nâng cao chất lượng hệ thống cân tàu hỏa động improving the quality of the dynamic...
DESCRIPTION
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011Nâng cao chất lượng hệ thống cân tàu hỏa động Improving the quality of the dynamic railway scale systemNguyễn Trung Dũng Trường Đại học Giao thông Vận tải e-Mail: [email protected] Tóm tắt:Bài báo giới thiệu một thiết kế hệ thống cân tàu hỏa động kể cả phần cứng và phần mềm trong đó kết hợp nhiều giải pháp xử lý tín hiệu cân động cho đoàn tàu trên cơ sở sử dụng máy tính công nghiệp kiểu không quạt, nhúng Windows XP và hệ thống nhTRANSCRIPT
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Nâng cao chất lượng hệ thống cân tàu hỏa động
Improving the quality of the dynamic railway scale system
Nguyễn Trung Dũng
Trường Đại học Giao thông Vận tải
e-Mail: [email protected]
Lê Thúy Nga
Trường Đại học Giao thông Vận tải
e-Mail: [email protected]
Tóm tắt: Bài báo giới thiệu một thiết kế hệ thống cân tàu hỏa
động kể cả phần cứng và phần mềm trong đó kết hợp
nhiều giải pháp xử lý tín hiệu cân động cho đoàn tàu
trên cơ sở sử dụng máy tính công nghiệp kiểu không
quạt, nhúng Windows XP và hệ thống nhận dạng đầu
máy – toa xe để đạt được độ tin cậy cao và thỏa mãn
yêu cầu về độ chính xác cho cân giao nhận thương mại .
Abstract: This paper presents a system design for the dynamic
railway scale system including the hardware and
software that combines multiple signal processing
solutions for the dynamic railway scale system on the
basis of using fanless industrial computer, embedded
Windows XP and the locomotive - railcar identification
system to achieve high reliability and precision
requirements for the trade rail scale.
Ký hiệu Ký hiệu Đơn vị Ý nghĩa
M kg khối lượng thùng xe, bao gồm cả hàng
J kg.m2 mô men quán tính gật đầu thùng xe
M2 kg khối lượng giá chuyển trên lò xo
Mw kg khối lượng giá chuyển dưới lò xo
Jt kg.m2 mô men quán tính gật đầu giá chuyển
Ks2 N/m độ cứng treo toa xe 2 hệ
Cs2 N.s/m trở cản treo toa xe 2 hệ
Chữ viết tắt IPC Industrial Personal Computer
PLC Programmable Logic Controller
WIM Weighing In Motion
1. Mở đầu Vận tải đường sắt là một loại hình vận tải có khối lượng
hàng hóa chuyên chở lớn. Đặc thù ngành là chạy trên
tuyến cố định, vốn đầu tư lớn, nhưng hiệu quả kinh tế
khá cao. Có thể chuyên chở được một khối lượng hàng
hóa mà không một loại hình vận chuyển đường bộ nào
đạt được. Trong quá trình phát triển ngành, yêu cầu tự
động hóa cũng phát triển theo. Một vấn đề khá nan giải
đặt ra là làm sao tự động hóa định lượng hàng hóa
nhanh nhất mà không làm ảnh hưởng tới quá trình sản
xuất cũng như chuyên chở. Đối với những mặt hàng
đóng bao bì thì việc này tương đối đơn giản, nhưng các
mặt hàng rời như than, quặng khoáng sản, sắt thép, bê
tông, xi măng,… thì rất khó để xác định.
Giải pháp đưa ra là quá trình định lượng hàng hóa phải
được tiến hành ngay trong quá trình vận chuyển, không
làm gián đoạn đến các quá trình khác, đó là cân tàu hỏa
động. Ưu điểm của công nghệ cân này là đảm bảo được
tính liên tục của sản xuất và vận chuyển, năng suất cân
cao, sai số có thể chấp nhận được (vào cỡ < 1 %).
Trên thế giới hiện nay, các hãng sản xuất cân nổi tiếng
như Schenck, Mettler Toledo, TrakBlaze .... [3],[8] đều
có sản phẩm cân tàu hỏa động. Cầu cân của các hãng
nước ngoài thường được chế tạo theo khổ đường sắt và
nền đường sắt tiêu chuẩn. Còn ở Việt Nam, do ảnh
hưởng môi trường và vị trí địa lý cũng như hạn chế về
các dụng cụ kiểm định, thi công nên nền đường hầu như
chưa đạt chuẩn. Hơn thế nữa hệ đầu máy, toa xe của
nước ta tương đối cũ, có từ lâu, và không đồng nhất một
kiểu, do đó rất khó để quy về chuẩn. Điều này làm cho
các hệ thống cân nhập khẩu khi vận hành trên đường sắt
Việt Nam thường kém tin cậy và kém chính xác hơn rất
nhiều so với đăng ký hay vận hành ở nước ngoài.
Cho đến nay ngành đường sắt và một số công ty khai
thác khoáng sản cũng đã trang bị các hệ thống cân tàu
hỏa động trong đó toàn bộ thiết bị và công nghệ đều
nhập ngoại nên mỗi khi hệ thống bị trục trặc đều phải
chờ chuyên gia nước ngoài khắc phục hoặc gửi đi bảo
hành tại nước ngoài.
Việc đầu tư nghiên cứu một cách bài bản để hoàn chỉnh
và làm chủ công nghệ cân tàu hỏa động nhằm tạo ra sản
phẩm trong nước có chất lượng tương đương, phù hợp
với điều kiện vận hành và thực trạng đầu máy, toa xe
hiện có tại Việt Nam đồng thời có sức cạnh tranh cao
với sản phẩm cùng loại nhập ngoại là việc làm rất cần
thiết.
2. Cấu trúc hệ thống cân tàu hỏa động Về công nghệ, một hệ thống cân bao gồm các thiết bị
chính sau: móng cân và mặt bàn cân, thiết bị chống xô,
bảo vệ quá tải, kẹp ray (nhóm thiết bị cơ khí – công
trình); các đầu đo, bộ cộng tín hiệu, bộ khuyếch đại và
xử lý tín hiệu, thiết bị nhận dạng toa xe và phần mềm
quản lý dữ liệu (nhóm thiết bị điện tử và CNTT) [1],
[4], [5]. Trong công trình này, tác giả lựa chọn kết cấu
cầu cân kiểu platform với chiều dài bàn cân 3.8m có thể
thực hiện cả cân tĩnh hoặc cân động từng giá chuyển
cho bất kỳ loại đầu máy hoặc toa xe nào đang vận dụng
trên đường sắt Việt Nam. Kết cấu cơ khí cũng được tính
toán đủ độ cứng vững, triệt tiêu tối đa các dao động
đồng thời chống xô các hướng một cách hiệu quả nhất.
Cấu trúc tổng thể của hệ thống cân được mô tả trên H. 1
587
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
H. 1 Cấu trúc của hệ thống cân tàu hỏa động
Tín hiệu từ 4 đầu đo (Load cell) được đưa về hộp nối
(Junction box), tín hiệu bình quân đầu ra được đưa tới
bộ xử lý cân động.
Tín hiệu từ cảm biến bánh tàu (Wheel detector) được
đưa về bộ tự động nhận dạng đầu máy và toa xe . Tại
đây sẽ đo tốc độ tức thời của từng toa xe, đếm số lượng
trục, đo khoảng cách giữa các trục, khoảng cách tâm cối
chuyển để nhận dạng, phân tách đầu máy và toa xe có
trong đoàn tàu. Dữ liệu sau đó được truyền về máy tính
qua đường truyền thông RS 485.
Dữ liệu từ bộ xử lý cân và bộ nhận dạng được đưa về
máy tính và được phần mềm xử lý tính ra khối lượng
của từng giá chuyển hướng và cả đoàn tàu đồng thời
thực hiện các tác nghiệp của ngành đường sắt cũng như
lưu trữ dữ liệu cân.
3. Quá trình chuyển động của toa xe trên
bàn cân Một hệ thống cân động (WIM) có thể không bao giờ đạt
đến độ chính xác như hệ thống cân tĩnh vì các lực nhiễu
xẩy ra trong quá trình cân động. Điều kiện ray và tà vẹt
là nguyên nhân gây ra dao động giống như một hệ thống
bao gồm khối lượng và lò xo. Việc nghiên cứu quá trình
chuyển động của đoàn tàu qua cân cho phép ta tiên đoán
được những yếu tố chính gây ra các xung lực nhiễu từ
đó có giải pháp xử lý hàm khối lượng phù hợp để đạt
được độ chính xác cho cân.
3.1 Mô hình toán học toa xe
Một vấn đề khá quan trọng trong bất kỳ hình thức cân
nào là lực tác dụng của đoàn tàu xuống đường ray. Nếu
đường ray hoàn toàn bằng phẳng và thẳng, nền đường
không có biến dạng, mặt lăn bánh xe và những ổ trục
của nó là những hình tròn đồng tâm thì khi chuyển động
trọng tâm của dưới trục lò xo đặt vào tâm trục bánh xe
sẽ vẽ nên một đường thẳng đặt song song với mặt
đường.
Hiện nay thường có 3 mô hình toa xe điển hình trong đó
loại mô hình thống nhất 2 hệ treo được sử dụng chủ yếu.
H. 2 Mô hình thống nhất toa xe 2 hệ treo
Các phương trình vi phân dao động toa xe gồm có:
*) Vận động nổi thùng xe: .. . . . . . ..
2 2 2 2( ) ( ) ( ) ( ) 0T T S SmZ C Z l Z K Z l Z C Z l Z K Z l Z (1)
*) Vận động gật đầu thùng xe:
.. . . . . . .
2 2 2 2( ) ( ) ( ) ( ) 0T T S SJ lC Z l Z lK Z l Z lC Z l Z lK Z l Z (2)
*) Vận động nổi khung giá chuyển trước:
.. . . . . .
2 2 2 1 1( ) ( ) ( ) ( ) 0T TT T CT T CTm Z C Z l Z K Z l Z C Z Z K Z Z (3)
*) Vận động gật đầu khung giá chuyển trước:
588
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
.. . . .1 1
1 1
1 12 2
( ) ( )2 2 2 2 2 2
( ) ( ) 02 2 2 2 2 2
T T T TTT T T B T T B
T T T TT T B T T B
l C l l K lJ Z Z Z Z
l C l l K lZ Z Z Z
(4)
*) Vận động nổi khung giá chuyển sau: .. . . . . .
2 2 2 1 1( ) ( ) ( ) ( ) 0S SS S CS S CSm Z C Z l Z K Z l Z C Z Z K Z Z (5)
*) Vận động gật đầu khung giá chuyển sau: .. . . .
1 13 3
1 14 4
( ) ( )2 2 2 2 2 2
( ) ( ) 02 2 2 2 2 2
T T T TST S S B S S B
T T T TS S B S S B
l C l l K lJ Z Z Z Z
l C l l K lZ Z Z Z
(6)
Với: ZB1, ZB2, ZB3, ZB4 là độ nhấp nhô của nền đường
Z, φ, ZT, φT, ZS, φS là nhấp nhô, gật đầu thân xe và giá chuyển.
3 41 2 ;2 2
B BB BCT CS
Z ZZ ZZ Z
Nhận xét thấy dạng phương trình chung của 4 phương trình là: .. .
( )M x C x Kx f u (7)
Nghiệm của (7) sẽ gồm 2 thành phần, một thành phần dao động tự do và một thành phần dao động cưỡng bức. Hoàn
toàn phù hợp với lý tính của hệ thống, đó là chịu tác động của 2 thành phần dao động tự do và dao động cưỡng bức.
3.2 Dạng tín hiệu thực tế đo được
Trong thực tế, do không thể xác định được chính xác
các giá trị hằng số trong các mô hình trên, do đó chúng
ta chỉ biết được dạng hàm của lực tác dụng của toa xe
lên đường ray. Từ đó bằng thực nghiệm ngoài hiện
trường, chúng ta có thể biết được gần đúng phương
trình lực tác dụng trên.
H. 3 Dạng xung lực khi bánh tàu lăn vào bàn cân
H. 4 Hình ảnh bàn cân ngoài hiện trường
H. 5 Dữ liệu thời gian thực đo được của đầu máy TY7 kéo 2
toa xe với tốc độ 10km/h
Qua H. 3 và H. 5 cho thấy xung lực và dao động khi
bánh xe lăn từ ray cố định lên bàn cân là không thể
tránh khỏi. Giải pháp khắc phục là xử lý nền đường ray
trước, trong khu vực và sau bàn cân thật tốt, độ dài đoạn
ray trước và sau cần xử lý ít nhất là 50 m ( khoảng gấp 3
lần chiều dài 1 toa xe). Khi giảm được biên độ dao động
này thì một phần cũng giảm được biên độ dao động tần
số riêng ω0 của đoàn tàu. Tuy nhiên các xung lực kích
động vẫn còn và phụ thuộc vào việc tiếp cận các bánh
xe của các giá chuyển đến và rời khỏi bàn cân và độ
cứng của hệ lò xo. Việc loại trừ hoàn toàn các dao động
không mong muốn sinh ra là khó thực hiện, ta chỉ có thể
hạn chế đến mức tối thiểu.
4. Nhận dạng và đo tốc độ đoàn tàu 4.1 Nhiệm vụ cuả hệ thống nhận dạng
1. Xác định hướng tàu, nhận dạng được đầu máy toa xe,
phát hiện vị trí của đầu máy trong đoàn tàu.
2. Xác định vận tốc tức thời, khoảng cách trục trong một
giá chuyển, khoảng cách giá chuyển, số trục trong từng
giá chuyển của từng toa xe và gửi dữ liệu đồng bộ lên
máy tính trong chương trình cân động. Đây là những
589
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
thông tin quan trọng để chương trình xử lý tính toán
khối lượng tính được khối lượng chính xác với từng loại
giá chuyển và toa xe khác nhau.
3. Gửi tín hiệu báo tàu chạy sai dải tốc độ cho phép trên
bàn cân (3Km/h ÷ 20 Km/h) và tín hiệu báo tàu chạy
quá gia tốc cho phép trên bàn cân (∆v>2 Km/h) để thực
hiện cân lại.
4.2 Cảm biến phát hiện bánh tàu
Để phát hiện sự xuất hiện của đoàn tàu tại vùng cân,
chúng ta có thể dùng các loại cảm biến tiệm cận hoặc
cảm biến quang học, địa chấn ....Phương án được lựa
chọn ở đây là dùng cảm biến tiệm cận kiểu từ. Đây là
loại cảm biến làm việc tin cậy, chịu được các điều kiện
khắc nghiệt về thời tiết.
H. 6 Cảm biến từ được sử dụng
Trên mặt bàn cân, ta gắn 2 cảm biến từ cạnh mép trong
ray. Khoảng cách giữa 2 cảm biến từ là 3m . Khi có
đoàn tàu đi qua, sẽ có dãy xung từ các cảm biến báo về
tương ứng với sự xuất hiện của các trục bánh xe.
Hệ thống nhận dạng đầu máy toa xe chỉ sử dụng 2 cảm
biến từ đặt trên bàn cân nhưng lại cung cấp một lượng
thông tin rất lớn và hữu ích cho quá trình đồng bộ và xử
lý hàm trọng lượng. Chỉ một lỗi sai sót nhỏ của hệ thống
nhận dạng này sẽ làm cho việc bù tốc độ và bù dao động
gặp sai số rất lớn hoặc trọng lượng của toa này sẽ được
tính cho toa khác dẫn đến kết quả sai hoàn toàn. Nhận
thức được vấn đề này, nhóm tác giả đề tài đã tập trung
nghiên cứu các giải pháp đồng bộ từ phần cứng đến
phần mềm nhằm chống nhiễu và tin cậy hóa ở mức tối
đa. Phần xử lý logic sơ bộ được thực trên bộ PLC loại
nhỏ S7-200 của Siemens. Dữ liệu sau đó được truyền
qua cổng RS 485 về IPC. Các thuật toán chống nhiễu,
nhận dạng nhiều tầng và nâng cao được cài đặt cả trên
PLC và trên IPC nhằm đảm bảo không bỏ sót bất kỳ
trường hợp và tình huống hợp nào ứng với các loại đầu
máy và toa xe đang vận hành trên đường sắt Việt Nam.
Hệ thống triển khai thực tế ngoài hiện trường đã hoạt
động rất tốt trong điều kiện ngoài trời khắc nghiệt và có
nhiều loại nhiễu tác động
5. Hệ thống xử lý cân động Phần xử lý tín hiệu cân luôn được xem là phần trái tim
quan trọng nhất của một hệ thống cân và đặc biệt là cân
động. Các hãng nước ngoài luôn luôn bảo vệ và giữ độc
quyền đối với công đoạn xử lý và hiệu chỉnh này.
5.1 Các thiết bị phần cứng
Cảm biến trọng lượng loadcell là loại chất lượng cao
Model C16AD1 tải trọng 30t của hãng HBM. Với các
tính năng kỹ thuật : độ nhậy Cn = 2mV/V; độ phi tuyến
là ±0.0300 %của Cn; ảnh hưởng nhiệt độ môi trường tới
độ nhậy là ± 0.025 % của Cn ; sai số độ trễ là ±0.033 %
của Cn ; nhiệt độ làm việc từ -30 °C đến +70 °C, loại
loadcell này hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của cân.
Bộ xử lý tín hiệu Model RM 4220 cho phép nối 4 đầu
cân có độ nhậy từ 0.3 đến 12 mV/V. Đây là bộ xử lý có
chất lượng cao, các tính năng nổi trội như: hệ số khuếch
đại từ 80 đến 8500 lần; độ trôi nhiệt là ±0.2µV/°C ; cho
phép lựa chọn bộ lọc thông thấp từ 3 đến 5000 Hz ; các
dạng tín hiệu ra chuẩn hoặc ±10 V hoặc 0 ÷ 10V hay 4
÷ 20 mA ; nhiệt độ làm việc từ 0 °C đến +70 °C.
H. 7 Hình ảnh tủ cân
Máy tính công nghiệp (IPC) UNO-3072L là loại không
quạt, nhúng Windows 2000/XP và Linux cho phép làm
việc ổn định với nhiệt độ và rung sóc. Các thông số cơ
bản gồm: CPU Celeron M 1.5 GHz; 1 GB DDRAM; 2
rãnh cắm PCI mở rộng; các cổng cửa truyền thông 2 x
RS-232, 2 x RS-485, 2 x LAN, 4 x USB và 4 cửa DI, 4
cửa DO và 2 bộ đếm/định thời 16 bit.
5.2 Xử lý tín hiệu cân
H. 8 Quá trình xử lý tín hiệu khối lượng
Trong quá trình xử lý tín hiệu theo H. 8 thì 4 công đoạn
đầu tiên ta thực hiện trong phần cứng, cụ thể là lựa chọn
590
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
các tham số phù hợp (hệ số khuếch đại, dạng tín hiệu ra,
lọc thông thấp và tạo ngưỡng) của bộ xử lý RM-4220.
Đặt bộ lọc thông thấp có tần số cắt là 10 Hz để lọc bỏ
những tín hiệu có tần số lớn hơn 10 Hz. Tiếp đó ta chọn
các tham số phù hợp cho bộ biến đổi ADC thông qua
việc đặt các tham số cho Card đo PCI-1716L. Việc chọn
tốc độ lấy mẫu của ADC phụ thuộc vào dải tốc độ chạy
tàu, chiều dài bàn cân, chiều dài giá chuyển và số lượng
mẫu đo trong một xung lực của giá chuyển. Trong thiết
bị này ta chọn với xung lực của giá chuyển hẹp nhất
tuơng ứng với tốc độ tàu 20 km/h (5.56 m/s) là 100
mẫu, điều này đủ để phản ánh trung thực dạng tín hiệu
Anolog. Với chiều dài bàn cân là 3.8 m, chiều dài giá
chuyển là 2m ta tính ra chu kỳ lấy mẫu của ADC là
10ms. Với chu kỳ này thì khi tàu chạy chậm nhất 3
km/h (0.83 m/s), xung lực sẽ có khoảng 700 dữ liệu.
Các công đoạn tiếp theo để xử lý dữ liệu ta thực hiện
bằng phần mềm, gồm:
Hiệu chỉnh lần 1: Hiệu chỉnh theo các quả chuẩn tĩnh
Tích phân lấy giá trị trung bình của xung lực để bù trừ
những dao động trong quá trình cân.
Hiệu chỉnh lần 2: Vì có nhiều thông số không đo được
trong quá trình cân như đã trình bày ở trên, trong phần
này sẽ hiệu chỉnh các xung lực theo các cấp tốc độ và
chủng loại bộ giá chuyển thông qua cơ sở dữ liệu đã
được tính toán và hiệu chỉnh theo các giá trị thực tế hiện
trường. Lưu đồ thuật toán cân động được trình bày trên
H. 9
Bắt đầu
Toa xe hiện tại <=n0
Cân động giá
chuyển 1
1
In phiếu
In phiếu cân
Kết thúc
1
0
Đọc dữ liệu
- Số đầu máy + toa xe = n
- Toa xe hiện tại = 0
- Phát hiện tàu vào bàn cân
- Đo vận tốc tức thời của trục
- Toa xe hiện tại ++
Nhận dạng
giá chuyển 1
Nhận dạng
giá chuyển 2
Cân động giá
chuyển 2
Bù vận tốc
Cho khối lượng toa
Bù dao động
Cho khối lượng toa
H. 9 Lưu đồ thuật toán cân động
Dưới đây là một số trang giao diện vận hành và phiếu
cân thực hiện ở cả chế độ cân động và cân tĩnh với đầu
máy là TY7 kéo theo 4 chủng loại toa xe khác nhau.
Qua phiếu cân động cho thấy tốc độ cân trung bình
khoảng 13 km/h . Các giá trị khối lượng đo được của
các toa xe khi cân tĩnh và cân động là rất sát nhau .
591
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
H. 10 Trang giao diện cân tĩnh
H. 11 Phiếu cân tĩnh
H. 12 Phiếu cân động
6. Kết luận Trong khuôn khổ công trình nghiên cứu này, tác giả lựa
chọn giải pháp cầu cân kiểu platform với nhiều phương
pháp thiết kế và xử lý tín hiệu tiên tiến cho phép chế tạo
cân với độ chính xác và tin cậy cao phù hợp với hạ tầng
đường sắt và các loại đầu máy – toa xe tại Việt Nam.
Bằng những nghiên cứu lý thuyết bài bản và cả những
thực nghiệm khá đầy đủ từ PTN đến hiện trường, nhóm
tác giả đã hoàn toàn làm chủ công nghệ xử lý tín hiệu
của cân tàu hỏa động .
Những giải pháp tổng thể từ phần cơ khí đến giải pháp
cấp nguồn, dập xung nguồn, chống nhiễu, chống sét…
cho đến các thuật toán định lượng và bù tiên tiến đã tạo
ra hệ thống xử lý tín hiệu cân làm việc rất chính xác, ổn
định và tin cậy.
Các kết quả cân thử nghiệm và kết quả đo kiểm hiệu
chuẩn cho thấy độ chính xác của cân cao hơn nhiều so
với mức cho phép của cân giao nhận thương mại.
Tài liệu tham khảo [1] James, G. (2003), “Analysis of traffic load effects
on railway bridges”, PhD thesis, Royal Institute of
Technology, Stockholm
[2] Karoumi, R. Wiberg, J., Olofsson, P. (2004),
“Monitoring traffic loads and traffic load effects on the
New Arstaberg Railway Bridge”, Second international
conference on structural engineering, mechanics and
computation (Semc 2004), Cape Town, South Africa, 5-
7 July 2004.
[3] Datasheet of MultiRail, MultiBridge .
SchenckProcess GmbH.
[4] Quilligan, M. Karoumi, R., O’brien E. J. (2002),
”Development and testing of a 2-dimensional multi-
vehicle Bridge-WIM algorithm”, Proc. third
international conference on weigh-in-motion, Orlando,
USA, 13-15 May 2002.
[5] K. Elis Norden (1998) “Handbook of Electronic
Weighing”
[6] DI Dr. techn. Andreas Schöbel1, DI (FH) Roland
Stadlbauer2, Manfred Pisek3, DI Thomas Maly.
“Wayside Dynamic Weighing and Flat Spot Detection at
Austrian Railways”
[7] M. Niedzwiecki and A. Wasilewki “New
algorithms for the dynamic weighing of freight trains”
Control Eng.Practice, Vol.5 No.05, pp.603-618
[8] Hồ sơ đề xuất cung cấp và lắp đặt 01 trạm cân
động trọn bộ LTS4 (của Trakblaze-Úc) trên đường sắt
Công ty CP than Đèo Nai –TKV.
Tác giả: 1. Nguyễn Trung Dũng tốt nghiệp
chuyên ngành Tự động hóa Đại học
Bách khoa Hà Nội năm 1998, từ đó tới
nay là giảng viên tại Bộ môn Điều
khiển học, Khoa Điện – Điện tử,
Trường Đại học Giao thông Vận tải.
2. Lê Thị Thúy Nga tốt nghiệp Đại
học ngành Tự động hóa năm 2000 và
Thạc sĩ kỹ thuật Tự động hóa năm
2005 tại Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội. Hiện là giảng viên Bộ môn
Điều khiển học - Trường Đại học Giao
thông vận tải
592