mpi -...

312
DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ 2014 Từ Chương trình tới Hành động CHUẨN BỊ CHO CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI MỚI Hà Nội, 05/06/2014 MPI MINISTRY OF PLANNING & INVESTMENT

Upload: others

Post on 04-Sep-2019

23 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ 2014

Từ Chương trình tới Hành động

CHUẨN BỊ CHO CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI MỚI

Hà Nội, 05/06/2014

MPI MINISTRY OF PLANNING

& INVESTMENT

Page 2: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Khuyến cáo Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) là một cơ chế đối thoại liên tục và chặt chẽ giữa Chính phủ Việt Nam với cộng đồng các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, nhằm cải thiện các điều kiện kinh doanh cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân, thuận lợi hóa môi trường đầu tư, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam. Tài liệu này được phát hành để phục vụ Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014 tổ chức vào ngày 05/06/2014. Các kết luận và nhận định đưa ra trong tài liệu này, cũng như trong các bài thuyết trình của đại diện các doanh nghiệp tại Diễn đàn, không thể hiện quan điểm của Hội đồng Quản trị Liên minh VBF, của Ban Thư ký VBF, cũng như của các tổ chức đồng chủ tọa VBF bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, Ngân hàng Thế giới, và Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) - thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới. Hội đồng Quản trị VBF, Ban Thư ký VBF, và các tổ chức đồng chủ tọa VBF không đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu được sử dụng trong tài liệu này, cũng như trong các bài thuyết trình nói trên, và không chịu trách nhiệm đối với các hậu quả do việc sử dụng các dữ liệu này gây ra. Tài liệu này không được cho thuê, bán lại hoặc phát hành cho mục đích thương mại.

Page 3: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hà Nội, 05/06/2014

MỤC LỤC CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ Chương I: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ 1.1. Cảm nhận của Hiệp hội Doanh nghiệp Trong nước & Nước ngoài Chương II: ĐẦU TƯ & THƯƠNG MẠI 2.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại

2.2. Thuế 2.2.1. Đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với quy định miễn thuế theo Hiệp định tránh

đánh thuế hai lần 2.2.2. Báo cáo của Tiểu nhóm Thuế 2.2.3. Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Thuế Tiêu thụ

Đặc biệt

2.3. Khoáng sản 2.3.1. Báo cáo Nhóm Công tác Khoáng sản 2.3.2. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận các vấn đề liên quan tới vấn đề Thuế, phí và lệ phí trong

lĩnh vực Khoáng sản ngày 30/12/2013

2.4. Lao động/Nguồn nhân lực 2.4.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự 2.4.2. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP ngày

5/9/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

2.4.3. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP ngày 5/9/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ngày 13/1/2014

2.5. Luật Doanh nghiệp 2.5.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)

2.6. Luật Đầu tư 2.6.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi)

2.7. Luật Phá sản 2.7.1. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) ngày 17/12/2013

Page 4: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

2.8. Đất đai và Bất Động sản 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VỐN 3.1. Ngân hàng 3.1.1. Nội dung Chương trinh thảo luận dự kiến giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và

Nhóm Công tác Ngân hàng

3.2. Thị trường vốn 3.2.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn

Chương IV: CƠ SỞ HẠ TẦNG 4.1. Mô hình đối tác Công tư (PPP) 4.1.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng về PPP 4.1.2. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Nghị định PPP 4.1.3. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về Nghị định PPP ngày 4/4/2014 4.2. Năng lượng 4.2.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Năng lượng

4.3. Hạ tầng cảng và Vận tải biển 4.3.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển Chương V: NÔNG NGHIỆP 5.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Nông nghiệp Chương VI: TOURISM 6.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Du lịch

Chương VII: CÁC BÁO CÁO KHÁC 7.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Công nghiệp Ô tô – Xe máy 7.2. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận các vấn đề liên quan tới Công nghiệp ô tô, xe máy ngày

17/2/2014 Chương VIII: PHỤ LỤC 8.1. Tóm tắt Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Thường niên – Tháng 12/2013

Page 5: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ 2014

Từ Chương trình tới Hành động – Chuẩn bị cho các Hiệp định Thương mại mới

Thời gian: 7:30 – 13:30, Ngày 5 tháng 6, 2014 Địa điểm: Khách sạn Sheraton, K5 Nghi Tàm, 11 Xuân Diệu, Hà Nội

CHƯƠNG TRÌNH DỰ KIẾN

7:00 – 8:00 Đăng ký

8:00 – 8:05

Khai mạc

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ trưởng Bùi Quang Vinh

Phần 1: Tổng quan môi trường đầu tư

8:05 – 9:00

1. Tổ chức Tài chính Quốc tế – Ông Simon Andrews, Giám đốc khu vực 2. Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – Bà Virginia Foote, Đồng Chủ tịch 3. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch 4. Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam – Ông Marc Townsend, Chủ tịch 5. Hiệp hội Thương mại Châu Âu tại Việt Nam – Ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch 6. Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam – Ông Kim Jung In, Chủ tịch 7. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam – Ông Yoshihisa Maruta, Chủ tịch

Phát biểu chỉ đạo của Ngài Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Chính phủ.

Phần 2: Các vấn đề thảo luận với Chính phủ

9:00 – 9:45

1. Đầu tư & Thương mại

• Thương mại và Đầu tư – Ông Fred Burke và Ông Trần Anh Đức, Đồng Trưởng nhóm Thương mại và Đầu tư

• Thuế và Hải quan – Ông Fred Burke, Trưởng nhóm Thương mại và Đầu tư, Bà

Hương Vũ, Trưởng tiểu Nhóm công tác Thuế và Ông Bill Howell, Trưởng nhóm công tác Khoáng sản

• Lao động và Việc làm – Ông Collin Blackwell, Trưởng nhóm

Phản hồi từ Chính phủ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Tài chính - Tổng cục Hải quan - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

Page 6: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

9:45 – 10:00 Nghỉ giải lao

10:00 – 10:40

2. Ngân hàng và Thị trường Vốn

• Ngân hàng - Ông Sumit Dutta, Trưởng nhóm công tác Ngân hàng

• Thị trường Vốn – Ông Kiên Nguyễn, Nhóm công tác Thị trường vốn

Phản hồi từ Chính phủ - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

10:40 – 11:05

3. Cơ sở hạ tầng

• PPP – Ông Tony Foster, Trưởng nhóm công tác Cơ sở hạ tầng

• Năng lượng – Ông John Rockhold, Tiểu nhóm công tác Năng lượng Phản hồi từ Chính phủ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Công thương - Bộ Tài chính

Phần 3: Báo cáo từ các Nhóm công tác khác

11:05 – 11:45

4. Nông nghiệp – Ông David Whitehead, Trưởng nhóm công tác Nông nghiệp

5. Du lịch – Ông Ken Atkinson, Trưởng nhóm công tác Du lịch

Phản hồi từ Chính phủ - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Bộ Công thương - Bộ Khoa học Công nghệ - Bộ Tài chính - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

11:45 – 12:00

Bế mạc 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ trưởng Bùi Quang Vinh 2. Ngân hàng Thế giới – Giám đốc Quốc gia Bà Victoria Kwakwa 3. Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – Đồng Chủ tịch Ông Vũ Tiến Lộc

12:00 – 13:30

Tiệc trưa

Page 7: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Chương I

TỔNG QUAN VỀ

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ

Page 8: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

PHÁT BIỂU CỦA BÀ VIRGINIA FOOTE, ĐỒNG CHỦ TỊCH

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Hà Nội, ngày 5 Tháng 6 năm 2014

Kính thưa toàn thể quý vị, thưa Bộ trưởng Vinh, và đặc biệt kính thưa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chúng tôi vô cùng hân hạnh được tiếp đón Ngài Thủ tướng Chính phủ tại Diễn đàn ngày hôm nay tại một thời điểm vô cùng quan trọng đối với cộng đồng doanh nghiệp. Tôi tin tưởng rằng tất cả mọi người tại Diễn đàn ngày hôm nay đều thể hiện sự tôn trọng và niềm tự hào đối với những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong 20 năm trở lại đây. Chúng tôi hi vọng rằng thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam và các thành viên của Diễn đàn là các phòng thương mại, hiệp hội doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cùng 11 nhóm công tác trực thuộc Diễn đàn, những cuộc đối thoại mang tính xây dựng và liên tục đã được thiết lập để thảo luận những lĩnh vực và các giải pháp cần làm để đem đến thành công trong tương lai của Việt Nam. Tất cả chúng ta đều vô cùng đau buồn bởi các sự kiện đáng tiếc xảy ra giữa tháng Năm vừa qua; vì vậy, sự hiện diện của Ngài Thủ tướng Chính phủ cùng các đại diện của các bộ ngành liên quan tại Diễn đàn ngày hôm nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Hôm nay chúng ta hy vọng sẽ làm nổi bật một số vấn đề phát sinh sau sự kiện đáng tiếc tháng Năm vừa qua và các đồng nghiệp của tôi đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan sẽ bày tỏ những ý kiến và đề xuất cụ thể liên quan đến vấn đề này. Xin thay mặt đại biểu trong khán phòng ngày hôm nay, tôi xin được khẳng định rằng chúng tôi luôn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và vai trò của tăng trưởng kinh tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu với mức độ phức tạp ngày càng cao - tất cả chúng ta đang làm việc và cùng tin tưởng vào con người cũng như công nghệ từ Việt Nam và nhiều quốc gia để góp phần phát triển hoạt động kinh doanh, du lịch, và chuỗi cung ứng hiệu quả.

Chúng tôi hoan nghênh các hành động của Chính phủ sau sự kiện đáng tiếc vừa qua và tin tưởng rằng Việt Nam sẽ có các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả một cách minh bạch, hợp lý và chuyên nghiệp. Một ủy ban thực hiện các biện pháp bồi thường, khắc phục sự cố với sự góp mặt của quốc tế và tuân theo các tiêu chuẩn toàn cầu sẽ có thể có tác động tích cực to lớn và nâng cao đến hình ảnh và danh tiếng của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ khi có yêu cầu.

Trang 1/4

Page 9: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc quyết định có đặt cơ quan thường trực, tiến hành hoạt động kinh doanh hay không thường được thực hiện bởi trụ sở chính ở nước ngoài sau khi xem xét các yếu tố, vấn đề cơ bản như tính ổn định, môi trường kinh doanh thân thiện, nguồn nhân lực tại địa phương, khung pháp lý, các hệ thống cơ sở hạ tầng cứng và mềm và chi phí tổng thể. Một số vấn đề Việt Nam làm tốt hơn so với những quốc gia khác - nhưng tất cả những vấn đề này gộp lại chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tương lai của tất cả chúng ta. VBF hy vọng có thể tập trung vào việc Việt Nam cần tiến hành các bước từ đâu để đảm bảo sẵn sàng cho một số Hiệp định thương mại hiện đang được đàm phán. Trong khi tôi đang tham gia vào đàm phán Hiệp định TPP, một số hiệp định khác như EU-FTA, RCEP và việc thực hiện các hiệp định thương mại dự do ASEAN cũng mang lại cho nền kinh tế cũng như người dân Việt Nam rất nhiều cơ hội tiềm năng. Những hiệp định này có thể hỗ trợ việc giảm hàng rào thuế quan khi tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực may mặc, giày dép, nông nghiệp và các mặt hàng xuất khẩu khác của Việt Nam. Và các hiệp định này cũng kêu gọi việc tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực khác như mua sắm và các dịch vụ chính phủ đồng thời đưa ra những tiêu chuẩn mới cho việc liên kết các quy định, khung pháp luật cho các doanh nghiệp nhà nước, NCMs, quyền công nhân, bảo vệ một trường và quyền sở hữu trí tuệ. Những hiệp định này sẽ đòi hỏi các quy định của pháp luật phải ở mức độ tiêu chuẩn cao. Tuy nhiên, một số cơ sở hạ tầng cơ bản vẫn chưa sẵn sàng. Chúng ta đều có mối lo ngại về bẫy thu nhập trung bình có thể xảy ra cho Việt Nam – nơi mà mặc dù việc cải tổ có thể được thực hiện một cách dễ dàng nhưng một số thành phần cơ bản của nền kinh tế thị trường thì không. Đối với Việt Nam, những lĩnh vực gặp phải khó khăn này rất rõ ràng: Đối với cơ sở hạ tầng mềm, chúng tôi lo ngại tham nhũng hiện đang là một vấn đề nan giải mà các hiệp định thương mại không thể khắc phục được nhưng lại là một cái nhìn khái quát ảnh hướng đến nền kinh tế và danh tiếng của Việt Nam. Nền kinh tế hiện tại vẫn phụ thuộc quá nhiều vào tiền mặt. Một nền kinh tế mà một số lượng lớn các giao dịch được thực hiện bằng tiền mặt, các khoản phí và tiền phạt nộp cho chính phủ được thu bằng tiền mặt chính tạo điều kiện cho tham nhũng hoặc trì trệ và đôi khi là cả hai. Cần có một hệ thống để thực hiện các công việc thu phí hạ tầng, các khoản thuế và phí hải quan theo luật để từ đó các khoản tiền phải nộp và việc thanh toán được thực hiện một cách minh bạch và được đánh giá thống nhất. Nhiều quốc gia hiện đang phải đối mặt với các vấn đề này và Dự án VBF 12 mới được thành lập hi vọng sẽ phối hợp tích cực với VCCI và các cơ quan chính phủ nhằm hỗ trợ việc triển khai hệ thống chống tham nhũng đã được thực hiện hiệu quả trên toàn cầu này.

Trang 2/4

Page 10: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một vài khó khăn cơ sở khác mà VBF đang làm cùng với chính phủ - nói chung – là các quyết định của chính phủ thường rất chậm, thủ tục rất phức tạp và thường nặng nề với số lượng các văn phòng liên quan, các quy định và pháp luật không được thực thi thống nhất, và các tòa án yếu kém. Chúng tôi đang tìm cách để giải quyết những vấn đề này để cho phép tất cả các công ty cạnh tranh trên giá trị của họ - bao gồm cả tiếp cận nguồn vốn, đất đai và các cơ hội khác. Một khó khăn khác liên quan đến cơ sở hạ tầng mềm mà VBF đang phối hợp với các cơ quan của Chính phủ, nhìn chung, là việc các quyết định của Chính phủ thường được đưa ra chưa kịp thời, các thủ tục thường phức tạp, nặng nề với sự tham gia của nhiều cán bộ, các quy định pháp luật không thống nhất với nhau và tính thực thi của tòa án còn chưa hiệu quả. Chúng tôi hi vọng rằng các giải pháp để giải quyết các vấn đề này là cho phép tất cả các doanh nghiệp được cạnh tranh dựa trên năng lực của mình – bao gồm cả khả năng tiếp cận vốn, đất đai và các cơ hội khác. Số lượng quy định trong một số lĩnh vực đã có sự gia tăng dẫn tới một số khó khăn cho khu vực tư nhân và các thị trường trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin và thương mại điện tử, kiểm soát giá cả, giấy phép lao động, và về các rào cản nói chung. Chúng tôi hy vọng rằng những giải pháp để cho phép và tạo điều kiện sẽ được tập trung trong các chính sách của chính phủ, hơn là áp dung các biện pháp hạn chế. Điều này có thể giúp chuẩn bị sẵn sàng cho các Hiệp định Thương mại mới, và đưa khuôn khổ pháp lý của Việt Nam tiệm cận hơn với khung quy định của các quốc gia thành công khác. Chúng tôi cũng xin nhấn mạnh cải cách hệ thống giáo dục là một trong những ưu tiên trọng tâm hàng đầu. Nhóm Công tác Giáo dục của chúng tôi xin được đề xuất thời gian phê duyệt các dự án có vốn đầu tư nước ngoài hoặc vốn đầu tư tư nhân trong lĩnh vực giáo dục được nhanh chóng hơn để Việt Nam có thể phát triển một đội ngũ chất lượng cao các doanh nhân, nhà quản lý, kỹ sư, kỹ thuật viên và các lao động ở các ngành nghề cần thiết khác. Chúng tôi kính đề nghị các đơn vị công đoàn tăng cường các chương trình giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng của lao động đang được tuyển dụng. Đối với cơ sở hạ tầng cứng quan trọng, chúng tôi đang quan tâm đến thời gian cần để phê duyệt các dự án cơ sở hạ tầng. Như trong lĩnh vực năng lượng, với trọng tâm dường như thiên về tập trung vào kế hoạch tổng thể dài hạn trong khi nhiều nguồn nhiên liệu trong nước chưa được khai thác. Chúng tôi hy vọng rằng sau khi các cuộc thảo luận, một hệ thống PPP hiệu quả sẽ được thông qua sớm. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng hiệu quả hơn trong giao thông vận tải sẽ góp phần khuyến khích lĩnh vực kinh doanh và du lịch. VBF tiếp tục cam kết hợp tác với các đối tác của chúng tôi từ phía Chính phủ để giúp giải quyết các vấn đề tồn tại, và tạo dựng một môi trường kinh doanh hấp dẫn, minh bạch và ổn định hơn. Các hiệp định thương mại mới đem lại những cơ

Trang 3/4

Page 11: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

hội, nhưng sự chuẩn bị thực sự phụ thuộc vào chúng ta để có thể chuẩn bị tốt nhằm phát huy tối đa các tiềm năng.

Chúng tôi một lần nữa xin chân thành cảm ơn Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Thứ trưởng và đại diện các Bộ, ngành liên quan, đại diện của các phái đoàn ngoại giao và cộng đồng các nhà tài trợ, và các doanh nghiệp tham dự hôm nay. Chúng tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới sự hỗ trợ tích cực của Bộ trưởng Vinh đối với Diễn đàn, sự hỗ trợ của Tiến sĩ Lộc trong tăng cường quan hệ đối tác của chúng tôi với VCCI , và chúng tôi xin được gửi lời chúc tốt đẹp đến tất cả các đại biểu tham dự đã góp phần thành công cho Diễn đàn ngày hôm nay.

Phụ lục

I. Các Phòng Thương mại và Hiệp hội Doanh nghiệp tham gia Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam:

Thành viên Liên minh:

1. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) 2. Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham Vietnam) 3. Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham Vietnam) 4. Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KorCham Vietnam)

Thành viên Liên kết:

5. Hiệp hội Doanh nghiệp Úc tại Việt Nam (AusCham Vietnam) 6. Hiệp hội các Doanh nghiệp Anh Quốc tại Việt Nam (BBGV) 7. Hiệp hội Doanh nghiệp Canada tại Việt Nam (CanCham) 8. Hiệp hội Doanh Nghiệp Trung Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh (CBAH) 9. Hiệp hội Doanh nghiệp HongKong tại Việt Nam (HKBAV) 10. Hiệp hội Doanh nghiệp Ấn Độ tại Việt Nam (InCham Vietnam) 11. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JBAV) 12. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh (JBAH) 13. Hiệp hội Doanh nghiệp Bắc Âu tại Việt Nam (NordCham Vietnam) 14. Hiệp hội Doanh nghiệp Singapore (SBG) 15. Hiệp hội Doanh nghiệp Thụy Sĩ (SBA) 16. Hiệp hội Doanh nghiệp Đài Loan (TCC)

II. Các nhóm công tác của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam:

- Nhóm Công tác Nông nghiệp - Nhóm Công tác Công nghiệp Ô tô & Xe máy - Nhóm Công tác Ngân hàng - Nhóm Công tác Thị trường Vốn - Nhóm Công tác Hải quan - Nhóm Công tác Giáo dục & Đào tạo - Nhóm Công tác Quản trị Doanh nghiệp & Minh bạch - Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại - Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng - Nhóm Công tác Khoáng sản - Nhóm Công tác Du lịch

Trang 4/4

Page 12: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

PHÒNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM (VCCI)

ĐỀ CƯƠNG PHÁT BIỂU

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014 Hà Nội, Ngày 05/06/2014

Trình bày Ông Vũ Tiến Lộc

Chủ tịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ năm nay diễn ra trong bối cảnh tương đối đặc biệt. Thứ nhất,Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa của nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng (FTA), trong đó đặc biệt là hai FTA với các đối tác lớn nhất thế giới là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang đi vào giai đoạn cuối và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) dự kiến kết thúc đàm phán trong tháng 10/2014. Việc Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận các cơ hội cũng như vượt qua các thách thức từ các FTAs này được đặt ra ở thời điểm này cấp bách hơn bao giờ hết. Thứ hai, sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, đồng thời đe dọa trực tiếp tới hoạt động hàng hải, thương mại quốc tế và gây mất an ninh, phá vỡ sự ổn định tại Biển Đông và trong khu vực. Hành động phi pháp này của Trung Quốc có tác động đáng kể tới quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Do vậy từ góc độ kinh tế, Việt Nam đang đứng trước những đòi hỏi mới trong việc duy trì quan hệ thương mại ổn định với Trung Quốc, đồng thời tăng cường các biện pháp hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường này. Tận dụng cơ hội từ các hiệp định FTAs đầy triển vọng nói trên có thể là một cách thức hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu này. Sự kiện Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam cũng dẫn tới một sự việc đáng tiếc: lợi dụng các hoạt động tuần hành biểu thị lòng yêu nước của người dân trước hành động trái pháp luật của Trung Quốc, trong hai ngày 13 và 14/5/2014, tại Bình Dương, Đồng Nai và Hà Tĩnh, một số đối tượng quá khích đã có những hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới trật tự an ninh xã hội, gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đặc biệt các doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan… Sự việc đáng tiếc này ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh đất nước và môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế và vì vậy đòi hỏi Chính phủ cần nhanh chóng có hành động khôi phục niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Trong bối cảnh này,để hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới, chúng tôi đề nghị Chính phủ cần tiến hành các giải pháp sau đây: Thứ nhất về giải pháp để các FTAs đang đàm phán, đặc biệt là TPP và EVFTA, có thể mang lại lợi ích tốt nhất cho doanh nghiệp và nền kinh tế, đặc biệt là trong hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thương mại với Trung Quốc.

Trang 1/3

Page 13: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Lợi ích mà các FTAs Chính phủ đang đàm phán có thể mang lại cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào ít nhất hai yếu tố: (i) kết quả đàm phán có lợi cho doanh nghiệp hay không (doanh nghiệp có cơ hội để tiếp cận thị trường đối tác ở điều kiện ưu tiên nhất có thể không, đồng thời việc mở cửa nền kinh tế có tạo ra cho doanh nghiệp cơ hội tiếp nhận tốt nhất nguồn nguyên vật liệu, máy móc công nghệ, vốn đầu tư tốt nhất không) và (ii) doanh nghiệp có được điều kiện tốt nhất trong thực thi các FTAs để tận dụng tốt nhất các lợi ích hay không (điều kiện để tận dụng các cơ hội mà các FTAs tạo ra cũng như vượt qua/khắc phục các thách thức mà các FTAs này mang lại). Do đó, chúng tôi mong muốn Chính phủ tập trung chú ý tới các vấn đề sau: Liên quan tới quá trình đàm phán các FTAs: Một là có phương án đàm phán mềm dẻo nhưng kiên quyết về các lợi ích xuất khẩu của doanh nghiệp, bao gồm các vấn đề về ưu đãi thuế quan, quy tắc xuất xứ phù hợp với cơ cấu, phương thức sản xuất trong tương lai gần của Việt Nam; các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), vệ sinh dịch tễ (SPS) hợp lý, khoa học và không bị lạm dụng…; trong đó đặc biệt chú trọng đàm phán các cơ chế tiếp cận thị trường cho nông sản, nhằm đa dạng hóa thị trường đối với sản phẩm nhạy cảm và hiện đang phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc. Hai là có phương án đàm phán tích cực và mạnh dạn hơn trong mở cửa thị trường Việt Nam cho hàng hóa là máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu, phương tiện và các sản phẩm tương tự khác mà Việt Nam đã bảo hộ lâu nay nhưng không đạt hiệu quả hoặc hiện đang phụ thuộc lớn vào nguồn cung từ các nước không tham gia đàm phán. Ba là có cách tiếp cận mở trong các nội dung đàm phán về mua sắm Chính phủ, quy tắc cạnh tranh, từ đó tạo điều kiện cho việc tăng cường cạnh tranh, minh bạch hóa và thay đổi thị phần giữa các nhà thầu quốc tế ở thị trường Việt Nam. Bốn là có quan điểm đàm phán thận trọng và cứng rắn trong các vấn đề có thể có ảnh hưởng lớn tới người lao động, nông dân và sản xuất nông nghiệp như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuốc, nông hóa phẩm, lao động. Năm là chú trọng bảo lưu các không gian chính sách cần thiết để Chính phủ có thể hành động vì các lợi ích công cộng hoặc định hướng cơ cấu kinh tế trong các đàm phán về đầu tư, giải quyết tranh chấp. Liên quan tới việc chuẩn bị cho thực thi các FTAs: Một là xây dựng cơ chế để tư vấn, hướng dẫn doanh nghiệp về các nội dung cam kết thương mại thông qua (i) một đầu mối cụ thể cung cấp các thông tin cơ bản, cập nhật về tất cả các nội dung liên quan tới các FTAs; (ii) một đơn vị có chức năng hướng dẫn, diễn giải và tư vấn cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi các FTAs tránh trường hợp doanh nghiệp không biết tiếp cận cơ quan nào để biết một cam kết có ý nghĩa gì, thực hiện như thế nào hoặc nếu có cách hiểu khác biệt giữa các cơ quan thực thi thì làm như thế nào; (iii) Cử các cán bộ có hiểu biết sâu sắc về các cam kết trong từng lĩnh vực phối hợp với VCCI và các hiệp hội tổ chức tuyên truyền, đào tạo phổ biến với các nội dung chi tiết, thực chất cho những nhóm doanh nghiệp cụ thể về những tác động cụ thể của cam kết tới hoạt động của họ và hướng dẫn cách thức thực hiện hiệu quả nhất. Hai là có các biện pháp nhằm tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp, hiệp hội vào các quá trình thực thi FTAs của các cơ quan Chính phủ, đặc biệt là quá trình nội luật hóa các cam kết trong FTAs. Ba là đẩy mạnh chuyển giao các dịch vụ công từ Nhà nước sang các hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt liên quan tới các dịch vụ nhằm kiểm soát, đáp ứng các rào cản TBT, SPS ở thị trường xuất khẩu (cấp chứng chỉ, kiểm soát chất lượng...). Bốn là hiện thực hóa các cơ chế mà qua đó Chính phủ có thể bảo vệ các lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp ở nước ngoài theo các phương thức được dự liệu trong các FTAs. Thứ hai, về giải pháp để giải quyết nhanh chóng, hiệu quả sự việc đáng tiếc ngày 13-14/5/2014, khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư Việt Nam.

Trang 2/3

Page 14: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Sự việc đáng tiếc ngày 13-14/5/2014 vừa qua đã gây thiệt hại cho một số doanh nghiệp FDI cả về cơ sở vật chất và tinh thần, ảnh hưởng đáng kể tới hình ảnh một điểm đến thân thiện, ổn định và an toàn cho đầu tư mà Việt Nam đã tạo dựng thành công trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài nhiều năm qua. Các doanh nghiệp bị thiệt hại đều mong muốn mau chóng vượt qua hậu quả sự cố, ổn định lại sản xuất, tiếp tục gắn bó với Việt Nam thông qua các hoạt động đầu tư ổn định, an toàn tại Việt Nam. Chúng tôi cũng đánh giá cao sự vào cuộc nhanh chóng, quyết liệt của Chính phủ trong việc xử lý hậu quả của sự việc đáng tiếc trên, đặc biệt là việc tiếp thu các đề xuất của chúng tôi về việc thành lập một Tổ chuyên trách tại mỗi tỉnh, Khu công nghiệp/kinh tế nơi xảy ra sự cố cũng như tập trung khảo sát và giải quyết các vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp phát sinh từ sự việc này, nhất là các vấn đề liên quan tới lao động (lương, giấy phép lao động...), bảo hiểm (thủ tục xác nhận tổn thất, tạm ứng bồi thường...), thuế, thủ tục hải quan (xuất khẩu các lô hàng bị ảnh hưởng, nhập khẩu máy móc thiết bị thay thế...), an ninh trật tự (xử lý các đối tượng phá hoại, tìm kiếm tài sản bị mất của doanh nghiệp...). Chúng tôi đề nghị Chính phủ (i) Một là tiếp tục xử lý dứt điểm, triệt để các vấn đề phát sinh từ sự cố, đặc biệt là những vấn đề có thể chỉ phát sinh/nhận thấy sau này (ví dụ từ các thiệt hại về cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp); (ii) Hai là có biện pháp rút kinh nghiệm để các sự việc tương tự không xảy ra trong tương lai đồng thời có kế hoạch phòng ngừa, ứng phó nhanh chóng và hiệu quả hơn trước các sự việc có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Thứ ba, về việc triển khai mạnh mẽ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiếp tục khẳng định sự ổn định, thân thiện và hấp dẫn của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ trong việc ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Chỉ thị số 11/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/5/2014 về giải quyết khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghị quyết 19 và Chỉ thị 11 đã xác định mục tiêu rõ ràng trong từng giai đoạn, gắn với các chuẩn mực quốc tế, đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể gắn với trách nhiệm của từng bộ ngành, địa phương, nhấn mạnh các biện pháp giải quyết các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ phát triển doanh nghiệp cũng như chuyển giao một số dịch vụ công cho hiệp hội. Để Nghị quyết và Chỉ thị quan trọng này có thể phát huy hiệu quả trên thực tiễn, chúng tôi đề nghị Chính phủ: (i) thường xuyên chỉ đạo các bộ ngành, địa phương kiểm tra, giám sát tiến độ và kết quả thực hiện Chương trình hành động, chương trình công tác đã đề ra của các bộ, cơ quan, địa phương về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, chuyển giao một số dịch vụ công cho VCCI...; (ii) Công bố công khai các kết quả thực hiện Chương trình hành động, Chương trình công tác này của Chính phủ, của Bộ, cơ quan, địa phương; (iii) Huy động sự tham gia và đề xuất sáng kiến của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc giám sát, phối hợp và đánh giá hiệu quả việc thực hiện các Chương trình hành động, Chương trình công tác này của Chính phủ, của Bộ, cơ quan, địa phương./

Trang 3/3

Page 15: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

PHÁT BIỂU CỦA HIỆP HỘI THƯƠNG MẠI MỸ TẠI VIỆT NAM Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014

Thứ Năm, Ngày 05 Tháng 06 năm 2014 Trình bày bởi

Ông Marc Townsend Chủ tịch

Kính thưa Thủ tướng Chính phủ, Các vị Bộ trưởng Lãnh đạo Doanh nghiệp Các vị Đại biểu Cùng toàn thể Quý vị, Tôi rất vui mừng được tham dự cuộc họp quan trọng của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam với chủ đề “Từ Chương trình tới Hành động – Chuẩn bị cho các Hiệp định Thương mại mới.” Như những gì diễn ra tại Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ đối thoại với Cộng đồng Doanh nghiệp được Văn phòng Chính phủ tổ chức vào ngày 28 tháng 04, có một sự tách biệt trong nền kinh tế của Việt Nam giữa khu vực nội địa và khu vực nước ngoài: tuy nhiên những vấn đề của nền kinh tế tác động tới tất cả các khu vực. Chúng tôi hy vọng là trong quá trình chuẩn bị tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do mới, các vấn đề này sẽ được giải quyết hiệu quả. Năm 2013, các công ty hội viên AmCham rất vui với tình hình giao thương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tăng khoảng 20%, đạt 29.7 tỷ đô la Mỹ. Thương mại song phương trong ba tháng đầu năm nay đã tăng 14%. Nếu xu hướng hiện nay được tiếp tục duy trì, thương mại song phương về hàng hóa có thể đạt 60.2 tỷ đô la Mỹ vào năm 2020, và có thể lên đến gần 70 tỷ đô la Mỹ năm 2020 nếu có TPP. Đồng thời, doanh thu của các công ty hội viên AmCham và đối tác trong thị trường nội địa cũng tiếp tục tăng trưởng 2004 208 2012 2013 2014 2016 2020

VN nhập khẩu từ Hoa Kỳ $1.2 $2.8 $4.6 $5.0 $5.4 $6.1 $7.7 VN xuất khẩu vào Hoa Kỳ $5.3 $12.9 $20.3 $24.6 $28.4 $36.4 $52.5 Tổng cộng $6.4 $15.7 $24.9 $29.7 $33.8 $42.6 $60.2 VN Dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ $2.7 $5.4 $7.7 $8.8 $9.4 $11.0 $14.0 Nguồn: BộThương mại Hoa Kỳ

Tầm quan trọng của TPP: Hiệp định Đối tác Chiến lược Xuyên Thái BìnhDương (TPP) đem đến một cơ hội mới cho Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng của đất nước và đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội.

Trang 1/4

Page 16: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

TPP sẽ mang đến một hướng phát triển tốt cho nền kinh tếViệt Nam: TPP sẽ giúp tăng 28,4% GDP của Việt Nam trong năm 2025 so với mức tăng khi không có sự hỗ trợ từTPP, đồng thời gia tăng 35,7% xuất khẩu của Việt Nam. 1 AmCham tin tưởng rằng TPP và các Hiệp định Thương mại khác sẽ đem lại nhiều cơ hội mới hỗ trợ chiến lược phát triển của Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Các Hiệp định này có thể hỗ trợ quá trình gỡ bỏ các rào cản thương mại trong các lĩnh vực như tiếp cận thị trưởng và mua sắm chính phủ. Đồng thời quá trình này cũng giúp phát triển các chuẩn mực mới trong hệ thống quy định chặt chẽ, quyền của người lao động, bảo vệ môi trường và quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho TPP và các hiệp định thương mại khác, chúng ta cần lưu ý đến một số yếu tố sau: Vấn đề tham nhũng Vấn đề tham nhũng là vấn đề làm ăn mòn và phổ biến ở Việt Nam và có tác động tiêu cực tới nền kinh tế và xã hội nói chung. Trong khi Chính phủ đã có một số hành động cụ thể, đây là thời điểm thích hợp để triển khai việc phòng chống tham nhũng trên quy mô rộng hơn thông qua việc áp dụng các hệ thống giảm thiểu các cơ hội cho các khoản chi trả không hợp pháp gắn với thực hiện một đạo luật tương tự như Đạo Luật Chống Tham Nhũng Tại Nước Ngoài của Hoa Kỳ (FCPA) hoặc Đạo Luật Chống Hối Lộ của Anh Quốc. Một bước tiến đáng kể là thực hiện các hành động hạn chế tối đa việc sử dụng phương thức thanh toán tiền mặt và tăng cường sử dụng thương mại điện tử. Thực hiện thiếu mạnh mẽ các cam kết WTO, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và dịch vụ, đã gây khó khăn trong việc đạt được lợi ích từ những hiệu quả của các lĩnh vực then chốt. Đây là thời điểm cần đảm bảo các cam kết WTO được thực hiện đúng thời hạn, và với tinh thần tạo dựng một môi trường kinh tế cạnh tranh và hiệu quả - đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và dịch vụ. Thiếu hụt cơ sở hạ tầng, cụ thể là năng lượng và giao thông vận tải, đã cản trở dòng vốn FDI. Đây là, hoặc nên là vấn đề quốc gia và cần được giải quyết ở tầm quốc gia với mô hình đối tác công – tư và các mô hình đối tác khác được thực hiện nhanh chóng. Việc thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao đã cản trở việc phát triển dây chuyền sản xuất ngay cả khi chi phí lao động đang trên đà tăng cao. Các công ty hội viên AmCham đã đi đầu phát triển một lực lượng lao động có tay nghề gồm những kỹ sư và kỹ thuật sản xuất. Các công ty trong và ngoài nước đã cung cấp các chương trình giáo dục và đào tạo nhưng vấn đề cấp bách là Việt Nam đổi mới và nâng cấp chương trình giảng dạy quốc gia, đặc biệt là ở cấp giáo dục đại học và dạy nghề. Một ví dụ thành công và sự phát triển của Chương Trình Hợp Tác Đào Tạo Kỹ Sư (HEEAP). Hợp tác với các trường đại học và cao đẳng dạy nghề hàng đầu Việt Nam, cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hợp tác công tư đã được thiết lập, Chương trình Hợp tác Đào tạo Kỹ Sư trong ba năm qua, 2010-2012.Giờ đây,với những chương trình như HEEAP2.0 trong năm năm từ 2013 - 2017, một quỹ PPP 40 triệu đô la Mỹ được đồng tài trợ của chính phủ,với ngành công nghiệp và các học viện,sẽ đảm bảo rằng vào năm 2017, "Việt Nam sẽ đào tạo được kỹ sư giỏi có thể cạnh tranh với bất kỳ khu vực nào trên thế giới.” 2 Thiếu hụt sự phối hợp giữa nhà nước và doanh nghiệp trong việc cải tiến khu vực nội địa, chúng tôi kiến nghị Doanh nghiệp nhà nước cần được tái cơ cấu và được quản lý với tính minh bạch và trách nhiệm. Họ phải hoạt động trên một "sân chơi bình đẳng" với các doanh nghiệp khu vực tư nhân, cả doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI. Cần phải có sự đối xử công bằng trong việc tiếp cận vốn, đất đai, v.v.

1 http://www.amchamvietnam.com/wp-content/uploads/2013/05/130328-2.2.e.-Petri-TPP-Vietnam-24mar13-v2-web.pdf, pg 13 2 What will HEEAP 2.0 achieve in 5 years?” Presentation by Intel Products Vietnam at the “Higher Engineering Education Conference,” in Can Tho, Mar 19-20, 2013, pg 15

Trang 2/4

Page 17: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đã có một số tiến triển trong việc triển khai các cải cách trong lĩnh vực ngân hàng và tài chính; tuy nhiên cần có nhiều hành động nhanh chóng để giúp phát triển hệ thống kinh tế hiệu quả. Những vấn đề trên không thể giải quyết một cách dễ dàng, nhanh chóng và ít tốn kém. Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp sẽ giúp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư, giúp Việt Nam duy trì hình ảnh của một điểm đến cạnh tranh và hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, và sẽ giúp đổi mới mô hình tăng trưởng của đất nước. Kết luận Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa năm 2013, AmCham đã đề nghị "một bước mới của quá trình cải cách, mang tên Đổi Mới 2, để khuyến khích hơn nữa các doanh nghiệp tư nhân; thúc đẩy thương mại và đầu tư thông qua các sáng kiến nhưTPP; thúc đẩy tuân thủ pháp lý và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước," và cho phép và tạo điều kiện chứ không phải là “hạn chế” kinh doanh. Chúng tôi rất vui mừng với thông điệp năm mới của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 20143 và Nghị quyết 19 của Chính phủ được công bố vào ngày18 tháng 3 năm 20144 cho thấy sự cần thiết của việc thay đổi. Chúng tôi mong muốn môi trường kinh doanh minh bạch nơi sự tương tác giữa cơ quan nhà nước, giữa bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội phải được tăng cường. Đối thoại với người dân và doanh nghiệp phải được mở rộng dưới nhiều hình thức để thúc đẩy mối quan hệ gần gũi hơn giữa Nhà nước, cán bộ, công chức, người dân và chính sách và pháp luật phù hợp hơn với thực tế.5 Và cơ quan chính phủ cần có chỉ số đo lường hiệu quả công việc (KPIs), chẳng hạn số ngày cấp giấy phép, số giờ để hoàn thành quyết toán thuế, số ngày để thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu, để đo lường và tăng cường hiệu quả tương tác với nhân dân và doanh nghiệp. Một số vấn đề trước mắt sẽ được đề cập bởi các nhóm công tác khác và chúng tôi hy vọng được thấy các hành động thành công và tích cực để giải quyết các vấn đề này. AmCham sẽ tiếp tục đóng vai trò đóng góp hiệu quả, phối hợp xác định và thực hiện các giải pháp, và là một chủ thể ủng hộ tích cực cho một môi trường kinh doanh tốt hơn tại Việt Nam. Rất nhiều công việc cần được triển khai. Chúng tôi muốn Việt Nam thành công và AmCham giữ vững cam kết phối hợp với các đối tác Chính phủ để giải quyết các vấn đề, triển khai hoạt động chuẩn bị cho Việt Nam trở thành thành viên của các Hiệp định Thương mại mới, và tạo dựng một môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và hấp dẫn. Một lần nữa, chúng tôi xin được bày tỏ sự ủng hộ đối với hướng dẫn trong Nghị quyết 19 và thông điệp năm mới của Thủ tướng Chính phủ, và cảm kích trước cơ hội đối thoại hôm nay hướng tới “…sự tương tác giữa cơ quan nhà nước, giữa bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội… Đối thoại với người dân và doanh nghiệp phải được mở rộng… để thúc đẩy mối quan hệ gần gũi hơn giữa Nhà nước, cán bộ, công chức, người dân và chính sách và pháp luật phù hợp hơn với thực tế." 6 Tôi xin chúc tất cả mọi người sức khỏe, hạnh phúc, thành công và xin chúc buổi họp hôm nay thành công mỹ mãn.

3 http://www.amchamvietnam.com/30443555/thinking-about-the-prime-ministers-new-year-message/ 4 http://www.amchamvietnam.com/30443758/government-sets-metrics-to-improve-business-conditions-and-national-competitiveness/No. 19/NQ-CP, Ha Noi, Mar 18, 2014 5 http://www.amchamvietnam.com/30443555/thinking-about-the-prime-ministers-new-year-message/ 6 http://www.amchamvietnam.com/30443555/thinking-about-the-prime-ministers-new-year-message/

Trang 3/4

Page 18: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Phụ lục: 1. Thay đổi nhận thức trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam, 2008 – 2013 (5 năm) So sánh với những quốc gia trong khu vực ASEAN

Trang 4/4

Page 19: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

KIẾN NGHỊ CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP CHÂU ÂU TẠI VIỆT NAM Diễn Đàn Doanh Nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014

Hà Nội, Ngày 05/06/2014 Trình bày

Ông Tomaso Andreatta Phó Chủ tịch

Kính thưa các Bộ trưởng, các Đại sứ, các vị khách quý! Thưa các quý ông và quý bà! Thay mặt cho Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam và đối tác của các Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu, tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan đã có mặt tại đây ngày hôm nay trong cuộc đối thoại đầy tính xây dựng với khu vực kinh tế tư nhân thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam. Việt Nam đang trong tiến trình đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do với tiềm năng thúc đẩy nền kinh tế đáng kể. Cụ thể là Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Liên minh Châu Âu (EU) và Việt Nam đang có những bước tiến thuận lợi, và hy vọng sẽ được ký kết trong năm nay. Liên minh Châu Âu là một trong những nhà đầu tư lớn nhất Việt Nam với 1.810 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký là 723 nghìn tỉ đồng (34,28 tỉ đô la Mỹ) tính đến tháng 1 năm 2013. Mối quan hệ giữa Châu Âu và Việt Nam ngày càng lớn mạnh, không chỉ về chính trị, mà còn về phát triển và hội nhập kinh tế. Hai khía cạnh này đã gia cố niềm tin của các nhà đầu tư châu Âu về thị trường Việt Nam, được phản ánh qua Chỉ số môi trường kinh doanh (BCI) quýI/2014 tăng vọt từ 50 lên 59 điểm - vượt qua mức trung bình lần đầu tiên kể từ năm 2012. Đây là một bước tiến quan trọng cho thấy niềm tin ngày càng mạnh mẽ của các doanh nghiệp Châu Âu vào thị trường Việt Nam. Sau khi Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU được ký kết, ước tính GDP của Việt Nam có thể tăng hơn 15%, tiền lương thực tế của lao động có tay nghề cao có thể tăng khoảng 12%, tiền lương thực tế của lao động phổ thông có thể tăng khoảng 13% và giá trị xuất khẩu có thể tăng lên gần 35%.1 Tuy nhiên, các lợi ích tiềm năng này có thể bị suy yếu nếu Việt Nam không cam kết thực hiện toàn diện các điều khoản thương mại quốc tế và đảm bảo việc thi hành hiệu quả các điều khoản này. Điều quan trọng là Việt Nam phải đảm bảo việc ký kết và thi hành các Hiệp định thương mại tự do, trong bối cảnh Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ được thành lập vào năm 2015. Trong khuôn khổ đó, Việt Nam cần đảm bảo các doanh nghiệp của mình có sức cạnh tranh không chỉ ở thị trường nội địa mà cả thị trường quốc tế. Do đó, các chính sách bảo hộ cần được lược bỏ nhanh chóng để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, giá cả, thương hiệu, v/v. Việt Nam đang bước vào một giai đoạn vô cùng quan trọng, bởi lẽ những thành tựu của các năm tới sẽ có ảnh hưởng đáng kể trong sự thành công lâu dài của Việt Nam.

1Phụ lục về Các dịch vụ uỷ thác trong thư khuyến nghị “Đánh giá tác động của thương mại bền vững từ Hiệp định Thương mại ựT do giữa EU và ASEAN”, http://trade.ec.europa.eu/doclib/docs/2013/may/tradoc_151230.pdf, 22 tháng 5 năm 2013

Trang 1/5

Page 20: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Với hy vọng các Hiệp định này sẽ đạt được kết quả như mong đợi, chúng tôi – Cộng đồng doanh nghiệp Châu Âu mong muốn tiếp cận sâu rộng hơn vào thị trường Việt Nam với nhiều điều kiện ưu đãi hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Điều này sẽ góp phần đẩy mạnhquá trình chuyển giao tri thức mà Việt Nam đang rất cần để thoát khỏi bẫy lao động giá rẻ. Bên cạnh đó, nếu Việt Nam cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng nhập khẩu, chắc chắn điều này tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho tiến trình chuyển giao. Qua đó, việc nhanh chóng loại bỏ các rào cản thương mại cũng sẽ khuyến khíchcác doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với môi trường mới và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu đưa ra 5 luận điểm chính mà Việt Nam cần chú trọng: Tôn trọng và thi hành các cam kết của WTO trước khi ký kết Hiệp định Thương mại Tự do (FTA); Việc cấp phép phân phối cho các doanh nghiệp nước ngoài; Vấn đề cấp thị thực nhằm thu hút khách du lịch và công tác; Gỡ bỏ giới hạn sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là tại các ngân hàng; và Thủ tục hòa giải tranh chấp từ Doanh nghiệp tới Chính phủ. I. Tôn trọng và thi hành các cam kết của WTO Điều quan trọng là Việt Nam đưa ra những thông điệp mạnh mẽ về việc tuân thủ các điều khoản quy định trong Hiệp định Tương mại Tự do – và cách tốt nhất để thực hiện việc này là tuyệt đối thi hành và tôn trọng những thỏa thuận đã có, ví dụ như những cam kết của Việt Nam với WTO, đây là cơ sở đầu tiên để Việt Nam bước vào một nền kinh tế cởi mở và hội nhập sâu rộng. Điều này sẽ tăng cường niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp Châu Âu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. II. Du lịch Mặc dù có nhiều giải thích chi tiết được đề ra trong báo cáocủa nhóm công tác về Du lịch, EuroCham vẫn mong muốn được nhấn mạnh hai điểm, đó là vấn đề thị thực và quảng bá du lịch. Thị thực Chúng tôi đề xuất việc miễn thị thực nên được mở rộng cho các nước có tiềm năng đóng góp đáng kể cho doanh thu ngành du lịch, ví dụ các nước thành viên của Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Ca-na-da, Úc, Hồng Kông và Đài Loan. Miễn thị thực cho các nước này nên được cấp với thời gian lưu trú lên đến 90 ngày. Chúng tôi cũng kiến nghị Việt Nam áp dụng biện pháp cấp thị thực tại sân bay (visa on arrival) hiệu quả và có tính thực tiễn cao. Theo đó, khách nhập cảnh không nhất thiết phải hoàn thiện các thủ tục xin thị thực trước khi hạ cánh. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Lào hoặc Cam-pu-chia, nơi mà việc cấp và thu phí xin thị thực được tiến hành ngay tại cửa khẩu. Các thủ tục và chính sách cấp thị thực tại sân bay phải được tiến hành minh bạch, thống nhất và có kèm chỉ dẫn, các mức phí cụ thể và được thực thi nhất quán tại các sân bay khác nhau. Quảng bá du lịch Hiện tại, vẫn chưa rõ thu nhập từ việc cấp thị thực đang được sử dụng ra sao. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng một trong những cách hiệu quả nhất để hạn chế những nhận thức tiêu cực về tiêu chuẩn dịch vụ du lịch tại Việt Nam là tiếp tục thực hiện những chiến dịch quảng cáo ở cấp quốc gia lẫn quốc tế. Những chiến dịch này phải tiếp tục làm nổi bật những vẻ đẹp hấp dẫn của Việt Nam như di sản văn hóa đầy màu sắc, phong cảnh thiên nhiên hữu tình, những bãi biển tuyệt đẹp và con người hiếu khách. Để thực hiện những đề xuất trên, Việt Nam cần có một ngân sách đáng kể, đặc biệt là khi ngành du lịch chiếm 7% GDP. Vì thế, chúng tôi đề xuất Việt Nam tái đầu

Trang 2/5

Page 21: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

tư ít nhất 20,000 đồng trên một thị thực vào ngân quỹ để thực hiện các chiến dịch quảng bá du lịch. III. Cấp phép phân phối Việc các doanh nghiệp theo sát và chăm sóc sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng là yếu tố cần thiết để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Chẳng hạn như trong trường hợp về nước uống có cồn, vào ngày 12 tháng 11 năm 2012, Việt Nam đã thông qua Nghị định 94/2012/ND-CP về điều chỉnh việc sản xuất và kinh doanh rượu. Nghị định 94 cho phép các doanh nghiệp chỉ được phép sở hữu một trong các loại giấy phép: phân phối, bán buôn hoặc bán lẻ. Điều này đã hạn chế phạm vi các dịch vụ mà các nhà khai thác nước ngoài có thể cung cấp, trong khi không đặt giới hạn cho các nhà sản xuất trong nước. Cũng theo đó, quyền nhập khẩu chỉ được trao cho người có giấy phép phân phối. Với việc chỉ được phép sở hữu một loại giấy phép, các nhà nhập khẩu thực tế bị cấm tham gia vào bất kỳ hoạt động nào khác ngoài phân phối. Về lý thuyết, một thực thể đa quốc gia có thể sẽ phải thành lập một công ty thứ hai (cùng chủ sở hữu) để thực hiện các hoạt động bán buôn, chẳng hạn như bán cho các siêu thị, cửa hàng, quán bar, nhà hàng, v/v. Điều này đã tạo nên những gián đoạn đáng kể cho chuỗi cung ứng hiện nay, đặc biệt là đối với các kênh phân phối hiện đại không hoạt động một cách tập trung. Hiện nay, các cửa hàng đều có thể hoạt động theo mô hình bán buôn và bán lẻ các sản phẩm, đồng thời có mối quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất và nhập khẩu. Theo quy định mới, các cửa hàng cần có giấy phép bán lẻ để bán trực tiếp cho người tiêu dùng, nhưng sẽ bị hạn chế thâm nhập vào các mối quan hệ thương mại trực tiếp với các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu trên cơ sở hợp tác kinh doanh. Những khó khăn này có thể sẽ kìm hãm đầu tư và thương mại tại Việt Nam. Nghị định 94 cũng đặt ra giới hạn về số lượng giấy phép phân phối, giấy phép bán buôn và bán lẻ dựa trên dân số. Điều này sẽ tạo điều kiện để hình thànhmột thị trường thứ cấp nhằm buôn bán các loại giấy phép, đồng thờigiới hạn lựa chọn phân phối cho các doanh nghiệp, đặc biệt là ở cáckhu vực ít dân cư và vùng nông thôn. Vấn đề này cũng gây những tác động nhất định tới nhiều ngành nghề khác, trong đó có ngànhdược phẩm. Ngoài ra, kiểm tra về nhu cầu kinh tế (Economic Need Test) là một trở ngại lớn cho kênh phân phối hiện đại tại Việt Nam.Trong khi chúng tôi đề xuất chấm dứt hoàn toàn động thái này, thực tế là thuật ngữ này đang được định nghĩa khá mơ hồ trong các quy định hiện hành. Vì vậy, chúng tôi hi vọng Việt Nam có thể điều chỉnh thuật ngữ này theo hướng khách quan và dễ thực hiện hơn trong tương lai gần. IV. Sở hữu nước ngoài –đặc biệt trong ngành ngân hàng Theo cam kết WTO, đến năm 2012, các nhà đầu tư nước ngoài có quyền thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, Nghị định 58/2012/ND-CP ngày 20/07/2012 cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% vốn điều lệ của công ty chứng khoán đang hoạt động, hoặc thành lập công ty môi giới có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam (trừ công ty chứng khoán) vẫn còn giới hạn ở mức 49% theo quy định hiện hành. Do đó, chúng tôi rất hoan nghênh việc Bộ Tài chính đưa ra các đề xuất nâng hoặc gỡ bỏ hoàn toàn giới hạn này.

Trang 3/5

Page 22: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, giới hạn về sở hữu nước ngoài vẫn không rõ ràng.(theo Nghị định 01/2014/ND-CP). Do đó, có hai trở ngại chính để khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài thuộc lĩnh vực ngân hàng tham gia: đó là việc tham gia vào các hoạt động của ngân hàng địa phương và thiếu tiếng nói tại Hội đồng quản trị. Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài không chỉ quan tâm tới giới hạn sở hữu mà còn lo ngại về quyền kiểm soát thực tế tại các tổ chức tín dụng Việt Nam. Các ngân hàng được hợp nhất bởi các tổ chức tài chính quốc tế luôn được hỗ trợ về mọi nhu cầu, bao gồm hỗ trợ vốn, ngay cả trong những tình huống áp lực, khi hình ảnh của họ bị ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, những hỗ trợ như vậy không thể được hiện thực hoá nếu nhà đầu tư nước ngoài không được kiểm soát hoạt động của ngân hàng. Do đó, chúng tôi kêu gọi việc loại bỏ giới hạn sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước, đồng thời tăng thêm mức độ hoạt động/ sự hiện diện/ tầm kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài trong sự chỉ đạo của tổ chức tín dụng. V. Thủ tục giải quyết tranh chấp từ Doanh nghiệp tới Chính phủ Điều vô cùng quan trọng với các doanh nghiệp là quyền truy đòi hợp pháp trong trường hợp tranh chấp về các bất đồng trong thương mại. Lập luận này tất nhiên đi theo cả hai hướng, bởi nó sẽ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam bảo vệ các khoản đầu tư của họ ở châu Âu và ngược lại. Theo kinh nghiệm từ các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hiện nay, rất cần có một cơ chế rõ ràng để giải quyết tranh chấp - nhưng không chỉ hạn chế giữa Chính phủ với Chính phủ như trường hợp ví dụ tại WTO. Một điểm tương tự đã được MUTRAP ghi rõ trong Bản phân tích Tác động Định lượng và Định tính của FTA EU-Việt Nam năm 2011. Nếu một công ty bị đối xử bất công, công ty đó phải được quyền thực thi cơ chế truy đòi, vốn không đòi hỏi quá nhiều thời gian và đầu tư nguồn lực. Bởi lẽ, hầu hết các công ty không thể đầu tư mức độ nguồn lực và do đó sẽ hạn chế giá trị của thủ tục giải quyết tranh chấp, tiếp đến là hạn chế giá trị của các thỏa thuận thương mại tự do. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các doanh nghiệp, cần có sự công nhận của trọng tài quốc tế và thi hành tại Việt Nam. Điều này sẽ góp phần nâng cao đáng kể sức hấp dẫn của Việt Nam như một điểm đến đầu tư và là một đối tác kinh doanh. VI. Kết luận Những động thái kinh tế trong vài năm tới sẽ là nhân tố quyết định chủ yếu với tương lai của Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn theo đuổi mô hình tăng trưởng kinh tế cạnh tranh toàn cầuvàbền vững, cần phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài với số lượng và chất lượng tốt hơn. Để làm được điều này, Chính phủ Việt Nam nên tập trung nỗ lực của mình vào năm 2014 để giải quyết các vấn đề nêu trên và đảm bảo một Hiệp định Thương mại Tự do hiệu quả, khả thi,với thủ tục giải quyết tranh chấp từ doanh nghiệp tới Chính phủ. Nếu điều này không được thực hiện, nó sẽ tạo ra sự hoài nghi cho nhà đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Namsẽ vẫn hạn chế so với tiềm năng của nó. Ngoài ra, nhiều vấn đềcòn tồn tại trong các lĩnh vực cụ thể cũng được trình bày trong Sách Trắng (Whitebook) của EuroCham năm 2014.Những vấn đề này cần được giải quyết hài hoà giữa các bộ ngành và doanh nghiệpliên quan, và EuroCham rất sẵn sàng thúc đẩy quá trình này. Chúng tôi đưa ra nhiều đề xuất khác nhau trong bản khuyến nghị này, đại diện cho tiếng nói và vì lợi ích của Cộng đồng doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam.Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, những khuyến nghị của chúng tôi nhằm hướng đến lợi ích lâu dài của Chính phủ và

Trang 4/5

Page 23: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

người dân Việt Nam.Nền kinh tế chỉ có thể phát triển một cách bền vững nếu môi trường kinh doanh thuận lợi, nếu Việt Nam tạo được một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp; nếu quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ; nếu tình trạng tham nhũng và đầu tư không hiệu quả bị xoá bỏ; nếu việc giám sát Chính phủ hoạt động hợp lý. Chúng tôi chân thành hy vọng đề xuất của chúng tôi sẽ giúp Chính phủ đạt được nhữngthành quảnhư vậy và EuroCham sẽ tiếp tục hỗ trợ, nếu có thể, để hướng tới đạt được mục tiêu này. Cuối cùng, tôi xin phép kết thúc bản khuyến nghị này bằng cách nhấn mạnh rằng tại EuroCham chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc chăm chỉ để đảm bảo việc đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) kết thúc với kết quả tốt nhất, có thểtrong năm nay. Chúng tôi mong muốn được làm việc với Chính phủ Việt Nam, với tất cả các doanh nghiệp thành viên và các đối tác của EuroCham, cả Việt Nam và châu Âu, nhằm tối đa hoá thành công của họ tại một Việt Nam sôi động hơn bao giờ hết!

Trang 5/5

Page 24: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM(KORCHA

ĐỀ XUẤT CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014

Hà Nội, Ngày 05/06/2014 Trình bày

Ông Kim Jung In Chủ tịch

I. GIỚI THIỆU Trước hết, chúng tôi xin được bày tỏ sự cảm thông sâu sắc tới Chính phủ Việt Nam và những công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do biến động tại khu vực Nam Trung Bộ của Việt Nam. Chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới ngài Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chính phủ Việt Nam vì những nỗ lực to lớn trong việc giải quyết tình hình khó khăn này. Chúng tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này bằng việc chung tay giải quyết khủng khoảng với sự cảm thông lẫn nhau và đánh giá tình hình một cách sáng suốt. Liên quan đến tình hình khó khăn này, chúng tôi xin được mạn phép đưa ra một vài đề xuất như sau: Thứ nhất, chúng tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam nên có một công bố chính thức cho các nhà đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới rằng Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đưa ra những giải pháp cụ thể để ổn định môi trường kinh doanh cho các công ty đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thứ hai, chúng tôi có ý kiến rằng Chính phủ Việt Nam nên đề xuất và xem xét bù đắp thiệt hại kịp thời hoặc một kế hoạch bồi thường cụ thể. Thứ ba, chúng tôi cũng xin kính đề nghị Chính phủ Việt Nam đưa ra những khoản vay với lãi suất thấp bằng những quy định pháp lý cụ thể như là một cách kiểm soát khủng hoảng để những công ty có vốn đầu tư nước ngoài có thể phục hồi trong thời gian sớm nhất và ổn định lại hoạt động kinh doanh của họ tại Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi kính đề nghị Chính phủ Việt Nam miễn thuế cho các công ty bị thiệt hại để đẩy nhanh các thủ tục hải quan nhập khẩu nguyên vật liệu nhằm khôi phục mạng lưới cung ứng bị thiệt hại. Thứ tư, chúng tôi xin đề nghị Chính phủ Việt Nam thực hiện các giải pháp phù hợp dành cho người lao động bị mất việc bởi sự cố này. Hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (“KorCham”) vô cùng hoan nghênh và ủng hộ nhiệt thành những thiện chí và nỗ lực mà Chính phủ Việt Nam đã thể hiện trong việc xử lý khủng hoảng. Như một người đồng hành với nền kinh tế của Việt Nam, Korcham sẽ luôn cố gắng hết sức để biến tình trạng khủng hoảng này thành cơ hội dành cho đầu tư nước ngoài bền vững ở Việt Nam. Việt Nam đang trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp định Thương mại Tự do FTA với EU và Hàn Quốc. Chúng tôi tin rằng Việt Nam sẽ có những đóng góp lớn cho nên kinh tế thế giới. Hàn Quốc cũng đang cố gắng kết thúc đàm phán và ký kết FTA

Trang 1/5

Page 25: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

với Việt Nam trong năm tới. Hơn nữa, đối với ngành dệt may và giầy dép mà các công ty Hàn Quốc đang tập trung đầu tư, quy tắc xuất xứ trong đàm phán FTA là một vấn đề hết sức nhạy cảm. Chúng tôi hy vọng Chính phủ Việt Nam cung cấp những thông tin về tình hình đàm phán FTA cho không chỉ những bên của hiệp định mà còn cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài để họ có thể hoạch định kế hoạch kinh doanh tổng thể cho tương lai và tiến hành đầu tư đúng thời điểm. Chúng ta đều đồng ý rằng, khối kinh tế tư nhân luôn mong có được một mô hình đối thoại cởi mở và mang tính xây dựng với Chính phủ Việt Nam. Tôi nghĩ rằng hỗ trợ phát triển tự bản thân nó không thể thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Mà thay vào đó, đầu tư và giao thương trực tiếp nước ngoài mới thúc đẩy sự tăng trưởng đó. Các quốc gia, các khu kinh tế, các tỉnh, thành phố cần phải có những chính sách kinh tế tốt và một khuôn khổ pháp lý lành mạnh để thu hút đầu tư quốc tế, thúc đẩy giao thương và tăng cường phát triển kinh tế, xã hội. Xin được nói trước rằng, KorCham luôn có cách nhìn tích cực về các chính sách đầu tư của Việt Nam, nhưng những chính sách đó vẫn có một số vấn đề cần được cải thiện hơn nữa. Thông qua sự cải thiện pháp luật này, chúng tôi tin rằng Việt Nam là quốc gia được nhiều kỳ vọng và đầy tiềm năng. II. NHỮNG KIẾN NGHỊ CỦA CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC Tại hội nghị hôm nay, bốn (4) đề xuất do các thành viên của cộng đồng doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam kiến nghị xin được trình bày như sau. 1. Bền vững trong đầu tư nước ngoài Điều 32 Luật Đầu tư quy định rằng: “1. Nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Điều 27 và Điều 28 của Luật này được hưởng các ưu đãi theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Việc ưu đãi đầu tư quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường.” Tuy nhiên, hướng dẫn thi hành của một số thông tư, như Phần I mục 6 của thông tư 130/2008/TT-BTC và Điều 23.5 của Thông tư 123/2012/TT-BTC năm 2008 đã gây ra một số vấn đề cho các công ty Hàn Quốc khi hưởng ưu đãi thuế theo như quy định tại Điều 32 của Luật Đầu tư, cụ thể như sau:

HƯỞNG ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (TNDN)

Từ 2004 - 2008 (Luật Thuế TNDN 2003)

Hình thức đầu tư mở rộng sẽ được hưởng ưu đãi thuế TNDN (tại Điều 18, Luật Thuế TNDN 2003)

Từ 2009 – 2013 (Luật Thuế TNDN 2008)

Hình thức đầu tư mở rộng sẽ không được hưởng ưu đãi thuế TNDN, ngoại trừ việc mở rộng đầu tư kéo theo việc thành lập pháp nhân mới (tại Điều 23.5 Thông tư 123/2012/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Luật

Thuế TNDN 2008) Từ 2014 – nay

(Luật Thuế TNDN 2013)

Trang 2/5

Page 26: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hình thức đầu tư mở rộng sẽ được hưởng ưu đãi thuế TNDN (tại Điều 14.4, Luật Thuế TNDN 2013)

Theo bảng trên, việc thi hành các quy định đó đã tác động bất lợi tới các công ty Hàn Quốc mà mở rộng việc đầu tư và kinh doanh của họ từ năm 2009. Điều này thật không công bằng cho các công ty phải chịu những bất lợi rõ ràng về thuế so với những công ty khác đầu tư trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2008 và sau 2014, chỉ vì họ đã đầu tư vào khoảng thời gian từ năm 2009 tới 2013 mà chẳng vì thay đổi hợp lý nào khác. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị rằng, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư cần phải được đảm bảo đầy đủ theo như quy định tại Luật Đầu tư. 2. Hệ thống thanh tra đầu tư nươc ngoài Hơn nữa, nhằm tạo môi trường bền vững cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chúng tôi đề xuất Hệ thống Thanh tra Đầu tư Nước ngoài. Hệ thống Thanh tra Đầu tư Nước ngoài được giới thiệu lần đầu ngày 26/10/1999 tại Luật Khuyến khích Đầu tư Nước Hàn Quốc ngoài nhằm mục đích hỗ trợ công tác giải quyết khiếu nại ở các công ty đầu tư nước ngoài hoạt động tại Hàn Quốc. Thanh tra Đầu tư Nước ngoài được Tổng thống bổ nhiệm theo đề cử của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng thông qua đánh giá của Ủy ban Đầu tư Nước ngoài. Thanh tra còn lãnh đạo cơ quan giải quyết khiếu nại, mà cơ quan này hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ của Thanh tra. Thanh tra Đầu tư Nước ngoài và cơ quan giải quyết khiếu nại thu thập và phân tích các thông tin liên quan đến các vấn đề mà các công ty nước ngoài gặp phải, yêu cầu hợp tác và đề xuất thực hiện hợp tác của các cơ quan quản lý có thẩm quyền, đề ra những chính sách mới nhằm cải thiện cơ chế khuyến khích đầu tư nước ngoài, và thực hiện các nhiệm vụ cần thiết khác nhằm hỗ trợ những công ty đầu tư nước ngoài giải quyết khiếu nại của họ. Cụ thể, Luật Khuyến khích Đầu tư Nước ngoài, được sửa đổi một phần vào ngày 11/12/2012, đã đưa ra những quy định mới liên quan đến việc khiếu nại mà nhà đầu tư nước ngoài gặp phải. Theo những quy định mới này, Thanh tra Đầu tư Nước ngoài có thể yêu cầu lãnh đạo của các cơ quan hữu quan báo cáo về việc giải quyết khiếu nại của họ và các biện pháp khắc phục. Ngoài ra, Thanh tra cũng có thể báo cáo việc những cơ quan không thực hiện đề xuất của Thanh tra ra Ủy ban Đầu tư Nước ngoài, để mở một vụ việc xem xét. Hệ thống Thanh tra Đầu tư Nước ngoài được đánh giá rất cao, như là một thiết chế quan trọng để thúc đẩy đầu tư quốc tế. Hệ thống này đã được giới thiệu và thảo luận tại rất nhiều diễn đàn quốc tế, bao gồm UNCTAD và APEC. Vào tháng 4 năm 2012, Hội nghị Đầu tư Thế giới lần thứ 3 được tổ chức bởi UNCTAD tại Doha, Qatar, Nga đã tuyên bố về việc thông qua thành lập hệ thống Thanh tra, trong khi đó chính phủ Brazil đã qua Hàn Quốc để tìm hiểu về mô hình này. Gần đây nhất, phái đoàn Kaznex Invest của Kazakhstan cũng công bố kế hoạch sang Hàn Quốc để tham khảo mô hình này. Hệ thống Thanh tra Đầu tư Nước ngoài đã thu hút sự quan tâm toàn cầu vì những thành quả tiêu biểu trong giải quyết khiếu nại cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Hàn Quốc: gần 350 vụ việc, trong đó gần 90 vụ về can thiệp hành chính, đã được giải quyết trong năm 2013 bằng cách sửa đổi quy định pháp luật hoặc yêu cầu sự phối hợp quản lý của các bộ ngành liên quan. Các chuyên gia từ World Bank, cơ quan chủ quản của Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế (ICSID), đã tiến hành các nghiên cứu kỹ lưỡng về hệ thống Thanh tra của Hàn Quốc. Vào tháng 8 năm 2012, Văn phòng Thanh tra đã nhận được khen ngợi từ Bộ Ngoại Giao Nhật Bản vì những đóng góp trong việc giải quyết những khó khăn mà những nhà đầu tư Nhật Bản ở Hàn Quốc gặp phải.

Trang 3/5

Page 27: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Các nhà đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và các nhà đầu tư nước ngoài khác đang gặp rất nhiều vấn đề muốn khiếu nại. Khi có những người giàu kinh nghiệm và kiến thức về đầu tư nước ngoài được chỉ định làm Thanh tra đầu tư nước ngoài để giải quyết các vấn đề đó, Korcham tin chắc rằng các nhà đầu tư nước ngoài cũng như những nhà đầu tư mới sẽ có thể nhận được nhiều hơn nữa sự hỗ trợ hiệu quả và đáng tin cậy từ Chính phủ Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi rất mong Chính phủ Việt Nam sẽ xem xét một cách tích cực để thành lập nên cơ quan Thanh Tra Đầu tư Nước Ngoài 3. Vấn đề liên quan tới việc Làm thêm giờ của Người lao động Bộ luật Lao động Việt Nam được sửa đổi ngày 18/06/2012 và có hiệu lực kể từ ngày 1/5/2013. Luật Lao động Sửa đổi (số 10/2012/QH13, ngày 18/6/2012) nghiêm cấm giờ làm thêm tối đa của người lao động quá 4 giờ trong một ngày, 30 giờ trong một tháng và 200 giờ trong một năm. Vì vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, số giờ làm thêm tối đa của người lao động bị giới hạn là 200 giờ một năm, ngoại trừ các trường hợp được cho phép bởi Chính phủ Việt Nam. Trong trường hợp vi phạm quy định này, công ty sẽ phải tạm ngừng kinh doanh từ 1 tới 3 tháng và bị phạt tiền từ 25.000.000 Đồng đến 30.000.000 Đồng. Tuy nhiên, Korcham cho rằng hình phạt như vậy là quá khắt khe. Chúng tôi mong rằng Chính phủ Việt Nam giảm nhẹ hình phạt theo quy định hiện nay và thay bằng cảnh cáo và cho thời gian để các Công ty có vốn Đầu tư Nước ngoài (“CTĐTNN”) điều chỉnh theo quy định. Hơn nữa, hầu hết các CTĐTNN đều gặp phải những vấn đề trong việc đáp ứng nhu cầu của khách mua ở nước ngoài bởi vì rất khó để đáp ứng các đơn đặt hàng với những quy định hạn chế giờ làm thêm của người lao động như hiện nay. Thêm vào đó, các nhà máy cần phải vận hành 3 ca, điều đó có nghĩa là công ty đó phải thuê thêm lao động, từ đó làm tăng gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp. Thậm trí, việc vận hành 3 ca như vậy sẽ gây ra những vấn đề về quản lý cho các công ty, đặc biệt là trong những khoảng thời gian ngoài đợt sản xuất cao điểm. Đối với người lao động, sẽ không có cơ hội để nhận tiền làm thêm vì những quy định này. Việc hạn chế giờ làm thêm như vậy cấm người lao động tự nguyện làm thêm để hưởng tiền làm thêm giờ. Bên cạnh đó, việc hạn chế này sẽ không cho CTĐTNN được phép để người lao làm thêm ngay cả khi người lao động muốn như vậy. Nói cách khác, Luật Lao động cấm những điều mà cả CTĐTNN và người lao động cùng mong muốn. Chúng tôi lo ngại rằng loại mâu thuẫn này sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường pháp lý thân thiện về đầu tư cho CTĐTNN ở Việt Nam. Do vậy: i) như số giờ làm thêm tối đa của các quốc gia khác là hơn 300 giờ, và ii) như Hoa Kỳ không hề đưa ra bất cứ giới hạn nào về việc làm thêm giờ của người lao động, chúng tôi nghĩ rằng quy định pháp luật hiện tại về việc giới hạn số giờ làm thêm cần được sửa đổi, từ 200 giờ/năm lên ít nhất hơn 300 giờ/năm; hoặc sẽ bỏ hẳn quy định đó miễn là có sự đồng thuận giữa công ty và người lao động về việc làm thêm giờ. Chúng tôi thấy rằng điều này sẽ khiến các CTĐTNN ở Việt Nam quản lý hiệu quả và bảo đảm thu nhập cho người lao động. 4. Chuyển giá – Thỏa thuận Xác định Giá trước Chính phủ Việt Nam đã ban hành Thông tư số 201/2013/TT-BTC (“Thông tư 201”) liên quan tới Thỏa thuận Xác định Giá trước (“APA”). Korcham xin được chỉ ra một số điểm đặc biệt về APA của Việt Nam so với APA của các nước khác, từ đó đưa ra một vài kiến nghị để việc thực hiện APA sẽ trở nên tích cực hơn cho Chính phủ Việt Nam và các công ty hoạt động tại Việt Nam.

Trang 4/5

Page 28: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Vấn đề quan trọng nhất liên quan APA tại Việt Nam là Thông tư 201 không đưa ra cơ chế hồi tố. Một trong những lợi ích hấp dẫn nhất mà người nộp thuế kiếm tìm ở APA là áp dụng hồi tố APA để điều chỉnh những năm tính thuế trước đó (giai đoạn hồi tố). Việc áp dụng hồi tố có thể mang lại một phương thức hiệu quả để giải quyết các tranh chấp chuyển giá đang diễn ra. Vì vậy, ngay cả trước khi Thông tư 201 được ban hành, đã có nhiều ý kiến từ nhiều bên khác nhau yêu cầu áp dụng cơ chế hồi tố trong APA. Tuy nhiên, cơ chế hồi tố dù xuất hiện trong hầu hết các APA của các quốc gia khác thì lại không được quy định và điều này có thể là một vấn đề lớn cho các công ty. Bên cạnh đó, thủ tục tham vấn trước khi nộp hồ sơ là một thủ tục bắt buộc khi thực hiện APA theo như quy định tại Thông tư 201, các hồ sơ yêu cầu cho thủ tục tham vấn trước khi nộp hết sức phức tạp và doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian để chuẩn bị. Một vài hồ sơ còn bị trùng với các hồ sơ đã được yêu cầu trong thủ tục nộp đơn chính thức. Các công ty tại Việt Nam hiện đang phải giải quyết rất nhiều khó khăn bởi thủ tục tham vấn trước khi nộp đòi hỏi việc chuẩn bị kỹ lưỡng ngay từ khi bắt đầu. Để việc thực hiện APA trở nên có hiệu quả, Korcham xin kiến nghị với Chính phủ sửa đổi Thông tư 201 và cơ chế hồi tố và giảm thời gian cũng như số lượng hồ sơ phải nộp trong thủ tục tham vấn trước khi nộp. III. KẾT LUẬN Cuối cùng, chúng tôi mong rằng Chính phủ Việt Nam sẽ xem xét những kiến nghị của chúng tôi và mong rằng các giải pháp thích hợp sẽ nhanh chóng được đưa ra. Chừng nào Việt Nam vẫn tiếp tục con đường cải cách kinh tế và pháp luật, các doanh nghiệp Hàn Quốc chúng tôi sẽ vẫn tự tin đầu tư và mở rộng hoạt động của chúng tôi tại Việt Nam trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để kết thúc bản ý kiến này, Korcham, hơn bao giờ hết, luôn cam kết hợp tác với Chính phủ Việt Nam để phát triển môi trường đầu tư thuận lợi hơn nữa để tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế

Trang 5/5

Page 29: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JBAV)

PHÁT BIỂU CỦA JBAV

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014 Hà Nội, Ngày 05/06/2014

Trình bày

Ông Yoshihisa Maruta Chủ tịch

Kính thưa các Bộ trưởng và quý vị đại biểu: Trước tiên, tôi xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành với Bộ Kế hoạch Đầu tư (BKHĐT) và đại diện của các Hội doanh nghiệp đã cho tôi có được cơ hội để phát biểu tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam ngày hôm nay. 1. Mối quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản Với lễ kỷ niệm 40 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Nhật cũng như chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Nhật Bản vào tháng ba vừa qua, mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã được tăng cường thêm một bước. Đầu tư FDI của Nhật Bản vào Việt Nam liên tục tăng trong 3 năm qua. Tổng vốn đầu tư mới và đầu tư mở rộng năm 2013 đạt 5,88 tỉ USD, đứng đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, đóng góp lớn cho sự phát triển công nghiệp của Việt Nam. Tuy vậy, dù các doanh nghiệp Nhật Bản vẫn rất quan tâm đến việc đầu tư vào Việt Nam nhưng việc chính phủ thiếu những giải pháp phù hợp (nêu dưới đây) khiến hoạt động đầu tư của Nhật Bản đang đứng trước nguy cơ chững lại. 2. Môi trường đầu tư tại Việt Nam đối với doanh nghiệp Nhật Tính đến tháng 5/2014, số lượng các doanh nghiệp thành viên của JBAV đã đạt mốc 1.319 doanh nghiệp, khiến Việt Nam trở thành nước có Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản quy mô lớn thứ hai trong các nước ASEAN, chỉ sau Thái Lan. Con số này đã tăng gấp hơn hai lần so với 604 doanh nghiệp năm 2007. Theo “Khảo sát thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhật Bản ở khu vực Châu Á và Châu Đại dương” thường niên của JETRO, 70% doanh nghiệp Nhật đầu tư vào Việt Nam năm 2013 tiếp tục coi Việt Nam là một thị trường quan trọng cũng như duy trì chiến lược “mở rộng hoạt động” trong năm 2014 (một tỉ lệ cao so với phần lớn các quốc gia khác). Tuy vậy, các doanh nghiệp cũng ngày càng cảm thấy không hài lòng với môi trường kinh doanh tại đây. Đặc biệt, hơn 60% các doanh nghiệp được hỏi cho rằng những vấn đề nêu dưới đây đang cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh, đó là: chi phí lao động tăng nhanh, thủ tục hành chính phức tạp, chính sách nhà nước thiếu minh bạch, thủ tục thuế rườm rà, hệ thống pháp luật thiếu hoàn thiện, thiếu minh bạch trong thực thi luật. Kết quả điều tra tỏ ra thiếu tích cực hơn so với các nước ASEAN láng giềng khác. Tuy các doanh nghiệp Nhật Bản vẫn đánh giá rất cao cơ hội kinh doanh tại Việt Nam nhưng

Trang 1/4

Page 30: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

những vấn đề nêu trên đang ngày càng ảnh hưởng nhiều đến cảm nhận của nhà đầu tư và về lâu dài sẽ có ảnh hưởng xấu đến cả hoạt động đầu tư FDI nói chung. Cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp hiện nay là một đòi hỏi cấp bách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội sau này của Việt Nam. Chính phủ hai nước đã có những hoạt động hợp tác nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư trong chương trình có tên gọi “Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản” trong hơn 10 năm qua (hiện Sáng kiến này đã đi đến giai đoạn 5). Hôm nay, chúng tôi xin được trình bày về một số vấn đề mà các doanh nghiệp thành viên của JBAV đang gặp phải cả trong ngắn hạn, trung hạn đến dài hạn, kính xin các quý vị Bộ trưởng xem xét, cho hướng giải quyết.

3. Các vấn đề trong ngắn hạn về môi trường đầu tư 3.1. Giấy phép lao động Kể từ khi Thông tư số 03/2014/TT-BLĐTBXH (ngày 20/1/2014) của BLĐTBXH có hiệu lực từ tháng 3/2014, một số doanh nghiệp Nhật Bản đã được các cơ quan chức năng thông báo rằng những lao động đã từng đến Việt Nam nếu lưu trú dù chỉ 1 ngày cũng đều phải xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp, do vậy cần phải xin giấy Xác nhận tạm trú tại khách sạn đã từng ở. Nếu xin Phiếu lý lịch tư pháp chỉ cho thời gian lưu trú 1 ngày thì nhiều khi cũng sẽ bị cơ quan chức năng từ chối cấp. Chúng tôi đề nghị điều chỉnh quy định này theo hướng thực tế hơn và chỉ nên áp dụng cho những người trước đây đã lưu trú tại Việt Nam trong một thời gian nhất định. 3.2. Tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm sắt thép Kể từ ngày 1/6/2014, Thông tư liên tịch số 44/2013/TTLT-BCT-BKHCN (ngày 31/12/2013) của BCT và BKHCN sẽ có hiệu lực, theo đó phần lớn các sản phẩm sắt thép nhập khẩu mã hải quan HS 72 sẽ phải thực hiện kiểm tra hành chính về vấn đề phân phối nội địa. Theo Liên đoàn Sắt thép Nhật Bản ước tính, khoảng 80% các sản phẩm sắt thép nhập khẩu từ Nhật sẽ phải áp dụng quy định kiểm tra này. Tuy vậy, ngày bắt đầu áp dụng Thông tư và chi tiết các thủ tục hành chính lại chưa rõ ràng, vì vậy có thể dẫn đến lúng túng đối với những doanh nghiệp Nhật Bản có sử dụng sản phẩm sắt thép nhập khẩu nói riêng, và cả thị trường Việt Nam nói chung. Do đó, chúng tôi đề nghị làm rõ các thủ tục cần thực hiện. 3.3. Làm rõ về các điều kiện ưu đãi đầu tư Nghị định số 218/2013/NĐ-CP (ngày 26/12/2013), có hiệu lực từ ngày 1/1/2014, là một bước tiến lớn trong việc khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, dù vậy, các điều kiện để được nhận ưu đãi đầu tư vẫn chưa được rõ ràng, chi tiết. Đề nghị BTC làm rõ những điều kiện này và có biện pháp phù hợp để bảo đảm quyền được hưởng ưu đãi cho từng dự án đầu tư (cụ thể bằng cách gửi công văn đến từng dự án đầu tư) nhằm nâng cao mức độ ổn định, tin cậy của khung pháp lý. 3.4. Bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ đối với những dự án lớn Các dự án cơ sở hạ tầng lớn thường được đầu tư bằng các ngoại tệ mạnh như đồng USD. Trong khi đó, doanh nghiệp lại phải thanh quyết toán bằng đồng Việt Nam, vì thế khi trả nợ cần phải chuyển đổi doanh thu VND sang một đồng tiền mạnh khác. Hiện nay, chính phủ Việt Nam chỉ bảo lãnh cho chuyển đổi thành USD đối với 30% doanh thu VND (Công văn số 1604/2011/TTG-TN), tuy nhiên mức này là chưa đủ để thanh toán nợ cho các tổ chức cho vay nước ngoài. Nếu Việt Nam muốn thu hút những khoản vốn đầu tư lớn, trong đó có lĩnh vực điện năng, thì việc bảo lãnh chuyển đổi 100% thu nhập là cần thiết.

Trang 2/4

Page 31: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

4. Chiến lược Công nghiệp hóa 4.1. Đẩy mạnh Chiến lược Công nghiệp hóa và xây dựng chương trình hành động Sau hai năm thảo luận về Chiến lược công nghiệp hóa giữa hai nước, Quyết định số 1043/QĐ-Ttg (ngày 1/7/2013) của Thủ tướng Chính phủ đã quy định 6 ngành công nghiệp mũi nhọn là: điện tử, chế biến thực phẩm, máy nông nghiệp, môi trường-tiết kiệm năng lượng; ô tô và phụ tùng ô tô; đóng tàu. Để xây dựng được những ngành công nghiệp mới này sẽ cần rất nhiều thời gian cũng như nhà nước phải có các chính sách nhất quán, thiết thực. Trước hết, cần xây dựng kế hoạch thực hiện khả thi trong đó thể hiện được những nội dung đã thảo luận giữa hai nước và công bố kế hoạch một cách sớm nhất. Các doanh nghiệp Nhật sẵn sàng ủng hộ kế hoạch này cũng như đóng góp tích cực vào sự phát triển của Việt Nam. 4.2. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ là yêu cầu quan trọng để triển khai Chiến lược công nghiệp hóa. Sau đây, tôi xin được trích dẫn số liệu khảo sát của JETRO về tỉ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp Nhật Bản. Theo đó, tỉ lệ của Việt Nam là 32,2%. Dù tỉ lệ này đã tăng được 4,3 điểm so với năm ngoái nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (64%), Thái Lan (53%), Malaixia (42%), Inđônêxia (41%). Điều này cho thấy các hãng chế tạo Nhật Bản phải bỏ ra chi phí cao đến mức nào khi chọn Việt Nam. Có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Nhật Bản có khả năng cạnh tranh cao mà Việt Nam có thể thu hút đầu tư nhằm đẩy mạnh công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, tôi cũng xin lưu ý rằng Việt Nam cần phải tạo được một môi trường kinh doanh thuận lợi, trong đó có sự hỗ trợ sát sao của nhà nước để có thể thu hút được những DNVVN này, vì những doanh nghiệp này thường có nguồn lực quản lý hạn chế (nhân lực, tài chính …). 4.3. Phát triển nguồn nhân lực Vào ngày 14/8/2013, JBAV đã ký kết bản MOU về phát triển nguồn nhân lực với BLĐTBXH, BGDĐT và BCT, với các nội dung sau: - Tạo điều kiện để lao động tiếp thu tay nghề, kỹ năng sản xuất của Nhật - Tạo thêm nhiều cơ hội việc làm tại các doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam - Hỗ trợ nâng cao kỹ năng của công nhân - Tạo điều kiện cho lao động học hỏi phương thức quản lý doanh nghiệp của Nhật Bản. Bốn nội dung này hiện đang được thảo luận trong khuôn khổ Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản Giai đoạn V. JBAV mong muốn giữ liên hệ chặt chẽ với các bộ ngành liên quan về vấn đề này. 1. Kết luận Việt Nam là nước đông dân thứ ba trong khối ASEAN và có một lực lượng lao động trẻ, cần cù. Hơn nữa, Việt Nam còn có lợi thế về vị trí địa lý, giàu tài nguyên, nhờ đó có nhiều cơ hội để phát triển kinh tế và công nghiệp. Mặt khác, nếu không có sự quản lý tốt thì nền kinh tế sẽ khó có thể tạo dựng được một thế hệ người lao động trẻ có tốc độ tăng trưởng nhanh cũng như tạo đủ việc làm. Chính phủ Việt nam đang đứng trước thử thách phải chứng tỏ sự chín chắn và bảo đảm duy trì được chính sách phát triển công nghiệp về lâu dài. Trở lại những vấn đề trước mắt, Việt Nam hiện đang ở vào một giai đoạn rất quan trọng khi AEC (Cộng đồng Kinh tế ASEAN) sẽ được thông qua vào năm 2015, cũng như hiệp định TPP hiện

Trang 3/4

Page 32: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

đang đi vào những vòng đàm phán cuối cùng. Đặc biệt, kể từ năm 2015 trở đi, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh toàn cầu gay gắt khi phần lớn các loại thuế nhập khẩu sẽ được dỡ bỏ từ năm 2015 theo hiệp định ATIGA (dù một số mặt hàng vẫn áp dụng thuế nhập khẩu cho đến năm 2018). Thái Lan hiện đang chuyển hướng chính sách sang giai đoạn công nghiệp hóa cao hơn, đồng thời giảm dần chế độ ưu đãi dành cho những ngành có hàm lượng lao động cao để thay vào đó khuyến khích những ngành có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Các quốc gia lân cận (Campuchia, Lào, Myanma) đang tập trung thực hiện chiến lược kinh doanh có tên gọi “Thái Lan cộng 1” nhằm thu hút đầu tư vào những ngành có hàm lượng lao động cao như Việt Nam từng làm trước đây. Trước tình hình đó, nếu chính phủ không có định hướng rõ ràng về phát triển công nghiệp cũng như xử lý triệt để vấn đề mức tiền lương tăng nhanh và quy định về làm ngoài giờ chặt chẽ hơn các nước phát triển thì lợi thế cạnh tranh của Việt Nam về những ngành có hàm lượng lao động cao có thể sẽ không còn, và khi đó Việt Nam sẽ không thể thu hút vốn đầu tư cho công nghiệp và thay vào đó trở thành nơi tiêu thụ sản phẩm cho các nước láng giềng. Đề nghị cuối cùng chúng tôi muốn gửi tới các quý vị Bộ trưởng có mặt ngày hôm nay là Việt Nam nên lắng nghe tiếng nói của những doanh nghiệp hiện đang có mặt tại Việt Nam, đối xử với doanh nghiệp theo hướng tạo thuận lợi nhưng vẫn bảo đảm bình đẳng để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Những doanh nghiệp đang cân nhắc đầu tư vào Việt Nam hiện đang theo dõi sát sao những gì đang diễn ra với những doanh nghiệp đi trước. Chúng tôi, các doanh nghiệp Nhật Bản, tự hào về nguyên tắc chung của các doanh nghiệp chúng tôi là đóng góp cho xã hội, và luôn mong muốn được đưa nguyên tắc này áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam với sự ủng hộ của các quý vị Bộ trưởng. Xin cảm ơn.

Trang 4/4

Page 33: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

BÀI PHÁT BIỂU CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP BẮC ÂU TẠI VIỆT NAM Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014

Hà Nội, Ngày 5 tháng 6 năm 2014 Trình bày bởi

Ông Sigmund Strømme Chủ tịch

Kính thưa toàn thể Quý Lãnh đạo, Quý Doanh nghiệp, Quý Ông/bà, Hiệp hội doanh nghiệp Bắc Âu rất lấy làm vinh dự có được cơ hội đưa ra những quan điểm về môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Là một cộng đồng nhỏ các doanh nghiệp Bắc Âu với bề dày lịch sử kinh doanh tại Việt Nam, chúng tôi rất lấy làm vinh dự đươc đưa ra những quan điểm về một vài lĩnh vực cụ thể mà những nhà đầu tư Bắc Âu tập trung đầu tư vào. NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO GIÓ VÀ MẶT TRỜI Tiềm năng của năng lượng gió và năng lượng mặt trời tại Việt Nam rất lớn và những nước thuộc khu vực Bắc Âu không xa lạ gì với lĩnh vực công nghiệp này. Chúng ta biết rằng việc phát triển nguồn điện truyền thống phải mất rất nhiều năm để thực hiện và chưa có những hệ thống mới phát triển kèm theo, việc phát triển năng lượng gió và năng lượng mặt trời có thể thực hiện trong một, hai năm và có thể mang về 1000 mega-watts trong vài năm tới chỉ với đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, trước khi có thể thực hiện điều đó, Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa môi trường kinh doanh và pháp lý, chẳng hạn như việc cải thiện cơ chế chính sách và pháp lý để tạo điều kiện cho các dự án năng lượng gió và năng lượng mặt trời, tạo ra sự minh bạch hơn trong các quyết định của Chính phủ về các vấn đề năng lượng, khuyến khích đầu tư vào ngành công nghiệp năng lượng gió và năng lượng mặt trời nói chung và các dự án phát triển năng lượng nói riêng, tăng cường mạng lưới và cơ sở hạ tầng truyền dẫn, tạo điều kiện tiếp cận những phương pháp hỗ trợ tài chính rẻ hơn cũng như cung cấp bảo lãnh của Chính phủ đối với vấn đề mua lại năng lượng gió và năng lượng mặt trời giữa các doanh nghiệp tư nhân và người sử dụng. Nếu những vấn đề này không được giải quyết thì sự đầu tư của các doanh nghiệp Bắc Âu vào ngành năng lượng tái tạo vẫn sẽ bị giới hạn và đầy rủi ro. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Bắc Âu vẫn sẽ tiếp tục ưu tiên việc kinh doanh tại Việt Nam bằng cách tiếp tục cung cấp năng lượng tái tạo cho người sử dụng, các doanh nghiệp địa phương và các cơ quan của Chính phủ thông qua các thảo luận và cam kết đối với những vấn đề này, để hỗ trợ nông dân Việt Nam, là những người ở giai cấp dưới trong xã hội và chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu có nguồn năng lượng an toàn. MÔI TRƯỜNG Việt Nam cũng giống như các nước Bắc Âu đã cư trú hàng ngàn năm ở những khu vực gần với mực nước biển, điều này đã làm tăng ý thức của người dân đối với việc bảo vệ môi trường sống trong lành và sạch sẽ. Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trước nguy cơ thay đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam và các nước Bắc Âu. Việt Nam ngày nay đã có những động thái tiên phong trong việc giảm thiểu những ngành kinh doanh gây nhiễm môi trường và hạn chế khí thải CO2; tuy nhiên mức phạt là rất nhỏ so với lợi nhuận của

Trang 1/3

Page 34: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

những ngành công nghiệp này. Sự công nghiệp hóa từ rất sớm ở các nước Bắc Âu đã cho phép chúng tôi tìm ra được những công nghệ để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Khi các doanh nghiệp Bắc Âu đầu tư ra nước ngoài, họ có nghĩa vụ tuân theo các quy định nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường được áp dụng tại đất nước họ. Chúng tôi khuyến nghị Việt Nam nên tiếp tục cảnh giác về các vấn đề môi trường và chọn lọc các nhà đầu tư chấp nhận làm việc tại Việt Nam mà áp dụng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường cao nhất, đặc biệt là trong xử lý nước thải và giảm CO2. Một môi trường trong sạch và lành mạnh rất quan trọng để kích thích ngành công nghiệp du lịch phát triển. LAO ĐỘNG VÀ NGUỒN NHÂN LỰC Lực lượng lao động của Việt Nam trẻ và năng động, ngay cả so với các nước châu Á khác, và là một trong những tài sản chính và quan trọng của Việt Nam. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy đầu tư nước ngoài nhiều hơn nữa. Rất nhiều doanh nghiệp của chúng tôi gặp khó khăn trong việc tìm kiếm những lao động có tay nghề và cả kĩ sư. Chúng tôi nghĩ rằng việc đầu tư vào giáo dục, nhất là những trường dạy nghề và đào tạo kỹ sư là việc mà các cơ quan chức năng nên tập trung nhiều hơn để nâng cao kiến thức và tiêu chuẩn của lực lượng lao động. Trong giai đoạn đầu của việc thành lập một dự án đầu tư mới thì cần có các chuyên gia nước ngoài cho việc chuyển giao công nghệ. Chúng tôi tin rằng các công ty Bắc Âu cũng sẽ hạn chế hoạt động của các chuyên gia nước ngoài khi đưa họ vào Việt Nam, chỉ trong khoảng thời gian mà nhà đầu tư cho là khả thi. HẬU CẦN/VẬN CHUYỂN/HOẠT ĐỘNG CẦU CẢNG Rất nhiều doanh nhiệp thành viên của chúng tôi vẫn đang gặp vấn đề lớn do chi phí vận tải và chi phí vận chuyển tăng cao. Điều quan trọng là cải thiện thời gian và chi phí xử lý hàng hóa để cho Việt Nam để duy trì sự cạnh tranh đối với các nước láng giềng. Những cảng đang hoạt động hiện nay cần phải được cải thiện và các cảng mới cần được xây dựng thêm, điều này áp dụng cho cả cầu cảng dành cho container và cả hàng rời, tuy nhiên hiện nay mức cổ phần cao nhất cho người nước ngoài được phép nắm giữ thường được giới hạn ở 49%. Vì sử dụng các cảng biển chủ yếu là các công ty vận tải nước ngoài, và với tư cách là những người sử dụng chính họ có thể tham gia đầu tư nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển hoạt động của các cảng biển. Chúng tôi đề nghị để thúc đẩy hơn nữa đầu tư trong lĩnh vực quan trọng này thì chính sách nên được nới lỏng để cho phép ít nhất 70% hoặc 100% cổ phần nước ngoài trong vận tải biển và các dự án đầu tư cảng. Gần đây việc kiểm soát trọng tải nghiêm ngặt cho xe tải đã được áp dụng, chúng tôi hiểu sự cần thiết của việc kiểm soát trọng tải và giữ tiêu chuẩn đường bộ. Tuy nhiên quy định không phải lúc nào cũng rõ ràng và càng phức tạp hơn bởi trọng lượng được phép vận chuyển trên xe tải theo tiêu chuẩn quốc tế là khác nhau. Kết quả là các container khi đến Việt Nam trở thành quá tải theo tiêu chuẩn mới củaViệt Nam. Do sự khác biệt trọng lượng chỉ khoảng 10%, chúng tôi kiến nghị các quy tắc nên được điều chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế để làm cho dòng chảy hàng hóa nhập khẩu/xuất khẩu dễ dàng hơn và không áp dụng phạt đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam có container không đủ tải trọng.

Trang 2/3

Page 35: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Cuối cùng, theo các cam kết WTO, từ tháng 1/2014 quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với các dịch vụ hậu cần, giao nhận và các hoạt động liên quan đến vận chuyển bằng đường thủy được tăng lên. Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa thấy bất kỳ quy định cụ thể nào về việc mở rộng quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài cũng như mức sở hữu cụ thể là bao nhiêu. Chúng tôi tin tưởng rằng những quy định này sẽ sớm được ban hành để chúng tôi có thể có hiểu rõ về quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty này. THUẾ NHẬP KHẨU CỦA PHÂN BÓN NPK Một số công ty thành viên của chúng tôi đang sản xuất phân bón NPK chất lượng cao tại Việt Nam, hỗ trợ cho sự phát triển của ngành nông nghiệp. Chúng tôi hiểu và đánh giá cao việc áp dụng thuế nhập khẩu đối với hàng nguyên liệu Urea và DAP cũng như thuế nhập khẩu NPK đã và đang bảo vệ những nhà sản xuất trong nước trong đó bao gồm cả những doanh nghiệp thành viên của chúng tôi. Tuy nhiên, một trong những doanh nghiệp thành viên của chúng tôi, doanh nghiệp hàng đầu thế giới trong sản xuất phân bón NPK, đã và đang nhập khẩu từ Na Uy và Phần Lan và phân phối tại thị trường Việt Nam một loại phân bón NPK đặc biệt và chất lượng cao, sản phẩm này chủ yếu dùng trong trồng trọt cà phê. Loại phân bón NPK đặc biệt này hiện nay không được sản xuất tại Việt Nam. Do đó chúng tôi đề xuất rằng những quy định về thuế nhập khẩu sẽ được điều chỉnh để chỉ áp dụng cho những loại phân bón NPK được sản xuất tại Việt Nam hiện nay. Các thành viên NordCham tin tưởng vào hoạt động đầu tư tại Việt Nam trong dài hạn. Một số công ty Bắc Âu mới đã tăng cường các hạng mục đầu tư và cũng nhiều công ty mới đã được thành lập trong năm qua. Chúng tôi đánh giá cao cơ hội tham gia Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam nhằm trao đổi thông tin, quan điểm và tăng cường sự hiểu biết giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp. Chúng tôi xin gửi lời chúc sức khỏe đến ngài Bộ trưởng, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp, các phái đoàn ngoại giao và tất cả các đại biểu ở đây ngày hôm nay.

Trang 3/3

Page 36: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Chương II

ĐẦU TƯ & THƯƠNG MẠI

Page 37: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TỪ CHƯƠNG TRÌNH ĐẾN HÀNH ĐỘNG: CHUẨN BỊ CHO CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI MỚI

Trình bày

Ông Fred Burke Đồng Trưởng Nhóm Công tác Đầu tư & Thương mại

Kính thưa Ngài Thủ tướng Chính phủ, thưa Ngài Bộ trưởng Vinh, thưa các Ngài Thứ trưởng và các vị quan khách, Tôi rất vinh dự được có cơ hội đại diện cho Nhóm Công tác Đầu tư & Thương mại phát biểu tại hội nghị ngày hôm nay. Bản ý kiến đóng góp chi tiết hơn có kèm theo tài liệu hỗ trợ của chúng tôi đã được đưa vào tập các tài liệu liên quan, tuy nhiên tôi xin phép được tóm tắt một cách ngắn gọn các điểm kiến nghị chính của chúng tôi liên quan đến vấn đề làm thế nào để chuẩn bị một cách hiệu quả nhất cho việc tham gia các hiệp định thương mại tự do mới. Các hiệp định đó bao gồm Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam ("EU FTA"), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương ("TPP"), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực ("RCEP") và Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015 ("AEC 2015"), và một số hiệp định khác. Việt Nam chắc chắn đạt được nhiều lợi ích và thậm chí rất nhiều lợi ích to lớn về nhiều phương diện nếu Việt Nam có thể thực hiện một số điều chỉnh đối với môi trường đầu tư và thương mại của mình. Về vấn đề này chúng tôi đã được đề nghị đưa ra câu trả lời cụ thể cho ba câu hỏi sau đây:

1. Một là, nhóm công tác có những kiến nghị gì để khắc phục những vấn đề hiện tại trong môi trường đầu tư và thương mại?

2. Hai là, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức nào khi tham gia các hiệp định thương mại mới?

3. Ba là, Việt Nam cần làm gì để chuẩn bị cho các cơ hội mới do các hiệp định thương mại này mang lại?

Chúng tôi xin trình bày các ý kiến và kiến nghị của Nhóm Công tác như sau. I. CẦN CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ ĐỂ "KHẮC PHỤC CÁC VẤN ĐỀ" Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi xin nêu ra năm điểm cơ bản như sau. 1. Phản ứng đối với các sự kiện đáng tiếc xảy ra trong tuần ngày 12 tháng 5 a. Phản ứng tức thời và các biện pháp hỗ trợ Trước tiên, chúng ta cần giải quyết hậu quả của các sự kiện đáng tiếc xảy ra tại một số khu công nghiệp trong tuần ngày 12 tháng 5. Đến nay vẫn chưa thể thấy hết toàn bộ ảnh hưởng của các sự kiện này đối với chuỗi cung ứng của Việt Nam. Chúng ta vẫn đang nhận được các báo cáo về tình trạng gián đoạn nghiêm trọng trong một số ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là một số ngành liên quan đến xuất khẩu mà từ trước đến nay vẫn đóng vai trò then chốt đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp trong việc phục hồi sản xuất ổn định và giảm thiểu ảnh hưởng đối với đội ngũ lao động đã được nêu lên tại cuộc họp mang tính xây dựng vào ngày 20

Trang 1/11

Page 38: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 tháng 5 tại Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra một số biện pháp mới nhằm giảm nhẹ tác động đến các doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Mặc dù các biện pháp này được hoan nghênh nhưng chúng vẫn chưa đủ để giải quyết các thiệt hại cũng như phục hồi khả năng cạnh tranh trước kia của ngành kinh tế. Hơn nữa các câu hỏi về lâu dài liên quan đến chuỗi cung ứng và nguồn nguyên vật liệu quốc tế cũng cần được giải quyết. Về ngắn hạn, vấn đề bức thiết nhất là giảm nhẹ ảnh hưởng đến bản thân những người công nhân. Về vấn đề bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, v.v…, sự trợ giúp là vô cùng cần thiết. Các sổ sách hồ sơ đã bị phá hủy tại thời điểm diễn ra các sự kiện đáng tiếc này và những người sử dụng lao động bị ảnh hưởng rất cần được các cơ quan nhà nước hỗ trợ thay thế hoặc xử lý mà không cần đến các sổ sách hồ sơ đó. Hỗ trợ của Chính phủ trong việc trả bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp cho các công nhân bị ảnh hưởng cần được xúc tiến nhanh để đảm bảo rằng tất cả các công nhân được nhận những gì mà họ được quyền nhận một cách kịp thời. Giấy phép lao động cần được cấp cho những trường hợp đặc biệt để cho phép các cơ sở sản xuất có nhân viên đã về nước được trở lại làm việc ngay lập tức. Các biện pháp này đã được nêu trong Thông báo ngày 20 tháng 5 của Thủ tướng Chính phủ phần nào giải quyết các vấn đề này, nhưng các cơ quan hữu quan vẫn phải triển khai trên thực tế. Dưới đây chúng tôi sẽ trình bày thêm về các biện pháp giảm nhẹ tác động của các sự kiện đáng tiếc này trong thời gian tới đây nhưng những biện pháp tài chính khẩn cấp để đảm bảo đời sống của các công nhân chính là vấn đề quan trọng nhất nếu chưa được giải quyết vào cuối tháng Năm trong kỳ trả lương thông thường. b. Phạm vi của chương trình hỗ trợ Về vấn đề bồi thường, vấn đề được nêu ra là phạm vi bồi thường này sẽ mở rộng như thế nào. Nhiều doanh nghiệp chỉ ra rằng mặc dù nhà xưởng của họ không bị cháy, họ vẫn bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì lý do này hay lý do khác. Trong một số trường hợp thì nhân viên chủ chốt người Đài Loan hoặc người Trung Quốc lục địa của họ đã rời Việt Nam, trong một số trường hợp khác thì dự án đầu tư bị ngưng trệ hoặc hủy bỏ vì nhà đầu tư lo ngại, hoặc các nhóm khách du lịch sẽ không đến Việt Nam để nghỉ tại các khu nghỉ dưỡng xinh đẹp. Chúng ta cũng cần có các biện pháp để tạo điều kiện cho sự phục hồi của các doanh nghiệp này cho đến khi thị trường hoạt động bình thường trở lại, do đó chúng tôi trân trọng kiến nghị rằng một số biện pháp nêu ra trong Thông báo ngày 20 tháng 5 cần được áp dụng rộng rãi cho toàn bộ các doanh nghiệp cho dù họ bị ảnh hưởng theo cách nào, trực tiếp hay gián tiếp? c. Cải thiện đời sống của công nhân Ba là, để giảm nguy cơ các vụ gây rối tương tự lại xảy ra trong tương lai, một số thành viên đã đưa ra các kiến nghị mang tính xây dựng để Chính phủ xem xét. Trong khi chúng tôi ghi nhận rằng nguyên nhân ban đầu gây ra các cuộc biểu tình dẫn đến các sự kiện đáng tiếc là nguyên nhân bên ngoài, nhưng cũng cần ghi nhận rằng đã có những vấn đề bất mãn trong nội bộ làm bùng phát tình trạng bạo lực và phá hoại xảy ra trong các đêm Thứ ba và Thứ tư, ngày 13 và 14 tháng 5. Nhiều nhà sản xuất tại khu vực bị ảnh hưởng đã cho biết, có vẻ như chỉ có số ít công nhân bị xúi giục bởi một số đối tượng chưa được xác định đứng đằng sau các sự kiện này. Chúng tôi mong muốn được biết Chính phủ đã có những thông tin gì về các sự kiện dẫn tới các hành động này. Trong hiện tại, chúng tôi ghi nhận rằng trong khi các cuộc biểu tình hòa bình được tổ chức theo quy định của pháp luật là một phần bình thường của hoạt động dân chủ diễn ra tại tất cả các quốc gia hiện đại, thì hành động phá hoại, gây rối, và trộm cắp trái pháp luật cần được xử lý nhanh chóng theo quy định của pháp luật. Sự chậm trễ vào đêm ngày 13 tháng

Trang 2/11

Page 39: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 5 chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá hoại tài sản nghiêm trọng nhất tại một số khu công nghiệp chủ chốt, do đó các biện pháp kiểm soát nhằm chấm dứt bạo lực trái pháp luật cần được triển khai nhanh chóng hơn nữa trong tương lai. Về lâu dài hơn, một số thành viên của chúng tôi đã kiến nghị một số biện pháp mà các khu công nghiệp có thể áp dụng để giúp cải thiện cuộc sống của công nhân với các cơ sở giải trí và cộng đồng. Các cơ sở này có thể bao gồm không chỉ là các văn phòng giới thiệu việc làm, mà còn là các cơ sở y tế và giải trí như hồ bơi, công viên và các cơ sở thể thao để công nhân có thể thư giãn và có một mức sống tốt hơn. Các cơ sở đó không cần phải đắt tiền, nếu các ưu đãi thích hợp được trao cho các khu công nghiệp, và các ưu đãi này không vi phạm bất kỳ quy định nào về trợ cấp cho các nhà sản xuất hàng xuất khẩu. Để bổ sung cho sự hỗ trợ của các khu công nghiệp và Chính phủ đối với ý tưởng này, có lẽ một phần trong 2% quỹ lương được phân bổ cho phí công đoàn có thể được huy động cho mục đích này? Điều này có vẻ như là một động thái nhỏ đối với nhiều người, nhưng nếu được thực hiện đúng cách, thì việc làm này có thể tăng cường sự ủng hộ mạnh mẽ của công nhân dành cho phần lớn những người sử dụng lao động trong các khu công nghiệp này. 2. Mở cửa thị trường còn quá dè dặt và những yêu cầu cạnh tranh toàn cầu Chuyển sang những lĩnh vực có vấn đề cần "sửa chữa" để Việt Nam tận dụng đầy đủ hơn các hiệp định thương mại quốc tế, chúng tôi tin rằng trong nhiều trường hợp, Việt Nam đã mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ nước ngoài hỗ trợ nền kinh tế xuất khẩu, nhưng theo nhiều phương thức, cách tiếp cận thị trường còn lại và những giới hạn của chế độ đối xử quốc gia cản trở các nhà xuất khẩu trong việc cạnh tranh trên thị trường quốc tế do việc hạn chế các dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế và các nguồn đầu vào mà họ cần để cạnh tranh. Có rất nhiều ví dụ về vấn đề này, và mỗi ví dụ có vẻ chỉ là một chi tiết nhỏ đối với các nhà hoạch định chính sách cấp cao. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp, bất kỳ biện pháp đơn lẻ nào cũng có thể có ý nghĩa là sự sống còn trong thị trường cạnh tranh toàn cầu. Ví dụ 1: Yêu cầu về mã H.S. đối với các công ty thương mại có vốn đầu tư nước ngoài Lấy trường hợp sau làm một ví dụ: các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép tham gia hoạt động thương mại phải liệt kê mã HS cụ thể cho mỗi sản phẩm mà mình kinh doanh trong Giấy chứng nhận đầu tư của mình. Trừ khi mã H.S. của sản phẩm có trong Giấy chứng nhận đầu tư, công ty không thể kinh doanh sản phẩm đó. Điều này chỉ áp dụng đối với các công ty thương mại có vốn đầu tư nước ngoài. Thường là sẽ mất 6 tháng hoặc lâu hơn để xin điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư để bổ sung thêm hàng hóa mới, ngay cả khi hàng hóa đó không nằm trong bất cứ danh mục hàng hóa bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Điều này rõ ràng cản trở thương nhân về thời gian đáp ứng cho các dự án tại nước sở tại và các nhà xuất khẩu khi họ cần các nguồn đầu vào mới cụ thể cho các sản phẩm xuất khẩu của họ, hoặc để đáp ứng yêu cầu thị trường tại nước sở tại. Đây cũng là một hình thức phân biệt đối xử trên thực tế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với các doanh nghiệp trong nước là những doanh nghiệp không cần phải liệt kê mã H.S. trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của họ (công ty trong nước không cần Giấy chứng nhận đầu tư để tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhưng vấn đề này sẽ được bàn chi tiết hơn sau này).

Trang 3/11

Page 40: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Hơn nữa, ngay cả đối với các doanh nghiệp trong nước, như nêu dưới đây, vẫn còn có vấn đề về việc là chuyện gì xảy ra khi các doanh nghiệp trong nước này huy động một số vốn nước ngoài để đáp ứng nhu cầu tài trợ của họ? Họ có trở thành "doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài" hay không, có phải tuân thủ yêu cầu về mã H.S. tương tự như một số quan chức đầu tư trong nước vẫn yêu cầu hay không? Có các báo cáo rằng Luật Đầu tư có thể được sửa đổi để loại bỏ yêu cầu này và điều đó sẽ rất được hoan nghênh. Ví dụ 2: Giáo dục và đào tạo nghề Mặc dù các dịch vụ giáo dục và đào tạo nghề là các lĩnh vực được cam kết theo các cam kết gia nhập WTO năm 2007 của Việt Nam, nhưng đến nay vẫn chưa thấy được sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động mà lẽ ra đã có thể phát triển với sự hỗ trợ rõ nét hơn từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, cũng như các cơ quan hữu quan khác. Rõ ràng là có một nhu cầu mạnh mẽ cần những người tốt nghiệp có kiến thức và sẵn sàng làm việc tại Việt Nam, và nhiều tổ chức giáo dục nước ngoài sẵn sàng tham gia. Một số trường đại học và trường dạy nghề, sau khi đã tốn nhiều thời gian, đã từ từ bắt đầu triển khai các chương trình được giới hạn, và đã có một vài chương trình đào tạo của doanh nghiệp như chương trình mà Intel đã đầu tư để có được các công nhân có tay nghề mà Intel cần. Nhưng còn có rất nhiều điều có thể làm để huy động nguồn vốn và kiến thức bí quyết quốc tế để hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam. Điều này không chỉ là đối với chương trình học, quy trình đánh giá đầu tư mà thậm chí ở các vấn đề chẳng hạn như giấy phép lao động cho giáo viên và thị thực cho sinh viên quốc tế. Do vậy, đây là lĩnh vực cần tiếp tục thực hiện mạnh mẽ hơn nữa các cam kết WTO để phát triển nguồn nhân lực mà Việt Nam cần nhằm đạt được vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị. 3. Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài Một số thành viên đã phản ánh rằng thực trạng của việc công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn rất kém, mặc dù Việt Nam đã là thành viên của Công ước Công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài năm 1959 trong gần hai thập kỷ qua. Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam ("VIAC") đang phát triển đồng thời cũng là một giải pháp trọng tài thay thế khả thi so với các trung tâm có tiếng tăm hơn trong khu vực và quốc tế, nhưng danh tiếng của Việt Nam như một điểm đến đầu tư bị làm giảm sút khi các nhà đầu tư đã nhận thấy rằng các đơn yêu cầu công nhận và thi hành thường bị bác bỏ dựa trên các chi tiết chuyên môn không xác thực. Đây là một vấn đề khác cần phải được "khắc phục" để trấn an các nhà đầu tư nước ngoài. II. CÁC THỬ THÁCH ĐỐI VỚI VIỆT NAM Rõ ràng Việt Nam được nhiều hơn mất khi tham gia vào các hiệp định thương mại mới đang được xúc tiến. Nếu 20 năm qua cho thấy có một điều gì đó, thì đó chính là việc Việt Nam đã đạt được nhiều hơn những lợi ích thực đối với đất nước từ kết quả của việc tham gia một số hiệp định thương mại quan trọng mà Việt Nam đã tham gia ký kết, quan trọng nhất phải kể đến là các Hiệp định WTO. Mặc dù lợi ích của việc gia nhập WTO có phần bị lu mờ bởi cuộc Khủng hoảng tài chính toàn cầu sau khi Việt Nam tham gia vào năm 2007, tuy nhiên các lợi ích xét về tăng trưởng GDP, xuất khẩu tăng vọt, nhiều công ăn việc làm được tạo ra và nguồn thu thuế là những điều rất rõ ràng. Hiển nhiên là vẫn còn tồn tại những thiếu sót trong quá trình thực hiện WTO. Vậy đâu là những thiếu sót và có thể giải quyết chúng như thế nào?

Trang 4/11

Page 41: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Tại đây có nhiều cuộc thảo luận diễn ra bàn về nhu cầu cần có cơ sở hạ tầng tốt hơn và rõ ràng điều đó là quan trọng. Tuy nhiên có một phần nội dung quan trọng không kém chưa bao giờ được bàn đến mà tôi sẽ tạm gọi nó là "kiến trúc thượng tầng" vì không có từ nào mô tả đúng hơn nội dung này. Với nội dung này, tôi muốn nói đến cách suy nghĩ của một số viên chức và những người làm kinh doanh khi họ thực hiện nhiệm vụ, công việc của họ và cố gắng tồn tại trong một nền kinh tế mới. Nếu cách suy nghĩ này không thay đổi theo hướng làm thế nào để cung cấp dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế trong nhiều lĩnh vực như hải quan, đăng ký kinh doanh, đăng ký sản phẩm, v.v. thì Việt Nam sẽ cảm thấy nản chí trong việc đạt được những ý định của mình trong các hiệp định nêu trên. Kiến trúc thượng tầng sẽ rất yếu, ngay cả khi có sẵn cơ sở hạ tầng. 1. Các vấn đề về "Kiến trúc thượng tầng: Cần phải cải cách hành chính nhiều hơn nữa, trí lực

tốt hơn Chương trình Cải cách hành chính quan trọng mà chúng ta biết đến là Đề án 30 đã đạt được những lợi ích hữu hình nhất định, nhưng cũng còn có nhiều việc cần phải làm và đây là một nỗ lực lớn liên tục. Đôi khi, các giới hạn trong việc cung cấp các dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế trên thị trường trong nước làm cản trở khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường toàn cầu. Như đã lưu ý ở trên, đây là chủ đề đòi hỏi cần phải có thay đổi toàn diện về cách suy nghĩ từ "quản lý" sang "hỗ trợ" cho các hoạt động kinh doanh chính đáng. Ví dụ 1: Miễn thuế hàng hóa vận chuyển theo các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần Ví dụ, mục tiêu của Đề án 30 là nỗ lực đơn giản hóa thủ tục cho các công ty vận chuyển hàng hóa xin miễn hợp pháp 2% thuế hàng hóa đối với hàng hóa quốc tế được áp dụng theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Tuy nhiên khả năng giảm 2% chi phí sản phẩm xuất khẩu đã gặp phải nhiều cản trở khi trên thực tế việc xin miễn vẫn còn rất khó khăn. Chúng tôi đã gửi bản đệ trình khá dài trình bày về những thông lệ tốt nhất trên thị trường quốc tế và những kiến nghị của chúng tôi để Việt Nam tiếp tục tinh giản các thủ tục trong nước. Chúng tôi hy vọng rằng điều này sẽ giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu của mình như đã nêu trong Đề án 30 và các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam ký kết. Ví dụ 2: Các công ty thương mại - Các giới hạn trong việc trung chuyển Thứ hai, điển hình là các công ty thương mại có vốn đầu tư nước ngoài muốn thực hiện hoạt động trung chuyển hàng hóa từ các quốc gia khác vào các thị trường mục tiêu trong khu vực chẳng hạn như Cam-pu-chia, Lào và Thái Lan. Việc cho phép các công ty thương mại có vốn đầu tư nước ngoài bán các sản phẩm của họ không chỉ ở Việt Nam mà còn vào các thị trường khác này theo các quy tắc điều chỉnh hoạt động trung chuyển sẽ có lợi cho Việt Nam xét về mặt tạo công ăn việc làm, thuế và bí quyết kinh doanh. Hoạt động này cần được cho phép theo Nghị định số 187 năm 2003, tuy nhiên chúng tôi không hiểu tại sao Bộ Công thương vẫn không ủng hộ loại hình hoạt động kinh doanh này. Chúng tôi hy vọng rằng các quan ngại của Bộ có thể được nêu ra và giải quyết để Việt Nam có thể nắm bắt được hoạt động kinh doanh tiềm năng này và không để nó lọt vào tay của quốc gia đối thủ khác trong khu vực. Ví dụ 3: Thiếu môi trường hỗ trợ cho Chính phủ điện tử Thứ ba, mặc dù các nước trên thế giới đang phát triển nhanh chóng các giải pháp Chính phủ điện tử để tạo thuận lợi cho "nền kinh tế điện tử" đang nổi lên, Việt Nam vẫn còn đang bị mắc kẹt trong hệ thống giấy tờ lỗi thời. Lấy một vài ví dụ ngẫu nhiên. Ví dụ thứ nhất, một công dân Đan Mạch xin giấy phép lao động không thể đáp ứng yêu cầu về "Giấy chứng nhận lý lịch tư pháp không phạm tội" từ Đan Mạch bởi vì các giấy chứng nhận đó chỉ có trực tuyến và các bản

Trang 5/11

Page 42: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 in trực tuyến không có chữ ký của con người, vì thế các giấy chứng nhận này không thể được hợp pháp hóa và do đó không được chấp nhận ở Việt Nam. Tương tự, các công ty ở một số bang của Hoa Kỳ không thể đáp ứng được yêu cầu trình bản sao đã được hợp pháp hóa của các báo cáo tài chính đã được kiểm toán của họ bởi vì các báo cáo này được nộp trực tuyến và chính quyền của một số bang không ký chúng hoặc chứng nhận các bản sao của chúng. Việt Nam đã từng bước tiến đến Công ước miễn hợp pháp hóa giấy tờ và đây là một bước đi đúng hướng, nhưng xin lưu ý rằng bản thân khái niệm hợp pháp hóa giấy tờ đang trở nên lỗi thời trong một thế giới hiện đại và đúng hơn là cần phải nghiên cứu và áp dụng các giải pháp "điện tử thân thiện". Ví dụ 4: Thiếu các nhà cung cấp dịch vụ đăng kiểm giàn khoan/tàu biển quốc tế được cấp phép hợp pháp Ví dụ thứ tư là về việc thiếu các tổ chức đăng kiểm sửa chữa và đóng tàu biển quốc tế được cấp phép đầy đủ, kể cả các giàn khoan dầu ngoài khơi. Mặc dù có một vài công ty quốc tế cung cấp dịch vụ quan trọng này đang hoạt động tại Việt Nam trên cơ sở đặc biệt, không chính thức dưới sự chi phối của Cục Đăng kiểm Việt Nam, hoạt động của họ chưa được bình thường hóa theo hình thức các hiện diện thương mại được cấp phép hợp pháp với ngành nghề kinh doanh có liên quan trong các Giấy chứng nhận đầu tư của họ. Họ muốn thiết lập các hoạt động kinh doanh bình thường tại đây đễ hỗ trợ ngành công nghiệp sửa chữa và đóng tàu của Việt Nam. Trường hợp của VINASHIN cho thấy tầm quan trọng của các dịch vụ vô hình này trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam khi họ cố cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong trường hợp của VINASHIN, do thiếu các nhà cung cấp dịch vụ đăng kiểm quốc tế, doanh nghiệp đóng tàu này không bao giờ có thể bán các dịch vụ đóng tàu hoặc sửa chữa tàu cho khách hàng nước ngoài vì Việt Nam thiếu các thỏa thuận công nhận chung giữa Cục Đăng kiểm Việt Nam và các thị trường mục tiêu. Ví dụ 5: Giải thể doanh nghiệp Thứ năm, và là cuối cùng trong thời điểm hiện tại, thủ tục giải thể doanh nghiệp vẫn còn quá nhiêu khê, có các ý kiến đáng lưu ý rằng có hàng trăm doanh nghiệp muốn "chết" mà không xin được giấy chứng tử. Việc chậm hoàn tất kiểm tra thuế là nguyên nhân chính được đưa ra mà các cơ quan thuế cho rằng họ thường không có đủ nhân viên để thực hiện kiểm tra thuế. Để tìm giải pháp cho vấn đề này, cơ quan thuế và Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh gần đây đã kiến nghị Ủy ban Nhân dân thành phố rằng các doanh nghiệp cần được cho phép giải thể dựa trên kết quả kiểm toán của công ty kiểm toán, tuy nhiên công ty kiểm toán sẽ phải chịu trách nhiệm cho các báo cáo kiểm toán của mình. Để tinh giản hơn nữa quy trình, doanh nghiệp cần được phép trả lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và con dấu tại cơ quan thuế thay vì phải quay trở lại Sở Kế hoạch và Đầu tư. Vẫn cần phải xem liệu Ủy ban Nhân dân sẽ đồng ý với kiến nghị này hay không, và liệu các công ty kiểm toán sẽ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm pháp lý này hay không, nhưng điều này chắc chắn là sẽ đưa ra một quy trình tốt hơn quy trình hiện tại. Ví dụ 6: Cấp phép sản xuất thiết bị y tế xuất khẩu và thử nghiệm lâm sàn Chính phủ cần vận dụng các lẽ thường khi áp dụng quy định trong nước đối với hàng hóa xuất khẩu. Ví dụ, không cần phải thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam đối với thuốc và dụng cụ y tế đang được sản xuất theo li-xăng hoàn toàn dành cho thị trường xuất khẩu nước ngoài. Thử nghiệm lâm sàng, được yêu cầu đối với các sản phẩm y tế được bán trong thị trường trong nước, rất tốn kém và mất nhiều thời gian và vì thế chỉ nên yêu cầu phải có thử nghiệm lâm sàng đối với hàng hóa được bán trên thị trường trong nước, và chỉ trong trường hợp không có các

Trang 6/11

Page 43: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 thử nghiệm lâm sàng quốc tế đáng tin cậy. Tuy nhiên, dự thảo Nghị định về Quản lý thiết bị y tế đã được đưa ra ngày 11 tháng 3 năm 2014 có quy định về thử nghiệm lâm sàng ngay cả trong trường hợp để xuất khẩu thuần túy. Thật may mắn là quy định này đã được bỏ đi trong bản dự thảo Nghị định gần đây nhất nhờ vào những nỗ lực đáng khích lệ của những người làm công tác soạn thảo đã tiếp nhận ý kiến đóng góp và phản hồi kịp thời của cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề xoay quanh các quy định về hồ sơ đăng ký và quy trình đăng ký xác nhận đáp ứng đủ điều kiện sản xuất các thiết bị y tế mà có thể làm cản trở sự phát triển của ngành sản xuất này tại Việt Nam. Những tồn tại này đã được trình bày trong văn bản gửi đến Bộ Y tế ngày 28 tháng 3. 2. Cơ sở hạ tầng và chương trình PPP Thách thức lớn tiếp theo đối với Việt Nam là cơ sở hạ tầng. Đây là lĩnh vực mà trong vài năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là về cảng biển và đường bộ, do đó cung đáp ứng được cầu một cách thường xuyên hơn. Tuy nhiên, có những quan ngại về chương trình PPP mới được đề xuất và đặc biệt là quan điểm cho rằng chương trình mới này có thể thay thế chương trình BOT và thậm chí là các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng tư nhân. Chắc hẳn quý vị sẽ nghe nhiều hơn từ Nhóm Công tác Cơ sở hạ tầng về điểm này, nhưng đối với các nhà đầu tư và các nhà sản xuất thì đây là một vấn đề chủ chốt do quan ngại rằng các quy định PPP sẽ chỉ làm chậm sự phát triển cơ sở hạ tầng, vốn đã bị thách thức với vai trò quan trọng của các công ty xây dựng và nhà cung cấp chính của Trung Quốc trong thời gian gần đây. III. NẮM BẮT NHỮNG CƠ HỘI MỚI Có nhiều biện pháp và chính sách công nghiệp thực sự mà Việt Nam có thể áp dụng để tận dụng tốt hơn các cơ hội có được theo các hiệp định thương mại Việt Nam đang đàm phán. Ngoài những điểm đã nêu ra ở trên, những điểm sau đây cũng rất đáng đề cập đến. 1. Thu hút nhà đầu tư vào ngành công nghiệp dệt mới để cung ứng cho ngành may mặc Điều quan trọng nhất trong số những điều này, có lẽ là chính sách công nghiệp để thu hút đầu tư sản xuất nguyên liệu dệt, tốt nhất là tại các khu công nghiệp tập trung với các dịch vụ môi trường có liên quan và các nguồn cung cấp năng lượng. Để Việt Nam được hưởng mức thuế suất TPP cho hàng may mặc mà Việt Nam xuất khẩu, nguyên vật liệu phải có nguồn gốc từ quốc gia TPP, hoặc ít nhất nguyên vật liệu phải được kéo thành sợi, dệt hoặc nhuộm ở quốc gia đó. Điều này có nghĩa là không nhất thiết phải trồng cây bông hoặc nuôi cừu tại quốc gia TPP để được hưởng mức thuế suất TPP cho quần áo bằng bông và len. Tuy nhiên, bông hoặc len cần phải đã được kéo thành sợi, dệt hoặc nhuộm tại Việt Nam. Như chúng tôi đã trình bày trong bản đệ trình chi tiết của chúng tôi, ngành công nghiệp này đòi hỏi đầu tư nhiều vốn và điều này sẽ là một thách thức lớn hơn trong môi trường sau khi bị gián đoạn hiện nay. Các chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng đối với nước thải từ các hoạt động nhuộm sẽ rất quan trọng, chẳng hạn như việc tiếp cận được nguồn cung cấp điện ổn định chắc chắn. Bản đệ trình của chúng tôi có nêu ra nhiều chi tiết và các vấn đề cụ thể hơn. 2. Hải quan Có một số vấn đề phát sinh trong lĩnh vực hải quan mà Việt Nam cần phải giải quyết để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. a. Quy tắc xác nhận trước được áp dụng quá hẹp

Trang 7/11

Page 44: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Trước hết, thủ tục thực hiện quy tắc xác nhận trước mà luật hải quan mới đã giới thiệu vào năm ngoái, đã không được áp dụng đủ rộng rãi cho hầu hết các thương nhân. Rõ ràng, các yêu cầu về giấy tờ phiền hà, bao gồm cả hợp đồng đã ký cho hàng hóa có liên quan, thậm chí trước khi có quy tắc xác nhận hải quan, chúng tôi đã dự định tập trung cơ chế đối với các nhà sản xuất quy mô lớn hiện có và thương nhân nói chung. Tuy nhiên, nếu có quy tắc xác nhận trước thì cần phải áp dụng cho tất cả các thương nhân thương mại. Chúng tôi hy vọng rằng cơ chế này có thể được sắp xếp hợp lý và hoàn thiện hơn để loại bỏ yêu cầu chứng từ không cần thiết và làm cho đáng tin cậy hơn. b. Thỏa thuận xác định giá trước Tương tự, các Thỏa thuận xác định giá trước dùng để quản lý việc xác định giá chuyển nhượng cần phải có thẩm quyền hợp pháp hơn. Sẽ không có lợi ích gì khi đàm phán Thỏa thuận xác định giá trước với cơ quan hải quan khi mà Thỏa thuận xác định giá trước không có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý. c. Hệ thống phần mềm hải quan mới Như đã nêu trong phần trình bày của Am Cham, và thảo luận tại diễn đàn vào tháng 3 tại Thành phố Hồ Chí Minh, việc giới thiệu phần mềm mới để quản lý việc thông quan đang gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng. Chúng tôi rất lấy làm vui mừng khi Tổng cục hải quan đồng ý chậm triển khai hệ thống mới và chỉ thí điểm ở một vài tỉnh thành và chúng tôi hy vọng rằng những bài học từ những tỉnh thành đó sẽ giúp cho việc triển khai một hệ thống đã được cái tiến trên phạm vi toàn quốc về sau này. Chúng tôi mong đợi được tiếp tục hợp tác và trao đổi với Tổng cục hải quan để sự chuyển tiếp này càng suôn sẻ càng tốt. d. Theo dõi và minh bạch Một số cơ quan nhà nước gần đây đã giới thiệu thủ tục mới rất tốt nhằm nâng cao tính minh bạch và cải thiện mức độ dịch vụ. Ví dụ, bây giờ Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh gửi thông tin cập nhật bằng e-mail cho người nộp đơn xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư để cập nhật cho họ một cách thường xuyên về tình hình hồ sơ của họ. Đây là một sự đổi mới đáng khích lệ và cần được hoan nghênh. Hải quan có thể áp dụng biện pháp tương tự để theo dõi và báo cáo về thời gian cần thiết để thông quan, cung cấp tiêu chuẩn đánh giá về thành tích dịch vụ của mình so với các cơ quan hải quan khác trong khu vực (các cơ quan hải quan trong khu vực đã báo cáo dữ liệu này). 3. Cấp phép đầu tư Nhiều công việc đã được thực hiện để đưa ra những đề xuất mới nhằm tinh giản quy trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thậm chí còn có đề xuất loại bỏ giấy chứng nhận đầu tư hoàn toàn, ngoại trừ đối với khu vực "có điều kiện". Đây là một định hướng rất mang tính xây dựng, nhưng có thể không đi đủ xa. a. Loại bỏ "Giấy chứng nhận đầu tư" Nếu tất cả các doanh nghiệp, cả trong và ngoài nước, có thể dựa vào một giấy tờ thống nhất duy nhất, là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, để chứng minh sự thành lập và thông tin nhận dạng hợp pháp của mình với tư cách là một pháp nhân, thì Giấy chứng nhận đầu tư có lẽ là hoàn toàn không cần thiết. Đề xuất giữ lại Giấy chứng nhận đầu tư đối với khu vực "có điều kiện" có thể không liên quan bởi vì tất cả những khu vực đó đều đã được điều chỉnh bởi những quy định chuyên ngành cụ thể trong từng lĩnh vực được quy định. Cho dù đó là phát triển bất

Trang 8/11

Page 45: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 động sản, cơ sở hạ tầng, tiếp thị đa cấp, bảo hiểm, dịch vụ pháp lý, chứng khoán, tài chính ngân hàng, xây dựng, dịch vụ y tế, viễn thông, v.v. - tất cả các lĩnh vực đầu tư này đều đã chịu sự điều chỉnh của các thủ tục cấp phép cụ thể trong đó loại bỏ sự cần thiết đối với Giấy chứng nhận đầu tư. Hơn nữa, chúng tôi lo ngại rằng việc này sẽ tạo ra sự nhầm lẫn trên thị trường, đặc biệt là về vấn đề huy động vốn và các yếu tố quản lý khác, nếu hệ thống bị thay đổi theo hướng không rõ ràng là chính xác khi nào thì cần Giấy chứng nhận đầu tư. Vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ hơn về mặt kỹ thuật để giảm thiểu khả năng gây nhầm lẫn. b. Huy động vốn từ nước ngoài Các công ty tư nhân Việt Nam, chưa kể đến doanh nghiệp nhà nước, cần đầu tư nước ngoài để tận dụng những cơ hội mà sẽ phát sinh trên thị trường quốc tế. Có được nguồn vốn đó, và chuyên môn đi cùng với nguồn vốn đó, vẫn còn là một trở ngại rất lớn để các doanh nghiệp tận dụng đầy đủ các hiệp định thương mại quốc tế. Vấn đề này vẫn còn là một cản trở lớn để các công ty Việt Nam huy động vốn. Ví dụ, nếu công ty Việt Nam muốn huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới cho nhà đầu tư nước ngoài, thì một số cơ quan có thẩm quyền địa phương sẽ yêu cầu cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước phải nộp đơn xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Điều này có thể bị loại bỏ nếu đề xuất loại bỏ Giấy chứng nhận đầu tư được thông qua trong đợt sửa đổi Luật Đầu tư tới đây. 4. Giấy phép lao động Chuyển sang chủ đề giấy phép lao động, đây vẫn là một trong những mối quan ngại phổ biến nhất của các nhà đầu tư nước ngoài, chưa kể đến ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ nhất, cần làm rõ khi nào thì cần phải có giấy phép lao động. Ví dụ, công nhân có mặt tại Việt Nam trong một thời gian giới hạn theo hợp đồng dịch vụ xuyên biên giới không nên bị yêu cầu phải xin giấy phép nếu họ không được trả tiền bởi doanh nghiệp trong nước và họ không thuộc biên chế trong nước. Các biện pháp do Thủ tướng Chính phủ công bố vào ngày 19 tháng 5, trong đó có việc quay trở lại hệ thống cũ là năm năm kinh nghiệm hoặc bốn năm trình độ đại học, chứ không phải cả hai điều kiện này, sẽ được hoan nghênh nếu áp dụng trên diện rộng cho tất cả các doanh nghiệp bởi vì, như đã nói ở trên, thực tế tất cả các doanh nghiệp đều đang bị ảnh hưởng bởi những gián đoạn chuỗi cung ứng hiện nay. Cần tiến hành xem xét lại triệt để các quy định hiện hành, đặc biệt là cho phù hợp với tình hình đặc biệt mà chúng ta đang phải đối mặt. 5. Tránh những quy định mới không thực tế – Đánh giá tác động quản lý nhà nước Điểm này là nhằm tránh việc thông qua các quy định mới không thực tế và tuân thủ nghiêm ngặt hơn các yêu cầu về đánh giá tác động quản lý nhà nước đối với các biện pháp pháp lý mới. a. Thời hạn 90 ngày để góp vốn điều lệ Ví dụ, trong dự thảo sửa đổi Luật Doanh nghiệp, có đề xuất là các nhà đầu tư phải góp toàn bộ các khoản đóng góp vốn điều lệ của mình trong vòng 90 ngày kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đầu tư hoặc có lẽ là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đây là yêu cầu bất khả thi nếu được áp dụng trên diện rộng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, chẳng hạn như các công ty bất động sản cũng như các doanh nghiệp dịch vụ nhỏ hơn. Điều này sẽ chỉ làm tăng chi phí vốn cho Việt Nam khi yêu cầu rằng tiền mặt phải được chuyển vào và giữ yên trong tài khoản ngân hàng chờ thanh toán tiến độ hợp đồng xây dựng mà có thể không đến hạn phải thanh toán cho đến nhiều năm tới. Hơn nữa, yêu cầu có phần mang tính phân biệt, nếu được áp dụng trong khuôn

Trang 9/11

Page 46: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 khổ pháp luật hiện hành trong đó phân biệt doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, bởi vì doanh nghiệp trong nước có thể dễ dàng tăng vốn điều lệ của mình vào bất cứ lúc nào trong hầu hết các lĩnh vực, trong khi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài phải xin các chấp thuận theo quyền tùy nghi quyết định (tức là không thể đoán trước). Chúng tôi chỉ kiến nghị xem xét lại đề xuất này. Cũng là hợp lý khi ấn định trách nhiệm của nhà đầu tư nước ngoài ở số tiền được quy định là vốn điều lệ để nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của doanh nghiệp trong phạm vi toàn bộ số vốn điều lệ theo quy định. Nhưng trách nhiệm của nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn điều lệ trong trường hợp công ty cần tiền khác với việc yêu cầu công ty phải góp các khoản tiền này trong thời hạn 90 ngày. 6. Tiếp cận các Hiệp định thương mại mới Các hiệp định thương mại mới mà Việt Nam hiện đang đàm phán có phạm vi rộng hơn và sâu hơn và không như những gì Việt Nam đã từng đàm phán trước đây. Sẽ cần phải có nền tảng trong nước có tính cạnh tranh toàn cầu đối với các dịch vụ, cơ sở hạ tầng, hàng hóa trung gian, v.v. Để phát huy hết tiềm năng của Việt Nam, thị trường trong nước nên bao hàm toàn bộ, bền vững, công bằng và "xanh" để đáp ứng nhu cầu của thị trường thế kỷ 21. Các hiệp định thương mại tự do không còn chỉ là vấn đề về mức thuế suất; mà các hiệp định này đã tiến đến những vấn đề "đằng sau biên giới" tác động đến thương mại. Cũng cần thiết phải phát triển các kiến trúc thượng tầng hoặc tư duy để tận dụng đầy đủ nhất các cơ hội này. “Gói Bali" đã được đồng ý gần đây bao gồm các biện pháp thúc đẩy thương mại liên quan đến WTO là một bước tiến tốt cho tất cả các thành viên WTO về các vấn đề thúc đẩy thương mại, an ninh lương thực và nước kém phát triển, nhưng không đủ để thúc đẩy một quốc gia như Việt Nam lên mức cao hơn trong chuỗi giá trị. Việt Nam phải cẩn thận không bỏ lỡ chuyến tàu khi nó rời ga, vì một khi chuyến tàu đã đi khỏi thì rất khó để bắt kịp. Việt Nam đã trải qua những thách thức khi muốn gia nhập WTO - một "câu lạc bộ" đã được thiết lập bởi các thành viên nhiều năm trước, và đã phải khó khăn hơn khi tham gia với tư cách là thành viên mới. Để duy trì khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu, điều quan trọng là không can thiệp một cách không cần thiết vào thị trường và làm méo mó giá cả thị trường. Công việc khó khăn của Việt Nam trong việc thị trường hóa giá nhiên liệu và năng lượng trong những năm gần đây là một ví dụ. Mặt khác, vấn đề sữa bột và sữa bột cho trẻ em đã và đang là một vấn đề tranh cãi tại Việt Nam. Cá nhân tôi biết hai dự án sản xuất sữa bột cho trẻ em đã bị đặt sang một bên đơn giản chỉ vì tính chất không thể tiên đoán được của hệ thống kiểm soát giá. Điều này có nghĩa là chẳng những không giữ cho giá sữa thấp, những người cổ xúy cho hệ thống kiểm soát giá đang vô tình hạn chế nhu cầu và qua đó làm tăng giá sữa. Nếu thực sự giá cả là vấn đề mà quý vị quan tâm, thì theo quan điểm của chúng tôi tốt hơn là giải quyết điều đó bằng các biện pháp từ phía cung. Điều này giúp giữ cho toàn bộ nền kinh tế được vận hành trên một nền tảng vững chắc hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Tránh kiểm soát giá cả cũng giúp bảo vệ chống lại những cáo buộc về "Nền kinh tế phi thị trường" từ các đối tác thương mại rằng hàng xuất khẩu của Việt Nam được trợ giá hoặc bán với giá thấp hơn giá thị trường hợp lý.

Trang 10/11

Page 47: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại đã có nhiều ý kiến đóng góp trực tiếp đối với các đề xuất sửa đổi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Một số tài liệu về những ý kiến đóng góp này được bao gồm trong tập các tài liệu liên quan. Đã nảy sinh một số xu hướng bảo hộ mà sẽ hạn chế cạnh tranh và cản trở các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế, nhưng nói chung, trong những cuộc thảo luận này đã có nhiều tư duy, chuyên môn và kinh nghiệm rất hay. Nhưng rõ ràng là bản thân luật không thể tạo ra môi trường nơi mà các doanh nghiệp Việt Nam được hỗ trợ để cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tiếp cận các dịch vụ đẳng cấp thế giới như các báo cáo của Dun & Bradstreet về các đối tác, các tiêu chuẩn và các dịch vụ phân loại cho hàng hóa và dịch vụ của họ, bao gồm cả đào tạo kỹ thuật về cách thức làm thế nào đáp ứng những tiêu chuẩn đó, cơ chế giảm thiểu rủi ro như bảo hiểm, các công cụ phái sinh và thị trường mua bán hợp đồng tương lai. Cuối cùng, con đại tượng trong khu vực hiện nay là Trung Quốc. Đã có rất nhiều cuộc đối thoại gần đây của những chuyên gia tại Việt Nam về việc không dùng nguyên vật liệu và dịch vụ của Trung Quốc vì lý do an ninh quốc gia. Mặc dù tự cung tự cấp là một giấc mơ đẹp nhưng là một viễn cảnh bất khả thi trong nền kinh tế toàn cầu thực sự mà chúng ta đang sống ngày nay và chiến lược "hội nhập" thực tế của Việt Nam đã thành công nhờ việc thừa nhận thực tế đó cho đến nay. Việt Nam đã hội nhập ở một mức độ nào đó với nền kinh tế Trung Quốc, cũng như sự hội nhập của chúng ta với phần còn lại của nền kinh tế toàn cầu, và Việt Nam đã đạt được một số thành công trong chuỗi cung ứng thành công của Trung Quốc. Nhìn vấn đề này một cách khách quan và hợp lý, chúng ta phải tự hỏi mình việc tránh tìm nguồn cung ứng từ nước láng giềng phương bắc của chúng ta có tính thực tế như thế nào. Dù đó là thép cho các dự án cơ sở hạ tầng, hay các ngành dịch vụ xây dựng hay các nguyên vật liệu và nguồn đầu vào khác, Việt Nam cạnh tranh được hiệu quả hơn trên thị trường quốc tế trong chừng mực mà Việt Nam có thể dựa vào các nguồn đầu vào giá rẻ từ Trung Quốc. Vậy câu hỏi đặt ra là làm thế nào để cùng tồn tại một cách hòa bình, và ở đây chúng tôi chỉ có thể hy vọng rằng các nhà lãnh đạo của cả hai nước có thể tìm ra cách để cùng tồn tại và hợp tác trong tương lai.

* * *

Trang 11/11

Page 48: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tập trung phối hợp thành lập khu công nghiệp dệt may Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TẬP TRUNG PHỐI HỢP THÀNH LẬP KHU CÔNG NGHIỆP DỆT MAY

Chuẩn bị bởi Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại

Dẫn đề: Để có thể tận dụng được các cơ hội mà Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (“PPP”) mang lại, Việt Nam cần có nguồn hàng dệt may đáng tin cậy (nguyên liệu thô, sợi kéo, dệt, nhuộm sợi) từ một nước thành viên của TPP hoặc từ nội địa. Nguồn hàng tốt nhất có được từ sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may trong nước. Điều này là khả thi nếu có sự tập trung phối hợp và các hỗ trợ cần thiết. Bối cảnh: Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) có những quy tắc về nguồn gốc hàng hoá có thể bất lợi với hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam, bởi những quy tắc này yêu cầu nguyên liệu hoặc vải dệt cấu thành những sản phẩm may mặc phải được sản xuất tại Việt Nam hoặc từ một nước thành viên TPP khác thì mới được hưởng mức thuế suất ưu đãi TPP. Mặc dù Việt Nam có ngành công nghiệp dệt may (cắt và may) phát triển mạnh, tuy nhiên phải còn lâu nữa mới có thể thu hút và phát triển ngành công nghiệp đòi hỏi tập trung vốn cao này để sản xuất ra các sản phẩm vải dệt. Có 3 yếu tố còn thiếu ở đây: (1) diện tích đủ rộng để những đơn vị/cơ sở lớn trong ngành dệt may đặt dây truyền sản xuất. (2) Nguồn điện ổn định. (3) Các phương tiện/công nghệ xử lí nước, đặc biệt là cho ngành công nghiệp nhuộm có thể được áp dụng tại Việt Nam, đây là một cấu phần quan trọng của quy trình sản xuất vải dệt. Dệt may có lẽ là ngành công nghiệp quan trọng thu hút nhiều lao động nhiều nhất của Việt Nam, giúp tập trung tích luỹ vốn được chuyển vào các cấu phần khác của nền kinh tế, vì vậy ngành dệt may là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam. Giải pháp/Đề xuất: AmCham và chi nhánh AmCham tại Hồng Kông đã có nhiều cuộc đối thoại bổ ích với đại diện cơ quan có thẩm quyền ở Bình Dương và nhiều nơi khác về vấn đề này. Về cơ bản vấn đề này được ghi nhận, nhưng nếu không có sự tập trung điều phối và hỗ trợ của Chính phủ thì không thể triển khai đơn lẻ ở cấp địa phương. Một trong những vấn đề cần được xem xét là tác động của ngành công nghiệp nhuộm đến môi trường. Quá trình nhuộm vải có thể thải ra nhiều nước thải độc hại. Không thể để những nước thải này được thải ra sông hồ ở Việt Nam, nơi chúng có thể là nguồn nước cung cấp cho sản xuất các loại thực phẩm như tôm, gạo. Tuy nhiên ở một số quốc gia, tiêu chuẩn nước thải dệt nhuộm đổ trực tiếp ra biển thường thấp hơn so với khi đổ vào vào sông hồ. Nói cách khác, đặt khu tập trung các nhà máy dệt may của Việt Nam tại khu vực gần biển có thể giúp giảm chi phí vốn do yêu cầu tiêu chuẩn xử lí nước cao. Có thể triển khai khu vực này mà không gây tổn hại nghiêm trọng đến môi trường vì khả năng hấp thụ của biển cao hơn so với sông hồ. Trong mọi trường hợp, yếu tố thời gian là quan trọng nên vấn đề này cần được đưa ra và giải quyết nhanh chóng trước thời điểm kết thúc thời gian chuyển đổi (phase in period) sẽ được thỏa thuận trong TPP. Theo thông tin của chúng tôi, khung thời gian 3-5 năm có thể được áp dụng cho một số lượng rất hạn chế các nguyên liệu thô đang thiếu nguồn cung trong các nước TPP. Hơn nữa, còn phụ thuộc vào bên mua ở Mỹ quyết định sản phẩm nào được ưu tiên đặc biệt chứ không phải bên bán ở Việt Nam. Việt Nam có thể nhập khẩu vải dệt từ các nước thành viên TPP khác và vẫn nhận được mức thuế ưu đãi TPP trên thị trường Mỹ, tuy nhiên, sẽ có lợi thế cạnh tranh về giá hơn khi có nguồn nguyên liệu thô sản xuất trong nước, điều này cũng đồng thời tạo ra nhiều việc làm và nguồn thu thuế trong nước hơn.

Trang 1/4

Page 49: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tập trung phối hợp thành lập khu công nghiệp dệt may Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Đề xuất: Rõ ràng với yêu cầu về đầu tư vốn cao, ngành công nghiệp dệt may không thể tự vực dậy và phát triển mà cần được Chính phủ hỗ trợ về mặt chính sách. Kính mong Thủ tướng sẽ thành lập nhóm công tác liên Bộ để thống nhất các chính sách cơ bản cho ngành công nghiệp này, và chúng tôi sẽ phối hợp với đồng nghiệp ở các quốc gia láng giềng nhằm tìm kiếm sự cam kết và hỗ trợ cho sáng kiến này. Các quan ngại & đề xuất bổ sung của các thành viên Nhóm Công tác Bên cạnh các đề xuất nêu trên, các thành viên của Nhóm Công tác có các ý kiến và đưa ra các đề xuất cụ thể bổ sung sau đây liên quan đến chiến lược nhằm tận dụng đầy đủ TPP và đối với ngành dệt may. Chuyển động nhanh chóng Trước tiên, các thành viên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng các thời gian chuyển tiếp để chuẩn bị cho việc áp dụng đầy đủ thời hạn Từ Sợi Trở Đi (Yarn Forward) mà sẽ được đàm phán. Cho dù thời hạn đó là ba hay năm năm, thì điều hết sức quan trọng là phải hành động ngay từ đầu của thời hạn này nhằm thiết lập năng lực sản xuất vải dệt cần thiết đáp ứng được nhu cầu của ngành dệt may trước khi hết thời hạn này. Hội nhập theo chiều dọc - hóa dầu? Thứ hai, các thành viên hy vọng Chính phủ xem xét các triển vọng hội nhập theo chiều dọc với ngành công nghiệp dầu khí theo mô hình phát triển của ngành công nghiệp hóa dầu tại Đài Loan và Hàn Quốc trong những năm qua. Điều này là rất quan trọng đối với quá trình sản xuất polyeste và sợi nhân tạo. Formosa Chemicals tại Đài Loan có lẽ là ví dụ tốt nhất. Họ xây dựng một đảo nhân tạo dài 10km tại Mai Liao trong đó bao gồm khu phức hợp hóa dầu và nhựa hoàn toàn tích hợp theo chiều dọc, lấy dầu thô từ các tàu và chuyển đổi thành hóa dầu thượng nguồn để sử dụng cho công nghiệp và nhựa hạ nguồn được bán trên diện rộng trong nhiều lĩnh vực sử dụng cuối cùng, không chỉ ngành dệt may. Với nguồn tài nguyên dầu và dân số hiện nay, đây sẽ là một sự đầu tư có thể mở ra ngành công nghiệp hoàn toàn mới, và tạo ra các cơ hội hạ nguồn cho việc hình thành nhiều công ty và việc làm mới (như công việc ép khuôn bằng nhiệt), cùng với hàng dệt may. Sự thành công về lâu dài và khả năng cạnh tranh toàn cầu của Hàn Quốc, Đài Loan, và thậm chí Singapore đã được củng cố bằng việc tạo ra các khu phức hợp hóa dầu lớn cho phép họ sử dụng những phụ phẩm trong nước để tạo ra hoặc đẩy mạnh các ngành công nghiệp, hoặc kinh doanh các phụ phẩm đó trên thị trường quốc tế. Huy động trang thiết bị hiện có Thứ ba, theo như báo cáo thì Vinatex có rất nhiều tài sản không được tận dụng hết tiềm năng dưới hình thức trang thiết bị sản xuất hàng dệt may tại một số địa điểm trên khắp cả nước. Các thiết bị kéo sợi hiện không được tận dụng hết tiềm năng đang trong quá trình thăm dò xem làm thế nào để có thể sử dụng hiệu quả hơn, ví dụ kéo sợi để dệt vải, nhưng các cách thức triển khai để sử dụng trang thiết bị như thế nào để mang lại hiệu quả nhất phải nằm trong một kế hoạch và có lộ trình chiến lược bao quát và toàn diện hơn. Trong một chừng mực nào đó, việc kiểm kê và huy động tốt hơn dường như có thể giải quyết vấn đề sản xuất trong nước.

Trang 2/4

Page 50: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tập trung phối hợp thành lập khu công nghiệp dệt may Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Những quan ngại khi tập trung vào ngành công nghiệp vải bông Thứ tư, đề xuất phát triển ngành công nghiệp bông tại Việt Nam đã được thảo luận để có thể tìm kiếm nguồn bông trong nước cho hàng may mặc xuất khẩu. Tuy nhiên, phương cách này có những bất lợi nhất định này mà các thành viên trong ngành muốn lưu ý xem xét. • Bông là một mặt hàng có tính cạnh tranh rất cao trên toàn cầu và một số trong những quốc

gia sản xuất bông có các lợi thế cạnh tranh quan trọng thực sự hoặc lợi thế cạnh tranh do con người tạo ra. Việc phải đối mặt với các nền kinh tế lớn hơn về quy mô và các khoản trợ cấp gián tiếp hỗ trợ cho ngành công nghiệp này ở những nơi khác, gây ra một số quan ngại về khả năng thành công của nỗ lực này.

• Theo yêu cầu “từ sợi trở đi” của TPP, việc nhập khẩu bông từ bất kỳ nhà sản xuất nào trên thế giới "không phải là vấn đề". Bên cạnh đó, hai đối tác TPP, Hoa Kỳ và Úc, là nhà sản xuất bông đứng thứ 3 và thứ 7 trên thế giới, như vậy sẽ có thể cung cấp bông vào Việt Nam với giá cạnh tranh mà vẫn sẽ tuân thủ các quy định của TPP. Bông nhập khẩu từ Trung Quốc, nhà sản xuất bông đứng thứ 1 toàn cầu, là hàng xóm ngay bên cạnh và việc nhập khẩu bông của Trung Quốc cũng sẽ không có tác động tiêu cực gì đến các yêu cầu “từ sợi trở đi” của TPP.

• Trồng lúa là một lĩnh vực hoàn toàn khác biệt so với trồng bông. Trong khi lúa có thể thu hoạch 3 vụ mỗi năm tại một số vùng của Việt Nam, thì cần phải thận trọng về việc cây bông có thể phát triển nhanh như thế nào, vì cây bông có khả năng sẽ phát triển chậm hơn nhiều so với cây lúa. Ngoài ra, trong khi mùa mưa từ 4-6 tháng có thể có lợi cho trồng lúa, thì mùa mưa lại có thể là yếu tố không tốt cho trồng bông và chất lượng cây bông. Cuối cùng, bông làm tổn hại đến đất và sẽ cần phải chú ý đến việc luân canh các loại cây trồng để tránh làm tổn hại nghiêm trọng đến tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam - đó chính là đất.

• Và cuối cùng, có nhiều cách dễ dàng hơn để đáp ứng các quy định của TPP về yêu cầu xuất xứ đối với quy tắc ”Từ Sợi Trở Đi”, trong đó có việc huy động các bước sản xuất giữa dòng như nhuộm, dệt kim và dệt chứ không phải là nguồn nguyên liệu hàng hóa. Sẽ lý tưởng nhất khi có đầy đủ nguồn sản xuất bông thượng nguồn để tận dụng nguồn tài nguyên nông nghiệp của Việt Nam, nhưng trong thời điểm hiện tại, điều này có vẻ như là một cơ hội tận thu đối với các sản phẩm chuyên ngành, hơn là một kế hoạch công nghiệp quy mô lớn, do tính kinh tế toàn cầu của ngành công nghiệp bông. Việc sản xuất sợi và tơ nhân tạo rõ ràng là hết sức bức thiết, do đó một lần nữa cần phải xem xét việc sản xuất hóa dầu và chất dẻo ở quy mô lớn, để ít nhất là đáp ứng được sự nhu cầu cấp bách trong nước.

Giấy phép lao động - các trở ngại trong việc chuyển giao công nghệ Một vấn đề khác mà tất cả các nhà sản xuất đều nêu lên là các thách thức trong việc xin giấy phép lao động theo các quy định về giấy phép lao động được sửa đổi gần đây. Để "hỗ trợ hội nhập" cho đầu nguồn và tạo ra nhiều nguồn nguyên liệu thô mới tại Việt Nam, việc cho phép tiếp cận tự do hơn nữa king nghiệm của các chuyên gia nước ngoài là điều cần thiết, nghĩa là tạo điều kiện dễ dàng hơn để các chuyên gia nước ngoài đến để thực hiện các nhiệm vụ công việc trên cơ sở tạm thời. Chẳng hạn như bổ sung nguồn kỹ sư nước ngoài thực hiện lắp đặt và đào tạo công nhân Việt Nam cách thức sử dụng máy móc phức tạp hơn sẽ giúp Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh hơn. Hầu như mọi doanh nghiệp tham dự hai cuộc họp Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam gần đây đều than phiền về các quy định mới về giấy phép lao động, và theo như được báo cáo đây là điều đang làm ảnh hưởng đến toàn ngành dệt may. Nếu có các vấn đề thực sự về vấn đề các công nhân châu Á di cư sang làm việc tại Việt Nam, thì những vấn đề

Trang 3/4

Page 51: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tập trung phối hợp thành lập khu công nghiệp dệt may Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, 2014 đó chắc chắn cần phải được giải quyết, tuy nhiên tính chất hạn chế gần đây của các quy định mới về giấy phép lao động không giải quyết vấn đề cụ thể đó, mà thực tế đặt ra nhiều giới hạn đối với các chuyên gia đến đây để có thể thực hiện việc chuyển giao công nghệ và cung cấp kinh nghiệm chuyên môn cho đất nước. Đào tạo nghề tại các vùng nông thôn Tương tự, cần đẩy mạnh đào tạo nghề tại các khu vực nông thôn để giúp công nhân địa phương có thể phục vụ các nhà máy bên ngoài các khu vực ngoại ô quanh các thành phố lớn. Đào tạo nghề là “trợ cấp đèn xanh” theo các nguyên tắc WTO nên Việt Nam có thể hỗ trợ cho ngành công nghiệp của mình. Việc dành các ưu đãi cho nhà đầu tư tại các vùng nông thôn chậm phát triển cũng có thể tạo ra sự linh hoạt tốt hơn xét về mặt sự hỗ trợ của nhà nước trong việc huy động đầu tư và chuyển giao công nghệ. Điều này có thể làm cho việc phân bố việc làm và thu nhập được công bằng hơn trên phạm vi khắp cả nước. Chúng tôi hình dung một số tỉnh có thể được chọn để trở thành "các vùng sản xuất dệt may mới", và tại đây các công ty tư nhântrong nước, công ty nhà nước, và các đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể nhận được các ưu đãi thuế tạm thời hoặc thường xuyên cho các cơ sở sản xuất tại đó, và có thể tuyển dụng nhiều công nhân tạo thu nhập cao hơn mà không cần phải di chuyển đến khu vực thành thị và khi đó mức độ duy trì công việc cho công nhân và tiếp đó là hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm vẫn luôn ở mức cao (và điều này sẽ giữ cho giá cả mang tính cạnh tranh). Chính quyền trung ương phối hợp với chính quyền địa phương có thể đề nghị cấp và nhận các khoản trợ cấp cho việc để đào tạo nghề trong lĩnh vực dệt may, mà một số công ty đang hoạt động tại Việt Nam có thừa khả năng và sẵn sàng thực hiện. Điều này theo thời gian sẽ làm gia tăng dần GPD tính trên đầu người và giúp nâng cao mức sống tốt hơn ở các khu vực nông thôn này. Người dân, ngành công nghiệp và quốc gia sẽ là "ba bên cùng có lợi".

* * *

Trang 4/4

Page 52: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Sửa đổi luật đầu tư và luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

SỬA ĐỔI LUẬT ĐẦU TƯ VÀ LUẬT DOANH NGHIỆP

Trình bày Ông Trần Anh Đức

Đồng trưởng Nhóm Công tác Đầu tư & Thương mại Kính thưa Thủ tướng Chính phủ và các đại biểu, Trong các cuộc họp trước đây, chúng tôi đã phản ánh những vướng mắc khi nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam: (i) doanh nghiệp Việt Nam phải làm thủ tục xin Giấy chứng nhận đầu tư khi bán cổ phần cho

nước ngoài; (ii) doanh nghiệp Việt Nam bị coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và phải tuân theo

nhiều qui định làm hạn chế khả năng tiếp cận thị trường. Các qui định nói trên đã cản trở các doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn từ nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Luật Doanh Nghiệp bảo đảm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Trên thực tế, việc yêu cầu đăng ký các hoạt động kinh doanh cụ thể trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cản trở quyền tự do kinh doanh theo qui định của Luật Doanh Nghiệp. Chúng tôi được biết Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì sửa đổi nhiều điều khoản Luật Đầu Tư và Luật Doanh Nghiệp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp. Các sửa đổi mang tính đột phá bao gồm: (i) doanh nghiệp được tự do kinh doanh trừ các lĩnh vực cấm đầu tư; (ii) không ghi ngành nghề cụ thể trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng

nhận đầu tư; (iii) doanh nghiệp Việt Nam được xem là nhà đầu tư nước ngoài khi có từ 51% Vốn điều lệ được

sở hữu bởi nhà đầu tư nước ngoài. Theo thống kê, hiện nay có tới hơn 330 ngành nghề bị hạn chế kinh doanh qui định trong hơn 200 văn bản khác nhau, được ban hành bởi các cơ quan trung ương và địa phương. Đã đến lúc Chính phủ cần phải rà soát, thu hẹp lại các ngành nghề hạn chế kinh doanh. Việc bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư không có ý nghĩa nếu vẫn tiếp tục duy trì 330 ngành nghề bị hạn chế kinh doanh. Các ngành nghề hạn chế kinh doanh cần phải qui định rõ trong luật và không cho phép các bộ và Ủy ban nhân dân được bổ sung các ngành bị hạn chế kinh doanh. Chúng tôi cũng thấy còn nhiều quan điểm khác nhau từ phía cơ quan nhà nước nên chưa thể chắc chắn là các sửa đổi này có được Chính phủ và Quốc hội chấp thuận hay không. Với sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ trong phiên họp hôm nay, chúng tôi rất hy vọng Thủ tướng Chính phủ sẽ có biện pháp chỉ đạo kịp thời để thuyết phục Quốc hội thông qua các đề xuất sửa đổi nói trên đối với Luật Đầu Tư và Luật Doanh Nghiệp.

Trang 1/1

Page 53: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Thuế

Page 54: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

ĐƠN GIẢN HÓA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI QUY ĐỊNH MIỄN THUẾ THEO HIỆP ĐỊNH TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN

Chuẩn bị bởi

Nhóm công tác Đầu tư và Thương mại Xin thay mặt cho các công ty TNHHMaersk Việt Nam, TNHH APL-NOL Việt Nam, TNHHMSC Việt Nam, và Cổ phần CMA CGM Việt Nam là các hãng vận tải biển đang hoạt động tại Việt Nam, Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư xin trình bày và kính đề nghị Tổng Cục Thuế, các Vụ cục liên quan của Bộ Tài chính, Bộ Giao Thông Vận tải và cơ quan khác của Chính phủ xem xét quan ngại của chúng tôi về quy trình thủ tục hành chính hiện hành áp dụng cho quy định miễn thuế trong các Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần của Việt Nam (“Hiệp định Thuế”). Chúng tôi cho rằng quy định hiện hành đang làm vô hiệu tinh thần của các Hiệp định Thuế, do vậy cần được sửa đổi, đặc biệt sau quá trình thảo luận chuyên sâu và kéo dài dưới nhiều hình thức khác nhau với Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế trong suốt 10 năm qua bao gồm việc đệ trình Đề án 30 dưới sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam năm 2010 và các đề xuất về đơn giản hóa thủ tục Hiệp định Thuế. Hoan nghênh chủ trương cải cách hành chính Trước hết, chúng tôi xin đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chúng tôi được hưởng một số lợi ích có được từ việc ban hành Nghị quyết 25/NQ-CP của Chính phủ năm 2010, và việc triển khai Đề án 30, qua đó quá trình cải cách đã được triển khai một cách hiệu quả. Đối với thủ tục hành chính trong lĩnh vực miễn thuế theo các Hiệp định Thuế, chúng tôi ghi nhận những cải cách nhất định như bãi bỏ yêu cầu công chứng, chứng thực, hạn chế các trường hợp cần hợp pháp hóa lãnh sự, bãi bỏ việc nộp các giấy chứng nhận của cảng vụ… Những tồn tại Những nỗ lực trên sẽ tăng cường khả năng đưa Việt Nam trở thành cửa ngõ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu của khu vực chỉ khi nào Chính phủ Việt Nam thực hiện một cách đầy đủ và quyết liệt các nỗ lực về mặt chủ trương, cũng như trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, chúng tôi quan ngại rằng một số nỗ lực cụ thể đang được thực hiện trong lĩnh vực cải cách thuế, cụ thể là các yêu cầu về hồ sơ miễn thuế theo Hiệp định Thuế áp dụng cho các công ty vận tải biển quốc tế tại Thông tư 156/2013/TT-BTC (“Thông tư 156”), sau đây gọi là “Quy định”, đã không thể hiện được tinh thần của Chính phủ trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính. Mặc dù Thông tư 156 được coi là một bước tiến về cải cách thủ tục hành chính trong một vài khía cạnh miễn thuế theo Hiệp định Thuế, các yêu cầu hiện hành buộc các công ty vận tải biển xuất trình nhiều giấy tờ để chứng minh việc điều hành trực tiếp con tàu thể hiện bước thụt lùi, làm vô hiệu việc thực thi các lợi ích thuế chính đáng của chúng tôi theo quy định tại các Hiệp định Thuế giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Cụ thể, Điều 20.3.d.2 của Thông tư 156 yêu cầu công ty vận tải biển lưu giữ các giấy tờ sau để chứng minh việc điều hành trực tiếp con tàu: • Giấy chứng nhận đănh ký tàu biển, hoặc hợp đồng thuê tàu, hoặc hợp đồng hoán đổi tàu

(“Chứng từ Sở hữu”) tương ứng với các hình thức điều hành tàu lần lượt như sau: sở hữu tàu, thuê tàu, hoặc hoán đổi tàu;

• Hợp đồng vận tải hàng hóa;

Trang 1/5

Page 55: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

• Một trong các chứng từ vận tải theo quy định tại Điều 73 Luật Hàng hải Việt Nam như sau: Vận đơn, Vận đơn suốt đường biển, giấy gửi hàng đường biển, hoặc các chứng từ khác (chứng từ do người vận chuyển và người thuê vận chuyển thoả thuận về nội dung, giá trị)

Sau đây các chứng từ này được gọi là “Chứng từ Bắt buộc” Yêu cầu nộp chứng từ gây phiền hà • Chứng từ Sở hữu Xét đến số lượng Vận đơn phát sinh từ các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia tăng tại Việt Nam, có thể lên tới 100.000 bản mỗi năm, và thực tế rằng thường có nhiều con tàu tham gia vào quá trình chuyên chở hàng hóa từ Việt Nam đến nước đến cuối cùng, càng nhiều con tàu tham gia vào quá trình này, càng nhiều giấy tờ phải cung cấp. Các công ty vận tải biển phải liên hệ với các văn phòng nước ngoài, truy dấu con tàu, và thu thập đúng các chứng từ cho mục đích kê khai thuế tại Việt Nam. Thông thường chúng tôi phải mất từ 60 đến 90 ngày mỗi năm chỉ để thu thập các Chứng từ Sở hữu cho mỗi bộ hồ sơ xin miễn thuế theo Hiệp định Thuế.

Với hàng ngàn bản sao Chứng từ Sở hữu mà chúng tôi phải lưu giữ, có thể thấy rằng cơ quan thuế Việt Nam đang tạo ra một gánh nặng quá sức và phiền hà đối với hoạt động kinh doanh của các công ty vận tải biển tại Việt Nam chỉ nhằm một mục đích vốn không đủ cơ sở về mặt khuôn khổ pháp lý theo các Hiệp định Thuế.

Cụ thể, chúng tôi đề cập đến trường hợp của các hãng hàng không quốc tế, là đối tượng có thu nhập được điều chỉnh bởi chính những quy định trong Hiệp định Thuế áp dụng cho thu nhập của các hãng vận tải biển quốc tế1. Trong khi vận tải biển và vận tải hàng không có cùng bản chất hoạt động kinh doanh, vận tải hàng không được miễn nghĩa vụ cung cấp các chứng từ tương tự như Chứng từ Sở hữu mà các công ty vận tải biển phải cung cấp. Khác biệt này tạo ra sự thiếu nhất quán về mặt chủ trương chính sách, tạo ra sự phân biệt đối xử thiếu cơ sở giữa các công ty vận tải biển quốc tế và các hãng hàng không quốc tế.

Thêm nữa, với mỗi con tàu đến (và khởi hàng từ) Việt Nam, chúng tôi cũng phải cung cấp các giấy tờ về con tàu bao gồm Giấy chứng nhận đăng ký tàu biển cho Cục Hàng hải Việt Nam.2

Trong nhiều trường hợp, vấn đề còn trở nên nghiêm trọng hơn khi bất kể mọi nỗ lực bỏ ra, các công ty tàu biển vẫn không thể truy dấu và thu thập đúng các Chứng từ Bắt buộc từ các bên thuê tàu liên quan để đáp ứng được Quy định này.

• Hợp đồng Vận tải Hàng hóa Chúng tôi nhận thấy khía cạnh chứng từ của Quy định này là một sự rườm rà do có sự chồng chéo giữa các Chứng từ Bắt buộc. Trong hoạt động vận tải quốc tế, vận đơn là chứng từ do công ty vận tải biển phát hành nhằm ba mục đích: (i) bằng chứng nhận hàng chuyên chở; (ii) bằng chứng hợp đồng chuyên chở; (iii) chứng từ xác lập quyền sở hữu. Do vậy, quy định về hợp đồng vận tải hàng hóa là không cần thiết do Vận đơn trên thực tế đã giữ vai trò này.

Luật Hàng hải Việt Nam cũng đã công nhận ba vai trò này của Vận đơn.3

1 Điều khoản về Vận tải biển và Hàng không trong các Hiệp định Thuế 2 Khoản 2d. Điều 54. Nghị định 21/2012/ND-CP ngày 21/3/2012 về Quản lý Cảng biển và luồng hàng hải 3 Điều 73.2 Luật Hàng hải Việt Nam

Trang 2/5

Page 56: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

• Một trong các chứng từ vận tải theo quy định tại Điều 73 Luật Hàng hải Việt Nam như sau: Vận đơn, Vận đơn suốt đường biển, giấy gửi hàng đường biển, hoặc các chứng từ khác (chứng từ do người vận chuyển và người thuê vận chuyển thoả thuận về nội dung, giá trị)

Xét đến số lượng Vận đơn có thể lên tới 100.000 bản mỗi năm, và thời gian trung bình một phút cho việc truy xuất thông tin từ hệ thống và in ấn mỗi bản Vận đơn, chúng tôi mất 100.000 phút hoặc 1.667 giờ hoặc 208 ngày làm việc mỗi năm để cung cấp đầy đủ các Vận đơn.

Bên cạnh đó, với mỗi chuyến hàng xuất khẩu, chúng tôi đã nộp Bản khai hàng hóa điện tử (E-Manifest) cho cơ quan hải quan với các thông tin đầy đủ như thể hiện trong Vận đơn. Sau cùng, do Việt Nam đã và đang thực thi mạnh mẽ chính sách ký kết Hiệp định Thuế với các đối tác thương mại quan trọng, mà phần lớn các công ty vận tải biển quốc tế đều là đối tượng cư trú của các đối tác này, việc chứng minh điều hành trực tiếp tàu không cấu thành ý nghĩa cơ sở thực thi pháp lý do tất cả hàng hóa cuối cùng đều phải được vận chuyển bởi một hãng tàu, bất kể sự liên quan phức tạp của nhiều pháp nhân khác nhau bao gồm các đại lý tàu biển trong quá trình vận chuyển hàng. Do đó, bằng chứng điều hành trực tiếp tàu cho thấy sự thiếu cơ sở và không phù hợp với xu hướng phát triển hoạt động kinh doanh thực tế, cũng như chính sách đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ Việt Nam. Tác động của các yêu cầu này Sự trùng lặp như nêu trên đã biến Quy định mới này từ một giải pháp cải cách thành một trở ngại nữa cho hoạt động kinh doanh của các công ty vận tải biển quốc tế với một số hạn chế đến môi trường thương mại và đầu tư của Việt Nam như sau: (i) Quy định này ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam do làm tăng giá thành Trên thực tế, việc đáp ứng Quy định này là một quá trình tốn kém về thời gian và chi phí do phải bố trí nhân lực và tài chính để tìm và lưu trữ các Chứng từ Bắt buộc. Với khối lượng hàng hóa thương mại quốc tế ngày càng tăng, các quy định này đã tạo ra khối lượng công việc lớn, tạo nên một rào cản chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh về giá của hàng Việt Nam xuất khẩu do làm tăng giá cước vận chuyển từ Việt Nam. Thực tế này rõ ràng đang làm giảm đi các nỗ lực thực sự của Chính phủ Việt Nam dành cho việc đàm phán và ký kết các hiệp định tự do thương mại nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế. (ii) Quy định này tạo ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế của Việt Nam Như đã giải thích ở trên, sự trùng lặp giữa các Chứng từ Bắt buộc khiến cho Quy định này trở thành một yêu cầu thiếu cơ sở do đặt ra yêu cầu cung cấp chứng từ trên mức cần thiết để đáp ứng các quy định pháp lý. Theo Điều VI.1 Các quy định Nội địa trong Hiệp định về Thương mại Dịch vụ của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, mỗi Thành viên sẽ đảm bảo các quy định áp dụng chung có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ phải được quản lý một cách có cơ sở, khách quan, và công bằng. Với những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng yêu cầu về Chứng từ Bắt buộc là không có cơ sở, do đó vi phạm các cam kết của Việt Nam trong WTO.

Trang 3/5

Page 57: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Hơn thế nữa, Việt Nam, cùng các nước thành viên khác của WTO, đã ký kết Hiệp định về Thuận lợi hóa Thương mại năm 2013. Mặc dù không trực tiếp điều chỉnh các khía cạnh thuế trong khuôn khổ Hiệp định Thuế, Hiệp định này có thể được hiểu là cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc tạo điều kiện cho quá trình di chuyển của các dòng hàng hóa thương mại. Các công ty vận tải biển đóng vai trò là sự kết nối không thể thiếu trong thương mại quốc tế, do đó họ nên được hưởng lợi từ những cam kết như vậy để có thể đóng góp một cách hiệu quả hơn vào quá trình phát triển thương mại quốc tế tại Việt Nam. Hơn nữa, tại văn bản Hiệp định Thuế cụ thể được ký riêng biệt giữa Việt Nam với Singapore, hoặc với Đan Mạch, đều có nội dung “Không Phân Biệt Đối Xử” (Khoản 1, Điều 25; hoặc Điều 26, tương ứng với mỗi Hiệp định Thuế đã nêu), cụ thể như sau: “ĐIỀU 25: KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ 1/ Những đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức đánh thuế và các yêu cầu liên quan đang có thể áp dụng cho các đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia trong cùng những hoàn cảnh như nhau.” Như vậy, Quy định này áp dụng chưa phù hợp với điều khoản quy định tại Hiệp định Thuế khi các nước tham gia Hiệp định Thuế với Việt Nam không áp dụng như Quy định của Việt Nam như đã nêu tại Đề án 30 trước đây. (iii) Quy định này ảnh hưởng đến hình ảnh môi trường đầu tư tại Việt Nam Là các công ty vận tải biển quốc tế, chúng tôi có hoạt động kinh doanh trên toàn thế giới. Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy Quy định này là rất khác biệt. Đối với mục đích miễn thuế theo Hiệp định Thuế, hầu hết các quốc gia trên thế giới chỉ yêu cầu giấy chứng nhận cư trú thuế. Tại một số nước trong khối ASEAN, như Thái Lan, Malaysia, và Singapore, các công ty vận tải biển không buộc phải nộp bất kỳ giấy tờ nào trong số các Chứng từ Bắt buộc, hoặc bất kỳ chứng từ vận chuyển nào bao gồm Vận đơn / Bản khai hàng hóa. Thay vào đó, các công ty vận tải biển chỉ phải nộp bản tự khai về hàng hóa vận chuyển thuộc đối tượng được miễn thuế theo Hiệp định Thuế, và giấy phép kinh doanh. Trong văn bản đề xuất của Đề án 30 trước đây và các đề xuất nhằm đơn giản hóa thủ tục miễn thuế theo Hiệp định Thuế trong năm 2013, chúng tôi đã cung cấp các quy trình áp dụng tại các nước khác khi áp dụng Hiệp định Thuế. Các quy trình này đơn giản hơn nhiều và hỗ trợ rõ rệt cho các công ty vận tải biển chứng minh tư cách của mình nếu họ là đối tượng được hưởng lợi ích thuế từ Hiệp định Thuế. Đánh giá vấn đề này dưới góc độ thủ tục hành chính cho thấy những bất lợi về tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh nếu các nội dung đã nêu trên không được đáp ứng tương thích. Một khi loại bỏ được Quy định này, Việt Nam sẽ có thể tăng cường năng lực quản lý thuế và củng cố khả năng cạnh tranh của mình. Đề xuất Cải cách Với mục đích trên, chúng tôi trân trọng đề nghị quý Cơ quan, với tư cách là đơn vị hỗ trợ quá trình thuận lợi hóa kinh doanh, đề cập đến vấn đề này với các cơ quan liên quan của Chính phủ Việt Nam nhằm cải cách thủ tục hành chính đối với việc thực thi các cam kết miễn thuế cước vận chuyển trong các Hiệp định Thuế. Cụ thể, với mục đích xác minh việc điều hành tàu, chúng

Trang 4/5

Page 58: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

tôi kính đề nghị sửa đổi danh mục Chứng từ Bắt buộc để cân bằng giữa nhiệm vụ quản lý nhà nước và sự thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các công ty vận tải biển như sau: • Chứng từ chứng minh doanh nghiệp là công ty vận tải biển quốc tế (Giấy chứng nhận đăng

ký kinh doanh / Giấy phép kinh doanh của công ty vận tải biển); và • Chứng từ chứng minh doanh nghiệp là đối tượng cư trú thuế của nước ký kết Hiệp định

Thuế với Việt Nam (Chứng nhận cư trú thuế); Các bước tiếp theo Chúng tôi đánh giá cao nỗ lực Việt Nam đã thực hiện trong quá trình cải cách hành chính và trân trọng đề nghị các bộ ngành liên quan của Chính phủ xem xét và đánh giá kỹ lượng các đề xuất nêu trên. Chúng tôi tin tưởng rằng những cải cách này sẽ có tác dụng tái khẳng định với cộng đồng doanh nghiệp về cam kết của Việt nam trong việc thực thi có hiệu quả các cam kết trong các Hiệp định Thuế, theo hướng phù hợp với việc tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh và cạnh tranh cho các công ty vận tải biển quốc tế, và các nhà sản xuất và thương nhân có trụ sở tại Việt Nam.

Trang 5/5

Page 59: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số vấn đề về thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THUẾ

Trình bày Bà Hương Vũ

Trưởng Tiểu Nhóm Thuế

1. Điều khoản về bảo hành trong hợp đồng cung cấp hàng hóa của Nhà thầu nước ngoài Vấn đề: Thông tư 60/2012/TT-BTC quy định trường hợp Nhà thầu nước ngoài cung cấp hàng hóa, máy móc thiết bị có kèm theo các dịch vụ tiến hành tại Việt Nam như lắp đặt, chạy thử, bảo hành, .. (bao gồm cả trường hợp dịch vụ kèm theo miễn phí), kể cả trường hợp việc cung cấp các dịch vụ nêu trên có hoặc không nằm trong giá trị của hợp đồng cung cấp hàng hóa thì thu nhập chịu thuế Nhà thầu là toàn bộ giá trị hàng hoá, dịch vụ. Theo đó, hiện nay các cơ quan thuế đang xử lý tính thuế nhà thầu đối với các hợp đồng cung cấp hàng hóa, máy móc thiết bị có kèm điều khoản bảo hành. Bất cập: Quy định này cần được xem xét lại bởi những bất cập sau: • Việc đánh thuế nhà thầu vào hàng hóa, máy móc thiết bị cung cấp có kèm theo điều kiện

bảo hành là lạm thu bởi thực tế bảo hành là điều khoản hầu như bắt buộc đối với bất kỳ hợp đồng cung cấp hàng hóa nào theo thông lệ quốc tế nhằm bảo về quyền lợi của bên mua, cũng là khẳng định chất lượng sản phẩm của bên bán không phải là dịch vụ cung cấp bổ sung và không thể tách riêng được giá trị bảo hành.

• Nếu đánh thuế nhà thầu với tất cả các hợp đồng thương mại có kèm điều kiện bảo hành thì sẽ đi ngược với thông lệ quốc tế, không đảm bảo quyền lợi cho người mua là các doanh nghiệp trong nước, và có thể nói là Việt Nam đã có ý định đánh thuế nhà thầu đối với tất cả các trường hợp cung cấp hàng hóa, máy móc thiết bị vào Việt Nam, trong đó sẽ có rất nhiều máy móc thiết bị Việt Nam chưa thể sản xuất được, theo đó không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hiện đại hóa nền công nghiệp Việt Nam, không nâng cao tính hiệu quả dẫn đến kém cạnh tranh trong khu vực..

Kiến nghị: Bộ Tài chính nên thảo luận cùng các cục thuế địa phương/tổng cục thuế để nhìn nhận đúng nghĩa của “dịch vụ”; phân biệt giữa quy định về điều khoản cam kết bảo hành miễn phí trong hợp đồng và dịch vụ bảo hành có thu phí được cung cấp theo hợp đồng, theo đó quy định trường hợp cung cấp máy móc thiết bị có kèm theo điều khoản bảo hành nhưng không đi kèm dịch vụ nào khác tiến hành tại Việt Nam thì không thuộc đối tượng chịu thuế nhà thầu. 2. Chi phí liên quan đến hợp đồng dịch vụ ký với công ty mẹ Vấn đề: Quy định hiện hành không có hướng dẫn cụ thể cho việc xử lý các chi phí liên quan đến hợp đồng dịch vụ ký với công ty mẹ của các công ty trong tập đoàn đa quốc gia, dẫn đến thực tế là khi cơ quan thuế kiểm tra thường có cách xử lý không nhất quán và có những đòi hỏi vô lý đối với doanh nghiệp. Đơn cử đối với mỗi lần được cung cấp dịch vụ, cơ quan thuế yêu cầu công ty phải lưu trữ văn bản nghiệm thu trong đó phải thể hiện đã cung cấp dịch vụ gì, vào ngày, giờ nào, dịch vụ này đóng góp vào doanh thu của công ty như thế nào mặc dù trong bản hợp đồng

Trang 1/4

Page 60: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số vấn đề về thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

đã quy định rõ bên cung cấp sẽ cung cấp những dịch vụ gì, và bản thân những dịch vụ đó thực sự cần thiết cho hoạt động kinh doanh của Công ty Việt Nam, dịch vụ đó có thể cung cấp qua điện thoại, email,.. thậm chí doanh nghiệp có chụp hình ảnh đối với một số dịch vụ như dịch vụ đào tạo có kèm chi tiết chương trình nhưng cũng đã không được cơ quan thuế chấp nhận. Bất cập: Chúng tôi cho rằng, các công ty con của Việt Nam chỉ là một phần của chuỗi kinh doanh trong Tập đoàn, vì thế dù muốn hay không, các công ty con cũng không thể tự lập trong tất cả quy trình quản lý, kinh doanh mà phải tuân thủ những quy chuẩn đã được xác lập và thực hiện hàng chục, thậm chí hàng trăm năm của Tập đoàn. Là một doanh nghiệp hoạt động độc lập tại Việt Nam, bản thân các công ty con khi sử dụng các hệ thống quản lý, các dịch vụ được đầu tư bởi Tập đoàn để sử dụng chung cho toàn hệ thống thì phải chịu phần chi phí tương ứng với mức độ/giá trị được sử dụng cho Công ty con tại Việt Nam là hết sức phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo công bằng, cũng là theo nguyên tắc khi ghi nhận doanh thu phải ghi nhận đầy đủ chi phí tương ứng, trên thực tế, có thể nói là những chi phí của công ty con trả cho những dịch vụ mà Tập đoàn cung cấp thưc sự mang lại lợi ích kinh tế và phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy nhiên dường như cơ quan thuế đang có cái nhìn khắt khe đối với những chi phí này và luôn nghi ngờ đây chỉ là hình thức chuyển giá. Kiến nghị: Để phản ánh và có sự nhìn nhận đúng đắn đối với những chi phí của công ty con trả cho những dịch vụ mà Tập đoàn cung cấp, đề nghị Chính phủ, Bộ Tài chính cần đưa ra những hướng dẫn cụ thể hơn đối với việc quản lý chi phí này, đặc biệt là những chuẩn mực về tài liệu, chứng từ cần thiết mà doanh nghiệp phải có để thể hiện những chi phí này thực sự là chi phí được trừ của doanh nghiệp. 3. Xác định trước trị giá hải quan cho hàng hóa nhập khẩu

Vấn đề: Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012 bổ sung khoản 12 Điều 5 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 về xác định trước mã số hàng hóa, trị giá hải quan và xuất xứ hàng hóa xuất, nhập khẩu, Thông tư 128/2013/TT-BTC ngày 10 tháng 9 năm 2013 đã quy định chi tiết các nội dung này tại các Điều 7 (xác định trước mã số hàng hóa), Điều 8 (xác định trước trị giá hải quan), và Điều 9 (xác định trước xuất xứ hàng hóa xuất, nhập khẩu). Mặc dù được hiểu rằng các quy định này là một trong những biện pháp nhằm thúc đẩy thương mại, bên cạnh những quy định rõ ràng và có thể thực hiện được liên quan đến việc xác định trước mã số và xuất xứ hàng hóa, những hướng dẫn về xác định trước trị giá hải quan của hàng hóa nhập khẩu, trái lại, gây khó khăn cho quá trình thực hiện. Xác định trước trị giá hải quan gồm hai trường hợp: (i) xác định trước phương pháp xác định trị giá và (ii) xác định trước mức giá. Bất cập: • Về điều kiện áp dụng:

- Trường hợp (i), chỉ được đề nghị xác định trị giá trước đối với hàng hóa mà doanh nghiệp chưa từng nhập khẩu hàng hóa giống hệt với hàng hóa đó. Quy định này không

Trang 2/4

Page 61: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số vấn đề về thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

hợp lý ở chỗ, cùng một loại hàng nhập khẩu, thậm chí là giao dịch giữa cùng người mua và người bán nhưng trong những điều kiện mua bán khác nhau (ví dụ, các yếu tố điều chỉnh về quãng đường vận chuyển, về các khoản điều chỉnh cộng, các yếu tố là điều kiện của giao dịch) có thể dẫn đến phương pháp xác định trị giá hải quan khác nhau.

- Trường hợp (ii), ngoài điều kiện về tuân thủ pháp luật tốt, doanh nghiệp chỉ được đề nghị xác định trước mức giá cho từng lô hàng (giao hàng một lần cho toàn bộ hàng hóa thuộc hợp đồng mua bán đang xem xét) đã được thanh toán theo phương thức LC. Giới hạn về việc giao hàng và điều kiện thanh toán xong cho toàn bộ lô hàng đang đề nghị xác định trước mức giá không chỉ không phù hợp với thực tiễn thương mại vốn sẵn tính đa dạng mà còn mâu thuẫn với Luật Thương mại cho phép doanh nghiệp được tự do thỏa thuận về giao hàng và phương thức thanh toán. Ngoài ra, quy định này vô hình trung còn tạo ra sự phân biệt đối xử đối với hàng hóa nhập khẩu theo các phương thức thanh toán và giao hàng khác nhau.

• Về hồ sơ: Trường hợp (i) chỉ nêu ra yêu cầu chung về hồ sơ (vd. chứng từ, tài liệu chứng minh mối quan hệ đặc biệt không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch; chứng từ, tài liệu liên quan đến các khoản điều chỉnh cộng/ điều chỉnh trừ; v.v) mà không quy định rõ loại chứng từ, tài liệu nào cần nộp cho cơ quan hải quan. Trường hợp (ii) đòi hỏi doanh nghiệp phải xuất trình được chứng từ thanh toán theo phương thức LC. Quy định không rõ ràng hoặc hạn chế về mặt hồ sơ có thể gây nên những cách hiểu khác nhau giữa hải quan và doanh nghiệp, dẫn đến việc chậm hoàn thiện hồ sơ và câu trả lời chính thức từ phía cơ quan hải quan.

• Xử lý tại khâu thông quan: Mục đích cũng như lợi ích của việc xác định trước trị giá hải quan không được làm rõ nên việc sử dụng Thông báo kết quả xác định trước trị giá (mặc dù được quy định tại khoản 5 Điều 8 thông tư 128 là “cơ sở để khai báo Tờ khai trị giá tính thuế và được nộp cùng với hồ sơ hải quan khi làm thủ tục hải quan”) không mang lại hiệu quả mong muốn. Với văn bản thông báo này, doanh nghiệp vẫn có nguy cơ bị cơ quan hải quan kiểm tra, chất vấn về mức giá kê khai tại giai đoạn thông quan và có thể phải yêu cầu thực hiện tham vấn về trị giá để bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp. Như vậy, quy trình thông quan không hề được rút ngắn hay đơn giản hơn so với việc không có Thông báo kết quả xác định giá trước.

Kiến nghị: • Quy định rõ việc xác định trước trị giá có thể áp dụng cho một hợp đồng khung bao gồm

hàng hóa được giao thành nhiều chuyến và thực hiện thanh toán qua ngân hàng/ không bằng tiền mặt.

• Quy định về tài liệu cần nộp ở mức độ chi tiết nhất có thể để tránh cách hiểu và thực hiện không thống nhất.

• Quy định rõ Thông báo kết quả xác định trước trị giá sẽ được sử dụng để kê khai và xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tại khâu thông quan, tránh làm mất thời gian của cả hai phía. Doanh nghiệp sẽ tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có bất kỳ thay đổi nào đối với giao dịch đề nghị xác định trước trị giá mà không thông báo với cơ quan hải quan kịp thời.

Trang 3/4

Page 62: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số vấn đề về thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

4. Giá tính thuế đơn vị sản phẩm tài nguyên đổi với tài nguyên xuất khẩu

Vấn đề: Căn cứ quy định tại Thông tư số 105/2010/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế tài nguyên, giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên thể hiện trên chứng từ bán hàng. Bất cập: • Về nguyên lý, giá tính thuế tài nguyên phải là giá của tài nguyên nguyên khai. • Trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng bán tài nguyên nguyên khai ngay sau khi

khai thác. Rất nhiều các doanh nghiệp khai thác tài nguyên phải đầu tưrất lớn các loại dây chuyền máy móc thiết bị để sản xuất sản phẩm mới/tăng hàm lượng của sản phẩm

• Theo đó, việc xác định giá tính thuế tài nguyên theo giá bán ra thị trường là không hợp lý và bất cập, cũng không phù hợp với đạo lý thuế tài nguyên.

Kiến nghị: Đề nghị Bộ Tài chính cân nhắc đề xuất hướng dẫn giá tính thuế tài nguyên đảm bảo theo nguyên tắc giá bán đơn vị sản phẩm khai thác, nghĩa là không bao gồm các chi phí doanh nghiệp phải bỏ thêm trong quá trình sản xuất, chế biến sâu, bán hàng. Hoặc cân nhắc quy định chi tiết giá tính thuế tài nguyên của từng đơn vị sản phẩm tương tự như đối với Thuế bảo vệ tài nguyên môi trường.

Trang 4/4

Page 63: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số ý kiến đối với dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỐI VỚI DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT

Chuẩn bị bởi

Tiểu nhóm Thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

(1) Đề xuất bổ sung một số hàng hóa và dịch vụ vào đối tượng chịu thuế Tiêu thụ đặc biệt (“TTĐB”) Chúng tôi hiểu rằng thuế TTĐB quy định đối tượng chịu thuế chủ yếu là hàng hóa và dịch vụ không thuộc diện Nhà Nước khuyến khích tiêu dùng, cụ thể là nhóm hàng hóa có hại cho sức khỏe (thuốc lá và rượu bia), cần tiêu dùng tiết kiệm (xăng), và việc tiêu dùng được tập trung vào những đối tượng có thu nhập cao (ô tô, máy bay, du thuyền, chơi gôn). Chúng tôi cho rằng đề xuất bổ sung đối tượng chịu thuế TTĐB, bao gồm (i) nước ngọt có ga không cồn và (ii) kinh doanh trò chơi bình chọn, dự báo kết quả, trò chơi có thưởng thông qua tin nhắn, gần như không đem lại lợi ích cho người tiêu dùng, doanh nghiệp hoặc nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay. Chúng tôi xin trình bày quan điểm của chúng tôi, cụ thể là: (i) Đề xuất đưa mặt hàng nước ngọt có ga không cồn vào đối tượng chịu thuế TTĐB Chúng tôi hiểu rằng trong ngành công nghiệp đồ uống không cồn, chỉ có nước ngọt có ga không cồn được đề xuất đưa vào đối tượng chịu thuế TTĐB vì lý do gây tác hại đến sức khỏe người tiêu dùng (như bệnh béo phì, các chứng bệnh tiêu hóa, loét dạ dày và tiểu đường), do đó việc tiêu thụ mặt hàng này cần phải đưa vào đối tượng chịu thuế TTĐB giống như các hàng hóa chịu thuế TTĐB truyền thống khác (thuốc lá và rượu bia). Tuy nhiên, chúng tôi hiểu rằng hiện nay chưa có báo cáo nghiên cứu y khoa nào đưa ra kết luận rõ ràng về tác hại của nước ngọt có ga không cồn đến sức khỏe người tiêu dùng. Do đó, nếu đề xuất đưa mặt hàng nước ngọt có ga không cồn vào đối tượng chịu thuế TTĐB vì lý do bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng thì đề nghị cần phải xem xét sâu thêm về vấn đề này. Do hiện nay chưa có bằng chứng cụ thể rằng nước ngọt có ga không cồn gây tác hại đến sức khỏe người tiêu dùng, thì việc đề xuất đánh thuế TTĐB mặt hàng này có thể tạo nên sự không công bằng cho các nhà sản xuất nước ngọt có ga không cồn vì chỉ có mặt hàng nước ngọt có ga không cồn phải chịu thuế TTĐB trong khi các mặt hàng đồ uống không cồn khác vẫn là đối tượng không chịu thuế TTĐB. Ngoài ra, nếu mặt hàng nước ngọt có ga không cồn phải chịu thuế TTĐB thì các nhà sản xuất buộc phải đẩy chi phí thuế TTĐB cho người tiêu dùng, điều này có thể dẫn đến nhu cầu đối với mặt hàng này giảm xuống. Vì vậy, việc đề xuất đưa mặt hàng nước ngọt có ga không cồn vào đối tượng chịu thuế TTĐB có thể không làm tăng đáng kể nguồn thu ngân sách nhà nước, mà thậm chí làm giảm thu ngân sách đối với các loại thuế khác trong ngành công nghiệp đồ uống (gồm có thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế TNDN), thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT), v.v.) khi nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này giảm đi. Từ kinh nghiệm của chúng tôi, một số nước áp dụng thuế TTĐB cho tất cả các loại đồ uống không cồn, và không một nước nào chỉ áp dụng thuế TTĐB đối với nước ngọt có ga không cồn. Các nước này hiện đang áp dụng thuế TTĐB cho nhiều mặt hàng đồ uống không cồn, không

Trang 1/4

Page 64: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số ý kiến đối với dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

phân biệt mặt hàng nước ngọt có ga không cồn hoặc mặt hàng đồ uống không cồn. Chẳng hạn, Camphuchia, áp dụng thuế TTĐB “10% trên tất cả loại đồ uống.”1 Chúng tôi hiểu rằng một số nước khác cũng không tách riêng nước ngọt có ga không cồn để áp dụng thuế TTĐB. Thông thường, người tiêu dùng không muốn phải chịu thuế trên các mặt hàng tiêu dùng, nên nhiều đề xuất đánh thuế TTĐB trên mặt hàng đồ uống tại một số nước cũng đã nhanh chóng bãi bỏ sau các cuộc tranh luận rộng rãi trong công chúng. Chính vì điều này, trong các năm gần đây một số nước đang có xu hướng bãi bỏ việc đánh thuế TTĐB cho mặt hàng đồ uống. Cụ thể là một số nước đã từng áp thuế TTĐB đối với các loại đồ uống và sau đó bãi bỏ hoặc giảm thuế suất, như là Argentina, Đan Mạch, Cộng Hòa Dominica, Ai Cập, Ghana, Indonesia, Pakistan, the Philippines, Nam Phi and Zambia (trong số các nước), cùng nhiều bang của Mỹ. Việc đề xuất đưa mặt hàng nước ngọt có ga không cồn vào đối tượng chịu thuế TTĐB vì lý do bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, tuy nhiên, điều này cũng có thể dẫn đến những tác động đáng kể, cụ thể như sau: • Đột biến về nhu cầu – giá tăng làm giảm nhu cầu tiêu dùng dẫn đến giảm doanh số và sản

lượng. • Góp phần vào lạm phát vì giá mặt hàng nước ngọt có ga không cồn tăng, khi đó nhà sản xuất

đẩy chi phí thuế TTĐB này cho người tiêu dùng– điều này không phù hợp với những nỗ lực không ngừng của Chính Phủ trong cuộc chiến chống lạm phát. Nước ngọt có ga không cồn là loại đồ uống phổ biến được phần lớn người tiêu dùng lựa chọn, do đó khi giá mặt hàng này tăng có thể làm cho giá của các mặt hàng bán kèm theo là các loại thực phẩm và đồ uống khác cũng tăng theo và như vậy sẽ tạo thêm áp lực lạm phát cho nền kinh tế.

• Việc đánh thuế TTĐB cho mặt hàng này có thể tạo bất lợi đáng kể trong hệ thống thuế Việt Nam làm các nhà đầu tư nước ngoài có thể cho rằng Việt Nam chưa hội nhập được với thông lệ quốc tế - điều này ảnh hưởng đến những nỗ lực không ngừng của Chính Phủ trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.

• Gây bất lợi và không công bằng cho các nhà sản xuất nước ngọt có ga không cồn so với các nhà sản xuất đồ uống không cồn khác.

• Gây ảnh hưởng kinh tế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, là chuỗi nhà cung cấp của các nhà sản xuất nước ngọt có ga không cồn (như nhà cung cấp đường, bao bì và các nguyên vật liệu khác. vv.)

Tóm lại, chúng tôi rất quan ngại việc đề xuất đưa mặt hàng nước ngọt có ga không cồn vào đối tượng chịu thuế TTĐB tại thời điểm này vì có thể tạo bất lợi cho cả người tiêu dùng, doanh nghiệp hoặc nền kinh tế. Do đó, chúng tôi đề nghị Chính Phủ và Quốc Hội cân nhắc xem xét kỹ đề xuất này của BTC, dựa trên thực tiễn và kết quả nghiên cứu về việc nước ngọt có ga không cồn gây tác hại đến sức khỏe người tiêu dùng và dự báo tăng nguồn thu ngân sách nhà nước so với những tác động tiêu cực cho người tiêu dùng, doanh nghiệp cũng như nền kinh tế Việt Nam, như các đề cập nêu trên.

1 KINGDOM OF CAMBODIA MINISTRY OF ECONOMY AND FINANCE TAX DEPARTMENT, LAW ON TAXATION CHAPTER 4, § 1, ARTICLE 85 (emphasis added).

Trang 2/4

Page 65: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số ý kiến đối với dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

(ii) Đề xuất kinh doanh trò chơi bình chọn, dự báo kết quả, trò chơi có thưởng thông qua tin nhắn vào đối tượng chịu thuế TTĐB

Hạ tầng của ngành công nghệ thông tin và viễn thông tại Việt Nam ngày càng phát triển, nên việc giao tiếp thông qua phương tiện tin nhắn là một phần thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam. Việc nhắn tin bình chọn hoặc đặt cược (khác với nội dung bình chọn hoặc nội dung đặt cược trực tiếp) là loại hình kinh doanh khác so với loại hình cá cược thông thường, do đó việc đề xuất thu thuế TTĐB cho hoạt động bình chọn hoặc đặt cược thông qua tin nhắn không phù hợp với xu hướng phát triển của Việt Nam và giảm doanh thu trong ngành công nghệ thông tin và viễn thông, và điều này dẫn đến giảm thu hút đầu tư trong ngành công nghệ này. Việc áp thuế TTĐB thông qua tin nhắn bình chọn và đặt cược có thể gây tác động đến các ngành kinh doanh khác như là ngành quảng cáo. Điều này có thể làm cho người chơi/khán giả hạn chế tham gia các hoạt động bình chọn hoặc đặt cược công khai hoặc thậm chí không xem chương trình có những hoạt động này. Và do đó, tính hiệu quả của hoạt động quảng cáo được tài trợ sẽ giảm và kéo theo giảm doanh thu và giảm lợi nhuận từ ngành quảng cáo. Hơn nữa, việc tham gia bình chọn và đặt cược qua tin nhắn không gây ra hoặc gia tăng tác hại đến sức khỏe cộng đồng (như thuốc lá), cũng không là loại hình giải trí xa xỉ do các đối tượng có thu nhập cao tiêu dùng (như là karaoke, chơi gôn), cũng như không tạo nên hình thức đặt cược hoặc sổ xố như truyền thống. Ngược lại, đây là loại hình giải trí thông thường của người dân, giúp kích cầu tiêu dùng kinh tế trong ngành viễn thông cũng như các ngành liên quan khác như công nghệ truyền hình và quảng cáo, vv. Do đó, kinh doanh trò chơi bình chọn, dự báo kết quả, trò chơi có thưởng thông qua tin nhắn nên được khuyến khích tiêu dùng và hỗ trợ, thay vì bị áp là đối tượng chịu thuế TTĐB. (2) Thuế suất thuế TTĐB đối với mặt hàng thuốc lá, rượu bia Chúng tôi hiểu rằng mục tiêu đề ra khi ban hành Luật thuế TTĐB là điều tiết thói quen tiêu dùng và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, tuy nhiên, chúng tôi rất quan ngại việc tăng thuế suất thuế TTĐB đối với mặt hàng thuốc lá, rượu bia trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay vì có thể tạo ra tác động tiêu cực hơn là tác động tích cực cho nền kinh tế. Các cơ quan chức năng như hải quan, thuế và y tế phải xử lý các vấn đề nan giải ngày càng gia tăng khi thuế TTĐB tăng, cụ thể là ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng do tiêu thụ mặt hàng rượu giả và rượu lậu. Việc tăng thuế suất thuế TTĐB sẽ làm tăng áp lực cho Chính Phủ phải chi tiêu nhiều hơn để kiểm soát ngăn chặn tiêu cực (như là tăng chi ngân sách để ngăn chặn, xử lý hàng giả và hàng lậu, làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước đối với thuế TNDN và thuế GTGT do các nhà sản xuất chân chính giảm doanh số và lợi nhuận). Do đó, chúng tôi đề nghị giữ nguyên mức thuế suất thuế TTĐB hiện hành đối với mặt hàng thuốc lá và rượu bia. (3) Thuế TTĐB đối với điều hòa nhiệt độ Dự thảo Luật này vẫn giữ nguyên mức thuế TTĐB đối với điều hòa nhiệt độ công suất từ 90.000BTU trở xuống với thuế suất thuế TTĐB là 10%. Chúng tôi cho rằng việc áp thuế TTĐB trên mặt hàng này không còn phù hợp. Trong bối cảnh kinh tế và xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, hiện nay máy điều hòa nhiệt độ không được coi là “hàng xa xỉ”. Trong môi trường khí hậu khắc nghiệt đông lạnh hè nóng

Trang 3/4

Page 66: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số ý kiến đối với dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

như ở Việt Nam, máy điều hòa nhiệt độ là đồ gia dụng thiết yếu cho người dân, đặc biệt là người dân sống ở khu chung cư (bao gồm khu chung cư cho người có thu nhập thấp) tại các khu đô thị. Việc sử dụng máy điều hòa nhiệt độ cung cấp tiện nghi cho môi trường sinh sống, làm việc và kinh doanh. Điều này dẫn đến cải thiện sức khỏe và tăng năng suất làm việc của người dân. Hơn nữa, việc sử dụng điều hòa nhiệt độ thể hiện sự văn minh, ứng dụng công nghệ phục vụ đời sống, vì vậy cần khuyến khích phát triển. Việc bãi bỏ thuế TTĐB sẽ khuyến khích tiêu dùng, tăng nhu cầu, cải thiện doanh số và lợi nhuận của nhà sản xuất, làm tăng đóng góp của nhà sản xuất cho nguồn thu ngân sách nhà nước qua việc thu thêm thuế TNDN, thuế GTGT và thuế TNCN. Chúng tôi đề nghị loại bỏ ngay mặt hàng điều hòa nhiệt độ ra khỏi đối tượng chịu thuế TTĐB hoặc ít nhất là giảm dần thuế suất thuế TTĐB đối với mặt hàng này trong vài năm và sau đó là đối tượng không chịu thuế TTĐB.

Trang 4/4

Page 67: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số ý kiến đối với Dự thảo Luật Thuế Tiêu thụ Đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TRÌNH BÀY VỀ DỰ THẢO THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ÁP DỤNG LÊN NƯỚC GIẢI KHÁT CÓ GA

Chuẩn bị bởi

AmCham Việt Nam

1. Dự thảo mới của Luật Sửa đổi, Bổ sung một số Điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt dự kiến áp dụng lên “nước ngọt có ga không cồn” [nước giải khát có ga không cồn: “NGKCGKC”]. Dự thảo không áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với “nước ngọt không có ga không cồn”. Nói cách khác, sắc thuế này áp đặt không dựa vào, chẳng hạn như, việc nước giải khát có chứa đường hay không, mà chỉ dựa vào việc nước giải khát có chứa ga (CO2) hay không. Nói khác đi, đây không phải là sắc thuế đánh vào nước giải khát không cồn. Đây là sắc thuế đánh vào nước giải khát không cồn có chứa CO2.

2. Nước giải khát có ga (CO2) [thông] thường được sản xuất bởi các công ty Việt Nam do nước

ngoài sở hữu (chủ yếu các thương hiệu Mỹ). 88% nước giải khát có ga được bán trên thị trường Việt Nam mang thương hiệu Mỹ.

Mặt khác, nước giải khát không có ga (CO2), như trà đóng chai, nước uống thể thao, nước giải khát vị trái cây hầu hết (12%) được sản xuất bởi các công ty Việt Nam trong nước sở hữu.

Nhìn vào thị trường nước giải khát không cồn (có ga và không có ga) bao gồm cả nước giải khát không cồn không có ga (trà, nước uống thể thao, nước giải khát vị trái cây, v.v.). Thị phần nước giải khát có ga chiếm 28%, một tỷ lệ rất nhỏ trong toàn bộ thị trường nước giải khát không cồn.

3. Những người đề xuất sắc thuế này cho rằng CO2 không tốt cho sức khỏe: gây ra bệnh loét

dạ dày, khó tiêu, táo bón, một số bệnh ung thư, v.v. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế của Bộ Y tế và Trường đại học Y tế Công cộng Hà Nội đã tiếp cận hàng trăm nghiên cứu trên toàn thế giới. Các tổ chức này kết luận rằng các nghiên cứu y học hiện tại không phát hiện bất kỳ tác hại nào đối với sức khỏe con người do CO2 gây ra. Trong thực tế, nghiên cứu chỉ ra rằng CO2 mang lại một số lợi ích cho sức khỏe. Chúng tôi rất vui lòng chia sẻ các báo cáo có liên quan cho quý vị nào quan tâm đến nghiên cứu này.

Những người ủng hộ sắc thuế này cho rằng đường gây ra béo phì, bệnh tiểu đường, bệnh tim, và nhiều bệnh nghiêm trọng khác. Nếu như thế, tại sao lại đánh thuế dựa trên yếu tố là nước giải khát có chứa ga, mà không phải là có chứa đường?

4. Những người đề xuất sắc thuế này cho rằng các quốc gia khác đã áp thuế tiêu thụ đặc biệt

tương tự. Chúng tôi đã nghiên cứu luật của từng quốc gia được đề cập bởi những người ủng hộ sắc thuế này. Mặc dù, đúng là một vài quốc gia đã áp thuế lên nước giải khát không cồn - có ga VÀ không có ga, nhưng chúng tôi không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào cho thấy việc áp thuế này lên nước giải khát không cồn chỉ dựa trên sơ sở duy nhất là thức uống này có chứa CO2. Việt Nam là quốc gia duy nhất dựa trên cơ sở này để áp thuế.

5. Liệu việc đánh thuế này sẽ làm cho ngân sách quốc gia tăng lên?

Trang 1/2

Page 68: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số ý kiến đối với Dự thảo Luật Thuế Tiêu thụ Đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Nước giải khát không cồn dễ dàng thay thế cho nhau. Một khảo sát các khách hàng Việt Nam chỉ ra rằng gần 70% khách hàng sẽ chuyển từ nước giải khát có ga sang nước giải khát không có ga nếu thuế suất 10% áp đặt lên nước giải khát có chứa CO2.

Những người đề xuất sắc thuế này đã thừa nhận với truyền thông rằng giá của nước giải khát có ga cao hơn sẽ làm cho nhiều người chuyển từ nước giải khát có ga do nước ngoài sở hữu (bị đánh thuế) sang nước giải khát không có ga do trong nước sở hữu (không bị đánh thuế). Bởi vì sự thay thế này có thể xảy ra (đây là nỗi sợ đúng đắn của nền công nghiệp), ngân sách quốc gia thu được từ thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực. Đây chỉ là một thực tế. Đây là một cách mà nền công nghiệp này được cấu trúc.

6. Thuế này sẽ làm phá vỡ thị trường. Nó sẽ gây tác hại đến cả các công ty do nước ngoài sở hữu sản xuất NGKCGKC và những nhà cung cấp của họ (như những người trồng mía, các công ty đóng gói và các nhà cung cấp khác trong chuỗi cung cấp) cũng như những người bán lẻ đang bán các sản phẩm này. Thuế này sẽ làm tổn thương nền kinh tế Việt Nam.

7. Một công trình nghiên cứu về sự tác động kinh tế do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung

ương thực hiện chỉ ra rằng thuế này sẽ chỉ tạo ra khoảng 8 triệu Đô la Mỹ cho ngân sách, trong khi gây thiệt hại 45 triệu Đô la Mỹ cho nền công nghiệp và 12 triệu Đô la Mỹ thiệt hại kinh tế nói chung.

8. Sắc thuế này không nhất quán với các cam kết WTO của Việt Nam. Chúng tôi trích Báo cáo

của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO ngày 27 tháng 10 năm 2006 mà Việt Nam đã ký khi gia nhập WTO, Việt nam đã bảo đảm rõ ràng với WTO rằng Luật Thuế Tiêu thụ Đặc biệt của Việt Nam “hoàn toàn tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia về thuế tiêu thụ đặc biệt.” Chúng tôi nghi vấn liệu Việt Nam có thể đưa ra tuyên bố như thế này nếu Việt Nam thông qua sắc thuế đánh trên “nước ngọt có ga không cồn” bởi vì sắc thuế này mang tính phân biệt nhằm chống lại các sản phẩm của nước ngoài.

Nhưng WTO đi xa hơn thuế tiêu thụ đặc biệt. WTO đảm bảo sự đối xử công bằng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt Nam nhằm đầu tư và điều hành các công việc kinh doanh tại Việt Nam.

9. Nhằm nhắc lại: Nước giải khát có ga (CO2) [thông] thường được sản xuất bởi các công ty Việt Nam do nước ngoài sở hữu (88%).

Nước giải khát không có ga (CO2) [thông] thường được sản xuất bởi các công ty Việt Nam do trong nước sở hữu (12%).

Đây rõ ràng là một sắc thuế mang tính phân biệt nhằm chống lại các nhà sản xuất nước giải khát có ga không cồn do nước ngoài sở hữu, không nhất quán với các cam kết mà Việt Nam đưa ra vào năm 2006, và sắc thuế này có thể bị phản đối vì rõ ràng quy định này đã phủ nhận nguyên tắc “đối xử quốc gia”.

Trang 2/2

Page 69: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến về việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt tại Việt Nam Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ý KIẾN VỀ VIỆC TĂNG THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT TẠI VIỆT NAM

Chuẩn bị bởi Tiểu Ban Rượu vang và Rượu mạnh

Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam Kính thưa Lãnh đạo Bộ Tài chính (MOF) và Ban Thư ký Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF), cùng đại diện các ban ngành liên quan. Việt Nam là một thị trường quan trọng đối với ngành hàng rượu vang và rượu mạnh Châu Âu và càng trở nên quan trọng hơn khi Việt nam có định hướng tự do hóa thương mại, phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu mới nổi. Việckhởi động đàm phán Hiệp định thương mại tư do EU-Việt Nam (FTA) từ tháng 6 năm 2012 đã là một bằng chứng cho tiềm năng phát triển và tham vọng trở thành một cường quốc kinh tế ở ASEAN. Trong khi ngành hàng lạc quan về những triển vọng thương mại và đầu tư trong tương lai thì chúng tôi tiếp tục phải đối mặt với một số thách thức về thương mại, thuế quan và quy chế làm cản trở sự phát triển và tiềm năng của ngành hàng. Trên thực tế, gần đây, Bộ Tài Chính đã công bố đề xuất tăng đáng kể thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với đồ uống có cồn, chỉ có tác động bất lợi tới sự phát triển ngành hàng kinh doanh hợp pháp, gây tổn hại tới nguồn thu ngân sách xét về dài hạn và tác động tới các hoạt động kinh doanh phi pháp, trốn thuế trên thị trường Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt Bộ Tài chính soạn thảo, Bộ Tài chính dự kiến thay đổi thuế TTĐB, có hiệu lực từ 1 tháng 7 năm 2015:

Mặt hàng Mức thuế hiện hành

Dự kiến mức thuế mới (từ 1/7/2015)

Tỉ lệ thay đổi so với mức hiện tại

Bia 50% 65% + 30%

Rượu < 20% độ cồn 25% 35% + 40%

Rượu > 20% độ cồn 50% 65% + 30%

Quan điểm của ngành công nghiệp rượu về đề xuất thay đổi thuế suất thuế TTĐB Tiểu ban vô cùng quan ngại về sự thay đổi ở mức hai con số đối với thuế suất thuế TTĐB vì những lý do sau: Quyền được tham vấn khi xây dựng dự thảo mức thuế suất thuế TTĐB Tiểu ban lưu tâm tới những thách thức kinh tế mà Việt Nam đang phải đối mặt và những nỗ lực của Bộ Tài chính để tăng nguồn thu cho ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cải cách thuế là một công cụ chính sách quan trọng của chính phủ và càng quan trọng hơn trong bối cảnh bất ổn của nền kinh tế toàn cầu. Nhưng cải cách làm tăng đáng kể mức thuế suất trong một thời gian ngắn và gấp gáp là một cách thức sẽ gây tác động đáng kể tới ngành công nghiệp và người tiêu dùng, làm xói mòn hiệu quả và tính bền vững lâu dài của những thay đổi. Việc tăng thuế suất ở mức hai con số sẽ tác động đáng kể tới chi phí chuỗi cung ứng cho ngành hàng mà những chi phí này sẽ làm tăng giá rượu cho các nhà bán lẻ và người tiêu dùng.

Trang 1/3

Page 70: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến về việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt tại Việt Nam Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Tiểu ban đánh giá cao những nỗ lực của Bộ Tài chính trong việc tham khảo ý kiến các bên liên quan và các bên bị tác động, đặc biệt là ngành hàng, trước khi hoàn tất quy trình xem xét và xây dựng một mức thuế suất thuế TTĐB hợp lý. Ngành hàng mong muốn có cơ hội được tham gia đóng góp ý kiến mang tính xây dựng với Bộ Tài Chính về dự thảo chính sách này để đạt được các giải pháp mang lại lợi ích cân bằng. Tác động tới hoạt động kinh doanh trốn thuế/không nộp thuế và sức khỏe người tiêu dùng Tổ chức thương mại thế giới WHO ước tính 72% rượu tiêu dùng tại Việt Nam là nằm ngoài kiểm soát (Báo Cáo WHO về Tình trạng Đồ uống có cồn, 2011). Cách thức quản lý của Việt Nam thông qua việc đánh thuế cao theo giá trị, thuế TTĐB và hàng loạt các rào cản phi thuế quan khác đối với rượu nhập khẩu (chẳng hạn Nghị định 94 về cơ chế cấp giấy phép kinh doanh rượu) đã thúc đẩy các hoạt động kinh doanh trốn thuế phổ biến dưới hình thức rượu phi thương mại/rượu truyền thống, rượu giả và rượu lậu. Sản xuất rượu bất hợp pháp ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Phần lớn rượu này được sản xuất trong điều kiện không đảm bảo an toàn để lại tồn dư hàm lượng cồn methanol ở mức cao. Ngoài ra, một số nhà sản xuất được cho là đã bổ sung cồn methanol công nghiệp vào các sản phẩm của họ để tăng lợi nhuận. Cồn methanol và ethanol được tìm thấy phổ biến trong đồ uống có cồn, gần giống nhau về tính chất hóa học nhưng khi vào cơ thể chúngđược chuyển hóa rất khác nhau. Một lượng nhỏ 10 ml methanol được chuyển hóa trong cơ thể để tạo ra axit formic có thể tấn công các dây thần kinh thị giác và gây mù.Một lượng 30 ml có thể gây tử vong. Tiến sỹ Nguyễn Kim Sơn, Phó giám đốc Trung tâm Chống Độc, Bệnh Viện Bach Mai, đưa ra báo cáo năm 2012, có 63 người bị ngộ độc rượu trên toàn quốc và 7 người trong số họ đã tử vong. Theo số liệu thông kê của Trung tâm, số người ngộ độc rượu liên quan đến cồn công nghiệp đã gia tăng đáng kể trong năm 2008-2011 so với giai đoạn 2000-2008. Mức tăng 30-40% có hiệu lực ngay từ 1 tháng 7 năm 2015 sẽ chỉ làm tình hình trở nên khó khăn hơn: 1. ‘Chi phí’ kinh doanh và mua bán rượu hợp pháp có đóng thuế đầy đủ sẽ tăng, sẽ chuyển

hướng về số lượng và mức tiêu thụ sang các dạng rượu trốn thuế. 2. Mức thuế suất thuế TTĐB ở mức cao sẽ khuyến khích các hoạt động kê khai thấp hơn giá trị,

đặc biệt là các sản phẩm rượu có giá cao phải chịu mức thuế suất cao sẽ gia tăng, không tính tới độ cồn. Doanh nghiệp gian dối kinh doanh rượu bất hợp pháp có khả năng kê khai hàng hóa thấp hơn giá trị để giảm thiểu các khoản thanh toán thuế tiêu thụ đặc biệt.

3. Người tiêu dùng sẽ “chuyển cấp” từ rượu có giá cao sang rượu có giá thấp hơn và/hoặc các dạng rượu trốn thuế.

4. Nhận thức của công chúng về rượu giả, rượu kinh doanh bất hợp pháp trở nên phổ biến. Mối đe dọa đối với sức khỏe và sự an toàn của người tiêu dùng và ảnh hưởng đến danh tiếng của Việt Nam như một điểm đến du lịch được ưa thích gây ra từ việc khuyến khích kinh doanh trốn thuế có thể là đáng kể.

Tăng thuế TTĐB sẽ tác động tới thị trường rượu quốc tế Tiểu ban đang theo dõi tiến trình đàm phán hiệp định tự do thương mại giữa EU và Việt Nam và mong muốn loại bỏ thuế quan và các rào cản phi thuế quan đối với thương mại, bao gồm cả thuế nhập khẩu đang ở mức cao đối với các loại rượu mạnh và rượu vang nhập khẩu.

Trang 2/3

Page 71: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến về việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt tại Việt Nam Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Việc tăng thuế suất thuế TTĐB sẽ làm xói mòn các lợi ích có được của ngành hàng rượu vang và rượu mạnh quốc tế, đặc biệt là nếu các hiệp định thương mại không có hiệu lực trước ngày 01 tháng 7 năm 2015 và/hoặc khoảng thời gian cam kết cắt giảm thuế đối với rượu nhập khẩu được kéo dài trong vài năm. Điều này sẽ tác động tiêu cực và hạn chế các cơ hội cho các sản phẩm chất lượng quốc tế được đóng thuế đầy đủ được phát triển lành mạnh trên thị trường và hạn chế sự lựa chọn của người tiêu dùng và thúc đẩy kinh doanh tăng trưởng. Như đã trình bày ở trên, sự gia tăng ở thuế suất ở mức hai con số sẽ khuyến khích các hoạt động kinh doanh trốn thuế và làm ảnh hưởng tới nỗ lực tăng nguồn thu ngân sách dài hạn của chính phủ. Nguồn thu ngân sách chính phủ từ thuế Thu ngân sách từ thuế đối với mặt hàng rượu chiếm một phần tương đối nhỏ trong trong tổngthu ngân sách chính phủ. Thực tế, từ năm 2011 đến năm 2013, thu thuế tiêu thụ đặc biệt từ rượu chỉ chiếm 2,1% - 2,5% tổng thu thuế tiêu thụ đặc biệt(Bộ Tài chính). Hơn nữa, việc tăng dần doanh thu thuế rượu từ những doanh nghiệp hoạt động hợp pháp, có đăng ký mặc dù có việc giảm thuế suất có hiệu lực Luật thuế TTĐB lần gần đây trong năm 2010 (thuế TTĐB thay đổi từ 65% đến 45% trong năm 2010). Điều này minh chứng cho sự phát triển tích cực và bền vững của thị trường rượu hợp pháp. Mặc dù Bộ Tài Chính đã xác định được ước tính tăng thu ngân sách từ thuế TTĐB do việc thay đổi thuế suất thuế TTĐB, Tiểu ban cho rằng đây là cú “sốc” khá lớn đối với ngành hàng, tác động tiêu cực tới các doanh nghiệp rượu vang và rượu mạnh quốc tế làm ăn chân chính, rủi ro gia tăng các hoạt động trốn thuế, ảnh hưởng tới mục tiêu tăng ngân sách từ thuế của chính phủ. Về vấn đề này, các thành viên của Tiểu ban đang tiến hành phân tích tác động kinh tế từ dự thảo thuếcùng với việc xem xét các đề xuất thay thế có thể sẽ tạo nguồn thu ngân sách bền vững cho chính phủ và chúng tôi sẵn sàng chia sẻ những thông tin này với Bộ Tài Chính khi hoàn tất. Những đề xuất cụ thể về việc điều chỉnh tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với bia, rượu: • Cần có lộ trình thời gian phù hợp với sự tham gia của Việt nam trong các hiệp định thuơng

mại thế giới và khu vực (FTA/TPP).

• Không thực hiện cùng một thời điểm tăng ngay đến 15% để đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng dần và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh một cách hợp lý, tránh những biến động bất ngờ gây hậu quả đáng tiếc trong hoạt động kinh doanh, sản xuất, cung ứng và những tác động về giá cả đến người bán lẻ và người tiêu dùng.

Trang 3/3

Page 72: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số Kiến nghị đối với dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI DỰ THẢO LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG)

Chuẩn bị bởi Tiểu nhóm Thuế

Nhóm Công tác công nghiệp Ô tô – Xe máy

(1) Thuế Tiêu thụ đặc biệt (“thuế TTĐB”) đối với xe ô tô Quan điểm chung: Cùng với sự gia tăng thu nhập trên đầu người ở Việt Nam, xu thế “Ô-tô hóa” (Motorization) xuất hiện và nhu cầu về ô tô con (dưới 9 chỗ) tăng lên nhanh chóng giống các quốc gia khác như Thailand, Indonesia, vv. Do đó, trong dài hạn, Chính phủ Việt Nam cần đáp ứng nhu cầu cho xe lắp ráp trong nước nhằm tránh thâm hụt ngoại tệ và cán cân thương mại. Việc triển khai cần đi theo 2 bước: Bước 1: Giải quyết vấn đề về khoảng cách giá thành giữa xe lắp ráp trong nước (CKD) và xe nhập khẩu nguyên chiếc (CBU) trong ngành công nghiệp ô tô Việc giải quyết “khoảng cách giá thành” giữa xe CKD và xe CBU sẽ giúp cho ngành công nghiệp ô tô có thể tiếp tục duy trì các cơ sở hạ tầng sản xuất tại Việt Nam, tạo việc làm cho lao động trong nước đồng thời đóng góp thuế cho ngân sách nhà nước. Do đó, kiến nghị Chính phủ xem xét có các biện pháp hỗ trợ và đưa ra các ngoai lệ được pháp luật công nhận theo các hiệp định thương mại quốc tế và song phương khác nhau trong khi dự thảo các biện pháp để giải quyết vấn đề khoảng cách giá thành. Mục đích của kiến nghị này là đem lại sự ổn định trong các chính sách. Những thay đổi liên tục dẫn đến sự bất ổn và ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng. Nếu vấn đề khoảng cách giá thành này không được giải quyết một cách nhanh chóng, một rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra đối với ngành công nghiệp trong nước sau năm 2018 khi AFTA có hiệu lực hoàn toàn. Một vài gợi ý cho các giải pháp này bao gồm việc giảm/trợ cấp thuế nhập khẩu đối với các bộ linh kiện lắp ráp. Bước 2: Phát triển tổng thể ngành công nghiệp ô tô Hiện tại ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam đang được khai thác ở dưới mức tiềm năng của mình. Mặc dù công suất ước tính của ngành khoảng 500,000 đơn vị/năm, ngành công nghiệp hiện tại chỉ sản xuất được khoảng 100,000 đơn vị tương đương 20% công suất thực tế. Các biện pháp như giảm thuế TTĐB có thể giúp tăng sản lượng và tăng trưởng chung của ngành. Quan sát quốc tế cho thấy mức giảm thuế TTĐB trên một sản phẩm sẽ được bù đắp bằng tổng mức thu thuế đem lại bởi mức tăng trưởng tổng thể của ngành. Xin đề xuất giảm số lượng danh mục trong biểu thuế TTĐB cho đơn giản đồng thời giảm mức thuế TTĐB trong tất cả các danh mục như sau: Xe ô tô chở người và xe tải: a) Xe ô tô chở người 10-15 chỗ: Thuế TTĐB giảm còn 25% (mức hiện tại là 30%) b) Xe ô tô chở người 16-23 chỗ: Thuế TTĐB giảm còn 5% (mức hiện tại là 15%) Xe ô tô chở người dưới 7 chỗ (không kể chỗ của lái xe) a) Xe ô tô dung tích dưới 1.000 cm3: Thuế TTĐB giảm còn 30% (mức hiện tại là 45%) b) Xe ô tô dung tích từ 1.000 cm3 - 1.500 cm3: Thuế TTĐB giảm còn 35% (mức hiện tại là 45%) c) Xe ô tô dung tích lớn hơn 1.500 cm3 đến 2.000 cm3: Thuế TTĐB giảm còn 40% (mức hiện tại

là 45%)

Trang 1/3

Page 73: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số Kiến nghị đối với dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 d) Xe ô tô dung tích lớn hơn 2.000 cm3 đến 3.000 cm3: Thuế TTĐB giảm còn 35% (mức hiện tại

là 45%) e) Xe ô tô dung tích lớn hơn 3.000 cm3 đến 4.000 cm3: Giữ nguyên ở mức 60% hiện tại f) Xe ô tô dung tích lớn hơn 4.000 cm3: Xem xét tăng thuế TTĐB lên mức 70% (mức hiện tại

60%) Phân tích chi tiết ảnh hưởng tích cực lên tổng mức thu thuế dựa trên sản lượng tăng dự kiến của ngành công nghiệp ô tô sẽ được cung cấp theo yêu cầu. Khuyến khích phát triển các xe Eco - “CÔNG NGHỆ XANH” thân thiện với môi trường Theo Điều 7 quy định về Thuế suất: Thuế suất của xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng: bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại quy định tại điểm 4a, 4b, 4c và 4d Điều này.

Khuyến khích xe tiết kiệm năng lượng bằng cách giảm 70% thuế tiêu thụ đặt biệt cho loại xe chạy xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học. (việc quy định tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng là không hợp lý vì: 1. Loại xe chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện phổ biến hiện nay là xe hybrid, trong đó “năng lượng phanh xe” được biến đổi thành năng lượng điện tích vào ắc quy để tái sử dụng chạy xe, do vậy chúng rất tiết kiệm xăng, nhưng 100% năng lượng sử dụng vẫn có nguồn gốc từ xăng; 2. Mức tiết kiệm được phụ thuộc vào điều kiện giao thông, phong cách từng người lái; 3. Chính vì vậy, các nước đều hỗ trợ cho tất cả các loại xe hybrid, không căn cứ mức nhiên liệu tiết kiệm được.)

(2) Thuế TTĐB áp dụng cho xe gắn máy trên 125 phân khối Theo dự thảo Luật, mức thuế TTĐB áp dụng cho xe gắn máy trên 125 phân khối là 20%. Đây là một quy định không còn phù hợp với thực tế bởi những lý do sau: - Dòng xe 150 phân khối thực tế là loại phương tiện phù hợp với người châu Á và địa hình

Việt Nam. - Cấu tạo, kiểu dáng của Xe 150 phân khối không khác biệt lớn so với dòng xe tay ga 125 phân

khối ngoại trừ dung tích máy; - Trên thực tế, việc sử dụng dòng xe 150 phân khối là tương tự với dòng xe 125 phân khối và

cũng chỉ là một phương tiện giao thông bình thường; vì vậy không nên coi là hàng hóa xa xỉ. Định nghĩa/phân loại hàng hóa xa xỉ được đưa ra nhiều năm trước đây; tuy nhiên, thị trường hiện tại đã có nh iều biến đổi vì vậy cần xem xét lại việc áp thuế TTĐB cho các hàng hóa này.

- Việc áp thuế TTĐB 20% tạo áp lực đối với các xe được sản xuất trong nước và các nhà sản xuất trong nước. Theo đó sẽ không khuyến khích được các nhà sản xuất Việt Nam phát triển phân khúc sản phẩm áp dụng công nghệ tiên tiến này.

Trang 2/3

Page 74: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số Kiến nghị đối với dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Quy định của Chính phủ về việc cấp giấy phép lái xe cho các loại xe moto 2 bánh dung tích

dưới 175 phân khối là như nhau và không có hạn chế hay phân biệt xe 125 phân khối và xe 150 phân khối.

- Quy định của cơ quan có thẩm quyền về áp dụng thuế suất nhập khẩu cho xe máy các loại xe moto 2 bánh dung tích từ 50 phân khối đến 200 phân khối là như nhau và không có phân biệt xe 125 phân khối và xe 150 phân khối.

Vì vậy xin kiến nghị ban soạn thảo Luật sửa đổi rà soát cơ cấu thuế TTĐB xem xét cấu trúc thuế TTĐB một cách kỹ càng và không áp thuế TTĐB đối với xe máy; hoặc xem xét chỉ áp thuế TTĐB đối với xe máy từ 175 phân khối trở lên. KẾT LUẬN Nhóm Công tác đề xuất có một buổi họp, làm việc với Bộ Tài chính cùng các chuyên gia nước ngoài của nhóm về vấn đề này để thảo luận chi tiết ý kiến của các thành viên trong ngành với Qúy Bộ. Rất mong nhận được hồi âm thuận của Quý bộ để tổ chức buổi họp một cách sớm nhất có thể.

Trang 3/3

Page 75: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Khoáng sản

Page 76: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Nhóm Công tác Khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

XÂY DỰNG NỀN CÔNG NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VỮNG MẠNH, HIỆN ĐẠI – TĂNG ĐẦU TƯ BẰNG CÁCH GIẢM THUẾ TÀI NGUYÊN

Chuẩn bị bởi

Ông Bill Howell Nhóm Công tác Khoáng sản

Xin thay mặt cho Nhóm công tác Khoáng sản và dựa trên những kinh nghiệm của bản thân hoạt động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản ở rất nhiều quốc gia đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam, trong vòng hơn 45 năm qua, tin tốt lành là trữ lượng tài nguyên của Việt Nam được biết đến đang giảm dần; tuy nhiên, những lượng khoán sản được khai thác chỉ là một phần nhỏ trong nguồn tài nguyên của quốc gia. Điều này là do việc khám phá và khai thác tài nguyên khoáng sản từ trước tới nay, trừ một số dự án khai thác than và than-ga, chủ yếu bị giới hạn ở độ sâu 100-200m bằng việc sử dụng nhiều công nghệ và biện pháp đã lỗi thời và gây lãng phí. Dưới độ sâu này còn rất nhiều các nguồn tài nguyên có giá trị mà đang chờ được khám phá. Việc khai thác các tài nguyền còn nằm sâu trong lòng đất này phải cần đến các thiết bị và công nghệ kỹ thuật hiện đại, tiên tiến mà đang chưa có ở Việt Nam. Thật đáng tiếc là những khoản đầu tư lớn và cần thiết để đưa các bí kíp và công nghệ hiện đại này chưa được đưa vào thị trường Việt Nam là bởi nhiều lí do, phần lớn do các khoản thuế và phí khoáng sản cao hơn từ 2-5 lần mức trung bình của thế giới. Thuế suất thuế tài nguyên được tính trên giá trị tổng doanh thu của các khoáng sản được sản xuất, như cách tính ở các quốc gia khác, vì vậy nó sẽ gây ảnh hưởng lớn đến khả năng kinh tế của hoạt động khai thác khoáng sản nếu như thuế suất quá cao, bởi chi phí sản xuất không được tính trong thuế. Ngoài ra, việc các loại thuế và phí chồng chéo đã góp phần đưa Việt Nam đứng vị trí thứ 95 trên tổng số 96 nước/vùng lãnh thổ được khảo sát vòng quanh thế giới bởi Viện Fraser uy tín của Canada. Điều này đã khiến Việt Nam trở thành một trong những quốc gia kém hấp dẫn nhất trên thế giới để đầu tư kinh phí thăm dò và khai thác khoáng sản vốn đầy rủi ro. Không giống như các quốc gia ASEAN khác, ở Việt Nam hiện tại không có các công ty nước ngoài lớn đầu tư trong lĩnh vực khai khoáng và chỉ có một số lượng nhỏ các công ty Việt Nam có thẩm quyền khai thác. Thay vào đó, những gì chúng tôi đang nhìn thấy là hầu hết các hoạt động khai khoáng hiện tại đang bị buộc phải giảm quy mô hoạt động, đóng cửa hoặc phải chấp nhận sử dụng các biện pháp thiếu an toàn và không thân thiện với môi trường để cắt giảm chi phí và thậm chí đang phải báo cáo thấp hơn sản lượng thực tế để có thể duy trì hoạt động. Hơn nữa, thuế cao đánh trên các sản phẩm tài nguyên khuyến khích và làm gia tăng tình trạng khai thác bất hợp pháp và làm thoái hóa nguồn khoáng sản hàm lượng cao hiện có của Việt Nam do hoạt động khai thác chọn lọc tập trung vào các khu vực có hàm lượng cao. Hậu quả sẽ là một tỷ lệ đáng kể nguồn tài nguyên khoáng sản của Việt Nam sẽ không thể được khôi phục do:

Trang 1/2

Page 77: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Nhóm Công tác Khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

a) có thể biến mất do phương pháp khai thác lạc hậu hoặc b) bị bỏ lại trong lòng đất vĩnh viễn bởi việc quay lại chỉ để khai thác lượng khoáng sản hàm

lượng thấp còn lại là không khả thi về mặt kinh tế Việc áp các loại thuế và phí cao lên ngành khai khoáng đang có ảnh hưởng tiêu cực và đi ngược lại kế hoạch của Bộ Tài chính trong việc cố gắng tăng nguồn thu cho ngân sách của Chính phủ. Thay vì tăng nguồn thu ngân sách, các chính sách không thực tế và thiếu tính khả thi về mặt kinh tế này sẽ làm giảm các hoạt động đầu tư hợp pháp vào ngành khai khoáng và vì vậy giảm doanh thu cho Chính phủ và các cộng đồng tại địa phương từ hoạt động khai thác khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam thuộc sở hữu của Việt Nam. Tuy nhiên trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị để tham gia và các Hiệp định thương mại thế hệ mới, chúng tôi xin khẩn thiết đề nghị Chính phủ có các biện pháp để cải thiện niềm tin của nhà đầu tư vào ngành công nghiệp khoáng sản của Việt Nam bằng cách giới thiệu một cơ chế liên quan đến tài chính thân thiện với nhà đầu tư và có tính cạnh tranh so với các nước khác. Điều này sẽ thu hút đầu tư vào các phương pháp thăm dò, khai thác, và chế biến khoáng sản tốt nhất trên thế giới để tối đa hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư, Chính phủ và các cộng đồng có liên quan đồng thời tối đa hóa hiệu quả khai thác trong khi giảm thiểu tối đa các vấn đề liên quan đến sức khỏe, an toàn và tổn hại môi trường mà thực tế đang diễn ra. Điều này sẽ giúp Việt Nam quản lý tốt hơn và xây dựng nguồn dự trữ tài nguyên có giá trị bằng cách thu hút đầu tư vào các phương pháp thăm dò, khai thác, và chế biến khoáng sản tốt nhất trên thế giới nhằm:

a) tối đa hóa hiệu quả khai thác; b) tối đa hóa lợi nhuận cho , Chính phủ, nhà đầu tư và các cộng đồng có liên quan; c) giảm thiểu tối đa các vấn đề liên quan đến sức khỏe, an toàn và tổn hại môi trường mà

thực tế đang diễn ra tại nhiều cơ sở khai thác mỏ công nghệ thấp. Các biện pháp khai thác khoáng sản hiện đại cũng là một trong những nhân tố tiên phong đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng ở các khu vực vùng núi, vùng sâu vùng xa là nơi mà các mỏ khoáng sản được khám phá, thăm dò, đây là một thực tế đã được chứng minh ở các quốc gia khác. Do đó, Việt Nam hiện tại có thể đạt được rất nhiều mục tiêu bằng cách đưa ra các ưu đãi, khuyến khích đầu tư và xin đảm bảo rằng hoạt động khai khoáng tuân theo các tiêu quẩn quốc tế với công nghệ cao sẽ trở thành một bộ phận chủ chốt của nền kinh tế, và đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng của Việt Nam.

Trang 2/2

Page 78: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề thuế trong lĩnh vực khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TÓM TẮT BÀN TRÒN THẢO LUẬN CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI VẤN ĐỀ VỀ THUẾ, PHÍ VÀ LỆ PHÍ TRONG LĨNH VỰC KHOÁNG SẢN

- Thời gian: 14:00, Thứ Hai, 30/12/2013 - Địa điểm: Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Số 6B Hoàng Diệu, Hà Nội - Danh sách tham dự: Phụ lục 1

I. Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC VẤN ĐỀ VỀ THUẾ, PHÍ VÀ LỆ PHÍ

TRONG LĨNH VỰC KHOÁNG SẢN

Bà Trần Ngọc Ánh – Phó Tổng Giám đốc, Công ty Nickel Bản Phúc - Tác động của tiền cấp quyền khai thác mỏ đối với hoạt động của dự án mỏ Nickel Bản Phúc:

Công ty Nickel Bản Phúc đã đầu tư khoảng 136 triệu USD, tuyển dụng số lao động là 400 người Việt Nam và dây truyền được nhập khẩu của Úc và sản xuất theo công nghệ của Úc, tức là sau khi được khai thác ra, với công suất 360 ngàn tấn/năm thì toàn bộ quặng này được đưa vào nhà máy chế biến được xây dựng ngay bên cạnh mỏ có thời hạn là sáu năm và đây là ngành công nghiệp rất mới, chế biến Nickel. Hiện tại ở Việt Nam thì mới có mỏ Nickel này là duy nhất. Và trong giai đoạn hiện nay cộng với tình hình kinh tế, giá cả kim loại trên thế giới đang giảm mạnh vì thế công ty cũng đang ở trong giai đoạn khó khăn. Trong hai năm gần đây, giá Nickel đã giảm rất lớn; ví dụ so sánh trong năm năm gần đây, năm 2007 – 2008, giá Nickel đã giảm 300%, và nếu so với tháng 1 năm 2012, giá Nickel khoảng 23.000 USD/tấn thì thời điểm này vào tháng 12 năm 2013, giá Nickel chỉ đạt có 13.000 USD/tấn. Trong bối cảnh giá giảm như vậy, công ty thống kê được 12 loại thuế, phí cơ bản mà bất kỳ công ty khai thác khoáng sản nào cũng phải nộp bao gồm phí sử dụng thông tin địa chất, hoàn trả phí điều tra thăm dò khoáng sản, phí thẩm định trữ lượng, lệ phí cấp phép, phí thẩm định đánh giá tác động môi trường, phí bảo vệ môi trường, thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT, thuế môi trường, phải thực hiện ký quỹ phục hồi môi trường và gần đây nhất là Nghị định 203 về quy định chi tiết về thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Riêng thống kê về các loại thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu thì trong vòng năm 2008 trở lại đây, hai loại thuế này đã tăng rất đáng kể, gấp 4 đến 5 lần. Chẳng hạn như chính sách về thuế tài nguyên, năm 2007 – 2008, thuế tài nguyên đối với Nickel chỉ có 3%, nhưng thời điểm này thì đã được tăng lên mức 10%, đồng thời căn cứ tính thuế cũng thay đổi, trước đây được tính theo giá quặng tại bãi vì thực chất bản chất của thuế tài nguyên là đánh vào quặng nguyên khai, thế nhưng bây giờ đã thay đổi, đánh vào giá FOB, giá FOB thực chất là giá phải trải qua công tác chế biến, vận chuyển, gồm nhiều chi phí sản xuất và đầu tư. Chính vì thế vừa tăng thuế suất vừa thay đổi căn cứ tính thuế đã làm cho tổng thuế phải nộp tăng lên rất nhiều. Về chính sách thuế xuất khẩu, thì trước đây năm 2007 cũng chỉ ở mức 0%, và thời điểm này đã tăng qua rất nhiều mức 5%, 7%, 10% và tăng lên mức 20% như thời điểm hiện nay, và thuế xuất khẩu đánh thẳng trên doanh thu. Thống kê riêng, bốn loại thuế ví dụ là thuế xuất khẩu 20% trên doanh thu, thuế tài nguyên 10% trên doanh thu, phí tiền cấp quyền khai thác là 2% trên doanh thu, và phí bảo vệ môi trường là 50,000 đồng/tấn, bốn loại này thì công ty đã phải nộp 36% doanh thu, tức là trước khi trừ đi chi phí sản xuất hay bất kỳ một chi phí thu hồi vốn đầu tư nào thì công ty đã phải nộp 36% trên doanh thu cho nhà nước, và sau đó trong quá trình sản xuất, kinh doanh,doanh nghiệp còn phải trừ chi phí sản xuất, nộp tiền thuê đất, phải nộp thuế nhà thầu, thuế thu nhập cá nhân rồi thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản ký quỹ phục hồi môi trường, phí sử dụng nước mặt, phí xả thải, v.v. Trong điều kiện khai thác rất khó khăn, khai thác hầm lò và tỉnh Sơn La thuộc địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Giá bán tinh quặng trên thế giới hiện nay chia ra là 1256 USD/tấn, đây là giá giao dịch trên thị trường kim

Trang 1/7

Page 79: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề thuế trong lĩnh vực khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

loại London. Với chi phí sản xuất đang là 929 USD/tấn, cộng với thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu tương đương vào khoản 380 USD/tấn thì giá thành là 1309 USD/tấn. So sánh giá thành 1309 USD và 1256 USD, tức là công ty hiện tại đang phát sinh lỗ 53USD/một tấn. Đặc biệt dự án này có đóng góp rất tốt với sự phát triển kinh tế địa phương, đối với tỉnh Sơn La thì đây là dự án lớn nhất đầu tư hơn 3000 tỷ, riêng trong 6 tháng năm 2013 thì dự án đã nộp đến 84 tỷ tiền thuế. Và dự kiến trong năm 2014 sẽ nộp khoảng 270 tỷ đồng tiền thuế và tạo ra công ăn việc làm cho 400 người lao động Việt Nam, tổ chức đào tạo các kỹ năng mới, như là tổ chức đi Úc để học hỏi các kỹ năng về khai thác hầm lò, và tổ chức mua sắm, ưu tiên các nhà thầu địa phương đạt 150 tỷ trong năm 2013 và dự kiến trong năm 2014 đạt hơn 200 tỷ. Công ty cũng có kế hoạch xây dựng chế biến sâu, tức là tiếp tục xây dựng thêm một nhà máy luyện kim Nickel đặt ngay tại mỏ để thực hiện chủ trương chế biến sâu theo quy hoạch của Bộ Công thương. Để xây dựng nhà máy này thì trước tiên phải hoạt động ổn thì mới có đầu tư để tiếp tục chế biến sâu hơn.

- Dựa trên những khó khăn thực tế trên đây, công ty có một số kiến nghị: Thứ nhất, tạm hoãn tiền cấp quyền khai thác mỏ cho đến hết tháng 12 năm 2014, vì thực chất không phải công ty không muốn nộp mà trong 2014 với tình hình hiện nay thì không có tiền để nộp. Thứ hai, căn cứ tính tiền cấp quyền của quặng Nickel được đặt ở mức 1,4 triệu đồng/tấn quặng. Bởi nếu quy định giá cấp quyền giống giá tính thuế tài nguyên là không phù hợp, vì khi tính trữ lượng bên trong mỏ, giá tính tiền cấp quyền phải là giá của quặng trong lò (không bao gồm chi phí khai thác), không phải là giá của tinh quặng hay sản phẩm khác. Bên cạnh đó, căn cứ tính thuế FOB đã được sử dụng để tính thuế xuất khẩu. Trữ lượng tính thuế phải là trữ lượng có thể khai thác được. Bởi trữ lượng địa chất thực chất là trữ lượng suy diễn. Khi tiến hành khai thác, có những mạch quặng quá hẹp không thể lấy được quặng ra. Việc đánh thuế những khoảng quặng không thể lấy ra được là không hợp lý. Trong giấy phép đã ghi rõ trữ lượng địa chất, và trữ lượng khai thác là riêng biệt. Vậy nên đánh thuế vào những khoảng có thể thu hồi được, tức là trữ lượng khai thác thì sẽ logic và hợp với thực tế khai thác của các mỏ. Ngoài ra, đề nghị đối với những công ty có đầu tư chế biến sâu, cần quy định một tỷ lệ, chỉ số nhất định để cho phép trừ đi hoặc thu hồi một phần chi phí đầu tư vào nhà máy.

- Quy định về hàm lượng biên: là một chỉ số kinh tế đối với ngành khai thác mỏ. Hàm lượng biên phụ thuộc vào giá kim loại, từ đó để quy đổi giữa trữ lượng địa chất sang trữ lượng khai thác. Tức là trữ lượng địa chất dưới lòng đất có thể là 3 triệu tấn, nhưng với hàm lượng biên là 0,2 thì trữ lượng đấy sẽ tăng lên thành 3,2 triệu tấn. Nhưng trong điều kiện giá giảm, thuế phí tăng thì hàm lượng biên tăng lên tương ứng thành 0,4. Khi tăng lên 0,4 có nghĩa là 3 triệu tấn trữ lượng địa chất giảm xuống còn 2 triệu tấn. Vì khi khai thác, công ty phải căn cứ vào hàm lượng biên. Nếu hàm lượng biên là 0,4 thì công ty chỉ khai thác khu vực bên trong. Còn khu vực ngoài càng khai thác càng lỗ. Vì vậy, trữ lượng khai thác thực chất sẽ giảm dần xuống khi tăng các loại thuế, phí. Thuế, phí tăng lên tương ứng hàm lượng biên tăng lên, tương ứng trữ lượng khai thác giảm xuống. Một khi đã khai thác xong và lấp lại mỏ hoàn trả môi trường thì thực chất sẽ không có doanh nghiệp khác vào khai thác nữa. Về thuế và phí: khi tăng thuế và phí cần nhìn vào bối cảnh chung (đã thu bao nhiêu, còn phải thu bao nhiêu, nếu tiếp tục thu thì doanh nghiệp có thể tồn tại được không).

Trang 2/7

Page 80: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề thuế trong lĩnh vực khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ông Dominic Heaton - Giám đốc, Masan Resources - Liên quan đến nguyên tắc về cách tính toán thuế và phí, chúng tôi hiểu được yêu cầu hài

hòa hóa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng: Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam chịu 13 loại thuế, phí và lệ phí tại thời điểm này và lệ phí quyền khai thác sẽ là khoản thứ 14 được áp dụng. Về bối cảnh, dự án Núi Pháo được bắt đầu từ năm 2010,sau 10 năm kể từ những phát hiện đầu tiên. Kể từ đó, dự án đã trải qua nghiên cứu khả thi, nhưng chi phí vốn đã tăng lên rất đáng kể. Trong thời gian này, các loại thuế, lệ phí, thuế tài nguyên cũng tăng lên đáng kể, ví dụ như mức thuế xuất khẩu liên quan đến các sản phẩm khoáng sản. Các loại phí và lệ phí này là rất đáng kểđối với bất kỳ doanh nghiệp nào trên cơ sởtính toán hàng năm. Các phí và lệ phí này cũng được áp dụng cho các dự án khác, và việc áp dụng này có tác động đối với toàn ngành công nghiệp.

- Điều 6 về xác định trữ lượng để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản: việc gắn hệ số "g"

với giá bán của sản phẩm cuối cùng không thể hiện sự công nhận hiệu quả của quá trình khai thác mà chỉ tập trung vào tỷ lệ thu hồi từ quá trình khai thác. Chúng tôi xin đề nghị Bộ làm việc với Nhóm công tác khai thác khoáng sản VBF để cùng thảo luận lại các hệ số trong Điều 6 cho phép mức độ chế biến khoáng sản cũng như hệ số thu hồi khai thác khoáng sản đều được xem xét.

- Điều 13 Nghị định 203 được xây dựng để bao gồm khoản hoàntrả cho công tác điều tra cơ

bảnđịa chất, lệ phí thăm dò mà các doanh nghiệp thực ra đã đầu tư. Vì vậy, chúng tôi đề nghị Bộ cùng làm việc với Nhóm công tác khai thác khoáng sản VBF để tính toán phù hợp nhằm đảm bảo không có sự tăng gấp đôi các loại phí và lệ phí của Chính phủ. Đầu tư thăm dò và khai thác khoáng sản là một quy trình lâu dài với vốn đầu tư lớn và nhiều rủi ro và thời gian hoàn vốn lâu. Vì vậy, các nhà đầu tư đang tìm kiếm một triển vọng đầu tư ổn địnhđể họ có thể đầu tư và đảm bảo nguyên tắc công bằng giữa các doanh nghiệp nhà nước và cộng đồng.

Bà Đỗ Thị Hồng – Chủ tịch Hội Đá hoa trắng huyện Lục Yên, Yên Bái - Chỉ thị 02 ngày 9/1/2012 cấm toàn bộ hoạt động xuất khẩu đá khối. Hầu hết các mỏ ở Việt

Nam chỉ đầu tư khai thác, rất ít công ty đầu tư nhà máy chế biến. Nhưng do nhu cầu thị trường và đặc điểm sản phẩm này hầu hết được tiêu thụ dưới dạng đá khổi, nên Chỉ thị ra đời là một khó khăn cho doanh nghiệp.

- Thuế, phí: doanh nghiệp đá trắng cũng phải chịu các loại thuế, phí tương tự như các công ty hoạt động khoáng sản khác (thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp,... và phí bảo vệ môi trường). Riêng thuế xuất khẩu tăng từ 17% năm 2012 đến 25% từ 1/1/2013, và đến 30% từ 9/6/2013. Thuế tài nguyên đang ở mức 6%, đến tháng 2 tới, mức thuế mới là 9%. Tuy nhiên, nền kinh tế chung của thế giới hiện nay đang suy thoái và việc tiêu thụ sản phẩm rất khó khăn. Đồng thời, doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh của sản phẩm thay thế. Nếu ngành này được chú trọng và đầu tư đúng hướng thì mỗi một địa phương chỉ cần 10 - 20 doanh nghiệp hoạt động đúng cách thì con số đóng góp cho nhà nước rất lớn.

- Nghị định 203: công thức tính tiền cấp quyền, hệ số q có độ sai số rất lớn. Với q có sai số lớn như vậy, liệu việc tính tiền cấp quyền cho doanh nghiệp có đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp và tiền thu cho nhà nước có đủ và đúng.

Trang 3/7

Page 81: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề thuế trong lĩnh vực khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Hệ số g - giá tính tiền cấp quyền: g là tính bình quân. Tuy nhiên, theo quy định của Ủy ban Nhân dân tỉnh Yên Bái, giá tính thuế tài nguyên có phân định theo giá riêng của sản phẩm đá trắng, phân giá trị của sản phẩm theo kích thước. Trong khi đó, trên giấy phép không phân theo tỉ lệ kích thước là bao nhiêu % cho mỗi loại sản phẩm và trong Nghị định quy định là lấy giá trị trung bình, tức là doanh nghiệp phải có một tỉ lệ % nhất định của từng loại sản phẩm thì mới tính được giá trị trung bình. Tổng Cục Địa chất phản hồi là lấy 03 năm đầu tiên của tỉ lệ sản phẩm trên bản kê khai thuế, sau đó quy ra tỉ lệ % của mỗi sản phẩm trung bình là bao nhiêu và quy ra tiền giá tính thuế trung bình. Nhưng thực tế có rất nhiều doanh nghiệp đến giờ này vẫn chưa có sản phẩm thì không thể có căn cứ để tính được giá bình quân trong 03 năm.

- Thời gian quy định theo công thức tính là thàng năm = 4

tx −

, tức là với giấy phép được cấp, ví

dụ về lĩnh vực đá trắng hầu hết là 30% thì thời gian tính tiền cấp quyền trung bình là 26 năm. Với hoạt động khai thác mỏ, trong những năm đầu sẽ đầu tư rất lớn và hầu như không có sản phẩm, có những doanh nghiệp phải 3 – 5 năm sau mới có sản phẩm. Nhưng theo Nghị định này, tiền cấp quyền được chia đều cho các năm. Đây là vấn đề bất cập cho các doanh nghiệp về nguồn tài chính, chưa có nguồn thu thì chưa thể có tiền để nộp. Nghị định chưa quy định vấn đề dãn nộp được xử lí như thế nào.

- Thời điểm tính tiền cấp quyền cho trữ lượng là tính từ 1/7/2011, và đến nay 2013 đã là hai năm rưỡi. Đối với những công ty đã hoạt động khai thác từ thời điểm đó đến nay, tức là đã đưa vào doanh thu, đã tính chi phí, tính lãi/lỗ,... với doanh nghiệp nước ngoài đã chuyển lợi nhuận, với doanh nghiệp trong nước cổ phần đã chia lợi nhuận mà bây giờ phải truy thu lại tiền cấp quyền từ năm 2011 đến giờ thì rất khó về hạch toán kế toán cho đến nguồn tiền. Đề nghị không truy thu tiền cấp quyền từ 1/7/2011 đến khi Nghị định này bắt đầu có hiệu lực.

- Vì vậy, đề nghị đầu tiên là cần xem xét lại hệ số q. Riêng với đá trắng, hệ số q là quá lớn. Đề

nghị có một phương án tính q hợp lý, một là xem xét lại hồ sơ thăm dò, hai là họp hội đồng trữ lượng để ra việc tính lại cấp trữ lượng như thế nào để q giảm xuống so với công suất thực tế. Thứ hai là giá tính g đang không có cơ sở để áp dụng. Đề nghị Bộ Tài chính cung cấp phương án tính g.

- Một số thay đổi về chính sách: Về chính sách thuế tài nguyên, Thông tư 42 năm 2007 quy định mức thu thuế tài nguyên là 5%, Thông tư 124 năm 2009 quy định là 7%, Thông tư 105 năm 2010 quy định là 6% và Nghị quyết 712 áp dụng từ ngày 1/2/2014 là 9%. Đặc biệt là thuế tài nguyên trước Thông tư 42 năm 2007 rất hợp lí vì quy định giá tính tại bãi. Tuy nhiên hiện tại, Thông tư 105 quy định thuế tài nguyên đối với mặt hàng khoáng sản xuất khẩu là giá FOB. Điểm không hợp lí ở đây là thu thuế trên rất nhiều các loại chi phí tính từ khâu tại bãi cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm, mà doanh nghiệp phải trả bao gồm tiền vận chuyển nội địa, phí cầu cảng. Nếu tính trên giá FOB sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp không tích cực trong xuất khẩu trực tiếp và sẽ tính đến việc xuất khẩu qua các trung gian thương mại. Điều này sẽ tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến trốn thuế. Quy định giá tính thuế tài nguyên tại bãi là công bằng nhất.

- Chính sách thuế xuất khẩu: trước 2008 là 0%, từ 1/1/2008 là 7%, từ 1/1/2010 là 17%, từ 1/1/2013 là 25% và từ 9/6/2013 là 30%. Bây giờ 1m3 đá xuất khẩu phải chịu 9% thuế tài

Trang 4/7

Page 82: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề thuế trong lĩnh vực khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

nguyên từ 1/1/2014 cộng với 30% thuế xuất khẩu và phí tài nguyên, tiền cấp quyền,...tức là phải chịu trên doanh thu xuất khẩu khoảng 40% cho một khối đá. Đề nghị các bộ ngành xem xét các khoản thu, trong đó cụ thể là tiền cấp quyền trên phương diện tổng thể các loại phí, thuế khác mà doanh nghiệp đang phải nộp.

II. PHẢN HỒI CỦA ĐẠI DIỆN CÁC BỘ, NGÀNH LIÊN QUAN

Ông Ngô Văn Minh – Cục Trưởng Cục Kinh tế Địa chất và Khoáng sản, Tổng Cục Địa chất, khoáng sản - Luật Khoáng sản 2010 có hiệu lực từ ngày 1/7/2011 quy định việc tính tiền cấp quyền khai

thác khoáng sản có hiệu lực từ thời điểm đó. Tất cả các thông tin về quá trình soạn thảo Nghị địnhđã được đăng lên trang web, được gửi tới tất cả các đơn vị liên quan.

- Luật Khoáng sản 2010 quy định cấp quyền khai thác khoáng sản thông qua hình thức đấu giá, không đấu giá chỉ áp dụng cho những khu vực, loại khoáng sản đặc biệt. Các giấy phép khoáng sản đã được cấp trước ngày Luật Khoáng sản có hiệu lực thì mới được tính tiền cấp quyền khai thác và tiền cấp quyền khai thác là mức thấp nhất trong các hoạt động đấu giá.

- Trong quá trình cấp phép khai thác hoạt động khoáng sản trải qua nhiều năm và nhiều hình thức cấp khác nhau từ trữ lượng địa chất, trữ lượng khai thác, trữ lượng công nghiệp,... nên trong quá trình xây dựng Nghị định 203, quan điểm phát triển là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Bởi vậy mới quy định chỉ thu trước 05 năm đối với dự án đã cấp hoặc là nửa kì đầu dự án.

- Công thức tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản: Luật Khoáng sản quy định công thức tính theo các yếu tố: trữ lượng, giá tính thuế tài nguyên, các hệ số liên quan đến phương pháp khai thác mỏ, các hệ số liên quan đến điều kiện kinh tế khó khăn của xã hội, mức thu tiền cấp quyền khai thác. Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thể hiện quyền tài sản của nhà nước đối với trữ lượng khoáng sản trong lòng đất. Trữ lượng nhà nước quản lý là thông qua địa chất, trữ lượng chưa khai thác. Ý kiến của công ty Bản Phúc Nickel về vấn đề tính theo trữ lượng khai thác, ở đây công thức tính tuy là trữ lượng địa chất nhưng đã được nhân với k1, hệ số thu hồi (0,6 hay 0,9) đã ra trữ lượng khai thác.Do đó, bản chất là chỉ thu phần doanh nghiệp khai thác chứ không phải phần để lại trong lòng đất.

- Ý kiến của Hiệp hội Đá hoa trắng:mức độ tin cậy đối với cấp trữ lượng cấp 121, 122, nghĩa là mức độ tin cậy là 80% hay 50% và có thể dương hoặc âm, không phải sai số. Để xác định trữ lượng các cấp thì ngoài công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hội đồng xét duyệt trữ lượng khoáng sản quốc gia, cho đến nay hầu hết trữ lượng khoáng sản đều do doanh nghiệp đã đầu tư để xác định. Trước đây do không phải tính tiền cấp quyền khai thác, sự quan tâm của doanh nghiệp về độ chính xác của trữ lượng không nhiều như bây giờ.

Liên quan đến đá ốp lát, đá hoa trắng thì vấn đề là chỉ tiêu tính trữ lượng. Nghị định 203 quy định nếu vấn đề liên quan đến xác định trữ lượng thì doanh nghiệp có thể đề xuất. Thông số thứ hai của công là g (giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản): Nhà nước thể hiện quyền tài sản của mình thông qua việc tính tiền cấp quyền, bởi vậy nhà nước quy định

Trang 5/7

Page 83: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề thuế trong lĩnh vực khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

giá tính tiền cấp quyền khai thác này thông qua tiền tính thuế tài nguyên khoáng sản. Nghị định 203 quy định đơn vị tính của giá tính thuế tài nguyên là đồng/đơn vị trữ lượng. Đối với mỗi một loại khoáng sản khác nhau như Đá hoa trắng, Nickel hay Vonfam, có những cách tính khác nhau nhưng có đủ cơ sở khoa học để xác định giá cho một đơn vị trữ lượng, quy đổi từ sản phẩm đã khai thác. Tuy nhiên, hệ số g theo Nghị định 203 được giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh xác định theo nguyên tắc quy định. Xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội, giao thông vận tải, hệ số g do Ủy ban nhân dân các tỉnh quy định, sau đó giao cho Sở tài nguyên & môi trường và Sở tài chính của các tỉnh sẽ xác định g cho từng loại khoáng sản trong từng vùng khai thác.

- Mức thu R: quy định từ 1% - 5%. Các mức thu này chủ yếu dựa trên loại hình khoáng sản, mức độ đầu tư cho công tác thăm dò, vốn đầu tư, lợi nhuận thu lại nhanh hay chậm. Đề nghị của Masan về mức thu với vonfram:quy định rõ đối với các loại khoáng sản kim loại thì mức thu 2% là mức phổ biến nhất, đã được nghiên cứu chi tiết.

Ông Phạm Ngọc Thạch – Vụ Chính sách Thuế, Bộ Tài chính - Nghị định 203 quy định phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản,

không phải là thuế và cũng không phải là phí.

- Hai nội dung trong công thức tính tiền cấp quyền là q và g:Điều 7 Nghị định 203 quy định giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo giá tính thuế tài nguyên, do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng, công bố. Điều 7 có ba khoản, xử lý cho ba trường hợp. Khoản 1: mỗi khoáng sản trong khu vực khai thác khoáng sản chỉ áp dụng một mức giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Khoản 2 quy định rõ: áp dụng giá trị trung bình của các mức giá. Khoản 3: đối với loại khoáng sản chưa có giá tính thuế tài nguyên hoặc phải điều chỉnh giá tính thuế tài nguyên do không còn phù hợp với quy định thì Sở Tài nguyên & Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan xây dựng giá, Sở Tài chính thẩm định và trình lên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt. Trong trường hợp công ty thấy giá tính tiền tài nguyên hiện nay là cao, thấp hay không phù hợp do đặc điểm khai thác hay đặc điểm mặt hàng, nhóm sản phẩm đang khai thác tại thời điểm đó, địa phương đó thì hoàn toàn có thể đề xuất với Sở Tài nguyên & Môi trường.

Ông Ngô Văn Minh – Cục Trưởng Cục Kinh tế Địa chất và Khoáng sản, Tổng Cục Địa chất, khoáng sản - Theo Hiến pháp, tài nguyên, khoáng sản nằm trong lòng đất thuộc sở hữu toàn dân, mà nhà

nước là đại diện quyền sở hữu. Nếu doanh nghiệp khai thác tiếp tục khai thác, mà nhà nước không thu hồi khoản nào thì quyền sở hữu, quyền tài sản của nhà nước đối với tài sản tài nguyên, khoáng sản sẽ không còn. Bản chất của việc tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là tính quyền tài sản của nhà nước. Chính vì vậy, quy trình này được thực hiện qua công tác đấu giá, và mức thấp nhất của đấu giá là tiền cấp quyền khai thác.

Trang 6/7

Page 84: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề thuế trong lĩnh vực khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Phụ lục 1 – Danh sách tham dự

TT Họ và tên Chức vụ Đơn vị Đại diện các Bộ, ngành

1 Ông Nguyễn Nội Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

2 Ông Quách Ngọc Tuấn Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế – Bộ Kế hoạch và Đầu tư

3 Ông Ngô Văn Minh Cục trưởng Cục Kinh tế địa chất & Khoáng sản

Tổng cục Địa chất và Khoáng sản

4 Ông Phạm Ngọc Thạch Vụ Chính sách Thuế Bộ Tài chính

5 Bà Phạm Thúy Hạnh Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Chính phủ

6 Bà Lê Thị Nguyệt Ánh Phó Trưởng phòng Chính sách Cục Đầu tư nước ngoài

Thành viên Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

1 Bà Trần Ngọc Ánh Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Mỏ Nikel Bản Phúc

2 Bà Vũ Hồng Cầm Văn Chuyên viên Công ty TNHH Mỏ Nikel Bản Phúc

3 Bà Dương Thu Minh Chuyên viên PricewaterhouseCoopers 4 Ông Đặng Chí Liêu Luật sư Baker&McKenzie 5 Ông Nguyễn Văn Sưa Phó chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam 6 Ông Dominic Heaton Giám đốc Masan Resources 7 Ông Lê Thanh Tùng Chuyên viên Công ty TNHH Núi Pháo 8 Bà Nguyễn Hồng Phương Chuyên viên Công ty TNHH Núi Pháo

9 Bà Đỗ Thị Hồng Chủ tịch Hội đá hoa trắng huyện Lục Yên, Yên Bái

10 Ông Harish Japaria Đại diện Vietnam Alliance Minerals

11 Bà Tạ Dịu Thương Đại diện Công ty vàng Phước Sơn/Besra

Trang 7/7

Page 85: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Lao động

Page 86: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO CỦA TIỂU NHÓM NHÂN SỰ

Trình bày Ông Colin Blackwell Tiểu nhóm Nhân Sự

Trước tiên Tiểu nhóm Nhân sự xin chân thành cảm ơn Bộ Lao động và Thương Binh Xã Hội vì những sự hợp tác quý báu mà Quý Bộ đã dành cho Tiểu nhóm và cộng đồng doanh nghiệp nói chung. Chúng tôi cũng xin phép đưa ra và đi sâu vào một số vấn đề mà đang nhận được sự quan tâm và xem xét hỗ trợ giải quyết của Qúy Bộ. 1. Vấn đề Giấy phép lao động Về việc thực hiện Thông tư số 03/2013/TT-BLĐTBXH, chúng tôi xin được đưa ra một số thông tin phản hồi cũng như nhấn mạnh các vấn đề thường xuyên diễn ra khác mà các thành viên của Nhóm đã gặp phải: Nhóm xin kiến nghị yêu cầu về trình độ chuyên môn đối với chuyên gia là bằng đại học (hoặc cao hơn), hoặc chứng chỉ nghề chứng nhận chuyên gia, hoặc có 5 năm kinh nghiệm làm việc. Ví dụ, một kỹ sư Hàn Quốc có thể là một chuyên gia quan trọng trong quá trình sản xuất thiết bị, nhưng có dưới 5 năm kinh nghiệm. Định nghĩa hiện nay không thực sự rõ ràng và dẫn đến nhiều hồ sơ của các chuyên gia có trình độ và kỹ năng mà hiện chưa có tại Việt Nam đã bị từ chối. Một mối quan tâm khác liên quan đến trường hợp đặc biệt của các giáo viên giảng dậy tiếng Anh. Đối với ngành mang tính đặc thù này, chứng chỉ được quốc tế công nhận cần được chấp nhận thay cho bằng cấp hoặc 5 năm kinh nghiệm làm việc. Cần phải chú ý rằng việc các giáo viên giảng dậy Tiếng Anh gia nhập thị trường lao động tại Việt Nam là do nhu cầu của thị trường đối với sự thành thạo và trình độ ngôn ngữ tương đương/hoặc bản xứ của họ mà không một giáo viên trong nước nào có thể làm được. Việc có một đội ngũ giáo viên ngoại ngữ lớn tại Việt Nam sẽ đem lại lợi ích tích cực cho nền kinh tế, và khuyến khích đầu tư nước ngoài. Vì vậy, kính mong Quý Bộ xem xét đến thực tế này và đưa ra quy định phù hợp. Từ khi thông tư mới có hiệu lực, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tại Hà Nội và Bắc Ninh yêu cầu các cá nhân đăng ký giấy phép lao động, mà có mặt tại Việt Nam chỉ một vài ngày trước khi nộp hồ sơ xin cấp giấy phép lao động, phải có Phiếu lý lịch tư pháp tại địa phương ngoài Phiếu lý lịch tư pháp tại nước ngoài. Quy định này không áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành khác. Việc yêu cầu phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài mới đến Việt Nam chỉ trong vòng một vài ngày dường như không hợp lý và nguyên nhân có thể do một vài Sở Lao động diễn giải không chính xác về Thông tư 03. Hơn nữa, chúng tôi muốn nhấn mạnh vấn đề không phù hợp mà các công ty đa quốc gia phải đối mặt khi gửi nhân viên nước ngoài đến Việt Nam trong một thời gian ngắn để thực hiện các công việc như cung cấp đào tạo cho các pháp nhân trong nước hoặc nhà thầu, thực hiện kiểm toán nội bộ tại công ty hoặc tại trụ sở của nhà thầu, lắp đặt thiết bị cụ thể, v..v.. Rất không thực tế khi yêu cầu người nước ngoài phải nộp hồ sơ xin giấy phép lao động trong khi thủ tục hành chính rườm rà, thời hạn xử lý hồ sơ lâu trong khi thời gian công tác tại Việt Nam của họ ngắn, thậm chí chỉ một vài ngày. Vì vậy, chúng tôi kính đề nghị bổ sung lao động nước ngoài thực hiện “công việc diễn ra trong thời gian ngắn” như trên vào danh mục người nước ngoài không thuộc diện cấp phép lao động và không phải báo cáo với Sở Lao động địa phương.

Trang 1/3

Page 87: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

2. Làm thêm giờ Việt Nam cần phải đảm báo tính cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế đối với các hoạt động kinh doanh và sản xuất mới. Tuy nhiên, giới hạn làm thêm giờ hiện nay tại Việt Nam là dưới mức trung bình của thế giới và điều này góp phần làm giảm bớt tính cạnh tranh của Việt Nam. Dưới đây là bảng tóm tắt giờ làm thêm tối đa được pháp luật cho phép tại các quốc gia:

Quốc gia Giờ làm thêm theo năm Trung Quốc 1872 Thái Lan 1872 Malaysia 1248 Singapore 864 Đức 624 Pháp 468 Việt Nam 300

Trong thực tế, hầu hết các công ty đang cần thêm giờ làm để thích ứng linh hoạt với những kế hoạch kinh doanh và khối lượng công việc trong những hoàn cảnh cụ thể. Quy định này mặt khác cũng gây bất lợi cho những nhân viên tự nguyện làm thêm giờ để có thêm thu nhập. Vì vậy, chúng tôi xin đề nghị giới hạn giờ làm thêm ở mức 800 giờ cho tất cả các ngành công nghiệp và có thể lên đến 1200 giờ đối với một số ngành cụ thể. Một giải pháp, phương án thay thế cho quy định này được đề xuất bởi Phòng Thương mại Nhật Bản và được chứng minh rất thành công tại Nhật Bản là "Thỏa thuận Điều số 36” (Article 36 Agreement). Theo đó, các công ty, nhân viên và công đoàn thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện về một cơ chế làm thêm giờ khi cần thiết. Chúng tôi sẵn sàng cung cấp thêm thông tin cho Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về Thỏa thuận này nếu được yêu cầu. 3. Công đoàn Chúng tôi xin đề xuất về một khoản phí công đoàn rõ ràng và đơn giản hơn được thanh toán bởi các doanh nghiệp như sau: - Luật Công đoàn quy định: doanh nghiệp phải nộp 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo

hiểm xã hội cho người lao động. Điều này là trái với thông lệ quốc tế tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan v..v… Lý do, Công đoàn sẽ được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động và điều này là không hợp lý nếu buộc doanh nghiệp phải đóng kinh phí cho hoạt động của Công đoàn.

- Hiện nay, Tổng Liên đoàn Lao động quy định rằng: Công đoàn cơ sở phải trích nộp 35% phí công đoàn đóng bởi doanh nghiệp cho Công đoàn cấp trên. Điều này là không hợp lý vì: o Nếu phải trích nộp phí Công đoàn lên Công đoàn cấp trên thì khoản kinh phí này nên

được dùng cho việc tổ chức các hoạt động công đoàn cho người lao động. o Công đoàn cấp trên không có đủ nhân lực để thực hiện các hoạt động cho tất cả các

doanh nghiệp.

- Quy định 2% của các quỹ tiền lương là không hợp lý vì không có sự thống nhất về định nghĩa quỹ tiền lương giữa các doanh nghiệp.

- Hiện nay, các doanh nghiệp chưa thành lập Công đoàn đã nhận được yêu cầu nộp 2% quỹ

tiền lương cho Công đoàn cấp trên để thành lập Công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp này.

Trang 2/3

Page 88: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Điều này không hợp lý bởi vì Công đoàn cơ sở được thành lập dựa trên cơ sở tự nguyện của người lao động cho nên Công đoàn cấp trên không thể yêu cầu việc thành lập Công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp.

4. Giáo dục và Đào tạo Đội ngũ lao động Việt Nam đã trở nên chuyên nghiệp hơn; tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách giữa các tiêu chuẩn giáo dục của Việt Nam với các nước phát triển. Tiêu chuẩn vàng của ngành giáo dục hiện nay là tập trung vào việc giảng dạy cá nhân để chấp nhận những sự khác biệt của sinh viên, ví dụ như tốc độ và phong cách học tập của họ. Viếc tiếp nhận những phương pháp giảng dạy để đáp ứng sự khác biệt của sinh viên sẽ đưa đến những kết quả tốt nhất trong học tập của sinh viên. Sinh viên Việt Nam hiện đang được yêu cầu phải thực hiện các chương trình học lặp đi lặp lại ở cùng một tốc độ như nhau bất kể năng lực hoặc khả năng của mỗi sinh viên. Vì vậy, nhiều học sinh đã không theo kịp chương trình học và những học sinh giỏi cũng không được thử thách và được hưởng nền giáo dục một cách phù hợp. Một phong cách giáo dục đã ăn sâu vào văn hóa dẫn đến một chuỗi các sự kiện mang tính chu kỳ là các thế hệ trước giảng dậy các thế hệ sau theo một cách giống nhau, không có sự cải tiến và cải thiện chất lượng. Phong cách giảng dạy này cũng ảnh hưởng đến hành vi của các cá nhân và dẫn đến một lực lượng lao động không có khả năng chủ động hoặc làm việc tích cực trong công việc. Một ví dụ đó là việc Phú Quốc đang nhanh chóng phát triển du lịch tại địa phương mình. Điều này là rất tốt cho nền kinh tế địa phương, nhưng đây cũng là thách thức đối với các khách sạn mới về việc tuyển dụng và đào tạo nhân viên (là những người mà trước đây là nông dân và ngư dân) để trở thành nhân viên chuyên nghiệp đẳng cấp quốc tế phù hợp với các khách sạn năm sao. Một ví dụ tương tự khác tại Đà Nẵng là việc tất cả các khách sạn đã đồng ý thực hiện theo một hệ thống đào tạo tiêu chuẩn chung. Những sáng kiến như thế này có thể được giới thiệu ở nhiều nơi hơn và sự đóng góp của chính phủ sẽ được hoan nghênh nhiều hơn. Một lần nữa chúng tôi xin cảm ơn Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tiếp thu rất nhiều những đề nghị từ Diễn đàn Doanh Nghiệp Việt Nam. Chúng tôi hi vọng Quý Bộ sẽ dành thời gian cho những buổi họp thảo luận về những vấn đề này một cách chi tiết hơn đồng thời tạo cơ hội cho các thành viên của Tiểu nhóm có thể đưa ra những vấn đề trọng yếu khác.

Trang 3/3

Page 89: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

ĐÓNG GÓP Ý KIẾN ĐỐI VỚI DỰ THẢO THÔNG TƯ HƯỚNG DẪN NGHỊ ĐỊNH 102/2013/ND-CP

Chuẩn bị bởi Tiểu Nhóm Nhân sự

Điều Đề xuất Cơ sở

Chương I PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG

Điều 2. Giải thích từ ngữ 1. Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP là người lao động nước ngoài làm việc ít nhất 24 tháng trong một doanh nghiệp nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam và phải đáp ứng các điều kiện đối với “chuyên gia” theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP.

1. Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP là người lao động nước ngoài làm việc ít nhất 24 tháng trong một doanh nghiệp nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam và phải đáp ứng các điều kiện đối với “chuyên gia” hoặc "lao động kỹ thuật" theo quy định tại Khoản 3 và 4 Điều 3 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP.

1. Cam kết gia nhập WTO và Nghị định

• Chúng tôi hiểu định nghĩa về khái niệm "Người cung cấp dịch vụ" tại dự thảo này được soạn theo Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại dịch vụ ("Cam kết gia nhập WTO").

• Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc lấy định nghĩa của khái niệm này trong Cam kết gia nhập WTO để áp dụng trong trường hợp này là không phù hợp. Cam kết gia nhập WTO sử dụng từ ngữ này trong việc đề cập đến thời hạn cư trú cho phép cho người nước ngoài tại Việt Nam (tối đa 90 ngày). Về cơ bản, đây là quyền mà người nước ngoài được hưởng. Vì vậy, sẽ là dễ hiểu khi những người làm luật thường muốn giới hạn đối tượng được hưởng quyền.

• Ngược lại, việc sử dụng từ ngữ trong Nghị định 102/2013/NĐ-CP ("Nghị định") lại nhắm đến việc quy định nghĩa vụ đăng ký giấy phép lao động cho người nước ngoài. Trong trường hợp này, định nghĩa của khái niệm phải đủ rộng để có thể bao trùm được cho tất cả những đối tượng cần áp dụng.

• Vì vậy, có thể thấy rằng mục đích của việc sử dụng khái niệm này trong Cam kết gia nhập WTO và trong Nghị định là hoàn

Trang 1/24

Page 90: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

toàn trái ngược. Vậy nên, việc áp dụng trực tiếp khái niệm trong Cam kết gia nhập WTO vào trong Nghị định này là không hợp lý.

2. Những lý do sửa đổi

• Theo Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ của WTO, có 3 loại hình hiện diện thương mại, đó là văn phòng đại diện, chi nhánh, và công ty con. Nếu điều khoản này bao gồm cụm từ "không có hiện diện thương mại tại Việt Nam", phạm vi áp dụng của điều khoản này sẽ không bao gồm 2 loại lao động nước ngoài sau đây. Nói cách khác, vấn đề giấy phép lao động của những loại hình lao động nước ngoài đến Việt Nam để cung cấp dịch vụ sau đây sẽ gây nhiều tranh cãi.

- Thứ nhất là những lao động nước ngoài được cử tới Việt Nam từ công ty mẹ ở nước ngoài đã thành lập văn phòng đại diện ở Việt Nam

- Thứ hai là những lao động nước ngoài được cử đến Việt Nam từ công ty mẹ ở nước ngoài đã thành lập công ty con tại Việt Nam. Những trường hợp này có thể xảy ra khi có sự khác biệt về mặt khách hàng hay các hoạt động kinh doanh giữa công ty mẹ và công ty con.

• Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị việc bỏ từ "không có hiện diện

thương mại tại Việt Nam" để mở rộng phạm vi áp dụng của Nghị định và Thông tư này.

Chúng tôi cũng khuyến nghị đưa thêm "lao động kỹ thuật" vào phạm vi áp dụng của điều khoản này vì trong một số trường

Trang 2/24

Page 91: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

hợp, những dịch vụ này phải được cung cấp bởi những lao động kỹ thuật có khả năng xử lý trực tiếp các vấn đề kỹ thuật.

2. Người chào bán dịch vụ quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP là người lao động nước ngoài không sống tại Việt Nam và không nhận thù lao từ bất cứ nguồn nào tại Việt Nam, tham gia vào các hoạt động liên quan đến việc đại diện cho một nhà cung cấp dịch vụ để đàm phán tiêu thụ dịch vụ của nhà cung cấp đó, với điều kiện không được bán trực tiếp dịch vụ đó cho công chúng và không trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ.

2. Người chào bán dịch vụ quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP là người lao động nước ngoài không sống tại Việt Nam và không nhận thù lao từ bất cứ nguồn nào tại Việt Nam, tham gia vào các hoạt động liên quan đến việc đại diện cho một nhà cung cấp dịch vụ để đàm phán tiêu thụ dịch vụ của nhà cung cấp đó, với điều kiện không được bán trực tiếp dịch vụ đó cho công chúng và không trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ.

Như vậy, có thể áp dụng cho cả trường hợp người nước ngoài là người phụ thuộc của vợ/chồng đang làm việc tại Việt Nam và tham gia chào bán dịch vụ cho một doanh nghiệp khác, tuy nhiên, người nước ngoài này không hề nhận một khoản thù lao nào tại Việt Nam.

3. Người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP là các nhà quản lý và giám đốc điều hành của một pháp nhân, chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại của một nhà cung cấp dịch vụ của một nước khác tại Việt Nam với điều kiện những người này không tham gia trực tiếp vào việc bán hàng hay cung cấp dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ đó có địa bàn kinh doanh chính tại lãnh thổ của một nước khác không phải Việt Nam và

3. Người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP là các nhà quản lý,giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật của một pháp nhân, chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại của một nhà cung cấp dịch vụ của một nước khác tại Việt Nam với điều kiện những người này không tham gia trực tiếp vào việc bán hàng hay cung cấp dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ đó có địa bàn kinh doanh chính tại lãnh thổ của một nước khác không phải Việt Nam và chưa có bất kỳ hiện diện thương mại nào khác ở

1. Những chú thích và gợi ý trực tiếp tới điều khoản này

• Chúng tôi hiểu rằng cụm từ "Những người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại" như khái niệm trong điều 2.1 của Nghị định, được soạn thảo theo Cam kết gia nhập WTO. Như chúng tôi đã giải thích ở trên, mục đích của việc sử dụng từ ngữ trong Cam kết gia nhập WTO và trong Nghị định/Thông tư này là hoàn toàn không giống nhau vì sự khác biệt cơ bản về bản chất.

• Vì vậy, để đảm bảo quá trình áp dụng Nghị định gặp nhiều thuận lợi, chúng tôi có những khuyến nghị sau đây:

- Bỏ cụm từ "và chưa có bất kỳ hiện diện thương mại nào

Trang 3/24

Page 92: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

chưa có bất kỳ hiện diện thương mại nào khác ở Việt Nam.

Việt Nam. khác ở Việt Nam". Lý do cho sự thay đổi này cũng giống như những lý do chúng tôi đã trình bài tại phần Lý do/Cơ sở tại Điều 2.3 ở trên. Việc sử dụng cụm từ này trong điều khoản này sẽ giới hạn đáng kể phạm vi áp dụng của Điều khoản này so với thực tiễn. Nếu cụm từ này được sử dụng, phạm vi áp dụng của điều khoản này sẽ không bao gồm trường hợp công ty nước ngoài cử người nước ngoài đến Việt Nam để thành lập công ty con trong khi công ty nước ngoài này đã thành lập văn phòng đại diện hay một công ty con khác tại Việt Nam.

- Bổ sung "chuyên gia và lao động kỹ thuật" vào phạm vi áp dụng của điều khoản này để tránh sự mập mờ. Trên thực tiễn, chuyên gia và lao động kỹ thuật cũng tham gia vào công đoạn thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam. Việc không sử dụng cụm từ "chuyên gia và lao động kỹ thuật" sẽ dẫn đến 2 cách giải thích như sau (1) chuyên gia và lao động kỹ thuật không được tham gia vào quá trình thành lập hiện diện thương mại; và (2) nếu chuyên gia và lao động kỹ thuật được tham gia vào quá trình trên, họ sẽ không phải đăng ký giấy phép lao động như quản lý và giám đốc điều hành.

- Thay đổi cụm từ "nhà cung cấp dịch vụ" bằng "pháp nhân".

Việc sử dụng cụm từ "nhà cung cấp dịch vụ" hàm ý rằng phạm vi áp dụng của điều khoản này sẽ không bao gồm các nhà sản xuất. Vì vậy, có thể giải thích rằng người nước ngoài đến Việt Nam để thành lập hiện diện thương mại của các nhà sản xuất sẽ không chịu sự điều chỉnh của Nghị định này, và do vậy, họ sẽ không phải chịu giấy phép lao động.

- Loại bỏ cụm từ "nhà cung cấp dịch vụ đó có địa bàn kinh

Trang 4/24

Page 93: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

doanh chính tại lãnh thổ của một nước khác không phải Việt Nam và chưa có bất kỳ hiện diện thương mại nào khác". Cụm từ này là không cần thiết trong trường hợp này khi hoạt động kinh doanh chính của pháp nhân nước ngoài chắc chắn được tiến hành ngoài lãnh thổ Việt Nam. Hơn nữa, sẽ càng có thêm nhiều điểm mập mờ khi Nghị định chưa thể đưa ra phương thức kiểm chứng xem khi nào thì một công ty được xem là đang tiến hành hoạt động kinh doanh chính ngoài lãnh thổ Việt Nam.

2. Những ý kiến thêm về những cách tiếp cận của Thông tư này Hơn nữa, chúng tôi hi vọng rằng Thông tư này sẽ trả lời được một số câu hỏi sau đây của chúng tôi:

- Ai sẽ là người đứng ra nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài vào Việt Nam để thành lập hiện diện thương mại? Theo Nghị định, những người có trách nhiệm đó chính là những người sử dụng lao động. Tuy nhiên, Thông tư/Nghị định vẫn chưa xác định rõ ràng xem "người sử dụng lao động" là ai. Có thể giải thích rằng "người sử dụng lao động" là công ty nước ngoài hoặc là người sử dụng lao động được quy định tại điều 2.2 của Nghị định. Trong trường hợp không có hiện diện thương mại tại Việt Nam, không có công ty/tổ chức nào được đề cập trong danh sách tại điều 2.2 có thể trở thành người nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài đến Việt Nam làm việc để thành lập hiện diện thương mại.

- Liệu người nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động cho

Trang 5/24

Page 94: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

người nước ngoài có phải nộp các giấy tờ khác, ngoài các giấy tờ đã được đề cập đến trong điều 10 của Nghị định hay không? Ví dụ, liệu người nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động có cần nộp kế hoạch sử dụng lao động nước ngoài hàng năm cho Ủy ban Nhân dân như được quy định tại điều 4 của Nghị định.

- Khi nào thì một cá nhân nước ngoài được coi là đang tham

gia vào quá trình thành lập hiện diện thương mại? Ví dụ người nước ngoài đến Việt Nam chỉ với mục đích điều tra và nghiên cứu môi trường đầu tư tại Việt Nam trước khi quyết định xem có đầu tư vào Việt Nam hay không, liệu người đó có được coi là đang tham gia quá trình thành lập hiện diện thương mại hay không?

Theo Cam kết gia nhập WTO, cả người lao động di chuyển nội bộ trong công ty lẫn những người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại đều có thể hưởng những đãi ngộ nhập cảnh và lưu trú thuận lợi. Tại sao hai loại hình người lao động này, trong Nghị định này, lại chịu những quy chế khác nhau về giấy phép lao động? Cụ thể hơn, tại sao người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại lại phải cần có giấy phép lao động còn lao động di chuyển nội bộ trong công ty thì lại không?

5. Hiện diện thương mại quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP là bất kỳ loại hình kinh doanh hay tổ chức nghề nghiệp nào, bao gồm việc thiết lập, mua lại hay duy trì một pháp nhân, hoặc thành lập hay duy trì một chi nhánh

5. Hiện diện thương mại quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP là bất kỳ loại hình kinh doanh hay tổ chức nghề nghiệp nào, bao gồm việc thiết lập, mua lại hay duy trì một pháp nhân, hoặc thành lập hay duy trì một chi nhánh hoặc văn phòng đại diện, trên lãnh thổ của một

Cũng như những lý do đã được trình bày ở trên, việc sử dụng cụm từ "nhằm mục đích cung cấp dịch vụ" sẽ loại trừ những nhà sản xuất khỏi phạm vi điều chỉnh của Nghị định. Vì vậy, chúng tôi đề nghị loại bỏ cụm từ này.

Trang 6/24

Page 95: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

hoặc văn phòng đại diện, trên lãnh thổ của một quốc gia nhằm mục đích cung cấp dịch vụ.

quốc gia nhằm mục đích cung cấp dịch vụ.

Chương II XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ CÔNG VIỆC ĐƯỢC SỬ DỤNG

NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Điều 3. Nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài

1. Định kỳ hằng năm trước ngày 01 tháng 12, người sử dụng lao động (trừ nhà thầu) có nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài phải báo cáo giải trình bằng văn bản theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP về nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài của năm sau bao gồm số lượng, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, mức lương, thời gian làm việc (bắt đầu và kết thúc) với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố Trung ương (sau đây được viết tắt là Sở Lao động- Thương binh và Xã hội) nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính theo mẫu số 1 ban hành kèm theo Thông tư này.

Đối với trường hợp doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thành lập sau ngày 01

• Theo điều 4.1, người sử dụng lao động nước ngoài có nghĩa vụ phải nộp báo cáo giải trình về từng vị trí công việc mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được, ngoài những văn bản khác, tới Ủy ban Nhân dân có thẩm quyền để được phê duyệt.

• Tuy nhiên, Nghị định này đã không làm rõ được những yếu tố mà Ủy ban Nhân dân cần phải xem xét trước khi xét duyệt các vị trí công việc mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được. Thông tư này cần giải quyết vấn đề này để tránh tình trạng Ủy ban Nhân dân có toàn quyền giải thích và áp dụng ngôn từ này theo cách thuận lợi nhất cho Ủy ban Nhân dân.

• Thông tư cần quy định cụ thể về qui trình phê duyệt, trả lời

của cơ quan chức năng đối với những thay đổi về nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài mà doanh nghiệp báo cáo. Thông tư mới chỉ nêu trách nhiệm báo cáo, giải trình của DN, mà chưa đề cập rõ chu trình phê duyệt bởi các cơ quan liên quan (UBNDTP, Sở LDTBXH,…) và trong thời gian bao lâu kết quả phê duyệt sẽ được trả lời cho doanh nghiệp.

Mốc thời gian 01 tháng 12 chỉ liên quan đến Khoản 1 qui

Trang 7/24

Page 96: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

tháng 12 nêu trên, có nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động thực hiện báo cáo giải trình theo mẫu số 1 ban hành kèm theo Thông tư này vào ngày đầu của tháng tiếp theo.

2. Người sử dụng lao động đã đăng ký nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động phải báo cáo giải trình bổ sung nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài trước ít nhất 10 ngày kể từ ngày người sử dụng lao động chính thức tuyển người lao động nước ngoài với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người sử dụng lao động đã giải trình trước đó theo mẫu số2 ban hành kèm theo Thông tư này.

Đối với trường hợp doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thành lập sau ngày 01 tháng 12 nêu trên mà có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động phải báo cáo giải trình bổ sung nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài theo

định về việc Báo cáo định kỳ hàng năm trước ngày 1/12/2014.

• Việc báo cáo bổ sung khi nhu cầu thay đổi có thể diễn ra vào

bất kỳ thời điểm nào trong năm. Do vậy, để mốc thời gian 1/12 ở phần này là không phù hợp và không cần thiết.

Trang 8/24

Page 97: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

mẫu số2 ban hành kèm theo Thông tư này.

3. Trước ngày 15 tháng 12 hằng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổng hợp nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài vào từng trí công việc tại địa phương và báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chấp thuận.

4. Trước ngày 15 tháng 01 hằng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thông báo bằng văn bản về từng vị trí công việc được sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng người sử dụng lao động theo chấp thuận của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo mẫu số 3 ban hành kèm theo Thông tư này. 1. Định kỳ hằng năm trước ngày 01 tháng 12, người sử dụng lao động (trừ nhà thầu) có nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài phải báo cáo giải trình bằng văn bản theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP về nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài của năm sau bao gồm số lượng, trình độ

1. Định kỳ hằng năm trước ngày 01 tháng 12, người sử dụng lao động (trừ nhà thầu)có nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài, cần điều chỉnh số lượng, vị trí sử dụng người lao động nước ngoài vào đội ngũ người lao động nước ngoài đang sử dụng hoặc cần gia hạn thời gian cần sử dụng người lao động nước ngoài cho các vị trí hiện hành phải báo cáo giải trình ...

Trên thực tế, khi thực hiện làm báo cáo về nhu cầu sử dụng người nước ngoài (NNN), chúng tôi được hướng dẫn chỉ báo cáo về những vị trí mới, hoặc cần gia hạn thời gian làm việc … Do đó, những vị trí đang làm việc, đã có giấy phép lao động và không cần gia hạn trong năm báo cáo không cần nêu trong nhu cầu sử dụng này. Trường hợp tinh thần của báo cáo này yêu cầu phải áp dụng cho toàn bộ các vị trí đang sử dụng NNN, vui lòng hướng dẫn cụ thể và nhất quán tại tất cả các tỉnh thành.

Trang 9/24

Page 98: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

chuyên môn, kinh nghiệm, mức lương, thời gian làm việc (bắt đầu và kết thúc) với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố Trung ương (sau đây được viết tắt là Sở Lao động- Thương binh và Xã hội) nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính theo mẫu số 1 ban hành kèm theo Thông tư này. Đối với trường hợp doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thành lập sau ngày 01 tháng 12 nêu trên, có nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động thực hiện báo cáo giải trình theo mẫu số 1 ban hành kèm theo Thông tư này vào ngày đầu của tháng tiếp theo. 2. Người sử dụng lao động đã đăng ký nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động phải báo cáo giải trình bổ sung nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài trước ít nhất 10 ngày kể từ ngày người sử dụng lao động chính thức tuyển người lao động nước ngoài với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người sử

Đối với trường hợp doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thành lập sau ngày 01 tháng 12 nêu trên, có nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động thực hiện báo cáo giải trình theo mẫu số 1 ban hành kèm theo Thông tư này muộn nhất vào ngày đầu của tháng tiếp theo Người sử dụng lao động đã đăng ký nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động phải báo cáo giải trình bổ sung nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoàitrước ít nhất 10 ngày kể từ ngày người sử dụng lao động chính thức bắt đầu tuyển người lao động nước ngoài hoặc nộp hồ sơ xin cấp giấp phép lao động với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người sử dụng lao động đã giải trình trước đó theo mẫu số 2 ban hành kèm theo Thông tư này. Đối với trường hợp doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thành lập sau ngày 01 tháng 12 nêu trên mà có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động phải báo cáo giải trình bổ sung nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài

Cụm từ “chính thức tuyển” có thể gây hiểu nhầm sang việc chính thức ký kết hợp đồng lao động, trong khi người lao động cần phải chờ được cấp giấy phép lao động mới được ký hợp đồng. Theo qui định trước ít nhất 10 ngày này, chúng tôi cũng hiểu rằng UBND cấp tỉnh, thành phố và Sở Lao Động sẽ trả lời nhu cầu sử dụng NNN bằng văn bản trong vòng 10 ngày để doanh nghiệp có đủ thời gian xin cấp phép. Doanh nghiệp thành lập trước hay sau ngày 1 tháng 12 đều dùng mẫu số 2 nên không cần phải nêu lại điểm này.

Trang 10/24

Page 99: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

dụng lao động đã giải trình trước đó theo mẫu số2 ban hành kèm theo Thông tư này. Đối với trường hợp doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thành lập sau ngày 01 tháng 12 nêu trên mà có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì người sử dụng lao động phải báo cáo giải trình bổ sung nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài theo mẫu số2 ban hành kèm theo Thông tư này. 3. Trước ngày 15 tháng 12 hằng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổng hợp nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài vào từng trí công việc tại địa phương và báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chấp thuận. 4. Trước ngày 15 tháng 01 hằng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thông báo bằng văn bản về từng vị trí công việc được sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng người sử dụng lao động theo chấp thuận của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo mẫu số 3 ban hành kèm theo

theo mẫu số2 ban hành kèm theo Thông tư này. 4. Trước ngày 15 tháng 01 hằng năm ngày 31 tháng 12 hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổng hợp nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài vào từng trí công việc tại địa phương và báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chấp thuận. Đối với trường hợp doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài, Sở Lao Động – Thương binh và Xã hội báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chấp thuận trong vòng 5 ngày làm việc và thông báo bằng văn bản về từng vị trí công việc được sử dụng người lao động nước ngoài theo chấp thuận của Chủ Tịch Uỷ Ban nhân dân cấp tỉnh theo mẫu số 3 ban hành kèm theo Thông tư này trong vòng 10 ngày làm việc kể từ khi nhận được báo cáo của doanh nghiệp, tổ chức.

Thời gian từ khi doanh nghiệp nộp báo cáo đến khi nhận được chấp thuận là quá dài (45 ngày), ảnh hưởng lớn tới hoạt động tuyển dụng của doanh nghiệp đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng vào thời điểm đầu năm. Vì vậy, thời gian này nên giảm xuống còn 30 ngày và hoàn thiện trước ngày 31 tháng 12 hàng năm.

Trang 11/24

Page 100: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

Thông tư này. Điều 4. Nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài của nhà thầu 1. Hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu của chủ đầu tư phải kê khai việc sử dụng người lao động nước ngoài quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 102/2013/NĐ-CP thực hiện theo mẫu số1 ban hành kèm theo Thông tư này. 2. Trước khi tuyển dụng người lao động nước ngoài theo quy định tại Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 102/2013/NDD-CP, nhà thầu có trách nhiệm đề nghị bằng văn bản với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi nhà thầu nước ngoài thực hiện gói thầu hoặc dự án đã trúng thầu về việc tuyển người lao động Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển người lao động nước ngoài kèm theo xác nhận của chủ đầu tư theo mẫu số 4 ban hành kèm theo Thông tư này. 3. Trường hợp nhà thầu nước ngoài có nhu cầu điều chỉnh, bổ sung số lao động đã được xác định trong hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất theo quy định tại Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 102/2013/NDD-CP thì phải báo cáo

Trang 12/24

Page 101: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, nơi nhà thầu nước ngoài thực hiện gói thầu hoặc dự án đã trúng thầu về phương án điều chỉnh, bổ sung nhu cầu sử dụng lao động và có xác nhận của chủ đầu tư theo mẫu số2 ban hành kèm theo Thông tư này. 4. Trước ngày 15 tháng 01 hằng năm, chủ đầu tư có trách nhiệm báo cáo nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài của nhà thầu với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội theo mẫu số 5 ban hành kèm Thông tư này.

5. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi nhà thầu nước ngoài thực hiện gói thầu hoặc dự án đã trúng thầu thông báo sự chấp thuận bằng văn bản về phương án điều chỉnh, bổ sung nhu cầu sử dụng lao động của nhà thầu theo mẫu số …. ban hành kèm theo thông tư này trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo điều chỉnh.

Chương III CẤP GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG

Điều 5. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động

3. Văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 102/2013/NĐ-CP, hướng dẫn thực hiện như sau: a) Trường hợp người lao động nước ngoài đã từng cư trú tại Việt Nam phải có Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và văn bản xác nhận không phải là người

a)Trường hợp người lao động nước ngoài đã từng hiện đang cư trú tại Việt Nam từ đủ sáu (06) tháng trở lên hoặc đã từng cư trú tại Việt Nam trên sáu (06) tháng và ngày xuất cảnh cuối cùng trong vòng X

Thuật ngữ “đã từng” chưa rõ. Những trường hợp đã từng cư trú như sau có cần phải xin LLTP ở Việt Nam không? (1) Người nước ngoài được thuyên chuyển quay về Việt Nam

sau nhiều năm (1-10 năm) công tác ở một nước khác.

Trang 13/24

Page 102: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp.

(đề nghị thời gian tối đa qui định là 12 tháng) tháng kể từ ngày nộp hồ sơ xin cấp giấy phép lao động phải có Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyển của Việt Nam cấp …

(2) Người nước ngoài đến Việt Nam trước đây, rất ngắn hạn (một vài tuần đến một vài tháng).

3. Văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 102/2013/NĐ-CP, hướng dẫn thực hiện như sau: ... b) Trường hợp người lao động nước ngoài chưa từng cư trú tại Việt Nam phải có văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp.

b) Trường hợp người lao động nước ngoài chưa từng cư trú tại Việt Nam hoặc cư trú dưới 6 tháng phải có văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước ngoài theo quy định pháp luật của quốc gia người nước ngoài cư trú trước khi chuyển đến Việt Nam, quốc gia người nước ngoài có quốc tịch hoặc quốc gia người nước ngoài là thường trú do cơ quan có thẩm quyền cấp.

Một trong những hồ sơ yêu cầu xin LLTP là giấy đăng ký tạm trú hoặc sổ tạm trú tại địa phương. Đây là trách nhiệm của chủ nhà do đó nhiều người nước ngoài không được biết để lưu giữ các giấy tờ liên quan. Nhiều trường hợp khi quay lại xin chứng nhận đã tạm trú, chủ nhà không hợp tác hoặc đã bán nhà gây nhiều khó khăn cho người nước ngoài. Do đó, nếu không miễn được yêu cầu phải có LLTP ở Việt Nam cho người nước ngoài đã từng cư trú tại Việt Nam, chúng tôi đề nghị có qui định thu hẹp đối tượng cần xin cấp LLTP này. Kiến nghị về thời gian ở trên (12 tháng) để quí vị tham khảo và cân nhắc

4. Văn bản xác nhận là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật quy định tại Khoản 4 Điều 10 Nghị định số102/2013/NĐ-CP, hướng dẫn thực hiện như sau: ... b) Đối với người lao động nước ngoài là chuyên gia thì phải có văn bản xác

b) Đối với người lao động nước ngoài là chuyên gia thì phải có

• Trên thực tế, đa số các giấy chứng nhận kinh nghiệm được ban hành bởi người sử dụng lao động ở nước ngoài. Do đó chúng tôi nghĩ nên qui định rõ giấy xác nhận của người sử dụng lao động tại điều khoản này.

• Trường hợp các chuyên gia có rất nhiều năm kinh nghiệm

nhưng họ không thể (hoặc rất khó) xin giấy xác nhận kinh nghiệm từ các công ty cũ do các lý do khách quan, giấy xác

Trang 14/24

Page 103: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

nhận là chuyên gia của cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc văn bản chứng minh là chuyên gia và phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến sẽ làm việt tại Việt Nam.

(1 )văn bản xác nhận là chuyên gia của cơ quan có thẩm quyền; người sử dụng lao động hoặc

công nhận hoặc văn bản chứng minh là chuyên gia, bao gồm:

- bằng cử nhân hoặc kỹ sư hoặc cao hơn

(2) những giấy tờ trên phải phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến sẽ làm việc tại Việt Nam. Kiến nghị bổ sung: Riêng đối với người lao động nước ngoài là chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực chuyên ngành như giảng dạy ngoại ngữ, kỹ năng thì cần có bằng đại học chuyên ngành hoặc 5 năm kinh nghiệm, nếu chỉ có bằng đại học không đúng chuyên ngành thì phải có thêm chứng chỉ đào tạo chuyên ngành.

nhận của công ty hiện tại cho cả những vị trí trước đây cũng nên được chấp nhận, hoặc ít nhất cũng được chấp nhận cho một số ngành có đặc thù riêng, ví dụ như ngành dầu khí. Đề nghị có thêm những qui định về vấn đề này.

• Điều 3.3 của Nghị định yêu cầu chuyên gia là người, ngoài

các yếu tố khác, có trình độ kỹ sư, cử nhân trở lên hoặc tương đương.

• Bản dự thảo Thông tư quy định, các cá nhân, để được coi là

chuyên gia, phải, bên cạnh các yếu tố khác, phải có văn bản chứng minh là chuyên gia.

• Chúng tôi băn khoăn không biết liệu văn bản được đề cập

đến trong bản dự thảo Thông tư có phải là chứng nhận kỹ sư hoặc bằng cử nhân hay không. Chúng tôi khuyến nghị rằng Thông tư cần phải giải quyết vấn đề này tránh để mập mờ khi áp dụng.

Việc giảng dậy ngoại ngữ là công việc đặc thù cần tuyển những giáo viên người bản xứ, phát âm chuẩn để dậy người học cách phát âm, cách nói, do vậy cần yêu cầu về việc phải có bằng đại học và chứng chỉ chuyên ngành về giảng dậy ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quốc tế. Quy định này sẽ đáp ứng được với tình hình thực tế và nhu cầu của người dậy và người học.

4. Văn bản xác nhận là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật quy định tại Khoản 4 Điều 10 Nghị định số102/2013/NĐ-

Tại Hàn Quốc, có khoảng 650 Trường trung cấp nghề được thành lập đào tạo trong nhiều lĩnh vực (bao gồm dệt may, điện tử, CNTT, thiết kế, tự động, máy tính...) nhằm mục đích đào tạo sinh viên phát triển trong lĩnh vực lựa chọn (những trường này

Trang 15/24

Page 104: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

CP, hướng dẫn thực hiện như sau: ... c) Đối với người lao động nước ngoài là lao động kỹ thuật thì phải có bằng hoặc giấy chứng nhận đã được đào tạo chuyên ngành kỹ thuật ở nước ngoài với thời gian ít nhất 01 năm và văn bản chứng minh đã có ít nhất 03 năm làm việc trong chuyên ngành kỹ thuật được đào tạo phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến sẽ làm việc tại Việt Nam.

c) Đối với người lao động nước ngoài là lao động kỹ thuật thì phải có bằng hoặc giấy chứng nhận đã được đào tạo chuyên ngành kỹ thuật ở nước ngoài với thời gian ít nhất 01 năm và hoặc văn bản chứng minh đã có ít nhất 03 năm làm việc trong chuyên ngành kỹ thuật được đào tạo phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến sẽ làm việc tại Việt Nam

được gọi là Meister High School). Theo quy định tại Điều 3.4 Nghị định số 102/2013/ND-CP về lao động nước ngoài ngày 05/09/2013 (Nghị định 102), những lao động Hàn Quốc này sẽ được coi là ”lao động kỹ thuât”. Theo quy định tại Điều 5.4.c dự thảo Thông tư về việc thi hành Nghị định 102, trừ khi những lao động này có ít nhất 03 năm kinh nghiệm, nếu không họ sẽ không được cấp giấy phép lao động tại Việt Nam. Điều đó có nghĩa những công ty Hàn Quốc tại Việt Nam sẽ không thể tuyển dụng những lao động Hàn Quốc – đã tốt nghiệp tại Meister High School hoặc những trường cao đẳng khác với thời gian đào tạo 2-3 năm. Tại Việt Nam hiện đang rất thiếu những lao động có tay nghề cao trong những lĩnh vực dệt may, CNTT, điện tử, máy tính, tự động … do đó, Chính phủ Việt Nam nên giảm bớt những điều kiện nghiêm ngặt hiện nay khi xin giấy phép lao động, tạo điều kiện để những lao động nước ngoài này chuyển giao công nghệ cho những lao động Việt Nam trong quá trình làm việc. + Đối với chuyên gia và lao động kỹ thuật: Việc có được “Văn bản xác minh là chuyên gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận” đối với chuyên gia và “Giấy chứng nhận đào tạo chuyên ngành kỹ thuật và kinh nghiệm làm việc” đối với lao động kỹ thuật là điều không thể ở Nhật Bản và nhiều nước phát triển trên thế giới. Bởi lẽ, hiện nay, việc đào tạo tại các quốc gia này phát triển rất tốt, họ không có các Trung tâm đào tạo hay dạy nghề như ở Việt Nam. Thay vào đó, mỗi Tập đoàn lớn đều xây dựng các Trung tâm đào tạo riêng biệt. Các Trung tâm này có nhiệm vụ đào tạo chuyên môn cũng như kỹ năng cần thiết cho toàn thể cán bộ công nhân viên nhằm đáp ứng tất cả các công việc theo yêu cầu của Tập đoàn, đồng thời tạo điều kiện cho từng nhân viên có thể phát triển bản thân một cách toàn diện. Căn cứ vào kết quả làm việc và trình độ đầu vào, Tập đoàn

Trang 16/24

Page 105: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

có thể cấp “giấy chứng nhận là chuyên gia” hay “Giấy chứng nhận đào tạo chuyên ngành kỹ thuật và kinh nghiệm làm việc”cho những người đủ điều kiện. Vì vậy, để tuân thủ quy định hiện hành, chúng tôi đề xuất: “Giấy chứng nhận đào tạo chuyên ngành kỹ thuật và kinh nghiệm làm việc” hay “giấy chứng nhận là chuyên gia” do Tập đoàn cấp được coi là đầy đủ tính pháp lý như của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. + Ngoài ra yêu cầu về lao động kỹ thuật phải đáp ứng cả hai điều kiện về chuyên ngành đào tạo và kinh nghiệm làm việc là không hợp lý do công nghệ ở nước ngoài phát triển hơn Việt Nam rất nhiều. Lao động kỹ thuật chỉ cần tốt nghiệp đã có rất nhiều kiến thức mà lao động Việt Nam thiếu. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị riêng với đối tượng lao động kỹ thuật chỉ cần 1 trong 2 điều kiện là đủ.

Điều 7. Các trường hợp cấp lại giấy phép lao động 2. Thay đổi họ, tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; số hộ chiếu; địa điểm làm việc ghi trên giấy phép lao động đã cấp. Thay đổi địa điểm làm việc ghi trên giấy phép lao động đã cấp theo quy định tại Khoản 2 Điều này được quy định là người sử dụng lao động cử, điều động hoặc biệt phái người lao động nước ngoài đến làm việc toàn bộ thời gian tại chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc cơ sở khác của người sử dụng lao động đó tại cùng tỉnh, thành phố.

2. Thay đổi họ, tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; số hộ chiếu; địa điểm; chức danh công việc làm việc ghi trên giấy phép lao động đã cấp. Thay đổi địa điểm làm việc ghi trên giấy phép lao động đã cấp theo quy định tại Khoản 2 Điều này được quy định là người sử dụng lao động cử, điều động hoặc biệt phái người lao động nước ngoài đến làm việc toàn bộ thời gian tại chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc cơ sở khác của người sử dụng lao động đó tại cùng tỉnh, thành phố tại khác tỉnh, thành phố.

+ Khi người lao động được điều động sang cơ sở khác của doanh nghiệp nhưng vẫn trong phạm vi của một tỉnh, thành phố thì không nhất thiết phải cấp lại giấy phép lao động do trong trường hợp này người lao động nước ngoài vẫn phải chịu sự quản lý của cùng Sở LĐTBXH của tỉnh, thành phố. Vì vậy, việc cấp lại giấy phép lao động chỉ gây thêm rắc rối về mặt thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. + Chỉ khi người lao động chuyển địa điểm làm việc từ tỉnh này sang tỉnh khác mới cần phải cấp lại giấy phép lao động.

Trang 17/24

Page 106: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

Không đề cập Điều 10: Các trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động Ngoài các đối tượng đã được quy định tại Điều 7, Nghị định số 102/2013/ND-CP, bổ sung thêm các đối tượng sau: i) Người nước ngoài là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp tại Việt Nam do chủ sở hữu chỉ định. k) Người nước ngoài từ công ty mẹ đến công ty con tại Việt Nam dưới 3 tháng nhằm mục đích: + Tham dự hội họp trao đổi, thảo luận về kế hoạch sản xuất, chiến lược hoạt động, quyết định chính sách quản trị, quản lý tiến độ kế hoạch, công việc; phổ biến chính sách mới; thu thập thông tin phục vụ cho các báo cáo; kiểm tra; kiểm toán. + Hỗ trợ việc hình thành dự án mới, sản phẩm mới, hệ thống mới; hỗ trợ xử lý các sự cố, giải quyết các vấn đề liên quan đến chất lượng sản phẩm, quản lý sản xuất của dự án mới, sản phẩm mới, hệ thống mới. + Học nghề, tập nghề tại doanh nghiệp.

+ Các đối tượng quy định tại Điều 10 đều sang Việt Nam trong thời gian rất ngắn (dưới 90 ngày) cho các mục đích hội họp, đào tạo, hỗ trợ,… chứ không làm việc lâu dài tại doanh nghiệp. Việc bắt buộc phải cấp giấy phép lao động cho những trường hợp này sẽ gây khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp về mặt thủ tục, ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. + Không những thế, theo quy định tại điều 8, Nghị định 102/2013/ND-CP, để chứng minh lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động, người sử dụng lao động cũng phải chuẩn bị rất nhiều hồ sơ, giấy tờ. Như vậy, cho dù là đối tượng không áp dụng thì doanh nghiệp vẫn mất thời gian tương đương với việc cấp giấy phép lao động. Do đó, để tạo điều kiện thông thoáng hơn về mặt thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư cũng như tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, chúng tôi đề xuất các đối tượng quy định trong Điều 10 nêu trên không thuộc diện cấp giấy phép lao động và người sử dụng lao động cũng không phải làm thủ tục xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động.

Trang 18/24

Page 107: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

+ Đào tạo nội bộ. l) Người nước ngoài sang Việt Nam dưới 3 tháng để thị sát, điều tra về môi trường đầu tư, các thủ tục liên quan phục vụ cho việc xây dựng dự án mới hay mở rộng dự án tại Việt Nam; tìm hiểu thông tin, thủ tục, thương lượng, đàm phán phục vụ việc ký kết hợp đồng. m) Người nước ngoài sang Việt Nam dưới 3 tháng để thực hiện hoạt động kiểm tra, kiểm toán, đánh giá về chất lượng sản phẩm, môi trường làm việc, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; cấp lại chứng chỉ quốc tế về chất lượng, môi trường,… cho doanh nghiệp. n) Khách nước ngoài từ tập đoàn, các công ty khác của tập đoàn, các tập đoàn khác, quan khách chính phủ sang Việt Nam dưới 3 tháng để thăm quan, tìm hiểu, học hỏi về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các đối tượng được đề cập trong khoản i, k, l, m, n nêu trên không phải làm thủ tục xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động theo quy định tại điều 8, Nghị định 102/ND-CP.

Trang 19/24

Page 108: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

Chương IV TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 13. Trách nhiệm của người sử dụng lao động • Chúng tôi khuyến nghị Thông tư này nên thay đổi từ "người

sử dụng lao động" thành "người sử dụng lao động nước ngoài". Có những sự khác biệt cơ bản giữa người sử dụng lao động với người sử dụng lao động nước ngoài.

• Theo Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động là người ký hợp đồng với lao động. Vì vậy, có trường hợp mà người sử dụng lao động nước ngoài không phải là người sử dụng lao động, Ví dụ:

- khi công ty mẹ gửi nhân viên đến trợ giúp công ty con tại

Việt Nam. Trong trường hợp này, người sử dụng lao động, người đang giữ quan hệ hợp đồng với nhân viên là công ty mẹ và người sử dụng lao động nước ngoài trên thực tế lại là công ty con địa phương, như được quy định tại điều 2.2 của Nghị định.

- khi nhà cung cấp dịchvụ nước ngoài gửi nhân viên cung cấp

dịch vụ đến Việt Nam để sửa chữa/cung cấp dịch vụ cho một công ty nội địa, người sử dụng lao động là nhà cung cung cấp dịch vụ nước ngoài còn người sử dụng lao động nước ngoài lại là công ty nội địa có hợp đồng dịch vụ với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài

Vì vậy, những từ ngữ của Thông tư nên đổi từ "người sử dụng lao động" sang "người sử dụng lao động nước ngoài" để đảm bảo tính thống nhất trong các văn bản pháp luật này.

Trang 20/24

Page 109: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

3. Làm các thủ tục đề nghị cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Đối với người lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động nhưng được cử, điều động hoặc biệt phái làm việc toàn bộ thời gian tại một tỉnh, thành phố khác với tỉnh, thành phố nơi người lao động nước ngoài đang làm việc hoặc làm vị trí công việc khác cho người sử dụng lao động thì phải thực hiện cấp giấy phép lao động theo quy định tại Mục 3 Nghị định số 102/2013/NĐ-CP.

Đối với người lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động nhưng được cử, điều động hoặc biệt phái làm việc toàn bộ thời gian cùng vị trí tại một tỉnh, thành phố khác với tỉnh, thành phố nơi người lao động nước ngoài đang làm việc cho người sử dụng lao động thì phải thực hiện cấp lại giấy phép lao động theo quy định tại khoản 1 điều 14 Nghị định số 102/2013/NĐ-CP. Đối với người lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động nhưng được cử, điều động hoặc biệt phái làm việc toàn bộ thời gian tại một tỉnh, thành phố khác với tỉnh, thành phố nơi người lao động nước ngoài đang làm việc hoặc để làm vị trí công việc khác cho người sử dụng lao động thì phải thực hiện cấp giấy phép lao động theo quy định tại Mục 3 Nghị định số 102/2013/NĐ-CP.

Giải thích thêm: nếu sự điều chuyển công việc từ tỉnh này sang tỉnh khác và không có sự thay đổi về vị trí thì chỉ nên cấp lại. Nếu chuyển vị trí khác thì nên cấp mới.

5. Thực hiện đầy đủ hợp đồng lao động đã ký kết với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo đúng quy định của pháp luật.Gửi văn bản thông báo về việc giao kết hợp đồng lao động kèm theo bản sao hợp đồng lao động đã ký kết và bản sao giấy phép lao động đã được cấp về Sở Lao động- Thương binh và Xã hội nơi đã cấp giấy phép lao động cho

5. Đối với trường hợp thực hiện hợp đồng lao động theo điều 2, khoản 1, điểm a Nghị định 102/2013/NĐ-CP, người sử dụng lao động có nghĩa vụ,thực hiện đầy đủ hợp đồng lao động đã ký kết với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo đúng quy định của pháp luật.Gửi văn bản thông báo về việc giao kết hợp đồng lao động kèm theo bản sao hợp đồng lao động đã ký kết và bản sao giấy phép lao

Đối với trường hợp lao động di chuyển trong nội bộ Tập đoàn, doanh nghiệp không ký hợp đồng lao động với họ. Vì vậy, doanh nghiệp không có hợp đồng lao động để nộp cho Sở LĐTBXH.

Trang 21/24

Page 110: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

người lao động nước ngoài đó.

động đã được cấp về Sở Lao động- Thương binh và Xã hội nơi đã cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài đó. Riêng đối với trường hợp người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ Tập đoàn, người sử dụng lao động chỉ phải nộp bản sao giấy phép lao động đã được cấp về Sở LĐTBXH nơi đã cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài đó.

Nhằm tránh hiểu nhầm sang các trường hợp khác cũng phải nộp hợp đồng lao động.

9. Báo cáo định kỳ:

a) Chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo định kỳ trước ngày 05 của tháng đầu tiên hằng quý về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về tình hình tuyển và quản lý người lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu của quý liền trước đó theo quy định tại Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 102/2013/NĐ-CP thực hiện theo mẫu số 18 ban hành kèm theo Thông tư này.

Điều khoản này cần chỉ rõ chủ thể nào đủ tư cách đại diện Chủ đầu tư ký báocáo. Pháp nhân đại diện của Chủ đầu tư (có tên đăng ký trên Giấy chứng nhậnđầu tư) có được phép ký báo cáo không? Hoặc pháp nhân này có thể chỉ địnhmột nhân viên cấp quản lý khác ký báo cáo không?

Điều 15. Hiệu lực thi hành 1. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày tháng năm.

Trang 22/24

Page 111: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

2. Thông tư này thay thế Thông tư số 31/2011/TT-BLĐTBXH ngày 03/11/2011 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ và Nghị định số 46/2011/NĐ-CP ngày 17 tháng 6 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 3. Chấp thuận sử dụng người lao động nước ngoài để cấp giấy phép lao động trước ngày 15 tháng 01 năm 2014: a) Người sử dụng lao động đã đăng ký nhu cầu tuyển và sử dụng người lao động nước ngoài năm 2014 theo quy định tại Khoản 7 Điều 19 của Nghị định số 34/2008/NĐ- CP ngày 25 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung và Khoản 10 Điều 14 của Thông tư số 31/2011/TT-BLĐTBXH ngày 03/11/2011 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trước ngày 01 tháng 11 năm 2014 thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

Người sử dụng lao động chưa báo cáo nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì trong thời hạn 15 30 ngày kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, người sử dụng lao động phải báo cáo giải trình bằng văn bản về nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

Do có sự thay đổi về quy định pháp luật nên các đơn vị cần có thời gian để tìm hiểu và thực hiện theo quy định mới. Do vậy, nên để thời hạn là 30 ngày.

Trang 23/24

Page 112: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP Nhóm Công tác Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

tổng hợp và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận. b) Người sử dụng lao động chưa báo cáo nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, người sử dụng lao động phải báo cáo giải trình bằng văn bản về nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính theo mẫu số 1 ban hành kèm theo Thông tư này. Quá thời hạn nêu trên nếu không có báo cáo giải trình thì được xác định là không có nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, đề nghị phản ánh về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để hướng dẫn, bổ sung kịp thời./.

Trang 24/24

Page 113: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tham luận của KorCham Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

KIẾN NGHỊ NỚI LỎNG QUY ĐỊNH VỀ GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG

Chuẩn bị bởi Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn quốc tại Việt Nam

Chúng tôi đề nghị sửa đổi quy định để cho phép tuyển dụng người tốt ngiệp các trường trung cấp kỹ thuật hay cao đẳng kỹ thuật khóa 2 – 3 năm Theo Nghị định mới 102, có hiệu lực từ1/ 11 năm nay, để xin giấy phép lao động, lao động nước ngoài phải có bằng đại học và chứng nhận có kinh nghiệm làm việc tối thiểu 5 năm trong ngành nghề công tác. Một mặt, Nghị định mới có thể giúp cơ quan quản lý tạm thời đối phó với một vấn đề đã tồn tại từ lâu là tình trạng lao động nước ngoài không có kỹ năng đảm nhận các công việc dành cho lao động trong nước; nhưng mặt khác, quy định mới cũng khiến nhiều người nước ngoài đã tốt nghiệp và/hoặc chuyên gia nước ngoài không thể xin được giấy phép lao động. Theo chúng tôi, quy định này là quá chặt chẽ và không cần thiết. Hiện nay, ở Hàn Quốc có 650 Trường trung học chuyên nghiệp đào tạo nhiều ngành nghề (dệt may, điện tử, CNTT, thiết kế, ô tô, máy tính v.v.), với mục tiêu trang bị cho học sinh những kỹ năng về ngành nghề đã chọn (còn gọi là “Trường trung cấp kỹ thuật Meister” từ năm 2010). Tuy học sinh tốt nghiệp những trường kỹ thuật này có trình độ cao sau 3 năm học tập nhưng các doanh nghiệp Hàn Quốc ở Việt Nam lại gặp vấn đề trong việc tuyển dụng những lao động này do quy định về giấy phép lao động cho người nước ngoài của Việt Nam đòi hỏi phải có bằng đại học và tối thiểu 5 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành nghề công tác. Hiện nay ở Hàn Quốc không còn nhà máy dệt may lớn nào, vì thế học sinh ra trường và/hoặc chuyên gia Hàn Quốc phải nhận việc làm hay tạm thời được điều động sang các nhà máy dệt may ở Việt Nam để phát triển kỹ năng nghề nghiệp, nếu không ngành dệt của Hàn Quốc sẽ không còn hy vọng phát triển. Đối với một số lĩnh vực khác như CNTT, điện tử, máy tính, ô tô v.v. trong đó Việt Nam cũng đang gặp vấn đề lớn về thiếu lao động có trình độ, nền kinh tế Việt Nam cũng cần những lao động nước ngoài trình độ cao. Vì thế, chúng tôi kiến nghị Chính phủ nới lỏng quy định về giấy phép lao động để chúng tôi có thể tuyển dụng được những lao động nước ngoài tốt nghiệp các trường trung cấp kỹ thuật hay cao đẳng kỹ thuật khóa 2-3 năm. Đối với một số ngành như CNTT, điện tử, máy tính, ô tô v.v., chỉ nên quy định lao động nước ngoài hoặc có bằng đại học hoặc có 5 năm kinh nghiệm làm việc để được cấp giấy phép lao động.

Trang 1/1

Page 114: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn Thi hành một số điều của Nghị định 102 Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

ĐÓNG GÓP Ý KIẾN CHO DỰ THẢO THÔNG TƯ HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 102/2013/NĐ-CP NGÀY 05 THÁNG 9 NĂM 2013 CỦA CHÍNH PHỦ

Chuẩn bị bởi EuroCham Việt Nam

Tài liệu góp ý: o Dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP (‘Dự thảo’) o Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao

động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam (‘Nghị định 102’)

ĐIỀU KHOẢN GÓP Ý

Dự thảo, Điều 3, Khoản 1: Định kỳ hằng năm trước ngày 01 tháng 12, người sử dụng lao động (trừ nhà thầu) có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài phải báo cáo giải trình bằng văn bản theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP về nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của năm sau bao gồm số lượng, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, mức lương, thời gian làm việc (bắt đầu và kết thúc) với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố Trung ương (sau đây được viết tắt là Sở Lao động – Thương binh và Xã hội) nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính theo mẫu số 1 ban hành kèm Thông tư này.

1) Chúng tôi cảm thấy quan ngại về quy định mới này, do tạo sự thắt chặt kiểm soát không cần thiết đối với lao động nước ngoài, nhất là trong bối cảnh các quy định hiện tại vốn đã rất nặng nề và phức tạp đối với các doanh nghiệp tuyển dụng người nước ngoài. Dường như các quy định này của Việt Nam đang tạo thêm nhiều rào cản cho nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đi ngược lại với định hướng của chính phủ về việc mở cửa Việt Nam. Chúng tôi đề xuất dỡ bỏ yêu cầu này.

2) Điều khoản này cần nêu rõ người sử dụng lao động chỉ nộp báo cáo cho Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (Sở LĐ-TBXH), và nhận văn bản chấp thuận của Ủy ban Nhân dân duy nhất thông qua Sở LĐ-TBXH; nói cách khác, người sử dụng lao động không trực tiếp liên hệ Ủy ban Nhân dân. Điểm này cần được nhấn mạnh, bởi lẽ theo Điều 4, Nghị định 102, người đọc có thể hiểu rằng người sử dụng lao động phải nộp báo cáo trực tiếp cho Ủy ban Nhân dân. Điều khoản này cần nêu rõ liệu báo cáo có bao gồm cả nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của chi nhánh/ văn phòng đại diện tại tỉnh thành khác không. Ví dụ, Sở LĐ-TBXH Tp.HCM có thể tiếp nhận và phê duyệt nhu cầu sử dụng lao động tại Đà Nẵng hay Hà Nội không?

Trang 1/7

Page 115: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn Thi hành một số điều của Nghị định 102 Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Dự thảo, Điều 3, Khoản 4: Trước ngày 15 tháng 01 hằng năm, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thông báo bằng văn bản về từng vị trí công việc được sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng người sử dụng lao động theo chấp thuận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo mẫu số 3 ban hành kèm Thông tư này.

1) Chúng tôi nhận thấy khó có một Ủy ban Nhân dân nào tại các thành phố lớn như Tp.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng... có đủ năng lực giải quyết hợp lý tất cả các nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của từng doanh nghiệp. Hiện số lượng doanh nghiệp và các vị trí khác nhau mà các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng người nước ngoài hàng năm là quá lớn. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền sẽ không thể thấu hiểu hết hoạt động của doanh nghiệp trên thực tế để có thể quyết định chấp thuận nhu cầu của doanh nghiệp hay không. Chúng tôi vô cùng lo ngại trước khả năng các quy định này sẽ chỉ tạo thêm các gánh nặng hành chính, và chậm trễ trong quá trình xem xét và chấp thuận, gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. 2) Điều khoản này cũng nên nêu rõ thời gian ban hành văn bản chấp thuận đối với báo cáo thay đổi nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, nếu có (báo cáo theo mẫu 2 nêu tại Khoản 2 của Điều này).

Dự thảo, Điều 5, Khoản 2: Giấy chứng nhận sức khỏe quy định tại Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 102/2013/NĐ-CP thực hiện theo quy định của Bộ Y tế. Giấy chứng nhận sức khỏe được cấp ở nước ngoài hoặc ở Việt Nam có giá trị trong thời hạn 06 tháng, tính đến thời điểm nộp hồ sơ.

Điều khoản này cần chỉ rõ theo quy định nào của Bộ Y tế.

Dự thảo, Điều 5, Khoản 3 a): Trường hợp người lao động nước ngoài đã từng cư trú tại Việt Nam phải có Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp.

Nghĩa của từ “đã từng” không rõ; điều khoản cần chỉ rõ thời gian là bao lâu. 6 tháng liền kề? 6 tháng tổng cộng? Hay bao lâu? Điều khoản này cũng nên chỉ rõ cơ quan có thẩm quyền cấp phiếu lý lịch tư pháp (ví dụ, Sở Tư pháp) Nghị định 102 không nêu rõ yêu cầu bắt buộc phải có cả hai văn bản (một do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và một do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp). Nghị định 46/2011 chỉ yêu cầu một trong hai văn bản (cụ thể chỉ cần nộp phiếu lý lịch tư pháp).

Trang 2/7

Page 116: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn Thi hành một số điều của Nghị định 102 Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đâu là lý do dẫn đến Dự thảo yêu cầu cả 2 văn bản thay vì chỉ 1 văn bản như quy định của các năm gần đây? Sẽ hợp lý hơn cho người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài nếu quy định hiện hành tiếp tục được áp dụng: chỉ cần cung cấp một văn bản (phiếu lý lịch tư pháp tại Việt Nam).

Dự thảo, Điều 5, Khoản 3 b): Trường hợp người lao động nước ngoài chưa từng cư trú tại Việt Nam phải có văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp.

Điều khoản nên chỉ rõ nghĩa của từ “nước ngoài” trong trường hợp này. Có phải là quốc gia người nước ngoài có quốc tịch, hay quốc gia nơi họ cư trú trong một khoản thời gian (khoản thời gian này là bao lâu?) trước khi chuyển đến Việt Nam?

Dự thảo, Điều 5, Khoản 4 b): Đối với người lao động nước ngoài là chuyên gia thì phải có văn bản xác nhận là chuyên gia của cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc văn bản chứng minh là chuyên gia và phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến sẽ làm việc tại Việt Nam.

Văn bản xác nhận này là văn bản nào? Do cơ quan có thẩm quyền nào xác nhận?

Dự thảo, Điều 5

Điều khoản cũng nên đề cập thêm các điểm 5, 6, 7 và 8 tại Điều 10, Nghị định 102.

Trang 3/7

Page 117: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn Thi hành một số điều của Nghị định 102 Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Dự thảo, Điều 7, Khoản 2: Thay đổi địa điểm làm việc ghi trên giấy phép lao động đã cấp theo quy định tại Khoản 2 Điều này được quy định là người sử dụng lao động cử, điều động hoặc biệt phái người lao động nước ngoài đến làm việc toàn bộ thời gian tại chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc cơ sở khác của người sử dụng lao động đó tại cùng tỉnh, thành phố

Trường hợp nhân viên của trường đại học được chuyển sang giảng dạy tại một khuôn viên khác thì sẽ bị xem như một nhân viên mới chuyển đến nơi làm việc mới. Do đó không đủ điều kiện được cấp lại giấy phép lao động, và phải nộp đơn xin giấy phép lao động mới. Việc luân chuyển nhân viên này sẽ làm tăng số lượng người lao động nước ngoài so với con số đã đăng ký với Ủy ban Nhân dân. Chúng tôi đề xuất đơn giản hóa quy trình cấp lại giấy phép lao động đối với trường hợp thay đổi địa chỉ (cùng một vị trí) và có chính sách cho phép chuyển số lượng lao động giữa các địa chỉ, tránh tình trạng bị xem là có thay đổi nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài (yêu cầu thông báo với Sở LĐ-TBXH trước 10 ngày, v.v), cho phép tái phân bổ.

Dự thảo, Điều 13, Khoản 5 Thực hiện đầy đủ hợp đồng lao động đã ký kết với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo đúng quy định của pháp luật. Gửi văn bản thông báo về việc giao kết hợp đồng lao động kèm theo bản sao hợp đồng lao động đã ký kết và bản sao giấy phép lao động đã được cấp về Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi đã cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài đó.

Quy định này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp tuyển dụng, không thể áp dụng đối với trường hợp bổ nhiệm, do không có hợp đồng lao động. Chúng tôi đề xuất cần có thêm các hướng dẫn cụ thể.

Dự thảo, Điều 13, Khoản 9 a): Chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo định kỳ trước ngày 05 của tháng đầu tiên hàng quý về Sở Lao động – Thương binh và Xã hội về tình hình tuyển và quản lý người lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu của quý liền trước đó theo quy định tại Khoản 5 Điều 5 Nghị định sồ 102/2013/NĐ-CP thực hiện theo mẩu số 18 ban hành kèm theo Thông tư này

Điều khoản này cần chỉ rõ chủ thể nào đủ tư cách đại diện Chủ đầu tư ký báo cáo. Pháp nhân đại diện của Chủ đầu tư (có tên đăng ký trên Giấy chứng nhận đầu tư) có được phép ký báo cáo không? Hoặc pháp nhân này có thể chỉ định một nhân viên cấp quản lý khác ký báo cáo không?

Trang 4/7

Page 118: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn Thi hành một số điều của Nghị định 102 Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Nghị định 102, Điều 7, Khoản 1 đề cập đến các trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động, trong đó bao gồm Khoản 4 Điều 172 của Bộ luật lao động 10/2013/QH13: “Người nước ngoài vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để chào bán dịch vụ”.

Chúng tôi đề xuất thông tư cần làm rõ và hướng dẫn cụ thể trường hợp này. “Dịch vụ” trong quy định này có bao gồm các dịch vụ vô hình như dịch vụ đào tạo, tư vấn, kiểm toán, dịch vụ hậu mãi (đối với các sản phẩm phần mềm/ phần cứng)?

Nghị định 102, Điều 10, Khoản 8 e): Đối với người lao động nước ngoài quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 2 Nghị định này phải có văn bản của nhà cung cấp dịch vụ cử người lao động nước ngoài Việt Nam để thành lập hiện diện thương mại của nhà cung cấp dịch vụ đó.

Cụ thể nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chuẩn bị thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam cần cung cấp văn bản nào? Thông tư hướng dẫn cần nêu rõ điểm này.

Nghị định 102, Điều 14 về Hồ sơ đề nghị cấp lại giấy phép lao động

Tiểu ban Nhân sự và Đào tạo của EuroCham đã từng nhấn mạnh các khó khăn của việc không chấp nhận hồ sơ xin cấp lại giấy phép lao động hơn 15 ngày so với 30 ngày (như quy định cũ) trước ngày giấy phép lao động đã cấp hết hạn. Đây là vấn đề quan trọng về mặt thời gian, bởi lẽ trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp không có đủ thời gian kịp thời gia hạn thị thực/ thẻ tạm trú cho người lao động nước ngoài và gia đình. Chúng tôi đề nghị đưa vào thông tư hướng dẫn một điều khoản cho phép linh hoạt đối với vấn đề thời hạn này.

GÓP Ý KHÁC Dự thảo thông tư vẫn chưa đề cập đến vấn đề người lao động nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các nhiệm vụ ngắn hạn. Đây là vấn đề có ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp quốc tế có nhu cầu đưa chuyên gia nước ngoài vào để triển khai nhiệm vụ chuyên môn hoặc để kiểm toán chất lượng, lắp ráp thiết bị, hoặc cung cấp các khoá đào tạo cho nhân viên địa phương trong vòng vài ngày hoặc vài tuần. Việc yêu cầu những người nước ngoài này phải xin giấy phép lao động là bất hợp lý, và theo quy định hiện hành, họ không được phép tiến hành các hoạt động này khi chưa có giấy phép lao động.

Trang 5/7

Page 119: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn Thi hành một số điều của Nghị định 102 Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Dư thảo chưa đề cập khung thời gian khi nào Uỷ ban Nhân dân sẽ phần hồi và ban hành công văn chấp thuận sau khi Sở LĐ-TBXH gửi đi nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của các doanh nghiệp. Chúng tôi đề xuất bổ sung vào Thông tư hướng dẫn Nghi định 102 các điều khoản giúp làm rõ những văn bản cần thiết trong hồ sơ xin cấp/ cấp lại giấy phép lao động đối với các trường hợp người lao động thuộc cấp chuyên viên/ quản lý/ chuyên gia (trong ngành giáo dục), như sau: 1/. Thay đổi vị trí hoặc chức vụ trong giấy phép lao động đã cấp còn hiệu lực: Người nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động vẫn còn hiệu lực, và muốn tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp hiện tại (nộp lại hồ sơ dự tuyển vào cùng một doanh nghiệp và được luân chuyển nội bộ) vào vị trí khác với vị trí ghi trên giấy phép lao động. Ví dụ, giảng viên được tái tuyển dụng vào cùng vị trí hoặc một vị trí cao hơn trong cùng đơn vị trường học. Có quy trình nào giúp doanh nghiệp không phải nộp hồ sơ xin cấp giấy phép lao động mới đối với trường hợp luân chuyển nội bộ này không? Hoặc có thể nộp đơn xin cấp lại giấy phép lao động, chỉ thay đổi vị trí hiện ghi trên giấy phép lao động đã cấp? 2/ Người lao động đã được cấp giấy phép lao động vẫn còn hiệu lực và muốn chuyển sang làm việc cho một doanh nghiệp khác, giữ vị trí giống với vị trí hiện tại ghi trên giấy phép lao động đã cấp. 3/ Người lao động đã được cấp giấy phép lao động vẫn còn hiệu lực và muốn chuyển sang làm việc cho một doanh nghiệp khác, giữ vị trí khác với vị trí hiện tại ghi trên giấy phép lao động đã cấp. 4/. Người lao động đã được cấp giấy phép lao động đã hết hiệu lực và muốn chuyển sang làm việc cho một doanh nghiệp khác, giữ vị trí giống với vị trí ghi trên giấy phép lao động đã cấp.

Trang 6/7

Page 120: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn Thi hành một số điều của Nghị định 102 Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

5/. Người lao động đã được cấp giấy phép lao động đã hết hiệu lực và muốn tiếp tục làm việc cho cùng một doanh nghiệp (từ chức và nộp đơn dự tuyển vào cùng một đơn vị trường học), giữ vị trí giống với vị trí ghi trên giấy phép lao động đã cấp. Ví dụ, giảng viên được tái tuyển dụng cho học kỳ tiếp theo. 6/. Người lao động đã được cấp giấy phép lao động đã hết hiệu lực và muốn tiếp tục làm việc cho cùng một doanh nghiệp (từ chức và nộp đơn dự tuyển vào cùng một đơn vị trường học), giữ vị trí khác với vị trí ghi trên giấy phép lao động đã cấp. Ví dụ, giảng viên được tái tuyển dụng vào một vị trí khác/ cao hơn trong cùng một đơn vị trường học. 7/ Ngành giáo dục: các cách phân loại quy định trong Bộ luật lao động nên được áp dụng như thế nào? (ví dụ, giảng viên/ giáo viên có được xem là chuyên viên không?) Nếu giảng viên được xem là chuyên viên, thì văn bản xác nhận người lao động là chuyên viên được cơ quan có thẩm quyền công nhận trong trường hợp này là văn bản nào? Liệu bằng cấp giảng dạy, bằng MBA, hoặc các bằng cấp cao hơn có đủ để xác nhận điều này không? Việc thiếu quy định rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng các cấp địa phương có nhiều cách hiểu và thực thi khác nhau.

Trang 7/7

Page 121: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư về người lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ý KIẾN ĐÓNG GÓP ĐỐI VỚI DỰ THẢO THÔNG TƯ VỀ GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG

Chuẩn bị bởi

Language Link Vietnam/Appllo, ACET Thực hiện điều 170 Bộ luật Lao động năm 2012 có hiệu lực từ 1/5/2013 và Nghị định 102/2013/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 11 năm 2013.

Qua nghiên cứu Dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP nói trên.

Chúng tôi đại diện cho các tổ chức đào tạo có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh vực đào tạo ngoại ngữ gồm Language Link Việt Nam, Apollo, ACET, xin nêu một số vấn đề và kiến nghị với Quý cơ quan như sau: Vấn đề thứ nhất: Theo Nghị định 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ Qui định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trong đó, tại khoản 5 điều 10 qui định về thành phần hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động (cấp mới) và điểm b khoản 3 điều 14 qui định về thành phần hồ sơ đề nghị cấp lại giấy phép lao động phải có “văn bản của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về việc chấp thuận sử dụng người lao động nước ngoài.” Như vậy, cả hai trường hợp: cấp Giấy phép lao động lần đầu và cấp lại giấy phép lao động đều phải được chấp thuận bằng văn bản của Chủ tịch UBND Thành phố. Thực hiện qui định trên, ngay sau khi Nghị định có hiệu lực thi hành ngày 1 tháng 11 năm 2013, chúng tôi đã gửi văn bản báo cáo và đề nghị tuyển dụng lao động nước ngoài theo quy định cho UBND thành phố Hà Nội và Sở Lao động TBXH thành phố Hà Nội, nhưng chưa nhận được kết quả. Điều này đang gây ách tắc trong việc tiếp tục xin cấp giấy phép lao động mới cũng như cấp lại cho những giáo viên có giấy phép lao động đang/sắp hết hạn. Đặc biệt việc ách tắc trên đã vô tình đẩy các doanh nghiệp vào việc vi phạm pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài hoặc bị phá vỡ hợp đồng đào tạo với các đối tác, dẫn đến phạt bồi thường vi phạm, gây thiệt hại không nhỏ về lợi ít cho các doanh nghiệp. Kiến nghị giải pháp cho vấn đề 1: 1. Đối với Ủy ban nhân dân Thành phố Để tháo gỡ ách tắc trên, chúng tôi xin kiến nghị: Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố có biện pháp cụ thể chỉ đạo cơ quan chuyên môn giúp việc, tham mưu cho Chủ tịch UBND Thành phố thực hiện chức năng ra văn bản chấp thuận sử dụng người lao động nước ngoài để các doanh nghiệp làm căn cứ nộp hồ sơ xin cấp mới và cấp lại giấy phép lao động phù hợp với qui định hiện hành.” 2. Đối với Bộ Lao động TB&XH - Cần sớm ban hành Thông tư hướng dẫn với quy trình, trách nhiệm, thời gian cụ thể trong

việc tổng hợp nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài vào từng vị trí công việc tại địa

Trang 1/2

Page 122: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Thông tư về người lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

phương và báo Chủ tịch UBND cấp tỉnh để chấp thuận. Đồng thời đề nghị bổ sung vào Thông tư nhóm đối tượng “công việc khác” như đã nêu ở trên

Vấn đề thứ hai: Theo qui định của Bộ luật Lao động và Nghị định 102/2013/NĐ-CP thì lao động nước ngoài chỉ được vào làm những công việc: quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật (gồm 3 nhóm). Tuy nhiên, trên thực tế đã và đang tồn tại và được thừa nhận hợp pháp một nhóm công việc không thuộc 3 nhóm công việc nêu trên (trong đó có công việc là giáo viên dạy tiếng Anh) nhưng cả trong Nghị định và Thông tư dự thảo hướng dẫn đều không được đề cập đến. Điều này đã gây khó khăn cho các tổ chức giáo dục như chúng tôi trong việc thuê người nước ngoài vào giảng dạy (các tổ chức này đã thuê giáo viên nước ngoài vào giảng dạy từ nhiều năm nay và được Sở Lao động TB&XH cấp giấy phép lao động theo qui đinh của pháp luật.

Kiến nghị giải pháp cho vấn đề 2: Theo Nghị định và Thông tư dự thảo, chúng tôi nhận thấy chỉ đang bao gồm 3 nhóm đối tượng lao động (vị trí công việc) kèm yêu cầu về trình độ như tổng kết ở bảng dưới đây (gồm số thứ tự từ 1 đến 3). Để thảo gỡ khó khăn cho các Tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực đào tạo tiếng Anh, cũng như đáp ứng được yêu cầu về tính khả thi thực hiện của văn bản pháp qui, chúng tôi xin đề xuất kiến nghị bổ sung vào Thông tư thêm một nhóm đối tượng thứ 4 theo bảng dưới đây. Việc bổ sung thêm nhóm này trong Thông tư là phù hợp với các biểu bảng ban hành kèm theo Thông tư (trong biểu bảng phần trình độ chuyên môn có cột “khác” và trong phần vị trí công việc cũng có cột “khác” Vậy, nên chăng chúng ta cũng có nhóm “công việc khác” được giải thích trong nội dung Thông tư ngoài 03 nhóm là quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật.

STT Vị trí công việc cần tuyên dụng Yêu cầu về trình độ Ghi chú

1 Quản lý, Giám đốc điều hành Bằng ĐH hoặc tương đương, Hoặc 5 năm kinh nghiệm làm việc

Được đề cập trong Nghị định 102/2013/NĐ-CP và dự thảo Thông tư hướng dẫn

2 Chuyên gia Cơ quan có thẩm quyền xác nhận là chuyên gia, Bằng ĐH hoặc tương đương và 5 năm kinh nghiệm làm việc

Được đề cập trong Nghị định 102/2013/NĐ-CP và dự thảo Thông tư hướng dẫn

3 Lao động Kỹ thuật 1 năm đào tạo chuyên ngành và 3 năm kinh nghiệm làm việc

Được đề cập trong Nghị định 102/2013/NĐ-CP và dự thảo Thông tư hướng dẫn

4 Khác (kiến nghị thêm vào của doanh nghiệp đào tạo). Đây có thể là nhóm đối tượng Thực hiện hợp đồng lao động theo Điều 2 Khoản 1 điểm a) trong Nghị định nhưng cần giải thích rõ đối tượng này bao gồm những ai.

Bằng ĐH hoặc tương đương, Hoặc 5 năm kinh nghiệm Đối với đối tượng là giáo viên nước ngoài dạy ngoại ngữ, nếu bằng ĐH không thuộc chuyên ngành đào tạo thì cần có Chứng chỉ dạy tiếng nước ngoài theo chuẩn Quốc tế.

Đề nghị bổ sung thêm nhóm 4 vào Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định 102

Trang 2/2

Page 123: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TÓM TẮT BÀN TRÒN THẢO LUẬN DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG VỀ

LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM - Thời gian: 14:00, Thứ Hai, 13/01/2014 - Địa điểm: Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Số 6B Hoàng Diệu, Hà Nội - Danh sách tham dự: Phụ lục 1 I. CHƯƠNG TRÌNH - Tóm tắt các ý kiến, đóng góp của Tiểu nhóm Nhân sự – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

đối với dự thảo Nghị định về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam - Phản hồi của Đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; và - Thảo luận tự do. II. NỘI DUNG BUỔI HỌP

Bà Nicola Connolly – Trưởng Tiểu nhóm Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Việt Nam đang theo bước một số nước có quy định pháp luật đối với người nước ngoài làm

việc tại nước sở tại. Mối quan tâm lớn nhất đối với Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam và hiệp hội doanh nghiệp là Việt Nam đang trở nên kém hấp dẫn trong con mắt của các nhà đầu tư khi nhắc đến các quy định việc làm cho người nước ngoài. Hiện nay, có hai mối quan tâm chính. Thứ nhất là vấn đề quản lý giấy tờ hành chính của Việt Nam so với các nước trong khu vực. Ví dụ, ở Singapore, hiện nay thủ tục hành chính đã có thể làm trực tuyến. Việt Nam là nước có lượng truy cập Internet cao nhất châu Á, vì thế phương án đăng ký trực tuyến nên được cân nhắc kĩ hơn.

- Một vấn đề khác đó chính là khả năng cạnh tranh của Việt Nam so với Thái Lan. Viện Nguồn nhân lực cùng với công ty Adecco đã đưa ra Chỉ số cạnh tranh quốc gia vào tháng 10 năm ngoái, trong đó Việt Nam xếp thứ 82 trên tổng số 103 quốc gia. Việt Nam đứng ở thứ hạng này chính là do khả năng đào tạo, duy trì và phát triển tài năng. Đứng đầu danh sách là những nước khuyến khích chuyển giao nhân viên, cả người nước ngoài lẫn người dân nước sở tại. Nếu Việt Nam muốn thu hút nhân tài và giữ chân họ, Việt Nam cần phải chú trọng hơn vào tính linh động của người lao động trong và ngoài nước. Việc thiếu hụt nguồn lao động tài năng và có tay nghề cao tại Việt Nam dẫn tới việc chuyển giao nguồn lao động có kinh nghiệm và kỹ năng giữa lao động trong nước và nước ngoài trở nên cấp thiết hơn. Như đã thấy trong cuộc khảo sát năm 2012 và 2013, các vị trí yêu cầu chuyên môn kĩ thuật cao thường không có nhiều ứng cử viên địa phương là lý do chính dẫn tới việc các công ty phải tuyển lao động nước ngoài vào những vị trí này.

Ông Kim Jung In – Chủ tịch, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc - KorCham có 2.700 công ty tại Việt Nam và các công ty hiện đang sử dụng hơn 50.000 lao

động. Trong diễn đàn VBF lần trước, chúng tôi đã nêu lên vấn đề về các yêu cầu để đủ điều kiện cấp giấy phép lao động, ví dụ như yêu cầu năm năm kinh nghiệm làm việc và trình độ giáo dục đại học. Những yêu cầu này quá khắt khe và không thể áp dụng đối với lĩnh vực công nghiệp.

- Như đã đề cập bởi bà Connolly, ở Việt Nam tình trạng thiếu nhân công lành nghề là một vấn đề lớn trong tất cả các ngành công nghiệp. Nhân công nước ngoài chỉ đóng góp vào một số lĩnh vực công nghiệp cụ thể như CNTT và điện tử, những ngành yêu cầu trình độ chuyên

Trang 1/7

Page 124: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

môn cao. Ở Hàn Quốc, có 650 trường dạy nghề và cao đẳng công nghệ có thể đáp ứng tất cả các nhu cầu từ các ngành công nghiệp như CNTT và điện tử. Do đó, nhân viên có giấy chứng nhận công việc như vậy hoàn toàn đủ tiêu chuẩn và Chính phủ Việt Nam nên xem xem xét vấn đề này một cách nghiêm túc. Tóm lại, liên quan đến định nghĩa về giấy phép lao động, yêu cầu nên là kinh nghiệm làm việc năm năm hoặc trình độ giáo dục đại học. Thứ hai, trong lĩnh vực cụ thể yêu cầu chuyên môn kỹ thuật, giấy phép lao động nên được cấp dựa trên cơ sở từng trường hợp một khi cần thiết.

Ông Laurent Quistrebert - Đại diện, Ủy ban Nhân sự và Đào tạo của EuroCham - Về Dự thảo Thông tư và Nghị định 102: Việc thi hành các Thông tư và Nghị định 102 ở các

tỉnh của Việt Nam, kể từ ngày 1 tháng 11, vô cùng phức tạp và không nhất quán giữa Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vũng Tàu và các tỉnh khác nhau. Điều này đã khiến các công ty và cán bộ lao động cấp tỉnh lúng túng và gây trì hoãn trong quá trình xin cấp giấy phép lao động.

- Ở nhiều nước, quá trình xin cấp giấy phép lao động được tập trung hóa, nhưng ở Việt Nam lại được quản lý theo cấp tỉnh. Các công ty và nhà đầu tư được đề nghị gửi câu hỏi tới Bộ LĐTBXH để được Bộ cung cấp câu trả lời rõ ràng. Việc phối hợp tốt hơn giữa Bộ LĐTBXH và các tỉnh là điều cần thiết.

- Một vấn đề đáng quan tâm nữa liên quan tới những người tới làm việc ngắn hạn tại Việt Nam dưới 90 ngày. Bộ luật Lao động mới và Nghị định 102 không liệt trường hợp lao động ngắn hạn vào hạng được miễn giấy phép lao động. Đây là một mối quan ngại, đặc biệt là cho công nhân lắp đặt thiết bị hoặc cung cấp đào tạo trong một thời gian ngắn. Với cộng đồng doanh nghiệp, điều này không đáng khi việc đăng ký cấp giấy phép lao động có thể mất đến ba tháng, trong khi chỉ để gửi lao động đến Việt Nam trong vòng một tuần. Điểm này cần được làm rõ trong thời gian sớm nhất.

Bà Nguyễn Kim Dung – Đại diện Tiểu nhóm Đào tạo và Giáo dục - Về lí lịch tư pháp, tôi xin phép được bổ sung thêm là lí lịch tư pháp thì trước đây trong

Thông tư 08-2008 chỉ quy định là một trong hai phiếu lí lịch tư pháp: nếu làm việc dưới 06 tháng thì chỉ cần lí lịch tư pháp cấp ở nước ngoài và trên 06 tháng thì yêu cầu cả lí lịch tư pháp cấp ở nước ngoài và tại Việt Nam thì tôi đề nghị giữ nguyên như quy định về lí lịch tư pháp thế này là đủ. Việc thứ hai liên quan đến cấp mới và cấp lại giấy phép lao động. Ở Điều 7 của Dự thảo về vấn đề yêu cầu cấp lại khi thay đổi địa điểm làm việc trên giấy phép lao động đã cấp và ghi rõ rằng nếu người lao động được đổi địa điểm sang một nơi khác cùng trong thành phố thì phải cấp lại, còn nếu chuyển sang một địa điểm nào đấy khác tỉnh, thành phố thì cấp mới. Điều này quả thực gây khó khăn cho những giáo viên nước ngoài, những người làm việc cho doanh nghiệp có nhiều cơ sở trong cùng một thanh phố, hoặc nhiều chi nhánh khác nhau, bởi sẽ gây mất rất nhiều thời gian và gây phiền hà trong quy trình thủ tục hồ sơ giấy tờ.

- Liên quan đến việc cấp mới khi điều động người lao động từ tỉnh, thành phố này sang tỉnh,

thành phố khác của cùng một người sử dụng lao động thì chúng tôi đề nghị sửa đổi lại Dự thảo chỉ là cấp lại chứ không cấp mới. Vì theo quy định của Dự thảo thì muốn cấp mới phải làm lại lí lịch tư pháp và để nộp lí lịch tư pháp thì theo yêu cầu Dự thảo hiện tại phải nộp hai loại lí lịch tư pháp. Trong khi đó, ở Nghị định 46 trước đây chỉ cần nộp thêm giấy khám sức khỏe và công chứng lại bằng cấp khác nếu ở tỉnh, thành phố, như vậy sẽ đơn giản hơn. Tôi đề nghị sửa đổi lại Dự thảo là trong trường hợp chuyển người lao động từ tỉnh này sang tỉnh

Trang 2/7

Page 125: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

khác cùng một người sử dụng lao động thì chỉ cấp lại chứ không cấp mới để đơn giản hóa thủ tục.

- Điểm cuối cùng tôi xin phép được kiến nghị là trong Nghị định 102 và Dự thảo thông tư thì mới đề cập đến ba nhóm công việc là quản lý giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kĩ thuật nhưng mà chưa đề cập đến nhóm giáo viên dạy ngoại ngữ mà trong này quy định lại yêu cầu phải có bằng Đại học và 05 năm kinh nghiệm thì chúng tôi đề nghị bổ sung thêm nhóm giáo viên dạy ngoại ngữ người nước ngoài và yêu cầu việc cấp giấy phép lao động cho nhóm giáo viên dạy ngoại ngữ người nước ngoài chỉ là bằng Đại học hoặc 05 năm kinh nghiệm và nếu trong trường hợp bằng Đại học này không có cùng chuyên ngành thì phải có một chứng chỉ dạy ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quốc tế. Quy định này cũng tương đồng với quy định của Singapore. Hiện tại Singapore tuyển giáo viên dạy ngoại ngữ chỉ yêu cầu có bằng Đại học cộng với một chứng chỉ dạy tiếng anh theo tiêu chuẩn dạy quốc tế là được. Kính đề nghị ban soạn thảo bổ sung thêm nhóm giáo viên dạy ngoại ngữ người nước ngoài và yêu cầu chỉ có hai thủ tục như trên.

Đại diện Canon - Đối với Dự thảo thông tư hướng dẫn Nghị định 102, trong trường hợp người lao động xin

chuyển nội bộ trong doanh nghiệp, chỉ có từ tỉnh này sang tỉnh khác thì không cần thiết phải cấp lại giấy phép lao động.

- Liên quan đến vấn đề cấp giấy phép lao động cho lao động chuyên môn, Nghị định 102 và Thông tư đều yêu cầu rằng đối với lao động kĩ thuật đều phải có bằng hoặc giấy chứng nhận được đào tạo chuyên ngành kĩ thuật ít nhất 01 năm ở nước ngoài hoặc văn bản chứng minh họ đã có ít nhất 03 năm kinh nghiệm. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp Nhật Bản như công ty chúng tôi thì việc cấp lại giấy chứng nhận đã được đào tạo chuyên ngành kĩ thuật ít nhất là 01 năm rất là khó và không có cơ quan nào bên Nhật chứng minh việc cấp giấy chứng nhận này. Thông thường, giấy chứng nhận này thường được cấp trong tập đoàn và tập đoàn sẽ cấp cho các lao động trong quá trình họ làm việc. Vì vậy, trong trường hợp này chúng tôi có một kiến nghị là liệu giấy chứng nhận kĩ thuật được đào tạo trong 01 năm được cấp bởi tập đoàn có được chấp nhận hay không? Tiếp theo là các đối tượng không áp dụng giấy phép lao động thì trong Dự thảo thông tư và Nghị định có yêu cầu là đối với các đối tượng không áp dụng giấy phép lao động thì họ vẫn sẽ phải làm các thủ tục để chứng minh là mình thuộc đối tượng không cấp giấy phép lao động. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp Nhật Bản của chúng tôi thì số lượng người ra vào dưới thời hạn 03 tháng là con số rất lớn, trong một năm lên đến 500 người. Như vậy, ngay cả việc họ không thuộc đối tượng áp dụng giấy phép lao động nhưng phải làm các hồ sơ thủ tục để được chứng minh là mình là đối tượng được miễn trữ thì cũng rất là mất thời gian. Vì vậy, chúng tôi đồng quan điểm kiến nghị đối với một số đối tượng sang Việt Nam làm việc trong thời hạn 03 tháng thì sẽ thuộc đối tượng không áp dụng giấy phép lao động và được miễn trừ hồ sơ thủ tục để chứng minh họ thuộc đối tượng không áp dụng giấy phép lao động.

Ông Phạm Trí Trung – Luật sư, Công ty Baker & McKenzie - Về một số định nghĩa trong Dự thảo và Thông tư, tôi xin đề cập đến hai định nghĩa là nhà

cung cấp dịch vụ và kí gửi nước ngoài vào Việt Nam thành lập thương mại hiện diện ở Việt Nam. Trong này chúng ta có nói là nhà cung cấp dịch vụ hoặc những người vào Việt Nam để thành lập hiện diện thương mại là từ một công ty mẹ không có hiện diện thương mại ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện diện thương mại được định nghĩa trong các văn bản của WTO là bao gồm cả văn phòng đại diện chi nhánh hoặc là các công ty. Các công ty này có thể được mua

Trang 3/7

Page 126: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

lại hoặc được thành lập thì chuyện không có hiện diện thương mại sẽ bị vướng vào các công ty có văn phòng đại diện ở đây, họ vẫn cử những người bên công ty mẹ về đây để cung cấp dịch vụ.

- Cũng liên quan đến việc sử dụng từ ngữ thì cũng xin góp ý về từ “người sử dụng lao động” thì chúng ta nên sử dụng chính xác cụm từ đã được định nghĩa ở trong Nghị định. Nghị định nói là: “Người sử dụng lao động nước ngoài” bởi vì khái niệm sử dụng lao động sẽ được hiểu là người kí kết hợp đồng lao động theo bộ luật lao động Việt Nam đã định nghĩa. Trong khi đó, chúng ta có rất nhiều trường hợp, ví dụ như là người lao động di chuyển nội bộ hoặc những người lao động vào để cung cấp dịch vụ thì bản thân doanh nghiệp ở Việt Nam không phải là người sử dụng lao động.

- Một vấn đề nữa là vấn đề xác định nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài. Chúng tôi cũng hiểu rằng vấn đề này là một vấn đề rất khó bởi vì lấy tiêu chí nào mà cho rằng Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh có thể chấp thuận kế hoạch lao động nước ngoài hay không thì thật sự chúng tôi cũng biết đây là một vấn đề rất khó với Bộ Lao động nhưng mà một khi chúng ta đã đặt ở trong Nghị định rồi trong Thông tư chúng ta không nhắc đến tiêu chí nào thì tôi chỉ e ngại rằng trên thực tế, sẽ chỉ xảy ra những trường hợp là trường hợp này được, trường hợp kia được mà không có căn cứ gì.

- Ngoài ra, tôi cũng xin được trình bày về định nghĩa “cư trú” chúng tôi cũng đã nhìn thấy trong một số bản góp ý. Cư trú trong thời hạn bao lâu, trong trường hợp nào thì chúng ta sẽ phải lấy trong bản chứng nhận lí lịch tư pháp ở cả nước mà người đó là công dân và ở cả Việt Nam. Xin lưu ý là từ “cư trú” rất là rộng. Có một vấn đề là chúng ta lấy bài học của Luật Đầu tư thì Luật Đầu tư quy định là người giám đốc đại diện cho pháp luật của doanh nghiệp phải cư trú, thường trú tại Việt Nam. Nhưng theo pháp lệnh về thường trú, cư trú thì nếu mà nói là thường trú phải có đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ Cách mạng thì mới được xét các nguyên tắc về thường trú. Tôi có đọc trên website của Bộ Kế hoạch & Đầu tư có nói rằng là trong trường hợp đó ta chỉ xác định là có thẻ tạm trú được gọi là thường trú rồi.

- Còn vấn đề về lí lịch tư pháp thì cũng xin chia sẻ là trên thực tế có những người là giám đốc quản lý điều hành có thể cư trú trên rất nhiều lãnh thổ khác nhau, chẳng lẽ chúng ta lại đòi hết tất cả các lí lịch tư pháp của họ trên tất cả các quốc gia đó?

- Một vấn đề nữa là về Điểm 2.1.i ở trong Nghị định nói rằng Những đối tượng thuộc diện điều chỉnh của Nghị định này là các nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và kĩ thuật viên. Nhưng điều kiện của người lao động nước ngoài vào Việt Nam đã phải là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia, kĩ thuật viên, vậy giữa chuyện chúng ta đưa nó vào thành một tiêu chí nằm trong những đối tượng nước ngoài phải được cấp phép lao động với lại điều kiện. Khi đã vào Việt Nam, anh phải thỏa mãn là nhà điều hành, quản lý, giám đốc, chuyên gia, v.v ... mà lại đưa đối tượng đó thành một tiêu chí để cấp phép lao động.

- Đối tượng bắt buộc phải cấp giấy phép lao động thì hiện nay chúng ta có đối tượng là người nước ngoài vào để thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam. Trong bối cảnh gia nhập WTO, người nước ngoài vào thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam sẽ được vào với thời giạn là 60 ngày hay 90 ngày. Tuy nhiên, họ làm những việc gì thì phải có giấy phép lao động?

Trang 4/7

Page 127: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Phản hồi từ phía Ông Lê Quang Trung - Cục phó Cục việc làm, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Chúng tôi đánh giá rất cao các nhà đầu tư nước ngoài đã đến Việt Nam đầu tư và đã tạo ra

khoảng 5 triệu việc làm cho người lao động cả trực tiếp và gián tiếp và số lượng người nước ngoài vào Việt Nam cũng là một số lượng lớn, vào các ngành giúp Việt Nam phát triển, đặc biệt là những lĩnh vực mới. Như quý vị cũng biết, các quy định liên quan đến vấn đề người nước ngoài tới Việt Nam làm việc thì trong những năm gần đây chúng tôi tính bình quân hai năm lại có một đợt. Lí do vì sao luôn có sự phát triển nên có vấn đề mới đặt ra phải xử lý, hoàn thiện để hướng tới đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế - xã hội đất nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho những người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc ở những vị trí mà người lao động Việt Nam chưa đảm nhiệm được.

- Buổi hôm nay tôi sẽ đưa ra ba nhóm nội dung để cùng chia sẻ với quý vị. Thứ nhất là Bộ Luật lao động có 7 Điều quy định về vấn đề người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam thì Nghị định 102 của Chính phủ chỉ được hướng dẫn trong 7 Điều trong Luật quy định, muốn thay đổi điều gì thì phải được Quốc hội thông qua. Chúng tôi đưa ra dự thảo thông tư thì cũng chỉ được hướng dẫn điều gì trong Nghị định 102 cần phải hướng dẫn. Chúng tôi đã chỉ đạo các Sở Lao động & Thương binh Xã hội ở các địa phương vào tháng 05/2013 là tất cả những quy định của Bộ Luật lao động đều phải thực hiện. Từ 1/11/2003 thì tất cả quy định trở lại đây thì quy định trong Nghị định 102 bắt buộc phải thực hiện. Có thể ở giai đoạn đầu nhận thức và cách hiểu của một hoặc một số địa phương nào đó chưa được thống nhất thì chúng tôi cũng đã qua diễn đàn doanh nghiệp, qua đối thoại với các nhà đầu tư, chúng tôi đã yêu cầu các địa phương, đặc biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để làm sao thực hiện đúng. Ở đây có một vấn đề liên quan đến quá trình xin ý kiến của các quý vị thì chúng tôi đã gửi văn bản để xin ý kiến của tất cả các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, các cơ quan tổ chức nước ngoài, một số cơ quan nước ngoài tại Việt Nam cũng như hiệp hội và một số doanh nghiệp lớn nước ngoài tại Việt Nam từ ngày 1/11 và đến ngày 30/11 là hết hạn. Tuy nhiên, cũng phải nói thật là chúng tôi mới nhận được ý kiến của EuroCham và nhận được ý kiến của Canon có liên hệ trực tiếp và chúng tôi cũng trao đổi trực tiếp về các kiến nghị. Thế còn chúng ta bây giờ phải xem lại cách lấy ý kiến và cách tham gia ý kiến thế nào để thuận sau này vì chúng tôi gửi mà không nhận được ý kiến của các quý vị thì không biết là thất lạc hay là cách nào đó thì như thế là không ổn.

- Vấn đề thứ hai về thuật ngữ thì ngoài thuật ngữ đã được quy định trong Nghị định 102 thì trong Dự thảo thông tư chúng tôi cũng quy định thêm một số thuật ngữ dựa trên cơ sở của cam kết dịch vụ WTO. Về thủ tục hành chính thì quý vị cũng nói nhiều đến đồng thời hai loại giấy tờ là thời gian đào tạo, cấp đào tạo và kinh nghiệm thì đây là một vấn đề mà trong Nghị định 102 đã quy định. Nhưng đối với chuyên gia hoặc lao động kĩ thuật thì nếu có giấy chứng nhận của nước ngoài rằng anh/chị ấy là chuyên gia thì không cần hai loại giấy tờ kia, trong thông tư chúng tôi sẽ quy định rõ.

- Vấn đề thứ ba về giấy lý lịch tư pháp thì trong luật cũng đã quy định là phải có thêm giấy chứng nhận không vi phạm pháp luật của Việt Nam và nước ngoài, đây là quy định của Luật và Nghị định 102. Có quý vị nói rằng cần quy định của nước trước khi đến hay những nước anh ta đã làm việc trước đây thì trong Nghị định 102 có quy định là của nước ngoài nhưng có giá trị thời hạn trong 06 tháng kể từ ngày xác nhận. Chúng tôi chỉ nhận những giấy xác nhận mà anh ta không vi phạm pháp luật, không có tiền án và còn giá trị sau 6 tháng. Về chứng nhận sức khỏe thì các quý vị cũng biết là Bộ Y tế đã có văn bản, chúng tôi đã thông báo tất cả các sở thông tin xã hội thực hiện theo Thông tư số 14 năm 2013 của Bộ Y tế. Đối

Trang 5/7

Page 128: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

với các trường hợp dưới 03 tháng vào Việt Nam làm việc thì luật quy định là vào Việt Nam làm việc là phải cấp giấy phép lao động, trừ những trường hợp khẩn cấp. Các trường hợp cung cấp thì trong Bộ Luật lao động đã quy định và Nghị định 102 cũng đã nói đến rất nhiều trường hợp không cấp giấy phép lao động, trong đó riêng chỗ chị Ngọc bên giáo dục thì thấy rằng các trường quốc tế ở Việt Nam có 11 trường thì đây là những trường không phải cấp giấy phép lao động. Những người có bằng thạc sĩ, tiến sĩ tương đương trở lên vào nghiên cứu, giảng dạy với thời hạn dưới 30 ngày thì cũng không phải cấp giấy phép lao động. Đối với các trường hợp cấp lại giấy phép lao động thì xin lưu ý với quý vị là những người đó di chuyển ra ngoài tỉnh có toàn bộ thời gian di chuyển thì mới làm thủ tục, còn nếu không có toàn bộ thời gian thì không phải thực hiện yêu cầu. Các vị cũng biết là luật cũng như nghị định, thông tư thì trong luật không có quy định gia hạn giấy phép lao động. Chính vì vậy, trong các trường hợp cấp lại giấy phép bây giờ chúng tôi cũng tạo điều kiện hết mức về mặt thủ tục hành chính để thực hiện việc cấp lại giấy phép lao động. Riêng với trường hợp có người nước ngoài vào thành lập hiện diện nước ngoài tại Việt Nam thì tại Điểm d Khoản 8 Điều 10 của Nghị định 102 cũng có nói giấy tờ mà người phía nước ngoài cử sang làm việc là cơ sở hành chính của việc cấp giấy phép lao động.

- Tám ý kiến hôm nay với 17 vấn đề các quý vị đưa ra thì chúng tôi sẽ nghiên cứu để hoàn thiện thông tư. Khi ban hành thông tư thì chúng tôi cho rằng sau này khi cần thiết chúng ta cứ làm sao hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Chính vì vậy, sau khi thông tư ban hành, chúng tôi cũng có thể đề nghị với Cục Đầu tư nước ngoài tổ chức một cuộc đối thoại để chúng ta trao đổi về các vấn đề và để làm sao thực hiện tốt vấn đề. Và chúng tôi cũng có một đề nghị với các hiệp hội cùng với chúng tôi và Cục Đầu tư nước ngoài tổ chức một nghiên cứu, hình thành một dự án nghiên cứu về pháp luật, kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề để làm sao thu hút được lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật để chúng ta đáp ứng nhu cầu. Ví dụ cứ nói là giảm thiểu thủ tục hành chính nhưng chúng tôi trong nhiều lần đối thoại cũng đề nghị là bỏ những loại giấy tờ không cần thiết, sau một hồi thì thấy rằng có khi nhiều nước lại có nhiều giấy tờ hơn Việt Nam. Việc này cũng nhờ chỗ chị Ngọc bên Cục Đầu tư nước ngoài là đầu mối giúp anh em chúng tôi cùng với AmCham, EuroCham, AusCham, KorCham để hình thành phương án nghiên cứu vấn đề này vì có dự án di cư ra nước ngoài, có dự án di cư ở trong nội địa. Di cư mà người nước ngoài vào Việt Nam hình như cũng chưa được đề cập đến.

Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc – Phó Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Đứng từ góc độ Bộ Kế hoạch & Đầu Tư, chúng tôi hiểu rằng việc sửa đổi Thông tư dễ hơn

sửa đổi Nghị định mà chúng tôi cho rằng đấy cũng là một văn bản quy phạm pháp luật, chúng ta ban hành rồi thì cũng phải có tính thực tế cao. Qua buổi họp ngày hôm nay thì có lẽ là ban soạn thảo tiếp thu và để phía doanh nghiệp góp ý lại một lần nữa trong vòng một tuần trước khi bên phía Cục việc làm trình lãnh đạo Bộ.

- Tôi đề nghị trên cơ sở cuộc họp ngày hôm nay góp ý bằng văn bản từ phía cộng đồng doanh

nghiệp thì bên anh xem tiếp thu được cái gì thì có thể tiếp thu và gửi lại, đồng ý là sửa lại những điều khoản nào thì phải sửa rất cụ thể và ví dụ không đồng ý thì cũng phải nói lí do vì sao không đồng ý hoặc cách sửa như thế nào hoặc các anh chị có thể cho không đi theo phương án hay có hai phương án thì nó rất linh hoạt và cũng dễ cho ban soạn thảo.

- Như tôi đã nói ban đầu, mục tiêu của chúng ta là góp ý cho thông tư nên đề nghị là chúng ta

chỉ đặt vấn đề ở tầm thông tư chứ không thể đặt ở tầm những vướng mắc trong nghị định và những luật khác. Nếu trên tinh thần đó thì có lẽ đề nghị các anh chị góp ý thêm nếu cần

Trang 6/7

Page 129: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về lao động nước ngoài Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

có những nội dung gì trong thông tư mà cần góp ý về mặt kĩ thuật thì các anh chị có thể đóng góp ý kiến và gửi lại cho chúng tôi.

Bà Nicola Connolly – Trưởng Tiểu nhóm Nhân sự, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, nhiều dữ liệu đầu vào sẽ được cung cấp để

các Thông tư được thảo luận thêm. Liên quan đến các khảo sát, EuroCham đã tiến hành một cuộc khảo sát về so sánh giấy phép lao động và điều này sẽ tốt cho những so sánh trong tương lai cũng như các cuộc khảo sát về việc làm của người nước ngoài.

Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc – Phó Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Về phía doanh nghiệp cũng đã đưa những góp ý vững chãi cho Dự thảo Thông tư, còn về

phía Bộ Kế hoạch & Đầu tư thì chúng tôi sẽ phối hợp với các bên liên quan có thể có một dự án để làm sao khảo sát kinh nghiệm quốc tế rồi làm sao để cho các cơ quan quản lý nhà nước có thêm thông tin về lĩnh vực này để làm sao cho quá trình hoạch định chính sách chúng tôi đưa ra những chính sách phù hợp hơn, hợp với thông lệ quốc tế hơn.

Phụ lục 1 - Danh sách tham dự

TT Họ và tên Chức danh Đơn vị Đại diện Bộ ngành liên quan

1 Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

2 Ông Lê Quang Trung Phó Cục trưởng Cục Việc làm 3 Ông Dương Mạnh Hùng Trưởng phòng Cục Việc làm 4 Bà Lê Thị Nguyệt Ánh Phó trưởng phòng Cục Đầu tư nước ngoài 5 Ông Phùng Việt Cường Phó phòng Sở Kế hoạch & Đầu tư

Thành viên VBF

1 Bà Nguyễn Kim Dung Đại diện Tiểu nhóm Đào tạo và Giáo dục VBF

2 Bà Nguyễn Thu Thủy Đối ngoại/HR APOLLO Việt Nam 3 Ông Ha, Man Choong Luật sư KORCHAM 4 Ông Kim, Jung In Chủ tịch KORCHAM 5 Bà Nicola Connolly Trưởng Nhóm Tiểu Nhóm Nhân sự 6 Ông Laurent Quistrebert Giám đốc Resident VN 7 Bà Mai Lan Anh Quản lý cấp cao Ernst & Young 8 Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền Quản lý cấp cao Ernst & Young 9 Ông Phạm Trí Trung Luật sư Baker & McKenzie

10 Bà Nguyễn Thị Phương Trang Trợ lý Luật Baker & McKenzie 11 Bà Nguyễn Hoàng Anh Luật sư Baker & McKenzie 12 Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung Phụ trách pháp chế Công ty Canon Việt Nam 13 Bà Đàm Phương Mai Phụ trách pháp chế Công ty Canon Việt Nam 14 Ông Daniel Carl Cán bộ kinh tế Đại sứ quán Mỹ 15 Bà Lê Minh Thư Luật sư VILAF 16 Bà Lê Thị Hoàng Yến Giám đốc nhân sự Hội đồng Anh tại Việt Nam 17 Bà Nguyễn Khánh Cẩm Châu Chuyên gia kinh tế Đại sứ quán Mỹ

Trang 7/7

Page 130: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Luật Doanh nghiệp

Page 131: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT DOANH NGHIỆP Chuẩn bị bởi

Baker & McKenzie (Vietnam) Limited STT Vấn đề Điều khoản Kiến nghị 1 Nộp thuế đăng ký kinh doanh

tại thời điểm thành lập doanh nghiệp

Điều 30.5 Trong các điều kiện cần đáp ứng để được cấp giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ("GCNĐKDN"), doanh nghiệp phải nộp thuế đăng ký doanh nghiệp. Thông thường, các khoản thuế sẽ được thanh toán theo mã số thuế đăng ký doanh nghiệp, vốn chỉ được cấp sau khi doanh nghiệp đã thành lập. Do đó, khoản thuế đăng ký doanh nghiệp này nên được thanh toán sau khi doanh nghiệp đã thành lập và Điều 30.5 không yêu cầu chứng từ về nộp thuế đăng ký doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh.

2 Góp vốn điều lệ trong vòng 90 ngày từ ngày thành lập doanh nghiệp

Điều 49.2 và Điều 75.2 Chủ sở hữu phải góp vốn trong vòng 90 ngày từ ngày có GCNĐKDN. Quy định này không hợp lý nếu vốn điều lệ quá lớn. Ngoài ra, việc mở tài khoản ngân hàng và thực hiện các thủ tục liên quan sẽ kéo dài đến gần 3 tháng. Do đó nên giữ nguyên quy định hiện tại là 36 tháng.

3 Các quy định mâu thuẫn nhau Điều 75.3 Một công ty TNHH 1 thành viên phải đăng ký sửa đổi khoản vốn điều lệ của mình theo tỷ lệ thực góp trong trường hợp không góp đủ trong vòng 90 ngày. Quy định này thực chất là cho phép giảm vốn điều lệ. Tuy nhiên theo Điều 88.1, công ty TNHH 1 thành viên không được giảm vốn điều lệ.

4 Đặt tên riêng của doanh nghiệp bằng tiếng nước ngoài

Điều 41

Dự thảo giới hạn các thứ tiếng nước ngoài mà doanh nghiệp được phép sử dụng là Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha. Tại sao lại có sự giới hạn như thế này?

5 Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (GCNĐKDN)

Điều 31 GCNĐKDN phải ghi thông tin cá nhân của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp khi có nhu cầu thay đổi người đại diện theo pháp luật. Theo chúng tôi, thông tin liên quan đến người đại diện theo pháp luật chỉ cần phải được công bố trên Cổng đăng ký thông tin doanh nghiệp, có thể được doanh nghiệp tự điều chỉnh, và bên

Trang 1/3

Page 132: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

STT Vấn đề Điều khoản Kiến nghị thứ ba có thể dễ dàng tìm kiếm xác minh thông tin này, không cần phải nêu trong GCNĐKDN.

6 Quy định về quyền của thành viên

Điều 51 Cần phải điều chỉnh “phần vốn góp” thành “phần vốn thực góp, trừ phi điều lệ công ty có quy định khác”.

7 Thể thức tiến hành họp HĐTV Điều 60.3 Nghị quyết 71 phê chuẩn việc gia nhập WTO

Điều 60.3 nên bỏ đoạn “Thành viên, người đại diện theo uỷ quyền của thành viên phải tham dự và biểu quyết tại cuộc họp Hội đồng thành viên” vì điều này không cần thiết. Các cuộc họp nên được tổ chức khi đạt tỷ lệ tham dự theo quy định. Trong cùng điều này, phần thể thức tiến hành họp cần quy định cho rõ ràng các thành viên có thể tham gia bằng các hình thức như tham dự qua điện thoại, và các phương tiện thông tin điện tử khác, miễn là các thành viên có thể cùng thảo luận và biểu quyết các vấn đề trong chương trình họp.

8 Quy định về Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của Công ty TNHH một thành viên không được là người có liên quan của HĐQT hoặc người có thẩm quyền bổ nhiệm HĐQT/Chủ tịch

Điều 82.3(b) Đề nghị bỏ quy định này đối với các công ty TNHH một thành viên. Nếu áp dụng điều khoản này, các công ty sẽ gặp khó khăn trong việc bổ nhiệm nhân sự. Đây là vấn đề quản lý nội bộ của doanh nghiệp, chủ sở hữu nên có quyền quyết định vấn đề này.

9 Trách nhiệm của Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác

Điều 141

Cần xác định rõ thế nào là “không thực hiện đúng”, “không đầy đủ”, không kịp thời” hoặc “trái với quy định”. Vì theo dự thảo hiện tại chỉ cần những người quản lý vi phạm, dù lỗi rất nhỏ, thì đều có thể bị khởi kiện.

10 Có cần quyết định của ĐHĐCĐ với bất kỳ thay đổi nào của Điều lệ Công ty?

Điều 114 Điều 114 yêu cầu ĐHĐCĐ quyết định việc sửa đổi Điều lệ. Điều lệ Công ty có rất nhiều nội dung, như Đại diện theo pháp luật, văn phòng, chi nhánh, địa chỉ trụ sở... Do đó, nếu thay đổi vào Điều lệ đều phải do ĐHĐCĐ thông qua, thì tất cả mọi thay đổi về mặt hành chính (như đại diện theo pháp luật, thành lập

Trang 2/3

Page 133: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

STT Vấn đề Điều khoản Kiến nghị văn phòng đại diện, chi nhánh, địa chỉ trụ sở, là những vấn đề do HĐQT quyết định) sẽ về mặt thực chất cần phải được ĐHĐCĐ thông qua, điều này gây nhiều khó khăn cho công ty vì ĐHĐCĐ chỉ được triệu tập mỗi năm một lần. Chúng tôi kiến nghị Điều này nên quy định rằng ĐHĐCĐ chỉ quyết định các vấn đề dẫn đến thay đổi Điều lệ mà không thuộc thẩm quyền quyết định của HĐQT. Ngoài ra, trong các quy định về thủ tục hành chính để thi hành các thay đổi này (theo quyết định của HĐQT hoặc ĐHĐCĐ tùy trường hợp), chỉ cần yêu cầu nộp nghị quyết của HĐQT hoặc ĐHĐCĐ, không cần nộp Điều lệ. Điều lệ nên chỉ được xem là tài liệu nội bộ của Công ty.

11 Thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật

Điều 31 Trên thực tế, thẩm quyền của Người đại diện theo pháp luật có thể bị giới hạn hoặc bị hạn chế trong điều lệ công ty. Tuy nhiên, sự giới hạn này không được thể hiện trong GCNĐKDN, do vậy các đối tác không thấy được điều đó. Chúng tôi đề xuất LDN nên có quy định yêu cầu doanh nghiệp phải đăng thông tin của mình trên Cổng đăng ký thông tin doanh nghiệp. Website Cổng đăng ký thông tin doanh nghiệp cần được mở cho các doanh nghiệp có thể truy cập, tự đăng thông tin của mình, và cho phép bên thứ ba có thể tìm thấy các thông tin đó.

Trang 3/3

Page 134: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT DOANH NGHIỆP (LDN) Chuẩn bị bởi

VILAF I. Một số góp ý chính

1. Định nghĩa “nhà đầu tư nước ngoài” Định nghĩa của Dự thảo LDN không thống nhất với định nghĩa tại Dự thảo Luật Đầu Tư (LĐT). Dự thảo LDN đưa ra định nghĩa mới về nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đề xuất định nghĩa mới trong Dự thảo không thống nhất với định nghĩa về nhà đầu tư nước ngoài theo Quyết định 88 và Quyết định 55 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn việc mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam. Theo Quyết định 88 và Quyết định 55, giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài để xác định một công ty là nhà đầu tư nước ngoài là 49%. Trong khi đó, Dự thảo LDN đưa ra giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài ở mức cao hơn là 50%.

Đề nghị thay đổi giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong Dự thảo từ 50% xuống 49% để thống nhất với các quy định khác.

2. Quyền tiến hành hoạt động kinh doanh Điều 9.1 của Dự thảo LDN quy định rằng các doanh nghiệp chỉ được tiến hành các ngành nghề kinh doanh có điều kiện sau khi đã đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều khoản này dường như cho phép các doanh nghiệp được tự do lựa chọn và tiến hành các ngành nghề kinh doanh không thuộc lĩnh vực có điều kiện, ngay cả khi ngành nghề đó không được ghi trong Giấy Chứng nhận Đăng ký kinh doanh (GCN ĐKKD) của doanh nghiệp. Không rõ là theo quy định này các doanh nghiệp có được tự do tiến hành các ngành nghề kinh doanh không điều kiện mà không cần phải đăng ký với cơ quan nhà nước hay không. Vấn đề này cần được quy định cụ thể hơn tại Dự thảo để tránh các cách hiểu khác nhau. Điều 9.1 cũng cần làm rõ liệu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) có được quyền tiến hành các ngành nghề kinh doanh không có điều kiện nhưng không được ghi trong giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) của doanh nghiệp hay không.

3. Tỷ lệ biểu quyết Các quy định về tỷ lệ biểu quyết tối thiểu áp dụng đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên tại LDN hiện hành và Dự thảo LDN dễ gây ra sự nhầm lẫn và khó hiểu khi đối chiếu với quy định tại Nghị quyết 711 của Quốc hội phê chuẩn nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Cụ thể, Nghị quyết 71 quy định rằng một công ty TNHH được phép quy định trong điều lệ của mình tỷ lệ biểu quyết theo đa số phiếu (kể cả tỷ lệ đa số 51%) để thông qua các quyết định của Hội đồng Thành viên. Không rõ liệu Nghị quyết 71: (i) chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp liên doanh hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ đã được

Việt Nam cam kết tại biểu Cam kết gia nhập WTO; hay (ii) áp dụng chung cho tất cả các công ty TNHH. Chúng tôi hiểu rằng LDN được áp dụng cho cả doanh nghiệp trong nước lẫn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, nên áp dụng một tỷ lệ biểu quyết chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp không kể nguồn vốn thành lập doanh nghiệp đó là từ đâu. Đề nghị áp dụng tỷ lệ biểu quyết theo đa số 51% như hướng dẫn tại Nghị quyết 71.

1 Nghị quyết 71/2006/NQ-QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc hội phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập WTO của Việt Nam (“Nghị quyết 71”)

Trang 1/14

Page 135: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

II. Góp ý chi tiết

STT Vấn đề Góp ý 1. Phạm vi điều chỉnh ( Điều 1 Dự thảo LDN) Điều 1 của Dự thảo LDN bỏ cụm từ “hoạt động” của doanh nghiệp khỏi phạm vi

điều chỉnh của LDN. Tuy nhiên Điều 3.1 của Dự thảo lại quy định rằng “Việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp áp dụng theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Do đó, cụm từ “hoạt động” của doanh nghiệp nên được giữ nguyên tại Điều 1.

2. Định nghĩa “góp vốn” và “phần vốn góp” (Điều 4.4 và 4.5 của Dự thảo LDN)

Một số điều khoản của Dự thảo vẫn sử dụng cụm từ “tỷ lệ phần vốn góp” (ví dụ các Điều 17.3(b), 49.2 và 59.1(b)), trong khi đó theo định nghĩa tại Điều 4.5 của Dự thảo, bản thân cụm từ “Phần vốn góp” đã có nghĩa là tỷ lệ. Đề nghị sửa lại các Điều nói trên cho phù hợp với đinh nghĩa tại Điều 4.5.

3. Định nghĩa “vốn điều lệ” (Điều 4.6 của Dự thảo LDN) Các Điều 49.1, 75.1 và 90.1 của Dự thảo LDN đều đã định nghĩa “Vốn Điều lệ” của công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty TNHH một thành viên và công ty cổ phần (CTCP). Ngoại trừ định nghĩa về Vốn Điều lệ của CTCP nêu tại Điều 90.1 của Dự thảo, định nghĩa Vốn Điều lệ của Công ty TNHH tại Điều 49.1 và 75.1 không phù hợp với định nghĩa nêu tại Điều 4.6. Đề nghị xóa bỏ định nghĩa về Vốn Điều lệ tại Điều 4.6 hoặc định nghĩa tại các Điều 49.1, 75.1 và 90.1 để bảo đảm sự thống nhất trong Dự thảo.

4. Định nghĩa “Cổ đông sáng lập” và “Người thành lập doanh nghiệp” (Điều 4.13 và 4.18 Dự thảo LDN) “Cổ đông sáng lập” là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh công ty cổ phần.

Đề nghị sửa lại định nghĩa “Cổ đông sáng lập” như sau: “”Cổ đông sáng lập” là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong Giấy đề nghị thành lập ban hành Giấu chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty cổ phần.” Đề nghị sửa lại tương tự như trên đối với định nghĩa về “Người thành lập doanh nghiệp”. Lưu ý rằng không có Điều 4.12 trong Dự thảo LDN.

Trang 2/14

Page 136: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

“Người thành lập doanh nghiệp” là tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới và và ký tên trong Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp.

5. Người đại diện theo ủy quyền (Điều 4.16 Dự thảo LDN) Người đại diện theo ủy quyền là cá nhân được thành viên công ty, chủ sở hữu và cổ đông là tổ chức uỷ quyền bằng văn bản thực hiện các quyền tại Hội đồng thành viên và Đại hội đồng cổ đông theo quy định của Luật này.

Điều 4.16 và Điều 17 Dự thảo LDN dường như chỉ quy định về người đại diện theo ủy quyền của thành viên/cổ đông là tổ chức. Quy định này lặp lại quy định tại Điều 4.14 LDN hiện hành và Điều 22 Nghị định 1022. Cách quy định hẹp như vậy về người đại diện theo ủy quyền đặt ra vấn đề rằng liệu một thành viên là cá nhân của công ty TNHH hoặc một cổ đông là cá nhân của CTCP có được phép chỉ định người đại diện theo ủy quyền của mình không. Định nghĩa này của Dự thảo đã vi phạm quyền được chỉ định người đại diện theo ủy quyền của cá nhân quy định tại Điều 143.1 Bộ luật Dân sự 2005. Do đó, đề nghị sửa lại định nghĩa về người đại diện theo ủy quyền trong Dự thảo LDN để đảm bảo sự bình đẳng về quyền giữa thành viên/cổ đông là cá nhân với thành viên/cổ đông là tổ chức.

6. Định nghĩa “Người có liên quan” (Điều 4.23 Dự thảo LDN)

Điều 4.23(b) dẫn chiếu tới Điều 4.15. Tuy nhiên, Điều 4.15 là định nghĩa về “Người quản lý doanh nghiệp”, không liên quan đến Điều 4.23. Dẫn chiếu tại Điều 4.23(b) cần được sửa lại. Điều 4.23 chỉ quy định về “người có liên quan” của công ty mà không quy định về người có liên quan của một cá nhân. Điều này gây khó khăn cho việc xác định liệu một giao dịch có được coi là “giao dịch với người có liên quan” theo Điều 70.1(b), 142.1(a) và (c) của Dự thảo LDN hay không bởi luật không quy định ai là người có liên quan của cá nhân (ví dụ Tổng giám đốc, thành viên HĐQT, Đại diện theo ủy quyền của Thành viên). Dự thảo nên tham khảo định nghĩa “người có liên quan” tại Điều 6.34 Luật Chứng khoán.

7. Định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài” (Điều 4.30 Dự thảo Định nghĩa của Dự thảo LDN không thống nhất với định nghĩa tại Dự thảo LĐT.

2 Nghị định 102/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn Luật Doanh nghiệp (“Nghị định 102”)

Trang 3/14

Page 137: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

LDN) Điểm (c) Điều 4.30 quy định rằng nhà đầu tư nước ngoài, bên cạnh các trường hợp khác, là một công ty được thành lập tại Việt Nam và thuộc một trong những trường hợp sau: (i) Một hoặc các thành viên, cổ đông là người nước

ngoài sở hữu trên 50% cổ phần phổ thông hoặc vốn điều lệ đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.

(ii) Đa số thành viên hợp danh là người có quốc tịch nước ngoài đối với công ty hợp danh.

(iii) Chủ doanh nghiệp tư nhân là người nước ngoài.

Dự thảo LDN đưa ra định nghĩa mới về nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đề xuất định nghĩa mới trong Dự thảo không thống nhất với định nghĩa về nhà đầu tư nước ngoài theo Quyết định 88 và Quyết định 55 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn việc mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam. Theo Quyết định 88 và Quyết định 55, giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài để xác định một công ty là nhà đầu tư nước ngoài là 49%. Trong khi đó, Dự thảo LDN đưa ra giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài ở mức cao hơn là 50%. Đề nghị thay đổi giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong Dự thảo từ 50% xuống 49% để thống nhất với các quy định khác.

8. Định nghĩa “Đầu tư nước ngoài” (Điều 4.31 Dự thảo LDN) Cụm từ “Đầu tư nước ngoài” không được sử dụng trong Dự thảo LDN mà chỉ có cụm từ “Nhà đầu tư nước ngoài” được sử dụng. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài thuộc phạm vi điều chỉnh của LĐT, không phải LDN. Định nghĩa này do đó là không cần thiết và nên được bỏ đi.

9. Quyền tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Điều 9.1)

Điều khoản này dường như cho phép các doanh nghiệp được tự do lựa chọn và tiến hành các ngành nghề kinh doanh không thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, ngay cả khi ngành nghề đó không được ghi trong GCN ĐKKD) của doanh nghiệp. Không rõ là theo quy định này các doanh nghiệp có được tự do tiến hành các ngành nghề kinh doanh không điều kiện mà không cần phải đăng ký với cơ quan nhà nước hay không. Đề nghị quy định cụ thể hơn tại Dự thảo để tránh các cách hiểu khác nhau. Điều 9.1 cũng cần làm rõ liệu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được tiến hành các ngành nghề kinh doanh không có điều kiện không đăng ký trong GCNĐT của doanh nghiệp hay không.

10. Định nghĩa “Đại diện theo pháp luật” (Điều 16.1 Dự thảo LDN)

Phạm vi đại diện của một đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo quy định tại Điều 16.1 Dự thảo không bao gồm việc thay mặt doanh nghiệp đó xác lập các

Trang 4/14

Page 138: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

giao dịch. Về việc áp dụng mô hình có nhiều đại diện theo pháp luật trong một doanh nghiệp, Dự thảo LDN đã không: (i) giải quyết được tình huống có mâu thuẫn giữa các quyết định của các đại

diện theo pháp luật; (ii) quy định cơ chế phân chia thẩm quyền và trách nhiệm giữa các đại diện

theo pháp luât; (iii) quy định rõ liệu một đại diện theo pháp luật có quyền sửa hoặc chấm dứt

các hợp đồng hoặc giao dịch do các đại diện có thẩm quyền khác ký kết hay không; và

(iv) quy định rõ liệu các đại diện theo pháp luật của một doanh nghiệp phải thực hiện các nghĩa vụ do luật quy định cho đại diện theo pháp luật của công ty một cách liên đới hay riêng rẽ, và phải chịu trách nhiệm liên đới hay riêng rẽ về các tổn thất/thiệt hại gây ra do không hoàn thành được các nghĩa vụ đó.

Dự thảo LDN cần quy định chi tiết cơ chế để giải quyết các vấn đề nêu trên hoặc yêu cầu quy định rõ vấn đề này tại điều lệ công ty nếu mô hình này được chính thức áp dụng.

11. Số lượng các đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (Điều 16.2 Dự thảo LDN): Công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể có nhiều hơn 1 người đại diện theo pháp luật. Trong trưởng hợp này, Điều lệ công ty phải quy định cụ thể số lượng và chức danh quản lý của các đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và phải đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh.

Cần đánh số lại các khoản của Điều 16. Có hai khoản 2 trong Điều 16. Việc công ty có nhiều đại diện theo pháp luật sẽ có lợi khi một người đại diện theo pháp luật gặp phải vấn đề dẫn đến không thể tiếp tục làm đại diện theo pháp luật của công ty đó nữa (ví dụ chết, mất tích, chịu án tù, hợp đồng lao động chấm dứt, ...). Khi đó, công ty vẫn có thể tiếp tục hoạt động bình thường do vẫn còn có các đại diện theo pháp luật khác. Tuy nhiên, quy định này của Dự thảo vẫn còn những hạn chế như sau: - Dự thảo chưa quy định cơ chế phân chia thẩm quyền và trách nhiệm giữa các

Trang 5/14

Page 139: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

đại diện theo pháp luât - Dễ xảy ra bất đồng giữa các đại diện theo pháp luật về việc ai ký gì, hoặc về

việc đưa ra quyết định đối với các vấn đề của công ty. Dự thảo chưa giải quyết được tình huống các quyết định của các đại diện theo pháp luật mâu thuẫn với nhau;

- Dự thảo chưa quy định rõ liệu một đại diện theo pháp luật có quyền sửa hoặc chấm dứt các hợp đồng hoặc giao dịch do các đại diện theo pháp luật khác ký kết hay không;

- Dự thảo chưa quy định rõ liệu các đại diện theo pháp luật của một doanh nghiệp phải thực hiện các nghĩa vụ do luật quy định cho đại diện theo pháp luật của công ty một cách liên đới hay riêng rẽ, và phải chịu trách nhiệm liên đới hay riêng rẽ về các tổn thất/thiệt hại gây ra do không hoàn thành được các nghĩa vụ đó; và

- Việc có nhiều đại diện theo pháp luật trong cùng một công ty sẽ dẫn tới việc GCN ĐKKD của công ty sẽ dễ phải sửa đổi thường xuyên hơn do thông tin về các đại diện này trong GCN ĐKKD thay đổi.

Dự thảo LDN cần cân nhắc các vấn đề trên trước khi quyết định áp dụng mô hình nhiều đại diện theo pháp luật trong cùng một công ty. Nếu áp dụng, Dự thảo cần quy định chi tiết cơ chế để giải quyết các vấn đề nêu trên hoặc yêu cầu quy định rõ vấn đề này tại điều lệ công ty.

12. Yêu cầu về nơi cư trú của đại diện theo pháp luật (Điều 16.2, 16.3 và 16.4 của Dự thảo LDN)

Cả LDN hiện hành và Dự thảo LDN đều không quy định rõ điểm này. Vấn đề được đặt ra là dựa trên tiêu chí gì và làm thế nào để xác định một người được coi là “cư trú tại Việt Nam”. Liệu người đó phải có mặt ở Việt Nam từ đủ 183 ngày trở lên (theo quy định về thuế) hay phải có thẻ thường trú (theo quy định về xuất nhập cảnh) mới được coi là “cư trú” ở Việt Nam? Ngoài ra, một vấn đề nữa là người được chỉ định làm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải thỏa mãn yêu cầu nêu trên về nơi cư trú trước hay sau khi người đó được bổ nhiệm làm đại diện theo pháp luật?

Trang 6/14

Page 140: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

13. Quyền góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam (Điều 20.1(a) Dự thảo LDN)

Cụm từ “công ty niêm yết” cần được sửa lại thành “công ty đại chúng” cho phù hợp với quy định tại Quyết định 55.

14. Hợp đồng trước đăng ký doanh nghiệp (Điều 21 Dự thảo LDN) 1. Người thành lập doanh nghiệp được ký các loại hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp trước và trong quá trình đăng ký doanh nghiệp. 2. Trường hợp doanh nghiệp được thành lập thì doanh nghiệp đương nhiên là người tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết quy định tại khoản 1 Điều này trừ trường các bên hợp đồng có thỏa thuận khác. 3. Trường hợp doanh nghiệp không được thành lập thì người ký kết hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này chịu trách nhiệm hoặc người thành lập doanh nghiệp liên đới chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng đó.

Cả LDN hiện hành và Dự thảo LDN đều không quy định rõ liệu các chi phí do người thành lập doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình thành lập và hoạt động của doanh nghiệp có được coi là phần vốn góp của người đó trong doanh nghiệp hoặc có được tính vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp không sau khi doanh nghiệp đó được chính thức thành lập.

15. Định nghĩa vốn điều lệ của công ty TNHH 2 thành viên trở lên (Điều 49.1 Dự thảo LDN)

Định nghĩa chung về “vốn điều lệ” đã được quy định tại Điều 4. Đề nghị bỏ định nghĩa tại Điều 49.1 và chỉ áp dụng một định nghĩa thống nhất tại Điều 4 của Dự thảo.

16. Chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty TNHH (Điều 54.2 Dự thảo LDN)

Việc yêu cầu các bên làm thủ tục sửa GCN ĐKKD sau khi hoàn thành chuyển nhượng vốn có thể khiến việc chuyển nhượng vốn của các bên gặp rất nhiều khó khăn và bị gián đoạn. Cần lưu ý rằng một trong các giấy tờ nộp kèm hồ sơ xin sửa GCN ĐKKD, cùng với các nội dung khác, theo yêu cầu tại Nghị định 43 hiện hành là “các giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng vốn”. Thực tế là giao dịch mua cổ phần/phần vốn góp thường hoàn thành khi GCN ĐKKD sửa đổi được cấp bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó ghi nhận người mua là chủ sở hữu mới của cổ phần/phần vốn góp đó. Tuy nhiên, theo yêu cầu hiện nay để có được

Trang 7/14

Page 141: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

bằng chứng cho việc hoàn thành giao dịch này, giá mua phải được thanh toán trước khi GCN ĐKKD sửa đổi được cấp. Điều này là vô cùng rủi ro cho người mua. Do đó, quy định tại Điều 54.2 Dự thảo LDN nên bị xóa bỏ.

17. Tỷ lệ biểu quyết tại công ty TNHH hai thành viên trở lên (Điều 61.2 Dự thảo LDN) Dự thảo LDN giữ nguyên quy định tại LDN hiện hành về tỷ lệ biểu quyết tại công ty TNHH hai thành viên trở lên. Cụ thể, quyết định của Hội đồng Thành viên sẽ được thông qua tại cuộc họp nếu được số phiếu đại diện ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành viên chấp thuận đối với các vấn đề thông thường, và tối thiểu 75% đối với các vấn đề quan trọng của công ty.

Các quy định về tỷ lệ biểu quyết tối thiểu áp dụng đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên tại LDN hiện hành và Dự thảo LDN dễ gây ra sự nhầm lẫn và khó hiểu khi đối chiếu với quy định tại Nghị quyết 71 của Quốc hội phê chuẩn nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Cụ thể, Nghị quyết 71 quy định rằng một công ty TNHH được phép quy định trong điều lệ của mình tỷ lệ biểu quyết theo đa số (kể cả tỷ lệ đa số 51%) để thông qua các quyết định của Hội đồng Thành viên. Không rõ liệu Nghị quyết 71: (i) chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp liên doanh hoạt động trong các lĩnh vực

dịch vụ đã được Việt Nam cam kết tại biểu Cam kết gia nhập WTO; hay (ii) áp dụng rộng rãi cho tất cả các công ty TNHH. Chúng tôi hiểu rằng LDN được áp dụng cho cả doanh nghiệp trong nước lẫn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, một tỷ lệ biểu quyết chung nên được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp không kể nguồn vốn thành lập doanh nghiệp đó bắt nguồn từ đâu. Đề nghị áp dụng tỷ lệ biểu quyết đa số 51% như hướng dẫn tại Nghị quyết 71.

18. Hợp đồng, giao dịch phải được Hội đồng thành viên chấp thuận (Điều 70.1 Dự thảo LDN)

Dự thảo LDN vẫn giữ nguyên yêu cầu của LDN hiện hành về việc người đại diện theo pháp luật của công ty phải niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty dự thảo hợp đồng hoặc thông báo nội dung chủ yếu của giao dịch dự định tiến hành. Do dự thảo hợp đồng hoặc thông báo về nội dung chủ yếu của giao dịch có thể chứa các thông tin bảo mật, việc yêu cầu phải niêm yết công khai các thông tin này là không hợp lý.

Trang 8/14

Page 142: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đề nghị Dự thảo LDN bỏ yêu cầu nói trên.

19. Góp vốn thành lập công ty TNHH (Điều 75 Dự thảo LDN) Điều 75.2: Điều 6.3 Nghị định 102 quy định thời hạn thành viên phải góp đủ số vốn đã cam kết vào công ty TNHH một thành viên là 36 tháng để từ ngày cấp GCN ĐKKD. Tuy nhiên, Dự thảo LDN đã giảm thời hạn nói trên xuống còn 90 ngày. Điều 75.3: Điều 75.3 Dự thảo LDN mâu thuẫn với Điều 76.1 của LDN hiện hành (tức Điều 88.1 Dự thảo). Điều 76.1 LDN hiện hành và Điều 88.1 Dự thảo LDN quy định rằng công ty TNHH một thành viên không được giảm vốn điều lệ. Trong khi đó, Điều 75.3 Dự thảo lại cho phép công ty TNHH một thành viên được giảm vốn bằng cách “đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị số vốn thực góp” nếu chủ sở hữu không góp đủ vốn điều lệ trong vòng 90 ngày. Điều 75.4: Cụm từ “chịu trách nhiệm cá nhân” tại Điều này dường như không bao gồm trường hợp chủ sở hữu là tổ chức. Điều khoản này nên được sửa lại để tránh nhầm lẫn.

20. Quyền của chủ sở hữu là tổ chức của công ty TNHH (Điều 76.1(d) Dự thảo LDN)

Điều khoản này đã bỏ đi quyền của Hội đồng Thành viên hoặc Chủ tịch công ty TNHH được quyết định các dự án đầu tư có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty. Điều này có thể làm trì hoãn quá trình đưa ra các quyết định đầu tư của công ty bởi quá trình ra quyết định của chủ sở hữu là tổ chức có thể mất khá nhiều thời gian.

21. Giám đốc/Tổng Giám đốc (Điều 82 Dự thảo LDN) Điều 82.1: Điều khoản này làm rõ quy định tại Điều 70.3(b) LDN hiện hành, theo đó Giám đốc không được là người có liên quan của Chủ tịch Công ty, nhưng Chủ tịch Công ty có thể kiêm giám đốc công ty. Điều 82.3(b): Điều khoản này không quy định rõ rằng liệu Giám đốc/Tổng Giám đốc công ty TNHH 1 thành viên không được là người có liên quan của “người có thẩm quyền trực tiếp bổ nhiệm thành viên Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty” hay Giám đốc/Tổng Giám đốc không được kiêm chức danh này. Đề nghị

Trang 9/14

Page 143: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Dự thảo làm rõ điểm này.

22. Hợp đồng, giao dịch của công ty với người có liên quan (Điều 87 Dự thảo LDN)

Điều 87.1: Quy định mới này cho phép công ty TNHH 1 thành viên được quy định trong điều lệ của mình các giao dịch giữa công ty và người có liên quan không cần phải xin chấp thuận. Tuy nhiên, Điều 87.1 chưa làm rõ được vấn đề liệu các giao dịch với người có liên quan có phải xin chấp thuận của cả Hội đồng Thành viên, Giám đốc/Tổng Giám đốc và Kiểm soát viên, hay chỉ cần chấp thuận của Hội đồng Thành viên là đủ. Chấp thuận của Giám đốc, Kiểm soát viên chỉ có thể có được nếu cơ cấu tổ chức của công ty TNHH bao gồm Chủ tịch công ty, Giám đốc và Kiểm soát viên. Đề nghị Dự thảo làm rõ điểm này. Bằng việc thay cụm từ “Người đại diện theo ủy quyền” bằng “Thành viên Hội đồng Thành viên” , Điều 87.1(b) đã loại bỏ giao dịch giữa công ty TNHH 1 thành viên và chủ tịch công ty khỏi phạm vi điều chỉnh của Điều khoản này. Điều 87.3: Dường như Dự thảo quy định Giao dịch với người có liên quan sẽ bị coi là vô hiệu khi và chỉ chi nó cùng lúc rơi vào 2 điều kiện: (a) Giao dịch đó không được giao kết theo đúng quy định của LDN; và (b) Giao dịch đó đã gây ra thiệt hại cho công ty. Dự thảo đã không làm rõ được trường hợp nếu Giao dịch với người có liên quan không giao kết theo quy định của Dự thảo LDN (tức không được Hội đồng Thành viên, Chủ tịch, Giám đốc và Kiểm soát viên thông qua) nhưng không gây ra thiệt hại cho công ty, thì Giao dịch này có bị coi là vô hiệu hay không?

23. Góp vốn vào CTCP (Điều 91 Dự thảo LDN) Dự thảo LDN tăng thời hạn góp vốn vào CTCP từ 90 ngày trong LDN hiện hành lên 120 ngày kể từ ngày cấp GCN ĐKKD. Cụ thể, “Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, HĐQT phải thông báo thời hạn thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua cho các cổ đông. Các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày

Dự thảo dường như cho phép các cổ đông được chuyển nhượng quyền mua các cổ phần đã đăng ký mua cho bên thứ 3 trước khi kết thúc thời hạn 120 ngày như quy định tại Điều 92.1 và 92.2, thể hiện ở các quy định sau: 1. Theo Điều 91.3, trong thời hạn 120 ngày nói trên, số phiếu biểu quyết của các cổ đông được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua; và 2. Theo Điều 91.4(a), chỉ sau khi kết thúc thời hạn 120 ngày nói trên các cổ đông

Trang 10/14

Page 144: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

cổ đông nhận được yêu cầu thanh toán, trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn”

mới bị cấm không được chuyển nhường quyền mua cổ phần cho người khác.

24. Nghĩa vụ của cổ đông phổ thông (Điều 94.1 Dự thảo LDN) Điều khoản này nên được sửa lại thành “trong vòng 120 ngày kể từ ngày công ty được cấp GCN ĐKKD” hoặc “trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thời hạn thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua của HĐQT” cho thống nhất với quy định mới về thời hạn góp vốn vào CTCP tại Điều 91.2 Dự thảo như đã nói ở trên. Cần làm rõ cụm từ “người có liên quan trong công ty” quy định tại khoản này vì đây là một thuật ngữ rộng và do đó có thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Cách khác là giữ nguyên quy định tại Điều 80.1 của LDN hiện hành để tránh nhầm lẫn.

25. Phát hành cổ phần (Điều 101.1 Dự thảo LDN) Dự thảo LDN chưa tách bạch được 2 khái niệm “Phát hành cổ phần” (Điều 101) và “Chào bán cổ phần” (Điều 104). Cụ thể, theo Dự thảo LDN sẽ có 2 cách hiểu như sau: 1. “Phát hành cổ phần” chỉ đơn thuần là việc tăng số “cổ phần được quyền phát hành”. Sau khi đã tăng số cổ phần được quyền phát hành, để tăng vốn điều lệ, công ty phải tiến hành “chào bán” các cổ phần của mình theo quy định tại Điều 104; hay 2. “Phát hành cổ phần” (Điều 101.1) và “Chào bán cổ phần” (Điều 104) là 2 quá trình hoàn toàn tách biệt nhau, trong đó: 2.1. “Phát hành cổ phần” có nghĩa là việc tăng vốn điều lệ (tức tăng số cổ phần đã phát hành) bằng cách tăng số cổ phần được quyền phát hành. Cần lưu ý rằng việc tăng số cổ phần được quyền phát hành không phải lúc nào cũng làm tăng vốn điều lệ, bởi cổ phần được quyền phát hành bao gồm cả cổ phần đã phát hành và cổ phần chưa phát hành. Nếu chỉ có cổ phần chưa phát hành tăng, vốn điều lệ của

Trang 11/14

Page 145: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

công ty sẽ không thay đổi. Do vậy cần làm rõ hơn quy định tại Điều 101.1 để có cách hiểu đúng trong trường hợp này. 2.2. “Chào bán cổ phần” có nghĩa là tăng vốn điều lệ bằng cách chào bán các cổ phần chưa phát hành mà không làm tăng tổng số cổ phần được quyền phát hành của công ty. Đề nghị làm rõ cách hiểu nào là đúng.

26. Phát hành cổ phần riêng lẻ (Điều 102 Dự thảo LDN)

2 thuật ngữ “phát hành” và “chào bán” không được sử dụng nhất quán trong Điều này. Ngoài ra, Dự thảo LDN nên quy định rõ khi nào thì được coi là hoàn tất một đợt phát hành cổ phần riêng lẻ. Phải chăng việc hoàn tất diễn ra vào (i) ngày thanh toán; hay (ii) ngày tên của nhà đầu tư được ghi nhận trong Sổ Cổ đông của công ty; hay (iii) ngày mà cả 2 điều kiện ngày được thỏa mãn. Dự thảo LDN định nghĩa “chào bán cổ phần riêng lẻ” là việc phát hành cổ phần cho các nhà đầu tư không phải nhà đầu tư hiện hữu của công ty, để tránh nhầm lẫn với các trường hợp tăng vốn thông thường khác (tức cổ phần được phát hành cho các cổ đông hiện hữu) của CTCP.

27. Phát hành cổ phần cho cổ đông hiện hữu (Điều 103.5 Dự thảo LDN)

Cụm từ “phát hành cổ phiếu cho người mua” nên được thay thế bởi cụm từ “đăng ký người mua vào Sổ Cổ đông” để tránh nhầm lẫn.

28. Chào bán cổ phần (Điều 104 Dự thảo LDN) Xem góp ý cho Điều 101 của Dự thảo ở phía trên.

29. Nhiệm kỳ và số lượng thành viên HĐQT (Điều 130.2 Dự thảo LDN) Tương tự như LDN hiện hành, Dự thảo LDN quy định rằng trong trường hợp tất cả các thành viên HĐQT cùng kết

Cần đánh số lại các khoản của Điều 130. Có hai khoản 2 trong Điều 130. Cả LDN hiện hành và Dự thảo LDN đều không quy định thời hạn công ty phải bầu ra thành viên HĐQT mới. Để tránh việc bầu mới bị trì hoãn, Dự thảo LDN cần quy định một thời hạn cụ thể cho việc tiến hành bầu thành viên HĐQT mới của công

Trang 12/14

Page 146: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

thúc nhiệm kỳ thì các thành viên đó tiếp tục là thành viên HĐQT cho đến khi có thành viên mới được bầu thay thế và tiếp quản công việc, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.

ty.

30. Thành viên HĐQT độc lập (Điều 130.5, 113.1(b) và 130.6 Dự thảo) Theo Điều 113.1(b) và 130.6, thành viên HĐQT độc lập sẽ hoạt động như thành viên Ban kiểm soát của công ty cổ phần không thuộc diện phải thành lập Ban kiểm soát.

Dự thảo LDN quy định 2 loại thành viên HĐQT, thành viên điều hành và thành viên độc lập. Theo điều 130.5, thành viên HĐQT độc lập là thành viên không có lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công ty trừ lợi ích là thành viên HĐQT. Thành viên HĐQT được quyền tham gia và thảo luận các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị nhưng không có quyền biểu quyết, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác. Quyền hạn và nhiệm vụ của thành viên HĐQT độc lập tương ứng với nhiệm vụ và quyền hạn của Ban kiểm soát. Theo chúng tôi , quy định này là không hợp lý . Nếu mục đích của việc có thành viên HĐQT độc lập là để làm cho hoạt động của HĐQT được rõ ràng , công bằng và vì lợi ích tốt nhất của công ty , thì thành viên HĐQT độc lập nên có quyền và nghĩa vụ tương đương với các thành viên khác của HĐQT , bao gồm quyền biểu quyết . Nếu không, vai trò của thành viên HĐQT độc lập sẽ trùng lặp và gây nhầm lẫn với vai trò của Ban kiểm soát và thậm chí làm cho việc quản trị công ty trở nên phức tạp hơn. Chúng tôi đề xuất rằng: - LDN chỉ nên yêu cầu có thành viên HĐQT độc lập trong các trường hợp đặc

biệt như công ty đại chúng , công ty trong lĩnh vực tài chính (vd. ngân hàng), công ty với hơn 50% vốn nhà nước.

- Thành viên HĐQT độc lập nên có quyền và nghĩa vụ tương đương các thành viên khác của HĐQT.

- LDN nên quy định tiêu chuẩn của thành viên HĐQT độc lập.

31. Tiêu chuẩn của thành viên HĐQT (Điều 131.3 Dự thảo)

Điều 131.1(c) của Dự thảo không bao gồm trường hợp con của thành viên HĐQT (con đẻ hoặc con nuôi) là cổ đông lớn của công ty.

Trang 13/14

Page 147: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Một cổ đông sở hữu ít hơn 1% số cổ phần có quyền biểu quyết của công ty vẫn đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 131.1(d) của Dự thảo để trở thành thành viên HĐQT độc lập . Tuy nhiên, người này không thỏa mãn điều kiện “không có l ợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp” như quy định tại định nghĩa về thành viên HĐQT độc lập tại Điều 130.5. Nói cách khác, tiêu chí đưa ra tại Điều 131.1d là thừa và cần được xóa bỏ.

32. Bổn phận của người quản lý công ty (Điều 140.1(b) và 140.1(c) Dự thảo)

Cả LDN hiện hành và Dự thảo đều yêu cầu người quản lý công ty bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa , và trung thành v ới lợi ích của cổ đông của công ty. Tuy nhiên LDN hiện hành và Dự thảo đều không làm rõ trong trường hợp có xung đột lợi ích và quyền lợi giữa các cổ đồng thì người quản lý doanh nghiệp cần bảo đảm và trung thành với lợi ích và quyền lợi của (những) cổ đông nào. Nếu những nghĩa vụ của người quản lý công ty liên quan đến lợi ích và quyền lợi của cổ đông chỉ được áp dụng khi không có xung đột lợi ích nào giữa các cổ đông , thì lợi ích và quyền lợi của các cổ đông không nên quy định tách rời với lợi ích và quyền lợi của toàn công ty.

33. Quyền và nghĩa vụ của N gười đứng đầu chi nhánh của công ty

Cả Dự thảo và LDN hiện hành đều không có quy định nào về quyền và nghĩa vụ của Người đứng đầu chi nhánh. Do hoạt động của các chi nhánh và văn phòng đại diện của các công ty thành lập tại Việt Nam là rất phổ biến , Dự thảo nên quy định về quyền và nghĩa vụ của người đứng đầu chi nhánh và văn phòng đại diện.

Trang 14/14

Page 148: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến về các vấn đề pháp lý trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ý KIẾN VỀ CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG DỰ THẢO LUẬT DOANH NGHIỆP

Chuẩn bị bởi DFDL Mê Kông

I. Nhận xét chung Nhìn chung, dự thảo ("Dự thảo Luật Doanh nghiệp") sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 do Quốc hội ban hành ("Luật Doanh nghiệp") đã giải quyết một số vấn đề chưa rõ ràng của Luật Doanh nghiệp hiện hành và sẽ tạo ra một khuôn khổ pháp lý chi tiết cho cả doanh nghiệp Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ, vấn đề liên quan đến định nghĩa về "nhà đầu tư nước ngoài" chưa rõ ràng trong một thời gian dài đã được làm rõ trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp. Ngoài ra, Dự thảo Luật Doanh nghiệp đã thống nhất và kết hợp một số vấn đề được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành vào một luật thống nhất, ví dụ vấn đề quản lý các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực được ghi nhận trong trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp, chúng tôi muốn đề xuất một số khuyến nghị dưới đây về một số vấn đề còn tồn tại để có thể hoàn thiện Dự thảo. II. Ý kiến cụ thể 1. Tên của các cổ đông sáng lập trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sau thời gian bị phong tỏa Theo Luật Doanh nghiệp hiện hành, trong vòng 3 năm ("giai đoạn hạn chế"), kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập, công ty phải tiến hành thủ tục sửa đổi để sửa đổi tên của cổ đông sáng lập trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, sau “giai đoạn hạn chế” này, thủ tục sửa đổi trên là không còn cần thiết. Trong thực tế, sau “giai đoạn hạn chế”, tư cách pháp lý của các cổ đông sáng lập tương tự như tư cách pháp lý của các cổ đông thường. Trong thực tế, sau “giai đoạn hạn chế”, cổ đông sáng lập của công ty cổ phần có tên trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có thể không còn là cổ đông sáng lập hoặc thậm chí không là cổ đông. Dự thảo Luật Doanh nghiệp vẫn giữ nội dung này, điều này có thể dẫn đến sự hiểu lầm thông tin về cổ đông sáng lập của công ty cổ phần. Vì vậy, chúng tôi đề nghị Dự thảo Luật Doanh nghiệp nên quy định quy trình sửa đổi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh để có thể xóa tên của cổ đông sáng lập sau “giai đoạn hạn chế”. 2. Bổ sung yêu cầu về công bố thông tin của công ty cổ phần Cả Luật Doanh nghiệp hiện hành và dự thảo Luật Doanh nghiệp đều không có bất kz quy định nào yêu cầu các công ty cổ phần công bố thông tin về các cổ đông lớn như áp dụng đối với công ty đại chúng. Việc công bố thông tin không chỉ cần thiết cho các công ty đại chúng mà còn cho cả các công ty cổ phần nhằm nâng cao tính minh bạch của tất cả các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung quy định công bố thông tin của các cổ đông lớn trong công ty cổ phần trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp.

Trang1/2

Page 149: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến về các vấn đề pháp lý trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

3. Tỷ lệ quyền biểu quyết của Hội đồng thành viên trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới ( "WTO" ) vào năm 2006, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 ("Nghị quyết 71") phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phụ lục ban hành kèm theo Nghị quyết 71 về các nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam, quy định giảm tỷ lệ biểu quyết của hội đồng thành viên đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn , và đại hội đồng cổ đông ("ĐHĐCĐ") đối với công ty cổ phần xuống còn 51% thay vì 65% như quy định trong Luật Doanh nghiệp hiện hành. Tuy nhiên những thay đổi được quy định trong Nghị quyết 71 chưa được làm rõ trong các quy định cụ thể, khiến các nhà đầu tư không chắc chắn về việc được áp dụng tỷ lệ cập nhật hay không. Theo Dự thảo Luật Doanh nghiệp, tỷ lệ cập nhật (51%) đã được áp dụng cho tỷ lệ biểu quyết của đại hội đồng cổ đông của công ty cổ phần. Tuy nhiên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Dự thảo Luật Doanh nghiệp vẫn chưa được sửa đổi (xem Điều 61 của Dự thảo Luật Doanh nghiệp). Vì sự lựa chọn tỷ lệ quyền biểu quyết là một vấn đề rất quan trọng đối với hầu hết các doanh nghiệp và quy định pháp lý cần phải được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các loại công ty, chúng tôi đề nghị tỷ lệ quyền biểu quyết 51% cũng nên được áp dụng cho các công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.

Trang2/2

Page 150: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến của HSBC cho Dự thảo luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

ĐÓNG GÓP Ý KIẾN CỦA HSBC CHO DỰ THẢO LUẬT DOANH NGHIỆP

[Ghi chú: chữ in đậm nghiêng là nội dung bổ sung]

Chuẩn bị bởi HSBC Việt Nam

1. Điều 4 – Khoản 24 & 25 1.1. Chi tiết dự thảo “Điều 4. Giải thích từ ngữ 24. Cá nhân nước ngoài là cá nhân không mang quốc tịch Việt Nam. 25. Tổ chức nước ngoài là tổ chức thành lập ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài.” 1.2. Thực tiễn/Khó khăn khi áp dụng Trong Điều 4 – Giải thích từ ngữ của Dự thảo Luật này không có định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài.Tuy nhiên, Điều 39 của Dự thảo có đề cập đến quy định áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài (chúng tôi xin đề cập cụ thể trong mục 2 dưới đây).Điều này sẽ gây khó khăn cho việc triển khai áp dụng luật sau này. Mặt khác, hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn, thống nhất về nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các định nghĩa khác nhau về nhà đầu tư nước ngoài trong các văn bản pháp luậthiện hành như Pháp lệnh quản lý ngoại hối và văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư như Quyết định 55/2009/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Quyết định 88/2009/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam, dẫn đến dễ gây nhầm lẫn và gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng các quy định của pháp luật của nhà đầu tư. 1.3. Đề xuất Chúng tôi đề xuất sửa đổi điều khoản này như sau: “24. Nhà đầu tư nước ngoài là nhà đầu tư nước ngoài theo quy định tại Luật Đầu Tư” 2. Điều 39 - Khoản 3 2.1. Chi tiết dự thảo “Điều 39.Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn: 3. Thanh toán mọi hoạt động mua, bán, chuyển nhượng cổ phần và phần vốn góp và nhận cổ tức của nhà đầu tư nước ngoài đều phải được thực hiện thông qua tài khoản vốn của nhà đầu tư đó mở tại ngân hàng ở Việt Nam, trừ trường hợp thanh toán bằng tài sản.” 2.2. Thực tiễn/Khó khăn khi áp dụng Như đề cập ở Điểm 1, không có định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài” trong Dự thảo Luật này. Bên cạnh đó, chúng tôi hiểu rằng việc thanh toán mọi hoạt động mua, bán, chuyển nhượng cổ phần và phần vốn góp và nhận cổ tức của nhà đầu tư nước ngoài đều phải đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối, bao gồm cả hoạt động đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

Trang 1/8

Page 151: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến của HSBC cho Dự thảo luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 2.3. Đề xuất Bên cạnh đề xuất bổ sung định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài tại Điểm 1 kể trên chúng tôi đề xuất sửa đổi điều khoản này như sau: “3. Thanh toán mọi hoạt động mua, bán, chuyển nhượng cổ phần và phần vốn góp và nhận cổ tức, của nhà đầu tư nước ngoài phải tuân thủ pháp luật về quản lý ngoại hối, trừ trường hợp thanh toán bằng tài sản” 3. Điều 127 - Khoản 4 3.1. Chi tiết dự thảo “Điều 127. Sổ đăng ký cổ đông 4. Trường hợp cổ đông có thay đổi địa chỉ thường trú thì phải thông báo kịp thời với công ty để cập nhật vào sổ đăng ký cổ đông. Công ty không chịu trách nhiệm về việc không liên lạc được với cổ đông do không được thông báo thay đổi địa chỉ của cổ đông.” 3.2. Thực tiễn Trong trường hợp nhà đầu tư đã tiến hành gửi thông báo thay đổi địa chỉ cho công ty phát hành để cập nhật vào sổ đăng ký cổ đông nhưng thư có thể bị thất lạc trong quá trình vận chuyển, nhà đầu tư sẽ gặp trở ngại trong việc nhận thông tin từ công ty phát hành do địa chỉ mới chưa được cập nhật. Vấn đề này sẽ được khắc phục nếu công ty phát hành có cơ chế để xác nhận với nhà đầu tư khi nhận được thông báo thay đổi địa chỉ. 3.3. Đề xuất Chúng tôi đề xuất sửa đổi khoản này như sau:

“4. Trường hợp cổ đông có thay đổi địa chỉ thường trú thì phải thông báo kịp thời với công ty để cập nhật vào sổ đăng ký cổ đông.Công ty có trách nhiệm xác nhận với nhà đầu tư việc hoàn tất cập nhật địa chỉ mới vào Sổ đăng ký cổ đông.Công ty không chịu trách nhiệm về việc không liên lạc được với cổ đông do không được thông báo thay đổi địa chỉ của cổ đông.”

4. Điều 142 - Khoản 7 4.1. Chi tiết dự thảo “Điều 142. Thẩm quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông 7. Người triệu tập phải thực hiện các công việc sau đây để tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông: a. Lập danh sách cổ đông có quyền dự họp b. Cung cấp thông tin và giải quyết khiếu nại liên quan đến danh sách cổ đông, c. Lập chương trình và nội dung cuộc họp, d. Chuẩn bị tài liệu cho cuộc họp, đ. Dự thảo nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông theo nội dung dự kiến của cuộc họp; đ. Xác định thời gian và địa điểm họp, e. Gửi thông báo mời họp đến từng cổ đông có quyền dự họp theo quy định của Luật này; f. Các công việc khác phục vụ cuộc họp.” 4.2. Thực tiễn Theo kinh nghiệm thực tiễn của chúng tôi, trong trường hợp đại hội đồng cổ đông tổ chức bầu cử thành viên Hội đồng quản trị / Ban kiểm soát trong cuộc họp, danh sách cụ thể và thông tin

Trang 2/8

Page 152: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến của HSBC cho Dự thảo luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 chi tiết về các ứng cử viên không được thông báo cụ thể trong tài liệu họp của Đại hội cổ đông do công ty phát hành cung cấp. Đây là một khó khăn cho các nhà đầu tư trong trường hợp nhà đầu tư cử đại diện của mình tham dự cuộc họp và bỏ phiếu, do họ thiếu thông tin để có thể ra chỉ thị bỏ phiếu trước khi cuộc họp tiến hành. 4.3. Đề xuất Chúng tôi đề xuất sửa đổi khoản này như sau: “7. Người triệu tập phải thực hiện các công việc sau đây để tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông: a. Lập danh sách cổ đông có quyền dự họp b.Cung cấp thông tin và giải quyết khiếu nại liên quan đến danh sách cổ đông, c. Lập chương trình và nội dung cuộc họp, d. Chuẩn bị tài liệu cho cuộc họp, đ. Dự thảo nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông theo nội dung dự kiến của cuộc họp, trong đóbao gồm danh sách và thông tin chi tiết của các ứng cử viên trong trường hợp bầu cử thành viên Hội đồng quản trị / Ban kiểm soát; đ. Xác định thời gian và địa điểm họp, e. Gửi thông báo mời họp đến từng cổ đông có quyền dự họp theo quy định của Luật này; f. Các công việc khác phục vụ cuộc họp.” 5. Điều 145 - Khoản 1 5.1. Chi tiết dự thảo “Điều 145. Mời họp Đại hội đồng cổ đông 1. Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải gửi thông báo mời họp đến tất cả các cổ đông trong Danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất bảy ngày làm việc trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn khác dài hơn. Thông báo mời họp phải có tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp; tên, địa chỉ thường trú của cổ đông thời gian và địa điểm họp, những yêu cầu phải có đối với người dự họp.” 5.2. Thực tiễn Theo quy định của Luật doanh nghiệp hiện hành cũng như tại dự thảo Luật doanh nghiệp này, các công ty cổ phần nói chung phải công bố dự thảo Nghị quyết đại hội cổ đông trước ngày họp 07 ngày. Trong khi đó, theo quy định về công bố thông tin cho các công ty cổ phần là công ty đại chúng theo Luật Chứng Khoán, các công ty đại chúng phải công bố dự thảo Nghị quyết đại hội cổ đông trước ngày họp 15 ngày. Qua kinh nghiệm cung cấp dịch vụ cho các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy rất ít công ty công bố dự thảo nghị quyết cuộc họp trước ngày họp 15 ngày theo như qui định hiện hành. Theo quan sát thực tế của HSBC, dự thảo nghị quyết thường được công bố không sớm hơn 7 ngày trước ngày họp và số công ty thực hiện được điều này, theo thống kê của chúng tôi, cũng chỉ chiếm 22% tổng số cuộc họp cổ đông. Tuy nhiên, nếu có công bố thì các công ty này cũng thường công bố nội dung cuộc họp trước đó. Dự thảo nghị quyết về cơ bản cũng chỉ bao gồm các nội dung này. Vì vậy, khi chưa nhận được dự thảo nghị quyết của cuộc họp, chúng tôi phải dựa vào nội dung họp dự kiến để thông báo cho nhà đầu tư những nội dung sẽ bỏ phiếu.

Trang 3/8

Page 153: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến của HSBC cho Dự thảo luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Do đó, chúng tôi đề xuất quy định thống nhất một thời hạn gửi dự thảo Nghị quyết đại hội cổ đông áp dụng cho các công ty cổ phần nói chung để đơn giản và thuận tiện hợn trong việc triển khai áp dụng cho các công ty cổ phần. 5.3. Đề xuất Chúng tôi đề xuất sửa đổi điều khoản này như sau: “1. Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải gửi thông báo mời họp đến tất cả các cổ đông trong Danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất mười lăm (15) ngày trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn khác dài hơn. Thông báo mời họp phải có tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp; tên, địa chỉ thường trú của cổ đông thời gian và địa điểm họp, những yêu cầu phải có đối với người dự họp. “ 6. Điều 145 - Khoản 3 6.1. Chi tiết dự thảo “Điều 145. Mời họp Đại hội đồng cổ đông 3. Thông báo mời họp phải được gửi kèm theo các tài liệu sau. a) Chương trình họp, các tài liệu sử dụng trong cuộc họp và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp; b) Phiếu biểu quyết; c) Mẫu chỉ định đại diện theo uỷ quyền dự họp.” 6.2. Thực tiễn Theo kinh nghiệm thực tế, nhiều nhà đầu tư nước ngoài kí giấy ủy quyền để chỉ định một cá nhân thay mặt họ dự đại hội cổ đông và bỏ phiếu tại Việt Nam.Công ty phát hành thường yêu cầu giấy ủy quyền này được công chứng và/hoặc hợp pháp hóa trước khi sử dụng làm thủ tục vào dự họp.Tuy nhiên, quá trình công chứng và hợp pháp hóa tại nước ngoài có thể mất đến một tháng mới hoàn thành.Trong khi đó, thị trường Việt Nam chưa có một mẫu chuẩn cho giấy ủy quyền đi họp đại hội cổ đông dành cho nhà đầu tư nước ngoài.Do đó, nhà đầu tư nước ngoài không thể chủ động bắt đầu quá trình kí, công chứng và/hoặc hợp pháp hóa giấy ủy quyền mà phải chờ đến khi công ty phát hành xác nhận mẫu giấy ủy quyền mà họ chấp nhận (thường không sớm hơn 7 ngày trước ngày họp). Chúng tôi xin đề xuất việc quy định một mẫu chuẩn cho giấy ủy quyền dự họp trong bộ luật này hoặc trong các văn bản hướng dẫn dưới Luật này để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các cổ đông là các nhà đầu tư nước ngoài. Cũng theo quan sát thực tế, một số công ty phát hành hiện nay vẫn gửi trực tiếp thư mời họp và các tài liệu họp bằng tiếng Việt cho nhà đầu tư nước ngoài. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài khi xử lý thông tin để thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình tại thị trường Việt Nam. 6.3. Đề xuất Chúng tôi xin đề xuất sửa đổi khoản này như sau: “3. Thông báo mời họp phải được gửi kèm theo các tài liệu sau. a) Chương trình họp, các tài liệu sử dụng trong cuộc họp và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp;

Trang 4/8

Page 154: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến của HSBC cho Dự thảo luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 b) Phiếu biểu quyết; c) Mẫu chỉ định đại diện theo uỷ quyền dự họp (theo mẫu quy định tại luật này / văn bản hướng dẫn thi hành luật này). Thông báo mời họp và các tài liệu họp nêu trên gửi cho nhà đầu tư nước ngoài phải được dịch sang tiếng Anh hoặc là bản song ngữ.” Ngoài ra, chúng tôi đề xuất sửa đổi khoản 1 Điều 146 để quy định việc sử dụng mẫu chuẩn cho Giấy ủy quyền dự họp đại hội cổ đông theo mẫu.Chúng tôi rất sẵn lòng được cung cấp một bản dự thảo mẫu chuẩn cho Giấy ủy quyền dự họp đại hội cổ đông nếu Quý Cơ quan có nhu cầu tham khảo. 7. Điều 146 7.1. Chi tiết dự thảo “Điều 146. Thực hiện quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông 1. Cổ đông có thể trực tiếp tham dự họp, dự họp qua hội nghị trực tuyến hoặc uỷ quyền bằng văn bản cho một người khác dự họp Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp cổ đông là tổ chức chưa có người đại diện theo uỷ quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật này thì uỷ quyền cho người khác dự họp Đại hội đồng cổ đông. Việc uỷ quyền cho người đại diện dự họp Đại hội đồng cổ đông phải lập thành văn bản theo mẫu do công ty phát hành. Người được uỷ quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông phải xuất trình văn bản ủy quyền khi đăng ký dự họp trước khi khi vào phòng họp.

… 3. Cổ đông được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp sau đây: a) Tham dự và biểu quyết trực tiếp tại cuộc họp. b) Ủy quyền cho một người khác tham dự và biểu quyết tại cuộc họp. c) Tham dự và biểu quyết thông qua hội nghị trực tuyến hoặc hình thức khác. d) Gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua gửi thư, bản fax, thư điện tử.” 7.2. Khó khăn khi áp dụng Khoản 3 Điều 146 của Dự thảo luật này qui định cổ đông được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợpđã gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua gửi thư, bản fax, thư điện tử. Trong khi đó, khoản 1 điều này lại không đề cập đến hình thức gửi phiếu biểu quyết qua văn bản/fax/thư điện tử.Chúng tôi đề xuất sửa đổi điều khoản này để đảm bảo tính thống nhất cho văn bản luật và thuận tiện cho việc thực thi. Mặt khác, trong trường hợp phiếu biểu quyết đã được nhà đầu tư gửi đi nhưng do trục trặc kỹ thuật hoặc do thất lạc trong quá trình vận chuyển nên không đến được với công ty phát hành, nhà đầu tư sẽ gặp trở ngại khi thực hiện quyền bỏ phiếu của mình. Chúng tôi đề xuất công ty phát hành có cơ chế để xác nhận với nhà đầu tư khi nhận được phiếu biểu quyết văn bản/fax/thư điện tử. 7.3. Đề xuất Chúng tôi đề xuất sửa đổi khoản này như sau: “1. Cổ đông có thể trực tiếp tham dự họp, dự họp qua hội nghị trực tuyến, gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp qua văn bản/fax/thư điện tử hoặc uỷ quyền bằng văn bản cho một người khác

Trang 5/8

Page 155: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến của HSBC cho Dự thảo luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 dự họp Đại hội đồng cổ đônghoặc ủy quyền cho người khác/tổ chức khác thực hiện kí và gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp qua văn bản/fax/thư điện tử. Trường hợp cổ đông là tổ chức chưa có người đại diện theo uỷ quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật này thì uỷ quyền cho người khác dự họp Đại hội đồng cổ đông. Việc uỷ quyền cho người đại diện dự họp Đại hội đồng cổ đông phải lập thành văn bản theomẫu quy định tạiLuật này/các văn bản hướng dẫn thi hành luật này. Người được uỷ quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông phải xuất trình văn bản ủy quyền khi đăng ký dự họp trước khi vào phòng họp. … 3. Cổ đông được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp sau đây: a) Tham dự và biểu quyết trực tiếp tại cuộc họp. b) Ủy quyền cho một người khác tham dự và biểu quyết tại cuộc họp. c) Tham dự và biểu quyết thông qua hội nghị trực tuyến hoặc hình thức khác. d) Gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua gửi thư, bản fax, thư điện tử.” Trong trường hợp việc biểu quyết của nhà đầu tư được thực hiện theo phương thức quy định tại mục 3.d điều này, công ty phát hành phải xác nhận với nhà đầu tư về việc nhận được phiếu biểu quyết của nhà đầu tư qua văn bản/fax/thư điện tử trong vòng 1 ngày làm việc kể từ khi nhận được” 8. Điều 151 - Khoản 4 8.1. Chi tiết dự thảo “Điều 151. Thẩm quyền và thể thức lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông 4. Phiếu lấy ý kiến đã được trả lời phải có chữ ký của cổ đông là cá nhân, của người đại diện theo uỷ quyền hoặc người đại diện theo pháp luật của cổ đông là tổ chức. Phiếu lấy ý kiến gửi về công ty phải được đựng trong phong bì dán kín và không ai được quyền mở trước khi kiểm phiếu. Các phiếu lấy ý kiến gửi về công ty sau thời hạn đã xác định tại nội dung phiếu lấy ý kiến hoặc đã bị mở đều không hợp lệ; Phiếu lấy ý kiến không được gửi về được coi là phiếu không tham gia biểu quyết” 8.2. Thực tiễn Trong trường hợp của các nhà đầu tư nước ngoài, việc gửi phiếu lấy ý kiến qua văn bản đến công ty phát hành sẽ tiêu tốn chi phí và thời gian vận chuyển, đồng thời có rủi ro bị thất lạc trong quá trình vận chuyển. Trong khi đó, việc gửi phiếu lấy ý kiến qua fax và thư điện tử sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí cho nhà đầu tư. Do đó, chúng tôi đề xuất chấp nhận phiếu lấy ý kiến của nhà đầu tư gửi qua fax và thư điện tử. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của các quy định trong Điều 146 như đã trình bày ở trên. 8.3. Đề xuất Để đảm bảo thống nhất với quy định tại Điều 146 - Khoản 3.d. của dự thảo luật này, chúng tôi đề xuất sửa đổi điều khoản này như sau: “4. Cổ đông có thể gửi phiếu lấy ý kiến đã trả lời của mình đến công ty phát hành dưới những hình thức sau:

Trang 6/8

Page 156: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến của HSBC cho Dự thảo luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 a) Phiếu lấy ý kiến dưới dạng văn bản, có chữ ký của cổ đông là cá nhân hoặc của người đại diện theo uỷ quyền hoặc người đại diện theo pháp luật của cổ đông là tổ chức. Phiếu lấy ý kiến gửi về công ty phải được đựng trong phong bì dán kín và không được mở cho đến khi kiểm phiếu. Các phiếu lấy ý kiến gửi về công ty sau thời hạn đã xác định tại nội dung phiếu lấy ý kiến hoặc đã bị mở đều không hợp lệ; b) Phiếu lấy ý kiến gửi qua fax/thư điện tử. Phiếu lấy ý kiến gửi về công ty qua fax/thư điện tử phải được giữ bí mật cho đến thời điểm kiểm phiếu. Các phiếu lấy ý kiến gửi về công ty sau thời hạn đã xác định tại nội dung phiếu lấy ý kiến hoặc đã bị tiết lộ trước thời điểm kiểm phiếu đều không hợp lệ; Công ty phát hành phải xác nhận với nhà đầu tư về việc nhận được phiếu lấy ý kiến của nhà đầu tư qua văn bản/fax/thư điện tử trong vòng 1 ngày làm việc kể từ khi nhận được. Việc không gửi phiếu lấy ý kiến hoặc phiếu lấy ý kiến không có nội dung trả lời được coi như không tham gia biểu quyết” 9. Điều 152 - Khoản 1 9.1. Chi tiết dự thảo “Điều 152. Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông 1. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông phải được ghi biên bản và có thể ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử khác. Biên bản phải lập bằng tiếng Việt, có thể lập thêm bằng tiếng nước ngoài và phải có các nội dung chủ yếu sau đây: a) Tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp; b) Thời gian và địa điểm họp Đại hội đồng cổ đông; c) Chương trình và nội dung cuộc họp; d) Chủ toạ và thư ký; đ) Tóm tắt diễn biến cuộc họp và các ý kiến phát biểu tại Đại hội đồng cổ đông về từng vấn đề trong nội dung chương trình họp; e) Số cổ đông và tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp, phụ lục danh sách đăng ký cổ đông, đại diện cổ đông dự họp với số cổ phần và số phiếu bầu tương ứng; g) Tổng số phiếu biểu quyết đối với từng vấn đề biểu quyết, trong đó ghi rõ tổng số phiếu hợp lệ, không hợp lệ, tán thành, không tán thành và không có ý kiến; tỷ lệ tương ứng trên tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp; h) Các quyết định đã được thông qua và tỷ lệ phiếu biểu quyết thông qua tương ứng; i) Họ, tên, chữ ký của chủ toạ và thư ký. Biên bản được lập bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài đều có hiệu lực pháp lý như nhau. Trường hợp có sự khác nhau về nội dung biên bản tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì nội dung trong biên bản tiếng Việt có hiệu lực áp dụng.” 9.2. Thực tiễn Hiện nay, số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng tăng. Vì vậy, chúng tôi đề xuất việc quy định yêu cầu công bố bản dịch tiếng Anh của biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, ít nhất áp dụng cho công ty đại chúng và công ty không phải là công ty đại chúng nhưng có quy mô trung bình cho đến lớn (cụ thể là có vốn điều lệ từ 100 tỉ đồng trở lên). 9.3. Đề xuất

Trang 7/8

Page 157: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến của HSBC cho Dự thảo luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Chúng tôi xin đề xuất sửa đổi điều khoản này như sau: “1. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông phải được ghi biên bản và có thể ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử khác.Biên bản phải lập bằng tiếng Việt, có thể lập thêm bằng tiếng nước ngoài.Đối với công ty đại chúng và công ty cổ phần không phải là công ty đại chúng nhưng có vốn điều lệ từ 100 tỉ đồng trở lên, Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông phải được lập bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông phải có các nội dung chủ yếu sau đây: a) Tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp; b) Thời gian và địa điểm họp Đại hội đồng cổ đông; c) Chương trình và nội dung cuộc họp; d) Chủ toạ và thư ký; đ) Tóm tắt diễn biến cuộc họp và các ý kiến phát biểu tại Đại hội đồng cổ đông về từng vấn đề trong nội dung chương trình họp; e) Số cổ đông và tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp, phụ lục danh sách đăng ký cổ đông, đại diện cổ đông dự họp với số cổ phần và số phiếu bầu tương ứng; g) Tổng số phiếu biểu quyết đối với từng vấn đề biểu quyết, trong đó ghi rõ tổng số phiếu hợp lệ, không hợp lệ, tán thành, không tán thành và không có ý kiến; tỷ lệ tương ứng trên tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp; h) Các quyết định đã được thông qua và tỷ lệ phiếu biểu quyết thông qua tương ứng; i) Họ, tên, chữ ký của chủ toạ và thư ký. Biên bản được lập bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài đều có hiệu lực pháp lý như nhau. Trường hợp có sự khác nhau về nội dung biên bản tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì nội dung trong biên bản tiếng Việt có hiệu lực áp dụng.”

Trang 8/8

Page 158: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Luật Đầu tư

Page 159: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhận xét về Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

NHẬN XÉT VỀ LUẬT ĐẦU TƯ Chuẩn bị bởi

Công ty Luật Baker & McKenzie

Nhận xét Nội dung hiện tại Kiến nghị Nhiều nội dung của Luật Đầu tư trùng lắp với nội dung của Luật Doanh nghiệp, và các luật chuyên ngành khác, không giải quyết được yêu cầu cấp bách của tình hình hiện nay là giảm thiểu thủ tục hành chính và tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư trong bối cảnh đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đi xuống và cạnh tranh từ các nước khác trong khu vực càng tăng cao. Thậm chí những điều chỉnh đề xuất vào Luật Đầu tư 2015 còn tạo thêm thủ tục hành chính cho nhà đầu tư nước ngoài với 2 bước cấp phép, mà nội dung bước sau trùng lặp với bước đầu tiên và trùng lắp với các thủ tục khác theo luật chuyên ngành như đất đai, xây dựng. Trong thực tiễn áp dụng Luật Đầu tư 2005 cho đến nay, Luật Đầu tư không thực sự cần thiết trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có vẻ như điều khác biệt duy nhất, và cũng là điều phiền toái, mà Luật Đầu tư có được đó là quy trình thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư rườm rà, không minh bạch, và được áp dụng theo sự chủ quan của những cơ quan có thẩm quyền.

Điều 1 về Phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư (quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh tại Việt Nam), và Điều 3.1 đưa ra định nghĩa về "Đầu tư" (nhà đầu tư bỏ vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư), là hoàn toàn dư thừa vì đây chính là phạm vi điều chỉnh và nội dung chính của Luật Doanh nghiệp, được thể hiện qua tinh thần và nhiều điều khoản cụ thể xuyên suốt Luật Doanh nghiệp. Trong khi Luật Doanh nghiệp đã quy định rõ doanh nghiệp có quyền chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh đầu tư (Điều 8 LDN) và được tiến hành kinh doanh các ngành nghề kinh doanh có điều kiện sau khi đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 9 LDN), yêu cầu doanh nghiệp đã được thành lập lại phải có dự án đầu tư và phải xin Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư là hoàn toàn dư thừa.

Nên xem xét bỏ Luật đầu tư, hoặc xem xét bỏ toàn bộ các điều khoản quy định về dự án đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, vì hoàn toàn không cần thiết.

Quy định về các lĩnh vực ưu đãi đầu tư và đầu tư có điều kiện (được hiểu là các lĩnh vự hạn chế đầu

Cụ thể, 3 lĩnh vực rất lớn bao gồm văn hóa, y tế, giáo dục được liệt kê dưới Điều 22 (các lĩnh vực

Đề nghị nghiên cứu lại xem các lĩnh vực này có cần phải hạn chế hay không và điều chỉnh

Trang1/5

Page 160: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhận xét về Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

tư) còn quy định chung chung và mâu thuẫn nhau. ưu đãi đầu tư) và Điều 24 (các lĩnh vự đầu tư có điều kiện). Cách xử lý các dự án tại Điều 22 và 24 là rất khác nhau, vậy làm sao xem xét mà cấp giấy chứng nhận đầu tư một cách minh bạch và thống nhất được?

cho phù hợp với nhu cầu của đất nước.

Luật Đầu tư trở lại cách tiếp cận cũ về vấn đề áp dụng ưu đãi đầu tư, gắn với việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Theo tôi, doanh nghiệp không cần phải thực hiện thủ tục gì thêm để có thể được hưởng những ưu đãi đầu tư. Luật thuế, Luật đất đai đã quy định rất rõ những trường hợp doanh nghiệp được ưu đãi và chỉ cần thực hiện trên cơ sở những luật chuyên ngành đó. Giấy phép đầu tư trước đây đã ghi những ưu đãi và Giấy chứng nhận đầu tư hiện nay không còn ghi những ưu đãi nữa nhằm bảo đảm tính bình đẳng cho mọi doanh nghiệp. Tại sao lại áp dụng cơ chế cũ?

Điều 33 của dự thảo LĐT đặt nghĩa vụ lên nhà đầu tư là phải xin được giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới được hưởng ưu đãi đầu tư. Điều này suy ra nếu doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư một cách kịp thời, họ sẽ không được hưởng ưu đãi đầu tư.

Đề nghị điều chỉnh Điều 33 theo hướng doanh nghiệp được hưởng các ưu đãi đầu tư theo các luật chuyên ngành. Bỏ yêu cầu phải xin và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Hưởng ưu đãi đầu tư là quyền của doanh nghiệp, không phải qua cơ chế xin cho.

Cũng về vấn đề có cần thiết phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nếu mục tiêu của Luật Đầu tư là tạo môi trường đầu tư thông thoáng thì nên bỏ thủ tục hành chính này. Không có thủ tục này thì các quy định còn lại và các luật chuyên ngành đã giải quyết tốt vấn đề quản lý Nhà nước liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Cụ thể, khi nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp, nhà đầu tư (nước ngoài) đã phải nộp đầy đủ giấy

Các điều về thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, từ Điều 41 - 47 đều không cần thiết, tăng thủ tục hàn chính và gây thêm lãng phí về thời gian và tiền bạc cho cả nhà đầu tư và nhà nước Việt Nam.

Đề nghị bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Để doanh nghiệp thực hiện đăng ký doanh nghiệp và các thủ tục hành chính sau khi đăng ký doanh nghiệp theo những quy định của luật chuyên ngành, môi trường, xây dựng, đất đai, thuế, tín dụng, v.v…

Trang2/5

Page 161: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhận xét về Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

tờ pháp lý của nhà đầu tư, phải đăng ký ngành nghề kinh doanh và phải giải trình lý do đáp ứng điều kiện đầu tư vào Việt Nam, giải trình về địa bàn/địa điểm hoạt động của doanh nghiệp. Tất cả những tiêu chí này trùng khớp với nội dung của dự án đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, giấy tờ pháp lý của họ phải hợp pháp hóa lãnh sự và chỉ được sử dụng trong 3 tháng. Cho mỗi thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng ký đầu tư, họ lại phải thực hiện hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ. Nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn không hiểu tại sao nhà nước Việt Nam lại phải yêu cầu họ nộp cùng một loại giấy tờ nhiều lần như vậy. - Đối với các doanh nghiệp thực hiện dịch vụ theo các cam kết quốc tế của Việt Nam, họ không có dự án đầu tư (theo định nghĩa tại Điều 3.6) bởi hoạt động của những doanh nghiệp này trên toàn lãnh thổ Việt Nam và họ không cần phải bỏ vốn trung dài hạn vào một địa bàn hay địa điểm nào cả. - Về mặt thời gian, theo quy định là 30 ngày làm việc Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư được cấp (giống như quy định hiện tại là từ 15 đến 45 ngày), nhưng trên thực tế là từ 4-6 tháng. Quy định là sau 15 ngày làm việc thì nhà đầu tư được cấp giấy đăng ký doanh nghiệp, trên thực tế có thể cũng sẽ là 4-6 tháng. - Về mặt hồ sơ (Điều 45), những đầu mục hồ sơ này bao gồm những hồ sơ đã nộp khi đăng ký

Trang3/5

Page 162: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhận xét về Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

doanh nghiệp (văn bản liên quan đến tư cách pháp lý của nhà đầu tư, giải trình năng lực tài chính, quyền sử dụng địa điểm, giải trình về dự án đầu tư ), vào còn bao gồm những hồ sơ khác mà sẽ trùng lắp với các thủ tục hành chính khác (hồ sơ về xây dựng đối với dự án có xây dựng công trình), sẽ trùng lắp với khâu đánh giá tác động môi trường hay xin phép xây dựng. Nhà đầu tư chưa biết là có được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hay không, và khi nào thì được cấp, thì ai mà đầu tư tài chính vào hồ sơ xây dựng công trình ở thời điểm này? - Nội dung thẩm tra (Điều 46): không có gì mới so mới thẩm tra để cho đăng ký kinh doanh. Nguyên tắc không phân biệt đối xử chưa thể hiện đầy đủ (Điều 7.1 của LĐT) khi Luật đầu tư dành một Mục quy định riêng cho Nhà đầu tư nước ngoài (Điều 60-22).

Điều 61 quy định rằng cơ quan đăng ký kinh doanh đăng ký thành lập doanh nghiệp cho nhà đầu tư nước ngoài trong vòng 15 ngày, trong khi theo Luật doanh nghiệp thời gian này là 5 ngày cho doanh nghiệp trong nước. Trên thực tế, 15 ngày có thể kéo dài nhiều tháng, dựa theo kinh nghiệm hiện tại.

Đề nghị điều chỉnh Điều 61 và 62 xuống 5 ngày theo quy định của Luật doanh nghiệp để thực thi cam kết quốc tế của Việt Nam.

Nguyên tắc bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi chính sách pháp luật (Điều 10 của Luật Đầu tư) là một thay đổi đáng mừng, nhưng trên thực tế vấn đề này có thể chưa được các cơ quan quản lý thực thi đầy đủ.

Công ty TNHH Xuất Khẩu Đồ Gỗ BC Furniture là một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, được HEPZA cấp Giấy chứng nhận đầu tư năm 2006 để thực hiện dịch vụ thương mại quốc tế theo chương trình thí điểm mở rộng chức năng của Khu chế xuất Tân Thuận. Giấy phép có hiệu lực 34 năm. Nhà đầu tư đã đầu tư nhiều triệu

Qua vụ việc này, chúng ta thấy rằng nhà nước nói chung có thể chưa thực hiện đúng cam kết được ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tha thiết mong các cơ quan chức năng như HEPZA, Tổng Cục Hải Quan, Hải Quan KCXTT cho phép doanh nghiệp được tiếp tục thực hiện

Trang4/5

Page 163: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhận xét về Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

đô la để xây dựng nhà kho trong KCXTT, và hiện có khoảng 30 người lao động. Nghị định 164/2013/ND-CP ra ngày 12/11/2013 điều chỉnh bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2008/ND-CP về KCX, KCN, quy định rằng doanh nghiệp chế xuất được cấp phép thực hiện hoạt động thương mại phải thành lập chi nhánh riêng nằm ngoài doanh nghiệp chế xuất, khu chế xuất để thực hiện hoạt động này. Tổng Cục Hải quan ra công văn 1047 ngày 27/1/2014 yêu cầu cục hải quan các tỉnh thành phố thực hiện quy định này ngay lập tức. Trên thực tế các bộ vẫn chưa ra hướng dẫn để thực hiện điều khoản này của nghị định, và trên thực tế việc xin giấy phép thành lập chi nhánh với hoạt động kinh doanh sẽ bị BKHĐT xem là một dự án mới (theo các hướng dẫn gần đây của BKHĐT, mà thực tế các doanh nghiệp bị động và họ hoàn toàn không có dự án đầu tư nào mới), và thời giant trung bình để được cấp giấy phép là 4-6 tháng. Trong trường hợp của Công ty BC Furniture, họ đã phải ngừng hẳn hoạt động kinh doanh vì hải quan KCXTT đã không cho họ xuất nhập hàng hóa nữa, nhiều dự án kinh doanh bị hủy bỏ, và nhân viên có nguy cơ bị mất việc làm.

Giấy chứng nhận đầu tư trong suốt thời hạn còn lại của dự án.

Trang5/5

Page 164: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT ĐẦU TƯ Chuẩn bị bởi

Vilaf I. Một số góp ý chính

1. Phạm vi điều chỉnh

Dự thảo hạn chế phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư chỉ trong hoạt động đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư trực tiếptheo quy định tại Dự thảo bao gồm: thành lập mới công ty, đầu tư theo hình thức hợp đồng, đầu tư phát triển,góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, trừ hoạt động đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán.

Mục đích của Dự thảo là để tránh sự chồng chéo giữa Luật Đầu tư và Luật Chứng khoán. Tuy nhiên, vấn đề quan ngại là liệu hoạt động mua chứng khoán có được thực sự loại trừ khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư hay không. Cần lưu ý rằng chứng khoán theo định nghĩa của Luật Chứng khoán rất rộng, trong đó bao gồm cả cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa niêm yết. Ngoài ra, ngoại trừ các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ, các công ty đầu tư chứng khoán được thành lập theo Luật Chứng khoán, hầu hết các công ty đại chúng đều được thành lập theo Luật Doanh nghiệp vàchịu sự điều chỉnh của cả Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Do đó, việc loại trừ hoạt động mua bán doanh nghiệp thông qua mua bán chứng khoán cần được xem xét lại để thống nhất với Luật Chứng khoán và tránh những khoảng trống trong quá trình thực thi.

2. Định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài

Dự thảo đưa ra định nghĩa mới về nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đề xuất định nghĩa mới trong Dự thảo không thống nhất với định nghĩa về nhà đầu tư nước ngoài theo Quyết định 881và Quyết định 552của Thủ tướng Chính phủ về việc hướng dẫn việc góp vốn, mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong nước. Theo Quyết định 88 và Quyết định 55, giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoàiđể xác định một công ty là nhà đầu tư nước ngoài là 49%. Trong khi đó, Dự thảođưa ra giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài ở mức 50%.

Đề nghị thay đổi giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài theo Dự thảo từ 50% xuống 49% để thống nhất với các quy định khác.

3. Thủ tục cấp phép

Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài phải xin cấp Giấy chứng nhận đầu tưđồng thời là giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho công tyđược thành lập tại Việt Nam. Theo Dự thảo, các nhà đầu tư nước ngoài trước tiên cần có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và sau đó nộp hồ sơ để được cấp Giấy chứng nhận Đầu tư. Điều đó có nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài phải trải qua 2 thủ tục cấp phép khác nhau. Các thủ tục cấp phép mới được đề xuất trong Dự thảo sẽ tạo ra gánh nặng cho các nhà đầu tư bởi họ cần phải trải qua 2 thủ tục cấp phép khác nhau. Hơn nữa, nếu các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành nghề kinh doanh có điều kiệnyêu cầu phải có giấy phép con,họ sẽlại phải thực hiện thủ tục cấp phép bổ sung. Điều này sẽ làm cho đầu tư vào Việt Nam kém hấp dẫn hơn.

1Quyết định 88/2009/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 18 tháng 6 năm 2009 quy định về việc góp vốn và mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam (“Quyết định 88”) 2Quyết định 55/2009/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15 tháng 4 năm 2009 về tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán (“Quyết đinh 55”)

Trang 1/6

Page 165: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Một điếm đáng lưu ý là Dự thảo không yêu cầu tất cả các dự án phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Tuy nhiên, các quy định đề xuất trong Dự thảo hiện nay vẫn còn quá rộngvà có thể dẫn tới việc hầu hết các dự án có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phải xin Giấy chứng nhận đầu tư.

4. Điều kiện đầu tư

Theo Dự thảo, các bộ ngành liên quan sẽ ban hành danh sách các điều kiện đầu tư cho từng lĩnh vực đầu tư có điều kiện cụ thể. Cần lưu ý rằng các điều kiện đầu tư hoặc điều kiện tiếp cận thị trường đã được ghi nhận trong các quy định cụ thể và trong cam kết của Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.Do đó, danh sách các điều kiện đầu tư do các bộ ngành ban hànhlà không cần thiết. Hơn nữa, việc đưa ra các danh sách mới về điều kiện đầu tư sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn, chồng chéo và không thống nhất giữa các văn bản và trong quá trìnhthi hành.

Trang 2/6

Page 166: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

STT Vấn đề Ý kiến

1. Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp (Điều 3.2 Dự thảo Luật Đầu tư) Luật Đầu tư hiện hành quy định 2 hình thức đầu tư: trực tiếp và gián tiếp. Dự thảo không đề cập tới sự khác biệt giữa hai hình thức này. Thay vào đó chỉ đề cập đến 1 hình thức đầu tư là đầu tư trực tiếp, thực chất là sự kết hợp giữa hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp theo Luật Đầu tư hiện hành, bao gồm các hoạt động sau: thành lập doanh nghiệp; đầu tư theo hình thức hợp đồng; góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật chứng khoán không được coi là đầu tư trực tiếp nên không chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư

Xin mời xem ý kiến của chúng tôi tại Mục I-1 ở trên.

2. Định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài” (Điều 3.4 Dự thảo Luật Đầu tư) Thay cho định nghĩa chung trong Luật Đầu tư hiện hành, dự thảo Luật Đầu tư quy định rõ các nhà đầu tư nước ngoài gồm 4 loại, trong đó có doanh nghiệp với 50% vốn điều lệ [có quyền biểu quyết] được nắm giữ bởi các cá nhân/tổ chức nước ngoài và các công ty con của các doanh nghiệp trên ( ví dụ từ 50% vốn điều lệ [ có quyền biểu quyết] )

Xem ý kiến của chúng tôi tại Mục I-1 ở trên.

Ngoài ra, chúng tôi quan ngại rằng nếu tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các “doanh nghiệp trong nước” dẫn đến việc “doanh nghiệp trong nước” trở thành “nhà đầu tư nước ngoài”, quy trình và điều kiện đầu tư được áp dụng cho quá trình chuyển đổi từ “doanh nghiệp trong nước”thành“nhà đầu tư nước ngoài”sẽ được quy định như thế nào. Vấn đề tương tự cũng sẽ đặt ra khi tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong một doanh nghiệp nước ngoài giảm dẫn đến việc “doanh nghiệp nước ngoài” trở thành “doanh nghiệp nhà nước”.

3. Định nghĩa “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” (FIC) (Điều 3.6 Dự thảo Luật Đầu tư) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp có sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.

Dự thảo chỉ đơn giản định nghĩa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp có sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Với định nghĩa này, doanh nghiệp với 1% sở hữu nước ngoài cũng được coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Trang 3/6

Page 167: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Trong Dự thảo quy định doanh nghiệp có sở hữu nước ngoài chiếm 50% trở lên là nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, có thể hiểu rằng doanh nghiệp có ít hơn 50% sở hữu nước ngoài là doanh nghiệp trong nước. Vậy nếu các doanh nghiệp đó thành lập hoặc mua cổ phần trong các doanh nghiệp trong nước khác, công ty mới thành lập/ sáp nhập đó có phải là công ty có vốn nước ngoài không. Cần lưu ý rằng trong trường hợp đó, không có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (theo định nghĩa mới của Dự thảo) nhưng vẫn có sở hữu của nhà đầu nước ngoài. Vì vậy, đề nghị xem xét lại đinh nghĩa này bằng cách bổ sung mức sở hữu nước ngoài để xác định công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó sẽ làm thủ tục cấp phép thống nhất và minh bạch hơn.

4. Dự án đầu tư mới và Dự án đầu tư mở rộng (Điều 3.9 Dự thảo)

Có một số quan ngoại liên quan đến định nghĩa dự án đầu tư mở rộng như sau: - Liệu việc tăng vốn có được coi là dự án mở rộng không

nếu việc tăng vốn không dẫn đến bất cứ sự thay đổi nào trong công suất, công nghệ, và quy mô của dự án? Trong nhiều trường hợp, tăng vốn đơn giản là vì các chi phí hoạt động tăng .

- Nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh được hiểu như thế nào và làm thế nào để xác định?

Hơn nữa, định nghĩa về “dự án đầu tư mới” cũng còn cóthắc mắc về việc làm thế nào để xác định một dự án mới có phải là một “dự án độc lập” với dự án trước đó hay không và không rơi vào trường hợp “mở rộng dự án đã có”.

5. Hình thức đầu tư (Điều 21 Dự thảo) Trong dự thảo đầu tư phát triển kinh doanh được coi là một

Trang 4/6

Page 168: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

hình thức đầu tư. Theo quan điểm của chúng tôi, điều này nên được coi như một mục đích đầu tư chứ không phải hình thức đầu tư.

6. Điều 29.4 của Dự thảo liên quan đến việc miến thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động chuyển giao công nghệ đã được hủy bỏ bởi Điều 2.4(I) của Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp sửa đổi ngày 19 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2014

Đề nghị bỏ điều 29.4 của Dự thảo để thống nhất với Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp sửa đổi

7. Đối tượng áp dụng của Giấy Chứng nhận Đăng ký Đầu tư (Điều 43 của Dự thảo): Phương án 1: Giấy Chứng nhận Đăng ký Đầu tư áp dụng với cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Phương án 2: Giấy Chứng nhận Đăng ký Đầu tư chỉ áp dụng với nhà đầu tư nước ngoài.

Chúng tôi đồng ý với phương án 1 vì nó đảm bảo sự đối xử công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đây là một trong những nguyên tắc được quy định tại Điều 4.3 và 7.1 của Dự thảo và trong Cam kết của Việt Nam gia nhập WTO. Hơn nữa, dự thảo yêu cầu nhà đầu tư xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Yêu cầu này không thống nhất với quy định tại Điều 60.3 của Dự thảo quy đinh rằng doanh nghiệp thành lập bởi nhà đầu tư nước ngoài xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Nếu Dự thảo quy định có 2 loại giấy phép khác nhau cho việc thành lập và hoạt động của một công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì nên làm rõ là nhà đầu tư nước ngoài đăng ký thành lập công ty trước và công ty đó sẽ xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Các quy định trong Dự thảo cần thống nhất về vấn đề này.

8. Thành lập doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài (Điều 60 Dự thảo): Dự thảo không nhắc tới quy định trong Luật Đầu tư hiện hành về giấy chứng nhận đầu tư cũng là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Thay vào đó, 2 loại giấy chứng nhận này không liên quan đến nhau và có quá trình cấp phép khác nhau. Vì vậy, để thực hiện các hoạt động đầu tư ở Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài phải đi qua 2 bước: (i) thành lập công ty ở Việt Nam theo quy trình tại Luật Doanh nghiệp; (ii) xin cấp

Xin mời xem ý kiến của chúng tôi tại Mục I-3

Trang 5/6

Page 169: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho các dự án rơi vào các hạng mục theo Điều 43 về giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, ví dụ như dự án cho thuê đất, giao đất của nhà nước, các dự án trong các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, vv

9. Quy trình góp vốn, mua bán vốn và cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các công ty Việt Nam (Điều 61 Dự thảo)

Vẫn còn vấn đề liệu công ty trong nước được mua lại bởi nhà đầu tư nước ngoài có cần xin giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hay không.

10. Quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế (Điều 70 Dự thảo)

Không có định nghĩa về khu công nghệ cao trong khi có định nghĩa về khu kinh tế , khu chế xuất.

Trang 6/6

Page 170: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp về vấn đề pháp lý trong Dự thảo Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ý KIẾN ĐÓNG GÓP VỀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG DỰ THẢO LUẬT ĐẦU TƯ

Chuẩn bị bởi DFDL MêKông

I. Ý kiếnchung Dự thảo (“Dự thảo Luật Đầu tư”) sửa đổi Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 (“LuậtĐầutư”) do Quốc hội Việt Nam ban hành đang được soạn thảo nhằm giảm bớt sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, từ đó tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư vào Việt Nam. Hơn nữa, Dự thảo Luật Đầu tư đã làm rõ những vấn đề còn vướng mắc của Luật Đầu tư hiện hành như định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trực tiếp/gián tiếp. Tuy nhiên, chúng tôi xin đóng góp thêm ý kiến về một số điều trong Dự thảo Luật Đầu tư để Dự thảo hoàn thiện hơn. II. Ý kiến cụ thể 1. Quy trình xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầutư Điều 43 của Dự thảo Luật Đầu tư đưa ra 2 phương án cho quy trình đăng ký dự án đầu tư với nội dung chính như sau: - Phương án 1: Nhà đầu tư thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự

án thuộc một số lĩnh vực cụ thể (ví dụ: Dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện, hoặc dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường).

- Phương án 2: Dự án đầu tư của nhà đầu tư trong nước không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án thuộc một số lĩnh vực cụ thể.

Chúng tôi cho rằng phương án 2 ở trên sẽ tạo ra sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, điều này vi phạm cam kết WTO của Việt Nam và các điều ước quốc tế khác. Vì vậy, đề nghị dự thảo chỉ giữ lại phương án 1.

2. Thủ tục góp vốn, mua lại phần vốn góp, cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh

nghiệp Việt Nam Điều 61 của Dự thảo Luật đầu tưquy định Doanh nghiệp Việt Nam nhận vốn góp hoặc bán phần góp vốn hoặc cổ phần cho nhà tư nước ngoài phải nộp hồ sơ điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (“ERC”). Tuy nhiên, điều khoản này dường như mâu thuẫn với Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 do Quốc hội Việt Nam ban hành (“Luật Doanh nghiệp”). Theo Luật Doanh nghiệp (cả dự thảo và luật hiện hành), khi cổ đông thường hoặc cổ đông sán glập chuyển nhượng cổ phần cho một nhà đầu tư sau giai đoạn hạn chế, công ty không cần điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để phản ánh giao dịch đó.

Do đó, đề nghị Dự thảo Luật Đầu tư làm rõ quá trình điều chỉnh giấy phép đăng ký kinh doanh ở trên để đảm bảo sự thống nhất với Luật Doanh nghiệp. 3. Điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài Điều 64 của Dự thảo Luật Đầu tư đưa ra hai phương án sau: - Phương án 1: nhà đầu tư đăng ký vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tại cơ quan có thẩm

quyền quản lý ngoại hối. - Phương án 2: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.

Trang 1/2

Page 171: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp về vấn đề pháp lý trong Dự thảo Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đề nghị Dự thảo chỉ giữ lại phương án 1 nhằm tránh những thủ tục đầu tư không cần thiết có thể dẫn tới những vấn đề phức tạp và tốn nhiều thời gian cho nhà đầu tư ở phương án 2. Bên cạnh đó, quy định về quản lý ngoại hối đã đủ để quản lý các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư.

Trang 2/2

Page 172: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

ĐÓNG GÓP Ý KIẾN ĐỐI VỚI DỰ THẢO LUẬT ĐẦU TƯ

Chuẩn bị bởi Công ty Luật LOGOS

1. Điều 3.4 Khái niệm Nhà đầu tư nước ngoài Khái niệm về nhà đầu tư nước ngoài trong Dự thảo là chưa rõ ràng, phức tạp và có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Vì vậy, kiến nghị sửa đổi như sau: 4. Nhà đầu tư nước ngoài gồm: a) Người nước ngoài là cá nhân quốc tịch nước ngoài và tổ chức thành lập ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài; b) Doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam trong các trường hợp sau: - Một hoặc các cổ đông là người nước ngoài sở hữu trên 50% cổ phần đã phát hành1 đối với công ty cổ phần; - Một hoặc các thành viên là người nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn. 2. Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Theo Dự thảo: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp có sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.” Mặc dù vậy, khái niệm này đã được định nghĩa trong Luật đất đai số 45 năm 2013 như sau: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp luật về đầu tư”. Vậy, nên cân nhắc sử dụng khái niệm cho thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. 3. Điều 18.4 Hình thức đầu tư: Sáp nhập, mua lại doanh nghiệp Hình thức này cần phải nghiên cứu thêm cho phù hợp với quy định của pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam. Theo luật doanh nghiệp hiện nay và dự thảo luật doanh nghiệp sửa đổi, hình thức đầu tư không chỉ có sáp nhập mà còn có các hình thức khác như chia, tách, hợp nhất doanh nghiệp. Dự thảo mới không có khái niệm mua lại doanh nghiệp. Theo luật của Việt Nam thực chất của mua lại doanh nghiệp chính là mua lại 100% cổ phần hoặc phần vốn góp của công ty. Do đó, nếu luật doanh nghiệp không có quy định về mua lại doanh nghiệp thì không nên quy định gượng ép về mua lại doanh nghiệp trong Luật đầu tư. Nếu như điều này được sửa đổi thì các Điều liên quan của Dự thảo cũng được cân nhắc sửa đổi theo như: Điều 3.2, Điều 22, Điều 61. 4. Điều 18.5 Hình thức đầu tư: Đầu tư phát triển kinh doanh Liệu “Đầu tư phát triển kinh doanh” có nên quy định là một trong hình thức đầu tư không? Hay thực chất đây chỉ là quyền của nhà đầu tư. Hình thức đầu tư này được quy định giản đơn trong Điều 21 như sau: Điều 21. Đầu tư phát triển kinh doanh Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh doanh thông qua các hình thức sau đây: 1. Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh; 2. Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường.

1Theo quy định của Luật doanh nghiệp, cổ phần đã phát hành là số cổ phần được quyền phát hành đã được các cổ đông đã thanh toán đủ cho công ty.Vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá số cổ phần đã phát hành.Vì vậy, dự thảo như vậy là phù hợp.

Trang 1/4

Page 173: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Thực chất đây là quyền của Nhà đầu tư, vì vậy không nhất thiết phải quy định một điều riêng mà nên gộp vào Điều 16 của Dự thảo. 5. Điều 27. Ban hành danh mục các lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư, đầu tư có điều

kiện, cấm đầu tư Điều 27.2 không đề cập đến Ban quản lý các Khu công nghiệp.Vậy, Ban quản lý các khu công nghiệp có thể ban hành quy định lĩnh vực cấm đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và các ưu đãi đầu tư vượt khung quy định của pháp luật? 6. Điều 33: Thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư Liệu có cần thiết quy định ưu đãi đầu tư được quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư căn cứ vào lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư và nội dung dự án đầu tư. Thực tế hiện nay, rất nhiều dự án được quy định hưởng ưu đãi trong Giấy chứng nhận đầu tư nhưng nếu không đáp ứng được điều kiện được ưu đãi theo pháp luật về thuế thì cũng không được hưởng. Quy định này vô hình chung tạo thêm thủ tục hành chính để Nhà đầu tư có thể được hưởng ưu đãi đầu tư. Hiện này trong các giấy chứng nhận đầu tư chỉ quy định chung chung là nhà đầu tư được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật. Quy định này dường như là phù hợp và Điều 33 này cũng chỉ nên dẫn chiếu đến pháp luật chuyên ngành, tránh tạo thêm thủ tục hành chính cho Nhà đầu tư. 7. Điều 39. Phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động

trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế Thực tế hiện nay có rất nhiều các nhà đầu tư trong khu công nghiệp đặc biệt các nhà sản xuất lớn có nhu cầu sử dụng nhiều công nhân, rất mong muốn được đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân và cho công nhân thuê, như pháp luật hiện tại chưa cho phép. Với quy định mới này thì các nhà đầu tư được khuyến khích xây dựng và phát triển nhà ở cho công nhân trong khu công nghiệp. Mặc dù vậy, nên quy định rõ thêm là doanh nghiệp được khuyến khích phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế i) theo quy hoạch của khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế đã được phê duyệt và ii) phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật về nhà ở, kinh doanh bất động sản và pháp luật chuyên ngành có liên quan. 8. Điều 43 Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư Theo Điều 7.1 của Dự thảo: “Nhà nước bảo đảm đối xử công bằng, thỏa đáng và không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động đầu tư phù hợp với điều kiện và lộ trình quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”. Vậy, Phương án 2 quy định việc Nhà đầu tư trong nước không phải xin Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là mâu thuẫn với nguyên tắc đối xử công bằng quy định tại Điều 7.1. 9. Điều 44 Hồ sơ Dự án đầu tư Một trong các tài liệu bắt buộc phải có trong Hồ sơ Dự án đầu tư để xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư như sau: i) Dự án đầu tư

Việc đưa ra tài liệu này là quá chung chung cần được cụ thể hóa trong luật. Dự án đầu tư được định nghĩa tại Điều 3.7 là “tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định”. Dự án đầu tư còn được chia ra thành Dự án đầu tư mới và Dự án đầu tư mở rộng. Vậy, tài liệu Dự án đầu tư mà

Trang 2/4

Page 174: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

nhà đầu tư phải chuẩn bị để nộp lên cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sẽ bao gồm những nội dung gì?

ii) Văn bản, tài liệu về quyền sử dụng địa điểm của nhà đầu tư. Trường hợp dự án đề nghị nhà

nước giao đất, cho thuê đất, nhà đầu tư nộp hồ sơ đề nghị giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai

Việc quy định phải nộp hồ sơ đề nghị giao đất, cho thuê đất trong giai đoạn xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư là khó thực hiện và mâu thuẫn với quy định của pháp luật đất đai hiện nay. Quy định này mâu thuẫn ngay với Điều 48.1 của Dự thảo.

Theo quy định hiện nay, thì nhà đầu tư chỉ tiến hành các thủ tục xin giao đất hay cho thuê đất sau khi đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong hồ sơ xin giao đất hay cho thuê đất phải có dự án đầu tư đã được duyệt. Ngoài ra đối với những dự án cần tiến hành đến bù giải phóng mặt bằng, trong hồ sơ cần có phương án bồi thường giải phóng mặt bằng đã được phê duyệt. Việc tiến hành các thủ tục về xin thuê đất hay xin giao đất sẽ mất rất nhiều thời gian và chi phí, vì vậy quy định thực hiện thủ tục này trong giai đoạn xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là chưa hợp lý, cần xem xét lại các quy định của pháp luật đất đai. Trong bước này nhà đầu tư chỉ cần cung cấp các giấy tờ chứng minh nhà đầu tư có quyền hợp pháp được sử dụng khu đất để thực hiện dự án là đủ ví dụ như chấp thuận về mặt địa điểm cho nhà đầu tư thực hiện dự án của cơ quan có thẩm quyền…

iii) Hồ sơ về xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng đối với dự án có xây dựng công

trình Theo pháp luật về xây dựng hiện nay có rất nhiều hồ sơ về xây dựng, vậy hồ sơ về xây dựng ở đây là hồ sơ gì? Ví dụ đối với những dự án xây dựng phải lập báo cáo đầu tư xây dựng công trình, thì việc lập báo cáo đầu tư xây dựng công trình cũng mất rất nhiều thời gian và chi phí. Hiện nay thủ tục này chỉ được thực hiện sau khi đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Vì vậy, chỉ nên quy đinh một số giấy tờ cần thiết liên quan đến dự án đầu tư xây dựng công trình trong giai đoạn xin đăng ký đầu tư bản vẽ quy hoạch tổng mặt bằng, phương án kiến trúc...

10. Điều 46 Thời hạn hoạt động của Dự án đầu tư - Thực tế hiện nay, thời hạn hoạt động của Dự án đầu tư ghi nhận trong Giấy chứng nhận đầu

tư là do cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư quyết định tùy thuộc vào từng dự án. Các dự án đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ chỉ cho phép ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư tối đa 5, 10, 20 hay 30 năm. Việc áp dụng này là không thống nhất và rất khác biệt trong các tỉnh và thành phố của Việt Nam. Điều này rất đến nhiều tiêu cực trong quá trình xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Do đó, cần có quy định về hạn chế sự tùy tiện của cơ quan cấp giấy chứng nhật đăng ký đầu tư đối với hoạt động của Dự án đầu tư.

- Đối với dự án đầu tư được nhà nước giao đất, cho thuê đất, thời hạn hoạt động của dự án

đầu tư được tính từ thời điểm nhà nước bàn giao đất cho nhà đầu tư.

Quy định này liệu có gây khó khăn cho cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư ghi nhận thời hạn hoạt động của Dự án đầu tư. Theo quy định tại Thông tư số 93/2011/TT-BTC, thời điểm nhà nước bàn giao đất cho nhà đầu tư như sau:

Trang 3/4

Page 175: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Luật Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

a) Trường hợp giao đất đã giải phóng mặt bằng thì thời điểm bàn giao đất thực tế là thời điểm quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

b) Trường hợp giao đất chưa giải phóng mặt bằng thì thời điểm bàn giao đất thực tế là thời

điểm bàn giao đất đã giải phóng mặt bằng theo tiến độ giao đất ghi trong dự án đầu tư đã được duyệt; trường hợp thời điểm hoàn thành giải phóng mặt bằng không đúng với tiến độ giao đất ghi trong dự án đầu tư được duyệt thì thời điểm bàn giao đất thực tế là thời điểm bàn giao đất đã giải phóng mặt bằng trên thực địa.

Do đó, kiến nghị sửa quy định này là “Đối với dự án đầu tư được nhà nước giao đất, cho thuê đất, thời hạn hoạt động của dự án đầu tư là thời hạn giao đất, cho thuê đất của nhà nước”.

Trang 4/4

Page 176: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Luật Phá sản

Page 177: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TÓM TẮT CUỘC HỌP VỀ DỰ THẢO LUẬT PHÁ SẢN (SỬA ĐỔI)

- Thời gian: 9.00 – 12.00, Thứ Ba, Ngày 17/12/2013 - Venue: Khách sạn Hilton, Số 1 Lê Thánh Tông, Hà Nội - Danh sách tham dự: Phụ lục 1

I. TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN LUẬT PHÁ SẢN (SỬA ĐỔI)

Ông Nguyễn Văn Cường - Phó Viện trưởng, Viện Khoa học xét xử, Tòa án Nhân dân Tối cao - Luật Phá sản (“LPS”) năm 2004 gồm 9 Chương và 95 Điều. Dự thảo LPS sửa đổi lần 3 bổ sung

3 Chương và gồm 124 Điều.

- Một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau: + Đối tượng áp dụng: Điều 2 Dự thảo Luật chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp, hợp tác

xã theo Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã và không áp dụng đối với cá nhân, tổ hợp tác, trường học và các cấp học khác. Lí do: cá nhân và tổ hợp tác xã, hộ gia đình hiện chưa được quản lý tốt và cũng không có yêu cầu đăng ký vốn. Nếu đưa các đối tượng này vào dự án luật thì sẽ có thể gây khó khăn trong thực hiện thủ tục quản lý cũng như thanh lý tài sản. Tuy nhiên, một số nước trên thế giới đã có quy định phá sản đối với các cá nhân và tổ hợp tác. Vấn đề này sẽ tiếp tục được nghiên cứu và có thể chỉnh sửa tiếp dự án luật trong thời gian tới hoặc ban hành một luật riêng đối với các đối tượng này. Đối với các cơ sở đào tạo tư thục, Luật Giáo dục đã quy định các hình thức giải thể. Vì những trường đại học này có liên quan đến việc giải quyết chính sách đối với học sinh, sinh viên. LPS chưa đề cập tới đối tượng này vì đây là một loại hình đặc biệt. Và nếu sắp tới đưa các loại hình các trường đại học này vào Luật Doanh nghiệp thì sẽ tiếp tục quy định về việc phá sản đối với loại đối tượng trường học.Và cần phải có kiểm soát đặc biệt của Bộ Giáo dục và đào tạo. Có ý kiến cho rằng những xí nghiệp hiện nay đang tồn tại theo văn bản dưới luật cũng nên đưa vàoLPS. Các xí nghiệp này là loại hình kinh doanh cũ trước đây còn tồn tại. Tiến tới cần yêu cầu các xí nghiệp này hoàn thành chuyển đổi thành dạng doanh nghiệp và sẽ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật này.

+ Tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản: Điều 3 Dự thảo quy định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản khi có khoản nợ không có bảo đảm hoặc được bảo đảm một phần và đã đến hạn nhưng không có tranh chấp và chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán khoản nợ đến hạn đó. Hiện có một số ý kiến như: thế nào là không có tranh chấp? Thế nào là khoản nợ đến hạn? Trong quá trình nghiên cứu có haiý kiến khác nhau: Một là giữ Điều 3 nêu trên. Điều 3 xuất phát từ việc cụ thể hoá Nghị quyết số 03 ngày 28/4/2005 của Hội đồng thẩm phán. Mà Điều 3 LPS năm 2004 cũng đã tương đối phù hợp với pháp luật quốc tế. Ý kiến thứ hai cho rằng nên bỏ khái niệm lâm vào tình trạng phá sản mà thay bằng khái niệm mất khả năng thanh toán. Pháp luật các nước trên thế giới hầu như sử dụng khái niệm mất khả năng thanh toán. Khái niệm mất khả năng thanh toán có thể được giải thích như sau: doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu thì coi là mất khả năng thanh toán. Ban Soạn thảo cho rằng ý kiến thứ 2 là phù hợp.

Trang 1/14

Page 178: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

+ Quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tại Điều 4 của Dự thảo: có 2 phương án: Phương án 1 quy định chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với doanh nghiệp, hợp tác xã khi doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đến hạn trong thời gian 3 tháng kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu. Phương án 2 quy định chủ nợ có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã khi doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ từ 200 triệu đồng trở lên trong thời gian 3 tháng kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu. Đa số các ý kiến đồng ý với phương án 1, không cần quy định mức 200 triệu đồng và nhiều ý kiến cho rằng là cần cân nhắc quy định về thời gian là 3 hay 6 tháng. Cũng nhiều ý kiến cho rằng phải rút ngắn thời gian hơn vì nếu quy định thời gian 3 tháng, các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể sẽ có thời gian để tẩu tán tài sản. Có ý kiến cho rằng đề nghị trong trường hợp không triệu tập được đại hội cổ đông thì một nhóm cổ đông nắm giữ 10% cổ phần cũng có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản. Dự thảo Luật hiện vẫn giữ mức 20% như LPS 2004.

+ Nộp đơn yêu cầu phá sản của tổ chức tín dụng: đây là vấn đề khó và có ý kiến cho rằng cần có quy định đặc thù cho đối tượng này. Điều 155 Luật các Tổ chức Tín dụng quy định phá sản đối với tổ chức tín dụng: sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng vẫn lâm vào tình trạng phá sản thì tổ chức tín dụng đó phải làm đơn yêu cầu toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định pháp luật về phá sản. Và khi nhận được yêu cầu mở thủ tục phá sản của tổ chức tín dụng theo quy định của Khoản 1 Điều này, toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và áp dụng ngay thủ tục thanh lí tài sản của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật phá sản. Khoản 1 Điều 156 Luật các Tổ chức Tín dụng quy định trong trường hợp tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản, việc thanh lí tài sản của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định về pháp luật phá sản. Hiện có hai loại ý kiến: Ý kiến thứ nhất cho rằng với quy định của Luật các Tổ chức tín dụng thì chỉ quy định đối với trường hợp sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng vẫn lâm vào tình trạng phá sản thì tổ chức tín dụng đó phải có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tại toà án. Những trường hợp khác như chủ nợ thì vẫn có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo thủ tục bình thường. Vì Luật cácTổ chức Tín dụng chỉ quy định đặc thù đối với trường hợp tổ chức tín dụng tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Loại ý kiến thứhai cho rằng phá sản với tổ chức tín dụng có tính chất đặc thù vì liên quan đến người gửi tiền và có thể dẫn đến phản ứng dây chuyền và ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, cả hai đối tượng nộp đơn trên bao gồm chủ nợ và các tổ chức tín dụng đều phải thông qua kiểm soát đặc biệt của NHNN. Và sau quá trình kiểm soát đặc biệt, toà án mới thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, tuyên bố phá sản và cắt tất cảcác giai đoạn khác như họp hội nghị chủ nợ, phục hồi kinh doanh và thanh lí tài sản. Và việc thanh lí tài sản đối với tổ chức tín dụng theo quan điểm thứhai nên giao cho chính phủ hướng dẫn vì liên quan đến xử lí tiền gửi của người gửi tiền.

+ Thẩm quyền theo Điều 10 của Dự thảo luật quy định giải quyết phá sản nên được giao cho toà án cấp tỉnh. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng giao cho các toà án ở đây tức là giao cho cả toà án quận, huyện và tỉnh và được phân theo thẩm quyền. Có ý kiến đề nghị toà

Trang 2/14

Page 179: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

án nhân dân tối cao có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã do bộ, cơ quan ngang bộ thành lập. Có nhiều vụ việc phá sản mà trong đó tài sản nằm ở các quận, huyện, tỉnh khác nhau và có thể có tài sản nằm ở nước ngoài. Trong khi đó, toà án cấp huyện lại không có thẩm quyền uỷ thác.

+ Quản lí, thanh lí tài sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản: Điều 12 của Dự thảo luật quy định luật sư được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên thì có thể được toà án chỉ định làm quản tài viên và chính phủ quy định tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên và việc quản lý nhà nước đối với quản tài viên. Đa số ý kiến đồng ý với chế định quản tài viên. Về vấn đề điều kiện của quản tài viên, nhiều ý kiến cho rằng cần đưa các đối tượng khác tham gia như người có kinh nghiệm trong quản trị doanh nghiệp, các kiểm toán viên và cử nhân kinh tế, không phải chỉ quy định riêng luật sư như Điều 12 của Dự thảo. Cũng cần quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các quản tài viên cũng như cơ chế giám sát của toà án đối với quản tài viên. Cũng có ý kiến đề xuất cần quy định chế độ trả phí đối với quản tài viên và và chế độ đào tạo cấp chứng chỉ đối với quản tài viên. Trên cơ sở ý kiến nêu trên, Điều 12 được điều chỉnh như sau: Luật sư và người có kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh, các kiểm toán viên đã có kinh nghiệm 3 năm trên thực tế và có trình độ cử nhân luật, cử nhân kinh tế, tài chính được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên thì có thể được toà án chỉ định làm quản tài viên.

+ Ý kiến cho rằng cần quy định uỷ ban chủ nợ theo hướng các chủ nợ có quyền thành lập uỷ ban chủ nợ: đặc biệt đối với những vụ việc có đến hàng trăm, hàng nghìn chủ nợ thì cần phải bầu ra uỷ ban chủ nợ. Việc bầu ủy ban chủ nợ có thể chỉ cần 2/3 số chủ nợ đồng ý là có thể thiết lập và uỷ ban chủ nợ sẽ có chủ tịch, phó chủ tịch, thành viên phối hợp với quản tài viên, toà án để thực hiện thủ tục phá sản, xử lí tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

+ Trường hợp phá sản đối với các đối tượng có liên quan đến yếu tố nước ngoài: đối với các doanh nghiệp dù là đầu tư nước ngoài nhưng thành lập theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì sẽ tuân thủ pháp luật Việt Nam. Về vấn đề uỷ thác việc kiểm kê tài sản cũng như thanh lí tài sản, Việt Nam có luật về uỷ thác tư pháp và có kí các hiệp định song phương, đa phương về vấn đề phối hợp trong việc thi hành các quyết định cũng như thực hiện uỷ thác quản lý, thanh lý tài sản. Dự thảo sẽ có một Điều khoản quy định vấn đề này và sẽ dẫn chiếu đến các văn bản như Luật về uỷ thác tư pháp, Luật Tố tụng Dân sự về xử lí đối với các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.

Ông Phil Smith – Giám đốc dịch vụ tái cơ cấu, KPMG - Để định nghĩa rõ ràng khái niệm mất khả năng thanh toán, tránh nhầm lẫn với khái niệm

“rơi vào tình trạng phá sản” là một ý kiến hợp lý, giúp ích trong quá trình soạn thảo và làm rõ một số khía cạnh của luật. So sánh giữa phương pháp kiểm tra dòng tiền được dự kiến trong pháp luật hiện hành và phương pháp kiểm tra bảng cân đối kế toán để xác định tình trạng mất khả năng thanh toán, phương án kiểm tra dòng tiền để đánh giá tình trạng mất khả năng thanh toán phổ biển hơn. Trong thực tế, ở các quốc gia khác, nếu chủ nợ làm đơn đến tòa án, người mắc nợ sẽ có cơ hội để bào chữa. Vào thời điểm có tranh cãi xung quanh mất khả năng thanh toán trong bảng cân đối kế toán, khả năng huy động vốn trong thời gian ngắn có thể được tính tới. Tuy nhiên cần phải bảo vệ chặt chẽ hơn quyền và lợi ích chủ nợ.

Trang 3/14

Page 180: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

- Những sửa đổi trong dự thảo luật theo hướng bảo vệ quyền lợi của của chủ nợ, và đặc biệt là việc chỉ định quản tài viên là những bước đi tích cực. Tuy nhiên, cần phải có những mục tiêu rõ ràng hoặc nhiệm vụ rõ ràng trong các quy định về tài sản. Tại các nước khác, đặc biệt là ở Úc, việc này sẽ giúp cân bằng lợi ích, quyền lợi của các bên liên quan và của chủ nợ. Việt Nam cần cách tiếp cận rõ ràng hơn về quyền lợi của chủ nợ và cổ đông. Chúng ta cũng cần tập trung để tái cơ cấu các doanh nghiệp có khả năng phục hồi và có khả năng kinh doanh tốt trong tương lai đồng thời tập trung vào việc thanh lý công ty để tối đa hoá các khoản thanh toán cho chủ nợ.

- Việc bổ nhiệm quản tài viên độc lập và vai trò của chấp hành viên là một bước đi tích cực. Về việc bổ nhiệm hội đồng chủ nợ sẽ hợp lý với điều kiện vai trò của hội đồng được xác định rõ ràng, hội đồng chủ nợ không cản trở quá trình thực hiện nhiệm vụ của quản tài viên độc lập theo quy định của pháp luật. Do vậy nên xem xét phương án cho phép cơ chế quản tài viên là tổ chức.

- Vai trò của quản tài viên trong dự thảo luật không rõ ràng. Quản tài viên có thực sự là một

thực thể độc lập có khả năng đưa ra quyết định thay mặt những người mắc nợ hay có vai trò giám sát và báo cáo cho tòa án? Cũng cần chú ý hai quy định: Điều 13.g quy định về quản lý, trong khi Điều 43 có vẻ định nghĩa rất rõ ràng vai trò giám sát. Ở các quốc gia khác, cả hai phương pháp này đều được áp dụng. Người thanh lý tài sản hoặc quản tài viên với quyền điều hành có năng lực để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ thông qua hành động nhanh chóng và cần thiết để bảo toàn giá trị tài sản cho lợi ích của chủ nợ. Điều này có nghĩa là các chủ nợ sẽ ít phụ thuộc vào người mắc nợ hơn nếu người đó về cơ bản vẫn kiểm soát các hoạt động kinh doanh. Điều 42 cung cấp nền tảng pháp lý để toà án có thể chỉ định một người quản lý đặc biệt nếu toà án thấy rằng hoạt động quản lý doanh nghiệp không phù hợp và hiệu quả. Quy định này có thể phần nào giúp các chủ nợ yên tâm hơn với điều kiện là quy định được thực sự được thực hiện trong thực tế.

- Dự thảo luật dự kiến đưa vào vai trò của quản tài viên và chấp hành viên, nhưng những vai

trò này chưa được phân định rõ ràng. Theo quy định của nhiều nước trên thế giới, vai trò này có thể là một người trong nội bộ với nhiều lợi thế như kiến thức vốn có về doanh nghiệp nên khi công ty bị phá sản chính thức hoặc tiến hành quá trình thanh lý, người quản lý hoặc quản tài viên đã ở trong doanh nghiệp đủ lâu và có đủ thông tin để tiến hành giai đoạn thanh lý tài sản. Việc này không chỉ giúp tối đa hoá giá trị tài sản vì sẽ không cần đến hai bên khác nhau làm cùng một công việc mà còn giúp công ty không cần thiết lập một khoản phí hoặc hai bộ chi phí theo tỷ lệ.

- Trong cuộc họp trước đây có đề cập khả năng của cơ chế tái cơ cấu trong hoặc ngoài Luật

Phá sản. Tuy nhiên, cơ chế tái cơ cấu ngoài toà án không được quy định và nhiều người quan ngại rằng khi tính đến con số dự đoán của các trường hợp mất khả năng thanh toán, giải quyết tất cả mọi việc thông qua hệ thống toà án có thể làm chậm khả năng tái cơ cấu hiệu quả doanh nghiệp có khả năng phục hồi. Vì vậy, việc quy định cơ chế tái cơ cấu doanh nghiệp ngoài toà án vào luật hoặc ở một chế định riêng là rất quan trọng.

- Ngoài ra vẫn còn một số câu hỏi về cách tính phí và lệ phí phá sản và ai sẽ phải chịu những

chi phí ấy. Đây rõ ràng là một yếu tố quan trọng mà các chủ nợ phải cân nhắc khi quyết định nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với một doanh nghiệp. Điều 19.1 quy định người nộp đơn phải tạm ứng phí phá sản và điều này có thể khiến chủ nợ không muốn nộp đơn. Hơn nữa, việc chủ nợ có được trả lại tiền phí phá sản từ tài sản của người mắc nợ hay không

Trang 4/14

Page 181: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

vẫn chưa rõ ràng. Điều 19 điểm 4 quy định phí phá sản lấy từ giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên việc hoàn phí phá sản vẫn chưa được quy định rõ ràng. Điều 23.5 có đề cập khả năng bồi thường nếu có thiệt hại trong trường hợp không nộp đơn xin mở thủ tục phá sản theo quy định. Chúng ta nên đi theo hướng quy định giao dịch phá sản, nhưng vẫn chưa rõ quy định này sẽ được áp dụng thế nào và những người sẽ được bồi thường là ai. Một cơ chế bảo hiểm khác trong phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản ở các quốc gia khác là một số nước hoặc cơ quan có thẩm quyền được chỉ định hoặc yêu cầu thực hiện các quyền chủ nợ để tiến hành mở thủ tục phá sản. Ví dụ như ở Úc, dưới một số điều kiện nhất định, cơ quan thuế sẽ là người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đây là một cơ chế hợp lý với những con nợ nhỏ vì trong trường hợp đó, ngân hàng cho vay hoặc chủ nợ sẽ không muốn ra toà để tiến hành thanh lý doanh nghiệp nhỏ như vậy.

- Nếu luật này có mục đích khuyến khích tái cơ cấu doanh nghiệp, thì cần phải đảm bảo nguồn tiền mới sẽ chảy vào doanh nghiệp và các nhà cung cấp/chủ nợ vẫn tiếp tục làm ăn với doanh nghiệp. Quá trình này sẽ phát sinh những khoản nợ mới, và sau đó là việc mở thủ tục phá sản. Người cung cấp sẽ chỉ đồng ý giao hàng nếu họ tin rằng sẽ được thanh toán.

- Về các điều khoản hoạt động, Điều 66 yêu cầu quản tài viên chuẩn bị danh sách chủ nợ và có vẻ như danh sách này sẽ dựa trên cơ sở chứng từ nợ do chủ nợ cung cấp. Tuy nhiên, liệu quản tài viên có trách nhiệm xử lí các yêu cầu trả nợ đó hay không. Quản tài viên hoặc ngưởi quản lý phá sản độc lập phải có trách nhiệm sàng lọc ra những yêu cầu đòi nợ sai. Chúng tôi đề nghị yêu cầu hội đồng quản trị hoặc người mắc nợ ký văn bản ghi nhận nợ rõ ràng khi quá trình phá sản bắt đầu, thay mặt công ty đưa ra quan điểm xác định người nợ và chủ nợ như một cơ sở tham chiếu cho người quản lý xử lý các yêu cầu trả nợ.

- Liên quan đến việc tiến hành hội nghị chủ nợ và bỏ phiếu để tái cơ cấu doanh nghiệp, Điều 81 quy định sự có mặt của hơn ½ số chủ nợ không có bảo đảm, đại diện cho trên 2/3 tổng số nợ không bảo đảm là điều kiện để hội nghị chủ nợ hợp lệ. Tuy nhiên trong thực tế của việc điều phối nhiều chủ nợ nhỏ, mức quy định trên là không hợp lý. Tại Úc và Hồng Kông, yêu cầu tối thiểu để mở cuộc họp chủ nợ là có có hai chủ nợ. Trong khi đó, kết quả bỏ phiếu để quyết định tái cơ cấu phục hồi doanh nghiệp hay thanh lý sẽ được tính dựa trên phần lớn số phiếu của các chủ nợ tham dự cuộc họp, những người tham dự trực tiếp hay thông qua cơ chế đại diện. Tuy nhiên, cần chú ý phải loại bỏ phiếu của những người không có mặt.

Mr. Sandro Shandro – Cố vấn cao cấp, Nhóm Ngân hàng Thế giới - Về hội nghị chủ nợ, tỷ lệ đại biểu quy định tại Điều 81 không khả thi trong thực tế. Hầu hết

trong các trường hợp, hội nghị chủ nợ đúng quy định sẽ không thể diễn ra nếu quy định trên vẫn còn. Ở Úc, tỷ lệ để mở cuộc họp chủ nợ chỉ cần có quản tài viên và một chủ nợ, hoặc quản tài viên và một luật sư đại diện cho một chủ nợ, hoặc quản tài viên và người được ủy quyền của một chủ nợ, và người đó có thể tham dự cuộc họp trực tiếp hoặc thậm chí qua điện thoại. Mặc dù chủ nợ là đối tượng trung tâm của thủ tục phá sản, trong thực tế nhiều chủ nợ lại không muốn đóng vai trò chủ động trong việc tiến hành quá trình này. Ngoài ra Điều 82.1 có quy định điều kiện bổ sung đối với người mở thủ tục phá sản theo Điều 79 sẽ có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ, nếu không hội nghị sẽ không hợp lệ. Cần xoá bỏ quy định này bởi phá sản là một quy trình tập thể dựa trên cơ sở lợi ích cộng đồng và điều tiết hợp lý bên mắc nợ.

Trang 5/14

Page 182: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ông Đào Ngọc Truyền – Thành viên Ban Chủ nhiệm, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - Đề xuất phát triển hệ thống theo dõi thông tin được luật hoá về phá sản doanh nghiệp để

cung cấp thông tin về doanh nghiệp bị phá sản, lâm vào tình trạng phá sản, hoặc tiến trình giải quyết vụ việc phá sản.

- Quá trình xử lí tài sản và các chỉ tiêu về tài chính của doanh nghiệp: đề xuất dẫn chiếutới một sốquy định của pháp luật chuyên ngành hiện hành nhưLuật Kế toán, các chuẩn mực kế toán và những chuẩn mực trong kiểm toán để diễn đạt quy định ngắn gọn.

- Đề xuất thiết kế mô hình sơ đồ trình tự thủ tục phá sản theo hướng từng khâu với ba dạng cơ bản:

+ Tự ngừng, tự không hoạt động: ví dụ có một số doanh nghiệp sinh ra để mua chịu, vay

nợ, đăng ký mã số thuế rồi biến mất. Ngoài việc xử lý bằng giải thể đối với trường hợp này, cần phải áp dụng một số biện pháp cưỡng chế.

+ Tuyên bố phá sản không phụ thuộc vào yêu cầu của doanh nghiệp. + Đăng ký phá sản.

- Quản tài viên: Quy định này sẽ tạo thuận lợi bởi ngay trong giới luật sư hiện nay có nhiều

người là các chuyên gia kinh tế và hoạt động trong lĩnh vực kinh tế trong nhiều năm.

- Ủy ban chủ nợ: nếu đưa ra vấn đề ủy ban chủ nợ thì cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của ủy ban này, tránh tình trạng sinh ra một khâu thủ tục và làm cho quá trình tố tụng phá sản bị kéo dài.

- Vấn đề ủy thác: cần thiết kế rõ trường hợp nào thì áp dụng luật phá sản Việt Nam, trường

hợp nào áp dụng luật nước ngoài, tránh tình trạng có quy định mà ít được áp dụng. Ví dụ những quyết định của tòa án để công nhận bản án và quyết định của trọng tài nước ngoài có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay gặp nhiều vướng mắc.

Mr. Sandro Shandro – Cố vấn Cao cấp, Nhóm Ngân hàng Thế giới - IFC đồng tình với việc giới vai trò của quan tài viên trong quy trình phá sản tại Việt Nam. Ở

các nước khác, chức năng này thường được thực hiện bởi những người có chuyên môn về kế toán, tuy nhiên luật sư cũng có đủ năng lực để được coi là đại diện xử lý tài sản. Tại Việt Nam, các đối tượng này cần được tập hợp thành nhóm quản tài viên ban đầu, tuy nhiên cần đào tạo những ứng viên đó và đảm bảo cơ sở hạ tầng hành chính cần thiết để ngành nghề mới này được phát triển và điều chỉnh đúng đắn. Về chấp hành viên, IFC không khuyến khích đưa vai trò của chấp hành viên vào luật bởi quản tài viên đã có đủ kiến thức cần thiết về doanh nghiệp để thực hiện công việc trong quá trình thanh lý. Tuy nhiên nếu vai trò của chấp hành viên vẫn được giữ trong luật, cần tránh các trùng lặp trong vai trò của họ, vì những trùng lặp đó sẽ dẫn tới sự chậm trễ trong các thủ tục, phát sinh thêm chi phí cho chủ nợ.

Bà Nguyễn Thị Diệu Hồng –Ban Pháp chế, VCCI - Quản tài viên: cần có giải trình cụ thể đối với cơ chế vận hành, như cơ quan chuyên môn

cấp chứng chỉ về quản tài viên, quy chếquản lý đối với đối tượng này. Vấn đề thù lao của quản tài viên: Thù lao của quản tài viên là một trong những yếu tố quyết định tới động lực, thời gian cũng như hiệu quả công việc của chủ thể này. Điểm 8 Điều 7 của

Trang 6/14

Page 183: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Dự thảo quy định thù lao của quản tài viên được lấy từ phí phá sản và phí này được quy định theo pháp luật về phí và lệ phí quy định tại Khoản 2 Điều 19, và tòa án ấn định tạm ứng chi phí trả thù lao cho quản tài viên theo quy địnhKhoản 4 Điều 27. Để chế định này thực sự có hiệu quả, bên cạnh những tiêu chuẩn của quản tài viên, vấn đề về thù lao quản tài viên cũng cần được quan tâm và có thể xem xét theo hướng thù lao của quản tài viên có thể dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa chủ nợ và quản tài viên.

- Điều 123 Dự thảo về cấm đảm nhận chức vụ sau khi doanh nghiệp hợp tác xã bị tuyên bố phá sản: Khoản 2 Điều 123 quy định người nắm giữ các chức vụ quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện hoặc lĩnh vực công ích nhà nước bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, không được làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Đây là một chế tài khá nặng đối với những người đảm nhiệm chức vụ trong doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Quy định có thể tạođịnh kiến tiêu cực về doanh nghiệp phá sản. Dự thảo sửa đổi cần gỡ bỏ dần những định kiến tiêu cực để các doanh nghiệp cũng như các chủ nợ và con nợ xem việc phá sản là một hoạt động bình thường của kinh tế. Đề nghị bỏ Khoản 2 Điều 23. Nếu muốn ràng buộc trách nhiệm của những người có trách nhiệm trong doanh nghiệp, dự thảo nên quy định theo hướng chế tài áp dụng cho những đối tượng này khi không tự giác nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản hoặc có những dấu hiệu hoặc hành vi tẩu tán tài sản.

- Khoản 3 Điều 52 về nghĩa vụ tài sản trong trường hợp nghĩa vụ liên đới và bảo lãnh: trường hợp người được bảo lãnh hoặc cả người bảo lãnh và người được bảo lãnh đều lâm vào tình trạng phá sản thì người bảo lãnh và người được bảo lãnh đều phải chịu trách nhiệm nghĩa vụ liên đới theo quy định của pháp luật. Quy định nghĩa vụ liên đới trong trường hợp này không phản ánh đúng bản chất của mối quan hệ bảo lãnh trong quy định của Bộ Luật Dân sự. Điều 298 Bộ Luật Dân sự quy định nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Còn mối quan hệ bảo lãnh thì trách nhiệm của người bảo lãnh chỉ phát sinh khi người được bảo lãnh không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình, tức là phải có điều kiện trong khi nghĩa vụ liên đới lại không cần bất kỳ điều kiện nào cũng có thể yêu cầu một trong những người có trách nhiệm liên đới phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Đề xuất điều chỉnh Điều 52 Dự thảo cho phù hợp với bản chất của mối quan hệ bảo lãnh quy định tại Bộ Luật Dân sự.

Ông Nguyễn Văn Cường - Phó Viện trưởng, Viện Khoa học xét xử, Tòa án Nhân dân Tối cao - Vấn đề thù lao của quản tài viên: Chính phủsẽ quy định mức phí quản tài viên. Tuy nhiên

cần lưu ý là người tạm ứng phí là người yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nếu cho phép người yêu cầu mở thủ tục phá sản tự thỏa thuận với quản tài viên để đưa ra mức phí, mà phí lại được lấy từ tài sản phá sản của doanh nghiệp thì có thể dẫn đến tình trạng thỏa thuận mức cao để lấy tài sản doanh nghiệp. Do vậy cần quy định khung thù lao để tránh trường hợp lạm dụng tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Quy định củaChính phủ sẽ theo hướng phù hợp với thị trường và điều kiện kinh tế xã hội.

- Điều 123 Dự thảo: ý kiến đóng góp được tiếp thu.Tuy nhiên, Điều 123 chỉ cấm đối với doanh nghiệp và hợp tác xã quản lý tài sản nhà nước. Quy định sẽ được điều chỉnh lại về mặt câu chữ và làm rõ hơn.

Trang 7/14

Page 184: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ông Trần Anh Hùng – Luật sư, Bross & Partners - Điều 2 về đối tượng áp dụng: mục đích chính của Luật Phá sản là áp dụng cho doanh nghiệp

và hợp tác xã, không tập trung đến đối tượng hộ kinh doanh nhỏ lẻ hoặc hộ gia đình. Đề nghị xem xét bổ sung những đối tượng khác ví dụ như những tổ chức hành nghề luật sư hoặc văn phòng công chứng tư hiện đang được phát triển.

- Điều 3 về khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản: quy định đề cập

tới những khoản nợ không có bảo đảm hoặc được bảo đảm một phần. Liệu có bỏ sót trường hợp có nợ có bảo đảm nhưng tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán những khoản nợ đến hạn. Ví dụ những khoản nợ ngân hàng của các doanh nghiệp bất động sản, hiện giá trị bất động sản trên thị trường mất giá rất nhiều so với thời điểm tiến hành định giá.

Một điểm mới so với LPS năm 2004 là có bổ sung thêm khái niệm không có tranh chấp. Việc bổ sung khái niệm này có thể dẫn đến tình trạng tranh luận thế nào là một khoản nợ không có tranh chấp. Vì vậy nên bỏ cụm từ “không có tranh chấp“ khỏi điều khoản này.

- Điều 4 về quyền và nghĩa vụ của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: Ban soạn thảo đưa ra hai phương án. Cũng nhưđa số các ý kiến khác, phương án 1 khả thi hơn.Tuy nhiên, nên giảm thời gian từ 3 tháng xuống thời gian ngắn hơn để đảm bảo khi có yêu cầu thanh toán nợ mà doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán thì sẽ làm phát sinh quyền của chủ nợ hoặc các bên liên quan được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

- Điều 5 về nghĩa vụ thông báo doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản: hiện nay một số doanh nghiệp, hợp tác xã nợ nhiều khoản tiền liên quan đến bảo hiểm xã hội hoặc thuế, vì vậy nên tách riêng một điều luật quy định các cơ quan quản lý thuế hoặc cơ quan bảo hiểm xã hội cũng có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản như chủ nợ hoặc những đối tượng khác (người lao động, thành viên công ty).

- Điều 7 về giải thích từ ngữ: chưa có khái niệm thế nào là người mắc nợ vì người mắc nợ và

danh sách người mắc nợ có liên quan đến tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và tình trạng phá sản. Và việc xác định chính xác khái niệm người mắc nợ cũng như các quyền, nghĩa vụ của người mắc nợ sẽ ảnh hưởng lớn đến trình tự, thủ tục phá sản. Nên có một điều khoản riêng quy định rõ về người mắc nợ cũng như khái niệm người mắc nợ.

- Điều 33 về thương lượng giữa chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản: cần có những điều khoản loại trừ hoặc không cho phép thương lượng. Ví dụ trong trường hợp thương lượng nhằm mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản hoặc có những dấu hiệu cho thấy việc thương lượng sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ khác. Trong trường hợp này thì tòa án có quyền không có phép việc thương lượng diễn ra và tiến hành các thủ tục tố tụng về phá sản như quy định trong luật.

- Điều 50 về thứ tự phân chia tài sản: nên có những quy định về dành quyền ưu tiên thanh toán theo thứ tự phân chia tài sản đối với những chủ nợ là người đã nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản vì khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì chủ nợ này phải có nghĩa vụ theo quy định của LPS. Nghĩa vụ có thể kể đến như nghĩa vụ tham gia cùng chủ nợ hoặc nghĩa vụ nộp lệ phí phá sản và tạm ứng phí phá sản.

Trang 8/14

Page 185: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

- Điều 57 về tuyên bố giao dịchdân sự vô hiệu: nên bổ sung quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu cho cả các chủ nợ có bảođảm hoặc có bảo đảm một phầnchứkhông chỉ dành cho các chủ nợ không có bảođảm vàcác đối tượng khác.

- Các điều khoản về trình tự, nội dung, điều kiện và các quyết định liên quan đến hội nghị chủ nợ: Mục 1.(h) Điều 80 quy định “Kết luận được lập thành văn bản và phải được quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên thông qua”. Nên bỏ qui định phải được quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho 2/3 tổng số nợ không có bản đảm trở lên thông qua. Chỉ cần qui định chủ nợ có đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên thông qua để tạo điều kiện thuận lợi hơn trong thủ tục tiến hành hội nghị chủ nợ hoặc những quyết định liên quan đến hội nghị chủ nợ.

- Vấn đề điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh: Chỉ nên qui định 01 phương án phục

hồi hoạt động kinh doanh do DN, HTX xây dựng hoặc do người nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh doanh xây dựng. Không nên qui định thêm quyền của các chủ nợ với việc này và sẽ dẫn đến tình trạng có thể có 02 hoặc hơn 02 phương án nộp cho Tòa án và không có qui định Tòa án sẽ xem xét phương án nào.

Ông Nguyễn Văn Cường - Phó Viện trưởng, Viện Khoa học xét xử, Tòa án Nhân dân Tối cao - Vấn đề “quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm”: đây là vấn đề kỹ thuậtđược tính trên tổng

số nợ, không phải là sốchủ nợ.

- Vấn đề được nghiên cứu: có nên ưu tiên cho các chủ nợ có yêu cầu mở thủ tục phá sản trong quá trình phân chia tài sản hay không?

Ông Sandro Shandro – Cố vấn Cao cấp, Nhóm Ngân hàng Thế giới - Cần ghi nhận rằng nguyên lý cơ bản của phá sản là một quy trình tập thể. Bất kì chính sách

ưu tiên hoặc lợi thế tài chính nào dành cho chủ nợ nộp đơn sẽ không thống nhất với nền tảng cơ bản của luật phá sản. Hơn nữa, bản thân chủ nợ không nên có quyền lên kế hoạch tái cơ cấu doanh nghiệp của bên mắc nợ vì dễ dẫn tới sự phức tạp. Ví dụ cần nghiên cứu là các trường hợp ở Mỹ, nơi có nhiều kinh nghiệp tái cơ cấu doanh nghiệp hơn bất kì quốc gia nào. Ở Mỹ, chủ nợ nộp đơn phá sản được hưởng một “giai đoạn độc quyền”, thường là 180 ngày. Trong giai đoạn này không ai có quyền lên bất cứ kế hoạch nào. Chủ nợ có thể bị ảnh hưởng bởi hội đồng chủ nợ, những người sẽ tìm cách gây ảnh hưởng với người mắc nợ. Vì vậy phương án đề xuất đối với dự thảo luật hiện tại là cho phép chủ nợ và các bên khác gửi kế hoạch cho quản tài viên.

- Về quan điểm chỉ thực hiện phương án kiểm tra dòng tiền theo thông lệ quốc tế. Văn bản

luật hiện hành có quy định giai đoạn 3 tháng trong đó người mắc nợ có thể thanh toán. Vấn đề của việc gia hạn thêm thời gian cho người mắc nợ thanh toán sau khi quá hạn là trong một quy trình tổng thể, người mắc nợ có thể hoàn toàn mất khả năng thanh toán và không thể thanh toán cho bất cứ chủ nợ nào, nhưng một chủ nợ thận trọng sẽ nộp đơn để tiến hành quy trình tập thể. Người mắc nợ có thể gây quĩ để trả cho chủ nợ đó trong 1-3 tháng, nhưng điều này không giải quyết được vấn đề của người mắc nợ. Bên cạnh đó còn có nguy cơ người mắc nợ che giấu tài sản và thực hiện giao dịch với chủ nợ mới và chủ nợ này sẽ không được thanh toán.

Trang 9/14

Page 186: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Luật sư, Vilaf - Quy định tuyên bố giao dịch vô hiệu: hiện Luật Phá sản 2004 đang quy định đối với các giao

dịch có dấu hiệu tẩu tán tài sản trước, trong thời điểm 3 tháng kể từ khi tòa thụ lý đơn mở thủ tục phá sản thì có thể bị coi là vô hiệu. Nhưng trong Dự thảo hiện nay, thời hạn đó không còn được quy định. Có thể hiểu là tất cả những giao dịch có dấu hiệu tẩu tán tài sản mà doanh nghiệp thực hiện ở bất kể thời điểm nào trước khi mở thủ tục phá sản đều có khả năng bị tòa coi là vô hiệu. Quy định này cóthể dẫn đến những khó khăn trên thực tế khi thực hiện, bởi để xác định được thế nào là một giao dịch có ý đồ tẩu tán tài sản và một giao dịch bán tài sản thông thường của doanh nghiệp khi họ đang trong quá trình hoạt động không phải là dễ, mà còn có thể gây ảnh hưởng tới quyền lợi của các bên nhận chuyển nhượng ngay tình đã thực hiện từ trước. Dự thảo nên quy định giới hạn cụ thể để xác định các giao dịch sẽ bị coi là vô hiệu do có dấu hiệu tẩu tán tài sản.

- Quản tài viên: Dự thảo quy định luật sư có thể trở thành quản tài viên. Vai trò của luật sư có

thể phù hợp với việc giám sát các thủ tục phá sản. Nhưng việc cho phép những trường hợp quản tài viên có thể tham gia vào điều hành doanh nghiệp phá sản có thể dẫn đến một số quan ngại vì những công việc đó có thể không phù hợp với phạm vi công việc cụ thể mà luật sư đang được thực hiện theo Luật Luật sư hiện hành.

- Nghĩa vụ của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh khi cảhai bên cùng bị phá sản thì sẽ có trách nhiệm liên đới với tài sản: đề nghị Ban Soạn thảo làm rõ khái niệm trách nhiệm liên đới. Quy định hiện nay trong Dự thảo đã phù hợp với quy định hiện hành trong Nghị định 163 về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, đề nghị làm rõ hơn khái niệm nghĩa vụ liên đới giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh trong trường hợp cả hai bên đều bị phá sản. Ngoài ra, Nghị định 163 về giao dịch bảo đảm có quy định khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, đề nghị đưa vào dự thảo một khái niệm rõ hơn khi nào phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh để có thể yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ ở Luật Phá sản.

- Hiện chưa có cơ chế theo dõi hoặc kiểm tra các thông tin liên quan đến các doanh nghiệp bị phá sản. Trong quá trình thẩm định pháp lý liên quan đến các giao dịch sát nhập và mua bán, các thông tin về doanh nghiệp bị phá sản gần như không thể có được. Dự thảo nên quy định cơ chế tổng hợp cũng như cung cấp các thông tin liên quan đến các vụ việc về phá sản của các doanh nghiệp.

- Quy định hiện nay của dự thảo hướng đến việc áp dụng án lệ trong việc thụ lý các vụ việc phá sản. Trên thực tế việc áp dụng quy định về án lệ trong hệ thống dân luật của Việt Nam hiện nay sẽ được thực hiện như thế nào?

Bà Trần Thị Hồng Hạnh – Tổng Thư ký, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam - Điều 3 quy định khoản nợ không có bảo đảm hoặc được bảo đảm một phần đã đến hạn,

không có tranh chấp và chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán khoản nợ đến hạn đó. Quy định này chưa rõ. Cần quy định rõ thế nào là không có tranh chấp và căn cứ vào đâu để xác định là không có tranh chấp và cơ quan nào có quyền ra các thông báo về nợ không có tranh chấp. Cần làm rõ các khoản nợ đến hạn mà không thanh toán được là ở mức độ như thế nào. Ví dụ như đối với ngân hàng, khi khoản nợ không thanh toán được thì ngân hàng cũng tiến hành cơ cấu lại nợ. Các khoản nợ khoanh, miễn giảm lãi thì được tính toán như thế nào?

Trang 10/14

Page 187: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

- Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của tổ chức tín dụng: theo Luật Tổ chức Tín dụng thì tổ chức tín dụng chủ động nộp đơn yêu cầu phá sản sau khi đã thực hiện xong công đoạn kiểm soát đặc biệt. Dự thảo quy định có cả trường hợp chủ động và bị động, tức là nếu các chủ nợ yêu cầu mở thủ tục phá sản thì quy trình sẽ được thực hiện theo Luật Phá sản. Khi thực hiện theo Luật Phá sản, cũng có các trường hợp phải tham gia đàm phán, xây dựng phương án phục hồi và các giai đoạn khác. Vậy vai trò của ngân hàng nhà nước trong việc tổ chức tín dụng bị mở thủ tục phá sản do chủ nợ yêu cầu sẽ như thế nào? Vì chủ nợ ở đây có nhiều dạng: chủ nợ do bên tổ chức tín dụng đi vay, các khách hàng gửi tiền.

- Quản lý tài sản: chưa làm rõ được trách nhiệm, quyền hạn gắn liền với các thủ tục, trình tự của quy trình phá sản của quản tài viên, chấp hành viên và cơ quan thi hành án. Đối với quản tài viên, nếu chỉ quy định một quản tài viên trong một quy trình thì liệu họ có đủ năng lực và khả năng để quản lý tài sản không. Bởi khi các ngân hàng cho vay có thế chấp ví dụ bằng động sản hoặc kho hàng, ngân hàng có thể phối hợp với cơ quan công an để thực hiện quy trình, nhưng với một quản tài viên và không có đơn vị nào hỗ trợ thì liệu có thể quản lý được tài sản không. Thứ hai là quản tài viên phải rất am hiểu lĩnh vực tài chính kế toán, ngoài kiến thức luật pháp.

- Hội nghị chủ nợ, danh sách nợ: Điểm 3 Điều 78 Dự thảo được hiểu là tất cả các chủ nợ có bảo đảm không được tham gia hội nghị chủ nợ. Đề nghị bổ sung danh sách chủ nợ có các chủ nợ có tài sản bảo đảm và theo đó các chủ nợ bảo lãnh và đã thực hiện cam kết bảo lãnh cũng được trong danh sách chủ nợ.

Ông Nguyễn Văn Cường - Phó Viện trưởng, Viện Khoa học xét xử, Tòa án Nhân dân Tối cao - Luật Phá sản chỉ xử lý với khoản nợ không có bảo đảm đến hạn và không được thanh toán

và không có tranh chấp. Nếu khoản nợ có tranh chấp thì đã được điều chỉnh ở Chương 12 của Dự thảo Luật. Về phía ngân hàng, chủ yếu là xử lý đối với tài sản có bảo đảm. Tài sản có bảo đảm được thực hiện theo quy định hợp đồng bảo đảm. Tuy nhiên vấn đề này có liên quan đến Luật Phá sản vì khi xử lý đối với doanh nghiệp phá sản, sẽ có cả tài sản bảo đảm và không bảo đảm. Tài sản không bảo đảm và bảo đảm sẽ được thống kê về tòa án đang giải quyết phá sản. Tòa án có trách nhiệm tách phần tài sản có bảo đảm để xử lý theo hợp đồng có bảo đảm.

- Vấn đề quản tài viên: quy định của Dự thảo không khống chế một quản tài viên đối với mỗi vụ việc phá sản, vì có những vụ việc phải có đến 4-5 quản tài viên, và quản tài viên có quyền thuê các dịch vụ, ví dụ thuê các cơ quan đấu giá xác định giá và bán đấu giá.

Hiệp hội Ngân hàng - Điều 78 Khoản 3: “Những người sau đây có quyền tham gia hội nghị chủ nợ: người bảo lãnh

sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, trong trường hợp này họ trở thành chủ nợ không có bảo đảm”. Đề nghị Ban Soạn thảo nghiên cứu thêm một trường hợp, tức là trong hoạt động của tổ chức tín dụng, ngân hàng khi đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp vay thì có những trường hợp không yêu cầu doanh nghiệp phải có tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều trường hợp doanh nghiệp muốn tổ chức đứng ra bảo lãnh để vay vốn tại một tổ chức khác thì thông thường tổ chức tín dụng cũng yêu cầu doanh nghiệp phải có tài sản bảo đảm. Nếu quy định trong trường hợp người bảo lãnh như thế trở thành chủ nợ không có bảo đảm thì chưa phù hợp với trường hợp dùng tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh.

Trang 11/14

Page 188: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ông Phan Tiến Sỹ - Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Quy định về hội nghị chủ nợ không đề cập đến là chủ nợ có bảo đảm hay không có bảo đảm,

tức là có thể hiểu theo hướng hội nghị chủ nợ bao gồm cả chủ nợ có bảo đảm và không có bảo đảm? Đối với chủ nợ có bảo đảm thì phần bảo đảm sẽ được thanh toán ưu tiên trước, phần không có bảo đảm sẽ được xử lý giống như chủ nợ không có bảo đảm trong thứ tự phân chia tài sản.

- Phá sản tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng có một số điểm đặc thù so với các doanh nghiệp

khác, được điều chỉnh bởi Luật các Tổ chức tín dụng chuyên ngành và do một cơ quan chuyên ngành quản lý (Ngân hàng nhà nước). Tổ chức tín dụng có điểm đặc thù là tổ chức nhận tiền gửi, huy động vốn để cho vay và có tính bất tương xứng về kì hạn có nhiều rủi ro trong thanh khoản. Với đặc thù như vậy, theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng, trong quá trình quản lý tổ chức tín dụng, khi tổ chức tín dụng thấy thiếu khả năng thanh khoản thì ngân hàng nhà nước có thể tái cấp vốn, dùng các biện pháp cung cấp khả năng thanh khoản. Khi tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán thì tổ chức tín dụng có thể bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, khi đó ngân hàng nhà nước kiểm soát chặt chẽ các tổ chức tín dụng và dùng các biện pháp để khổi phục khả năng thanh toán, các hoạt động bình thường của tổ chức tín dụng, trong đó có cả tái cấp vốn, cho vay đặc biệt. Quy định hiện hành tại Nghị định 05 hướng dẫn phá sản các tổ chức tín dụng ghi nhận những chủ thể có quyền nộp đơn phá sản các tổ chức tín dụng cũng như doanh nghiệp thông thường, bao gồm: chủ nợ, người lao động, cổ đông, nhóm cổ đông và chính tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, từ tính nhạy cảm và sự ảnh hưởng lớn khi phá sản của tổ chức tín dụng, Nghị định 05 quy định tòa án chỉ mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tín dụng khi ngân hàng nhà nước đã có văn bản chấm dứt hoặc không áp dụng những biện pháp để khôi phục khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng. Dự thảo nên quy định theo hướng dù bất kể chủ thể nào nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đều phải có văn bản của ngân hàng nhà nước (Văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán) thì mới tiến hành thủ tục phá sản.

Ông Nguyễn Văn Cường - Phó Viện trưởng, Viện Khoa học xét xử, Tòa án Nhân dân Tối cao - Những trường hợp ví dụ ngân hàng nợ một khoản tiền xây dựng trụ sở cho ngân hàng, thì

chủ nợ có quyền yêu cầu với tòa án tuyên bố phá sản không hay phải làm đơn gửi lên ngân hàng nhà nước?

Ông Sandro Shandro – Cố vấn Cao cấp, Nhóm Ngân hàng Thế giới - Điều 4.6 trong bản dự thảo quy định nghĩa vụ nộp đơn phá sản khi chấm dứt kiểm soát đặc

biệt, nhưng chưa có quy định về trường hợp khi một chủ thể ngoài cộng đồng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với ngân hàng. Trong trường hợp ngân hàng phá sản, một trong những mục tiêu là duy trì ổn định và tránh rủi ro hệ thống. vì vậy theo quan điểm của IFC/WB cách tốt nhất là ngân hàng nên có hệ thống quy định tách biệt và không nên giải quyết vấn đề bằng cách đưa ra những ngoại lệ không hoàn chỉnh trong luật phá sản.

Ông Nguyễn Hồng Năng – Trưởng Bộ phận Pháp chế, Ngân hàng ANZ - Quy định về quản tài viên: cần có thêm quy định về chấp hành viên vì quyền và trách nhiệm

giữa hai vai trò chấp hành viên và quản tài viên chưa rõ ràng. Đề xuất bỏ quy định về chấp hành viên và quyền chỉ định người thi hành việc bán tài sản sẽ do hội nghị chủ nợ và quản

Trang 12/14

Page 189: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

tài viên thỏa thuận và chỉ định. Nếu vẫn để chế định về chấp hành viên thì cần phân biệt rõ ràng hơn giữa hai vai trò này.

- Điều 79 đến Điều 81 quy định về tỷ lệ hợp thức của hội nghị chủ nợ: tỷ lệ này quá lớn và bất

khả thi trên thực tế. Tiến hành hội nghị chủ nợ phải thật sự dễ dàng và thuận lợi. Điều kiện tiến hành hội nghị chủ nợ cũng phải đơn giản hơn nhiều thì thủ tục phá sản mới có thể được triển khai một cách nhanh chóng.

Việc tham gia hội nghị chủ nợ là quyền của các chủ nợ và nếu chủ nợ không muốn tham gia hoặc vì lí do nào đó không tham gia thì họ đã từ bỏ quyền của mình. Để đảm bảo chủ nợ có thể thực hiện quyền đó thì những qui định thông báo đối với chủ nợ cần được làm tốt hơn.

- Điều khoản về bù trừ nghĩa vụ: Bù trừ nghĩa vụ là một trong những điều khoản quan trọng

trong phá sản. Nó đảm bảo các bên tham gia giao dịch, nhất là các chủ nợ có nhiều giao dịch với doanh nghiệp phá sản, tránh được rủi ro về mặt tín dụng. Quy định trong Dự thảo cho phép bù trừ nghĩa vụ là một điểm tiến bộ. Tuy nhiên, Ban soạn thảo cần lưu ý làm rõ thêm điều khoản bù trừ nghĩa vụ này để đảm bảo việc hiểu và áp dụng bù trừ nghĩa vụ trong trường hợp phá sản khác với việc hiểu và áp dụng bù trừ nghĩa vụ theo quy định của Bộ Luật Dân sự. Theo quy định dân sự thì bù trừ nghĩa vụ tương đối hẹp, chỉ áp dụng cho những giao dịch cùng loại và hai bên có nghĩa vụ tương đương với nhau. Trong phá sản, cần mở rộng việc áp dụng bù trừ nghĩa vụ cho nhiều loại giao dịch khác nhau, trên nhiều loại tài sản khác nhau.

- Quá trình phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Ở giai đoạn này, có thể có thêm

nhiều chủ nợ mới. Một trong những quy định quan trọng là những khoản nợ phát sinh trong quá trình phục hồi sản xuất kinh doanh hoặc phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản mà liên quan tới phục hồi sản xuất kinh doanh thì phải được ưu tiên thanh toán so với những khoản nợ đã phát sinh trước khi mở thủ tục phá sản, vì nếu không, cơ hội để doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh là rất khó.

- Quy định về bảo lãnh của bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và nghĩa vụ liên đới: liệu chủ nợ,

tức là bên nhận bảo lãnh có quyền đòi cả hai doanh nghiệp phá sản là bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh trả nợ cùng một lúc và cho toàn bộ khoản tiền nợp hay không. Điều này rất quan trọng vì liên quan tới việc chủ nợ sẽ được chia tỉ lệ bao nhiêu trong phần của hội nghị chủ nợ và chia tài sản đối với doanh nghiệp, vì nếu mỗi hội nghị chủ nợ của hai doanh nghiệp đó đều chia cho chủ nợ 100% phần tài sản mà họ đáng được nhận thì cần có cơ chế để đảm bảo chủ nợ sẽ không được nhận nhiều hơn phần họ được hưởng.

- Cần quy định cơ chế tiến hành thủ tục phá sản hoặc khôi phục sản xuất kinh doanh ngoài

toà án. Cơ chế này để đảm bảo các doanh nghiệp và các chủ nợ có thể ngồi lại với nhau và thảo luận về khôi phục sản xuất kinh doanh. Thỏa thuận về khôi phục sản xuất kinh doanh được hợp pháp hóa bằng công nhận của tòa án.

Phụ lục 1 – Danh sách tham dự

TT Họ và Tên Chức danh Tổ chức Đại diện Bộ ngành liên quan

1 Ông Chu Trung Dũng Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế Tòa Án Nhân dân Tối cao

2 Ông Nguyễn Văn Cường Phó Viện trưởng Viện Khoa học xét xử, Tòa Án

Trang 13/14

Page 190: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Cuộc họp về Dự thảo Luật Phá sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Nhân dân Tối cao

3 Bà Bùi Thị Dung Huyền Trưởng phòng Phòng Nghiên cứu pháp luật dân sự, kinh doanh thương mại

Viện Khoa học xét xử, Tòa Án Nhân dân Tối cao

4 Bà Phan Thị Thu Hà Thẩm tra viên Phòng Nghiên cứu pháp luật dân sự, kinh doanh thương mại

Viện Khoa học xét xử, Tòa Án Nhân dân Tối cao

5 Bà Vũ Thúy Hằng Thẩm tra viên Vụ HTQT Tòa Án Nhân dân Tối cao 6 Ông Hà Tuấn Hiệp Chuyên viện Vụ HTQT Tòa Án Nhân dân Tối cao 7 Ông Nguyễn Văn Tiến Phó Chánh tòa Tòa kinh tế Tòa Án Nhân dân Tối cao

8 Ông Nguyễn Văn Quang Trưởng phòng Phòng nghiệp vụ, Tòa kinh tế Tòa Án Nhân dân Tối cao

9 Ông Phan Tiến Sỹ Vụ Pháp chế Ngân hàng nhà nước Việt Nam 10 Ông Hoàng Ngọc Thành Phó Chánh tòa Tòa kinh tế TAND thành phố Hà Nội 11 Bà Lưu Hương Ly Vụ pháp luật kinh tế, dân sự Bộ Tư pháp Thành viên VBF

1 Ông Sandy Shandro Cố vấn cao cấp Nhóm Ngân hàng Thế giới 2 Bà Phạm Liên Anh Chuyên viên Tổ chức Tài chính Quốc tế 3 Ông Nguyễn Văn Làn Chuyên viên Tổ chức Tài chính Quốc tế 4 Ông Phil Smith Giám đốc dịch vụ tái cơ cấu KPMG Việt Nam

5 Bà Liên Trường Trưởng Bộ phận Pháp chế và Tuân thủ

Ngân hàng Sumitomo Mitsui, Chí nhánh Hà Nội

6 Bà Lê Thu Hà Cán bộ Pháp chế và Tuân thủ Ngân hàng Sumitomo Mitsui, Chí nhánh Hà Nội

7 Ông Nguyễn Hồng Năng Trưởng Bộ phận Pháp chế Ngân hàng ANZ Việt Nam 8 Ông Trần Tuấn Phong Luật sư V I L A F 9 Ông Trần Xuân Hùng Luật sư TMI Associates

10 Ông Trần Việt Anh Luật sư TMI Associates 11 Ông Lưu Xuân Vinh Luật sư điều hành Indochine Counsel 12 Bà Đặng Linh Chi Luật sư Baker & McKenzie 13 Bà Trần Thị Hồng Hạnh Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam 14 Ông Trần Anh Hùng Luật sư BROSS & Partners 15 Ông Youngdae Kim Luật sư BROSS & Partners

16 Ông Phạm Bá Linh Luật sư Công ty Luật Frasers, Chi nhánh Hà Nội

17 Ông Phùng Quang Cường Luật sư Hãng Luật NHQuang và Cộng sự

18 Ông Đinh Huy Hoàng Trưởng Bộ phận Pháp chế và Tuân thủ Ngân hàng Shinhan

19 Bà Nguyễn Thị Diệu Hồng Chuyên viên Ban Pháp chế VCCI

20 Ông SAKAKIBARA Takashi Trưởng tư vấn JICA, Dự án hỗ trợ tái cơ cấu hệ thống ngân hàng

21 Ông Hara Takashi Chuyên gia tư vấn JICA, Dự án hỗ trợ tái cơ cấu hệ thống ngân hàng

22 Ông Nguyễn Anh Tuấn Luật sư điều hành Bizconsult

Trang 14/14

Page 191: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Đất đai & Bất động sản

Page 192: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO DỰ THẢO LUẬT KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN VÀ LUẬT NHÀ Ở – DỰ THẢO 2014

Chuẩn bị bởi Tiểu nhóm Đất đai

Chúng tôi xin trình bày trong tài liệu này ý kiến của mình đối với các nội dung điều chỉnh được đưa ra trong Dự Thảo Luật Kinh Doanh Bất Động Sản sẽ thay thế cho Luật Kinh Doanh Bất Động Sản số 63/2006/QH11 (“Dự Thảo LKDBĐS”) và Dự Thảo Luật Nhà Ở sẽ thay thế cho Luật Nhà Ở số 56/2005/QH11 (“Dự Thảo LNO”). I. DỰ THẢO LKDBĐS 1. Phạm vi điều chỉnh được cho phép đối với các hoạt động bất động sản dành cho nhà đầu

tư nước ngoài Dự Thảo LKDBĐS đã công nhận đề xuất của chúng tôi trong báo cáo trước đây bằng việc bổ sung vào một số quyền của người Việt Nam định cư tại nước ngoài thực hiện kinh doanh bất động sản. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng các quyền đó vẫn không được áp dụng cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài và do đó vẫn có sự khác biệt và bất bình đẳng giữa các phạm vi hoạt động của các nhà đầu tư trong nước/người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.Đặc biệt, các nhà đầu tư nước ngoài không được phép (i) mua nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua; và (ii) đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên đất được giao, đất nhận chuyển nhượng, đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp để chuyển nhượng, cho thuê đất đã có hạ tầng kỹ thuật. Hơn nữa, Dự Thảo trước đó cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho thuê công trình xây dựng, bao gồm văn phòng làm việc mà đã được các doanh nghiệp thuê/mua.Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng Dự Thảo LKDBĐS đã loại bỏ quyền đó. Đề xuất: Theo đề xuất trong Dự Thảo trước đó, chúng tôi yêu cầu các nhà đầu tư trong và ngoài nước nên có cùng các quyền và nghĩa vụ, bao gồm cả các quyền được quy định trong khoản 1 (b) và (đ) của Điều 8 của Dự Thảo LKDBĐS. Ngoài ra, chúng tôi đề nghị khôi phục lại quyền cho thuê các công trình xây dựng, bao gồm các diện tích văn phòng làm việc mà đã được các tổ chức/cá nhân nước ngoài thuê/mua tại Dự Thảo trước đây đối với Điều 8 của Dự Thảo LKDBĐS.

2. Điều kiện thành lập doanh nghiệp tham gia kinh doanh bất động sản/đăng ký đầu tư dự

án bất động sản a. Điều kiện thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh bất động sản Điều 9.1 của Dự Thảo LKDBĐS quy định rằng bất kỳ tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã.Theo pháp luật về đầu tư, tổ chức, cá nhân cũng có thể tiến hành kinh doanh bất động sản bằng cách ký hợp đồng hợp tác kinh doanh mà không thành lập pháp nhân. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm hình thức này ngoài sự thành lập doanh nghiệp. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị bổ sung "hoặc ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với các pháp nhân thực hiện kinh doanh bất động sản" quy định tại Điều 9.1. b. Điều kiện về vốn pháp định Điều 9.1 của Dự Thảo LKDBĐS quy định rằng doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định và Chính phủ quy định mức vốn pháp định cụ thể cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của từng thời kỳ. Bởi vì mức vốn pháp định cụ thể không được quy định, điều khoản này có thể gây ra mối quan ngại và sự không chắc chắn cho nhà đầu tư. Ngoài ra, khi các

Trang 1/12

Page 193: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

nhà đầu tư xin giấy phép kinh doanh bất động sản, cơ quan cấp phép sẽ tiến hành đánh giá vốn đầu tư để xem xét liệu số vốn đầu tư như thế là đủ để thực hiện dự án và liệu các nhà đầu tư có khả năng thực hiện một dự án như vậy. Đề xuất: Yêu cầu về vốn pháp định là không cần thiết và cần được loại bỏ. 3. Kinh doanh định giá bất động sản Theo Điều 59.1 của Dự Thảo LKDBĐS, doanh nghiệp làm dịch vụ định giá bất động sản có trách nhiệm đáp ứng những điều kiện phù hợp với pháp luật về giá. Sẽ không rõ ràng nếu yêu cầu này chỉ áp dụng cho các công ty mới thành lập sau ngày có hiệu lực của Dự Thảo LKDBĐS này. Nếu quy định này áp dụng cho các công ty hiện hành, thật không công bằng và sẽ gây ra mối quan ngại và khó khăn cho các doanh nghiệp đã được thành lập và hiện đang cung cấp các dịch vụ định giá bất động sản. Đề xuất: Chúng tôi do đó đề nghị rằng các yêu cầu như quy định tại Điều 59.1 nên chỉ áp dụng cho công ty mới thành lập được thành lập sau ngày có hiệu lực của Dự Thảo LKDBĐS này. Hơn nữa, cần có một điều khoản chuyển tiếp quy định rằng các doanh nghiệp đã được thành lập trước khi Luật mới về kinh doanh bất động sản có hiệu lực sẽ không bị chi phối bởi Điều 59.1 của Dự Thảo LKDBĐS. 4. Mua nhà và các tòa nhà gắn với chuyển quyền sử dụng đất Điều 17.2 của Dự Thảo LKDBĐS quy định rằng việc bán các phần diện tích trong tòa nhà hỗn hợp nhiều mục đích sử dụng thì phải gắn với quyền sử dụng đất, quyền sử dụng các phần diện tích sử dụng chung và các trang thiết bị thuộc sở hữu chung trong tòa nhà hỗn hợp đó. Hơn nữa, Quyền sử dụng đất của các chủ sở hữu sau khi mua các phần diện tích trong tòa nhà hỗn hợp là quyền sử dụng chung và phải thống nhất theo một hình thức sử dụng ổn định lâu dài hoặc thuê. Xin lưu ý rằng Dự Thảo LKDBĐS đã loại bỏ định nghĩa về "các tòa nhà đa năng" và không phải từ Dự Thảo trước đó, như vậy, sẽ không rõ ràng nếu khái niệm này đề cập đến các tòa nhà với mục đích sử dụng hỗn hợp cho nhà ở, văn phòng, trung tâm thương mại và dịch vụ theo quy định trong Nghị định 71. Thật không cần thiết đối với quyền sử dụng đất của chủ sở hữu khi mua các khu vực diện tích trong phạm vi một tòa nhàhỗn hợp thuộc sở hữu chung. Quy định này có liên quan quyền sử dụng đất của các phần diện tích sử dụngchungvà trang thiết bị và đồ đạc thuộc sở hữu chung chỉtrong tòa nhà đó. Ngoài ra, xin lưu ý rằng trong thực tế, một tòa nhàhỗn hợpthường bao gồm diện tích căn hộ để bán, văn phòng cho thuê và/hoặc khu vực trung tâm thương mại. Căn cứ Luật Đất đai, đất ở là đất được giao trên cơ sở ổn định lâu dài. Hơn nữa, khi mua căn hộ trong các tòa nhà đa năng, giá mua thường bao gồm giá trị quyền sử dụng đất (bao gồm cả chi phí đất như giải phóng mặt bằng, tiền thuê đất / phí sử dụng đất, vv.) Trong khi đó, đối với diện tích văn phòng cho thuê và/hoặc trung tâm thương mại, nó được xác định là đất cho các mục đích kinh doanh và thương mại, và như vậy các nhà đầu tư chỉ được phép thuê đất. Do đó, cần phải làm rõ rằng hình thức quyền sử dụng đất phải tuân theo mục đích sử dụng đất, ví dụ: sử dụng ổn định lâu dài đối với các hạng mục nhà ở và cho thuê đối với các hạng mục không dùng để ở. Hơn nữa, Dự Thảo LKDBĐS không đề cập đến việc chuyển giao quyền sở hữu các khu vực chung trong trường hợp bán nhà và tòa nhà không nằm trong trong một tòa nhàhỗn hợphoặc trong trường hợp biệt thự/nhà ở cá nhân có các khu vực chung nằm trong phạm vi một dự án nhà ở.

Trang 2/12

Page 194: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đề xuất: Chúng tôi đề nghị sửa đổi câu thứ ba của Điều 17.2 của Dự Thảo LKDBĐS rằng "quyền sử dụng đất của chủ sở hữu khi mua diện tích trong một tòa nhà hỗn hợp liên quan đến các phần diện tích sử dụng chung và trang thiết bị thuộc sở hữu chung trong các tòa nhà đó phải thuộc sở hữu chung và mục đích sử dụng đất trong những khu vực đó sẽ là sử dụng ổn định lâu dài cho các hạng mục nhà ở và cho thuê cho các hạng mục không dùng để ở.”Hơn nữa, chúng tôi đề nghị những quy định này sẽ áp dụng đối với việc chuyển giao quyền sở hữu của các khu vực chung trong các dự án tòa nhà không phải hỗn hợp, các dự án nhà biệt thự và nhà ở cá nhân cũng với các khu vực chung như vậy. 5. Chuyển nhượng dự án bất động sản (a) Trong khi Dự Thảo trước đó kết hợp chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần của một dự án

bất động sản trong các quy định tương tự bao gồm cả điều kiện/thủ tục chuyển nhượng và trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên, Dự Thảo LKDBĐS đã tách 2 thành quy định riêng bao gồm cả sự chuyển nhượng của toàn bộ dự án bất động sản nói chung và chuyển nhượng một phần diện tích đất của dự án bất động sản với các điều kiện và thủ tục tương tự. Xin lưu ý rằng theo Luật Đất đai, quy định rằng, mặc dù các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được quyền nhận chuyển nhượng dự án, họ vẫn bị cấm không được nhận diện tích đất/ quyền sử dụng đất từ một bên không phải là Nhà nước hoặc cổ đông của mình. Vì vậy, việc sửa đổi này có thể gây nhầm lẫn cho nhà chức trách và các nhà đầu tư trong việc thực hiện các giao dịch chuyển nhượng dự án.

Đề xuất: Do đó chúng tôi yêu cầu tái bổ sung các quy định có liên quan theoDự Thảo trước đó kết hợp chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần của một dự án bất động sản.

(b) Điều 42.3 quy định rằng bên nhận chuyển nhượng dự án phải là một doanh nghiệp thành

lập và đăng ký hoạt động kinh doanh bất động sản hợp pháp. Chúng tôi lưu ý rằng các điều kiện này có thể áp dụng cho bên nhận chuyển nhượng là các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đã có dự án hiện hành tại Việt Nam, tuy nhiên chúng gây ra nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư là cá nhân và tổ chức nước ngoài đầu tư tại Việt Nam lần đầu tiên với dự án đầu tư là dự án được chuyển nhượng. Quy định chồng chéo và mâu thuẫn này đã hạn chế quyền nhận chuyển nhượng các dự án bất động sản của nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư tại Việt Nam lần đầu tiên và cũng gây ra khó khăn lớn và trì hoãn nhiều dự án chuyển nhượng bất động sản.

Đề xuất: Do đó chúng tôi đề nghị thêm cụm từ "ngoại trừ đối với nhà đầu tư là cá nhân và tổ chức nước ngoài thực hiện đầu tư tại Việt Nam lần đầu tiên" vào Điều 42.3 của Dự Thảo LKDBĐS.

(c) Điều 39.3 và 42.3 của Dự Thảo LKDBĐS quy định rằng các nhà đầu tư nhận chuyển nhượng

toàn bộ dự án bất động sản phải thực hiện một khoản ký quỹ như một cam kết tiếp tục thực hiện dự án. Xin lưu ý rằng một khoản tiền ký quỹ lớn sẽ gây ra tác động bất lợi cho nhà đầu tư, vì họ phải thực hiện các khoản thanh toán cho bên chuyển nhượng cũng như phải thực hiện ký quỹ.

Đề xuất: Chúng tôi đề nghị rằng việc thực hiện khoản tiền ký quỹ này nên tùy theosự thỏa thuận giữa các bên. 6. Điều kiện áp dụng đối với bất động sản đưa vào kinh doanh

Trang 3/12

Page 195: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Theo Điều 7.1(b) của Dự Thảo LKDBĐS, nhà ở và công trình xây dựng đã qua sử dụng để kinh doanh phải có chất lượng "theo thực trạng" của nhà ở và công trình xây dựng đó thay vì "theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng". Tuy nhiên sẽ không rõ ràng làm thế nào để xác định "thực trạng" và ai có thẩm quyền xác định như "thực trạng" như vậy của nhà ở và các công trình xây dựng. Ngoài ra, việc sửa đổi là không cần thiết vì các quyết định mua bán của tòa nhà có sẵnlà một vấn đề thương mại và nên theothỏa thuận của người bán và người mua. Hơn nữa, theo Điều 7.1 (e), hồ sơ và các tài liệu yêu cầu theo yêu cầu về nhà ở và các công trình sẵn có để kinh doanh bao gồm (i) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ("Giấy chứng nhận") đối với nhà và các công trình có sẵn; hoặc (ii) giấy phép xây dựng (đối với các trường hợp có thể áp dụng), hồ sơ của dự án và các bản vẽ, thiết kế xây dựng đã được phê duyệt và các văn bản liên quan đến kiểm tra và nghiệm thu việc hoàn thành thi công xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ những công trình bất động sản đó liên quan đến nhà ở và các công trình với được hình thành trong tương lai. Tuy nhiên xin lưu ý rằng Dự Thảo LKDBĐS không có quy định về các trường hợp nhà ở và các công trình thuộc các dự án khu đô thị mới, dự án nhà ở đã được xây dựng hoàn tất nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận. Tuy nhiên, điều này có thể được xem như nhà ở và các tòa nhà có sẵn và không phải là tài sản được hình thành trong tương lai, và loại nhà ở và các tòa nhà này không nên bị giới hạn đưa vào kinh doanh chỉ vì giấy chứng nhận chưa được ban hành. Ngoài ra, quy định về hồ sơ dự án là quá chung chung và không rõ ràng; do đó, khi áp dụng quy định đó trong thực tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan ở từng địa phương có thể có những yêu cầu khác nhau liên quan đến các văn bản được bao hàm trong hồ sơ dự án. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị tái bổ sung quy định có liên quan trong Dự Thảo trước đây quy định rằng chất lượng nhà ở và công trình xây dựng đã được sử dụng phải được sự đồng ý của các bên. Hơn nữa, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm đoạn sau vào Điều 7.1 (e) như sau: "Trong trường hợp nhà hoặc các tòa nhà sẽ được hình thành trong tương lai và nhà và các tòa nhà thuộc các dự án khu đô thị mới, các dự án nhà ở chưa được cấp Giấy chứng nhận, cần phải có giấy phép xây dựng hoặc hồ sơ dự án với bản vẽ thiết kế để thực hiện thi công xây dựng, tiến độ xây dựng đã được phê duyệt ". Ngoài ra, các văn bản cần thiết trong hồ sơ dự án cũng cần được làm rõ. 7. Định nghĩa Xin lưu ý rằng có những thuật ngữ mới được đề cập trong Dự Thảo LKDBĐS bao gồm "dự án bất động sản hỗn hợpnhiều mục đích" tại Điều 4.13 và "tòa nhà hỗn hợpnhiều mục đích" tại Điều 17.2 chưa được định nghĩa. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị bổ sung thêm định nghĩa về "dự án bất động sản hỗn hợpnhiều mục đích" và "tòa nhà hỗn hợpnhiều mục đích" để rõ ràng.

8. Các hình thức bất động sản được phép đưa vào kinh doanh Điều 6 của Dự Thảo LKDBĐS liệt kê ra một số bất động sản được phép đưa vào kinh doanh và cũng loại bỏ các thuật ngữ "các hình thức bất động sản được của pháp luật quy định" khỏi quy định này. Trong thực tế, có thể có loại bất động sản khác mà không được liệt kê trong danh sách các bất động sản được phép đưa vào kinh doanh trong Dự Thảo LKDBĐS và do đó sự sửa đổi như vậy sẽ gây khó khăn cho các giao dịch liên quan đến bất động sản như vậy. Vì vậy,

Trang 4/12

Page 196: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

không cần thiết liệt kê các bất động sản được phép đưa vào kinh doanh mà có thể cản trở sự linh hoạt của các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào các dự án bất động sản. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị khôi phục lại quy định hiện có này trong LKDBĐS. 9. Thực hiện góp vốn bằng quyền phát triển dự án Điều 18.4 của Dự Thảo trước đó cho phép góp vốn bằng quyền phát triển dự án.Tuy nhiên, quy định này đã bị bãi bỏ trong Dự Thảo LKDBĐS hiện hành. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị tái khôi phục quyền này bằng cách bổ sung nó như là một điều khoản mới 8.4 thuộc Dự Thảo LKDBĐS. Ngoài ra, các quy định chi tiết cần được ban hành một cách riêng biệt về quyền này, bao gồm sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền rằng doanh nghiệp có quyền phát triển dự án, phương pháp định giá và các quy định về chuyển nhượng quyền này. 10. Công khai thông tin bất động sản có sẵnđể kinh doanh Quy định hiện hành của Luật Kinh doanh bất động sản cũng như Điều 11 của Dự Thảo LKDBĐS không có quy định cụ thể về thời điểm công khai thông tin về bất động sản, và các trường hợp trong đó việc công khai thông tin về bất động sản là cần thiết. Trường hợp chuyển nhượng một dự án bất động sản giữa các nhà đầu tư có thể loại trừ các trường hợp trong đó việc công khai thông tin về bất động sản là cần thiết bởi vì sự chuyển nhượng này là một giao dịch riêng giữa hai nhà đầu tư và việc công khai giá cả cho việc chuyển nhượng dự án có thể gây ra tác động bất lợi đến dự án cũng như các hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư có liên quan. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị trường hợp chuyển nhượng một dự án bất động sản giữa các nhà đầu tư cần loại trừ các trường hợp trong đó việc công khai thông tin về bất động sản là cần thiết. 11. Hợp đồng kinh doanh bất động sản Dự Thảo LKDBĐS quy định rằng một doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải áp dụng các hợp đồng kinh doanh bất động sản được quy định tại Điều 15.1 bao gồm (i) hợp đồng mua bán nhà ở và các tòa nhà hoặc nhà ở, công trình xây dựng được hình thành trong tương lai; (ii) hợp đồng chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất; (iii) hợp đồng cho thuê, cho thuê mua nhà ở và công trình xây dựng có sẵn hoặc được hình thành trong tương lai; (iv) hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng có sẵn hoặc nhà, công trình xây dựng được hình thành trong tương lai; và (v) hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ dự án bất động sản. Xin lưu ý rằng danh sách các hợp đồng kinh doanh bất động sản là khá ngắn và không bao gồm các loại hợp đồng kinh doanh bất động sản có thể tồn tại trong thực tế và như vậy nó có thể gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong hoạt động kinh doanh của mình. Hơn nữa, Điều 15.3 của Dự Thảo LKDBĐS quy định rằng Bộ Xây dựng quy định cụ thể về nội dung của từng loại hợp đồng kinh doanh bất động sản.Không cần thiết khi quy định nội dung chi tiết như vậy vì đây đã là một yêu cầu rằng tất cả các nội dung như vậy phải phù hợp với pháp luật. Việc đưa ra các nguyên tắc mà các bên phải tuân theo là đủ. Hơn nữa, do có sự khác biệt tiềm tàng về đặc thù của từng địa phương nên rất khó đưa ra một nội dung chi tiết để áp dụng nhất quán cho tất cả các địa phương. Đề xuất: Đề không mắc sai lầm trong việc liệt kê các loại hợp đồng kinh doanh bất động sản mà có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và các tổ chức, cá nhân

Trang 5/12

Page 197: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

thực hiện giao dịch bất động sản, chúng tôi đề nghị bổ sung "các hợp đồng khác áp dụng cho kinh doanh bất động sản phù hợp với các quy định của pháp luật " vào Khoản 1 của Điều 15. Hơn nữa, yêu cầu về quy định chi tiết/cụ thể cần được loại bỏ. Dự Thảo chỉ nên đưa ra các nội dung cơ bản cần thiết được quy định trong hợp đồng. Doanh nghiệp tham gia kinh doanh bất động sản phải lập, đăng ký mẫu hợp đồng và sử dụng mẫu đăng ký như vậy trong các giao dịch bất động sản của mình (chẳng hạn như các quy định về đăng ký mẫu hợp đồng theo pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng). 12. Thanh toán cho các giao dịch bất động sản Theo Điều 16.1 của Dự Thảo LKDBĐS, việc thanh toán cho các giao dịch bất động sản, trong đó cả hai bên là các tổ chức cần phải được thực hiện thông qua một ngân hàng thương mại tại Việt Nam; trong các trường hợp khác, các bên có thể thực hiện thanh toán hoặc thông qua một ngân hàng thương mại tại Việt Nam hoặc trực tiếp với nhau. Chúng tôi là cho rằng các bên nên được phép tự do thỏa thuận và chọn phương thức thanh toán cho các giao dịch bất động sản.

Đề xuất: Chúng tôi do đó đề nghị loại bỏ Điều 16.1 của Dự Thảo LKDBĐS để đảm bảo rằng các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức thanh toán. 13. Kinh doanh sàn giao dịch bất động sản Điều 55.2 của Dự Thảo LKDBĐS quy định rằng "Sàn giao dịch bất động sản không được tham gia đầu tư, mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản mà chỉ được làm trung gian để thực hiện việc mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản theo ủy quyền của chủ dự án, chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng, chủ sử dụng đất và hưởng phí giao dịch qua sàn theo quy định của Luật này". Tuy nhiên, Dự Thảo LKDBĐS không quy định nếu điều này cũng áp dụng đối với các trường hợp của các sàn giao dịch được thành lập bởi các doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản có sử dụng tư cách pháp nhân là doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản để hoạt động [sàn giao dịch]. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị Điều 55.2 nên loại trừ các trường hợp sàn giao dịch được thành lập bởi các doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản có sử dụng tư cách pháp nhân là doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản để hoạt động [sàn giao dịch]. II. DỰ THẢO LUẬT NHÀ Ở 1. Quyền của chủ sở hữu nhà ở Có sự cải tiến đáng kể trong Dự thảo Luật Nhà ở do có sự điều chỉnh các quyền chủ sở hữu nhà ở là các tổ chức và cá nhân nước ngoài để các tổ chức và cá nhân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và các tổ chức và cá nhân nước ngoài có quyền bình đẳng hơn trong việc mua lại, sở hữu và giao dịch về nhà ở. Theo đó, các đơn vị nước ngoài bao gồm các tổ chức và cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam bằng cách mua, thuê mua, tặng cho, thừa kế sẽ có các quyền tương tự như được cung cấp cho các tổ chức và cá nhân trong nước. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số sự phân biệt nhất định: (i) Các đơn vị nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở trong các dự án phát triển nhà ở thương mại

với một mức giá cao hơn giá được Chính phủ quy định tùy từng thời điểm; (ii) Các đơn vị nước ngoài không thể sở hữu nhưng chỉ nhận được giá trị của ngôi nhà nếu ngôi

nhà không nằm trong phạm vi một dự án nhà ở thương mại;

Trang 6/12

Page 198: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

(iii) Thời hạn của quyền sở hữu trong trường hợp của cá nhân nước ngoài là 50 năm (có thể được gia hạn), hoặc thời hạn được ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư bao gồm cả sự gia hạn của nó trong trường hợp của các tổ chức nước ngoài. Xin lưu ý rằng theo dự thảo trước đây, thời hạn tối đa của quyền sở hữu đối với các tổ chức và cá nhân nước ngoài là 70 năm, có thể được gia hạn; và

(iv) Các tổ chức nước ngoài chỉ có thể sử dụng nhà với mục đích để ở cho nhân viên của họ và không được phép sử dụng nhà ở để cho thuê, làm văn phòng làm việc hoặc các mục đích khác.

Ngoài ra, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thiếu các quyền sau: (i) Thuê mua; (ii) Cho mượn, cho ở nhờ; và (iii) Thực hiện việc góp vốn bằng nhà ở.

Như chúng tôi đã bày tỏ mối lo ngại của chúng tôi nhiều lần, những hạn chế cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài trong việc sở hữu nhà ở tại Việt Nam sẽ hạn chế sự tiếp cận nhiều nguồn vốn cần thiết để phát triển thị trường bất động sản và cũng gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động đầu tư trong các lĩnh vực khác tại Việt Nam. Đề xuất: Nói chung, chúng tôi đề nghị loại bỏ phân biệt đối xử trên giữa các tổ chức và cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, và các tổ chức và cá nhân nước ngoài đối với quyền sở hữu nhà ở bằng cách trao cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổ chức, cá nhân nước ngoài toàn bộ các quyền như các quyền của tổ chức, cá nhân trong nước.Một lần nữa điều này sẽ cho phép sự tiếp cận nhiều nguồn vốn và tạo ra lợi ích trong lĩnh vực bất động sản mang lại lợi ích lớn cho Việt Nam. 2. Điều kiện mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thương mại a. Theo Điều 28.2 và 28.3 của Dự Thảo LNO, một trong các điều kiện để nhà ở thương mại

được bán, cho thuê, cho thuê mua là đã có văn bản chấp thuận của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh về việc nhà ở đó đã đủ điều kiện được bán, cho thuê, cho thuê mua. Tuy nhiên, xin lưu ý rằng Dự Thảo LNO không nói rõ cơ quan quản lý nhà ở sẽ dựa trên tiêu chí nào để xác định nhà ở đó đã đủ điều kiện để thực hiện việc được bán, cho thuê, cho thuê mua. Chúng tôi cho rằng miễn là các điều kiện khác được quy định tại Điều 28.2 và 28.3 được đáp ứng thì nhà ở đó đã đủ điều kiện được bán, cho thuê, cho thuê mua. Do đó, không cần thiết phải có thêm văn bản hoặc chấp thuận của cơ quan nhà nước về việc này.

Đề xuất: Chúng tôi đề nghị bỏ Điều 28.2 (c) và 28.3 (c) của Dự Thảo LNO… b. Điều 28.2 (c) quy định rằng một trong những điều kiện để bán nhà ở thương mại là " ký hợp

đồng bảo đảm giao dịch nhà ở với các tổ chức tài chính hoặc ngân hàng thương mại " áp dụng đối với tất cả các nhà ở thương mại để bán. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng đối với nhà cho thuê. Theo Điều 118, chủ đầu tư phải trả một khoản phí giao dịch bảo đảm giao dịch nhà ở cho các tổ chức tài chính/ngân hàng thương mại đã được tính toán trên cơ sở tổng giá bán nhà ở hình thành trong tương lai mà có sẵn để bán. Trong trường hợp nhà đầu tư không thể bàn giao nhà đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hoặc trở nên phá sản trong thời gian thực hiện dự án, các tổ chức tài chính/ngân hàng thương mại có liên quan phải (i) hoàn trả số tiền đã được thanh toán cho người mua; (ii) thay thế nhà đầu tư để tiếp tục thực hiện dự án để bàn giao nhà cho người mua. Vì các tổ chức tài chính/ngân hàng thương mại không đủ tư cách để thực hiện dự án bất động sản trên thực

Trang 7/12

Page 199: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

tế, quy định này là không thực tế và gây trở ngại cho các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính/ngân hàng thương mại.

Đề xuất: Chúng tôi do đó đề nghị quay trở lại đề nghị trước đó hoặc hợp đồng bảo hiểm hoặc thanh toán tiền vào tài khoản ký quỹ. c. Căn cứ vào Điều 28.3, điều kiện về hoàn thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật chính và các cơ sở xã

hội của diện tích nhà ở đối với việc bán nhà ở đã xây dựng hoàn tất là không hợp lý và trái với các nguyên tắc quy định tại Điều 28.1 và 28.2 trong đó việc bán nhà ở hình thành trong tương lai được cho phép. Ngoài ra, xin lưu ý rằng theo Điều 4.22, bất kỳ nhà ở nào mà việc xây dựng đã được hoàn tất nhưng chưa được kiểm tra và chấp nhận để đưa vào sử dụng sẽ được coi như một nhà ở được hình thành trong tương lai và do đó các điều kiện tại Khoản 2 được áp dụng. Như vậy, quy định tại Khoản 3 này mâu thuẫn và chồng chéo với quy định tại Khoản 2.

Đề xuất: Chúng tôi đề nghị bỏ Điều 28.3. d. Về Điều 28.4: Các khoản ứng tiền trước thường được thực hiện bởi người mua theo tiến độ

và theo thỏa thuận bởi người bán và người mua. Do đó, chúng tôi nhìn nhận rằng đây là một quan hệ dân sự và các bên phải được tự do để đưa ra thỏa thuận và quyết định về việc này và Dự Thảo không nên quy định một khoản tiền ứng trước tối đa theo quy định tại Dự thảo LNO này. Ngoài ra, quy định về tiền ứng trước nên áp dụng cho các trường hợp cho thuê nhà ở hình thành trong tương lai.

Đề xuất: Chúng tôi đề nghị sửa đổi Điều 28.4 như sau: "Tiền ứng trước trả trong các giao dịch mua bán, cho thuê nhà ở (bao gồm cả nhà ở hình thành trong tương lai và nhà ở đã xây dựng hoàn tất) sẽ được thoả thuận trong hợp đồng giữa nhà đầu tư và khách hàng, phù hợp với tỷ lệ hoàn thành công trình nhà ở và tiến độ thực hiện đã được phê duyệt ". e. Về Điều 28.5: Vì Dự Thảo LKDBĐS cho phép việc cho thuê nhà ở hình thành trong tương lai,

sự hạn chế việc ký hợp đồng liên quan đến việc cho thuê nhà ở hình thành trong tương lai là không nhất quán với Dự Thảo LKDBĐS và cần được loại bỏ.

Đề xuất: Chúng tôi đề nghị bỏ Điều 28.5 cho phép cho thuê nhà ở hình thành trong tương lai để nhất quán với Điều 23 của Dự Thảo LKDBĐS. 3. Các điều kiện cần đáp ứng để được quyền tham gia phát triển nhà ở thương mại Điều 24.2 của Dự Thảo LNO quy định các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào việc phát triển nhà ở thương mại tại Việt Nam lần đầu tiên cần phải đáp ứng các điều kiện sau (i) là doanh nghiệp hoặc hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật; và (ii) Có đủ vốn pháp định; có vốn để ký quỹ thực hiện đối với từng dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật kinh doanh bất động sản . Điều kiện để trở thành chủ đầu tư dự án cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư theo quy định tại Điều 110.3 của Dự Thảo LNO cũng có quy định tương tự.Xin lưu ý rằng các hiện đang gây khó khăn cho các nhà đầu tư là các cá nhân và tổ chức nước ngoài thực hiện đầu tư tại Việt Nam lần đầu tiên. Căn cứ theo luật về đầu tư, một nhà đầu tư nước ngoài thực hiện việc đầu tư tại Việt Nam lần đầu tiên phải có một dự án đầu tư mới được thành lập doanh nghiệp và được cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, những quy định này đòi hỏi nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư tại Việt Nam lần đầu tiên phải thành lập công ty trước khi họ có thể tham gia vào một dự án theo yêu cầu của pháp luật về đầu tư. Vòng tròn thủ tục

Trang 8/12

Page 200: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

nghiệt ngã này và những quy định chồng chéo đã làm cho hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài không thể thực hiện được trên thực tế, khiến các cơ quan cấp phép lúng túng, gây trở ngại lớn và làm chậm trễ nhiều dự án bất động sản nói chung và dự án phát triển nhà ở thương mại nói riêng. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị thay thế các quy định hiện hành theo Điều 24.2 và 110.3 của Dự Thảo LNO bằng cách sau đây: (a) "Là một doanh nghiệp hoặc hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp

luật Việt Nam, ngoại trừ các nhà đầu tư là cá nhân và tổ chức nước ngoài đầu tư tại Việt Nam lần đầu tiên;

(b) Đã đăng ký hoạt động kinh doanh bất động sản theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản, ngoại trừ các nhà đầu tư là cá nhân và tổ chức nước ngoài đầu tư tại Việt Nam lần đầu tiên;

(c) Có đủ vốn pháp định và vốn để ký quỹ và thực hiện từng dự án phát triển nhà ở theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh bất động sản ".

4. Trách nhiệm xây dựng nhà ở xã hội Theo Điều 16.1 và Điều 19.3 của Dự Thảo LNO, chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở thương mại phải dành một phần diện tích xây dựng nhà ở trong dự án đã đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật để xây dựng nhà ở xã hội theo quy định của Chính phủ. Điều 55.3 quy định rằng chủ đầu tư phải dành ít nhất 20% diện tích đất để cho thuê nhà ở xã hội. Xin lưu ý là theo Điều 16.4 của Dự Thảo LNO, nhà ở xã hội tại các khu đô thị loại đặc biêt, loại 1 và loại 2 chủ yếu phải là nhà chung cư. Theo đó, việc yêu cầu chủ đầu tư các dự án nhà ở riêng lẻ, đặc biệt là các dự án biệt thự cao cấp phải dành 20% diện tích đất để xây dựng nhà chung cư để làm nhà ở xã hội là không phù hợp và không khả thi. Thực tiễn cho thấy chủ đầu tư dự án phát triến nhà ở thương mại không nhất thiết phải trích từ [đất, nhà] từ quỹ đất, quỹ nhà của chính dự án xây dựng nhà ở thương mại của mình để xây dựng nhà ở xã hội giao cho Nhà nước mà có thể đóng góp bằng nhiều cách khác như (i) thu xếp một khu đất khác tại vị trí khác tương đương với 20% quỹ đất dự án để xây dựng nhà ở xã hội, (ii) quy đổi [giá trị] 20% quỹ đất dự án này thành tiền mặt nộp vào ngân sách để chính quyền địa phương chủ động sử dụng để đầu tư vào phát triển nhà ở xã hội tại địa phương mình theo đúng quy hoạch; hoặc (iii) liên kết với chủ đầu tư dự án khác để cùng đóng góp nhà ở xã hội trên khu đất mà chủ đầu tư liên kết thực hiện dự án. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị bổ sung quy định về việc không bắt buộc chủ đầu tư trích [đất/nhà] từ quỹ đất, quỹ nhà từ chính dự án xây dựng nhà ở thương mại của mình để xây dựng nhà ở xã hội mà có thể đóng góp bằng tiền, hoặc bằng thu xếp quỹ đất khác tại dự án khác, hoặc liên kết với chủ đầu tư dự án khác để cùng đóng góp, vào Điều 16.1, 19.3 và 55.3 của Dự Thảo LNO. 5. Việc nhận tiền trả trước của khách hàng Theo Điều 66.3 của Dự Thảo LNO, đối với trường hợp mua bán nhà ở thì chủ đầu tư chỉ được nhận tiền trả trước của khách hàng theo tiến độ xây dựng nhà ở nhưng (i) đối với nhà đầu tư trong nước, không được vượt quá 70% giá trị của nhà ở mua bán trước khi bàn giao nhà ở và 95% giá trị của nhà ở trước khi cấp Giấy Chứng Nhận; và (ii) đối với nhà đầu tư nước ngoài, không được vượt quá 50% giá trị của nhà ở trước khi bàn giao nhà ở và 95% giá trị của nhà ở trước khi cấp Giấy Chứng Nhận.

Trang 9/12

Page 201: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Xin lưu ý rằng việc phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ gây khó khăn và tác động tiêu cực đến việc thu hút vốn nước ngoài tại Việt Nam. Nếu một số tiền tối đa được ấn định, chúng tôi đề nghị sử dụng cùng một số tiền ấy cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cũng cần có một quy định rõ ràng rằng các khoản thanh toán trước có thể được đượcthuđối với việc cho thuê nhà ở hình thành trong tương lai. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị sửa đoạn 2 Điều 66.3 của Dự Thảo LNO như sau “đối với trường hợp mua bán, cho thuê nhà ở hình thành trong tương lai, chủ đầu tư được nhận tiền trả trước của khách hàng theo tiến độ xây dựng nhà ở theo thương lượng và thỏa thuận với khách hàng”. 6. Thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở Theo Điều 14 của Dự Thảo LNO, thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở có hiệu lực tại những thời điểm khác nhau cho từng loại giao dịch khác nhau, cụ thể: (i) Trường hợp mua bán, thuê mua nhà ở giữa cá nhân với cá nhân thì thời điểm chuyển quyền

sở hữu nhà ở là kể từ khi bên mua, bên thuê mua đã thanh toán đủ tiền mua, thuê mua nhà ở;

(ii) Trường hợp tặng cho, đổi nhà ở giữa cá nhân với cá nhân thì thời điểm chuyển quyền sở hữu là kể từ khi bên tặng cho, bên đổi bàn giao nhà ở cho bên nhận tặng cho, nhận đổi;

(iii) Trường hợp mua bán, cho thuê mua nhà ở giữa chủ đầu tư với người mua, thuê mua thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là kể từ khi chủ đầu tư đã bàn giao nhà ở cho người mua, người thuê mua; và

(iv) Trường hợp thừa kế nhà ở thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là kể từ khi mở thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Xin lưu ý là theo pháp luật hiện hành về đất đai, thời điểm chuyển quyền sử dụng đất đối với các giao dịch trao đổi, chuyển nhượng, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất sẽ là thời điểm đăng ký giao dịch đó tại Phòng đăng ký quyền sử dụng đất.Ngoài ra, Bộ Luật Dân Sự quy định rằng "việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu" và "trong trường hợp pháp luật yêu cầu quyền sở hữu đối với tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán cần phải được đăng ký, những quyền như vậy phải chuyển cho người mua sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó."Vì vậy, chúng tôi yêu cầu các quy định về chuyển quyền sở hữu trong Dự Thảo LNO phải phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai và Bộ Luật Dân sự để không gây nhầm lẫn cho các bên tham gia giao dịch và các cơ quan có thẩm quyền khi có tranh chấp phát sinh về thời điểm chuyển quyền sở hữu. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị sửa đổi Điều 14 của Dự thảo Luật Nhà Ở theo hướng mà thời điểm chuyển quyền sở hữu trong tất cả các giao dịch sẽ là thời điểm đăng ký giao dịch tại Phòng Đăng Ký Quyền Sử Dụng Đất hoặc thời điểm cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua, thuê-mua, người nhận tặng cho, nhận nhà ở trong các giao dịch trao đổi nhà ở, người nhận thừa kế, nhận góp vốn với mục đích phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về doanh nghiệp và Bộ Luật Dân Sự. 7. Hợp đồng nhà ở Điều 122.5 của Dự Thảo LNO chọn cách thứ 2 được đề xuất trong dự thảo trước đó, theo đó việc công chứng/chứng nhận là cần thiết trong trường hợp mua bán tặng cho, trao đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, trừ trường hợp (i) tặng nhà được tặng cho; (ii) các doanh nghiệp kinh

Trang 10/12

Page 202: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

doanh bất động sản hoặc cơ quan quản lý nhà ở bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở; (iii) chuyển nhượng các hợp đồng mua bán nhà ở; (iv) việc cho thuê, cho mượn, cho phép những người khácở nhờ, ủy quyền một người khác quản lý [nhà ở của mình] sẽ không được yêu cầu phải được công chứng/chứng nhận, trừ trường hợp các bên muốn như vậy. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị thay thế quy định này bằng cách thứ 1 quy định việc công chứng/chứng nhận là không bắt buộc mà thuận tiện hơn và thuận lợi cho các nhà đầu tư. 8. Bảo hành Điều 84.4 quy định rằng các bộ phận kết cấu chính của nhà ở là dầm, cột, sàn, trần, mái, tường, lát đá, lát gạch, trát tường. Trong thực tế, nếu các bộ phận là lát đá, gạch lát, trát tường cũng được coi là cấu trúc chính và do đó được đảm bảo phù hợp với các quy định hiện hành, ví dụ 60 tháng đối với các tòa nhà chung cư từ 9 tầng trở lên, nó là quá phiền hà cho nhà đầu tư. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị ban soạn thảo nên xem xét lại và loại bỏ những bộ phận là lát đá, lát gạch, trát tường khỏi cấu trúc chính. 9. Phần diện tích thuộc sở hữu chung Điều 12.1 của Dự Thảo LNO quy định chủ sở hữu phải có quyền sở hữu đối với nhà ở và có quyền sử dụng chung các cơ sở công trình công cộng trong phạm vi công trình nhà ở. Tuy nhiên quy định này không nói rõ ràng những công trình công cộng này bao gồm những gì. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị cần có sự giải thích rõ ràng hơn các công trình công cộng bao gồm những gì.

10. Cấp vốn cho việc phát triển nhà ở Điều 64 của Dự thảo Luật Nhà Ở là những quy định trong đó liệt kê các hình thức cấp vốn để phát triển nhà ở. Chúng tôi đề nghị loại bỏ những quy định này vì theo quan điểm về tình trạng bất động sản khó khăn hiện nay, các nhà đầu tư cần được khuyến khích để huy động vốn từ các nguồn pháp luật cho phép phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan. Do đó, việc liệt kê các nguồn vốn và các hình thức cấp vốn mà nhà đầu tư được phép huy động tại Điều này là không cần thiết và gây khó khăn cũng như hạn chế các nhà đầu tư huy động vốn cho các dự án của họ. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị bỏ Điều 64 của Dự Thảo LNO. 11. Mua nhà ở để thu xếp cho việc sử dụng làm nhà ở tái định cư Theo Điều 45.1 (c) trong Dự Thảo LNO, Dự Thảo LNO không nói rõ liệu các chủ đầu tư nhà ở thương mại có nghĩa vụ bán nhà ở thương mại cho Nhà nước để sử dụng làm nhà ở tái định cư theo yêu cầu. Nếu đúng như vậy, thì việc các chủ đầu tư có thể không được tự ý quyết định giá bán đối với nhà ở của họ trên cơ sở thương lượng là không công bằng và có thể gây bất lợi cho các nhà đầu tư. Đề xuất: Chúng tôi đề nghị sửa đổi Khoản 45.1 (c) như sau: "giá mua nhà ở thương mại được sử dụng làm nhà tái định cư sẽ được quyết định bởi các đơn vị/ tổ chức có thẩm quyền để mua nhà ở tái định cư với giá được xác định bởi một tổ chức độc lập có chức năng thẩm định giá bất động sản và tùy thuộc sự thoả thuận của chủ đầu tư. "

Trang 11/12

Page 203: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp cho dự thảo luật kinh doanh bất động sảnvà luật nhà ở Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

12. Điều khoản chuyển tiếp Cần có các điều khoản chuyển tiếp để giải quyết các dự án nhà ở đang tiến hành căn cứ theo luật cũ để đáp ứng các điều kiện được quy định trong luật này.

Trang 12/12

Page 204: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Chương III

NGÂN HÀNG & THỊ TRƯỜNG VỐN

Page 205: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ngân hàng

Page 206: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

CHƯƠNG TRÌNH THẢO LUẬN DỰ KIẾN GIỮA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHÓM CÔNG TÁC NGÂN HÀNG – DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Chuẩn bị bởi

Nhóm Công tác Ngân hàng 1. Thông tư 05/2014/TT-NHNN, hướng dẫn mở, sử dụng tài khoản vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam Thông tư 05/2014/TT-NHNN ban hành ngày 12/3/2014 và có hiệu lực từ 28/4/2014. Trong quá trình chuẩn bị triển khai, chúng tôi đã gặp phải một số vướng mắc và xin trình bày như sau. Điều 5 quy định về hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các khoản 1 và 2 quy định điều kiện bổ sung là nhà đầu tư nước ngoài là người không cư trú, có hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam (gọi tắt là ‘nhà đầu tư nước ngoài’) không được tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, các ngân hàng hiện tại đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định thế nào là tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý điều hành doanh nghiệp và trong việc xác định liệu nhà đầu tư nước ngoài có tham gia trực tiếp vào việc quản lý, điều hành doanh nghiệp hay không, vì vậy kính đề nghị NHNN có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Khoản 1, Điều 7, Thông tư 05 không quy định tài khoản đầu tư gián tiếp nước ngoài được sử dụng để nhận tiền lương, thưởng và các khoản thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, điểm b, Điều 14.2 Nghị định 160 lại có quy định này. Do Nghị định 160 hiện vẫn còn hiệu lực nên chúng tôi hiểu rằng tài khoản đầu tư gián tiếp nước ngoài được ghi có những khoản nêu trên. Điểm a, Điều 9.2, Thông tư 05 quy định phải đóng tài khoản đầu tư gián tiếp nước ngoài nếu nhà đầu tư nước ngoài không tiếp tục hoạt động đầu tư gián tiếp tại Việt Nam, đồng thời số dư của tài khoản này phải chuyển sang tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng VND được mở theo đó. Tuy vậy, hiện chưa có quy định nào về nhận chuyển khoản, thanh toán trên tài khoản đầu tư trực tiếp bằng tiền đồng để ngân hàng thực hiện. Ngoài ra cũng chưa có quy định về việc doanh nghiệp có phải mở tài khoản vốn bằng ngoại tệ theo quy định tại Điều 11, Nghị định 160, cũng như liệu nhà đầu tư nước ngoài có được bán tiền đồng trong tài khoản đầu tư trực tiếp bằng tiền đồng để mua ngoại tệ nhằm góp vốn bằng ngoại tệ vào tài khoản vốn trên. Điểm b, Điều 9.2, Thông tư 05 quy định ngoài tài khoản đầu tư gián tiếp nước ngoài sử dụng cho hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài được mở, sử dụng tài khoản vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo các quy định về quản lý ngoại hối trong đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và các quy định liên quan. Tuy nhiên, các quy định hiện nay về quản lý ngoại hối lại không đề cập gì về loại tài khoản này (mà chỉ có một số điều khoản về tài khoản vốn của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quy định của Nghị định 160). Kính đề nghị NHNN làm rõ điểm này. 2. Quy định về công khai báo cáo tài chính Theo Điều 14 Quyết định 16/2007/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Chế độ báo cáo tài chính đối với các tổ chức tín dụng (“Quyết định 16”), các TCTD phải thực hiện công khai báo cáo tài chính tại nơi đặt trụ sở chính và các địa điểm hoạt động ; trên báo trung ương

Trang 1/5

Page 207: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 và địa phương ; trên website hoặc thô ng cáo báo chí , vv. Tuy nhiên, quy định chưa nêu rõ việc công khai này cần phải thực hiện dưới tất cả các hình thức công khai như đã đề cập ở trên , hay chỉ cần công khai bằng một trong các phương th ức này. Do việc công khai các báo cáo tài chính đôi khi là một vấn đề nhạy cảm , đặc biệt là đối với các ngân hàng không ph ải là ngân hàng cổ phần, BWG kính đề nghị NHNN có hư ớng dẫn cụ thể liên quan đến vấn đề trên nhằm đảm bảo tính tuân thủ trong thực hiện quy định trên của các thành viên trong Nhóm. Trừ các ngân hàng đang niêm yết trên sàn giao d ịch chứng khoán do phải tuân thủ quy định riêng về công khai thông tin theo yêu cầu của Ủy ban chứng khoán và các cơ quan quản lý khác, Nhóm công tác Ngân hàng cho r ằng việc nộp các báo cáo tài chính cho NHNN và công khai báo cáo tài chính trên báo chí đã đủ để đáp ứng mục đích công bố thông tin cho các ngân hàng hoạt động trong ngành. Đăc biệt đối với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài (“NHNNg”) Nhóm công tác Ngân hàng tán thành m ục đích của quy định trên là nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch về tình hình tài chính của các TCTD. Tuy nhiên, BWG đề nghị NHNN xem xét miễn áp dụng quy định này với các chi nhánh NHNNg vì những lý do sau:

1. Các chi nhánh NHNNg không có tư cách pháp nhân mà chỉ đóng vai trò là một chi nhánh

đại diện tại nước ngoài của Ngân hàng mẹ; 2. Các chi nhánh NHNNg được thành lập dưới sự bảo lãnh của ngân hàng mẹ theo đó ngân

hàng mẹ cam kết chịu mọi trách nhiệm với các nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh NHNNg hoạt động tại Việt Nam, điều này chắc chắn đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các khách hàng của chi nhánh;

3. Theo quy định, các chi nhánh NHNNg phải thực hiện nộp báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm cho NHNN, do vậy đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin về tình hình tài chính của các chi nhánh NHNNg một cách minh bạch cho cơ quan quản lý;

4. Các chi nhánh NHNNg có cơ chế hoạt động khác với các TCTD khác (ví dụ: Ngân hàng cổ phần trong nước, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài thành lập tại Việt Nam), do chi nhánh NHNNg được hỗ trợ phần lớn bởi ngân hàng mẹ trên mọi khía cạnh, kể cả vấn đề tài chính; do đó, các báo cáo tài chính riêng lẻ của từng chi nhánh NHNNg không thể hiện đầy đủ tình hình tài chính của những tổ chức này, từ đó có thể dẫn tới cách hiểu sai của công chúng, khách hàng về một số nội dung liên quan.

5. Các chi nhánh NHNNg được thành lập và hoạt động theo nhiều mô hình khác nhau như: hai chi nhánh NHNNg hoạt động độc lập ở hai địa phương khác nhau nhưng thuộc cùng một ngân hàng mẹ, hay ngân hàng 100% vốn nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam trong khi vẫn duy trì hoạt động của chi nhánh NHNNg thuộc cùng ngân hàng mẹ. Vì vậy, việc công khai báo cáo tài chính riêng lẻ của từng chi nhánh NHNNg dễ gây ra những sự hiểu lầm cho công chúng.

Đê xuât: Để bảo đảm tính minh bạch và tình hình tài chính “lành mạnh” của các chi nhánh NHNNg hoạt động tại Việt Nam, BWG đề nghị NHNN xem xét áp dụng những giải pháp sau thay cho quy định của Quyết định 16: Quy định các chi nhánh NHNNg công bố báo cáo thường niên hay báo cáo tài chính đã

kiểm toán của ngân hàng mẹ (tức báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn, trong đó có báo cáo của chi nhánh NHNNg) tại địa phương nơi chi nhánh NHNNg hoạt động và/hoặc trên trang web của chi nhánh (nếu có); và

Trang 2/5

Page 208: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Quy định chi nhánh NHNNg phải nộp báo cáo thường niên hay báo cáo tài chính đã kiểm

toán của ngân hàng mẹ cho NHNN làm cơ sở giúp NHNN giám sát, đánh giá việc duy trì tình hình tài chính đủ mạnh của ngân hàng mẹ nhằm đảm bảo cho hoạt động của chi nhánh NHNNg tại Việt Nam theo quy định.

3. Các quy định về phòng chống rửa tiền, Nghị định 116 và Thông tư 35 Nhóm Công tác đã có buổi họp với NHNN để thảo luận một số vấn đề liên quan đến các quy định về phòng chống rửa tiền được ban hành trong thời gian gần đây. Các ngân hàng thành viên của Nhóm đã nhận được giải thích của NHNN đối với nhiều vấn đề, đồng thời được biết rằng một Thông tư mới giải quyết các khó khăn hiện tại của các ngân hàng trong việc thực thi các quy định về phòng chống rửa tiền sẽ sớm được ban hành. Tuy nhiên, hiện tại Thông tư này vẫn chưa được dự thảo và các ngân hàng hiện tại vẫn thực thi các quy định về phòng chống rửa tiền dựa theo các câu trả lời của NHNN tại cuộc họp mà không có giá trị về mặt pháp lý. Kính đề nghị NHNN sớm ban hành Thông tư này để giảm thiểu rủi ro về mặt pháp lý của các ngân hàng. Ngoài ra, chúng tôi xin nêu lên một vấn đề cụ thể về việc yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin cá nhân như số/ngày cấp/nơi cấp CMTND, địa chỉ nhà riêng hay số điện thoại cá nhân để xác minh thông tin nhận dạng của chủ sở hữu hưởng lợi hoặc thông tin bổ sung cho biện pháp tăng cường tìm hiểu thông tin khách hàng như báo cáo tài chính. Việc thu thập các thông tin này hiện gặp rất nhiều phản hồi không tích cực từ phía khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp; ngoài ra, hiện tại không có nguồn cơ sở dữ liệu công khai nào mà ngân hàng có thể tiếp cận cũng như chưa có công ty nào có thể cung cấp dịch vụ xác minh thông tin tại Việt Nam, đồng thời các quy định về bảo mật thông tin ở các quốc gia khác chưa cho phép. Chúng tôi cũng hiểu rằng việc rà soát đối chiếu với danh sách cấm vận hay cảnh báo chỉ áp dụng đối với những thông tin xác minh nhận dạng khách hàng và không áp dụng đối với thông tin bổ sung về khách hàng do những thông tin bổ sung này không nhằm mục đích xác minh nhận dạng khách. Chúng tôi cũng đề nghị được tự xác định các đối tượng thuộc phạm vi phải cập nhật thông tin định kỳ 6 tháng một lần là đối tượng khách hàng có rủi ro đặc biệt cao do có thông tin không tích cực vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật, có biến động, bất thường về tình hình tài chính, có giao dịch đáng ngờ. 4. Thanh toán ra nước ngoài (đơn giản hóa hồ sơ)

Thanh toán sau khi hàng đến, cấp tờ khai hải quan Nghị định 160/NĐ-CP ngày 28/12/2006 và Thông tư 01/1999/TT-NHNN ngày 16/4/1999 quy định ngân hàng phải nộp chứng từ thanh toán ngoại tệ ra nước ngoài và mua ngoại tệ bằng Đồng Việt Nam (“VND”). Đồng thời, ngân hàng được tự xem xét, quy định về những chứng từ này do NHNN không đưa ra quy định cụ thể về chứng từ.

Các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay quy định khách hàng phải có những chứng từ sau khi thực hiện chuyển khoản ra nước ngoài liên quan đến hàng nhập khẩu: tờ khai hải quan, hợp đồng mua bán/đơn đặt hàng (hay Hợp đồng), hóa đơn.

Những khách hàng thực hiện khai hải quan điện tử đã cung cấp đầy đủ mọi thông tin liên quan đến hàng nhập khẩu như đơn đặt hàng/hợp đồng mua bán/hóa đơn v.v trên hệ thống hải quan điện tử để hải quan kiểm tra, xác nhận những thông tin này.

Trang 3/5

Page 209: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Vì vậy, chúng tôi đề nghị chỉ yêu cầu xuất trình tờ khai hải quan điện tử hợp lệ theo quy định về hải quan của hải quan với các nội dung ngày tháng, số tiền, loại tiền tệ, số đơn hàng, số hóa đơn, tên người thụ hưởng v.v. và về phía ngân hàng sẽ kiểm tra xem số tiền thanh toán có khớp với số tiền ghi trong tờ khai hải quan điện tử hay không. Vì vậy, việc quy định phải nộp hóa đơn/đơn hàng/hợp đồng trên từng giao dịch là không cần thiết.

Thanh toán trước khi hàng đến trong trường hợp nhập khẩu theo LC Đối với hoạt động nhập khẩu theo tín dụng thư, thường là theo quy chế UCP, ngân hàng cam kết thanh toán khi các điều kiện trên LC được đáp ứng và thậm chí phải thanh toán trước khi hàng đến. Vì những khách hàng này không thể có được tờ khai hải quan khi thanh toán nên ngân hàng chỉ có thể căn cứ vào những chứng từ thương mại khác như hợp đồng, hóa đơn, vận đơn … để thực hiện thanh toán. Ngân hàng chỉ có thể có được tờ khai hải quan sau khi đã thực hiện thanh toán. Tình trạng này kéo theo gánh nặng công việc và chi phí hành chính lớn cho ngân hàng khi phải chạy theo khách hàng để yêu cầu nộp tờ khai hải quan, trong khi đa số khách hàng không muốn thực hiện yêu cầu này vì thanh toán đã thực hiện xong. Vì vậy, đề nghị NHNN có hướng dẫn không yêu cầu khách hàng nộp tờ khai hải quan khi nhập khẩu theo LC vì lý do trên, mà thay vào đó yêu cầu khách hàng cam kết nộp tờ khai hải quan khi có yêu cầu của ngân hàng hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 5. Cho vay lẫn nhau trong nội bộ tập đoàn (giải quyết vướng mắc trong quản lý thanh khoản) Nhiều doanh nghiệp trong nước và công ty đa quốc gia có mạng lưới gồm nhiều công ty con, chi nhánh và đơn vị trực thuộc. Trong một số trường hợp, các doanh nghiệp này muốn quản lý các khoản thanh toán đi và đến trên tài khoản riêng, nhưng nếu gộp chung các khoản vốn trên những tài khoản này thì cũng không có vấn đề gì. Để thực hiện việc này có thể sử dụng các cơ chế gom, dồn vốn, trong đó các nguồn tiền được thu gom từ từng tài khoản của doanh nghiệp lẻ vào một tài khoản tập trung. Cơ chế này cho phép sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn lưu động, giúp giảm được chi phí vốn, tối đa hóa lợi ích từ các khoản vốn chưa sử dụng đến, tăng sự chủ động, quản lý nhu cầu về vốn thông qua các khoản vay trong nội bộ doanh nghiệp. Tại Việt Nam, nghiệp vụ cho vay ủy thác được quy định trong Thông tư 04 nhưng vẫn đề này vẫn chưa được đề cập tới. Kính đề nghị Quý NHNN cho hướng dẫn về vấn đề này nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tạo nguồn vốn bổ sung. 6. Một số điểm chưa rõ trong hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam Thông tư 32/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam có một số quy định, hướng dẫn chưa rõ ràng, gây khó khăn cho ngân hàng trong triển khai, như sau: - Trong thanh toán liên quan đến hợp đồng ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu sẽ căn cứ vào số

tiền thực tế hay số tiền ghi trên hợp đồng vì hai con số này thường không khớp nhau (khoản 6, Điều 4)? Kính đề nghị NHNN làm rõ điểm này.

- Kính đề nghị NHNN cho biết ngân hàng cần căn cứ vào đâu để kiểm tra các khoản thanh toán liên quan đến gói thầu thực hiện thông qua đấu thầu quốc tế theo quy định của Luật Đấu thầu (khoản 7, Điều 4)? Ngoài ra, Điều 7.4 Thông tư cũng coi các nhà thầu nước ngoài là người cư trú. Tuy nhiên, nhà thầu nước ngoài lại không được định nghĩa là người cư trú

Trang 4/5

Page 210: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

theo quy định tại Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ngoại hối. Kính đề nghị NHNN làm rõ điểm này.

- Kính đề nghị NHNN cho biết phương thức ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ của các khoản thanh toán mua hàng hóa, dịch vụ tại các cảng biển quốc tế (khoản b, khoản 11, Điều 4)?

- Kính đề nghị NHNN cho biết doanh nghiệp chế xuất có được thanh toán bằng chuyển khoản ngoại tệ khi mua hàng hóa, dịch vụ từ thị trường trong nước để xuất khẩu không? Ngoài ra, đề nghị NHNN cho biết các hướng dẫn liên quan để ngân hàng áp dụng trong việc kiểm tra liệu những hàng hóa doanh nghiệp chế xuất mua trong nước có được sử dụng cho hoạt động sản xuất, chế biến, tái chế, lắp ráp hàng xuất khẩu hay để xuất khẩu hay không? (Điểm a, khoản 12, Điều 4).

Theo khoản 14, điều 4, Thông tư 32 thì người cư trú, người không cư trú là tổ chức được thỏa thuận và trả lương, thưởng, phụ cấp trong hợp đồng lao động bằng ngoại tệ chuyển khoản hoặc tiền mặt cho người cư trú và người không cư trú là người nước ngoài làm việc cho chính tổ chức đó. Với quy định này, các công ty làm dịch vụ thanh toán lương hộ có thể, thay mặt cho các khách hàng của họ là công ty, thực hiện thanh toán lương cho các nhân viên là người nước ngoài làm việc cho chính các công ty này không?

Trang 5/5

Page 211: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Thị trường Vốn

Page 212: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO CỦA NHÓM CÔNG TÁC THỊ TRƯỜNG VỐN

Chuẩn bị bởi Nhóm Công tác Thị trường Vốn

I. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và giảm tỉ lệ sở hữu nhà nước ở các ngành không

nhạy cảm đối với an ninh quốc gia - Ngân sách nhà nước có hạn trong khi nhu cầu chi tiêu, đầu tư công vẫn còn lớn. Nguồn thu

từ thuế có giảm do kinh tế khó khăn và các lộ trình giảm thuế nhập khẩu khi tham gia WTO. Gần đây nhất (quý 4 năm 2013), Chính phủ đã đề xuất tăng bội chi ngân sách từ 4.8% lên 5.3% GDP.

- Theo hiểu biết của chúng tôi (vào ngày 23/05/2014), tổng giá trị vốn hóa của phần vốn nhà nước tại 12 công ty trong nhóm 20 công ty lớn nhất niêm yết trên Sàn Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là 18.5 tỉ đô la Mỹ, chiếm 41% giá trị của cả Sàn Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Riêng phần sở hữu trên 50% của nhóm 12 công ty này có giá trị 6.3 tỉ đô la Mỹ. Việc bán một phần cổ phần của các doanh nghiệp này sẽ dễ dàng bù đắp được thâm hụt ngân sách của nhà nước trong giai đoạn khó khăn này, thay vì giảm lương tối thiểu hay tận thu những nguồn khác. Doanh nghiệp sau khi bán vẫn chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, vẫn đóng thuế, vẫn sử dụng nguồn nhân lực Việt Nam.

- Nhiều công ty hiện do nhà nước nắm giữ tỉ lệ lớn không hoạt động hoặc kinh doanh trong các lĩnh vực được xác định là “nhạy cảm” hoặc “hạn chế”, ví dụ như ngành hàng tiêu dùng, sản xuất phân bón.

- Các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi hơn về chính sách và vốn vay so với các doanh nghiệp khối tư nhân. Điều này dẫn đến sân chơi không bình đẳng giữa 2 khối doanh nghiệp, hạn chế khả năng phát triển của khối tư nhân trong khi khối nhà nước hoạt động thiếu hiệu quả và không có sản phẩm/ dịch vụ tốt. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa/dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam nói chung khi gia nhập thị trường khu vực cũng như quốc tế.

Kiến nghị: Với kinh nghiệm của các nước trong khu vực, chúng tôi xin kiến nghị: - Tăng tỉ lệ sở hữu nước ngoài, giảm tỉ lệ sở hữu Nhà nước bằng việc bán cổ phần Nhà nước

trong các công ty không thuộc diện ”nhạy cảm” và “hạn chế” - Trước mắt có thể giảm bớt sở hữu Nhà nước tại các công ty niêm yết khoảng 35%. Thời gian

sau có thể giảm xuống thêm. - Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các công ty 100% vốn Nhà nước. - Rà soát để giảm bớt danh sách ngành nhạy cảm.

II. Dự thảo Luật Đầu tư 1. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh

1.1 Nhận xét

Trang 1/7

Page 213: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Dự thảo luật chưa định hướng và phân định rõ rằng các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư chỉ áp dụng cho các công ty không phải là đại chúng, còn việc đầu tư vào các công ty đại chúng thì áp dụng Luật Chứng khoán.

1.1.1 Điểm a khoản 2 Điều 5 Dự thảo luật quy định:

Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán thực hiện theo quy định của Luật Chứng khoán.

1.1.2 Chúng tôi hiểu rằng Dự thảo luật đề xuất phương án rằng:

(a) lĩnh vực và đối tượng liên quan đến chứng khoán sẽ do Luật Chứng khoán điều chỉnh; và (b) lĩnh vực và đối tượng liên quan đến đầu tư khác, đặc biệt là đầu tư trực tiếp sẽ do Luật

Đầu tư điều chỉnh.

1.1.3 Chúng tôi cũng hiểu rằng:

(a) Luật Đầu tư hiện hành được Quốc hội thông qua năm 2005; (b) Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua lần đầu tiên 1 năm sau đó, 2006; (c) Luật Chứng khoán lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Công ty đại chúng” (bao gồm cả “Công

ty đại chúng chưa niêm yết” và “Công ty đại chúng niêm yết”).

1.1.4 Chúng tôi thấy rằng được ban hành trước Luật Chứng khoán, dường như Luật Đầu tư chưa thật sự phân định giữa khái niệm doanh nghiệp bình thường và công ty đại chúng. Do đó, mặc dù Dự thảo luật đã đề xuất Luật Chứng khoán sẽ điều chỉnh hoạt động đầu tư liên quan đến chứng khoán, nhưng Dự thảo luật chưa quy định cụ thể là Luật Đầu tư chỉ áp dụng cho các công ty không phải là đại chúng (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần chưa phải là đại chúng, công ty hợp danh).

1.1.5 Do không định hướng và phân định rõ rằng Luật Đầu tư chỉ áp dụng cho các công ty

không phải là đại chúng nên Dự thảo luật còn đưa ra những điều khoản không rõ ràng như trình bày cụ thể các mục 2, 3 và 4 trong bản góp ý này.

1.2 Kiến nghị

Dự thảo luật định hướng và phân định rõ rằng các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư chỉ áp dụng cho các công ty không phải là đại chúng, còn việc đầu tư vào các công ty đại chúng thì áp dụng Luật Chứng khoán.

2. Điều 21 Dự thảo luật

2.1 Nhận xét:

2.1.1 Điều 21(1) Dự thảo luật quy định:

Nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức góp vốn, mua lại phần vốn góp, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.

Trang 2/7

Page 214: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

2.1.2 Một trong những hoạt quan trọng nhất mà Luật Chứng khoán điều chỉnh là hoạt động mua bán cổ phần của các của doanh nghiệp niêm yết.

2.1.3 Điều 21(1) Dự thảo luật chưa quy định rõ việc “mua bán cổ phần của doanh nghiệp

hoạt động tại Việt Nam” theo Luật Đầu tư có bao gồm việc mua bán cổ phần của các doanh nghiệp đại chúng (bao gồm công ty đại chúng chưa niêm yết và công ty đại chúng niêm yết) hay không?

2.1.4 Hiện tại, việc mua bán cổ phần của công ty đại chúng (bao gồm cả công ty đại chúng

chưa niêm yết và công ty đại chúng niêm yết) phần lớn do Luật Chứng khoán điều chỉnh.

2.1.5 Một số câu hỏi đặt ra là việc mua bán cổ phần tại công ty đại chúng sẽ do:

(a) Luật Đầu tư hay Luật Chứng khoán điều chỉnh? (b) cả hai Luật Đầu tư và Luật Chứng khoán cùng điều chỉnh? (c) Luật Chứng khoán điều chỉnh mà thôi?

2.2 Kiến nghị:

Chúng tôi kiến nghị rằng:

2.2.1 Phương án 1: Quy định về đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Dự thảo luật cần phân

định rõ rằng mọi hoạt động đầu tư đối với công ty đại chúng bao gồm việc giao dịch, đầu tư, kinh doanh cổ phần của các công ty đại chúng sẽ do Luật Chứng khoán điều chỉnh.

2.2.2 Phương án 2: Sửa đổi điều 21(1) Dự thảo luật như sau:

Nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức góp vốn, mua lại phần vốn góp, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. Việc mua cổ phần tại công ty đại chúng sẽ điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán.

3. Định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài”

3.1 Nhận xét

3.1.1 Định nghĩa về “Nhà đầu tư nước ngoài” được quy định tại Điều 3(3) Dự thảo luật.

3.1.2 Theo Dự thảo luật thì chúng tôi có thể hiểu là định nghĩa này sẽ được áp dụng với các

loại hình doanh nghiệp, kể cả công ty đại chúng (bao gồm công ty đại chúng niêm yết và đại chúng chưa niêm yết).

3.1.3 Tuy nhiên có một câu hỏi đặt ra là định nghĩa này có được áp dụng cho Luật Chứng khoán (và cả các luật và văn bản quy phạm pháp luật khác) hay không?

3.1.4 Nếu định nghĩa này được áp dụng cho công ty đại chúng niêm yết thuộc diện được Chính phủ cho phép tăng sở hữu nước ngoài lên quá 51% thì sẽ dẫn đến một số hệ quả như sau:

Trang 3/7

Page 215: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

(a) một công ty đại chúng niêm yết, ví dụ như Công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk), hôm nay có thể là công ty trong nước (tỷ lệ sở hữu nước ngoài nhỏ hơn 51%), nhưng ngày mai có thể là “Nhà đầu tư nước ngoài” nếu nhà đầu tư ngoại mua quá 51% cổ phần niêm yết của Vinamilk;

(b) cũng theo định nghĩa về “Nhà đầu tư nước ngoài” tại Điều 3(3) Dự thảo luật, khi Vinamilk trở thành nhà đầu tư nước ngoài, tất cả các công con mà Vinamilk sở hữu trên 51% cũng sẽ là “Nhà đầu tư nước ngoài”. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến một số quyền của Vinamilk và các công ty con, đặc biệt là quyền sử dụng đất;

(c) tương tự vậy, Vinamilk hôm nay có thể là nhà đầu tư nước ngoài (có tỷ lệ sở hữu của nước ngoài trên 51%), nhưng ngày mai lại có thể thành nhà đầu tư trong nước khi cổ đông nước ngoài bán bớt cổ phần niêm yết của Vinamilk xuống dưới 51%.

3.1.5 Chúng tôi, các nhà đầu tư nước ngoài, thật sự không hiểu lý do tại sao Chính phủ Việt

Nam lại cần phân biệt nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước đối với những lĩnh vực không hạn chế đầu tư, không cấm đầu tư và không phải là lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Đối với những lĩnh vực không hạn chế đầu tư, không cấm đầu tư và không phải là lĩnh vực đầu tư có điều kiện, theo ý kiến của chúng tôi, việc áp dụng định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài” là không cần thiết.

3.1.6 Việc phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực không nằm trong lĩnh vực đầu tư có điều kiện, hạn chế đầu tư và cấm đầu tư, đã đi ngược lại nguyên tắc đối xử quốc gia của WTO.

3.1.7 Ngoài ra Điều 8(1) Dự thảo luật quy định rằng “nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra nước ngoài các khoản vốn và tài sản hợp pháp”. Câu hỏi của chúng tôi là:

(a) Chính phủ Việt Nam đã sẵn sàng cho phép một công ty niêm yết trong nước, ví dụ như

Vinamilk, sau khi trở thành nhà đầu tư nước ngoài như đề cập tại mục 3.1.4(a) trên đây, được chuyển ra nước ngoài các khoản vốn và tài sản hợp pháp khác của họ theo Điều 8(1) Dự thảo luật mà không cần xin bất kỳ một giấy phép gì hay không?

(b) nếu đúng vậy, Vinamilk có cần xin giấy phép đầu tư ra nước ngoài để chuyển vốn và tài sản này ra nước ngoài không?

3.2 Kiến nghị

Chúng tôi kiến nghị Dự thảo luật sửa đổi định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài” theo hướng định nghĩa này chỉ áp dụng:

3.2.1 cho công ty không phải là đại chúng; và

3.2.2 chỉ cho công ty hoạt động, kinh doanh ngành nghề bị hạn chế đầu tư hoặc thuộc lĩnh

vực đầu tư có điều kiện.

4. Điểm a Khoản 2 Điều 5 Dự thảo luật

4.1 Nhận xét

4.1.1 Điểm a khoản 2 Điều 5 Dự thảo luật quy định:

Trang 4/7

Page 216: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán thực hiện theo quy định của Luật Chứng khoán.

4.1.2 Việc liệt kê những lĩnh vực do Luật Chứng khoán điều chỉnh tại Điều 5(2)(a) Dự thảo luật

đặt ra một số câu hỏi và vấn đề như sau:

(a) việc chào bán cổ phần riêng lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ do Luật Đầu tư hay Luật Chứng khoán điều chỉnh?

(b) hiện nay việc chào bán cổ phần riêng lẻ của công ty đại chúng cho nhà đầu tư (bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài) đang được điểu chỉnh bởi Luật Chứng khoán. Vậy việc chào bán cổ phần riêng lẻ của công ty không phải đại chúng cho nhà đầu tư nước ngoài có phải do Luật Đầu tư điều chỉnh hay không?

(c) Luật Đầu tư có điều chỉnh việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào quỹ đầu tư chứng khoán (quỹ đóng, quỹ mở, quỹ hoán đổi danh mục) hay không? (Hiện nay việc đầu tư vào các quỹ này đang do Luật Chứng khoán điều chỉnh)

(d) Luật Chứng khoán chưa có định nghĩa “giao dịch chứng khoán”, “kinh doanh chứng khoán”, “đầu tư chứng khoán” và “dịch vụ về chứng khoán” như được đề cập đến tại Điều 5(2)(a) Dự thảo luật.

4.2 Kiến nghị

Chúng tôi kiến nghị Điều 5(2)(a) Dự thảo luật được sửa đổi như sau:

“Các hoạt động đầu tư vào các công ty đại chúng, vào các quỹ đầu tư chứng khoán, hoặc các hoạt động đầu tư liên quan đến chứng khoán sẽ áp dụng Luật Chứng khoán.” III. Hỗ trợ hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt Nam Thị trường Việt Nam đang ngày càng trở nên hấp dẫn trong mắt cộng đồng đầu tư nước trên toàn thế giới. Các nhà đầu tư nước ngoài đang tăng cường tìm kiếm thông tin về thị trường Việt Nam nhằm chuẩn bị cho hoạt động đầu tư của mình. Trong quá trình nghiên cứu trước khi thâm nhập thị trường, một trong những kênh thông tin chính được họ sử dụng tham khảo là bảng xếp hạng thị trường được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế dựa trên đánh giá của mình về khả năng tiếp cận thị trường đó. Với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, Việt Nam cũng đang mong muốn thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp ổn định và dài hạn từ những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trên thế giới. Vì thế, những hành động thiết thực nhằm giải quyết các vấn đề nhà đầu tư nước ngoài còn đang e ngại về thị trường Việt Nam và việc cải thiện xếp hạng thị trường Việt Nam trong bảng xếp hạng MSCI đóng vai trò rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã vạch ra kế hoạch và mục tiêu cụ thể nhằm đưa Việt Nam từ hạng Frontier Market như hiện tại lên Emerging Market trong bảng xếp hạng MSCI. Trong số những vấn đề cần chú ý, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh đang cần sự phối hợp giải quyết từ nhiều Bộ, Ban, Ngành có liên quan: Vấn đề tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài Thực tế

Trang 5/7

Page 217: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Khi đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài sẽ biết tất cả các thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư của mình trong thị trường. Tuy nhiên, vấn đề tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài đang cần giải quyết ở nhiều khía cạnh, bao gồm việc công bố thông tin, khả năng tiếp cận các thông tin đó và chi phí cho việc tiếp cận thông tin. Khi tìm hiểu về thị trường, nhà đầu tư nước ngoài đang gặp nhiều khó khăn khi tìm đến các thông tin và kiến thức về thị trường, dù những thông tin này hiện đang được công bố hoàn toàn miễn phí trên các website trong nước. Hiện nay, hầu hết các cơ quan quản lý trong nước đều tải lên website của mình chi tiết các văn bản pháp luật một cách đầy đủ và sắp xếp có hệ thống, tuy nhiên, chỉ có bản Tiếng Việt. Những tin tức mới về pháp luật cũng được công bố nhanh chóng trên các website này, trong khi các bản tin bằng Tiếng Anh phải mất vài ngày sau mới được đăng tải. Các thông tin về thực hiện quyền, họp đại hội cổ đông và các tài liệu họp do công ty cổ phần đăng tải trên website của mình cũng chỉ có bản Tiếng Việt. Trong một số trường hợp, thư mời họp và mẫu phiếu biểu quyết bằng tiếng Việt còn được gửi đến địa chỉ ở nước ngoài cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do những rào cản ngôn ngữ như đã nêu trên, nhà đầu tư nước ngoài không thể có đầy đủ thông tin để chuẩn bị cho hoạt động đầu tư của mình tại Việt Nam. Thực tế này thậm chí còn dẫn đến việc nhà đầu tư nước ngoài hiểu không đầy đủ hoặc hiểu nhầm chính sách của chính phủ Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài. Mặt khác, những vấn đề thực tiễn này đang được nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận như một sự phân biệt đối xử, bởi họ không thể tiếp cận thông tin kịp thời và đầy đủ như những nhà đầu tư trong nước. Hiện nay, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước công bố một kế hoạch cụ thể về việc công bố bản dịch Tiếng Anh của tất cả các văn bản pháp luật mình trên website, dự kiến hoàn thành trong năm 2014. Đây là một nỗ lực của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhằm hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài hiểu hơn về khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Tuy vậy, không thể phủ nhận rằng, nhà đầu tư nước ngoài còn cần sử dụng, tham khảo các văn bản pháp luật do các cơ quan quản lý khác ban hành (như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài Chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, v.v.) và các bản tin, thông báo, tài liệu… cung cấp bởi công ty cổ phần. Do đó, sự phối hợp hành động của các Bộ, Ban, Ngành liên quan và các thành viên thị trường là rất cần thiết để giải quyết vấn đề này. Đề xuất Để giải quyết những khó khăn trong việc tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài, chúng tôi xin đề xuất như sau: Đối với cơ quan quản lý: - Những tin mới về luật pháp hoặc thông báo về những văn bản luật mới được công bố cần

được tải lên website của cơ quan quản lý bằng cả Tiếng Anh và Tiếng Việt và trong cùng một ngày. Bản tin bằng Tiếng Anh phải đảm bảo tóm tắt được những điểm chính của bản tin để đảm bảo nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận cùng một lượng thông tin như nhau vào cùng một thời điểm.

- Bản dịch toàn văn bằng Tiếng Anh của các văn bản luật mới ban hành được tải lên website của cơ quan quản lý trong vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày ban hành (Bản Tiếng Anh này có thể mới chỉ là bản dịch tham khảo).

Trang 6/7

Page 218: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

- Cần có kế hoạch cụ thể nhằm đảm bảo bản Tiếng Anh của tất cả các văn bản luật đang có hiệu lực trong thị trường được tải lên website của các cơ quan quản lý trong thời gian sớm nhất.

Đối với công ty cổ phần: - Bản tin, thông báo về thực hiện quyền, họp đại hội cổ đông hay các sự kiện của công ty cổ

phần cần được tải lên website của công ty bằng cả Tiếng Anh và Tiếng Việt và trong cùng một ngày, ít nhất áp dụng cho công ty đại chúng và công ty không phải công ty đại chúng nhưng có vốn điều lệ từ 100 tỉ trở lên.

- Thư mời họp, mẫu phiếu biểu quyết và tại liệu họp (bao gồm dự thảo nghị quyết) gửi cho nhà đầu tư nước ngoài bằng Tiếng Anh hoặc song ngữ.

- Biên bản cuộc họp đại hội cổ đông cần được tải lên website của công ty bằng cả Tiếng Anh

và Tiếng Việt và trong cùng một ngày, ít nhất áp dụng cho công ty đại chúng và công ty không phải công ty đại chúng nhưng có vốn điều lệ từ 100 tỉ trở lên.

Trang 7/7

Page 219: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Chương IV

CƠ SỞ HẠ TẦNG

Page 220: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Quy định PPP

Page 221: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số vấn đề liên quan đến Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VỀ HỢP TÁC CÔNG TƯ (PPP) CÓ LÀM NẢN LÒNG ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CƠ SỞ HẠ TẦNG?

Chuẩn bị bởi

Ông Tony Foster Ông Trần Tuấn Phong

Nhóm Công tác Cơ sở hạ tầng 1. Sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng của Việt

Nam có ý nghĩa quan trọng. Nếu không có đầu tư tư nhân, nợ công sẽ còn tăng cao hơn mức đáng báo động như hiện nay, hoặc cơ sở hạ tầng sẽ không thể bắt nhịp được với tiềm năng của đất nước.

2. Bộ Kế hoạch Đầu tư hiện đang soạn thảo một Nghị định thay thế cho cả hai Nghị định số 71 ngày 9/11/2010 quy định về thí điểm PPP và Nghị định số 108 ngày 27/11/2009 quy định về BOT như đã được sửa đổi (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định). Dự thảo Nghị định này hiện vẫn đang tiếp tục được chỉnh sửa dựa trên cơ sở tham vấn rộng rãi.

3. Tuy nhiên, trong dự thảo Nghị định về PPP này (dự thảo Nghị định) hiện đang tồn tại nhiều

vấn đề có thể gây ra những trở ngại đáng kể đối với việc thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân nước ngoài.

4. Nhóm cơ sở hạ tầng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam xin được tập trung vào một số vấn đề

chính yếu, trong đó có những vấn đề nếu không được giải quyết kịp thời sẽ có thể dẫn tới một số khó khăn trong quá trình huy động vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng hoặc một số gián đoạn không mong muốn.

Phạm vi điều chỉnh 5. Có một vấn đề tồn tại cơ bản trong Dự thảo Nghị định này. Đó là chưa quy định rõ Nhà

nước sẽ chỉ hỗ trợ dự án thông qua cơ chế PPP hay một số hỗ trợ của Nhà nước vẫn được thực hiện như hình thức liên doanh thông thường (ví dụ: miễn tiền thuê đất). a) Nếu chỉ được thực hiện qua cơ chế PPP thì nhiều dự án sẽ phải chuyển sang mô hình

PPP, dẫn đến việc bộ máy thực hiện dự án PPP sẽ nhanh chóng bị quá tải. b) Nếu vẫn được thực hiện như bình thường thì chính xác trường hợp nào sẽ phải thực

hiện dự án qua cơ chế PPP?

Đề xuất: Dự thảo Nghị định cần làm rõ điều kiện để xác định những dự án phải thực hiện qua cơ chế PPP.

Xóa bỏ các quy định về BOT 6. Dự thảo Nghị định này sẽ thay thế Nghị định số 108 về BOT. Dù ở Việt Nam hiện chưa có

nhiều dự án BOT (thậm chí số dự án đã huy động được vốn còn ít hơn nữa, dù đây mới là mục đích chính của mô hình này), nhưng dù sao các nhà đầu tư cũng đã biết một số các dự án BOT cụ thể và có hình dung về khung khổ và các bước thực hiện ngay từ khi khởi động đầu tư một dự án BOT. Nhưng Dự thảo Nghị định sẽ triệt tiêu khả năng này trước khi có sự kiểm nghiệm rõ ràng liệu cơ chế PPP có khả thi trên thực tế. Đây dường như là một bước đi hơi vội vàng. Sẽ hợp lý hơn nếu xóa bỏ cơ chế BOT khi PPP đạt hiệu quả tốt (có thể sau một số năm triển khai).

Trang 1/4

Page 222: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số vấn đề liên quan đến Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đề xuất: Bổ sung trong dự thảo một điều khoản chuyển tiếp để bãi bỏ các quy định về BOT tại thời điểm thỏa mãn 2 điều kiện sau: (i) khi một ủy ban gồm các chuyên gia của chính phủ nhất trí rằng cơ chế PPP đã phát huy tác dụng và (ii) sau một thời gian nhất định là x năm (để nhà đầu tư có đủ thời gian lên kế hoạch).

Chuyển đổi các dự án BOT hiện nay sang cơ chế PPP mới 7. Hiện nay đang có khá nhiều dự án lớn được đề xuất và thực hiện theo hình thức BOT. Chỉ

tính riêng trong ngành điện đã có những dự án BOT tại Vân Phong, Vinh Tân, Vũng Áng, Quảng Ngãi, Long Phú, Duyên Hải, Nam Định v.v. Số phận của những dự án này sẽ ra sao, nếu bãi bỏ các quy định về BOT, là vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng sau khi nhà đầu tư đã bỏ ra không biết bao nhiêu triệu đô la vào dự án. Những đề xuất hiện nay như nêu dưới đây sẽ gặp phải vô số các câu hỏi cần trả lời: (a) Những dự án án được đề xuất trước ngày Nghị định có hiệu lực sẽ phải thực hiện lại thủ

tục lựa chọn nhà đầu tư và xin phê duyệt theo quy chế PPP, trừ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khác.

(b) Nếu nghiên cứu khả thi đã được phê duyệt trước ngày có hiệu lực của Nghị định thì sẽ không phải phê duyệt lại theo quy chế PPP.

(c) Những đề án được lập theo thỏa thuận với các Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (CQCTQ) trước ngày có hiệu lực của Nghị định sẽ thực hiện theo những thỏa thuận đó với CQCTQ.

(d) Những dự án đã có “quyết định lựa chọn nhà đầu tư” trước ngày Nghị định có hiệu lực không cần tiến hành lại thủ tục lựa chọn nhà đầu tư.

(e) Những dự án có Hợp đồng Dự án được ký tắt trước ngày Nghị định có hiệu lực không cần đàm phán lại Hợp đồng Dự án.

(f) Nếu Hợp đồng Dự án chưa được ký tắt nhưng đã thống nhất một số nội dung thì những nội dung đó không cần đàm phán lại.

(g) Những dự án có Hợp đồng Dự án đã chính thức được ký kết trước ngày Nghị định có hiệu lực sẽ được triển khai theo Hợp đồng Dự án và giấy chứng nhận đầu tư.

8. Tất cả những dự án BOT chưa cam kết vốn (tức là tất cả các dự án trừ dự án Phú Mỹ 2-2, Phú Mỹ 3, Mông Dương 2) sẽ bị ảnh hưởng bởi quy định này, trong đó một số sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Đề xuất: Bổ sung trong dự thảo một điều khoản chuyển tiếp để bãi bỏ các quy định về BOT tại thời điểm thỏa mãn 2 điều kiện sau: (i) khi ủy ban gồm các chuyên gia của chính phủ nhất trí rằng cơ chế PPP đã phát huy tác dụng và (ii) sau một thời gian nhất định là x năm (để nhà đầu tư có đủ thời gian lên kế hoạch).

Bảo lãnh ngoại tệ 9. Một trong những vướng mắc chính về khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của hầu hết các

dự án cơ sở hạ tầng là dự án phải bán sản phẩm đầu ra bằng đồng Việt Nam trong khi dự án chỉ vay được nguồn vốn dài hạn bằng đồng đô-la. Nếu nhà nước không bảo lãnh khả năng chuyển đổi tiền tệ (theo cùng tỉ giá) giữa tiền đồng và đô-la, cũng như khả năng cung cấp và chuyển khoản đồng đô-la, thì trên thực tế sẽ không thể huy động vốn theo hình thức tài trợ dự án cho dự án có nguồn thu bằng tiền đồng tại thời điểm hiện nay.

Trang 2/4

Page 223: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số vấn đề liên quan đến Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

10. Vai trò hiện nay của nhà nước trong dự thảo Nghị định dường như chỉ là đối phó trực tiếp với vấn đề này bằng cách hạn chế mức độ bảo lãnh ngoại hối của nhà nước.

Đề xuất: Điều khoản về bảo lãnh ngoại hối phải khẳng định được khả năng được bảo lãnh về chuyển đổi, cung cấp và chuyển khoản ngoại tệ. Ví dụ: “Mọi cam kết bảo lãnh về khả năng chuyển đổi, cung cấp, chuyển khoản phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt”. Chúng tôi hiểu rằng vấn đề này liên quan đến một số yếu tố kinh tế, chính trị nhưng nếu quá thận trọng bằng cách khước từ hoàn toàn việc bảo lãnh thì sẽ tạo ra cảm nhận tiêu cực rằng Nhà nước không khuyến khích đầu tư. Vậy nếu không đem lại được kết quả tích cực thì Nghị định cũng không nên đề cập đến vấn đề này.

Luật áp dụng 11. Một vấn đề thường trực nữa về khả năng đáp ứng yêu cầu vay vốn là trở ngại trong việc áp

dụng một hệ thống luật pháp phổ biến đối với các tài liệu dự án. Luật pháp Việt Nam, tất nhiên được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam, nhưng vẫn chưa đạt đến trình độ cao như luật Anh Mỹ, và không bảo đảm cho bên cho vay mức độ an toàn cần thiết khi thực hiện cho vay căn cứ trên tài sản và dòng tiền của dự án. Để giải quyết vấn đề này, Dự thảo Nghị định có thể sử dụng những phương án thay thế như cho phép áp dụng luật nước ngoài nếu không mâu thuẫn với luật pháp Việt Nam (phương án 1) hay Luật Đầu tư (phương án 2).

12. Nhưng nếu đưa những phương án này vào Nghị định chính thức thì sẽ nảy sinh một vấn đề

quan trọng về huy động vốn vì sẽ khó có thể chứng minh được các điều kiện vay vốn nếu chưa có ý kiến pháp lý của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, trong Dự thảo Nghị định còn có một điều khoản về điều kiện đưa ra ý kiến pháp lý của Bộ Tư pháp nhưng điều khoản này lại không đề cập đến một số văn bản cần có ý kiến pháp lý này.

Đề xuất: a) Các bên cần được quyền quyết định áp dụng luật nào đối với hợp đồng. b) Nếu không thì không nên hạn chế phạm vi các ý kiến mà Bộ Tư pháp có thể đưa ra.

Giải quyết tranh chấp 13. Nghị định quy định giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa CQCTQ và nhà đầu tư nước

ngoài trong quá trình thực hiện Hợp đồng Dự án và các thỏa thuận bảo lãnh thông qua trọng tài hay tòa án Việt Nam hay cơ quan trọng tài nước ngoài theo nhất trí của các bên. Công ty dự án không phải là nhà đầu tư nước ngoài.

Đề xuất: a) Những Hợp đồng liên quan đến Công ty dự án, như Hợp đồng mua bán điện, cần được

tự quyết định trong việc chọn trọng tài nước ngoài. b) Trong điều khoản này cũng cần làm rõ thêm nội dung về xử lý những vấn đề còn tồn tại

trong việc thực thi phán quyết của trọng tài ở Việt Nam. Nghiên cứu khả thi 14. Các quy định về báo cáo nghiên cứu khả thi có thể nói vẫn căn cứ trên các yếu tố đầu vào

(như tiêu chuẩn kỹ thuật, cấu thành dự án v.v.).

15. Trong Dự thảo Nghị định vẫn có điều khoản chung chung rằng có thể sẽ có những nội dung khác theo quy định của pháp luật.

Trang 3/4

Page 224: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Một số vấn đề liên quan đến Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đề xuất: Dự thảo Nghị định cần có những điều khoản linh hoạt hơn về nội dung chi tiết của nghiên cứu khả thi. Nghiên cứu khả thi cần lập theo hướng căn cứ trên đầu ra tới mức tối đa có thể.

Các điều khoản Hợp đồng Dự án 16. Dự thảo Nghị định quy định quá máy móc về số lượng nội dung chi tiết cần có trong Hợp

đồng Dự án. Trong khi đó, mỗi ngành đều có những đặc trưng khác nhau, cũng như có sự khác biệt lớn giữa những dự án xây dựng mới và cải tạo.

Đề xuất: Dự thảo Nghị định nên đề ra những nguyên tắc chung và cho các bên quyền thỏa thuận về nội dung chi tiết của Hợp đồng Dự án.

Đất đai 17. Dự thảo Nghị định quy định rằng nhà đầu tư sẽ chịu trách nhiệm thực hiện các thủ tục giải

phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư.

18. Nhà đầu tư được miễn tiền sử dụng đất/thuê đất theo quy định của Luật Đất đai. Nhưng Luật Đất đai không cho phép thế chấp đất nếu chưa thanh toán đầy đủ tiền sử dụng đất. Do dó, quy định được diễn giải là đất được miễn tiền sử dụng đất không được đem thế chấp. Nhưng như vậy sẽ nảy sinh một vấn đề quan trọng đối với các ngân hàng.

19. Dự thảo Nghị định cũng không quy định quyền thế chấp quyền sử dụng đất của bên cho

vay. Như vậy có thể nói Dự thảo Nghị định chưa giải quyết được dứt điểm vấn đề thế chấp quyền sử dụng đất.

Đề xuất: a) Cần nâng cao khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của Dự án bằng cách quy định rõ

quyền thế chấp quyền sử dụng đất cho bên cho vay. b) Dự thảo Nghị định nên tạo thuận lợi bằng cách quy định rằng CQCTQ có trách nhiệm

thực hiện các thủ tục giải phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư. Chứng nhận đầu tư 20. Theo dự thảo Nghị định, để cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty dự án sẽ cần phải có

quy trình thẩm định bổ sung. Quy định này làm nảy sinh một vấn đề là cơ quan cấp phép sẽ rà soát lại những nội dung thương mại chi tiết của Dự án, từ đó dẫn đến nhiều trì hoãn trong khi quy trình cấp phép hiện nay vốn đã khá rườm rà.

Đề xuất: Dự thảo Nghị định nên đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án PPP.

Kết luận 21. Trong Dự thảo Nghị định hiện nay còn nhiều vấn đề cần làm rõ. Những nội dung chưa bảo

đảm đáp ứng điều kiện vay vốn cần được tiếp tục chỉnh sửa trước khi hoàn thiện dự thảo và ban hành Nghị định. Nếu không, đầu tư của tư nhân nước ngoài vào cơ sở hạ tầng có thể sẽ bị đình trệ, dù trong bối cảnh vẫn còn quá ít dự án đầu tư loại này hiện nay. Đình trệ có thể không có nghĩa là dừng hoàn toàn và khó có thể cảm nhận được hết.

Trang 4/4

Page 225: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hoàn thiện Khung pháp lý của Việt Nam về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ CỦA VIỆT NAM VỀ PPP

Chuẩn bị bởi

LNT & Partners

Mô hình đối tác công tư (“PPP”) đã trở thành một trong những công cụ quan trọng của chính sách kinh tế tại Việt Nam.Gần đây, Chính phủ đã công bố dự thảo Nghị định mới về hình thức đầu tư này.Dự thảo được xem là phiên bản sửa đổi của Nghị định 108/2009/NĐ-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg hiện hành. Tuy nhiên, do kinh nghiệm và số dự án thành công trước đây còn hạn chế nên các vướng mắc vẫn chưa được giải quyết theo hệ thống quy định mới. Bài viết này trình bày những thay đổi đáng chú ý và những bất cập trong dự thảo mới cũng như xem xét kinh nghiệm quốc tế về những vấn đề liên quan nhằm đưa ra kiến nghị, hướng tới việc xây dựng một hệ thống pháp lý toàn diện và hiệu quả về PPP. I. NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT CỦA QUY ĐỊNH MỚI VỀ PPP 1. Phạm vi điều chỉnh So với quy định hiện hành, dự thảo bổ sung các quy định về quản lý và sử dụng phần tham gia của Nhà nước trong các dự án PPP. Theo đó, việc chuẩn bị, chấp thuận và giải ngân nguồn vốn Nhà nước trong việc thực hiện dự án PPP phải phù hợp với các quy định về quản lý ngân sách sử dụng để phát triển đầu tư cũng như các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước. Tuy nhiên, để phù hợp với mục đích và đặc điểm của các dự án PPP theo thực tiễn của các nước trên thế giới, dự thảo được xây dựng với cơ chế cụ thể trong việc chuẩn bị, chấp thuận và thực hiện (bao gồm chuẩn bị, chấp thuận Danh sách dự án, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi, cơ chế chọn nhà đầu tư, việc thực hiện, giám sát, quản lý, giải quyết và chuyển giao dự án…). 2. Định nghĩa chung về đầu tư theo hình thức PPP và những hình thức hợp đồng cụ thể Thông lệ quốc tế không có một định nghĩa thống nhất về dự án PPP. Các hình thức hợp đồng được áp dụng trong dự án PPP rất đa dạng, tùy thuộc vào nhu cầu và điều kiện huy động vốn tư nhân trong từng thời kỳ. Liên Hợp Quốc (“UN”) định nghĩa PPP là “những phương pháp mới được sử dụng bởi khu vực nhà nước để ký hợp đồng với khu vực tư nhân, trong đó khu vực tư nhân sẽ sử dụng vốn và khả năng của mình để đầu tư và cung cấp sản phẩm đúng hạn, còn khu vực nhà nước có nghĩa vụ cung cấp dịch vụ để phục vụ cộng đồng và thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống”1. Theo pháp luật Việt Nam, dựa trên định nghĩa về BOT, BTO và BT trong Nghị định 108/2009/ND-CP, dự thảo quy định rằng đầu tư Đầu tư theo hình thức đối tác công tư là việc thực hiện các Dự án trên cơ sở hợp đồng thỏa thuận về quyền, trách nhiệm và phân chia rủi ro giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư để đầu tư, xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý, vận hành công trình kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực cụ thể được quy định trong dự thảo. Bên cạnh các hình thức BOT, BTO và BT được nêu ra trong Nghị định 108/2009/ND-CP, dự thảo bổ sung các hình thức khác được xây dựng trên cơ sở học hỏi các hợp đồng dự án mẫu của nhiều quốc gia, bao gồm:

1 United Nations Economic Commission for Europe, Guide Book In Promoting Good Governance In Public Private Partnerships, ECE/CECI/4, United Nations, 2008.

Trang 1/5

Page 226: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hoàn thiện Khung pháp lý của Việt Nam về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Hợp đồng Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh (gọi tắt là Hợp đồng BOO) - Hợp đồng Thu xếp vốn - Kinh doanh – Chuyển giao (gọi tắt là Hợp đồng FOT) - Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Thuê lại (gọi tắt là Hợp đồng BTL) - Hợp đồng Kinh doanh – Quản lý (sau đây gọi tắt là Hợp đồng O&M) - Hợp đồng Thiết kế - Xây dựng – Thu xếp vốn – Quản lý – Kinh doanh – Chuyển giao

(DBFMOT); - Hợp đồng Xây dụng – Thu xếp vốn – Kinh doanh – Quản lý (BFOM);

3. Các lĩnh vực đầu tư theo hình thức PPP Theo hệ thống pháp luật hiện hành về PPP, các lĩnh vực được đầu tư theo hình thức PPP gồm: - Đường bộ, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ. - Đường sắt, cầu đường sắt, hầm đường sắt. - Giao thông đô thị. - Cảng hàng không, cảng biển, cảng sông. - Hệ thống cung cấp nước sạch. - Nhà máy điện. - Y tế (bệnh viện). - Môi trường (nhà máy xử lý chất thải). - Các Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công khác theo quyết định của

Thủ tướng Chính phủ.

Bên cạnh những lĩnh vực trên, dự thảo mở rộng các lĩnh được được đầu tư theo hình thức PPP như: - Kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao; - Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; dịch vụ phát triển liên kết sản xuất gắn với chế

biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; - Kết cấu hạ tầng thông tin, truyền thông, viễn thông; - Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; dịch vụ phát triển liên kết sản xuất gắn với chế

biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; - Trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; nhà ở xã hội, nhà ở tái định cư, nghĩa trang;

4. Phần tham gia của Nhà nước Hệ thống pháp luật hiện hành về PPP quy định phần tham gia tối đa của Nhà nước là 30% tổng vốn đầu tư. Đối với dự thảo, có hai quan điểm tồn tại về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng Nhà nước có thể tham gia đối đa 49% tổng vốn đầu tư. Quan điểm thứ hai là không có giới hạn luật định về phần tham gia của Nhà nước. Theo kết luận của Phó thủ tưởng Hoàng Trung Hải về dự thảo, kiến nghị về việc không quy định giới hạn đối với phần tham gia của Nhà nước trong các dự án PPP được chấp thuận.2 Điều này đã được thể hiện trong dự thảo sửa đổi mới nhất, theo đó, phần tham gia của Nhà nước được quyết định trên cơ sở dự án tài chính cụ thể của mỗi dự án. 5. Chi phí phân bổ từ ngân sách Nhà nước Theo hệ thống hiện hành, Nhà nước chịu chi phí lập và công bố danh sách dự án và lựa chọn nhà đầu tư cũng như chi phí lập và thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án.

2 Điều 1.đ, Thông báo 28/TB-VPCP năm 2014 kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải - Trưởng Ban chỉ đạo về đầu tư theo hình thức đối tác công - tư do Văn phòng Chính phủ ban hành.

Trang 2/5

Page 227: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hoàn thiện Khung pháp lý của Việt Nam về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Theo dự thảo, bên cạnh các chi phí trên, các chi phí khác được phân bổ từ ngân sách Nhà nước gồm chuẩn bị và quản lý dự án, lập và thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, kiểm tra chất lượng, giá trị và các điều kiện thực tế của công việc. II. CÁC VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC GIẢI QUYẾT 1. Bảo đảm của Chính phủ Dự thảo kế thừa các quy định hiện hành về những nguyên tắc cơ bản về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư. Theo đó, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư, bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của nhà đầu tư, quyền thế chấp tài sản, đảm bảo cung ứng dịch vụ công cộng và quyền giải quyết tranh chấp được khẳng định lại. Tuy nhiên, cơ chế bảo đảm và hỗ trợ đầu tư vẫn không thể tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn và minh bạch đủ để thu hút các nhà đầu tư. Có ba lý do chính cho vấn đề này: Thứ nhất, liên quan đến bảo đảm cân đối ngoại tệ, Nhà nước chỉ đảm bảo cân đối ngoại tệ cho Nhà đầu tư, không bảo lãnh tỷ lệ ngoại tệ theo nghĩa bảo lạnh cả biến động tỷ giá.3 Thứ hai, về bảo lãnh doanh thu, Nhà nước chỉ xem xét trong một số trường hợp cụ thể, trên cơ sở phương án tài chính của dự án.4 Thứ ba, dự thảo không đề cập đến những yếu tố chính trị ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án. Rõ ràng những trường hợp phát sinh vì lý do chính trị hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà đầu tư và có thể dấn đến những hệ quả nghiệm trọng. Do đó, với tư cách là trụ cột của hệ thống chính trị quốc gia, Nhà nước cần lưu ý đến những rủi ro chính trị trong các dự án PPP. Vì vậy, điều khoản ổn định (stabilization clause) nên được quy định trong hợp đồng theo hình thức đầu tư này. 2. Phân bổ rủi ro Ngoài những rủi ro chính trị, tính cân bằng của hợp đồng PPP còn đặt ra vấn đề phân bổ rủi ro trong mối quan hệ giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Việc phân chia rủi ro là một trong những quan ngại chung của các nhà đầu tư khi tham gia vào mối quan hệ đối tác với Nhà nước. Tuy nhiên việc xử lý rủi ro một cách hợp lý chưa được Nhà nước đặc biệt chú trọng. Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao các bên có thể quản lý được rủi ro? Trên thực tế, Nhà nước thường đẩy rủi ro về phía nhà đầu tư. Đến lượt mình, nhà đầu tư chấp nhận rủi ro nhưng sau đó tìm cách kéo dài thời gian thực hiện dự án để tăng chi phí. Vì lý do này, PPP tại Việt Nam được xem là thiếu tính cân bằng của hợp đồng và chưa phản ánh chính xác đặc điểm của mô hình hợp tác. Mặc dù dự thảo quy định rằng quyền, nghĩa vụ và việc phân chia rủi ro giữa Nhà nước và nhà đầu tư phải được thực hiện rõ ràng, thế nhưng điều rõ ràng ở đây là các bên chưa thành công trong các giai đoạn quản lý rủi ro.

3 Điều 1.g, Thông báo 28/TB-VPCP năm 2014 kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải - Trưởng Ban chỉ đạo về đầu tư theo hình thức đối tác công - tư do Văn phòng Chính phủ ban hành 4 Điều 1.g, Thông báo 28/TB-VPCP năm 2014 kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải - Trưởng Ban chỉ đạo về đầu tư theo hình thức đối tác công - tư do Văn phòng Chính phủ ban hành.

Trang 3/5

Page 228: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hoàn thiện Khung pháp lý của Việt Nam về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Nhằm giải quyết vấn đề nhận diện, phân loại và phân bổ rủi ro trong các dự án PPP, Việt Nam cần xem xét cách tiếp cận theo pháp luật của các quốc gia khác và tiếp thu những phương pháp hợp lý được ủng hộ bởi các quy định của pháp luật cũng như các chuyên gia trên thế giới. III. PHÂN BỔ RỦI RO THEO QUAN ĐIỂM QUỐC TẾ - KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 1. Phân loại rủi ro Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng có rất nhiều tiêu chí để phân loại rủi ro, tùy thuộc vào quy mô, đặc điểm và hình thức hợp đồng PPP cụ thể. Nhìn chung, rủi ro có thể được chia làm hai loại: rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.5Mỗi loại rui ro này được phân loại cụ thể hơn. Rủi ro hệ thống được chia thành bốn loại: rủi ro chính trị, rủi ro pháp lý, rủi ro thương mại và rủi ro môi trường. Rủi ro phi hệ thống bao gồm những rủi ro liên quan đến các yếu tố của dự án cụ thể, như rủi ro thực hiện và vận hành dự án, trong một số trường hợp còn có rủi ro tài chính và doanh thu. Rủi ro phi hệ thống có thể được kiểm soát và quản lý bởi đôingũ thực hiện dự án.6 2. Nguyên tắc phân bổ rủi ro Có ba phương pháp để xử lý rủi ro phát sinh liên quan tới các dự án PPP, đó là chia sẻ rủi ro, giữ lại rủi ro và chuyển giao rủi ro. Chia sẻ rủi ro là việc rủi ro được phân bổ giữa các bên. Giữ lại rủi ro là việc mỗi bên có nghĩa vụ gánh chịu tổn thất gây ra từ những rủi ro mà mình giữ lại. Chuyển giao rủi ro là việc một bên chuyển rủi ro cho bên kia nhằm hạn chế tổn thất cho phía mình.7 Pháp luật của Malaysia quy định rằng “chia sẻ rủi ro tối ưu là khi một rủi ro được phân bổ cho bên có khả năng quản lý tốt nhất rủi ro đó”.8 Vì vậy, những rủi ro bị ảnh hưởng bởi yếu tố chính trị (như điều tra, phê duyệt và các rào cản pháp lý), tài chính (như lạm phát và thay đổi lãi suất) và môi trường pháp lý (như ban hành hoặc bãi bỏ các quy định) nên được Nhà nước giữ lại, còn các rủi ro mà nhà đầu tư có thể kiểm soát được thì nhà đầu tư nên giữ lại. Những rủi ro phát sinh do cung cầu nên được chia sẻ giữa các bên.9 Bên cạnh đó, theo kinh nghiệm của châu Âu, khu vực tư nhân được xem là đảm bảo tính cân bằng của hợp đồng nếu chủ đầu tư chịu các rủi ro về xây dựng và hoặc là rủi ro cung ứng hoặc là rủi ro về nhu cầu. Rủi ro về xây dựng bao gồm các sự kiện như chậm chuyển giao, chất lượng kém, chi phí tăng thêm, sơ sót kỹ thuật và những tác động tiêu cực từ bên ngoài khác. Rủi ro cung ứng liên quan đến khả năng mà nhà đầu tư cung ứng khối lượng công việc thỏa thuận. Rủi ro về nhu cầu bao gồm các tác động của chu kỳ kinh doanh, xu hướng thị trường, cạnh tranh và tiến bộ công nghệ liên quan đến nhu cầu sử dụng dịch vụ. Rủi ro này không bao gồm những thay đổi về nhu cầu tạo ra bởi chính sách của Nhà nước.10

5 Merna, A. and Smith, N.J. (1996), Guide to the Preparation and Evaluation of Build – Own – Operate – Transfer Project Tenders, Asia Law & Practice Ltd, Hong Kong, China. 6 Norazian Mohamad Yusuwan (2009), RiskManagement Practices amongst Quantity Surveyor (Qs) in Malaysian Construction Industry, RMIIDKP/i/OOI, p. 12. 7 Charoenpornpattana, S. and Minato, T. (1999), Privatization-induced Risks: State-owned Transportation Enterprises in Thailand, in Proceedings of Joint CIB Symposium on Profitable Partnership in Construction Procurement (London: E & FN Spon). 8Public-Private Partnership Unit, Prime Minister Department, Public – Private Partnership (PPP) Guidelines, Clause 2.2.viii. 9 Liu, X. P., and Wang, S. Q. (2006), Risk Allocation Principle and Framework for PPP Projects, Construction Economics, 2(1), p. 59-63. 10 Editorial, Public Private Partnerships: The Challenges and Opportunities for Delivering Public Services in the 21st Century, 2010 Eur. Pub. Private Partnership L. Rev. 1 2010, p. 10-11.

Trang 4/5

Page 229: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hoàn thiện Khung pháp lý của Việt Nam về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Như vậy, quan điểm của châu Âu được hiểu là quy định nghĩa vụ chịu rủi ro của nhà đầu tư dựa trên các yếu tố liên quan đến việc thực hiện dự án. Từ những phân tích trên đây, nguyên tắc về quản lý rủi ro có thể được đúc kết một cách khái quát là: - Nhà nước nên xử lý rủi ro phát sinh từ các điều kiện vĩ mô; - Nhà đầu tư nên xử lý rủi ro dự án cụ thể. - Nhà nước và nhà đầu tư nên chia sẻ rủi ro nằm trong tầm kiểm soát của cả hai bên.11

3. Kinh nghiệm cho Việt Nam Dự thảo được xây dựng theo hướng quy định khung cho hoạt động PPP, điều này có nghĩa là các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn sẽ được ban hành sau khi dự thảo chính thức mở ra hệ thống pháp lý mới. Tuy nhiên, ở một mức tối thiểu, bảo đảm của Nhà nước và việc quản lý rủi ro nên được xem là những nhân tố chủ chốt trong việc thu hút và thúc đẩy đầu tư PPP. Dựa trên quan điểm của các học giả trên thế giới và cách tiếp cận theo pháp luật Malaysia và châu Âu, Việt Nam nên xem xét thực hiện các kiến nghị sau: Thứ nhất, nguyên tắc phân bổ rủi ro nên được thừa nhận.Đó là chủ thể có khả năng kiểm soát và quản lý rủi ro nào thì nên có nghĩa vụ gánh chịu rủi ro đó. Thứ hai, nguyên tắc trên nên được khẳng định và làm rõ không chỉ trong quy định của pháp luật mà còn trong các hợp đồng PPP cụ thể. Thứ ba, để đảm bảo tính cân bằng của hợp đồng, Nhà nước cần tạo ra hệ thống bảo đảm và hỗ trợ đầu tư vững chắc cho nhà đầu tư.

11 Huynh Thi Thuy Giang (2012), PPP in development of Road Infrastructure in Vietnam, Ho Chi Minh City University of Economics, p. 30.

VÍ DỤ

BÊN Nhà nước Nhà đầu tư Cả hai

RỦI RO

- Nền kinh tế không thuận lợi

- Trì hoãn liên quan đến thu hồi đất

- Rủi ro về thuế

- Khiếm khuyết trong thiết kế

- Thiết bị lỗi

- Không đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật trong hợp đồng

- Đàm phán kéo dài trước khi bắt đầu dự án

- Bất khả kháng

- Rủi ro về chấm dứt hợp đồng trước hạn

Trang 5/5

Page 230: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ý KIẾN ĐÓNG GÓP DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VỀ HỢP TÁC CÔNG TƯ

Chuẩn bị bởi Công ty DFDL Mekong

I. Văn bản pháp lý Ý kiến đóng góp dưới đây được dựa trên các văn bản luật sau: • Luật Đầu tư; • Nghị định số 108/2009/ND-CP về đầu tư theo hình thức Hợp đồng xây dựng – Kinh doanh -

Chuyển giao (BOT), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao – Kinh doanh (BTO), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT), được sửa đổi trong Nghị định số 24/2011/ND-CP (Nghị định 108)

• Và Quyết định số 71/2010/QD-TTg ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối táccông–tư (“Quyếtđịnh 71”) ;

• Dự thảo Nghị định về đầu tư theo hình thức hợp tác công tư (“Dự thảo nghị định”)

II. Ý kiến đóng góp chung Dự thảo đã kết hợp hai văn bản luật (Nghị định 108 vàQuyết định 71) hướng dẫn các hình thức đầu tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nhằm cung cấp một khung pháp lý vững vàng hơn. Tuy nhiên trên thực tế, dù Nghị định 108 đánh dấu một mốc quan trọng với mục đích tăng cường đầu tư tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các dự án đường xá và năng lượng, thì Nghị định vẫn còn những quy định không rõ rang về quá trình tuyển chọn nhà đầu tư và cách thức gây quỹ cho các dự án. Trong khi đó, Quyếtđịnh 71 ban hành năm 2010 không tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhà đầu tư tới các dự án hợp tác công tư về cơ sở hạ tầng do không quy định rõ vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm rủi ro tài chính cho các nhà đầu tư. Bản dự thảo Nghị định là sự kết hợp của Quyết định 71 và Nghị định 108 có đề cập tới định nghĩa dự án hợp tác công tư: dự án hợp tác công tư là hình thức đầu tư được tiến hành qua hợp đồng giữa chính phủ và nhà đầu tư tư nhân để đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng và công cộng. Bên cạnh các dạng hợp đồng BOT, BTO, và BT, PPP còn có các hình thức xây dựng-sở hữu-kinh doanh, tài trợ-kinh doanh-chuyển giao, xây dựng-chuyển giao-cho thuê, và kinh doanh-duy trì. Chúng tôi cho rằng dự thảo nghị định đã được soạn thảo rất kĩ càng, giải quyết được những vấn đề còn vướng mắc và trùng lặp trong Nghị định 108 và Quyết định 71, đồng thời các hình thức hợp tác công tư cũng thu hút các nhà đầu tư hơn. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin có một số ý kiến đóng góp cụ thể dưới đây. III. Ý kiến đóng góp cụ thể 1. Vốn đầu tư của dự án PPP Điều 2.21 của dự thảo đưa ra hai cách định nghĩa của vốn đầu tư dự án PPP. Chúng tôi cho rằng nên định nghĩa vốn đầu tư theo cách thứ hai: tổng vốn đầu tư lưu động để tiến hành dự án được tính toán và quyết định trong giai đoạn tổng hợp các báo cáo nghiên cứu khả thi dự án tương ứng với các loại hợp đồng dự án khác nhau. Tổng vốn đầu tư của dự án bao gồm: chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí giảitoả và tái định cư, chi phí vận hành, chi phí kinh doanh và chi phí quản lý dự án; chi phí tư vấn đầu tư; chi phí tài trợ, các chi phí và dự trù chi phí khác.

Trang 1/2

Page 231: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Định nghĩa thứ nhất quyết định vốn đầu tư theo các quy định về xây dựng. Chúng tôi cho rằng để thu hút các nhà đầu tư cho dự án PPP, nhà đầu tư nên được trao nhiều quyền hạn hơn phù hợp quy định nhà nước về vốn đầu tư thay vì phụ thuộc vào các quy định về xây dựng. Bên cạnh đó, lĩnh vực đầu tư áp dụng cho các dự án PPP không chỉ bao gồm các dự án xây dựng có thể thuộc sự điều chỉnh của luật xây dựng.

2. Đảm bảo doanh thu tối thiểu Điều 66 củaDự thảo Nghị định đưa ra hai phương án xác định đảm bảo doanh thu tối thiểu, trong đó phương án (i) chính phủ và thủ tướng sẽ quyết định và bổ nhiệm đơn vị cung cấp bảo đảm và phương án (ii) cơ quan có chuyên ngành sẽ quyết định đảm bảo doanh thu tối thiểu.

Chúng tôi đề nghị việc đảm bảo doanh thu tối thiểu nên được quyết định bởi Chính phủ. Được cấp bảo đảm của chính phủ, nhà đầu tư có thể đảm bảo được sự vận hành của dự án PPP được hợp tác thực hiện giữa họ và cơ quan thẩm quyền của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc chính phủ xác định đảm bảo doanh thu tối thiểu là phù hợp với Luật Đầu tư (Điều 66). Tuy nhiên, chúng tôi muốn lưu ý rằng với sự tham gia của chính phủ, nhà đầu tư có thể sẽ phải thực hiện một số thủ tục mất thời gian hơn để được sự bảo đảm của chính phủ.Vì vậy, đề nghị Dự thảo Nghị định đưa ra quy định cụ thể cho dự án PPP đủ tiêu chuẩn đạt được sự bảo đảm của chính phủ đồng thời quy định những thủ tục cần thiết.

3. Quyền được mua ngoại tệ Điều 68 của Dự thảo Nghị định đưa ra danh sách các giao dịch trong đó nhà đầu tư PPP được phép mua ngoại tệ từ tổ chức tín dụng được uỷ quyền. Danh sách này hạn chế hơn danh sách giao dịch bị cấm theo quy định quản lý ngoại hối nói chung và có thể sẽ bị hiểu thành sự hạn chế các dự án PPP (ví dụ: theo luật quản lý ngoại hối nói chung, tổ chức cư trú có thể thực hiện giao dịch ngoại hối nội bộ với các đơn vị phụ thuộc). Vì vậy, đề nghị gỡ bỏ khỏi Nghị định danh sách các giao dịch trong đó nhà đầu tư PPP được phép mua ngoại tệ.

Trang 2/2

Page 232: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp về Dự thảo Nghị định các hình thức đầu tư PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ý KIẾN ĐÓNG GÓP DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ PPP

Chuẩn bị bởi Công ty General Electric

GE đánh giá cao cơ hội được đóng góp ý kiến và đưa ra khuyến nghị về Hợp tác Công tư (PPPs) nhằm hỗ trợ sự phát triển của mô hình PPP tại Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước. Trong nhiều năm qua GE đã hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam trong một số ngành công nghiệp để hỗ trợ sự phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam bao gồm năng lượng, hàng không, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. GE là một trong những công ty đầu tiên của Mỹ thành lập ở Việt Nam sau khi cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam được bãi bỏ. GE đã thành lập Công ty TNHH GE Việt Nam, đưa ra nhiều sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực năng lượng, chăm sóc sức khoẻ và hàng không. GE hiện có hơn 700 nhân viên ở Việt Nam chú trọng vào sứ mệnh nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng đa dạng cho đất nước mà công ty gọi đó là đối tác từ tập đoàn tới quốc gia. Từ năm 2009, GE đã đầu tư hơn 110 triệu USD vào cơ sở sản xuất GE ở Hải Phòng với hơn 600 nhân viên, kĩ sư, và các công nhân lành nghề khác. Máy phát tua-bin điện gió và các bộ phận máy khác sản xuất ở Hải Phòng đã được xuất khẩu sang các trung tâm dịch vụ GE trên toàn thế giới. Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng năng lượng, gần đây GE công bố việc cung cấp tua-bin gió cho dự án cánh đồng điện gió quy mô lớn 100 Megawatt đầu tiên của Việt Nam ở khu vực sông Mekong. Thiết bị GE đã nâng cấp khả năng truyền tải điện của Việt Nam trong một số dự án cho NPT trên toàn quốc, và gần đây chúng tôi đã kỷ niệm 20 năm hoạt động tại Việt Nam với việc khánh thành một trung tâm kỹ thuật để hỗ trợ phát triển các kỹ sư tài năng cho ngành công nghiệp dầu khí ở Việt Nam. Bộ KH &ĐT ước tính từ nay đến năm 2020, Việt Nam sẽ cần 170 tỷ USD để phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm cả hệ thống giao thông, cầu cống, nhà máy điện, mạng lưới cấp nước và nhà máy xử lý chất thải và các cảng. Nguồn vốn truyền thống như trái phiếu chính phủ và hỗ trợ phát triển sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu trên. Do đó, phần lớn vốn đầu tư phải được huy động từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính phủ Việt Nam hy vọng sẽ thu hút được các nhà đầu tư tư nhân nhiều hơn thông qua các dự án PPP. Dự thảo Nghị định về hợp tác công tư (PPP) là một kế hoạch đầu tư được đề xuất dựa trên các hợp đồng ký kết giữa các cấp có thẩm quyền của Nhà nước và các nhà đầu tư để xây dựng hoặc cải thiện, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành các dự án cơ sở hạ tầng hoặc để cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực phù hợp với danh mục đầu tư PPP. Đây là một cơ chế quản lý và sử dụng biện pháp khuyến khích, hỗ trợ và đảm bảo đầu tư cho các dự án, và đưa ra các quyền, nghĩa vụ, và chia sẻ rủi ro giữa các bên. Bộ Kế hoạch và Đầu tư của Việt Nam sẽ là cơ quan thường trực để hỗ trợ Ban Chỉ đạo trong việc điều phối, quản lý và thực hiện một cách thống nhất các chính sách về hình thức đầu tư hợp tác công tư trên quy mô toàn quốc. Hợp tác công tư (PPP) khác nhau giữa các quốc gia, nhưng thường bao gồm sự hợp tác lâu dài giữa khối nhà nước và khối tư nhân, trong đó khối tư nhân hỗ trợ chính phủ thông qua các khoản đầu tư với mục đích giải quyết các vấn đề tồn tại trong cộng đồng. Thông qua sự hợp tác lâu dài này, các đối tác tư nhân tham gia tích cực bằng cách cung cấp kiến thức chuyên môn và

Trang 1/4

Page 233: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp về Dự thảo Nghị định các hình thức đầu tư PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 kinh nghiệm phù hợp với mục tiêu của chính phủ, từ đó thực hiện có hiệu quả các dự án cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công. Như một phương án thay thế cho chi phí vốn trực tiếp của chính phủ tới cơ sở hạ tầng, PPP có thể hỗ trợ chính phủ trong việc đẩy nhanh việc cung cấp các dịch vụ thiết yếu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội, vì lợi ích tốt nhất cho khối nhà nước và tư nhân. Bằng cách tận dụng những thế mạnh của khối nhà nước và tư nhân, các dự án PPP về y tế và chăm sóc sức khỏe có thể giúp chính phủ tăng cường tiếp cận tới các dịch vụ chăm sóc, giảm chi phí chăm sóc sức khỏe, và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiệu quả hơn. Dự án PPP về y tế và chăm sóc sức khoẻ Chương 1 của Dự thảo chú trọng vào các lĩnh vực đầu tư như giao thông, điện, và nước, v.v. Dường như không có sự chú trọng vào lĩnh vực “cơ sở hạ tầng mềm” như dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục. Có lẽ khái niệm về dịch vụ công cần được định nghĩa sâu rộng hơn nữa để xác định xem lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có nên được chú trọng trong Nghị định PPP này hay không. Chúng tôi khuyến khích Việt Nam phát triển một mô hình PPP về chăm sóc sức khỏe, và chúng tôi rất sẵn lòng được làm việc với chính phủ Việt Nam để chia sẻ kinh nghiệm của chúng tôi về các mô hình PPP với mục đích cải thiện chất lượng chăm sóc sức khoẻ, đồng thời giảm thiểu sự quá tải ở các bệnh viện công. PPP có thể tăng cường sự tham gia của khối tư nhân để nâng cấp trang thiết bị và nâng cao đào tạo nhân viên. Trong các dự án PPP về chăm sóc sức khoẻ, khối tư nhân nói chung cũng sẽ tài trợ các chi phí vốn cần thiết ban đầu để xây dựng và trang bị cơ sở vật chất cho các bệnh viện, các rủi ro được phân bổ giữa các bên tương ứng để có thể quản lý một cách tốt nhất. Dự thảo Nghị định của Việt Nam có đưa ra những khác biệt trong các cấu trúc PPP khác nhau, từ Xây dựng-Tài trợ, trong đó các đối tác khối tư nhân xây dựng và tài trợ cho cơ sở y tế và khối nhà nước sẽ vận hành, cho đến Thiết kế-Xây dựng-Tài trợ-Vận hành-Duy trì, trong đó khối tư nhân thiết kế, xây dựng, tài trợ, vận hành và duy trì một cơ sở công cộng. Các cấu trúc PPP khác nhau có mức độ tham gia khác nhau của khối tư nhân, với những thay đổi tương ứng trong việc phân bổ rủi ro giữa khối tư nhân và chính phủ.

Lợi ích của Dự án PPP về y tế và chăm sóc sức khoẻ Bằng cách kết hợp những thế mạnh của khối nhà nước và tư nhân, Dự án PPP về y tế và chăm sóc sức khoẻ có thể hỗ trợ chính phủ trong việc phân bổ hiệu quả hơn nguồn vốn khan hiếm và nguồn ngân sách cần thiết cho sự phát triển và hoạt động của cơ sở y tế đạt hiệu quả cao hơn và tăng cường sự tiếp cận tới các dịch vụ y tế. Việc hợp tác công tư trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đảm bảo rằng cơ sở vật chất được hoàn thiện theo đúng chương trình và ngân sách đã được phê duyệt, và có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nếu cơ sở vật chất được phát triển và cung cấp hoàn toàn bởi khối nhà nước. Với việc đáp ứng được nhu cầu về thời gian và ngân sách, PPP cũng có thể đẩy mạnh việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và đưa sức khỏe tốt hơn tới người dân. Ví dụ, Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang tiến hành xây dựng 22 bệnh viện PPP mới và khi hoàn thành sẽ cung cấp thêm 28.000 giường bệnh cho số giường bệnh hiện tại là 200.000 và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nhìn chung, các chính phủ sẽ hưởng lợi từ việc giảm chi phí, hiệu quả cao hơn và thúc đẩy việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc ý tế của người dân bằng cách phát triển cơ sở hạ tầng thông qua PPP. Best Practices GE đã có kinh nghiệm với một số quốc gia với các mô hình PPP khác nhau , chúng tôi hoan nghênh cơ hội được làm việc với Bộ KH & ĐT về chia sẻ những kinh nghiệm hay nhất để Bộ phát triển bản hướng dẫn các chương trình PPP tại Việt Nam.

Trang 2/4

Page 234: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp về Dự thảo Nghị định các hình thức đầu tư PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 GE đã tham gia vào nhiều dự án PPP trên toàn thế giới. Ví dụ, tại Anh, GE tham gia vào PPP với các đại học Y để cung cấp một giải pháp toàn diện về thiết bị y tế và phi y tế. Tại Canada, GE hiện tại vẫn đang hợp tác với một bệnh viện địa phương để cung cấp những thiết bị tối tân nhất nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của dịch vụ chăm sóc sức khỏe. GE đã và đang tiên phong trong việc phát triển các dự án PPP trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tại Ấn độ, bao gồm các dự án PPP quy mô nhỏ chú trọng vào dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại các vùng nông thôn kém phát triển. Ngoài những PPP này, GE sẵn có các dự án PPP ở các khu vực sau: Trung Đông, Châu Phi, Mỹ La Tinh, Ấn Độ, Trung Quốc, Châu Á Thái Bình Dương, Châu Âu và Bắc Mỹ. Tại Ấn Độ, Liên minh các tổ chức chăm sóc sức khỏe Wipro GE đã tham gia vào Hợp tác Công tư với Chính phủ Maharashtra để nâng cấp và quản lý các thiết bị chăm sóc sức khỏe tiên tiến tại các bệnh viện cấp quận. Trong một liên minh bao gồm Bộ Y tế Cộng Đồng trực thuộc Chính phủ Maharashtra, công ty chăm sóc sức khỏe Wipro GE Pvt. Ltd, Và Ensocare của Tập đoàn Enso. Dự án sẽ thúc đẩy dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở bang Maharashtra và thiết lập các cơ sở chuẩn đoán tiên tiến tại 22 quận trực thuộc Chính phủ và tại các bệnh viện cho phụ nữ. Dịch vụ này sẽ hoạt động 24/7 và cung cấp các dịch vụ sử dụng thẻ xếp hạng do Chính phủ khuyến khích vì lợi ích của bộ phận dân cư lớn hơn. Tại Philippines, GE đang thăm dò các mô hình chăm sóc sức khỏe PPP và các cơ hội với Chính phủ Aquino. GE đang tiến hành thảo luận với nhà phân phối thiết bị y tế của dự án cung cấp 500 giường bệnh với Bệnh viện chỉnh hình Philippine, và đồng thời tìm kiếm các cơ hội và mô hình đa dạng khác. GE cũng đã và đang tham gia với Bộ Y tế Philippine trong dự án mô hình thiết bị y tế PPP liên quan đến việc cài đặt GE PET-Scan tại Viện Cấy ghép Thận Quốc gia Philippine. Dàn máy này được đưa vào sử dụng với mụch đích hạ thấp chi phí chiếu chụp/theo dõi tế bào ung thư và điều chỉnh cho giá thành phù hợp hơn với người dân . GE có một công ty toàn cầu, với số vốn đầu tư ban đầu là 6 tỷ đô, có tên “Healthimagination” nhắm giải quyết nhu cầu về sức khỏe bền vững trên toàn thế giới. VIệc này bao gồm giảm chi phí bằng cách hỗ trợ phát minh mới của công nghệ và dịch vụ của GE; nâng cao chất lượng chăm sóc thông qua hiệu quả trong các tiêu chuẩn chăm sóc, giáo dục và hỗ trợ chi phí chăm sóc sức khỏe tổng thể. GE cũng đã chứng minh được sức mạnh của PPP trong quá trình vận hành các dự án tái tạo năng lương và lưới điện thông minh thông qua sáng kiến Ecomagination ở Trung Đông. GE đã sử dụng chiến lược hai mũi nhọn để chia sẻ kiến thức và kỹ năng, và thúc đẩy việc sử dụng các sản phẩm Ecomagination để hỗ trợ các giải pháp năng lượng hiệu quả. Bằng việc học hỏi các bài học kinh nghiệm từ các hình thức quan hệ đối tác khác nhau, và điều chỉnh PPP cho phù hợp với các nỗ lực của một công ty để trở thành một doanh nghiệp tốt, các bài học thực tiễn trong hợp tác công tư bao gồm cân đối lợi ích và nhu cầu của tất cả các chủ thể tham gia vào mục tiêu cung cấp kênh tiếp cận và dịch vụ tốt hơn cho cộng đồng và người thụ hưởng. Các lĩnh vực chính cần xem xét khi cơ cấu PPP: • Đưa ra mục tiêu để tối ưu hóa thế mạnh của từng đối tác • Kênh đối thoại rõ ràng

Trang 3/4

Page 235: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến đóng góp về Dự thảo Nghị định các hình thức đầu tư PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 • Làm giảm và chia sẻ rủi ro giữa các rủi ro • Sự tham gia của nhiều bên liên quan để cung cấp thông tin đầu vào, kiến thức chuyên môn,

và ý tưởng lãnh đạo • Huy động nguồn lực một cách hiệu quả • Duy trì tính linh hoạt và khả năng thích ứng của quan hệ đối tác khi các điều kiện thay đổi • Đạt được mục tiêu dài hạn • Chia sẻ các bài học kinh nghiệm Cuối cùng, chúng tôi xin cung cấp một vài ý kiến cụ thể trong quá trình soản thảo tài liệu như sau: Chương I, Điều 7 (trang 6) – khoản 6 yêu cầu hoàn trả “chi phí chuẩn bị đầu tư và chi phí thực hiện Dự án” khi ngân sách nhà nước có bao gồm các chi phí đó. Đề nghị làm rõ điều khoản này áp dụng khi chi phí cho các hoạt động nêu trên đã được đưa ra trong đề xuất của nhà đầu tư. Chương II, Điều 16 (trang 11) – khoản 3 (b) nên được thắt chặt để móc nối giá trị và hiệu quả làm việc với các điều kiện cụ thể đưa ra trong hợp đồng. Chương III, Điều 26 (trang 16) – khoản 3 và 4 liên quan tới việc công bố thông tin Đề xuất của Dự án, mà theo định nghĩa có thể là Đề xuất Dự án của Nhà đầu tư. Việc công bố các thông tin thương mại mang tính nhạy cảm sẽ không được khuyến khích, bởi nó sẽ có tác dụng chống cạnh tranh lên chủ đầu tư. Chương III, Điều 27 (trang 16) – Các mối quan ngại như đã đề cập tại Điều 26. Chương IV, Điều 45 (trang 25) – Có sự mâu thuẫn trong các điều khoản của pháp luật. Khoản 1 cho phép thỏa thuận để “áp dụng pháp luật nước ngoài” đối với các hợp đồng, tuy nhiên khoản 2 nói rằng việc áp dụng pháp luật nước ngoài không thể “mâu thuẫn với pháp luật Việt Nam”. Chương VIII, Điều 70 (trang 33) – Trái ngược với Điều 45, điều này đòi hỏi pháp luật Việt Nam trong trường hợp có tranh chấp. Chúng tôi mong muốn chia sẻ thêm về kiến thức cũng như kinh nghiệm của chúng tôi với Bộ KH & ĐT.

Trang 4/4

Page 236: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TÓM TẮT BÀN TRÒN THẢO LUẬN DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VỀ PPP - Thời gian: 14:00, Ngày 4/4/2014 - Địa điểm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 6B Hoàng Diệu, Hà Nội NỘI DUNG BUỔI HỌP Ông Đặng Xuân Quang – Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch Đầu tư - Theo nhu cầu hoạt động cũng như để thúc đẩy thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân, trong thời

gian qua theo Bộ kế hoạch đầu tư đã triển khai sửa đổi hai văn bản hợp nhất thành một văn bản và sửa đổi nghị định 108 về mô hình đầu tư PPP, quyết định 71 của thủ tướng chính phủ về dự định thí điểm đầu tư PPP.

- Vấn đề này cũng đã được triển khai một thời gian và trên thực tế, bộ kế hoạch đầu tư luôn nhận được sự quan tâm cũng như ý kiến góp ý của cộng đồng doanh nghiệp.

Ông Hoàng Mạnh Phương - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Hiện nay, Bộ Kế hoạch Đầu tư đã thành lập nhóm phụ trách bao gồm một số chuyên gia của các

bộ ngành, làm việc từ cuối năm 2003 cho đến nay, tập trung nghiên cứu rà soát, lập ra những phương án sửa đổi nghị định 108 và nghị định 71 và đồng thời cũng đã tiến hành sửa đổi những năm trước đó. Tuy nhiên, đây là cách tiếp cận hoàn toàn mới ghép lại rất nhiều vấn đề đặt ra. Dự thảo này dù chưa phản ánh hết được ý kiến gần đây tuy vậy chúng tôi hy vọng rằng, với giải trình và những định hướng đưa ra dưới đây thì sẽ phần nào giải quyết được những quan ngại cũng như đề xuất cơ bản của nhà đầu tư.

- Về nội dung của dự thảo nghị định:

• Thứ nhất về cách tiếp cận trong dự thảo thì nghị định này cũng như nghị định 71 trước đây là 2 văn bản độc lập, trong quá trình thi hành có nhiều cách hiểu, nhiều cách diễn giải khác nhau trong quá trình thực hiện, chính vì vậy chúng tôi muốn hợp nhất tất cả các hình thức đầu tư trong quyết định 71 cũng như 108 gọi chung là PPP. Bên cạnh đó, nghị định này cũng là xử lý những bất cập những hạn chế xảy ra trong quá trình thực thi. Trên cơ sở đó, chúng tôi cố gắng đưa ra những cách tiếp cận tổng thể nhất về đầu tư theo hình thức đối tác đầu tư (BOT). Điểm thứ hai trong cách tiếp cận là chúng tôi soạn thảo nghị định này theo tính chất là nghị định khung, trong đó đưa ra những nguyên tắc cơ bản về lĩnh vực, hình thức, nội dung hợp đồng dự án, về dự án, trình tự thủ tục về ưu đãi đầu tư. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đưa ra thêm một số quy trình mang tính chất thủ tục rút gọn đối với một số dự án nhỏ và hiện nay trên thực tế mới phát sinh nhiều trong lĩnh vực nông nghiệp phát triển nông thôn.

• Nội dung thứ hai của nghị định là phần tham gia của nhà nước. Có nhiều loại tham gia của nhà nước nhưng trong phạm vi điều khoản về phần tham gia ở đây chúng tôi chỉ nhấn mạnh quy định về phần tham gia về tài chính mang tính hỗ trợ tăng cường tính khả thi tài chính cho dự án và nhằm làm cho dự án có hiệu quả thương mại cao hơn. Trong dự thảo nghị định này hiện không quy định việc hạn chế tỷ lệ phần tham gia. Tỷ lệ phần tham gia sẽ được xem xét cụ thể trên cơ sở từng dự án và trên cơ sở phương án tài chính của doanh nghiệp. Phần đem đi tham gia có thể bao gồm vốn, tài sản và các nguồn lực tài chính khác nhưng phải tính toán được. Nguồn vốn ở đây có thể bao gồm ngân sách, trái phiếu, nguồn ODA, hoặc các khoản vay ưu đãi khác. Dự thảo đang đưa ra hình thức tham gia là đóng góp để hỗ trợ xây dựng các hạ tầng công trình. Trong nội dung phần tham gia nhà nước có 2 nội dung mới: một là lập kế hoạch phần tham gia, nội dung này xây dựng trên dự thảo luật đầu tư công và cũng hoàn toàn phù hợp với luật ngân sách hiện hành, trong đó chỉ ra kế hoạch đầu tư công

Trang 1/9

Page 237: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

là trung hạn hàng năm và có một đầu mục là dành một phần ngân sách nhà nước để chi cho hoạt động này trong thời gian tới đồng thời nghị định cũng đưa ra một số quyết định liên quan đến quản lý và sử dụng phần tham gia của nhà nước sau khi đã hỗ trợ nhà đầu tư. Trên thực tế cũng có một số dự án dùng ngân sách để hỗ trợ tuy vậy mặt pháp lý, quản lý việc sử dụng ngân sách đặc biệt là vấn đề thanh toán như thế nào là một câu hỏi không hề dễ giải quyết.

• Nội dung tiếp theo là vấn đề chuẩn bị dự án được cải cách tương đối so với 108 cũng như 71 hiện hành. Hiện nay nghị định 108 đang tiếp cận theo cách cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập dự án và đưa vào danh mục. Nhà đầu tư cũng có thể linh hoạt đề xuất những dự án nằm ngoài những đơn đặt hàng của nhà nước và đồng thời cả quyền được đề xuất dự án. Trong trường hợp dự án của nhà đầu tư được cơ quan thẩm quyền chấp thuận và lựa chọn, nhà đầu tư có thể được giao lập FS.

• Ngoài ra, một nội dung khác trong dự thảo là kinh phí lập báo cáo nghiên cứu, hiện nay chưa có nhiều nhưng đã có một số nhà tài trợ đã cam kết cho chúng ta kinh phí, tuy không nhiều nhưng là bước khởi đầu cho chúng ta xây dựng những dự án PPP và được cho là mẫu thử nghiệm cho giai đoạn này.

• Về việc hỗ trợ và đảm bảo đầu tư, cơ bản được xây dựng trên nền của nghị định 108 cũ tuy nhiên có cập nhật và bổ sung một số nội dung, trong đó có 3 nội dung quan trọng đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ nhất là đảm bảo cân đối ngoại tệ, hiện nay phía cơ quan nhà nước chưa thống nhất được vấn đề đảm bảo cân đối ngoại tệ cho nhà đầu tư tuy nhiên chúng tôi đang cố gắng không những trong nghị định này mà trong cả bối cảnh chung làm sao để có thể giải quyết vấn đề này. Nội dung thứ hai là bảo lãnh doanh thu tối thiểu, đây là quy định mới trong nghị định. Cái khó bây giờ là xác định cụ thể trong trường hợp nào, phạm vi đến đâu mà nhà nước có thể đưa ra cam kết bảo lãnh doanh thu tối thiểu. Nội dung thứ ba là cấp ý kiến pháp lý, đây không phải nội dung mới tuy vậy trước đây trong nghị định 108 cũ cũng chưa quy định cụ thể về nguyên tắc, chỉ quy định trách nhiệm của bộ tư pháp về việc này.

• Nội dung về giải quyết tranh chấp đã được đề cập đến trong nghị định 108, luật đầu tư, các hiệp định quốc tế về đầu tư. Những tranh chấp trong hợp đồng sẽ được đem ra xử và xem xét tại trọng tài quốc tế. Việt Nam đã cam kết trong nhiều bối cảnh và đồng thời trong bối cảnh luật áp dụng là luật pháp nước ngoài, thì đây là vấn đề thực sự không hề đơn giản.

• Ngoài ra, cũng trong nghị định này có một chương về trách nhiệm của các bên trong việc triển khai các dự án PPP, có nhấn mạnh trách nhiệm của cơ quan nhà nước thẩm quyền trong việc hỗ trợ nhà đầu tư. Ví dụ trong trường hợp hỗ trợ giải phóng mặt bằng hay dự án của bộ kế hoạch đầu tư hay bộ công thương trên địa bàn Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh thì cơ quan nhà nước thẩm quyền có thể đứng ra hoặc hỗ trợ mà không chịu trách nhiệm giải phóng mặt bằng.

Ông Phạm Sỹ Chung – Đại diện Công ty Luật LNT & Partners

• Thứ nhất, về phần giải thích định nghĩa về PPP. Điều 2 dự thảo 1 đã có định nghĩa, tuy nhiên chúng tôi có một định nghĩa theo cách tiếp cận mới hơn để ban soạn thảo tham khảo: “PPP là những phương pháp mới được sử dụng bởi khu vực nhà nước để ký hợp đồng với khu vực tư nhân, trong đó khu vực tư nhân sẽ sử dụng vốn và các khả năng kinh nghiệm của mình để đầu tư và cung cấp sản phẩm đúng hạn, còn khu vực nhà nước có nghĩa vụ cung cấp dịch vụ phục vụ cộng đồng để thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống”.

Trang 2/9

Page 238: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

• Điều 2 về các hình thức hợp đồng có thống kê được 9 loại hợp đồng đầu tư theo PPP, trên

thực tế có thể có nhiều hình thức hơn. Ví dụ như hợp đồng thiết kế - xây dựng - thu xếp vốn - quản lý - kinh doanh - chuyển giao (DBFMOT), và hợp đồng xây dựng - thu xếp vốn - kinh doanh quản lý (DBFOM) là 2 loại hợp đồng mới mà ban soạn thảo có thể xem xét nghiên cứu thêm để đưa vào nội dung dự thảo.

• Định nghĩa về tổng vốn đầu tư còn dài và có thể được rút gọn như sau: “Tổng vốn đầu tư của dự án là toàn bộ vốn đầu tư huy động để chuẩn bị thành lập, xây dựng, và triển khai lập dự án”. Trong dự thảo liệt kê rất dài dễ dẫn đến bỏ sót, trong trường hợp thực tế xảy ra thì không xác định được căn cư pháp luật để xử lý hoặc căn cứ văn bản có thẩm quyền để xác định hợp đồng như vậy có được xếp vào hợp đồng PPP không.

• Ngoài ra, về cơ chế đảm bảo đầu tư cũng chưa thật rõ ràng: + Liên quan đến vấn đề cân đối ngoại tệ, điều 68 có nêu ra việc phải đảm bảo 30% cân đối ngoại tệ cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư vay vốn nước ngoài, trả nợ ngoại tệ trong khi mua ngoại tệ lại rất khó vì nhà nước không cân đối được. Tuy nhiên chỉ đảm bảo vấn đề cân đối ngoại tệ không thôi chưa đủ, nhà đầu tư còn quan tâm tới việc bảo đảm biến động tỷ giá bởi tỷ giá ngoại tệ biến động rất thất thường, gây ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư. + Thêm nữa dự thảo không đề cập đến yếu tố chính trị có tác động đến tiến độ thực hiện dự án. Chúng tôi khuyến nghị dự thảo cần phải có cam kết về rủi ro chính trị trong dự án PPP để làm sao nhà đầu tư yên tâm khi triển khai dự án, bởi khi có những vấn đề phát sinh liên quan đến các yếu tố chính trị, sẽ vượt ngoài tầm kiểm soát và dẫn đến những hệ quả xấu với nhà đầu tư. + Về quy định rủi ro, dự thảo không có điều khoản riêng cho rủi ro mà chỉ có quy định về phân chia rủi ro cho các cơ quan. Nghị quyết ở mục 6 chỉ mang tính nguyên tắc thôi chứ chưa phải quy định rủi ro, do đó, đề nghị ban soạn thảo lưu ý việc quy định và phân chia rủi ro trong dự thảo này.

• Những vấn đề khác như tiêu chí xác định dự án quan trọng quốc gia được đưa ra tại điều 47, là dự án đầu tư thuộc thẩm quyền của quốc hội, dự án đầu tư có điều kiện hay là dự án nhóm A, v.v, đề nghị ban soạn thảo làm rõ phạm vi thế nào là dự án quan trọng quốc gia để đảm bảo tính thuyết phục của văn bản pháp luật.

• Về vấn đề áp dụng luật mà Vụ pháp chế đưa ra, ví dụ trong trường hợp vốn của nước ngoài chiếm 70-80% trong khi vốn nhà nước trong dự án chỉ 10-20% thì có thể dẫn chiếu theo luật nước ngoài để nhà đầu tư cảm thấy yên tâm hơn khi giải quyết tranh chấp áp dụng luật. Ban soạn thảo nên cân nhắc đưa ra tiêu chí tỷ lệ góp vốn bao nhiêu thì áp dụng luật pháp nước ngoài, tỷ lệ như thế nào thì áp dụng luật trong nước để đảm bảo chủ quyền quốc gia.

Ông Trần Duy Hưng – Cố vấn cao cấp Dự án Dầu Giây

• Điều 2 mục số 15 có định nghĩa “Nhà đầu tư là các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Nghị định này và pháp luật khác có liên quan” được hiểu là pháp luật Việt Nam và theo đó dự thảo còn bỏ sót các nhà đầu tư nước ngoài, những pháp nhân thành lập theo luật nước ngoài và làm việc tại nước ngoài.

• Điều số 32 phương án tài chính của dự án về bản chất nó là nghiên cứu gốc, một phần của nghiên cứu khả thi và là công cụ để nhà nước đánh giá độ khả thi của dự án và theo đó đưa ra mức tham gia đóng góp. Mục 2 điều 32 có đưa ra “Phương án tài chính của Dự án được

Trang 3/9

Page 239: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

thỏa thuận trong Hợp đồng dự án trên cơ sở các chỉ tiêu tài chính sau”. là không sát với thực tế bởi trong hợp đồng dự án về cơ bản không có đi vào chi tiết như thế này. Quy định hiện nay ở mục 4a và 4b có nêu ra mức lãi vay huy động vốn đầu tư được xác định trong các trường hợp có đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư hoặc đấu thầu chỉ định thì mức lãi vay ở đây là khó hiểu cho nhà đầu tư. Ngoài ra, PPP ở các nước đang phát triển như Việt Nam thì thông thường không đơn thuần chỉ có nhà nước với khối tư nhân, mà còn có tham gia từ nhân tố thứ 3 như các định chế, các tài trợ, cơ quan bảo lãnh tín dụng, v.v. Theo đó, nghị định này hiện đang bỏ sót các điểu khoản đề cập đến khả năng, vai trò của cái bên thứ 3 trong lộ trình kế hoạch của PPP của chính phủ Việt Nam.

Ông Nguyễn Quốc Vinh – Công ty tư vấn Tilleke và Gibbins - Điểm c khoản 4 điều 32 có đề cập đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tham khảo mức

lãi suất cho vay trung hạn cùng kỳ hạn bình quân của ít nhất 3 tổ chức tín dụng độc lập không liên quan đến Nhà đầu tư trên địa bàn. Chúng tôi kiến nghị nên bỏ từ “trung hạn” vì theo định nghĩa cho vay trung hạn là khoản vay từ 1 năm đến 5 năm và một dự án như thế này thì việc vay từ 1 năm đến 5 năm là rất hiếm. Ngoài ra, cụm từ “trung hạn” còn mâu thuẫn với cụm từ “cùng kỳ hạn”, ví dụ khoản vay trong 10 năm thì anh sẽ phải lấy lãi suất của 3 ngân hàng thương mại cho khoản vay 10 năm đó. Tôi nghĩ điểm này cần phải cân nhắc lại.

- Về khoản 1 điều 53, theo tôi hiểu luật đất đai năm 2003 và luật đất đai năm 2013 thì đối với những dự án như thế này thì nhà nước sẽ thực hiện việc thu hồi và bồi thường chứ không phải nhà đầu tư. Chỉ có những dự án thuần túy mang tính kinh doanh của chủ đầu tư thì họ sẽ thực hiện thỏa thuận bồi thường với người dân, lúc này nhà nước mới tiến hành hỗ trợ nhà đầu tư. Đề nghị ban soạn thảo làm rõ thêm điểm này.

- Tiếp theo là khoản 4 điều 63, nhà đầu tư doanh nghiệp dự án được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được nhà nước giao hoặc miễn tiền thuế đất trong thời gian thực hiện dự án. Theo tôi hiểu luật đất đai hiện tại và luật đất đai sắp được ban hành không có cơ chế đối với quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư. Trong những trường hợp này thì quyền lợi của nhà đầu tư đối với khu đất và tài sản trên đất như thế nào, cụ thể nhà đầu tư có được quyền thế chấp toàn bộ khu đất hay một phần khu đất hay không?.

- Đề nghị cần có điều khoản định nghĩa về “nhà đầu tư” và “nhà đầu tư nước ngoài” và hệ quả của những định nghĩa này.

Ông Hoàng Mạnh Phương - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Trong các ý kiến góp ý, quan trọng nhất là nhóm hỗ trợ đảm bảo. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng

phải cần làm rõ thêm, tuy nhiên như đã đề cập ngay từ đầu ngay trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như các bộ ngành cũng chưa thống nhất đặc biệt là 2 nội dung về luật áp dụng và đảm bảo cân đối ngoại tệ.

- Về vấn đề đảm bảo cân đối ngoại tệ: chúng tôi phải nói thật thế này, nếu đưa ra yêu cầu rằng cơ

quan nhà nước có thẩm quyền của chính phủ Việt Nam phải bảo lãnh cả về tỷ giá thì tôi cho là trên thực tế thế giới, khó có nước nào có quy định như thế này. Còn riêng về việc cân đối chuyển đổi ngoại tệ, theo tôi thấy ở một góc độ nhất định thì nhà đầu tư cũng có lý chỉ có điều nguồn dự trữ ngoại hối của Việt Nam có hạn chế. Trong giai đoạn chuyển đổi như thế này quả thực việc đưa vào nghị định này cam kết rằng chính phủ sẽ đảm bảo 100% việc cân đối ngoại tệ cho tất cả các dự án là rất khó. Có lẽ chúng tôi sẽ phải tiếp cận theo hướng khác là sửa luật đầu tư, chúng tôi sẽ cố gắng không phải chỉ giới hạn 3-4 lĩnh vực như bây giờ mà là tất cả lĩnh vực nhưng vẫn phải trên cơ sở nguồn lực để có thể thực hiện cam kết.

Trang 4/9

Page 240: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Chúng tôi đồng í với ý kiến về cam kết chính trị. Tuy vậy ở góc độ này chúng tôi chỉ có thể tiếp

thu và cố gắng ở mức độ nhất định tức là có thể chúng tôi sẽ dẫn chiếu ở đâu đó trong nghị định này là thay đổi về chính trị trong trường hợp thay đổi về luật pháp chính sách như thế nào, ảnh hưởng đến lợi ích của nhà đầu tư, ảnh hưởng cụ thể đến cam kết trong hợp đồng này thì sẽ phải xử lý như thế nào?.

- Về phía luật áp dụng, đứng ở góc độ nhà nước, về nguyên tắc, chúng tôi có thể chấp thuận áp

dụng theo luật nước ngoài để điều chỉnh hợp đồng. Tuy vậy, việc áp dụng luật nước ngoài cũng cần có tiêu chí, ví dụ như phù hợp với thông lệ quốc tế, không trái với các nguyên tắc pháp luật Việt Nam, không đi quá thông lệ. Nếu chúng ta hoàn toàn dẫn chiếu pháp luật nước ngoài thì có thể dẫn tới các rủi ro mà hiện nay vẫn chưa thể lường hết được.

- Nội dung về cơ chế tài chính chúng tôi cũng đang tạm thời luật hóa, nghị định hóa Thông tư số 6

của Bộ Tài chính. Dự kiến Điều 32 sẽ được điều chỉnh lại. Việc này chúng tôi đã làm với rất nhiều nhà đầu tư nhưng rất khó đưa ra nguyên tắc nào để vừa đáp ứng nhu cầu thị trường, vừa đáp ứng nhu cầu quản lý của nhà nước. Có địa phương cho ý kiến là về lợi nhuận thì Chính phủ nên đưa ra hai khung để tính: khung thứ nhất tính trên cơ sở vốn chủ sở hữu, cho phép từ 16 – 18%; khung thứ hai tính trên cơ sở mức đầu tư, cho phép từ 5 – 8%. Giả sử chúng tôi đồng ý với phương án như vậy, tôi chắc rằng hai nhà tư vấn sẽ đưa ra hai kết quả khác nhau, thậm chí hai lần tính ra hai kết quả khác nhau. Do vậy, chúng tôi dự kiến Điều 32 sẽ không có trong Nghị định này. Có lẽ Bộ Tài chính sẽ có hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn nhưng cũng phải nói rằng rất khó để đáp ứng ý kiến của nhà đầu tư và yêu cầu quản lý của một số tỉnh.

- Về định nghĩa “nhà đầu tư”, chúng tôi cũng đang tạo ra một khái niệm “nhà đầu tư” mà có thể

thống nhất trong các nội dung. Tuy nhiên, chúng tôi cũng sẽ tiếp thu và làm rõ hơn nội dung này.

- Một vấn đề nữa về thủ tục rút gọn các dự án nhỏ. Trong quá trình soạn thảo chúng tôi đã phối hợp với chuyên gia của các Bộ để đưa ra những tiêu chí chung cho dự án nhỏ. Một số nơi nói là 7 tỷ, có nơi nói 3 tỷ và tất nhiên mỗi ngành, lĩnh vực là khác nhau. Cuối cùng, chúng tôi cho rằng sau này tùy từng Bộ, Ngành sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch & Đầu tư để hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

- Vấn đề về thứ ba liên quan đến Nghị định, thật ra trong Nghị định ODA, các quan hệ liên quan

đến bên thứ ba được đưa ra rõ nét hơn. Ví dụ nhà tài trợ có vai trò thế nào, trình tự thủ tục thông qua dự án như thế nào thì Nghị định 38 đã nói rất rõ. Giữa Nghị định 38 và Nghị định này có một khâu nối về dùng ODA và các nguồn vốn ưu đãi, thường bên thứ ba sẽ chỉ đặc biệt quan tâm nhiều đến giai đoạn đấy thôi. Bên cạnh đó, trong Nghị định này có thể có giai đoạn góp vốn vào, hay giai đoạn có sự thế quyền thì những gì có thể liên quan chúng tôi đã cố gắng, nhưng nếu thêm vào cụ thể hơn nữa thì đề nghị có ý kiến cụ thể hơn để chúng tôi cân nhắc trong quá trinh làm chính sách.

Đại diện Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Về quyền step in ở Điều 40 cần phải có sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Câu hỏi đặt ra là có cần làm rõ hơn sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay không, ở đây cơ quan có thẩm quyền là ai và sự chấp thuận là như thế nào vì thông thường trong một hợp đồng vay luôn có điều khoản về step-in right và khoản vay này ít nhất cũng sẽ phải được đăng kí với Ngân hàng Nhà nước rồi. Vậy đã được coi là được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay chưa để thỏa mãn Khoản 2 Điều 40?.

Trang 5/9

Page 241: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Ông Hoàng Mạnh Phương - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Theo khoản 2 Điều 40 trong quá trình đảm phán, có thể có những hợp đồng không phải kí giữa

nhà nước và nhà đầu tư, và để liên quan đến step-in right này thì việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận là đúng. Tuy nhiên, việc chấp thuận hợp đồng đó đã là chấp thuận chưa thì cần làm rõ thêm. Theo tôi, việc đó phải được quyết định đồng thời ở giai đoạn kí hợp đồng dự án rồi.

Ông Nguyễn Việt Hà – Đại diện Công ty Luật Frasers - Nội dung thứ nhất là cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tức là cơ quan kí hợp đồng PPP và BOT.

Step-in right chỉ xảy ra khi bên vay không trả được nợ. Như vậy không thể phê duyệt vào thời điểm kí hợp đồng được mà phải là khi phát sinh sự vi phạm, lúc đấy sẽ liên quan rất nhiều đến hoạt động của công ty dự án. Theo tôi hiểu, thông lệ BOT từ trước đến giờ được hiểu là khi có nhà đầu tư mới vào thì phải đánh giá lại xem nhà đầu tư đó có đủ điều kiện hay không rồi mới phê duyệt. Nếu giải thích là đương nhiên được phê duyệt thì phải quy định rõ vào trong nghị định.

Ông Hoàng Mạnh Phương - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Thứ nhât, điều 40 nói rằng điều kiện thủ tục nội dung về step-in right phải được quy định tại

hợp đồng dự án. Thứ hai, ý của tôi là cam kết ở đây có thể coi là một cam kết trước, thỏa thuận trước. Trong tương lai nếu có sự kiện pháp lý xảy ra thì lúc đấy ngân hàng có quyền step-in, nhưng việc này phải được thỏa thuận trước tại dự án, trừ một số trường hợp như vay mà được bảo lãnh. Về nguyên tắc cơ bản nếu như theo Điều 40 thì có lẽ vẫn phải đàm phán ngay tại thời điểm kí hợp đồng.

Ông Nguyễn Việt Hà – Đại diện Công ty Luật Frasers - Theo tôi biết thì trên hợp đồng dự án sẽ có một điều khoản về step-in right quy định về trình tự

thủ tục, nhưng ở đây mình đang nói đến chuyện phê duyệt và phê duyệt khi nào. Ở đây vẫn nói đến chuyện sẽ phải phụ thuộc vào việc phê duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng định nghĩa là cơ quan kí hợp đồng. Theo tôi hiểu là nó sẽ phải xảy ra sau.

Chuyên gia Vụ pháp chế - Trong Điều 40 Khoản 2 việc phải được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận thì trong trường hợp

step-in right mà nhà đầu tư không thể trả được nợ thì phải được thỏa thuận rõ trong hợp đồng và khi sự việc pháp lý đấy xảy ra, nếu bên cho vay và nhà đầu tư đã tuân thủ đúng theo nguyên tắc đã được thỏa thuận tại hợp đồng thì nhà nước buộc phải chấp nhận bên cho vay tham gia vào dự án.

- Các điều kiện, thủ tục, nội dung của step-in right được quy định tại hợp đồng dự án hoặc tại các văn bản thỏa thuận kí kết giữa doanh nghiệp dự án và nhà đầu tư, phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đối với văn bản thỏa thuận. Tức là ở đây có hai cách thiết kế: một là điều khoản về step-in right được thiết kế trong hợp đồng hoặc hai là có một thỏa thuận riêng, và trong cả hai trường hợp thì thỏa thuận về step-in right đều phải được xác lập trước thời điểm kí kết hợp đồng. Điều cần cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận là trong trường hợp điều khoản về step-in right không bao gồm trong hợp đồng mà chỉ kí kết riêng giữa bên cho vay và nhà đầu tư thì thỏa thuận đó phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Theo tôi hiểu, tất cả việc chấp thuận trong Điều 40 phải được xảy ra trước hoặc trong khi kí kết hợp đồng chứ không thể là đến khi xảy ra sự kiện pháp lý. Đối với bên cho vay thì điều này rất quan trọng. Ngân hàng sẽ không thể chấp nhận rủi ro lúc sự kiện pháp lý xảy ra mà phải đi xin cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận cho step-in right ở đây.

Đại diện Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

Trang 6/9

Page 242: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Điều 55 về giám sát quản lý chất lượng công trình dự án, Khoản 3 có đưa ra cơ quan nhà nước

có thẩm quyền được thuê tư vấn là tổ chức cá nhân có điều kiện năng lực hỗ trợ giám sát nghĩa vụ nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án. Đương nhiên là sẽ hơi khác với thực trạng hiện nay ở Việt Nam, các công trình do chính các cơ quan có thẩm quyền nhà nước trực tiếp đi quản lý giám sát đánh giá chất lượng công trình. Vậy chi phí để thuê một đơn vị là như thế nào, sẽ thuộc về nhà nước hay cho doanh nghiệp vì những chi phí này không hề nhỏ, đặc biệt những dự án kéo dài 30 năm thì chi phí có thể lên tới hàng chục triệu USD.

Ông Hoàng Mạnh Phương - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Chúng ta phải xác định phạm vi giám sát đến đâu. Ban đầu chúng tôi có phản hồi lại là giám sát

của cơ quan có thẩm quyền chỉ dừng lại và hạn chế hơn ở mức giám sát nhà đầu tư thực hiện nghĩa vụ đó như thế nào. Các bộ ngành địa phương sẽ không phải làm việc tư vấn giám sát như trách nhiệm của nhà đầu tư. Còn chuyện thuê tư vấn giám sát thì tôi nghĩ chắc cũng phải thuê. Giả sử nhà nước có lấy tiền thì cũng đang dự kiến là tính vào chi phí thực hiện dự án, có thể vòng đời thu phí sẽ dài ra.

Ông Nguyễn Việt Hà – Đại diện Công ty Luật Frazer - Thứ nhất, nhà đầu tư không làm không công điều gì. Nếu thêm chi phí, người ta sẽ đòi nhà nước

trả thêm ít nhất là về phần phí, hoặc sẽ dẫn tới hệ quả đền bù. Thực tế, nhà nước muốn giám sát, dùng tiền của nhà đầu tư để giám sát nhà đầu tư thì sẽ dẫn đến việc nó tự nhiên trở thành nghĩa vụ như đóng thuế hay tự nhiên phải chi trả một khoản đặc biệt không đóng góp cho hiệu quả của dự án. Vì vậy, đặt vấn đề là ok, nếu nhà nước muốn giám sát thì nhà nước có khoản thu từ một dự án, khoản đấy lấy ra để sử dụng giám sát.

Ông Hoàng Mạnh Phương - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Hiện Dự thảo đang theo hướng lấy nguồn chi đầu tư phát triển để cân đối được nhiều hơn.

Nhưng kể cả trong trường hợp đấy, Bộ Tài chính cũng không thể đảm bảo mức mà Bộ Giao thông kì vọng. Giả sử được Bộ Tài chính chấp nhận một phương án, vẫn có đề nghị là sau này nhà đầu tư dự án hoàn lại.

- Về nội dung giải phóng mặt bằng: theo quy định hiện hành, trách nhiệm giải phóng mặt bằng là của địa phương, của nhà nước. Tuy vậy, hiện nay quy định này trên thực tế là không khả thi.

Ông Nguyễn Việt Hà – Đại diện Công ty Luật Frazer - Trên thực tế, vấn đề vướng về phần đất đai là ở việc được cấp đất và không thể thế chấp được.

Và vấn đề là khi cho thuê, tiền thuê sẽ được ghi vào giá dự án, giúp dự án có nhiều cơ hội xin tài trợ. Dự thảo 108 chỉ có một hình thức duy nhất là cấp đất. Vì vậy, cần mở ra cho hình thức cho thuê đất. Ngoài ra, hiện tại Luật Đất đai không cho phép thế chấp quyền sử dụng đất cho ngân hàng nước ngoài. Cần đưa ra những cơ chế, ví dụ như ý kiến pháp lý thống nhất cho phép trong trường hợp đất đai cần đi thế chấp, việc sử dụng khái niệm mới như đại lý bảo đảm được chấp nhận ở Việt Nam.

Bà Vũ Quỳnh Lê – Phó Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu - Chính sách miễn tiền sử dụng đất là để tạo ưu đãi cho nhà đầu tư. Một số nhà đầu tư phản hồi

là trong trường hợp miễn như vậy mà không có một số quyền đối với đất, thì không có ý nghĩa. Các nhà đầu tư muốn chọn phương án nào?

- Một số đại biểu đề xuất là “được phép miễn hoặc giảm”. Nếu thêm khái niệm “giảm” thì cần

cân nhắc thêm yếu tố là giảm được bao nhiêu? Ông Vinh có đề cập, Hiến pháp và Luật Đất đai quy định nghĩa vụ của phía nhà nước đối với các dự án vì mục đích công là có nghĩa vụ thu hồi. Ban Soạn thảo sẽ nghiên cứu lại để có quy định hợp lý.

Trang 7/9

Page 243: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Đại diện Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Khoản 2 Điều 41 liên quan đến chuyển nhượng một phần dự án: pháp luật về đầu tư, về xây

dựng và các quy định liên quan được đề cập. Tuy nhiên, pháp luật về đầu tư, xây dựng không đề cập đến vấn đề chuyển nhượng một phần dự án. Vấn đề chuyển nhượng một phần dự án được đề cập đầu tiên tại Luật Đất đai mới và cũng mới chỉ có quy định chung chung. Cần quy định các thủ tục và cơ quan phê duyệt đối với việc chuyển nhượng một phần dự án.

Ông Phạm Sỹ Chung – Đại diện Công ty Luật LNT - Định nghĩa nhà đầu tư: còn chung chung. Theo quy định hiện nay, nhà đầu tư được hiểu là đã có

pháp nhân ở Việt Nam. Cần thiết kế lại định nghĩa nhà đầu tư để bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư là các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài.

- Trong trường hợp thay đổi chính sách pháp luật, cần quy định rõ nhà đầu tư vẫn tiếp tục được thực hiện những ưu đãi đã được quy định trong hợp đồng, giấy phép đầu tư mà cơ quan có thẩm quyền đã cấp.

Đại diện Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Ngoài vấn đề bảo lãnh được đề cập trong Điều 46 của Nghị định này thì còn có những bảo lãnh

khác. Hiện Nghị định mới chỉ đề cập đến bảo lãnh hợp đồng, còn các loại bảo lãnh khác có nên đưa vào hay không? Cần quy định chặt chẽ từng thời điểm cung cấp bảo lãnh, bảo lãnh ở dạng thế nào, giá trị bao nhiêu.

Ông Phạm Sỹ Chung – Đại diện Công ty Luật LNT - Trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đầu tư từ 70 – 80% trở lên trong tổng vốn đầu tư, họ

có muốn ghi nhận luật nước ngoài là luật điều chỉnh. Tuy vậy, cần đảm bảo quy tắc áp dụng luật không mâu thuẫn với luật trong nước và các hiệp định quốc tế.

Đại diện Văn phòng PPP - Quy định điều khoản chuyển tiếp tại Điều 73 của Dự thảo: tinh thần soạn thảo là tạo thuận lợi

tiếp cận Nghị định một cách uyển chuyển nhất. Nhưng trong Nghị định 108 không quy định bước này. Vì vậy, khi kí MOU, phía nhà đầu tư Nhật đã có hoạt động gì với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chi phí sẽ được tính như thế nào, được tính vào đâu? Trước đấy, nhà đầu tư đã bỏ ra khoản tiền gì, cho những hoạt động nào?

Đại diện Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Trước khi kí, có những hoạt động nghiên cứu đã được triển khai và nguồn vốn riêng của chúng

tôi được sử dụng. Sau khi thực hiện dự án, chúng tôi sẽ đưa chi phí đó vào vốn góp với đối tác.

- Trong trường hợp chi phí do phía Nhật tự đầu tư, có hai cách tính chi phí vào tổng mức đầu tư: Có công ty coi phần chi phí sử dụng trước khi kí MOU là các chi phí nghiên cứu phát triển và không tính dự án, bên công ty sẽ chịu chi phí đó. Có công ty sẽ tính cộng dồn lại, sau đó đưa vào phương án tài chính. Công ty sẽ phải có những bằng chứng đã chi vào những hạng mục gì, chi như thế nào? Hoặc trong trường hợp có một nhóm công ty với nhiều đối tác, họ sẽ thuê đơn vị bên ngoài tư vấn, các công ty sẽ có thỏa thuận chi bao nhiêu tiền, cho việc nào.

- Để đảm bảo tính thẩm định, nhà đầu tư Nhật nộp hồ sơ tới Bộ Công thương, Bộ Công thương có

trách nhiệm thẩm định lại. Có hai phương án, một là nếu Bộ đủ năng lực thì tiến hành thẩm định, hai là thuê tư vấn. Trong trường hợp thuê tư vấn, tư vấn này sẽ thực hiện tư vấn cho Bộ Công thương, vì vậy hợp đồng tư vấn nên được kí với Bộ Công thương?

Trang 8/9

Page 244: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt Bàn tròn thảo luận dự thảo Nghị định về PPP Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Bà Vũ Quỳnh Lê – Phó Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu - Với trường hợp nhà đầu tư đã có FS, nhà đầu tư có sẵn sàng dành một khoản tiền để MOIT tự

tổ chức lựa chọn tư vấn thẩm định? Tức là nguồn tài chính vẫn là của các nhà đầu tư nhưng phần kí hợp đồng, điều hành tư vấn lại tương đối độc lập?

Đại diện Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Chúng tôi không muốn lựa chọn phương án đấy vì chi phí nhà đầu tư phải chịu. Hiện nay các

nhà đầu tư đang thực hiện theo hình thức BOT, vì thế khi chuyển sang Nghị định PPP, sẽ có những ảnh hưởng đến các điều kiện thực hiện hợp đồng, và việc đàm phán sẽ kéo dài hơn. Đề nghị xem xét các quy định theo hướng bảo vệ nhà đầu tư để quá trình đàm phán không bị kéo dài.

Trang 9/9

Page 245: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Năng lượng

Page 246: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Tiểu Nhóm Năng lượng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO CỦA TIỂU NHÓM NĂNG LƯỢNG

Chuẩn bị bởi Tiểu Nhóm Năng lượng

Tái khởi động Tiểu Nhóm Năng lượng Việc tái khởi động Tiểu Nhóm Năng lượng trực thuộc Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng trong khuôn khổ Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF), bao gồm các đơn vị cung cấp công nghệ nước ngoài; các công ty tại Việt Nam đang hoạt động một phần dựa trên cơ sở năng lượng tái tạo; và các đối tác công nghiệp chiến lược đang quan tâm đến việc hỗ trợ Chính phủ trong quá trình khai thác năng lượng và nguồn năng lượng tái tạo. Quá trinh tái khởi động hoạt động của Tiểu Nhóm nhận được sự hưởng ứng của các tổ chức thành viên như Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham), Phòng Thương mại Bắc Âu (Nordcham), Phòng Thương mại Canada tại Việt Nam (CanCham), Phòng Thương mại Úc tại Việt Nam (AusCham), Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam (Eurocham), và BBGV Hỗ trợ hiện thực hóa các mục tiêu của Chính phủ và triển khai các Hiệp định thương mại Tiểu Nhóm sẽ hợp tác để triển khai Quy hoạch Điện VII của Việt Nam, với mục tiêu đưa EVN đóng vai trò tiên phong khởi động quá trình cổ phần hóa thị trường bán buôn điện, và mục tiêu sản lượng năng lượng tái tạo đạt 4,5% tổng sản lượng điện vào năm 2020. Kế hoạch bao gồm mục tiêu phát triển điện gió đạt mức công suất 1000MW, năng lượng sinh học đạt mức 500MW and những công nghệ năng lượng tái tạo khác đạt công suất khoảng 2700MW vào năm 2020. Sự phát triển của năng lượng tái tạo phù hợp với Chiến lược Phát triển Xanh Việt Nam. Chiến lược tập trung vào tiến trình cắt giảm khí thải nhà kính từ 8-10% so với năm 2010 vào năm 2020. Tuy nhiên, hiện nay, thị trường năng lượng tái tạo có quy mô không đáng kể. Các tổ chức quốc tế thành viên của các Phòng Thương mại tại Việt Nam có kinh nghiệm chuyên sâu trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo ở quy mô khu vực và phương thức tận dụng các hiệp định thương mại để thúc đẩy sự phát triển. Thời điểm chín muồi để tái khởi động Tiểu Nhóm Năng lượng Việt Nam đang có nhu cầu ngày càng cao về năng lượng với mức tăng trưởng trung bình 14,5% trong thập kỉ qua tính tới năm 2010 và trên 10% trong những năm gần đây. Trong khi đó các nguồn cung điện cũng đang gặp rất nhiều khó khăn bao gồm sự phụ thuộc sụt giảm vào nguồn năng lượng thuỷ điện, sự trì hoãn trong quá trình mở rộng các nhà máy nhiệt điện, mức giá nhập khẩu than trên thị trường và các khó khăn trong phát triển năng lượng hạt nhân. Trong khi đó, năng lượng tái tạo lại có khả năng bắt kịp nhanh với thị trường, có thể mở rộng và một khi đã đưa vào lắp đặt và sử dụng sẽ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước để cung cấp năng lượng trong tương lai. Thị trường bán buôn cạnh tranh - cơ hội phát triển nguồn năng lượng Theo quyết định số 26/2006/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam đặt mục tiêu hình thành Thị trường bán buôn cạnh tranh (CWM) từ năm 2015 đến 2022. CWM có liên hệ mật thiết với nguồn năng lượng và năng lượng tái tạo. Những lĩnh vực này hiện chưa nhận được chính sách hỗ trợ phù hợp từ Chính phủ. Một thị trường bán buôn cạnh tranh hiệu quả, phù hợp với hiệp định thương mại tự do sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của năng lượng tái tạo trong khoảng thời gian ngắn.

Trang 1/3

Page 247: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Tiểu Nhóm Năng lượng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Mục tiêu của Tiểu Nhóm Năng lượng Mục tiêu chính của Tiểu Nhóm là hỗ trợ chính phủ và các doanh nghiệp tư nhân trong việc phát triển các hướng dẫn và chính sách liên quan đến năng lượng, và đặc biệt là khai thác năng lượng tái tạo thông qua tư vấn, nghiên cứu, chia sẻ thông lệ tốt và phổ biến bí quyết công nghệ cũng như hỗ trợ công nghệ. Một số hoạt động chủ yếu như là:

- Cung cấp các chuyên gia tư vấn cho chính sách và hướng dẫn mới - Xây dựng nền tảng cho quá trình chuyển giao kiến thức và hỗ trợ kỹ thuật về công nghệ

xanh - Đề xuất các phương án tháo gỡ cho các rào cản thị trường - Tiến thành khảo sát và nghiên cứu thị trường. - Tổ chức các buổi toạ đàm và tập huấn hướng tới các đối tác hoạt động trong lĩnh vực

năng lượng và năng lượng tái tạo, bao gồm các nhà hoạch định chính sách, các nhà khái thác lưới điện, các đơn vị phát triển dự án địa phương và các nhà tài trợ.

Nhóm sẽ hỗ trợ các hoạt động sau đây: 1. Yêu cầu của Bộ Công thương đối với các tỉnh thành trong việc thực hiện các nghiên cứu về

Kế hoạch Phát triển Năng lượng tái tạo. 2. Sửa đổi của Bộ Công thương đối với giá bán ưu đãi của điện gió và năng lượng sinh học. 3. Bộ Công thương triển khai thực hiện Thị trường Bán buôn cạnh tranh với việc không can

thiệp vào giá cả, các thành viên thị trường, với một mức phí xoay vòng hợp lý. Nếu triển khai được như trên thì CWM có thể giúp mở rộng đáng kể các dự án năng lượng tái tạo.

4. 13 tỉnh, thành phố thuộc tiểu vùng sông Mê Kông đang thử nghiệm các dự án năng lượng mặt trời với 31 cộng đồng và khối tư nhân, thu hút khoảng 10 triệu USD vốn đầu tư tư nhân để cung cấp nguồn năng lượng mặt trời với giá cả hợp lý cho khu vực nông thôn. Hơn 2000 khu vực dân cư đã thể hiện sự quan tâm đối với việc sử dụng năng lượng mặt trời với các khoản vay phù hợp, hoàn trả trong vòng 3 năm và đảm bảo năng lượng mặt trời trong vòng 25 năm.

5. Quá trình áp dụng rõ ràng và dứt khoát với những tiêu chí đạt yêu cầu/không đạt yêu cầu trong việc tiếp cận giá ưu đãi, thỏa thuận mua bán năng lượng và các phê duyệt liên quan của Chính phủ. Quy trình này sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư xác định xem nguồn năng lượng tái tạo tiềm năng có phù hợp với các quy định địa phương hay không và giúp giảm thiểu sự không chắc chắn và hỗ trợ thực hiện các quyết định quản lý.

Những quan ngại hiện nay 1. Mức giá mà EVN chấp nhận trả cho các nhà sản xuất điện độc lập, dựa trên các thỏa thuận

mua điện có trợ cấp chính phủ (Feed-in-tariff), là quá thấp để tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư cũng như không đủ để đảm bảo cho các khoản vay ngân hàng (7,8 cents USD/kWh).

2. Vì EVN đang phải chịu lỗ, nên chỉ có nguồn vốn ODA là đang được đầu tư, không có nhà đầu tư tư nhân nước ngoài hay ngân hàng nào chấp nhận kế hoạch của EVN để mua điên từ các nhà máy điện gió, trừ phi có sự đảm bảo của chính phủ Việt Nam

3. Nhà sản xuất điện gió chuyên nghiệp với độ tin cậy cao và khả năng tài chính vững vàng chưa có cơ hội để thâm nhập thị trường Việt Nam

Các đề xuất và những lợi ích 1. Cho phép thử nghiệm một số dự án năng lượng gió, mặt trời và khí sinh học để tạo điều

kiện cho các nhà sản xuất năng lượng độc lập có thể bán trực tiếp cho người dùng thông qua hợp đồng mua bán năng lượng; và khi cần thiết các nhà sản xuất đó sẽ trả lệ phí phân

Trang 2/3

Page 248: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo của Tiểu Nhóm Năng lượng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

phối và truyền phát cho EVN. Những khoản phí đó phải được chấp nhận như một phần của CWM.

2. Một hợp đồng mua bán năng lượng trực tiếp giữa nhà sản xuất điện gió độc lập và người tiêu dùng là một ví dụ cho việc các nhà phát triển năng lượng tái tạo có thể sử dụng một công ty đa quốc gia như một sự bảo đảm cho các khoản vay ngân hàng quốc tế, cùng với nguồn tài chính sẵn có của mình, để đầu tư vào mảng năng lượng của Việt Nam trong tương lai

3. Bộ Công Thương đưa ra mức giá ưu đãi cho năng lượng mặt trời Mục tiêu của năng lượng tái tạo có thể đạt được nếu các thử nghiệm bán điện trực tiếp thành công mà không cần có sự bảo đảm của chính phủ hay bất kì khoản bù đắp nào của EVN. Mua bán năng lượng trực tiếp đang được triển khai tốt ở các thị trường mới nổi khác như Ấn Độ, Mexico, Brazil.

Trang 3/3

Page 249: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Hạ tầng cảng & Vận tải biển

Page 250: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO TIỂU NHÓM HẠ TẦNG CẢNG VÀ VẬN TẢI BIỂN Chuẩn bị bởi

Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển 1. Bối cảnh Tầm quan trọng của chủ đề VBF Giữa kỳ năm nay “Từ Chương trình tới Hành đồng – Chuẩn bị sẵn sàng cho các Hiệp định Thương mại mới” đã nhận được sự đặc biệt quan tâm chú ý của Diễn đàn và các bên trong năm 2013 và nửa đầu 2014. Vì vậy, Báo cáo của Tiểu nhóm Hải cảng và Vận tải biển sẽ góp phần phản ánh các vấn đề liên quan đến sự chuẩn bị của Việt Nam trong việc tham gia các Hiệp định Thương mại mới này. Nhìn lại những vấn đề chính đã được đề cập trước đây tại Diễn đàn:

1. Sự phát triển của trung tâm trung chuyển quốc tế ở miền Nam Việt Nam 2. Các chi phí cảng biển 3. Giấy phép vận tải nội địa

Liên quan đến ba vấn đề cốt lõi trên là yêu cầu rõ ràng cho một kế hoạch phát triển, cải tiến mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông hiện tại một cách đồng bộ. Đây không phải là một khái niệm phức tạp. Cần lưu ý rằng sức mạnh của một chuỗi cung ứng được quyết định bởi chính những mắt xích yếu nhất. Để minh họa điểm này, chúng tôi xin đưa ra ví dụ nếu một cảng có trang thiết bị kỹ thuật tốt và nằm ở vị trí tốt nhất trên thế giới nhưng lại không được kết nối với đường bộ, hoặc đường sắt đến các khu công nghiệp xung quanh thì coi như cảng này không có giá trị sử dụng. Ở tầm ảnh hưởng lớn hơn, khả năng và hiệu suất xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa của đất nước đó cũng sẽ bị suy giảm và tốn nhiều chi phí.

Trên thế giới có rất nhiều ví dụ về sự tăng trưởng của GDP nằm trong một mối tương quan trực tiếp với lượng vốn đầu tư vào các kế hoạch phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông vận tải; điều đó có nghĩa là cần đầu tư đồng bộ vào cả đường bộ, đường sắt và hạ tầng cảng. Bên cạnh các khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo các thủ tục hải quan trong nước là công bằng, hợp lý và không cạnh tranh giữa các tỉnh thành, các sáng kiến về hải quan điện tử cần được thực hiện một cách hoàn toàn ngay khi có thể và khách hàng cần phải được cảm thấy thoải mái và tự do khi vận chuyển hàng hóa của mình đến bất cứ cảng nào họ muốn mà không phải lo ngại các vấn đề liên quan đến Hải quan. 2. Lời mở đầu Liên quan đến việc chuẩn bị và thực hiện Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (“TPP”), đứng từ góc độ của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực hạ tầng cảng, vận tải biển và nội địa, chúng tôi cho rằng Việt Nam đang ở một vị thế tuyệt vời để tận dụng được tối đa các lợi ích từ việc tham gia Hiệp định này. Với đường bờ biển dài, các cảng nước công ten nơ nước sâu (được đầu tư và xây dựng bởi cả các doanh nghiệp tư nhân và nhà nước) và vị trí thuận lợi trên tuyến đường vận chuyển chính, Việt Nam có tiềm năng để có thể tận dụng tối đa hiệp định thương mại khổng lồ này. Ngược lại, nếu các ngành công nghiệp cảng, vận tải biển và nội địa không có được cơ hội này, toàn bộ việc thực hiện Hiệp định TPP sẽ có rủi ro trong việc không tận dụng được hết tiềm năng của Hiệp định đồng thời trong trường hợp xấu nhất, chuỗi cung ứng, cả trong và ngoài Việt Nam, sẽ không thể đáp ứng được với nhu cầu ngày càng tăng của các doanh nghiệp.

Trang 1/3

Page 251: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Giải pháp để phát huy hết tiềm năng này nằm trong lãnh thổ Việt Nam, nằm trong thẩm quyền của nhà nước lẫn khả năng của khu vực doanh nghiệp. Việc giải quyết vấn đề này không phụ thuộc vào sự can thiệp của các nước khác cũng như không phụ thuộc vào các khoản đầu tư thêm hơn. Tất nhiên, một thực tế là các khoản đầu tư thêm cho các dự án cơ sở hạ tầng nhất định sẽ cần trong dài hạn, nhưng chúng ta có thể nói rằng trong một vài tháng tới với những nguồn lực sẵn sàng hiện tại, những bước tiến lớn có thể được thực hiện nếu như những quyết định đúng đắn được đưa ra một cách kịp thời. Tôi xin được nhắc lại những mối quan tâm chính của Tiểu nhóm Hạ tầng Cảng và Vận tải biển mà cần được giải quyết để Việt Nam có thể tận dụng tối đa lợi thế của Hiệp định TPP. 3. Phát triển Trung tâm trung chuyển quốc tế phía Nam Việt Nam Việt Nam có một cơ hội tuyệt vời để phát triển một trung tâm cảng công ten nơ khu vực cho quốc gia tại Cái Mép. Với việc kích cỡ tàu ngày càng trở nên lớn hơn (với tốc độ thậm chí nhanh hơn nếu như Việt Nam tham dự các hiệp định thương mại), để có thể thiết lập được quy mô cần thiết tại các cảng, một trung tâm trung chuyển quốc tế cần được phát triển. Kết quả trực tiếp của quy mô và sự phát triển này, trung tâm trung chuyển cho các hàng hóa nội địa của Việt Nam được tạo lập. Triển vọng của một trung tâm lớn mạnh trong khu vực sẽ hỗ trợ các nhà xuất nhập khẩu cho cả khu vực phía Bắc và phía Nam bằng cách giảm thời gian vận chuyển đến thị trường mục tiêu và giảm thời gian lưu kho một cách đáng kể. Đồng thời, cả chi phí vận chuyển tổng thể và chi phí trực tiếp cho các nhà xuất nhập khẩu cũng sẽ giảm. Việc phát triển trung tâm trung chuyển quốc tế, theo đó, sẽ có ảnh hưởng trực tiếp và tích cực đối với tất cả các ngành công nghiệp của Việt Nam và giúp tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của họ. Để đề xuất này trở thành hiện thực, Chính phủ cần đảm bảo rằng một quy hoạch phát triển cảng biển tổng thể, bền vững, thống nhất trên cả nước được thực hiện. Hay hiểu một cách đơn giản nhất, khi các tàu chở hàng ngày cảng trở nên to lớn lơn, cho dù Việt Nam có hoặc không có động thái trong vấn đề này, Việt Nam vẫn phải xây dựng các cảng biển đủ lớn về chiều dài cầu cảng, độ sâu luồng tại cảng và kích thước cần cẩu. Cái Mép là nơi hội tụ đầy đủ các tiêu chí trên và vì vậy sẽ đem đến các tác động tích cực ngay lập tức. Nếu thiếu sự tập trung phát triển, Hiệp định TPP sẽ không đạt được thành công như mong đợi. 4. Phí cảng biển Đã có rất nhiều thảo luận xoay quanh vấn đề phí cảng biển được áp lên các hãng tàu tại Việt Nam. Báo cáo này nhằm làm rõ một vấn đề quan trọng nếu giảm phí cảng biển cho mỗi lần tàu cập cảng tại Việt Nam, sẽ ngày càng có nhiều tàu hơn bắt đầu đến và cập cảng Việt Nam. Theo đó, đóng góp cho ngân sách quốc gia thực tế sẽ tăng lên. Như vậy, việc giảm phí cảng biển cho mỗi lần tàu cập cảng sẽ tăng các khoản thu của Chính phủ Việt Nam. Mức giảm 40% cho phí bảo đảm hàng hải, phí trọng tải và 50% cho phí hoa tiêu đã được áp dụng đối với tàu mẹ (>50,000D DWT) cập cảng trong khu vực Cái Mép – Thị Vải từ ngày 1/1/2012 theo Thông tư 41/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính.

Trang 2/3

Page 252: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Quyết định này được đón nhận nồng nhiệt bởi các công ty vận tải biển có tàu cập cảng Cái Mép – Thị Vải. Tuy nhiên, xin tiếp tục đề xuất một mức giảm ngay lập tức và cao hơn cho phí bảo đảm hàng hải và phí trọng tải đối với tất cả các loại tàu cập tất cả các cảng tại Việt Nam nhằm khuyến khích các hãng tàu có nhiều tàu cập cảng hơn nữa. Điều này ngay lập tức sẽ giúp tăng tính cạnh tranh của các cảng Việt Nam và vì vậy, sẽ thu hút nhiều doanh nghiệp và lượng hàng từ các trung tâm trung chuyển khác của Châu Á như Singapore và Hong Kong. 5. Giấy phép vận tải nội địa Thông báo gần đây cho phép 4 tàu treo cờ nước ngoài có thể vận chuyển công-ten-nơ rỗng và có hàng tới và từ các cảng Việt Nam với hiệu lực 6 tháng bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 được hoan nghênh và được nhìn nhận là một sự phát triển theo đúng hướng. Tuy nhiên, để duy trì tính ổn định cho hành trình vận chuyển, các hãng tàu cần thời gian hiệu lực dài hơn. Kết quả, Việt Nam sẽ tiếp tục đánh mất cơ hội nếu như thời hạn này không được nới rộng. Hơn nữa, việc chỉ cấp phép cho tối đa 4 tàu nước ngoài trong khi mỗi tuyến vận chuyển cần ít nhất 3 tàu vận hành đồng thời đã làm giảm tác dụng đầy ý nghĩa của việc cấp phép nói trên. Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển tiếp tục đề nghị nới rộng thời hạn hiệu lực của giấy phép vận tải nội địa đối với cả công ten nơ có hàng và công ten nơ rỗng với thời hạn tối thiểu 2 năm. Chúng tôi cũng đề nghị cấp phép cho hãng tàu thay vì cấp phép cho một số con tàu cụ thể. Cũng cần thiết cho phép các hãng tàu được vận chuyển công-ten-nơ từ một cảng Việt Nam đến một cảng khác, thay vì chỉ đơn giản cho phép một số lượng tàu cụ thể cho cả ngành. Nếu đề nghị kéo dài hiệu lực nói trên không được xem xét, việc phát triển cảng trung chuyển phía Nam sẽ bị chậm lại và thậm chí có thể đóng băng cả kế họach tổng thể này. Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều các hãng tàu địa phương vận hành các tàu nhỏ và nếu các công ty này có thể cung cấp các dịch vụ hiệu quả ở mức giá cạnh tranh, thị trường dành cho các doanh nghiệp này cũng sẽ mở rộng hơn khi trung tâm trung chuyển được triển khai. 6. Đề xuất của Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển

- Hỗ trợ các sáng kiến hiện tại đang được thực hiện để kết hợp, sáp nhập hai cảng nước sâu trở lên tại khu vực Cái Mép.

- Giảm phí cảng biển cho mỗi lần cập cảng của tất cả các loại tàu để tăng nguồn thu ngân sách cho Chính phủ

- Nới lỏng quy định pháp luật và tăng thời hạn hiệu lực của giấy phép vận tải nội địa nếu các công ty vận tải trong nước không thể cung cấp các dịch vụ hiệu quả ở mức giá cạnh tranh.

- Xây dựng và công bố các dự án cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải thiết yếu, đồng thời minh bạch các thông tin về mức đầu tư dự kiến trong 10 năm tới.

- Đảm bảo rằng các thủ tục hải quan là công bằng, hợp lý và không cạnh tranh giữa các tỉnh thành

- Đảm bảo rằng các tỉnh không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp công ten nơ hiện tại để từ đó đẩy mạnh cung/cầu tại khu vực Cái Mép Thị Vải vốn dĩ đã rất khốc liệt.

Trang 3/3

Page 253: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Chương V

NÔNG NGHIỆP

Page 254: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

NHÓM CÔNG TÁC NÔNG NGHIỆP BÁO CÁO TẠI DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ

TÓM TẮT BÁO CÁO

Nhận thức được tầm quan trọng ngày càng tăng của ngành nông nghiệp đến phát triển kinh tế bền vững và ổn định xã hội của Việt Nam, Nhóm Công tác Nông nghiệp - Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam ra đời vào tháng 2, 2014 sau cuộc hội thảo bàn tròn tại Tp. Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã có cuộc họp đầu tiên qua cầu truyền hình kết nối thành viên tại Hà Nội và Hồ Chí Minh vào ngày 4 tháng 4. Tiếp sau đó, Nhóm công tác đã có buổi làm việc trực tiếp với các đại diện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và Bộ Công thương vào ngày 20/5/2014 để thảo luận chi tiết các vấn đề được đề cập đến trong bản Báo cáo này. Chúng tôi rất vui mừng khi được biết hầu hết các đề xuất trong bảo Báo cáo được tiếp thu và ghi nhận để xem xét. Nhóm Công tác xin được gửi lời cảm ơn tới Tổ chức Tài chính Quốc tế (“IFC”) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (“VCCI”) vì những hỗ trợ quý báu và các cơ quan đã dành cho các thành viên của nhóm. Mục đích của Nhóm Công tác là thảo luận và đề xuất các giải pháp hiệu quả cho các vấn đề nổi cộm của ngành nông nghiệp với mục tiêu chính là thiết lập một diễn đàn, một kênh đối thoại để tiếp nhận và thông báo các thông tin về định hướng chính sách đồng thời trình bày các ý kiến, quan điểm của Nhóm nhằm tối đa hóa đóng góp của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đối với mục tiêu của Chính phủ trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân trong nông nghiệp để đẩy mạnh giá trị và duy trì sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam. Tất cả những điểm này là rất cần thiết cho sự chuẩn bị của Việt Nam khi tham gia vào các Hiệp định Thương mại Thế hệ mới – chủ để của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ lần này. Nhóm Công tác bao gồm đại diện của các công ty trong và ngoài nước, các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Với mục đích làm việc hiệu quả, chúng tôi xin đưa ra báo cáo cho bốn lĩnh vực được quan tâm nhất:

I. Tiếp cận thị trường II. Công nghệ

III. Quy chuẩn chất lượng, và IV. Thực thi chính sách

Các vấn đề chính sẽ được trình bày theo thứ tự nêu trên trong báo cáo này. Tiếp đó, Nhóm Công tác sẽ tiến hành thành lập các tiểu nhóm để xem xét các vấn đề quan trọng chính đã được vạch ra. Đầu tiên, vấn đề Tiếp cận thị trường Hạn chế trong tiếp cận thị trường có liên quan tới nhiều vấn đề và chúng tôi nhận thấy ba thị trường riêng biệt:

1. Tiếp cận thị trường trong nước đối với doanh nghiệp Việt Nam 2. Tiếp cận thị trường trong nước (Việt Nam) với doanh nghiệp nước ngoài, và 3. Tiếp cận thị trường nước ngoài cho các công ty trong nước

Trang 1/14

Page 255: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Mỗi thị trường này lại đối mặt với những khó khăn khác nhau từ tính đồng đều của sản phẩm và quản lý chất lượng, chuỗi cung ứng và nghiên cứu phát triển các công nghệ, cấp phép và hạn chế quyền lợi cho doanh nghiệp nước ngoài, thuế quan, thiếu quản lý chiến lược và kế hoạch sản xuất và cunng cấp, thiếu sự rõ ràng trong chính sách, và chiến lược thực hiện không thống nhất. Giải pháp thực hiện cần một chiến lược tiếp cận thị trường trong nước và nước ngoài rõ ràng và cởi mở hơn dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế. Thứ hai, vấn đề Công nghệ Chúng tôi đã xác định được 4 khó khăn trong lĩnh vực công nghệ phát triển nông nghiệp:

1. Thay đổi trong thủ tục đăng ký. 2. Khó khăn trong giới thiệu công nghệ mới. 3. Khả năng cạnh tranh và lựa chọn nguyên liệu nông nghiệp chất lượng cao. 4. Lựa chọn và áp dụng các công nghệ phù hợp với thị trường Việt Nam.

Các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực Công nghệ bao gồm lệnh cấm tạm thời về việc đăng ký các sản phẩm bảo vệ thực vật trong khi chờ Cục Bảo vệ Thực vật xem xét lại qui trình đăng ký, việc chuyển giao trách nhiệm và kiểm soát phân bón từ một Bộ sang Bộ khác, và việc tiếp tục xem xét lại thủ tục đăng ký hạt giống của Cục trồng trọt. Điều này làm giảm sự tự tin, tính minh bạch và khả năng dự đoán sự ra đời của các công nghệ mới trên thị trường. Có sự chậm trễ bất bình thường trong việc hoàn thiện khuôn khổ giới thiệu công nghệ mới do các vấn đề quan liêu trong quá trình phối hợp giữa các bộ ban ngành Chính phủ. Công nghệ được cải thiện và đăng ký bản quyền có thể cải thiện an toàn thực phẩm, giảm thiểu các sản phẩm giả trên thị trường, tăng năng suất và lợi nhuận trong khi giảm lượng khí thải carbon. Áp dụng các công nghệ nông nghiệp phù hợp với người nông dân Việt Nam, chủ yếu là các hộ gia đình, là thiết yếu để đẩy mạnh sản xuất. Trọng tâm quốc gia về các công nghệ phù hợp khả năng tài chính cho các hộ gia đình là rất quan trọng cho sự thay đổi trong sản xuất nông nghiệp. Thứ Ba, Vấn đề Quy chuẩn Chất lượng Các khó khăn, mối quan ngại chính:

1. Hạt giống cây trồng và gieo hạt, và 2. Hàng giả/sản phẩm nhái

Việt Nam là một trong những nước đi đầu trên thị trường xuất khẩu lúa gạo thế giới và có khối lượng gạo xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, nhận định và quan niệm của quốc tế về gạo Việt Nam là chất lượng thấp và không đồng đều, dẫn đến giá trị xuất khẩu gạo bị hạ thấp. Một trong những lý do chính là tình hình ngành công nghiệp hạt giống ở Việt Nam, với hơn 300 loại hạt giống lưu thông, trong đó phần lớn là hạt giống chất lượng thấp. Hiện có hơn 200 công ty cung cấp hạt giống trong nước, nhưng rất ít đơn vị trong đó có đủ nguồn lực để đầu tư nghiêm túc trong lĩnh vực này.

Trang 2/14

Page 256: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Liên quan đến vấn đề hàng giả/sản phẩm nhái, hiện tại có rất nhiều các nhãn hiệu dễ gây nhầm lẫn tại các cửa hàng bán lẻ, các sản phẩm có tên tương tự nhau (chỉ khác một chữ cái) khiến nông dân bị nhầm lẫn và mua các loại hàng hóa không đúng. Ngoài ra, việc hiện tại có một số lượng lớn các công ty trên thị trường dẫn tới việc kiểm soát lỏng lẻo trong quá trình đăng ký các sản phẩm mà không hợp lệ hoặc có chất lượng phù hợp. Hơn nữa, hiện tại chưa có chế tài xử lý hành vi xâm phạm sáng chế nên khi các công ty đăng ký được sản phẩm, họ thường mặc định là sáng chế sẽ không bị xâm phạm, nhưng thực tế Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thường không kiểm tra bản quyền (IP) của sản phẩm trước khi đăng ký.

Thứ tư và cuối cùng, vấn đề Thực thi Chính sách Nhóm Công tác đã xác định 7 vấn đề chính trong lĩnh vực này, đó là:

1. Vai trò của chính quyền địa phương và các hiệp hội ngành nghề 2. Tính tuân thủ 3. Các vướng mắc trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính 4. Nhiều quy định rải rác ở các văn bản 5. Mâu thuẫn giữa các văn bản 6. Hướng dẫn thi hành Luật và quy định 7. Các quy định pháp lý thiếu sự hợp lý (cụ thể cho các hàng tái nhập khẩu)

Nông nghiệp Việt Nam bị phân tán theo khu vực với các đặc tính khác nhau. Các chính sách của Chính phủ không phản ánh và giải quyết được thực sự các vấn đề chung và riêng của từng địa phương. Các hiệp hội ngành nghề không hiệu quả trong vai trò của mình là kết nối chặt chẽ các đơn vị, tổ chức hoạt động trong ngành. Các chính quyền địa phương nên có quyền tự chủ hơn trong việc điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với thực tế tại địa phương mình. Hơn nữa, rất nhiều các chính sách nông nghiệp còn mơ hồ, không có sự rõ ràng tạo cơ hội cho tham nhũng trong ngành. Kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm còn cồng kềnh và không hiệu quả. Mặt khác, có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật về các loại chất cấm sử dụng gây khó khăn cho các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp trong việc tuân thủ. Vì vậy, đề nghị cần phải có những văn bản tập trung và quy định rõ ràng, ví dụ như văn bản chung cấm sử dụng các hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong chăn nuôi, vv. Ngoài ra, không có các quy định hoặc quy chuẩn rõ ràng về chế biến thực phẩm, do đó kết quả là vấn đề an toàn thực phẩm không được đảm bảo. Cuối cùng, rất nhiều quy định pháp luật không hợp lý đang được thực thi gây khó khăn cho các doanh nghiệp, đồng thời dẫn đến việc hàng hóa xuất khẩu bị ách tắc, không giao hàng đúng hẹn hoặc các doanh nghiệp phải tốn nh iều chi phí lưu kho, vv.

Trang 3/14

Page 257: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Kết luận Nhóm Công tác Nông nghiệp, thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, mong muốn được làm việc chặt chẽ với các bộ ngành liên quan, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phái triển Nông thôn, Bộ Công thương và các cơ quan nhà nước khác để hỗ trợ Chính phủ trong việc xác định và triển khai các biện pháp hiệu quả nhằm giải quyết các vấn đề, khó khăn vướng mắc trong lĩnh vực nông nghiệp để giúp Việt Nam giải phóng tiềm năng trong lĩnh vực nông nghiệp. ___________________________________________________________________ Sau đây, Nhóm Công tác Nông nghiệp xin đưa ra các thông tin chi tiết cùng các đề xuất cho bốn vấn đề nêu trên. Thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, các thành viên của Nhóm kính mong Chính phủ sẽ tạo cơ hội cho Nhóm được nêu lên các cơ hội và thách thức trong lĩnh vực nông nghiệp, một ngành công nghiệp quan trọng và lớn nhất của Việt Nam.

Trang 4/14

Page 258: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 I. Tiếp cận Thị trường Tiếp cận thị trường là khả năng tiếp cận thị trường của các sản phẩm của các công ty nông nghiệp và thực phẩm. Những sản phẩm này có thể là sản phẩm tươi hoặc chế biến sẵn. Các doanh nghiệp này có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài. Tiếp cận đề cập đến khả năng tiếp cận thị trường Việt Nam của các công ty nông nghiệp nước ngoài cũng như khả năng tiếp cập của doanh nghiệp Việt Nam tới thị trường trong và ngoài nước. Nhóm Công tác Nông nghiệp sẽ tập trung nói về chính sách hỗ trợ tiếp cận thị trường. Các vấn đề chính Hạn chế trong tiếp cận thị trường có liên quan tới nhiều vấn đề - đa số các vấn đề này là liên quan tới nhiều ban ngành, lĩnh vực Tiếp cận thị trường trong nước với doanh nghiệp Việt Nam

1. Chất lượng và tính đồng đều của sản phẩm 2. Nguyên liệu đầu vào, Công nghệ trong Quy trình chế biến và chuỗi cung ứng công nghệ

để cải thiện chất lượng và đồng đều về chất lượng. 3. Nghiên cứu phát triển các công nghệ “in-house” để phát triển sản phẩm công ty 4. Năng lực quản trị để giám sát và phát triển đội ngũ cũng như chất lượng sản phẩm 5. Không nhất quán trong phát triển và triển khai các chính sách của chính phủ

Tiếp cận thị trường trong nước (Việt Nam) với doanh nghiệp nước ngoài

1. Những giới hạn trong cấp phép và hạn chế quyền lợi đối với doanh nghiệp nước ngoài là rào cản gia nhập chính

2. Rào cản thuế quan, phi thuế quan và kiểm soát hải quan 3. Phát triển, áp dụng chính sách không nhất quán/rõ ràng

Tiếp cận thị trường nước ngoài cho các công ty trong nước

1. Nhu cầu thị trường là gì: hiểu biết còn hạn chế - yếu tố quyết định nguồn cungtrên thị trường.

2. Dự đoán các thị trường. 3. Thông tin thị trường và thông tin tình báo/nội bộ trên thị trường 4. Làm thế nào để thu hút nhiều khách hàng hơn và đa dạng hóa sản phẩm? 5. 5 vấn đề chính là làm thế nào để thay đổi phong cách quản lý/thông qua và áp dụng

công nghệ mới/nắm bắt chiến lược tiếp thị hiệu quả 6. Quản lý chất lượng đồng đều trong sản xuất và chế biến 7. Sự không đồng đều dẫn đến suy giảm chất lượng theo thời gian 8. Ví dụ: nuôi trồng thủy sản- sản xuất thịt phile đồng đều nhưng không tính đến giá trị gia

tăng trong quá trình sản xuất thêm, tiếp cận thị trường bị hạn chế. 9. Sản xuất quá nhiều sản phẩm giống nhau – nhiều ví dụ như 'chạy đua sản xuất cùng một

sản phẩm ", tất cả đều là sản phẩm ở cuối chuỗi giá trị - thanh long/cà phê Robusta/cá ba sa/

10. Cầu quyết định thị trường - Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp địa phương Kết quả là xảy ra cuộc cạnh tranh ở cuối đáy của thị trường - và không ngừng tự hạn chế cơ hội tiếp cận thị trường của mình. Lợi thế trở thành một bất lợi vĩnh viễn. Giải pháp bao gồm một chiến lược tiếp cận thị trường trong nước và quốc tếrõ ràng hơn dựa trên chuẩn mực quốc tế, được hỗ trợ bởi:

Trang 5/14

Page 259: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

1. Chính sách được giảm thiểu và hợp lý hơn, giảm bớt những rào cản tiếp cận thị trường trong các quy định của chính phủ; thực sự mở cửa với công nghệ và đầu tư nước ngoài để khôi phục ngành nông nghiệp và đảm bảo được chuẩn hoá với chuẩn quốc tế; và

2. Thực hiện đồng đều các chính sách tiến bộ, hợp lý – dự đoán lợi ích lâu dài cho hàng triệu nhà sản xuất. Nền kinh tế nông thôn lành mạnh hơn; Doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh hơn; và công nghệ và quy tắc thực hiện theo chuẩn thế giới ở Việt Nam.

II. Công nghệ trong phát triển Nông nghiệp

1. Thay đổi trong thủ tục đăng ký

Bối cảnh - Việc đăng ký các sản phẩm bảo vệ thực vật hiện bị cấm tạm thời cho đến quý 1 năm 2015

do thủ tục đăng ký đang được Cục Bảo vệ Thực vật xem xét lại. - Việc đăng ký và kiểm soát phân bón đã được chuyển giao cho Bộ Công thương (MOIT) từ Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) theo Nghị định 202/2013/NĐ-CP tháng 11 năm 2013. Kết quả là các thủ tục đã được thay đổi. Hiện tại Công ty muốn đăng ký công thức phân bón mới không chịu hướng dẫn điều chỉnh nào.

- Việc đăng ký hạt giống đang được Cục Trồng trọt (CPD) xem xét, những thay đối khả thi trong thủ tục đăng ký hiện chưa rõ.

Vấn đề - Việc giới thiệu công nghệ / sản phẩm mới cho kịp thời gian là không khả thi và sẽ mất một

năm - Các công ty giảm đầu tư là do tình hình khó nhìn nhận và dự đoán

Đề xuất - Hướng dẫn cùng quy trình thực hiện mới nên được phát hành cùng thời gian với lúc công bố

thay đổi/nghị định - Giới thiệu quá trình tham vấn chính thức, khi thay đổi lớn được lên kế hoạch, giữa các công

ty và nhà chức trách để đảm bảo quá trình chuyển đổi diễn ra thuận lợi. - Đảm bảo khung đăng ký mới sẽ tạo thuận lợi và đẩy nhanh quá trình giới thiệu công nghệ

mới

2. Khó khăn trong giới thiệu công nghệ mới Bối cảnh - Giới thiệu công nghệ mới ví dụ như hạt giống GM, sinh phẩm y tế và các sản phẩm liên quan

cần phải có sự phát triển của khung pháp lý và quản trị thích hợp. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ trong và liên Bộ ngành, Cơ quan chính phủ có liên quan và thường tốn nhiều thời gian.

Vấn đề - Sự chậm trễ trong việc hoàn thiện khung pháp lý để giới thiệu công nghệ mới là do các vấn

đề quan liêu trong phối hợp giữa các cơ quan chức năng của chính phủ. Thời hạn hoàn thiện bị hoãn lại.

- Công ty không có ý tưởng rõ ràng về kế hoạch giới thiệu sản phẩm mới, cũng như đánh giá khả năng thương mại và kỹ thuật tại Việt Nam

Trang 6/14

Page 260: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Đề xuất - Tiến hành rà soát và hoàn thiện các thủ tục để giới thiệu công nghệ mới qua sự phối hợp kịp

thời giữa các cơ quan chức năng và hợp tác với các nhà công nghiệp chủ chốt trong việc phát triển các quy định để giới thiệu công nghệ mới.

3. Khả năng cạnh tranh và lựa chọn nguyên liệu nông nghiệp chất lượng cao Bối cảnh Một báo cáo gần đây đã chỉ ra rằng 50% phân bón thử được thử nghiệm ngẫu nhiên bởi các cơ quan có thẩm quyền không đủ tiêu chuẩn và tổn thất gây ra cho nên kinh tế ước tính khoảng 800 triệu đô. Ngoài ra chúng ta còn thấy sự gia tăng đáng kể của các sản phẩm giả mạo, gây hiểu lầm cho người trồng trọt và dẫn đến phát triển sản xuất hàng giả. Đồng thời, nhận thức và yêu cầu người dùng về nguồn gốc hàng hoá và an toàn thực phẩm ngày càng tăng. Báo cáo mới nhất của Uỷ ban chuyên trách về Cà phê Việt Nam chỉ ra rằng nguyên liệu nhập khẩu chất lượng cao kết hợp với một vài yếu tố khác có thể tăng năng suất và lợi nhuận tới 10% đồng thời giảm lượng khí thải carbon 50%. Thiếu hụt cơ sở hạ tầng đầy đủ chất lượng gây cản trở áp dụng công nghệ tiên tiến hơn để sản xuất sản phẩm tốt hơn, kìm hãm khả năng cạnh tranh xuất khẩu. Vấn đề - Thiếu các hoạt động quản lý đảm bảo việc sử dụng an toàn, thích hợp của nguyên liệu đầu

vào. Nguyên liệu đầu vào có chất lượng kém được phân phối cho nông dân dẫn đến vấn đề về môi trường và an toàn.

- Nguyên liệu đầu vào có chất lượng tốt nhưng với giá cả không phù hợp khiến người nông dân không thể cạnh tranh với các công ty gian lận công thức và/hoặc không áp dụng thuế GTGT

- Nguyên liệu đầu vào cho phân phức hợp NPK có chất lượng tốt /thân thiện với môi trường chịu thuế 6% khiến sản phẩm có giá quá cao với nông dân và khiến nông dân phải sử dụng các sản phẩm giả mạo. Điều này dẫn đến việc giảm năng suất của nông dân theo thời gian và quá trình axit hóa đất.

- Sử dụng tăng cường các sản phẩm bảo vệ thực vật kém chất lượng gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng, đất và sức khỏe con người. Dẫn đến khả năng phải sử dụng lượng phân bón nhiều hơn trong khi Việt Nam đã là một trong những nước tiêu dùng phân bón cao nhất tính theo đơn vị trên mỗi hecta.

- Thiếu cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm thử nghiệm đủ chất lượng và đầu tư từ bên ngoài khiến chúng ta không nhận ra lợi ích của việc sử dụng công nghệ tiên tiến hơn.

Đề xuất - Tăng cường biện pháp bảo vệ IP bằng việc ban hành các biện pháp xử pháp nghiêm khắc đối

với hàng giả và thực thi trên thị trường. Giảm tham nhũng ở cấp địa phương và quản lý chặt hơn việc mở cửa và giải thể những doanh nghiệp nhỏ.

- Yêu cầu về IP phải được đưa vào khung đăng ký để đảm bảo bảo vệ IP ngay từ thời điểm đăng ký

Trang 7/14

Page 261: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Tiến hành các chương trình giáo dục để thúc đẩy việc cân bằng dinh dưỡng, giao thức sử

dụng sản phẩm thích hợp để hạn chế sử dụng nguyên liệu đầu vào quá nhiều. - Tận dụng các phương tiện thông tin đại chúng của chính phủ để cảnh báo rủi ro cho nền

kinh tế, nông dân và công chúng nếu nông dân sử dụng các ngyên liệu đầu vào giả hoặc kém chất lượng.

- Đảm bảo thực hiện các chương trình quản lý bắt buộc trong tất cả các công ty để đào tạo sử dụng sản phẩm bảo vệ thực vật an toàn và xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ công tác quản lý.

- Mã HS cho sản phẩm phân bón NPK nên được quy định khác nhau dựa trên công nghệ sử dụng (pha trộn nitrat với phân bón nitrat)

- Thực hiện rà soát chặt chẽ việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, và thi hành loại bỏ các thương hiệu, biểu tượng, hình ảnh nhái theo.

- Chính sách khuyến khích đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng đủ chất lượng để kiểm tra, giám sát chất lượng và sản lượng nông nghiệp.

4. Lựa chọn và áp dụng các công nghệ phù hợp với thị trường Việt Nam Bối cảnh - Việc áp dụng công nghệ nông nghiệp phải phù hợp với nông dân Việt Nam (chủ yếu là hộ gia

đình) là yếu tố quan trọng quyết định năng suất. Tập trung vào phát triển công nghệ với giá cả phải chăng cho các hộ tiểu nông là một bước quan trọng cho thay đổi trong sản xuất nông nghiệp.

Vấn đề - Sẽ là không hiệu quả nếu công nghệ không phù hợp với hình thức chăn nuôi nông hộ đang

được áp dụng. - Đầu tư lớn cho các công nghệ không phù hợp sẽ dẫn đến thực hiện kém. Đề xuất - Tham vấn và hợp tác hiệu quả để giúp lựa chọn và sử dụng các công nghệ thích hợp - Biện pháp chính sách để khuyến khích tập trung vào các công nghệ phù hợp với địa phương. III. Tiêu chuẩn chất lượng

1. Giống cây trồng/Gieo hạt Bối cảnh Việt Nam là một trong những nước đi đầu trên thị trường xuất khẩu lúa gạo thế giới và có khối lượng gạo xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, khối lượng lớn lại không đảm bảo giá trị xuất khẩu cao do quan niệm về chất lượng thấp và không đồng đều của thị trường toàn cầu về gạo Việt Nam. Một trong những lý do chính là do tình hình ngành công nghiệp hạt giống ở Việt Nam, với hơn 300 loại hạt giống lưu thông, trong đó phần lớn là hạt giống chất lượng thấp. Hiện có hơn 200 công ty hạt giống trong nước, nhưng rất ít đơn vị trong đó có đủ nguồn lực để đầu tư nghiêm túc trong lĩnh vực này.

Trang 8/14

Page 262: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Biểu đồ 1: Tỷ lệ các loại gạo Việt Nam xuất khẩu Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa là do không có quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu. Để có quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu, cần phải có sự phối hợp giữa Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp. Theo đó, Bộ Công thương cần tiến hành nghiên cứu thị trường, đánh giá nhu cầu trong nước và quốc tế để lên kế hoạch đặt hàng Bộ Nông nghiệp loại gạo (dài, ngắn, thơm,vv), sản lượng bao nhiêu tấn/vụ hoặc năm (không cần thiết phải đặt hàng cụ thể Giống lúa nào do có vài trăm giống). Trên cơ sở này, Bộ Nông nghiệp có thể dễ dàng quản lý, lên kế hoạch quy vùng, tổ chức sản xuất các giống có cùng tiêu chuẩn LOAI GẠO. Tuy nhiên hiện tại, Bộ Nông nghiệp chưa có quy hoạch vùng để sản xuất nguyên liệu cho xuất khẩu do đang thiếu các thông tin về nhu cầu thị trường. Vấn đề - Tỷ lệ sử dụng hạt giống cho mục đích thương mại thấp (~ 30% đối với hạt giống lúa thông

thường, ~ 40-50% đối với các loại rau và trái cây); phần lớn nông dân tái sử dụng hạt giống họ tiết kiệm được từ vụ trước, dẫn đến năng suất thấp, sức đề kháng chống bệnh thấp, dẫn đến giá trị kinh tế thấp.

- Những hạn chế và thiếu sự đầu tư cho hoạt động Nghiên cứu và Phát triển dẫn đến chỉ có một số lượng giới hạn loại hạt giống có thể thích ứng với khí hậu khác nhau trên đất nước và các loại hạt giống này thường bị phân huỷ nhanh. Ngoài ra, tình hình hiện nay là có quá nhiều hạt giống được công nhận và sử dụng, dẫn đến sự không thống nhất về chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Ví dụ, Thái Lan chỉ sử dụng 5-6 giống, trong khi Việt Nam có tới 300, với hơn hàng chục loại hạt giống mới được công nhận mỗi năm.

- Sự kém hiệu quả trong cơ chế thị trường hạt giống do chính sách trợ cấp. Chính quyền địa phương tận dụng các chương trình trợ cấp để hỗ trợ phát triển các loại hạt giống chất lượng và hiệu quả thấp đồng thời không phù hợp với điều kiện thời tiết địa phương. Nông dân, do phải chịu áp lực về tài chính, hoặc bị ảnh hưởng bởi cấu trúc và quy hoạch cây trồng và giống cây trồng của chính quyền địa phương, nên cuối cùng vẫn phải sử dụng hạt giống chất lượng thấp.

- Thiếu sự phối hợp và liên kết trong chuỗi giá trị. Đối với nhiều sản phẩm, cung không đáp ứng đủ cầu; trong khi đối với những sản phẩm khác lại không có thị trường cho các sản phẩm chất lượng cao. Các nhân tố tham gia chuỗi sản xuất như HẠT GIỐNG - SẢN XUẤT - CHẾ BIẾN - TIÊU THỤ không được liên kết với nhau. Kết quả là tồn tại nhiều loại hạt giống không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.

- Tình trạng quan liêu trong thủ tục công nhận các hạt giống mới tốn rất nhiều thời gian cho thủ tục hành chính và thiếu sự giám sát của các tổ chức khoa học. Hậu quả là khi hạt giống được công nhận cho việc sử dụng thương mại thì không còn bắt kịp với nhu cầu thị trường nữa.

Trang 9/14

Page 263: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Trồng trọt không tập trung và bị phân tán (do chính sách sở hữu đất đai hiện hành) dẫn

đến khó khăn trong việc áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp và ngành công nghiệp hạt giống.

- Nguồn nhân lực - chất lượng của nguồn nhân lực trong nông nghiệp không cao do thiếu chính sách đãi ngộ tốt. Chưa có cơ chế để thu hút nhân tài và có sự thiếu hụt về các chuyên gia hàng đầu.

Đề xuất - Cải cách thủ tục hành chính trong quá trình công nhận hạt giống mới; và nâng cao năng lực

của các tổ chức giám sát khoa học, để đảm bảo các giống mới vượt trội hơn so với những hạt giống hiện có, và tránh hạt giống chất lượng thấp được sử dụng rộng rãi.

- Loại bỏ thực trạng hối lộ ở cấp chính quyền địa phương, cho phép nông dân sử dụng giống theo nhu cầu nông nghiệp và nhu cầu thị trường, thay vì sử dụng các giống được lựa chọn theo cơ cấu cây trồng của chính quyền địa phương nhưng không phải theo định hướng thị trường.

- Tăng cường đầu tư vào hoạt động Nghiên cứu và Phát triển để áp dụng công nghệ, hạn chế việc giới thiệu và lưu thông hạt giống chất lượng kém và không phù hợp với nhu cầu thị trường.

- Thiết lập một cơ chế trao đổi thông tin chặt chẽ giữa các phân đoạn khác nhau trong chuỗi giá trị sản xuất để nông dân hiểu và đáp ứng nhu cầu thị trường một cách hiệu quả, giảm vai trò của các bên trung gian/thương lái (những người tận dụng sự thiếu thông tin của nông dân nhằm mục đích trục lợi)

- Phát triển các chính sách đất nông nghiệp để khuyến khích tập hợp đất; từ đó khuyến khích đầu tư dài hạn trong đất canh tác và ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất.

- Tập trung hơn vào hợp tác và chuyển giao công nghệ quốc tế, cùng tăng cường đầu tư trong chính sách nguồn nhân lực, có thể ngay từ giai đoạn dạy nghề.

2. Hàng nhái/Hàng giả

Bối cảnh Đối với Chính phủ Việt Nam, việc đảm bảo đời sống cho người nông dân là vấn đề thiết yếu. Để đảm bảo điều này, vấn đề quan trọng là các quy tắc và quy định được ban hành và thi hành nhằm bảo vệ người tiêu dùng/đối tượng áp dụng và tạo điều kiện cho người nông dân xuất khẩu sản phẩm của họ.

Vấn đề - Các nhãn hiệu gây nhầm lẫn tại các cửa hàng bán lẻ, các sản phẩm có tên tương tự nhau (chỉ

khác một chữ cái) làm người nông dân cho rằng đó là sản phẩm khác, dẫn tới việc lạm dụng hàng nhái và gây nên các vấn đề về kháng thuốc.

- Hiện tại có một số lượng lớn các công ty trên thị trường dẫn tới việc kiểm soát lỏng lẻo trong quá trình đăng ký các sản phẩm.

- Chưa có chế tài xử lý hành vi xâm phạm sáng chế nên khi các công ty đăng ký được sản phẩm, họ thường mặc định là sáng chế sẽ không bị xâm phạm, nhưng thực tế Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn không kiểm tra bản quyền (IP) của sản phẩm.

Đề xuất - Cần có sự phối hợp giữa quá trình đăng ký và kiểm tra sở hữu trí tuệ để đảm bảo ngay từ

đầu rằng các sản phẩm được đăng ký không vi phạm sở hữu trí tuệ. - Đảm bảo dấu hiệu phân biệt phù hợp của các thương hiệu.

Trang 10/14

Page 264: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Cương quyết xử lý vi phạm hàng nhái và các sản phẩm vi phạm sở hữu trí tuệ ở cấp tỉnh. - Kiểm soát hồ sơ chặt chẽ hơn. - Bộ Nông nghiệp không cho đăng ký các sản phẩm hàng GENERIC (thuốc được sản xuất khi

quyền sở hữu công nghiệp của biệt dược đã hết hạn) có ít nhất 2 CHỮ CÁI ĐẦU CỦA TÊN SẢN PHẨM trùng với tên sản phẩm của cơ quan tác giả vì dễ gây cho người tiêu dùng nhầm lẫn tổn hại đến uy tin của Cơ quan tác giả và thiệt hại cho người dân.

IV. Thực hiện chính sách 1. Vai trò của chính quyền địa phương và các hiệp hội ngành nghề

Bối cảnh - Nông nghiệp Việt Nam bị phân tán theo khu vực với các đặc tính khác nhau. Các chính sách

của Chính phủ không phản ánh và giải quyết được thực sự các vấn đề chung và riêng của từng địa phương.

- Sự hoạt động của các hiệp hội ngành trong vai trò duy trì cầu nối giữa các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức trong ngành vẫn còn thiếu hiệu quả.

Vấn đề - Có nhiều khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện các chính sách trên thực tế, nên gốc

rễ của các vấn đề không được giải quyết một cách toàn diện. - Xung đột lợi ích xảy ra do sự thiếu hợp tác giữa các bên. - Phát triển tự phát trong ngành dẫn đến cung và cầu không cân bằng, gây mất ổn định và

thiệt hại cho cho tài sản của các bên liên quan. - Ngành nông nghiệp trong nước không được bảo hộ một cách đầy đủ trước sức ép từ cạnh

tranh quốc tế. Đề xuất - Chính quyền địa phương nên có quyền tự chủ hơn trong việc điều chỉnh các chính sách cho

phù hợp với thực tế tại địa phương mình. - Nên có quy định là trong bao nhiêu ngày thì chính quyền địa phương phải có hướng dẫn

chính thức để thực hiện các chính sách do cấp cao hơn của chính quyền đề ra. - Các hiệp hội ngành nghề nên được phân công trách nhiệm cụ thể để giúp trong việc thực

thi.

2. Tuân thủ Bối cảnh - Thực tế, nhiều chính sách trong nông nghiệp còn mơ hồ trong cách hiểu, diễn giải và triển

khai thực hiện. - Nhiều chính sách được thực hiện trên cơ sở chỉ khuyến khích mà không có bất kỳ nghĩa vụ

cụ thể nào. Vấn đề - Các bên thực hiện chính sách có thể lợi dụng lợi thế của những điểm mơ hồ, không rõ ràng

của các chính sách này để được hưởng lợi, từ đó có thể dẫn đến tham nhũng. - Do thiếu minh bạch, lợi ích từ các chính sách khuyến khích này có thể chuyển sang cho các

đối tượng mà các chính sách không hướng tới, khiến lãng phí nguồn lực và không hiệu quả.

Trang 11/14

Page 265: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Đề xuất - Các chính quyền địa phương có trách nhiệm hướng dẫn về cụ thể các chính sách để tránh sự

mơ hồ, không rõ ràng và thiếu minh bạch. 3. Các vướng mắc trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính Bối cảnh - Thông tư 128/2013/TT-BTC quy định việc kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với sản

phẩm (có nguồn gốc) thực vật, động vật phải thực hiện tại cửa khẩu theo các thủ tục nhất định.

Vấn đề - Các địa điểm kiểm tra quy định bất hợp lý, gây ách tắc hàng hóa, mất nhiều thời gian.

Đề xuất - Kính đề nghị xem xét sửa đổi Thông tư 128/2013/TT-BTC để cho phép các doanh nghiệp

được đưa thực phẩm đông lạnh nhập khẩu về kho bảo quản của doanh nghiệp để thực hiện việc kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm theo quy định hiện hành thay vì kiểm tra tại cảng/cửa khẩu.

4. Nhiều quy định rải rác ở các văn bản

Bối cảnh Quy định về các loại hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong thức ăn chăn nuôi hiện được nêu ở rất nhiều văn bản, ví dụ: - Điều 7 Thông tư số 57/2012/TT-BNNPTNT ngày 7/11/2012 quy định việc kiểm tra, giám sát

và xử lý vi phạm các chất cấm thuộc nhóm Beta-agonist trong chăn nuôi - Thông tư số 61 /2011/TT-BNNPTNT ngày 12/9/2011 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cơ

sở sản xuất Thức ăn chăn nuôi. - Thông tư số 81 /2009/TT-BNNPTNT ngày 25/12/2009 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

lĩnh vực Thức ăn chăn nuôi (4 quy chuẩn kỹ thuật), Quyết định 3762/QĐ-BNN-CN ngày 28/11/2008 về việc quản lý chất Melamine trong chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản, vv;

Vấn đề - Hiện tại có quá nhiều văn bản quy định chất cấm khiến các cơ quan quản lý và các doanh

nghiệp khó tra cứu, cập nhật và nắm được thông tin một cách đầy đủ.

Đề xuất - Kính đề nghị có một quy định tập trung, thống nhất tất cả các loại hóa chất, kháng sinh cấm

sử dụng trong thức ăn chăn nuôi để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp áp dụng.

5. Mâu thuẫn giữa các văn bản

Bối cảnh Theo quy định tại Quyết định số 45/2005/QĐ-BNN Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có chức năng kiểm dịch đối với "Sữa tươi, sữa chua, bơ, pho mát, sữa hộp, sữa bánh và các sản phẩm từ sữa".

Trang 12/14

Page 266: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Theo Điều 63, 64 Luật An toàn thực phẩm thì Bộ Nông nghiệp chỉ quản lý an toàn thực phẩm đối với sữa tươi nguyên liệu; Bộ Công thương quản lý về sữa chế biến. Vấn đề Hiện nay không rõ đơn vị nào kiểm dịch về sữa chế biến, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi xuất khẩu (vì không có chứng nhận kiểm dịch đúng thẩm quyền thì không thể xuất khẩu).

Đề xuất - Kính đề nghị có văn bản hướng dẫn cụ thể, phân định rõ trách nhiệm kiểm dịch trong

trường hợp này. - Đề nghị các sản phẩm gần giống nhau nên nằm dưới sự chủ quản của một bộ để tạo điều

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. 6. Hướng dẫn thi hành Luật và quy định (Luật và quy đinh chỉ đề cập tới khung quy định,

thiếu hướng dẫn cho quá trình thực thi, gây khó khăn cho các doanh nghiệp)

Bối cảnh - Luật An toàn thực phẩm (Điều 19) quy định cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm phải đáp

ứng các điều kiện kinh doanh theo quy chuẩn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quy định.

- Tuy nhiên, hiện tại chưa có quy định nào của Bộ về các quy chuẩn này. Vấn đề - Các cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm rất dễ bị coi là không đạt điều kiện (do không có quy

chuẩn/tiêu chuẩn rõ ràng)

Đề xuất - Kính đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành văn bản quy định cụ thể về

quy chuẩn điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm đối với từng loại cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm làm căn cứ cho việc áp dụng

7. Các quy định pháp lý thiếu sự hợp lý

Bối cảnh - Thông tư 219/2013/TT-BTC hướng dẫn Luật Thuế giá trị gia tăng (“GTGT”), Nghị định

209/2013/NĐ-CP không xếp hàng tái nhập do bị trả lại vào diện miễn thuế GTGT Vấn đề - Đối với hàng xuất khẩu bị trả về (với nhiều nguyên nhân: có thể do khách hàng không thanh

toán nên doanh nghiệp phải thu hồi hàng, hoặc do những rào cản phát sinh khiến doanh nghiệp phải thu hồi hàng về, có thể do một số lỗi về kỹ thuật bao bì, chất lượng, vv), rất nhiều doanh nghiệp phải chịu nhiều tổn thất về chi phí vận chuyển hai chiều rất lớn, cộng với việc tồn đọng vốn, nếu không tái xuất được thì doanh nghiệp càng tổn thất nặng hơn.

- Do đó, khi hàng hóa bị trả về, nếu doanh nghiệp còn phải đóng thuế GTGT thì càng gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp về vốn.

- Đây là vấn đề mà ngành thủy sản của Việt Nam thường xuyên gặp phải; do đó, việc quy định như hiện tại gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành.

- Thông tư 48/2013/TT-BNNPTNT quy định về kiểm tra, chứng nhận an toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu.

Trang 13/14

Page 267: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Chính phủ đã áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn sự gian lận trong thuế VAT và nhận

được sự hoan nghênh của các công ty xuất khẩu tại Việt Nam. Tuy nhiên cần làm rõ các qui định về sản phẩm nông sản mới qua sơ chế thông thường không phải đối tượng kê khai và nộp thuế VAT.

Đề xuất - Bổ sung “hàng xuất khẩu bị trả về” vào danh mục các loại hàng hóa không phải chịu thuế

GTGT vào Thông tư 219/2013/TT-BTC. - Sửa đổi Thông tư 48/2013/TT-BNNPTNT (đặc biệt về checklist, tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra, trách

nhiệm trả phí…) - Ban hành các hướng dẫn cụ thể để phân loại các sản phẩm nông sản không thuộc đối tượng

kê khai và nộp thuế VAT, bằng việc ban hành danh mục các mặt hàng nông sản mới qua sơ chế thông thường.

Trang 14/14

Page 268: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Chương VI

DU LỊCH

Page 269: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO LĨNH VỰC DU LỊCH, KHÁCH SẠN VÀ NHÀ HÀNG

Chuẩn bị bởi Nhóm Công tác Du lịch

Tổng quan Trong năm 2013, ngành Du lịch và Lữ hành Việt Nam đã đóng góp trực tiếp 149.754 tỷ đồng vào tổng GDP của cả nước (tương đương 4,6% GDP) và dự đoán sẽ tăng lên khoảng 8,9% tức là lên đến 163.034 tỷ đồng vào năm 2014. Đóng góp trực tiếp của ngành được hy vọng sẽ tăng khoảng 6,3%/năm đạt mức 299.846 tỷ đồng (tương đương 4,7% GDP) vào năm 2024.1 Tổng giá trị đóng góp vào GDP của ngành Du lịch & Lữ hành là 311.117 tỷ đồng (tương đương 9,6% GDP) trong năm 2013 và hy vọng sẽ đạt được mức tăng trưởng 8,9% lên mức 338.660 tỉ đồng (tương đương 9,9% GDP) vào năm 2014. Dự kiến đến năm 2024, tổng giá trị đóng góp sẽ tăng 6%/năm đạt mức 607.858 tỉ đồng (tương đương 9,6% GDP). Cũng trong năm 2013, ngành này đã tạo ra 1.899.000 việc làm (chiếm 3,7% tổng số lao động) và thu hút khoảng 81.987 tỷ đồng nguồn vốn đầu tư trực tiếp. Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thông qua việc thành lập Hội đồng Tư vấn Du lịch nhờ một phần nguồn vốn tài trợ của Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (“ESRT”). Hội đồng đã đi vào hoạt động và có những buổi họp mặt thường xuyên. Trong 4 tháng đầu năm 2014, số lượng khách du lịch đến Việt Nam đã tăng 27% so với cùng kì năm ngoái, đặc biệt là khách du lịch từ Trung Quốc, HongKong (tăng 47% lên 804,134 khách) thường đến những bãi biển miền Trung; khách du lịch Nga thì thường đến Cam Ranh hoặc Phú Quốc; và các khách du lịch đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc. Mặc dù chưa có bằng chứng xác thực nào nhưng chúng tôi tin rằng sự gia tăng này một phần vì lượng khách du lịch đến Thái Lan giảm mạnh do khủng hoảng chính trị ở đất nước này. Tuy nhiên, sự kiện đáng tiếc gần đây liên quan đến vấn đề Biển Đông đã gây tác động tiêu cực đến lượng du khách bao gồm cả khách du lịch và doanh nghiệp, khách sạn trên khắp đất nước bị hủy đặt phòng nhiều từ các nhóm du lịch, khách du lịch kết hợp hội thảo, hội nghị và khách du lịch đơn lẻ vì lý do an toàn. Kết quả khảo sát nhanh trong các thành viên Nhóm Công tác sẽ được chia sẻ tại phần đầu tiên của Báo cáo như dưới đây. Phú Quốc hiện giờ là cửa ngõ quốc tế và có chính sách cấp thị thực ngay tại cửa khẩu mà hoạt động hiệu quả và thành công thực sự. Các cơ quan chức năng cũng đã bắt đầu giải quyết các vấn đề an toàn mà đã được Nhóm kiến nghị trước đây với sự ra đời của Lực lượng Cảnh sát Du lịch ở rất nhiều địa điểm du lịch lớn và đường dây nóng để giúp đỡ và tiếp nhận ý kiến của khách du lịch. Nạn taxi lừa đảo giờ cũng được điều tra, đưa vào hệ thống và đồng thời hàng loạt các văn phòng du lịch được xây dựng ở các thành phố lớn.

1 Nguồn: http://www.wttc.org/site_media/uploads/downloads/vietnam2014.pdf

Trang 1/11

Page 270: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Mặc dù đã có những tiến triển rõ ràng, Nhóm Công tác tin rằng Việt Nam đang đánh mất các cơ hội để tăng lượng khách du lịch một cách đáng kể và để đạt được điều này, dưới đây Nhóm công tác xin thảo luận một số vấn đề đồng thời đưa ra các kiện nghị và giải pháp đề xuất: 1. Ảnh hưởng của các sự kiện đáng tiếc gần đây lên ngành du lịch và khách sạn Như đã đề cập ở trên, các sự kiện đáng tiếc gần đây đã nhận được sự chú ý không chỉ tại Việt Nam mà cả trên thế giới, vì vậy, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên số lượng khách du lịch đến Việt Nam từ tháng 5 và các tháng tiếp theo. Nhiều công ty đa quốc gia đã khuyến cáo hạn chế du lịch Việt Nam và đến nay phần lớn các khuyến cáo trên vẫn được duy trì. Trong khi lượng du khách Nga phần lớn không bị ảnh hưởng, lượng du khách đến từ Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Sigapore và Úc bị ảnh hưởng mạnh. Để định lượng các tác động của các sự kiện gần đây là rất khó, vì vậy chúng tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát trong các thành viên trong Nhóm công tác và những tổ chức/doanh nghiệp tham gia trong cuộc khảo sát khách sạn của Grant Thornton và kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các khách sạn và công ty lữ hành chúng tôi liên lạc đang phải chịu ảnh hưởng của việc hủy đặt phòng dự kiến kéo dài từ thời điểm hiện tại đến đến tháng 9. Phản hồi từ 18 khách sạn cho thấy:

Miền Bắc Miền Trung và Cao nguyên Miền Nam Tổng cộng

Tổng số đêm nghỉ khách sạn bị hủy 4,216 4,805 5,924 14,945

Phần trăm tổng số đêm khách sạn bị hủy 28% 32% 40% 100%

Tổng số tiền bị tổn thất $ 583,700 524,500 697,060 1,805,260 Tổng số phần trăm bị tổn thất % 32% 29% 39% 100%

(*)Số liệu được lấy từ các thành viên Nhóm công tác Du lịch của VBF và tổ chức/doanh nghiệp tham gia trong cuộc khảo sát khách sạn của Grant Thornton Thực tế, tổng số thiệt hại vượt quá 1.8 triệu đô la Mỹ từ 18 khách sạn trong tổng số 640 khách sạn 3, 4 và 5 sao và tổng số đêm nghỉ khách sạn bị hủy trong tháng 7 lên đến 14.945 đêm, trong số đó, một khách sạn có báo cáo rằng số lượng đặt phòng tiếp tục bị hủy đến tận tháng 9. Ngoài ra, chúng tôi cũng lưu ý rằng một sân golf ở miền Trung Việt Nam đã bị hủy 500 lượt, gây ra tổn thất tới USD50,000. Về số lượng phòng nghỉ đêm bị hủy và doanh thu bị tổn thất (đối với cả doanh thu phòng nghỉ, thực phẩm và đồ uống), các khách sạn ở Miền Nam bị ảnh hưởng nhiều nhất, chiếm tới 40$ tổng số phòng bị hủy và 39% tổng doanh thu bị mất trong giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2014. Các đại lý lữ hành cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Theo báo cáo của một số công ty lữ hành, số lượng các khách du lịch đơn lẻ từ Mỹ và Úc đã giảm 20-30%. Thậm chí, tại Úc, quốc gia này có đưa ra các hướng dẫn cho các du khách khi tới Việt Nam.

Gián tiếp

Trực tiếp

Thúc đẩy

Trang 2/11

Page 271: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Tổng Cục Du lịch cần phải có những hành động nhanh chóng với các chiến dịch phạm vi quốc tế để truyền tải thông điệp rằng Việt Nam vẫn là một điểm đến an toàn cho du lịch và để thuyết phục các du khách cũng như các Đại sứ quán, là các bên mà đưa ra các khuyến cáo khi đi du lịch tại Việt Nam, rằng các sự cố gần đây là đơn lẻ và sẽ không tiếp tục xảy ra nữa. Đồng thời, Chính phủ cũng cần phải cân nhắc đưa ra các ưu đãi tương tự cho các công ty lữ hành và các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch như đã đưa ra đối với các ngành khác mà bị ảnh hưởng bởi các sự kiện đáng tiếc gần đây. 2. Miễn thị thực và Thị thực quá cảnh Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) và Hội đồng Du lịch & Lữ hành Thế giới (WTTC)2, khách du lịch coi thị thực như là một hình thức áp đặt phí. Nếu chi phí xin thị thực -cho dù là một khoản chi phí trực tiếp (bằng tiền) hoặc gián tiếp mà bao gồm tổng hợp các chi phí liên quan đến khoảng cách, thời gian chờ đợi và thủ tục rắc rối – vượt qua một ngưỡng cụ thể, các khách du lịch tiềm năng sẽ đơn giản cân nhắc lại chuyến đi hoặc đổi sang một địa điểm du lịch khác ít phức tạp hơn. Báo cáo cũng nói them rằng các quốc gia mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp thị thực đồng thời chuyển sang hệ thống cấp thị thực tại cửa khẩu sẽ giúp các quốc gia ASEAN nhận được lượng du khách thêm từ 6 đến 10 triệu người vào năm 2016. Lượng du khách này sẽ mang đến 7-12 tỷ USD và tạo ra từ 333.000 đến 654.000 việc làm vào năm 2016. Bản báo cáo cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam có thể tăng lượng du khách từ 8-18% nếu Việt Nam tạo điều kiện và chuyển đổi hình thức cấp thị thực (ví dụ như hình thức cấp thị thực tại cửa khẩu). Hiện tại, chỉ những khách du lịch đơn lẻ nước ngoài (FIT) mang hộ chiếu ASEAN được miễn thị thực trong thời gian lưu trú không quá 30 ngày. Và chỉ những khách du lịch đơn lẻ mang hộ chiếu Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga được phép nhập cảnh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày mà không cần thị thực. Chúng tôi cho rằng có nhiều luận điểm rất thuyết phục để Việt Nam mở rộng hơn nữa phạm vi miễn thị thực và chúng tôi xin đề nghị Chính phủ kéo dài chương trình thí điểm miễn thị thực đối với các nước trên. Lợi ích của chương trình miễn thị thực được thể hiện rõ qua con số khách du lịch tăng đáng kể từ những quốc gia được hưởng chính sách miễn thị thực như sau:

Mức độ tăng trưởng năm 2013 so với năm 2012

Tăng trưởng trong 4 tháng đầu năm 2014 so với năm 2013

Nhật Bản 4.8% 8.5% Hàn Quốc 6.8% 6.7% Liên Bang Nga 71.1% 37.4% Các nước Bắc Âu Giảm 15%

Trong khi đó, mức tăng trưởng lượng khách du lịch từ các quốc gia có thu nhập cao trong 2 năm 2012 và 2013 như sau: Đức -6% và -8,4%

2 Báo cáo tháng 5 năm 2012

Trang 3/11

Page 272: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Pháp +4% và -4,4% Anh +9% và +8% Du khách tăng do sự ra đời đường bay trực tiếp từ Việt Nam đến Anh Hà Lan +2% và +3% Úc 0% và +10% Mỹ 0% và -2,6% Thị thực Quá cảnh Cần lưu ý là Trung Quốc đã tự do hóa yêu cầu cấp thị thực, cho phép khách du lịch từ 51 quốc gia được quá cảnh tại nước này trong vòng 72 giờ, điều này có nghĩa là khách du lịch có thể ra khỏi sân bay và đi đến các thành phố, tỉnh thành khác xung quanh Bắc Kinh, Quảng Châu, Thượng Hải và hai thành phố khác. Điều này đã tạo nên một làn sóng khách du lịch quá cảnh tại Trung Quốc và mức chi tiêu của các du khách quá cảnh cũng tăng do sử dụng nhà hàng, khách sạn, các phương tiện giao thông vận tải và các dịch vụ khác của ngành du lịch. Nếu đã từng quá cảnh tại Trung Quốc với mục đích du lịch thì du khách hoàn toàn có thể cân nhắc quá cảnh tại Việt Nam, một đất nước an toàn với bầu không khí trong lành và là địa điểm thay thế thích hợp cho những việc quá cảnh tại Trung Quốc.3 Hiện nay với một số chuyến bay của VietnamAirline từ Úc đến Châu Âu chọn Việt Nam là điểm quá cảnh thì máy bay sẽ đáp xuống thành phố Hồ Chí Minh và chuyến bay tiếp theo đến châu Âu sẽ được khởi hành từ Hà Nội. Chuyến bay trung gian từ thành phố Hồ Chí Minh đến Hà Nội yêu cầu hành khách phải có visa du lịch trong vòng 30 ngày để hoàn tất chuyến bay chỉ diễn ra trong vòng từ 4-6 tiếng qua các sân bay ở Việt Nam. Khả năng của các khu nghỉ dưỡng của Việt Nam còn khá hạn chế, ví dụ như khả năng cung cấp đủ phòng cho lượng khách du lịch đến Việt Nam; vì thế các công ty lữ hành và khách du lịch đang tìm kiếm các địa điểm mới sẵn sàng phục vụ cho mục đích quá cảnh tại Việt Nam. Các hãng hàng không hy vọng có thể khai thác hết công suất máy bay và năng lực các điểm đến đang tìm kiếm những chuyến bay quá cảnh ở nhiều thành phố tại các quốc gia Châu Á và Việt Nam. Các hãng hàng không quốc tế đang tìm cách để khai thác «hệ thống một vé máy bay», có nghĩa là du khách có thể sử dụng một tấm vé đó để đi tham quan các địa điểm du lịch ở Châu Á. Khi sản phẩm du lịch này được định hình rõ ràng và được đưa ra thị trường, sự cạnh tranh giữa các chiến lược marketing điểm đến sẽ được thực hiện để đẩy mạnh nhu cầu. Với sự ra đời của các Hãng hàng không giá rẻ (LCC), việc bán vé du lịch đang trở thành việc bán hàng trực tiếp, không thông qua các đại lý bán vé trung gian, đồng thời việc quá cảnh diễn ra tự động và hành lý được vận chuyển đúng lộ trình do được hưởng lợi từ các thoả thuận giữa các hàng hàng không của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (« IATA »). Để tỉ lệ khách du lịch càng ngày càng tăng, việc sử dụng hãng hàng không giá rẻ có nghĩa là các khách hàng phải được nhập cảnh và sau đó hải quan hoàn thành thủ tục kiểm tra để sẵn sàng cho chuyến bay tiếp theo của một hành trình dài đi qua nhiều nước. Hiện nay, thủ tục quá cảnh này chưa được áp dụng tại Việt Nam cho những hành khách quá cảnh mà không có ý định lưu trú tại Việt Nam, nhưng lại cần phải làm thủ tục nhập cảnh cho chuyến bay tiếp theo với tư cách là hành khách quá cảnh. Việt Nam đang đứng trước cơ hội để tạo nên sự khác biệt trong thị trường các hãng hàng không giá rẻ và những hãng vận chuyển đầy kinh nghiệm với tiềm năng trở thành một trung tâm trung chuyển hàng không phục vụ hành khách quá cảnh.

3 http://www.travelchinaguide.com/embassy/visa/free-72hour/

Trang 4/11

Page 273: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Trong khi lượng khách du lịch đến Việt Nam được chú trọng trong các cuộc thảo luận về thị thực và miễn thị thực, thì thị trường khách trong nước đi du lịch nước ngoài đang tăng, tuy nhiên lại bị hạn chế bởi hàng loạt các tiêu chuẩn, điều kiện thị thực nặng nề đối với công dân Việt Nam khi muốn đi du lịch châu Âu. Kiến nghị: Chúng tôi đề xuất phạm vi miễn thị thực được mở rộng để bao gồm các quốc gia có tiềm năng đem lại doanh thu du lịch lớn cho Việt Nam, chẳng hạn như các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, Australia, Hong Kong và Đài Loan. Việc miễn thị thực nên được áp dụng cho công dân của các quốc gia trên với thời hạn lưu trú đến 30 ngày. Chúng tôi cũng đề nghị thiết lập một hệ thống cấp thị thực tại cửa khẩu hiệu quả hơn. Việt Nam có thể xem xét trường hợp của Lào và Campuchia là hai quốc gia cũng cấp và thu phí thị thực tại cửa khẩu. Hình thức xin thị thực này cũng nên cho phép các du khách có hộ chiếu đủ điều kiện miễn thị thực được lưu trú tại Việt Nam trong ít nhất 14 ngày mà không cần thêm bất kỳ một giấy tờ nào khác trừ hộ chiếu. Chính sách và thủ tục “thị thực tại cửa khẩu” nên được tiến hành một cách minh bạch và thống nhất, cần phải có hướng dẫn về thủ tục, biểu phí, và cách áp dụng như nhau ở các sân bay khác nhau. Chúng ta nên tạo ra một môi trường thuận lợi cho các hãng hàng không và khách du lịch quá cảnh tại Việt Nam và di chuyển trong nước bằng cách tạo điều kiện cấp thị thực quá cảnh, cho phép các hãng hàng không quốc tế được dừng tại nhiều điểm ở Việt Nam. Việc giảm thiểu hoặc loại bỏ các yêu cầu xin cấp thị thực cho công dân VIệt Nam khi có nhu cầu đi du lịch ở các nước trong Liên minh Châu Âu cần được xem như là một vấn đề trọng tâm cần phải được nêu lên khi bàn bạc với các đối tác trong cộng đồng châu Âu. Với mục tiêu phát triển kinh tế và công nghiệp du lịch, thương mại tự do sẽ được mở rộng cho các cộng đồng/doanh nghiệp khi cả hai bên đều áp dụng chính sách miễn thị thực. Việc công dân Việt Nam được du lịch ở châu Âu trong thời gian ngắn sẽ mở ra các cơ hội hiểu hơn về kinh tế song phương trong lĩnh vực thương mại và du lịch giữa hai bên. Một số kiến nghị khác: • Cung cấp các hướng dẫn và thông tin rõ ràng hơn tại các sảnh đến về địa điểm/nơi làm thủ

tục cấp thị thực tại cửa khẩu. (lấy thị thực ở đâu, các mẫu đơn cần thiết như thế nào, chính sách, biểu phí ra sao, thời gian chờ đợi là bao nhiêu)

• Hướng dẫn về việc xếp số thứ tự khi làm thủ tục cấp thị thực tại cửa khẩu. 3. Tiếp thị điểm đến4 Là một cơ quan quản lý nhà nước, nhìn chung, Tổng cục Du lịch Việt Nam tuân theo sự chỉ đạo và hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong nhiều lĩnh vực, trong đó có tiếp thị du lịch. Một mặt, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trong việc hướng dẫn sử dụng nguồn vốn chính phủ hiệu quả và phù hợp. Thêm vào đó, Tổng cục Du lịch còn phải chịu trách nhiệm về nhiều vấn đề khác ngoài mảng tiếp thị điểm đến, ví dụ như phát triển du lịch và định hướng phát triển du lịch. Mặc khác để tối ưu hóa chi tiêu quốc gia về tiếp thị, chúng tôi thấy rằng vai trò và trách nhiệm của Tổng cục cần được đẩy mạnh hơn nữa trong công tác tiếp thị điểm đến và vị thế của Tổng cục cần được mở rộng và thừa nhận như là một cơ quan phụ trách tiếp thị du lịch của quốc gia.

4 Thuật ngữ tiếp thị điểm đến chỉ việc tiếp thị và quản lý chiến lược một điểm đến du lịch cụ thể.

Trang 5/11

Page 274: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Ngoài ra, sự hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ để đảm bảo chuỗi dịch vụ hoạt động liên tục và thống nhất trong toàn khu vực cũng là một yếu tố quan trọng trong hoạt động quản lý điểm đến. Sự thiếu vắng một mối quan hệ hợp tác hiệu quả trong phạm vi khu vực và các tổ chức quản lý địa điểm du lịch (DMO) tại Việt Nam đã đặt ra nhiều thách thức cả về tổ chức lẫn hoạt động cho ngành du lịch. Chúng tôi cho rằng cần phải tránh tình trạng công việc quảng bá du lịch bị chồng chéo và trùng lặp giữa các bộ ngành liên quan. Cần củng cố liên kết giữa khu vực nhà nước và các doanh nghiệp thông qua việc huy động sự tham gia của các bên liên quan một cách hiệu quả và tăng cường vai trò của các DMO. Nhóm Công tác nhận thấy Việt Nam đã có được bước tiến triển trong những lĩnh vực trên. Tháng 11 năm 2012, Hội đồng Tư vấn Du lịch (TAB) đã được thành lập trong khuôn khổ Chương trình ESRT do Liên minh châu Âu tài trợ. Hội đồng Tư vấn Du lịch đưa ra các ý kiến tư vấn trực tiếp cho Tổng cục Du lịch và đã tạo ra một cơ chế chính thức cho việc hợp tác và đối thoại trực tiếp giữa khu vực công và tư nhân của Việt Nam. Cũng trong khuôn khổ của Chương trình ESRT, Chiến lược tiếp thị du lịch quốc gia đến năm 2020 và bản Kế hoạch hành động giai đoạn 2013 – 2015 đã được xây dựng. Chiến lược và Kế hoạch hành động này đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và dựa trên các thực tiễn tốt nhất trên thế giới nhằm đưa du lịch Việt Nam lên ngang tầm với các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực. Tốc độ tăng trưởng lượt khách du lịch trong 4 tháng đầu năm 2014 vào khoảng 27%, cao hơn so với cùng kì năm ngoái. Số ngày lưu trú của du khách tại Việt Nam thường khá ngắn và tỷ lệ khách du lịch quay trở lại Việt Nam cũng khá thấp, một nguyên nhân là do các lựa chọn tham quan giải trí tại các điểm du lịch chính còn hạn chế. Thái Lan là nước có tỉ lệ khách du lịch thường xuyên/quay lại rất cao. Trong khi chúng ta cũng đang đón tiếp một lượng lớn du khách đến từ Nga, Trung Quốc, HongKong, Đài Loan thì có một sự thật là du khách từ các nước này thường chi tiêu ít hơn so với các du khách đến từ Châu Âu và Bắc Mỹ. Khuyến nghị: Chúng tôi tin rằng biện pháp hiệu quả nhất để xóa đi những nhận thức tiêu cực về chất lượng dịch vụ du lịch ở Việt Nam là tiếp tục chiến dịch quảng cáo ở trong nước và quốc tế. Những chiến dịch như thế cần làm nổi bật những điểm hấp dẫn của du lịch Việt Nam với những lợi thế về di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh, những bãi biển trải dài, và người dân thân thiện. Trong khi đã có những tiến triển tích cực ở trong nước và ở một mức độ nào đó ở nước ngoài, chúng tôi nhận thấy rằng một sự đầu tư nhỏ cũng có thể tạo nên những khác biệt lớn trong nhận thức của du khách về đất nước. Ví dụ, trải nghiệm về đất nước có thể được cải thiện bằng các biện pháp như chiếu các video quảng cáo trên các chuyến bay hoặc là các trò chơi trong khu vực nhập cảnh để giải thích về thủ tục nhập cảnh, hải quan, phương tiện đi lại và dịch vụ hậu cần. Tuy nhiên để có thể làm được những khuyến nghị trên đây cần phải có một khoản kinh phí lớn hơn rất nhiều so với hiện tại. Chính phủ nên nhận ra sự đóng góp to lớn của ngành du lịch sẽ giúp tăng trưởng GDP và tạo việc làm đồng thời phân bổ đủ nguồn quỹ cho Tổng cục du lịch để có thể cạnh tranh với các nước láng giềng trong khu vực mà có mức ngân quỹ dành cho hoạt động du lịch cao hơn nhiều lần. Chúng tôi cũng khuyến nghị các biện pháp cụ thể sau: • Công nhận về mặt pháp lý thẩm quyền của Tổng cục Du lịch là Cơ quan Du lịch Quốc gia và

là cơ quan phụ trách tiếp thị du lịch duy nhất của Việt Nam. • Tăng cường vai trò và chức năng của các DMO.

Trang 6/11

Page 275: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 • Thông qua đề án Chiến lược tiếp thị du lịch Việt Nam và lập các kế hoạch hành động thường

niên trước khi năm tài khóa kết thúc và chia sẻ với các tổ chức cá nhân hoạt động trong ngành. Để cấp vốn cho sáng kiến này, chúng tôi khuyến nghị Chính phủ cấp một khoản ngân sách bổ sung với giá trị tăng dần theo năng lực dần được nâng cao của Tổng cục Du lịch.

• Theo như trả lời của Chính phủ cho Nhóm công tác Du lịch tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang hướng dẫn Tổng cục Du lịch xây dựng một quỹ dành cho hoạt động quảng bá và tiếp thị du lịch. Các khoản quỹ này nên được sử dụng một cách hiệu quả nhất nhằm đóng góp vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động quảng bá và tiếp thị du lịch Việt Nam.

• Tiếp tục ủng hộ các sáng kiến PPP và PPD, đặc biệt trong bối cảnh Hội đồng du lịch và các DMO khu vực đã được thành lập.

• Tạo điều kiện cho việc lập kế hoạch và tạo dựng các điểm thu hút khách du lịch mới. Cần tập trung phát triển các điểm đến mới như các điểm du lịch văn hóa với nhiều trò chơi trang thiết bị thể thao hay du lịch mạo hiểm.

• Phân bổ ngân sách nhiều hơn cho các chiến dịch quảng bá du lịch đề cập ở trên và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị cung cấp dịch vụ du lịch và lữ hành của nước ngoài để tận dụng tối đa nguồn ngân sách bổ sung này.

• Thiết kế các chiến dịch quảng cáo, bao gồm các đoạn quảng cáo và thước phim quảng cáo, hợp tác chặt chẽ với công ty lữ hành nước ngoài và công ty lữ hành trong nước có lượng khác nước ngoài lớn.

• Khuyến khích môi trường du lịch thân thiện và trách nhiệm. Thúc đẩy các tiêu chuẩn du lịch để tăng thêm giá trị cho ngành công nghiệp du lịch nói chung và hướng đến một kết quả công việc hiệu quả hơn và tốt hơn trong ngành công nghiệp.

• Chúng tôi đánh giá cao các cuộc thảo luận gần đây về việc mở rộng quyền sở hữu nhà ở cho người nước ngoài và khuyến nghị Chính phủ xem xét các mô hình đang được các quốc gia khác áp dụng, chẳng hạn như mô hình của Thái Lan. Các cơ quan chức năng cần xem xét các lợi ích ngày càng gia tăng của việc cho phép người nước ngoài – những người mà không sở hữu thị thực nhập cảnh nhiều lần với thời hạn ba tháng – được mua dài hạn các căn hộ và biệt thự nghỉ dưỡng.

4. Giáo dục và Đào tạo Mô tả vấn đề: Ngành du lịch và khách sạn tiếp tục phải đối mặt với tình trạng thiếu nguồn nhân lực được đào tạo đầy đủ và bài bản, trên tất cả các cấp bậc và vị trí, từ nhân viên mới cho đến vị trí giám sát, quản lý và điều hành. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực và đã đạt được một số tiến triển thông qua các hỗ trợ kỹ thuật và các chương trình can thiệp quốc tế, hệ thống giáo dục và đào tạo phần lớn vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu thực sự của ngành khách sạn và du lịch. Các vấn đề về giáo dục và đào tạo trong ngành du lịch và khách sạn mang tính hệ thống và phụ thuộc vào những bất cập cố hữu của toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Đặc biệt, sự yếu kém của giáo dục và đào tạo nghề và kỹ thuật (TVET) có ảnh hưởng nghiêm trọng cho toàn ngành du lịch và khách sạn. Thứ nhất, khung pháp lý về giáo dục và đào tạo vẫn còn phức tạp và cồng kềnh. Với sự tham gia của các Bộ và cơ quan chính phủ khác nhau, các quá trình ra quyết định diễn ra chồng chéo, không hợp lý, việc thông tin, phối hợp và cải cách hệ thống vẫn còn thiếu chậm chạp. Thứ hai, cách tiếp cận sư phạm và chiến lược mang tính toàn diện đối với giáo dục và đào tạo dựa trên những mô hình đã lỗi thời, và không bắt kịp với các nhu cầu của xã hội hiện đại, của nền kinh tế thị trường mở hoặc của ngành. Thứ ba, các cơ quan quản lý và các tổ chức đào tạo tiếp tục có những cách tiếp cận 'trừu tượng' hơn là 'thực tế' đối với các chương trình đào tạo cho ngành du lịch và khách sạn. Hiện tại có rất ít chương trình trao đổi và hợp tác giữa các doanh nghiệp

Trang 7/11

Page 276: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 tron ngành du lịch và khách sạn (cả trong nước lẫn nước ngoài). Chương trình giảng dạy, đề cương khóa học và phương pháp giảng dạy phần lớn vẫn mang tính lý thuyết về bản chất, và nhiều chương trình đào tạo được dạy bởi các giáo viên có trình độ học vấn, nhưng không có hoặc rất ít kinh nghiệm làm việc thực tế trong lĩnh vực này. Cuối cùng, toàn bộ hệ thống đào tạo thực tập sinh và huấn luyện giảng viên vẫn còn thiếu và nghèo nàn. Một số biện pháp nhất định nhằm giải quyết vấn đề đã bắt đầu được thực hiện. Kết hợp với Tổng cục Du lịch, chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESRT) do Liên minh Châu Âu tài trợ đã tiến hành đánh giá nhu cầu đào tạo trên toàn quốc với mục đích cung cấp thông tin cập nhật về các kỹ năng và nhu cầu đào tạo của các tổ chức và doanh nghiệp cả tư nhân và nhà nước trong lĩnh vực này. Hơn nữa, trong bối cảnh Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ được thành lập vào năm 2015 sắp tới, Tổng cục Du lịch (với sự hỗ trợ của chương trình ESRT) đã và đang xây dựng cuốn Sổ tay hướng dẫn thực hiện Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề Du lịch trong khu vực ASEAN (MRA-TP) với mục tiêu thiết lập tiêu chuẩn năng lực chung cho các chuyên gia/nhân sự làm việc trong ngành du lịch và khách sạn và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển nhân lực trong khu vực. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực đáng khen ngợi của các bên tham gia, việc thực hiện Sổ tay MRA-TP tại Việt Nam vẫn còn chậm và thiếu minh bạch. Mỗi quốc gia thành viên phải thiết lập và triển khai một cơ quan kiểm định chất lượng và bộ tiêu chuẩn năng lực cấp quốc gia. Trong tình hình hiện tại, Hội đồng cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch (“VTCB”) vẫn chưa được chính thức phê duyệt và bản cập nhật của Tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam (“VTOS”) vẫn chưa được công bố. Việc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch và khách sạn tại Việt Nam vẫn chưa được chính thức tham gia vào quá trình này dẫn đến rủi ro và thách thức trong việc áp dụng các tiêu chuẩn VTOS và việc thực hiện hiệu quả Sổ tay MRA-TP tại Việt Nam. Lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Nguồn nhân lực tăng lên cả về số lượng và chất lượng ở tất cả các lĩnh vực trong ngành du lịch và khách sạn – nhà hàng sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ đang được cung cấp. Điều này ngược lại cũng giúp nâng cao hình ảnh và uy tín của Việt Nam. Các dịch vụ tốt hơn sẽ giúp tăng cường năng lực cạnh tranh, thu hút được nhiều du khách hơn, từ đó tăng tỷ lệ đóng góp tiềm năng vào GDP và nguồn thu cho Chính phủ. Du lịch là một khu vực kinh tế quan trọng của đất nước, nên ngành này cũng có thể tạo ra ảnh hưởng tích cực đến các ngành khác, giúp cải thiện trình độ kỹ năng trong toàn chuỗi cung ứng. Điều này có thể sẽ giúp tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân địa phương. Kiến nghị: Các thành viên của chúng tôi có các kiến nghị cụ thể sau: • Giới thiệu chương trình chứng chỉ du lịch quốc gia nhằm đảm bảo rằng các công ty du lịch và

nhân viên của các công ty này đáp ứng được các tiêu chuẩn cốt lõi của ngành. Chẳng hạn như hỗ trợ việc triển khai Tiêu chuẩn kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam (VTOS).

• Công nhận tư cách pháp lý của Hội đồng cấp chứng chỉ nghiệp vụ Du lịch (VTCB) để thực hiện các chức năng của Hội đồng nghề du lịch quốc gia - ASEAN (NTPB) và Hội đồng cấp chứng chỉ nghề du lịch (TPCB) để MRA-TP có hiệu lực triển khai. Thành lập Hội đồng cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch với sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực du lịch và khách sạn.

• Khuyến khích các bên liên quan, các cơ sở đào tạo nghề sử dụng kết quả của chương trình Đánh giá Nhu cầu Đào tạo 2013. Báo cáo đánh giá này cung cấp các thông tin cập nhật để bổ sung cho Quy hoạch “Phát triển nguồn nhân lực du lịch đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Trang 8/11

Page 277: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 • Thành lập một Hội đồng Đào tạo Ngành Du lịch để cung cấp hướng dẫn/ý kiến đóng góp cho

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Tổng cục Du lịch về các yêu cầu kỹ năng của ngành. • Yêu cầu tất cả các trường đại học, cao đẳng và cơ sở đào tạo áp dụng các tài liệu đào tạo

VTOS. • Xây dựng các biện pháp chính thức xác minh ngoài và đảm bảo chất lượng nhằm đảm bảo

các nguyên tắc của Thỏa thuận MRA-TP liên quan đến tiêu chuẩn năng lực và cảnh quan địa phương được giữ gìn và bảo tồn.

• Giới thiệu chương trình thực tập nghề cho tất cả các sinh viên, bao gồm những khóa được thiết kế và phát triển bởi các chuyên gia quốc tế về các chương trình đào tạo về kỹ năng phục vụ khách hàng và hiểu biết đa văn hóa.

5. Cấp phép các dịch vụ liên quan đến du lịch Nếu Việt Nam có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng của ngành và đạt được mục tiêu về số lượng việc làm trong Quy hoạch phát triển Du lịch thì công tác quản lý ngành thông qua việc cấp phép là vô cùng quan trọng. Chỉ nên cấp các giấy phép cung cấp các dịch vụ liên quan đến du lịch cho những nhân sự được đào tạo bài bản thông qua giáo dục chính thức và có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Điều này là cực kỳ quan trọng trong xu thế luân chuyển lao động trong khu vực ASEAN từ năm 2015.

Tiềm năng đối với Việt Nam: • Tiêu chuẩn dịch vụ tốt hơn sẽ thu hút đầu tư hơn nữa và tạo việc làm cho người lao động • Hạn chế được việc phát sinh các hoạt động bất hợp pháp – các hoạt động kinh doanh hợp

pháp, được pháp luật thừa nhận sẽ tăng doanh thu thuế cho Chính phủ. • Đảm bảo được các tiêu chuẩn về sức khỏe và an toàn

Kiến nghị: Các kiến nghị cụ thể của chúng tôi trong lĩnh vực này như sau: • Chỉ cấp phép cho các dịch vụ liên quan đến du lịch cho cho những nhân sự được đào tạo bài

bản một cách chính thống và có đủ năng lực chuyên môn trong lĩnh vực dịch vụ, bất kể quốc tịch

• Loại bỏ các giới hạn bổ sung đối với người nước ngoài làm điều hành tour trong ngành du lịch và cải thiện quy trình cấp phép cho các công ty du lịch.

6. Chính sách du lịch có trách nhiệm Mô tả vấn đề: Du lịch có trách nhiệm đang ngày càng được hưởng ứng và nhận được sự quan tâm và cam kết của các lãnh đạo cấp cao trong các lĩnh vực quan trọng, một trong những minh chứng đó là Chương trình Nhãn Bông sen Xanh, Chiến lược tiếp thị Du lịch mới của Việt Nam và việc xây dựng Bộ Tiêu chí Du lịch có trách nhiệm trong hệ thống VTOS. Giữa năm 2013, Chương trình ESRT do Liên minh Châu Âu tài trợ đã bắt đầu dự thảo Khung Chính sách Du lịch có trách nhiệm. Khung chính sách đã nghiên cứu kỹ lưỡng các định hướng và ưu tiên của Chiến lược Phát triển Du lịch Việt Nam và Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch quốc gia Việt Nam; các kiến nghị của ngành và các cơ quan ngành nghề chẳng hạn như Hiệp hội Du lịch Việt Nam, kiến nghị của Nhóm công tác về Du lịch của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam và Tiểu ban Du lịch và Nhà hàng Khách sạn của EuroCham được đề cập trong Sách Trắng 2013. Khung Chính sách Du lịch có Trách nhiệm đã được phát triển thành tài liệu “Hướng dẫn Chính sách – Xây dựng Du lịch có Trách nhiệm tại Việt Nam”. Tài liệu này được thiết kế như một nguồn tài liệu thực hành để hỗ trợ xây dựng chính sách và pháp luật về du lịch cũng như hoạt động trong ngành du lịch (trực tiếp/gián tiếp) để xác định và giải quyết các vấn đề chính sách và

Trang 9/11

Page 278: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 các biện pháp can thiệp chính nhằm tăng tính bền vững và hình thành các hành động có trách nhiệm. Nền tảng của Tài liệu Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm dựa trên 6 trụ cột sau: 1. Áp dụng các biện pháp quản trị tốt trong ngành du lịch 2. Hỗ trợ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nghành đi đôi với phát triển thị trường một cách bền vững 3. Sử dụng du lịch cho mục đích phát triển kinh tế xã hội trên diện rộng 4. Nâng cao nhận thức và hiểu biết về du lịch bền vững 5. Phát triển một lực lượng lao động có kỹ năng với các điều kiện làm việc hợp lý 6. Bảo tồn và đẩy mạnh quảng bá các di sản văn hóa và tự nhiên của Việt Nam Với mỗi trụ cột, các kiến nghị đã được đưa ra cùng với các đề xuất về việc bên liên quan nào cần chịu trách nhiệm và quy trình nào cần thực hiện để tạo ra sự thay đổi thực sự. Lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Một cách tiếp cận toàn diện để đạt được mục tiêu về Du lịch có trách nhiệm với sự hỗ trợ của Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm sẽ đưa ngành du lịch Việt Nam đi đúng hướng để đạt được thành công về lâu dài, trở thành một điểm đến hấp dẫn, sống động và bền vững. Điều này cũng sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội cho người dân, góp phần thu hút thêm nhiều du khách trong tương lai. Báo cáo Năng lực cạnh tranh ngành Lữ hành và Du lịch của Diễn đàn Kinh tế Thế giới cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển ngành Du lịch Việt Nam theo hướng bền vững và thân thiện với môi trường.5 Tuy nhiên, bên cạnh những hoạt động và thành tựu đã đạt được trong hiện tại, cũng cần lưu ý rằng Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm. Việt Nam vẫn cần tiếp tục hỗ trợ việc nâng cao nhận thức, hiểu biết, cam kết, chia sẻ trách nhiệm và thực hiện hành động với cách tiếp cận mang tính chiến lược và ở tất cả các cấp. Mặc dù các vấn đề và hành động ở cấp cao hơn thường đòi hỏi nhiều thời gian hơn nhưng đây là những việc hết sức cần thiết và quá trình giải quyết những vấn đề này cần được bắt đầu ngay từ bây giờ. Đồng thời, các kết quả và ví dụ thực tiễn cần được rút ra từ các chương trình thí điểm, chẳng hạn như các điểm đến cụ thể hay thậm chí các sáng kiến ở cấp địa điểm du lịch. Kết quả ở cấp này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, ảnh hưởng và thúc đẩy sự thay đổi cần thiết ở các cấp cao hơn. Cần lưu ý rằng sự phối hợp giữa các bên liên quan là một cấu phần quan trọng trong du lịch có trách nhiệm. Kiến nghị: • Dự kiến Tài liệu Hướng dẫn Chính sách sẽ là một tài liệu tham khảo cho việc soản thảo và

sửa đổi luật du lịch, được hỗ trợ và xác nhận bởi Chính phủ và các tổ chức đại diện cho các bên liên quan quan trọng khác.

• Hỗ trợ việc thông qua và áp dụng Tài liệu Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm và các Kiến nghị. Tài liệu Hướng dãn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm đưa ra các gợi ý, đề xuất về các hành động cụ thể có thể được thực hiện bởi các bên liên quan trong ngành để tạo ra những chuyển biến thực sự và đạt được tác động một cách kịp thời.

• Khuyến khích Chính phủ Việt Nam và các bên liên quan trong lĩnh vực du lịch thực hiện tài liệu Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm, giúp tạo ra lợi thế cạnh tranh cần thiết

5 Báo cáo Năng lực Cạnh tranh ngành Lữ hành & Du lịch 2013, Diễn đàn Kinh tế Thế giới, http://www3.weforum.org/docs/WEF_TT_Competitiveness_Report_2013.pdf

Trang 10/11

Page 279: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

cho ngành du lịch Việt Nam phát triển và khởi sắc đồng thời tiếp tục đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội trên diện rộng trong tương lai.

• Khuyến khích chính quyền và các doanh nghiệp ở cấp khu vực/điểm đến sử dụng các nội dung trong Tài liệu Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm như một danh sách dài các khả năng và lựa chọn mà giúp họ có thể xác định một nhóm các hành động chủ yếu phù hợp với các vấn đề và thực tiễn của từng điểm đến.

Trang 11/11

Page 280: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Chương VII

BÁO CÁO KHÁC

Page 281: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Nhóm công tác Công nghiệp Ô tô, Xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

BÁO CÁO CỦA NHÓM CÔNG TÁC CÔNG NGHIỆP ÔTÔ, XE MÁY

Chuẩn bị bởi

Nhóm Công tác Công nghiệp Ô tô, Xe máy Nhóm Công tác Công nghiệp Ôtô, Xe máy bao gồm các công ty thuộc các cấu phần sau của ngành công nghiệp:

a) Xe khách và xe thương mại i. CKD (xe lắp ráp/sản xuất nội địa) ii. CBU (xe nhập khẩu)

b) Xe hai bánh (Xe tay ga/xe máy)

I. SẢN XUẤT XE CHỞ KHÁCH VÀ XE THƯƠNG MẠI (CKD/CBU) NHẬN XÉT (Vấn đề/Tồn tại) Chúng tôi xin cảm ơn Chính phủ đã tạo điều kiện xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh với sự có mặt của nhiều tập đoàn lớn quốc tế và trong nước trong ngành công nghiệp ô tô. Tuy nhiên, dù ngành công nghiệp ô tô Việt Nam có hơn 20 doanh nghiệp sản xuất ôtô và 40 thương hiệu, tăng trưởng toàn ngành vẫn không đạt mức mong muốn của cả nhà đầu tư và Chính phủ. Tổng sản lượng toàn ngành năm 2013 đạt khoảng 100.000 đơn vị, trong đó 80% là CKD. Năng lực sản xuất toàn ngành sử dụng thực tế chỉ đạt xấp xỉ 20% trên tổng công suất gần 500.000 đơn vị. Thực tế này làm nhà đầu tư lo lắng, thậm chí đặt dấu hỏi về khả năng đầu tư mới trong tương lai. Sự tăng trưởng, phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam bị ảnh hưởng bởi: a) Chính sách thường xuyên thay đổi và những đề xuất thất thường trong những năm qua; b) Chính sách định hướng tăng trưởng, phát triển ngành thiếu nhất quán, minh bạch; c) Thiếu rõ ràng về phân tích ảnh hưởng đến doanh nghiệp sản xuất CKD/CBU liên quan đến

vấn đề hội nhập ASEAN vào năm 2018; và d) Việc triển khai các chương trình nhằm giải quyết vấn đề cơ sở hạ tầng còn chưa đồng bộ. Yếu tố chính để thu hút đầu tư là tăng quy mô, năng lực cạnh tranh chung của lĩnh vực sản xuất CKD, linh kiện phụ tùng. Nhà đầu tư xây dựng chiến lược dựa trên quy mô chung của toàn ngành và khả năng cạnh tranh về chi phí của sản xuất CKD. Chính phủ Việt Nam nên cân nhắc các giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng toàn ngành cũng như tăng năng lực cạnh tranh về chi phí trong sản xuất CKD nhằm bảo đảm sự bền vững của ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam. Những yếu tố này sẽ thu hút các nhà cung cấp, đầu tư đến Việt Nam; từ đó thúc đẩy tăng trưởng, phát triển cho ngành này. Dựa trên những phân tích trên, các nghiên cứu của nhóm công tác và nội dung làm việc với nhiều ban ngành, chúng tôi xin đề xuất một số những giải pháp đơn giản sau để góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển cho ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam.

Trang 1/6

Page 282: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Nhóm công tác Công nghiệp Ô tô, Xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

KIẾN NGHỊ (trước mắt/ngắn hạn) Trước những khó khăn hiện nay trong ngành, chúng tôi xin đề xuất một số nhóm giải pháp sau cho giai đoạn trước mắt/ngắn hạn: a) ỔN ĐỊNH

Một yếu tố chính để thu hút đầu tư và tạo lòng tin cho người tiêu dùng là sự ổn định, nhất quán trong chính sách. Vì thế, chúng tôi khẩn thiết đề nghị Chính phủ có biện pháp bảo đảm sự ổn định, nhất quán của các chính sách về nâng cao khả năng cạnh tranh về giá trong sản xuất CKD, thúc đẩy tăng trưởng trong suốt thời kỳ kế hoạch, thông qua xem xét, ký kết một số hiệp định thương mại địa phương/khu vực/quốc tế.

b) Về CKD

Một nguyên tắc chủ đạo trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh về chi phí bền vững đối với sản xuất CKD là phải xóa bỏ chênh lệch chi phí giữa CKD và CBU. Các chính sách phải chú trọng đến việc ghi nhận nỗ lực đầu tư của doanh nghiệp CKD tại Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp CKD trong giai đoạn chuyển giao sang cơ chế thực thi của AFTA từ năm 2018 trở đi. Có thể cân nhắc một số giải pháp sau để bảo đảm cạnh tranh về chi phí trong sản xuất CKD:

• Có chính sách ưu đãi phù hợp liên quan đến sản xuất CKD để thu hẹp khoảng cách giữa

CBU và CKD • Phương pháp áp dụng Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với CBU và CKD là như nhau • Ưu đãi Thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp CKD trong ngành ô tô • Kiểm soát chặt chẽ hơn ô tô nhập khẩu

o Kiểm tra giá ô tô nhập khẩu khai hải quan o Thắt chặt kiểm soát ô tô “đã qua sử dụng” nhập khẩu.

Đề nghị Chính phủ xem xét có giải pháp bổ sung để bảo đảm tính khả thi cho sản xuất CKD tại Việt Nam.

c) Về TĂNG TRƯỞNG

Dưới đây là một số giải pháp thúc đẩy tăng trưởng ngành ô tô: • Giảm thuế để ô tô phù hợp với túi tiền người dân hơn (Thuế tiêu thụ đặc biệt/Thuế giá

trị gia tăng v.v.) • Tăng cường hỗ trợ tài chính, giúp người tiêu dùng “dễ” vay tiền mua xe hơn • Đầu tư, thúc đẩy phát triển hạ tầng đường xá/bến đỗ/công trình giao thông • Hạn chế tình trạng ban hành chính sách không thống nhất của nhiều ban ngành, gây ảnh

hưởng đến sự tăng trưởng của ngành • Thống nhất với các tổ chức, hiệp hội của ngành (VAMA/VBF) trước khi ban hành chính

sách mới.

d) Về SÂN CHƠI BÌNH ĐẲNG Để tạo lập sân chơi bình đẳng cho mọi đối tượng, đề cao nguyên tắc bình đẳng thương mại cho mọi nhà sản xuất thiết bị gốc (OEMs) tại Việt Nam, chúng tôi đề nghị quy định mọi chính sách, quy chế mới chỉ được coi là đủ điều kiện áp dụng sau khi đã dành ra một khoảng thời gian đủ để doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động theo quy định, chính sách mới. Đây cũng chính là phương châm “công bằng trong thực hiện chính sách”.

Trang 2/6

Page 283: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Nhóm công tác Công nghiệp Ô tô, Xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

e) Về XE/DỰ ÁN XE CHIẾN LƯỢC

Mô hình xe/dự án xe chiến lược nêu trong Quy hoạch tổng thể rất có thể sẽ tiếp tục hạn chế hơn nữa số lượng sản phẩm trên thị trường Việt Nam xuống mức chỉ còn một vài mẫu xe. Với tổng mức quy mô ngành và hạn chế về khả năng cung ứng hiện nay, sẽ rất ít doanh nghiệp đủ khả năng đáp ứng yêu cầu nội địa hóa 40% trong thời gian đã quy định vì các doanh nghiệp toàn cầu có chế độ quản lý chất lượng và quy trình sàng lọc chặt chẽ về nguồn phụ tùng, linh kiện. Căn cứ trên những chính sách ưu đãi liên quan đến các dự án xe chiến lược, lợi thế về giá của loại/mẫu xe chiến lược sẽ khiến những mẫu xe khác gần như không còn có thể tồn tại trên phân khúc thị trường này. Vì vậy, mô hình xe chiến lược sẽ làm giảm cạnh tranh đối với hầu hết các thương hiệu, mẫu mã, dẫn đến việc trên thị trường sẽ chỉ còn lại một vài mẫu xe. Chúng tôi tôn trọng chủ trương này nhưng cũng đề nghị Chính phủ cân nhắc sự phù hợp của các tiêu chí/điều kiện/thời gian bắt đầu áp dụng và những nội dung khác về “xe/dự án xe chiến lược”. Chúng tôi rất mong Chính phủ chia sẻ thông tin phân tích về rủi ro, lợi ích của chính sách này một cách minh bạch với doanh nghiệp trước khi thông qua, triển khai áp dụng.

f) Về TRUNG TÂM CUNG ỨNG PHỤ TÙNG, LINH KIỆN

Phát triển trung tâm cung ứng nội địa là đòi hỏi quan trọng đối với sự tăng trưởng, năng lực cạnh tranh chung của ngành ô tô. Do quy mô chung của ngành (~ 100.000 đơn vị) và năng lực cung ứng nội địa hạn chế hiện nay, chúng tôi đề nghị Chính phủ xác định mốc thời gian hợp lý/thực tế, trong đó có tính đến: a) thời hạn dự án, b) quy định về chất lượng, c) cạnh tranh thu hút đầu tư của các nước khác v.v.

Các vấn đề/đề xuất khác

• Cần đẩy nhanh tiến độ rà soát Quyết định 128, có tham khảo ý kiến với các nhà nhập khẩu CBU chính thức trước khi ban hành những quyết định có ảnh hưởng bất lợi đến doanh nghiệp nhập khẩu.

• Đề nghị ngừng áp dụng chính sách lấy mẫu kiểm tra bổ sung mức phát thải đối với xe nguyên chiếc mới nếu chứng nhận phát thải của nhà cung cấp OEM có tiêu chuẩn bằng hay cao hơn quy định của Việt Nam (trong trường hợp này là tiêu chuẩn EU2).

• Cho phép sử dụng phụ tùng tái chế tại Việt Nam vì đã có bảo hành của nhà sản xuất OEM, đồng thời giúp người tiêu dùng có được giải pháp hạ chi phí khi sửa chữa/bảo dưỡng xe. Những phụ tùng này không phải là phụ tùng cũ; đề nghị Chính phủ xem xét các chính sách liên quan đến vấn đề này.

KIẾN NGHỊ (Trung/dài hạn) Với chủ trương “ô tô hóa” và định hướng phát triển xe 4 bánh để làm phương tiện giao thông cá nhân chính trong tương lai hiện nay, đề nghị Chính phủ cân nhắc những yếu tố ảnh hưởng đến các giải pháp cho ngành ô tô của Việt Nam trong trung và dài hạn. Sau đây là một số giải pháp đề xuất:

a) Giải pháp thân thiện với môi trường:

Hiện nay các loại xe thân thiện với môi trường còn hạn chế, chủ yếu do vấn đề chi phí và cơ sở hạ tầng. Chính phủ nên cân nhắc khuyến khích ứng dụng các công nghệ mới thân thiện

Trang 3/6

Page 284: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Nhóm công tác Công nghiệp Ô tô, Xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

với môi trường trong ngành ô tô. Ngoài ra, đề nghị Chính phủ xem xét miễn thuế cho những loại xe thân thiện với môi trường với lộ trình xác định.

b) Hướng dẫn về Hiệu quả năng lượng/Phát thải Đề nghị Chính phủ cân nhắc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng vì điều kiện đường xá, giao thông đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện hiệu suất nhiên liệu. Ngoài ra, Chính phủ cũng nên bắt đầu xây dựng hướng dẫn về tiêu chuẩn hiệu suất nhiên liệu, như tiêu chuẩn CAFE (Hiệu suất nhiên liệu doanh nghiệp bình quân) ở các nước phát triển.

c) Giải pháp an toàn: Tuy xe 4 bánh an toàn hơn xe 2 bánh nhưng “ô tô hóa” cũng có một số vấn đề đi kèm, trong đó một vấn đề quan trọng là các “quy định an toàn” (như kỹ năng lái xe, tuân thủ luật giao thông, các bộ phận an toàn xe, nâng cấp cơ sở hạ tầng v.v.).

Vì vậy, Chính phủ cần tiếp cận vấn đề an toàn từ góc độ: - Người dân (thái độ chấp hành luật, kỹ năng lái xe, hành vi của hành khách và những

người tham gia giao thông khác) - Phương tiện (từng bước tăng cường các tính năng an toàn xe đạt đến mức tiêu chuẩn

khu vực) - Hạ tầng (đường xá, bến bãi, hệ thống điều khiển giao thông v.v.).

Những vấn đề nêu trên đều cần một thời gian nghiên cứu nhất định. Đề nghị Chính phủ thành lập một diễn đàn chung để thực hiện đối thoại rộng rãi giữa các bộ ngành liên quan, như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Giao Thông Vận tải, v.v., nhằm thảo luận, xây dựng khung chính sách với những nội dung, mốc thời gian chủ yếu cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.

2) NGÀNH CÔNG NGHIỆP XE MÁY Vấn đề: 1) Quyết định số 356 (Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ) có đề cập đến việc

hạn chế số lượng xe máy ở mức 36 triệu chiếc vào năm 2020. Do thiếu số liệu thống kê chính thức và minh bạch liên quan đến xe máy, giới hạn đề xuất đã đặt ra những khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp xe máy. Vấn đề này ảnh hưởng đến đầu tư kinh doanh hiện tại và đồng thời cũng ảnh hưởng đến các kế hoạch đầu tư trong tương lai.

2) Tăng Thuế Tiêu thụ đặc biệt. Đề xuất: Ngành công nghiệp xe máy Việt Nam đã và đang cung cấp phương tiện đi lại cho hàng triệu người dân Việt Nam trong nhiều năm qua. Hơn nữa, một trong những yêu cầu cấp thiết hiện tại là Chính phủ đưa ra một chiến lược dài hạn và thống nhất để phát triển ngành công nghiệp xe máy của Việt Nam. 1) Liên quan đến việc hạn chế số lượng xe máy: Kính đề nghị Chính phủ chia sẻ những dự định,

kế hoạch cần thiết để thị trường chạm ngưỡng 36 triệu xe. Ngoài ra Chính phủ cũng cần công bố số liệu của ngành công nghiệp xe máy một cách minh bạch, kịp thời và thường xuyên (số lượng đăng ký, số lượng xe lưu hành trên các tỉnh và cơ sở phân loại các loại xe

Trang 4/6

Page 285: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Nhóm công tác Công nghiệp Ô tô, Xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

theo dung tích xi lanh, loại hình vv.) Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp trong ngành có thể đưa ra các kế hoạch và hoạt động kinh doanh phù hợp.

2) Về tăng thuế tiêu thụ đặc biệt: Về Thuế Tiêu thụ đặc biệt (“Thuế TTĐB”) the Luật Thuế Tiêu thụ Đặc biệt 27/2008/QH12 ngày 1 tháng 4 năm 2009, mức thuế TTĐB 20% được áp dụng cho xe máy với dung tích 125cc trở lên. Việc sử dụng xe máy 150cc cũng tương tự như xe máy dung tích 125cc và không nên bị coi là sử dụng hàng cao cấp. Hơn nữa, việc tăng thuế TTĐB tạo ra áp lực đối với các xe được sản xuất trong nước và các nhà sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất Việt Nam sẽ không được khuyến khích để phát triển phân khúc sản phẩm này. Do đó, chúng tôi xin đề xuất rà soát cơ cấu thuế TTĐB và kiến nghj không nên áp dụng thuế TTĐB đối với xe máy.

Vấn đề (Tổng quan) a) Tăng lệ phí cấp biển số trên nhiều loại xe máy khác nhau

Có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2012 tại Hà Nội, và theo Quyết định của Chính phủ nhằm giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông tại các thành phố lớn, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã ban hành quy định tăng phí cấp biển số xe trên ba loại xe máy (xe có giá trị trên 40,000,000 đồng; xe có giá trị từ 15,000,000 đồng đến 40,000,000 đồng; xe có giá trị dưới 15,000,000 đồng). Theo đó, mức phí cao nhất là 4,000,000 đồng/xe được áp dụng với xe máy có giá trị hơn 40,000,000 đồng. Chúng tôi cho rằng hạn chế lượng xe lưu thông trên đường phố bằng cách tăng đáng kể lệ phí cấp biển số xe, đặc biệt đối với loại xe có giá trị cao hơn 40,000,000 không phải giải pháp hiệu quả cho vấn đề ùn tắc giao thông. Bởi phần lớn lượng xe lưu thông trong Hà Nội không thuộc nhóm có giá trị cao hơn 40,000,000 đồng Khuyến nghị

Trong ngắn hạn, không nên áp dụng mức phí cao nhất trên loại xe có giá trị hơn 40,000,000 đồng. Hơn nữa, đề nghị Chính phủ nghiên cứu các giải pháp bền vững hơn ví dụ như phát triển các phương tiện giao thông công cộng, cơ sở hạ tầng đường phố trong các thành phố lớn, đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ khi tham gia giao thông cho người tham gia giao thông. Các giải pháp này sẽ giải quyết vấn đề giao thông trong dài hạn

III. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP SẢN XUẤT XE CHỞ KHÁCH/XE THƯƠNG MẠI VÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP HAI BÁNH

1) Hiệu lực chưa rõ của Luật số 32/2013/QH13 Bối cảnh: Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2014 đề cập đến ưu đãi đầu tư vào các khu vực được hưởng ưu đãi thuế nói chung, các khu công nghiệp thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi nói riêng. Tuy nhiên, danh sách các khu công nghiệp được coi thuộc "địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi" và danh sách các khu vực được hưởng ưu đãi thuế vẫn chưa được ban hành. Điều này đã dẫn đến sự chậm trễ, tâm lý “chờ đợi và nghe ngóng” của các nhà đầu tư.

Đề xuất: Để tránh tiếp tục trì chậm trễ, kính đề nghị Chính phủ (cụ thể là Bộ Tài chính) sử dụng Nghị định 42/2009/ND-CP hiện hành (về Phân loại đô thị) để tham khảo trong việc xác định địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội thuận lợi. Hơn nữa, danh sách các khu công nghiệp được coi là

Trang 5/6

Page 286: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Báo cáo Nhóm công tác Công nghiệp Ô tô, Xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

thuộc “địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cũng nên nằm trong danh sách chung về các khu vực được hưởng ưu đãi thuế.

2) Quy trình xây dựng luật và chính sách Ngành công nghiệp ô tô, xe máy đã bị ảnh hưởng bởi sự chậm trễ trong việc thực thi các thay đổi chính sách, ví dụ: việc giảm lệ phí đăng ký xe trong năm 2013. Đã mất 3 tháng để thực hiện các cơ cấu chi phí mới kể từ khi Chính phủ đưa ra Nghị quyết 02 ngày 7/1/2013 cho đến khi Nghị định 23/2013/NĐ-CP ngày 25/3/2013 có hiệu lực vào ngày 1/4/2013. Kết quả là việc mua bán đã bị trì hoãn và ngành công nghiệp nói chung đã bị ảnh hưởng trong giai đoạn này. Đề xuất: Kính đề nghị cải thiện thời gian lập kế hoạch từ ngày ra quyết định, công bố và có hiệu lực. Ngoài ra, chúng tôi kêu gọi Chính phủ thảo luận về các đề xuất và thay đổi với các cơ quan, tổ chức liên quan của ngành để đánh giá ý nghĩa của sự thay đổi trước khi công bố các đề xuất cho các phương tiện truyền thông. IV. KẾT LUẬN Liên kết làm việc và hợp tác để giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực ô tô, xe máy từ đó giúp phát triển ngành công nghiệp này và tăng nguồn thu nhập thuế cho Chính phủ. Các doanh nghiệp/nhà sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp ô tô, xe máy tại Việt Nam cam kết phát triển ngành công nghiệp này và xin đề nghị Chính phủ cân nhắc những yếu tố quan trọng đề cập ở trên đối với xe chở khách, xe thương mại (CBU-CKU) và cả xe mô tô hai bánh.

Trang 6/6

Page 287: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề công nghiệp ôtô, xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TÓM TẮT BÀN TRÒN THẢO LUẬN CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI CÔNG NGHIỆP ÔTÔ, XE MÁY

- Thời gian: 14:00, Thứ Hai, 17/02/2014 - Địa điểm: Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Số 6B Hoàng Diệu, Hà Nội - Danh sách tham dự: Phụ lục 1 Ông Gaurav Gupta – Trưởng Nhóm Công tác Công nghiệp Ôtô, Xe máy, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Dù ngành công nghiệp ô tô Việt Nam có hơn 20 doanh nghiệp sản xuất ôtô và 40 thương

hiệu, tăng trưởng toàn ngành vẫn chưa đạt mức mong muốn của cả nhà đầu tư và Chính phủ. Tổng sản lượng toàn ngành năm 2013 đạt khoảng 100.000 đơn vị, trong đó 80% là CKD. Năng lực sản xuất toàn ngành sử dụng thực tế chỉ đạt xấp xỉ 20% trên tổng công suất gần 500.000 đơn vị.

- Yếu tố chính để thu hút đầu tư và lòng tin của nhà đầu tư là sự ổn định và nhất quán trong

chính sách. Do đó chúng tôi đề nghị Chính phủ cần đảm bảo các chính sách tăng cường năng lực cạnh tranh về chi phí trong sản xuất CKD và sự tăng trưởng cần bền vững và nhất quán trong các kỳ giai đoạn.

- Quy mô thị trường hiện nay chỉ khoảng 20% tổng công suất và nguyên tắc chủ đạo trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh về chi phí bền vững đối với sản xuất CKD là phải xóa bỏ chênh lệch chi phí giữa CKD và CBU. Điều này là đặc biệt quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thực thi của AFTA vào năm 2018. Đây là một lĩnh vực rất quan trọng, thu hút mối quan tâm đặc biệt từ khía cạnh đầu tư trong tương lai và tầm nhìn hoạch định kế hoạch.

Cần có chính sách ưu đãi phù hợp liên quan đến sản xuất CKD để thu hẹp khoảng cách giữa CBU và CKD. Thứ hai, đề xuất phương pháp áp dụng Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với CBU và CKD là như nhau. Bên cạnh đó, Kiểm soát chặt chẽ hơn ô tô nhập khẩu, kiểm tra giá ô tô nhập khẩu khai hải quan, thắt chặt kiểm soát ô tô “đã qua sử dụng” nhập khẩu.

- Để giúp ngành công nghiệp nói chung, các điểm chính mà chúng tôi đã đề nghị là xem xét

giảm thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng giúp giá cả phù hợp với túi tiền người dân hơn. Điều này sẽ thúc đẩy ngành công nghiệp nói chung và tăng cường niềm tin của các nhà đầu tư trên thị trường. Tăng cường hỗ trợ tài chính hỗ trợ người tiêu dùng mua xe.

- Về sân chơi bình đẳng, điều quan trọng là mọi chính sách, quy chế mới chỉ được coi là đủ điều kiện áp dụng sau khi đã dành ra một khoảng thời gian đủ để doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động theo quy định, chính sách mới. Điều này cũng giúp hiện thực hóa phương châm “công bằng trong thực hiện chính sách”.

- Dựa trên đánh giá từ tháng 12, chúng tôi hiểu rằng dự án xe chiến lược đã được dừng lại, vì vậy chúng tôi sẽ không thảo luận vấn đề này hôm nay.

- Chúng tôi đề nghị Chính phủ xác định mốc thời gian hợp lý/thực tế để khuyến khích đầu tư phát triển trung tâm cung ứng phụ tùng, liên kiện nội địa. Điều này góp phần rất quan trọng cho sự phát triển tổng thể và khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp ô tô.

Trang 1/5

Page 288: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề công nghiệp ôtô, xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Ngành công nghiệp xe máy:

+ Một trong những mối quan tâm chính của các thành viên của ngành công nghiệp xe máy

là Quyết định số 356: hạn chế số lượng xe máy ở mức 36 triệu chiếc vào năm 2020. Cùng với thuế tiêu thụ đặc biệt mới tăng, các yếu tố này đang tác động đến ngành công nghiệp xe máy. Ngành công nghiệp xe máy đã và đang cung cấp phương tiện đi lại cho hàng triệu người dân Việt Nam trong nhiều năm qua. Vì vậy sẽ rất hữu ích nếu Chính phủ có thể chia sẻ những dự định, kế hoạch cần thiết để thị trường chạm ngưỡng 36 triệu xe. Điều này cũng sẽ giúp các doanh nghiệp trong ngành có thể đưa ra các kế hoạch và hoạt động kinh doanh phù hợp.

+ Mối quan tâm thứ hai là việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe máy có công suất trên 125cc. Việc sử dụng xe máy 150cc cũng tương tự như xe máy dung tích 125cc và không nên bị coi là sử dụng hàng cao cấp. Do đó chúng tôi xin đề xuất rà soát lại cơ cấu thuế tiêu thụ đặc biệt và kiến nghị không nên áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe máy.

- Các vấn đề phổ biến của ngành công nghiệp sản xuất xe chở khách/ xe thương mại và ngành

công nghiệp xe máy + Hiệu lực chưa rõ của Luật số 32 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế Thu nhập

doanh nghiệp. Để tránh tiếp tục chậm trễ, kính đề nghị Chính phủ (cụ thể là Bộ Tài chính) sử dụng Nghị định 42/2009/ND-CP hiện hành (về Phân loại đô thị) để tham khảo trong việc xác định địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội thuận lợi. Hơn nữa, danh sách các khu công nghiệp được coi là thuộc “địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cũng nên nằm trong danh sách chung về các khu vực được hưởng ưu đãi thuế.

+ Quy trình xây dựng luật và chính sách: Chúng tôi đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong giảm lệ phí trước bạ. Tuy nhiên, chính sách này phải mất một khoảng thời gian đáng kể từ lúc thông báo đến khi được thực hiện trên thực tế. Vì vậy, kính đề nghị Chính phủ cải thiện thời gian lập kế hoạch từ ngày ra quyết định, công bố và có hiệu lực bởi vấn đề này ảnh hưởng đến ngành công nghiệp nói chung.

Bà Trần Thị Tuyết – Phó Trưởng phòng, Vụ Chính sách Thuế, Bộ Tài chính Các vấn đề về Ôtô - Phương pháp áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với CBU và CKD: Việt Nam đã gia nhập WTO

nên không có sự phân biệt về thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt giữa CBU và CKD.

- Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô: Dự thảo Luật đang lấy ý kiến các bộ ngành không có sửa đổi theo hướng tăng hay giảm thuế tiêu thụ đặc biệt.

- Ưu đãi thuế, miễn thuế đối với xe thân thiện với môi trường: Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt đã có quy định. Cụ thể, xe ô tô chạy bằng năng lượng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học có thuế suất bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại. Xe ô tô chạy bằng năng lượng sinh học có thuế suất bằng 50%mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại.

Trang 2/5

Page 289: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề công nghiệp ôtô, xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Vấn đề thuế thu nhập doanh nghiệp: Điều 16 Nghị định 218/2013/NĐ-CP đã giải thích rõ về

địa bàn ưu đãi thuế, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi. Các vấn đề về xe máy - Thuế tiêu thụ đặc biệt với xe máy: tại lần trình Quốc hội ban hành Luật Thuế Tiêu thụ đặc

biệt năm 2008, có ý kiến cho rằng chỉ thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe có dung tích từ 150cc trở lên. Tuy nhiên, trong quá trình lấy ý kiến, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng xe mô tô có dung tích 125cc trở lên là xe mô tô có giá trị lớn, chủ yếu được các bộ phận dân cư có thu nhập khá sử dụng, nên việc đưa xe có dung tích 125cc vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là nhằm hạn chế sử dụng các phương tiện cá nhân có phân khối lớn, góp phần khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và giảm ô nhiễm môi trường. Trong dự thảo luật đang được lấy ý kiến các bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp, hiệp hội, nội dung về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe mô tô không có sự thay đổi.

Thành viên Nhóm Công tác Công nghiệp Ôtô, Xe máy, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Vấn đề xe thân thiện với môi trường: ví dụ xe chạy từ điện, vừa xăng vừa điện cũng như khí

sinh học được hưởng ưu đãi với mức thuế suất bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho các xe cùng loại. Nhưng cho đến thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng như lắp ráp trong nước chưa hiểu rõ chi tiết quy định cụ thể tiêu chuẩn các loại xe để hưởng chính sách 70% thuế tiêu thụ đặc biệt.

Bà Trần Thị Tuyết – Phó Trưởng phòng, Vụ Chính sách Thuế, Bộ Tài chính - Xe chạy bằng điện: hiện Luật quy định đối với xe dưới 9 chỗ thuế suất là 25%, xe 10-16 chỗ

là 15%, xe 16-24 chỗ là 10%. Đối với xe hybrid, nghiên cứu phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ chỉ ra rằng xe hybrid không đáp ứng được điều kiện của xe vừa chạy bằng xăng kết hợp với năng lượng điện, mà nguồn này hoạt động độc lập, tức là chạy bằng xăng trước rồi tích vào điện và sau đó chạy bằng điện. Loại xe này không đáp ứng được điều kiện về ưu đãi theo biểu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Ông Phạm Anh Tuấn – Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công thương - Vấn đề dòng xe chiến lược: Tại cuộc họp gần đây, lãnh đạo Chính phủ đã chỉ đạo kế hoạch

phát triển công nghiệp ôtô, chú trọng phát triển dòng xe tải nhỏ, xe công nông, xe phục vụ nông nghiệp phù hợp với cơ sở hạ tầng giao thông trong nước. Như vậy, không còn khái niệm dòng xe chiến lược.

Ông Gaurav Gupta – Trưởng Nhóm Công tác Công nghiệp Ôtô, Xe máy, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Một trong những mối quan tâm chính của ngành công nghiệp ô tô là khoảng cách về giá

giữa CKD và CBU cho cùng một mẫu xe. Chúng tôi kính đề nghị Chính phủ xem xét một số biện pháp để loại bỏ chênh lệch chi phí giữa CKD và CBU. Hiện nay, vẫn chưa có định hướng rõ ràng giúp ngành công nghiệp ở Việt Nam có thể tồn tại vào năm 2018 khi thuế nhập khẩu linh kiện từ các nước ASEAN khác là bằng 0%.

- Thuế TTĐB: Chúng tôi tôn trọng quan điểm cho rằng thu thuế TTĐB áp dụng CBU và CKD như nhau, như WTO đã nêu ra. Tuy nhiên, chúng tôi có khuyến nghị về phương pháp tính thuế TTĐB đối với CKD và CBU. Đây là nhân tố làm phát sinh chênh lệch chi phí của CKD và CBU.

Trang 3/5

Page 290: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề công nghiệp ôtô, xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Hải quan: Trong một số trường hợp, xe ô tô nhập khẩu được khai báo giá trị thậm chí còn

thấp hơn so với chi phí sản xuất. Ví dụ như một chiếc xe nhập khẩu vào Việt Nam có trị giá khai báo nhập khẩu là 10.000 USD, nhưng ngay cả trong nước sở tại sản xuất xe, giá trị của xe cũng không rẻ như vậy. Do đó, chúng tôi kính đề nghị Chính phủ xem xét vấn đề này để tránh thất thu về thuế.

- Nhóm Công tác mong muốn được cập nhật những ưu đãi, khuyến khích để phát triển ngành

công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam. Trong khi các nước láng giềng như Thái Lan, Malaysia và Indonesia, vv… cũng có những điểm hấp dẫn như Việt Nam? Những động lực nào sẽ thu hút nhà đầu tư tới Việt Nam?

- Số lượng xe máy: chúng tôi ghi nhận cách tiếp cận của Bộ GTVT trong cách tiếp cận tính

toán số lượng xe ô tô, xe máy lưu thông trên đường của Việt Nam cho đến năm 2030. Trong văn bản, chúng tôi mong muốn được thông tin nhiều hơn về cách tiếp cận này và phương pháp tính toán để ra kết quả giới hạn 36 triệu xe trong ngành công nghiệp xe máy tại Việt Nam.

Bà Đại Khả Quỳnh – Phụ trách Pháp chế, Công ty Piaggio - Quyết định 356 về hạn chế số lượng xe máy: quy định này sẽ được thực thi trên thực tế như

thế nào? Bởi quy định sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất của ngành xe máy. Khi quyết định được áp dụng, cần có cơ chế minh bạch, công khai thông tin lượng xe máy đã được đăng ký để doanh nghiệp điều tiết kế hoạch sản xuất.

Ông Nguyễn Văn Dũng – Giám đốc Chi nhánh Hà Nội, Audi - Vấn đề xe xăng và điện: theo xu hướng hiện tại, xe xăng và điện là một trong những dạng xe

được ưu đãi. Xin đề nghị có một buổi họp với Bộ KHCN và Bộ Tài chính để trao đổi cụ thể. Ví dụ, một số nước ghi nhận chuẩn CO2/km để quy định về quy chuẩn thân thiện môi trường.

- Vấn đề thủ tục hành chính: Vấn đề liên quan đến Bộ GTVT, những xe sản xuất trong nước

cũng như xe nhập khẩu khi mới nhập về Việt Nam cũng như khi vừa sản xuất tại nhà máy đều đã được đăng kiểm tại nhà máy hoặc được đăng kiểm tại địa điểm nhập khẩu xe. Sau đó khi bán cho người tiêu dùng thì lại phải đi đăng kiểm một lần nữa. Đề nghị Bộ xem xét giảm bớt thủ tục hành chính cho các nhà kinh doanh cũng như người tiêu dùng.

- Việc lấy số liệu thống kê của lượng xe đăng ký tại Việt Nam đối với các doanh nghiệp ô tô tại

Việt Nam rất khó khăn. Xin đề nghị cho phép các doanh nghiệp có thể hàng quý hoặc hàng tháng xin thông tin về lượng xe đăng ký chính xác tại Việt Nam để thể có kế hoạch kinh doanh cụ thể hơn và dài hạn hơn.

- Hiện Bộ Tài chính có quy định đối với xe trên 1 tỉ 6 thì không được khấu hao và hoàn VAT.

Chính sách này nhằm hạn chế tiêu dùng đối với mặt hàng đặc biệt xa xỉ. Nhưng đối với những doanh nghiệp tư nhân ô tô, mặt hàng này không phải kinh doanh xa xỉ, mà là một trong những phương tiện kinh doanh. Kiến nghị Bộ Tài chính xem xét lại đối với những doanh nghiệp kinh doanh xe ô tô, cho phép những xe này được khấu hao hết cũng như hoàn thuế VAT. Vì đây là một phương tiện kinh doanh, không phải là tiêu dùng xa xỉ nếu như bán cho người tiêu dùng.

Trang 4/5

Page 291: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Tóm tắt bàn tròn thảo luận các vấn đề công nghiệp ôtô, xe máy Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Ông Nguyễn Ngọc Dũng – Phó Vụ trưởng, Vụ Vận tải, Bộ Giao thông Vận tải - Về cách tính giới hạn 36 triệu xe máy: ngành giao thông có viện chiến lược và phát triển giao

thông vận tải. Các nhà khoa học ở viện nghiên cứu có trách nhiệm trình đề án ban đầu cho Bộ và sau đó Bộ sẽ chủ trì xử lí để trình Chính phủ. Căn cứ vào dự báo nhu cầu vận tải, trong đó có cả vận tải hành khách và vận tải hàng hoá, từ đó tính ngược lại số lượng phương tiện là bao nhiêu.

Phụ lục 1 – Danh sách tham dự

TT Họ và tên Chức danh Đơn vị Đại diện Bộ, ngành liên quan

1 Ông Đỗ Nhất Hoàng Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

2 Ông Phạm Anh Tuấn Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công thương

3 Ông Nguyễn Ngọc Dũng Phó vụ trưởng Vụ vận tải, Bộ Giao thông vận tải

4 Bà Trần Thị Tuyết Phó trưởng phòng Vụ Chính sách thuế - Bộ Tài chính

5 Bà Lê Thủy Trang Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

6 Ông Lê Thành Quân Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

7 Ông Nguyễn Quốc Thắng C67 - Bộ Công an Cục Cảnh sát giao thông 8 Ông Trần Văn Hà C67 - Bộ Công an Cục Cảnh sát giao thông 9 Bà Trần Thảo Hạnh Trưởng phòng Cục Đầu tư nước ngoài

Thành viên Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

1 Ông Gaurav Gupta Trưởng Nhóm Nhóm Công tác Công nghiệp Ôtô, Xe máy

2 Ông Nguyễn Văn Dũng Giám đốc Chi nhánh Hà Nội Audi

3 Ông Temmy Wiradjaja Giám đốc VPĐD Mercedes-Benz khu vực phía Bắc

4 Bà Hoàng Thị Kim Huế Phụ trách đối ngoại Mercedes-Benz Vietnam Ltd.

5 Ông Hồ Hải An Phụ trách khối doanh nghiệp Honda

6 Ông Nguyễn Mạnh Hùng Trợ lý giám đốc Honda

7 Ông Phạm Anh Tuấn Trưởng Bộ phận Kế hoạch chiến lược Toyota Motor Vietnam

8 Bà Trần Thu Mai Phụ trách quan hệ công chúng Piaggio Việt Nam

9 Bà Đại Khả Quỳnh Phụ trách pháp chế Piaggio Việt Nam

10 Ông Hồ Mạnh Tuấn Phó Tổng giám đốc thứ nhất Honda

11 Ông Hồ Hải Anh Trưởng phòng cao cấp đối ngoại Honda

12 Ông Nguyễn Mạnh Hùng Phòng đối ngoại Honda

Trang 5/5

Page 292: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến về dự thảo Nghị định về quản lý trang thiết bị y tế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ Y TẾ

Chuẩn bị bởi AmCham Việt Nam

Chúng tôi rất hoan nghênh các nỗ lực của Việt Nam trong việc tạo ra các quy định hợp lý và cần thiết để phản ánh tầm quan trọng và sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực trang thiết bị y tế. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng một số quy định trong Dự thảo, nếu được thực thi theo đúng nội dung trong dự thảo, sẽ có thể gây khó khăn cho việc cung cấp các trang thiêt bị y tế có hiệu quả kinh tế cao, đáng tin cậy và an toàn để phục vụ cho sức khỏe của người dân Việt Nam, sự phát triển của ngành sản xuất trang thiết bị y tế tại Việt Nam, nguồn nhân lực và nền kinh tế hiện đại của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam được hưởng lợi rất nhiều từ đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất trang thiết bị y tế - những khoản đầu tư góp phần cung cấp cho người lao động Việt Nam những công việc tốt hơn với tiền lương cao hơn. Việc sản xuất trang thiết bị y tế đòi hỏi các nhân viên phải có tay nghề cao và từ đó tạo ra cho ngành sản xuất trong nước một cơ hội để chuyển đổi từ sản xuất công nghệ thấp sang sản xuất công nghệ cao - từ đó hỗ trợ cho sự phát triển nguồn nhân lực của Việt nam. Hơn nữa, sản xuất trang thiết bị y tế là một ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao và sẽ là một thành phần thiết yếu cho năng lực cạnh tranh trong tương lai của Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu. Đây chính là loại công nghệ mà Việt Nam cần phát triển để có thể đi lên trong chuỗi giá trị công nghệ, phù hợp với một quốc gia với thu nhập trung bình. Với các quy định phù hợp và sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam, chúng tôi tin tưởng rằng lĩnh vực sản xuất trang thiết bị y tế sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, các thành viên của chúng tôi đang đặc biệt lo ngại về phạm vi điều chỉnh rất rộng của Dự thảo này - điều chỉnh tất cả các trang thiết bị y tế sản xuất tại Việt Nam, kể cả những trang thiết bị y tế được xuất khẩu.1 Rất nhiều các trang thiết bị y tế hiện nay đang được sản xuất, nhưng không sử dụng hay lưu hành, tại Việt Nam. Những sản phẩm này đã đáp ứng được các quy định của các quốc gia nơi sản phẩm được sử dụng (ví dụ như Cục Quản lý Thực phẩm và Thuốc Hoa Kỳ). Nếu Dự thảo được thực hiện như hiện nay được viết, những nhà sản xuất các thiết bị y tế này sẽ phải chịu thêm một sốgánh nặng không cần thiết. Lấy ví dụ, Dự thảo không chỉ ra rõ rằng những trang thiết bị y tế sản xuất tại Việt Nam, nhưng được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, có phải đáp ứng quy định về thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam trước khi xuất khẩu không. Nếu có thì điều này sẽ ngăn cản việc mở rộng của các khoản đầu tư hiện giờ cũng như ngăn cản các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài mới vào lĩnh vực sản xuất trang thiết bị y tế tại Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi muốn góp ý kiến về vấn đề này như sau: (i) cần quy định rằng các trang thiết bị y tế được sản xuất tại Việt Nam với mục đích xuất khẩu và không sử dụng tại Việt Nam sẽ không phải qua thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam; và (ii) cần thêm các trang thiết bị y tế được sản xuất tại Việt Nam với mục đích xuất khẩu và không sử dụng tại Việt Nam vào danh sách các trang thiết bị y tế được miễn đăng ký lưu hành tại Điều 22 của Dự thảo.

1Dự thảo, Điều 1.

Trang 1/2

Page 293: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Ý kiến về dự thảo Nghị định về quản lý trang thiết bị y tế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Một vấn đề lớn khác mà các thành viên của chúng tôi cũng rất lo ngại về là, khi được diễn giải cùng nhau, Điều 25.1 và 25.2 của Dự thảo có thể sẽ ngăn cản không cho các doanh nghiệp nước ngoài, hoặc Văn phòng đại diện của họ, đăng ký các trang thiết bị y tế để kinh doanh tại Việt Nam dưới tên của chính họ. Theo Điều 25.1 của Dự thảo, chủ sở hữu nước ngoài của các trang thiết bị y tế có thể đăng ký chúng bằng cách: (i) ủy quyền cho một doanh nghiệp Việt Nam thay mặt họ đăng ký các trang thiết bị này, hoặc (ii) đăng ký các trang thiết bị y tế này thông qua Văn phòng đại diện của chủ sở hữu nước ngoài tại Việt Nam. Theo Điều 25.2, bất kỳ tổ chức nào đăng ký trang thiết bị y tế cũng đồng thời phải: (1) thành lập cơ sở bảo dưỡng tại Việt Nam, hoặc (2) ký kết hợp đồng với các chủ thể khác có khả năng cung cấp các dịch vụ bảo dưỡng tại Việt Nam. Tuy nhiên, do phạm vi hoạt động được phép của một văn phòng đại diện theo Luật Thương mại có nhiều giới hạn, Văn phòng đại diện không được phép thành lập cơ sở bảo dưỡng tại Việt Nam, hay ký kết hợp đồng với nhà cung cấp dịch vụ bảo dưỡng tại Việt Nam. Vì vậy, khi kết hợp lại với nhau, các quy định của Điều 25.1 và 25.2 có vẻ như đang ngăn cản không cho chủ sở hữu trang thiết bị y tế nước ngoài, và Văn phòng đại diện của họ, đăng ký các trang thiết bị y tế của họ dưới tên của chính mình để kinh doanh tại Việt Nam. Chúng tôi rất trân trọng những công sức mà Quý Bộ đã bỏ ra để chuẩn bị cho Dự thảo này và chúng tôi xin kính đề nghị Quý Bộ sẽ xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng các đóng góp và ý kiến chi tiết của chúng tôi. Chúng tôi tin rằng những biện pháp này sẽ cho cộng đồng doanh nghiệp thấyrằng cam kết của Việt Nam để tạo ra các quy định thích hợp và cần thiết về trang thiết bị y tế là phù hợp với môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài lành mạnh và đang phát triển của lĩnh vực sản xuất trang thiết bị y tế.

Trang 2/2

Page 294: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

PHẦN VIII

PHỤ LỤC

Page 295: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Hà Nội, 03/12/2013

PHÁT BIỂU KHAI MẠC Chính phủ Việt Nam – Ngài Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp đã có nhiều cải tiến trong cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, đánh dấu sự lớn mạnh của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài các nhóm công tác truyền thống, một số nhóm công tác mới đã được thành lập, mở rộng thêm phạm vi bao quát của Diễn đàn. Việc không ngừng phát triển thêm các thành viên tham gia Diễn đàn đồng nghĩa với việc Diễn đàn đang hoạt động ngày càng có hiệu quả, phản ánh được tiếng nói, nguyện vọng của các nhà đầu tư. Ngược lại, nhờ những thông tin, kiến nghị mang tính chất xây dựng từ phía doanh nghiệp, Chính phủ và các cơ quan thuộc Chính phủ đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu, điều chỉnh nhiều chính sách quan trọng theo hướng phù hợp. Tại Diễn đàn lần này, chủ đề “Giai đoạn mới của tiến trình cải cách kinh tế - Từ Chương trình tới Hành động” tiếp tục được lựa chọn để nhấn mạnh tầm quan trọng của những hành động cụ thể cho tiến trình cải cách kinh tế, trong đó, trọng tâm là cải cách doanh nghiệp nhà nước. Tổ chức Tài chính quốc tế - Ông Simon Andrews, Giám đốc khu vực Dù đạt được nhiều bước tiến trong 12 tháng qua, Việt Nam vẫn cần triển khai nhiều hoạt động để phát triển kế hoạch toàn diện nhằm tái cấp vốn cho ngành ngân hàng, tăng cường mức độ trách nhiệm và tính minh bạch. Đặc biệt đối với khối các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), cần có các chính sách ưu đãi thích hợp để doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả trên nền tảng của một sân chơi bình đẳng. Quản trị, trách nhiệm và tính minh bạch là những yếu tố quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang cần các doanh nghiệp hoạt động năng suất và hiệu quả. Việt Nam có đầy đủ những tiềm lực để phát triển kinh tế thành công. Tuy nhiên, khả năng ra quyết định kém hiệu quả trong bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào cũng có thể dẫn đến sự không bền vững, làm hao mòn các giá trị và suy yếu hoạt động kinh tế. Các Hiệp định quan hệ đối tác thương mại trong khu vực sẽ đem lại cơ hội kinh tế rất lớn cho Việt Nam, ví dụ như Hiệp định Quan hệ đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh trong một thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam mạnh mẽ hơn, phát triển tốt hơn và có khả năng thành công trong một môi trường kinh tế toàn cầu năng động và không ngừng thay đổi. Nhận thấy các cơ hội trên, VBF đã thành lập hai nhóm công tác mới, Nhóm Công tác Quản trị và Minh bạch, tập trung vào các vấn đề liên quan tới quản trị công ty và các vấn đề ra quyết định của công ty; Nhóm Công tác Nông nghiệp, tập trung nghiên cứu các cơ hội và các hiệp định thương mại liên quan tới lĩnh vực nông nghiệp. Khi Việt Nam đang tích cực đón nhận những cơ hội lớn này, VBF sẽ luôn sẵn sàng ủng hộ doanh nghiệp và Chính phủ để chuẩn bị tốt cho giai đoạn mới của quá trình cải cách kinh tế.

Trang 1/18

Page 296: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Đánh giá về tình hình kinh tế cả năm 2013 vừa qua, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ghi nhận những nỗ lực lớn lao của Chính phủ trong bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Thời gian qua, các nhà đầu tư cũng cảm thấy được khích lệ trước nỗ lực của Chính phủ, các Bộ - Ngành, địa phương trong việc cải thiện hệ thống hạ tầng và tích cực tham gia đàm phán các Hiệp định Thương mại quốc tế đa phương và song phương. Tuy vậy, năm 2013 vừa qua tiếp tục là một năm vất vả cho cộng đồng doanh nghiệp với số lượng doanh nghiệp đóng cửa, giải thể vẫn còn cao. Nỗ lực của Chính phủ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian qua dù đã có những tác động tích cực nhưng nhiều doanh nghiệp cho rằng họ chưa được thực sự hưởng lợi. Doanh nghiệp mong muốn Chính phủ kiên định ổn định kinh tế vi mô, kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng bền vững. Để nhanh chóng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam trong thời gian tới, chúng tôi đề xuất 02 nhóm giải pháp lớn. Về nhóm giải pháp thứ nhất, cần nhanh chóng cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước. Các giải pháp chúng tôi đề nghị bao gồm: Áp dụng triệt để các nguyên tắc kỉ luật thị trường trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân; áp dụng các nguyên tắc quản trị hiện đại, tăng tính minh bạch trong quản trị đối với doanh nghiệp nhà nước; tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện quyền sở hữu của nhà nước. Ngoài ra, Chính phủ cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và thoái vốn các doanh nghiệp nhà nước ra khỏi nhiều lĩnh vực kinh doanh để chuyển một phần nguồn lực quan trọng sang các công việc khác cấp bách và cần thiết hơn. Về nhóm giải pháp thứ hai, đề xuất Chính phủ xây dựng và thực hiện một chương trình tăng tốc để Việt Nam có thể trở thành một quốc gia hàng đầu trong khu vực ASEAN về sự thông thoáng và hấp dẫn của môi trường đầu tư. Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa các thủ tục hành chính và xét cắt giảm mạnh các chi phí thực hiện thủ tục hành chính, tăng cường đối thoại giữa Chính phủ và các nhà đầu tư, áp dụng các thủ tục hành chính điện tử, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trách nhiệm và sự liêm chính của đội ngũ cán bộ. Tham gia tích cực và thúc đẩy cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam đã thành lập nhóm công tác chuyên trách về quản trị và minh bạch, và VCCI đã đề xuất Sáng kiến 12, Đề án 12 về liêm chính doanh nghiệp. Phòng Thương Mại và Công nghiệp Hoa Kỳ (AmCham) – Ông Steven Winkelman, Chủ tịch AmCham tin tưởng rằng Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã cho thấy Việt Nam coi trọng việc đổi mới mô hình kinh tế, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân và hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước trong kích thích cạnh tranh. Việt Nam không phải là quốc gia đầu tiên gặp phải khó khăn trong việc ra các quyết định liên quan tới doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, nhưng AmCham tin tưởng vào việc cải cách là hoàn toàn tích cực, khả thi. TPP sẽ mang lại cơ hội mới giúp Việt Nam đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và đổi mới mô hình tăng trưởng của đất nước. Các hội viên của chúng tôi hy vọng rằng Hiệp định TPP sẽ giúp gỡ bỏ các rào cản thương mại và phát triển bộ tiêu chuẩn về quyền của người lao động, bảo vệ môi trường và quyền sở hữu trí tuệ. Quan trọng hơn, các nghiên cứu cho thấy Việt Nam sẽ là quốc gia hưởng lợi nhiều nhất trong số các quốc gia đang đàm phán ký kết Hiệp định này, với tiềm năng tăng trưởng về xuất khẩu và GDP có thể sẽ cao hơn nhiều so với các quốc gia đối tác khác. Việc Việt Nam tham gia vào TPP cũng rất quan trọng đối với cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ bởi nó sẽ giúp thúc đẩy niềm tin của nhà đầu tư và duy trì vị thế của Việt Nam là một điểm đến

Trang 2/18

Page 297: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

hấp dẫn và đầy sức cạnh tranh đối với đầu tư nước ngoài. Các thành viên của chúng tôi mong muốn được thấy rõ hơn sự quyết tâm của Chính phủ trong việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả cũng như vấn đề tham nhũng và xung đột lợi ích. Nếu các vấn đề quản lý cơ bản không được giải quyết, quá trình phát triển sẽ gặp nhiều thách thức. Chúng tôi rất mong muốn được chứng kiến sự thành công của Việt Nam, và AmCham luôn cam kết phối hợp cùng với các đối tác trong Chính phủ để cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư ở Việt Nam. Phòng Thương mại và Công nghiệp Châu Âu (EuroCham) – Ông Preben Hjortlund, Chủ tịch Tuy đã một số thành công trong ổn định kinh tế vĩ mô, có nhiều vấn đề vẫn cần được quan tâm như vấn đề doanh nghiệp nhà nước, đối tượng nhận được đối xử ưu đãi hơn. EuroCham tin rằng Chính phủ cần cải tổ những doanh nghiệp nhà nước này để phát triển một thị trường cạnh tranh hơn. Về mặt tích cực, Hiệp định Thương mại tự do EU – Việt Nam dự kiến sẽ được ký kết vào năm 2014 và chúng tôi tin rằng Hiệp định này sẽ mang lại lợi ích đáng kể cho EU và Việt Nam. Tuy nhiên, những lợi ích tiềm năng từ Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam chỉ có thể được hiện thực hóa khi Việt Nam cam kết hoàn toàn và bảo đảm thực thi hiệu quả các quy định thương mại quốc tế. EuroCham cũng tin rằng Hiệp định TTP sẽ giúp gia tăng xuất khẩu và giúp khu vực tư nhân mở rộng tiếp cận với thị trường, đồng thời đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về mặt định giá công bằng, chúng tôi đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong việc loại bỏ các biện pháp bình ổn giá không thực tế. Tương tự như vậy là trường hợp của Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) và lĩnh vực năng lượng tái tạo, các lĩnh vực cần mức giá hợp lý hơn để khuyến khích đầu tư. Về thuế, hiện đang tồn tại vấn đề liên quan đến xuất khẩu cafe và thuế giá trị gia tăng khi từ tháng 1, 2013 Chính phủ đã cho phép doanh nghiệp tự in hóa đơn thuế giá trị gia tăng. Tuy vậy, nhiều hóa đơn trong số đó không được các địa phương chấp nhận và chỉ có hóa đơn thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp nhà nước là được chấp nhận. Các thành viên của EuroCham vẫn cam kết đầu tư vào Việt Nam, chúng tôi có trình bày các vấn đề và đề xuất cụ thể trong ấn bản phẩm Sách Trắng mới được công bố. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JBAV) – Ông Motonobu Sato, Chủ tịch Tuy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam là rất đáng kể nhưng các doanh nghiệp Nhật Bản chưa thực sự hài lòng với môi trường đầu tư hiện tại của Việt Nam. Những vấn đề liên quan tới lĩnh vực đầu tư đã được trình bày trong sách VBF. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là quá trình cổ phần hóa của các doanh nghiệp trong nước, một vấn đề cấp thiết để thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, thông qua việc tăng cường giá trị và tính cạnh tranh trên thị trường. Động lực mở rộng thị trường sẽ được thúc đẩy qua cơ chế ASEAN+1, TPP và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện Đông Á. Các doanh nghiệp Nhật Bản luôn sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Cần có những quyết định rõ ràng về các vấn đề cần giải quyết nhanh chóng. Nhóm Doanh nghiệp Singapore (SBG) – Ông Seck Yee Chung, Phó Chủ tịch Chúng tôi được khích lệ bởi những điểm sáng như sự tăng trưởng và sản xuất công nghiệp, nhưng ngay lúc này cần tập trung quan tâm tới vấn đề tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một trong những nền tảng chủ lực của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, có thể nói nhiều doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động thiếu hiệu quả và phát sinh lỗ. Nhìn chung, doanh nghiệp nhà nước có mục tiêu thương mại hoặc phi thương mại. Mục tiêu phi thương mại phục vụ những nhiệm vụ xã hội và duy trì quản lý của nhà nước đối với tài nguyên thiên nhiên và cơ sở hạ tầng cơ bản, trong khi những doanh nghiệp nhà nước có mục tiêu thương mại tìm kiếm lợi nhuận. Những mục tiêu đó cần được định nghĩa rõ ràng, rằng doanh nghiệp nhà nước phi thương mại tập

Trang 3/18

Page 298: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

trung vào các nghĩa vụ xã hội và hạn chế đầu tư vào các ngành không cốt lõi; và doanh nghiệp nhà nước thương mại cần được giới hạn tuân theo các quy luật thị trường và phá triển sân chơi bình đẳng. Doanh nghiệp nhà nước cũng nên có trách nhiệm với các bên liên quan để tránh hoạt động vận hành và sử dụng vốn nhà nước không hiệu quả. Chính phủ cần tách biệt rõ ràng vai trò xây dựng chính sách, vì cần điều chỉnh một thị trường không có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Còn trong vai trò của một chủ sở hữu doanh nghiệp, Chính phủ cần đảm bảo doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả và bền vững, với những hướng dẫn cụ thể về tính minh bạch. Để giải quyết vấn đề, Chính phủ đã thành lập Tổng công ty Đầu tư vốn nhà nước, sau một khởi đầu đầy hứa hẹn, dường như sẽ cần thêm thời gian và nguồn lực để tự phát triển. Về mặt tích cực, các khoản thanh toán thuế từ doanh nghiệp nhà nước được báo cáo là có sự tăng trưởng, bao gồm trong lĩnh vực viễn thông, dầu khí và ngân hàng. Điều này cho thấy các doanh nghiệp nhà nước có thể thực hiện và hoàn thành vai trò của mình nếu như được quản lý hợp lý. Báo cáo tiến độ hoạt động VBF - Ông Alain Cany, Đồng Chủ tịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Trong hai năm qua, hơn 50 cuộc họp giữa các nhóm công tác của VBF và các Bộ ngành liên quan đã được tổ chức. Ổn định kinh tế vĩ mô đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn cần theo dõi vấn đề lạm phát. Về phía khối ngân hàng, Thông tư 02 được ban hành là một tín hiệu tích cực sau nhiều cuộc thảo luận với VBF. Mặc dù theo kế hoạch, Thông tư sẽ được triển khai thực hiện vào tháng Sáu năm sau, nhiều ngân hàng đã dự tính trước để có phương thức quản lý nợ xấu phù hợp. Việc thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) cũng là một bước đi tích cực. VBF hy vọng thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc mở rộng tỷ lệ giao dịch ký quỹ, tăng biên độ giao dịch trên Sàn Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Hồ Chí Minh. Về lĩnh vực đầu tư và thương mại, như diễn giả trước của VBF đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quá trình đàm phán hiệp định TPP và các hiệp định đa phương với EU và các quốc gia khác. Đã có những động thái tích cực như việc bãi bỏ cơ chế cấp phép nhập khẩu tự động vào tháng 09 năm 2012 cùng với những chuyến biến về thuế thu nhập và vấn đề đã gây quan ngại từ lâu như chi phí quảng cáo, khuyến mại, tuy nhiên vẫn cần tiếp tục nghiên cứu để xoá bỏ mức trần chi phí quảng cáo này. Về công tác du lịch, việc thành lập Hội đồng Tư vấn Du lịch là bước đi đúng đắn để quảng bá Việt Nam cũng như việc tiếp tục miễn thị thực cho công dân 7 nước sẽ góp phần tăng lượng khách du lịch tới Việt Nam. Về công tác khai thác khoáng sản, nghiên cứu đề nghị tăng thuế tài nguyên đã được trì hoãn và chúng tôi hi vọng các cuộc thảo luận, trao đổi của VBF và các đại sứ quán sẽ mang lại những kết quả tích cực. Về đầu tư và thương mại, định nghĩa rõ ràng về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết vì nhiều công ty vẫn không xác định được sau sáu năm gia nhập WTO. Về cơ sở hạ tầng, cần có sự thống nhất giữa các quy định pháp luật về PPP và BOT đồng thời cần một kế hoạch để tăng tốc và thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam với các quốc gia ASEAN và để Việt Nam có thể đóng một vai trò lớn hơn trong sự phát triển ngành công nghiệp ô tô xe máy của khu vực. Luật đất đai mới được thông qua là một bước đi tích cực và VBF khuyến khích mở rộng sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong thị trường bất động sản và đơn giản hóa các quy trình phê duyệt phát triển đất. Về lao động, cần phải giảm bớt các điều kiện cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài đồng thời Chính phủ cần trao nhiều quyền tự chủ hơn cho các cơ sở giáo dục đại học và dạy nghề.

Trang 4/18

Page 299: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

PHẦN 2: CÁC CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN VỚI CHÍNH PHỦ 1) Ngân hàng

Nhóm công tác ngân hàng - Ông Tareq Muhmood, Trưởng nhóm Những kết quả đạt được trong ngành ngân hàng và nền kinh tế vĩ mô nói chung trong thời gian qua: hạ lãi suất đồng nội tệ, thanh khoản cao hơn, giảm lạm phát xuống mức một con số và duy trì ổn định tỉ giá. Một số ngân hàng hoạt động không hiệu quả cũng được hợp nhất, sáp nhập, lộ trình xử lý nợ xấu rõ ràng hơn, cùng với sự ra đời của Thông tư 02 và gần đây là việc thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam. Trong bối cảnh trên, mối quan hệ hợp tác giữa Nhóm Công tác Ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước (“NHNN”) luôn được duy trì hiệu quả và mang tính xây dựng. Trong nhiều trường hợp, NHNN đã ghi nhận những ý kiến đóng góp xây dựng của NCTNH, sửa đổi, bổ sung các quy định cho phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, hỗ trợ sự phát triển liên tục của ngành ngân hàng. Một số kết quả đáng kể đã đạt được trong 2 năm qua, góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tuy nhiên bên cạnh đó, còn một số vấn đề cần lưu tâm - quản trị hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu, hệ thống quản trị của Công ty quản lý tài sản Việt Nam và yêu cầu vốn. Nhóm công tác ngân hàng - Ông Sumit Dutta, Đại diện Để giải quyết các vấn đề nổi bật Nhóm Công tác Ngân hàng đưa ra, chúng tôi đề xuất như sau: 1. Quản trị tốt: Cần nhanh chóng nâng cao chất lượng quản trị của hệ thống ngân hàng theo tiêu

chuẩn quốc tế, với những biện pháp như giới thiệu các quy định và chính sách nhằm bảo đảm tăng cường công khai, minh bạch, tăng cường quản lý rủi ro tín dụng, mở rộng cơ cấu sở hữu, giảm ảnh hưởng của các cổ đông lớn, tăng cường kiểm tra và giám sát trên cơ sở quản lý rủi ro. Để đạt được các mục tiêu trên cần: Đảm bảo việc thực thi chuẩn mực quản trị rủi ro Basel II vào năm 2015, áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, áp dụng quy định của Thông tư 2

2. Nợ xấu: Thông tư 2 sẽ giúp bảo đảm tính nhất quán và nâng cao mức độ công khai thông tin 3. Vấn đề quản trị của Công ty quản lý tài sản Việt Nam Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) đã có một khởi đầu đầy hứa hẹn và triển vọng với việc ký thỏa thuận mua nợ xấu đầu tiên vào tháng 10 năm 2013 và các giao dịch khác sau đó. Để đảm bảo sự phát triển của VAMC, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:

1. Công khai thông tin về các tài sản đã được chuyển giao cho VAMC, đồng thời cần giới thiệu các quy định về mua bán, giao dịch, và quản lý nợ xấu. Cần có giải pháp hiệu quả về định giá tài sản theo giá thị trường. VAMC không nên vội vã xử lý bất kỳ tài sản nào đã được chuyển giao, mà điều quan trọng là tăng cường tính minh bạch để củng cố niềm tin trong quy trình thực hiện. Đây là những giải pháp quan trọng để thu hút đầu tư (kể cả đầu tư nước ngoài) nhằm giúp tăng tốc độ phục hồi của hệ thống ngân hàng.

2. Với một số lượng nợ xấu được kỳ vọng xóa bỏ và được mua bằng trái phiếu của VAMC trong vòng 5 năm tới, điều quan trọng là đưa ra các quy định xung quanh các lựa chọn để “cấp vốn”. Vấn đề này bao gồm việc quy định rõ ràng mức được phép sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; và vấn đề này còn phụ thuộc vào đặc thù và quy mô của các ngân hàng. Đây

Trang 5/18

Page 300: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

không phải là vấn đề liên quan đến mối quan tâm của các ngân hàng nước ngoài, mà còn liên quan đến việc huy động vốn lớn từ các nhà đầu tư tư nhân, quỹ hưu trí và các công cụ quản lý quỹ khác đang được phép hoạt động trong khu vực.

Phản hồi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Ông Lê Minh Hưng, Phó Thống đốc - Quản trị: Một trong những giải pháp căn bản để thực hiện công tác cơ cấu lại tổ chức tín dụng

là tăng cường công tác quản trị ngân hàng phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đặc biệt hiện đại hóa hệ thống quản trị rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ để các ngân hàng có khả năng tự kiểm soát một cách hiệu quả các loại rủi ro trong hoạt động, mà trước hết là chất lượng tín dụng và khả năng thanh khoản. Ngân hàng nhà nước đã ban hành một số văn bản yêu cầu các tổ chức tín dụng tự kiểm soát, nâng cao chất lượng hệ thống quản trị. Ngân hàng nhà nước sẽ tiếp tục nghiên cứu các quy định yêu cầu về quản trị rủi ro tối thiểu, yêu cầu đảm bảo các giới hạn trong hoạt động ngân hàng, cũng như sẽ có lộ trình thực hiện Basel 2 đối với từng loại hình tổ chức tín dụng.

- Vấn đề xử lý nợ xấu: Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xử lý nợ xấu, vào tháng 05/2013

Ngân hàng nhà nước đã chủ động phối hợp với các Bộ - Ngành để xây dựng Đề án xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng với 05 nhóm giải pháp cần triển khai từ nay đến năm 2015: (1) nhóm giải pháp áp dụng từ phía các tổ chức tín dụng, (2) nhóm giải pháp từ phía khách hàng vay, (3) nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách, (4) nhóm giải pháp về thanh tra, giám sát và (5) nhóm giải pháp thành lập và hoạt động công ty VAMC. Việc ban hành những giải pháp trên đã đem lại kết quả khả quan cho ngành ngân hàng trong việc xử lý tổng thể nợ xấu và làm cho tốc độ tăng nợ xấu chậm lại. Về việc triển khai thực hiện Thông tư 02 về phân loại tài sản, thay đổi thời gian thực hiện Thông tư 02 sang ngày 1/6/2014 là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn ngân hàng, giảm mặt bằng lãi suất cho vay và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh. Đồng thời cũng giúp cho chính các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thêm thời gian để chủ động xây dựng lộ trình thực hiện và chuẩn bị các điều kiện áp dụng đầy đủ Thông tư 02.

- Công ty VAMC: Về việc công khai minh bạch của Công ty VAMC, theo quy định của pháp luật,

VAMC phải công khai, minh bạch về mua, bán và xử lý nợ xấu. Hơn nữa, các chính sách của công ty đã được đăng tải trên trên trang thông tin điện tử của VAMC. Về việc định giá tài sản theo giá thị trường, NHNN sẽ phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho hình thành, phát triển và quản lý thị trường mua bán nợ, ban hành danh sách công ty thẩm định giá, công ty kế toán, kiểm toán đủ tiêu chuẩn tham gia quá trình xử lý nợ xấu để xác định giá trị thị trường của doanh nghiệp, tài sản và các khoản nợ xấu. Về việc xử lý tài sản đã được chuyển giao sau khi đã mua các khoản nợ xấu thì VAMC sẽ tiến hành phân loại các khoản nợ, khách hàng vay. Các biện pháp để cơ cấu lại nợ sẽ được cân nhắc và hỗ trợ khách hàng vay đối với những khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ, việc xử lý bán tài sản là biện pháp áp dụng cuối cùng trong trường hợp không có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ.

- Vấn đề cấp vốn: Trong quá trình xây dựng Đề án xử lý nợ xấu và Đề án thành lập VAMC, NHNN

đã tiến hành đánh giá tác động của việc xử lý nợ xấu qua VAMC đối với hệ thống các tổ chức tín dụng. NHNN đánh giá nguồn thu của các tổ chức tín dụng có thể đủ để bù đắp các chi phí trích lập dự phòng do xử lý nợ xấu qua VAMC. Sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài: theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, tham gia sở hữu

Trang 6/18

Page 301: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Ngoài ra, ngân hàng nhà nước hiện đang trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 69/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam, trong đó cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần tại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém được cơ cấu cao hơn mức thông thường theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đối với từng trường hợp cụ thể. Chính phủ và NHNN khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, hỗ trợ các tổ chức tín dụng Việt Nam.

2) Thị trường vốn Nhóm công tác Thị trường vốn – Ông Terry Mahony, Đại diện Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: 1. Cổ phần hóa giúp cân bằng ngân sách của Chính phủ như một nguồn tài trợ. Đây là một điểm

cần ghi nhận bởi gần đây, Chính phủ đã xin phép tăng bội chi ngân sách lên 5.3% GDP từ mức 4.8%.

2. Việc phát hành cổ phiếu mới sẽ giúp tăng tính thanh khoản của thị trường chứng khoán, và cả

tính linh hoạt hơn và phổ biến trên diện rộng, đây là các yếu tố cần thiết để vun đắp mức độ tín nhiệm của một thị trường mới nổi.

3. Để niêm yết, một công ty cần trở nên minh bạch và công khai nhiều thông tin giúp các nhà đầu

tư yên tâm. Cạnh tranh mở sẽ giúp cải thiện hiệu suất của công ty và quản trị vì các nhà đầu tư mong đợi các nhà quản lý doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về chính công việc của họ.

4. Cổ phần hóa là chất xúc tác nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và bảo lãnh phát hành

quốc tế phải gắn liền với các dịch vụ toàn cầu, điều này sẽ thu hút các tổ chức đầu tư. Ngoài ra, ít nhất 25 % đến 30% cổ phần của các công ty cần được chào bán.

5. Cổ phần hóa thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Việc Chính phủ ghi nhận ý kiến đóng góp của Nhóm Công tác Thị trường Vốn về vấn đề tăng sở hữu nước ngoài trong các công ty niêm yết là một tín hiệu đáng khích lệ. Điều quan trọng cần ghi nhận là chỉ có thể thông qua cổ phần hóa, Việt Nam mới có thể phát triển một thị trường chứng khoán khả thi và được chấp nhận trên đấu trường của các thị trường mới nổi.

Phản hồi của Bộ Tài chính – Bà Nguyễn Thị Mai, Thứ trưởng

- Từ năm 2001 đến nay, cả nước đã thực hiện cổ phần hóa trên 3000 doanh nghiệp trên tổng số 3659 doanh nghiệp. Nhiều cơ chế, chính sách về sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước liên tục được hoàn thiện, góp phần cho quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

- Các kiến nghị của Nhóm Thị trường Vốn liên quan đến tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước: Chính phủ đã chỉ đạo và Bộ Tài chính đã triển khai tập trung vào một số điểm cơ bản: + Hoàn thiện cơ chế chính sách về doanh nghiệp nhà nước: ban hành và xây dựng Luật quản

lý và sử dụng vốn nhà nước. Theo chương trình xây dựng pháp luật, Dự thảo Luật được dự

Trang 7/18

Page 302: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

kiến trình Quốc hội trong năm 2014. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy định quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và sẽ sớm ban hành Nghị định của Chính phủ về quản lý nợ của doanh nghiệp do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.

+ Hoàn thiện cơ chế chính sách về chuyển đổi và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: sửa đổi, bổ sung Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2011 của Chính phủ về chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần để tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh quá trình chuyển đổi và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước theo tinh thần của Quyết định 929 của Thủ tướng Chính phủ để làm cơ sở cho các bộ ngành phân loại và triển khai thực hiện. Đẩy nhanh tiến độ thoái vốn đầu tư ngoài ngành của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước. Ban hành quy định về chuyển nhượng các khoản đầu tư tại các công ty cổ phần chưa niêm yết. Nghiên cứu để sửa đổi quy định chào bán ra công chúng cổ phần mà doanh nghiệp nhà nước đã đầu tư.

- Tăng sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và giảm sở hữu tại các công ty niêm yết: Bộ Tài chính đang trình Chính phủ sửa đổi Quyết định số 55 theo tinh thần trên và ghi nhận ý kiến của Nhóm để tiếp thu và sửa đổi cho phù hợp. Và quá trình tái cấu trúc thị trường chứng khoán đã và đang được tiến hành để thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn có hiệu quả.

3) Cơ sở hạ tầng

Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng – Ông Tony Foster, Trưởng Nhóm Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng đề xuất một số khuyến nghị cải cách giúp khu vực tư nhân đảm bảo cơ sở hạ tầng của Việt Nam sẽ không trở thành một trở ngại đối với tăng trưởng. Yêu cầu của Chính phủ đối với việc bán tài sản không thuộc ngành nghề kinh doanh cốt lõi là một bước tiến tốt, nhưng chưa được triển khai mạnh mẽ. Ba khuyến nghị giúp đẩy nhanh quá trình thực hiện: tài sản doanh nghiệp cần có chứng từ chính xác, trách nhiệm liên quan đến hoạt động kinh doanh phải được xác định rõ ràng và định giá doanh nghiệp nên theo đúng giá trị thị trường, không phải là chi phí đầu tư ban đầu. Khi TPP được thực hiện, Việt Nam có thể mong đợi sự gia tăng nhanh chóng trong đầu tư. Điều này sẽ đạt được khi các nhà sản xuất tin tưởng hệ thống cơ sở năng lượng và hạ tầng khác. Trong quá trình xây dựng thị trường điện cạnh tranh thực sự, cần xem xét tạo điều kiện cho phương thức bán điện giữa tư nhân với nhau. Đề nghị có mức giá hợp lý cho tất cả các nguồn điện, đặc biệt là đối với năng lượng tái tạo, và giá cả hợp lý cho nguồn nhiên liệu đầu vào trong nước, ví dụ như than và khí đốt, vì điều này sẽ giúp PetroVietnam và Vinacomin có tính cạnh tranh hơn. Để hỗ trợ tài chính cho các dự án năng lượng, đề nghị sửa đổi Công văn 1604 và cho phép 100% bảo lãnh ngoại tệ, hoặc ít nhất có hướng dẫn các tiêu chí cụ thể. Cuối cùng, Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng đang tích cực đóng góp cho quá trình soạn thảo Nghị định PPP - BOT. Nếu nghị định được ban hành theo hình thức chuẩn quốc tế, đây sẽ là cơ sở cho luồng đầu tư nước ngoài mới trong lĩnh vực này. Phản hồi của Bộ Công thương – Ông Trần Quốc Khánh, Vice Minister - Cơ sở hạ tầng về điện: Bộ Công thương đang nghiêm túc thực hiện Quy hoạch điện thứ 7 được

Chính phủ phê duyệt.

Trang 8/18

Page 303: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

- Cổ phần hóa các doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng: năng lượng là một lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng cần phải được tiến hành với những bước đi thận trọng, với những tính toán hết sức cụ thể về lợi ích cũng như chi phí bỏ ra. Bộ Công thương đang tuân thủ nghiêm túc kế hoạch cổ phần hóa các doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng như Chính phủ đã đề ra.

4) Đầu tư và Thương mại Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại - Ông Fred Burke, Đồng trưởng nhóm Hai vấn đề lao động cần được làm rõ. Thứ nhất là chính sách hạn chế sử dùng ngoại hối, theo đó dự thảo Nghị định mới thay thế Nghị định 160 dẫn tới một số quan ngại từ phía người lao động nước ngoài tại Việt Nam và chủ sử dụng lao động của họ bởi Dự thảo dường như sẽ loại trừ phương thức thanh toán cho người lao động nước ngoài bằng đô la Mỹ. Vấn đề thanh toán cho người lao động nước ngoài là một yếu tố quan trọng để thu hút tài năng tới Việt Nam. Xin đề nghị các cơ quan liên quan có phản hồi cụ thể về vấn đề này. Vấn đề thứ hai liên quan tới một trong nhiều vấn đề từ quá trình triển khai Bộ Luật Lao động sửa đổi. Đó là vấn đề giấy phép lao động theo Nghị định 102/2013/NĐ-CP. Trong luật cũ, yêu cầu về có bằng đại học hoặc năm năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công việc cụ thể đã là chặt chẽ. Hiện tại, cả hai tiêu chí phải được đáp ứng và điều này là thiếu thực tế đối với việc thu hút các tài năng nước ngoài cần thiết cho Việt Nam. Ngoài ra, để Việt Nam có thể tận dụng tối đa cơ hội khi tham gia TPP, cần tập trung phát triển ngành công nghiệp dệt may để có được mức thuế suất TPP cho hàng may mặc xuất khẩu. Trong khi cần thu hút vốn đầu tư vào ngành dệt may từ các quốc gia như Hàn Quốc, sẽ có nhiều công nhân nước ngoài và kỹ sư được cử đi làm việc tại các nhà máy là những người không có bằng đại học bốn năm. Trong khi đó, tại thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác, việc xử lý hồ sơ giấy phép lao động đã bị gián đoạn mà không rõ lý do. Một lần nữa, rất mong các Bộ ngành lưu tâm vấn đề này. Liên quan đến báo cáo tiến độ hoạt động, sự tham gia của các Nhóm Công tác để đánh giá tiến độ là yếu tố quan trọng trong những năm tới. Báo cáo tiến độ ghi nhận những vấn đề từ năm 2011 để có được bức tranh tổng quan về các vấn đề quan trọng đối với doanh nghiệp, ví dụ như phần đất đai và cải cách doanh nghiệp nhà nước là những lĩnh vực được tập trung trong báo cáo tiến độ. Từ năm 2011 tới nay, có khoảng 26% các vấn đề có hoặc đạt được giải pháp. Đây là một tín hiệu đáng khích lệ. Các Nhóm Công tác cần báo cáo các vấn đề trong kinh doanh thường nhật để có thể đề xuất tốt hơn các vấn đề tới các cơ quan liên quan nhằm có các giải pháp tháo gỡ. Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại - Ông Trần Anh Đức, Đồng Trưởng nhóm

- Tiến độ cổ phần hóa chậm: Trong giai đoạn 2004-2005, hơn 800 doanh nghiệp được cổ phần hóa, tuy nhiên trong một năm trở lại đây mới cổ phần hóa được hơn 10 doanh nghiệp. Đề nghị Chính phủ có những hành động để đẩy nhanh tiến độ cô phần hóa

- Thiếu quy chế quản trị doanh nghiệp: nhiều doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần với nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Tuy nhiên, hiện nay vẫn thiếu quy chế quản trị giám sát đặc thù đối với công ty

Trang 9/18

Page 304: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

đã được chuyển đổi để phân định rõ ràng quyền hạn của chủ sở hữu nhà nước và việc điều hành của doanh nghiệp.

- Giám sát an ninh minh bạch thông tin: Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động thiếu hiệu quả thực tế, làm phát sinh yêu cầu về một cơ chế giám sát hiệu quả hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ có thể xem xét việc huy động công chúng tham gia giám sát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, chẳng hạn yêu cầu những quy chế công bố thông tin cụ thể áp dụng với các doanh nghiệp, các công ty nhà nước hoặc các công ty đã được chuyển đổi.

- Tái cơ cấu toàn diện: cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong việc tái cơ cấu khoản nợ cũng như kinh doanh của Vinashin. Và có thể nói Chính phủ đã bước đầu thành công trong việc cơ cấu lại hoạt động của doanh nghiệp, hướng doanh nghiệp, công ty nhà nước tập trung vào các ngành nghề kinh doanh cốt lõi của mình.

- Đối xử bình đẳng: trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều lợi thế trong việc tiếp cận nguồn vốn, tín dụng hay có các địa điểm kinh doanh thuận lợi hơn so với lĩnh vực tư nhân. Đề nghị Chính phủ rà soát và áp dụng cơ chế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đối với các dự án đầu tư và kinh doanh.

- Phân bổ nguồn lực: nếu một dự án về hạ tầng ban đầu quy hoạch do công ty nhà nước phát triển, nếu có nhà đầu tư tư nhân hoặc nhà đầu tư nước ngoài mong muốn tham gia thì liệu công ty nhà nước có thể chuyển dự án đó cho tư nhân hay nhà đầu tư nước ngoài không?

5) Công nghiệp Ô tô, Xe máy Nhóm công tác công nghiệp ô tô xe máy– Ông Gaurav Gupta, Trưởng nhóm Dù được tạo điều kiện với môi trường cạnh tranh lành mạnh, sự tăng trưởng ngành ô tô xe máy vẫn chưa đạt tiến độ như mong muốn của cả nhà đầu tư và Chính phủ. Tổng sản lượng toàn ngành năm 2013 đạt khoảng 100.000 đơn vị trên tổng công suất gần 500.000 đơn vị. Sự tăng trưởng, phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Vì vậy, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng của ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam. Chính phủ cần cân nhắc và bảo vệ quyền lợi của công nghiệp lắp ráp trong giai đoạn chuyển giao thực thi AFTA vào năm 2018. Điều này có thể đạt được thông qua các giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh về chi phí trong sản xuất CKD, ví dụ như những chính sách ưu liên quan đến sản xuất CKD. Mô hình xe/dự án xe chiến lược nêu trong Quy hoạch tổng thể rất có thể sẽ tiếp tục hạn chế hơn nữa số lượng sản phẩm trên thị trường Việt Nam xuống mức chỉ còn một vài mẫu xe. Với tổng mức quy mô ngành và hạn chế về khả năng cung ứng hiện nay, sẽ rất ít doanh nghiệp đủ khả năng đáp ứng yêu cầu nội địa hóa 40%. Mô hình xe chiến lược sẽ làm giảm cạnh tranh đối với hầu hết các thương hiệu, mẫu mã, dẫn đến việc trên thị trường sẽ chỉ còn lại một vài mẫu xe. Chúng tôi đề nghị Chính phủ cân nhắc lại dự án mô hình xe chiến lược. Về ngành công nghiệp xe máy, quan ngại đầu tiên liên quan tới Quyết định số 356, đề cập đến việc hạn chế số lượng xe máy ở mức 36 triệu chiếc vào năm 2020. Kính đề nghị Chính phủ chia sẻ thông tin chi tiết với Nhóm công tác ô tô xe máy để các doanh nghiệp trong ngành có thể xây dựng kế

Trang 10/18

Page 305: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

hoạch và hoạt động kinh doanh phù hợp. Về vấn đề mức thuế TTĐB 20% áp dụng đối với một số loại xe, chúng tôi xin đề xuất chính phủ xem xét lại chính sách này. Và chúng tôi cũng kính đề nghị cải thiện thời gian lập kế hoạch từ ngày ra quyết định, công bố và có hiệu lực, đặc biệt là những quy định liên quan đến thuế, bởi các quy định này có tác động đến quá trình mua bán và hoạt động của toàn ngành công nghiệp nói chung. Phản hồi của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bà Phạm Thị Hải Truyền, Bộ trưởng - Điều kiện lao động vào Việt Nam: quy định đối với chuyên gia phải có hai điều kiện: một là phải

có trình độ đại học, hai là có kinh nghiệm lao động 5 năm. Ngoài ra, còn có quy định nếu chuyên gia đã được nước sở tại khẳng định đó là chuyên gia thì không cần hai điều kiện trên. Như vậy điều kiện đối với chuyên gia là phù hợp với tinh thần của Bộ Luật Lao động là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam được sử dụng những nguồn nhân lực kỹ thuật mà Việt Nam chưa đáp ứng được.

- Giấy phép lao động đối với lao động kỹ thuật: Bộ Lao động đang soạn thảo thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 102/2013/NĐ-CP về hướng dẫn Bộ Luật Lao động sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/5/2013. Trong hướng dẫn sẽ quy định rõ, điều kiện cấp giấy phép lao động đối với lao động kỹ thuật là có kinh nghiệm từ 3 năm trở lên và được đào tạo từ 1 năm trở lên.

- Thời hạn cấp phép lao động: thông tư hướng dẫn sẽ điều chỉnh thời gian cấp phép để tạo thuận lợi trong việc cấp lại giấy phép lao động cho người lao động theo hướng thời hạn cấp mới là 10 ngày, cấp lại là 3 ngày.

Phản hồi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Ông Lê Minh Hưng, Phó Thống đốc - Liên quan đến quan ngại của các nhà đầu tư về dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 160 về

hướng dẫn Pháp lệnh Ngoại hối: Trước đây, Pháp lệnh Ngoại hối quy định nội dung hướng dẫn Pháp lệnh thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, Pháp lệnh Ngoại hối sửa đổi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua tháng 3 năm 2013 đã giao Ngân hàng Nhà nước thẩm quyền hướng dẫn Pháp lệnh Ngoại hối. Trong dự thảo Thông tư về các giao dịch ngoại hối được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, nội dung trả lương cho người lao động nước ngoài vẫn được quy định như cũ, không có gì thay đổi. Dự thảo Thông tư dự kiến sẽ được ban hành vào tháng 12 năm 2013.

Phản hồi của Bộ Công thương – Ông Trần Quốc Khánh, Thứ trưởng - Chính phủ Việt Nam coi công nghiệp ô tô là ngành công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với

tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hiện Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Công thương xây dựng dự thảo Quy hoạch Phát triển ngành ô tô với các chính sách cụ thể để ổn định trong dài hạn, thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô phát triển đủ khả năng đáp ứng một phần nhu cầu trong nước và tham gia vào chuỗi sản xuất của khu vực cũng như toàn cầu khi các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia có hiệu lực.

- Vấn đề xe máy: Chính phủ Việt Nam đang và đã có chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp xe máy. Tuy nhiên, một số thành phố lớn trước các bất cập do xe máy gây ra đối với đời sống đô thị đang có các cuộc trao đổi về việc hạn chế xe máy. Đây là xu thế tất yếu và là quyết định của Hội đồng Nhân dân các thành phố lớn. Vì vậy, đề nghị các nhà sản xuất xe máy lưu ý xu thế phát triển này để có sự điều chỉnh phù hợp trong chiến lược phát triển của mình.

Trang 11/18

Page 306: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

6) Đất đai & Bất động sản

Tiểu nhóm Đất đai & Bất động sản – Ông David Lim, Trưởng nhóm - Tiểu nhóm Đất đai khuyến khích Chính phủ đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước và thoái vốn khỏi các ngành nghề kinh doanh không cốt lõi. Chính sách thoái vốn rõ ràng phải đi kèm với quá trình triển khai nhất quán và cần yêu cầu doanh nghiệp nhà nước thực hiện báo cáo định kỳ về tiến độ và chịu trách nhiệm đối với trường hợp không thực hiện đúng yêu cầu.

- Liên quan đến chương trình thí điểm cho phép người nước ngoài cư trú tại Việt Nam mua nhà

ở, chương trình đã đạt được những thành công bước đầu. Dự thảo Luật Nhà đáp ứng mong đợi khi cho phép người nước ngoài cư trú có thể mua nhà ở với số lượng nhiều hơn một với điều khoản cho phép cho thuê lại nhà. Chính sách này là đáng khích lệ, nhưng quyết định cần được ban hành nhanh chóng vì chương trình thí điểm cho phép người nước ngoài cư trú tại Việt Nam mua nhà ở sẽ kết thúc vào cuối năm nay.

- Dự thảo Luật Nhà ở cũng có sự thay đổi về quy định thời hạn sở hữu đối với các căn hộ chung

cư từ sử dụng dài hạn không hạn chế sang có thời hạn. Điều này đồng nghĩa với việc chủ sở hữu căn hộ chung cư có thể được yêu cầu giao trả căn hộ khi kết thúc thời hạn sử dụng để phá dỡ và chủ sở hữu căn hộ chung cư sẽ được Nhà nước thu xếp tái định cư. Chủ sở hữu căn hộ chung cư không nên bị tước quyền sử dụng đất và các hệ quả của biện pháp quyết liệt như vậy sẽ dẫn tới tác động tiêu cực đến thị trường nhà ở. Tiểu nhóm Đất đai đề nghị bãi bỏ quy định này.

- Một vấn đề cấp bách khác là khu vực chung và cơ sở hạ tầng để sử dụng chung thuộc quyền sở

hữu chung và quyền sử dụng chung của các chủ căn hộ trong dự án phát triển. Nhưng chưa có quy định rõ ràng về quyền sở hữu chung và quyền sử dụng chung. Điều này đã dẫn đến thực trạng các chủ đầu tư mặc dù đã bán các căn hộ, nhưng vẫn là chủ sở hữu của khu vực chung và cơ sở hạ tầng để sử dụng chung mà thực chất đang được sử dụng bởi các chủ căn hộ. Hiện chưa rõ các cơ sở hạ tầng này sẽ được xử lý như thế nào khi giấy chứng nhận đầu tư của chủ đầu tư hết hạn. Tiểu nhóm Đất đai đề nghị có các hướng dẫn rõ ràng cho phép các chủ sở hữu bất động sản sở hữu các khu vực chung và các cơ sở hạ tầng để sử dụng chung.

7) Hải quan

Nhóm Công tác Hải quan - Ông Jonathan, Trưởng nhóm - Thay mặt Nhóm Công tác Hải quan mới được thành lập, tôi xin được điểm lại một số tiến triển

trong hoạt động của Nhóm, mà trong đó kết quả nổi bật nhất là Tổng cục Hải quan đã ưu tiên đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp và nhất trí thành lập nhóm công tác. Đây là một khởi đầu tốt và quan trọng để kích hoạt cơ chế đối thoại tương tác và liên tục.

- Bản tóm tắt ngắn gọn về các vấn đề trọng tâm của Nhóm Công tác Hải quan bao gồm sự phối

hợp giữa cơ quan hải quan, các Bộ, ban ngành, các cơ quan hải quan nước ngoài và Tổ chức Hải quan thế giới; tăng cường tính minh bạch để hạn chế “các chi phí bôi trơn” không chính thức; tính chuyên nghiệp của các đại lý hải quan; nâng cao năng lực kỹ thuật và văn hóa của

Trang 12/18

Page 307: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

các công ty hướng tới tiêu chí đối tác đạo đức; hạn chế chậm trễ; minh bạch hơn trong xác định mã HS; trị giá hải quan và thủ tục cho việc xác định trước quyết định của hải quan và nâng cao năng lực giải quyết khiếu nại. Hai dự án lớn của Tổng cục Hải quan là hải quan điện tử và cơ chế một cửa quốc gia có khả năng giải quyết nhiều quan ngại được đề cập trong báo cáo của Nhóm. Nhóm công tác Hải quan rất mong được hợp tác với Tổng cục Hải quan và cộng đồng doanh nghiệp để đánh giá từng bước các dự án lớn qua quá trình thực hiện.

Phản hồi của Bộ Xây dựng - Ông Nguyễn Mạnh Hà, Cục trưởng Cục Quản lý Nhà - Theo kế hoạch, Luật Nhà ở năm 2005 sửa đổi và Luật Kinh doanh Bất động sản năm 2006 sửa

đổi sẽ được Chính phủ trình Quốc hội thông qua trong năm 2014.

- Phạm vi kinh doanh bất động sản tại Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài: Ban Soạn thảo đã sửa Điều 10 Luật Kinh doanh Bất động sản năm 2006 theo hướng mở rộng phạm vi quyền kinh doanh, ví dụ các nhà đầu tư nước ngoài được phép thuê bất động sản để cho thuê lại, mua bất động sản để cải tạo và để bán, cho thuê.

- Mở rộng đối tượng và nới lỏng điều kiện đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam: quy định tại Nghị quyết 19 sẽ hết hiệu lực vào cuối năm nay. Nội dung về mở rộng đối tượng, điều kiện cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam đã được đưa vào trong Dự thảo Luật Nhà ở mới.

- Thời hạn sở hữu nhà chung cư: Tiểu nhóm kiến nghị không nên quy định thời hạn cụ thể là 70 năm đối với nhà chung cư. Ban Soạn thảo cũng đã sửa theo hướng có quy định các khoảng thời hạn cũng như không thời hạn, để chủ đầu tư, các doanh nghiệp cũng như người dân tự chọn theo hình thức nào cho phù hợp với điều kiện và khả năng kinh tế.

- Sở hữu chung của khu chung cư: vấn đề này sẽ được phối hợp với Bộ Tài nguyên Môi trường để có đề xuất phù hợp.

Phản hồi của Tổng Cục Hải quan - Hoàn thiện thông quan điện tử của hải quan: thông quan điện tử là một chương trình thực

hiện chiến lược phát triển hải quan Việt Nam đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trước năm 2012, hệ thống này cũng còn nhiều vướng mắc, khó khăn về tính minh bạch của hệ thống và lộ trình thực hiện. Năm 2013, thông quan điện tử của hải quan đã được triển khai trên phạm vi toàn quốc, trên 92% tổng giao dịch khai báo hải quan đã được hệ thống xử lý. Với kết quả này, Tổng Cục Hải quan thực hiện đồng bộ những hệ thống phụ trợ có tác dụng liên kết để đảm bảo hệ thống hải quan điện tử, nâng cao mức độ tự động hóa hải quan trong việc tiếp nhận thông tin xử lý hàng hóa, tiếp tục hoàn thiện hệ thống thanh toán thuế bằng phương thức điện tử với các ngân hàng thương mại e-payment. Để đồng bộ hóa, Tổng Cục Hải quan đã triển khai hệ thống chữ ký số thực hiện từ tháng 11 năm 2013 để đảm bảo tăng cường mức độ trách nhiệm của chủ hàng đối với cơ quan hải quan, đảm bảo giao dịch hợp pháp. Tổng Cục Hải quan đang khẩn trương chuẩn bị nâng cấp vận hành chính thức hệ thống hải quan điện tử tự động hóa, gọi tắt là hệ thống VNAC, dự kiến tháng 04 năm 2014 sẽ được triển khai.

- Theo kế hoạch, Luật Hải quan sửa đổi có hiệu lực từ năm 2015, thì việc triển khai đồng bộ hệ thống thủ tục hải quan điện tử và hệ thống mới VNAC sẽ được thực hiện trên cơ sở pháp lý mới của Tổng Cục Hải quan và các văn bản hướng dẫn sửa đổi.

Trang 13/18

Page 308: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

6) Giáo dục

Nhóm công tác giáo dục – Ông Khalid Muhmood, Đồng trưởng nhóm - Vấn đề quyền tự chủ, Chính phủ cần thiết lập khung pháp lý và hướng dẫn rõ ràng cho hoạt

động của các trường đại học ngoài công lập. Yêu cầu các trường đại học này xin phê duyệt của Chính phủ trong nhiều vấn đề khác nhau sẽ dẫn tới nhiều chậm trễ. Vì vậy, Nhóm Công tác Giáo dục đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD & ĐT) cho phép nhiều quyền tự chủ hơn cho các trường đại học ngoài công lâp để các trường có thể hoạt động tốt hơn trong tương lai. Những động thái của Chính phủ nhằm chấm dứt hoạt động liên kết giữa một số trường đại học Việt Nam và những trường đại học kém chất lượng ở nước ngoài là đúng đắn, tuy nhiên trên thực tế cũng có những hoạt động liên kết chất lượng giữa các cơ sở giáo dục đại học có chất lượng trong và ngoài nước.

- Vấn đề thứ 2 liên quan tới Nghị định 73/2012/NĐ - CP ban hành vào tháng 11 năm 2012. Tuy

nhiên, Thông tư hướng dẫn Nghị định cho đến nay vẫn chưa được ban hành và điều này dẫn tới nhiều trở ngại và chậm trễ. Nghị định trên thực tế dẫn tới một số thủ tục phức tạp trên một số phương diện. Ví như, việc mở thêm phân hiệu mới phải trải qua quá trình xin cấp phép như một dự án đầu tư hoàn toàn mới, dẫn đến làm giảm khả năng tái đầu tư và phát triển. Nhóm Công tác Giáo dục cũng kính mong vấn đề về giấy phép lao động được giải quyết bởi phần lớn các giáo viên ở Việt Nam đều đạt tiêu chuẩn, nhưng một số người lại không có đủ số năm kinh nghiệm như yêu cầu. Về vấn đề giáo dục dạy nghề, mô hình giáo dục kĩ thuật đang hoạt động tốt nhờ tăng cường liên kết giữa các ngành công nghiệp kĩ thuật và Chính phủ.

Phản hồi của Bộ Giáo dục và Đào tạo – Ông Bùi Văn Ga, Thứ trưởng - Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học: Luật Giáo dục đại học có hiệu lực ngày

1/1/2013 ghi nhận quyền tự chủ là thuộc tính cơ bản của các trường đại học và Bộ GDĐT đang soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học theo hướng giao quyền tự chủ tối đa cho các nhà trường. Trong thời gian tới, Bộ đang soạn thảo các quy trình để giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các trường, được tự chủ in phôi bằng để cấp cho sinh viên tốt nghiệp theo quy định của Luật Giáo dục đại học. Trong số các quyền tự chủ, các nhà trường quan tâm nhất là quyền tự chủ về mức thu học phí, hiện tại các trường ngoài công lập, kể cả trường có vốn đầu tư nước ngoài đã được tự chủ trong xác định mức học phí, mức trần học phí của các trường công lập được quy định giới hạn trong Nghị định 49.

- Chất lượng giáo dục và sự phù hợp của giáo dục đại học với sản xuất kinh doanh: Việc liên kết nhà trường với doanh nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng để nâng cao chất lượng và tính phù hợp trong đào tạo nhân lực và tạo cơ hội việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp. Bộ GDĐT đã hỗ trợ thể chế hoá các mối quan hệ giữa giáo dục đại học với các doanh nghiệp thông qua việc ban hành những quy định chung về cơ chế đặc thù trong việc liên kết đào tạo, kí kết hợp đồng đào tạo cung ứng nhân lực cho các doanh nghiệp. Trong các trường, Bộ tạo cơ chế để tổ chức các lớp chất lượng cao với mức thu học phí cao để nâng cao chất lượng một số ngành nghề và một số đối tượng học sinh.

- Nghị định 73: GDĐT là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực ưu đãi đầu tư. Hiện Bộ GDĐT đang phối hợp với các bộ ngành và các cơ quan chức năng xây dựng thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 73. Thông tư sẽ hướng dẫn cụ thể về việc chuyển đổi, đăng ký

Trang 14/18

Page 309: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

thành lập mới, mở rộng hoạt động của các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài hiện tại theo hướng đơn giản, không gây phiền hà và không ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư theo Luật Đầu tư 2005, Luật Doanh nghiệp và các quy định về quản lý giáo dục. Nhóm công tác ý kiến quy định về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục trước đây đơn giản hơn hiện nay. Quan điểm của Bộ là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho những nhà đầu tư tốt, những cơ sở giáo dục đại học có chất lượng ở nước ngoài đến hợp tác phát triển.

- Giáo dục kĩ thuật và dạy nghề: Đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kí kết thoả thuận với nhiều bộ ngành và các hiệp hội doanh nghiệp trong và ngoài nước về các chương trình hợp tác hỗ trợ đào tạo nghề. Bộ GDĐT đã ban hành thông tư quy định về liên thông từ trung cấp cao đẳng nghề lên đại học cao đẳng và yêu cầu các trường đảm bảo chất lượng đào tạo liên thông. Hiện tại Bộ GDĐT đang phối hợp với Bộ LĐTBXH và các bộ ngành khác để xây dựng khung trình độ quốc gia.

7) Quản trị & Minh bạch

Nhóm Công tác Quản trị và Minh bạch– Bà Đào Nguyễn, Trưởng nhóm - Xin đ nhómtác dụng năm nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của OECD, báo cáo c nguyên tắc

quản trị doanh ng những lĩnh vực mà các nước ASEAN khác đang triững lĩn tiững lĩnh vực mà các nướChính phủ sẽ quan tâm tới những vấn đề này như quan tâm tẽ quan tâ phòng chống tham nhũng. Về vấn đề phòng chống tham nhũng, bốn lĩnh vực được xác định là chịu tác đg c nhất bởi hành vi tham nhũng: hải quan, thuế, cấp phép, và quản lý đất đai.

- Vtham nhũng: Chính phủ nên tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hải quan, hnh phủ với các doanh

nghiệp để thới các phương thức triương th tốt nhất hệ thống hải quan điện tử, khuyến khích từng cơ quan hải quan hoàn thành các thủ tục cần thiết theo thông lệ quốc tế tốt nhất; thành lập bộ phận giám sát hải quan cho các đơn vị xuất và nhập khẩu, thiết lập danh mục tất cả những khoản phí hải quan đết lập danh mục tấ, đảm bảo tất cả các khoản phí được thanh toán bằng hình thức điện tử và các đơn vị xuất/nhập khẩu nhận được biên lai điện tử cho mỗi khoản phí mà họ đã thanh toán.

- Một số kiến nghị về vấn đề thuế: thống nhất và tinh giản các quy định và quy trình thủ tục về

thuế hit số ki nhằm tăng cường tính minh bạch, công bố thông tin trực tuyến về tất cả các loại thuế suất có liên quan, đảm bảo tất cả các khoản thuế phải nộp được nộp bằng hình thức điện tử, thiết lập cơ chế xử phạt nghiêm khắc và rõ ràng để xử lý nghiêm những cán bộ thuế cố tình áp đặt những quyết định sai trái; triển khai một hệ thống tin học hóa hoàn thiằm cho phép người nộp thuế truy nhập nghĩa vụ thuế trực tuyến.

- Về cấp phép, cần thống nhất các quy định cấp phép để tạo thuận lợi cho quy trình xin cấp phép

đồng thời hủy bỏ yêu cầu người được cấp phép phải lặp lại toàn bộ quy trình thủ tục xin cấp phép khi giấy phép được cấp hết hạn, và đảm bảo mọi giao dịch giữa cán bộ cấp phép và người xin cấp phép được thực hiện bằng văn bản và được ghi vào hệ thống cơ sở dữ liệu tin học hóa.

- Về quản lý đất đai, cần hoàn thiện những quy định về tính minh bạch đã có trong hành lang

pháp lý hiện hành, xây dựng một hệ thống tin học hóa cơ sở dữ liệu đăng ký đất đai quốc gia với thông tin về chủ sở hữu và các quyền sử dụng được phép, tăng cường hơn nữa tính minh bạch và tinh thần trách nhiệm khi thực hiện các quy trình thủ tục về đất đai, nâng cao tính

Trang 15/18

Page 310: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

trách nhiệm của từng cán bộ, và liệt kê tất cả các loại phí và lệ phí mà người nộp đơn phải nộp và xuất biên lai thu tiền cho người nộp đơn.

Phản hồi của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ông Nguyễn Văn Trung, Thứ trưởng - Về cấp phép: phương án tốt nhất là tin học hoá, giảm thiểu sự tiếp xúc giữa đối tượng cấp

phép và người cấp phép. Hiện nay đã có một bộ số liệu cấp phép ở tầm quốc gia, đồng thời giảm thiểu tối đa các vấn đề trong quá trình cấp phép. Luật Đầu tư hiện hành ghép hai quá trình đăng ký kinh doanh và chứng nhận đầu tư. Nhưng trên thực tế triển khai cũng nảy sinh nhiều phức tạp do ghép hai quá trình vốn không tương đồng về mặt thủ tục pháp lý. Hiện nay, Bộ đang triển khai sửa hai luật này để giảm thiểu sự chồng chéo giữa các khâu.

- Giữa Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và một số luật liên quan có những chồng chéo. Vấn đề này đang được tổng rà soát để sửa đổi. Hiện nay Bộ đang tích cực đồng bộ hóa về mặt pháp lý và về quy trình nghiệp vụ, thúc đẩy tin học hoá.

Phản hồi của Bộ Tài chính - Bà Vũ Thị Mai, Thứ trưởng - Về thể chế: Bộ Tài chính đã cố gắng cải cách, sửa đổi, bổ sung pháp luật để minh bạch, đơn

giản hoá cho doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2008-2013, Bộ đã trình ban hành 13 luật và 146 nghị định và quyết định. Về cải cách thủ tục hành chính, thực hiện Nghị quyết 30 của Chính phủ, Bộ đã rà soát với 500 thủ tục được đơn giản hoá và cắt giảm 517 thủ tục trên 840 thủ tục. Đối với thuế, 265,000/450,000 doanh nghiệp hiện đang hoạt động và có kê khai thuế đã được kê khai điện tử. Bộ cũng áp dụng đối với hải quan các cái thiết bị, các máy soi tự động để thực hiện đơn giản hoá thủ tục và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hơn. Đồng thời, Bộ Tài chính đã chỉ đạo thiết lập những hệ thống đường dây nóng và tổ chức bộ máy kiểm tra nội bộ để kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế tiêu cực và tham nhũng trong nội bộ. Đồng thời tổ chức thành lập ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng để chỉ đạo phòng chống tham nhũng trong ngành tài chính nói chung và đặc biệt trong hai ngành thuế và hải quan.

Phản hồi của Bộ Tài nguyên và Môi trường - Ông Chu Phạm Ngọc Hiển, Thứ trưởng - Luật Đất đai sửa đổi được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013 và có hiệu lực từ ngày

1/7/2014. Một trong những nội dung sửa đổi lần này là minh bạch về đất đai. Trong luật sửa đổi, vấn đề này được quy định cụ thể hơn. Cụ thể là trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, trong thu hồi đất, trong bồi thường giải phóng mặt bằng. Và đặc biệt sự tham gia của người dân được quy định rõ trong Luật lần này.

BẾ MẠC Phó thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải - Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2013 có những khởi sắc và đạt được những tiến bộ tích cực.

Và khối doanh nghiệp cũng có những tín hiệu khả quan hơn, số doanh nghiệp quay trở lại và số doanh nghiệp thành lập mới cũng đã có dấu hiệu tăng lên. Tuy nhiên những mặt còn hạn chế trong đó tính bền vững của kinh tế vĩ mô cũng cần phải được quan tâm, tiếp tục các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng cầu của nền kinh tế, tăng cường khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, tiếp tục thực hiện công tác cải cách hành chính. Đề nghị trong thời gian tới cần triển khai một số việc như sau:

Trang 16/18

Page 311: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

- Ngân hàng và thị trường vốn: tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp và xử lí nợ xấu, nhất là

xử lí tài sản đảm bảo tiền vay, trích lập dự phòng rủi ro, cơ cấu lại nợ vay và phát huy vai trò của công ty VAMC và từng bước đưa hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh, an toàn và theo chuẩn mực khu vực, quốc tế.

- Tái cơ cấu đầu tư công: tiếp tục thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn và nâng cao hiệu quả đầu tư công và khắc phục đầu tư dàn trải gây lãng phí theo Chỉ thị 1792 và rà soát nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, vốn ODA. Chính phủ tiếp tục khẳng định những lĩnh vực mà nền kinh tế, xã hội và tư nhân có thể làm được thì cố gắng tạo điều kiện để xã hội tham gia đầu tư. Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ KHĐT cùng các bộ xây dựng danh mục các dự án, các lĩnh vực của ngành mình mà có thể kêu gọi được đầu tư từ khu vực xã hội để xây dựng những danh mục dự án lớn hơn về thực hiện PPP cũng như đầu tư tư nhân.

- Cải cách các doanh nghiệp độc quyền: Thời gian vừa qua có gặp một số vướng mắc làm chậm tiến trình này do một số tác động từ khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như ảnh hưởng về kinh tế Việt Nam. Tiến trình cải cách của ngành điện Việt Nam đã thể hiện rất rõ trong Luật Điện lực Việt Nam và đang được tiếp tục triển khai. Và Chính phủ sẽ tiếp tục cải cách giá điện để bảo đảm phản ánh đúng chi phí kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh điện. Và trong thời gian tới, tiếp tục đưa thị trường bán buôn điện cạnh tranh vào hoạt động để bảo đảm các công ty phân phối điện cũng sẽ được đưa vào môi trường cạnh tranh bên cạnh các nhà máy phát điện.

- Thủ tướng đã phê duyệt kế hoạch cải cách doanh nghiệp nhà nước với mục tiêu đưa số doanh nghiệp nhà nước từ 1,200 xuống còn 600 năm 2015 và 300 năm 2020. Chương trình này đang được thực hiện và có phần hơi chậm so với kế hoạch do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế.

- Hoàn thiện thể chể kinh tế thị trường: tiếp tục chỉ đạo thực hiện những giải pháp hoàn thiện

thể chế kinh tế thị trường, đặc biệt là tạo môi trường bình đẳng thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận nguồn lực và cơ hội đầu tư.

- Phát triển nguồn nhân lực: Đề nghị ngoài những phản hồi của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hôm nay, Bộ trưởng giao cho các cơ quan làm việc với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh để có những hướng dẫn để các Sở Lao động và địa phương hiểu rõ hơn nội dung của Nghị định 102 để quá trình thực hiện không vướng mắc.

- Cải cách hành chính: Mặc dù có tiến bộ nhất định nhưng trong thời gian tới sẽ tiếp tục phải tập trung thực hiện cải cách hành chính trong tất cả lĩnh vực, kể cả giải thể doanh nghiệp, tiếp cận vốn, đất đai, tài nguyên, vv để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như người dân và thiết lập hệ thống thông tin để tiếp nhận xử lí kiến nghị, quy định về tình hình giải quyết các thủ tục hành chính các cấp và phải xử lí nghiêm các cán bộ công chức có hành vi tiêu cực và nhũng nhiễu trong thực thi công vụ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ông Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng - Những ý kiến của Diễn đàn có tác dụng mạnh mẽ trong việc giúp Việt Nam xây dựng, hoạch

định chính sách và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Trong 3 năm liên tục gần đây, trong điều kiện kinh tế thế giới có nhiều suy thoái, số lượng các doanh nghiệp FDI vào Việt

Trang 17/18

Page 312: MPI - 36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/... · các bài thuyết trình nói trên, và không chịu

Nam vẫn liên tục tăng lên. Và toàn bộ kết quả thảo luận sẽ được tổng hợp và báo cáo tại Diễn đàn Đối tác Phát triển Việt Nam (VDPF).

Bà Victoria Kwakwa - Giám đốc Quốc gia của ngân hàng thế giới tại Việt Nam - Từ những trao đổi sáng nay, chúng ta có thể thấy rằng vẫn còn tồn tại những thách thức đáng

kể và việc giải quyết những vấn đề đó là hết sức quan trọng để đưa Việt Nam trở lại quỹ đạo phát triển nhanh và bền vững. Ngoài ra Việt Nam còn có cơ hội tăng cường hội nhập kinh tế qua các cuộc đàm phán thương mại sắp tới như TPP, FTA EU và các hiệp định thương mại song phương khác. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần phải giải quyết những vấn đề trong nước bằng những thay đổi nội bộ để nâng cao khả năng cạnh tranh kinh tế nhằm đạt được lợi ích tối đa. Thêm vào đó, các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được hưởng lợi từ các nguồn tài nguyên nhưng lại hoạt động chưa hiệu quả, và bỏ lỡ những cơ hội để thực sự tạo ra một cộng đồng tư nhân trong nước năng động, có thể đóng góp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thông điệp cải cách doanh nghiệp nhà nước đã được truyền tải một cách mạnh mẽ vào ngày hôm nay và chúng tôi ghi nhận rằng cổ phần hóa là một quy trình phức tạp. Tuy nhiên, một số hoạt động có thể được triển khai để khởi động một quá trình hiệu quả hơn cho khu vực doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam. Chúng tôi đã thảo luận về sự minh bạch của doanh nghiệp nhà nước, quản trị doanh nghiệp tốt và doanh nghiệp nhà nước thoái vốn khỏi những lĩnh vực kinh doanh không phải là cốt lõi.

- Chúng tôi rất ghi nhận tầm quan trọng của sự quan tâm của Chính phủ đối với VBF trong suốt

thời gian qua. VBF giữ vai trò của kênh đối thoại quan trọng giữa khối tư nhân và Chính phủ, tuy nhiên nhiều công việc khác vẫn cần được triển khai. Chúng tôi mong muốn sẽ được tiếp tục những cuộc đối thoại mang tính xây dựng này, các Nhóm Công tác sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp và có những cuộc đối thoại hữu ích để đạt được nhiều bước tiến bộ.

Trang 18/18