ là một bộ sách gom góp tài liệu cho những người muốn viết văn học
sử sau này. Cũng như nhiều người văn giới Việt Nam, Ngô Tất Tố đã nhận
thấy rằng viết cho được một bộ sách Việt Nam văn học sử thật là một việc rất
khó, nó không phải là một việc như việc viết một quyển thi ca. Muốn chứng
thực sự khó khăn ấy, Ngô Tất Tố có trích dịch những lời phàn nàn của Lê
Quý Đôn trong mục "Nghệ văn chí" ở bộ Đại Việt thông sử; tôi trích ra đây
một đoạn như sau này:
"Trong lúc nhà Trần còn thịnh, văn nhà rõ ràng, điển chương, chế độ rất
đầy đủ. Đến đời Nghệ Tôn, gặp giặc Chiêm Thành vào cướp, sách vở bị đốt,
bị lấy gần hết. Sau đó, vừa mới thu thập được ít nhiều, lại đến ngày họ Hồ
mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách cổ, sách kim, đóng
hòm, đưa về Kim Lăng. Khi bản triều (chỉ vào nhà Lê) dẹp yên giặc Minh, các
nhà danh nho như các ông Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Phan Phù Tiên, đã cùng
sưu tầm điển nhã, lượm nhặt sách vở tàn sót, nhưng vì trải qua một cơn binh
lửa, cho nên mười phần chỉ thu lại được chừng bốn, năm phần" (trang 8).
Rồi Ngô Tất Tố kết luận:
"Nếu cuốn văn học sử của mình khởi thảo trong hồi Lê Mạc, công việc
tìm kiếm tài liệu cũng đã khó nhọc lắm rồi. Huống chi từ đó trở đi, trong
khoảng gần hai trăm năm, lịch sử nước nhà lại thêm biết bao nhiêu cuộc binh
hoả" (trang 10).
Như vậy, người ta có thể thấy đủ mọi thứ khó khăn trong công việc
khảo cứu và biết rõ mục đích của soạn giả khi viết bộ Việt Nam văn học.
Về văn học đời Lý, soạn giả có kể đến những sách và những bài văn
bia, những bài minh mà Lê Quý Đôn có nói đến, trong các sách "Đại Việt
thông sử, Kiến văn tiểu lục v.v...; nhưng Lê Quý Đôn chỉ kể qua đến thôi, chứ
không biết những sách và những bài ấy đã mai một từ thời nào.
Vì những lẽ ấy nên, tuy là viết về văn học đời Lý, mà soạn giả cũng chỉ
chép được thi văn của hai mươi ba tác giả (trong số này có tới hai mươi vị là
thiền sư), về giá trị những thơ văn ấy, soạn giả có tỏ lời xét đoán như sau
này:
"Bây giờ đọc lại các bài đã chép vào đây, nếu đem bình phẩm riêng
từng bài một, để tìm lấy câu văn hay, cái kết quả thật không xứng đáng.
Cố nhiên trong gần ba chục bài vận văn, không phải là không có bài
đặc sắc. Hai bài Đường luật của Đoàn Văn Khâm nhời nhẽ chải chuốt, tình tứ
lâm ly, những cách dùng chữ đặt câu cũng rất tinh luyện, có thể ví với thơ văn
Đường. Rồi đến bài tứ tuyệt của Không Lộ, bài cổ phong của Mãn Giác, bài
ngũ ngôn Đường Luật của Thái Tôn, mỗi bài đều có một vẻ hay riêng. Của
Không Lộ hay về phiêu dật, của Mãn Giác hay về hàm xúc, của Thái Tôn hay
ở chỗ ý tứ chứa chan; các bài đó có thể cho là tác phẩm ít thấy trong nghề
thơ" (trang 125 và 126).
Trong cả đời Lý từ đầu thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XII (1010 - 1225), trong
khoảng hai trăm mười lăm năm, mà ngày nay chỉ nhặt được có ngót ba chục
bài thơ văn, trong đó lại chỉ được có dăm bài đặc sắc, kể cũng nghèo nàn
thật. Sự nghèo nàn ấy càng rõ rệt khi ta đem so sánh văn học của ta trong
thời ấy với văn học của Tàu. Nhưng nếu ta đem so với Âu châu, ta sẽ không
thấy nghèo nàn chút nào, vì vào thế kỷ XI, XII, văn học Âu châu cũng hãy còn
nằm trong đêm tối. Vậy soạn giả bộ Việt Nam văn học không nên lo rằng văn
học sử của ta sau này "không được tốt đẹp" (trang 18).
Quyển Văn học đời Lý này lẽ tự nhiên là không thể dồi dào được. Nếu
người ta hiểu công việc biên khảo hiện nay ở nước ta như thế nào, người ta
sẽ thấy biên chép và phiên dịch cho được từng ấy bài cũng đã công phu rồi.
* * *
Đọc những sách của Ngô Tất Tố, người ta thấy ông viết gần đủ các loại
văn, nào phóng sự, tiểu thuyết, rồi nào biên khảo, dịch thuật và cả phê bình
nữa; nhưng trái hẳn với sự tin tưởng của người ta đối với những nhà Hán
học, Ngô Tất Tố đã không xuất sắc ở loại biên khảo bằng ở loại phóng sự và
tiểu thuyết phóng sự. Những tập phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của ông
về dân quê, người ta phải công nhận là những tập có giá trị về tài liệu, đầy đủ
về sự thiết thực. Ngô Tất Tố là một nhà văn của hạng dân quê nghèo và dốt.
Có lẽ ở loại biên khảo, ông thiếu phương pháp chăng? Nếu người ta
chê bai Ngô Tất Tố, người ta chỉ có thể chê bai ông ở điều này: "Ông viết sai
chữ quốc ngữ quá. Ông trộn lẫn tr với ch, X với s, và d, gi với r. Đó là một
điều quan hệ mà hình như ông không để ý đến. Vì nếu đặt vào một thứ tiếng
ngoại quốc như tiếng Pháp chẳng hạn, thì nó là những fautes d'orthgraphe
mà một văn gia không thể phạm vào được.
Trích sách Nhà văn hiện đại, quyển ba.
Nxb Vĩnh Thịnh, H. 1951
VỀ HAI BỘ SÁCH: "VIỆT NAM VĂN HỌC” VÀ "THI VĂN BÌNH CHÚ" CỦA NGÔ TẤT TỐ
THANH LĂNG
Ngô Tất Tố là tác giả nhiều thiên phóng sự và tiểu thuyết như Việc làng
(1940), Tắt đèn (1939), Lều chõng (1941), và nhiều sách phê bình như Văn
học đời Lý (1942), Văn học đời Trần (1942), Thi văn bình chú (cuốn một), Thi
văn bình chú (cuốn hai).
Ngô Tất Tố là một nhà phê bình văn học, hay một nhà văn học sử đi
vào con đường nghiên cứu văn học theo con đường bình văn và giảng văn.
Ông có hai bộ phê bình văn học. Bộ thứ nhất đề là Việt Nam văn học.
Bộ này theo như tác giả có giới thiệu, gồm có sáu cuốn: Văn học đời Lý (cuốn
I), Văn học đời Trần (cuốn II và cuốn III), Văn học đời Lê (cuốn IV và V), Văn
học đời Nguyễn (cuốn VI). Nhưng cho đến nay Ngô Tất Tố mới cho xuất bản
hai cuốn, tức cuốn Văn học đời Lý và cuốn Văn học đời Trần cuốn I, ngoài ra
ông còn bộ Thi văn bình chú gồm hai cuốn: cuốn thứ nhất trích và phê bình
văn về các đời Lê, Mạc, Tây Sơn; cuốn hai về triều Nguyễn và cận kim.
Phương pháp và đường lối làm việc ở cả hai bộ tương tự như sau:
Không đề cập đến nền văn học cổ, nếu gộp cả hai bộ lại đại khái chúng ta
cũng có một ý niệm về văn học Việt Nam từ đầu cho đến thế kỷ XIX.
Bộ thứ nhất tuy gọi là Việt Nam văn học mà thực ra là bộ tuyển dịch
văn thì đúng hơn. Gọi là văn học đời Lý hay văn học đời Trần mà thực ra
cũng chỉ có một bài gọi là "lời bàn chung" độ mươi trang về văn học đời Lý,
hay đời Trần. Sau đó mỗi khi đề cập đến một nhà văn thì chỉ kể sơ qua vài
dòng tiểu sử, trích một bài văn, với mỗi bài trích đều có phiên âm chữ Nho,
chú thích, dịch ra văn vần và giải nghĩa ý tứ của bài thơ.
- Văn học đời Lý (1942): 130 trang
Ngoài bài, "Nói đầu" (nói về việc thiếu tài liệu) và bài "Lời bàn chung"
(nói về lịch sử văn học đời Lý), cuốn Văn học đời Lý cho chúng ta viết về thân
thế của hai mươi ba nhà văn:
1 - Văn Hạnh thiền sư (939 - 1018): 1 bài thơ
2 - Thái Tôn (giữa thế kỷ XI): 2 bài
3 - Huệ Minh thiền sư (? - 1063): 1 bài
4 - Cứu Chỉ thiền sư (phần trên thế kỷ XI): 1 bài
5 - Nhân Tôn: 2 bài
6 - Viên Chiếu thiền sư (998 - 1090): 2 bài
7 - Mãn Giác thiền sư (cuối thế kỷ XI): 1 bài
8 - Ngộ Ấn thiền sư (1020 - 1088): 1 bài
9 - Chân Khống thiền sư (? - 1100): 1 bài
10 - Đoàn Văn Khâm (cuối thế kỷ XI):3 bài
11 - Không Lộ thiền sư (? - 1119): 1 bài
12 – Đạo Hạnh thiền sư: 2 bài
13 - Giác Hải thiền sư (cuối thế kỷ XI): 1 bài
14 - Viên Học thiền sư (giữa thế kỷ XII): 1 bài
15 - Đạo Huệ thiền sư (giữa thế kỷ XIII): 1 bài
16 - Bảo Giám thiền sư (giữa thế kỷ XII): 2 bài
17 - Khánh Hỷ thiền sư (1067 - 1142): 1 bài
18 - Bản Tĩnh thiền sư (cuối thế kỷ XII): 1 bài
19 - Tĩnh Giới thiền sư (cuối thế kỷ XII): 1 bài
20 - Quảng Nghiêm thiền sư (giữa XII): 1 bài
21 - Thường Chiếu thiền sư (cuối XII): 1 bài
22 - Trí thiền: 1 bài
23 - Hiện Quang thiền sư: 1 bài
24 - Ba bài tản văn vô danh.
Trong hai mươi ba nhà văn nhắc tên và trích văn, 19 người là nhà sư.
Trong khi nói đến một nhà văn, Ngô Tất Tố chỉ căn cứ vào lịch sử để
cho một vài nét khô khan về tiểu sử của nhà văn và trích dịch một bài văn làm
ví dụ, không bình phẩm gì. Thái độ của Ngô Tất Tố về văn học đời Lý, phải
đọc ở bài "Lời bàn chung" in ở đầu sách và bài "Kết luận" in ở cuối sách. Mà
ở cả hai bài, việc làm của 9 cũng chỉ là ghi nhận một ít sự kiện lịch sử của
triều Lý. Về phần tư tưởng ông chỉ ghi nhận được rằng về đời này, Nho và
Lão ít ảnh hưởng nhưng cũng đã có cơ sở, còn Phật học thì toàn tịnh.
- Văn học đời Trần (1942) dày 288 trang.
Cuốn Văn học đời Trần đề cập đến bảy nhà văn và một ít văn vô danh:
1 - Thái Tôn (1198 - 1258) (1218 - 1277): 5 bài
2 - Thánh Tôn (1240 - 1290): 6 bài
3 - Trần Quang Khải (1241 - 1294): 5 bài
4 - Trần Quốc Tuấn (1252 - 1300): 1 bài
5 - Trần ích Tắc (1253 - 1328): 9 bài
6 - Lê Tắc (cuối XII đầu XIII): 7 bài
7 - Nhân Tôn (1248 - 1308): 13 bài
8 - Bốn bài vô danh.
Khá hơn cuốn Văn học đời Lý, trong Văn học đời Trần, Ngô Tất Tố mỗi
khi nói đến nhà văn nào thường có hạ một đôi lời khen chê. Nhưng giá trị phê
bình là ở bài "Lời bàn chung", nhận định tổng quát về văn học đời Trần (1225
- 1400).
Trong 14 trang, "Lời bàn chung" đã làm một tổng hợp tình hình văn học
đời Trần, tức là một khoảng lịch sử dài hơn 150 năm (từ 1225 đến 1400).
Sau khi nhận định rằng văn học đời Trần trội hẳn hơn văn học đời Lý,
ông coi sự nghiệp cách mạng của Hồ Quý Ly như là đỉnh chót của sự cực
thịnh văn học đời Trần. Bài này chia làm hai phần, phần đầu nói về lịch trình
văn học, phần hai nói về tình trạng học thuật giáo dục. Trong phần I, ông
phân các văn phẩm đời Trần làm sáu loại:
Loại I: chính trị:
1 - Quốc triều thống chế: (mất)
2 - Kiến trung thường lệ (mất)
3 - Công văn cách chức (mất)
4 - Hoàng triều đại điển (mất)
Loại II: Lý thuyết:
1 - Kim cương kinh chú giải (mất)
2 - Khá hư lục, Thái Tôn (còn)
3 - Đoạn sách lục (chưa tìm được)
4 - Ngọc Tiên tập ("")
5 - Thiên lăm thiết chuỷ ngữ lục, Nhân Tôn (chưa tìm được)
6 - Tứ thư thuyết ước (mất)
7 - Minh đạo lục, Hồ Quý Ly (mất)
Loại III: Sử truyện:
1 - Hoàng triều ngọc điệp, Thái Tôn (mất)
2 - Đại Việt sử ký, Lê Văn Hưu (còn)
3 - Việt sử cương mục (mất)
4 - Trung hưng thực lục (chưa thấy)
5 - Tăng già toái sư (nguyên tập chưa có)
6 - Thiền uyển tập anh ngữ lục (còn)
Loại IV: Thơ văn:
1 - Thiền tông chỉ nam, Thái Tôn (còn)
2 - Thái Tôn thi tập (còn)
3 - Thánh Tôn thi tập (còn)
4 - Nhân Tôn thi tập (còn)
5 - Đại Hồng Hải ấn thi tập (còn)
6 - Minh Tôn Thi tập (còn)
7 - Thuỷ văn tuỳ bút (còn)
8 - Nghệ Tôn thi tập (còn)
9 - Sầm Lân tập (còn)
10 - Lạt đạo tập (còn)
11 - Băng Hồ ngọc bác tập (còn)
12 - Cùng cực ngâm (còn)
13 - Phi Sa tập, Hàn Thuyên (mất)
14 - Giới Hiên thi tập, Nguyễn Trung Ngạn (còn)
15 - Tiểu ấn thi tập (còn)
16 - Giới Thạch tập (còn)
17 - Cúc Đường di cảo (còn)
18 - Thảo nhàn hiện tần (còn)
Loại V: Giáo dục:
19 - Cô cừu lục (mất)
20 - Đào hoà dư bút (mất)
21 - Quốc ngữ thi nghĩa, Hồ Quý Ly (mất)
Loại VI: Võ bị:
22 - Binh gia yếu lược, Trần Quốc Toản (mất)
Phần hai bàn về:
1 - Việc thi cử
2 - Việc học
3 - Các thuật Nho, Lão, Khổng.
Nhắc việc tăng ni phải đăng lính đi đánh giặc, không được trọng đãi.
- Thi văn bình chú (1942)
Thi văn bình chú là một bộ bình văn gồm có hai cuốn Cuốn I gồm một
bài tựa và đề cập đến 12 nhà thơ có tên tuổi và bài thơ vô danh:
1 - Nguyễn Trãi.
2 - Lê Thánh Tôn.
3 - Ngô Chi Lan
4 - Nguyễn Bỉnh Khiêm
5 - Lê Quý Đôn
6 - Nguyễn Gia Thiều
7 - Vũ Huy Lượng
8 - Phan Huy ích
9 - Ngọc Hân công chúa
10 - Dương Xuân Hầu
11 - Tạ Đình Hầu
12 - Phạm Đan Phượng
13 - Di Thần nhà Lê
Trong bài thơ "Lời của biên giả", Ngô Tất Tố đã trình bày phương pháp
của ông:
1 - Định ranh giới, phạm vi sách
2 - Chương trình: có ba cuốn (thiếu cuốn ba "vô danh")
3 - Cách trình bày:
- Tiểu sử
- Tham khảo so sánh
- Chú thích
- Giải thích
- Phê bình
- Thi văn bình chú (cuốn 11)
1 - Nguyễn Du
2 - Nguyễn Công Trứ
3 - Bà huyện Thanh Quan
4 - Lý Văn Phức
5 - Cao Bá Quát
6 - Phan Thanh Giản
7 - Cao Bá Nhạ
8 - Hồ Xuân Hương
9 - Nguyễn Khuyến
10 - Dương Khuê
11 - Dương Lâm
12 - Chu Mạnh Trinh
13 - Vũ Phạm Hàm
14 - Trần Tế Xương
Thi văn bình chú không phải là một tập phê bình văn học mà chỉ là một
tập giảng văn, nhưng là một tập giảng văn rất công phu. Chủ đích của tác giả
có hai, một là giải thích, hai là đính chính: "Theo ý tôi, thì những văn thơ quốc
âm đời xưa, hết thảy xuất hiện trong đời khoa cử, hầu hết vẫn có ảnh hưởng
Hán học ở trong. Nếu xét cho kỹ, người ta sẽ thấy thể tài, điển tích và tính
chất của các bài đó phần nhiều đều do Hán học mà ra. Chẳng bao lâu nữa
Hán học sẽ hết. Những chỗ dính líu đến Hán học đó nếu không được giải
thích rõ ràng thì người không có Hán học còn hiểu sao được?
Những người sao lục và những nhà xuất bản thơ văn quốc âm nói trên
hình như không chịu chú trọng chỗ đó; có người bỏ không giải thích, có người
giải thích cực kỳ sơ lược, lại có người tự tiện đặt ra điển tích để loè độc giả.
Đó là chưa nói đến những chỗ lộn xộn, chữ này chép ra chữ khác, văn của
người nọ cho là văn của người kia. Bộ sách này ra đời, mục đích thứ nhất là
muốn bổ chính chỗ đó". Lối soạn thi văn hợp tuyển theo như Ngô Tất Tố
không những có ích cho học sinh mà cho tất cả những ai muốn hiểu các thơ
văn cổ. Phương pháp giảng văn của ông, ông đã tự tóm tắt như thế này: "Vì
muốn độc giả biết qua thân thế của tác giả, hoặc giả có thể nhân đó mà tìm
ảnh hưởng văn chương của từng người, cho nên dưới mỗi tác giả - trừ ra ít
nhiều kê cứu chưa được - đều có một thiên tiểu sử sơ lược. Lại vì muốn cho
độc giả đọc bài nào hiểu được phẩm giá của bài ấy, nên trong mỗi bài đều có
phụ thêm mấy mục: mục tham khảo đề so sánh những chỗ tác bản in chép
khác nhau, hoặc để tìm kiếm những sự liên lạc đến bài hay đến đầu đề, mục
chú dẫn để chua những điển tích trong bài đã dùng, mục giải thích để giải
những chỗ ý nghĩa sâu xa khó hiểu và mục phê bình để định phẩm giá từng
bài từng câu".
Nếu về phần phê bình, Ngô Tất Tố đã sơ lược và nhất là quá ư cổ điển
bao nhiêu, thì, về phương diện chú thích, ông đã kỹ lưỡng, thần tình bấy
nhiêu. Nhiều khi ông dịch ra văn xuôi cả một bài văn vần, mà dịch rất khéo,
sát nghĩa. Nhờ phiên dịch và phê bình, văn chương trở nên sáng sủa và thú
vị cho những người không được sành văn như ông. Công việc của Ngô Tất
Tố là ở chỗ đó. Ngô Tất Tố đã làm tròn phận sự của ông, cái phận sự của một
nhà giảng văn.
Cũng như Dương Quảng Hàm, Ngô Tất Tố là một nhà phê bình giáo
điều cổ điển rất đứng đắn, đã có công nhiều đối với văn học. Việc làm của
ông bao giờ cũng đứng đắn và cẩn tắc: ông dẫn chứng rất đàng hoàng chứ
không bao giờ mập mờ. Tất cả Ngô Tất Tố là ở chỗ ấy.
Trích sách Phê bình văn học thế hệ 1932, quyển 2
Phong trào Văn hóa (Sài Gòn) xuất bản, 1973
NGÔ TẤT TỐ DỊCH THƠ LÝ TRẦNTRẦN THỊ BĂNG THANH
I. Bản Dịch:
1. CÁO TẬT THỊ CHÚNG
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Mãn Giác (1052 - 1069)
Dịch nghĩa:
CÓ BỆNH BẢO MỌI NGƯỜI
Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa lại nở
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu
Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết
Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân.
Dịch thơ:
Xuân trỗi, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mặt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước, một cành mai.
(Văn học đời Lý)
2 - VĂN QUẢNG TRÍ THIỀN SƯ:
Lâm loan bạch thủ, độn kinh thành
Phất tụ cao sơn viễn cánh hinh
Ký nguyện tịnh cân xu trượng tịch
Hốt văn di lý yếm thiền quynh
Trai đình u điếu không đề nguyệt
Một tháp thuỳ nhân vị tác minh
Đảo hí bất tu thương vĩnh biệt
Viện tiền sơn thuỷ thị chân hình
Đoàn Văn Khâm (đời Lý)
Dịch nghĩa:
VIẾNG THIỀN SƯ QUẢNG TRÍ
Xa lánh kinh thành vào nơi rừng núi bạc đầu
Phất tay áo trên núi cao, càng xa càng ngát hương
Đã mấy lần những muốn chít khăn tu hành đến hầu bên chiếu
Bỗng nghe sư qua đời, cánh cửa chùa đã khép
Trước sân trai tiếng chim khuya khắc khoải kêu dưới trăng
Trên tháp mộ, có ai vì người mà viết bài minh
Các bạn tu hành chớ nên đau thương vì nỗi vĩnh biệt
Sông núi trước chùa, chính là hình ảnh chân thực của người.
Dịch thơ:
Lánh chợ, vào rừng, tóc bạc phơ
Non cao rũ áo nát hương thừa
Trùm khăn những muốn hầu bên chiếu
Treo dép đà nghe khép cửa chùa
Trăng dọi sân trai, chim khắc khoải
Tháp không bia chữ, mộ thờ ơ
Bạn thiền thôi cũng đừng thương xót
Non nước ngoài am, đó dáng xưa
(Văn học đời Lý)
3 - CUNG VIÊN XUÂN NHẬT ỨC CỰU
Cung muôn bán yếm kính sinh đài
Bạch trú trầm trầm thiếu vãng lai
Vạn tử thiên hồng không lạn mạn
Xuân hoa như hứa vị thuỳ khai
Trần Thánh Tông (1240 - 1290)
Dịch nghĩa:
NGÀY XUÂN TRONG VƯỜN NGỰ NHỚ NGƯỜI CŨ
Cửa cung khép hờ, lối đi rêu mọc
Giữa ban ngày mà sâu lặng, ít người qua lại
Muôn tía nghìn hồng rực rỡ suông mà thôi
Hoa xuân đẹp như thế kia vì ai mà nở.
Dịch thơ:
Cửa ngõ lờ mờ dấu bụi rêu
Chìm chìm ngày bạc vẻ đìu hiu
Đầy vườn rực rỡ hồng chen tía
Hoa khéo vì ai vẫn nở nhiều
(Văn học đời Trần)
4. ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN
Địa tịch đài du cố
Thời lai xuân vị thâm
Vân sơn tương viễn cận
Hoa kính bán tình âm
Vạn sự thuỷ lưu thuỷ
Bách niên tâm ngữ tâm
Ỷ lan hoàng ngọc dịch
Minh nguyệt mãn lưng khâm
Trần Nhân Tông (1258 - 1308)
Dịch nghĩa:
LÊN NÚI BẢO DÀI
Đất hẻo lánh, đài thêm cổ kính
Theo thời tiết, mùa xuân về chưa lâu
Núi mây như xa như gần
Ngõ hoa nửa rợp, nửa nắng
Muôn việc như nước đẩy nước trôi
Trăm năm lòng lại như lòng
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc
Ánh trăng sáng chan hoà trước ngực
Dịch thơ:
Đất vắng, đài thêm cổ
Ngày qua, xuân chửa nồng
Gần xa, mây núi ngất
Nắng rợp, ngõ hoa thông
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng ngủ lòng
Tựa lan nâng ống sáo
Đầy ngực ánh trăng lồng
(Văn học đời Trần)
II - Lời bình:
Cho đến nay, dịch thơ, nhất là dịch thơ chữ Hán vẫn tồn tại những
quan niệm chưa thật thống nhất, mặc dù cái đích nhằm đạt tới chỉ là một. Đó
là bản dịch phải đúng, và hay. Để đạt tới tiêu chuẩn ấy, một số dịch giả (và
các nhà nghiên cứu) cho rằng bản dịch nhất thiết không được thêm, bớt một
chi tiết nào so với nguyên bản, số khác lại yêu cầu bản dịch chỉ cần truyền đạt
được "cái thần" của nguyên tác, dịch là một quá trình "đồng sáng tạo". Giở lại
lịch sử văn học nước nhà, nước tác phẩm dịch thành công có lẽ thuộc cách
dịch theo quan niệm thứ hay. Tỳ bà hành, Chinh phụ ngẫm và nhiều bài dịch
thơ Đường luật của Tản Đà thuộc loại đó. Người đọc có thể khó quên nét tài
hoa, phóng khoáng của thi sĩ Tản Đà trong những bài dịch thơ Đường luật.
Song, Ngô Tất Tố lại thành công một cách khác, những bài dịch của ông rất
chân chất, mộc mạc và có thể nói là sát từng chữ. Thông thường cách dịch
đó dễ làm cho bản dịch gò ép, gượng gạo, dễ vì chi tiết mà đánh mất "cái
thần". Tuy nhiên Ngô Tất Tố không mắc thiếu sót đó. Sử dụng ngôn ngữ giản
dị, mộc mạc nhưng Ngô Tất Tố đã diễn tả được một cách thanh thoát suôn sẻ
tất cả những ý tứ vi diệu nhất của con người, từ nhận thức trí tuệ đến những
rung động tình cảm. Nỗi tiếc thương vị sư đạo cao đức trọng trước cảnh
chùa, niềm bâng khuâng "nhớ bạn cũ" của vua Trần Thánh Tông trong cung,
cái nhìn đạt quang và lạc quan, vừa siêu thoát vừa thấm đậm tình đời của
thiền sư Mãn Giác đều được chuyển dịch rất hay và đúng. Đặc biệt, bài Đăng
Bảo Đào sơn dịch giả như còn dịch được cái âm hưởng sâu xa lắng đọng của
nguyên tác. Bài thơ của Trần Nhân Tông chẳng những thần thái đã tinh vi mà
cảnh vật cũng xảo diệu. Ở đây có màu sắc, dường như có cả âm thanh, có
"cái tĩnh", "cái động", có bao la vũ trụ và có cái lòng riêng một người. Ngô Tất
Tố đã chuyển được những cái vi diệu ấy sang bài dịch và thần tình là gần như
ông đã "dịch từng chữ". Đã có người ngại rằng thể thơ năm chữ cô đúc quá,
mấy từ "ngõ hoa thông" và "nước trôi nước" có thể khiến độc giả ngày nay
khó hiểu nên "kỳ cạch" dịch lại thành thơ thất ngôn, như sau:
Đất vắng, đền đài thêm cổ xưa
Xuân sang, vừa đó mới theo mùa
Gần xa, thấp thoáng ngàn mây núi
Nắng rợp, mơ hồ một ngõ hoa
Nước đẩy nước trôi, đời vạn sự
Tâm nghe lòng nhủ, một mình ta
Nâng ngang ống sáo bên thềm vắng
Đầy ngực trăng trong toả ánh ngà
Bài dịch mới cũng không đến nỗi nào, nó thể hiện được tâm trạng cô
đơn, nỗi buồn man mác của nhà thơ. Nhưng dường như mấy chữ thêm vào:
vừa đó, thấp thoáng, mơ hồ, vắng đã làm lộ quá nỗi buồn khiến cho bài thơ
mất đi chất cô đọng, vẻ kín đáo và ý vị "khách quan" - nói cho muôn thuở của
nguyên tác. Vì lẽ đó, Thơ văn Lý - Trần tập II, quyển thượng vẫn không có
thêm một bản dịch khác mà vẫn để bản dịch theo Ngô Tất Tố, có nghĩa là
mạn phép dịch giả sửa lại một vài chữ. Dịch giả Ngô Tất Tố vẫn "độc quyền".
Làm thơ, viết văn để lại dấu ấn đã khó, nói chi đến dịch. Vậy mà có thể
Tản Đà và Ngô Tất Tố là những dịch giả đã để lại những dấu ấn của phong
cách cá nhân. Điều đó cũng hiếm và chính là cống hiến riêng, lớn của hai
ông.
Trích sách Ngô Tất Tố với chúng ta,
Nxb Hội nhà văn, H. 1993
NGÔ TẤT TỐ DỊCH THƠ ĐƯỜNGNGÔ VĂN PHÚ
Ông chắc cũng mê thơ Đường lắm. Là nhà văn, nhà báo có tài,
nhưng ông là đầu xứ, ông không mê thơ Đường sao được. Thế là ông dịch:
lúc đầu để đăng báo, sau đó ông tập hợp in thành sách... Dịch thơ Đường,
Ngô Tất Tố không tài hoa như Tản Đà, song không phải không có bài ông
dịch Tản Đà cũng phải chịu. Chẳng hạn như ông dịch bài Sơn phòng xuân sự
của Sầm Tham:
SƠN PHÒNG XUÂN SỰ
Lương viên nhật mộ loạn phi nha
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia
Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phác cựu thời hoa
Dịch:
Trời tối vườn Lương quạ dập dìu
Nhà xa mấy nóc cảnh đìu hiu
Cây xuân chẳng biết người đi hết
Xuân tới, hoa xưa vẫn nở đều
Bài dịch không những lột được ý, mà vẫn truyền cảm, câu một, câu hai
rất sát nghĩa. Câu ba, bốn dịch thoát mà vẫn nguyên ý, nguyên cảm.
Có bài ông chuyển thơ luật Đường sang thể lục bát, bài dịch xem ra
ngọt ngào, đậm đà dư vị hơn, chẳng hạn như bài Tự quân chi xuất hĩ của
Trương Cửu Linh
Tự quăn chi xuất hĩ
Bất phục ý tàn ky
Tư quân như nguyệt mãn
Dạ dạ giảm thanh huy
Ngô Tất Tố dịch:
Từ ngày chàng bước chân đi
Cái khung dệt cửi chưa hề dúng tay
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm...
Bản dịch này có những từ truyền cảm hơn nguyên tác, chẳng hạn bất
phục ý mà dịch "chưa hề dúng tay" thì quả là đắt. Hai câu cuối, chữ vầng
sáng hao gầy làm cho nỗi xa xót có khi còn thống thiết hơn cả nguyên văn là
giảm thanh huy...
Ở bài Tòng quân hành của Dương Quýnh, hai câu cuối:
Ninh vi bách phu trưởng
Thắng tác nhất thư sinh
Ông đầu xứ họ Ngô dịch:
Thà làm anh bếp lính
Hơn đóng bác đồ ngông
thì tưởng khó có ai dịch tài hơn được.
Lại trong bài Quy Chung Nam sơn của Mạnh Hạo Nhiên, hai câu:
Bất tài minh chủ khí
Đa bệnh, cố nhân sơ...
hai câu này trở thành như một cách ngôn về nỗi đời, dịch cũng không
dễ chút nào. Cụ Tố dịch:
Kém tài, vua chúa bỏ
Hay ốm, bạn bè xa...
rồi tiếp đến hai câu:
Bạch phát thôi niên lão
Thanh dương bách tuế trừ
mà dịch là:
Tóc bạc đưa già đến
Ngày xanh giục Tết qua
thì đã nối được ý trên liền ý dưới mà thổi thêm hồn cho câu thơ vậy...
Ngô Tất Tố hẳn là một người mê đắm thơ Đường...
Trích sách Ngô Tất Tố với chúng ta, Nxb Hội Nhà văn, H. 1993
THAY LỜI BẠT NGÔ TÂT TỐ TÀI NĂNG VÀ TẤM LÒNGMAI HƯƠNG
Ngô Tất Tố sinh năm 1893 tại làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Ông mất ngày
20 - 4 - 1954 tại Yên Thế, Bắc Giang chỉ ít tuần lễ trước khi cuộc kháng chiến
chống Pháp kết thúc thắng lợi. Sự nghiệp văn học của Ngô Tất Tố khởi đầu
bằng tác phẩm dịch Cẩm hương đình (1923) và khép lại với vở chèo 10 cảnh
Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác 91951). Ba mươi năm cầm bút miệt mài, say mê,
bằng tài năng và tâm huyết, trên nhiều tư cách: nhà tiểu thuyết, phóng sự,
nhà báo, nhà khảo cứu, dịch thuật... Ngô Tất Tố đã để lại một sự nghiệp văn
chương đồ sộ và đa dạng từ tiểu thuyết, phóng sự (Tắt đèn, Việc làng, Lều
chõng, Tập án cái đình, Trong rừng Nho); Truyện ký lịch sử (Gia đình Tổng
trấn tả quân Lê Văn Duyệt, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (Viết
chung), LỊch sử Đề Thám (Viết chung)...) đến khảo luận, nghiên cứu (Phê
bình "Nho giáo" của Trần Trọng Kim, Mặc Tử, Lão tử, Thi văn bình chú, Văn
học đời Lý, Văn học đời Trần); những công trình dịch thuật (Đường thi, Hoàng
Lê Nhất Thống Chí, Ngô Việt xuân thu, Hoàng hoa Cương, Suối thép, Trời
hửng, Trước lửa chiến đấu)... và hàng trăm bài tiểu phẩm báo chí. Điều đáng
quý hơn là Ngô Tất Tố và sự nghiệp văn chương của ông vẫn sống mãi "sống
khỏe mạnh và sắc xảo trong văn học ta" như sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân
đánh giá về ông. Vượt lên sự phôi pha vốn như một quy luật sàng lọc tự
nhiên, sòng phẳng và nghiêm ngặt của thời gian, khối trước tác khổng lồ, đa
dạng của Ngô Tất Tố càng ngày càng hiện hình lừng lững, càng lấp lánh vẻ
đẹp của một tài năng, một tấm lòng, một nhân cách lớn. Và càng có giá trị tự
thân khẳng định vị trí đầy vinh dự của Ngô Tất Tố trong dòng văn học hiện
thực phê phán Việt Nam cũng như vị trí xứng đáng của ông trong nền văn học
sử dân tộc.
Năm 1996, đồng thời với Giải thưởng Hồ Chí Minh cao quý của nhà
nước trao tặng cho di sản văn học của Ngô Tất Tố, nhà xuất bản Văn học
cũng đã xuất bản toàn tập Ngô Tất Tố, năm tập, trên 4000 trang in. Khởi trong
nguồn mạch hiện thực của đời sống, gắn với quỹ đạo nghệ thuật vị nhân sinh,
khơi sâu vào những tầng vỉa giá trị nhân văn sâu xa với ý thức, tấm lòng và
tâm huyết của một người cầm bút yêu nước, tiến bộ luôn tâm nguyện: "phải
hoạt động, phải xông pha, phải lăn lộn luôn luôn với dân chúng". Chính nhờ
vậy, khối trước tác của Ngô Tất Tố đã là khối tài sản vô giá, khẳng định một
cách thuyết phục sức sống của một tài năng lớn, một sự nghiệp lớn của nhà
văn - nhà văn hoá Ngô Tất Tố.
* * *
Ngô Tất Tố xuất thân Nho học. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia
đình nhà nho nghèo. Ông nội nhà văn từng lận đận bảy khoá thi hương mới
đậu đến tú tài. Cha ông sau 6 lần "lều chõng" về không, đành ngậm ngùi cam
phận thầy đồ ở một làng quê nghèo. Bản thân Ngô Tất Tố dẫu có tài học và
đã từng đỗ đầu xứ trong một kỳ khảo hạch, vẫn trắng tay sau hai lần "lôi thôi
sĩ tử", lăn lộn ở trường thi. Thuộc thế hệ nhà nho cuối mùa, trực tiếp sống
"Trong rừng Nho", từng chứng kiến cảnh chợ chiều của nền Hán học và từ
thực tế "lều chõng" của mình, của người thân trong gia đình, Ngô Tất Tố hiểu
đến chân tơ kẽ tóc sự ruỗng nát của chế độ thi cử phong kiến và sự lụi tàn
của Hán học. Ông không bảo thủ, ngược lại còn sáng suốt nhận rõ sự lỗi thời,
bất lực của bọn hủ nho, quả quyết nhìn nhận, đánh giá lại thực chất của Nho
giáo, của khoa cử phong kiến và thân phận của người trí thức Nho học Việt
Nam qua hàng loạt tác phẩm và các công trình nghiên cứu: Phê bình "Nho
giáo của Trần Trọng Kim, Mặc tử, Lão tử, Kinh dịch, Trong rừng Nho... đặc
biệt tiểu thuyết Lều chõng.
Chính sự thức thời ấy giúp Ngô Tất Tố không những không ngơ ngác
tụt lại phía sau như hầu hết các môn đệ của Khổng Mạnh cùng thế hệ đang!...
lạc bước trong thời đại mới... vẫn bơ vơ đứng giữa ngã ba với nước cơn mưa
gió cát bụi để chờ ngày chấm dấu hết cho trang lịch sử Hán học của nước
Việt Nam, mà còn bứt vươn lên "thở hút cái không khí xã hội của K. Manx
như tất cả những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu" và thực sự là một "nhà
nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư tưởng mới... theo kịp cả những nhà
văn thuộc phái tân học xuất sắc nhất" như nhà văn Vũ Ngọc Phan từng đánh
giá.
Cũng chính sự thức thời ấy đã giúp Ngô Tất Tố sau ngày Cách mạng
tháng Tám 1946 thành công đã sớm tìm thấy điểm gặp gỡ cùng là sức mạnh
cho ngòi bút mình trong con đường lớn của dân tộc; giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, đảm bảo quyền dân chủ, quyền sống, quyền tự do cho người
lao động. Và bởi vậy, ông nhiệt tâm chào đón cách mạng, hồ hởi tham gia Hội
văn hóa cứu quốc, gia nhập Đảng Cộng sản, gắng đem hết tâm huyết và
năng lực của mình phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân: làm ca dao, làm
thơ, làm báo, viết truyện, sáng tác chèo và dịch những tác phẩm văn học tiến
bộ của thế giới... Những trang viết nóng bỏng hiện thực của đời sống kháng
chiến: Quà tết bộ đội, Buổi chợ trung du, Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác... cùng
nhiều bản dịch: Suối thép, Trời hửng, Trước lửa chiến đấu... đã ghi nhận bản
lĩnh, tấm lòng và đóng góp quý giá của một cây bút tài năng, của một nhà nho
nghèo yêu nước, thương dân luôn cố gắng nhịp bước với những tư tưởng
tiến bộ của dân tộc, của thời đại. Đặt trong hoàn cảnh nền văn nghệ kháng
chiến chống Pháp, khi vấn đề "nhận đường" đang là vấn đề cấp thiết, mang ý
nghĩa sống còn đối với mỗi người nghệ sĩ, ta càng quý, và trân trọng sự "quả
quyết" chọn đường của nhà văn "quả quyết thay chiếc bút lông bằng bút sắt,
rồi khi kháng chiến bùng nổ, ông lại quả quyết đi cùng dân tộc, Ngô Tất Tố
vững vàng thêm, quvết liệt hơn, sắc bén hơn trong hàng ngũ giai cấp công
nhân, chiến đấu với ngòi bút yêu dấu của mình". Có thể nói, trọn vẹn cuộc đời
cầm bút của mình "nhà văn lão thành giàu kinh nghiệm", "thực học, thực tài"
Ngô Tất Tố đã tận tuỵ nhiệt tâm "đem hết cả cái vốn hiểu biết về nông thôn,
về Hán học, vừa sáng tác, vừa phiên dịch, vừa khảo cứu, góp một phần công
lao khá lớn vào việc xây dựng nền văn học Việt Nam".
* * *
Là một nhà nho nghèo, Ngô Tất Tố từng phải chung chia cái nghèo, cái
đói của một gia đình triền miên phải lĩnh thêm ruộng làng để cày cấy và
thường xuyên phải oằn lưng chịu những gánh nợ lãi. Cái nghèo, cái đói đã ăn
vào, lẫn vào thành máu, thành thịt của nhà văn. Lại cũng sinh ra và lớn lên ở
một vùng quê nghèo, giữa những cuộc đời khốn khổ luôn bị cột chặt trong
vòng vây của đói khát, tù túng, bóc lột, chà đạp, của những hủ tục quái dị,
nặng nề... suốt cuộc đời, kể cả khi phải cách xa làng quê, lăn lộn viết báo, viết
văn kiếm sống, Ngô Tất Tố vẫn thiết tha gắn bó trái tim mình với những con
người nghèo khổ, cần cù, nhân ái vốn rất gần gũi với cuộc sống của ông.
Hoàn cảnh đó, sợi dây tình cảm đó khiến Ngô Tất Tố dễ dàng cảm thông sâu
sắc và luôn tìm mọi cách sẻ chia, bênh vực đến cùng những con người "nhỏ
bé", "mờ xám" đang quằn quại trong khổ đau, bất hạnh, đồng thời cũng khiến
ông căm ghét và tố cáo đến cùng bọn quan lại thống trị "một phần nguyên
nhân trong cảnh thống khổ của dân chúng", cảm thông, yêu thương và căm
ghét, tố cáo - đó chính là tố chất cơ bản, là linh hồn, là máu thịt của từng
trang văn, tạo nên tính hiện thực sâu sắc và giá trị nhân văn sâu xa trong văn
nghiệp của Ngô Tất Tố, cũng chính điều đó lý giải vì sao Vũ Trọng Phụng đã
đánh giá rất cao Ngô Tất Tố. Theo Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố hơn bất cứ
nhà văn nào cùng thời, là người có "đủ tư cách", "đủ thẩm quyền" để viết và
đã là người viết ra thật cảm động những trang sách "đáng khóc, đáng cười"
về cảnh sống cơ cực ở thôn quê và của người dân quê thời thực dân, phong
kiến: Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình... và hàng chục tiểu phẩm báo chí
đặc sắc, trong đó có những trang tuyệt bút như Làm no hay cái ăn trong
những ngày nước ngập...
Nói đến tác phẩm xuất sắc nhất của Ngô Tất Tố và cũng là tác phẩm
xuất sắc nhất viết về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, không
thể không đề cập đến Tắt đèn: "một cuốn tiểu thuyết có luận đề xã hội... hoàn
toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng
thấy", theo đánh giá của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố viết Tắt đèn năm 1937,
ít lâu sau vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình ra đời, trong ảnh hưởng
của phong trào. Mặt trận Dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở thời điểm
đó, vấn đề nông dân, vấn đề đấu tranh, chống lại chính sách sưu thuế, áp
bức bóc lột của bọn thực dân, quan lại, địa chủ, cường hào, đòi cải thiện đời
sống cho người dân cày là một vấn đề lớn, trọng tâm của cách mạng. Đó
cũng là một đề tài lớn, phổ biến của văn học, nơi để lại những thành tựu nghệ
thuật sáng giá trong văn nghiệp của những nhà văn tên tuổi: Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan... Tuy vậy, không một cây bút nào đề cập đến vấn đề
nông dân một cách thiết tha, tập trung như Ngô Tất Tố. Lòng yêu nước,
thương dân, tình cảm gắn bó với số phận người nông dân lao động vốn như
một nội lực của ngòi bút Ngô Tất Tố, khiến nhà văn có thể nhanh chóng tiếp
thu và tiếp thu một cách chân thành, tự nhiên tinh thần dân chủ, tiến bộ của
phong trào Mặt trận Dân chủ. Chính sự gặp gỡ giữa yêu cầu của thời đại, của
cách mạng và sự thôi thúc bên trong của ngòi bút Ngô Tất Tố đã tạo nên nét
đặc sắc và thành công xuất sắc của ông trong mảng đề tài nông dân, nông
thôn nói chung và tiểu thuyết Tắt đèn nói riêng.
Trước Cách mạng tháng Tám, thuế má là tai hoạ khủng khiếp nhất đối
với người nông dân. Xoáy sâu vào thuế thân - một thứ thuế vô nhân đạo nhất
trong chính sách thuế khoá dã man của chế độ thuộc địa, Tắt đèn đã phơi bày
đến tận cùng bản chất bóc lột xấu xa, bẩn thỉu của chế độ thực dân phong
kiến Việt Nam. Thuế đánh vào người sống. Thuế đánh cả vào những cái xác
chết. Vì suất thuế của chồng và cái thẻ sưu của người em chồng "chết dở
năm Tây" mà bọn quan Tây và vua quan ta đang cố kiết "dựng dậy, đòi cho
kỳ được cái suất sưu", "món nợ nhà nước đó" (Nguyễn Tuân), mà chị Dậu bị
dồn đẩy đến bước đường cùng: phải bòn bán hai gánh khoai (chút lương ăn
cuối cùng của đàn con nhỏ và cả gia đình), bán chó, rồi bán con và cuối cùng
bán xứ đi ở vú cho nhà quan huyện, cả một chuỗi tai hoạ thắt buộc số phận
người đàn bà. Khơi sâu vào nỗi thống khổ và số phận thê thảm của người
dân quê, Tắt đèn, do vậy, là bản tố khổ quyết liệt, bênh vực quyền sống của
họ. Quả quyết, sắc xảo vạch mặt chỉ tên cả một bộ máy thống trị của quan
Tây, quan ta, nghị viện, địa chủ, cường hào gian ác đã làm nên "cái tối giời,
tối đất" (Nguyễn Tuân) ở nông thôn, Tắt đèn đồng thời là bản án đanh thép
kết tội bọn quan lại thống trị hà hiếp, đục khoét người nông dân. Nhưng
không chỉ thấu hiểu, sẻ chia nỗi thống khổ không cùng với người lao động
nghèo trong cuộc sống lầm lụi, bị giày vò, đày đoạ, Ngô Tất Tố còn phát hiện
ở họ những tình cảm đẹp đẽ, nhân ái, cao thượng và bản lĩnh kiên cường bất
khuất. "Trên cái tối giời, tối đất của đồng lúa ngày xưa", Ngô Tất Tố đã dựng
lên "sừng sững cái chân dung lạc quan của chị Dậu", khoẻ khoắn, lành
mạnh", tiêu biểu cho hình ảnh khoẻ khoắn, ngòi sáng của người phụ nữ nông
dân Việt Nam, một điển hình phụ nữ nông dân xuất sắc nhất của văn học Việt
Nam trước cách mạng tháng Tám. Giá trị nhân văn của tác phẩm, do vậy
càng sâu sắc. Có thể nói, Ngô Tất Tố là người duy nhất trong số các nhà văn
cùng thời có được cái nhìn nhất quán, đầy trân trọng, yêu thương như vậy đối
với người nông dân. Tắt đèn xứng đáng là một "áng văn mới mẻ nhất về loại
văn chương xã hội ngày nay", "Một thiên kiệt tác hoàn toàn phụng sự dân
quê... khiến người đọc phải có những tư tưởng cải tạo xã hội", một trong
những thành tựu nghệ thuật xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực Việt
Nam trước cách mạng. Suốt trong sáu thập kỷ qua, Tắt đèn đã được tái bản
nhiều lần, và giá trị của cuốn tiểu thuyết ngày càng được khẳng định vững
chãi hơn, ở những tầng vỉa giá trị hiện thực và nhân văn cao sâu hơn.
* * *
Cùng với sưu cao thuế nặng, nạn cho vay nặng lãi... hủ tục cũng là
những tai vạ khủng khiếp dẫn đến những thảm cảnh bi đát, tuyệt vọng cho
người nông dân. Viết Việc làng, Tập án cái đình và nhiều bài tiểu phẩm, Ngô
Tất Tố đã cảm thông chia sẻ sâu sắc với nỗi thống khổ uất ức của người dân
quê phải quằn quại, điêu đứng dưới sự hành hạ của những gánh hủ tục nặng
nề, vô lối. Mở đầu Việc làng, qua tâm sự của cụ Thượng Lão Việt trong giờ
phút hấp hối, Ngô Tất Tố đã bày tỏ rõ quan điểm của ông: "Những tục lệ quái
gở, mọi rợ đó kế tiếp nhau chồng chất lên vai chúng tôi. Nhiều lúc tôi muốn
hất cái gánh nặng ấy đi, nhưng sức một mình không thể làm nổi, đành phải è
cổ mà chịu. Một người chăm chỉ, cần kiệm, lao lực như tôi, chỉ vì một gánh lệ
tục đè ép, đến nỗi suốt đời không ngóc đầu được, bây giờ sắp chết, gánh lệ
tục ấy vẫn còn đè ép chưa tha, ông bảo có oan uổng không? Vậy mà nó vẫn
được coi như vị thần thiêng, không ai đả động đến nó. Lạ thay!". Suốt trong
cả cuốn phóng sự Việc làng, bằng vốn tài liệu phong phú, bằng cách nhìn sâu
sắc, tinh vi và văn phong đanh thép sắc xảo như một lời cáo trạng, nhiều khi
đậm chất châm biếm chua cay, bằng lối thuật "tả... như vẽ ra trước mắt"
người đọc, Ngô Tất Tố đã bóc trần không kiêng nể cái "quái gở, mọi rợ" của
những "vị thần thiêng" ấy. Vì một đám vào ngôi hay Hạt gạo xôi mới, nhiều
người đã mất cả cơ nghiệp từng chắt chiu khốn khó gây dựng cả đời; vì một
chức lý cựu và một Góc chiếu giữa đình, nhiều kẻ đã phải bán cả ruộng, cả
trâu mà vẫn phải gánh thêm công nợ; vì lo một cỗ oản tuần sóc, người ta phải
dỡ cả mái nhà đang trú thân làm củi đem bán giữa trận mưa giông; vì một
Tiệc ăn vạ của làng, người ta phải uất ức thắt cổ tự vẫn; vì lo chạy một bữa lệ
làng làm tang cho vợ, người ta phải chịu một Món nợ chung thân, suốt đời
kéo xe trả nợ; vì không chạy đủ tiền Mua cỗ cho một đứa trẻ mới năm tuổi,
người ta phải bỏ làng ra đi, v.v... và v.v... Biết bao điêu đứng, biết bao nhiêu
khê, nhục nhằn. Có lẽ không ai có thể nói được cặn kẽ và thấm thía đến thế
mọi khía cạnh của cái "việc làng" ở chốn hương quê xưa bằng sự hiểu biết,
bằng sự cảm thông chia sẻ, bằng sự lo lắng và cả nỗi xót xa, đau đớn đến
như Ngô Tất Tố. Bản chất cây bút Ngô Tất Tố ráo riết, không nửa vời, và bởi
thế cũng như nhiều tác phẩm khác (ngay cả những bài báo, tiểu phẩm) ở Việc
làng ông không dừng lại ở những hiện tượng mà đi sâu lý giải, phanh phui
bản chất đê tiện cùng những thủ đoạn bẩn thỉu của một lũ lĩ cường hào, địa
chủ, chánh tông, lý trưởng, chánh hội, chưởng lễ... đại diện trực tiếp cho chế
độ thực dân phong kiến ở nông thôn. Chúng cố bám vào các hủ tục, tìm cách
duy trì các hủ tục "quái gở, mọi rợ" ấy để trói buộc, bóp nặn đục khoét dân
lành. Việc làng do vậy góp phần tích cực vào việc chống lại khuynh hướng
phục cổ, "bảo tồn quốc tuý" thâm hiểm mà bọn thực dân phong kiến thời đó
lớn tiếng hô hào nhằm phục vụ cho thủ đoạn ngu dân, bóc lột của chúng.
Có thể nói, Tập án cái đình, Việc làng cùng với nhiều tiểu phẩm báo
chí: Bắc Ninh cầu cứu, Một cái thảm trạng, Mời ông Gôdar thăm mấy nơi
này... đặc biệt Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập - thiên tuyệt
bút về nghệ thuật "làm no", nghệ thuật đánh lừa cái đói... đã là sự bổ sung có
ý nghĩa cho Tắt đèn và cùng với Tắt đèn làm nên bức tranh toàn cảnh về tấn
bi kịch lớn của người dân quê Việt Nam trước cách mạng: người nông dân bị
giày vò, chèn ép, bị đe doạ, tước đoạt, bị bủa vây, triệt hạ bằng mọi cách, ở
mọi nơi, trong mọi lúc: nạn sưu cao, thuế nặng, nạn cho vay nặng lãi, nạn "xôi
thịt", nạn đói, nạn rét và biết bao thiên tai hoạn nạn khác, mà bao trùm là nạn
quan lại thống trị Tây và Ta "bóp hầu, bóp cổ, nạo tận xương tuỷ" họ. Quả là
tiếng nói nghệ thuật của Ngô Tất Tố đã đáp ứng thiết thực nguyện vọng của
người nông dân và những vấn đề cấp thiết trong đời sống cách mạng dân tộc
dân chủ của dân tộc. Ngô Tất Tố thực sự là nhà văn xuất sắc nhất của nông
thôn và của những kiếp người dân quê lầm than, đói khát Việt Nam trước
Cách mạng tháng Tám.
* * *
Sau thành công của Tắt đèn, Ngô Tất Tố viết tiểu thuyết Lều chõng,
"một quyển sách có giá trị... khơi gợi ngọn lửa tàn của một thời đại khoa cử
của ông cha chúng ta thuở xưa". Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã tạo được sự
chú ý trong công luận. Quả là "ngọn bút đầy sức mạnh Ngô Tất Tố, trong địa
hạt của mình hoạt động được dễ dàng và vạch được tỉ mỉ tất cả hủ tục mục
nát của khoa cử, trình bày được khúc triết những phút vinh nhục của khoa cử"
và lật được "mặt trái chế độ khoa cử ngày xưa". Lều chõng dựng lại bức tranh
chân thật, xám ngoét, vừa bi thảm, vừa khôi hài về thực chất chế độ giáo dục
nhồi sọ và nền khoa cử mục nát dưới triều Nguyễn, đồng thời phản ánh tấn bi
kịch đau xót của trí thức Nho học dưới chế độ phong kiến. Qua ngòi bút châm
biếm sắc xảo của Ngô Tất Tố, trường thi "như một sân khấu rạp tuồng", nơi
các quan giám khảo múa may "giống hệt những quan phường chèo", nơi "sặc
mùi hôi thối của bã văn chương", ở đó, các sĩ tử xô đẩy nhau, gian lận, hối lộ,
cúi đầu, uốn gối... cố giành giật cho được mảnh bằng; ở đó, diễn ra bao nhiêu
tấn thảm kịch thương tâm cho các sĩ tử. Kẻ khóc, người cười. Những "anh
hùng hỏng thi" thì tuyệt vọng kêu gào thảm thiết, uống rượu say "nôn thốc
nôn tháo khắp cả đường cái", ném gạch đá vào cửa trường, rồi "gào chán,
khóc chán, họ lại đành đạch giãy ở mặt đường như những người ngộ gió". Kẻ
đỗ thì "nhảy như con choi choi" giữa phố và reo "sỏ lợn về ai!". Những ông
tiến sẽ may mắn đỗ đạt, "vinh quy bái tổ" cũng chỉ "giống như những ông
nghè bằng giấy mà hàng năm đến rằm tháng Tám, người ta vẫn trông thấy ở
cỗ "trông trăng"..."
Có thể nói, hiếm có nhà "cựu nho" nào lại có thể nhạy cảm, lại sớm
sáng suốt nhìn thấu và mạnh dạn phê phán, luận rõ công tội của chế độ khoa
cử phong kiến, của hủ nho đến như Ngô Tất Tố: "Lều chõng với nước Việt
Nam không khác một ông tạo vật đã chế tạo đủ các hạng người hữu dụng
hoặc vô dụng. Chính nó đã làm cho nước Việt Nam trở nên một nước có văn
hóa, rồi lại chính nó đã đưa nước Việt Nam đến cõi diệt vong. Vì nó, nước
Việt Nam trong một thời kỳ rất dài hiện ra nhiều cảnh tượng kỳ quái có thể
khiến cho người ta phải cười, phải khóc, phải rùng rợn, hồi hộp". Đặt trong
tương quan với các tác giả và tác phẩm cùng thời, trên cùng một bình diện
như: Nhà nho, Bút nghiên, Thanh đạm, Lều chõng đã cho thấy một cách nhìn
nhận, một thái độ, quan điểm tiến bộ, thức thời của Ngô Tất Tố trong nhu cầu
phê phán và cải cách xã hội. Lều chõng do vậy đã góp phần chống lại phong
trào phục cổ, sùng Nho mà chính quyền thực dân phong kiến đang ra sức
tuyên truyền dưới chiêu bài "bảo tồn quốc tuý" nhằm "đem những cặn bã của
cửa Khổng, sân Trình mà nhồi mãi vào óc độc giả", "cổ động dân quê nên duy
trì cái thói tục ở góc điếm, sân đình" và "hô hào bạn gái cứ giữ gìn cái sinh
hoạt ở cửa buồng, xó bếp". Đặt trong hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, Lều
chõng thật sự là "tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai đang khao khát muốn
trở về với cái thời đại hoàng kim của kẻ sĩ" và là đòn giáng trả mạnh mẽ vào
chế độ phong kiến và những kẻ muốn lấy đạo Nho làm nền tảng để "tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ".
* * *
Từ xuất phát điểm của một nhà nho, nếu như một mặt Ngô Tất Tố đã
nỗ lực vượt qua những hạn chế của thế hệ mình và "vượt khỏi cái thế hệ của
mình" để tiến kịp thời đại, tiến kịp "những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu",
thì mặt khác ông lại cũng nỗ lực phát huy ưu thế từ vốn Hán học, vốn văn hóa
phương Đông vững vàng của mình để có những đóng góp đáng quý trên lĩnh
vực phê bình, nghiên cứu, dịch thuật. Ở một phương diện nào đó, có thể nói
đó cũng là một sự bứt vượt của ông so với phần lớn thế hệ "Tây học" đương
thời. Ông phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim là một thứ "Trần Trọng Kim
giáo", chẳng những cố ý thêm bớt, xuyên tạc mà còn cố tình đề cao những
mặt tiêu cực, lỗi thời của Nho giáo, coi đó như "khuôn vàng thước ngọc" cho
giáo lý đời nay. Từ những công trình nghiên cứu nghiêm túc, có giá trị: Mặc
tử, Lão tử, Ngô Tất Tố cố gắng gạn khơi những yếu tố tiến bộ trong các học
thuyết cố góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề triết học, văn hóa, chính trị
đương thời. Nhờ vậy, phần lớn các công trình nghiên cứu của Ngô Tất Tố
đều có giá trị thực tiễn, thiết thực. Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc vốn đã
được nung nấu, ấp ủ, được biểu hiện khá tập trung qua nhiều tập truyện ký
lịch sử: Gia đình tổng trấn tả Lê Văn Duyệt, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành
thất thủ, Lịch sử Đề Thám... giờ đây càng được biểu hiện sâu đậm, thiết tha
hơn trong những công trình khảo cứu, biên soạn đầy công phu, tâm huyết và
có giá trị của ông về di sản văn hóa dân tộc. Bộ Thi văn bình chú và đặc biệt
là hai cuốn Văn học đời Lý, Văn học đời Trần trong bộ Văn học Việt Nam,
chẳng những ghi nhận công phu sưu tầm, nghiên cứu miệt mài cùng những
dấu ấn tài hoa của dịch giả Ngô Tất Tố, mà cao hơn là tấm lòng trân trọng, là
ý thức giữ gìn và phát huy vốn có dân tộc, ngay từ buổi đầu đất nước còn nô
lệ. Ông đã có công chuẩn bị, đặt nền tảng cho công việc nghiên cứu, biên
soạn những công trình đồ sộ, trọn vẹn về tinh hoa văn hóa dân tộc như bộ
Thơ văn Lý - Trần ngày nay. Tuy nhiên, ở những công trình mang tính chất
"khai phá" như vậy, khó tránh khỏi những khiếm khuyết, đặc biệt trong khâu
sưu tầm, khảo cứu văn bản mà một số bài viết đã trao đổi với tác giả. Ý kiến
đánh giá bài viết Phê bình "Nho giáo" của Trần Trọng Kim: "Bài phê bình rất
sâu sắc, thâm thuý, giá trị... viết rất cẩn thận, cân nhắc từng chữ, giải thích
từng câu, chứng minh từng điểm", thái độ viết "hoàn toàn có tính cách phê
bình", có thể coi là "mẫu mực" cho loại văn phê bình và thực sự là "trái bom
nặng ký trong làng báo, làng văn", cũng là sự đánh giá tương đối thống nhất
của giới nghiên cứu, phê bình không chỉ với bài Phê bình "Nho giáo" của Trần
Trọng Kim mà với cả mảng sách khảo cứu, biên soạn của Ngô Tất Tố.
Dịch thuật cũng là lĩnh vực ghi dấu những đóng góp vừa tài hoa, độc
đáo, vừa thiết thực, đáng trân trọng của Ngô Tất Tố. Ông là một trong số rất ít
những dịch giả "để lại được những dấu ấn của phong cách cá nhân" bằng
những bản dịch "chân chất mộc mạc và có thể nói là sát từng chữ" mà vẫn
"diễn tả được một cách thanh thoát suôn sẻ tất cả những ý tứ vi diệu nhất của
con người, từ nhận thức trí tuệ đến những vang động tình cảm". Sau gần sáu
thập kỷ, đến nay những bản dịch Hoàng Lê nhất thống chí, Đường thi, Thơ
văn Lý - Trần của ông vẫn được coi là những công trình đạt đến độ "tín, đạt,
nhã", có giá trị về văn học, sử học. Những năm cuối đời ở chiến khu Việt Bắc,
trong những điều kiện khó khăn, cùng với những công việc trực tiếp phục vụ
kháng chiến, Ngô Tất Tố vẫn miệt mài dịch những tác phẩm văn học tiến bộ
của thế giới, góp phần tích cực động viên, khích lệ quần chúng kháng chiến
kiến quốc.
* * *
Nhưng "Ngô Tất Tố trước hết là một nhà báo, một nhà báo cả những
khi viết tiểu thuyết, một nhà báo có biệt tài", "là một tay ngôn luận xuất sắc
trong đám nhà nho... làng báo Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ cũng như độc giả,
hẳn không ai mà lại không biết danh tiếng người ra đời từ hồi thi sĩ Nguyễn
Khắc Hiếu chủ trương An Nam tạp chí, đã viết nhiều bài đại luận, khảo cứu,
bút chiến, phê bình nhiều truyện lịch sử rất có giá trị trong nhiều tuần báo và
tạp chí cả Nam lẫn Bắc"... Dưới nhiều bút danh: Thiết Khẩu Nhi, Thục Điều,
Dân Chơi, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân, Phở Chi, Ngô Công, Tuệ Nhơn, Cội
Giang, Thuyết Hải, Xuân Trào, Đạm Hiên, Hi Cừ... trong ngót hai thập kỷ, ngòi
bút Ngô Tất Tố đã tung hoành ngang dọc trên nhiều tờ báo Bắc - Trung -
Nam: An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần Chung, Phụ nữ tân văn,
Phổ thông, Đông Phương, Thực nghiệp, Công dân, Hải Phòng tuần báo, Con
ong, Tương lai, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Đông thanh, Trung Bắc chủ nhật,
Thời vụ, Hà Nội tân văn...
Tạp văn, nơi những cây bút tài năng đã làm nên văn nghiệp lớn, cũng
chính là mảnh đất Ngô Tất Tố biểu hiện tài năng và tâm huyết của ông, cũng
là nơi ghi nhận phần thành công và đóng góp quan trọng trong văn nghiệp
của Ngô Tất Tố. Vốn là nhà Nho uyên thâm, cương trực, khinh ghét sự giả
dối, ti tiện, lại là người luôn quan tâm đến thời thế, đến vận mệnh dân tộc và
số phận của những người lao động nghèo khổ, Ngô Tất Tố đã dùng ngòi bút
đấu tranh đến cùng chống lại xã hội thực dân phong kiến đang chà đạp lên
quyền sống của con người. "Khi viết tiểu phẩm, ông (Ngô Tất Tố) không để
cho thể văn này trượt sang phía khôi hài phù phiếm. Ông đã làm được như
Lỗ Tấn nói: "Văn tiểu phẩm muốn tồn tại thì phải là mũi dao nhọn, là khẩu
súng, có thể mở một con đường sống bằng máu". Chính từ quan niệm ấy,
trong hoàn cảnh rất khó khăn, không ít nhà báo cùng thời ngả nghiêng chao
đảo, Ngô Tất Tố vẫn kiên định viết những bài tiểu phẩm, báo chí "trung thực
nhất, cảm động nhất", và "những mũi tên ông bắn đi luôn trúng đích và trúng
chỗ hiểm nghèo nhất". Ông quả là "một nhà báo bút chiến, bút chiến đối với
Ngô Tất Tố như cá với nước". Ông đứng khá vững trên lập trường dân chủ,
tiến bộ để mà quyết liệt phanh phui, để mà dõng dạc kết án, để mà "chôn
sống" kẻ thù và bênh vực lớp dân nghèo, những người "muốn sống không
được sống, muốn chết không được chết", đang quằn quại trong cảnh đói khát
đến tuyệt vọng "vì bóc lột, vì thiên tai, vì thất nghiệp". Như một bộ biên niên
sử của xã hội Việt Nam suốt những thập kỷ đầu thế kỷ XX, di sản báo chí của
Ngô Tất Tố giúp người đọc hình dung bức tranh toàn cảnh chân xác về xã hội
thực dân phong kiến Việt Nam. Ở đó là đời sống thành thị với những sự nhố
nhăng, lộn xộn, nhiễu nhương trong những chuyển động giao thoa cũ – mới;
là đời sống nông thôn với những thắt buộc, tối tăm tù túng, đói nghèo, điêu
đứng, ở đó có vấn đề của đời sống vật chất miếng cơm, manh áo và cả
những vấn đề nhức nhối của phong hoá, đạo đức, tâm linh... Bao trùm lên tất
cả là bộ mặt thật của bọn quan lại thống trị thực dân phong kiến - thủ phạm
gây nên cảnh thống khổ của dân chúng. Ngô Tất Tố đã vạch mặt, kết tội
chính xác và đích đáng từ những kẻ "tai to mặt lớn": thống đốc, thống sứ...
đến bọn quan lại, địa chủ, tư sản, nghị viên cùng tất cả các tổ chức bịp bợm
của chúng: Hội Khai trí tiến đức, Viện dân biểu bù nhìn... Ông cũng lật tẩy bộ
mặt thật của bọn "dây máu ăn phần" hoặc lợi dụng "đục nước béo cò" kiếm
ăn, làm giàu trên nỗi khốn khó của dân lành: từ bọn cho vay nặng lãi, bọn
lang băm "dao câu thuyền tán" đến bọn buôn thánh, bán thần.
Từ góc độ của người trong cuộc, nói những điều chất chứa từ đáy lòng
mình, trên cái gốc yêu nước thương dân, với quan điểm tiến bộ, sự nhiệt
thành và tính chiến đấu mạnh mẽ, triệt để, di sản báo chí của Ngô Tất Tố do
vậy mang nội dung xã hội sâu sắc. Nó góp phần tích cực vào việc xoá bỏ
những cái xấu xa, thối nát của xã hội cũ, đồng thời cũng "chiến đấu cho
những tư tưởng mới đang nảy mầm: tự do, dân chủ, bình đẳng, lao động".
Cùng với nội dung xã hội sâu sắc, tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đã
đạt đến một trình độ nghệ thuật xuất sắc. Ông vừa có tài viết "mỗi ngày một
truyện" lại có tài viết "mỗi bài một kiểu". Ròng rã hơn mười năm, ông đã viết
trên trăm bài báo, nhưng hầu như không có sự đơn điệu, tẻ nhạt, trùng lặp,
ngược lại luôn khơi gợi được sự yêu thích hấp dẫn nơi công chúng. Điều đó
thể hiện một nghệ thuật vững vàng, đặc sắc, một thế mạnh riêng có ngòi bút
Ngô Tất Tố. Quả là "sự kết hợp tài hoa hai thiên chức (nhà báo và nhà văn) ở
một con người, hai phẩm chất văn chương và báo chí ở một cây bút, đã góp
phần tạo nên những tiểu phẩm xuất sắc của Ngô Tất Tố". Nó "vừa mang đầy
đủ đặc điểm của tiểu phẩm báo chí lại vừa là những tiểu phẩm văn học... có
giá trị văn học". Nó "kết hợp được sức thuyết phục lôgíc với sức truyền cảm
bằng hình tượng thẩm mỹ và do vậy luôn tạo được ấn tượng đậm và sự
truyền cảm sâu sắc cho người đọc. Có thể nói, chỉ riêng với tác phẩm báo chí
đã có thể thấy được tài năng đa dạng, độc đáo trong nghệ thuật của ngòi bút
Ngô Tất Tố. Khi thâm thuý, sắc xảo, khi đanh thép, dứt khoát, khi dí dỏm, hài
hước, khi khoẻ khoắn, đôn hậu, khi châm biếm sâu cay... và bao trùm là cách
lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục, giàu sức truyền cảm, vốn kiến thức
xã hội phong phú, vốn học vấn, văn hóa uyên thâm. Chính nghệ thuật đặc sắc
già dặn, cùng với nhiệt tình chiến đấu và nội dung xã hội sâu sắc đã tạo nên
phong cách độc đáo, giá trị và sức sống lâu bền cho di sản báo chí của Ngô
Tất Tố - một nhà báo "cự phách" của làng báo Việt Nam suốt trong nhiều thập
niên đầu thế kỷ XX này.
* * *
Văn nghiệp lớn, đa dạng của Ngô Tất Tố đã thu hút được sự quan tâm
của giới nghiên cứu phê bình, giảng dạy văn học và đông đảo công chúng.
Sáu thập kỷ qua, kể từ bài viết đầu tiên của Vũ Trọng Phụng về tiểu thuyết
Tắt đèn (1939) đến nay, đã có cả trăm bài viết, công trình đi sâu khám phá
các phương diện khác nhau trong thế giới nghệ thuật đa dạng, độc đáo của
nhà văn. So với nhiều cây bút cùng thời (ngay cả các nhà vàn cùng trào lưu
văn học hiện thực trước cách mạng) những ý kiến đánh giá về Ngô Tất Tố và
văn nghiệp của ông khá ổn định, thống nhất, trong xu hướng khẳng định
những thành tựu, phần đóng góp lớn và vị trí trang trọng của ông - một nhà
văn "thực học - thực tài", một nhân cách trong sáng cao đẹp - trong nền văn
học dân tộc. Tuy nhiên, nhận thức, khám phá là một quá trình. Từ những bất
cập, phiến diện ít nhiều trong những giai đoạn đầu, giới thiệu nghiên cứu, phê
bình ngày càng đi tới những khám phá sâu sắc hơn, toàn diện hơn, đúng với
tầm cỡ và đóng góp quý giá của nhà văn.
Bước vào thập niên 90, đặc biệt những hoạt động nhân kỷ niệm 100
năm năm sinh nhà văn Ngô Tất Tố (1993): Bộ văn hóa Thông tin, Hội Nhà văn
Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Viện Văn học tổ chức hội thảo khoa học với
nhiều bản tham luận sâu sắc, đánh giá một cách toàn diện về sự nghiệp của
nhà văn, đi sâu vào phương diện tiểu phẩm báo chí trước đó còn chưa được
quan tâm nghiên cứu; báo Văn nghệ ra số chuyên san về Ngô Tất Tố; nhà
xuất bản Hội Nhà văn cho xuất bản cuốn Ngô Tất Tố với chúng ta; Nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin xuất bản cuốn Ngô Tất Tố - nhà văn hóa lớn; cùng với
việc xuất bản Ngô Tất Tố toàn tập (5 tập) sưu tầm, công bố một cách đầy đủ
toàn bộ văn nghiệp của Ngô Tất Tố... đã tạo điều kiện thuận lợi để các nhà
nghiên cứu phê bình, giảng dạy có dịp tiếp cận đầy đủ hơn, có được cái nhìn
bao quát, tổng thể hơn về thân thế và sự nghiệp của Ngô Tất Tố. Quả là "ở
con người Ngô Tất Tố là sự quy tụ, hoà hợp của nhiều con người trong một
con người: nhà nho Ngô Tất Tố với vốn kiến thức học vấn uyên thâm về cố
học, nhà trí thức với khuynh hướng xã hội tiến bộ, nhà văn hiện thực am hiểu
và bênh vực quyền lợi người nông dân, nhà báo năng động với ngòi bút giàu
tính chiến đấu. Nếu tách riêng, trên mỗi lĩnh vực "Ngô Tất Tố là người viết sâu
sắc và bộc lộ hết mình", ông "luôn làm ta kinh ngạc vì cách đặt vấn đề xã hội
từ các tầng tiềm ần sâu xa của sự sống và của cả nền văn hóa và vì sự nhạy
cảm, thức thời, cập nhật của thời sự, của hiện tại". Nhưng "tổng hợp lại, ông
càng lớn trong những tầng hiểu sâu xa về cuộc sống con người, về xã hội và
thời cuộc, về tri thức và văn hóa, về văn chương và học thuật". Bằng những
nỗ lực khám phá, ở thập niên 90 này, các nhà nghiên cứu, phê bình đã được
một chân dung xác thực về nhà văn vui một sự nghiệp lớn - đa dạng và độc
đáo.
* * *
Ba mươi tuổi Ngô Tất Tố bước vào làng văn, làng báo và suốt ba mươi
năm còn lại của cuộc đời, ông chân thành, miệt mài đem ngòi bút cống hiến
trọn vẹn cho sự nghiệp cách mạng, cho nền văn hóa dân tộc. Con đường ông
đi là con đường thẳng, từ khởi điểm nhà nho nghèo, yêu nước, thương dân
để đến với cách mạng, đến với Đảng và trở thành nhà văn cách mạng. Ba
mươi năm Ngô Tất Tố hoạt động văn học cũng là ba mươi năm của những
biến động, thăng trầm dữ dội trong đời sống chính trị, xã hội và văn học dân
tộc. Nhưng Ngô Tất Tố không hề chao đảo, nghiêng ngả. Ông tự tin và quả
quyết sống hết mình, viết hết mình trong nỗ lực và mong mỏi: ngòi bút mình
hữu ích cho xã hội, cho con người. Thức thời nhưng không xu thời, nghèo
nhưng không hèn. Vượt trên mọi hư danh, cám dỗ, Ngô Tất Tố: "đã biết đánh
đổi cơm áo để lấy cái quyền viết theo chỉ thị của trái tim mình", trái tim chỉ
thuộc về đất nước mà ông hết lòng yêu thương, chỉ thuộc về nhân dân mà
ông thiết tha gắn bó. Chính đó là cái lõi để tạo nên tài năng lớn, đa dạng nơi
ông trong nhiều tư cách: một cây bút tiểu thuyết, phóng sự xuất sắc, một nhà
báo "cự phách", "có biệt tài", một nhà khảo cứu, dịch thuật giàu tâm huyết, và
bao trùm là tư cách một nhà văn hóa lớn. Chính đó cũng là cái lõi tạo nên giá
trị đặc sắc riêng trong di sản văn hóa đồ sộ của Ngô Tất Tố, là cơ sở chắc
chắn để khẳng định vị trí vững vàng của ông trong nền văn học dân tộc.
Hà Nội 9 - 1999 MAI HƯƠNG
NIÊN BIỂU NGÔ TẤT TỐ1893
Sinh tại làng Ngọc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là xã
Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Cha là một nhà nho nghèo.
Thuở nhỏ, học với cha ở các trường hàng tổng thuộc mấy huyện Lang Tài,
Thuận Thành, đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
1912
Thi hỏng kỳ thi hạch đệ nhất.
1915
Đỗ đầu trong kỳ thi hạch đệ nhất của Bắc Ninh, nên từ đó còn có tên
gọi ông "đầu xứ Tố". Nhưng lại hỏng trong kỳ thi đệ nhị, khoa thi cuối cùng
của chế độ khoa cử bằng chữ Hán. Sau đó làm nghề dạy học và bốc thuốc ở
quê.
1923
Bắt đầu con đường hoạt động văn học với tác phẩm dịch từ Trung Văn:
Cẩm Hương Đình, in tại Tản Đà tu thư cục (do Tản Đà mở từ 1922, tại 58 phố
Hàng Bông).
1926
Được Tản Đà mời viết cho An Nam tạp chí. Chính thức bước vào nghề
làm báo. An Nam tạp chí ra được mười số thì bị đình bản. Tản Đà vào Sài
Gòn theo đuổi nghề báo, Ngô Tất Tố trở về quê.
1927
Vào Sài Gòn, cùng với Tản Đà tham gia viết báo cho tờ Đông Pháp thời
báo do Diệp Văn Kỳ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Ba tháng sau vào Sài Gòn,
Tản Đà trở ra Hà Nội, Ngô Tất Tố tiếp tục ở lại Sài Gòn làm báo, viết cho hai
tờ: Đông Pháp thời báo và Thần chung cho đến cuối 1930.
1928
Cho đăng một phần bản dịch cuốn tiểu thuyết lịch sử Ngô Việt xuân thu
trên tờ An Nam tạp chí do Tản Đà tục bản.
1929
Tiếp tục làm báo ở Sài Gòn; Xuất bản tại Sài Gòn hai tác phẩm dịch
Ngô Việt xuân thu và truyện ký về 72 nhà cách mạng Trung Quốc bị giết hại
năm 1911: Hoàng Hoa Cương.
1930
Cuối năm, trở ra Hà Nội. Tiếp tục viết cho các báo: Phổ thông (1930 -
1931), Đông Phương (1931), Công dân (1935), Hải Phòng tuần báo (1935),
Tương lai (1936 - 1937), Thời vụ (1938 - 1939), Hà Nội tân văn (1940), Đông
Pháp (1942), đồng thời gửi bài cho nhiều tờ báo khác: Con ong, Việt nữ, Tiểu
thuyết thứ ba... dưới nhiều bút danh: Phó Chi, Thôn Dân, Thiết Khẩu Nhi, Lộc
Hà, Xứ Tố, Lộc Đình, Thục Điểu, Tuệ Nhỡn, Đạm Hiên, Thuyết Hải, Hy Cừ,
Xuân Trào...
1935
Viết chung với L.T. Sinh cuốn truyện ký lịch sử Những trận đổ máu hồi
người Pháp mới sang (in được 9 tập mỏng thì bị đình bản). Sau đó, NXB Mai
Lĩnh gộp lại thành cuốn Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ.
Viết chung với N.N.T.Q tức Trần Huy Thông cuốn truyện ký Lịch sử Đề
thám.
Mở hiệu thuốc bắc Thọ dân y quán, dịch sách thi học cho Nhật Nam
thư quán.
Viết phóng sự Dao cầu thuyền tán, đăng trên báo Công dân.
Cũng năm này bị chính phủ thực dân cấm không cho viết tờ Hải Phòng
tuần báo, bắt dời hiệu thuốc về quê, trục xuất khỏi các thành phố lớn:
Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định.
1936
Dăng truyện ngắn Một ổ chó và một đứa con (một chương của tiểu
thuyết Tắt đèn sau này) trên báo Tương lai.
1937
Tắt đèn được in đầy đủ trên tờ Việt nữ. Viết tập truyện ký lịch sử Gia
đình Tổng trấn tả quân Lê Văn Duyệt và các truyện ngắn Cái bánh chưng và
trời tối. Tiểu thuyết Vua Tây chúa Nguyễn được đăng trên Tiểu thuyết thứ ba,
số 1 (2 - 3 - 1937).
1938
Đăng Phê bình "Nho giáo" của Trần Trọng Kim trên báo Thời vụ.
1939
Phóng sự tiểu thuyết Lều chõng được quảng cáo trên báo Thời vụ, số
109 (10 - 3 - 1939) và đăng nhiều kỳ trên báo này từ số 112 (21 - 3 - 1939)
đến số 153 (1 - 9 - 1939). Cho đăng phóng sự Tập án cái đình trên báo Con
ong. NXB Mai Lĩnh ấn hành tiểu thuyết Tắt đèn. Cũng năm này, tiểu thuyết
Tắt đèn bị cấm lưu hành tàng trữ, Ngô Tất Tố bị sở mật thám khám nhà và
bắt giam bốn tháng.
1940
NXB Mai Lĩnh ấn hành cuốn Thơ và Tình (dịch một số thiên tình sử
Trung Quốc) và cuốn Phê binh "Nho giáo" của Trần Trọng Kim (nghiên cứu),
NXB Tân Dân ấn hành cuốn Đường thi (dịch thơ Đường). Đăng phóng sự
Việc làng trên báo Hà Nội Tân văn.
1941
NXB Mai Lĩnh ấn hành cuốn tiểu thuyết Lều chõng, phóng sự Việc làng
và Thi văn bình chú (tập thơ văn chọn lọc của đời Lê, Mạc và Tây Sơn).
1942
NXB Mai Lĩnh ấn hành hai cuốn Văn học đời Lý (tập 1), Văn học đời
Trần (tập 2) trong bộ Việt Nam văn học (bộ sách được sưu tầm nghiên cứu,
giới thiệu tinh hoa văn học dân tộc). Cũng NXB Mai Lĩnh ấn hành hai cuốn
Lão Tử (soạn chung với Nguyễn Đức Tịnh) và Mặc tử. Đăng bản dịch tiểu
thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống trí của Ngô Gia Văn Phái trên báo Đông
Pháp từ số 14 - 4- 1942.
1943
NXB Mai Lĩnh ấn hành tác phẩm Kinh dịch do Ngô Tất Tố chú giải.
1945
Ở quê Lộc Hà, tham gia Uỷ ban giải phóng xã.
1946
Gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, là nhà văn cao tuổi nhất lên chiến khu
Việt Bắc tham gia kháng chiến. Cùng với Nguyên Hồng, Kim Lân, Trần Văn
Cẩn, Tạ Thúc Bình đến ở ấp Cầu Đen, Yên Thế, Bắc Giang.
1946-1954
Hoạt động ở Hội Văn nghệ Việt Nam với cương vị người phụ trách Chi
hội Văn nghệ Việt Bắc; Hoạt động ở Sở Thông tin khu XII; tham gia viết bài
cho các báo Cứu quốc khu XII, Thông tin khu XII; Tạp chí Văn nghệ, báo Cứu
quốc Trung ương.
Tiếp tục viết văn trên thể loại: ca dao, diễn ca, truyện, ký sự, chèo phục
vụ kịp thời công cuộc kháng chiến kiến quốc của dân tộc: Vĩnh Thuỵ ca, Quà
Tết bộ đội, Buổi chợ trung du, Anh Lộc...
Dịch, giới thiệu các tác phẩm về đề tài cách mạng và kháng chiến của
Liên Xô và Trung Quốc:
- Suối thép (dịch tiểu tuyết của nhà văn Liên Xô Xêraphimôvích về Cách
mạng tháng Mười Nga, 1948, qua tiếng Trung Quốc).
- Trước lửa chiến đấu (dịch truyện vừa Hoả Quang tại tiền của Lưu
Bạch Vũ về cuộc kháng chiến chống Nhật, 1949).
- Trời hửng (dịch truyện ngắn Tình thiên của Vương Lực về giảm tô,
giảm tức ở Trung Quốc, 1949).
- Duyên máu (của Lưu Bạc Vũ); Doãn Thanh Xuân (của Hàn Phong).
1947
Cùng cụ Đỗ Ngọc Toại soạn Kính cáo toàn quốc phụ lão thân sĩ thư
bằng chữ Hán. Bức thư có ảnh hưởng tốt trong nhân dân, đặc biệt là hàng
ngũ nhà nho.
1948
Ngày 1 - 5 được kếp nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương cùng với
Văn Cao và Kim Lân.
Trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ I, được bầu vào BCH Hội
văn Nghệ Việt Nam, với tư cách đại biểu cho anh chị em văn nghệ sĩ khu I.
1949
Tham gia Chủ tịch Đoàn Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc cùng
với Tố Hữu, Nguyễn Tuân và Nguyễn Đỗ Cung.
Làm công tác Liên Việt, thông tin văn nghệ.
1951
Tham gia Đại hội chiến sĩ thi đua nông nghiệp toàn quốc. Tham gia
công tác thuế nông nghiệp ở Quang Trung (Nhã Nam).
Viết vở chèo 10 cảnh Quách Thị Tước (sau đổi thành Nữ chiến sĩ Bùi
Thị Phác) về nữ chiến sĩ thi đua nông nghiệp Quách Thị Tước. Đây là tác
phẩm cuối cùng của Ngô Tất Tố.
1952
Được nhận hai giải thương trong Giải thưởng văn nghệ Việt Nam 1951
- 1952: Giải ba về dịch cho các tác phẩm Trời Hửng, Trước lửa chiến đấu và
giải khuyến khích cho vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác. Trong lòng Hà Nội
tạm chiến Nhà xuất bản Mai Lĩnh tái bản cuốn Lều chõng.
1954
Mất ngày 20 - 4 - 1954 (tức 18 - 3 năm Giáp Ngọ) tại Yên Thế, Bắc
Giang sau một thời gian đau nặng.
Tạp chí Văn nghệ trích đăng một màn trong vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi
Thị Phác.
1955
Tác phẩm dịch Doãn Thanh Xuân (của Hàn Phong) được xuất bản (tác
phẩm này đã được dịch từ trước).
1956
Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí (dịch tiểu thuyết lịch sử của Ngô gia
văn phái) được in ở nhà xuất bản Văn nghệ.
1962
Nhà xuất bản Văn hóa cho in chuyên khảo nghiên cứu Ngô Tất Tố của
Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ.
1971
Nhà xuất bản Văn học cho in Ngô Tất Tố tác phẩm (hai tập), Phan Cự
Đệ tuyển chọn và giới thiệu (in lần thứ hai vào năm 1977).
1981
Bộ phim Chị Dậu dựa theo tiểu thuyết Tắt đèn hoàn thành. Báo Văn
nghệ số 48 (28 - 11 - 1981) đăng tường thuật buổi họp mặt nhân tác phẩm
này của Ngô Tất Tố được đưa lên màn ảnh.
1990
Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản Trong rừng Nho.
1993
Báo Văn nghệ ra số phụ san đặc biệt nhân 100 năm sinh Ngô Tất Tố.
Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản Ngô Tât Tố với chúng ta, Mai
Hương biên soạn.
Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam,
Viện Văn học tổ chức Hội thảo nhân 100 năm năm sinh nhà văn Ngô Tất Tố
tại Hà Nội.
1994
Nhà xuất bản Văn học xuất bản tuyển tập Ngô Tất Tố, hai tập, Phan Cự
Đệ sưu tầm tuyển chọn, Trương Chính sắp xếp, giới thiệu.
1996
Được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
1996-1997
Nhà xuất bản Văn học xuất bản toàn tập Ngô Tất Tố gồm 5 tập, Lữ Huy
Nguyên chủ biên, Phan Cự Đệ giới thiệu.
MAI HƯƠNG soạn
THƯ MỤC NGHIÊN CỨU VỀ NGÔ TẤT TỐVũ Bằng
Về một truyện dài nổi tiếng nhất của Ngô Tất Tố - truyện "Tắt đèn". Tạp
chí Văn học (Sài Gòn) số 174 tháng 10 - 1973
Vũ Bằng
Bốn mươi năm nói láo. Nhà xuất bản Văn học Thông tin, H. 1993
Bành Bảo
Đưa "Tắt đèn" lên phim. Báo Văn nghệ ngày 5 - 4 -1974.
Ngô Vĩnh Bình
Kẻ Cói - Đông Ngàn, quê hương đầu xứ Tố. Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, số 5, 1993.
Nguyễn Đức Bính Ngô
Tất Tố như tôi đã biết. Tạp chí Văn nghệ, số 61, tháng 6 - 1962.
G.Buđaren
Một nhà dân tộc học được đào tạo "bằng thực tiễn quần chúng". Sách
Tín ngưỡng dân gian và các xã hội châu Á. Nhà xuất bản Ha Mac
Than, 1991. Trích từ sách Ngô Tất Tố với chúng ta. Nhà xuất bản Hội
nhà văn, H. 1993.
Trương Chính
Tạp văn của Ngô Tất Tố. Sách Hương hoa đất nước.
Nhà xuất bản Văn học, H. 1970.
Trương Chính
Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố. Báo Người làm báo Việt Xam, số 1 - 1985.
Trương Chính
Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố. Phụ san báo Văn nghệ, tháng 5 - 1993.
Trương Chính
Lời giới thiệu. Tuyển tập Ngô Tất Tố, tập I. Nxb Văn học, H, 1994.
Hồng Chương
Tắt đèn, cuốn tiểu thuyết hiện đại xuất sắc. Sách Phương pháp sáng
tác trong văn học nghệ thuật. Nxb Sự thật, H. 1956.
Hồng Diệu
Một tác phẩm của Ngô Tất Tố ít người biết. Sách Phía sau dòng chữ.
Nxb Thanh niên, H. 1997.
Nguyễn Đức Đàn
Ngô Tất Tố - một cây bút chiến đấu xuất sắc trong văn học Việt Nam.
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3, 1961.
Nguyễn Đức Đàn
Ngô Tất Tố và thời đại. Báo Văn nghệ, số 44, 5 - 4 -1974.
Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ
Ngô Tất Tố (chuyên khảo). Nxb Văn hóa. H. 1962.
Phan Cự Đệ
Ngô Tất Tố. Sách Văn học Việt Nam 1930 - 1945. Nxb Giáo dục, H.
1960.
Phan Cự Đệ
Ngô Tất Tố sống mãi trong lòng cách mạng. Lời giới thiệu Ngô Tất Tố
tác phẩm, tập I - Nxb Văn học, H. 1975.
Phan Cự Đệ
Nhà văn Ngô Tất Tố. Báo Nhân dân ngày 28 - 7 - 1985.
Phan Cự Đệ
Ngô Tất Tố trong sự nghiệp đổi mới hôm nay. Sách Ngô Tất Tố với
chúng ta, Nxb Hội Nhà văn, H. 1993.
Phan Cự Đệ
Lời giới thiệu toàn tập Ngô Tất Tố (5 tập), tập I. Nxb Văn học, H. 1996.
Phan Cự Đệ
Ngô Tất Tố, Sách văn học Việt Nam 1930 - 1945. Nxb Giáo dục, H.
1997.
Hà Minh Đức
Tác phẩm văn học và báo chí của Ngô Tât Tố. Tạp chí Văn học, số 11,
1998.
Hà Minh Đức
Nhân vật chị Dậu trong "Tắt đèn" của Ngô Tât Tố. Sách Văn học Việt
Nam. Nxv Hà Nội, 1999.
Hà Văn Đức
Ngô Tất Tố - nhà văn tin cậy của nông dân. Sách Các nhà văn được
Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nxb Hội nhà văn, H. 1997.
Văn Giá
Khi tuổi thơ lăm nguy. Sách Bình giảng văn học lớp 8. Nxb Giáo dục, H.
1996.
Lê Thị Đức Hạnh
Đặc sắc trong tác phẩm của Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn học, số 6, 1983.
Lê Thị Đức Hạnh
Ngô Tất Tố, một tài năng lớn. Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 12, 1993.
Lê Thị Đức Hạnh
Đóng góp của Ngô Tất Tố về báo chí. Báo Người Hà Nội, tháng 5 -
1993.
Nguyễn Công Hoan
Đọc "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. Báo Văn nghệ, số 116, tháng 4 - 1956.
Nguyễn Công Hoan
Mấy ý kiến về cuốn "Văn học Việt Nam 1930 - 1945". Tạp chí Nghiên
cứu văn học, số 6, 1962.
Viện Văn học (nhiều tác giả)
Ngô Tất Tố (trong chương thời kỳ toàn thịnh của văn học hiện thực).
Sách Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945. Nxb Văn học, H.
1964.
Đỗ Kim Hồi
Tiểu thuyết "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn học, số 3, 1990.
Nguyên Hồng
Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn nghệ số 54, 8 - 1954.
Mai Hương (biên soạn)
Ngô Tất Tố với chúng ta. Nxb Hội nhà văn, H. 1993.
Mai Hương
Ngô Tất Tố - Tài năng và tấm lòng, Lời giới thiệu Ngô Tất Tố - về tác
giả và tác giả. Nxb Giáo dục, H. 2000.
Phú Hương
"Tắt đèn" - tiểu thuyết của Ngô Tất Tố. Báo Đông Phương, số 10, ngày
1 - 9 - 1939.
Nguyễn Hoành Khung
Ngô Tất Tố. Sách Từ điển văn học, tập II. Nxb Khoa học xã hội. H.
1984.
Thanh Lãng
Ngô Tất Tố. Sách Phê bình văn học thế hệ 1932, quyển II. Phong trào
văn học (Sài Gòn) xuất bản, 1973.
Kim Lân
Đồi văn học, ấp Cầu Đen và bác Ngô Tất Tố, Sách Ngô Tất Tố với
chúng ta, Nxb Hội nhà văn, H. 1993.
Phong Lê
"Tắt đèn" và tiếng nói của Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn học, số 3, 1963.
Phong Lê
Ngô Tất Tố - một chân dung lớn, một sự nghiệp lớn. Tạp chí Văn học,
số 1, 1994.
Hồ Giang Long
Giọt nước mắt chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn".
Tạp chí Phổ thông trung học, số 23, 9 - 1998.
Nguyễn Đăng Mạnh
Ngô Tât Tố. Sách Lịch sử văn học Việt Nam, tập V (1930 - 1945). Nxb
Giáo dục, H. 1973.
Trần Văn Minh
Góp ý kiến phân tích quyển "Lều chõng". Tạp chí Văn học, số 4 - 1963.
Thép Mới
Ngô Tất Tố và người chủ nhiệm báo Thanh niên. Báo nhân dân, ngày 4
- 10 - 1990.
Vũ Tú Nam
Cây bút sắt sắc bén của một nhà nho. Báo Văn nghệ, ngày 1 - 1 - 1994.
Vương Trí Nhàn
Nhà nho thức thời, cây bút tình cảm Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn học, số 1
- 1994.
Tản Nhân
Đọc "Đề Thám" của Ngô Tất Tố. Báo Bắc Hà, số 16 ngày 2 - 8 - 1935.
Nguyễn Phan
Thân thế và văn nghiệp Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn học (Sài Gòn), số
174, tháng 10 - 1973.
Vũ Ngọc Phan
Ngô Tât Tố. Sách Nhà văn hiện đại, quyển 3. Nxb Tân dân, H. 1943.
Vũ Ngọc Phan
Lời giới thiệu "Lều chõng". Nxb Văn học, H. 1961.
Vũ Ngọc Phan
Ngô Tất Tố. Sách Những năm tháng ấy. Nxb Văn học, H. 1984.
Như Phong
Giá trị nhận thức của "Tắt đèn". Sách Bình luận văn học. Nxb Văn học,
H. 1964.
Thế Phong
Điển hình hoài vọng dĩ vãng. Sách Lược sử văn nghệ Việt Nam, nhà
văn tiền chiến. Nxb Vàng son, Sài Gòn, 1974.
Bùi Huy Phồn
Đọc lại "Việc làng". Tạp chí Văn nghệ, số 8, tháng 1- 1958.
Vũ Trọng Phụng
Giới thiệu "Tắt đèn". Báo Thời vụ, số 100, ngày 31 - 1 - 1939.
Ngô Văn Phú
Ngô Tất Tố dịch thơ Đường. Sách Ngô Tất Tố với chúng ta. Nxb Hội
Nhà văn, H. 1993.
Nguyễn Khắc Phục
"Kinh dịch" trong ba lô. Phụ san báo Văn nghệ, tháng 5 - 1993.
Vũ Quần Phương
Về tạp văn xã hội của Ngô Tất Tố. Phụ san tạp chí thế giới mới, 1996.
Phan Quang
Ngô Tất Tố - đôi điều cảm nhận. Báo Văn nghệ, ngày 1 - 1 - 1994.
Kiều Thanh Quế
Phê bình "Lều chõng" tạp chí Tri tân, số 33, ngày 23 1 - 1942.
Nguyễn Hữu Quỳnh
Mấy lời giới thiệu. Sách Tắt đèn. Nxb Giáo dục. H. 1984.
Vũ Dương Quỹ
Tức nước vỡ bờ. Sách Ngô Tất Tố (Nhà văn và tác phẩm trong trường
phổ thông). Nxb Giáo dục, H. 1998.
V.T
Vài nét về thân thế và sự nghiệp nhà văn Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, số 4, 1960.
Trần Hữu Tá
"Lều chõng". Sách Từ điển văn học, tập I. Nxb Khoa học xã hội, H.
1983.
Trần Hữu Tá
"Việc làng". Sách Từ điển văn học, tập II. Nxb Khoa học xã hội, H.
1984.
Quách Tấn
Tản Đà làm báo (Viết về Ngô Tất Tố và Tản Đà). Báo Lao động, ngày
16 - 1 - 1992.
Trần Thị Băng Thanh
Ngô Tất Tố dịch thơ Lý - Trần. Sách Ngô Tất Tố với chúng ta. Nxb Hội
Nhà văn, H. 1993.
Lê Thục Thành
Ngô Tất Tố qua lời kể người thân. Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 2,
1990.
Trực Thần
Phê bình "Thơ văn bình chú" của Ngô Tất Tố. Tạp chí Tri tân, số 89,
tháng 4 - 1945.
Bạch Năng Thi và Phan Cự Đệ
Ngô Tất Tố. Sácn Văn học Việt Nam 1930 - 1945. Nxb Giáo dục. H.
1960.
Hoàng Trung Thông
Nhớ mãi bác Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn học, số 1, 1985.
Đỗ Ngọc Thống
Kết thúc của tác phẩm "Tắt đèn". Báo Văn nghệ, số 19, ngày 9 - 5 -
1992.
Phan Thanh Thuỷ
Ngô Tất Tố và hệ thống giáo dục truyền thống Việt Nam. Tạp chí Cahier
d'etude Vietnammien số 12, 1996 - 1997.
Nguyễn Văn Tố
Phê bình bộ "Thi văn bình chú" của Ngô Tất Tố. Tạp chí Tri tân từ số 89
đến 103, tháng 4 - 1943.
Nguyễn Văn Tố
Bộ “Việt Nam văn học". Tạp chí Tri tân, số 58, 1942.
Nguyễn Văn Tố
Phê bình văn học (xung quanh bộ Việt Nam văn học). Tạp chí Tri tân số
62, tháng 9 - 1942.
Đỗ Ngọc Toại
Nhớ mãi bạn đã khuất núi. Báo Văn nghệ, ngày 5 - 4 - 1974.
Xuân Trường
Đọc "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. Báo Nhân dân, ngày 12 - 8 - 1956.
Nguyễn Tuân
Trước đèn đọc đoản thiên Ngô Tất Tố. Tạp chí Văn nghệ số 6, 1960.
Nguyễn Tuân
Truyện "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. Lời giới thiệu Tắt đèn. Nxv Văn học,
H. 1962.
Nguyễn Tuân
Phim chị Dậu cùng là cảm nghĩ tất niên với bác (đầu) xứ Tố. Báo Văn
nghệ số xuân 1982.
Hoàng Minh Tường
Thăm lại quê hương nhà vần. Phụ san báo Văn nghệ, tháng 5- 1993.
Trần Minh Tước
Một nhà văn của dân quê - Ngô Tất Tố trong "Tắt đèn". Báo Mới, số 4,
ngày 15 - 6 - 1939.
Đinh Gia Viên
Ký ức về một căn nhà. Sách Ngô Tất Tố với chúng ta. Nxb Hội nhà văn,
H. 1993.
Đinh Gia Viên
Cây bồ kết trong sân nhà cụ Tố. Tạp chí Hà Nội ngày nay, số 60, 1999.
Hoài Việt (biên soạn)
Ngô Tất Tố - nhà văn hóa lớn. Nxb Văn hóa Thông tin. H. 1993.
Hoàng Dạ Vũ
Ngô Tất Tố và tiểu thuyết dã sử "Trong rừng Nho". Sách Ngô Tất Tố -
nhà văn hoá lớn. Nxb Văn hóa Thông tin, H. 1993.
Ban Thường vụ (Hội Văn nghệ Việt Nam)
Nhà văn lão thành Ngô Tất Tố không còn nữa. Tạp chí Văn nghệ, số 6
(52), tháng 6 - 1954.
MAI HƯƠNG soạn
MỤC LỤCLời giới thiệu
PHẦN MỘTNGÔ TẤT TỐ - MỘT NHÂN CÁCH LỚN,
MỘT SỰ NGHIỆP LỚN
- Ngô Tất Tố “nhà văn, nhà tiểu thuyết lão thành”: NGUYÊN HỒNG
- Nhà văn Ngô Tất Tố: NGUYỄN ĐỨC ĐÀN
- Ngô Tất Tố: VŨ NGỌC PHAN
- Lời giới thiệu Tuyển tập Ngô Tất Tố: TRƯƠNG CHÍNH
- Ngô Tất Tố: NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
- Ngô Tất Tố- một chăn dung lớn, một sự nghiệp lớn: PHONG LÊ
- Cây bút sắc bén của một nhà Nho: VŨ TÚ NAM
- Ngô Tất Tố- Một cây bút chiến đấu xuất sắc trong văn học Việt Nam:
NGUYỄN Đức ĐÀN
- Một nhà dân tộc học được đào tạo bằng thực tiễn quần chúng:
G.BUĐAREN
- Đóng góp của Ngô Tất Tố trong kháng chiến: NGUYỄN ĐỨC ĐÀN -
PHAN CỰ ĐỆ
- Ngô Tất Tố như tôi đã biết: NGUYỄN ĐỨC BÍNH
- Ngô Tất Tố và sự nghiệp đổi mới hôm nay: PHAN CỰ ĐỆ
- Nhà Nho thức thời, cây bút tình cảm Ngô Tất Tố: VƯƠNG TRÍ NHÀN
PHẦN HAISỨC SỐNG CỦA MỘT VĂN NGHIỆP LỚN, ĐA DẠNG
I. NHÀ TIỂU THUYẾT, PHÓNG SỰ ĐẶC SẮC
• Một nhà văn của dân quê, Ngô Tất Tố trong Tắt đèn: TRẦN MINH
TƯỚC
• Tắt đèn của Ngô Tất Tố: VŨ TRỌNG PHỤNG
• Tắt đèn tiểu thuyết của Ngô Tất Tố: PHÚ HƯƠNG
• Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố: NGUYỄN CÔNG HOAN
• Lời giới thiệu truyện Tắt đèn: NGUYỄN TUÂN
• Tắt đèn - Cuốn tiểu thuyết hiện thực: HỒNG CHƯƠNG
• Tắt đèn của Ngô Tất Tố, một tác phẩm sâu sắc nhất về nông dân
nước ta trước cách mạng: NHƯ PHONG
• Tắt đèn của Ngô Tất Tố: NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
• Về một truyện dài nổi tiếng nhất của Ngô Tất Tố: truyện Tắt đèn: VŨ
BẰNG
• Phim Chị Dậu cùng là cảm nghĩ tất niên với Bác (đầu) xứ Tố:
NGUYỄN TUÂN
• Tắt đèn của Ngô Tất Tố: PHAN CỰ ĐỆ
• Nhân vật chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố: HÀ MINH ĐỨC
• Giọt nước mắt chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn: HỒ GIANG LONG
• Việc làng của Ngô Tất Tố : VŨ NGỌC PHAN
• Đọc lại Việc Làng của Ngô Tất Tố: BÙI HUY PHỒN
• Việc Làng: NGUYỄN ĐỨC ĐÀN - PHAN CỰ ĐỆ
• Lều chõng và Việc làng của Ngô Tất Tố: NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
• Lều chõng của Ngô Tất Tố: VŨ NGỌC PHAN
• Phê bình Lều chõng: KIỀU THANH QUẾ
• Ngô Tất Tố và tiểu thuyết dã sử Trong rừng Nho: HOÀNG DẠ VŨ
• Một tác phẩm của Ngô Tất Tố ít người biết: HỒNG DIỆU
• Ngô Tất Tố và tiểu thuyết lịch sử: NGUYỄN ĐỨC ĐÀN - PHAN CỰ
ĐỆ
• Phóng sự và truyện ký lịch sử của Ngô Tất Tố: TRƯƠNG CHÍNH
II - MỘT NHÀ BÁO CÓ BIỆT TÀI
• Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố: TRƯƠNG CHÍNH
• Tiểu phẩm văn học của Ngô Tất Tố: PHAN CỰ ĐỆ
• Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố: HÀ MINH ĐỨC
• Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố: LÊ THỊ ĐỨC HẠNH
• Ngô Tất Tố, nhà báo: VŨ QUẦN PHƯƠNG
III - NHÀ KHẢO CỨU, DỊCH THUẬT ĐẦY TÂM HUYẾT
• Ngô Tất Tố qua những tác phẩm, nghiên cứu, phê bình: NGUYỄN
ĐỨC ĐÀN - PHAN CỰ ĐỆ
• Tác phẩm biên khảo và dịch thuật của Ngô Tất Tố: VŨ NGỌC PHAN
• Về hai bộ sách Việt Nam văn học và Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố:
HANH LÃNG
• Ngô Tất Tố dịch thơ Lý Trần: TRẦN THỊ BĂNG THANH
• Ngô Tất Tố dịch thơ Đường: NGÔ VĂN PHÚ
• Thay lời bạt: Ngô Tất Tố tài năng và tấm lòng: MAI HƯƠNG
• Niên biểu Ngô Tất Tố
• Thư mục nghiên cứu về Ngô Tất Tố
---//---
NGÔ TẤT TỐMỘT TÀI NĂNG LỚN ĐA DẠNG
MAI HƯƠNG
Tuyển chọn và biên soạn
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN
43 Lò Đúc - Hà nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: VŨ AN CHƯƠNG
Chịu trách nhiệm bản thảo: PHẠM NGỌC LUẬT
Biên tập: VŨ THANH VIỆT
Sửa bản ỉn: THẢO LINH
Trình bày: THU LIỄU
Bìa: LƯU CHÍ CƯƠNG
In 700 cuốn, khổ 14,5 X 20,5cm. Tại Trường THKT In. Giấy phép xuất bản số:
868-XP-QLXB/04-VHTT. In xong và nộp lưu chiểu quý IV-2003.