(kim cổkỳquan 9/18, Ông ba nguyễn văn thớ ết năm 1915) · ấ (kim cổkỳquan 9/18,...

5
(Kim CKQuan 9/18, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915) THT tình lục dục thân cũng đổi, Đặng hiểu tường giềng mối Thánh hiền. Ai Thần ai Thánh ai Tiên, Đổi rồi mới biết Thánh hiền là ai. SƠN báu có cung đài Thần trí, Lòng kiên cường đại hỉ vô cùng. Tại vật chất ung dung, Bỏ quên bị mất ngày cùng đừng than! (Thượng Đế Thưởng Phạt tr. 44, do Đức Cu Bần Sĩ Vô Danh thuyết theo ththơ khoán thsong tht lc bát, Thin Tnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2001) * Thiên cơ bất khả lộ, Tiền Bối nói mẹo bóng gió, nói bên ngoài để ám chỉ bên trong, nói cái này nhằm ám chỉ cái kia, dương đông kích tây. Nói Tht Sơn để ám chỉ Tht Tình trong lòng nhơn loại nổi loạn từ năm 1972. Cái Nhân Thế Chiến Ba dẫn đến Tận Thế đ có từ năm 1972 khi tổng thống Mỹ Richard Nixon & chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông hội đàm Bc Kinh m ra thời kỳ mới Mỹ đưa đồng đô la & công nghệ tân tiến giúp cho Trung Quốc mạnh vượt bực, trong vòng năm Hai Ngàn, không ngoài năm Hai Ngàn, không sau năm Hai Ngàn. Đúng như lời tiên tri của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ: (Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn năm 1945) t

Upload: others

Post on 06-Sep-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

(Kim Cổ Kỳ Quan 9/18, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)

THẤT tình lục dục thân cũng đổi, Đặng hiểu tường giềng mối Thánh hiền. Ai Thần ai Thánh ai Tiên, Đổi rồi mới biết Thánh hiền là ai.

SƠN báu có cung đài Thần trí, Lòng kiên cường đại hỉ vô cùng. Tại mê vật chất ung dung, Bỏ quên bị mất ngày cùng đừng than! (Thượng Đế Thưởng Phạt tr. 44, do Đức Cậu Bần Sĩ Vô

Danh thuyết theo thể thơ khoán thủ song thất lục bát, Thiền

Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2001)

* Thiên cơ bất khả lộ, Tiền Bối nói mẹo bóng gió, nói bên ngoài để ám chỉ bên trong,

nói cái này nhằm ám chỉ cái kia, dương đông kích tây. Nói Thất Sơn để ám chỉ Thất

Tình trong lòng nhơn loại nổi loạn từ năm 1972. Cái Nhân Thế Chiến Ba dẫn đến Tận Thế đa có từ năm 1972 khi tổng thống Mỹ Richard Nixon & chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông hội đàm ơ Băc Kinh mơ ra thời kỳ mới Mỹ đưa đồng đô la & công nghệ tân tiến giúp cho Trung Quốc mạnh vượt bực, trong vòng năm Hai Ngàn, không ngoài năm Hai Ngàn, không sau năm Hai Ngàn. Đúng như lời tiên tri của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ:

(Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn năm 1945)

ấ t

Vì lòng từ bi e rằng chúng sanh tu không kịp thiên cơ, nên Bồ Tát báo động sớm bằng

cách là nói về cái nhân Thế Chiến Ba đã có rất sớm vào năm 1972. Bồ Tát báo cái nhân

là báo sớm hàng mấy chục năm để chúng sanh có đủ thời gian tu hành vơi nghiệp chướng,

để đến khi cái quả tới thì mới trở tay kịp bánh xe Thượng Đế. Nhưng khổ thay, chúng

sanh vô minh mù quáng không thấy cái lý thiên cơ trong sấm giảng, trách Trời Phật nói

dần lân hù dọa hoài mà có thấy gì đâu! Và đến khi cái quả tới thì chúng sanh trở tay

không kịp, vì quá bất ngờ, quá thình lình. Đức Phật Thầy Tây An viết lời cảnh báo:

Biến dời cuộc thế thình lình,

Thiện tồn ác thất thiên đình số phân! Chết 7 còn 3

Tôi làm biếng nói việc tầm khùng,

Điên điển đỏ mắt xưng hùng với ai.

Đói ăn bắp đói nữa ăn khoai,

Hết khoai hết bắp chiều mai ăn đá.

Mấy ai từng đặng chim bẻ ná,

Có người nào đặng cá bỏ nôm.

Người ở đời ai chẳng ăn cơm,

Cơm ai mà độ không thơm tiếng mời.

Ai cũng muốn làm Phật làm Trời,

Lời Phật chẳng kể kể lời ma không.

Việc tu hành đừng nại thất công,

Dồi mài tâm tánh sợ không ôn nhuần.

Phát cụm cỏ cho thấy ngõ rừng,

Hỉ nộ ái ố dễ gừng nhập tâm.

Vậy mới rằng kế hiểm mưu thâm,

Mắt ngơ tai điếc minh tâm kế kỳ.

Hổ phụ lưu danh hổ tử lưu bì,

Làm sao để tiếng biên thùy ngợi danh.

(Kim Cổ Kỳ Quan, 16: 31-32, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)

Ông Nguyễn văn Thới tục danh Ông Ba Thới (1866-1926) làm nghề nông kiêm nghề chạm mộc. Năm 1915, Ông Ba được Đức Phật Thầy Tây An mượn xác viết bộ sấm Kim Cổ Kỳ Quan gồm cả thảy 9 quyển: Kim Cổ Kỳ Quan, Giác Mê, Cáo Thị, Vân Tiên, Ngồi Buồn, Bổn Tuồng, Thừa Nhàn, Tiền Giang, Kiểng Tiên. Đặc biệt quyển đầu Kim Cổ Kỳ Quan được Ông Ba viết theo thể thơ thất bát, câu trên bảy chữ, câu dưới tám chữ, gieo vần bằng. Và đặc biệt hơn nữa, có một đoạn Ông Ba cố tình phá vận, thay vì viết vần bằng theo đúng niêm luật vận thì Ông bất thần đổi qua vần trăc với dụng ý gơi găm cái lý thiên cơ đại họa chiều mai ăn đá {Reef} đến với nhơn loại:

Tôi làm biếng nói việc tầm khùng, Điên điển đỏ mắt xưng hùng với ai.

Đói ăn bắp đói nữa ăn khoai,

Hết khoai hết bắp chiều mai ăn đá.

Mấy ai từng đặng chim bẻ ná,

Có người nào đặng cá bỏ nôm. Người ở đời ai chẳng ăn cơm,

Cơm ai mà độ không thơm tiếng mời.

Trong đoạn sấm trên đây bỗng dưng

liên tiếp Ông Ba gieo ba vần trắc đá, ná,

cá, đổi từ vần bằng sang vần trắc đột ngột

nhằm mục đích khiến người đọc giựt mình

7 bãi Đá ngầm giặc Tàu bồi đắp phi pháp ở Biển Đông

Đá Chữ Thập bồi đắp năm 2016

Đá Gạc Ma bồi đắp 2016

Chiều Mai ăn đá

Mị Châu ơi hỡi Mị Châu,

Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha! (Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên

đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 Ất Dậu 1945)

khám phá ra sự cố vô cùng quan trọng bất

ngờ xảy ra: đá, ná, cá, nôm. Phải chăng

Ông Ba muốn báo động cuộc tranh chấp 7

bãi đá ngầm {Reef} ở Biển Đông chủ yếu

là do sự cố Tàu phản bội Mỹ? Nguyên do

từ năm 1972, khi tổng thống Mỹ Richard

Nixon cùng cố vấn Henry Kissinger sang

Bắc Kinh hội kiến chủ tịch Trung Quốc

Mao Trạch Đông tay bắt mặt mừng thân

thiện hợp tác kinh tế ngoại giao chánh

trị… Trung Quốc mở cửa kinh tế thị

trường lớn mạnh không ngừng… Sau ba

thập niên, nhờ đồng đôla & công nghệ

tân tiến của Mỹ, Trung Quốc giàu mạnh

về mọi lãnh vực kinh tế, chánh trị,

ngoại giao và quân sự. Đặc biệt lãnh vực

quân sự, Trung Quốc phát triển mạnh hải

quân, bồi đắp đảo nhân tạo phi pháp trên

Biển Đông gây mất an ninh không những

trong vùng Biển Đông và Hoa Đông, mà

còn vươn xa tới khắp nơi trên thế giới,

nhằm thay ngôi vị Mỹ lãnh đạo toàn cầu.

Liệu Mỹ cam chịu thua thiệt để Tàu thay

Mỹ lãnh đạo thế giới? Mỹ phải hành sử

như thế nào? Chắc chắn Mỹ quyết chiến

chống Tàu! Chiến tranh nguyên tử bùng

nổ cận kề!

Quyển đầu Kim Cổ Kỳ Quan cả thảy gần ba ngàn câu theo thể thơ thất bát gieo vần

bằng, bỗng dưng chỉ có một đoạn 3 câu gieo vần trắc. Đây là điều quan trọng mà

người đạo cần chú ý. Chữ chim ám chỉ máy bay chiến đấu, hỏa tiễn đầu đạn nguyên tử;

chữ cá ám chỉ tàu chiến, ngư lôi, tàu ngầm nguyên tử; những chữ nôm, ná ám chỉ những

phương tiện trận đồ dưới biển và trên không mà các nước tham chiến đưa đến đại họa vì

tham lam giành giựt 7 bãi đá ngầm ngoài Biển Đông. Tham ăn đá phải chết vì đá, đúng

theo luật nhân quả. Cụm từ chiều mai nói đảo ngược là mai chiều ám chỉ sự cố xảy ra

cận kề, thời gian đại họa do lòng tham giành giựt 7 bãi đá ngầm ngoài Biển Đông không

còn xa lắm. Nhưng khổ thay, người đời không hiểu nổi lời sấm mà Ông Ba gởi gắm cái

lý thiên cơ huyền diệu, nên họ chê trách Ông nói chuyện khùng điên bắt quàng bắt niễng:

Tôi làm biếng nói việc tầm khùng,

Điên điển đỏ mắt xưng hùng với ai. Hãy làm lành lánh dữ, niệm Trời niệm Phật vơi nghiệp chướng hầu qua cuộc sàng lọc ăn

đá chết 7 còn 3.

Mấy ai từng đặng chim bẻ ná,

Có người nào đặng cá bỏ nôm!

Phần đông tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương gốc

nông dân, nên ông Ba Thới viết sấm mượn

những hình thể ngôn ngữ dân gian để nói lên

sự phản bội theo lối nói nông dân: “Đặng

chim bẻ ná, đặng cá bỏ nôm”.

Những cụm từ : “Đặng chim bẻ ná &

đặng cá bỏ nôm”, phải chăng nói lên sự cố

nước Tàu phản bội nước Mỹ? Nước Tàu

nghèo, dân Tàu đói ăn độn bắp khoai {Đói

ăn bắp đói nữa ăn khoai}, sau khi được Mỹ

đưa đồng đôla & công nghiệp tân tiến giúp

Tàu giàu mạnh rồi Tàu trở mặt phản bội Mỹ.

Do Tàu phản bội Mỹ mới xảy ra chiến tranh

trên Biển Đông tại 7 bãi đá ngầm (Reef).

Nhớ thuở ban đầu si mê ấy!

Bồ Tát nói Nhân, chúng sanh tưởng lầm là Quả. Chúng sanh trách Bồ Tát nói sai, hay trách nói hoài mà có thấy gì đâu!

Phụ lục: Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An

Thế nay cạn, sự đa rồi!

Mơ mang dời đổi Lập Đời Thượng Nguơn Chuyển luân thiên địa tuần huờn,

Hội Này thấy lửa tàm lam cháy mày. Ít ai tỏ biết đặng hay,

Ví như cầm chén rủi tay bể rồi! * Thầy xưa lời dặn hẳn hòi,

Thực nhơn nhơn thực đến hồi chẳng không. Oan oan tương báo chập chồng,

Tham tài tích đại mình không xét mình. Khiến xui phụ tử tương tranh,

Cha không lành thảo con lành đặng đâu. Trung quân, phụ tử làm đầu,

Phản quân, sát phụ, hỡi câu sách nào? Trời xui trăm vật trăm hao,

Để cho đồ khổ, xiết bao nhọc nhằn. Ngọn phù thủy, cuộc đất xây,

Rồng nằm đáy biển sông hằng hứng sương Bao giờ hương thọ Kỳ Hương,

Tuế tăng vạn tuế lưu phương lâu dài. Sanh thân này khổ bớ ai,

Trăm ngàn việc khổ chất hoài vô thân. Phú hết phú, bần hết bần,

Thân vong tài tán quan dân cũng đồng. Khiến xui vợ lại giết chồng,

Con mà hại mẹ tình không yêu vì. Anh em đồng khí tương li,

Quân thần phản nghịch thế thì Hạ Nguơn. Đổi dời hải thủy băng sơn,

Tiêu đường quỷ mị, nghĩa nhơn Lập Đời. Tam nguơn quy dựng lại rồi,

Tang điền thương hải rã rời đổi xoay. Lần lần tay tính tối ngày,

Người nay như thế thấy rày lại không. Chữ rằng nhơn vật dữ đồng,

Vật còn biết tánh người không tỏ tình. Ngồi buồn than trách một mình,

Thương trong thế sự thình lình tiêu tan.

(Trích Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An, tr. 106-109, lưu ở đình Tòng Sơn năm Kỷ Dậu 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Sydney, 26-7-2019, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Giữa lúc nhơn loại đang say mê tận hương nền văn minh khoa học vật chất bỏ mất tâm linh, thì Thế Chiến Ba Tận Thế bùng nổ san bằng tiêu tan, nên Đức Phật Thầy viết cụm từ thình lình để cảnh báo.