làng văn · 2020. 2. 3. · làng văn chủ nhiệm, chủ bút: cung vũ nguyễn hữu nghĩa...
TRANSCRIPT
làng văn THÁNG 12 NĂM 2014
làng văn
Chủ nhiệm, chủ bút:
Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa
Bài vở:
Bút Chì – Cả Cười – Cao Xuân Lý -- Dương Thượng Ngã
Đỗ Quang Vinh – Hoàng Hải Thủy – Lê Hoài Niệm – Lê Thị Việt Nam
Lê Hữu Mục -- Lý Thảo Yên -- Miên Kim – Minh Đức Hoài Trinh
Mõ Làng Văn -- Ngọc Anh -- Nguyên Hương – Nguyễn Bá Dĩnh
Nguyễn Mạnh An Dân -- Nguyễn Phù Sa -- Nguyễn Văn Thông
Phạm Khắc Trung – Phùng Nhân -- Phương Duy – Thủy Trang
Trần Quốc Bảo – Triều Vân – Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Việt Chi -- Việt Phương
Tri ân cộng tác viên quá cố:
An Khê – Bạch Thái Hà -- Bình Nguyên Lộc – Duyên Anh -- Đan Quế
Huỳnh Hữu Cửu – Hứa Hoành – Lãng Nhân Phùng Tất Đắc
Lê Đình Điểu -- Lê Thao Chuyên – Mai Thảo – Ngọc Khôi
Ngô Mạnh Thu -- Nguyễn Đình Hoà – Nguyễn Huy Phước
Nguyễn Tất Nhiên – Nguyễn Văn Ba – Quỳ Hương
Sắc Không Nguyễn Hữu Nhật -- Tạ Tỵ -- Thanh Nam – Thúy Sơn
Tô Giang -- Trần Cao Lĩnh – Trọng Kim (Đả Cẩu) Trương Trọng Trác
Trương Ái Minh -- Tử Vi Lang – Tự Tỉnh Nguyễn Nhật Tân -- Vi An
Vũ Kiện – Xuân Vũ
Địa chỉ email: [email protected]
Website: www.langvanonline.com
- TRONG SỐ NÀY -
BÀI VỞ GIÁNG SINH: Ngôi Lời Nhập Thể - ca khúc Đỗ Quang Vinh @ Vicentê T. Đoàn
Viếng Chúa hài đồng - thơ Đỗ Quang Vinh
Niềm vui Giáng-Sinh - Nguyễn Văn Thông
"Thần Bò-Boul” Tượng Chúa hài đồng ban nhiều ơn lạ - Trần Quốc Bảo
Con sẽ về trong đêm Giáng sinh - truyện Việt Phương
Bữa rượu chiều Giáng sinh - Nguyễn Mạnh An Dân
Đêm thánh vô cùng - truyện Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Lòng mẹ trong đêm Giáng sinh - truyện ngắn Nguyễn Ninh Thuận
Mùa Noel cũ - truyện ngắn Hoàng T. Thanh Nga
ĐƯA TIỄN NGUYỄN HỮU NHẬT: Tin buồn, hình ảnh, tiểu sử
Tác phẩm Nguyễn Hữu Nhật
Thơ Nguyễn Thị Vinh, Túy Hà, Phạm Tương Như
Thơ nhạc trong tù, Nguyễn Mạnh An Dân
CÁC BÀI KHÁC: Mười năm lạng lẽ qua mau lắm - thơ Cung Vũ
Mộng vờn khua tiếng gọi - thơ Lê Thị Việt Nam
Bùi Minh Hằng ghi lại lý lịch của mình - Nguyệt Quỳnh
Chủ tọa hội nghị - Nguyễn Hữu Nghĩa
Còn chi nữa đâu - thơ Miên Kim
Cát bụi - thơ Phương Duy
Một cách thiền để dưỡng sinh trong Thái cực quyền - Đỗ Quang Vinh
Bấm vào link để nghe bài hát:
http://doquangvinhvenguon.com/page-ngoiloinhapthe.html
Viếng Chúa Hài-Đồng
Chúa sinh xuống thế phàm hèn,
Vàng con không có hoa đèn cũng không.
Có gì làm của tiến dâng,
Có gì làm lễ chúc mừng Chúa đâu!
Con rảo bước đi mau,
Chẳng ngoảnh nhìn phía sau,
Vẫn xa-hoa náo-nhiệt:
Nào quay-cuồng nhạc vũ,
Nào linh-đình yến-tiệc,
Nào trang-y rực-rỡ
Nào nhà phố nguy-nga.
Con mau chân rảo bước,
Mải ngắm nhìn phía trước:
Một hang đá trơ-vơ,
Một trời đêm giá lạnh,
Một đồng hoang hưu-quạnh,
Tuyết rơi phủ bạc phơ,
Ánh thiên-quang tràn đổ,
Mẹ ẵm Chúa bé thơ,
Cha quỳ bên máng cỏ
Cùng chiên lừa, mục-tử,
Ôi, nghèo hèn tiêu-sơ!
Con hợp tiếng hoan-ca
Cùng đoàn người lũ-lượt,
Đói rách xác-xơ,
Đoạ-đày khốn-khổ
Tàn-tật tất-tả,
Chia cách bơ-vơ,
Con hợp tiếng hoan-ca
Cùng triều-thần thiên-quốc:
“Vinh danh Thiên-Chúa trên trời,
Bình-an dưới thế cho người thiện-tâm.”
Chúa ơi! Chúa đã giáng trần,
Muôn dân hoan-hỷ tràn lan Ơn Ngài.
Ngài là mùa xuân bừng nở
Cho đời con rạng-rỡ
Cho hồn con rộng mở,
Con không còn than-thở,
Con phấn-khởi đợi trông.
Ngài là tiếng hát ngàn thông,
Cho đời thôi mặn chát,
Cho gió mát vi-vu,
Cho lời ru êm-ái,
Cho rừng núi vươn cao.
Ôi! Tình Ngài dạt-dào chan-chứa,
Lời Ngài muôn thủa không phai,
Ơn Ngài cao dầy thăm-thẳm,
Lời Ngài bát-ngát mênh-mông.
Ngài là ánh sáng hừng đông,
Cho hồn con sống dậy,
Cho lòng con đổi mới,
Cho tim con rực cháy,
Cho niềm tin sáng mãi,
Cho tình nhân-ái không vơi.
Maria, Mẹ ơi!
Con đến dâng niềm tin yêu tha-thiết,
Con vàn nài Mẹ ghé mắt thương xem!
Ôi Giu-se! Cha nhân-từ trinh-khiết,
Con đến dâng cõi lòng làm hang đá Be-lem.
Con ích-kỷ, con kiêu-căng, con tội-lỗi,
Con xin hiền-hoà, con ăn-năn cải-hối,
Con hết oán-hờn, xin chia sẻ với anh em;
Con xin trung-thực, con đoạn từ gian dối,
Con nhắc con mọn hèn để con mãi mãi khiêm-nhu.
Lạy Chúa Giê-su!
Con dâng Ngài, kẻ yếu hèn nghèo đói,
Con dâng Ngài, cằn-cỗi tuổi hoa-niên;
Con dâng Ngài nhân-loại toàn thế giới.
Nhà con đây, xin Ngài thương ngự tới,
Con xây bằng những thánh-giá trung-kiên,
Cha sửa-sang cho nhà con mới mãi,
Mẹ giữ-gìn cho địch-thù kinh-hãi,
Đàn lòng con tấu nhạc thánh triền-miên.
Con lạy Chúa chiên,
Con yêu mến Ngài, Ngài yêu con quá đỗi!
Con tin cậy Ngài, ách Ngài vốn dịu êm.
Nơi hang Be-lem,
Chúa cam mặc xác phàm hèn,
Vàng con không có hoa đèn cũng không.
Lấy gì làm của tiến dâng,
Con xin dâng Chúa tấm lòng ấu-thơ
Đỗ Quang-Vinh
Niềm vui Giáng-Sinh
Nguyễn Văn Thông
Mùa đông đến với miền đông-bắc nước Mỹ một cách sớm-sủa và
dữ-dội. Mới cuối tháng 11 mà một trận tuyết khổng-lồ đổ xuống thành-
phố Buffallo, NY một lớp tuyết dày trên dưới 2 mét. Trận bão từ chân
trời sầm-sập kéo đến như một trận cuồng-phong cát bụi khổng-lồ.
Chỗ tôi ở cách đó khoảng 7 tiếng lái xe về phía đông nên tuyết chỉ
trải một lớp như tấm thảm trắng mênh-mông. Trận bão tuyết ấy không
phải là chuyện lớn ở Mỹ.
Nhạc Giáng-Sinh đã bắt đầu rộn-ràng ở nhiều đài phát-thanh khi
lên xe nổ máy. Trên truyền-hình thì mọi hình-ảnh rực-rỡ của Giáng
Sinh được gắn liền với các mặt hàng. Nhà cửa dọc theo đường-phố đã
lấp-lánh điện trang-hoàng đủ kiểu, đủ màu. Trước cửa các nhà thờ là
máng cỏ Giáng Sinh. Tin-tức hàng ngày có đủ mọi tin từ việc lành mùa
Giáng Sinh đến việc dữ như tượng Chúa Hài-Đồng bị đánh cắp. Tất cả đã
cho chúng tôi một không-khí Giáng Sinh rực-rỡ, êm-ấm, no-đủ và rộn-
ràng.
Thế nhưng điều ấy bao giờ cũng khiến tôi chạnh lòng nghĩ
về những cảnh nghèo-khổ, cùng-cực, bị đàn-áp, bị bóc-lột, bị tra-tấn và
thậm-chí bị giết. Những sự việc ấy xảy ra nhiều nơi trên thế-giới và trên
quê-hương Việt Nam. Tôi phải nghĩ làm sao khi tôi được hưởng mùa
Giáng-Sinh với sự tràn-đầy hân-hoan, và tin rằng Chúa xuống thế để ban
an-bình cho con người trong khi bao người chẳng có chút hương-vị
gì của sự bình-an Giáng Sinh.
Tôi sắp giãi-bày tâm-sự với các bạn-hữu của tôi trong và ngoài
niềm tin vào Thiên Chúa. Tôi có nhiều bạn nhưng có lẽ cũng
như nhiều người là có một số ít bạn thân, chỉ có điều đáng nói là dù
không chung niềm tin, tôi vẫn rất thân và rất quí những người bạn đó.
Hồi nhỏ tôi theo một bạn đi chùa mỗi mồng một, ngày rằm và ngày Tết.
Bạn chỉ theo tôi đi nhà thờ ngày lễ Giáng Sinh. Sau mười mấy năm mới
liên-lạc được với nhau, anh ấy bảo thỉnh-thoảng mang lá thư hồi
nhỏ tôi viết cho anh ấy ra đọc. Tôi cảm-động suýt khóc.
Đối với tôi, niềm tin của tôi vào Chúa là một hành-trình hơn
là một di-sản gia-đình dù tôi cảm-phục sâu-xa cuộc sống đức tin của bố
mẹ tôi. Tôi khám-phá ra Chúa dần dần. Từ nhỏ tôi đau-xót khi
thấy người trong làng quê của tôi qua đời, và uất-ức tưởng như nghẹt thở
khi em tôi chết lúc được chín tháng tuổi, đang đẹp như một thiên-thần.
Tới 18 tuổi, tôi còn cảm thấy chết là phi-lí, tôi không thể chấp-
nhận được. Không nói ra nhưng tôi thầm trách Chúa có trách-nhiệm để
cho có sự chết và những sự đau-khổ xem ra phí-lí ở trên cuộc đời này.
Bởi thế niềm vui, vẻ rực-rỡ của mùa Giáng Sinh đối với tôi như
che-giấu một thực-thể phũ-phàng nào đó. Có phải Chúa xuống để mang
bình-an không khi mà ban kèn Don Bosco Thủ Đức của chúng tôi thổi
kèn lễ sớm Giáng Sinh chiều 24/12 ở những trại lính Thủy Quân Lục
Chiến trước khi họ được bốc đi Kontum hay Quảng Trị ngay
trong đêm đó? Có phải những tiểu-đoàn ấy ra đi đêm Giáng Sinh sẽ trở
về bình-an và nguyên-vẹn? Vợ con họ có được bình-an khi lòng họ canh-
cánh âu-lo trong trại gia-binh hay không?
Bước đầu, tôi khám-phá được rằng, Chúa sinh ra trong chuồng
bò vì không được con người tiếp-đón; Chúa bị giết và chết trên thập-giá -
- hình-phạt lớn nhất dành cho một tử-tội thời đế-quốc Roma. Và cuối
cùng, tôi khám-phá ra được, Chúa đã xuống trần làm con người, chịu
phận con người và sống như con người. Vâng, tôi đã khám-phá
hay đúng hơn là cảm-nhận được dần-dần.
Chúa không xuống thế để làm phép mầu biến sự chết đi khỏi
cuộc đời này nhưng Chúa chết để sống lại - sự chết không còn làm chủ,
không còn làm con người khiếp-sợ nữa. Chết là sự bước qua, là chiếc
cầu, là phương-tiện đến sự sống trường-cửu. Chúa không xuống trần để
xóa mọi đau-khổ của thể-xác và tinh-thần nhưng làm cho chúng có giá-
trị yêu-thương, cảm-thông, đùm-bọc, tương-thân, tương-trợ, tìm-
tòi, sáng-tạo và cuối cùng là mang giá-trị cứu-rỗi.
Con người khi được tạo-dựng thì được tạo-dựng với sự tự-do
khác hẳn các tạo-vật khác. Con người đã dùng sự tự-do ấy để chống
lại Đấng dựng nên mình (Sách Sáng Thế). Nhưng Thiên Chúa Đấng Tạo-
Hóa không bỏ mặc con người, trái lại hoạch-định một chương-trình cứu-
rỗi. Con Thiên Chúa sẽ xuống thế làm người, mang con người về làm
hòa cùng Thiên Chúa Cha. Những dòng Thánh Kinh thu-gọn ấy tôi chỉ
cảm-nhận được dần dần và phần nào nhưng như những giọt nước thấm
vào lòng đất khô. Tôi cảm-nhận rằng, không phải chỉ có nguyên-tổ
Adam và Eva sa-ngã mà chính con người, chính tôi sa-ngã hằng ngày
vì chúng ta mang bản-tính con người.
Khi Con Thiên Chúa giáng thế trong sự-kiện Giáng Sinh, nhân-
loại được đổi mới, được sống trong hi-vọng được cứu-rỗi với sự cộng-
tác của mình - con người vẫn có sự tự-do để từ-chối. Suy-
gẫm điều ấy, tôi chưa thấy mình được cứu-rỗi ở một thiên-đàng xa-vời
nhưng thấy mình được cứu-rỗi ngay trong cuộc đời thường. Tôi ăn, uống,
ngủ, nghỉ, làm-việc, học-hành, âu-lo, hi-vọng... tất cả mọi hành-
vi đều được chia-sẻ với cuộc sống của Con Thiên Chúa, vì Chúa đã
xuống thế làm người, và sống như con người. Chúa cũng đã khát, phải
xin nước người phụ-nữ Samaritan bên bờ giếng Giacop. Chúa đã đói
phải cùng các môn-đệ tuốt những bông lúa bên đường mà ăn.
Miếng ăn của người nghèo và người ăn xin không còn là miếng nhục, vì
Chúa cũng đã xin ăn. Nhưng Chúa cũng dự bao nhiêu bữa tiệc, Chúa
dâng lời tạ-ơn, nói lời nhận-xét người dự tiệc như thế nào là xứng-
đáng, người phục-vụ thì phục-vụ thế nào là vì tình-yêu, sự cảm-mến hay
vì khoe-khoang.
Từ đó tôi cảm-nhận được nhiều hơn lời Thánh Phaolo:
"Dù tôi ăn hay uống, tôi thức hay ngủ, tôi làm vì danh Chúa." (1Cor 31)
Thánh Teresa Nhỏ được tôn-phong tiến-sĩ Giáo Hội vì tìm ra đường nên
thánh bằng các việc nhỏ.
Chúa giáng-sinh để đem lại phẩm-giá cho con người trong đời
thường và trong ý-thức hệ. Đức Giáo Hoàng Francis trong khi bàn
về vấn-đề nô-lệ của thời-đại đã nói rằng: "Xưa và nay, vấn đề nô
lệ đều được bắt nguồn từ ý-niệm về con người như là một thứ đồ vật. Khi
tội-lỗi làm băng-hoại lòng người và tách con người khỏi Đấng Hóa-
Công thì người ta không coi tha-nhân là những hữu-thể có nhân-tính và
phẩm-giá bình-đẳng. Con người không được nhìn là hình-ảnh của Thiên
Chúa. Từ đó con người bị cướp đi quyền tự-do, nhân-tính và phẩm-giá,
bị áp bức, bóc-lột về thể-lý hoặc tinh-thần. Họ bị bán đi thành sản-vật
của người khác." (Sứ-Điệp Chuẩn-Bị Cho Ngày Hoà Bình 1.1.2015)
Bạn biết không, cảm-nhận được sự nhiệm-mầu Chúa Giáng
Sinh, tôi sở-hữu được niềm vui-sướng là có Chúa ở với tôi, có Chúa sống
đồng-hành với tôi trong cuộc đời. Tôi hãnh-diện -- nhiều khi âm-thầm --
biết rằng cuộc sống đời thường của tôi không tầm-thường. Cuộc đời tôi
được mời-gọi để kết-hợp với thân-thể và cuộc đời của Chúa, như sợi tơ
dệt thành tấm vải. Dù ở vị-trí nào, ở mép riềm hay trung-tâm, xấu hay đẹ
p, được nhuộm màu tối hay sáng, nổi bật hay ẩn-chìm vào hậu cảnh, tôi
vẫn có vai-trò trong toàn-thể và giá-trị trước mặt Chúa.
Tôi dù vẫn là con người mỏng-dòn, yếu-đuối nhưng tôi không cò
n nhìn đau-khổ và sự chết là phi-lí nữa. Chúa đã nêu gương và là mẫu-
mực cho tôi trong đau-khổ và sự chết. Tôi có niềm vinh-dự được mời-
gọi đóng-góp và chia-sẻ với Chúa trong công-trình cứu-rỗi.
Quì trước Máng Cỏ Giáng Sinh, ánh điện lấp-lánh và tiếng nhạc
du-dương không làm nhòe đi ý-thức của tôi về những cọng rơm sưởi ấm
Con Thiên Chúa vừa hạ sinh. Lòng tôi tràn-ngập niềm vui và tạ-ơn vì
Thiên Chúa đến ở với chúng ta - Emmanuel.***
Hồi ký
"Thần Bò-Boul”
Tượng Chúa hài đồng ban nhiều ơn lạ
Trần Quốc Bảo
Ðể chuẩn bị cho cuộc thăm viếng Thái Lan của bà Rosalynn
Carter, - phu nhân Tổng Thống Hoa Kỳ, - vào đầu tháng 11 năm 1979,
Bộ Ngoại Giao và An Ninh Mỹ đã phải âm thầm hoạt động trước nhiều
tháng trời.
Mục tiêu của cuộc viếng thăm này là bà Rosalynn Carter muốn
đích thân quan sát tìm hiểu về thảm cảnh tại các Trại Tị Nạn trên đất
Thái Lan, điều mà báo chí và các hãng thông tấn, truyền hình... đã nhiều
lần tường thuật như là một vết thương đại thảm khốc do cộng sản gây ra
cho lịch sử nhân loại vào thời bấy giờ.
Chắc chắn ông Carter, vị Tổng Thống mà nụ cười luôn luôn đậu
trên môi, một lúc nào đó đã phải chau mày, suy tư về thảm họa kinh
hoàng của hàng trăm ngàn người đang sống tại các trại tị nạn Ðông Nam
Á. Không một bản tường thuật nào sẽ sống động và thành thật hơn những
nhận xét của chính vợ ông, bà Rosalynn.
Vậy nên nhiệm vụ của 14 người trong “phái đoàn tiền sát” được
cử qua Thái Lan đầu tháng 10-1979 thực là quan trọng. Phái đoàn sẽ đến
Thái Lan như những người du lịch, sẽ tìm hiểu và ghi nhận trước tất cả
mọi khía cạnh của vấn đề; một bản phúc trình tỉ mỉ về tị nạn sẽ được
thiết lập với những nhận xét và đề nghị thật chuẩn xác, để cuộc tới thăm
của bà Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ sẽ chỉ là duyệt lại các điều mà bà đã
biết từ trước.
Riêng tôi, một trong 14 nhân viên của phái đoàn tiền sát, tôi
hoàn toàn không hay biết mảy may gì về mục tiêu, mục đích của cuộc ra
đi này. Tôi lại cũng mù tịt về mọi lãnh vực ngoại giao và an ninh của
Mỹ. Thế mà tôi lại được đi trong phái đoàn, điều mà chính tôi cũng phải
ngạc nhiên. Trong 14 người, thì 11 là Mỹ chính hiệu “con nai trắng”, còn
3 ngoại kiều là một cô Cam-bốt, một giáo sư Thái Lan và tôi là Việt
Nam. Sở dĩ có tên tôi là bởi một sự bất ngờ rất tếu. Tôi có anh bạn trong
“Hội Nhà Thờ Bảo Trợ”, tên John, anh này là cựu sĩ quan, trước từng ở
Việt Nam hai năm, làm cố vấn cho đơn vị tôi. Ngẫu nhiên nay gặp lại
nhau, anh rất khoái tôi. Thường thường tụi tôi có các buổi họp mặt
weekend là có John. Anh ta cũng ngồi xếp bằng tròn quanh mâm nhậu,
bóc lon la-de và nốc một hơi trăm phần trăm y chang như các tay tổ trong
băng độc thân vậy. John nói được một ít tiếng Việt, ăn được nước mắm,
khoái món phở tái, chả giò ... và đôi khi chúng tôi nhậu khan với nhau
bằng mực khô nướng, củ kiệu, John cũng xáp vô nhai khô mực ra rít lắm.
Bởi cái chỗ thân tình ấy nên tụi tôi coi John như một người bạn chí thiết.
Một lần đang cơn nhậu, John hỏi chúng tôi, ngoài tiếng Mỹ có ai biết nói
tiếng Lào không? Tôi phét lác nhận là nói được và xổ ra một tràng tiếng
Lào líu lo líu lường... làm cho cả bọn cười bò. Thật tình tôi có học được
một ít tiếng Lào trong thời gian hành quân Hạ Lào, lâu không nói thì nay
cũng đã quên nhiều, nói bậy bạ dỡn chơi thì được, chớ còn phiên dịch
thông ngôn thì không nổi.
Thế mà nửa tháng sau tôi nhận được giấy mời lên Văn phòng
Ngoại giao. Người tiếp tôi chính là John. Anh ta nói muốn dành cho tôi
cơ hội để về thăm miền Ðông Nam Á trong nhiệm vụ tiền sát như đã nói
trên. Tôi thú thật với John tôi quá kém về Lào ngữ. Nhưng anh ta trấn
tĩnh tôi rằng, có một nữ nhân viên Cam-bốt nói tiếng Lào giỏi sẽ giúp tôi,
và có thể phái đoàn cần tôi trong nhiệm vụ giao dịch tiếng Việt nữa.
Chúng tôi đã đến Thái Lan như những du khách, và đã nhờ Hồng
Thập Tự địa phương đưa đến các trại Tạm cư Tị nạn. Hai trại lớn mà
chúng tôi đã ở lại nhiều ngày là trại U-thong (phía Tây Bắc cách
Bangkok trên 300 dặm) hiện có 36 ngàn người Lào tị nạn; và trại Sa-
kaeo nằm trên quốc lộ số 8 cách Bangkok 650 dặm về phía Ðông, chứa
tới 200 ngàn dân Căm-bốt tị nạn.
Có ai tưởng tượng được (vào thời điểm năm 1979) chỉ ở một trại
tạm cư thôi mà con số những người tị nạn Căm-bốt đã lớn lao đến thế
không? Hàng trăm ngàn người đó đang sống vô cùng thiếu thốn, đói khổ
và bệnh tật, ở chui rúc trong các tàng cây, những lều lá xiêu vẹo mà họ
gọi là cái nhà. Thiếu thực phẩm, thuốc men, quần áo. – Một vài hình ảnh
khiến ta có thể tưởng như lớp người đó đang sống ở thời thượng cổ, thời
đại sống trong hang hốc, ăn lông, ở lỗ. Sau này khi bà Rosalynn Carter
đến viếng thăm đã phải thốt lên: “Thật quả là thê thảm, những cảnh
tượng này tôi chưa hề bao giờ thấy như vậy, đã làm cho tôi xúc động
kinh hoàng.” (“It’s like nothing I ‘ve ever seen, it’s emotionally
overwhelming”).
Nếu muốn viết về chuyến đi Thái Lan của tôi thì sẽ có một
chuyện dài, nhưng tôi không thể đưa lên báo bản phúc trình chỉ dành
riêng cho vị Ðệ Nhất Phu Nhân đọc. Ở đây, tôi muốn kể lại một câu
chuyện nhỏ- một kỷ niệm mà mãi mãi tôi không quên.
Buổi chiều hôm đó, sau những giờ đã làm việc khá mệt mỏi,
chúng tôi chia nhau bánh mì và thịt hộp để ăn bữa tối, Saleng (cô gái
Căm-bốt trong phái đoàn) gọi tôi:
- Anh có muốn đi coi “Ông Thần Con Nít” không?
Tôi vừa nhai bánh vừa cười, hỏi đùa:
- Có Ông Thần Con Nít hả? Vậy Saleng làm ơn bồng ông Thần
Bếby ấy tới đây, tụi mình chụp hình phỏng vấn, chớ đi nữa thì... mệt quá
rồi.
Saleng nghiêm sắc mặt:
- Anh chớ nói giỡn, Thần Con Nít thiêng lắm, Thần đã cứu nhiều
người ta và đã đưa họ đến đây tị nạn.
Tôi hỏi một hơi:
- Sao cô biết? Thần con nít là Ông Thần gì ? ở Ðâu? Cứu ai?
Chuyện đầu đuôi ra sao?
Saleng liếc xéo tôi:
- Bộ anh muốn ghi vô biên bản phúc trình hả? Muốn biết thì đi!
Đi tôi dẫn tới cho coi.
Tôi uống cạn ly cà phê rồi ngoắc John cùng đi theo. Chúng tôi
lên một ngọn đồi nhỏ, chung quanh toàn là dân di tản Căm-bốt ở chen
chúc dưới các lùm cây tàng lá. Những cảnh sống cơ cực hiện ra trước
mắt trong suốt mấy ngày nay đã làm chúng tôi quen rồi. Các em nhỏ,
phần lớn là ở trần truồng, gầy gò, xanh xao và bệnh hoạn. Các ông già bà
cả ngồi trầm lặng như những pho tượng. Nhiều cặp mắt lo âu nhìn về
phía chúng tôi, không biết họ đang nghĩ gì. Nhưng có điều chắc chắn là
nếu ai bảo họ trở lại với quê hương cộng sản của họ thì họ lắc đầu cương
quyết phản đối ngay.
Saleng dừng lại ở đỉnh đồi – nơi có những đá lớn chồng chất –
trên một tảng đá, tôi thấy có bầy biện như một bàn thờ, cắm nhiều cây
nhang, có một cặp nến đỏ viết chữ Miên chằng chịt như đạo bùa.
Một bầy trẻ con chừng 20 đứa ốm o đang cầu kinh và ca hát chung
quanh. Vài người lớn thấy chúng tôi, rê lại gần đứng nhìn. Ðến gần bàn
thờ, tôi và John đã ngạc nhiên khi nhận ra vị “Thần Con Nít” mà Saleng
đặt tên cho, chính là tượng “Chúa Hài Ðồng nằm trong máng cỏ”. Tượng
bằng thạch cao lớn cỡ bằng quyển tự điển, một góc bị bể nên bàn chân
Chúa mất một nửa.
Rất tự nhiên, John và tôi cùng qùy gối xuống cạnh những em bé
trần truồng. Chúng tôi làm dấu Thánh Giá. John hát lên một bài ca Sinh
Nhật bằng tiếng Mỹ, tôi cũng ca tiếp bài “Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh
ra đời...” Cử chỉ cung kính của chúng tôi trước vị Thần Con Nít đã phút
chốc gây cảm tình với các em bé và bà con cô bác tị nạn Căm-bốt. Số
đông đã bu lại quanh chúng tôi có tới năm sáu chục người. Họ nói
chuyện ồn ào, và Saleng làm nhiệm vụ thông dịch cho chúng tôi hiểu.
Trong đám đông đó, Saleng dẫn tới giới thiệu với chúng tôi một bà già
tên Lam-Pranak và con gái bà, bé Bòboul. Câu chuyện ly kỳ “Thần Bò-
Boul” đã sẩy tới cho hai mẹ con bà, đầu đuôi thế này:
Ông Lam-Pranak, vị đại úy thời Lon-Nol, bị Miên cộng hạ sát
năm 1975. Hai đứa con của ông đã bị ném vô lửa trước mắt ông, trước
lúc chúng bắn ông. Vợ ông và 4 đứa con khác trốn về tỉnh Kompong
Kdey, một năm sau bị phát giác và cũng bị bắt. Miên cộng nhốt năm mẹ
con bà Pranak cùng với khoảng 400 người khác thuộc “chế độ cũ” trong
một Nhà Thờ Chánh Tòa đổ nát ở tỉnh nhỏ Khum Samrong. Chính tại nơi
đó, con gái út của bà, em bé Bòboul, đã tìm thấy tượng Chúa Giêsu Hài
Ðồng nằm trong máng cỏ. Thoạt đầu, em chỉ thấy đẹp và muốn giữ chơi
như một búp-bê. Nhưng rồi bà mẹ em đã nghiệm thấy dường như có một
uy quyền, một phép lạ nào đó ẩn tàng trong Búp-bê Thần này. Cứ mỗi
lần Bòboul bị đau ốm, mà em được ôm lấy Búp-bê Thần thì em liền được
khỏi bịnh. Rồi nhiều em nhỏ khác bị nhốt trong Nhà Thờ đau ốm cũng đã
được ơn cứu chữa ấy. Chí đến các người lớn bệnh hoạn cũng đã được
khỏi khi cầu xin Búp-bê Thần; và lòng sùng kính tôn thờ tự nhiên dâng
lên. Trước con mắt nhòm ngó dữ dằn của bọn lính Miên cộng, những
người tù khốn khổ trong Nhà Thờ đã không dám lập nên một bàn Thờ
cho Vị “Chúa Con Nít” của họ. Ðền đài của Chúa Giêsu Hài Ðồng nơi
đây chính là cái túi vải rách rưới đeo trên lưng em bé Bòboul, một đứa
trẻ gầy gò bẩn thỉu. Ðến nỗi chính danh hiệu cao cả của Chúa cũng chẳng
ai biết nữa. Ðoàn người tù tội đã dùng ngay tên em bé để gọi Chúa Hài
Ðồng, bây giờ tên Ngài là “Thần Bòboul”.
Nhiều đêm, cửa Nhà Thờ mở ra, những họng súng chĩa vào, vài
tên Miên cộng thò đầu vô gọi tên một số người. Những người bị gọi đi
trong đêm sẽ không bao giờ trở lại. Họ đến quỳ gối bên em bé Bòboul,
hôn tượng Chúa Hài Ðồng:
- Lạy Thần của Bòboul, bây giờ con sắp đi vào cõi chết, con
muốn khi chết đi được Thần của Bòboul thương con, đem con về cõi
Trời với Thần!
Cầu nguyện xong, họ hôn em Bòboul và vĩnh biệt ra đi, trong khi
đó Bòboul vẫn ngủ say sưa không biết gì cả. Số tù nhân vô tội vơi xuống
lần lần.
Một đêm nọ, bà Pranak bị gọi tên. Bà choáng người như bị sét
đánh, gọi cả bốn con dậy, mẹ con ôm lấy nhau khóc mướt rồi bà cầu
nguyện:
- Lạy Thần của Bòboul, xin cứu con, xin cho con được sống với
bốn đứa nhỏ này, cha nó đã bị bắn, hai anh nó đã bị đốt lửa; xin Thần
hãy cứu con để chúng nó còn có mẹ, và để mẹ con chúng con suốt đời
thờ lạy Thần.
Bà hôn các con rồi ra đi trong đêm tối theo lũ Miên cộng...
Chừng hơn tiếng đồng hồ sau, cánh cửa hậu Nhà Thờ bỗng hé
mở. Bà Pranak len lén bò vào. Bà thì thào với các con:
- Mẹ và nhiều người bị đẩy xuống một cái hố, tụi nó xả súng bắn
càn rồi lấp đất lên, và bỏ đi. Mẹ không bị trúng đạn, moi đất chui lên
được về đây với các con. Ðúng là Thần của Bòboul đã cứu mẹ!
Năm mẹ con lại ôm nhau khóc... và tạ ơn Thần. - Việc bà thoát
chết, mò mẫm đêm khuya trở lại Nhà Thờ (đúng ra là nhà tù), cũng như
việc lính gác ngủ vùi và cửa Nhà Thờ hé mở, cho đến bây giờ, bà Pranak
vẫn không hiểu tại sao được như vậy. Bà chỉ một mực tin rằng đó chính
là Thần Bò-Boul ra ơn cứu mạng.
Ngày chế độ Pol-Pot bị lật đổ, bọn lính canh tù trước khi tháo
chạy đã thảy đại vô Nhà Thờ 3 trái lựu đạn. Bé Bòboul thất kinh, cầm
tượng giơ ra ngăn cản. Lạ thay, cả 3 qủa đạn đều tịt ngòi lăn long lóc trên
nền Nhà Thờ. Một người trong toán tù đã liều mình nhặt vứt ra ngoài.
Khi qủa lựu đạn cuối cùng ném ra khỏi cửa sổ, cả 3 đã phát nổ dữ dội
khoét thủng một lỗ ở chân tường, và do đó đoàn tù đã thoát ra rồi tản
mát, mạnh ai nấy chạy trốn vượt biên giới qua Thái Lan tị nạn.
Bé Bòboul lạc gia đình, một mình chạy nhủi ở trong rừng, hết
lòng cầu xin, hai ngày sau thì gặp lại được mẹ và anh em như cũ.
Khi năm mẹ con đắt díu nhau vượt biên tại Ban Nong Pru chính
là chỗ quân đội hai bên đang canh phòng ghìm nhau rất cẩn mật. Bé
Bòboul cầm tượng Chúa đi trước dẫn đầu cho gia đình đi ngang qua hai
trạm lính canh gác, lạ thay, thấy lính Miên cộng và lính gác Thái đều ôm
súng ngủ khì. Câu chuyện thuật lại như khôi hài và hoang đường vậy.
John tỏ ra đặc biệt chú trọng đến mọi chi tiết của câu chuyện. – Anh hỏi
và Saleng thông ngôn:
- Cho đến nay, Chúa Hài Ðồng còn tiếp tục làm phép lạ không?
Bà Pranak trả lời:
- Không! không phải phép lạ, Thần của Bòboul không làm phép
ra lửa, ra ánh sáng đâu. Thần chỉ cứu người thôi. Ai cầu xin Thần sẽ
được, nhưng phải ở hiền, ở tốt, đừng có dữ dằn, ai yêu thương người ta,
Thần của Bòboul mới cho ơn. Thần còn cho ơn nhiều nhiều, phải tin
Thần thì mới được chứ!
Tôi ngạc nhiên đến sững sờ nhìn bà Pranak, có phải bà vừa đọc
một đoạn Thánh Kinh nào đó cho tôi nghe không? Tôi nhìn kỹ mặt bà,
gương mặt cằn cỗi xám xịt, hàm răng vàng khè, cặp mắt đục và mệt mỏi.
Bà quê kệch, xấu xí và rách rưới, nhưng tâm hồn bà dường như tràn ngập
niềm tin và sự vui mừng.
Bốn đứa nhỏ của bà cùng với lũ trẻ tị nạn khác đang xúm quanh
John nhai kẹo cao-su. John nhờ Saleng giảng dịch cho chúng hiểu sơ
lược về Chúa Cứu Thế, mà bức tượng của Bòboul chính là Thánh tượng
Ngài. Thật mà nói, tôi thấy lũ nhỏ chăm chú vào việc nhai kẹo nhiều hơn
là lắng nghe câu chuyện Thánh Sử.
Khi chúng tôi từ biệt bà con tị nạn để về lều, John chưa kịp nói
Good Night thì một thanh niên chạy tới rối rít lên:
- Ðem Thần của Bòboul tới mau, xin cứu vợ tôi, nó sắp đẻ rồi,
chẳng có cô mụ bác sĩ gì ráo, khéo nó chết mất! Lạy Thần, xin cho vợ
con của con được sống.
Tượng Chúa Hài Ðồng được rước đi tức khắc. Chúng tôi cũng
cấp tốc trở về lều. Khi John trở lại với một bác sĩ thì mọi sự đã song. Một
em bé tị nạn đã sinh ra bằng yên, Người sản phụ đang thiu thiu ngủ, và
người chồng đang quỳ dưới đất chắp tay lạy Chúa Hài Ðồng như tế sao.
Bà Rosalynn Carter, sau này khi đến thăm trại, đã bồng đứa bé đó trên
tay và ứa lệ nói rằng: “I want to go home as fast as I can and mobilize
people and do all we can to help the people here”. [Tôi muốn trở về Mỹ
càng sớm càng tốt để vận động dân chúng làm tất cả những gì chúng ta
có thể làm được để giúp dân chúng nơi đây.]
Con sẽ về trong đêm Giáng sinh
Việt Phương
Nguyễn được tin sẽ cho về phép thăm gia đình nhân mùa Giáng
Sinh năm nay. Lòng anh vô cùng phấn khích. Anh thầm tính. Có lẽ đây
là năm cuối cùng anh phục vụ cho quân đội Hoa Kỳ. Sang năm anh sẽ
được giải ngũ và trở về để tiếp tục con đường học vấn của mình. Nguyễn
nhớ, ngày anh quyết định tham gia quân đội, bố mẹ phản đối dữ dội.
Nhất là mẹ. Mẹ khóc như mưa bão, vì không muốn đứa con trai duy nhất
của mẹ phải đi vào gian khổ. Mẹ bực dọc. Không hiểu Nguyễn nghĩ cái
quái qủi gì trong đầu. Thiếu gì con đường để đi, nhưng sao lại phải chọn
con đường chông giai. Càng nghĩ, mẹ càng ấm ức. Càng ấm ức, mẹ càng
khóc. Nhưng nước mắt của mẹ không là thứ vũ khí lợi hại để khuynh đảo
lòng Nguyễn. Có lẽ nó là thứ vũ khí mạnh mẽ đối với bố nhiều hơn. Anh
cũng mềm lòng dưới nước mắt của mẹ, nhưng không vì thế khiến anh
thay đổi quyết định. Mẹ kiếm cớ hoãn binh:
"Con xong bốn năm đại học rồi đi lính cũng không muộn mà."
Nguyễn lắc đầu:
"Mẹ cho con đi lính, vài năm sau con trở về để tiếp tục học hành.
Con hứa với mẹ, ít nhất, con cũng phải lấy bằng master về cho mẹ."
"Tại sao con lại tính ngược như thế nhỉ?"
"Không phải ngược đâu mẹ. Nếu cứ tiếp tục đi học thì con đã già
rồi. Đi lính không nổi đâu?"
"Con định ở trong trường bao lâu, 10 năm, 20 mươi năm? Con
mới 20. Còn 2 năm nữa là con xong 4 năm đại học. Lúc đó con chỉ 22
tuổi mà thôi. Bài toán đơn giản như thế mà con không biết tính à?"
Nguyễn cãi:
"Con biết tánh mẹ, con ra trường. Mẹ vẫn chưa hài lòng, mẹ sẽ
bắt con học tiếp..."
Mẹ Nguyễn trừng mắt nhìn con:
"Mẹ thấy điểm G.P.A. của con được 3.8, đang ngon trớn tại sao
con lại drop-out, bỏ học giữa chừng. Mẹ không hiểu?"
Nguyễn nói nhỏ:
"Mẹ không hiểu là phải. Có cái gì thôi thúc trong lòng con. Nó là
ước mơ của con mà mẹ."
Mẹ Nguyễn khoát tay:
"O.K. Mẹ hứa với con. Xong 4 năm đại học con muốn đi lính thì
đi, sau đó về... học tiếp cho mẹ... "
Nguyễn cắt ngang:
"Đó! Mẹ thấy chưa, mẹ vẫn muốn con học cao lên nữa... Nhưng
không sao. Sau khi đi lính về, con sẽ đi học theo ý mẹ."
Mẹ Nguyễn nói như gào:
"Cả bố và mẹ đều có 4 năm đại học, không lẽ con còn thua cả bố
mẹ sao? Đi lính về thì đầu óc đâu mà học nữa. Mẹ đã chứng kiến chiến
tranh của Việt Nam. Mẹ đã coi phim "Casualties Of War" do Michael J.
Fox và Sean Penn đóng lúc xưa, mẹ rất sợ. Con hiểu không. Mẹ rất sợ."
Rồi mẹ Nguyễn òa khóc. Nguyễn ôm lấy vai mẹ vỗ về:
"Chuyện phim ảnh mà mẹ. Nhưng không phải là dễ đâu mẹ. Mấy
đứa bạn của con, ngay cả bạn Mỹ mà vẫn không được tuyển chọn vì thể
lực đấy mẹ à. Họ yêu cầu cao lắm đó. Hơn nữa ai nói vào quân đội
không được tiếp tục học. Trái lại còn có rất nhiều cơ hội và "benefits"
nữa."
Bố Nguyễn không nói lời nào. Con đã lớn, ông không muốn can
dự nhiều vào đời sống của con. Ông đã từng là thanh niên, từng có lý
tưởng và một bầu nhiệt huyết. Nói ra chắc vợ ông không hiểu. Nhưng
Nguyễn là tất cả của vợ chồng ông. Mẹ Nguyễn sanh Nguyễn khi bà đã
ba bảy tuổi. Và ông lúc ấy cũng đã bốn mươi hai. Tuy không nói ra,
nhưng trong tâm ông cũng muốn vợ mình thuyết phục được Nguyễn, để
con tối ngày cần kệ. Mẹ Nguyễn cưng con như trứng mỏng mà quên rằng
con trai mình đã lớn, đã có những suy nghĩ riêng. Nhưng bà không cam
lòng. Bà đã được sinh ra trong cuộc chiến Việt Nam, đau thương chết
chóc vẫn còn in đậm trong trí bà. Chiến tranh đối với bà là cả một địa
ngục. Thoát khỏi cuộc chiến, chạy bán mạng qua Mỹ, nay con mình lại
muốn lao vào một cuộc chiến khác. Cuộc chiến chẳng có dính dấp gì tới
người Việt của mình. Bố Nguyễn thì lại nghĩ khác. Con mình có lý tưởng
của nó. Lý tưởng bảo vệ cho tự do. Ngày xưa ông ở lứa tuổi sinh viên,
chưa có dịp khoác áo chinh y thì gãy gánh giữa đàng. Nay lý tưởng đó,
con ông thay ông thực hiện thì âu đó cũng do số phận an bày.
****
Thế là Nguyễn được tuyển vào lính bộ binh và được đưa tới Fort
Benning, tiểu bang Georgia để được huấn luyện. Trước ngày đi, Nguyễn
không nói lời nào. Trong lòng anh rất buồn vì phải xa bố mẹ, xa gia đình.
Nhưng anh nghĩ mình nên làm những gì mình muốn để sau này khỏi phải
ân hận. Đó có thể là tư tưởng mà bố Nguyễn đã gieo vào đầu Nguyễn
những lúc Nguyễn còn bé thơ. Bố bảo có rất nhiều điều bố muốn làm
những lúc còn trẻ, còn thanh xuân, nhưng chưa thực hiện được thì đã
thấy thời gian vun vút qua. Thấy mình đã già. "Con ơi! Việc gì làm được
hôm nay, chớ để đến ngày mai". Nguyễn nhớ lời nói ấy của bố. Anh
thầm hứa, sau khi giải ngũ, sẽ tiếp tục học hành cho đến khi bố mẹ hài
lòng. Anh vốn biết người Việt Nam lúc nào cũng coi trọng việc học.
Một năm sau, Nguyễn được chỉ định đến "3rd Brigade Combat
Team, 101St Airborne Division" tại Fort Campbell, tiểu bang Kentucky.
Sau đó, Nguyễn tình nguyện vào "Special Forces Assessment and
Selection". Sau khi tốt nghiệp từ "Special Forces Qualification Course"
ở Camp Williams, tiểu bang Utah, anh được chỉ định vào 7th Specials
Forces Group".
Rồi Nguyễn được chuyển đến Kandahar ở Afganistan. Chưa tới
Giáng Sinh, anh đã nhận dược quà của mẹ. Đây là Giáng Sinh đầu tiên ở
Afganistan, khiến anh có nhiều xúc cảm. Trong thư, mẹ anh cứ luyến tiếc
mãi. Chỉ còn 2 năm nữa là ra trường, tương lai xán lạn trước mắt, không
chịu, lại đi lính làm chi cho khổ tấm thân. Con khổ mà bố mẹ cũng khổ.
Mẹ nhớ con quá. Dan ạ. Dầu con đi lính Mỹ nhưng con phải nhớ con là
người Việt Nam. Không phải tên của con bố mẹ đặt là Nguyễn Việt Dân
đó sao? Rồi lại là Dan Nguyen. Rồi lại là Nguyễn. Cuối cùng chỉ còn lại
"last name" của con mà thôi. Mr. Nguyen. "Infantryman" của mẹ... Thư
của mẹ khiến Nguyễn thao thức mãi.
Trong gói quà Giáng Sinh mẹ gửi cho anh, anh thích nhất là 2
CDs, một là "Christmas Wishes", gồm nhiều ca sĩ, và CD khác có tên là
"Phantom" với tên ca sĩ anh nghe rất lạ tai:Tara Elisha. Mẹ anh thật khéo
chọn. Mẹ biết anh thích bài "I'll be home for Christmas" nên cố tình mua
CD này gửi qua cho anh. Anh mê nhạc, mẹ anh cũng thế. Mẹ anh thích
ca khúc "I'll be home for Christmas" với giọng hát "original" của Bing
Crosby được thâu âm năm 1943. Bố anh thì thích Frank Sinatra. Riêng
anh, không hiểu sao anh lại thích chất giọng thật thà "đồng quê" của
Glen Campell khi ông hát bài này. Bài hát được Glen Campbell thâu âm
năm 1968, nghe rúng động tâm can. Biết ý anh, mẹ anh đã lựa trúng bài
hát Campbell thâu năm 1968 cho anh. Vì có lần anh nói với mẹ, sau này
Glen Campbell có thâu bài "I'll be home for Christmas", với lối hòa âm
khác, và cách hát không bằng bài ông thâu năm 1968. Mẹ anh nói anh
thật là "picky". Nghe nhạc mà cũng so đo từng chút, thì cũng Glen
Campell hát mà thôi. Anh nói khác chứ mẹ. Con thấy trong xe mẹ có
nhiều cuốn CDs của Thái Thanh. Không phải mẹ nói với con là mẹ thích
giọng hát của Thái Thanh trước năm 1975 hơn là sau này ở hải ngoại
sao? Mẹ anh chỉ nói nhỏ. Ừ nhỉ, mẹ nhớ mẹ có nói với con. Nguyễn tựa
đầu vào vai mẹ, làm bộ nhõng nhẽo.Thế thì mẹ và con cũng "picky" như
nhau, mẹ nhỉ? Mẹ Nguyễn cười xòa mắng yêu. Cha mày. Láo cá.
Nguyễn và mẹ gần nhau chỗ ấy. Mẹ không có con gái, cứ bám vào mỗi
thằng con trai duy nhất. Đi chợ cũng Dan ơi. Thậm chí đi "shopping"
cũng Dan ơi. Bố anh đến nỗi phải thốt lên tiếng than. Dan ơi, Dan hỡi
mãi, ra đường người ta tưởng bà đi với kép nhí đó. Mẹ anh thích thú. Ôi!
Tưởng gì. Càng tốt chứ sao? Phải không Dan. Anh cười. Bố ghen rồi đó
mẹ ạ...
Nguyễn tò mò mở CD "Phantom" của Tara Elisha ra nghe trước,
vì mẹ "quảng cáo" trong thư rất rõ. Mẹ rất thích bài hát "Christmas in
Kandahar" nơi con đang đóng quân. Mẹ nghĩ con cũng thích bài này, vì
ca từ rất hay, âm điệu cũng lôi cuốn người nghe. Đúng vậy. Bài hát làm
anh rưng rưng muốn khóc trong buổi chiều võ vàng: "Oh the white dust
on the highway, oh the stenches in the byway. Oh the clammy fog that
hovers. While at home they're making merry'neath the white and scarlet
berry. What part's Afghanistan's exile in their mirth..." Nguyễn không
thể kìm giữ nước mắt trong phần điệp khúc, Tara Elisha hát như than.
Giọng huyền hoặc âm sắc đông phương: "High noon behind the tamricks
the sun is hot above us, while at home the Christmas day is breaking
wane. They will drink our health at dinner, those who tell us how they
love us, and forget us' till another year be gone..." . Mẹ Nguyễn nhấn
mạnh trong thư. Bố mẹ không bao giờ "forget" con như lời trong bản
nhạc đâu. Bố mẹ nhớ con từng giây từng phút, con ạ. Nguyễn ngước mặt
nhìn trời. Mẹ thật hiểu con hơn ai hết. Mẹ ơi. Anh thầm cảm ơn tâm tư
của mẹ qua gói quà giáng sinh đầu tiên tha hương. Nước mắt ràn rụa trên
mặt anh. Bóng tối phủ dày thị trấn buồn hiu. Những ánh sao mờ dần
trong đêm sa mạc ở Afghanistan.
****
Khi hàng cây Thủy Sam dẫn vào nhà bố mẹ Nguyễn lá đã bắt
đầu đổi thành màu đỏ rực rỡ, là lúc bố mẹ Nguyễn lên đèn giáng sinh
trước sân nhà. Giáng Sinh năm này có Dan về, không rềnh rang làm sao
được. Lẽ ra phải làm một cái "surprise", như người Mỹ thường làm.
Nhưng Nguyễn muốn bố mẹ được mừng rỡ sớm hơn nên đã báo cho bố
mẹ biết trước ngày về. Mới sáng sớm, mẹ đã thức bố dậy. Lục tục khiêng
mấy thùng trang trí giáng sinh từ rầm thuợng xuống. Mấy năm qua,
Nguyễn không về nhà nên bố mẹ anh cũng không màng đến chuyện đèn
đuốc, tiệc tùng.
Việc đầu tiên, mẹ Nguyễn máng hàng chữ "Welcome Home"
trước cửa ra vào trên nhánh "mistletoe" xanh tươi được mẹ thắt lại bằng
chiếc nơ đỏ thật khéo tay.
Bố Nguyễn lay hoay ngoài sân với những con nai ngơ ngác và
những dây đèn chạy quanh lối đi dẫn vào nhà. Trong khi ở phòng gia
đình, bên cạnh lò sưởi, mẹ Nguyễn đang trang trí cho cây giáng sinh. Bà
bồi hồi mở hộp "ornaments" yêu qúi nhất của bà. Xúc động ngắm từng
vật trang trí có hình Nguyễn từ "kindergarten" cho tới lớp 6, mỗi năm bà
làm một cái. Đến lớp 7, Nguyễn nói Nguyễn đã lớn, không cho mẹ làm
nữa. Bà trịnh trọng máng từng cái lên. Mỗi cái mang nặng một nhớ
thương. Bà chép miệng: "Mới ngày nào". Rồi thở dài, thườn thượt.
Bấy giờ là lễ Thanksgiving. Còn một tháng nữa mới đến Giáng
Sinh mà trong lòng bố mẹ Nguyễn đã nôn nóng lạ lùng. Bố Nguyễn tuy
không nói ra nhưng mẹ Nguyễn đọc được những suy nghĩ của ông như
được "copy" từ đầu bà rồi "paste" lên ấy. Thỉnh thoảng bà ngừng tay,
hướng mắt ra sân nhà xem ông đang lui cui mắc đèn. Bà mỉm cười hạnh
phúc.
Tối hôm đó, tuyết rơi sớm hơn mọi năm. Sau khi dùng bữa ăn
chiều. Bố mẹ Nguyễn ngồi bên nhau cạnh lò sưởi, nhìn cây Giáng Sinh
mẹ Nguyễn bỏ công cả buổi để trang hoàng. Những ánh đèn nhấp nháy
trên cây làm mẹ Nguyễn nhớ đến đôi mắt tinh nghịch của Nguyễn mỗi
lần trêu mẹ. Ôi đôi mắt có những tia sáng tin yêu. Bà quay qua chồng:
"Không biết giờ này con nó đang làm gì bên Afghanistan mình
nhỉ?"
****
Trong khi đó ở Afghanistan, đơn vị của Nguyễn đang đi tuần tra
ở khu vực Panjwai thuộc tỉnh Kandahar. Địa danh bụi trắng bay mờ
không gian. Chiều úa vàng mầu nắng. Chiếc xe quân đội tốc bụi lên trời.
Người dân Afghanistan quần áo phủ từ đầu đến chân trông rất bí hiểm và
tù túng giữa cơn nắng sa mạc cuối tháng 11 trong ngày Lễ Tạ Ơn bên
Hoa Kỳ. Chốc nữa đây, khi trở về căn cứ. Nguyễn và các bạn đồng đội
cũng có một bữa tiệc Tạ Ơn nho nhỏ. Năm nào cũng thế. Chiến tranh
không vì ngày lễ mà ngưng tiếng súng. Nguyễn nhớ tới bố mẹ thật nhiều.
Đã bao mùa Lễ Tạ Ơn trôi qua, anh không hưởng được mái ấm gia đình
với không khí thiêng liêng, ấm áp trong căn nhà đầy ắp kỷ niệm thuở ấu
thời. Căn nhà nho nhỏ, xinh xắn mà bố mẹ Nguyễn không bao giờ có ý
định bán nó, dù đôi lúc phải đổi chỗ làm. Căn nhà anh đã được sinh ra,
đến trường. Từ tiểu học, và trung học, rồi trường đại học cũng gần đó.
Tiện lợi và đầy dấu ấn. Nó ghi dấu cả một quãng đời hoa mộng của
Nguyễn. Anh chỉ ao ước có thêm một người em - trai hay gái gì cũng tốt
cả - để những lúc anh không có nhà như thế này thì bố mẹ đỡ nhớ thương
và căn nhà sẽ bớt phần quạnh vắng.
Không biết giờ này bố mẹ đang làm gì nhỉ? Nguyễn nghĩ về bố
mẹ, như bố mẹ anh cũng đang nghĩ về anh. Có thể là thần giao cách cảm.
Jimmy, người bạn bên cạnh khều tay Nguyễn:
"Sướng nhé. Giáng Sinh năm nay mày có mặt ở nhà rồi."
Anh mỉm cười sung sướng. Hỏi:
"Mày còn nhớ bản nhạc "I'll be home for Christmas" không?
Jimmy cười:
"Người Mỹ nào lại không biết. Mày thích ai hát. Tao thích Elvis
Presley hát bài này lắm."
John xen vào:
"Tao lại thích Carpenters hát bài này."
Nguyễn cười, một ca khúc được quá nhiều danh ca Hoa Kỳ trình
bày, thảo nào ai cũng biết. Nguyễn hỏi:
"Thế chúng mày có biết ai viết bài này không?"
Jimmy hất mặt:
"Có ba người viết bài này lận. Đó là Kim Gannon, Walter Kent
và Buck Ram."
John lại xen vào:
"Nói đúng ra thì Kim Gannon viết lời, còn nhạc thì do Walter
Kent và Buck Ram viết."
Quay qua Nguyễn, John hỏi:
"Mày thích ai hát bài này?"
Nguyễn nói, trong khi mắt nhìn xa xăm:
"Glen Campbell."
Cả Jimmy và John cùng phá ra cười:
"Country boy."
Nguyễn không nói, anh cất tiếng hát::
"I'll be home for Christmas. You can plan on me. Please have
snow and mistletoe. And presents on the tree."
Jimmy và John không cầm được cũng hát theo:
"Christmas Eve will find me. Where the love light gleams. I' ll be
home for christmas. If only in my dreams."
Anh thấy đôi mắt John long lanh ngấn lệ. Ôi đôi mắt bi ve màu
đại dương, khuôn mặt hai mốt, búng ra sữa. Nét đẹp thánh thiện như
thiên thần. Còn Jimmy, người bạn mầu da "chocolate" ngọt lịm của anh
cũng cúi mặt buồn buồn. Ba màu da: trắng, đen, vàng cùng nhau bảo vệ
hòa bình trên thành phố bụi mù ở A Phú Hãn - một đất nước xa xôi, mịt
mù thuộc châu Á - đầy huyền bí và bất trắc…
Bỗng, một tiếng nổ long trời. Xe tuần tra của Nguyễn bị tấn công
bằng một loại bom tự chế. Chiếc xe bị hất tung lên không và lửa bốc
cháy sau đó. Nguyễn không còn nhớ gì hết. Anh nghe văng vẳng trong
không trung của buổi chiều tà, giọng Glen Campell não ruột: "I' ll be
home for christmas. If only in my dreams."...
****
Nguyễn men theo lối đi đã lên đèn. Anh dừng lại trước cửa, nhìn
vào bên trong. Căn nhà ấm áp với cây giáng sinh lung linh ánh đèn. Anh
thấy bố mẹ đang ngồi co ro trên chiếc "sofa" cạnh lò sưởi. Dáng mẹ thật
cô đơn. Mẹ ngắm không chán những "ornaments" có hình Nguyễn đang
lung linh theo ánh đèn trên cây giáng sinh. Nguyễn thấy mẹ quá tiều tụy.
Chỉ mấy năm không gặp mà mẹ đã già thấy rõ. Anh nhìn phòng "dinner",
thức ăn đã dọn sẵn với 3 phần chén đũa như chờ đợi anh về. Tiếng nhạc
từ trong nhà phát ra, giọng Glen Campell vang mênh mông trong không
gian, len lỏi vào trí óc anh: "I'll be home for christmas. You can plan on
me...". Nguyễn trào nước mắt. Anh muốn chạy bay vào nhà, ôm cả bố lẫn
mẹ bằng đôi tay dạn dày sương gió của mình. Anh hứa với bố mẹ từ nay
anh sẽ không rời xa bố mẹ nữa. Anh sẽ trở lại trường. Sống bên cạnh bố
mẹ với cuộc đời sinh viên.
Anh đứng yên. Tim anh đau đến ngộp thở. Tuyết rơi trắng xóa
lối đi. Anh muốn nhìn hình ảnh gia đình qua khung cửa kính lâu hơn, để
chiêm nghiệm sự hạnh phúc khi anh được bước chân về nhà. Anh nhìn
hàng chữ "Welcome Home", lòng tần ngần chưa muốn bấm chuông.
Chùm "mistletoe" được mẹ thắt nơ đỏ như đang mỉm cười với anh. Anh
lặng nhìn bố mẹ. Cảm xúc nghẹn ngào khó tả. Anh đứng bất động. Rất
lâu. Tuyết đã ngừng rơi. Đêm thắp sáng những vì sao mừng Chúa giáng
trần. Bố anh vẫn đang cúi đầu trước tờ nhật báo, dù ông đã đọc xong từ
lâu.
Một cơn gió lùa qua, khua động tiếng phong linh trước hiên nhà.
Cuối cùng, Nguyễn cũng bấm chuông. Nguyễn thấy bố anh giật mình.
Ông ngơ ngác đứng dậy. Tờ nhật trình rơi xuống thảm in rõ tiêu đề:
"Arlington Soldier Killed in Afghanistan."
Bữa rượu chiều Giáng sinh
Nguyễn Mạnh An Dân
Chiều Giáng Sinh, vùng hành quân, nặng nề, căng thẳng.
Chiến đoàn trưởng buồn buồn gọi toán trinh sát bảo vệ lên xe
ghé thăm bộ chỉ huy một tiểu đoàn tác chiến thuộc quyển ở tuyến đầu.
Chỗ thân mật, Tiểu đoàn trưởng trình bày tình trạng đơn vị, nặng
phần chia xẻ, tâm tình hơn là thuyết trình trận mạc. Ông kết luận: Tội
nhất là thằng Tùng, nó ôm cái rừng cao su này suốt mấy tuần lễ rồi, mặt
mày xanh lét, chắc tại rừng già thiếu dưỡng khí.
Chiến đoàn trưởng trầm tư có vẽ suy nghĩ, ông nhìn thoáng qua
bản đồ vùng đóng quân như để ước tính khoảng cách và mức độ an toàn
rồi nói nhanh, rõ ràng, dứt khoát: Mình đi thăm mấy thằng em chút đi.
Tiểu đoàn trưởng cười vui, ông gọi thám báo tăng cường bảo vệ
và ra lệnh truyền tin thông báo cho đơn vị hành quân biết có quân bạn di
chuyển đến gần, tránh ngộ nhận. Ông muốn dành cho thuộc cấp niềm vui
bất ngờ, không báo rỏ có thẩm quyền lớn đến thăm.
Cuộc gặp gỡ có chút bẽ bàng, khó xử. Đại đội trưởng tuyến đầu,
Trung úy Tùng, người được tiểu đoàn trưởng ưu ái và âu yếm giới thiệu
“xanh lét vì ở rừng lâu ngày thiếu dưỡng khí” đang đỏ gay vì rượu.
Chiến đoàn trưởng cau mày, lạnh lùng lấy ống dòm nhìn về phía trước,
lặng lẽ không nói một lời. Tiểu đoàn trưởng tái mặt vì ngượng, rồi đỏ rần
vì giận, nhất thời cũng chưa biết nói gì cho thích hợp.
Chiến đoàn trưởng lướt nhẹ tầm nhìn qua ống dòm từ trái sang
phải về phía cuối bìa rừng, mặt ông dịu lại, rồi thoáng tươi vui, hài lòng
khi nhìn thấy suốt một tuyến dài hình ảnh những người lính, được chia
từng toán nhỏ ba người, có các hạ sĩ quan trực tuần tra kiểm soát, đang
ghì súng bảo vệ toàn bộ khu vực đóng quân. Tầm nhìn thu hẹp lại và tầm
mắt người chỉ huy già dừng lại ở một gốc cao su gần sát ban chỉ huy đại
đội, tay ông hơi run và giọng ông như nghẹn lại, ngậm ngùi:
- Hôm nay là ngày gì của thằng Toàn?
- 49 ngày, thẩm quyền.
Tùng nói nhỏ và lặng lẽ theo bước Chiến đoàn trưởng đi về
phía một gốc cây cao su gần đó. Tiểu đoàn trưởng nối gót. Cả ba không
ai nói lời nào cùng thẫn thờ nhìn sững bức hình nhỏ của một thiếu úy trẻ
gắn trên gốc cây, phía dưới là một tấm ponchot xếp gọn có đặt mấy cành
hoa dại và một ca rượu lưng lửng.
Đoạn phim hào hùng nhưng bi thảm như hiện rõ trong trí mọi
người: Dòng sông máu Thị Tính, An Điền, Rạch Bắp…Đoạn phim dừng
lại ở bức hình được báo chí Sài Gòn đồng loạt đăng tải như một niềm
hãnh diện chung, hình ảnh toán quân chiến thắng đang dựng lại ngọn cờ
tổ quốc trên bờ rào đổ nát của căn cứ 82. Mọi người hậu phương chắc
cùng lạc quan, tươi vui khi xem báo, như chia sẻ niềm kiêu hảnh với
những chiến sĩ đang rạng rỡ ngẩng cao đầu, ít ai chú ý đến một chi tiết lạ,
nếu có thì chắc cũng chỉ đơn giản nghĩ là, có một người lính đang mệt
mỏi gục đầu về phía trước, vậy thôi. Không ai biết người lính gục đầu
trong ảnh là thiếu úy Trung đội trưởng xung kích, người đã hướng dẫn
toán quân đầu xung phong tiến chiếm mục tiêu và đã hy sinh vào phút
chót trước loạt đạn định mệnh khi quân địch hoảng loạn tháo chạy bắn
ngược lại. Bạn bè anh đã đỡ anh dậy để ghi lại hình ảnh cuối cùng bên
nhau, như một cách ngậm ngùi chia xẻ niềm vui, nỗi buồn.
Chiến đoàn trưởng nói nhỏ khi mọi người vừa trở lại lều chỉ huy
của đại đội:
- Còn rượu không cho anh một ca.
đoàn trưởng thân mật, bộc trực nói lớn:
- Tao cũng muốn một ca.
Bữa rượu chiều Giáng Sinh, vậy đó. Rất buồn.../.
Đêm thánh vô cùng
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Mười hai giờ trưa, "Cọp đen" Nguyễn văn Trọng, trung úy đại
đội trưởng đại đội 45 trinh sát đứng trên ngọn đồi 1034, đảo cặp mắt
"diều hâu" nhìn một vòng chung quanh đồi rồi nói với người đại đội phó:
- Mình đặt bộ chỉ huy đại đội trên ngọn đồi này. Ông cho chúng
nó đào hầm hố bố trí chung quanh đồi...
Thiếu úy Hoàng gật đầu, sửa lại sợi dây ba chạc, xoay người vừa
rảo bước đi thì Trọng gọi hắn lại, chỉ vào một ngọn đồi đối diện, thấp
hơn một chút xíu:
- Khoan, hay là thế này. Ông để thằng 1 và thằng 2 (trung đội 1
và 2) nằm ở lưng chừng đồi bên này với tôi, ông dắt thằng 3 và 4 qua
ngọn đồi bên kia mà bố trí...
Đưa tay chỉ vào con đường đất nhỏ xa xa phía dưới, Trọng tiếp:
- Cho chúng nó đặt cây M-60 vào ngày cái chỗ trống trãi gần con
đường mòn này cho tôi. Rải thêm chốt hình chữ "V" từ hai trên đồi
xuống tới đó. Tôi thấy đó là chỗ duy nhất mà chúng nó có thể mò ra
được.
Thấy người đại đội phó hoang mang, Trọng tiếp tục:
- Nếu có chuyện gì cũng đỡ, mình cẩn thận vẫn hơn...
"Cẩn thận vẫn hơn...", ông như thế là quá cẩn thận rồi chứ còn gì
nữa mà vẫn hơn, Hoàng nghĩ thầm trong bụng nhưng không dám càu
nhàu. Chỗ ngày là vòng đai thành phố Kon Tum, Việt Cộng nào mò đến
đây được mà phải cẩn thận đến như vậy?
Nhìn khuôn mặt của đại đội phó, Trọng biết hắn nghĩ gì trong
đầu. Thật ra, những gì Hoàng nghĩ có lẽ đúng nhưng với cương vị của
một cấp chỉ huy nắm sinh mạng của hơn trăm người trong tay, Trọng
không thể nào làm khác hơn được. Đánh nhau trên chiến trường, chỉ một
tiếng bùm là xong hết. Người chết không biết chuyện gì đã xảy ra cho
mình. Nhưng về hậu cứ sau những trận đánh ác liệt những người chỉ huy
như Trọng phải trực diện với một thực tế thương tâm kinh khủng. Vợ
lính con lính kéo về chật cả sân đại đội. Đuổi đi không nở, năn nỉ không
được. "Chồng tôi đâu rồi, ông giết chồng tôi chớ đâu phải giặc nào
giết..." Hay là : "Bố cháu đâu chú, chú trả lại bố cháu cho cháu..."
Trọng đã trải qua những cảnh thương tâm như thế này. Nhiều
khi, Trọng nghĩ, cái đám vợ con lính mới là những người đáng thương
nhất, tội nghiệp nhất. Lính, dù sao, như chàng nghĩ, chỉ một tiếng bùm là
xong hết mọi chuyện...
thế, ở chiến trường, dù đánh giặc tới đến độ vang danh là Cọp
Đen, là đại đội trưởng đại đội trinh sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn với
những chiến công táo bạo lừng lẫy tưởng chỉ có thể có trong phim xi nê,
ít người biết Trọng coi trọng mạng sống của lính tráng hơn cả của chính
mình. Điều này, chỉ có cấp chỉ huy của Trọng biết và lính của Trọng biết.
Vậy là đủ rồi...
Thật ra, đối với Trọng, muốn trở nên một người chỉ huy giỏi
không khó lắm. Điều thứ nhất, Trọng hiểu biết quy luật bất di bất dịch
ngàn đời của tạo hóa: Hễ mình thương lính thì lính thương mình. Thương
đúng nghĩa của chữ thương: Sống chết với lính mình. Đi nhảy toán,
thường thường, Trọng là một trong những người dẫn đầu đại đội, đặt
chân xuống đất đầu tiên. Lúc trực thăng đến bốc, Trọng là một trong
những người cuối cùng leo lên tàu bay... Trọng còn nhớ như ngày hôm
qua trận Tân Cảnh. Hồi đó, trung đoàn còn do một ông đại tá già vốn
xuất thân từ dân lính khố xanh khố đỏ chỉ huy. Hốt hoảng vì bị cấp trên
xỉ vả sau khi một tiểu đoàn của ta bị 2 trung đoàn địch vây hãm trong
nhiều ngày, ông ta quyết định cho thằng 45 trinh sát của Trọng nhảy vào
giữa khu tập trung quân của địch để... gây tiếng vang.
Đánh giặc ngu như c... mà cũng mang lon đại tá." Trọng lẩm
bẩm chửi thề trong bụng. Tuy chưa bao giờ chỉ huy đến cấp tiểu đoàn
nhưng Trọng biết tiểu đoàn này tuy bị vây hãm nhưng vẫn có thể cầm cự
được lâu ngày nhờ hầm hố kiên cố và tiếp liệu đầy đủ. Trọng biết chắc
một điều là nếu đại đội nhảy vào đó thì sẽ bị tiêu diệt trong vòng 15 phút
đầu tiên sau khi trực thăng hạ càng xuống. Trọng không lạ gì cái màn
này. Trong những trường hợp tuyệt vọng, Trọng sẵn sàng chấp nhận
cùng lính nhảy vào chỗ chết để tìm cái sống nhưng trong tình hình không
có gì bi đát, không thể thí quân một cách ngu dốt chỉ vì bị một vài tiếng
xài xể của cấp trên như vậy được.
Trọng nghiêm nghị hỏi vị chỉ huy:
- Thưa Đại tá, xin Đại tá lặp lại nhiệm vụ đại đội tôi nhảy vào đó
để làm gì?
Phòng họp hôm đó còn nhiều sĩ quan cấp tá khác nữa, ai nghe
cũng muốn nhảy dựng người lên vì câu hỏi xấc láo của người trung úy
trẻ. Trong quân đội, nhất là một đơn vị bộ binh, chưa bao giờ có một đại
đội trưởng lại chất vấn trung đoàn trưởng như thế này.
Ông đại tá già khựng người một lát như không ngờ được câu hỏi
bất ngờ. Bình thường thì ông ta đã có thể nổi máu du côn lên dùng gậy
đập túi bụi vào người sĩ quan trẻ vô lễ này rồi nhưng nhìn thấy ánh mắt
toé lửa của Trọng, ông ta không dám. Nó đã dám hỏi như vậy thì nó đâu
có sợ mình. Rồi ông trả lời yếu ớt:
- Thì tôi đã nói, để... gây một tiếng vang, cho báo chí biết là
chúng ta không có thua.
- Thưa đại tá, là lính, chết chúng tôi không sợ nhưng Đại tá nghĩ
coi tôi và hơn một trăm người nữa trong đại đội tôi có đáng chết vì một
"tiếng vang" vớ vẫn như vậy của báo chí không?
Mọi người trong phòng nghe tới đâu là thấy rúng động tới đó.
Cọp mở miệng có khác.
Ông đại tá chưa kịp trả lời thì Trọng ôn tồn đem lời lẻ phải trái ra
trình bày cho ông ta nghe. Đây là cố gắng cuối cùng của Trọng, người
chỉ huy biết thương yêu lính. Trọng không hiểu mình sẽ phản ứng như
thế nào nếu ông già này cứ một hai bắt Trọng nhảy xuống đó. Ý nghĩ
kinh hoàng quá đến độ chàng không dám nghĩ đến. Nhưng, tất cả mọi
hình phạt từ việc ra tòa án quân sự, nằm quân lao, v.v. đều không bằng
sinh mạng của mấy trăm chiến sĩ can trường. Người ta đi lính để chết cho
tổ quốc chứ không để chết cho một thằng ngu nào hết...
Cuối cùng, tạ ơn trời đất, ông ta nghe lời Trọng, hủy bỏ quyết
định điên rồ ấy đi.
Chuyện này đồn ra khắp nơi, tiếng tăm của Cọp Đen Nguyễn
Văn Trọng từ đó vang lừng. Vang lừng nhưng ai cũng hiểu vì sao Cọp
Đen không bao giờ móc được cặp lon đại úy trên cổ áo...
Điều thứ hai, muốn chỉ huy có hiệu quả, người chỉ huy phải áp
dụng một kỷ luật thật khắt khe nhưng nghiêm minh và công bằng. Dân
trinh sát đa số là dân trời đánh không chết, tình nguyện về cũng có mà trị
không được bị đẩy về từ các đơn vị khác cũng có. Nhiều thằng lính của
Trọng đã từng ở tù quân lao, từng giết người chỉ vì một chai bia. Duy trì
kỷ luật với một thành phần hổn tạp như vậy không phải là chuyện dễ.
Nhiều khi, rất là nguy hiểm. Trọng học được một điều rất quan trọng của
đời binh nghiệp là muốn cho lính nghe lời mình, trước hết nó phải phục
mình đã. Nếu lính đã phục mình rồi thì không có chuyện gì mình bảo mà
chúng nó từ chối. Điểm then chốt là phải làm sao cho chúng nó phục.
Quân đội có thể ban chức tước cùng lon lá cho anh nhưng không thể ban
sự kính phục của thuộc cấp cho anh. Đây là tài năng riêng của mỗi
người.
Riêng với Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng, lính chưa về đại đội đã nghe
tiếng chàng rồi. Về dưới quyền chỉ huy của Trọng, chúng nó càng phục
thêm.
Trọng hiểu lính và lính hiểu Trọng...
Khi Trung tá Sang, một sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường Võ Bị về
nắm trung đoàn thì Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng như hổ được trở về
rừng. Ngày nhậm chức đơn vị trưởng, ông ta gọi Trọng lên hỏi han tình
hình rồi kết luận:
- Anh muốn xin gì tôi không?
Trọng trả lời thẳng thắn:
- Thưa có hai chuyện!
- Chuyện thứ nhất?
- Xin Trung tá cho vài xe tôn và ván để tôi tu bổ khu gia binh
của gia đình binh sĩ lại. Thấy vợ con họ và họ lui cui trong mấy cái ổ
chuột sau những ngày hành quân tôi không nở...
Trung tá Sang mau mắn gật đầu, quay sang dặn dò người sĩ quan
phòng tư rồi hỏi tiếp:
- Chuyện thứ hai?
- Xin Trung tá cho bổ sung quân số của đại đội tôi được đầy đủ,
cho tôi có nhiều thì giờ một chút để huấn luyện lính tráng cho thuần.
Chúng nó thuần rồi thì nếu Trung tá có thả tôi ra... Hà Nội, tôi cũng bắt
sống được thằng Võ Nguyên Giáp đem về đây trình diện Trung tá...
Trung tá Sang cười hề hề:
- Chẳng hổ danh Cọp Đen. Khẩu khí dân Trinh Sát có khác.
Khi chia tay, ông vỗ vai Trọng cười:
- Tôi rất ngạc nhiên và chịu hai lời yêu cầu của anh, tôi sẽ cố
gắng.
Rồi ông bắt tay Trọng, cười cười hỏi:
- Tại sao người ta gọi anh là Cọp Đen?
- Thưa, nước da tôi hơi đen nên chọn danh hiệu truyền tin là Cọp
Đen cho nó ngầu. Chẳng ngờ anh em gọi mãi rồi tôi thành Cọp luôn...
Trung tá Sang giữ đúng lời hứa với Trọng. Mọi chuyện Trọng
xin đều được thỏa mãn. Nhờ đó, đại đội 45 trinh sát trở nên một đơn vị
thiện chiến nhất của sư đoàn. Nhờ ông trung đoàn trưởng biết xử dụng
đúng khả năng bất ngờ và cơ động hầu như chỉ bị giới hạn bởi tầm bay
trực thăng nên Trinh Sát của Cọp nhảy xuống đâu là giặc tan ra tới đó.
Đã có lần, một trung đoàn xe tăng của địch vừa tới vùng Tam Biên,
không kịp để chúng nó có thì giờ co cụm, Trung Tá Sang cho Trọng
nhảy ngay vào giữa bộ chỉ huy. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, lính của
Trọng bắt sống được 3 chiếc xe tăng của địch ở Võ Định. Trung tá Sang
hớn hở vô cùng, tính gởi một chiếc về Sài Gòn tặng tổng thống Thiệu
nhưng cuối cùng đành phải đốt bỏ vì không có phương tiện chuyên chở
kịp thời...
Hôm nay, đại đội chàng được điều động về đây sau gần một năm
trời hành quân khắp các nơi của vùng II chiến thuật vì một lý do đặc biệt.
Đặc biệt đến nổi Trung tá Sang cho trực thăng ra đại đội bốc chàng về để
gặp ông.
Trọng nhớ mãi lời nói thống thiết của ông trung đoàn trưởng bộ
binh chiều hôm qua ở bộ chỉ huy trung đoàn. Làm việc với nhau hơn một
năm, ông rất quí mến Trọng, coi như em. Trung tá Sang đã cầm hai vai
Trọng, giọng rất thành thật: "Tôi biết là tôi đã hứa với anh một tuần lễ
"ăn chơi chết bỏ" ở hậu phương. Anh xứng đáng, lính của anh xứng đáng
nhận được phần thưởng đó sau một năm trời hành quân cực khổ, nhưng
anh biết, chiến trường ở nước ta bây giờ, người ta không còn phần
thưởng hay ân huệ để ban tặng cho nhau nữa. Nếu anh biết được những
gì tôi biết, anh sẽ thông cảm tôi nhiều hơn. Áp lực của giặc cộng đầy dẫy
khắp nơi, trong khi mình hết lính rồi. Anh cố gắng đi. Tôi đã khéo xoay
sở lắm mới bốc được anh về nằm làm an ninh vòng đai cho tiểu khu Kon
Tum. Khu vực này trước kia do một tiểu đoàn địa phương quân chịu
trách nhiệm nhưng tôi đã đề nghị với tiểu khu trưởng Kon Tum rút họ đi
chỗ khác vì thấy họ làm việc không có kết quả. Anh dẫn đại đội về nằm
đây... trám chỗ cho tụi nó, vừa nằm dưỡng quân vừa giữ an ninh và vừa
canh giùm mấy cái họng pháo của chúng nó luôn..."
Sao mà lắm "vừa" thế này, Trọng thầm nghĩ. Phép đã không
được đi bây giờ còn phải dẫn lính vào rừng nằm vừa làm an ninh, vừa
canh pháo vừa trám chỗ, v.v. Mẹ kiếp cái cuộc đời của thằng lính bộ
binh, thật đen hơn cả mõm chó. Nhưng câu nói thống thiết "Chiến trường
ở nước ta bây giờ, người ta không còn phần thưởng hay ân huệ để ban
tặng cho nhau nữa..." của vị chỉ huy trưởng trung đoàn làm Trọng không
dám từ chối. Trọng biết Trung tá Sang nói thật.
Ông bảo sĩ quan phòng 2 đưa cho Trọng coi một tập hồ sơ về lai
lịch của cái làng Thượng. Đọc hết bản tóm tắt, Trọng được biết cái làng
Thượng này vốn được một ông linh mục người Pháp già rất khó tánh coi
sóc. Theo tin tức tình báo, ông cha Tây này không ưa người quốc gia,
thiên cộng nặng. Dĩ nhiên, sống ở một nơi hẻo lánh mà dám thiên cộng
và không ai dám làm gì thì phải có vũ khí bí mật. Cái vũ khí đó của ông
là sự liên lạc chặt chẻ với các nhóm chính trị thiên tả ngoại quốc và báo
chí khắp nơi trên thế giới.
Pháo binh chỉ rớt nổ gần làng một chút là vài ngày sau tòa thánh
La Mã, Dinh Độc Lập, toà Đại Sứ Mỹ đều nhận được kháng thơ của ông.
Báo chí thế giới, vốn từ lâu đã chẳng ưa gì mình, liền hùa theo làm rầm
rộ, tuyên án chính phủ gắt gao...
Dĩ nhiên, bị áp lực nặng nề như vậy, lệnh từ bộ tổng tham mưu
ban xuống: "Từ này về sau, đừng động đến chúng nó nữa."
Việt Cộng biết rõ chuyện này hơn ai hết cho nên chúng cứ kéo
pháo về gần làng bắn vào thành phố rồi bỏ chạy. Phi pháo ta đành chịu.
Để tạm thời giải quyết vấn đề, tiểu khu cho một tiểu đoàn địa phương
quân đến đóng ở gần đó để canh chừng. Nhưng quân số càng ngày càng
thiếu hụt, tiểu đoàn này đã được rút đi để trám cho những chỗ khác quan
trọng hơn. Khu vực trách nhiệm được giao cho trung đoàn 45 bộ binh.
Trong lúc hết quân, chẳng biết lấy quân ở đâu để trám vào chỗ này,
Trung tá Sang nghĩ đến Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng.
Đây là một vấn đề rất tế nhị, cần một người vừa có khả năng
quân sự vừa ngoại giao, vừa chính trị để giải quyết vấn đề. Trong các
thuộc cấp của ông, Trọng là người được ông đánh giá cao nhất. Trọng
không phải là một "simple" đại đội trưởng. Trong đơn vị, Trọng gây
được sự tin tưởng tuyệt đối của thuộc cấp. Nơi chiến trường, địch quân
nghe đến tên Cọp Đen là táng đởm kinh hồn. Trong những lần đóng quân
gần thôn xóm làng mạc, Trọng lấy được tình thương của dân chúng.
Trọng gấp tập hồ sơ hỏi trung tá Sang:
- Việc tréo cẳng ngỗng như vậy, Trung tá muốn tôi đem lính tới
đó làm gì?
- Đọc hồ sơ chắc anh biết rồi. Tôi muốn anh đem lính tới đó
đóng quân xa xa, cách làng chừng vài cây số để chúng nó sợ thôi. Coi
như đi nghĩ mát vậy mà.
"Coi như đi nghĩ mát vậy mà", Trọng nghĩ đến lời pha trò vô
duyên của cấp chỉ huy mình. Nụ cười của Trọng méo mó:
- Nếu tôi phát giác được súng của chúng nó đặt ở trong đó, tôi
kêu pháo binh tới dập được không?
Trung tá Sang giãy nẩy như người dẫm phải lửa:
- Không, không, dập con khỉ. Anh đọc hồ sơ rồi chắc biết. Cái
lệnh này đến từ bộ Tổng Tham mưu, đừng có cương bậy bạ mà đi tù hết
cả lũ.
- Vậy tôi phải làm gì?
- Ngay cả tôi cũng không có quyền quyết định. Anh cứ án binh
bất động, nếu phát giác pháo, anh gọi về cho tôi, tôi sẽ xin chỉ thị Sư
đoàn. Sư đoàn sẽ xin chỉ thị Quân đoàn rồi cho anh biết quyết định.
Trọng ngán ngẩm lắc đầu. Chờ lấy được cái quyết định của Quân
đoàn thì chúng nó đã thu dọn hết súng ống về nhà tắm rửa ăn cơm và
nhảy được vài bản "Sol Đố Mì" rồi...
- Tóm tắt, nhiệm vụ của anh là dẫn lính tới đó... cắm trại và nghỉ
ngơi. Đừng có lạng quạng mà thân bại danh liệt. Anh rán nhớ cho kỹ!
Trước khi từ giã để chàng leo lên trực thăng về đơn vị, ông nói
lời cuối:
- Anh rán nghỉ ngơi nhiều chừng nào tốt chừng đó. Không biết
tôi sẽ cần đến "thằng trinh sát" của anh lúc nào. Thôi nhé, rán nghỉ…
Thế là sau gần một năm trời sống mái với giặc trong khắp "hang
cùng ngõ hẻm" của rừng cao nguyên, đại đội trinh sát lừng danh của
Trọng lại lóc cóc leo lên xe GMC để được chở tới một điểm hẹn nằm
trên quốc lộ 14. Từ đây, người Thường Sơn Triệu Tử Long tân thời của
sư đoàn 23 bộ binh lầm lũi dẫn quân mình vào gần buôn Thra, đóng trên
một ngọn đồi để "trấn nhậm" khu vực trách nhiệm...
Chân bước đều nhưng đầu óc quyền biến của con cọp chuyển
động rất nhanh. Ngoài chuyện phải đi trấn nhậm một vùng đất mà mình
…không được làm gì cả, chàng còn phải lo tới một vấn đề khác là tinh
thần của lính đang xuống rất thấp. Mà thấp là phải. Đánh nhau cả năm
trời để rồi cuối cùng được "ăn Noel" bằng cách khăn gói quả mướp vô
làm an ninh và canh pháo vớ vẩn nơi một cái buôn Thượng ở chốn rừng
sâu núi thẳm như thế này thì ai mà ăn cho nổi. Dù quyết định không phải
ở nơi chàng, nhưng Trọng thấy phần nào mình cũng có trách nhiệm.
Chính mình hứa với chúng nó là Noel này sẽ về hậu phương "ăn chơi
chết bỏ" chứ đâu phải Trung tá Sang.
Bây giờ, nhìn thấy khuôn mặt không được vui tươi cho lắm của
đại đội phó, Trọng thông cảm liền. Người mà, ai chả vậy.
Đang còn phân vân thì Hoàng hỏi:
- Còn gì không Trung úy?
Trọng sực nhớ ra một chuyện, bèn nói:
- Bố trí xong, ông kiếm cho tôi một tiểu đội trang bị súng nhẹ để
đi theo tôi. Tôi muốn xuống dưới làng Thượng "thăm dân tình" một chút.
Tuy chỉ thị của Trung Đoàn Trưởng rõ ràng như vậy nhưng Cọp
Đen Nguyễn Văn Trọng là một cấp chỉ huy quyền biến và táo bạo, đã tìm
ra cho mình một quyết định riêng. Cọp đen này chẳng chơi gác ai cả
nhưng ai chơi gác Cọp Đen thì không được. Người ta cấm lính không
được vào làng nhưng chẳng ai có thể cấm một con chiên bước vào nhà
thờ. Nhà Chúa luôn luôn mở rộng cho tất cả mọi người dù người đó là
người Tây, người Thượng hay là người Việt Nam. Là người công giáo,
chàng quyết định đi thăm ông cha Tây một lần cho biết mặt một người đã
từng làm rúng động "cơ quan" quyền lực cao nhất của miền Nam Việt
Nam là Dinh Độc Lập.
Hoàng lại xoay người bỏ đi. Trọng nhìn theo cho đến khi bóng
Hoàng chìm xuống dưới đồi, suy nghĩ vu vơ...
Trời hôm nay đẹp quá, chỉ lác đác vào cụm mây mỏng trên cao,
khí trời lành lạnh của tháng 12 và ánh nắng vàng yếu ớt của vùng trời
cao nguyên làm tâm hồn người lính trẻ xa nhà cảm thấy ngất ngây. Đời
đẹp như thế này, giang sơn cẩm tú như thế này mà sao nước mình cứ mãi
điêu linh nhỉ? Trọng bất giác chợt nhớ đến thân phận mình, thân phận
của những người chiến binh như chàng...
Đi một vòng kiểm soát hầm hố của lính tráng và lấy mấy điểm
"hoả tập tiên liệu" để báo về Trung đoàn xong, Trọng trở về lều chỉ huy
ngồi xuống trên một khúc cây, đốt điếu thuốc, nhìn xuống khu thung
lũng trước mặt. Xa xa dưới chân chàng là hình ảnh mờ mờ của mấy chục
cái chòi thượng từ lâu vang danh là "bất khả xâm phạm". Vài cụm khói
nhẹ nhàng vươn lên, hiền hoà, bình lặng. Khung cảnh đẹp và trầm hùng
như một bức tranh.
Trọng ngồi im, say sưa nhìn ngắm cái làng với nhiều chuyện bí
mật như một con cọp ngồi nhìn một đối thủ để tìm thế tấn công...
Người hạ sĩ mang máy truyền tin của Trọng cũng ngồi xuống
bên cạnh ông thầy, cũng mồi một điếu thuốc, cũng nhìn về cùng một
hướng với Trọng. Rồi tự nhiên, hắn thở dài:
- Hôm nay là sắp tới "Nô Ên" rồi đó trung úy.
Dù trong thâm tâm đã biết là sắp đến Noel, Trọng cũng thấy nhói
trong tim khi nghe người lính nói vậy. Bố khỉ, vậy là thêm một cái Noel
nữa trong rừng thẳm. Trọng không còn nhớ đây là cái Noel thứ mấy
mình không được đi lễ nửa đêm, không được diện đồ đẹp để đi chơi với
đào, không được ăn Réveillon, không được đủ thứ...
Trọng chợt nhớ đến mùa Noel năm xưa, lúc chàng từ giã phố
phường, Phượng và tuổi học trò yêu dấu để lên đường đi lính.
Nghĩ đến Phượng, chàng nhăn mặt lại như vừa bị ai đấm vào
bụng một quả thôi sơn. Trọng thò tay vào túi áo, tìm gói thuốc...
Bàn tay thọc sâu trong túi áo jacket để tìm cái hộp quẹt, Trọng
chợt rờ thấy cái nanh heo rừng của Phượng tặng ngày nào...
Hai người quen nhau lúc còn đi học. Tuy chưa bao giờ giờ cầm
tay nhau để thổ lộ tâm tình nhưng cả hai đều biết trời sinh hai đứa để...
cho nhau. Đã có một thời Trọng ngây ngô nghĩ rằng mình sẽ... chết nếu
thiếu Phượng. Ngược lại, Phượng cũng đã nhiều lần nói với Trọng như
vậy. Dĩ nhiên, hồi đó hai người còn trẻ...
Rồi Trọng thi rớt tú tài II. Phượng khóc đến sưng mắt. Trọng
miệt mài mấy tháng học lại bài để thi lần hai nhưng vẫn rớt như thường.
Phượng linh cảm được chuyện gì không hay, ốm nặng.
Trọng bắt đầu biết uống rượu vào buổi tối hôm đi coi bảng.
Chàng lờ mờ nghĩ ra rằng cuộc đời mình kể từ hôm nay sắp bước vào
một khúc rẽ quan trọng. Như nhiều người... bình thường khác, chẳng ai
muốn bỏ cảnh hậu phương ấm êm để lăn mình vào lửa đạn và sương gió
làm gì. Nhưng Trọng nghĩ, nếu mình không được hoãn dịch thì đã làm
trai sinh nhằm thời loạn, cũng nên mặc áo nhà binh một lần để làm tròn
bổn phận. Chưa chắc đi lính đã là đường cùng...
Vì vậy, sau một tuần lễ nằm dài ở nhà giấu kín cái bản mặt "thi
rớt" cho thiên hạ khỏi thấy, Trọng đã làm quen được và chấp nhận số
phận của mình. Xuất hiện trở lại, chàng đến nhà thăm Phượng trước tiên.
Người làm Trọng ngạc nhiên đầu tiên là bố Phượng. Ông nhìn Trọng
bằng một cặp mắt khác xa lúc Trọng chưa thi rớt. Không thể đoán được
nhưng Trọng lờ mờ linh cảm rằng ông ta đã đặt rất nhiều hy vọng nơi
Trọng ở trường học. Ông ta mơ tưởng gì nơi mình Trọng không biết
nhưng chắc chắn hình ảnh đó phải lớn hơn hình ảnh một thằng lính bộ
binh nghèo đói, sống nay chết mai.
Cái giá của sự thi rớt quả thật là kinh khủng...
Phượng khuyên Trọng nên chạy giấy tờ giả để học thêm. Trọng
lắc đầu vì chàng biết có muốn chạy cũng chẳng có tiền. Phượng lại đề
nghị Trọng đi lính nghĩa quân hay lính... cảnh sát. Trọng chỉ lắc đầu cười
cười. Phượng lại khóc đến sưng cả mắt...
Ngày chia tay, Phượng bố trí để gặp Trọng một mình nơi nhà
con nhỏ bạn. Nàng muốn tặng Trọng cái quý nhất của đời nàng là thân
xác nàng nhưng không hiểu vì sao Trọng đã từ chối món quà vô giá đó.
Trọng nhất định không phải là thánh nhưng từ thuở nhỏ, bản tính
của chàng luôn luôn như vậy. Quan niệm sống của chàng là sống trọn
vẹn, vui trọn vẹn. Sung sướng gì khi được vui vầy một cách... chụp giựt
trong chốc lát để rồi có thể ngày mai có thể sẽ hối hận...
Hai người nằm im bên nhau, Phượng cứ lập lại câu nói: "Ngày
mai anh đi rồi, đi thật rồi..." Mắt nàng lúc nào cũng rướm lệ...
Trọng để một tay cho Phượng dùng làm gối, tay kia đốt hết điếu
thuốc này đến điếu thuốc khác. Mắt chàng ngây dại nhìn lên khoảng
trống trên trần nhà.
"Ngày mai anh đi rồi, đi thật rồi!" Sao tiếng Việt lại có những
câu đơn giản và buồn đến nát người như thế nhỉ, Trọng suy nghĩ...
Rồi Phượng hỏi:
- Sao anh không muốn... Phượng? Phượng dâng hiến cho anh
mà!
Trọng xoay người, nhìn thẳng vào mắt Phượng, lời nói như
muốn tắt nghẹn:
- Anh cám ơn Phượng nhưng anh không muốn lợi dụng Phượng!
- Nhưng Phượng yêu anh, Phượng muốn cho anh! Mai anh đi rồi.
Trọng lắc đầu, khép đôi mắt lại, lòng chùng hẳn xuống làm như
sắp khóc:
- Ừ mai anh đi, nhưng làm vậy có ích gì đâu Phượng? Lỡ có
chuyện gì cả ba đứa mình đều khổ.
Nghe Trọng dùng chữ "Ba đứa mình", Phượng không hiểu được
nhân vật thứ ba là ai. Nhân vật ấy chưa hề có, chưa bao giờ xuất hiện hay
là ai Phượng không biết nhưng cũng chẳng thèm hỏi.
Trọng dụi điếu thuốc, kéo Phượng sát vào người mình. Chàng
vừa vuốt tóc Phượng vừa nói nhỏ:
- Đừng nói chuyện "đi" nữa Phượng, chuyện "đi" nghe buồn quá.
Mình nói chuyện "về" đi.
- Ừ! Vậy chừng nào anh về?
Trọng nghẹn họng. Khoá sĩ quan Thủ Đức cộng thêm khoảng
thời gian ở Quang Trung và các trung tâm chờ đợi sớm gì cũng mất hết
một năm. Một năm tức 12 tháng tức 365 ngày vắng bóng Phượng, chỉ
nghĩ đến đó thôi Trọng đã thấy tái tê người. Mình mà còn thấy tái tê thì
Phượng chịu gì nổi? Trọng đành phịa:
- Vài tháng.
- Vài tháng là mấy tháng hở Trọng?
- Nhiều nhất là 6 tháng.
Phượng ụp mặt vào ngực Trọng, giọng nàng lạc đi:
- Trời hỡi trời, tôi làm gì cho hết sáu tháng trời không có Trọng
đây hở trời?
Trọng mím chặt môi. Một cảm giác vừa sung sướng vừa buồn
phiền dâng lên trong lòng chàng. Sung sướng vì câu nói ấy chứng tỏ
nàng yêu mình hơn chàng nghĩ. Buồn phiền bởi Trọng biết 6 tháng sau
chàng cũng chưa thể trở về được.
Rồi Trọng nghe được được tiếng khóc nho nhỏ của nàng...
Không có can đảm nằm nghe Phượng khóc, Trọng vỗ vào vai
Phượng mấy cái rồi rút tay ra...
Như một cái máy biết cử động, chàng từ từ đứng dậy mở cửa sổ
nhìn ra ngoài. Thành phố Nha Trang vừa lên đèn. Tiếng xe cộ ồn ào
ngoài đường vọng vào phủ kín tâm hồn Trọng. Nghĩ ra một điều gì,
chàng nhăn mặt lại. Lạ thật, bao nhiêu năm qua sinh ra và lớn lên ở thành
phố này, Trọng có bao giờ thèm để ý đến những thứ tiếng động ồn ào
này. Chiều hôm nay, tiếng động vô tri mà sao nghe thấy nó dễ thương chi
lạ. Dễ thương và đầm ấm lạ lùng.
Trọng suy nghĩ rồi bỗng gật gù cái đầu. Thì ra là hễ cái gì mình
sắp mất cũng đều trở nên quý giá cả. Từ cảnh vật cho đến con người...
Trọng bắt chiếc ghế kê gần cửa rồi ngồi im nhìn ra ngoài đốt
thuốc lá. Suốt từ sáng đến giờ chàng đã đốt hết năm gói rồi mà sao vẫn
hút được mới là kỳ.
Phượng cũng đã thôi khóc, đứng im sau lưng Trọng không biết
từ lúc nào. Nàng nắm chặt lấy tay Trọng như cố truyền vào đó tất cả
những nhớ thương của mình trước giây phút chia tay. Trọng quay lại, cố
điểm một nụ cười, nhìn thật gần vào đôi mắt long lanh của Phượng:
- Đừng buồn quá Phượng, em phải nhìn vấn đề một cách lạc
quan. Biết đâu chừng trong lúc khám sức khoẻ, người ta sẽ tìm thấy một
cái bệnh gì đó trong người anh rồi đuổi cổ anh về, không cho đi lính nữa.
Phượng hớn hở:
- Anh mà bệnh gì? Nghĩ ra một chuyện, Trọng bật cười lên:
- Anh nghĩ chắc anh bị bệnh... bất lực.
Phượng có cảm giác là Trọng chỉ đùa với mình, nhưng vẫn nuôi
một hy vọng nhỏ trong lòng, hỏi dồn dập:
- Anh bị bất lực thật không, hay anh chỉ đùa?
- Thì em nghĩ xem, nằm gần bên em hấp dẫn và ngon lành như
thế kia suốt cả một buổi chiều mà anh không thèm xơ múi gì hết, cái này
không gọi là bất lực thì gọi là gì, hì... hì...
Đang buồn nẫu người mà Phượng cũng phải phì cười, đưa tay
đấm vào vai Trọng:
- Gọi là... ngu. Anh này hay thật, chết đến nơi mà vẫn còn đùa
được...
Có lẽ Phượng yêu Trọng cũng ở cái tính lạc quan yêu đời và hay
tếu này.
Trọng tiếp:
- Đùa thôi! Nhưng biết đâu chừng, ra trường rồi anh sẽ được đổi
về lại Nha Trang. Hai đứa mình lại sum họp mấy hồi...
Phượng lại cười. Cái nhìn lạc quan thứ hai này coi có thể dễ chấp
nhận hơn cái bệnh bất lực vớ vẩn. Ừ, Phượng nghĩ, tại sao mình không
nhìn vấn đề một cách lạc hơn nhỉ? Nước mình bây giờ mỗi ngày có hàng
trăm ngàn người ra đi, đâu phải ai cũng chết hết.
- Từ lúc nhỏ, anh học được một cách sống rất hay. Đó là trong
bất cứ một hoàn cảnh nào, mình cũng phải tìm cách nuôi cho mình một
hy vọng. Ngày nào con người còn nuôi hy vọng, ngày đó cuộc đời còn
đáng sống, đáng phấn đấu...
Hai người ngồi nói chuyện mãi rồi cũng đến lúc chia tay.
Phượng cầm hai tay Trọng, run run nhét vào đó một vật nhỏ bọc khăn mu
soa. Trọng dở ra xem, thì ra cái nanh heo rừng. Không biết cái nanh đã
cũ bao nhiêu năm nhưng đã lên nước rất bóng loáng.
- Em đào đâu ra được thứ này vậy?
- Nanh heo rừng đó, linh lắm, của bố. Người ta nói ai đeo nanh
heo rừng thì đạn sẽ bắn không trúng. Ngày xưa bố đi lính, nhờ nó mà
đánh bao nhiêu trận không bị hề hấn gì.
Trọng cười, chàng chẳng bao giờ tin những cái vớ vẩn như vậy
nhưng cũng hít hà ra vẻ mừng rỡ để Phượng vui lòng.
- Bố cho anh à?
Phượng lắc đầu, cười:
- Không, Phượng... lấy trộm. Cái này để trên bàn thờ, quí lắm,
sức mấy mà bố cho. Phượng lấy đại để cho anh, mong anh được bình an
như bố...
Rồi Phượng khóc. Mới đầu chỉ ấm ức nhưng rồi nàng khóc oà
lên. Suốt đời Trọng, chàng chưa bao giờ nghe nhiều tiếng khóc bằng
buổi tối hôm đó...
Bây giờ, ngón tay chạm chiếc nanh heo rừng, hình ảnh Phượng
ngày nào lại trở về trong trí chàng...
Dặn dò những điều cần thiết với Hoàng xong, Trọng dẫn lính
xuống ngọn đồi, tiến về phía làng Thượng. Chàng ngạc nhiên khi nhận
thấy lác đác đó đây trên con đường đất đỏ có những đống đá xanh mới
tinh vun cao. Tại sao lại có những đống đá xanh mới tinh chất bên đường
như thế này, Trọng nhíu mày suy nghĩ.
Tới gần hơn chút nữa, Trọng nhận ra một ngôi thánh đường
vươn hẳn lên giữa những dãy nhà sàn lụp xụp. Tuy nhà thờ được cất
bằng gỗ và gạch sơ sài nhưng nhìn rất đẹp mắt. Nhất là cây thánh giá trên
nóc giáo đường. Nó to lớn vĩ đại như muốn ôm ấp hết cả cảnh núi rừng
thanh tịnh ở chung quanh vào lòng mình.
Đang còn suy nghĩ thì Trọng nghe được tiếng đàn hát nho nhỏ
vọng ra từ trong làng. Tới gần hơn nữa, Trọng nhận ra tiếng hát đó là của
một ban hát hợp ca, và hình như phát ra từ một căn nhà lợp mái tranh ở
bên cạnh ngôi giáo đường, gần phía ngoài làng.
Tiếng hát vang lên khi trầm lúc bỗng, khi nhẹ nhàng, lúc dồn dập
giữa một nơi đồng không mông quạnh làm mọi người đều thấy thích thú.
Thật là một bất ngờ thú vị. Ai lại ngờ có thể nghe được những tiếng hát,
mà lại là tiếng Việt Nam phát ra từ trong một buôn Thượng. Bài hát này
Trọng nghe thấy quen quen nhưng nghĩ mãi không ra. Rõ ràng điệu nhạc
là một điệu giật gân, hình như "cha cha cha" thì phải nhưng lời hát lại là
một bài hát đạo. Trọng nghe câu được câu mất nên càng để ý lắng tai
nghe...
Cách cổng làng chừng vài trăm thước, Trọng cho lính dừng
bước, đứng yên quan sát một vòng. Và những điều Trọng nhìn thấy và
ghi nhận từ sáng đến giờ chứng tỏ tình báo của sư đoàn nói đúng. Việt
cộng rất có thể kiểm soát ngầm được khu làng này. Trong khi đó, quân ta
bị bó tay.
Giờ này làng có vẻ vắng, hình như người lớn đi làm rẩy chưa về.
Một đám con nít trần truồng đang nô đùa, nhìn thấy người lạ mặt liền ùa
tới nhưng không dám ra khỏi làng, chỉ đứng xa xa ngó. Đó đây, một vài
con trâu con bò nằm im lặng một cách nhàn nhã.
Trọng vẫy tay chào bọn con nít rồi quay sang bảo người tiểu đội
trưởng đi theo mình:
- Như tôi đã nói hồi sáng với anh em, cái làng Thượng này
không giống bất cứ cái làng nào mà mình đã hành quân qua. Các anh mà
làm bể một viên gạch thì ngày mai nó kiện tới... Dinh Độc Lập. Bây giờ
mấy anh ở ngoài này... chơi, để một mình tôi vào làng thăm cha xứ.
Người tiểu đội trưởng nhìn Trọng ái ngại ái ngại:
- Trung úy nên dắt theo vài người, lỡ có chuyện gì...
Trọng cười, rán pha trò một câu cho không khí bớt căng thẳng:
- Ông có nghe được tiếng hát lúc nãy không? Chẳng có gì đâu.
Việt Cộng đâu có hát hay như vậy được...
Nói xong Trọng cởi giây đeo súng Colt của mình đưa cho người
hạ sĩ quan mang máy:
- Ông trực máy ngoài này, có gì chạy vào kêu tôi. Mấy ông cứ
tản mát ra đi ngắm trời ngắm đất cho vui, nhưng phải luôn luôn đề cao
cảnh giác và nhớ kỹ lời tôi nói, không được động đến một ngọn cỏ của
cái làng này.
- Trung úy lận cây Colt theo cho chắc ăn trung úy.
- Không! Khách lạ đến thăm một nơi mình chưa quen biết mà
trang bị súng ống đến tận răng thì khó mà gây được cảm tình. Hơn nữa,
nếu có Việt Cộng trong làng thì một cây Colt cũng không bắn lại chúng
nó... Rồi bây giờ anh em tản mác ra đi, nhớ đừng có gây sự với ai cả...
Trọng xoay người, ước lượng khoảng cách từ chỗ chàng đứng
đến căn nhà tranh có tiếng hát phát ra rồi chầm chậm bước tới. Chàng rán
làm ra vẻ nhàn nhã tĩnh táo như một người du khách đi dạo nhưng tim
vẫn đập lên từng hồi, mồ hôi ở trán và ở cổ rịn ra. Trọng rán không nghĩ
đến cảnh ở một căn nhà sàn nào đó, tự nhiên mọc ra một... họng súng
A.K., nhắm vào người chàng nổ ròn rã. Chết mà không cầm được cây
súng trong tay để bắn lại kẻ thù gọi là chết ngu. Hình ảnh đó làm Trọng
giựt mình. Mình ngu thật, hết chuyện làm rồi tại sao lại quyết định khơi
khơi vào đây một thân một mình như vậy? Tại sao mình lại có thể ngu
dại như thế nhỉ?
Hay bây giờ rút lui cũng còn kịp. Bước chân Trọng trở nên chậm
lại với ý nghĩ này. Nhưng đã mang danh là Cọp Đen, ai lại bỏ cuộc nửa
chừng như vậy. Lính tráng sẽ đồn rầm lên là "Ông thầy lạnh cẳng, đi nửa
chừng đổi ý, không dám vô làng..." Trọng hiểu chuyện mua danh ba vạn
bán danh ba đồng xảy ra rất thường. Nhưng làm người, ai lại chẳng sợ
chết...
bị dằn vặt giữa hai quyết định không chọn được nhưng cặp chân
vẫn từ từ cất bước. Những bước chân nặng chĩu đúng nghĩa..
Ngay lúc ấy, từ căn nhà mà chàng đang lấy hướng đi tới vẳng ra
tiếng hát, âm thanh huyền bí quyến rũ và an hòa như một điệu nhạc đến
từ cõi trời cao thăm thẳm: "...Để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem
chân lý vào chốn lỗi lầm..."
Tự nhiên, Trọng thấy lòng mình trở nên nhẹ nhõm. Một niềm
hạnh phúc lâng lâng không cắt nghĩa được từ đâu phủ kín trái tim chàng.
Trọng thấy ngất ngây trong tiếng nhạc, chân cất bước mạnh dạn, chẳng
còn thấy e dè sợ hãi gì cả...
Càng tới gần, tiếng hát càng trở nên rõ ràng, thanh thoát...
Và Trọng chợt khám phá ra vì sao tiếng hát đã làm cho chàng lấy
được sự tự tin, sự bình an trong lòng. Đây là bài hát "Kinh Hoà Bình"
của thánh Phan xi Cô mà thuở nhỏ chàng rất thích. Mỗi lần đi lễ nghe
người ta hát bài này, lòng Trọng luôn luôn như muốn chảy ra...
Rồi Trọng nghĩ tiếp, quái lạ, bài này là một bài hát chậm, rất
chậm, không hiểu ai lại biến chế để hát nhanh như vậy. Hay cả nước bây
giờ đang hát mau như vậy cũng nên, Trọng suy nghĩ. Có lẽ lâu quá mình
không đi nhà thờ nên không biết đến những thay đổi...
Trọng đã đứng trước căn nhà phát ra tiếng hát mà không ai hay
biết. Từ ngoài nhìn vào, chàng nhìn thấy một người mặc áo chùng đen
xây lưng cầm cây đờn đứng giữa một đám thanh thiếu nhiên đứng ngồi
ngổn ngang. Trọng lặng thinh theo dõi...
- Nào bây giờ chúng mình vô lại nhé, nhớ nghĩ một temp ở chỗ
đó chỗ đó ... Một hai ba bốn năm... một... Lạy Chúa từ nhân xin cho con
biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người... Chát chát... chình
chình chình...
Trọng cười. Chàng đã đoán không sai. "Chát chát chình chình
chình" là điệu cha cha cha. Tiếng hát tiếp tục vang lên dồn dập:
"...để con đem tin kính vào nơi nguy nan đem trông cậy vào nơi
thất vọng..."
Trọng đứng ngây người giữa trời. Gió cao nguyên của buổi trưa
mùa đông thổi vi vu nhẹ nhàng như quyện với tiếng hát để phủ kín lấy
người chàng, thấm sâu vào trong từng thớ thịt, từng khúc xương, từng tế
bào. Một bài hát chậm hát mau mà không ngờ hay như vậy làm lòng
chàng như bay vút lên cao...
Tự nhiên, Trọng thấy mình không còn là một Cọp Đen lừng danh
đánh giặc tới nhất của sư đoàn 23 bộ binh nữa mà là một cậu học trò
Nguyễn Văn Trọng bé bỏng ngày nào của thuở học trò, của những ngày
xanh vô tội, của những ngày quê hương còn thanh bình yên ấm.
Tiếng hát lại vọng ra nhịp nhàng, ấm cúng:
"...để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u
sầu..."
Bị lôi cuốn bởi tiếng hát, Trọng từ từ tiến tới đứng sát bên cửa
lúc nào mà không hay. Chàng ngạc nhiên khi nhìn thấy người mặc áo
chùng đen là một linh mục người Việt Nam rất trẻ, chắc chỉ hơn chàng
chừng 5 tuổi là cùng...
Vậy còn ông cố đạo Tây khó tánh đã làm điên đảo Dinh Độc Lập
như lời ông trung đoàn trưởng mô tả đâu rồi nhỉ? Trọng thấy mừng vì
mình đã quyết định một thân một mình vào đây. Ít nhất, cho đến giờ phút
này, chàng thấy làng này cũng bình thường như đa số làng khác...
Nghĩ đến người linh mục trẻ tuổi ở một xứ đạo người Thượng
hẻo lánh, Trọng tự nhiên thấy thương ông ta. Trẻ tuổi... hát hay như vậy
mà phải chôn đời mình ở một nơi như thế này thì chắc là buồn lắm.
Trọng nhớ đến cũng hình ảnh này của các ông cha khác nơi những
Vương cung thánh Đường nguy nga đồ sộ, với những ca đoàn viên ăn
mặc sang trọng và đẹp như tiên nữ. Những tiên nữ đi tập hát có tài xế
chở đi bằng xe Mercedes, xe Hoa Kỳ mới tinh bóng lộn...
Hết bản nhạc, biết có khách đứng ở ngoài, người linh mục nói
vài điều với các em ca đoàn rồi bước ra tiếp Trọng. Nụ cười chân thật
tươi tắn của vị linh mục nở dưới gọng kiếng trắng dày cộm làm Trọng có
cảm tình ngay từ giây phút đầu tiên:
- Chào ông, ơ xin lỗi, chào Trung úy! Tôi là cha Thanh.
Còn biết gọi mình là trung úy thì chắc chưa đến nỗi nào. Trọng
đứng nghiêm, chào rồi đưa hai tay bắt tay Cha Thanh:
- Kính chào cha, con tên là Trọng, cha cứ gọi là Trọng. Ca đoàn
của cha hát hay quá.
Cha Thanh cũng đưa hai tay ra bắt lấy tay Trọng:
- Anh quá khen, tôi rán tập cho kịp để chúng nó hát lễ Noel đấy
mà.
Trọng dùng bài hát làm đề tài để bắt chuyện:
Thưa cha lúc nhỏ con đi nhà thờ, cũng nghe hát bài này hoài
nhưng người ta hát... khác.
Cha Thanh bước ra khỏi nhà, cười hềnh hệch sảng khoái, rất tự
nhiên:
- Anh cũng có đạo à? Thế thì tốt quá. Anh nói đúng, bài "Kinh
hòa bình" đúng ra phải hát chậm nhưng các em đề nghị "phan-ta-di" ra
như vậy. Tôi hát thử thấy hay nên tập cho các em hát luôn.
Cha Thanh cởi mở và hồn nhiên thật. Mới nói chuyện mà chàng
thấy như hai người đã quen nhau lâu lắm rồi. Trọng cười, hỏi tiếp:
- Cha làm vậy không sợ mất vẻ nghiêm trang à?
Thanh lắc đầu:
- Thiên Chúa quyền uy cao cả, ngài không chấp nhất những
chuyện nhỏ mọn.
- Cha hút thuốc?
Cha Thanh tỉnh bơ đưa tay rút một điếu thuốc do Trọng mời,
khum người mồi lửa:
- Cám ơn anh. Sáng giờ cũng đang thèm thuốc.
- Cha "đóng" ở đây lâu chưa?
Cha Thanh cười:
- Đúng ra xứ đạo này do một ông cha người Pháp trông coi. Ông
ta về Pháp nghỉ lễ hai tháng nên tôi được cử về đây tạm thời thay thế.
Nhà xứ tôi cũng ở đây không xa, trong thị xã Kon-Tum.
Mặt Trọng trở nên hớn hở. Thì ra vậy. Một thắc mắc trong đầu
Trọng đã được giải quyết thỏa đáng. Cha Tây khó tính vắng nhà, cha
Việt Nam... dễ thương thay thế tạm. Vậy thì mình phải khai thác mới
được.
Như đọc được những ý nghĩ trong đầu Trọng, cha Thanh cười
hỏi:
- Anh đến đây chơi hay có việc gì không?
Trọng không biết trả lời sao. Khó nói quá. Chẳng lẻ lại nói huỵch
toẹt là cha biết chúng nó …giấu súng ở đâu không, hay làng này có chứa
thằng Việt Cộng nào không?
Cha Thanh biết Trọng đang bối rối, bèn hỏi:
- Anh uống cà phê? Nếu rảnh mời anh lên nhà ngủ, tôi mời anh
một ly cà phê, mình nói chuyện chơi...
Còn gì bằng, Trọng hân hoan nhận lời.
Đám thanh thiếu niên đoàn hát bây giờ đã ùa ra ngoài. Chúng nó
khoảng 10 đứa. Một nửa là Việt Nam, một nửa là Thượng. Trọng để ý
thấy đám thiếu niên người Thượng ăn mặc bảnh bao hơn đám Việt Nam
nhiều. Đứa nào cũng quần jean áo nhập cảng từ ngoại quốc, còn Việt
Nam chỉ mặc quần đen nội hóa với những chiếc áo trắng đã ngã màu.
Cha Thanh bảo chúng bằng tiếng Việt trước rồi phụ đề tiếng
Thượng sau:
- Cha có khách tới bất ngờ phải tiếp. Chúng con chuẩn bị xe... bò
để chờ cha. Lát nữa cha xuống chúng mình đi.
Cha xứ Tây ở một căn nhà gạch rất tiện nghi với phòng ăn,
phòng ngủ và cầu tiêu đầy đủ.
Trọng ngồi nơi bàn ăn chờ cha Thanh pha cà phê. Nhìn đồ đạc
bày biện trong phòng, Trọng cảm thấy làm người... Tây phương sướng
thật. Không, đúng hơn phải nói làm dân của một nước văn minh sướng
thật.
Hai người ngồi trong phòng ăn uống cà phê nhìn ra ngoài. Trọng
làm một hớp cà phê:
- Ở trong rừng mà có được một ly cà phê ngon như thế này thì
thật là hạnh phúc.
- Cà phê Ban Mê Thuột nổi tiếng thế giới. Tôi ghiền cà phê này
đến độ hồi còn học ở bên Pháp, mẹ tôi cứ vài tháng phải gởi sang cho tôi
chừng năm ký...
Lại thêm một yếu tố mới làm Trọng ngạc nhiên, chàng bám ngay
đề tài:
- Cha đã du học ở Pháp?
- Gia đình tôi gởi tôi đi du học rồi tôi được ơn kêu gọi bên đó.
Chịu chức xong tôi xin về nước để phục vụ...
Nói đến đó, cặp mắt của cha Thanh như thoáng lên một chút
buồn phiền. Trọng không hiểu vì sao nhưng trong lòng thấy hơi bối rối.
Chàng chẳng lạ gì tinh thần thiên cộng của cái đám sinh viên quốc gia
được bố mẹ gởi đi du học ở ngoại quốc. Sinh ra và lớn lên trong nhung
lụa, lại ra đi quá sớm, họ dễ bị đạo binh tuyên truyền của Cộng Sản đầu
độc. Cha Thanh có phải là một trong cái đám này không, Trọng tự hỏi?
Tại sao lại "tình nguyện xin về nước phục vụ?", rồi lại phục vụ đúng
ngay trong một cái làng Thượng nổi tiếng là "Việt Cộng" này. Tuy có
cảm tình với cha Thanh nhưng chàng cũng thấy hơi ngờ ngợ trong người.
Giọng của Trọng có vẻ hơi bớt thân mật đi chút ít:
- Bên Pháp vui không cha?
- Nếu như đi du lịch chừng vài tuần thì nơi nào cũng vui cả.
Nhưng ở lâu rồi thì anh mới thấy là không chỗ nào bằng quê mình được,
không người nào bằng người mình được, không có tình thương nào bằng
tình thương Việt Nam được...
- Ý con muốn nói, thưa cha, là ít nhất, bên đó họ thanh bình,
không có chiến tranh. Sống trong một nước hoà bình chắc sướng lắm...
- Tôi nghĩ là hòa bình hay chiến tranh bắt đầu từ ở con người.
Con người gây ra được chiến tranh thì con người cũng làm được hòa
bình. Một con người hoà bình sống giữa chiến tranh vẫn thấy mình an
bình. Ngược lại, một con người háo chiến sống giữa một miền đất hòa
bình vẫn không có hòa bình.
Bây giờ thì Trọng thấy khó chịu thật. Giọng điệu này đúng là
giọng điệu tuyên truyền ru ngủ mà bọn Cộng Sản thường dùng. Ông cha
thiên Cộng này muốn chửi bọn chúng mình là háo thắng đây chăng? Sao
ông ta không biết là nếu Việt Cộng rút quân về Bắc, đừng xâm lăng nữa
thì đất nước sẽ thanh bình liền...
Nghĩ vậy nhưng Trọng biết chuyện làm của mình. Mình không
đến đây để cãi lý hay làm mất lòng một ông nhà tu thiên Cộng trẻ tuổi từ
Pháp mới về. Mục đích của chàng là tìm hiểu về cái làng này càng nhiều
càng tốt.
Nhìn mặt Trọng, cha Thanh chợt hiểu chàng có điều gì bất mãn
nhưng chưa tiện hỏi.
- Hòa Bình, ý con muốn nói là người ta không bị chết bất tử,
không bị cháy nhà bất tử, không bị pháo kích bất tử như cái thành phố
Kon Tum lâu lâu chẳng biết chúng nó đặt súng ở đâu mà cứ pháo vào
thành phố hoài, chúng con kiếm mãi không ra...
Cha Thanh nhìn đăm đăm vào Trọng một lúc rồi gật gù, cười:
- Tôi đã đoán là anh đến đây vì có một mục đích, nhưng không
sao, khi nào có dịp tôi sẽ cắt nghĩa cho anh hiểu...
Cha Thanh rót thêm cà phê cho Trọng:
- Anh uống thêm cà phê! Tôi ở đây ít khi gặp người Việt Nam
cùng tuổi để tâm sự. Người Việt chỉ có mấy đứa con nít trong hội hát,
người lớn toàn là Thượng. Họ nói tiếng Việt rất ít, chỉ nói tiếng Thượng
và tiếng Pháp...
Thì ra đã làm người, ai cũng có tâm sự, ai cũng biết vui biết
buồn. Cha Thanh cũng không tránh khỏi định luật này. Nói chuyện thêm
một lúc, thấy cha Thanh có vẻ thành thật cởi mở, Trọng hỏi:
- Thưa cha, chẳng dám giấu cha, đúng như ý cha đoán lúc nãy,
con muốn hỏi thăm cha một điều...
Hình như đã chờ câu hỏi này từ lâu, cha Thanh cười:
- Anh nói đi, xem thử có đúng như những gì tôi nghĩ không?
Thưa cha, cha ở xa về không biết, cái làng này xưa nay nổi tiếng
là một làng "bất khả xâm phạm."...
Cha Thanh cười:
- Bất khả với ai chứ với anh thì chịu. Nếu bất khả thật thì làm sao
giờ này anh vào đây để nói chuyện với tôi được?
- Thưa cha, con không biết phải giải thích thế nào nhưng cái làng
này có một ông cha Tây khó chịu lắm... Con không muốn đem vấn đề
quân sự ra nói chuyện với cha nhưng cha nghĩ xem, Việt Cộng cứ lâu lâu
kéo súng về đặt gần làng để bắn đi mà mình không làm gì được. Cha
nghĩ xem, họ đã ở trên đất nước mình, chẳng giúp gì được cho mình lại
còn đi che chở cho giặc... Cha là người Việt Nam, con nghĩ cha có thể
thông cảm được với con...
Trọng nhìn cha Thanh hồi hộp chờ câu trả lời. Giọng cha Thanh
nghiêm trang:
- Vậy theo ý anh, chúng tôi phải làm gì?
chữ "chúng tôi" xác định một sự "đoàn kết khắng khít" với nhau
mà Trọng rất sợ. Chưa kịp trả lời thì cha Thanh tiếp luôn:
- Trước hết, anh Trọng à, tôi xin xác nhận với anh là làng này
không chứa Việt Cộng. Tôi biết cha cố Pierre, ngài cũng không chứa
Việt Cộng...
Trọng thấy nhẹ nhỏm trong người. Chàng biết cha nói thật.
- Ngược lại, nói anh đừng buồn, chúng tôi cũng không thể làm
tay sai cho chính quyền. Chúng tôi biết Việt cộng thường đem pháo về
gần làng để bắn vào thành phố nhưng chúng tôi không thể báo cáo việc
này cho ai biết hết. Chuyện không phải của chúng tôi, chúng tôi không
để ý đến. Anh nên hiểu cho rằng, vấn đề ý thức hệ, vấn đề quốc gia hay
cộng sản không có trong đầu óc những người miền núi dốt nát này. Đối
với họ chỉ có vấn đề sống hoặc chết. Anh nghĩ xem, những người dân
một cổ hai tròng ở những vùng hẻo lánh như thế này không thể dứt khoát
theo một bên nào được. Theo quốc gia thì chết với Việt Cộng, mà theo
Việt Cộng thì cũng chết với các anh...
Cha Thanh nói đúng. Người dân ở những vùng xôi đậu luôn luôn
chịu một cổ hai tròng. Theo bên này thì chết với bên kia. Nếu mình
không bảo đản được an ninh cho họ 100 phần trăm thì cũng đừng mong
có sự trung thành 100 phần trăm.
- Tôi cũng đã nghe được những lời than phiền của bên quốc gia
mình về linh mục Pierre, ngài hay kiện lên tới toà thanh La Mã những
chuyện nhỏ nhặt không đâu. Thật ra, anh phải hiểu cho rằng, sống ở một
nơi xa ánh sáng văn minh thì đôi khi cũng phải làm dữ một chút mới dọa
được những ông tỉnh trưởng tham nhũng, những cấp chỉ huy lính bê bối.
Thành thật mà nói, những chuyện như thế làm sao tránh được trong cuộc
chiến....
- Thế Việt Cộng về bắn phá bậy bạ cha Pierre có kiện không?
- Kiện chứ! Kiện đứt đuôi con nòng nọc nhưng anh biết thế giới
cộng sản mà. Chúng nó che chở cho nhau không cần biết tốt xấu. Hơn
nữa, hệ thống thông tin tuyên truyền của cộng sản ở thế giới tự do rất
mạnh, chúng có thể phủ đầu những tin tức bất lợi cho chúng rất dễ dàng.
Trọng nghe đến đâu thì thấm đến đó. Cha Thanh mồi điếu thuốc,
nhìn đồng hồ rồi đứng lên hỏi:
- Anh nhìn tôi, anh có thể tin rằng một người như tôi, một người
mà gia đình đã bỏ cả quê hương, bỏ cả mồ mả tổ tiên để vào Nam tránh
hoạ cộng sản, thì có thể là một người bắt tay hay dung túng bọn cộng sản
được không?
Trọng thấy phấn khởi trong lòng và biết là đã đến giờ mình phải
ra đi. Chàng đứng dậy, lắc đầu:
- Không bao giờ.
Cha Thanh cùng Trọng bước ra cửa:
- Cám ơn anh đã thông cảm cho tôi và quan trọng nhất, cám ơn
anh đã có can đảm vào làng để nói chuyện với tôi. Nghĩ cũng lạ, người ta
cứ cho rằng làng này chứa Việt cộng mà xưa nay chưa có một người lính
nào dám vào làng này để tìm hiểu. Anh vào đây rồi, anh có thấy một cây
AK hay một cây B-40 nào giấu trong này không?
Trọng cười:
- Con chỉ thấy... thánh giá và... ca đoàn.
Cha Thanh cười theo. Hai người đứng ngoài bãi cỏ, cha Thanh
nói:
- Tôi muốn ở lại hàn huyên với anh lâu hơn nhưng có công
chuyện phải ra ngoài làng bây giờ, bọn nhỏ đang chờ. Anh còn đóng
quân ở đây, thỉnh thoảng ghé thăm tôi chơi.
Trọng móc bao thuốc lá mời cha Thanh một điếu rồi dúi nguyên
cả gói còn lại vào tay ông ta:
- Cha giữ lấy gói thuốc này mà hút, con còn nhiều.
Cha Thanh cầm bao thuốc lá, cười:
- Trung úy muốn "mua chuộc" tôi à?
Trọng cũng đùa theo:
- Một trong những điều tâm niệm của người chiến sĩ quân lực
VNCH là phải thương dân, giúp đỡ dân và bảo vệ dân mà cha...
Hai cả người cùng cười rồi chia tay nhau.
Trọng bình thản bước từng bước một ra bìa làng, lòng thấy nhẹ
nhỏm thư thái. Cuộc mạo hiểm của Cọp Đen coi như thành công ngoài
sức tưởng tượng. Lúc bắt đầu bước vào đây, chàng chỉ dám bước vì tiếng
hát, chẳng ngờ lại được gặp gỡ cha Thanh và được hiểu thêm nhiều
chuyện. Từ đây, cái nhìn của chàng về cái buôn thượng vang danh... Việt
Cộng này sẽ khác hơn.
Tới ngoài làng, Trọng cảm động khi nhận ra những ánh mắt lo âu
của thuộc cấp. Chàng cười xoà rồi dắt lính đi một vòng phía ngoài làng
để nghiên cứu địa thế.
Chàng để ý gần làng có một con suối không lớn lắm nhưng sâu
thăm thẳm, muốn leo xuống phải khó khăn vô cùng. Đi hết một vòng
quanh làng, trọng thấy tự tin hơn. Địa thế như thế này thì chúng không
thể kéo pháo về được, chỉ có thể đem súng cối và hoả tiễn về bắn quấy
rối. Cọp đen đứng trên một mô đất suy nghĩ. Cối thì cho chúng mày bắn
tới tết ông cũng cóc sợ, chỉ ngán chúng nó kéo hỏa tiễn 122 ly về. Hỏa
tiễn 122 ly là một thứ vũ khí khủng bố dân lành vì có tầm bắn xa, dễ cơ
động nhưng thiếu chính xác. Nhiều khi hỏa tiễn bay xa mục tiêu cả...
chục cây số vì dàn phóng được mấy ông chế ẩu tả cấp tốc bằng tre, cho
nổ mười quả một lần để rớt bừa bãi vào thành phố rồi bỏ chạy. Trọng đã
từng nhìn thấy cảnh những em bé mất đầu mất tay, những người dân lành
vô tội bị chết thảm thiết vì những trái 122 ly này.
Trọng lấy bản đồ ghi chép và đánh dấu những chỗ cần thiết rồi
dắt lính về. Trời đã về chiều, gió cao nguyên bắt đầu thổi lồng lộng đem
hơi lạnh từ trong núi ra. Ngày đầu tiên như vậy coi như là thành công quá
rồi. Trọng đếm từng bước một trên con đường đất, suy nghĩ vu vơ...
"Vậy là sắp tới Nô Ên rồi trung úy," câu nói vô tình của người
lính lại trở về với Trọng. Phượng giờ này chắc đang dạo phố phường hay
chuẩn bị bánh trái để đón lễ giáng sinh sắp tới. Không biết nàng có nghĩ
đến mình không nhỉ. Quái lạ, sau mấy năm tưởng đã quên bẵng người
con gái đó, không hiểu tại sao hôm nay mình lại nghĩ đến nàng tới mấy
lần. Trọng trầm ngâm suy nghĩ...
Thôi đúng rồi, mình từ giã nàng ra đi vào một mùa giáng sinh.
Đúng một năm sau, cũng vào mùa giáng sinh gió lộng như thế này, mình
đã trở về...
Mắt chàng thấy cay cay. Phượng ơi Phượng, Phượng đâu hiểu
anh vẫn còn yêu Phượng, mãi mãi yêu Phượng như thuở nào trước khi
anh đi lính...
Chuyện tan vỡ của hai người thật ra không biết phải đổ lỗi cho
ai. Nếu có Phượng tại đây, nàng sẽ nói là tại Trọng. Còn riêng Trọng,
chàng nghĩ chính Phượng là người... phải chịu trách nhiệm nặng nề.
Sau ngày từ giã nàng ra đi, những tuần lễ đầu, mỗi tuần Trọng
đều viết cho Phượng một lá thơ. Đó là những ngày còn nhàn nhã ở trung
tâm tuyển mộ nhập ngũ chưa vào quân trường. Ở đấy, người ta cho các
khoá sinh được sống một cuộc đời tương đối thoải mái để làm quen dần
với nếp sống nhà binh.
Hễ nhận được lá thơ nào là Phượng trả lời ngay lá thơ đó. Tình
yêu con gái chan chứa, nàng viết có khi dài đến 8, 9 trang giấy học trò.
Rồi Trọng vào quân trường Quang Trung, những lá thơ viết cũng vơi dần
theo vì chẳng có dư thì giờ. Thì giờ ngủ còn chưa có lấy thì giờ đâu để
viết. Tuy nhiên, Trọng cũng cố gắng mỗi tháng viết cho Phượng một lá.
Phượng là "gái bên song cửa" nên không thể hiểu được cái chuyện khó
khăn rất bình thường này của nhà binh. Nàng lại lãng mạn, đo tình yêu
bằng những lá thơ nên thấy tự ái mình bị va chạm nặng nề. Những lá thơ
trả lời của Phượng vì thế cũng lơi dần đi...
Rồi Trọng vào Thủ Đức, lò luyện thép gian khổ nhất và vĩ đại
nhất của giống dân da vàng thời đó, thì giờ càng trở nên eo hẹp. Thậm
chí đến việc đi ăn và đi... cầu mà cũng phải chạy vắt giò lên cổ thì làm gì
có thì giờ ngồi viết thơ cho Phượng.
Một ngày, Trọng nhận được lá thơ của mẹ già. Mẹ viết: "Hồi con
mới đi, Phượng ngày nào cũng đến chơi với các em con và thăm mẹ.
Nhưng đã mấy tháng nay mẹ không còn thấy Phượng đến nữa. Mẹ hơi lo
xa một chút, con đừng buồn. Mẹ không biết con có làm gì cho Phượng
nó buồn không. Con rán biên thơ thăm Phượng. Mẹ quí nó lắm, nó rất là
dễ thương..."
Trọng đang ngồi ôm cây M-16 gác tuyến một buổi chiều sau giờ
học, đọc thơ xong, nhớ nhà, nhớ Phượng, bất giác hai hàng nước mắt rơi
lả chả. Đồng thời, vốn là một kẻ ngang ngạnh bất khuất từ lúc nhỏ, Trọng
cũng thấy tự ái mình bị tổn thương trầm trọng. Nếu người ta không còn
yêu mình nữa thì thôi, mình không thể hạ mình để xin xỏ tình yêu. Nhất
là cái thứ tình yêu bạc bẽo chỉ có trên đầu môi chót lưỡi kia...
Vài tuần sau, lá thơ tiếp theo của đứa em gái mới xé nát linh hồn
Trọng: "Em thấy thầy Chương dạy toán hay đến nhà chị Phượng chơi
luôn. Một lần gặp em chị ấy bảo thầy Chương chỉ là người quen trong
gia đình... Em không dám nói gì vì em biết anh là lính xa nhà và nhà
mình lại nghèo nữa... Em nói cho anh biết vậy thôi, mong anh đừng buồn
và hãy rán bảo trọng tấm thân..."
Trọng gấp lá thư, cười méo mặt lại: "Con nhỏ này thật ngây thơ.
Tin sét đánh như vậy mà bảo người ta đừng buồn..." Nghĩ đến chuyện đã
gần ba tháng chưa nhận được thơ Phượng, Trọng quyết định ngưng luôn
thư từ với nàng.
Thật ra trong lúc đó, Phượng đang đau khổ vì tưởng Trọng lừa
dối mình. Trọng bảo đi học 6 tháng sẽ về, bây giờ gần cả năm rồi mà
chưa thấy tăm hơi gì cả. Thư cũng chẳng thèm viết về nữa.
Nhà Phượng quả có ông thầy giáo dạy toán tên Chương hay đến
chơi thật nhưng trong nhà chỉ có bố Phượng thích ông này, ngoài ra
chẳng ai ưa cả. Phượng biết mình. Phượng biết Phượng chỉ có thể yêu
Trọng mà thôi. Nàng thường nói đùa với mấy đứa bạn cùng lớp: "Tao có
nói với thầy Chương rằng, cũng như từ một điểm ngoài đường thẳng,
người ta chỉ có thể vẽ được một đường thẳng thẳng góc với đường thẳng
ấy và chỉ một mà thôi, trái tim tao chỉ có một hình ảnh Trọng và chỉ một
mà thôi..."
Tuy yêu tha thiết nhưng vốn được bố mẹ nuông chiều từ thuở
nhỏ, Phượng luôn luôn muốn được làm người quan trọng, muốn người ta
phải năn nỉ mình, muốn được có quyền uy ngay cả với người mình đang
yêu. Vì thế, tuy thư không thèm viết nhưng trái tim Phượng ngày nào
cũng như chảy ra khi nghe thấy có tiếng xe Honda ngoài ngõ...
Rồi một ngày gần lễ giáng sinh, mẹ Trọng sang báo cho Phượng
biết là: "Thằng Trọng mãn khóa rồi, thứ sáu này ra trường, thứ bảy nó sẽ
về đây bằng máy bay quân sự..."
Phượng mừng quá khóc rưng rức. Sáng thứ bảy, nàng "quên hết
hận thù" đến nhà bố mẹ Trọng để cùng ra phi trường đón Trọng. Cả nhà
chờ mãi đến tối chẳng thấy Trọng đâu hết đành lên xe ra về.
Riêng Phượng, nàng không thể tha thứ cho Trọng cái tội này
được. Nhưng nàng không biết rằng sáng hôm thứ bảy sau ngày lễ gắn
lon, Trọng hí hửng xách hành lý ra trạm hàng không dân sự Tân Sơn
Nhất để nghe một tin chết người: "Vì nhu cầu hành quân, các phi vụ
chuyên chở hành khách thông thường đã bị hủy bỏ..."
Đáng lẽ chàng nên ra đón xe đò về Nha Trang liền thì không đến
nổi nhưng chàng nán lại, hỏi người hạ sĩ quan hậu trạm về chuyến bay kế
tiếp. Hắn bảo có thể chiều nay...
Cái "chiều nay" của hắn kéo dài đến... hai ngày. Có 10 ngày phép quí báu
thì đã mất toi hết 2 ngày nằm chết dí một chỗ ở trạm hành không quân
sự. Trọng đi ra đi vào lẻ loi buồn khổ như một bóng ma, chẳng ai để ý
đến. Hoá ra cặp lon chuẩn úy vàng chóe trên cổ mất cả năm mới giật
được đối với thiên hạ chẳng ra cái thá gì cả. Nhưng chàng cũng tự an ủi
được phần nào khi nhìn thấy có vài ông trung tá đại tá cũng ngồi chờ
méo mặt ra...
Quân đội thật là tàn nhẫn và rắc rối!
Mãi chiều thứ hai, lúc Trọng đã bắt đầu có ý định bỏ đi đón xe
đò về thì người ta cho Trọng leo lên chiếc C-119 về Nha Trang.
Nhìn lại thành phố cũ sau một năm đã mừng, nhìn lại căn nhà cũ
nơi mình đã sinh ra và lớn lên còn mừng hơn. Trọng bước vào qua hàng
rào và chợt đau đớn nhận ra là nhà mình nghèo quá. Điều này phải đi lâu
ngày về nhà mới nhìn thấy được. Trong khi các nhà hàng xóm chung
quanh mọc lên nào trụ ti vi, nào xe gắn máy mới đậu trước nhà, nhà
Trọng nước sơn nước gỗ vẫn y nguyên như từ thuở chàng lên tám…/.
Lòng mẹ trong đêm Giáng sinh
Nguyễn Ninh Thuận
Tiết trời lành lạnh kéo dài gần hơn tháng nay…Mùa Đông rình
rập và lễ Giáng Sinh đến với Nam Cali. Không như mọi ngày, hôm nay
Thúy lười biếng thức dậy sớm. Nàng co rút người, cuốn tròn trong chiếc
mền để trốn cái lạnh và trốn sự cô đơn. Trong góc phòng ngủ, chiếc máy
sưởi nhỏ tỏa hơi nóng ấm áp khắp phòng …Cái ấm bên ngoài do máy
sưởi tạo ra không đủ sưởi ấm tâm hồn cô đơn trống trải buốt giá; nó đang
nặng trĩu trong lòng một thiếu phụ sống lẻ loi. Không chồng, không con,
không bóng người thân bên cạnh, lòng Thúy đầy ấp bao nỗi buồn phiền
lo âu…
Bên tai Thúy, chiếc máy thu thanh vẫn phát sóng đều đặn…Nàng
cố tình để âm thanh nhỏ suốt đêm như để lừa dối chính mình…Nàng
muốn tránh cái không khí vắng lặng trong căn nhà của đêm tịch mịch.
Thúy muốn lúc nào cũng có tiếng nói, tiếng cười, giọng hát, giọng hò rỉ
rả bên tai…để khi trở mình thức giấc trong giấc ngủ chập chờn, hay giấc
ngủ lười biếng đến, nàng vẫn nghe được tiếng người, nhằm an ủi mình
trong đêm dài vắng lặng cô liêu…
Thúy vén cửa sổ lên nhìn…bên ngoài một màu xám đục, trông
thật ảm đạm, khiến cho tầm nhìn của nàng bị giới hạn. Một lớp sương
mù dày đặc bao phủ khắp vạn vật. Hai hàng cây bên vệ đường trước nhà
chỉ thấy lờ mờ không rõ lắm! Chúng đứng im phăng phắc như đầu hàng
trước cái lạnh đang ôm cứng chúng. Nàng gió hôm nay có lẽ cũng lười
biếng thức dậy, hay nàng đang trốn chạy cái lạnh nên không chịu tung
tăng bay nhảy như mọi ngày!? Chẳng một chiếc lá nào được nàng gió
mơn trớn đùa giỡn tung lay. Con đường thật vắng lặng, buồn tẻ; nó đang
ao ước đón nhận những bánh xe ngấu nghiến chạy dài trên thân hình
chúng. Ông mặt trời như còn say sưa trong giấc ngủ hay mãi co ro vì thời
tiết lạnh đang bao phủ? Những tia nắng vàng như ẩn núp đâu đây, không
thấy xuất hiện nhảy múa nô đùa cùng nhau…Một sự vắng lặng vô cùng
đáng sợ đang vây kín quanh Thúy…Vạn vật buồn tẻ đang mong mỏi đón
chào một bình minh rộn rã đầy tiếng chim hót vui tươi. Thúy lầm thầm
cầu mong hôm nay sẽ được nắng ấm thật đẹp, sau một đêm dài đầy
sương mù bao phủ…Thủy vội vàng đóng ập cửa sổ lại để tránh cái buồn
bã bên ngoaì làm ảnh hưởng đến nội tâm của một người cô đơn. Để trốn
chạy nỗi buồn như đang rượt đuổi, Thúy vùng dậy thật nhanh vào phòng
tắm lo làm vệ sinh cá nhân & bắt tay vào việc lau chùi, dọn dẹp nhà cửa
cho sạch sẽ, ngăn nắp hơn. Đang mãi mê làm việc, Thúy giật mình khi
nghe tiếng điện thoại ở phòng khách reo vang lúc hãy còn quá sớm.
Nàng nhanh nhẹn bước đến nhấc ống nghe lên và lẹ làng cất tiếng…
- A lô! Xin lỗi ai ở đầu dây gọi đó!?
- Con gái của mẹ đây nè! Hôm nay mẹ có đi làm hay đi học
không hở mẹ? Tiếng Mỹ Hạnh con gái Thúy nhỏ nhẹ cất lên…
- Hôm nay mẹ không đi làm cũng chẳng đi học! À, có chuyện gì
mà con gọi mẹ sớm vậy? Thúy lo âu hỏi con gái dồn dập…
- Mẹ không bận bịu việc gì, thì con nhờ mẹ chịu khó đến nhà
giúp con trông chừng hai cháu nhé mẹ! Hôm nay cả hai đứa nhỏ đều
bệnh hết, nên chúng không đi học! Phần con công việc nhiều, nên không
nghỉ ở nhà được! Mỹ Hạnh mừng rỡ nói, như trút được lo âu…
- Vậy con muốn mẹ đến lúc mấy giờ nè! Với giọng âu yếm Thúy
nhỏ nhẹ hỏi con.
- Mười giờ con mới đến sở làm, Mẹ đến sớm giùm con nhé mẹ!
- Con yên tâm, mẹ sẽ đến sớm với mấy đứa cháu ngoại cưng yêu
của mẹ ngay bây giờ.
Thúy nhanh tay thu xếp công việc nhà và vội vã lái xe đến nhà
con gái. Bước xuống xe, Thúy hết sức ngạc nhiên trước quang cảnh trước
nhà con gái, nàng lẩm bẩm một mình…“Lạ chưa! Cảnh sân trước nhà
Mỹ Hạnh hôm nay sao lại thế này?! Lâu nay, cây cỏ vườn hoa lúc nào
cũng xanh tươi đầy màu sắc rộn rịp…Mà bây giờ sao nó tiêu điều ảm
đạm quá như vậy, cây cỏ héo úa, nhìn nó xác xơ như không còn sức
sống!?”
Thúy nhớ lại mọi năm…trên bãi cỏ xanh thẫm này, còn ba tuần
nữa mới tới lễ Noel là vợ chồng Mỹ Hạnh đã chưng bày một đàn nai lớn
nai nhỏ, con đứng con nằm chen chúc với hoa lá cây cỏ trông rất nhộn
nhịp. Rồi những chuỗi đèn đủ giăng ngang, giăng dọc. Tối đến cắm điện
vào, đèn đủ màu tự động chớp tắt trông rất đẹp mắt…Nhưng nay chỉ còn
chưa đầy một tuần lễ nữa Noel đến rồi, sao không thấy chúng chưng dọn
gì hết!? Trông thật thảm sầu…
Noel nay quá u sầu ,
Cửa nhà vằng lặng vì đâu hỡi người?
hàng nước mắt mẹ rơi,
xưa đâu có buông xuôi hoang tàn.
ngoài đèn đuốc sáng choang,
Bao nhiêu nai trắng nai vàng chớp lia…
Thúy mở cửa bước vào nhà…một khung cảnh bề bộn bày ra
trước mắt…Nàng ngao ngán lắc đầu thở dài & bắt tay vào dọn dẹp đồ
chơi của cháu ngoại vung vãi khắp nơi, từ phòng khách cho đến phòng
ăn cho gọn gàng. Thúy nhanh tay lùa tất cả đồ chơi vào phòng chơi của
cháu. Nàng lại thu xếp mấy cái gối, mển nhỏ vứt bừa bãi trên bộ xa lông
ở phòng khách & phòng sinh hoạt gia đình cho có thứ tự. Xong xuôi
Thúy mới xếp đồ chơi các cháu vào tủ đồ chơi và hộp đựng cho ngăn
nắp…Suốt hơn một giờ vật lộn với những chú mèo, chú chó nhồi bông,
búp bê và súng ống xe tăng đủ kiểu đâu ra đó, Thúy mệt đừ. Thở một hơi
dài, Thúy tự hỏi lấy mình “ Sao vợ chồng Mỹ Hạnh lại bỏ phế nhà cửa
như thế này? Chắc vợ chồng nó đã buồn giận nhau điều gì đây mà mình
không biết ?! Ví dầu chúng có buồn giận nhau cỡ nào thì cũng để mắt
vào nhà cửa chứ? Có đâu để con cái vứt đồ chơi bừa bãi đầy nhà, trông
thật hoang tàn như nhà không có chủ vậy?!”
Tiếng cửa phòng ngủ Mỹ Hạnh sịch mở, Mỹ Hạnh đi trước, hai
cháu nhỏ lúc thúc theo sau. Thúy chạy vội đến ôm hai cháu ngoại vào
lòng và đưa tay rờ lên trán hai cháu nhỏ một hồi rồi lên tiếng:
- Bé Ly Ly khá âm ấm. Alen thấy mát hơn, nhưng ho nhiều đó!
Xây qua con gái, nàng tiếp lời “Con hãy viết rõ ràng trên giấy
thứ thuốc nào uống trước sau, cách nhau bao lâu cho mỗi cháu để mẹ
theo đó cho chúng uống thuốc cho đúng liều lượng con nhé! Con dặn
miệng, sợ mẹ quên đi! …Mẹ mong các cháu ngoại mau lành bệnh để
chúng còn đón chào ngày Noel chậm chậm đến với Chúa hài đồng nằm
trong máng cỏ trong những thánh lễ trong nhà thờ gần nhà! Còn nữa
chúng sẽ tranh nhau sắp quà giáng sinh dưới cây thông mà mẹ thích ôm
các cháu vào lòng, nhìn vào những đôi mắt tròn xoe và tiếng reo mừng
khi bóc quà Noel! À mà sao đến hôm nay mà con chưa bày cây thông ra
phòng family room vậy con?!
Mỹ Hạnh lờ đi không trả lời những câu hỏi của mẹ mà chỉ vâng
lời Thúy lấy giấy ra viết với lời dặn thêm…
- Mẹ nhớ cho các cháu uống nước cam & nhiều nước lọc. Cứ
cách 2 giờ, mẹ cặp thủy đo độ nóng sốt để cho các cháu uống thuốc như
trong giấy con đã ghi rõ ràng. Cả đêm rồi con không ngủ được với hai
đứa nhỏ vì chúng nóng sốt nhiều…Hiện con mệt lắm, nhưng con phải cố
gượng đi làm.
- Chồng con không có ở nhà hay sao mà không phụ giúp con săn
sóc mấy đứa nhỏ lúc đau ốm vậy?! Thúy tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi con gái vì
biết Dũng chồng Mỹ Hạnh rất thương vợ và quan tâm đến con trẻ…
- Anh Dũng vẫn ở nhà. Anh ta không có đi đâu cả! Nhưng mấy
tháng nay anh ấy ngủ riêng phòng, nên con không muốn làm phiền anh ta
nữa…Con muốn tự tay con chăm sóc hai đứa nhỏ mà thôi! Lâu ngày
chày tháng riết rồi cũng quen thôi mẹ à!
- Như vậy là lâu nay vợ chồng con đã giận hờn nhau phải không!
Sao con không cho mẹ biết?
- Chúng con không còn nói chuyện với nhau nữa, thì có gì để mà
giận hờn nhau nữa hả mẹ! Trên pháp lý, tụi con đã thật sự ly dị gần cả
năm nay rồi mẹ à! Tạm thời, anh ấy vẫn còn chung sống trong nhà.
Nhưng từ nay, không ai đếm xỉa tới ai cả! Chúng con đã đồng ý chuyện
ai nấy lo. Không ai được quyền xen vào đời tư của ai hết!
Thúy biến sắc, nàng hốt hoảng và há hốc mồm ngơ ngác nhìn
đứa con gái cưng yêu của mình trân trân. Mặt mày Thúy choáng váng,
tay chân run lên đứng không muốn vững. Trước mắt Thúy đất trời như
quay cuồng, đảo lộn…Nàng tự nghĩ “ sự giận hờn như thế nào mà lại đưa
đến nông nổi như thế này!? ” Nàng quýnh quáng vồn vã hỏi con:
- Vợ chồng con giận hờn chuyện gì lớn lao lắm sao mà đưa đến
chuyện ly dị như thế hả con? Con hãy giải bày tâm sự cho mẹ nghe đi!
Sao lâu nay con không nói cho mẹ biết sớm, để mẹ tìm cách lựa lời dàn
xếp hòa giải cho hai con vui vẻ hòa thuận lại với nhau!
Mỹ Hạnh không muốn tâm sự với mẹ về chuyện vợ chồng nàng
hục hặc với nhau, hay thật sự nàng sợ trễ giờ đi làm nên lên tiếng với
Thúy:
- Thôi tới giờ con đi làm rồi, con phải thay quần áo và trang
điểm sơ để đi làm ngay kẻo trễ giờ. Nhờ mẹ trông hộ mấy đứa nhỏ giùm
con. Chuyện riêng tư của con, mẹ đừng hỏi tới làm gì! Mẹ cũng đừng can
thiệp vào chuyện của vợ chồng con nữa. Chồng con muốn có vợ khác cứ
để mặc anh ta hoàn toàn tự do, con không thể ở đời với người chồng như
vậy được nữa…
Vừa nói, Mỹ Hạnh vừa bước vội vào phòng riêng. Thúy buồn bã
nhìn theo con gái. Nước mắt nàng lăn dài trên đôi má. Có lẽ nước mắt đó
là nước mắt thương con, mà cũng là nước mắt tủi phận mình?!
Thúy lẳng lặng sắp xếp cho hai đứa cháu nằm nghỉ ờ xa lông,
nàng lên tiếng nghiêm khắc với các cháu…“ Đồ chơi của hai cháu bà đã
sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp đâu ra đó rồi! Từ nay các cháu thích chơi
món nào chỉ lấy món đó ra thôi, chơi xong để vào chỗ cũ. Các cháu
không được lôi hết ra một lúc bày ngổn ngang khắp nhà nhé! Bà dẹp
muốn hụt hơi luôn. Nếu cháu nào không vâng lời bà sẽ đánh đòn đau lắm
đó! Nhất là không được vất gối mền tùm lum bừa bãi khắp nhà cho quen
tính quen nết xấu đó…Dù còn nhỏ, nhưng các cháu phải tập tính kỷ
lưỡng gọn gàng và ngăn nắp bà mới thương, các cháu nhớ nhé!
Hai đứa cháu ngoại tiu nghỉu chỉ chỏ đổ lỗi cho nhau…Bé Ly Ly
liến thoắng lên tiếng trước:
- Anh Alen vứt gối đó bà!
- Em Ly Ly ném đồ chơi bừa bãi đó bà, không phải con đâu!
Không chịu thua đứa em lanh lợi, thằng Alen cãi lại…
Thay áo quần, trang điểm xong, Mỹ Hạnh bước ra ngoài nói với
mẹ không được tế nhị… “Mẹ phải nhỏ nhẹ khi nói với chúng. Mẹ lớn
tiếng nạt nộ, la mắng làm chúng sợ và không muốn gần gũi với mẹ nữa
đâu!”
Mỹ Hạnh vừa nói, vừa bước nhanh ra xe rồ máy lái đi. Thúy sa
sầm nét mặt, nàng cố nén lòng lắm mới không bật ra tiếng khóc và thầm
nghĩ…
…Mẹ dám tự hào rằng không có mấy người mẹ thương con,
thương cháu hơn mẹ đâu! Tình thương của mẹ dành cho các con thật bao
la không bờ bến. Lòng mẹ thương con, thương cháu không bút mực nào
diễn tả được! Mẹ thường cầu nguyện với ơn trên cho mẹ đánh đổi cuộc
sống hàng ngày và ngay cả sinh mạng của mẹ để cho gia đình con cháu
mẹ được hạnh phúc. Nếu có một phép lạ nào đó đánh đổi tính mạng mẹ
ngay bây giờ cho gia đình con được êm ấm trong ngoài, hai cháu ngoại
mẹ của mẹ được kề cận cả cha lẫn mẹ chúng, mẹ sẽ vui vẻ làm ngay,
không một chút do dự hay ngần ngại gì cả! Nhìn các cháu còn quá ngây
thơ, mẹ đứt từng khúc ruột. Chúng chạy nhảy vô tư chơi đùa, rồi không
biết tương lai sẽ ra sao một khi chúng bị mất vòng tay âu yếm, nâng niu,
bao bọc và che chở cả ngày lẫn đêm của cha mẹ chúng…
…Ngọc kia phải giũa phải mài
Vợ chồng mà nỡ giận hoài sao con?
Dầu gì cũng nghĩ đến con,
Theo cha mất mẹ vuông tròn được sao?
Theo mẹ, lòng trẻ dàu dàu,
Nhớ cha khôn xiết nghẹn ngào lệ rơi!
Thương con mẹ có mấy lời,
Muốn được hạnh phúc, bớt lời đắng cay…
Vì con, hãy nghĩ tương lai,
Cho con được sống chuỗi ngày ấm êm…
Bên cha bên mẹ êm đềm,
Cho con hạnh phúc triền miên với đời…
Mẹ rất thương các con, nhưng mẹ có cái lỗi là hơi nghiêm khắc
với con cháu trong việc giáo dục. Có lẽ một phần do mẹ chịu ảnh hưởng
của nền giáo dục mô phạm cổ điển, một phần do tánh mẹ quá nhút nhát
lo sợ mà ra, nên không cho các con ra ngoài đi chơi sợ bị tai nạn xảy
ra…
Hồng Hoa, đứa con đầu lòng của Thúy ra trường với mảnh bằng
dược sĩ. Hồng Hoa đã lập gia đình và có hai con, gia đình thật hạnh phúc
êm ấm hay thỏ thẻ cùng mẹ; “Nhờ mẹ răn dạy khó khăn, nên con mới có
được như ngày hôm nay, con cám ơn và mang ơn mẹ rất nhiều…”
Thúy thầm hãnh diện với đứa con gái đầu lòng của mình. Hồng
Hoa rất ít nói, tánh tình thật đoan trang, ngoan ngoãn, hiền lành và hết
sức dễ thương. Không bao giờ Hồng Hoa trả treo hoặc cãi lời mẹ bất cứ
điều gì, luôn luôn làm vui lòng mẹ dạy bảo, khuyên răn!
Mỹ Hạnh là đứa con gái mà Thúy thương nhất trong bốn chị em
chúng. Sở dĩ Thúy quan tâm đến Mỹ Hạnh nhiều nhất vì từ nhỏ đi chấm
tử vi nhiều ông thầy bảo cung tình duyên, cung bệnh tật nó không tốt!
Thúy rất lo lắng và ngày đêm van vái cầu xin Trời Phật độ mạng cho con
gái yêu được vuông tròn hạnh phúc, gia đình êm ấm, sức khỏe dồi
dào…Những năm trước đây thấy gia đình con hạnh phúc, Thúy mừng
thầm và nghĩ những lá số kia chấm sai! Ai đời nay ra cớ sự này, rồi cuộc
đời con gái sẽ ra sao? Có một dạo Thúy nghe phong văn hạnh phúc gia
đình Mỹ Hạnh lung lay, nàng lo sợ quýnh quáng, đợi các con đi làm hết
rước thầy phong thủy về sắp đặt kê giường tủ cho đúng cung mạng
chúng để hóa giải, bao nhiêu tiền bạc Thúy không tiếc, chỉ mong con
được hạnh phúc thôi. Thúy lại tin dị đoan mấy ông thầy bói phán…
- Tuổi cô cậu này rất xung khắc, phải khéo léo lắm mới không
tan vỡ. Một khi vợ chồng này xa nhau sẽ kéo theo sự hư đốn đứa cháu
trai bà luôn. Thằng cháu ngoại bà lớn lên rất ngỗ nhịch, may ra có đủ cha
mẹ dạy dỗ mới nên người được! Còn phần tuổi bà và cô Mỹ Hạnh cũng
không mấy tốt đâu! Rất xung khắc, bà rán nhẫn nhục, dịu ngọt để mẹ con
được hòa thuận, nếu không tình mẹ con sẽ bị sứt mẻ…
Thúy vẫn chìu con, nhịn nhục, đêm ngày nàng vẫn van vái cho
mẹ con thương yêu nhau, tránh hiểu lầm…Nhưng có lẽ vì số mạng xung
khắc mà sao Mỹ Hạnh luôn nói châm chọc không dịu ngọt với mẹ…“Mẹ
là người chi li tính toán với gia đình bên bố nên các cô không thích
mẹ…”
Trước những lời suồng sã, thiếu suy nghĩ của con như buộc tội
mình, Thúy buồn ra nước mắt trong suy nghĩ: “Mình là người banh da xẻ
thịt sanh ra con, cực nhọc nuôi con ăn học thành tài, dựng vợ gã chồng
rồi dõi mắt theo lo lắng hạnh phúc cho con cả cuộc đời, thế mà con nỡ
thế sao Mỹ Hạnh…Nhưng thôi dồn tất cả cho con, tương lai các con là
trên hết…và Thúy lao vào làm việc và làm việc bằng tay chân gần mấy
chục năm khi đến Mỹ. Nàng bỏ bảng đen, phấn trắng, ánh mắt ngây thơ
của học trò ở lại Việt Nam, để lo tương lai cho các con nên người tại xứ
Mỹ lắm khổ nhọc với hành trang là con số không to lớn trong mồ hôi
nước mắt chảy dài…
Quá tủi lòng, không kềm chế được, Thúy bật khóc thành tiếng.
Hai đứa cháu ngoại ngơ ngác, lấm lét nhìn bà ngoại đang khóc…Một hồi
lâu, bé Ly Ly dạn dĩ ôm Thúy hỏi:
- Sao bà ngoại khóc vậy hả bà ngoại? Bà có bị bệnh không?
- Bà bị bệnh, đau lắm nên chảy nước mắt thôi! Thúy ôm Ly Ly
vào lòng cố nuốt nước mắt và gượng cười với cháu…
Từ nãy giờ đứng ngơ ngác nhìn bà ngoại khóc, nay thấy em Ly
Ly được bà ôm vào lòng hôn hít nói chuyện, Alen vội chạy đến bên bà
cầm tay hôn bà thỏ thẻ…
- Cháu mới được cô giáo tiếng Việt dạy cho câu cái này hay lắm,
cháu đọc cho bà nghe nhé! Không đợi Thúy trả lời nó đọc một mạch sợ
cô em lanh lợi giành mất phần…
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ Mẹ kính Cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con,”
Cùng lúc tiếng hát Thanh Thúy cất lên thanh thót bài “Lòng Mẹ”
qua chiếc radio nghe êm đềm…Lòng mẹ bao la như biển Thái
Bình….Tình mẹ thương con…
Thúy ôm hai cháu ngoại vào lòng hôn lấy hôn để, như quên bao
lo lắng buồn phiền mới manh nha…Hơi thở thơm tho của hai cháu và
những câu nũng nịu của chúng như nguồn an ủi len lỏi vào lòng sưởi ấm
trái tim Thúy để chuẩn bị một chân trời mới và những áng mây mù trong
gia đình con gái sẽ qua mau khi Thúy tìm lời phân khuyên can vợ chồng
chúng làm hòa với nhau bằng mọi cách dù nước mắt nàng có chảy thành
sông biển… Hy vọng những ngày sắp đến gia đình con gái sẽ đầy ắp
tiếng vui cười dưới cây thông lấp lánh ánh đèn thương yêu trong vòng
tay mở rộng của Đức Chúa giáng trần…
Mùa Noel cũ
Hoàng T. Thanh Nga
Sau ngày 30/4 đen, chồng tôi ra trình diện theo lệnh triệu tập của
“ cách mạng”. Trước khi đi anh ân cần dặn dò, em ở nhà ráng chịu cực
khổ thiếu thốn một thời gian ngắn, vì theo lời của “cán bộ”, các anh chỉ
đi “học tập” có 15 ngày.
Anh lo lắng như vậy vì biết tôi sẽ chẳng làm được gì để nuôi
con. Thể trạng tôi yếu đuối. Tôi là con một, sống sung sướng từ thuở mới
lọt lòng, chưa bao giờ phải lo toan miếng cơm manh áo, giữa sự thay đổi
nghiệt ngã của thời thế, tôi không thể thích nghi.
Anh đi rồi, 15, 30 ngày, 3 tháng, rồi 3 năm…vẫn biệt tăm. Hàng
ngày và mỗi lần đi họp tổ dân phố, cán bộ phường tuyên truyền, thúc ép
người dân đi kinh tế mới, lao động, sản xuất với khẩu hiệu “lao động là
vinh quang”. Gia đình sỹ quan “ngụy quân, ngụy quyền” càng phải đi
trước làm gương, để chồng, con mau sớm được “khoan hồng”, trở về
sum họp…
Quên mất ngày xưa vị nguyên thủ quốc gia VNCH nói một câu
bất hủ…Đừng nghe những gì cs nói… Tôi bàn với mẹ về quê sinh sống.
“Quê” thuộc tỉnh Bình Dương nhưng chi cách lằn ranh phân chia
“thành phố HCM” có mấy trăm mét. Gom góp hết tiền bạc còn lại, tôi
mua căn nhà nhỏ của người đi “kinh tế mới” xa. Sống nơi này, tôi mới
thấy khó khăn nan giải hơn trong cuộc mưu sinh. Ở đây nửa quê nửa
tỉnh. Không có đất để trồng cấy, cũng chẳng buôn bán gì được cho ai. Đã
vậy, bên kia lằn ranh là “thành phố”, hàng tháng mỗi hộ gia đình được
mua lương thực theo giá “nhà nước”, dù là gạo hẩm, bo bo hay bột mì
mốc, cũng qua ngày dễ dàng hơn là phải mua với giá “chợ đen”.
Tôi loay hoay bối rối tìm kế sinh nhai. Ra chợ trời buôn bán đồ
cũ. Không được. Không tranh cạnh lại những người lọc lõi tinh khôn,
mua bán bao giờ cũng lỗ. Đi Vũng Tàu buôn cá về chợ bán, cũng không
được. Cá ế, đem về phơi khô ăn dần, hết vốn.
Lên Sàigòn ngồi vỉa hè bán cơm tấm. Những gánh hàng khác,
mỗi buổi sáng bán đắt rôm rả, chồng con xúm xít phụ giúp, một gánh
hàng rong nuôi sống cả gia đình. Còn tôi, bán cơm vẫn ế, không biết vì
nấu không ngon, hay vì không có “giang” buôn bán …. Ngày nào cũng ế,
đem cơm về cho nhà người quen nơi tôi ở đậu. Nhìn con họ ăn ngon
lành, nghĩ đến mẹ và đám con thiếu đói ở nhà, xót lòng, nhưng không thể
leo xe đò đem về, vì còn phải chuẩn bị cho gánh hàng hôm sau và dậy
sớm đi bán. Vốn liếng cạn dần theo những ngày ế ẩm.
Buôn bán không xong, tôi lên rừng làm rẫy mướn. Từ thuở lọt
lòng đến nay, tôi chưa bao giờ phải làm việc nặng nhọc, bàn tay nhỏ
nhắn chưa biết cầm đến cái cuốc, cái liềm, nhổ cỏ, trồng cây. Chịu đựng
cái nắng như đổ lửa giữa đồng trống vài ngày, tôi lăn ra bịnh, mình mẩy
sưng tấy vì bị côn trùng cắn đốt, sau đó được chủ cho … nghỉ việc.
Có đợt tuyển công nhân lên núi phụ thợ điện bắt đường dây cáp,
tôi “đăng ký” xin làm. Lúc lên, chẳng những không mang vác được gì,
kể cả túi cơm chai nước của mình, tôi còn phải có người … dìu đi. Lúc
về, gặp cơn mưa rừng tôi trợt chân, suýt bị cuốn trôi tuột xuống khe núi,
lại có hai người …..xốc nách đem về. Vắt rừng đeo đầy ống chân, lên cả
đùi, con nào cũng đen bóng, tròn lẵn, tôi được một phen kinh khiếp hãi
hùng.
Bỏ rẫy về thành phố vào công trường làm phụ hồ. Làm không
lâu chủ công trình thấy sắc vóc tôi quá thảm hại, vả lại cũng không đạt
năng suất công việc nên thương tình cho vào làm bếp. Làm “chị nuôi”
tuy không nặng nhọc dầm dãi nắng mưa, nhưng thức khuya dậy sớm lo
ba bữa ăn cho công nhân, khi mọi người chưa thức giấc hoặc đã đi ngủ
rồi thì “chị nuôi” vẫn lục đục nấu nướng, dọn dẹp. Đã vậy còn bị chê bai
nấu không ngon, bị nghi kỵ bớt xén tiền chợ….
Cuộc mưu sinh đối với tôi thật vô cùng khó khăn, nan giải. May
có người bạn thương tình dắt tôi đi buôn ….
****
Những năm đầu mới “giải phóng” miền Nam, ‘’nhà nước’’ dùng
chính sách ngăn sông, cấm chợ để quản lý dân. Sản phẩm nơi nào làm ra
thì nơi đó dùng, không được giao thương, buôn bán. Miền Tây có lúa
gạo, tôm sông, cá biển, sau khi thu hoạch về, nộp sản phẩm cho hợp tác
xã, còn lại cũng tạm no đủ. Nhưng nếu muốn uống ly Cafê hay nhấm
nháp tách trà, thì phải lên tận cao nguyên mới được thưởng thức những
món “xa xỉ” đó. Ngược lại, cao nguyên cũng vậy, nếu chỉ sản xuất ra trà,
càfê thôi thì cứ uống … trừ cơm. Vì thế phát sinh ra nghề buôn lậu.
cả mọi thứ đều “lậu”, từ lúa gạo, ngô khoai, đường đậu, tôm cá
mắm muối bị nhà nước “quản lý” chặt chẽ. Mọi nẻo đường mọc lên
những trạm kiểm soát gắt gao. Cafê và trà bị liệt vào hàng “quốc cấm”.
Đi “buôn lậu” nếu qua trạm trót lọt thì một vốn bốn lời, nên ai nấy đổ xô
đi buôn, nhiều nhất là các chị có chồng đi “học tập” như tôi, bất chấp vất
vả gian khổ, nằm đường ngủ bụi, vốn liếng mất trắng như chơi. Đi buôn
mà như đi đánh bạc, một ăn một thua và còn bị “người đời” khinh bỉ rẻ
rúng gọi là “con buôn”.
Tôi không có vốn, cũng chẳng có ai thân thuộc ở Ban mê Thuột,
nhưng bạn tôi thì khác. Bà con họ hàng cô ở đó rất đông, lần về mỗi
người cho một ít nông sản cũng đủ một chuyến hàng đem về thành phố,
không sợ “đứt” vốn khi bị bắt. Mùa thu hoạch cafê vào cuối năm. Liên
xin cho tôi ở nhờ nhà dì và đi hái cafê tính công.
Mỗi ngày, từ rất sớm, cao nguyên mùa đông trời lạnh buốt. Tôi
khoác thêm chiếc áo lính cũ, gọi là “đồ đi làm” dì cho mượn, co ro cùng
với đám công nhân người sắc tộc ra vườn hái cafê. “Nghề” này tôi làm
được, chỉ cần nhanh tay và khéo léo. Những cành cafê nặng triũ trái chín,
tuốt rơi rào rào xuống tấm bạt trải rộng dưới gốc cây. Nhánh nào trên cao
thì vin xuống nhẹ nhàng để không gãy cành, năm sau hoa còn trổ ra nơi
đó. Làm một lúc người cũng ấm lên. Tôi hăng say chăm chỉ làm việc, để
không bị “đuổi” như những lần trước.
Chiều về. Những buổi chiều mưa. Đất đỏ dính lên quần áo bê bết
mỗi khi trợt chân té, đôi giày bố quệt đất dẻo quẹo cao nửa gang tay, mất
thêm ít thời gian ngồi chặt đất như chặt … thịt gà, để sáng có đôi giày
nhẹ đi làm sớm.
Về đến, tôi còn giặt một thau to “đồ đi làm” của những người
trong nhà. Nước quay từ giếng sâu lên, cánh tay tôi gầy guộc khẳng khiu,
cố sức giặt vắt những chiếc áo lính thấm nước và đất nặng triũ. Mưa rừng
hiu hắt, cày sâu thêm nỗi buồn và nỗi nhọc nhằn cho người. Vừa mệt vừa
lạnh, tôi đi ngủ luôn dù người đầy bụi bặm.
Ngày chủ nhật được nghỉ, tôi theo mấy người quen bò vào vườn
của hợp tác xã nhặt cafê “cứt chồn”. Chim, chồn là loài hoang dã rất tinh
khôn, chúng chỉ ăn những trái chin mọng rồi nhả hột ra, nên những hột
cafê này vàng ươm, đều rặt, gíá cao gấp hai lần cafê thường. Đi mót thế
này cũng như đi ăn trộm. Vừa cắm cúi nhặt, vừa giỏng tai lên cố nghe
tiếng bước chân của du kích xã đi rảo gác trong vườn. Xui xẻo để bị tóm,
vừa mất hết túi “cà” nhặt được, vừa bị “ăn” vài cú đấm cú đá, gặp người
ác thì bị nhốt ở xã vài ngày. Nguy hiểm là thế, nhưng hột cafê “cứt chồn”
luôn có sức hấp dẫn mạnh mẽ mọi người, vì chất lượng “ngoại hình” và
cái giá cao của nó. Những khi rảnh rỗi, tôi có cách tiêu khiển thú vị, bốc
một nắm “cứt chồn” ra ngồi nhìn, mê mẩn như người ta ngắm nghía
chiếc nhẫn hột xoàn.
Mùa thu hoạch cafê rốt ráo trong vòng một tháng. Một tháng xa
nhà, xa con. Tuy nhớ chúng vô cùng, nhưng hy vọng với số tiền công
khiêm tốn, cùng với nắm cafê đi nhặt, tôi mua được it “hàng lậu” cố dấu
diếm mang về được đến thành phố, là sẽ có số vốn nhỏ đi buôn như
người ta, không phải ở làm công biền biệt tháng ngày.
Ngồi co ro bên bếp lửa, suy nghĩ miên man. Cám cảnh thân phận
mình, thương nhớ mấy đứa con và mẹ. Tôi vừa ra bưu điện gởi tiền về.
Vài hôm nữa nhận được, mẹ tôi sẽ vui mừng lắm, có thể mua chút thịt
cho mấy đứa cháu ăn mừng ngày lễ. Giáng Sinh năm nay tôi không có ở
nhà cùng các con đi lễ đêm. Dù nghèo túng thiếu thốn, nhưng năm nào
tôi cũng nấu nồi xôi đậu, sau khi lễ về cả nhà quây quần ăn mừng Chúa
sinh ra đời.
Nhớ đến con là tôi thấy an ủi phấn chấn vô cùng. Chúng là
nguồn động lực mạnh mẽ, giúp tôi vượt qua mọi gian nan vất vả. Quỳ
trong giáo đường trên cao nguyên vào đêm Giáng Sinh, tôi thầm nguyện
cầu ơn trên ban cho tôi mạnh khoẻ, để có sức nuôi dưỡng đàn con trên
đường đời muôn vàn khó khăn chồng chất.
Với số vốn ít ỏi tích góp được tôi bắt đầu đi buôn. Chuyến đi tôi
mua ít quần áo cũ, tôm cá khô, ít vật dụng cho nhu cầu thiết yếu của đời
sống, đem lên bán cho người sắc tộc. Chuyến về lại lận bọc vài ký cafê,
chục ký gạo bắp, đậu mè các loại. Có chuyến qua trạm mất ít. Có chuyến
mất nhiều. Có chuyến mất trắng. Nhưng mẹ và các con tôi cũng tạm no
đủ trong đạm bạc.
Cũng từ đó, tôi luôn sống trong tâm trạng phập phồng hồi hộp.
Mỗi lần tới trạm, mọi người trên xe phải xuống hết để thuế vụ khám xét.
Tim tôi nhảy ngược lên trong lồng ngực, sự sợ hãi cộng với giá lạnh cao
nguyên làm hai hàm răng tôi đánh vào nhau lập cập liên hồi không dừng.
Những giây phút đó dường như vô tận, tôi nín thở theo dõi từng bàn tay
chuyển động bới móc của thuế vụ trên mui xe. Kẹp chặt trong người cái
giỏ có vài dúm cafê, cố lẩn tránh những con mắt cú vọ. Ngủ cũng mơ
thấy bị rượt bắt, bị “tuôn” hàng, bị đưa đi “lao động”, bị nhốt vào “cô
nét”. Tỉnh dậy người ướt đẫm mồ hôi.
Vào những tháng hoa cafê nở, xe vừa qua khỏi đỉnh đèo đã thấy
mùi hương ngào ngạt không gian, thơm nồng ngọt gắt. Hoa trắng nhỏ chi
chit ôm cành dày đặc trong những rẫy Café bạt ngàn hứa hẹn bội thu,
khiến lòng tôi dâng trào cảm xúc. Nhưng tôi không còn tâm trí nào để
thưởng thức hương hoa nồng nàn quyến rũ, ngắm nhìn núi rừng hoang dã
thâm u. Đầu óc còn mải suy nghĩ tìm ra phương cách dấu diếm cafê kín
đáo hữu hiệu hơn, để không bị “đứt” vốn.
Tôi quá chán ngán cảnh đi buôn đầy gian nan bất trắc này, nên
quyết định không đi nữa, lại loanh quanh ở Saìgòn kiếm việc khác làm.
****
Thời gian đi buôn, tôi quen Lan và kết bạn đi chung với nhau.
Nhà Lan trước ở Sài gòn, sau “giải phóng” đi kinh tế mới trên BMT. Lan
còn người cô ruột ở Thị Nghè, mỗi chuyến về, Lan hay đưa tôi đến nhà
cô chơi. Cô của Lan là người trí thức, trước kia làm thông ngôn sở Mỹ,
xã hôi mới này không thâu dụng cô. Gia đình sa sút, cô kiếm sống bằng
nghề bán bánh mì dạo, tính cô rộng rãi phóng khoáng và thương người.
Cô có chiếc xe đạp cà tàng, mỗi buổi sáng dậy sớm, qua lò lấy bánh rồi
đạp vào trong xóm bán rong, vậy mà đủ cơm gạo cho một gia đình năm
người. Cô cho tôi ở nhờ và chỉ cách đi bán.
Tôi không có xe đạp, đi bộ ngày hai buổi sớm tối bán rong trong
xóm và còn phải đi những xóm xa hơn, tránh “địa bàn” quen của cô.
Ngày đầu tiên cắp sọt bánh mì bên hông, trời tờ mờ sáng, mọi người còn
đang say giấc trong nhà, tôi cất tiếng rao. Ai … Câu “ai…” vừa thoát ra
khỏi cổ họng, bỗng nghẹn lại, tắt lịm. Tiếng rao nghe sượng sần, quái
đản. Tôi cười sằng sặc một mình, may không ai thấy….
Tôi phải tập rao…trên sân khấu … ngoài đường, một mình diễn
và một mình cười. Trời sáng trắng, tôi đi gõ cửa từng nhà mời mọc.
Khoảng bảy giờ chiều, tôi bắt đầu cho cữ tối. Ngày ấy, Thị Nghè
còn là ngoại ô vắng với nhiều xóm nhỏ lầy lội bên dòng kênh. Những
hôm nước dâng lên ngập nửa ống chân, tôi lội bì bõm trong bóng đêm,
chỉ nhờ chút ánh sáng điện mờ mờ hắt ra từ trong nhà.
Vài nhà trong xóm còn có cái mả ngoài sân. Thỉnh thoảng cơn
gió đùa bụi tre nghiến kẽo kẹt. Tiếng sột soạt bên rào giậu. Con chồn
chạy vụt qua. Đom đóm lập lòe như ma trơi. Những “hoạt cảnh” ấy khiến
tôi sợ hãi rụng rời, mấy lần suýt đánh rơi sọt bánh mì xuống nước. Tiếng
rao run run nghe càng kỳ quái, nhão nhoẹt hơn, nhưng mọi người trong
xóm đã quen với thanh âm “đặc trưng” đó. Buổi tối bán được nhiều, vì
chỉ có mình tôi lặn hụp nơi xóm nhỏ tối tăm lầy lội này.
Nhiều sáng thức dậy, đứng không vững trên đôi chân tê buốt
nhức nhối của mình, bởi đi bộ mỗi ngày nhiều cây số và thường xuyên
ngâm trong nước lạnh. Nhưng tôi nhủ lòng, phải cố gắng, phải vững
bước bền bỉ, để các con tôi được lớn lên mà đi trên đường đời với đôi
chân khoẻ mạnh.
Mỗi ngày chỉ bán có mấy tiếng buổi sáng và buổi tối, nhưng tôi
phải ở đậu lại nhà cô của Lan. Một tuần về thăm con một lần, hôm nào
đem về vài ổ bánh mì ế, nhìn các con ăn ngấu nghiến ngon lành, tôi ứa
nước mắt! Bánh mì ế ngày nào cũng có, không nhiều thì ít… Tôi tự trách
mình quay quắt vì quyết định về “quê” ngu xuẩn. Cứ bám lại Saigòn mà
sống sẽ đỡ khổ hơn nhiều, không phải ăn nhờ ở đậu, không phải xa con,
giao hết trách nhiệm cho mẹ. Mẹ tôi gìà yếu, trông coi chăm sóc ba đứa
trẻ đang tuổi nghịch ngợm phá phách tung trời, thật là vất vả. Vậy mà mẹ
vẫn còn tự trách mình chẳng giúp gì được cho tôi.Tôi xa nhà đâu phải để
làm công việc trọng đại to tát gì cho cam, chỉ buôn gánh bán bưng thôi,
những thứ ế ẩm còn lại bà cháu không được ăn no lòng, cho qua đi ngày
tháng!
***
Còn vài ngày nữa là đến Noel, phố phường nhộn nhịp, mọi người
tất tả mua sắm. Trong sân nhà thờ Thị Nghè hang đá đã làm xong, chúa
Hài đồng nằm hồn nhiên trong máng cỏ, giữa ba vua và mục đồng vây
quanh. Đèn sao giăng mắc từ trên nóc nhà thờ tỏa xuống. Không khí
ngày lễ xôn xao rộn ràng.
Năm nay tôi lại không được ở nhà cùng gia đình mừng lễ, dù chỉ
cách 20 cây số. Đêm Noel tôi vẫn đi bán. Tôi độ rằng hôm đó sẽ bán
được nhiều hơn ngày thường gấp bội.
Từ khi “giải phóng” đến nay từ Sài Gòn về “kinh tế mới”, tôi
chưa bao giờ cho con lên lại thành đô dù là ngày lễ tết, để chúng được
vui chơi thỏa thích trước sự nhộn nhịp của phố phường hoa lệ. Dù nơi tôi
đang ở là xóm đạo, cũng có đèn ngôi sao giăng mắc rực rỡ, cũng không
khí tưng bừng rộn ràng của ngày lễ, nhưng làm sao so sánh được với sự
tráng lệ, nhộn nhịp nơi thành phố phồn hoa. Nhìn những đứa trẻ hớn hở,
tung tăng bên cha mẹ, tôi chạnh lòng thương con quay quắt, bèn nảy ra ý
định đưa các con lên đây, sau khi bán hết sẽ dẫn chúng đi lễ, đi chơi, để
chúng được hưởng một đêm Noel vui vẻ.
Mẹ tôi quen sống với những đứa cháu, không thể xa chúng dù
chỉ một ngày, dù đôi khi chúng làm bà giận đến phát điên. Có dịp cháu
được đi chơi thành phố với mẹ, bà đâu nỡ không cho đi, nhưng phải để
một đứa ở nhà với bà cho đỡ buồn. Đứa nào sẽ ‘’hy sinh’’ ở nhà đây?
Mẹ tôi hiếm hoi, muộn mằn mới có tôi. Ngày tôi sinh thằng con
đầu lòng, bà mừng đến nỗi đôi chân bủn rủn khụy xuống đất, khi nhìn
thấy mẹ con tôi vuông tròn, đang được đẩy ra từ phòng sanh. Một tay bà
chăm sóc ẵm bồng từ thuở lọt lòng. Vì thế, bà cưng yêu chiều chuộng nó
nhất nhà, không bao giờ từ chối nó điều gì. Thằng con út lại là đứa tôi
xót xa nhất. Khi “giải phóng “ nó mới vừa hơn một tuổi, chiụ cảnh thiếu
thốn triền miên. Vả lại, nó là út, hay mè nheo nhõng nhẽo, có dịp này nó
đâu thể không đi. Cuối cùng con gái phải ở nhà, nó luôn là đưa chịu thiệt
thòi, vì biết thương và nhường nhịn anh, em.
Nhà tôi chỉ có một cái giường, tôi ngủ dưới đất để ba đứa con
ngủ trên giường với ngoại. Giường chật, bốn bà cháu thì chỉ ba người có
thể nằm xuôi bên trên, một phải nằm ngang dưới chân. Mẹ tôi lên lịch
phân chia chỗ nằm mỗi đêm. Hai đứa nằm hai bên với ngoại, một đứa
nằm dưới, hôm sau đổi đứa khác lên, nhưng hai thằng con trai không
thèm chấp hành theo “luật”. Rốt cuộc đêm nào con gái cũng phải nằm
dưới chân, đêm nào bà ngoại cũng dỗ dành rồi hứa đêm mai, nhưng
không bao giờ thực hiện được lời hứa đó. Mỗi lần mấy bà cháu nằm trên
thả … bom hơi, nó nằm dưới chân hít thở ‘’khí độc’’ đến chóng mặt. Tội
nghiệp con gái tôi.
Hai thằng hân hoan hớn hở theo lên Sagòn. Tôi định bụng bán
xong sẽ dẫn con ra nhà thờ Đức Bà đi lễ, để con tận hưởng một đêm
Noel vui vẻ tuyệt vời nơi Vương Cung Thánh Đường.
Cho mỗi đứa một ổ bánh mì vừa đi vừa gặm, tôi dẫn con loanh
quanh trong xóm nhỏ lầy lội cố hữu. Một tay cắp sọt bánh mì, một tay
dắt thằng con nhỏ mới ba tuổi, sợ nó vấp té vì đường gập ghềnh tối tăm,
ba mẹ con đi hết xóm này sang xóm khác. Đêm dần khuya, hai đứa trẻ
mệt nhoài, những gót chân nhỏ bước thấp bước cao loạng choạng, sọt
bánh mì vẫn còn nhiều …. Lúc đầu tụi nhỏ hăm hở háo hức bao nhiêu thì
bây giờ ỉu xiù, thiểu não như hai con mèo ướt.
Không may, tôi đã đã tính sai. Ngày lễ người ta không ở nhà để
mua bánh mì nhiều như tôi tưởng. Họ đổ xô đi chơi, vui vẻ ăn uống nơi
nhà hàng, quán xá. Ai ăn mừng lễ ở nhà thì đã chuẩn bị đầy đủ, không
phải mua thêm gì nữa.
Tôi không thực hiện được dự định của mình, không còn sức để
ba mẹ con lội bộ ra nhà thờ Đức Bà. Nhà thờ Thị Nghè đã xong lễ từ
sớm.
Trải miếng ni-lông trên lề cầu dành cho người đi bộ, để hai đứa
con nằm. Hai tay tôi luôn phe phẩy, xoa xuýt xua đuổi bầy muỗi đói bu
lại trên mình con. Chúng tôi như những kẻ hành khất lang thang, buồn bã
trong Đêm Đông Chúa Sinh Ra Đời nhìn dòng người qua lại đã thưa
thớt.
Tưởng rằng cho con đi chơi, cho con hưởng một đêm Noel vui
vẻ hạnh phúc, ai ngờ đem con đi đày. Mai sau trong ký ức con tôi có còn
nhớ đêm Noel này? Nhất là với thằng bé ba tuổi. Riêng tôi, tôi nhớ đến
ngày cuối cùng của cuộc đời, cả khi đã ở thế giới bên kia…/.
TIỄN ĐƯA THI-VĂN-HỌA SĨ
SẮC KHÔNG NGUYỄN HỮU NHẬT
Nhà văn, nhà thơ, họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật đã từ trần lúc 22 giờ
ngày 11 tháng 12 năm 2014 (nhằm ngày 20 tháng 10 năm Giáp Ngọ) tại
Lilleborg sykehjem, Oslo Vương quốc Na Uy, sau cơn bạo bệnh, hưởng
thọ 72 tuổi.
Tang lễ của ông được cử hành theo nghi thức Phật Giáo từ 10
giờ 30 đến 12 giờ, ngày 22 tháng 12 năm 2014, tại nhà nguyện nghĩa
trang Alfaset Gravlund Nedre Kalbakkvei 99, 1081 Oslo, sau đó rước
hương linh về chùa Khuông Việt.
Tiểu sử Nguyễn Hữu Nhật (1942 - 2014)
Sinh: 22.6.1942 tại Bông Đỏ, La Khê, Hà Đông, mất 11.12.2014
tại Oslo, Na-Uy.
Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1955, sống ở Chợ Lớn.
Trước 1975: nhập ngũ, 7 năm lính ; sau 1975: tù chính trị CSVN, 11
năm. Định cư tại Bergen, Na-uy từ 1987.
Ông làm thơ, viết văn, viết báo, viết biếm văn (cho báo Làng
Văn Canada), vẽ tranh.
Chủ trương nhà xuất bản Anh Em ; chủ bút Tạp chí Hương Xa;
cộng tác với nhiều tạp chí văn học nghệ thuật ở hải ngoại.
Đồng chủ trương: Một Phần Tư Thi Ca VN Hải Ngoại.
Nguyên hội viên Vắn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Vùng Canada ;
thành viên Câu lạc bột Văn nghệ Việt Nam tại Paris.
Tác phẩm đã hoàn tất, chưa xuất bản trước năm 1975:
- Đình Hồ Trường Thi 5000 Câu Lục Bát
Tác phẩm đã xuất bản:
- Thơ Hoa Sen, 1991 Na-uy
- Chí Tôn Ca, thơ 1991
- Đã Đời, 700 bài thơ tình, 1995 Na-uy
- Chém đá, biếm văn, 1997, Canada
- Cỏ Bồng Thơ, 1998 Na-uy
- Cuộc Chiến, thơ 1998 Na-uy
- Đá đổ mồ hôi, biếm văn, Canada 1998
- Bờ Bên Kia, 2 tập: tiểu thuyết thiền 2001 Na-uy
- Tiếng Việt Hay Quá, tùy bút văn nghệ, 2005 Na-uy
- Sử Nghìn Người Chép, sách tranh, 2008 Na-uy
- Hoa Đào Năm Ngoái, tiểu thuyết 2009 Na-uy
- Cây Nhân Sinh, tiểu thuyết
- Thơ Tình Na-uy…
Hội họa :
Trước 1975 Triển lãm tranh ở Alliance Française Sài Gòn, Hội
Việt Mỹ Sài Gòn, Galerie…
2000 Triển lãm Tranh ở Trung Tâm Văn Hóa Quốc Tế Paris.
Khóc Nhật
1.
Hãy đón em đi anh nhé.
Vinh không thể sống thiếu anh đâu,
Dù ở Thiên Đường hay Địa Ngục cũng chẳng sao.
Anh thương em không?
Em đau đớn hơn anh, lúc anh đau sắp mất.
Mà sao em chưa được mất theo anh.
Em không tự tử, vì đó là là tội ác làm khổ cho bạn bè con cháu.
Nhưng Trời chưa cho chết, biết làm sao.
Anh ơi!
Nhật ơi!
Đợi em anh nhé.
2.
Nhật ơi! Nhật ơi!
Bốn Mươi Năm chung sống.
Tình vợ chồng nồng ấm siết bao.
Anh ơi! Sao giờ anh lại ra đi.
Để vợ anh một mình ở lại.
Biết làm sao! Biết làm sao!
Trời hỡi Trời!
Có còn nỗi đau thương nào.
Hơn thế này không chứ !
Biết ngày nào mới cho tôi được theo chồng.
Không! Không! Không!
Tôi không muốn sống.
Đau đớn quá!
Trời hỡi Trời!
Nhật ơi Nhật!
Mỗi phút giây lúc này.
Là mỗi phút giây em bị tra tấn đấy Nhật ơi!
Trời hỡi Trời!
Con là Nguyễn Thị Vinh.
Cúi xin lạy bốn phương Trời, mười phương Phật.
Cho con sớm được theo chồng.
Nhật ơi, Nhật ơi!
Nguyễn Thi Vinh
Oslo/NaUy, 11.12.2014
Một vài bài của Nguyễn Hữu Nhật
Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du (Tố Như Thanh Hiên Hồng Sơn Liệp Hộ)
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Nguyễn Du
1.
“chẳng biết ba trăm năm sau
ai người thiên hạ khóc sầu Tố Như”
thương đời thơ đốt còn dư
lửa không cháy hết máu từ mắt ra
giai nhân chẳng sống tới già
thơ chung phận mỏng tài hoa kiếp người
“đọc truện trước cửa sổ chơi
đau lòng thành thật xót lời dở dang
ngọc rơi trên gấm muôn hàng
thất thần son phấn ngỡ ngàng phấn son”
thơ ai phần cháy dở còn
tiếng kêu đứt ruột nghe buồn mới đây…
2.
giếng xưa lòng ánh trăng đầy
sá chi gơn sóng những ngày gió mưa
tay đời khuấy nước bằng thừa
đục rồi trong lại động vừa mới yên…”
tan ra từng mảnh vàng liền
vầng trăng kết tỏ vành khuyên sáng trời
“hạc ngoài biển múa xa khơi
tầm gần mắt thịt người đời thấy đâu”
ngó sen héo sợi tơ nhầu
mấy ai hiểu nổi cõi sầu Tố Như
tối về nhằ vắng làm thơ
bụi rơi ngày hứng vật vờ tóc baỳ…
3.
gió Tây thổi mạnh nào hay
cỏ bồng lìa gốc còn lay rễ thầm
nhìn đời bằng mắt quầng thâm
thấy ra lỡ kiếp người lầm chọn thơ
“kiếm ăn ngày quẫn từng giờ
tháng năm lỡ dở bạc phơ mái đầu
xuống tóc vào ở rừng sâu
nửa chừng mây cuốn nát nhầu gió thông
văn chương tới bước đường cùng
tội riêng thêm lụy sống không theo thời
bày chim công múa thảnh thơi
lông khoe sắc sảo cánh phơi màu mè
bên trong gan ruột ai đè
độc hơn mật cóc một bè ngọng ngô,
đành thân triều dậy sóng xô
bóng trôi hạc biển nhấp nhô cánh hồng”
con chim nào hót trong lồng
thì con chim ấy sẽ không giọng vàng…
4.
“nối cẳng cho vịt hiên ngang
bằng chân hạc nội mây ngàn được sao
sinh ra tính khí thế nào
cứ như thế sống có sao cũng đành
cỏ bồng lìa gốc hết xanh
gió Tây thổi mạnh tàn nhanh một đời
nghĩ cho cùng tận lẽ Trời
gian truân là cốt cách người tài hoa”…
5.
áo tơi lạnh tím chiều tà
ngời chăn vịt ngấm sương sa đượm buồn
nằm nhờ nhà vợ lệ tuôn
chiếc thân ăn gửi đẫm hồn quê cha
“hứng xuân rơi xuống mọi nhà
ầy trời trăng sáng rọi hoa đêm rằm”,
cái xa muôn dặm lạnh căm
lẫn vào với cái âm thầm tấc gang
“đêm Quỳnh châu thức dạo đàn
anh em tan tác họ hàng tả tơi
ngón tay bật máu ra lời
trăng xuân còn đấy nhà thời ở đâu
giận ngày xanh chẳng bền lâu
mới đây mà đã bạc đầu trắng bông
cùng đường chỉ biết ngóng trông
thương nhau thương lắm về không trở về
gió Hồng Lĩnh thổi tái tê”
nằm nghiêng hồn mộng nửa mê nửa trầm…
Nguyễn Hữu Nhật
Tháng mười ở đâu?
1.
Nếu thật chờ nhau mà hóa đá
thì xin thử đợi một lần xem
Chỉ ngại khi tôi thành núi biếc
ngàn năm không thấy dấu chân em…
2.
Em mặc áo dài hoa đỏ chín
tưởng gió vườn rung khóm mẫu đơn
Mỗi bông nở hướng về một phía
riêng phía tôi ngồi vẫn trống trơn.
3.
Sợ nhất lúc buông nhau mùa gió
bao nhiêu chăn phủ chẳng ấm đời
Giường gỗ mộc run lên tiếng lạnh
nhớ hơi người đến chết mất thôi.
4.
Lũ bàn ghế đứng im một góc
nghe buồn tênh thớ gỗ mọt kêu
Sắp đứt mong manh từng sợi nhỏ
những tơ trời nhện dở dang treo.
5.
Cho thơ bắt kịp làn hương với
nghìn nụ cười em nhớ nở hoa
Tôi biết, chủ nhà chưa đi vắng,
hiên yếm vàng phơi, lúc ngó xa.
6.
Trông mắt em cười tôi cảm thấy
lòng dửng dưng trước các vì sao
Phải chi em đến thường như gió
đẩy cửa mang theo ánh trăng vào.
7.
Nếu thật chờ nhau mà hóa đá
thì xin thử đợi một lần xem
Chỉ ngại khi tôi thành núi biếc
ngàn năm không thấy dấu chân em…/
Nguyễn Hữu Nhật
Bạn văn viết về Nguyễn Hữu Nhật
Một vì sao đã tắt
Nguyễn Hữu Nhật
Bạn tù, bạn lính
Bạn văn, bạn vẽ
Bạn giang hồ chia lửa một thời
Ô hay, cuộc chơi chưa trọn
Nợ tang bồng còn đó đã biệt ly
Thu chưa chín tà huy đã nhạt
Câu thơ yên ngựa viết chưa xong
Bạn ta ơi!
Lòng đau ruột thắt
Chén rượu đời pha máu vẫn chưa vơi
Sao mà vội mà vàng đến thế
“Sao ra đi mà chẳng bảo gì nhau”
Đêm nguyệt động tháng tư ngưng thở
Cùng nhìn nhau ứa lệ nhớ không
Đau đau quá sắc màu muôn vẻ
Lại tự vẽ mình
Bằng sắc xám đậm đen
Điểm nụ cười buồn trên gam màu lạnh
Đôi mắt vời trông u ẩn Bắc Âu
Hữu Nhật vô minh
Sơn tuyền vô thủy
Và vô chung trong nỗi đau người
Xứ lạ Hương Xa Anh Em tụ hội
Sài gòn Nghĩa Thư sử chép ngàn người
Thế giới sắc màu nỗi đau quằn quại
Vẫn vấn mình theo khói thuốc bay
Nhớ câu thơ một thời hực lửa
Lửa trong thơ
Hay lửa chính là thơ
Bật máu con tim
Cười vang thế sự
Đôi bờ vai lệch gánh oan khiên
Nguyễn Hữu Nhật ơi!
Tâm thanh ý thiện
Xuân thu chiến quốc một cuộc cờ.
Bầu trời thi ca
Bỗng nhiên chợt tối
Một vì sao vụt tắt
Thế giới buồn
Kiếp nhân sinh chỉ là cõi tạm
Khách đến khách đi chuyện bình thường
Đã biết thế nhưng lòng chưa nghĩ thế
Vì chưa đền nợ núi ơn sông
Ngẩng mặt vời trông, tang thương dâu bể
Hỡi ơi! Giáp rách kiếm cùn.
Hỡi ơi! Sức tàn lực cạn
Bốn mươi năm oan khốc vẫn ngậm hờn
Bốn mươi năm rời xa đất mẹ
Chí lớn chưa thành mộng đã tan
Hữu Nhật về đâu
Nhang đưa hương lại
Người đi thơ ở với đời
Thế giới sắc màu cầu vồng thất thể
Chắc chắn người là thấu kính vạn hoa
Và nhất định là tinh anh còn lại
Là hương hoa thơm ngát cõi người
Nguyễn Hữu…
Nhật ơi!
Còn đây con chữ
vẫn ngày đêm trăn trở với đời
“…Văn nghệ sĩ trong ngoài sao lặng tiếng
Đã làm gì cho thế giới vui…”
Câu hỏi buồn lồng trong giọt lệ
Ngậm hờn nín thở vẽ khăn sô.
Thôi nhé một lần
Ôm nhau thắm thiết
Tiễn người vạn dặm cũng chia tay
Thôi nhé một lần
Xiết tay thật chặt
Hẹn mai kia gặp lại chỗ vô cùng.
Bóng tối chiều đưa
Tà huy đã khuất
Bái vọng một lần tưởng tiếc ngàn thu.
Túy Hà
Nhớ Nguyễn Hữu Nhật
Bảy lăm chết đứng, quê nhà
hai ngàn mười bốn xứ xa chết nằm*
Một lần bắt tay hẹn ngày tái ngộ
Nhiều dịp điện đàm mong ước đoàn viên
Nguyễn Huynh ơi ! Còn đó chuyến nhân duyên
Đất Mỹ, trời Âu đôi miền cách trở
Ai quên được thuở " Hoa Đào Năm Ngoái"*
Những ân tình thắm thiết " Hai Chị Em"*
Hồn Văn Thơ, nét vẽ ...hãy còn nguyên
Vòng cát bụi đành hiện tiền, khuất núi
Thơ Tỷ, Huynh tặng...Đệ in sách mới
Chưa gửi đi đã hết đợi, thôi chờ
Nhận hung tin...lòng chết lặng, sững sờ
Tuôn nước mắt thay dòng thơ bật khóc
Đời cọ vẽ, đời thơ văn tinh lọc
Sẽ nghìn năm Văn Học sử lưu truyền
Nguyện Hương Linh an ngự cõi tịnh yên
Nụ cười ánh mắt từng an bình cõi tạm
Nén hương lòng Đệ vẽ vòng mây xám
Trời đang Thu hồn lá phả sương mù
Sống anh hùng, năm tháng chỉ phù du
Thắp hồi ức tiễn Huynh về miên viễn
Phạm Tương Như
12/15/2014
* chết đứng từ năm bảy lăm
bây giờ mới chịu chết nằm đấy thôi
(thơ Nguyễn Hữu Nhật khi chôn bạn tù)
Thơ Nhạc Trong Tù
Nguyễn Mạnh An Dân
Mắt rưng rưng lệ cờ vàng
Tiếnghô xé nát ruột gan thân này
“Hạ kỳ” súng bắt đều tay,
Xin chào đất nước lần này nữa thôi.
Nguyễn Tư
Ba mươi tháng tư, ba mươi bảy năm trước, từ một doanh trại
buồn thảm nào đó, người chiến sĩ, người nghệ sĩ Nguyễn Tư đãnhỏ lệ khi
đứng nghiêm chào lá quốc kỳ lần cuối. Những giọt lệ buồn chắc chắn
không chỉ ứa trên mắt, nghẹn trong tim của Nguyễn Tư và đồng đội của
anh, mà những giọt lệ buồn thảm và bi uất đó đã ngập tràn trong lòng
mỗi người Việt Nam tự do trong ngày đất nước đã ngưng tiếng súng
trong một nền hòa bình rơi nước mắt. Giọt lệ buồn không chỉ ứa ra vì
những buồn đau, mất mát của từng mỗi cá nhân mà nó còn tuôn tràn để
tiết thương cho cả một dântộc và riêng cho một quân đội hào hùng nhưng
bất hạnh, anh dũng mà oan khiên của chúng ta. Rồi từ những bất hạnh,
những oan khiên đó, người lính, người tù miền Nam đã cắn răng lại, đã
gượng đứng vững trên đôi chân của mình và trải lòng ra với chiến hữu,
với đồng bào mình:
Tôi là người lính phải đầu hàng khi còn đang chiến đấu.
Tôi là người tù bị lưu đày trên chính quê hương tôi.
Đã bao năm trôi qua, Núi sông ơi bao giờ tôi quên giây phút
Khi bóng cờ ngã xuống súng buông xuôi
Chiến y buồn phơi thây trên đường phố
Kiếp tù binh khép lại đời chiến binh.
Tôi không bao giờ quên máu xương bạn bè
đã đổ xuống cho quê hương,
Tôikhông bao giờ quên
những hy sinh âm thầm của anh em trong ngục tối
Khi trái tim còn nồng nàn
Khi ánh mắt còn thiết tha
Tôi xin làm người lính sau cùng ngã xuống
Cho những người thân yêu,
Cho anh em, cho đồng bào mãi mãi yên vui.
(Vương Quang Tuệ)
Rất nhiều người lính, hữu danh, vô danh đã bắn đến viên đạn
cuối cùng và nằm xuống ở khắp các mặt trận lớn nhỏ. Rất nhiều người
lính khác, từ những tư lệnh quân, sư đoàn quyền uy đến anh khinh binh
số hai nhỏ bé đã tự kết liễu đời mình để trả cái giá danh dự cho tổ quốc
của một người lính đúng nghĩa nhưng cũng còn rất nhiều người lính khác
còn sống để chia với tổ quốc những tai ương, chịu với dân tộc những
thảm họa:
Rồi từ đó quê hương ta điêu tàn
Rồi từ đó Việt Nam ta lầm than
Rồi từ đó ta sống trong đọa đày
Trong ngục tù nghe buốt giá tim ta.
Người lính có buồn lòng nhưng không nản lòng, bỡi vì:
Lửa vẫn cháy sáng ngời trong ngục tối
Niềm tin còn vang dậy khắp nơi nơi
Aingã xuống cho lời ca vang dậy
Ta hát người nghe bài hát ngục tù
ViệtNam ơi! Việt Nam ơi!
Ta vẫn sống tim vẫn còn nung nấu
Trong ngục tù ta mài sắc gươm đao
Còn hơi thở ta còn luôn chiến đấu
Còn hơi thở ta còn nuôi chí quật cường.
(Vương Quang Tuệ)
Những lời nhạc tôi vừa gởi đến quí vị được viết từ trại giam
Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Bài thứ nhất có tên là Bài ca ngườitTù binh
và bài thứ hai là Tiếng hát từ ngục tối. Những tiếng kêu bi uất và hào
hùng từ trái tim người lính, người tù như một ngọn lửa, như một chất
thép giữ vững niềm tin, nối chặt vòng tay của những lính sa cơ.
Nó đã khơi dậy những hy vọng, nhen nhúm một phong trào đấu tranh
bền bĩ và kiên cường. Tuy nhiên, tác giả của nó đã phải trả giá cho thái
độ dũng cảm của mình. Sáu tháng biệt giam với hai chân bị xiềng bằng
kẽm gai còn nguyên gai nhọn đã tàn phá thân xác người chiến sĩ đáng
yêu của chúng ta, anh không bao giờ còn đi lại được bình thường như
chúng ta nữa, chỉ có trái tim anh là vẫn luôn cứng cáp để chuyển lời nhắc
nhở chính mình, nhắc nhở đồng đội mình, đồng bào mình một thái độ
sống đáng sống:
Xưa họ Đặng đã bao đêm dưới nguyệt
Mài kiếm linh mà nhớ chuyện quốc thù
Nay xin hỏi cả bốn phương hào kiệt.
Nhục năm nào thế đã đủ hay chưa?
(Phạm Nam Quân)
Xin hãy cùng tôi nhớ lại những ngày không thể quên:
Thiếu ăn người ta vất vưởng
Thiếu không khí người ta chết ngay,
Thiếu tự do người ta vẫn sống
Nhưng đời ngựa kéo, trâu cày.
(Nguyễn Hữu Nhật)
Chữ “đời ngựa kéo trâu cày” tác giả muốn thể hiện bằng hai
nghĩa: đen và bóng. Nói nghĩa đen vì quả thật người tù bị bắt làm trâu bò
kéo cày ở nhiều trại giam trong cả nước và nghiã bóng vì xét về nhiều
phương diện, từ vật chất đến tinh thần, đời sống người tù không phải là
đời sống của một con người. Hãy tưởng tượng, những người lính oai
hùng và lãng mạn của một quân đội lãng mạn và oai hùng bỗng chốc trở
thành người tù với:
Áo bao cát, giép lốp xe,
Bình đông nước lã kè kè bên hông
Sáng bụng đói, trưa cũng không
“Trên” kêu khắc phục làm xong vụ mùa.
(Nguyễn Mạnh An Dân)
Người lính miền Nam đủ kiên cường để chấp nhận, đủ kiêu hảnh
để ngẩng đầu, họ không bi lụy thở than nhưng cũng có lúc chua chát,
nghẹn cười trong nước mắt:
Vắt ơi đừng cắn nữa nghe.
Chừa tao chút máu đốn tre trên rừng
Chỉ tiêu mới đạt nửa chừng
Dù tao đã hạ không ngừng quyết tâm.
(Nguyễn Tư)
Tôi biết, nhiều người trong quý vị ở đây là “tù cải tạo”, tôi biết
nhiều người khác trong quý vị ở đây biết rõ thế nào là “tù cải tạo”. Tôi
cũng biết nhiều người trong số những kẻ chiến thắng nếu có chút tim óc
đều biết rõ thế nào là trò lừa mị khi sử dụng mỹ từ “cải tạo”. Thực chất
đây là một bản án tử hình gián tiếp. Tránh cho chế độ tiếng ác hung tàn
những vẫn đạt được mục đích họ muốn bằng phương cách “cho ăn thật ít,
bắt làm thật nhiềuvà nhốt không có hạn kỳ”. Người lính sa cơ biết rõ
thảm kịch của số phận mình, họ đủ kiêu hãnh để chấp nhận, đủ dũng cảm
để đối đầu, họ không than vãn, trách oán gì cho chính mình, nhưng trong
tận cùng tâm khảm của những chiến sĩ miền Nam, những người con hẩm
hiu của tổ quốc vẫn luôn nghĩ đến trách nhiệm của mình, luôn quặn lòng
trước những thảm họa của đất nước mình, những bi kịch của tổ quốc
mình, của đồng bào mình. Xin cho người lính được một lần nhớ về
những người đã nằm xuống, nhớ về mẹ già, em thơ, nhớ về “một nửa của
mình” như một lời tạ lỗi và tri ân. Hãy cùng nhớ lại những
hình ảnh não lòng:
Hai người tù khiên một người
Tấm ni-lông rách hở đôi chân gầy
Vệ binh cầm súng quay quay
Quát: Đào cái lỗ, lấp ngay, rồi về.
(Nguyễn Mạnh An Dân)
Rất nhiều “cái lỗ” đã được đào vội ở TrãngLớn, ở Kà Tum, ở
Hàm Tân, ở Đồng Tháp, ở Kum Tum, ở Tuy Hòa, ở Bình Điền, ở Nghĩa
Lộ, ở Cổng Trời, ở khắp các trại tù lớn nhỏ trong cả nước.
Áo quan bằng chiếu lác tù
Chôn người lấp cả sương mù cuối năm
Chết đứng từ hồi bảy lăm
Đến nay mới chịu chết nằm đó thôi.
(Nguyễn Hữu Nhật)
Người lính, người tù đã thanh thản ra đi,đã “chết nằm” để không
còn phải kéo dài nỗi đau “chết đứng” nhưng còn những người ở lại, quặn
lòng nhìn cả một thế hệ, tương lai của dân tộc sống cảnh đọa đày:
Bé thơ lòng trắng như bông
Lê la hè phố trường không một giờ
Ngọc quí thiếu dũa cũng mờ
Nữa là hoa nhỏ phất phơ giữa đời.
(Nguyễn Mạnh An Dân)
Những đóa hoa nhỏ phất phơ giữa đời. Buồn lắm, đau lắm nhưng
cũng chưa đau, chưa buồn, chưa đáng âu lo bằng cả một kế hoạch, muốn
biến từng con người, biến cả một dân tộc thành những con người máy
không óc không tim:
Em bé được lệnh vẽ cờ
Tay run, bụng đói gượng tô nền hồng
Máu người khô từ bên trong
Mặt ngoài vẫn phải vui mừng, vỗ tay.
Nguyễn Mạnh An Dân)
“Vui mừng vỗ tay” . Nỗi vui gượng của em bé đói không có
ngày mai có khác nào hình ảnh người lính, người tù bị buộc phải vui
mừng, buộc phải “hồ hỡi phấn khởi” tri ân những kẻ đã giam cầm, đày
đọa mình, đày đọa cả dân tộc mình. Người tù không thể im lặng, không
để đồng lõa với những trò lừa mị đáng hổ thẹn và vào những ngày cuối
tháng 6 năm 1975, chưa đầy 1 tuần lễ sau khi bị lùa vào các trại giam,
những người tù tại L1 T5, hòm thư 7591 trại Trãng Lớn đã chuyền miệng
cho nhau một bài thơ nhỏ, rất nhẹ nhàng, rất thơ nhưng là một tiếng nói
dõng dạc, khẳng quyết không chấp nhận lối nói, cách sống rập khuôn,
một chiều như lời một bài hát người tù buộc phải hát: “… nếu là hoa tôi
sẽ là một đóa hướng dương….”
Dù yêu tất cả loài hoa
Saotôi vẫn ghét nếu là hướng dương
Mênh mông trời đất vô thường
Lẽ đâu chỉ biết một phương mặt trời
Dù yêu tất cả tiếng người
Sao tôi vẫn ghét những lời nói chung.
Tâm hồn ta rộng vô cùng
Lẽ đâu ngôn ngữ đóng khung hẹp hòi.
(Nguyễn Hữu Nhật)
Người tù không than vãn gì cho mình, nhưng đau lòng khi nghĩ
về mẹ, người mẹ Việt Nam không một ngày vui thời chinh chiến và chịu
cảnh đọa đày ngày đất nước được ca ngợi là hòa bình, thống nhất:
Chiều đi lao dịch về nhà
Thấy ngoài đồng gió thổi bà mẹ quê
Thaytrâu cày dưới chân đê
Mưa thu nặng hạt, nón mê bật vành.
(Nguyễn Hữu Nhật)
Người tù lại ứa lệ khi nghĩ đến mẹ mình,người mẹ mà:
Ngày con rời trường gian lao đời lính,
Tóc hớt ba phân mẹ cũng dâng Phật tóc mình
Con ăn nhà bàn bữa kịp bữa không
Mẹ cũng hai lần tương cà dưa muối
Con ứng chiến đêm lưng đèo dốc núi
Thức cùng con bêntượng Phật Mẹ quì…”
(Nguyễn Mạnh An Dân)
Và bây giờ con vào tù:
…Hỏi con chẳng biết bao giờ được ra
Ngày ngày cúng phật dâng hoa
Một bông sen nhỏ lệ nhòa thành hai
(Nguyễn Hữu Nhật)
Rồi trái tim người tù quặn thắt khi nghĩ đến một nửa của mình,
nghĩ đến những người tình, người vợ thời chiến, nghĩ đến những người
bông hoa buồn “đêm nghe tiếng đại bác” và cùng chung chịu với người
thương mọi gian nan, khốn khó. Người tù nghĩ đến cô tiểu thư Sài Gòn
của mình, hình ảnh tiêu biểu cho nhiều, rất nhiều những tiểu thư miền
Nam, những người vợ lính, vợ tù miền Nam, mỗi ngày phải đổi 4 chuyến
xe buýt từ Phú Nhuận đi Bình Tây để dạy học, hàng tháng nôn nao chờ
ngày được mua thực phẩm tiêu chuẩn với vài lạng thịt, lựa thứ thật nhiều
mỡ, đem về thái nhỏ thắng lên, giữ phần phần tóp cho mình và dành năm
ba muổng nhỏ mỡ nước chờ ngày thăm tù. Nàng không than vãn buồn
đau gì cho mình, nhưng luôn chia với người thương nỗi đau về cơn đau
của dân tộc:
Cô giáo vào dạy học trò
Nhìn đâu cũng thấy buồn xo mắt người
Bài học xã hội tốt tươi
Đến giờ phải giảng, ngậm ngùi, lại thôi.
(Nguyễn Mạnh An Dân)
Ôi! xin được một lần nhớ về em, chia với em nỗi đau chung:
Đường xa nón lá bung vành
Thương em lả ngọn rau xanh bờ rào
Em về bước thấp, bước cao
Nước mưa, nước mắt lẫn vào nước non.
(Nguyễn Hữu Nhật)
Trái tim héo úa và phiền muộn của người lính miền Nam rộn rã
nhịp đập ngày gặp gỡ hiếm hoi có được.
Chỗ em đứng chờ anh ra
Bây giờ thiên hạ trồng hoa cúc vàng
Mỗi lần có dịp đi ngang
Nhớ em anh tưởng áo hàng lụa bay
Nhìn trời sóng mũi cay cay
Mấy năm mới được có ngày gặp nhau
Một giờ gặp mặt qua mau
Năm ba câu chuyện đâu đâu đã tàn
Tự dưng thương ghế thương bàn
Nơi em đã để cho làng hương rơi
Anh muốn kêu lên: Em ơi!
Nhớ gì nhớ đến chết người như không.
(Nguyễn Hữu Nhật)
Rồi cũng có ngày người tù trở về, trở về với một hình hài não
lòng:
Cô em lấp ló bên rào
Hỏi thăm “bác” ở trại nào về đây.
Thực tình em đâu có hay
Cứ tưởng học tập đôi ngày rồi ra
Nào ngờ khi trở lại nhà
Thấy anh tàn tạ sao mà thảm thương.
(Nguyễn Tư)
Hình ảnh người tù có thể thảm thương dưới đôi mắt bàng quan
của người đời nhưng cho dù thế nào, nó mãi vẫn là những gì đẹp nhất,
thân quý nhất với một nửa của họ, bỡi vì:
…Người về như là mưa lũ
Tưới trên vườn hồn em khô
Người về như là ngăn giữ
Hóa đá thân em từng giờ.
Người về thắp lại ánh lửa
So giây chơi một đoạn buồn
Cuộc đời tự dưng thấy ấm
Tiếng hát xanh ngời lòng em…
(Hà Thúc Sinh)
Người lính, người tù, những “mưa lũ”, những “ánh lửa” của một
người đã tạ tình, đã luôn mơ những sum vầy với những gì không thể
thiếu:
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em.
(Tô Thùy Yên)
Đẹp biết bao, mừng vui biết bao khi sau những tháng năm dài
chia lìa nghiệt ngã là chút hạnh phúc mong manh, chút niềm vui đoàn tụ.
Tuy nhiên, bóng đen của kế hoạch hồi hương, của chính sách đày người
“kinh tế mới” lại tiếp tục vùi dập, đẩy người tù về nơi vô định.
Tù về còn nửa hàm răng
Nghèo mua rau muống già ăn đỡ lòng
Sợi dai nên cứ lòng thòng
Ngẳn cổ mà nuốt, đứng tròng con ngươi.
(Nguyễn Tư)
Người cộng sản có thể đã thành công một nửa trong kế hoạch vùi
dập và thuần phục người tù của họ. Gọi là một nửa vì họ đã có thể làm
thể chất của người tù hao mòn, sức lực của người tù cạn kiệt nhưng họ đã
không thể, không bao giờ có thể tước đi ý chí và niềm tin của người tù:
Đời anh gắn liền đám đông
Tự do hoặc chết chứ không cuối đầu
Người mà chẳng khác ngựa trâu
Hỏi em mơ ước sống lâu làm gì
Sống hèn thà chết ngay đi…
(Nguyễn Hữu Nhật)
Nhiều năm tháng đã trôi qua, nhiều biến cố lịch sử trọng đại đã
xảy ra, Liên sô và các nước cộng sản Đông Âu đã lột xác, đã chuyển
mình. Ánh lửa của dân chủ, tự do đã phủ tràn trên toàn vùng Bắc Phi và
tỏa dài trên toàn thế giới. Những câm nín, uất nghẹn, những nhẫn nhục
cam chịu đã có dấu hiệu bùng lên trên quê hương Việt Nam. Chúng ta có
quyền tin tưởng một ngày không xa, chúng ta sẽ có dịp nhỏ lệ thêm một
lần nữa trước lá quốc kỳ thân yêu của mình. Đây không phải là những
giọt lệ buồn khi “hạ kỳ lần cuối” mà là những giọt lệ hân hoan khi được
nhìn thấy lá quốc kỳ thiêng liêng của tổ quốc, biểu tượng của
tự do, dân chủ và nhân quyền ngạo nghễ tung bay trên khắp bầu trời quê
hương thân yêu. Xin hãy cùng nhau ước mơ và hy vọng. Xin chân thành
cảm ơn những khuôn mặt trầm buồn, những ánh mắt xót xa chia sẻ của
quí vị, và xin trân trọng kính cháo tất cả quý vị.
Nguyễn Mạnh An Dân
(Bài nói chuyện ứng trong buổi sinh hoạt, ra mắt tập san TinV ăn
15-4-2012 tại nhà hàng Sai Gon Maxim, Houston, TX Hoa Kỳ
Mười năm lặng lẽ qua mau lắm
Mười năm lặng lẽ qua mau lắm
Sao chẳng giơ tay níu lấy người
Những ai hoạn nạn sông dài đắm
Chiến hữu nhận chìm giữa bể khơi.
Mười năm lặng lẽ qua mau lắm
Sức mỏn hơi tàn một sớm mai
Giặc dữ tung quân ra từng đám
Đội cờ giương lọng trói người ngay.
Mười năm lặng lẽ qua mau lắm
Quê hương ngàn dặm thắt lòng đau
Đồng đội ngại ngùng xa xa ngắm
Anh em vùng vẫy giữa ngàn dao.
Mười năm lặng lẽ qua mau lắm
Hãy đứng hiên ngang kết một vòng
Những ai oan khuất trong trời xám
Hãy tới bên nhau nhóm lửa hồng!
Mười năm lặng lẽ qua mau lắm
Chẳng sợ thân vùi chốn huyệt sâu
Mà sợ lòng già đâm ngao ngán
Chỉ muốn yên thân mặc sóng gào.
Cung Vũ
Mộng vờn khua tiếng gọi
Thơ ngẩn ngơ…dòng oan khiên trăm năm nhược tiểu!
Tin yêu rã rời khôn khuây, vần suy tưởng lênh đênh…
Án điêu linh! Trang thơ vương lãng đãng khắp oan tình...
Mộng ước hỡi! Xin gửi tiếng lòng chơi vơi hoán tưởng
Khúc chiêu hiền…Ai đánh lạc mùa huyễn hoặc tâm tư!
Thơ trang trải xiết nguồn cơn hoen lời ru phiến diện,
Mong nhận dạng chút mơ lành, nỡ mặc-cả-như-ranh...
Ơi bao uất khí chạnh niềm hồn thơ xanh xao sức sống.
Suốt kiếp dập vùi, hẹp lòng trời-thao-thức chưa quên
Nước mắt rượi bờ môi giáng-lời-di-họa vết suy nguồn!
Dấu chuẩn mực duỗi-co-mộng-đời vờn trêu ảo tưởng!
Thơ bị lên vần-chua-ngoa chờ đâm toạc nét đan thanh
Đành xoay khép mở lệch vầng trăng nghiêng chiếu rọi
Đêm dẫu vô cùng cũng vẫn rén lòng đợi ánh bình minh
Nhàm phiên khúc phiêu lưu cố dĩ-diệt những công trình
Thơ giàn trải khiết thơm, suốt long đong từng hơi thở,
Le lói bến-xuân-nồng lởn vờn quyến luyến đưa duyên
Góp huyễn mộng khéo vùi thơ gieo hạt nhân thành khẩn
Giá-hàm-oan theo ách nước làm trách-nhiệm-đưa-vời
Hỡi dòng trêu công-trực và thách-thức luận trang đời!
Nay dám hỏi những ai nhàn cư trong cõi hồn phấn khích
Đem yểu mệnh dân tình sẻ chia cùng vận mệnh nước non
Vòng xoay thế nhân đăm chiêu nuối tiếc lối-hoang-đường
Mơ tồn tại cảo thơm dâng hiến mùa vàng say thảm kịch
Ôi! Máu-mực-hí-ngôn cợt cười trên cơn đau hóa thạch.
Lê Thi Việt Nam
TIẾNG VỌNG TỪ ĐÁY VỰC QUỐC NỘI:
Bùi Minh Hằng ghi lại lý lich của mình
Nguyệt Quỳnh
Chúng ta
Tự tay ghi vào lý lịch
Định mệnh của dân tộc mình
“Chúng ta - Những kẻ bội thu, Đỗ Trung Quân”
Trong bài thơ “Chúng ta - Những kẻ bội thu”, nhà thơ Đỗ Trung
Quân viết về một điều không mới, dường như ai cũng biết rồi, thế nhưng
ông đã làm người đọc rúng động! Ông viết: chính sự thờ ơ của chúng ta
tạo nên định mệnh khắc nghiệt cho mình và cho dân tộc mình. “Chúng ta
gieo mầm dửng dưng nên gặt về lạnh nhạt, chúng ta thờ ơ với con người
nên gặt về con vật.”
Bài thơ mạnh. Mạnh về ý lẫn lời. Và điều làm người ta rúng
động là Sự Thật, là những gì đang xảy ra hàng ngày trong xã hội chúng
ta đang sống. Phải chăng mọi sự việc xảy ra đều có lý do, mọi hậu quả
chúng ta nhận lãnh đều có nguyên nhân của nó !?
***
Chúng ta thờ ơ với con người nên gặt về con vật. Câu thơ làm ta
liên tưởng đến những chuyện xảy ra quanh mình, những hành động gần
như thiếu hẳn tính người, như: chuyện cả làng hùa nhau đánh chết hai
thanh niên trộm chó; chuyện người lái xe chở bia gặp nạn van xin những
kẻ hôi của vô cảm; hay nụ cười đểu của viên quản giáo khi ngợi khen
những hình ảnh nhục mạ kỹ sư Đặng Xuân Diệu do gã tù hình sự vẽ trên
tường trại giam … Những giọt nước mắt uất nghẹn của tù nhân Trương
Minh Tam cùng các hình ảnh bị vẽ nửa người nửa chó của người thanh
niên mộ đạo, thành viên của nhóm Bảo Vệ Sự Sống, sẽ khắc ghi vào ký
ức chúng ta một thời đại đen tối nhất của xã hội và của quyền con người
trên đất nước Việt Nam.
Trong khi những giá trị về nhân quyền đã được các quốc gia trên
thế giới tôn trọng và ngay cả nhà cầm quyền VN cũng công khai thừa
nhận, thì người VN vẫn tiếp tục phải sống trong khổ đau, đoạ đày và áp
bức. Người dân vẫn tiếp tục bị cướp đất, bị ép cung, bị đánh chết trong
các đồn công an, bị chà đạp nhân phẩm trong các trại tù, bị bắt giam vô
cớ... Mới đây, để tránh né sự trơ trẽn trước thế giới, lãnh đạo đảng vừa
cho dời phiên toà xử chị Bùi Thị Minh Hằng, chị Thúy Quỳnh, và anh
Nguyễn Văn Minh qua ngày 12/12/14 tức là sau ngày Quốc Tế Nhân
Quyền. Họ biết rằng các lý cớ để giam giữ các anh chị trên chỉ làm trò
cười trước mắt nhân loại. Chẳng có một chính phủ đúng nghĩa nào lại
bày cái trò "cản trở lưu thông" như một cái cớ để mà bắt giam, để nhốt tù
người dân trong nhiều tháng trời. Ngay cả các chế độ thực dân, đế quốc
cũng còn đủ tự trọng để không làm những việc như vậy.
Các trò hèn kém đó chỉ khiến cho công luận VN và quốc tế thấy
rõ những kẻ nắm quyền đang bí lối và bối rối đến mức độ nào. Mọi loại
biện hộ để chà đạp các quyền đương nhiên của con người đều không còn
lừa bịp được ai. Người dân VN ngày nay thừa kiến thức và thừa khả
năng để vạch ra sự thật về tiêu chuẩn nhân quyền của nhân loại mà nhà
cầm quyền VN đã long trọng ký kết. Chị Bùi Minh Hằng là một trong
những người đã miệt mài quảng bá để người dân Việt biết đến các quyền
của họ là gì và ai đang cướp trắng các quyền đó của họ.
Nhưng … có thực bên cạnh những con người đang bị hành hạ vì
đấu tranh cho nhân quyền, đấu tranh chống Trung Quốc, chúng ta luôn
nhìn thấy sự thờ ơ, dửng dưng, và ích kỷ của đại đa số quần chúng chung
quanh không? Tôi cho rằng không hẳn thế.
Mặc dù không nói ra, hầu như ai ai, cả những người đang phục
vụ trong bộ máy cầm quyền đều bức xúc trước các vấn đề của xã hội, các
vấn nạn của đất nước. Có lẽ nên nói rằng xã hội của chúng ta bao gồm
phần lớn những con người hoang mang, thụ động, sợ hãi, đánh mất chính
mình thì đúng hơn. Nhưng càng hoang mang, càng sợ hãi thì chính
chúng ta lại trở thành nạn nhân của chính mình.
Trong hoàn cảnh sợ hãi tràn lan đó, đã có những người chọn cho
mình một thái độ khác. Sau kết quả của phiên toà sơ thẩm, với những
bản án khắc nghiệt được tuyên cho chị Bùi Hằng, chị Thuý Quỳnh và
anh Minh, Ls Trần Thu Nam kể lại rằng: chị Bùi Hằng đã phản ứng rất
bình tĩnh, chị điềm đạm nở một nụ cười trên môi, chị hát một bài hát gì
đó về Đức Mẹ khi đi từ vành móng ngựa ra xe tù. Cô Thúy Quỳnh thì im
lặng tỏ ra bình tĩnh, khi đón nhận kết quả. Còn anh Văn Minh quay lại
nói với vợ rằng: không có vấn đề gì cả, 2 năm 6 tháng cũng nhanh thôi.
Sự thật thì đó là một bản án với mục tiêu khủng bố tinh thần những
người đấu tranh, nhưng các anh chị trên và hầu hết những người đấu
tranh hiện nay đều chấp nhận vì họ tin vào những việc mình đang làm.
Họ hiểu rằng cái giá của nhân quyền, dân chủ không hề nhỏ. Nhưng nếu
chúng ta không dũng cảm, không chấp nhận hy sinh để giành được nó,
thì cái giá mà chúng ta phải trả còn đắt hơn gấp trăm lần. Tất cả đang
miệt mài gieo những hạt giống mới cho đất nước mình, cho thân phận
mình.
Bởi chính vì chúng ta sợ hãi và im lặng nên thiểu số lãnh đạo
mới dám làm chuyện đem bán tài nguyên đất nước làm của riêng. Chúng
ta có dửng dưng, thờ ơ thì họ mới dám bán từng phần chủ quyền quốc
gia từ ngoài khơi xa xăm đến sâu trong đất liền và cùng khắp đất nước.
Chúng ta vô cảm trước giá trị con người thì họ mới dám mạnh miệng
tuyên bố rằng lý do phải trì hoãn nhân quyền là vì dân trí thấp… Chắc
chắn sẽ không có một sự nhượng bộ nào từ những kẻ cai trị nếu chúng ta,
những người bị cai trị, tiếp tục giữ thái độ cam chịu.
Nhưng rõ ràng bất cứ một sự phản kháng lớn hay nhỏ nào của
người dân lúc này đều làm cho kẻ cầm quyền run sợ vì họ biết họ đang
cản bánh xe tiến hóa của nhân loại. Hãy xem sự cuống cuồng của lãnh
đạo đảng khi phải ra lịnh "bắt quả tang" một người đang ngồi viết văn;
"bắt khẩn cấp" một nhà văn kiêm blogger hiền lành, điềm đạm, cao tuổi
lại đang bị bệnh liệt nửa người. Đó là Nguyễn Quang Lập tức Bọ Lập,
chủ trang blog nổi tiếng Quê Choa. Nhìn cảnh ông Lập bị công an kéo đi,
lòng ta tự hỏi những kẻ cầm quyền này sẽ hành xử ra sao nếu bên cạnh
nhà văn Nguyễn Quang Lập là sự góp mặt của hàng trăm, hàng ngàn
người khác?
Tôi tin rằng có rất nhiều người khác cũng có cùng câu hỏi đó
trong lòng mỗi khi nhìn các blogger bị bắt. Bằng chứng là càng ngày
càng có nhiều người dấn thân bước tới sau các vụ bắt bớ. Đúng như bài
giảng của Linh Mục Giu-se Nguyễn Văn Toản tại Dòng Chúa Cứu Thế
vào đầu tháng 12.2014. Dù là người ngoại đạo, tôi đã nhìn thấy hình ảnh
vác thập giá của chúa Giêsu. Đây là lời tự hứa phải tuyên chiến với sự
dối trá. Linh mục Toản đang theo chân chúa Giêsu vác thập giá giữa
cuộc đời nhiễu loạn này cho chính mình và cho tha nhân. Còn ai nữa
muốn đứng nhanh lên để cùng đi với Linh mục Toản?
Nếu đất nước chúng ta may mắn, tôi tin rằng ngay trong thập
niên trước mặt thôi, người ta sẽ quên dần những năm tháng đen tối này
mà chỉ nhớ đến với lòng biết ơn sâu xa những con người can đảm, những
con người chịu đau đớn, chịu bách hại, chịu trả giá để nhân quyền có mặt
tại VN.
Nhưng dù với sự hy sinh cao cả đó, chuyện đẩy lùi được bóng tối
trên đất nước này vẫn không thể thực hiện được nếu chỉ do một nhóm
người nỗ lực. Đẩy lùi bóng tối, tuyên chiến với sự giả dối, với cái ác
chắc chắn cần sự góp mặt của tất cả chúng ta.
Xin hãy giúp nhau vực lại niềm tin, vực lại bản sắc của chính
mình trong mỗi con người Việt Nam. Chúng ta sẽ tự tay ghi một lý lịch
mới cho chính mình và cho định mệnh cả dân tộc.
Nghĩ vụn bên cốc cà phê sáng:
Chủ tọa hội nghi
Nguyễn Hữu Nghĩa
Trong đời sống hàng ngày, ai cũng đã có ít nhất một lần ngồi
họp, hay trông thấy người ta ngồi họp.
Có nhiều loại họp: họp nội bộ trong công ty, tại sở làm; họp công
cộng tại tòa thị chính, trình bày các dự án của thành phố để thu nhận ý
kiến cư dân; lớn hơn nữa thì họp ở quốc hội, Liên Hiệp Quốc,.. Muốn
cho buổi họp tiến triển nhanh, giải quyết được toàn bộ nghị trình, không
dằng dai lê lết, phải theo qui tắc hội nghị, dù họp lớn hay họp nhỏ, họp
nhiều nước hay họp vài mươi người.
Điều khiển hội nghị là chủ tọa đoàn, thường là 3 người, đứng
đầu là chủ tọa, và 2 phụ tá; hội nghị lớn đôi khi chủ tọa đoàn có tới 5
người, đứng đầu là chủ tịch chủ tọa đoàn và bốn vị chủ tọa. Thư ký đoàn
thường gồm 2 hay 3 người, có nhiệm vụ lập biên bản.
Nhiệm vụ và quyền hạn của vị chủ tịch chủ tọa đoàn tùy theo
hoàn cảnh mà thay đổi. Trong một công ty nhỏ, không có chủ tọa đoàn
nên chủ tịch công ty là chủ toạ, muốn nói huyên thuyên bao lâu thì nói,
cử toạ được trả lương để nghe, chẳng ai lấy thế làm phiền. Chủ tọa có thể
hỏi ý kiến cử tọa, rồi tiếp tục nói hay lấy quyết định theo ý riêng.
Họp tại các cơ quan chính quyền hay quân đội cũng tương tự
như thế. Cả chủ toạ lẫn cử toạ đều lãnh lương của chính phủ để nói và để
nghe, cũng có bàn bạc đấy, nhưng chủ toạ là người quyết định mọi việc.
Họp tại các đảng phái chính trị, do trung ương đảng chủ tọa,
đảng viên hay đại biểu các chi bộ được quyền trình bày ý kiến và đôi khi
lấy biểu quyết để các cơ quan trung ương nghiên cứu.
Họp tại các công ty lớn có Hội đồng quản trị, cuộc thảo luận
thường mở rộng hơn, chủ tọa đoàn là ban giám đốc, mọi việc phải thông
qua biểu quyết.
Tại các nghị hội chính phủ như hội đồng thành phố, quốc hội,..
thị trưởng, chủ tịch quốc hội chủ toạ các phiên họp và các vấn đề được
thông qua bằng cách bàn cãi và biểu quyết.
Trong sinh hoạt của các đoàn thể cộng đồng, liên hội hay các hội
có nhiều chi nhánh, chủ toạ đoàn không có chức năng lãnh đạo, mà chỉ
có nhiệm vụ điều khiển buổi họp sao cho nhanh chóng, công bằng và
hiệu quả. Tôi muốn đề cập tới việc chủ tọa các hội nghị loại này, vì cộng
đồng VN trải qua bao nhiêu năm sinh hoạt, rất nhiều vị chủ tọa vẫn
không hiểu rõ là họ chỉ chủ tọa hội nghị, chứ không phải họp đảng hay
họp chính phủ. Một khi họ được bầu lên ngồi trên bàn chủ tọa thì say
quyền lực, bắt đầu loạng quạng, cứ tưởng đang ngồi trên ngai vàng hay
ghế giáo chủ, cử tọa là thần dân hay tín đồ, bảo sao nghe vậy.
Nên nhớ, trong hội nghị, chủ tọa không phải chủ công ty, trưởng
cơ quan, hay đại diện trung ương đảng. Chủ tọa chỉ là một đại biểu được
bầu ra để điều hòa buổi họp, không hơn không kém.
Thành phần của buổi họp là toàn thể hội viên, gọi chung là “đại
hội”. Nếu là liên hội hay hội có nhiều chi nhánh, các nơi cử đại biểu về
họp, thì gọi là “hội đồng đại biểu” hay gọn hơn, “đại hội đồng”. Trong
trường hợp này các đại biểu đồng đẳng, kể cả đại biểu các địa phương
hay đại biểu của ban chấp hành trung ương; chỉ có đại biểu mới được
quyền họp, phát biểu, biểu quyết, bỏ phiếu một cách độc lập, không nhất
thiết phải theo ý chung của ban chấp hành và của địa phương.
Trong các buổi họp định kỳ, chủ tịch hay tổng thư ký của Hội
chủ toạ các buổi họp. Hai vị này có thể chỉ định một người trong ban
chấp hành làm chủ toạ thay họ.
Trong các buổi họp bất thường, thí dụ như có tranh chấp giữa
trung ương và địa phương hay trúng vào kỳ bầu cử, cử toạ sẽ bầu ra một
chủ toạ đoàn tương đối cân bằng ý kiến, không nghiêng về một bên.
Chủ-tọa đoàn gồm 2 hay 3 người: 1 chủ-toạ, 1 phụ tá theo dõi
danh sách những người xin phát biểu, và 1 phụ tá thông-suốt Hiến
Chương, Điều Lệ và Nội Qui để lên tiếng cho biết ngay nếu có điều gì
vượt ra ngoài qui lệ.
Thư-ký đoàn gồm 2 người, một thư-ký lập biên-bản trong khi
phụ-tá ghi-nhận những diễn-tiến đang xảy ra khi thư-ký bận viết.
Nếu có bầu-cử, tân ban chấp hành vừa đắc cử sẽ trở thành chủ-
toạ đoàn và thư-ký đoàn trong suốt thời-gian còn lại của đại-hội.
Về quyền-hạn và nhiệm-vụ của Chủ-tọa:
- Tuyên-bố khai-mạc và bế-mạc mỗi phiên họp.
- Điều-khiển buổi họp đi vào các mục ghi trong nghị-trình.
- Mời cử tọa phát-biểu.
- Tóm-tắt các ý-kiến, cho biểu-quyết và tuyên-bố kết-quả biểu-
quyết.
- Điều-khiển thảo-luận và biểu-quyết các dự-thảo quyết-nghị.
Trong sinh hoạt của Văn Bút Quốc Tế, chủ-tọa không được phép
biểu-quyết. Nếu hai bên ngang phiếu, chủ-tọa cho hai bên trình bày thêm
rồi biểu quyết lần nữa; nếu vẫn ngang phiếu, vấn đề đó sẽ được bỏ qua,
bước sang mục kế.
Thượng viện Mỹ do phó tổng thống chủ tọa; chủ toạ không biểu
quyết, nhưng nếu hai bên ngang phiếu, phó tổng thống sẽ bỏ phiếu nếu
muốn, và ý kiến của chủ tọa có tính cách chung quyết.
- Chủ-tọa và thành-viên khác trong Chủ-tọa đoàn có quyền phát-
biểu với tư-cách cá-nhân (như một đại-biểu) những phải nói câu “tôi xin
tuyên-bố xuất nhiệm để phát-biểu với tư cách cá nhân”, sau khi phát-
biểu xong, lại nói câu “tôi tuyên-bố tái-nhiệm.” Thời lượng chủ toạ
tuyên bố với tư cách cá nhân không dài hơn thời lượng dành cho các đại
biểu khác.
- Nếu chủ-tọa vắng mặt, phó chủ-tọa hay phụ tá sẽ thay thế cho
tới khi nào chủ toạ trở lại.
Khi hội-nghị đại biểu tiến-hành:
- Chỉ có đại-biểu mới có quyền phát-biểu, nhưng phải giơ tay và
chờ chủ-tọa mời.
- Chủ-tọa có thể cân-nhắc để mời người phát-biểu (theo thứ tự
ưu-tiên giơ tay, hay ưu-tiên cho những vị chưa từng phát-biểu).
- Trong trường-hợp cần-thiết, chủ-tọa có thể mời một chuyên-gia
về vấn-đề đang bàn, hay một hội-viên không phải là đại-biểu, phát-biểu
trước ĐHĐ, nhưng phải được các đại-biểu đồng ý.
- Thời-lượng phát-biểu do chủ-tọa đề-nghị. Trong trường hợp
đặc biệt, chủ-tọa có thể cho phát-biểu lâu hơn, nhưng phải công-bằng cho
cả hai ý-kiến đối chọi, và không quá 10 phút cho mỗi bên.
- Mỗi đại-biểu chỉ nên phát-biểu một lần trong cùng vấn-đề;
riêng đại-biểu nêu ra vấn-đề đó có thể phát-biểu một lần nữa trước khi
chủ-tọa tuyên-bố cho biểu-quyết.
- Chủ-tọa có thể mời một đại-biểu ra khỏi phòng họp trong một
thời hạn nhất định (5 phút, 10 phút) và cho phép trở lại; nhưng phải
tuyên-bố lý-do mời ra.
Tại hội nghị loại này, chủ-tọa chỉ là người nắm quyền điều-khiển
để buổi họp diễn tiến một cách thông-suốt. Chủ-tọa không có quyền cầm
micro “dạy-bảo” các đại-biểu khác phải thế này hay phải thế kia hay tự
quyết định rằng “cái này sai, cái kia đúng” mà không thông qua biểu
quyết…
Trên đây là những điều căn bản về các loại sinh hoạt hội nghị
đầy dẫy trên Internet. Riêng sinh hoạt hội nghị của Văn Bút, Văn Bút
Quốc Tế đã nêu ra Qui tắc hội nghị gồm 18 điều (Rules of Procedure of
the Assembly of Delegates of International PEN) trong bản Điều lệ, có
vẻ như chẳng ai thèm để mắt tới. Không đọc tài liệu của hội mình thì
chớ, có người lại dùng kinh nghiệm và kiến thức hạn hẹp nơi công sở
làm khuôn mẫu để đưa ra những lời khen chê không thích hợp.
Mười một năm không dự họp Văn Bút, nay xem 3 youtubes ghi
lại Đại hội kỳ 10 nhóm tại California hồi đầu tháng 12-2014, tôi không
khỏi băn khoăn cho sinh hoạt đoàn thể và cộng đồng. Với tâm lý sai lầm
cho rằng chủ tọa là quan tòa, có quyền phán xét, mỗi lần sắp họp hành
các bên lại ra sức lôi kéo, mua chuộc hay dàn dựng chủ toạ để lấy lợi về
phe mình thì sinh hoạt đoàn thể chẳng bao giờ khá nổi!/.
Còn gì nữa đâu!
Còn chi nữa đâu chờ với đợi
Tất cả tan rồi phải không anh
Hy vọng xa tầm tay diệu vợi
Sợi tình xưa thắt lại mong manh
Em biết rồi đây ta cũng sẽ
Thưa dần đưa đón, lỗi hẹn thề
Vài câu han hỏi sao buồn tẻ
Hờ hững thay vào những đam mê
Chia tay còn đọng bao nhung nhớ
Thả lỏng đời nhau hẳn hết yêu?
Níu kéo làm chi tình đã lỡ
Đêm dài thao thức đã bao nhiêu
Lối hẹp em đi đầy sóng gió
Ngõ nhỏ anh vào tưởng dịu êm
Mà sao từng bước trông vò võ
Quay đầu nhìn lại nhói đau thêm…
Miên Kim
Cát bụi
Nhờ tai điếc
tôi không e sợ sấm,
Vì mắt mù
nên chẳng thấy đường ngay.
Ngày qua ngày
chỉ nhìn thấy "thằng tôi"
Ngai cao ngất
ngồi trên nhìn đồng loại.
Rồi một hôm
tôi nghe lời Chúa gọi
hoặc Phật,Trời
nhắc câu hỏi bên tai:
"Con còn gì
nơi hơi thở sau cùng?"
là "Cát bụi!
con trở về cát bụi!"
Phương Duy
17 Dec 2014
Một cách thiền để dưỡng sinh
trong Thái cực quyền
(Trích sách “TẬP THÁI-CỰC DƯỠNG SINH,
Let’s Practice Nutri-Living TaiChi Exercises!”
Đỗ Quang-Vinh, Canada, 2013)
http://doquangvinhvenguon.com/
Hằng ngày, chúng ta đều
phải làm việc và suy nghĩ; những
cảm xúc, những tiếng động xung
quanh, hết thảy đều kích động
khiến ta đau đầu, làm rối loạn tuần
hoàn, căng thẳng cơ bắp và thần-
kinh, vì vậy ta cần được thư giãn
để dưỡng sinh.
Thiền cũng như Thái-cực-quyền đều là lưỡng diện của nhất điểm
dưỡng sinh. Nói khác, cả hai phương-thức này đều nhằm giải-quyết
những bế-tắc về tâm sinh lý ngõ hầu giữ-gìn sức khoẻ, ngăn ngừa và
chữa trị bệnh tật mà tăng thêm tuổi thọ. Tuy cùng chung một mục-đích
song mỗi cách có những đặc-tính khác nhau: nếu thiền là phương-pháp
tĩnh thì Thái-Cực-Quyền là phương-pháp động, cũng là thiền song thiền
động.
Và vì với mục-đích dưỡng-sinh, nên ta không nhìn quyền dưới
góc độ võ-thuật, và chỉ bàn về khía cạnh y-lý mà thôi. Cho nên cũng có
người gọi cho rõ hơn đó là môn y-võ dưỡng-sinh. Môn này là mô-hình
của triết-lý âm dương dịch-học, là một nghệ-thuật thẩm-mĩ mang tính
khoa học, và nhất nữa, là một môn thuốc linh-họat có cơ-sở y-lý. Vì vậy
trong bài này, ngoài tính thẩm-mĩ nói trên, chúng tôi xin phác họa một
vài cái nhìn về triết-lý và y-lý mà thái-cực-quyền đã ứng-dụng.
Giả thử người tập Thái Cực Dưỡng Sinh hai tay cầm que lân tinh
chiếu sáng trong đêm, ta sẽ thấy những chiêu thức vẽ ra những đường
thẳng đường cong, vòng cung hình học giao nhau thật đẹp. Những nét vẽ
mĩ thuật này còn cho thấy các chuyển động đều dựa trên nguyên lý động
học với nguyên tắc đòn bẩy hay cân bằng hai lực tương tác đối nghịch
trong khoa vật lý học.
Cái tương tác đối nghịch này hệt như mô hình âm dương tương
tác trong Dịch lý triết học cũng như trong y-lý cổ truyền.
§1-Thái-cực-quyền và triết-lý âm dương:
1.1- Triết-lý âm dương: thái cực, âm dương, chu-kỳ sinh và tái
sinh
a- Việt-triết âm dương
Ðiều cần nói ngay là văn hóa Bách-Việt vốn sở-hữu một nền
Việt-Triết Âm Dương. Trong cuốn Tiếng Việt Tuyệt-Vời ấn bản 2,
chúng tôi có dành trọn chương 8 để chứng minh rằng Triết-Lý Âm
Dương là sở-hữu của tổ-tiên Việt-tộc, không hẳn được chứng thực bởi
di-vật trống đồng như đã được các nhà khảo cổ phát-hiện, cũng như được
xác-minh qua tài-liệu “Bách Việt Tiên-Hiền Chí” trích trong đại-bộ
Lĩnh-Nam Di-Thư của Trung-Hoa mà học-giả Hán Chương Vũ Ðình-
Trác sau này đã tìm thấy trong thư-viện của Ðại-Học Ðông-Kinh, vâng,
không hẳn là như vậy, mà cụ-thể nhất, và hùng-hồn hiển nhiên nhất là
triết-lý ấy tiềm-tàng ngay trong ngôn-ngữ Mẹ Việt. Triết-lý ấy được
sang nhượng cho ngoại-tộc khi người Hán xâm chiếm Việt-tộc mang
toàn bộ văn-hoá Việt đi theo, và dĩ-nhiên dần dà qua các thời-đại đã
được biến-đổi cho thích-nghi với chế-độ mới, khiến lịch-sử sau này cứ
quen gọi là Dịch-Lý Trung-Hoa. Người Trung-Hoa ngày nay quen gọi
“the Taoist Taichi Chuan” là ý nói môn quyền này dựa theo triết-học của
Lão-Tử. Thực ra Lão Tử của Ðạo-Giáo hay Khổng Tử của Nho giáo
đều là các triết-nhân kế-thừa các tiên-hiền của Bách-Việt. Trong tài-
liệu Bách Việt Tiên-Hiền Chí, triết lý Âm Dương được xuất hiện dưới
ngòi bút của các vị tiên hiền: Kế Nghi, Dưỡng Phấn, Quách Thương. Kế
Nhi đề cập luật âm dương với ngũ hành. Dưỡng Phấn trình bày hậu quả
của âm dương. Quách Thương nhấn mạnh dương đức là căn bản của
chánh sách tu, tề.” (Vũ Đình-Trác)
b- Thái-cực (太極), âm dương, chu-kỳ sinh và tái sinh
Trong vũ-trụ, mọi sự đều biến chuyển không ngừng, không có gì là
tuyệt-đối, tất cả đều là tương-đối, mọi sự đều hàm chứa sẵn hai mặt
tương khắc mà lại tương sinh. Ấy là cặp âm dương tương đối, tuy nhị
nguyên đấy mà lại huyền đồng nhất thể, như hai mặt của bàn tay.
Âm Dương bao trùm không gian và thời gian, khí hậu thời-tiết, sự việc
và mọi hiện tượng trong vũ-trụ. Có vui thì cũng có buồn, hết nóng phải
lạnh, hết ngày thì sang đêm. Ngày đêm tuy tương khắc, nhưng tương
sinh điều hoà cho cuộc sống con người. Cho nên không thể chịu đựng
nổi suốt một ngày dưới sức nóng gay gắt và ánh sáng chói chan của mặt
trời, con người chờ đón bầu khí mát dịu của đêm trăng. Hết ngày sang
đêm, qua đêm tới ngày. Bĩ cực thì thái lai. “Ai giàu ba họ ai khó ba đời”.
Thương hay ghét cũng chỉ là lưỡng diện của nhất điểm tình yêu: Yêu
nhau lắm thì cắn nhau đau, ghen hờn chẳng qua là mặt trái của yêu
đương. Đấy là lẽ biến dịch của tự-nhiên.
Thừa hưởng Triết-Lý Âm Dương của Bách-Việt Tiên-Hiền, Lão
Tử của Trung Hoa viết lại Dịch-Lý (易 理), chữ Dịch, Hán-tự (易) tượng
hình hai hình ảnh âm dương tương hỗ gồm chữ Nhật là mặt trời
“dương” nằm bên trên chữ Nguyệt là mặt trăng “âm”, nói lên ý nghĩa
của âm dương dịch học.
Nói theo cách nhìn nhân-bản, thuận âm dương là tuân theo trật tự
thiên-nhiên, thuận thiên-lý, không cưỡng Đạo Trời. Giải thích một cách
triết-lý, cái Đạo (道) ấy, là nguyên-lý tuyệt đối của vũ-trụ đã có từ trước
khi khai thiên lập địa, không sinh, không diệt, không tăng không giảm,
một nguyên lý huyền diệu, siêu hình, bất khả luận. Cái tuyệt đối ấy là cái
khí tiên-thiên, là chỗ hư vô Vô Cực (無極). Một máy vi tính bỏ không,
bất động, máy ấy đang ở trong trạng thái của Hư Vô, Vô Cực, bỗng có
người ngồi vào định đặt tay lên bàn phím, người ấy đã đem vào cái hư vô
đó một chuyển động, đấy là khởi sự có Thái Cực (太極), là khởi điểm
của lịch trình biến hoá, là nguồn mạch của dịch biến âm dương. Vô Cực
hiện hữu trước khi có chuyển động. Khi có một sự khởi động thì tình
trạng bất động của Vô Cực không còn nữa, lúc ấy Thái Cực bắt đầu và
phân tán nhị nguyên biến dịch theo hai mặt âm và dương đối nghịch,
rồi kết thúc chu kỳ sinh bằng phản phục trở về Thái Cực theo lẽ huyền
đồng nhất thể, rồi lại cứ thế tiếp diễn chu kỳ tái sinh, hệt như chu kỳ
của hình Sin trong toán học. Thái là lớn hơn hết thảy, là cái chỗ tột cùng,
tận điểm. Cái trạng thái “trống không” của Vô Cực là Âm, và cái “mầm
mống chuyển động” khởi phát từ Vô Cực là Dương. Âm và Dương tuy
tương khắc nhưng điều hợp làm một thực thể. Trời là Dương, Đất là Âm,
con người hấp thụ khí Dương của Trời, khí Âm của Đất để điều hoà cuộc
sống. Ấy là Tam Tài “Thiên Địa Nhân". Có nam thì có nữ. Nam nữ giao
hoà để sinh con là thuận thiên lý âm dương, là hợp Đạo. Dịch biến từng
được diễn tả trong Phục Hy Thái Cực Đồ (伏羲太極圖) sau đây (hình 1):
(hình 1)
Tác-giả Jou Sung Hwa nối Dương với Âm và Thái-Cực bằng
đường cong là do tính động của dịch biến xoay vần; nếu là đường thẳng
tức Thái-Cực ở tình trạng tĩnh (1).
Và trong mỗi Âm, đều có Dương, trong mỗi Dương đều có Âm
là mầm mống của chuyển động dịch biến, nên mới nói Dương cõng
Âm, và Âm cõng Dương. Vì có chút mầm Âm trong Dương, nên khi
Dương đạt tới cực độ, thì mầm Âm trong Dương làm cho Dương chuyển
biến dần sang Âm. Vì có chút mầm Dương trong Âm, nên khi Âm đạt tới
cực độ, thì mầm Dương trong Âm làm cho Âm chuyển biến dần sang
Dương để trở về đạt tới cực độ, kết thúc chu kỳ sinh, rồi chu kỳ tái sinh
lại cứ thế tiếp diễn. Và như vậy ngày mới chuyển dần sang đêm, đêm
mới chuyển dần sang ngày.
Âm thịnh thì Dương suy. Dương thịnh thì Âm suy. Làm sao
quân bình được âm dương tức là quân bình giữa tình cảm và lý trí. Trong
người nam, không hoàn toàn 100% dương tính, phải có một chút âm-tính
thì con người mới điều hoà được cuộc sống an vui, ngược lại đối với
người nữ cũng thế, nếu không thì hoặc quá cứng nhắc, hoặc quá yếu
mềm, cuộc sống không thể hài hoà, hài hoà với chính bản thân, với thiên
nhiên Đất Trời, và với tha-nhân xung quanh mình.
Cho nên yếu tố Dương và Âm được tượng hình như sau (h. 2):
Thái Dương
Dương tăng dần Âm tăng dần
Thái Âm
(Hình 2)
Màu trắng là màu của Dương, chỉ rằng đó là phía có ánh sáng
mặt trời. Màu đen là màu của Âm vì đó là phía bị mặt trời che khuất.
Trong mỗi phần Dương và Âm đều có một chấm đen hoặc trắng, đó là
mầm mống của âm hoặc dương làm phát sinh chuyển động dịch biến.
Hai hình con cá chia đôi vòng tròn Thái Cực là nói lên ý nghĩa Âm
Dương quân bình.
Gọi Thái-Cực Quyền là môn y-võ dưỡng-sinh vì võ thuật này
dựa trên dịch-lý âm Dương có tác-dụng di dưỡng tinh thần, quân bình
thân tâm, vốn là cơ bản thiết yếu điều hoà cuộc sống cho thân thể được
khoẻ mạnh an vui.
1.2- Thái-Cực Quyền, một mô-hình của Âm Dương Dich-lý.
a) Ý-nghĩa của chiêu thức:
• Trước hết, diễn trình các chiêu thức trong bài Thái Cực
Quyền hình dung diễn trình của Thái Cực đồ nói trên. Thoạt đầu, người
tập đứng im nhìn về hướng trước mặt, thân hình phải thẳng góc với mặt
đất, tâm thân hoàn toàn buông lỏng, sao cho tâm hồn thư thái, nét mặt
thanh thản, ấy là thể-hiện tình trạng của hư không Vô Cực. Tư thế sẵn
sàng chuyển động, ấy là giai đọan chuyển từ Vô Cực sang Thái-Cực.
Người tập đứng thật thẳng như chôn chân dưới đất, như đầu treo thõng
xuống từ trần nhà, để cho sinh khí (生氣) chạy thẳng từ dưới chân lên
đỉnh đầu, ấy là hình ảnh của người đầu đội Trời, chân đạp Đất trong tam
tài Thiên, Địa, Nhân mà Nhân chính là Thái Cực ở giữa.
• Khi thế khởi động bắt đầu, các chiêu thức tay lên tay xuống,
tay ngửa tay úp, bước tới bước lui, lúc đứng khi ngồi, quay dọc quay
ngang, xoay trái xoay phải v.v. tất cả nhịp-nhàng, nhưng hoàn toàn thư
giãn cả thể xác lẫn tâm hồn, để cho thân tâm hoà đồng hoàn toàn vào vũ-
trụ, khi ấy mình là Thái Cực và Thái Cực chính là mình, ấy là hài hoà với
bản thân, với tha nhân, với thiên-nhiên, vạn vật. Tay vươn ra là Dương,
tay co vào là Âm, tiến bước là Dương, lùi bước là Âm. Tiến xong lại lùi,
vươn ra lại co vào, ấy là nhị nguyên Âm Dương tương khắc tương sinh.
Giao nhau rồi lại tách rời. Các chiêu thức này vẽ ra những đường vòng,
đường cung biểu thị vòng tròn Thái Cực xoay vần để đạt tới Âm Dương
quân bình. Diễn tiến chấm dứt ở thế hoàn nguyên, trở lại khởi điểm ban
đầu, ấy là diễn tiến của cuộc đời bổng trầm thăng giáng, nhưng luôn luôn
giữ được thăng bằng cho cuộc sống hài hoà, an nhiên tự tại.
• Ngay trong mỗi chiêu thức cũng vậy. Lấy ví-dụ thế tứ lục :
Trong thế Đăng Sơn Bộ, 60% sức nặng đè trên chân trước, 40% còn lại
đặt nhẹ trên chân sau, ấy là cái mầm 40% Âm đang sẵn sàng chuyển
động (hình 3).
Trong thế đi Miêu Bộ, 60% sức nặng đè chân sau, 40% đặt nhẹ lên bàn
chân trước mở ra, ấy là cái mầm 60% Dương đang sẵn sàng chuyển động
cho bàn chân trước đè nặng lên mặt đất chuyển từ 40% sang 60% ở thế
Đăng Sơn Bộ. Ấy là mầm Âm trong Dương và mầm Dương trong Âm
(hình 4).
§2- Thái Cực Quyền và Sinh, Y-lý:
Tinh Khí Thần (精氣 神) là ba thứ quý giá của sự sống con người. Thần
chủ động ở não liên quan tới tâm, tâm có an thì thần mới ổn. Lao tâm quá
độ, lao lực quá sức, tinh khí không điều hoà sung mãn, con người sẽ đau
yếu, tâm thần sẽ rối loạn.
2.1- Tinh Khí và Khí Huyết
Huyết cần cho sự sống, lưu thông trong hệ tuần hoàn qua các
động mạch và tĩnh mạch, nuôi sống các tế bào khắp thân thể. Một động
mạch bị đứt, nếu không cầm được, sẽ không còn máu nuôi cơ thể, con
người sẽ chết. Thiếu máu, hay mạch máu bị tắc nghẽn, con người sẽ gầy
mòn, ốm yếu, bệnh tật.
Khí cũng cần thiết cho sự sống, nhưng vận chuyển qua hệ thần
kinh, đi khắp châu thân. Theo y-lý Đông Phương, Tinh gồm tiên-thiên-
khí và hậu-thiên-khí. Tiên thiên khí là nguyên khí bẩm sinh do cha mẹ di
truyền, bắt đầu có khi trứng thụ tinh để thành thai nhi trong bụng mẹ.
Khí đó là Dương. Khi trẻ lọt lòng mẹ, hít thở dưỡng khí ngoài trời, ăn
uống các chất dinh dưỡng, ấy là hậu thiên khí hấp thụ từ trời đất và môi
trường xung quanh. Khí đó là Âm, có tác dụng duy trì và bổ sung cho
nguyên khí, hợp với nguyên khí gọi chung là tinh khí.
Đây là Chân Khí tích tụ ở thận bao gồm cơ quan sinh dục, luân lưu
trong các kinh mạch và lục phủ ngũ tạng, chủ yếu gồm 2 mạch Đốc và
Nhâm liên quan đến các cơ quan nội tạng, họp thành tiểu chu thiên, cùng
với 12 kinh nối kết tứ chi họp thành đại chu thiên.
Trái với hệ tuần-hoàn huyết, hoạt động theo chu kỳ nhất định không
thay đổi, chu-kỳ kinh mạch vận khí theo âm dương giao hoà chuyển hoá,
giống như các hiện tượng thiên nhiên thay đổi như nóng lạnh, sáng tối,
ngày đêm, tháng năm, tứ thời bát tiết, v.v...
Khí được coi như một thứ điện năng mà hệ thần kinh như một
mạng điện chằng chịt. Nếu hệ thần kinh bị trục trặc rối loạn, như cột
sống bị tổn thương chẳng hạn, khi ấy khí không thể chu luân điều hoà
đem năng lượng đến cho khắp cơ thể, và nếu một lúc nào đó, chẳng may
dòng khí bị tắc nghẽn, các cơ quan sẽ không làm tròn chức năng của
mình, sinh ra đau ốm bệnh tật, nhẹ hay nặng tuỳ theo tình trạng khí hư
hay mất. Người ta sẽ kích thích các vị trí liên quan trên các kinh mạch,
gọi là các huyệt vị, để đánh thức các huyệt này hoạt động trở lại giúp cho
khí lưu thông điều hoà, đây là công việc của nhà châm cứu, bấm huyệt và
thở khí công.
Các chiêu thức Thái Cực Quyền, vận động khớp cốt, toàn thân, trôi
theo giòng liên tục nhẹ nhàng, cùng với nhịp thở tự nhiên điều hoà, có
tác dụng khai thông những huyệt vị bế tắc trong các kinh mạch giúp cho
khí chu luân khắp toàn thân đi vào lục phủ ngũ tạng. Làm như vậy, vì khí
vận chuyển làm cho huyết lưu thông, khí gắn liền với huyết, cũng như
tinh với khí, cho nên thường nói tinh khí và khí huyết là vậy.
Hoành cách mô phân chia 2 khí tiên thiên và hậu thiên ấy như
trong hình (5) dưới đây:
(hình 5)
Trung tâm năng lượng phát sinh khí lực đi khắp cơ thể, nằm
sâu trong khoang bụng, bên dưới rốn khoảng 3 đốt ngón tay, được coi
là bể khí, là nơi hội tụ của tiên thiên khí, tức Hạ Đan Điền, quen gọi là
Đan điền (h. 6), có nghĩa là ruộng trồng đan-dược. Trong bụng mẹ, bào
thai tăng trưởng xung quanh khoang dưới rốn của mẹ. Bào thai hô hấp
khí tiên thiên và hấp thụ dinh dưỡng từ “bánh nhau” trong bụng mẹ vào
cuống rốn của mình xuống vùng hạ bộ, ngược lên đầu, xuống lưỡi, rồi
trở lại vùng rốn của mình. Vì vậy, gọi vùng rốn này là đan điền, trung
tâm cực mạnh hội tụ và sản sinh khí lực là năng lượng cho sự sinh tồn.
Đứa trẻ lọt lòng mẹ, hô hấp hít vào hậu thiên khí, thở ra tiên thiên khí.
Khi hít vào thì cơ hoành hạ xuống cho phình bụng ra. Khi thở ra thì cơ
hoành đẩy lên cho bụng thót lại xẹp xuống. Vì lúc cơ hoành hạ xuống,
các nội tạng trong bụng bị dồn xuống, bụng phình lên; lúc ấy hậu thiên
khí bị hút vào vì vậy có động tác phình bụng thở vào. Lúc cơ hoành nâng
lên, tiên thiên khí bị đẩy ra, các nội tạng trong bụng bị kéo theo, bụng
thót lại vì vậy có động tác thót bụng thở ra.
(Hình 6)
Người ta cũng phân biệt:
• Thượng Đan Điền trùng với huyệt Ấn Đường ở giữa 2 đầu lông mày,
nếu bị đánh mạnh có thể tử vong.
• Trung Đan Điền, trùng với huyệt Đản Trung ở giữa đường nối 2 đầu
vú.
• Hạ Đan Điền trùng với huyệt Khí Hải, nằm dưới rốn khoảng 3 cm
2.2- Hệ-thống kinh mạch. Quan sát chu kỳ lưu thông của khí nơi
thai nhi, y-lý Đông phương, từ đó, phát hiện ra các kinh mạch chính,
gồm 2 mạch chủ là Đốc Mạch và Nhâm Mạch nối với 12 nhánh “Kinh”
chính, từ đó phân ra các nhánh nhỏ gọi là “Lạc” phân bố chằng chịt khắp
toàn thân hệt như mạng tơ sợi:
a- Mạch Đốc điều hoà phần Dương của toàn thân, qua 28 huyệt-
vị, khởi từ Hội Âm vòng ra sau lưng chạy dọc theo cột sống, qua các
huyệt Trường Cường, Mệnh Môn, Chí Dương, Đại Chuỳ, Phong Phủ, đi
vào trong não, lên tới huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu, xuống Nhân Trung
và chấm dứt ở huyệt Ngân Giao, nơi đây sẽ gặp Mạch Nhâm từ Hội Âm
và Đan Điền lên.
• Huyệt Hội Âm, huyệt thứ nhất của Mạch Nhâm, nằm ở giữa bộ phận
sinh dục ngoài và hậu môn, là nơi tập trung khí âm, hội tụ 3 mạch Nhâm,
Đốc và mạch Xung, mạch này kiểm soát khí huyết toàn thân, từ dạ con
vào cột sống, phân nhánh ra đi từ Hội Âm lên rốn, ngực, họng, mặt và
vòng ra xung quanh môi. Huyệt này đóng mở để cho tinh khí xuất ra.
• Huyệt Trường Cường: huyệt thứ nhất của Mạch Đốc, là một trong
những huyệt tuỷ xương, dài (trường) và mạnh (cường), nằm ở chỗ lõm
phía sau hậu môn và phía trước đầu xương cùng (coccyx), rất quan trọng,
vì nơi đây, khí lực vào được cơ thể hay thoát đi mất. Tinh khí khi quay
về, sẽ đi qua đường này, vào cột sống và lên não. Cho nên gọi đây là Ngõ
vào Cửa Sinh Tử, nơi đây dòng điện ấm của dương khí vào được tận
trung ương của thần kinh hệ.
• Huyệt Mệnh Môn: huyệt thứ 4 nằm ở trung điểm của đường nối 2
quả thận, nằm ở vùng eo lưng, đối diện với rốn, trong hố lõm ở chỗ gồ
lên của đốt xương sống thứ 2, được gọi là Cửa (Môn) Sự Sống (Mệnh),
nơi đây tập trung tinh lực, nguyên khí. Thận bên trái là Âm, thận bên
phải là Dương, Mệnh Môn là chỗ Âm Dương quân bình. Thở nhịp nhàng
theo chiêu thức Thái Cực Quyền, tập trung ý nơi đây, khí lực sẽ theo cột
sống lên đầu xuống chân.
• Huyệt Chí Dương: huyệt thứ 9 của mạch Đốc, nằm dưới đốt sống
lưng số 7, ở chỗ giao điểm của đường nối 2 đầu mỏm xương bả vai với
đường dọc cột sống, liên quan tới vùng ngực, gan và túi mật.
• Huyệt Đại Chuỳ: Huyệt thứ 14 của Mạch Đốc, ở dưới xương to đốt
sống cổ 7, có tác dụng lưu thông tuần hoàn não, tăng cường thể chất,
phòng ngừa các bệnh về hô hấp.
• Huyệt Phong Phủ: huyệt thứ 16
của Mạch Đốc, liên hệ với tuỷ
xương, nằm ở chỗ lõm giữa gáy
và ở trên chân tóc gáy 1 thốn
(khoảng 2 cm), là nơi gió tập
trung vào, Phong khí và Hàn khí
xâm nhập mạch Đốc qua huyệt này.
Nếu trúng phạm, sẽ gây nên tử vong.
• Huyệt Bách Hội: huyệt thứ 20 của Mạch Đốc, là điểm lõm ngay trên
đỉnh đầu, giao điểm của đường nối 2 đỉnh vành tai với đường dọc cơ thể,
một trong các đại huyệt quan trọng nếu phạm phải có thể gây tử thương.
Trong tam tài “Thiên Địa Nhân”, Bách Hội chính là nơi hội tụ khí
Dương của Trời, giao hoà con người với khí âm của Đất.
• Huyệt Nhân Trung: huyệt thứ 26
của Mạch Đốc, nằm ở vùng rãnh
mũi môi trên, điều hoà nghịch-khí
của Âm Dương. Bấm huyệt này để
cứu người bất tỉnh.
• Huyệt Ngân Giao : huyệt thứ 28 của
Mạch Đốc, là chỗ lợi và răng hàm
trên giao nhau nằm trên nóc miệng,
trước khe các chân răng cửa của hàm trên.
b- Mạch Nhâm: Là bể chứa khí Âm,
điều hoà phần Âm của toàn thân, qua 24
huyệt, khởi từ huyệt Hội Âm đi ngược lên,
theo đường giữa bụng qua huyệt Quan Nguyên, Khí Hải, Trung Quản,
lên ngực, họng đến cằm ở huyệt Thừa Tướng, rồi chạy quanh vùng
miệng môi hợp với Mạch Đốc tại huyệt Ngân Giao.
• Huyệt Quan Nguyên: là huyệt
thứ 4 của Mạch Nhâm, ở 3/5
trên và 2/5 dưới của đường nối
điểm giữa bờ trên của xương
mu và rốn, là nơi chứa đựng
nguyên khí, nên gọi là cửa (quan)
của nguyên khí, rất cần cho sự sống,
có công dụng bồi thận, bổ khí và hồi dương.
• Huyệt Khí Hải: huyệt thứ 6 của Mạch
Nhâm, là bể (hải) chứa khí nằm ở lỗ
rốn thẳng xuống 1.5 thốn (khoảng 3cm),
cũng gọi là Hạ Đan Điền.
• Huyệt Đản Trung (Chiên Trung): giữa
hai đầu vú, gần vùng tim, khi bị điểm
trúng thì nội khí tản mạn, lòng dạ hoảng
loạn, thần trí không rõ ràng.
• Huyệt Trung Quản: huyệt thứ 12 của
Mạch Nhâm, ở phía trên rốn 4 thốn, hoặc
điểm giữa của đoạn thẳng nối rốn và đường gặp nhau của 2 bờ sườn, có
tác dụng hồi dương cứu nghịch, thúc đẩy quá trình tiêu hoá thức ăn, hấp
thụ các chất dinh dưỡng, chủ trị huyết áp cao, thần kinh suy nhược.
• Huyệt Thừa Tương: huyệt thứ 24 của
Mạch Nhâm, ở đáy chỗ lõm chính giữa và
dưới môi dưới trên đường bổ dọc giữa
hàm dưới, nơi thường nhận (= thừa) nước
miếng (= tương) chảy ra, có tác dụng điều
hoà khí âm dương.
(1) The Tao of Tai-Chi Chuan, Way
to Rejuvenation, Tai Chi Foundation Jou, Tsung Hwa, -POB.828,
Warwick, N Y. 10995, ISBN: 08048-1357-4)
2.3- Khai Thông kinh mạch và vận khí.
a- Khai thông kinh mạch
Khai thông Nhâm Đốc Mạch, là để khí vận hành không ngừng
theo vòng khép kín Tiểu Chu Thiên cho chân Hỏa ở Trường Cường cũng
như nội khí sinh ra ở Đan điền có thể giao hoán luân lưu tuần hoàn, cho
Âm Dương, ngũ tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) lục phủ (vị, đảm, tam tiêu,
bàng quang, tiểu trường, đại trường) được quân bình.
Âm đi xuống, Dương đi lên. Mạch Nhâm sẽ từ huyệt Thừa
Tương đi xuống theo đường giữa bụng xuống đến Hội Âm. Mạch Đốc đi
từ Hội Âm vòng ra sau theo cột sống ngược lên Bách Hội ở đỉnh đầu
xuống đến Ngân Giao ở môi trên. Người tập ngậm miệng để cho đầu lưỡi
chạm lên nóc miệng đụng chân răng cửa hàm trên, cho 2 mạch Nhâm
Đốc nối liền như nối 2 cực âm và dương của mạch điện, thở ra hít vào
bằng mũi, khi ấy 2 khí tiên thiên và hậu thiên giao hoà, phát sinh năng
lượng xuống vùng hạ đan điền, hệt như điện năng từ động cơ nổ trong
vật lý học, chu luân không ngừng trong vòng khép kín của tiểu chu thiên
2 mạch Nhâm Đốc.
b- Vận Khí Qua Hệ-Thống Kinh Mạch
Hai mạch Đốc và Nhâm liên quan đến các cơ quan nội tạng, họp
thành tiểu chu thiên, cùng với 12 kinh nối kết tứ chi họp thành đại chu
thiên. (H. 7).
Tại tứ chi, nơi 2 lòng bàn tay có huyệt Lao Cung và gan bàn chân
có huyệt Dũng Tuyền là 2 huyệt quan trọng.
Lao cung nằm trên lòng bàn tay ở giao điểm giữa đường tâm đạo và
đường thẳng dọc khe giữa hai ngón áp út và ngón giữa (H.8).
Dũng tuyền ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân nằm tại điểm chia 2/5
đoạn thẳng tính từ đầu ngón chân thứ hai đến bờ sau của gót chân (H.9).
Lao cung là Hoả huyệt của đường kinh Tâm Bào. Dũng tuyền là Tĩnh
huyệt của đương kinh Thận. Việc thăng giáng qua lại giữa Lao cung và
Dũng tuyền tạo ra hiệu quả thăng giáng giao hoà tương ứng giữa Tâm và
Thận cũng như giữa Đan Điền và Đản Trung tức hiện tượng Thuỷ Hoả
ký tế (*) mà theo y-lý đông-phương cổ-truyền đó là biểu-hiện của một cơ
thể khoẻ mạnh. Mặt khác trong quá-trình vận khí, Bách Hội thu thiên-khí
giáng xuống Lao-Cung, đồng thời huyệt Dũng Tuyền thu địa-khí thăng
lên làm cho khí âm vận lên từ hai huyệt Trường cường và Hội âm. Do đó
sự vận chuyển lên xuống của Khí cũng tác động vào cả hai mạch Nhâm
và Đốc làm tăng cường chân khí, tăng cường sức đề kháng và cải thiện
toàn bộ công năng của các tạng phủ.
(*) Cước Chú: Ký tế 既際, Ký=đã xong, Tế=vượt qua sông, đã
thành sự; Ký Tế là hai bên vừa giao tiếp xong với nhau. Trong Kinh
Dich, Quẻ 63 “Thủy Hỏa Ký tế” gồm bên trên là Khảm (Thủy),
bên dưới là Ly (Hỏa). Hoả (lửa) ở dưới đun Thủy (nước) bên trên làm
cho nước sôi, tạo thành áp suất, gây ra năng lực hữu ích dùng để chạy
máy hơi nước. Lửa giúp nước tạo thành năng lực, tức là thành công kết
quả.
-
(H. 8) (H. 9)
Mạch Nhâm, Đốc đã khai thông, khi ấy mọi kinh mạch trong cơ thể cũng
đều khai thông, nhưng để đạt hiệu quả, người tập Thái Cực Dưỡng Sinh
cần tuân theo những nguyên tắc căn bản sau đây:
§3- Nguyên Tắc Cơ-Bản
Thực-Hành Thái-Cực Dưỡng Sinh
1- Buông lỏng tâm thân, hoàn toàn thư giãn cả tâm hồn lẫn cơ thể:
a- Không dùng sức để đưa đẩy, không cương cơ bắp khi chuyển dịch.
b- đồng thời phải giữ tâm không, tâm phải an-bình phẳng lặng, hoàn-
toàn quên đi mọi ưu-tư, không nghĩ gì khác hơn là tập-trung tư-tưởng
vào những động-tác, quẳng “gánh lo” đi để mỉm cười theo dõi tiến-trình
của khí vận-hành trong từng bước đi, theo mỗi chuyển động, giữ niềm vô
tư lạc-quan, bình-thản, phóng ngã, vị tha, để hài-hoà với thiên-nhiên tạo-
vật, với tha-nhân. Chính giữ tâm không, còn cần thiết cho sức khoẻ xét
về mặt y-lý, vì mọi thái quá đều có hại cho ngũ tạng:
* vui mừng quá thì hại cho tim.
* u-buồn quá thì hại cho phổi.
* tức giận quá thì hại cho gan.
* lo sợ quá thì hại cho thần kinh.
* suy nghĩ quá thì hại cho tỳ.
2- Giữ hơi thở trong đan-điền, bằng cách ngậm miệng thở đằng
mũi. Trong phép thở Đan Điền quen gọi là thở bụng, người tập vận khí
qua chu-kỳ hít vào thở ra, kích-hoạt nơi hoành-cách-mô, thở ra thì cơ
hoành đẩy lên cho bụng thớt lại xẹp xuống, hít vào thì cơ hoành hạ
xuống cho phình bụng ra. Làm sao cho dưỡng khí vào tràn đầy buồng
phổi và dự trữ trong đan điền. Muốn vậy, khí vận hành theo quy trình
gồm 3 thì như sau: thì thứ nhất hít vào chậm nhẹ cho phình bụng lên; thì
thứ hai nén hơi, hoặc bằng cách nín thở vài giây, hoặc nuốt khí như nuốt
nước bọt chẳng hạn, khí sẽ được giữ lại dự trữ nơi đan điền, và thì cuối
cùng thót bụng lại để chậm nhẹ thở ra qua mũi, như vậy là vừa để nối 2
cực là huyệt Ngân Giao của Mạch Đốc và huyệt Thừa Tương của Mạch
Nhâm làm cho phát sinh điện năng, vừa giữ lại được năng lượng dự trữ
trong đan điền nhờ không thở bằng miệng khiến cho khí thoát hết ra
ngoài. Rõ-ràng là những người vừa chạy bộ vừa nói chuyện bao giờ cũng
mau mệt mất sức hơn người ngậm miệng vốn “dai sức”. Dĩ-nhiên là phải
giữ tâm không, phải quẳng “gánh lo” đi, để hoàn toàn thư giãn cả thể xác
lẫn tinh thần.
Tác giả tóm tắt phép thở bụng trong bài thơ sau đây:
“Chậm, đều, ngậm miệng, thở sâu:
Thở ra: thót bụng, hít vào: phình lên,
Nén hơi đưa xuống đan-điền,
Thở ra tống hết lo phiền ưu tư”
Phép thở đan điền có thể áp dụng mọi lúc, mọi nơi: khi nằm, ngồi, khi đi,
đứng. Tuy nhiên mới đầu tập Thái Cực Dưỡng Sinh, khi di chuyển phải
tập trung vào các chiêu thức động, khó thực hiện đúng như cách vận khí
của toạ-thiền tĩnh, nên bình thường cứ thở tự nhiên, miễn ngậm miệng.
*
Khu phản xạ nơi gan bàn chân
Ngoài việc tập dưỡng sinh, mỗi buổi tối, nên ngâm chân trong nước ấm
vì nơi gan bàn chân có vô số rễ thần kinh liên quan mật thiết với thần
kinh trung khu đại não, đồng thời liên hệ mật thiết đến lục phủ ngũ tạng.
Làm như vậy, sẽ kích thích tuần hoàn máu, giải trừ mỏi mệt, giúp dễ ngủ
làm hưng phấn các rễ thần kinh, giúp tăng cường trí nhớ, đem lại cảm
giác thoải mái, nhẹ nhàng cho chân và não, tóm lại là giúp cải thiện sức
khoẻ tổng quát.
3- Người tập thái-cực quyền thường được nhắc-nhở 10 điều
quan yếu sau đây:
Con người là một "tiểu vũ-trụ" với đầy đủ Âm Dương, Ngũ
Hành. Khi mọi yếu-tố đó vận-hành trơn tru, con người sẻ khỏe mạnh,
nếu rối loạn sẽ sinh ra các thứ bệnh tật. Vì vậy người tập dưỡng sinh cần
phải tuân theo những yếu-quyết sau đây:
1.1- Hư linh đỉnh kình: đầu cổ ngay thẳng, thần quán tại đỉnh, không
vận sức mà phải tự-nhiên./.
1.2- Hàm hung bạt bối: ngực hơi thót vào để khí chìm vào đan điền
(hàm hung), khí bám dính vào lưng (bạt bối)
1.3- Tùng yêu: buông lỏng eo, các động tác hư thực đều biến hoá tùy theo
sự chuyển động của eo.
1.4- Phân hư thực: tách biệt rõ-ràng hư thực của động-tác, thủ-bộ
cước-pháp sức nặng dồn lên chân nào, đó là thực, còn lại là hư.
1.5- Trầm khiên trụy chẩu: hai vai buông lỏng tự nhiên (trầm kiên),
hai cùi chỏ cũng hạ thấp xuống (truỵ chẩu)
1.6- Dụng ý bất dụng lực: toàn thân buông lỏng, không dùng sức mạnh
cứng nhắc, dẫn ý theo động tác, ý, khí, lực là 3 mối tương quan, ý dẫn
khí, khí dẫn lực, ý đến thì khí đến, khí đến thì lực đến
1.7- Thượng hạ tương tuỳ: trên dưới phải theo nhau. Tay động, eo
động, chân động, nhãn thần cũng động theo, tập trung tư tưởng dõi nhìn
các động tác khi chuyển dịch
1.8- Nội ngoại tương hợp: Khi mở cũng như khi đóng, lúc khai lúc kết,
thảy đều trong ngoài hợp nhất, từ thần thái đến cơ-thể đều tương hợp,
thần là chủ để sai khiến thân.
1.9- Tương liên bất đoạn: chuyển động liên tục tự nhiên như kéo tơ,
như suối chảy không gián đoạn.
1.10- Động trung cầu tịnh: lấy tĩnh mà điều khiển động, tuy động mà
cũng như tĩnh, càng chậm càng tốt, càng khiến cho hô hấp được dài và
sâu, khí càng chìm sâu nơi đan điền.
Tác-giả với thức
“Vận Thái-Cực”
Vận Thái-Cực