mỤc lỤc -...

52
THÔNG TIN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ Số: 35/2017 Chịu trách nhiệm xuất bản: Ths. ĐINH QUỐC THỊ Ban biên tập: Ths. ĐINH QUỐC THỊ TS. NGUYỄN TRỌNG TỨ Ths. TRẦN ÁNH DƯƠNG PHẠM XUÂN CẢNH Thư ký: Ths. TRẦN THỊ QUỲNH NGA Trình bày và sửa bản in: Ths. LÊ ĐÌNH HÙNG TRẦN THỊ TÚ ANH Địa chỉ: TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ HÀ TĨNH Số 14, Đường Hoàng Xuân Hãn, Phường Đại Nài, Thành phố Hà Tĩnh Điện thoại: 02393 885073 Fax: 02393 885073 Email:[email protected] Website:http://www.truongchinhtrihatinh.gov.vn Bìa 1,2,3,4 và phụ trương: Ảnh: Lê Đình Hùng In 150 cuốn, khổ 19 x 26,5cm, tại Công ty CP in Hà Tĩnh. Số 153 - Hà Huy Tập - TP. Hà Tĩnh. Giấy phép xuất bản số: 121/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông Hà Tĩnh cấp ngày 28 tháng 12 năm 2017. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm 2018 MỤC LỤC I. QUÁN TRIỆT CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC 1. Ths. Đinh Quốc Thị: Tăng cường phối hợp thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. 2. TS. Nguyễn Quang Ngọc: Nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới. 3. Ths. Nguyễn Quỳnh Nga: Hà Tĩnh thực hiện sắp xếp tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị theo thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. 4. Ths. Hồ Thanh : Đổi mới hệ thống chính trị cấp xã tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu BCHTW khóa XII. 5. Ths. Nguyễn Thị Lam: Một số giải pháp phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức lối sống“tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. II. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 6. Ths. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh: Thực hành Dân vận, giải pháp nền tảng cho phát triển bền vững. 7. Nguyễn Thái Dũng: Đại biểu Hội đồng nhân dân với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở. 8. Ths. Phan Bá Linh: Giá trị lý luận và thực tiễn của quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hành đời sống mới trong quân đội. 9. Ths. Trần Thị Bích Thủy: Những định hướng cơ bản trong cách mạng tháng Mười Nga được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng vào cách mạng Việt Nam. 10. Ths. Chu Thị Thu Huyền: Nâng cao hiệu quả công tác tự phê bình và phê bình trong các tổ chức Đảng ở cơ sở. 11. Ths. Nguyễn Trọng Vinh: Xây dựng đạo đức công vụ góp phần xây dựng nền hành chính vì nhân dân. 12. Ths. Lê Đình Hùng: Góp phần tìm hiểu về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0). 13. Ths. Trần Thị Thúy Hường: Quán triệt những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” vào thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII. III. THỰC TIỄN - KINH NGHIỆM 14. Ths. Phan Thị Ái Vân: Phát huy vai trò tổ chức công đoàn Hà Tĩnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 15. Phan An Phú: Vận dụng một số phương pháp góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy phần học những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng. IV. THÔNG TIN 16. Thái Thị Hiền: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức năm 2017. 2 6 11 14 17 20 23 26 31 35 37 39 42 45 49 52

Upload: others

Post on 09-Mar-2020

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

THÔNG TINLÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚSố: 35/2017

Chịu trách nhiệm xuất bản:Ths. ĐINH QUỐC THỊ

Ban biên tập:Ths. ĐINH QUỐC THỊ

TS. NGUYỄN TRỌNG TỨThs. TRẦN ÁNH DƯƠNG

PHẠM XUÂN CẢNH

Thư ký:Ths. TRẦN THỊ QUỲNH NGA

Trình bày và sửa bản in:Ths. LÊ ĐÌNH HÙNGTRẦN THỊ TÚ ANH

Địa chỉ: TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ HÀ TĨNH

Số 14, Đường Hoàng Xuân Hãn, Phường Đại Nài, Thành phố Hà Tĩnh

Điện thoại: 02393 885073 Fax: 02393 885073

Email:[email protected]:http://www.truongchinhtrihatinh.gov.vn

Bìa 1,2,3,4 và phụ trương: Ảnh: Lê Đình Hùng

In 150 cuốn, khổ 19 x 26,5cm, tại Công ty CP in Hà Tĩnh. Số 153 - Hà Huy Tập - TP. Hà Tĩnh. Giấy phép xuất bản số: 121/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông Hà Tĩnh cấp ngày 28 tháng 12 năm 2017. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm 2018

MỤC LỤC

I. QUÁN TRIỆT CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC

1. Ths. Đinh Quốc Thị: Tăng cường phối hợp thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

2. TS. Nguyễn Quang Ngọc: Nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới.

3. Ths. Nguyễn Quỳnh Nga: Hà Tĩnh thực hiện sắp xếp tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị theo thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

4. Ths. Hồ Thanh : Đổi mới hệ thống chính trị cấp xã tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu BCHTW khóa XII.

5. Ths. Nguyễn Thị Lam: Một số giải pháp phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức lối sống“tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

II. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

6. Ths. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh: Thực hành Dân vận, giải pháp nền tảng cho phát triển bền vững.

7. Nguyễn Thái Dũng: Đại biểu Hội đồng nhân dân với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.

8. Ths. Phan Bá Linh: Giá trị lý luận và thực tiễn của quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hành đời sống mới trong quân đội.

9. Ths. Trần Thị Bích Thủy: Những định hướng cơ bản trong cách mạng tháng Mười Nga được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng vào cách mạng Việt Nam.

10. Ths. Chu Thị Thu Huyền: Nâng cao hiệu quả công tác tự phê bình và phê bình trong các tổ chức Đảng ở cơ sở.

11. Ths. Nguyễn Trọng Vinh: Xây dựng đạo đức công vụ góp phần xây dựng nền hành chính vì nhân dân.

12. Ths. Lê Đình Hùng: Góp phần tìm hiểu về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0).

13. Ths. Trần Thị Thúy Hường: Quán triệt những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” vào thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII.

III. THỰC TIỄN - KINH NGHIỆM

14. Ths. Phan Thị Ái Vân: Phát huy vai trò tổ chức công đoàn Hà Tĩnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

15. Phan An Phú: Vận dụng một số phương pháp góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy phần học những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

IV. THÔNG TIN

16. Thái Thị Hiền: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức năm 2017.

2

6

11

14

17

20

23

26

31

35

37

39

42

45

49

52

Page 2: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

2

QUÁN TRIỆT CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC

TĂNG CƯỜNG PHỐI HỢP THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ GÓP PHẦN ĐƯA

NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG VÀO CUỘC SỐNG

Nhận thức tầm quan trọng của cán đội ngũ cán bộ, Nghị quyết số 07 - NQ/TU ngày

28/11/2008 của ban thường vụ Tỉnh ủy xác định: “Đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, là yếu tố quyết định cho sự phát triển, là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo và người đứng đầu”. Trên tinh thần đó, trong những năm qua các cấp ủy đảng từ tỉnh đến cơ sở và lãnh đạo các các ban, ngành, đoàn thể các cấp đã tích cực phối hợp với Trường Chính trị Trần Phú để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở tất cả các khâu như: Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng theo từng loại hình, chức danh, đối tượng; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm và giai đoạn; xác định thời điểm mở lớp; thành lập ban chỉ đạo các khóa đào tạo; theo dõi, đánh giá quá trình học tập, rèn luyện của học viên… nhờ vậy, đã nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và dự nguồn cán bộ các cấp, nhất là cấp cơ sở ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, là cơ sở để các cấp ủy đảng thực hiện tốt công tác quy hoạch, chủ động trong việc đánh giá, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, thực hiện tinh giảm biên chế gắn với cơ cấu lại và nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần xây dựng hệ thống chính trị các cấp ngày càng vững mạnh.

Đối với Trường Chính trị Trần Phú, thực hiện tốt công tác phối hợp trong quá trình đào tạo đã tạo ra thế chủ động trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện nội dung, chương trình, đảm bảo phù hợp với các đối tượng, đúng quy định và đáp ứng được yêu cầu của thực tế địa phương, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phối hợp trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và kiến thức quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức trong thời gian qua còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém tác động không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng và công tác cán bộ nói chung. Những yếu kém, hạn chế đó được thể hiện trên các nội dung sau:

Một là, một số cấp ủy, lãnh đạo một số ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở và một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị. Do đó, chưa quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thiếu chủ động trong việc rà soát tiêu chuẩn, chất lượng cán bộ, công chức để

T ĐINH QUỐC THỊ TUV, Hiệu trưởng

Page 3: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

3

xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; việc cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng nhiều nơi chưa đảm bảo đúng quy trình, tiêu chuẩn, cử cán bộ đi đào tạo nhưng chưa gắn với quy hoạch, chưa đảm bảo tính tuần tự trong đào tạo, bồi dưỡng. Cá biệt một số cấp ủy trong nhiều năm qua chưa bố trí cán bộ đi đào tạo trung cấp chính trị; cũng có những đơn vị chỉ bố trí đi học các lớp tại chức với lý do địa phương, đơn vị đang bận nhiều công việc. Thực tế yếu kém này cũng đã được Đảng ta chỉ rõ trong Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị“Một số cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị chưa nhận thức đúng đắn về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Nhiều cán bộ, đảng viên coi mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị là để có bằng cấp, chứng chỉ theo tiêu chuẩn chức danh; có xu hướng đi học hệ tại chức, tạo ra mất cân đối giữa hệ tại chức và tập trung”.

Hai là, công tác phối hợp theo dõi, đánh giá sau đào tạo chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến việc đánh giá hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng chưa toàn diện, thiếu cơ sở cho việc xây dựng chương trình, nội dung và kế hoạch đào tạo lại. Nguyên nhân xuất phát từ cả phía cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cũng như cấp ủy chính quyền các địa phương là chưa xây dựng được bộ tiêu chí để đánh giá cán bộ trước và sau đào tạo, bồi dưỡng đối với từng chức danh, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Công tác đánh giá sau đào tạo mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá tăng giảm số lượng và tỷ lệ cán bộ theo các chức danh đã được đào tạo, bồi dưỡng mà chưa chú trọng đánh giá mức độ chuyển biến trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của mỗi vị trí, chức danh cán bộ sau khi đào tạo, bồi dưỡng.

Ba là, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa thống nhất, còn

chồng chéo nên học viên phải học lặp lại một số nội dung ở các lớp khác nhau, nhất là việc sửa đổi, bổ sung nội dung giáo trình chưa thật sự khoa học, phù hợp với đối tượng học viên dẫn đến khó khăn cho cả người dạy và người học. Mặt khác, do chưa nhận thức đầy đủ quy định của Đảng, nhà nước về chức năng, thẩm quyền tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và chưa xây dựng được quy chế phối hợp đào tạo, bồi dưỡng nên vẫn còn tình trạng một số cơ quan, ban, ngành, đoàn thể chưa phối hợp chặt chẽ với trường chính trị tỉnh để tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng.

Bốn là, một số cấp ủy do chưa chấp hành nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền, nghĩa vụ học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cũng như các quy định về tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Do đó, thiếu quan tâm đến công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho từng vị trí, chức danh cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý, dẫn đến lúng túng trong việc cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng từ đó dễ làm xuất hiện hiện tượng xin cho trong việc cử cán bộ đi học.

Trong thời gian tới, để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm nêu trên, góp phần “ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết 4 (Khóa XII) và thực hiện “Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức” theo yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 6 (Khóa XII), đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên của các cơ quan, ban ngành

Page 4: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

4

với Trường chính trị Trần Phú nhằm thực hiện tốt một số nhiệm vụ cụ thể sau đây:

Một là, xây dựng quy chế phối hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất trong toàn hệ thống đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Với quy chế này có thể tạo ra một cam kết chung, làm căn cứ để điều chỉnh các hoạt động phối hợp giữa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, cấp ủy, chính quyền các cấp, lãnh đạo các ban ngành đoàn thể từ tỉnh đến huyện. Quy chế này sẽ phân định rõ trách nhiệm từng cơ quan, đơn vị, địa phương trong tất cả các khâu của quá trình đào tạo cũng như đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; sẽ giúp cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh chủ động trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; sẽ tạo được sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa Trường Chính trị Trần Phú với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, các sở, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, cấp ủy và Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị cấp huyện trên tất cả các nội dung liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như: xây dựng kế hoạch, chiêu sinh, mở lớp, hoàn thiện hồ sơ, bố trí giảng viên kiêm nhiệm, tổ chức giảng dạy, quản lý học viên, tham mưu hoàn thiện chế độ chính sách cho người học, bổ sung cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập, công tác phục vụ và theo dõi, đánh giá cán bộ sau đào tạo...

Hai là, tăng cường sự phối hợp của cấp ủy các địa phương, các ngành với Trường Chính trị Trần Phú trong công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn cán bộ đi học.

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới, những năm gần đây, quy mô, loại hình đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường ngày càng được mở rộng và đa dạng hoá. Chính vì vậy, công tác

tuyển sinh hàng năm, nhất là sau Đại hội Đảng các cấp cũng nảy sinh nhiều vấn đề cần phải phối hợp giải quyết. Việc lựa chọn đối tượng đào tạo, bồi dưỡng phải luôn gắn liền với công tác quy hoạch, bố trí và sử dụng cán bộ của các địa phương, đơn vị. Vì vậy, các địa phương, đơn vị trên cơ sở quy hoạch được duyệt phải chủ động phối hợp với trường chính trị tỉnh để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ trung và dài hạn nhằm tạo nguồn cán bộ, tránh tình trạng cán bộ đi đào tạo về thì không được sử dụng hoặc khi cần bố trí, bổ nhiệm lại thiếu cán bộ đã được đào tạo. Việc lựa chọn, cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng phải đảm bảo đúng quy trình, đúng tiêu chuẩn. Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp tỉnh không muốn tham gia học trung cấp lý luận chính trị - hành chính, chỉ chờ học cao cấp, dẫn đến nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo cấp phòng và tương đương được bổ nhiệm nhưng vẫn chưa học trung cấp chính trị và chưa được học lớp bồi dưỡng ngạch chuyên viên, chuyên viên chính. Vì vậy, trước mắt trường chính trị tỉnh và cấp ủy các cấp, các ngành, các địa phương cần phải quyết liệt, nghiêm túc trong rà soát, lựa chọn và cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng. Đây là một trong những vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện nay.

Ba là, tăng cường phối hợp quản lý giữa Trường Chính trị Trần Phú và các địa phương, đơn vị trong quá trình tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng.

Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Trường Chính trị Trần Phú là một quy trình khoa học. Ngoài sự nỗ lực của học viên, sự cố gắng của giảng viên thì không thể thiếu sự phối hợp của các cơ quan liên quan, đặc biệt là các địa phương, đơn vị cử người đi học. Nhiều cấp ủy địa phương,

Page 5: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

5

đơn vị chưa lấy trình độ lý luận chính trị làm một trong những tiêu chuẩn để đánh giá, xem xét bổ nhiệm cán bộ, cộng với việc bổ nhiệm trước, trả nợ bằng sau đã dẫn đến tình trạng một số cán bộ không mấy mặn mà với việc học tập lý luận chính trị. Từ căn bệnh coi kinh học tập lý luận chính trị ấy đã làm cho một số cán bộ chỉ biết làm việc theo lối chủ nghĩa kinh nghiệm, kém năng động sáng tạo, hiệu quả công tác và tầm nhìn hạn chế; không ít các học viên, trong cùng một lúc được cử đi học hai lớp khác nhau hoặc đi học nhưng vẫn phân công công tác nên vừa đi học, vừa đi làm, dẫn đến hiệu quả học tập không cao. Với cơ chế như hiện nay, cán bộ không thể giữ một công việc, một chức danh suốt đời, cho nên cán bộ phải được đào tạo, bồi dưỡng qua nhiều lớp với nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm mở lớp khác nhau. Vì vậy, Trường Chính trị Trần Phú và các địa phương, đơn vị có cán bộ đi học cần phải tăng cường công tác phối hợp, đặc biệt chú trọng việc theo dõi, đánh giá ý thức, thái độ của học viên trong quá trình học tập, tránh tình trạng lãng phí về thời gian và gây khó khăn khi sắp xếp công việc thay thế cho đội ngũ cán bộ được cử đi học và tạo áp lực không cần thiết cho nhà trường.

Bốn là, phối thực hiện có hiệu quả các hoạt động khảo sát, theo dõi, đánh giá cán bộ sau đào tạo.

Đây là một hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tuy nhiên, trong thời gian qua hoạt động này vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Đối với các địa phương, đơn vị, việc theo dõi, đánh giá cán bộ sau đào tạo nhằm rà soát, đánh giá định kỳ để phục vụ cho công tác đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, quy hoạch thường xuyên; đồng thời cũng là căn cứ để tiếp tục xem xét cử cán bộ đi học và có ý kiến phản hồi về công tác đào

tạo, bồi dưỡng đối với cơ sở đào tạo. Đối với Trường Chính trị tỉnh, sự phối hợp thực hiện tốt hoạt động này sẽ nắm bắt được thông tin phản hồi về đánh giá cán bộ sau đào tạo làm cơ sở để nhà trường điều chỉnh nội dung, phương thức, hình thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng. Mặt khác, thông qua kết quả đánh giá cán bộ sau đào tạo, đội ngũ giảng viên của nhà trường sẽ có căn cứ để điều chỉnh phương pháp, nâng cao hiệu quả giảng dạy, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của các địa phương.

Năm là, phối hợp xây dựng đội ngũ giảng viên ngày càng vững mạnh và tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường ngày càng tốt hơn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Về xây dựng đội ngũ giảng viên: trước hết nhà trường phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy bố trí đủ số lượng giảng viên theo quy định; phối hợp với các địa phương tổ chức cho giảng viên đi nghiên cứu thực tế, trong đó có cả việc bố trí giảng viên đi thực tế cơ sở nhiều ngày. Hàng năm, ngoài việc chấp hành tốt kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Bộ Nội vụ, nhà trường cần chủ động mở các lớp tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng chuyên đề cho giảng viên; phối hợp Ban Tổ chức tỉnh ủy tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy cử giảng viên đi đào tạo trình độ cao cấp lý luận chính trị và đào tạo sau đại học, nhất là nghiên cứu sinh. Cùng với tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu, Trường Chính trị Trần Phú cần phải phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh; cấp ủy, chính quyền cấp huyện, cấp xã xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức, đó là những đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành có nhiều kinh nghiệm công tác, có trình độ chuyên môn sâu sẽ là

Xem tiếp trang 34

Page 6: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

6

T TS. NGUYỄN QUANG NGỌC Trưởng khoa Xây dựng Đảng

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ

then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng. Các văn kiện Đại hội, Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị trong thời kỳ đổi mới cho thấy rõ những bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Mở đầu thời kỳ đổi mới, Đại hội VI của Đảng đã nêu bốn nội dung Đảng cần phải đổi mới là “Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”(1) .Vấn đề “đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác” đến Đại hội VII đã được điều chỉnh thành “đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị Trung ương 5 khoá VI, ngày 20/6/1988 đã ra Nghị quyết số 05-NQ/HNTW, về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Có thể nói đây là văn kiện đầu tiên trong thời kỳ đổi mới Đảng đề cập đến những “vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng”. Về sau, nội hàm “những vấn đề cấp bách” được điều chỉnh, bổ sung thể

hiện năng lực nhận diện, khả năng nhận thức và thái độ ứng xử của Đảng đối với những vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo, thậm chí là sự tồn vong của Đảng. Điều này cũng cho thấy Đảng đã ngày càng quán triệt sâu sắc quan điểm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” trong công tác xây dựng Đảng.

Trên tinh thần đó, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VI đã thẳng thắn thừa nhận: Sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa ngang tầm nhiệm vụ cách mạng; năng lực tổ chức thực hiện của nhiều cấp uỷ đảng còn yếu; đội ngũ cán bộ, đảng viên đông nhưng nói chung không mạnh; một số cán bộ, kể cả ở cấp cao, không gương mẫu, thậm chí thoái hoá, biến chất; ở nhiều nơi, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng rất yếu; các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng không được chấp hành nghiêm túc; bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, hống hách, cửa quyền, tệ ăn cắp của công, ăn hối lộ còn nặng; quan hệ giữa Đảng và quần chúng bị xói mòn, uy tín của Đảng giảm sút nghiêm trọng...(2). Về nhiệm vụ cấp bách của công tác xây dựng Đảng, Trung ương nhấn mạnh: Cần phải đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng của Đảng; tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Page 7: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

7

của công cuộc đổi mới; nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Trong đó, cần tập trung xây dựng phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mới; khắc phục bệnh quan liêu; thực hiện chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp dành thời gian đi cơ sở, tiếp dân, giải quyết kịp thời tại chỗ những công việc cụ thể; giảm bớt những cuộc họp không cần thiết, họp quá dài, hiệu quả ít.

Đại hội VII của Đảng chính thức đặt ra vấn đề đổi mới Đảng gắn liền với chỉnh đốn Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ rõ: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”(3). Vấn đề đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng đã được đề cập đến tại Đại hội VI và được xem là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên, lâu dài. Tuy nhiên, đến Đại hội VII, sau đó là Đại hội VIII, Đảng xác định tự đổi mới Đảng phải gắn liền với tự chỉnh đốn Đảng và tự đổi mới, tự chỉnh đốn không phải chỉ tiến hành một lần, trong một thời gian ngắn mà phải “thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn... đây là một quy luật phát triển của Đảng”(4). Quan điểm này được cụ thể hoá trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) ngày 26/6/1992, về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Trong Nghị quyết này, Trung ương đã đánh giá rất rõ những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng như: Tổ chức và kỷ luật của Đảng lỏng lẻo; tình trạng mất đoàn kết xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi; trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin; tệ tham nhũng, hối lộ, rất nghiêm trọng và kéo dài; chậm đổi mới

phương thức lãnh đạo; bệnh quan liêu xa thực tế, xa quần chúng rất nặng. Nhiều cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với làm, sống xa dân... Những khuyết điểm trên đang gây tác hại lớn, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng, có những khuyết điểm đang trở thành nguy cơ không thể xem thường. Vì vậy, “đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta”(5). Yêu cầu của đổi mới và chỉnh đốn Đảng là: Nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng; nâng cao trình độ kiến thức, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng; tăng cường dân chủ và kỷ luật, củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong nhân dân; chỉnh đốn hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm sự lãnh đạo thông suốt đến mọi cơ sở; tạo một bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ... Cũng tại Hội nghị này, Trung ương đã làm rõ nội hàm của xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức và đưa ra một số quan điểm và nguyên tắc cơ bản trong công tác cán bộ.

Phát triển quan điểm của Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII, Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Là đảng cầm quyền, lại hoạt động trong điều kiện mới hết sức phức tạp, Đảng ta ý thức sâu sắc về điều đó, coi đây là một quy luật phát triển của Đảng”(6). Tại Đại hội này, Đảng thẳng thắn thừa nhận: Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: Sự suy thoái về

Page 8: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

8

tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Do đó, trong các mối quan hệ đan xen của các nguy cơ thì yếu tố bên trong, phía chủ quan, có tính chất quyết định. Nếu bản thân Đảng mạnh thì sự chống phá của các thế lực thù địch không thể nào làm cho Đảng ta suy yếu; nhưng ngược lại, nếu bên trong yếu kém, thì “diễn biến hoà bình” vốn là từ phía các thế lực thù địch gây ra rất dễ biến thành nguy cơ “tự diễn biến hoà bình”. Quan điểm này đến Hội nghị Trung ương 4 khoá XII được Đảng ta một lần nữa nêu ra rất cụ thể.

Để tạo ra một chuyển biến mới trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) khoá VIII ngày 02/02/1999, về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay đã xác định 10 nhiệm vụ cơ bản và cấp bách của công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ nhằm khắc phục một số hạn chế, yếu kém trong Đảng, đồng thời thể hiện rõ quan điểm coi công tác xây dựng Đảng thực sự là nhiệm vụ then chốt. Trong nhiệm kỳ Đại hội VIII, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII. Tuy nhiên, “tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là

một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến”, “một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết; chất lượng sinh hoạt đảng giảm sút. Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập...” (7). Trước thực trạng đó, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được Đại hội IX xác định trên bốn nội dung trọng tâm: (1) Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; (2) Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; (3) Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng; (4) Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, đặc biệt đứng trước thực trạng “nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở những nét khái quát chung, còn không ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục”; “sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn”(8), ngày 18/3/2002, Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) đã ra Nghị quyết số 16-NQ/TW về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Có thể nói, sau Nghị quyết 01-NQ/TW ngày 28-3-1992 về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay của Bộ Chính trị khoá VII, Nghị quyết số 16 đã xác định một hệ thống nhiệm vụ giải pháp toàn diện nhằm đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp công tác tư tưởng; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Page 9: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

9

Trong nhiệm kỳ Đại hội IX, bên một số kết quả tích cực, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Để tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, Đại hội X khẳng định: Phải dành nhiều công sức tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân... Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng. Theo đó, Đại hội đã đưa ra 5 nhiệm vụ, giải pháp lớn về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó nhấn mạnh vai trò của việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng, đồng thời chú trọng tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, qua đó để củng cố cơ sở chính trị, xã hội của Đảng. (9)

Trên cơ sở nhận thức về vị trí, vai trò là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở và xuất phát từ thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã ra Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 02/02/2008 về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là lần đầu tiên trong thời kỳ đổi mới Trung ương có một nghị quyết chuyên đề bàn về tổ chức cơ sở đảng. Trong Nghị quyết này, Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với nhân dân, củng cố cơ sở chính trị, xã hội của Đảng. Đồng thời Trung ương cũng nêu ra 5 nhiệm vụ và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo,

sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. (10)

Đại hội XI tiếp tục khẳng định: việc giữ vững bản chất và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay. Đại hội cũng đưa ra 8 nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trước yêu cầu mới ngày càng cao của công cuộc đổi mới, nếu Đảng không giữ vững bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng, không thống nhất cao về ý chí và hành động, không trong sạch về đạo đức, lối sống, không chặt chẽ về tổ chức, không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tiếp tục ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt thể hiện trong Nghị quyết là kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, gắn với thực hiện tổng thể các nghị quyết khác của Đảng để khắc phục những khuyết điểm, yếu kém kéo dài trong Đảng và tạo bước đột phá về công tác cán bộ. Nghị quyết nêu ra 3 vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cấp trên.

Qua hơn 4 năm thực hiện, Đại hội XII của Đảng nhận định: “Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng; có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững

Page 10: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

10

ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố thêm niềm tin trong Đảng và nhân dân”(11). Đại hội XII tiếp tục khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức là vấn đề cơ bản. Đại hội đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, đồng bộ, trong đó nhấn mạnh phải tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, với trọng tâm là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

Trên tinh thần đó, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tiếp tục ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tại Nghị quyết này, Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”(12). Phải nói rằng, đây không phải là lần đầu tiên Đảng đề cập đến vấn đề suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tuy nhiên, tại Nghị quyết này, bước phát triển quan trọng về nhận thức và tổ chức thực tiễn công tác xây dựng Đảng được thể hiện qua việc Đảng ta không chỉ định hướng, định tính mà còn định lượng, định danh những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, khắc phục tình trạng chung chung, phiếm chỉ, thậm chí né tránh, ngại bàn công khai về những thói hư, tật xấu, những căn bệnh làm tổn hại vị thế, vai trò, năng lực và uy tín của đảng cầm quyền.

Nhìn lại 30 năm đổi mới và những bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có thể thấy rằng, tầm vóc, quy mô, tính chất, chiều sâu và ý nghĩa của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng được nâng lên. Thực tế đó chứng minh năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm của Đảng ta đối với giai cấp, nhân dân và toàn thể dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

__________________ (1). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.124.(2). Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khoá VI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết đại hội VI của Đảng.

(3). Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.21.

(4). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tr.47.

(5). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) ngày 26/6/1992, về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng.

(6). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Sđd.

(7). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

(8). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) ngày 18/3/2002, về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.

(9). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

(10). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) ngày 02/02/2008, về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

(11). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

(12). Diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 4 Khoá XII.

Page 11: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

11

T Ths. NGUYỄN QUỲNH NGA Giảng viên Khoa Xây dựng Đảng

Nhận rõ tính cấp thiết của công tác tinh gọn bộ máy chính trị, Đảng và Nhà nước ta nhiều

lần đề ra chủ trương sắp xếp, kiện toàn hệ thống chính trị gắn với việc tinh giản biên chế. Tuy nhiên, kết quả trên thực tế đã ngược lại với mong muốn khi càng tinh giản thì bộ máy càng “phình to”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định quyết tâm của Đảng trong việc “tinh giản biên chế trong toàn bộ hệ thống chính trị”. Nghị quyết xác định: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện toàn bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Nghiên cứu thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2016, tr.203)

Cụ thể hơn, tại Hội nghị Trung ương 6 vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, yêu cầu trong thời gian tới, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực vào cuộc, coi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là một nhiệm vụ cơ bản và cấp bách, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Tinh gọn hệ thống bộ máy chính trị, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức là để nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút những người có đức, có tài vào hoạt động công vụ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.

Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề đó, dựa vào tình hình thực tiễn của tỉnh, đồng thời bám sát định hướng của Trung ương, tỉnh Hà Tĩnh đã đề ra chủ trương

HÀ TĨNH THỰC HIỆN SẮP XẾP TINH GỌN BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG

Page 12: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

12

cụ thể để tinh gọn và kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống ngay từ rất sớm. Cụ thể: Ngày 19/8/2009, BTV Tỉnh uỷ khoá XVI đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU về “Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”. Đây là bước cụ thể, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết Trung ương 4 (khoá X) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội và các nghị quyết khác của Trung ương. Ngày 29/9/2014, trên cơ sở hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU, BTV Tỉnh uỷ đã ban hành Kết luận 25-KL/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU về “Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”. Kết luận cũng nêu rõ các giải pháp gắn với thực hiện Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28/5/2013 của BCH Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”.

Trước thực trạng bộ máy cồng kềnh, ngày 16/12/2011, HĐND tỉnh Hà Tĩnh ban hành Nghị quyết số 26/2011/NQ-HĐND về phê duyệt Đề án “Sắp xếp, kiện toàn các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, ban quản lý dự án, tổ chức hội”. Thực hiện chủ trương trên, thời gian qua, đặc biệt là giai đoạn thực hiện Kết luận 05-KL/TU ngày 29/6/2016 của BTV Tỉnh uỷ, Hà Tĩnh tiếp tục đạt nhiều kết quả trong sắp xếp, tổ chức bộ máy, Hà Tĩnh đã tinh giản được 186 tổ chức, đơn vị, 06 phòng chuyên môn và giảm

144 đơn vị sự nghiệp, trong đó sự nghiệp giáo dục giảm 99 trường; giảm 40 ban quản lý dự án. Ðồng thời, chuyển hoạt động 06 đơn vị sự nghiệp thuộc 05 sở, ngành sang tự trang trải kinh phí; 10 đơn vị tự chủ một phần. Từ việc sắp xếp, kiện toàn các cơ quan, đơn vị, số biên chế đã giảm 323, tiết kiệm chi ngân sách để trả lương và phụ cấp hằng năm gần 27,5 tỷ đồng (không kể chi hằng năm cho cán bộ thôn, xóm).

Để tập trung sức mạnh của nhân dân thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, cũng là để tinh gọn bộ máy, từ đầu năm 2012 Hà Tĩnh bắt đầu triển khai rộng rãi việc sáp nhập thôn, tổ dân phố. Tuy vậy, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, mặc dù cấp trên chưa ban hành chủ trương nhưng nhiều địa phương có số dân ít và có những nét tương đồng trong sinh hoạt, sản xuất đã tiến hành sáp nhập trước đó: xã Cẩm Thành (Cẩm Xuyên) là đơn vị tiên phong thực hiện sáp nhập thôn, từ 19 thôn xuống còn 9 thôn, bình quân mỗi năm giảm 700 triệu đồng chi phí.

Theo thống kê từ Sở Nội vụ, sau hơn 5 năm thực hiện chủ trương sáp nhập, tỉnh đã giảm được gần 700 thôn, tổ dân phố và gần 12 nghìn người được hưởng phụ cấp, giảm chi hằng năm hơn 84 tỷ đồng.

Bên cạnh việc chú trọng sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo hướng hiệu quả, tỉnh Hà Tĩnh triển khai chặt chẽ, nghiêm túc các nhiệm vụ cải cách hành chính.

Sự ra đời các trung tâm hành chính công là bước đột phá trong cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động các đơn vị. Kết quả bước đầu là thành lập Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh và 5 trung tâm hành chính công cấp huyện

Page 13: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

13

(Đức Thọ, Thạch Hà, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh, TP. Hà Tĩnh); thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tỉnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp...Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đạt kết quả thấp; tỉ lệ người phục vụ cao, nhất là ở khối văn phòng; số lãnh đạo cấp phó nhiều.

Hà Tĩnh hiện nay có tới 262 xã, phường, thị trấn), trong khi đó một số tỉnh có dân số và diện tích tương đương thì số đơn vị hành chính cấp xã của họ ít hơn nhiều như tỉnh Tây Ninh có diện tích và dân số tương đương cũng chỉ có 80 xã, Phú Yên chỉ có 88 xã, hay như tỉnh Đồng Nai có dân số gấp đôi tỉnh ta cũng chỉ có 136 xã…Qua con số này chúng ta thấy được sự công kềnh của bộ máy chính trị tỉnh nhà.

Đồng thời tình trạng “lạm phát” cấp phó, dù đã có những chấn chỉnh, tuy nhiên vẫn còn vượt ngưỡng quy định, số lượng phó giám đốc sở hoặc tương đương, phó phòng cấp huyện ở Hà Tĩnh vẫn đang vượt quá quy định của Chính phủ….

Tinh giản mới chỉ bước đầu đảm bảo về số lượng, trong khi mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn chưa đạt được.

Việc giảm đầu mối và giảm nhân sự thực hiện chưa hiệu quả, chưa loại ra khỏi bộ máy những cán bộ, công chức yếu kém, không có năng lực. Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém còn có cả khách quan và chủ quan nhưng chủ quan là chủ yếu. Lực cản lớn nhất của chúng ta hiện nay là nhận thức về chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy gắn với tinh giản biên chế, nâng cao hiệu quả hiệu lực của bộ máy nhà nước chưa đầy đủ, quyết tâm chính trị của một số cấp ủy chưa cao, tư tưởng ngại khó, ngại va chạm còn nặng nề.

Trong thời gian tới, để thực hiện có hiệu quả chủ trương Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa XII) đề ra, cũng như các chủ trương của tỉnh nhà, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Giải pháp đầu tiên là phải tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng để tạo ra sự đồng thuận và nhất trí cao để từ đó quyết tâm hành động. Công tác tuyên truyền phải làm cho mỗi cán bộ đều thấy được tầm quan trọng của việc tinh giản bộ máy hệ thống chính trị.

Tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh

Xem tiếp trang 16

Page 14: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

14

T Ths. HỒ THANH Giảng viên Khoa Nhà nước và Pháp luật

Hệ thống chính trị cấp xã là cấp có số lượng cán bộ, công chức và người hưởng

phụ cấp từ ngân sách nhà nước đông đảo nhất. Theo thống kê hiện cả nước có 11.162 đơn vị hành chính cấp xã, khoảng 235627 cán bộ, công chức cấp xã trung bình mỗi xã có 21 cán bộ, công chức. Số người hoạt động không chuyên trách hiện có: 991.815 (trong đó 206.331 người hoạt động không chuyên trách cấp xã 785.484 người hoạt động không chuyên trách thôn, tổ dân phố)(1). Tổng quỹ lương của cán bộ, công chức cấp xã và thực hiện khoán quỹ phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố là hơn 32.400 tỷ đồng/năm, trong đó, quỹ lương của cán bộ, công chức cấp xã là hơn 19.600 tỷ đồng/năm(2). Tuy nhiên hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã hiện nay gặp nhiều khó khăn, tập trung một số nguyên nhân cơ bản sau:

+ Số lượng cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách đông nhưng chức năng, nhiệm vụ không rõ ràng. Một vị trí việc làm đảm nhiệm nhiều chức năng, nhiệm vụ và một chức năng nhiệm vụ có lúc nhiều vị trí việc làm đảm đương.

+ Lương, phụ cấp của cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách thấp so với mức bình quân thu nhập của xã hội, nên chưa thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về xã và thúc đẩy được đội ngũ này cống hiến một cách trọn vẹn năng lực, kỹ năng, phẩm chất cho công việc tại xã.

+ Thiếu chiến lược trong việc xây dựng và chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, nhận thức rằng đây là đội ngũ cán bộ cơ sở, cho nên trong xây dựng khung tiêu chuẩn tuyển chọn, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng... chưa được coi trọng đúng mức.

+ Chưa có một đầu mối thống nhất quản lý biên chế, điều hành công sở cho cả hệ thống chính trị cấp xã. Việc chuyển cán bộ cấp xã từ Pháp lệnh cán bộ, công chức, năm 2003 thành công chức theo Luật Cán bộ, công chức, năm 2008 với diện quá rộng.Việc tổng kết các mô hình thí điểm tổ chức hệ thống chính trị cấp xã còn chậm.

Trước thực trạng trên cùng với những giải pháp đồng bộ mà nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ VI BCHTW khóa XII, cần tập trung một số giải pháp cụ thể sau:

ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ TINH GỌN, HOẠT ĐỘNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN

THỨ SÁU BCHTW KHÓA XII

Page 15: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

15

+ Trước hết, cần quy định khung số lượng cán bộ, công chức cấp xã theo hướng xác định rõ vị trị việc làm, tiêu chuẩn chức danh, đặc thù địa phương và bảo đảm giảm biên chế. Thí điểm và triển khai trên diện rộng việc tăng cường kiêm nhiệm công việc, khoán quỹ phụ cấp để giảm dần số lượng những người hoạt động không chuyên trách gắn với việc tăng thu nhập của cán bộ, công chức cấp xã. Trong đó thực hiện kiêm nhiệm những vị trí việc làm có nhiệm vụ tương thích với các chức danh chuyên môn ở các địa phương có điều kiện phù hợp như: Bí thư đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐND, hoặc Chủ tịch UBND xã; Phó Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐND hoặc Chủ tịch MTTQ xã; Chỉ huy trưởng, phó chỉ huy trưởng Quân sự xã kiêm phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam xã; Phó Chủ tịch Hội Nông dân kiêm cán bộ Khuyến nông, cán bộ thú y xã; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam kiêm phó Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam; Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh kiêm công chức Văn hóa tuyên truyền, Văn thư xã kiêm Văn phòng Đảng ủy xã...

+ Thứ hai, tăng cường quyền làm chủ của nhân dân gắn với đẩy mạnh thực hiện các hình thức tự quản và xã hội hóa ở cộng đồng dân cư. Mỗi thôn, tổ dân phố và tương đương có một số chức danh (không quá 3 người) được hưởng phụ cấp hằng tháng từ ngân sách nhà nước. Trong đó kết hợp kiêm nhiệm với khả năng và cơ cấu phù hợp như: Người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp xã kiêm bí thư chi bộ thôn, tổ dân phố; Bí thư chi bộ, Tổ trưởng tổ dân phố, công an viên kiêm các chức

danh không chuyên trách cấp xã như: phó tổ chức chính trị - xã hội, truyền thanh, dân số - gia đình trẻ em, Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ; Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội Người Cao tuổi cấp xã...

+ Thứ ba, thực hiện nghiên cứu điều chỉnh mức phụ cấp kiêm nhiệm chức vụ 20% (theo Nghị định 92/2009) lên 50% và cứ kiêm nhiệm chức vụ nào thì được hưởng phụ cấp chức vụ đó để đảm bảo mức thu nhập trung bình chung xã hội cho cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách ở xã. Thực hiện khoán lương, phụ cấp và biên chế phù hợp với tỉ lệ dân số, diện tích, tỷ lệ thu ngân sách bình quân hàng năm trên địa bàn và tính đặc thù như miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng chiến khu cách mạng…đối với hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn với số cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách theo tinh thần Nghị quyết 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của UBTV Quốc hội về tiêu chuẩn đơn vị hành chính phân loại đơn vị hành chính. Các địa phương tích cực, chủ động sáp nhập xã, phường, thị trấn, thôn, xóm, tổ dân phố có diện tích và dân số quá nhỏ.

+ Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý cán bộ, công chức cấp xã trong đó chuẩn hóa cao hơn nữa về tiêu chuẩn chức danh, thi tuyển, xét tuyển, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật… Xóa bỏ nhận thức đây là cấp cơ sở nên hạ thấp tiêu chuẩn, mà việc quản lý cán bộ, công chức cấp xã phải được ngang bằng như các loại cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, kể cả trong xếp ngạch, bậc, phụ cấp chức vụ. Trong đó tập trung đào tạo, bồi dưỡng đào tạo

Page 16: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

16

lại, bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức trong thực thi công vụ ở chính quyền cấp xã hiện nay.

Đổi mới hệ thống chính trị cấp xã là một phần trong đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới đất nước không tránh khỏi những khó khăn ban đầu. Trong đó tư tưởng ngại đổi mới, ngại va chạm của một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền là rào cản lớn nhất, thêm vào đó việc sắp xếp tổ chức bộ máy, gắn với tinh giản biên chế và nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở sẽ là một thách thức rất lớn phải vượt qua. Vì vậy để thực hiện thành công Nghị quyết số 18 - NQ/TW Hội nghị lần thứ VI BCHTW khóa XII, về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả đòi hỏi sự quyết tâm chính trị, sự tính toán khoa học, sự thử nghiệm và tổng kết đầy đủ tránh những xung đột không đáng có trong quá trình đổi mới./.

_______________(1) Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu

nghiên cứu văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, BCHTW Đảng khóa XII, NXBCTQGST, HN-2017, tr 96.

(2) http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/tai-chinh/gan-1-3-trieu-can-bo-thon-xa-moi-nam-32-400-ty-tien-luong-404523.html.

đạo, quản lý các cấp để nhân dân giám sát. Cần xây dựng cơ chế cạnh tranh, công khai, minh bạch trong tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị; xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực bằng các quy định của pháp luật, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và thường xuyên kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm giải trình; Thường xuyên kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ. Xây dựng chế tài và xử lý nghiêm những cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu có vi phạm. Xử lý nghiêm cán bộ vi phạm những quy định của tổ chức Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

Thực hiện tốt việc xây dựng đề án vị trí việc làm phù hợp với điều kiện thực tế; trong cơ quan phân công công việc phù hợp với năng lực, với chuyên môn được đào tạo và sở trường của từng cán bộ; thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra uốn nắn khi cán bộ có biểu hiện lệch lạc.

Tiếp tục rà soát chức năng, nhiệm vụ để giảm đầu mối các cơ quan, đơn vị, giảm được đầu mới là giảm được chi phí. Ðồng thời, xây dựng các giải pháp thiết thực về quản lý, kiểm tra, giám sát, đánh giá để nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động./.

HÀ TĨNH THỰC HIỆN... Xem tiếp trang 13

Page 17: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

17

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát

triển năm 2011) khẳng định: “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân... Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”1. Mục tiêu, lý tưởng đó của Đảng được cụ thể hóa qua chủ trương, đường lối cách mạng mà Đảng lãnh đạo; qua kết quả hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên được nhân dân thừa nhận, đánh giá trên cả hai mặt ưu điểm và khuyết điểm. Để chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra yêu cầu: “Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”2. Đặc biệt, trong công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Xây dựng về tư tưởng, về chính trị, về tổ chức, đó là đường lối xây dựng Đảng. Đó không những là công việc của Đảng và của đảng viên mà cũng là của toàn dân... Đảng viên thì phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng”3. Để thực hiện tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng với nhân nhân và phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, ngày 3/10/2017 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quyết định số

99-QĐTW về ban hành khung hướng dẫn để các cấp ủy, đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của Nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Để chủ trương này đi vào thực tiễn, cấp ủy, tổ chức Đảng cần quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc và phải dựa vào nhân dân, tạo được sự đồng thuận của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra việc triển khai thực hiện.

Trong thời gian qua, để phát huy vai trò, trách nhiệm của mình, các cấp ủy, tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã động viên, tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ; vận động quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền dưới các hình thức như: hòm thư đóng góp ý kiến, kiến nghị của nhân dân tại các cơ quan, nhất là trụ sở xã, phường, thị trấn; tổ chức các hội nghị đóng góp ý kiến, lấy phiếu tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ chủ chốt ở cơ sở được dân bầu; phát huy dân chủ về quyền bầu cử của nhân dân, quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; quyền giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền thông qua MTTQ và ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng… đã góp phần quan trọng phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Tuy vậy ở nhiều địa phương, đơn vị việc phát huy vai trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI SỰ SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG “TỰ DIỄN

BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ

T Ths. NGUYỄN THỊ LAM Giảng viên Khoa Dân vận

Page 18: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

18

Đảng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, biểu hiện ở một số mặt: có những vụ việc được quần chúng nhân dân nêu lên nhưng chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời hoặc giải quyết không hợp tình, hợp lý, thậm chí còn có hiện tượng bao che. Việc phát huy vai trò giám sát, góp ý kiến của quần chúng nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hiệu quả chưa cao như: có đặt hòm thư, thùng thư góp ý kiến ở cơ quan, đơn vị nhưng nhận được rất ít hoặc không nhận được ý kiến đóng góp, kiến nghị của nhân dân; việc tổ chức để quần chúng tham gia góp ý kiến trực tiếp cho đảng viên, tổ chức, cấp ủy đảng còn mang tính hình thức, nhận xét góp ý chung chung, ngại va chạm…Một bộ phận quần chúng nhân dân không tin tưởng vào việc tiếp nhận, xử lý ý kiến, kiến nghị của tổ chức, cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đối với ý kiến của mình dẫn đến không muốn góp ý; một số nơi do không làm tốt công tác tuyên truyền định hướng, xử lý tốt các vấn đề đặt ra và chưa làm tốt công tác quản lý đảm bảo an ninh, trật tự dẫn đến tình trạng lợi dụng dân chủ để kẻ xấu kích động, tổ chức khiếu kiện đông người, gây rối mất trật tự trị an.

Để phát huy vai trò giám sát của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ về quyền, trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; nhận diện 27 biểu hiện và tích cực tham gia đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nhân dân giúp xây dựng Đảng bằng cách: hiểu rõ Đảng, ủng hộ Đảng, hưởng ứng những lời kêu gọi của Đảng, ra sức cho Đảng

rõ tình hình trong nhân dân, đối với công tác của Đảng thì thật thà phê bình và nêu ý kiến của mình”4 để quần chúng nhân dân tin tưởng và thực hiện việc phê bình, góp ý kiến xây dựng Đảng với tất cả tấm lòng, trách nhiệm của mình. Muốn làm được điều đó thì cấp ủy, tổ chức đảng phải khắc phục cho được những suy thoái trong tổ chức, cấp ủy của mình đã được chỉ ra, từ đó đề ra biện pháp đúng đắn, có tính khả thi trong việc tổ chức thực hiện.

Cấp ủy, tổ chức đảng phải tăng cường giáo dục và thực hiện tốt vai trò hạt nhân chính trị, hiệu quả lãnh đạo của tổ chức, cấp ủy đảng ở cấp mình. Làm tốt công tác xây dựng Đảng về tổ chức để nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, năng lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đảng viên; nghiêm túc trong thực hiện tự phê bình và phê bình để kịp thời phát hiện, ngăn chặn tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.

Hai là, cấp ủy, chính quyền các cấp cần thực hiện nghiêm quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền dân chủ, tính sáng tạo, công khai, minh bạch, cung cấp đầy đủ thông tin trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội để người dân được biết, được bàn bạc; phải thật sự tôn trọng ý kiến đóng góp của nhân dân; người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Tham khảo, lắng nghe ý kiến của nhân dân, phát huy hiệu quả hoạt động của ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng.

Ba là, để tăng cường sự giám sát của nhân dân trong việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái trong cán bộ, đảng viên trước hết Hội đồng nhân dân các cấp cần thực hiện tốt chức năng giám sát đối với UBND và các cơ quan nhà nước trong việc chấp hành hiến

Page 19: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

19

pháp, pháp luật và thực hiện nghị quyết của HĐND; các cấp ủy Đảng cần xây dựng mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, giải quyết những vấn đề bức xúc, bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhân dân; các đại biểu HĐND các cấp phải là chỗ dựa tin cậy của nhân dân; thực hiện tốt việc giám sát cán bộ, đảng viên tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và kiến nghị của cử tri.

Bốn là, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội không chỉ có nhiệm vụ vận động đoàn viên, hội viên thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật mà phải làm tốt vai trò đại biểu ý kiến của các thành viên và trở thành người đại diện hợp pháp trong cơ chế làm chủ của nhân dân. Xây dựng quy chế làm việc định kỳ giữa đoàn thể và các cơ quan nhà nước để đóng góp ý kiến đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật, nhất là những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Thực hiện tốt quy chế giám sát (trực tiếp và gián tiếp) của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp. Thực hiện tốt Quyết định 217 – QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ chính trị về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong các hoạt động, cần đề cao tính minh bạch, bảo đảm sự tham gia rộng rãi của nhân dân theo quy định; hướng dẫn, động viên, tạo điều kiện để người dân chủ động, tích cực tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, tham gia góp ý, phản biện xác đáng khi xây dựng các cơ chế, chính sách, pháp luật...Quan tâm công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, góp phần ổn định, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Năm là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đổi mới nội dung, hình thức hoạt động, đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, phát huy sức mạnh

đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong hoạt động của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp.

Đảng cần thực hiện tốt cơ chế “Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Để khắc phục tình trạng lâu nay chỉ mới thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc, còn vai trò thành viên thì chưa rõ, chưa được quần chúng nhân dân tin tưởng, gắn bó như mong đợi. Trong vai trò là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện tính gương mẫu, đi đầu trong việc xây dựng, triển khai có hiệu quả nhiệm vụ của tổ chức, cấp ủy đảng trước các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc cùng cấp; kịp thời thông tin, báo cáo kết quả hoạt động của cấp ủy trong việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII; thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng các ý kiến thảo luận, bàn bạc của các thành viên.

Để phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đòi hỏi tổ chức, cấp ủy đảng phải xây dựng được niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đó, nhân dân sẽ phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong xây dựng Đảng thông qua việc đóng góp ý kiến, kiến nghị, phản ánh, chỉ rõ những dấu hiệu vi phạm của cán bộ, đảng viên để kịp thời xử lý, góp phần xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh và củng cố mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng nhân dân./.

Tài liệu tham khảo:1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011).

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2002, t.5, tr.297.

3,4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2002, t.7, tr.235

Page 20: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

20

T Ths. NGUYỄN MỸ HẠNH Trưởng khoa Dân vận

Công tác dân vận là một hoạt động được các nhà nước, các tổ chức chính trị và các đảng

thực hành từ xa xưa. Đó là một công tác quan trọng, xét từ vai trò, tầm quan trọng của nhân dân, của con người trong lịch sử và tồn tại xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “vô luận việc gì đều do con người làm ra”(1). “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân(2). Do đó, Người khẳng định “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”(3).

Quán triệt tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta rất coi trọng dân vận, chú trọng lãnh đạo đội ngũ cán bộ đảng viên thực hành dân vận, giữ gìn, củng cố mối quan hệ gần gũi với nhân dân; gương mẫu, hi sinh vì lợi ích của nhân dân và Tổ quốc. Những chủ trương vận động, tập hợp quần chúng đã được quyết nghị từ cương lĩnh đầu tiên của Đảng, xuyên suốt qua quá trình chuẩn bị giành chính quyền (1930 - 1945), quá trình bảo vệ chính quyền (1945 -1954) và đấu tranh thống nhât đất nước (1954 - 1975). Bước vào công cuộc đổi mới, BCH Trung ương Đảng đã ban hành hai nghị quyết chuyên đề về công tác dân vận và nhiều Quyết định, chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ về công tác dân vận. Đồng thời, các chỉ thị của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo

tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh(5) đều nhấn mạnh vai trò, vị trí của công tác dân vận trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhằm lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, đảng viên trong tòan hệ thống chính trị làm công tác dân vận.

Nhờ đánh giá rất cao vai trò nhân dân, coi trọng dân vận, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này sang thắng lợi khác trong những điều kiện hết sức khó khăn, ngặt nghèo về vật chất, về trang thiết bị, khoa học kỹ thuật. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho giá trị thực tiễn của việc thực hành dân vận trong đời sống chính trị. Thực hành dân vận đã biến sức mạnh tinh thần của đảng chính trị thành lực lượng vật chất gồm sức mạnh toàn dân, khối đoàn kết nhất trí cao độ tập trung vào mục tiêu nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chứng minh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân vận kém thì việc gì cũng kém! Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công!”

Thực hành dân vận là việc chuyển những nội dung lý luận của công tác dân vận thành hành động thực tế của người cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, chiến sỹ các lực lượng vũ trang qua hoạt động thực tiễn. Thực hành dân vận đòi hỏi phải tuyên truyền phổ biến cho nhân dân nắm được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; phải làm cho nhân dân hiểu những nhiệm vụ phải làm, hiểu

THỰC HÀNH DÂN VẬN, GIẢI PHÁP NỀN TẢNG CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 21: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

21

được quyền, nghĩa vụ của mình. Phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, giải quyết những nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng đảng, chính quyền. Chăm lo lợi ích vật chất, tinh thần cho nhân dân đồng thời phải đi đôi với việc nghiêm trị những tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích Nhà nước và nhân dân; nghiêm trị các biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Thực hành dân vận đặt ra yêu cầu rất cao đối với người cán bộ: nói phải đi đôi với làm; gương mẫu trong việc làm, hành động; coi người dân là chủ thể trong cống hiến và phục vụ. Xây dựng, ban hành chủ trương, chính sách phải bàn bạc với nhân dân, căn cứ nguyện vọng, lợi ích nhân dân. Để thực hành dân vận phải thực hành dân chủ; để dân vận hiệu quả phải phát huy dân chủ. Phát huy dân chủ chính là điều kiện căn cốt để xây dựng khối đoàn kết nhất trí trong nhân dân.

Nếu Đảng không thực hành tốt dân vận, hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên không thực hành tốt dân vận, lời nói chưa đi đôi với việc làm thì chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách luật pháp của Nhà nước sẽ chỉ nằm trên giấy. Niềm tin của người dân sẽ bị xói mòn. Xu hướng thực dụng cá nhân chủ nghĩa sẽ ngày càng thắng thế. Một xã hội mà thiếu niềm tin, ai nấy chỉ lo lợi ích của mình là một xã hội có rất nhiều nguy cơ, mà nguy cơ lớn nhất là sự thiếu ổn định về chính trị và phát triển thiếu bền vững.

Thực tế hiện nay là đang còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa nắm vững các chủ trương, nghị quyết của Đảng và các chính sách của Nhà nước về công tác dân vận; chưa tự ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ bản thân trong thực hành dân vận. Nhiều cán bộ còn cho rằng vấn đề dân vận, chất lượng công tác dân vận

do Ban Dân vận của Đảng, Mặt trận và các đoàn thể quyết định.

Hậu quả của nhận thức đó là một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên không thực hành dân vận; suy thoái về đạo đức lối sống; tham ô, nhũng nhiễu, quan liêu, nói không đi đôi với làm. Nhiều việc làm vi phạm quyền dân chủ của nhân dân về kinh tế, chính trị, xã hội thật sự là đi ngược lại đường lối của Đảng về dân vận, làm xói mòn niềm tin của nhân dân, gây trở ngại cho việc tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách, luật pháp của nhà nước. Cán bộ, đảng viên không gương mẫu, nhân dân sẽ suy bì, không tin tưởng. Cán bộ đảng viên vi phạm luật pháp, quan liêu, xa rời lợi ích nhân dân, cộng đồng, nhân dân sẽ không quan tâm đến lợi ích cộng đồng, xã hội. Chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chậm đi vào cuộc sống, tình trạng vi phạm pháp luật gia tăng, các giá trị sống của con người và sự an toàn của cộng đồng bị xem thường, đó là những biểu hiện của sự phát triển thiếu bền vững.

Thực hành tốt công tác dân vận để tổ chức thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là sự phát huy truyền thống, kinh nghiệm lãnh đạo đất nước của đảng ta, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay để thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh mà Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XII đã xác định, bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững. Để thực hành dân vận, phải tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng phải tập trung trí lực xây dựng đường lối đúng đắn, các chủ trương, nghị quyết của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân là cơ sở để thực hành dân vận. Đảng phải có bản lĩnh chính trị cao và phải có đầy đủ năng lực để lãnh đạo hệ thống chính trị thực hiện

Page 22: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

22

chủ trương, nghị quyết của Đảng. Đó là một trong những việc quan trọng nhất của thực hành dân vận của Đảng. Các tổ chức đảng, nhà nước, các ban ngành đoàn thể, mọi cơ quan đơn vị, nhất là Ban dân vận các cấp phải quan tâm đào tạo, giáo dục về lý luận công tác dân vận; về tư tưởng, tấm gương đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh bằng những cách thức đa dạng, thiết thực. Tổ chức tập huấn rèn luyện các kỹ năng, nghiệp vụ dân vận hàng năm. Phát huy vai trò các tổ chức đảng, đoàn thể, chính quyền, nhân dân trong giáo dục, rèn luyện giám sát đạo đức lối sống, tác phong; kiểm tra, thanh tra hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ. Cần thực hiện tốt công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá, đề bạt cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thực sự xứng đáng là công bộc của nhân dân. Mọi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách luật pháp của Nhà nước, các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các dự án hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho CNH và dân sinh ở tầm vĩ mô hay vi mô phải được xây dựng trên sơ sở đảm bảo có sự tham gia của người dân, đa chiều, cân nhắc toàn diện lợi ích các bên trước mắt và lâu dài. Đấy chính là “hết sức làm” “những gì có lợi cho dân, “hết sức tránh” “những gì có hại cho dân”(6).

Khi sự tự ý thức và thực hành dân vận đạt đến mức độ tự giác, chính là người cán bộ có những phẩm chất đạo đức quan trọng: yêu dân. Yêu dân là yêu quê hương đất nước, là “tận hiếu, tận trung” trong quan điểm Hồ Chí Minh. Người yêu dân, yêu nước sẽ chấp hành tốt đường lối của đảng, pháp luật của nhà nước; tận tụy thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao phó, không có “đất” cho chủ nghĩa cá nhân, cho những sai phạm trong quản lý điều hành kinh tế – xã hội. Khi Nhà nước, chính phủ đã liêm chính hành động vì dân thì nhân dân tin tưởng chính phủ, nỗ lực thực hiện

những chương trình hành động, kế hoạch chính phủ đưa ra. Khi chính phủ đã liêm chính, đồng hành thì cộng đồng doanh nghiệp sẽ nỗ lực phấn đấu vươn lên bằng toàn tâm, toàn tài xây dựng đất nước. Cán bộ gương mẫu thực hành dân vận thì dân tin, dân yêu và noi theo, là cơ sở để xây dựng phát triển quê hương đất nước hiện đại, văn minh bền vững.

Có thể thấy, bài học về thực hành dân vận trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ đã được Đảng ta thường xuyên nhận thức nhưng cần phải phát huy cao độ trong công cuộc đổi mới hiện nay. Bởi lẽ, niềm tin của nhân dân, cái gốc của sức mạnh đoàn kết toàn dân là ưu thế tuyệt đối trong so sánh với các nguồn lực khác, càng phát huy càng tạo ra những gía trị gia tăng cho quá trình phát triển. Do vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng viên, cả hệ thống chính trị phải tăng cường thực hành dân vận để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết đó.

_______________(1) Tài liệu Ban Tuyên giáo TW: Những nội

dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nxb CTQGST, H. 2016, trang 40.

(2) Tài liệu đ d, trang 33. (3) Bác Hồ viết bài báo “Dân vận” đăng trên

báo Sự Thật ngày 15-10-1949. (4) Nghị quyết 08B-NQ/HNTW ngày 27 tháng

3 năm 1990 của BCHTW khóa VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 3/6/2013 của BCHTW khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”

(5) Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh.

(6). Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 3/6/2013 Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa XI

Page 23: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

23

T NGUYỄN THÁI DŨNG Nguyên Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật

ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Ở CƠ SỞ

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây

dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”1. Đây là một nhiệm vụ chính trị vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài, tạo điều kiện cho phát triển đất nước và phù hợp với xu thế của thời đại.

Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ nặng nề trong đó nhiệm vụ nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân cần được đặt lên hàng đầu và quan tâm đúng mức. Bởi suy cho cùng thì giá trị đích thực của Nhà nước pháp quyền là ở chổ thực hiện nghiêm minh, đúng đắn pháp luật, thúc đẩy xã hội phát triển trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Và pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ có sự hiểu biết đầy đủ và tin tưởng vào những quy định của pháp luật. Hay nói một cách khác là việc thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn, bền vững khi mọi công dân (bao gồm cả cán bộ, công chức, viên chức) có ý thức pháp luật cao.

Sự hiểu biết và tạo lập niềm tin vào pháp luật (ý thức pháp luật) cho mỗi

người và cả cộng đồng đòi hỏi phải kết hợp nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố đóng vai trò quan trọng là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu biết về mục đích, ý nghĩa, các quy định pháp luật cũng như quá trình thực hiện, sử dụng pháp luật.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nâng cao ý thức pháp luật của mọi công dân. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải những thông tin, mục đích, yêu cầu, nội dung các quy định pháp luật đến với người dân, giúp cho người dân hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời, làm cho các quy phạm, các chuẩn mực pháp luật từ những quy định khô khan trên các văn bản pháp luật sẽ thấm dần vào nhận thức và được thể hiện qua hành vi xử sự của mỗi công dân để bước vào đời sống xã hội. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là kênh dẫn pháp luật đến với xã hội, với đời sống hàng ngày của mỗi công dân, tạo nên môi trường sống cho pháp luật. Trong môi trường này pháp luật từng bước được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội. Đồng thời tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng là cơ sở bước đầu để hình thành lòng tin pháp luật, cảm xúc pháp luật và hành vi phù hợp pháp luật của mỗi

Page 24: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

24

cá nhân con người, đây chính là các yếu tố cơ bản của quá trình hình thành ý thức pháp luật, ý thức công dân.

Như vậy công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được nhiều chủ thể tổ chức thực hiện, trong đó HĐND các cấp có vai trò rất quan trọng.

Đại biểu HĐND là những người được một số cử tri nhất định lựa chọn thông qua cuộc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, họ là những người: “Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật;... Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm”2. Như vậy đại biểu HĐND là những người “của Nhà nước” gần dân nhất, gắn bó chặt chẽ với dân nhất (nhất là đại biểu HĐND cấp xã), do đó họ sẽ là những người có điều kiện thuận lợi nhất, có vị trí, vai trò quan trọng nhất trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở cơ sở. Nhưng trong thực tế hoạt động của đại biểu HĐND nói chung, đại biểu HĐND cơ sở nói riêng vị trị, vai trò, trách nhiệm này chưa được phát huy đầy đủ. Nguyên nhân hạn chế này một phần là do quy định của pháp luật (Luật tổ chức Chính quyền địa phương, luật Phổ biến, giáo dục pháp luật...) chưa rõ ràng, cụ thể, mặt khác là do nhận thức của các đại biểu HĐND, cho rằng đây là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, của các tổ chức chính quyền, đoàn thể chứ không phải nhiệm vụ của cá nhân mình. Bên cạnh đó do hạn chế trong hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND cấp cơ sở...

Để phát huy đầy đủ, tốt hơn vị trí,

vai trò, đề cao trách nhiệm của đại biểu HĐND trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân ở cơ sở, góp phần xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, cần thực hiện một số vấn đề cơ bản sau đây:

Thứ nhất, cần quy định rõ hơn, cụ thể hơn về trách nhiệm của đại biểu HĐND trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cử tri thuộc đơn vị bầu cử đại biểu HĐND. Hiện nay trong Luật tổ chức Chính quyền địa phương3, luật Phổ biến, giáo dục pháp luật chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm này, chính vì vậy đại biểu HĐND nhận thức rằng đây không phải là trách nhiệm của mình, đồng thời cũng thiếu cơ sở pháp lý cho đại biểu khi thực hiện trách nhiệm này, nhất là trong việc phối hợp với các tổ chức khác trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân.

Thứ hai, các đại biểu HĐND cấp cơ sở cần nâng cao kiến thức, sự hiểu biết, cập nhật kịp thời các văn bản pháp luật để làm cơ sở cho việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cử tri. Là những người trực tiếp làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức (trong đó có nhiều đại biểu HĐND) cấp cơ sở, chúng tôi có điều kiện kiểm tra kiến thức, sự hiểu biết về các quy định pháp luật, nhất là luật tổ chức Chính quyền địa phương, luật Cán bộ, công chức...Nhìn chung đội ngũ này vừa yếu kiến thức (không biết, không nhớ, không hiểu) về pháp luật vừa thiếu kỹ năng vận dụng các quy định pháp luật để xử lý các tình huống xẩy ra trong quản lý nhà nước ở địa phương.

Page 25: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

25

Chính vì vậy nếu đại biểu HĐND không tự nâng cao kiến thức về pháp luật, niềm tin vào pháp luật; kỹ năng tuyên truyền, tiếp xúc cử tri, phối kết hợp trong hoạt động thì sẽ gặp khó khăn, e ngại, né tránh trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cử tri. Trong điều kiện khoa học công nghệ hiện nay việc tự nghiên cứu, học tập nâng cao kiến thức pháp luật của đại biểu sẽ có nhiều thuận lợi, vấn đề cơ bản là ý chí, trách nhiệm của đại biểu đối với cử tri, đối với Nhà nước ở mức độ nào.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu nâng cao kiến thức về pháp luật, các kỹ năng cần thiết, HĐND cấp cơ sở cần bố trí thời gian hợp lý tổ chức hiệu quả các đợt tập huấn, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đại biểu giúp cho đại biểu rút ngắn được thời gian tự tìm hiểu và hiểu đầy đủ, chính xác hơn. Bên cạnh đó các cơ quan hữu quan cần biên soạn những tài liệu ngắn gọn, dễ hiểu về pháp luật phát cho đại biểu HĐND để làm tài liệu học tập và tuyên truyền, gắn với phát triển, sử dụng hiệu quả tủ sách phổ biến, giáo dục pháp luật của xã.

Thứ ba, HĐND cấp cơ sở cần quy định và bố trí thời gian nhất định để đại biểu HĐND thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cử tri tại các buổi tiếp xúc cử tri. Thường trực HĐND cần chỉ đạo các tổ đại biểu HĐND phân công đại biểu chuẩn bị nội dung cụ thể, phù hợp để thay phiên nhau trình bày với cử tri. Bên cạnh đó cần kết hợp tốt việc ghi nhận các ý kiến đề xuất, kiến nghị của cử tri với việc trả lời, giải thích bằng các quy định pháp luật của đại biểu để thông qua đó tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cử trị.

Thứ tư, đại biểu HĐND cần phải phấn đấu trở thành những người “cần,

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác”4. Hiệu quả của việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cử tri chỉ đạt được khi cử tri nhìn thấy ở đại biểu là những tấm gương “nói đi đôi với làm”, là những người gương mẫu chấp hành pháp luật, dám đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật ở địa phương. Bởi vì “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”5.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở và phải được tiến hành thường xuyên, lâu dài, hiệu quả, trong đó cần phát huy tích cực hơn nữa vai trò, vị trí, trách nhiệm của người đại biểu HĐND nói chung, đại biểu HĐND cấp cơ sở nói riêng, phải làm cho mỗi đại biểu HĐND trở thành một tuyên truyền viên về pháp luật tích cực, hiệu quả ở cơ sở, xứng đáng là người đại diện cho Nhà nước và cho cử tri ở cơ sở./.

___________________(1) Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XII, Đảng CSVN.(2) Luật tổ chức Chính quyền địa phương -

tiêu chuẩn đại biểu HĐND. (3) Xem Điều 93 đến điều 103, Luật tổ chức

Chính quyền địa phương.(4) Luật tổ chức Chính quyền địa phương -

tiêu chuẩn đại biểu HĐND. (5) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG,

H.2002, tập 1, tr.263.

Page 26: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

26

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Người quan tâm

giáo dục, rèn luyện, xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, từ việc huấn luyện quân sự đến học tập chính trị, từ giáo dục tri thức quân sự đến tri thức nhân văn, từ rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật đến tinh thần đoàn kết, từ phong cách sinh hoạt đến hành vi ứng xử,... Đặc biệt, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hành đời sống mới trong quân đội là nét đặc sắc, có ý nghĩa, giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn trong quá trình xây dựng quân đội ta không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, làm tròn mọi nhiệm vụ được giao xứng đáng: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân… Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(1).

Xây dựng đời sống mới được Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện ngay sau khi cách mạng giành được chính quyền. Xây dựng đời sống mới cũng chính là xây dựng, thực hành đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới. Ba nội dung ấy có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu. Trong xây dựng đời sống mới, Hồ Chí Minh chia thành “hai thứ” đó là đời sống mới riêng của từng người và đời sống mới chung từng nhóm người, trong đó có xây dựng và thực hành đời sống mới trong quân đội.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đời sống

mới trong quân đội là toàn bộ giá trị văn hoá đời sống của cán bộ chiến sĩ, gắn chặt với từng đơn vị, lĩnh vực công tác...và quan hệ chặt chẽ với địa phương, các khu vực, địa bàn đóng quân của các đơn vị. Thực hành đời sống mới có vai trò xây dựng nhân cách người quân nhân cách mạng, góp phần bảo vệ, giữ gìn và phát triển hình ảnh, bản chất truyền thống của quân đội ta. Trực tiếp nuôi dưỡng phát triển nhân cách toàn diện của cán bộ, chiến sĩ, nâng cao trình độ trí tuệ, đạo đức, lối sống, nếp sống, tình cảm, tâm hồn, thẩm mỹ, pháp luật, ý thức chính trị, bản lĩnh chính trị, giác ngộ giai cấp... và năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ chiến sĩ. Xây dựng và thực hiện đạo đức mới, đạo đức cách mạng giúp người quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành được trách nhiệm vẻ vang mà Đảng và nhân dân giao phó, đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải pháp giai cấp, giải pháp con người…

Xây dựng, thực hành đời sống mới trong quân đội, là xây dựng, thực hành đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới trong quân đội đã được Người cụ thể hóa ở những nội dung sau:

Thứ nhất, kỷ luật phải nghiêm. Theo Hồ Chí Minh bộ đội là một đoàn thể tổ chức nghiêm ngặt đó là sự thống nhất chặt chẽ về tổ chức biên chế, dựa trên sự thống nhất về điều lệnh và sự nghiêm minh về kỷ luật. Người yêu cầu: “Từ bước đi, cái chào đều phải chính quy hóa”. Người nhấn

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VÀ THỰC HÀNH

ĐỜI SỐNG MỚI TRONG QUÂN ĐỘIT Ths. PHAN BÁ LINH Phó trưởng Khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Page 27: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

27

mạnh: “Kỷ luật là sức mạnh quân đội”, “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm. Vì vậy, kỷ luật phải nghiêm mình . “Kỷ luật phải được thi hành từ trên đến dưới” “Trên dưới đều phải giữ kỷ luật”(2).

Thứ hai, siêng tập luyện. Hồ Chí Minh dạy: “Bộ đội cũng ví như con dao cái súng, không lau chùi luôn sẽ hỏng, chăm tập luyện sẽ tiến bộ”(3). Theo Người huấn luyện quân sự phải tiến hành đồng bộ nhiều nội dung: Huấn luyện chính trị, huấn luyện kỹ, chiến thuật, huấn luyện hậu cần, huấn luyện điều lệnh và rèn luyện thể lực... Các nội dung đó phải thống nhất và gắn chặt với các quy định về sẵn sàng chiến đấu, trực ban, trực chiến, tuần tra canh gác và sinh hoạt hàng ngày của bộ đội và phải xuất phát từ đường lối quan điểm tư tưởng nghệ thuận quân sự của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với biên chế tổ chức trang bị và cách đánh của ta.

Thứ ba , phải làm cho “bộ đội ai cũng biết chữ”(4). Với quân đội Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc bộ đội phải biết chữ quốc ngữ . Biết chữ chính là cơ sở để từ đó bộ đội hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, văn hóa... mới từng bước tiếp thu, nâng cao trình độ học vấn về chuyên môn nghiệp vụ quân sự, mới hiểu biết được kỹ thuật, khoa học và làm chủ được vũ khí trang bị hiện đại. Từ đó nâng cao được sức mạnh chiến đấu. Người nhấn mạnh “Tất cả các binh sỹ đều biết chữ”.

Thứ tư, mỗi người binh sĩ phải biết chính trị ít nhiều. Hồ Chí Minh cho rằng: Binh sĩ đã đem xương máu ra giữ gìn Tổ quốc, thì chẳng những họ phải hiểu vì sao mà hy sinh, họ lại phải có thể nói cho người khác biết vì sao phải yêu nước. Người đòi hỏi: “Toàn thể cán bộ, chiến sĩ cần phải ra sức học tập cả chính trị, quân sự và văn hóa, cần phải nâng cao lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân, cần phải nắm vững đường lối quân sự của Đảng, cần nâng cao

cảnh giác bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”(5).

Thứ năm , bộ đội cũng phải tăng gia sản xuất, phải thực hành tiết kiệm. Hồ Chí Minh cho rằng: “Tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Đó là chính sách chung của Đảng, của Chính phủ, của nhân dân, của bộ đội”(6). Đối với lực lượng bộ đội ở ngoài mặt trận, nhiệm vụ hàng đầu là chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu. Người viết: “Bộ đội đánh thắng giặc thu được nhiều chiến lợi phẩm, đấy cũng là tăng gia”. Còn đối với bộ đội ở hậu phương, việc tăng gia sản xuất “thì cần làm và quyết làm được. Tùy theo hoàn cảnh mỗi bộ đội, hoặc làm vườn, nuôi lợn, hoặc làm giúp dân”. Quân đội thực hiện tốt nhiệm vụ tăng gia sản xuất, tạo ra của cải vật chất, cải thiện đời sống cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, đồng thời giảm bớt được sự đóng góp của nhân dân. Thực hiện tốt tăng gia sản xuất, cũng chính là thực hiện đời sống mới, Người viết: “Tăng gia sản xuất tức là một bộ phận trong đời sống mới. Có tinh thần đời sống mới, thì tăng gia sản xuất mới nhanh chóng thành công. Mà tăng gia sản xuất có thành công, thì đời sống mới dễ thực hiện”(7).

Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, chiến sĩ ngoài việc thực hành tiết kiệm theo chuẩn mực, nội dung chung ra thì phải thực hành tốt việc “Tiết kiệm thuốc đạn, bắn cho đúng, không bắn phí đạn. Nhờ thế mới bớt được nguyên liệu, bớt được công khó rèn đúc, công khó vận tải, đem tài liệu và công phu đó làm việc khác”(8), “Tiết kiệm lương thực và vải vóc, chớ nghĩ rằng cơm ăn áo mặc đã có Chính phủ lo, đã có đồng bào giúp, thì ta không cần tiết kiệm. Bộ đội có hàng mấy vạn người”. Người nhấn mạnh “Nếu mỗi người tiết kiệm một chút, sản xuất một chút, góp lại sẽ thành một số rất to”(9).

Thứ sáu, phải vệ sinh. Bộ đội đông người ăn chung, ở chung, nếu có bệnh càng

Page 28: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

28

dễ lây cho nhau. Cho nên càng phải rất chú ý việc vệ sinh.

Thứ bảy, phải ăn ở cho được dân tin, dân phục, dân yêu. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan hệ Quân - Dân là mối quan hệ máu thịt, là một trong những nguồn gốc tạo nên sự trưởng thành, lớn mạnh và chiến thắng của quân đội ta. Người luôn dạy cán bộ, chiến sĩ “Nhân dân là nền tảng” là “cái gốc” để sinh ra quân đội, và “Cái gì cũng phải nhờ dân. Không có dân thì không có bộ đội”. Người dùng hình ảnh cụ thể, sinh động về mối quan hệ gắn bó giữa cá với nước, để so sánh với mối quan hệ máu thịt giữa quân và dân: “Dân như nước, quân như cá, phải làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mới đánh thắng giặc”(10). “Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi giúp đỡ lẫn nhau”. Do vậy, “Phải biết tôn trọng nhân dân”, phải làm cho “dân tin, dân phục, dân yêu”, và nếu “bộ đội được dân tin, dân phục, dân yêu thì nhất định thắng lợi”(11) .

Cuối cùng, xây dựng đời sống mới trong quân đội là đánh được nhiều giặc, lấy được nhiều súng. Bộ đội này thi đua với bộ đội khác làm đời sống mới. Theo Hồ Chí Minh, thi đua có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra sức mạnh chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Bởi vì thông qua phong trào thi đua giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, bản chất và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, qua đó xây dựng bộ đội có động cơ thi đua trong sáng, có quyết tâm cao, có nhiệt tình và trách nhiệm với các nhiệm vụ được giao. Thu hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ tham gia vào phong trào thi đua yêu nước, đánh giặc, lập công, khai thác và phát huy cao độ tài năng và óc sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ làm cho hiệu quả công tác và năng suất lao động không ngừng nâng cao. Do đó Người đề nghị: “Bộ đội này thi đua với bộ đội khác làm đời sống mới”(12).

Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra các nội dung cơ bản để quân đội tiến hành xây dựng và thực hành đời sống mới với mục đích làm cho đời sống của bộ đội, vật chất ngày càng được đầy đủ hơn, tinh thần ngày càng được vui mạnh hơn. Tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội ta, bảo đảm cho quân đội ta là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Để xây dựng và thực hành đời sống mới trong quân đội, cùng với việc chỉ ra các nội dung cơ bản, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề ra các biện pháp cơ bản để thực hiện, đó là: Phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”(13); Làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền giải thích trong quá trình tiến hành đời sống mới trong quân đội. Coi đây là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sức mạnh chiến đấu của quân đội, làm cơ sở để quân đội ta hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; Thực hiện việc giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhằm xây dựng nhân cách người quân nhân toàn diện, tổng hợp cả phẩm chất và năng lực làm cơ sở xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong quân đội. Xây dựng lối sống tốt đẹp. Sống có lý tưởng, trong sạch, lành mạnh, trung thực, có ý thức bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của đơn vị và của đất nước. Phê phán lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ. Làm cho bộ đội nhận rõ kẻ thù, luôn luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế vô sản, nâng cao ý chí quyết tâm quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu và chiến

Page 29: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

29

đấu quyên mình bảo vệ Tổ quốc; Phát huy tính tiên phong, gương mẫu của người cán bộ quân đội. Người cán bộ phải luôn luôn là tấm gương sáng cho quần chúng, chiến sĩ học tập. Hành động của cán bộ là mệnh lệnh không lời đối với chiến sĩ; Tổ chức và thực hiện tốt phong trào thi đua “Bộ đội này thi đua với bộ đội khác làm đời sống mới”; Tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết. Đây là biện pháp rất quan trọng không thể thiếu được của phong trào thực hiện đời sống mới trong quân đội, nhằm đánh giá đúng mạnh, yếu của phong trào thực hành đời sống mới. Từ đó, kịp thời rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá của công tác chỉ đạo và tìm ra những kinh nghiệm hay trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện các nội dung và chỉ tiêu đời sống mới…

Các biện pháp trên là một hệ thống, chỉnh thể thống nhất tác động chi phối lẫn nhau trong quá trình tiến hành xây dựng và thực hành đời sống mới trong quân đội nhân dân Việt Nam.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hành đời sống mới trong quân đội là một cống hiến to lớn, đặc sắc của Người về lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta trong quá trình giáo dục, rèn luyện, xây dựng Quân đội ta.

Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng ta, Quân đội nhân dân Việt Nam đã không ngừng phấn đấu, xây dựng, trưởng thành luôn thực sự là một quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng, có kỷ luật tự giác nghiêm minh, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, có tri thức khoa học quân sự, có quan hệ máu thịt mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu, đùm bọc giúp đỡ, chở che. Quân đội ta đã lập nên những thành

tích vẻ vang, chiến thắng lẫy lừng đánh bại hai cuộc xâm lược của các đế quốc lớn mạnh hơn ta nhiều lần đó là thực dân Pháp, đế quốc Mỹ giành lại độc lập tự do cho đất nước đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chúng ta tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đổi mới và hội nhập. Trên thế giới, cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển với nhịp độ siêu tốc. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc, xung đột tôn giáo diễn ra phức tạp, gay gắt. Xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa, với mặt tích cực và tiêu cực của nó, đang phát triển mạnh mẽ. Trong khi xu thế hoà bình, hợp tác đang phát triển thì các hoạt động khủng bố, các cuộc chiến tranh cục bộ, xu hướng chạy đua vũ trang vẫn tiếp tục, các thế lực đế quốc đang dùng sức mạnh kinh tế, khoa học, văn hóa. Khi cần thì dùng cả sức mạnh quân sự để áp đặt ý muốn của mình bắt các dân tộc phải tuân theo, phải phụ thuộc. Trong điều kiện đó, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hành đời sống mới không những còn nguyên giá trị mà còn mang tính hiện thực sâu sắc trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Vận dụng các quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng, thực hành đời sống mới trong quân đội hiện nay, yêu cầu cao nhất là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tất cả các mặt công tác quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, trong tất cả các nhiệm vụ chiến đấu, huấn luyện xây dựng, lao động sản xuất và làm nghĩa vụ quốc tế để góp phần bảo đảm cho quân đội “giữ vững con đường chính trị, tự giác tuân theo kỷ luật của cách mạng”. Phải chăm lo xây dựng, củng cố các tổ chức Đảng trong quân đội;

Page 30: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

30

Phải thường xuyên coi trọng và tiến hành có hiệu quả công tác tư tưởng trong Đảng bộ quân đội và trong toàn quân. Công tác tư tưởng quan trọng nhất là tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, đồng thời còn phải tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận làm sáng tỏ những vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào việc cụ thể hóa đường lối, hoàn thiện đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng; Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội có đủ phẩm chất và năng lực, có đầy đủ “Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung”. Trình độ chính trị, giác ngộ giai cấp gắn liền với trình độ năng lực về quân sự. Hai mặt chính trị và quân sự không tách rời nhau, “Quân sự mà không có chính trị, như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(14); Thường xuyên quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần cho bộ đội, thực hiện tốt chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội. Phải coi chính sách đối với quân đội là chính sách đối với những người lao động đặc biệt, phải thể hiện được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, bởi “Bộ đội hy sinh là hy sinh xương máu, có khi cả tính mệnh, cụt chân, gãy tay, chân tay không thể mọc lại. Người chết không thể sống lại. Đó là một sự hy sinh tuyệt đối”(15).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”(16). Để làm tròn trách nhiệm nặng nề và vô cùng vẻ vang

đó, Quân đội nhân dân Việt Nam phải thực sự là đội quân hùng mạnh. Một đội quân “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Một quân đội cách mạng kiểu mới, vừa đạo đức, vừa văn minh.

“Bộ đội cụ Hồ” - danh hiệu cao quý mà nhân dân trao tặng cho Quân đội nhân dân Viêt Nam là kết quả của quá trình phấn đấu, rèn luyện lâu dài, gian khổ mà hết sức vẻ vang của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội kể từ khi thành lập đến nay. Đó cũng là kết quả của cả quá trình xây dựng và thực hiện tốt đời sống mới theo quan điểm Hồ Chí Minh của quân đội ta. Trong giai đoạn hiện nay khi toàn quân đang ra sức đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, việc thực hành đời sống mới trong quân đội theo tư tưởng của Người nói riêng càng phải được chú trọng, và thực hiện một cách nghiêm túc.

____________(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG – ST,

H.2011, t.14, tr.145(2) Hồ Chí Minh: sđd, t.6, tr.457(3) Hồ Chí Minh: sđd, t.5, tr.595(4) Hồ Chí Minh: sđd, t.5, tr.121 (5) Hồ Chí Minh: sđd, t.12, tr.272(6) Hồ Chí Minh: sđd, t.10, tr.477(7) Hồ Chí Minh: sđd, t.5, tr.116(8) Hồ Chí Minh: sđd, t.5, tr.122(9) Hồ Chí Minh: sđd, t.5, tr.122(10) Hồ Chí Minh: sđd, t.7, tr.76(11) Hồ Chí Minh: sđd, t.5, tr.485(12) Hồ Chí Minh: sđd, t.5, tr.122(13) Hồ Chí Minh: sđd, t.14, tr.435(14) Hồ Chí Minh: sđd, t.7, tr.217(15) Hồ Chí Minh: sđd, t.7, tr.335(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 81 - 82

Page 31: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

31

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác-

Lênin con đường duy nhất đúng cho dân tộc mình. Tháng 2 năm 1920, khi nghiên cứu tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã có một sự chuyển biến căn bản trong tư tưởng - từ nhận thức của người yêu nước chuyển sang nhận thức của người cộng sản.

Hướng về Lênin và đất nước Xô Viết, quê hương của Cách mạng Tháng Mười, cuối năm 1923, đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến Liên Xô. Trong những năm tháng học tập, hoạt động, nghiên cứu trên đất nước Xô viết, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều tác phẩm xuất sắc về Cách mạng Tháng Mười và Lênin.

Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc trở về Trung Quốc. Ở đây Người đã viết tác phẩm Đường cách mệnh làm tài liệu huấn luyện cán bộ, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Trong tác phẩm quan trọng này, Người đã đi sâu phân tích lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga và khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách

mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ, rồi lại ra sức cho công nông các nước và các dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mạng để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mạng Nga dạy cho chúng ta bài học rằng, muốn cách mạng thành công thì phải dân chúng (công - nông làm gốc), phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(1).

Thành công của Cách mạng Tháng Mười đã làm thay đổi cục diện thế giới. Đó là sự thể nghiệm thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lênin trong thực tiễn, để lại những định hướng và bài học kinh nghiệm vô giá cho các quốc gia dân tộc trong cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đánh giá sự kiện lịch sử trọng đại này, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa có một cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(2).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin, những bài học kinh nghiệm của cách mạng Tháng Mười vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được nhiều thắng lợi to lớn. Những định hướng cơ bản đó cụ thể:

T Ths. TRẦN THỊ BÍCH THỦYGiảng viên Khoa Lý luận Mác-Lênin, TT Hồ Chí Minh

NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA ĐƯỢC CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

VẬN DỤNG VÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Page 32: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

32

1, Cách mạng giải phóng dân tộc, muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

Vai trò lãnh đạo của Đảng được C. Mác, Ph. Ănghen, V. I. Lênin khẳng định và trong Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã vận dụng thành công. Nhận thức về vấn đề này, Ngay từ tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng muốn vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng có vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy”(3)

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn giải phóng dân tộc thành công cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(4).

Trên con đường trở về Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc mang theo những khát vọng về độc lập, tự do, hạnh phúc về đoàn kết quốc tế của Lênin vĩ đại để thực hiện ở Việt Nam. Bằng ảnh hưởng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu của 3 tổ chức cộng sản lúc bấy giờ để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng.

Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng

Mười “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Nguyễn Ái Quốc đã vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Phát huy truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam về đoàn kết, Người đã giành nhiều tâm lực để xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận dân tộc thống nhất tập hợp rộng rãi các tầng lớp xã hội, các giới đồng bào, các dân tộc và tôn giáo, ... dựa trên sự đánh giá đúng đắn truyền thống lịch sử và thực trạng phân hóa kinh tế, xã hội và thái độ chính trị của các thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Ngay khi thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ tôn chỉ và mục đích: “Liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật, Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”

Trong bài viết nhân kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự vùng dậy của cả một dân tộc để đánh đổ ách thống trị của nước ngoài. Giai cấp vô sản không thể tự mình làm nổi mà phải liên minh với các lực lượng yêu nước trong dân tộc. Và “Cuộc cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một mặt trận dân tộc rất rộng rãi, đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được giải phóng khỏi ách thuộc địa”. Vì vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi chung chung, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.

Page 33: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

33

Chủ trương tập hợp lực lượng của Nguyễn Ái Quốc phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người. Mặt khác, việc thành lập mặt trận dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là sự đúc rút kinh nghiệm về xác định đối tượng của cách mạng trong Cách mạng Tháng Mười Nga nhằm mở rộng cao nhất trận tuyến cách mạng, thu hẹp tối đa trận tuyến kẻ thù. Có thể nói, việc tập hợp toàn dân tộc vào một mặt trận chung của Nguyến Ái Quốc vừa là sự phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa là sự kế thừa có bước phát triển về phương pháp tập hợp lực lượng và xác định kẻ thù của Lênin trong Cách mạng Tháng Mười.

Thứ ba, tự chủ và sáng tạo, tranh thủ điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại, chớp thời cơ khởi nghĩa.

Nghiên cứu thời cơ nổ ra Cách mạng Tháng Mười, vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị mọi mặt từ trước, cộng với khả năng nhận thức nhạy bén, nhãn quan chính trị, khả năng dự báo khoa học, Nguyễn Ái Quốc đánh giá xu thế chuyển biến của cục diện chính trị quốc tế, khu vực đương thời; sự phát triển của các phong trào cách mạng, phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới; thế và lực của cách mạng nước ta và đối phương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Ban chấp hành Trung ương Đảng đã có những quyết sách kịp thời khi phát động khởi nghĩa vào tháng Tám năm 1945: “Lúc này thời cơ đã đến, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Khi phát-xít Nhật đầu hàng Ðồng minh, Ðảng ta khẳng định, tình thế cách mạng đã xuất hiện, đây là cơ hội giải phóng dân tộc ngàn năm có một: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Cả dân tộc theo tiếng gọi của Người, nhất tề đứng lên khởi nghĩa.

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tích cực của mô hình tổ chức nhà nước Xô Viết và các nhà nước dân chủ khác, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Sau này chúng ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thắng lợi, hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả chính là sự nối tiếp hào hùng lý tưởng, mục tiêu của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Ngày nay, nhận định về thời cơ trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế đã có những thay đổi căn bản, vấn đề hội nhập, toàn cầu hóa nổi lên như một xu thế vận động tất yếu của thế giới hiện đại, Ðảng ta khẳng định, cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới thuận lợi chưa từng có, đồng thời cũng gặp phải những khó khăn, thách thức lớn.

Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực cực kỳ phức tạp, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sâu sắc vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đã vượt lên khó khăn, thử thách, từng bước đưa đất nước phát triển. Tư tưởng nhân văn, cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam hiện thực hóa trong sự nghiệp đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác: “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công”(4)

Kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, chúng ta ôn lại những định hướng, bài học của cách mạng này mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển vào cách mạng Việt Nam để thấy rõ hơn giá

Page 34: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

34

trị không thể phủ nhận của cuộc cách mạng vĩ đại đã có sức lan tỏa, cổ vũ, lôi cuốn, thúc đẩy mãnh liệt đối với phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế.

Một thế kỷ trôi qua, kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, tuy đời sống chính trị xã hội thế giới có những biến đổi sâu sắc, nhưng tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười vẫn nguyên giá trị đối với nhân loại tiến bộ.

Tính khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, ý nghĩa thời đại và những định hướng và bài học quý báu của Cách mạng Tháng Mười, được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng vào cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tài sản vô giá, có giá trị bền vững, tiếp tục tỏa sức sống mãnh mẽ đối với cách mạng Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chúng ta sẽ phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, năng động, sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.

_________________1. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội 2009, tập 2, tr2802. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội 2009, tập 12, tr3003. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập 2, tr2894. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội 2001, tập 15, tr3915. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội 2009, tập 12, tr303

lực lượng quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng.

Về cơ sở vật chất của nhà trường, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, HĐND, UBND tỉnh cần tăng cường bố trí kinh phí để hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học theo tinh thần xây dựng trường chính trị cấp tỉnh đạt chuẩn.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung và đội ngũ cán bộ cơ sở nói riêng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống,“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã khẳng định: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Trường Chính trị Trần Phú với các cấp ủy đảng, chính quyền và các ban ngành đoàn thể để thực hiện tốt công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đảm bảo các quy định của Đảng, Nhà nước và phù hợp với thực tế từng địa phương, từng ngành là hành động thiết thực đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống./.

TĂNG CƯỜNG PHỐI HỢP... Xem tiếp trang 5

Page 35: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

35

Công tác tự phê bình và phê bình là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Người

coi tự phê bình và phê bình là “vũ khí rất cần thiết và sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm”, là “thang thuốc” tốt nhất để chữa trị các “chứng bệnh” do chủ nghĩa cá nhân gây ra. Người dạy Đảng ta: “Dao có mài, mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch. Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế.” Người khẳng định: “Trong đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.(1) Tuy nhiên, Người cũng nhấn mạnh: “mục đích phê bình cốt để... đoàn kết và thống nhất nội bộ”(2), “tự phê bình và phê bình là một quy luật phát triển, tiến bộ của Đảng, cũng là một phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng”.(3) Tư tưởng đó trở thành nguyên tắc, thành công cụ trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng ta; là hoạt động thường kỳ trong các tổ chức đảng và mỗi đảng viên với tinh thần “tự soi, tự sửa” đã giúp cấp uỷ, các tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ hơn những ưu điểm để phát huy; những hạn chế khuyết điểm để kịp thời sửa chữa, khắc phục. Thực chất của tự phê bình và phê bình là góp ý giúp đồng chí, đồng nghiệp và tự bản thân

kiểm điểm lại xem cái làm được và chưa làm được để từ đó phát huy cái tốt và tìm biện pháp khắc phục, sửa chữa cái chưa tốt, cái khuyết điểm sai lầm để giúp nhau cùng tiến bộ.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc tự phê bình và phê bình trong Đảng nói chung và trong các tổ chức đảng ở cơ sở nói riêng còn nhiều bất cập, chất lượng thấp, chưa đáp ứng yêu cầu; còn tình trạng nể nang, né tránh lựa chiều, hình thức. Nhiều trường hợp phê bình không rõ địa chỉ của những sai lầm, khuyết điểm, không tập trung vào chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức lối sống, phong cách làm việc mà tập trung vào những điểm thứ yếu về thói quen, cá tính; Bên cạnh đó, tình trạng lợi dụng phê bình để bôi nhọ, hạ bệ lẫn nhau, biến phê bình thành những cuộc tranh cãi, nặng lời với nhau, vi phạm nhân phẩm và biến thành những cuộc trả thù cá nhân. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI thừa nhận: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu...”(1) Thực tế trên, một mặt do trình độ nhận thức của các đảng viên, do công tác tuyên truyền, giáo dục của các Đảng bộ cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác một số chi bộ, đảng bộ thiếu quyết liệt thậm chí cố tình

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG CÁC TỔ CHỨC ĐẢNG

Ở CƠ SỞ

T Ths. CHU THỊ THU HUYỀNPhó Trưởng khoa Xây dựng Đảng

Page 36: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

36

dấu diếm khuyết điểm vì thành tích của tổ chức. Bên canh đó, một yếu tố tác động lớn đến chất lượng và hiệu quả của công tác phê bình trong các tổ chức đảng ở cơ sở đó là mối quan hệ thân tộc gia đình, họ hàng, làng xóm chi phối làm giảm tính chiến đấu trong phê bình và tự phê bình.

Để giải quyết thực trạng trên đưa nguyên tắc tự phê bình và phê bình ngày càng đi vào thực chất, đúng tinh thần của Đảng, nhằm nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng ở cơ sở cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cấp uỷ và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đảng bộ, chi bộ về mục đích, ý nghĩa, đối tượng, nội dung, phương pháp tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Phát huy tính tiên phong, gương mẫu của người đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong việc tự phê bình và phê bình. Thực hiện nghiêm túc phương châm “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau” để bảo đảm dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ, triệt để trong phê bình và tự phê bình.

Hai là, phải tạo môi trường dân chủ, cởi mở trong sinh hoạt đảng và phải có tình đồng chí, yêu thương nhau khi phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm với tinh thần “chữa bệnh cứu người”. Đây là điểm mấu chốt của vấn đề tự phê bình và phê bình. Nếu không dù có tự phê bình và phê bình đến mấy cũng không hiệu quả, có khi còn làm tổn hại đến sự đoàn kết của Đảng.

Ba là, phải xác định mục đích, nội dung tự phê bình, phê bình. Tự phê bình và phê bình phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, có tiêu chí cụ thể để cấp dưới phê bình cấp trên; cán bộ, đảng viên phê bình cán bộ lãnh đạo, quản lí; xử lý nghiêm minh những cán bộ có thái độ và hành động không đúng mực đối với người góp ý, phê bình thẳng thắn. Quy định cụ thể về thời gian, biện pháp khắc phục khuyết

điểm sau khi được phê bình. Cần lấy kết quả khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, yếu kém là tiêu chí đánh giá cán bộ.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự cầu thị, tiếp thu phê bình của đồng chí mình. Công khai kết quả tự phê bình, phê bình của các cá nhân trong phạm vi chi bộ, phải nêu cao tính chiến đấu, khắc phục tâm lý tự ti, dĩ hòa vi quý, nể nang, né tránh hoặc sợ bị trả thù, trù dập của người mình phê bình. Xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng phê bình để bôi nhọ, nói xấu, vu cáo, hạ uy tín của đảng viên, tổ chức Đảng.

Năm là, cấp ủy cần tăng cường giám sát, kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên cấp dưới thực hiện tự phê bình và phê bình để phát huy ưu điểm, uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm và xử lý nghiêm minh nếu có vi phạm.

Tóm lại, ở trong tổ chức Đảng nói chung và nhất là các tổ chức Đảng ở cơ sở, tự phê bình và phê bình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín của Đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng. Tuyên truyền để các đảng viên thấy được thành thật với mình, thành thật với người, đó chính là nhân cách, là hành vi cao thượng, là trách nhiệm của con người nói chung và đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình sẽ là cơ sở, là yếu tố góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt nghị quyết mà Đại hội Đảng các cấp đã đề ra./.

____________(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị

Quốc gia, H 2011, t15, tr.611(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị

Quốc gia, H 2011, t5, tr272(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng

toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.2004, t37, tr 638-639

Page 37: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

37

Vấn đề đạo đức công vụ công chức là vấn đề có tầm quan trọng rất lớn dẫn đến sự thành

bại của nền hành chính. Đối với công tác xây dựng chính quyền, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên và việc phòng, chống suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước.

Đạo đức công vụ là hệ thống các chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc, hành vi trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự, chức trách, bổn phận, nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Giá trị cốt lõi mà công chức đảm nhận thể hiện ở cách công chức xử sự và đóng góp để xã hội tốt đẹp hơn, bao gồm dịch vụ công tốt và từng cá nhân công chức cũng phải thường xuyên trau dồi, bồi dưỡng về mọi mặt để tiến bộ hơn.

Đạo đức công vụ được xem xét từ hai góc độ: Thứ nhất là yêu cầu về đạo đức đối với một công dân. Đó là đạo đức, là chuẩn mực, là đức tính của bản thân con người xã hội của công chức. Nói cách khác với tư cách là công dân, người công chức phải mang trong mình những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội chung mà trong đó họ tồn tại với tư cách là một công dân. Thứ hai là góc độ đạo đức nghề nghiệp. Với tư cách là công chức, họ phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực quy định cách ứng xử của người công chức trong hoạt động thực thi công vụ mà không bao

giờ được vi phạm đạo đức của nghề công chức. Chính vì vậy, nâng cao nhận thức đạo đức, biến nhận thức đạo đức thành hành vi đạo đức, thành thực tiễn đạo đức là việc làm hết sức cần thiết trong thực tiễn điều hành quản lý xã hội hiện nay ở nước ta.

Nâng cao đạo đức công vụ là quá trình tác động tích cực, có mục đích của các chủ thể tới đối tượng với nội dung, hình thức và phương pháp thích hợp nhằm làm biến đổi đời sống đạo đức của đội ngũ công chức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nhân cách của họ, là nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần tận tụy với công việc; nâng cao thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; là thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ nghĩa tập thể, tinh thần hợp tác, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp trong thực thi công vụ.

Để xây dựng và nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay thiết nghĩ chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

Trước hết, cần tập trung nghiên cứu, giải quyết những mâu thuẫn nội tại về đạo đức để hình thành nền tảng đạo đức quốc gia có bản sắc riêng trong điều kiện hội nhập quốc tế. Trong đó, đạo đức công vụ phải xuất phát từ sự ủy quyền của người dân, vì quyền và lợi ích chính đáng của người nhân dân. Tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân và các tổ chức xã hội, từ đó tăng cường tiếng nói của

XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ GÓP PHẦN XÂY DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH VÌ NHÂN DÂN

T Ths. NGUYỄN TRỌNG VINH Phó Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật

Page 38: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

38

xã hội về vấn đề đạo đức công chức, công vụ; tạo ra sự phản biện chính đáng, trung thực của công dân. Đồng thời, phải có cơ chế hữu hiệu để người dân được thực hiện quyền giám sát nhằm hạn chế tình trạng cán bộ, công chức đùn đẩy trách nhiệm hoặc có hành động làm phương hại đến lợi ích của xã hội.

Thứ hai, sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về công vụ và đạo đức công vụ, nhằm giới hạn các hành vi của cán bộ, công chức theo quy chuẩn cụ thể. Cần cụ thể hóa những giá trị đạo đức thành giá trị pháp luật, lấy “pháp lý là chuẩn của đạo đức” song song với việc tăng cường giám sát thực thi pháp luật. Đẩy mạnh việc giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, làm cho pháp luật trở thành yêu cầu tự nguyện trong hành vi của mọi người dần trở thành những chuẩn mực đạo đức, loại bỏ tính hình thức đạo đức.

Thứ ba, cần sớm nhận diện những khó khăn, thách thức đang đặt ra trong quá trình điều hành quản lý toàn diện các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó có chính sách xây dựng hệ giá trị của nền công vụ phù hợp với thực tiễn của Việt Nam với các giá trị cốt lõi như lấy dân làm gốc, tôn trọng và phát huy dân chủ, phục vụ, chuyên nghiệp, liêm chính và trách nhiệm giải trình. Đặt các vấn đề về trách nhiệm là căn bản của giá trị đạo đức công vụ. Làm rõ các nguyên tắc về trách nhiệm và trách nhiệm giải trình nhằm đề xuất nguyên tắc này trở thành một trong những nguyên tắc hàng đầu của đạo đức công vụ. Bên cạnh đó, cần xây dựng các năng lực bảo vệ đạo đức trong cơ quan, tổ chức với các biện pháp thanh tra, kiểm tra, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức, không để vi phạm rồi mới đưa ra xem xét, xử lý. Đồng thời, tiếp tục tìm các giải pháp, cách thức giảm áp lực, khuyến khích tính năng động sáng tạo của cán bộ,

công chức trong hoạt động công vụ với việc bảo đảm chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp. Qua đó, hướng các cá nhân phấn đấu để trở thành chuyên gia giỏi trong lĩnh vực chuyên môn của mình, được nhân dân thừa nhận, tôn vinh, thay vì tìm mọi cách để trở thành lãnh đạo, quản lý khi lực bất tòng tâm.

Thứ tư, xây dựng, định hướng giá trị nghề nghiệp riêng đối với từng vị trí việc làm và chức danh theo yêu cầu của đạo đức xã hội. Hình thành sự thống nhất giữa đạo đức công dân và đạo đức nghề nghiệp, nhằm tạo ra một hành lang an toàn về mặt ứng xử trong hoạt động nghề nghiệp. Xây dựng chế định bảo đảm cho lời hứa và cam kết thực hiện các nhiệm vụ công trở thành những ràng buộc về mặt đạo đức của công chức đối với nhân dân.

Thứ năm, đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, cải cách chế độ công vụ, công chức. Xây dựng các cơ chế quản lý đối với cán bộ, công chức đề cao nền tảng đạo đức. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp trên cơ sở xác định đúng tính chất, nội dung, đặc thù công việc. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo cơ chế quản lý mới và kỹ năng làm việc.

Cuối cùng, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu, chuẩn mực trong thực thi công vụ đối với đội ngũ cán bộ, công chức, những người thừa hành công vụ, dựa trên các giá trị, nguyên tắc đạo đức công vụ căn bản, cốt lõi cùng những quy định trong việc áp dụng các giá trị, nguyên tắc đó. Đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của cán bộ, công chức. Tiếp tục tăng cường việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện nêu gương đạo đức; gắn kết đạo đức công vụ với việc phòng, chống tham nhũng./.

Page 39: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

39

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu xuất hiện từ thập niên đầu tiên của thế kỷ

XXI. Sau nhiều bước đi ban đầu, tại Hội chợ Hannover (Đức) năm 2011, một số cuộc hội thảo đã được tổ chức để bàn đến khái niệm “nền công nghiệp 4.0” (industry 4.0). Năm 2012, Chính phủ Đức thông qua bản Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao, lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Cuối năm 2015, Giáo sư Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới, xuất bản cuốn sách “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, diễn tả một cách hệ thống nội dung cuộc cách mạng này và làm gì để thích ứng với nó. Ngày 20-1-2016, Diễn đàn Kinh tế thế giới lần thứ 47 được khai mạc tại Davos (Thụy Sĩ) với chủ đề “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Kể từ thời điểm này, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nhanh chóng trở thành vấn đề thời sự nóng hổi trên toàn thế giới. Điểm khác biệt so với các cuộc cách mạng trước đây, cuộc cách mạng 4.0 khởi đầu dựa trên nền tảng cuộc cách mạng công nghệ số, nổi bật với sự phổ biến của các thành tựu như vạn vật kết

nối, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, người máy, xe tự lái, công nghệ in 3D, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nanô, công nghệ sinh học hiện đại...xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người với thế giới và giúp con người, sản phẩm và máy móc tự kết nối, giao tiếp với nhau... Phần lớn công việc sẽ được tự động hóa, Robots với trí tuệ nhận tạo sẽ thay thế lao động của con người, nguồn lực lao động sẽ đạt đến trình độ kỹ thuật rất cao. Theo dự báo của LHQ, 47% công việc hiện tại hiện nay sẽ có 75% tự động trong vòng 20 năm tới, làm cho một số công việc trở nên lỗi thời thậm chí là biến mất (một số công việc của công nhân nhà máy, nhân viên thu ngân, lái xe tắc xi, nhân viên chăm sóc khách hàng, phi công,… sẽ được thay thế bằng robots). Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu chiến lược toàn cầu, trong khoảng 10 năm tới, có khoảng 375 triệu người trên toàn cầu sẽ phải chuyển sang làm công việc khác do bị thay thế bởi robots.

Trải qua các thời kỳ phát triển kể từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, nhân loại đã có những bước tiến bộ rực rỡ chưa từng thấy nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết. Chưa bao

GÓP PHẦN TÌM HIỂU VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ (4.0)

T Ths. LÊ ĐÌNH HÙNGPhó Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học Thông tin - Tư liệu

Page 40: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

40

giờ con người đạt đến trình độ tri thức về khoa học công nghệ sản xuất ra nhiều của cải vật chất như bây giờ. Chưa bao giờ con người xứng đáng là con người thông và minh (homo sapiens) như bây giờ, nhưng quy mô, cách thức mà con người hiện đại phải đối mặt trước những vấn đề toàn cầu (nghèo đói, bệnh tật, thảm họa môi trường sinh thái, an ninh, khủng bố, xung đột, trật tự an toàn xã hội…) cũng chưa bao giờ xuất hiện nhiều như bây giờ. Từ thực tiễn đầy nghịch lý này, cộng đồng quốc tế đã thức tỉnh nhau rằng, phát triển không thuần túy là tăng trưởng kinh tế, mà còn bao hàm hàng loạt nội hàm văn hóa, xã hội, đạo đức, an ninh, sinh thái...; tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế sẽ gây ra nhiều mô hình phản phát triển; làm tiêu tan cả phồn vinh vật chất và văn minh tinh thần. Giải pháp thay thế cấp bách và duy nhất đúng đắn là triển khai mô hình phát triển bền vững với 17 mục tiêu mà Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP) vạch ra từ cuối năm 2015 cho toàn thế giới thực hiện đến năm 2030. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ phát triển mạnh mẽ do nhu cầu tìm kiếm phương thức sản xuất mới hiệu quả, bền vững hơn trước những thách thức như biến đổi khí hậu, già hóa dân số hay các vấn đề an ninh khác ngày càng tăng lên.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm thay đổi hoàn toàn cách thức của con người trong việc tạo ra của cải vật chất, cũng như làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và sản xuất. Đây là cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử nhân loại, nó sẽ diễn biến rất nhanh, tạo ra những khả năng hoàn

toàn mới và có tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến mọi quốc gia, doanh nghiệp và người dân khắp toàn cầu. Cách mạng Công nghiêp 4.0 đã thay đổi cơ bản con đường đi của thế giới; sẽ mang tới nhiều cơ hội phát triển và hội nhập, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) là nếu không kịp thay đổi, không bắt kịp và có định hướng, bước đi đúng đắn phù hợp, sẽ bị tụt lại phía sau.

Vậy Việt Nam đón nhận cuộc cách mạng này như thế nào? Nhìn lại bốn cuộc cách mạng công nghiệp của thế giới, quốc gia dân tộc Việt Nam gần như đứng ngoài 2 cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên và trong 2-3 thập kỷ vừa qua đã có bước hội nhập vào cuộc cách mạng lần thứ ba. Còn đối với Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình nhận thức mới chỉ thực sự bắt đầu.

Ở nước ta, tình hình nghiên cứu và phát triển công nghệ đáp ứng đòi hỏi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tuy được Đảng, Nhà nước quan tâm và đã có những bước chuyển biến, triển khai ở hầu hết các bộ, ngành. Tuy nhiên, trên thực thực tế, quá trình này mới chỉ là bước đầu và còn gặp nhiều khó khăn. Khái niệm Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo chỉ từ năm 2015 mới được nhắc đến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chế tạo và sử dụng robot chủ yếu chỉ trong hoạt động giảng dạy của một số trường đại học. Các máy in 3D được 5 doanh nghiệp của cả nước sản xuất hiện nay đều phụ thuộc 100% linh kiện từ Trung Quốc, đều có mã nguồn mở tải miễn phí từ Internet nên hầu như không phát huy được tính ưu việt của công

Page 41: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

41

nghệ 3D. Nhà máy thông minh vẫn còn là điều xa vời trong chiến lược sản xuất - kinh doanh của hầu hết doanh nghiệp trong nước. Năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng không đáng kể so với các nguồn năng lượng hóa thạch. Nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao mới chỉ đang được triển khai thử nghiệm ở một số địa phương. Riêng ngành công nghệ thông tin là một điểm sáng cả về hạ tầng kỹ thuật, sản xuất phần cứng, doanh thu của công nghiệp phần mềm, doanh thu viễn thông và băng thông kết nối với Internet quốc tế. Nền sản xuất của Việt Nam đang ở năng suất thấp, áp dụng khoa học công nghệ còn hạn chế, chưa có các tập đoàn, công ty hàng đầu trên thế giới, doanh nghiệp còn nhỏ, chưa đủ sức để hòa vào sự phát triển của thế giới khi nền sản xuất công nghệ, kỹ thuật cao sẽ chiếm lĩnh. Hàng hóa chất lượng tốt, giá rẻ sẽ tràn vào nước ta, Doanh nghiệp trong nước sẽ mất năng lực cạnh tranh, phá sản hoặc phải đóng cửa. Nhiều công nhân lao động sẽ bị mất việc làm nhất là lao động phổ thông, trình độ thấp. Tháng 7-2016, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) công bố báo cáo, trong đó đánh giá 70% người lao động Việt Nam thuộc một số ngành nghề sẽ bị mất việc làm khi nền công nghiệp 4.0 được triển khai; riêng đối với ngành dệt may, con số này là 86%. Những điều này đặt ra vấn đề rất nóng bỏng về những nhiệm vụ nặng nề phía trước đối với nền khoa học công nghệ và sản xuất - kinh doanh của nước nhà.

Thách thức không chỉ đặt ra đối với doanh nghiệp mà còn đối với các địa phương, nó đòi hỏi các địa phương cũng phải nhanh chóng chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, dựa vào khai thác sang các ngành công nghiệp công nghệ cao hơn.

Để làm tốt việc tiếp thu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngay từ bây giờ chính phủ, người dân và các doanh nghiệp và các cơ quan, địa phương, đơn vị cần có kế hoạch chủ động, kịp thời hành động nhanh chóng để bắt tay ngay vào tiến trình hội nhập, tận dụng mọi cơ hội tối đa cho sự phát triển lớn mạnh của quốc gia dân tộc trong làn sóng văn minh nhân loại. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang trong giai đoạn khởi phát là cơ hội để Việt Nam đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm thực hiện mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Tuy vậy, để không tiếp tục bị lỡ chuyến tàu trong cuộc cách mạng lần này, Việt Nam cần phải định hướng được rõ ràng mục tiêu, cách thức tiếp cận tầm nhìn, tư duy lãnh đạo đến hành động của người dân và doanh nghiệp, sự cầu thị, tự cường cộng với lợi thế của người đi sau. Những yêu cầu đặt ra ấy sẽ được Đảng, nhà nước và nhân dân ta lần lượt giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo, quyết liệt trên cơ sở tích cực chuẩn bị hành trang cho mình, trong đó việc xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực lãnh đạo, quản lý phải luôn luôn được quán triệt là một khâu đột phá Đó cũng là vấn đề đang đặt ra cho công tác giáo dục đào tạo nói chung và công tác đào tạo bồi dưỡng của hệ thống trường Đảng nói riêng./.

Page 42: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

42

Cách đây tròn 70 năm, Chủ tịch Hồ chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” với bút

danh X.Y.Z, tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh, bảo vệ thành quả cách mạng, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã sớm bộc lộ những nhược điểm sai sót trong phương thức, lề lối làm việc, đặc biệt là vấn đề giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng; nếu chậm khắc phục sẽ ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và sự nghiệp của cách mạng. “Sửa đổi lối làm việc” ra đời nhằm vạch ra những sai lầm khuyết điểm, lệch lạc, chấn chỉnh lại nhận thức tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị, lý luận, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.

Tác phẩm gồm có 6 phần lớn “Phê bình và sửa chữa”, “Mấy điều kinh nghiệm”, “Tư cách và đạo đức cách mạng”, “Vấn đề cán bộ”, “Cách lãnh đạo” và “Chống thói ba hoa”, đề cập đến những vấn đề vừa có tính lý luận vừa có tính nguyên tắc, tính chỉ đạo thực tiễn sâu sắc về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân và ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới,... Với cách viết nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc, ngôn ngữ bình dân, dễ hiểu, dễ nhớ cho tất cả mọi đối tượng cán bộ, đảng viên, “Sửa đổi lối làm việc” đến nay vẫn nguyên tính thời sự nóng hổi, nhất là giai đoạn hiện nay khi toàn Đảng,

toàn dân tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị năm 2016.

Ngay từ đầu tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến sự cần thiết phải sửa đổi lối làm việc của Đảng, tức là tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cầm quyền và xem đó là một nhiệm vụ cấp bách cần phải làm ngay. Có thể nói, việc sửa đổi lối làm việc của Đảng là một nhu cầu khách quan đáp ứng đòi hỏi của cuộc kháng chiến kiến quốc lúc bấy giờ, giúp cho Đảng nhận biết và ngăn chặn, phòng tránh đẩy lùi những nguy cơ đối với Đảng cầm quyền, cho nên “Sửa đổi lối làm việc” được tác giả X.Y.Z bắt đầu bằng việc “Phê bình và sửa chữa”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sữa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”(1),

vì vậy, công tác tự phê bình và phê bình phải “ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm.” Người cũng lưu ý cán bộ, đảng viên khi phê bình thì phải “phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”(2) và “chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc”(3); còn người bị phê bình thì “phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét.”(4)

Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh tập trung nói về bốn khuyết điểm của Đảng ta

QUÁN TRIỆT NHỮNG CHỈ DẪN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC” VÀO THỰC HIỆN

NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XI, KHÓA XII

T Ths. TRẦN THỊ THÚY HƯỜNG Giảng viên khoa Dân vận

Page 43: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

43

hay bốn căn bệnh của Đảng ta và cũng có thể coi đây chính là bốn nguy cơ của Đảng cầm quyền.

Khuyết điểm thứ nhất đó là “bệnh chủ quan”. Nguyên nhân của bệnh chủ quan là do “Kém lý luận hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”(5) dẫn tới ngộ nhận, kiêu ngạo nên dễ sai lầm về đường lối và quyết sách. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng lý luận là đem thực tế trong lịch sử, xã hội được xem xét, so sánh rút thành các kết luận rồi đem soi vào thực tiễn, đối chiếu thực tiễn đó chính là lý luận chân chính. Từ đó Người đưa ra một nguyên tắc: lý luận chân chính là kim chỉ nam, mở đường cho sự phát triển của thực tiễn, vì vậy lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Thực tiễn mà không có lý luận là một loại thực tiễn mù quáng, dễ sai lầm, bỡ ngỡ và lạc lối. Cho nên bất kỳ một quan điểm nào, chủ trương, đường lối nào của Đảng cũng phải bắt nguồn từ hơi thở cuộc sống. Từ vai trò của lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu là Đảng phải giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên. Và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng ta phải lãnh đạo toàn diện công tác tư tưởng, lý luận, định hướng cho công tác lý luận.

Khuyết điểm thứ hai đó là “bệnh hẹp hòi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đây là chứng bệnh rất nguy hiểm, phổ biến trong Đảng ta có hại vô cùng bởi vì nó như một kẻ địch đang phá hoại bên trong Đảng, ngăn cản sự thống nhất và đoàn kết, còn bên ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân.

Khuyết điểm thứ ba đó là “thói ba hoa”. Khuyết điểm này liên quan đến cách nói, cách viết, cách diễn đạt của cán bộ, đảng viên mà biểu hiện của nó là: thích nói chữ, dài dòng, rỗng tuếch, cầu kỳ, khô khan, lúng túng, báo cáo lông bông, lụp chụp cẩu thả, sáo cũ, nói không ai hiểu nhưng lại hay nói chữ, thích nói tiếng nước ngoài, thích dùng

điển tích mà không hiểu biết gì,... vì vậy đã biến khẩu hiệu cách mạng là những phương châm hành động của Đảng trở thành một cái gì đó bùa chú đối với nhân dân.

Khuyết điểm thứ tư đó là “chủ nghĩa cá nhân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đây là một trong những nguy cơ đối với Đảng ta. Trong tác phẩm này Người gọi chủ nghĩa cá nhân là một loại giặc, là một thứ vi trùng độc, do đó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm như tham ô, hối lộ, hủ hóa, đặc quyền đặc lợi, lãng phí của công, thiếu kỷ luật, óc lãnh tụ, kéo bè, kéo cánh… Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để. Đảng xa rời quần chúng. Những khuyết điểm sai lầm này ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng, làm cho quần chúng hoang mang, tạo cơ hội cho kẻ xấu lợi dụng để tự tư tự lợi. Trong “Sửa đổi lối làm việc” chủ nghĩa cá nhân được chỉ ra với 18 biểu hiện.

Từ việc nêu ra bốn khuyết điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên “hễ thấy khuyết điểm là phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa” và mỗi người phải coi phê bình và sửa chữa như công việc rửa mặt mỗi ngày.

Sau 30 năm đổi mới đất nước, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, khuyết điểm từ trong Đảng. Những khuyết điểm đó được thẳng thắn chỉ ra trong hội nghị Trung ương 4 khóa XI và hội nghị Trung ương 4 khóa XII. Với 27 biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Hội nghị trung ương 4, khóa XII chỉ ra, có không ít khuyết điểm, căn bệnh liên quan đến tác phong, lề lối công tác, đạo đức tư cách của người cán bộ như: Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng làm một nẻo; quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu

Page 44: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

44

kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân... Những biểu hiện nêu trên, thực chất là những biểu hiện cụ thể của các căn bệnh và những thói hư, tật xấu đã được chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra với Đảng cầm quyền trong “Sửa đổi lối làm việc” cách đây 70 năm.

Không chỉ vạch ra những căn bệnh, những khuyết điểm, lệch lạc trong nhận thức, tư tưởng, trong phẩm chất đạo đức, lối sống và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, mà “Sửa đổi lối làm việc” của Hồ Chí Minh còn tập trung nêu rõ những cách thức để chữa trị những căn bệnh đó, nhằm sửa đổi lại lề lối làm việc trong Đảng. Việc sửa đổi được đưa ra với nhiều cách thức nhưng đều hướng tới mục tiêu huấn luyện cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực, có phẩm chất đạo đức tư cách tốt. Đặc biệt, theo tư tưởng của Người thì sửa đổi cần coi trọng các biện pháp phòng bệnh hơn chữa bệnh, bởi vì việc phòng ngừa, răn đe là tránh cho cán bộ, đảng viên đi vào con đường sai lầm, lạc lối, là cách mà Hồ Chí Minh khéo léo bắt buộc và đòi hỏi các cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự soi mình và tự sửa chữa, tự khắc phục khuyết điểm, không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng để trở thành những người có đủ năm yếu tố nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm để xứng đáng là “đầy tớ”, là “công bộc” của nhân dân.

Theo tinh thần ấy, từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta đã đưa ra phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh”(6), đến Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng đưa ra quan điểm chỉ đạo “Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh

tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt, thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng”(7).

Để thực hiện thành công việc khắc phục sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm và thói hư tật xấu của cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII đều quán triệt nghiêm túc những giải pháp, cách thức được nêu trong tác phấm “Sửa đổi lối làm việc” của chủ tịch Hồ Chí Minh mà trước hết là phải thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng; đồng thời phải khắc phục căn bệnh chủ quan mà nguyên nhân là yếu, kém lý luận, coi khinh việc học tập lý luận bằng cách “có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay; khuyến khích phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng”(8). Bên cạnh đó, phải thường xuyên “Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.” (9)

Để làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên cần thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và

Xem tiếp trang 48

Page 45: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

45

Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động,

được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong thời qua cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức Công đoàn Hà Tĩnh phát triển rộng khắp trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và trong tất cả các loại hình doanh nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh có 87.500 công nhân, viên chức, lao động (không kể các đơn vị Trung ương đóng trên địa bàn), trong đó cán bộ, công chức, viên chức 43.767. Tổng số Công đoàn cơ sở có 1.681 đơn vị với 72.250 đoàn viên, trong đó khối hành chính có 501 Công đoàn cơ sở với 19.500 đoàn viên, khối sự nghiệp có 855 Công đoàn cơ sở với 26.700 đoàn viên, khối doanh nghiệp có 325 Công đoàn

cơ sở (thống kê đối với doanh nghiệp có 30 lao động trở lên) với 23.000 đoàn viên (đạt 37,6% tổng số công nhân).

Cùng với phát triển về số lượng, các cấp công đoàn đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập trung xây dựng, củng cố tổ chức vững mạnh và từng bước nâng cao vị thế của tổ chức công đoàn. Trung bình hàng năm có 76% công đoàn cơ sở đạt vững mạnh, trong đó trên 50% đạt vững mạnh xuất sắc. Đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, viên chức, lao động được các cấp, các ngành, các đơn vị quan tâm; mức lương bình quân khu vực hành chính sự nghiệp 4,1 triệu đồng/người/tháng, khu vực sản xuất kinh doanh gần 3,5 triệu đồng/người/tháng, khu vực đầu tư nước ngoài 6,1 triệu đồng/người/tháng; việc làm trong khu vực nhà nước nhìn chung ổn định; việc thực hiện pháp luật lao động và chế độ chính sách đối với người lao động ở khu vực hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa khá tốt; đại bộ phận công nhân, viên chức, lao động tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, sự điều hành của Nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động tổ chức công đoàn ở Hà Tĩnh còn tồn tại một số hạn chế:

- Tỉ lệ tập hợp công nhân, viên chức, lao động vào tổ chức công đoàn còn thấp (68%), riêng tập hợp công nhân vào tổ chức công đoàn mới chỉ đạt 37,6%. Nguyên nhân chủ

PHÁT HUY VAI TRÒ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN HÀ TĨNH TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

T Ths. PHAN THỊ ÁI VÂNGiảng viên Khoa lý luận Mác - Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh

THỰC TIỄN - KINH NGHIỆM

Page 46: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

46

yếu là do một số tổ chức công đoàn chưa thực hiện tốt chức năng tham gia quản lý, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động, chưa phát huy đầy đủ chức năng của tổ chức công đoàn, nhất là công đoàn trong khối doanh nghiệp. Chính vì vậy, tổ chức công đoàn đã thiếu tính hấp dẫn, thiết thực đối với công nhân, người lao động.

- Việc phát huy vai trò của công đoàn trong công tác tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là pháp luật lao động chưa thật hiệu quả; hiểu biết về pháp luật lao động của một bộ phận công nhân, viên chức, lao động, đặc biệt là công nhân trong các doanh nghiệp còn hạn chế; việc phát động và tổ chức thực hiện các phong trào thi đua, vận động trong công nhân, viên chức, lao động, đoàn viên công đoàn thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh, ngành, địa phương, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp có khi còn mang tính hình thức, tác dụng chưa cao; chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng, nhân rộng điển hình tiến tiến.

- Việc thực hiện chế độ chính sách ở một số lĩnh vực và doanh nghiệp chưa đảm bảo. Tình trạng thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định đã ảnh hưởng đến đời sống của người lao động; mức chênh lệch tiền lương hiện nay khá cao (cao nhất là 22 triệu, thấp nhất là 2,1 triệu đồng/người/tháng); một số giáo viên, nhân viên hợp đồng ở các trường tiểu học, mầm non, công nhân lao động chưa được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; nhiều doanh nghiệp chưa tham gia hoặc tham gia chưa đầy đủ bảo hiểm xã hội, chậm trả lương cho người lao động; điều kiện làm việc, an toàn, vệ sinh lao động của công nhân ở một số doanh nghiệp chưa được đảm bảo; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tai nạn giao thông và các tệ nạn xã hội đang là vấn đề gây lo lắng trong công nhân, viên chức, lao động; công tác kiểm

tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với công nhân chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao.

- Nội dung, phương thức hoạt động công đoàn chậm được đổi mới; chất lượng, hiệu quả hoạt động của một số công đoàn cơ sở chưa cao, nhất là công đoàn xã, phường, thị trấn, công đoàn trong doanh nghiệp.

Trong thời gian tới, để phát huy vai trò của tổ chức công đoàn, góp phần cùng cả hệ thống chính trị hoàn thành nhiệm vụ chính trị do Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII đề ra, Công đoàn Hà Tĩnh cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng tổ chức Công đoàn. Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện để phát triển đoàn viên công đoàn, xây dựng tổ chức công đoàn, nhất là trong các doanh nghiệp, với mục tiêu “Ở đâu có công nhân lao động, ở đó có tổ chức công đoàn”; thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện để Công đoàn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và khẳng định được vai trò, vị trí của mình. Thông qua tổ chức công đoàn, Đảng định hướng về chính trị, tập hợp, giáo dục, giác ngộ để đội ngũ công nhân phát huy được vai trò tiên phong và thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình; coi việc xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh là nhân tố quan trọng trong việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân.

Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về đường lối chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, về đạo đức, tác phong lao động công nghiệp và nhận thức về vai trò, vị trí của tổ chức công đoàn. Tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết

Page 47: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

47

Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tuyên truyền về vị trí, vai trò của Công đoàn Việt Nam trong hội nhập quốc tế; những thời cơ, thách thức của công đoàn Việt Nam khi Việt Nam phê chuẩn, thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập khu vực và quốc tế, tổ chức học tập quán triệt thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XVIII Công đoàn Hà Tĩnh, Nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Việt Nam. Triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 05-KL/TU ngày 29/6/2016 của BTV Tỉnh ủy về nâng cao năng lực, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về sắp xếp, tinh giản bộ máy, biên chế, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị”.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, giáo dục tác phong lao động công nghiệp, nâng cao ý thức cảnh giác trong công nhân, viên chức, lao động gắn với đấu tranh, bảo vệ, nâng cao vị thế, uy tín của Công đoàn Việt Nam. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt Bộ Luật Lao động (sửa đổi), Luật Công đoàn (sửa đổi). Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người lao động và chủ sử dụng lao động về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn để người lao động hiểu và tự nguyện gia nhập tổ chức công đoàn, đồng thời làm cho chủ sử dụng lao động (đặc biệt là chủ doanh nghiệp) thấy được vai trò của tổ chức công đoàn và trách nhiệm của mình trong việc thành lập tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp.

Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 79-KL/TW ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW hội nghị lần thứ 6

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Nghị quyết 06 của BCH Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về tiếp tục xây dựng đội ngũ công nhân và tổ chức Công đoàn Hà Tĩnh đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 09/01/2016 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân, lao động khu công nghiệp, khu chế xuất.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn, hướng mạnh về cơ sở, về người lao động; đổi mới cách thức chỉ đạo của Ban Chấp hành Công đoàn các cấp, nhất là Liên đoàn Lao động tỉnh theo hướng lựa chọn những nội dung cụ thể liên quan đến người lao động; chuyển đổi phương thức từ chỉ đạo hành chính sang chỉ đạo hỗ trợ, tư vấn, giúp đỡ Công đoàn cơ sở. Thực hiện đổi thẻ Đoàn viên công đoàn theo quy định của Tổng Liên đoàn. Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của công đoàn các cấp, nhất là Công đoàn cơ sở.

Thứ tư, tập trung phát triển đoàn viên công đoàn, thành lập Công đoàn cơ sở và xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động thành lập tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp gắn với công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đoàn viên công đoàn. Xác định đoàn viên, công nhân lao động khu vực sản xuất kinh doanh là địa bàn chiến lược cho hoạt động công đoàn trong giai đoạn mới. Quan tâm xây dựng, nhân rộng mô hình công đoàn cơ sở điểm; tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn cơ sở xã gắn với tham gia xây dựng nông thôn mới.

Page 48: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

48

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có bản lĩnh vững vàng, hiểu biết về pháp luật, quản lý kinh tế, tác phong gần gũi gắn bó với công nhân, viên chức, lao động, sâu sát cơ sở, tinh thông nghiệp vụ công tác công đoàn. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, luân chuyển, đánh giá và thực hiện tốt chính sách cán bộ. Thực hiện có hiệu quả Chương trình cải cách hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan công đoàn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, điều hành của các cấp công đoàn.

Thứ năm, tiếp tục phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên công đoàn. Chăm lo đời sống cho công nhân, viên chức, lao động phải được thực hiện dựa trên phương châm “Quyền lợi đảm bảo, phúc lợi tốt hơn”. Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách để đoàn viên có được quyền lợi, được ưu đãi hơn so với công nhân lao động; tiếp tục phát huy tốt Quỹ “Mái ấm công đoàn”, Quỹ “Quốc gia giải quyết việc làm”, giúp công nhân, viên chức, lao động có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống. Tham gia xây dựng, đề xuất sửa đổi, bổ sung các chế độ chính sách liên quan đến công nhân, viên chức, lao động, nhất là vấn đề việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Chủ động đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách và phối hợp thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội tại các Khu Kinh tế, Khu Công nghiệp, nhất là ở Khu kinh tế Vũng Áng. Đàm phán, ký kết thỏa thuận hợp tác với các ngành, đơn vị, doanh nghiệp để xây dựng chính sách ưu tiên, ưu đãi cho đoàn viên công đoàn./.

làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị; xem việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ,… đồng thời việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nhằm “ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Có thể khẳng định rằng, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận thẳng vào sai lầm khuyết điểm và đặt yêu cầu cần phải sửa đổi lề lối làm việc của Đảng. Giá trị to lớn ấy của “ Sửa đổi lối làm việc” cho đến hôm nay vẫn còn mang tính thời sự. Người cán bộ, đảng viên, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào cũng luôn nêu cao tinh thần “phê bình và sửa chữa”, Đảng muốn trong sạch vững mạnh thì phải luôn coi việc sửa đổi lối làm việc là một yêu cầu tất yếu khách quan, một việc phải được làm thường xuyên, liên tục, đi cùng với xây dựng là phải chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn thì phải bắt đầu từ chính những cán bộ, đảng viên và mỗi cán bộ, đảng viên trước hết phải tự soi tự sửa chữa, tự phê bình./.

______________(1)(2)(3)(4) CD room - Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,

tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 272.(5) CD room - Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 273.(6) Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa XI.(7)(8)(9) Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa XII.

QUÁN TRIỆT NHỮNG CHỈ DẪN... Xem tiếp trang 44

Page 49: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

49

Từ thực tiễn quá trình giảng dạy phần học Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật

biện chứng cho thấy việc đổi mới phương pháp dạy học tích cực với mục tiêu lấy người học là trung tâm không phải là việc đơn giản. Nhiệm vụ cốt lõi của phương pháp là người dạy vừa cung cấp kiến thức vừa là người trực tiếp hướng dẫn để người học đón nhận với tâm thế như những người phản biện, tranh luận, suy nghĩ, phát triển... Điều đó đòi hỏi giảng viên phải biết cách vận dụng, kết hợp nhiều phương pháp vừa đảm bảo tính khoa học, vừa đảm bảo sự linh hoạt trong giảng dạy.

Để đáp ứng được nhu cầu của người học cũng như đáp ứng xu thế vận động của xã hội thì việc vận dụng có hiệu quả các phương pháp khác nhau khi lên lớp là việc tất yếu khách quan. Mục tiêu của phần học những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là trang bị cho người học có kiến thức nền tảng về bản chất của chủ nghĩa duy vật mác xít là chủ nghĩa duy vật biện chứng, là cơ sở để xây dựng nên thế giới quan khoa học và phương pháp luận của phép biện chứng trong hoạt động thực tiễn, cải biến xã hội. Tìm hiểu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác xít cũng như quán triệt nguyên tắc này trong

việc phát triển tư duy lý luận. Trên cơ sở xác định nội dung chính của phần học là làm rõ những quy luật phổ biến nhất của sự tồn tại, vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Những nguyên lý, các quy luật và các cặp phạm trù là cách thể hiện nội dung của các quy luật đó. Nghiên cứu những nguyên lý, quy luật, phạm trù thì phải dựa trên nhiều khái niệm, do đó phần học có tính chất khái quát cao, trừu tượng cao. Người dạy có vai trò quan trọng trong hoạt động lý giải, làm rõ nội dung một cách logic, khoa học để người học nắm được cốt lõi của những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tuy nhiên, đối với phần học này nếu chỉ dừng lại ở tính chất truyền đạt nội dung đơn thuần thì chưa đủ mà cần nắm vững, nắm chắc tinh thần, lập trường, quan điểm, phương pháp để gắn với thực tiễn, giải đáp thực tiễn công tác mà học viên mình đang đảm nhiệm. Nếu chỉ dùng phương pháp truyền thụ một chiều trong khi trình độ của người học ngày càng cao thì sẽ không giúp học viên rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức lý luận để giải quyết các vấn đề của thực tiễn và hiệu quả của bài giảng sẽ không cao. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả dạy và học phần Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần thực hiện tốt một số phương pháp như sau:

VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY PHẦN HỌC

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

T PHAN THỊ AN PHÚGiảng viên khoa Lý luận Mác Lênin;tư tưởng Hồ Chí Minh

Page 50: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

50

Thứ nhất, kết hợp, lồng ghép và phân tích, đối chiếu những nội dung chính của phần học với những kiến thức trong lịch sử triết học. Điều đó có nghĩa là cần kết hợp sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh. Từ góc nhìn của lịch sử triết học về một vấn đề cụ thể của chủ nghĩa duy vật biện chứng để làm rõ cho người học hiểu trước triết học Mác các nhà triết học đã bàn về vấn đề đó như thế nào, có yếu tố tích cực và hạn chế chỗ nào. Chẳng hạn về phạm trù Vật chất, quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại về vật chất thường quy về các dạng cụ thể, cảm tính như nước, lửa, không khí... Trong khi đó, quan điểm của triết học Trung Quốc cổ đại cho thuyết ngũ hành là những yếu tố khởi nguyên của thế giới…Sau đó, trình bày định nghĩa vật chất của Lênin và dựa trên những nội dung cụ thể của định nghĩa đó so sánh với những quan điểm trước đó có điểm gì khác hơn, ưu việt hơn, khoa học hơn. Giảng viên thực hiện tốt, vững những bước đi đó sẽ góp phần đem lại cho người học cái nhìn toàn diện, khoa học về phạm trù vật chất.

Thứ hai, kết hợp thuyết trình với trình chiếu và sử dụng viết bảng. Khác với những môn khoa học chuyên ngành khác, giảng dạy phần học Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng vẫn cần sử dụng phương pháp thuyết trình một cách hiệu quả bên cạnh kết hợp những phương pháp khác bổ trợ. Phương pháp thuyết trình có hiệu quả với tính trừu tượng hóa, khái quát hóa cao. Phương pháp trình chiếu tác động trực tiếp vào giác quan người học và thuận tiện trong hoạt động ghi chép. Sử dụng phấn bảng là cách để người dạy thể hiện tính sáng

tạo và linh hoạt khi diễn giải, phát triển, làm rõ hơn nội dung mình muốn trình bày. Giảng dạy tốt nội dung bài học có sự tham gia của các phương pháp giảng dạy tích cực sẽ hỗ trợ người dạy trong việc giảm thiểu hao tốn thời gian cho việc thực hiện các thao tác như kẻ bảng, so sánh, hệ thống nội dung nhưng không có nghĩa chỉ “trông chờ, ỷ lại” vào nó.

Thứ ba, đối với mỗi nội dung cụ thể cần sử dụng những phương pháp cụ thể. Cách thức giảng dạy phạm trù khác với giảng dạy nguyên lý và cũng khác với thể hiện nội dung các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Khi giảng nội dung các cặp phạm trù cơ bản, bao giờ cũng đi từ làm rõ các khái niệm tiếp theo phân tích bản chất của cặp phạm trù, làm rõ mối quan hệ biện chứng của các nội dung cặp phạm trù và rút ra ý nghĩa phương pháp luận. Giảng viên triển khai nội dung các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng thì trước hết phải làm rõ cho người học hiểu vai trò, vị trí của từng quy luật đó đối với quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Sau đó mới đi vào làm rõ các khái niệm, nội dung cơ bản của quy luật rồi mới đưa ra ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động nhận thức cũng như cải tạo hiện thực....Điển hình như triển khai làm rõ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, giảng viên cần chỉ ra được đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Đây là quy luật cơ bản quan trọng nhất, là nội dung trọng tâm của phép biện chứng duy vật. Quy luật này cho chúng ta thấy được nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển chính là giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong lòng các sự vật, hiện tượng.

Page 51: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

51

Thứ tư, Phải biết lấy ví dụ minh họa cho từng nội dung. Nếu giảng viên có cách thức lựa chọn dẫn chứng sát thực với đối tượng học sẽ làm tăng tính sinh động, hấp dẫn cho bài học. Và điều quan trọng là sẽ giúp học viên liên hệ được với quá trình nhận thức và giải quyết công việc của mình trong thực tiễn. Triết học là hệ thống những tri thức chung nhất, những tri thức chung ấy khi được thể hiện qua những ví dụ cụ thể sẽ là cách giúp người học tiếp cận nội dung tốt hơn. Mỗi nguyên lý cơ bản, mỗi cặp phạm trù cơ bản, mỗi quy luật lại có tính thống nhất, biện chứng với nhau. Chúng tác động qua lại, chuyển hóa và thâm nhập vào nhau khi vận dụng vào các lĩnh vực khác nhau, các ngành khoa học khác tạo nên giá trị nhất định.

Thứ năm, phải gắn nội dung Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng với thực tiễn sinh động của thời đại và xã hội. Thực tiễn của xu thế vận động của thời đại trong bối cảnh toàn cầu hóa, quốc tế hóa. Đó là thực tiễn của đất nước, của địa phương đang diễn ra trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ví dụ, trước khi đi vào nội dung nguyên lý về sự phát triển, giảng viên có thể hỏi: tại địa phương đồng chí hiện nay đang phát triển những mô hình sản xuất nào đem lại hiệu quả kinh tế ? Khi bắt tay vào thực hiện những mô hình đó có khó khăn gì không ?. Thông qua những câu phỏng vấn nhanh đó phần nào gợi mở, định hướng nội dung và nêu câu hỏi cho học viên liên hệ vấn đề với quá trình phát kinh kinh tế - xã hội của địa phương họ đang công tác sẽ tạo được sự hứng khởi, tiếp nhận nội dung. Những câu hỏi đó thuộc tiến trình giảng dạy có chủ đích nên cần chuẩn bị câu hỏi trước

theo dạng câu hỏi mở sẽ thay đổi được không khí lớp học.

Thứ sáu, điều quan trọng nhất vẫn là người dạy phải nắm chắc, hiểu đúng bản chất nội dung của phần học. Giảng viên có nắm chắc nội dung thì sẽ biết cách làm chủ lớp học, làm chủ thời gian phân bổ để giới thiệu các nội dung từ đó đưa ra những ví dụ gần, sát với đối tượng học. Người giảng hiểu sâu, hiểu kỹ các khái niệm, phạm trù bao nhiêu thì sẽ truyền đạt cho học viên hiệu quả bấy nhiêu và ngược lại, người dạy chưa hình dung hết nội hàm các khái niệm thì cách giải quyết, diễn đạt nội dung bài học cũng có tính “chung chung, đại khái” không đạt hiệu quả cao làm cho người học “mông lung” hơn. Điều quan trọng nhất để người giảng có thể làm chủ được lớp học, tạo không khí thoải mái và sự hấp dẫn người học chính là vận dụng kiến thức mình có được rồi qua năng lực trình bày các nội dung thật khoa học, logic, mạch lạc làm người nghe dễ hiểu, dễ nhớ. Để có thể đem lại “sức sống” cho phần học vốn rất khó tiếp cận cho học viên và hiệu quả của công tác giảng dạy, đào tạo triết học trong bối cảnh mới của thế giới và đất nước thì “học hỏi” không bao giờ là đủ. Người giảng viên phải không ngừng cập nhật, bổ sung và tích lũy kiến thức mới đồng thời hình thành cho mình phương pháp lên lớp hiệu quả.

Nhận thức của mỗi con người là một quá trình phát triển liên tục. Cách vận dụng phương pháp dạy học cũng là thành quả của quá trình tự nỗ lực rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm của người dạy. Mục đích cuối cùng của mọi phương pháp hướng đến là vì người học, làm thế nào để người học dễ nhớ, dễ hiểu và vận dụng được kiến thức./.

Page 52: MỤC LỤC - truongchinhtrihatinh.gov.vntruongchinhtrihatinh.gov.vn/uploads/biavanoidungso35.pdftrò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy ... Ths

52

CHÚ THÍCH: Phối hợp đào tạo: Cao cấp LL CT-HC, Trung cấp Công an xã: 299 Học viên Đào tạo: Trung cấp LL CT-HC: 1.396 Học viên. Bồi dưỡng: Chuyên viên; Chuyên viên chính; BD, cập nhật kiến thức năm 2017; BD cán bộ trẻ; BD giảng viên: 1.599 Học viên.

PHỤ LỤC KẾT QUẢ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NĂM 2017

KẾT QUẢ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NĂM 2017

TT Loại hình Số lớp Tổng số HV

Ghi chú

I PHỐI HỢP ĐÀO TẠO1 Cao cấp lý luận chính trị - hành chính 02 1802 Trung cấp Công an xã 01 119II ĐÀO TẠO1 Đào tạo Trung cấp lý LL Chính trị - Hành chính 20 1.396

III BỒI DƯỠNG1 Bồi dưỡng ngạch Chuyên viên 08 5172 Bồi dưỡng ngạch Chuyên viên chính 02 89

3 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp năm 2017 07 761

4 Phối hợp với Sở Nội vụ Bồi dưỡng cán bộ trẻ 02 1325 Bồi dưỡng Giảng viên 01 100