khu danh thắng tây thiên có diện tích khoảng 148 ha

44
Khu danh thắng Tây Thiên có diện tích khoảng 148 ha, nằm trên sườn ngọn núi Thạch Bàn thuộc dãy Tam Đảo (Vĩnh Phúc), là một vùng đa dạng sinh học. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, hệ thực vật Tây Thiên có 130 họ, 344 chi và 490 loài, một số loài có giá trị khoa học và giá trị kinh tế đáng kể như pơ mu, la hán, sam pông… Rừng Tây Thiên có những cây thông đã sống đến ngàn năm tuổi. Hệ động vật Tây Thiên cũng khá phong phú, có 4 lớp, 26 bộ, 86 họ và 281 loài, trong đó có những loài động vật quý hiếm như rùa vàng, gà lôi trắng, voọc đen má trắng, voọc mũi hếch, cá cóc Tam Đảo... Sự đa dạng sinh học cùng với hệ thống các đình chùa có giá trị văn hoá và khảo cổ khiến Tây Thiên thu hút khách du lịch và nhà nghiên cứu. Đối với những ai ham thích du lịch sinh thái, Tây Thiên là một địa điểm lý tưởng cho một chuyến đi bộ giữa khung cảnh đẹp như tranh vẽ. Từ thế kỷ 18, Tây Thiên đã là một vùng danh thắng và đã được Lê Quý Đôn mô tả lại trong “Kiến văn tiểu lục”: “…bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không thấy đáy; sườn núi có chùa Tây Thiên Cổ Tự, tre xanh, thông tốt, cảnh sắc thanh nhã, rộng rãi, trên đỉnh núi cao lại có chùa Đồng Cổ, vừa lên vừa xuống phải mất hai ngày; từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi đến hồ sen, nước xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và có sen đỏ, hoa nở bốn mùa. Hai bên ngoài hồ, suối từ sườn núi chảy ra, bên tả là suối Bạc, phát nguyên từ khe đá đỉnh núi chảy xuống trông như tấm lụa; bên hữu là suối Vàng...". Đã qua nhiều thế kỷ, Tây Thiên vẫn giữ được những nét đẹp thiên nhiên kỳ thú. Đến đây, du khách có thể đi bộ men theo dòng suối nước róc rách trong vắt để đến với những điểm đã nổi tiếng từ lâu như bãi đá Liền, suối Tối, thác Chòi Tre, thác Bạc 5 tầng, suối Bạc, suối Vàng, suối Giải Oan, đền Cô, đền Cậu, đền Thượng Tây Thiên... Bên cạnh những tài nguyên thiên nhiên, Tây Thiên còn có tài nguyên nhân văn phong phú. Đền Tây Thiên thờ Quốc Mẫu Tây 1

Upload: api-3806666

Post on 07-Jun-2015

242 views

Category:

Documents


4 download

TRANSCRIPT

Page 1: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Khu danh thắng Tây Thiên có diện tích khoảng 148 ha, nằm trên sườn ngọn núi Thạch Bàn thuộc dãy Tam Đảo (Vĩnh Phúc), là một vùng đa dạng sinh học. Theo

nghiên cứu của các nhà khoa học, hệ thực vật Tây Thiên có 130 họ, 344 chi và 490 loài, một số loài có giá trị khoa học và giá trị kinh tế đáng kể như pơ mu, la hán, sam pông… Rừng Tây Thiên có những cây thông đã sống đến ngàn năm tuổi.

Hệ động vật Tây Thiên cũng khá phong phú, có 4 lớp, 26 bộ, 86 họ và 281 loài, trong đó có những loài động vật quý hiếm như rùa vàng, gà lôi trắng, voọc đen má trắng, voọc mũi hếch, cá cóc Tam Đảo... Sự đa dạng sinh học cùng với hệ thống các đình chùa có giá trị văn hoá và khảo cổ khiến Tây Thiên thu hút khách du lịch và nhà nghiên cứu.

Đối với những ai ham thích du lịch sinh thái, Tây Thiên là một địa điểm lý tưởng cho một chuyến đi bộ giữa khung cảnh đẹp như tranh vẽ. Từ thế kỷ 18, Tây Thiên đã là một vùng danh thắng và đã được Lê Quý Đôn mô tả lại trong “Kiến văn tiểu lục”: “…bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không thấy đáy; sườn núi có chùa Tây Thiên Cổ Tự, tre xanh, thông tốt, cảnh sắc thanh nhã, rộng rãi, trên đỉnh núi cao lại có chùa Đồng Cổ, vừa lên vừa xuống phải mất hai ngày; từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi đến hồ sen, nước xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và có sen đỏ, hoa nở bốn mùa. Hai bên ngoài hồ, suối từ sườn núi chảy ra, bên tả là suối Bạc, phát nguyên từ khe đá đỉnh núi chảy xuống trông như tấm lụa; bên hữu là suối Vàng...".

Đã qua nhiều thế kỷ, Tây Thiên vẫn giữ được những nét đẹp thiên nhiên kỳ thú. Đến đây, du khách có thể đi bộ men theo dòng suối nước róc rách trong vắt để đến với những điểm đã nổi tiếng từ lâu như bãi đá Liền, suối Tối, thác Chòi Tre, thác Bạc 5 tầng, suối Bạc, suối Vàng, suối Giải Oan, đền Cô, đền Cậu, đền Thượng Tây Thiên...

Bên cạnh những tài nguyên thiên nhiên, Tây Thiên còn có tài nguyên nhân văn phong phú. Đền Tây Thiên thờ Quốc Mẫu Tây Thiên Năng Thị Tiêu. Tương truyền, bà sinh ra là do linh khí núi cao rừng thẳm vùng Tam Đảo tụ lại mà thành. Là nguời xinh đẹp, giỏi giang, có tài thao lược, bà đã ra giúp vua Hùng Duệ Vương đánh giặc giữ nước Văn Lang. Giặc tan, bà từ chối những tước lộc Vua ban để lại lui về với núi rừng Tây Thiên. Cũng có sách nói do cảm mến sắc và tài của bà nên Hoàng tử Lang Liêu đã cưới bà làm vợ và những chiếc bánh chưng - bánh dày ra đời trong truyền thuyết cũng nhờ công sức rất lớn của bà. Khi bà mất, nhân dân đã tôn vinh bà là Quốc Mẫu Tây Thiên và lập nhiều đền thờ. Có một chi tiết khá thú vị là nhân dân trong vùng do kỵ huý tên Bà nên thường tránh nói "tiêu tiền" mà nói thành "pha tiền". Ngoài những di tích thờ phụng Quốc Mẫu Tây Thiên, khu danh thắng này còn có nhiều ngôi chùa thờ Phật như chùa Phù Nghì, Thiên Ân, Đồng Cổ… Một số di vật như tượng đồng, chuông khánh đã có hơn 1.000 năm tuổi còn được lưu đến ngày nay.

Tây Thiên đã và đang hấp dẫn du khách mọi miền và là một trong những danh lam thắng cảnh nổi tiếng bậc nhất của tỉnh của Vĩnh Phúc. Hy vọng, khu danh thắng này sẽ được giữ gìn, khai thác một cách bền vững, để ngàn năm sau vẫn lưu danh mãi Tây Thiên.

1

Page 2: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

1. Tây Thiên - Tam Đảo danh thắng đẹp bậc nhất nước ta Do những hoạt động đứt gẫy và phun trào của kiến tạo địa chất từ hàng trăm triệu năm trước đã tạo nên dãy núi Tam Đảo kỳ vĩ, đột khởi giữa miền đồng bằng châu thổ như một bức tường thành, một thắng cảnh nổi tiếng bậc nhất nước ta. Nhờ đó mà Vĩnh Phúc trở thành vùng đất “Địa linh - nhân kiệt”. Tam Đảo là dãy núi dài hơn 80km, rộng từ 30km đến 40km, là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Vĩnh Phúc với hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang. Sở dĩ gọi là Tam Đảo vì trong dãy núi này có 3 ngọn cao nhất (cao hơn 1.400m) nhô lên như 3 hòn đảo giữa non nước mây trời, nên dân gian gọi là Tam Đảo. Ba ngọn núi ấy, mỗi ngọn có tên gọi riêng. - Ngọn thứ nhất gọi là Thiên Thị vì trên đỉnh núi này có những bãi đá giống những hình người đứng, ngồi thành hàng thứ tự như cảnh họp chợ. Truyền thuyết dân gian kể lại rằng người nhà trời thường xuống họp chợ ở đây bèn gọi núi này là Thiên Thị, tức chợ trời. - Ngọn thứ hai gọi là Thạch Bàn vì đỉnh núi này có những phiến đá lớn bằng phẳng như mặt bàn, có những phiến rất lớn vân thớ ngang dọc như hình bàn cờ. Truyền rằng, Tiên thường hạ giới chơi cờ ở đây nên từ lâu ngọn núi này gọi là Thạch Bàn, tức bàn đá. Di tích danh thắng Tây Thiên thuộc núi Thạch Bàn. - Ngọn thứ ba gọi là Phù Nghĩa, xưa kia gọi là núi Rùng Rình. Sở dĩ gọi như vậy là vì ở đỉnh núi này có những lòng thung trũng, quanh năm có nước ngầm lầy thụt, có chỗ như ao sâu, cỏ dại mọc lan ra lấp kín, sau nhiều năm kết lại thành những bè lớn. Khi đi lại ở vùng này (thực chất là đi trên những bè cỏ) thấy cứ rùng rình rung động dưới chân nên nhân dân gọi là núi Rùng Rình. Giữa thế kỷ XVIII, Quận Hẻo (Nguyễn Danh Phương) dựng cờ khởi nghĩa chống lại nhà Lê, đặt đại bản doanh ở núi này. ông cho đắp một toà thành lớn (nay vẫn còn vết tích, gọi là thành Quận Hẻo) và đổi tên núi Rùng Rình thành Phù Nghĩa, tức là làm theo việc nghĩa để hiệu triệu nông dân ủng hộ cuộc khởi nghĩa do ông đề xướng và lãnh đạo. Núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc) cùng với núi Ba Vì (Hà Tây), núi Nghĩa Lĩnh (đền Hùng, Phú Thọ) từ thời thượng cổ đã trở thành thế nước, là đất dựng nghiệp của nhiều đời. Đây là trung tâm văn hoá của nhiều thời kỳ: Kinh đô Văn Lang thời Hùng Vương, Kinh đô Cổ Loa thời An Dương Vương, Kinh đô Mê Linh thời Trưng Nữ Vương, rồi Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Các triều đại phong kiến trước đây đều coi Tam Đảo là núi rất linh thiêng, hàng năm đều tiến hành tế lễ theo nghi thức Nhà nước. Hiện nay, ở Tây Thiên còn một tảng đá lớn khắc lại sự kiện quan đại thần nhà Lê là Lê Khắc Phục được cử lên tế thần núi Tam Đảo vào tháng 5 năm 1450. Bài văn khắc này đầu đề là “Bát Nhã Tuyền” có nội dung (tạm dịch) như sau: “Ngày 10 tháng 5 năm Canh Tý, niên hiệu Thái Hoà thứ 8 triều vua thứ ba nhà Lê (Lê Nhân Tông (1443 -1453), vâng mệnh vua lên tế thần núi Tam Đảo. Bèn lên khắp mọi nơi để xem các di tích lịch sử cổ kính, rồi ngoảnh trông 14 ngọn núi cao ngất, chướng khí trập trùng kéo liền ngang với mọi ngọn núi cao trong nước, như một bức trường thành giáp tận chân mây. Đây là nền tảng vững chắc của nước Nam ta. Bèn cho khắc đá để ghi chép ngày tháng”. Khí hậu ở vùng núi Tam Đảo rất thuận lợi. ở đây mưa thuận gió hoà, cây cối quanh năm tươi tốt, vạn vật sinh sôi phát triển. Theo tài liệu của Chi cục Kiểm

2

Page 3: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

lâm Vườn Quốc gia Tam Đảo thì ở đây có: 180 loài thực vật, trong đó có 38 loài cây được ưu tiên bảo tồn; 77 loài thú trong đó có 21 loài thú quý hiếm được ưu tiên bảo tồn; 280 loài chim, trong đó có 29 loài chim di cư ăn thịt cần được bảo tồn; 360 loài bướm trong đó có 9 loài bướm quý hiếm cần được bảo tồn cùng nhiều loại thuỷ sinh, côn trùng khác rất phong phú. Đặc biệt dưới chân núi Máng Chì thuộc dãy Tam Đảo có một thung lũng hình vành chảo rộng hơn 2km, khí hậu ôn đới, quanh năm mát mẻ, không khí trong lành. Nhiệt độ ở đây thường thấp hơn ở đồng bằng từ 80C đến 100C. Chính vì vậy mà trong gần một thế kỷ qua, nơi đây đã trở thành khu nghỉ mát lý tưởng của du khách trong nước và quốc tế. Ngoài ra, Tây Thiên - Tam Đảo còn có hệ thống suối khe, thác ghềnh rất ngoạn mục như: suối Vàng, suối Bạc, suối Bát Nhã (Giải Oan), suối Trường Sinh quanh co khúc khuỷu, nước chảy róc rách suốt ngày đêm. Đẹp nhất là thác Bạc cao hơn 40m, khách đến Tây Thiên không ai là không đến thăm. Ven theo các khe suối là những bãi đá khổng lồ, hình thù kỳ dị và những cây cổ thụ xù xì muôn hình muôn vẻ phong cảnh thật kỳ vĩ, lý thú. 2. Tây Thiên - Tam Đảo có hệ thống di tích phong phú, đa dạng Do điều kiện địa lý cảnh quan và thiên nhiên tươi đẹp nên từ xa xưa con người đã tập trung chú ý khai thác Tây Thiên - Tam Đảo. Các tôn giáo tín ngưỡng đã sớm có mặt và phát triển mạnh mẽ ở Tây Thiên - Tam Đảo, trong đó chủ yếu là Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, đã để lại ở nơi này một quần thể di tích phong phú, đa dạng, phân bố trên một vùng rộng lớn. Trong khuôn khổ tham luận này, chúng tôi chỉ xin đề cập tới các di tích hiện hữu trong khu vực Tây Thiên. 2.1. Hệ thống chùa Theo tài liệu hiện nay thì đạo Phật đến vùng Tây Thiên - Tam Đảo từ rất sớm. Ngọc phả đình Đông Lộ (xã Đại Đình) nói về sự kiện ông Lăng Vĩ và bà Đào Liễu, thời Hùng Vương đã lên ngôi chùa ở núi Tam Đảo để cầu tự. Như vậy, có thể đạo Phật đã đến vùng Tây Thiên - Tam Đảo từ trước Công nguyên, cụ thể là từ thời nước Văn Lang của các Vua Hùng. Quá trình ấy đã để lại ở Tây Thiên khá nhiều chùa. Hiện nay khu vực này còn có các chùa sau: chùa Cả (cạnh đền Cả, xã Tam Quan), chùa Thiên ân (cạnh đền Thỏng), chùa Tây Thiên (cạnh đền Thượng), chùa Ngò (cạnh đình Sơn Đình). Trong khuôn viên đền Mẫu Sinh và đền Mẫu Hoá gần đây nhân dân cũng dựng ngôi Tam Bảo thờ Phật. Trong thời gian qua, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và phát hiện nhiều nền kiến trúc cổ mà theo truyền thuyết đó là nền các ngôi chùa: chùa Lũng Sâu, chùa Chân Tiên, chùa Đồ, chùa Phù Nghì, chùa Gốc Gạo, chùa Chi Vố, chùa Đồng Cổ. Như vậy, với 10 ngôi chùa trên một diện tích không rộng đã minh chứng cho nhận định: Tây Thiên có mật độ chùa dày đặc, một trung tâm Phật giáo thời cổ ở nước ta. 2.2. Hệ thống đình, đền Hầu hết các ngôi đình, đền ở Tây Thiên thờ Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu. Tương truyền bà là tiên nữ núi Tam Đảo thác sinh vào gia đình họ Lăng ở thôn Đông Lộ, xã Đại Đình. Đời Hùng Vương thứ 7 (Hùng Chiêu Vương), bà làm Hoàng phi, giúp Vua xây dựng đất nước ổn định thái bình. Đến đời Hùng Vương thứ 18, bà đã hiển thánh giúp Hùng Duệ Vương bảo vệ đất nước trong cuộc nội chiến Hùng -

3

Page 4: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Thục. Để ghi nhớ công ơn giúp vua, giúp nước của Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu, nhân dân nhiều nơi đã lập đền thờ bà. Khu vực Tây Thiên có một hệ thống đình, đền thờ Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu gồm: đền Cả (đền Trình), đền Mẫu Sinh, đền Mẫu Hoá, đình Sơn Đình, đền Thỏng, đền Thượng. Bên cạnh việc thờ Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu, các đình, đền ở đây còn phối thờ các thần khác như: Mẫu Thiên, Mẫu Thoải, Mẫu Địa, Mẫu Thượng Ngàn, các ông Hoàng, bà Chúa... Ngoài hệ thống đình, đền, chùa nói trên, ở Tây Thiên còn có một số di tích khác cũng cần được bảo tồn như: bia đá (phiến đá khắc bài văn “Bát Nhã Tuyền” của quan đại thần Lê Khắc Phục thời Lê Sơ), hai ngôi mộ của Thiền sư Võng Sơn và Thiền sư Cúc Khê, chòi ông Nhất - cơ sở cách mạng của Đảng thời kỳ hoạt động bí mật và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Mặt khác, theo ghi chép của nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII), ở Tây Thiên còn có am Vân Tiêu, am Song Tuyền, am Lưỡng Phong, thang Bộ Vân và cầu Đái Tuyết. Hy vọng trong tương lai những địa điểm này sẽ được tìm ra để góp phần nghiên cứu, phục dựng tôn tạo cho hệ thống di tích nơi đây thêm phong phú và đầy đủ. 3. Thực trạng công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích danh thắng Tây Thiên và một số đề xuất Di tích danh thắng Tây Thiên đã được xếp hạng quốc gia năm 1991. Song việc bảo vệ và khai thác sử dụng tốt nhất di tích danh thắng này, phục vụ đắc lực cho nhu cầu hưởng thụ văn hoá và phát triển kinh tế ở địa phương luôn là vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý các cấp, các ngành. Trong nhiều năm qua, nhất là từ ngày tái lập tỉnh, được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và các cấp, các ngành liên quan của tỉnh Vĩnh Phúc, việc bảo vệ tôn tạo và phát huy di tích danh thắng Tây Thiên đã được cải thiện rất nhiều. Các di tích trong hệ thống từng bước được tu bổ, sửa chữa. Cơ sở hạ tầng được nâng cấp. Đường vào khu di tích đã được mở rộng, san phẳng, đổ bê tông, làm bậc và lan can, khiến việc đi lại dễ dàng hơn trước. Điện thắp sáng khá đầy đủ. Quy hoạch tổng thể và chi tiết đã và đang được tiến hành. Lễ hội hằng năm được Nhà nước tổ chức chu đáo, tạo sự phấn khởi trong nhân dân, thu hút ngày càng đông khách hành hương. Hiện nay, Thiền viện Trúc Lâm với kiến trúc đẹp, đồ sộ vừa được hoàn thành khiến cho khu vực thắng cảnh Tây Thiên càng thêm tráng lệ. Tuy nhiên, cạnh những ưu điểm, khu di tích danh thắng Tây Thiên tồn tại một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như sau: - Do ở miền sơn cước, các công trình kiến trúc ở đây có lẽ đều làm bằng vật liệu không bền vững nên tuy có lịch sử xây dựng lâu đời song kiến trúc gốc hiện không còn nữa. Hầu hết các công trình ở Tây Thiên đều mới làm lại ở những thập niên gần đây. Toàn bộ hệ thống đình, đền, chùa hiện nay chỉ có đền Thỏng và chùa Thượng do Nhà nước đầu tư làm lại với quy mô lớn, số còn lại đều do dân tự ý xây dựng quy có mô nhỏ và ít giá trị về mỹ thuật và kiến trúc. - Tình trạng tự ý xây thêm các công trình thờ tự ở Tây Thiên có chiều hướng gia tăng. Chẳng hạn như ở đền Thượng thời gian gần đây đã xây thêm nhiều am nhỏ thờ Cô Chín, Sơn Thần, Thổ Thần, trang trí loè loẹt không phù hợp với cảnh quan và nội dung di tích. Tại đền Mẫu Hoá, người ta cũng cho xây dựng một ngôi đền

4

Page 5: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

chúa Thượng Ngàn và một ngôi mộ Chúa, phá vỡ cảnh quan di tích và không phù hợp nội dung thờ Quốc Mẫu. Hoặc ở đền Cô, đền Cậu, đình Sơn Đình, chùa Ngò cũng như vậy. Tất cả đều có kiến trúc đơn giản, trang trí thô sơ, câu đối viết không đúng tự dạng... - Các loại hình dịch vụ ở Tây Thiên chưa hợp lý, vệ sinh môi trường chưa đảm bảo khiến cho hoạt động chuyên môn và phát huy tác dụng khu di tích danh thắng Tây Thiên chưa được triệt để. Từ thực trạng trên đây, nhằm giúp cho việc quản lý, bảo vệ và phát huy tác dụng mọi mặt của hệ thống di tích danh thắng Tây Thiên có hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu của đông đảo khách tham quan du lịch, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau đây: 3.1. Tăng cường hơn nữa việc quản lý nhà nước đối với di tích danh thắng Tây Thiên - Phân định việc quản lý toàn diện di tích danh thắng cho Ban Quản lý Di tích Danh thắng Tây Thiên, chấm dứt tình trạng quản lý chồng chéo như hiện nay giữa nhiều cơ quan (Ban Quản lý Di tích Danh thắng Tây Thiên, Vườn Quốc gia Tam Đảo, UBND xã Đại Đình, các hộ dân nhận khoán rừng). - Chuyển Ban Quản lý Di tích Danh thắng Tây Thiên trực thuộc tỉnh để thống nhất về quản lý và xứng tầm một di tích trọng điểm của tỉnh Vĩnh Phúc. - Các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý liên quan cần quán triệt đầy đủ, thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn tu bổ, tôn tạo di tích theo đúng những quy định của Nhà nước, để hệ thống di tích Tây Thiên đạt yêu cầu về mỹ thuật kiến trúc, cảnh quan và có nội dung thờ tự phù hợp. 3.2. Hoạch định không gian, giới hạn địa lý hệ thống di tích Tây Thiên Tây Thiên là quần thể di tích danh thắng bậc nhất của tỉnh Vĩnh Phúc. Trong tương lai, lượng khách tham quan sẽ rất đông và chu trình, tuyến hướng tham quan ở khu vực này cần được mở rộng để khai thác du lịch sinh thái và các địa điểm thờ tự tôn giáo, di tích lịch sử khác trong toàn bộ hệ thống núi Tam Đảo. Trên cơ sở xác định giới hạn địa lý, hệ thống địa điểm di tích và vùng sinh thái mới có thể từng bước lập quy hoạch tổng thể và chi tiết chính xác - một khâu quan trọng đầu tiên của công tác tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích. 3.3. Tăng cường và củng cố tổ chức Ban Quản lý Di tích Danh thắng Tây Thiên Hệ thống di tích danh thắng Tây Thiên có hoạt động và khai thác tốt phụ thuộc lớn vào sự điều hành của Ban Quản lý Di tích Danh thắng Tây Thiên và những con người thực thi cụ thể. Chính vì vậy, khi nhu cầu của di tích ngày càng cao thì Ban Quản lý Di tích Danh thắng Tây Thiên cũng cần được điều chỉnh và tăng cường đội ngũ cán bộ phù hợp. Đó là những người không chỉ có nhiệt huyết mà phải có trình độ chuyên môn cao về bảo tồn di tích, có đủ năng lực để vận dụng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích.

Những dấu tích tín ngưỡng,tôn giáo tại khu danh thắng Tây Thiên (Vĩnh Phúc) (09/05/2008 16:12)

Khu di tích danh thắng Tây Thiên nằm trên sườn núi tây bắc của dãy Tam Đảo, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, có tọa độ địa lý tương đối là 21028’ vĩ độ bắc, 105037’ kinh độ đông, cách thành phố Hà Nội khoảng 65km về phía tây bắc. Tây Thiên là một khu di tích danh thắng gồm hệ thống đình, đền, chùa và phong cảnh tự nhiên phân bố trên

5

Page 6: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

một diện tích khoảng 15km2, trong đó khu đền chính (đền Thượng) nằm ở độ cao 530m so với mực nước biển. Từ thế kỷ XVIII, trong tác phẩm Kiến Văn Tiểu Lục, nhà bác học Lê Quý Đôn đã mô tả khu vực Tây Thiên như sau: “ở đằng trước, phía bên tả có khe Giải Oan, tức là thượng lưu sông Sơn Tang, huyện An Lạc… ở giữa ngọn núi là núi Kim Thiên cao chót vót, ghềnh thác không biết bao nhiêu mà kể. Bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không trông thấy đáy. Sườn núi có chùa Thiên ân Cổ Tự, tre xanh, thông tốt, cảnh sắc thanh nhã, rộng rãi, trên đỉnh cao lại có chùa Đồng Cổ, vừa lên, vừa xuống phải mất hai ngày, từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi có hồ Sen, nước xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và sen đỏ… bên trái gọi là suối Bạc, bắt nguồn từ khe đá chảy xuống…” (1). Ngoài hệ thống đình, đền, miếu thờ Quốc Mẫu Tây Thiên, ở đây còn một hệ thống chùa thờ Phật kéo dài từ chân núi, xen kẽ quanh các khe Giải Oan, suối Vàng, suối Bạc, hồ Sen, … trong đó có những di tích được xây dựng từ thời Lý - Trần (từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIV), tất cả tạo nên một giá trị văn hoá, danh thắng đặc biệt. 1. Hệ thống di tích Phật giáo Đó là hàng loạt ngôi chùa nhưng do thời gian, nay chỉ còn chùa Tây Thiên. Các ngôi chùa khác như chùa Phù Nghì (khu Phù Nghì), chùa Chân Tiên, chùa Thiên ân, chùa Đổ (khu đền Thỏng), chùa Lõng Sâu (ở lũng Lõng Sâu - Đông Lộ), chùa Gốc Gạo (cạnh suối Bát Nhã), chùa Đồng Cổ (chân núi Thạch Bàn) … đều đã bị đổ nát, chỉ còn dấu tích hoặc mới được dựng lại. 1.1. Chùa Tây Thiên (Tây Thiên Thiền Tự): Còn gọi là chùa Thượng, nằm cạnh đền Thượng. Hiện chưa có nguồn tư liệu nào nói về thời gian khởi dựng chùa, nhưng tại chùa còn lưu giữ tấm bia “Tam Đảo Sơn, Tây Thiên Thiền Tự” niên đại Chính Hoà thứ 25 (1704). Nội dung bia cho biết lần trùng tu này đã tập hợp được hội chủ các vùng Vĩnh Tường, Phù Ninh, Bắc Giang… cho thấy tầm ảnh hưởng sâu rộng của ngôi chùa vào thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII. Tấm bia thứ hai là “Tam Đảo Sơn, Tây Thiên Tự Bi Ký” dựng năm Long Đức thứ 2 (1733) cho biết vào thời này chùa tiếp tục được tu sửa. Ngoài ra, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục còn cho biết vào tháng 11 năm 1727, chúa Trịnh Cương đã sai người sửa dựng các chùa ở Tây Thiên đề phòng khi đi du ngoạn. Như vậy, chùa Tây Thiên không chỉ là một trung tâm Phật giáo tín ngưỡng nổi tiếng mà đã kiêm cả chức năng hành cung. Chùa hiện nay là kết quả của lần dựng lại vào năm 1937 do viên Chánh tổng Hà Trọng Tuy, người Lập Thạch (Vĩnh Phúc) đứng ra chủ trì. 1.2. Chùa Thiên ân: Nằm cạnh đền Thỏng, mới được dựng lại bằng chất liệu gỗ nhưng còn một tấm bia đá tạo dựng từ thế kỷ XVIII. 1.3. Chùa Phù Nghì: Nằm trên núi, gần đền Cô, đã bị đổ nát, chỉ còn phế tích và hệ thống kè đá nền chùa cao khoảng 1, 5m. Trong đống đổ nát đó vẫn còn những mảnh gốm, sứ mang phong cách thời Trần khẳng định sự có mặt từ rất sớm của di tích này. Quanh ngôi chùa vẫn còn giữ được những cây thông cổ thụ với đường kính thân tới 1m. Ngoài ra, tại đình Ngò (xã Sơn Đình) còn giữ một quả chuông đồng “Phù Nghì Tự Chung”. Quả chuông này được đưa về đình năm 1938. 1.4. Chùa Đồng Cổ: Được dựng ở chân núi Thạch Bàn. Tương truyền, ngôi chùa được làm bằng đồng, nhưng nay đã đổ nát, chỉ còn phế tích hệ thống kè đá nền chùa cao khoảng 1m. Có thể thấy, những chùa còn lại ở khu vực Tây Thiên là kết quả của những lần trùng tu,

6

Page 7: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

xây dựng lại vào nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, những dấu tích còn lại cho thấy nhiều ngôi chùa ở đây đã được xây dựng từ khá sớm. Hơn nữa, với việc tập trung mật độ di tích dày đặc, trung bình cứ khoảng 200.000m2 có một ngôi chùa đã cho thấy đây là một trong những trung tâm Phật giáo sớm của nước ta. 2. Hệ thống di tích thờ Thần Hầu hết các đình, đền, miếu tại di tích Tây Thiên thờ Tây Thiên Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu. Các sắc phong, thần tích về bà hiện được lưu tại đình Sơn Động và đình Đông Lộ (cũng thuộc khu di tích). Các bài vị thờ bà đều có dòng chữ “Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu”. Đã có những ý kiến khác nhau về hành trạng vị nữ thần này. Có ý kiến cho rằng, bà là vợ Hoàng tử Lang Liêu trong truyền thuyết “Bánh Chưng - Bánh Dày”. Có ý kiến cho bà là một nữ tướng vùng Tam Đảo đã có công đem quân chống giặc phương Bắc tại ngã ba Bạch Hạc, giải vây cho thành đô Văn Lang, sau làm vợ vua Hùng thứ 17. Tuy các ý kiến còn khác nhau nhưng ta thấy ở đây có một hiện tượng thú vị trong tín ngưỡng người Việt xưa: Nếu nhìn trên bản đồ, tại vùng đất tổ Nghĩa Lĩnh - nơi thờ các vua Hùng, bên trái là núi Ba Vì thờ Đức Thánh Cha Tản Viên, còn bên phải là núi Tam Đảo thờ Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu. 2.1. Đền Tây Thiên (Tây Thiên Từ): Nằm cạnh chùa Tây Thiên trên độ cao 530m, là nơi thờ chính Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu. Cũng như chùa, đền đã bị đổ nát từ lâu. Năm 1937, Chánh tổng Hà Văn Tuy đã đứng ra tu sửa lại cùng với chùa. Đền mới lập lại có mặt bằng chữ Đinh, kết cấu đơn giản, mang dấu ấn đương thời. Phía sau đền là miếu Sơn Thần. 2.2. Đền Thỏng: Nằm trong tổng thể di tích Quốc Mẫu Tây Thiên. Đền Thỏng được coi là “Hữu Thần cung” của đền Tây Thiên. Sở dĩ có tên Thỏng vì ngôi đền nằm trên địa phận thôn Lan Thông và từ đền Thông đã bị biến âm thành đền Thỏng. (Cũng có tài liệu ghi đây là đền Thõng). Tại đền có một tấm bia đá bốn mặt khắc ghi quá trình xây dựng di tích cùng danh sách những người đóng góp, cung tiến. Đây là trung tâm tổ chức lễ hội hằng năm khu di tích danh thắng Tây Thiên. Ngôi đền mới được tôn tại lại cách đây khoảng 10 năm, gồm 2 toà, mặt bằng chữ Đinh, toà Tiền Bái gồm 3 gian 2 chái, bốn mái; toà Hậu Cung 1 gian 2 chái, chồng diêm hai tầng tám mái, đã phần nào đáp ứng được nhu cầu hành lễ của du khách. 2.3. Đền Cả: Còn gọi là đền Trình, nằm trên địa phận xã Tam Quan, trên đường vào khu di tích danh thắng Tây Thiên. Đền được dựng từ thời Lê Trung Hưng nhưng cũng đã bị xuống cấp, hư hỏng nặng. Tháng 3 năm 1989, ngôi đền được địa phương khôi phục lại với diện tích 13m x 11m. Tại đền còn một đôi câu đối ca ngợi công lao Thánh Mẫu: “Tiên nhi Thánh, phù Hùng diệt Thục, hiển thần công Đông chi Tây, tế thế an bang, Ngô Quốc Mẫu”. Tạm dịch : Vừa là Tiên, vừa là Thánh, giúp vua Hùng diệt nhà Thục, công lao hiển hách Từ Đông sang Tây, giữ yên bờ cõi, xứng danh Quốc Mẫu. 2.4. Đền Cậu, đền Cô: Được dựng ở lưng núi, dọc đường mòn từ đền Thỏng lên đền Thượng. Cả hai ngôi đền đều được xây dựng mới gần đây trên dấu tích cũ. Ngoài ra, tại khu danh thắng còn một số ngôi đền khác như: đền Mẫu Sinh, nằm trong làng Đông Lộ, còn gọi là đình Đông Lộ, tương truyền là nơi Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu được sinh ra. Đền Mẫu Hoá, tương truyền là nơi Quốc Mẫu Tây Thiên về trời,v.v… 3. Mấy nhận xét Với khoảng 14km2 được khoanh vùng bảo vệ, khu di tích danh thắng Tây Thiên đã tập

7

Page 8: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

trung một mật độ di tích dày đặc, với sự phong phú, đa dạng của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. 3.1. Về thờ Phật: Với những dấu tích vật chất có niên đại thế kỷ XIII, XIV, với mật độ chùa chiền dày đặc, cùng những hệ thống bia đá, tháp mộ… cho thấy Tây Thiên chắc chắn đã từng là trung tâm Phật Giáo lớn của cả nước. Hơn thế nữa, với việc chúa Trịnh Cương sai người dựng, sửa chùa chiền ở đây cho thấy các chùa ở Tây Thiên không chỉ là chùa làng, chùa xã mà còn được coi như những ngôi quốc tự, nơi dừng chân của vua, chúa khi đi tuần thú. 3.2. Về thờ thần: Đây là nơi thờ Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu. Truyền thuyết, kiến giải về bà khá đa dạng nhưng dưới góc độ dân tộc học, có thể coi đây là tàn dư của xã hội thị tộc Mẫu hệ. Bà như thủ lĩnh của một tộc người. Hiện tượng thờ nữ thần khá phổ biến trong tín ngưỡng văn hoá Việt. Tại khu danh thắng này đã có 6 điểm thờ bà. Một số tín ngưỡng dân gian khác cũng hiện diện nơi đây. Những đền Cậu, đền Cô, với những ban thờ thần Hổ, thần Rừng… đã thể hiện ước nguyện của cư dân nông nghiệp, mong cầu một cuộc sống an lành, con đàn, cháu đống. 3.3. Ngoài hệ thống đền, chùa phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng, tinh thần, khu di tích danh thắng Tây Thiên còn có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, với núi non hiểm trở, suối khe, rừng nguyên sinh… Tất cả tạo nên sự hấp dẫn các đối tượng tham quan hành hương lễ hội, cũng như nghiên cứu khoa học.

Ths. Lê Tâm Đắc (Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viên Khoa học Xã hội Việt Nam)

Ths. Tạ Quốc Khánh (Viện Tu bổ Di tích - Bộ Văn hoá - Thông tin)

Di tích danh thắng Tây Thiên và Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên trong chiến lược phát triển Du lịch Vĩnh Phúc (09/05/2008 16:49)

Nói đến khu danh thắng nổi tiếng Tây Thiên cần thấy rõ 3 yếu tố cấu thành quần thể này: Một là, rừng Quốc gia Tam Đảo vừa là nơi tham quan ngắm cảnh vừa là nơi nghiên cứu khoa học với hệ sinh thái nhiệt đới và á nhiệt đới. Rừng Tam Đảo chạy dài khoảng 50km từ đền Sóc Sơn (Hà Nội) qua Tây Thiên (Vĩnh Phúc) tới giáp Tuyên Quang. Đây là rừng nguyên sinh nên có một thảm thực vật quý hiếm với nhiều lớp che phủ khác nhau tạo ra một khí hậu lý tưởng và là lá phổi khổng lồ của thủ đô Hà Nội. Đặc biệt, trong qúa trình phát triển công nghiệp, khi mà hiệu ứng nhà kính toàn trái đất tăng lên, lỗ thủng ôzôn của khí quyển trái đất rộng ra, thì rừng Tam Đảo bên cạnh khu công nghiệp tập trung như Hà Nội lại càng có giá trị cho sự phát triển bền vững hôm nay và mai sau. Vườn Quốc gia Tam Đảo (một bộ phận của rừng Quốc gia Tam Đảo) diện tích 19.000ha có 620 loài cây, 120 loài chim, 45 loài thú rừng trong đó có nhiều cây quý hiếm, chim đẹp, thú quý. Rừng Tam Đảo tạo ra một không gian hài hoà, phong phú cảnh sắc, môi trường trong lành... rất phù hợp cho loại hình du lịch sinh thái tự nhiên. Hai là, núi Tam Đảo có địa hình hấp dẫn, nằm giữa dải đồng bằng châu thổ Sông Hồng, có vị trí chiến lược về quân sự và kinh tế, rất thích hợp với việc phát triển du lịch. Tam Đảo có 3 ngọn núi cao là: Thiên Thị (1.375m), Thạch Bàn (1.388m), Phù Nghĩa

8

Page 9: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

(1.400m); ở độ cao 1.000m nhiệt độ bình quân năm là 200 và lượng mưa bình quân hằng năm cũng rất cao 2.463 mm là nguồn tạo ra các suối, khe, hồ, thác rất đẹp hấp dẫn du khách mọi nơi và tạo ra khả năng du lịch mạo hiểm như leo núi, đua xe địa hình. Ba là, một vùng giàu có về tài nguyên nhân văn, bao gồm hệ thống làng xóm, thôn bản của dân tộc Kinh, dân tộc Sán Dìu... với những phong tục độc đáo, lễ hội riêng biệt, các đình, chùa, miếu mạo cổ thờ các vị tướng lĩnh, thành hoàng làng có công dựng nước và giữ nước theo chiều dài lịch sử. Quần thể di tích danh thắng Tây Thiên là sự kết tinh nguyên khí nhân văn của cả khu vực rộng lớn tạo ra một tam giác địa linh bao gồm: đền Hùng (Phú Thọ), đền Sóc (Hà Nội) và Tây Thiên (Vĩnh Phúc), trong đó, Tây Thiên là điểm tụ hội tâm linh của người Việt xưa. Ba đặc điểm nêu trên làm cho quần thể Tây Thiên trở thành di tích có một không hai của Việt Nam cả về thiên nhiên và xã hội. Việc xây dựng Thiền viện Trúc Lâm là một việc làm quý giá đối với ngành du lịch vì trước hết, Thiền viện là một sản phẩm du lịch đặc biệt có kiến trúc hấp dẫn theo quan điểm kiến trúc Phật giáo, từ quy hoạch không gian đến kết cấu công trình, từ đường nét chi tiết đến hình thể tổng quan. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh hơn là hình thể kiến trúc này được thổi vào bằng sự ngưỡng mộ, tin cậy của hàng triệu con người, có tín ngưỡng hay khác tín ngưỡng, đều thành tâm hướng về cuộc sống tốt lành theo gương nhà Phật. Đấy chính là mục tiêu của du lịch tâm linh. Ngày nay, trước sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt của nền kinh tế thị trường, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một nơi hướng thiện, một tâm điểm tập hợp con người. Và như vậy, rõ ràng sự tái tạo Thiền viện Trúc Lâm ở Tây Thiên có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với du lịch tâm linh hiện đại. Chiến lược phát triển du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc đã chia ra 4 vùng du lịch có những nội dung riêng biệt, đó là: khu Tam Đảo - Tây Thiên; khu Vĩnh Yên và vùng phụ cận; khu Phúc Yên - Mê Linh; và khu Sáng Sơn - Lập Thạch, trong đó khu Tam Đảo - Tây Thiên là quan trọng nhất. Lịch sử chứng minh rằng, Tây Thiên là con đường để người dân Việt trước thế kỷ XIX lên tới Ba Đình - Tam Đảo. Con đường lên Tam Đảo hiện nay mới có lịch sử 100 năm khi người Pháp tìm ra Tam Đảo I vào những năm 1902 - 1906. Người Pháp cũng tìm ra Tam Đảo II, đã phác thảo ra con đường đi từ Tam Đảo I đến Tam Đảo II và đã có những dự kiến tạo ra một khu nghỉ mát lý tưởng tại Tam Đảo II vì nơi này mọi điều kiện cho việc nghỉ dưỡng còn hơn Tam Đảo I. Để phát huy lợi thế du lịch Vĩnh Phúc với Tây Thiên và Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau: Một là, hiện nay tỉnh Vĩnh Phúc cùng tập đoàn Partner của Hoa Kỳ đang quy hoạch du lịch núi Tam Đảo trong đó tập trung quy hoạch khu du lịch Tam Đảo II là một thuận lợi với Tây Thiên và chắc chắn Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên sẽ là một điểm nhấn quan trọng trong quy hoạch tổng thể đó. Vì vậy, cần chú ý sự hài hoà giữa không gian kiến trúc chung với kiến trúc tôn giáo mang đặc điểm riêng biệt của Thiền viện nhằm thúc đẩy hơn nữa sự đóng góp của Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên đối với sự phát triển của du lịch vùng Tam Đảo - Tây Thiên. Hai là, phát huy sự toả sáng của Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên với Phật tử, nhân dân và du khách trong và ngoài nước. Sự tỏa sáng của Thiền viện sẽ tạo ra một lượng du khách lớn đến Tây Thiên - Tam Đảo, làm cho du lịch tâm linh Vĩnh Phúc phát triển hơn nữa. Do vậy, trách nhiệm của Thiền viện với ngành du lịch, văn hóa... cần được xác định một

9

Page 10: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

cách chặt chẽ tạo sự thống nhất để sức lan toả của Thiền Viện ngày một xa hơn. Ba là, du lịch làm cho mọi người nhích lại gần nhau hơn không phân biệt tôn giáo, dân tộc... Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên sẽ là nơi hội tụ du khách của nhiều quốc gia, khu vực. Điều này minh chứng một điều, du lịch và tôn giáo - cụ thể ở đây là Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, cùng chung con đường phát triển, mục đích kinh tế, hoà bình và bền vững.

TS. Trần Dũng (Giám đốc Sở Thương Mại và Du lịch Vĩnh Phúc)

Cụm di tích tây Thiên qua tư liệu Hán Nôm (09/05/2008 16:07)

Tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Viện Khoa học Xã hội Việt Nam còn lưu giữ được khá nhiều tư liệu Hán Nôm ở các địa phương qua hai lần sưu tầm. Tư liệu Hán Nôm trong cụm di tích Tây Thiên được sưu tầm lần đầu do Học viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại Hà Nội thực hiện năm 1938, lần thứ hai do Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tiến hành năm 1996. Trong khi tư liệu sưu tầm được của các địa phương khác vô cùng đồ sộ và phong phú thì tư liệu sưu tầm được về Tây Thiên hết sức ít ỏi. Không những thế tư liệu qua hai lần sưu tầm đã xuất hiện sai lệch đáng kể. Các di tích ở Tây Thiên nằm trong quần thể di tích thuộc các làng xã của hai tổng Quan Ngoại và Miêu Duệ, huyện Tam Dương(1). Trong lần sưu tầm thứ nhất, tư liệu chủ yếu là các bảng kê khai của các lý trưởng theo sự hướng dẫn của Học viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại Hà Nội về thần tích, sắc phong, cùng các ngày lễ hội, phong tục tập quán. Cụ thể là các cụm di tích thuộc các làng xã Quan Ngoại, Quan Đình, Sơn Đình, Đông Hộ và Vạn Phẩm thuộc tổng Quan Ngoại; và một số xã thôn khác thuộc tổng Miêu Duệ huyện Tam Dương. Tư liệu này hiện lưu giữ tại Kho tư liệu Thần sắc, Viện Thông tin Khoa học Xã hội Việt Nam, kí hiệu Q40. 18/XIII.23-29. Ngoài ra là những bản rập văn bia, hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đợt sưu tầm lần thứ hai chủ yếu in rập văn bia và sao chép hoành phi, câu đối. Về văn bia, cả hai lần sưu tầm đều rất ít, chỉ có 3 - 4 văn bản, thuộc các làng Quan Ngoại, Sơn Đình và Đông Hộ, cùng 2 quả chuông, 1 chiếc khánh đồng. Tư liệu thần tích, sắc phong cũng chỉ được sao chép vắn tắt trong lần sưu tầm thứ nhất, đến lần sưu tầm thứ hai thì hầu như các tư liệu này ở địa phương đã thất truyền, duy có một số bức đại tự và câu đối do lần đầu sưu tầm chưa sao chép được thì lần thứ hai chép lại được một số, nhưng cũng rất khiêm tốn, khoảng 50 câu đối và 30 bức hoành phi. Về di tích, phần lớn di tích đình, chùa bị phá bỏ trong chiến tranh, nay được tái tạo hoặc tu bổ lại với quy mô nhỏ bé, kiến trúc hiện đại vì kinh phí xây dựng hạn hẹp, chủ yếu do bà con dân làng quyên góp. Riêng ngôi đền Đồng Xuân ở xã Tam Quan trước đây do một phụ nữ người huyện Vĩnh Lạc trong tỉnh bỏ tiền xây dựng với mục đích thu hút khách du lịch trên đường đến chùa Tây Thiên, nên đền này được gắn cho một tên gọi mới là đền Trình vào chùa Tây Thiên tựa như đền Trình vào chùa Hương. Tương tự, ở cụm di tích xã Đại Đình cũng mang thêm tên gọi là đền Trình vào chùa Tây Thiên. Trong các di tích này, phần lớn thờ Thất vị đại vương, tức là Cao Sơn Thượng Đẳng Thần, Quý Minh Thượng Đẳng Thần, Cổ Sơn Thượng Đẳng Thần, Đông Hán Đông Hải Đại Vương, Ba La Giới Đại Vương, ông Khoan ông Tràng Đại Vương và U Lãng Hoàng

10

Page 11: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Báo Đại Vương. Ba vị đầu là Cao Sơn, Quý Minh và Cổ Sơn gắn với sự tích Tản Viên Sơn Thánh, câu chuyện xảy ra từ thời Hùng vương. Ba vị này không chỉ được thờ ở các cụm di tích xung quanh núi Tam Đảo mà còn được thờ khá phổ biến ở nhiều làng quê vùng châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên, cái nôi của truyền thuyết trên có lẽ là vùng núi Tam Đảo. Còn Đông Hán Đông Hải Đại Vương là sự tích lưu truyền tương tự sự tích Đông Hải Đại Vương ở vùng Hải Dương. Sự tích kể rằng: Có một vị tướng đánh trận bị cụt đầu, khi về đến một quán nước, hỏi chủ quán rằng: “Người mất đầu thế này, liệu có thể sống được không? Chủ quán nhanh nhẩu đáp: Không. Thế là Người hoá ngay bên cây cổ thụ cạnh quán nước”. Vị tướng được thần thánh hoá này vốn là một tướng thời Trần đã hy sinh trong chiến trận. Vì vậy, một số di tích khác ở vùng Tây Thiên còn thờ những danh tướng khác thời Trần, trong đó có 4 vị đã đến vùng đất này mộ quân để chiến đấu và đã hy sinh tại đây. Một số di tích khác thờ ả Lã Nàng Đê, một nữ tướng thời Hai Bà Trưng. Đặc biệt là vị nhân thần hiển Thánh thời Hùng Vương là Đảo Sơn Quốc Mẫu Tặng Thái Phu Nhân. Bà có công chiêu lập dân ấp, bắc cầu, đắp đê, dạy cho dân làm nông nghiệp. Cũng có thể vị Thái Phu Nhân này là Lăng Thị Cung Tiêu, được phụng thờ ở các di tích khu vực chùa Tây Thiên. Các di tích và tư liệu Hán Nôm ở những địa phương xung quanh khu di tích Tây Thiên, trải qua những thời kỳ bị lãng quên và tàn phá bởi chiến tranh và thời gian, nay hầu hết đã và đang được phục hồi, tuy nhiên đôi khi bị sai lệch so với thực tế. Vì vậy, việc điều tra, sưu tầm và làm hồ sơ tư liệu cho từng di tích một cách nghiêm túc là cần thiết. Đồng thời với việc xây dựng, tu bổ di tích, thì việc phục hồi lai lịch cho di tích cần được chỉ đạo chặt chẽ của các cơ quan chuyên môn. Khu di tích Tây Thiên và vùng phụ cận vốn là một vùng đất cổ, có nhiều di tích gắn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nơi đây cũng có nhiều thắng cảnh có thể quy hoạch thành tuyến du lịch nghỉ mát lý tưởng. Các cụm di tích và thắng cảnh chùa Tây Thiên không khác gì di tích và thắng cảnh chùa Hương (Hà Tây). Nếu chùa Hương được phủ lên lớp Phật thoại về Bà Chúa Ba hay Phật Bà Quan âm thì chùa Tây Thiên ngời ngời hình ảnh vị Thánh Mẫu vốn là Lăng Thị Cung Tiêu, người phò tá vua Hùng dẹp giặc. Các di tích ở đây cần được quy hoạch, tu bổ và trả lại tên gọi, lai lịch đích thực của nó. Để có một quy hoạch và khôi phục lịch sử các di tích này, nhất là huyền thoại về vị Thánh Mẫu, cần tiến hành nghiên cứu tổng thể kết hợp đa ngành khảo sát thực địa để thu thập lại toàn bộ tư liệu thành văn và không thành văn hiện còn ở địa phương. Trên cơ sở đó, đi sâu nghiên cứu và tái dựng lịch sử, cũng như góp phần xây dựng đề án quy hoạch phát triển khu di tích này xứng đáng với tiềm ẩn vốn có của nó.

TS. Đinh Khắc Thuân

(Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viên Khoa học Xã hội Việt Nam)

Bước đầu tìm hiểu Phật giáo Tây Thiên qua những văn tự cổ (09/05/2008 15:29)

1. Vài nét về linh sơn Tam Đảo Dãy Tam Đảo chạy dài 30km trên đất Vĩnh Phúc, bắt đầu từ xã Đạo Trù (huyện Lập

11

Page 12: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Thạch), tới xã Lan Đình, Sơn Đình, Tam Quan (huyện Tam Dương) thì đột khởi thành ba ngọn núi cao, phủ đầy mây trắng là Phù Nghì (1.250m), Thạch Bàn (1.420m) và Thiên Thị (1.585m), rồi xuôi dần xuống xã Ngọc Thanh (huyện Mê Linh). Về phía đông bắc, Tam Đảo nằm ở các xã Kỳ Phú, Huân Chu, Cát Nê (huyện Phú Lương và huyện Đại Từ, thành phố Thái Nguyên). Dãy Tam Đảo tạo thế “sơn thuỷ hữu tình”, cảnh quan kỳ tú cho tỉnh Tuyên Quang ở phía bắc, tỉnh Thái Nguyên ở phía đông, tỉnh Phú Thọ và thành phố Việt Trì ở phía tây và thành phố Hà Nội ở phía nam. Tam Đảo lại là nơi phát nguyên của sông Như Nguyệt (sông Cầu), sông Cà Lồ và sông Phó Đáy, đổ nước vào sông Lô (tên gọi cũ của sông Nhị Hà), đứng riêng biệt ngoài vòng cung Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn và Đông Triều. Tam Đảo có độ cao 1.585m, hơn cả núi Tản Viên (Ba Vì 1.287m) và dãy Yên Tử (1.068m) thuộc kinh tuyến 105055 đông, vĩ tuyến 21050 bắc, hình thành một cảnh trí tuyệt vời ở vùng châu thổ Sông Hồng, hội tụ khí thiêng sơn hà, trở thành trung tâm tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa và du lịch của trong nước và quốc tế. 2. Phật giáo ở Tây Thiên - Tam Đảo Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Bình thứ nhất đời Đông Hán (58 Dương lịch), các vị cao tăng đạo hạnh người Thiên Trúc (ấn Độ) như Khang Cư (Sogdiane) và Nguyệt Thị (Indoscythe) thuộc phái Thiền Tông, không quản xa xôi, khó nhọc, đã tìm đến Tam Đảo. Nhiều vị tỳ kheo đã lưu lại Giao Chỉ đến tận năm ất Hợi, niên hiệu Vĩnh Bình thứ 18 đời Đông Hán (75 Dương lịch) để thiết lập chùa chiền và truyền bá Phật pháp. Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng 15 năm, nhiều tăng đồ Thiền Tông từ ấn độ vào Giao Chỉ, tìm đến các vùng núi u tịch, nhưng không quá hiểm trở và xa đường giao thông để thiền tọa, trong đó có vùng núi Tam Đảo. Đến thế kỷ VI, xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Xu hướng của các vị cao tăng là chọn những miền thanh sơnX, thảo dã, tùng trúc lâm tuyền để tu hành. Điều đó, đến thời nhà Trần, đã được Trúc Lâm Đệ Nhất Tổ (Trần Nhân Tông, 1258 - 1308), khi đăng sơn Yên Tử đã viết thành thơ như sau: Địa tịch đãi dũ cổ Thì lại xuân vị thâm Vân Sơn tương viễn cận Hoa kính bán tình âm. Tạm dịch: Đài ở chỗ hẻo lánh càng có vẻ cổ kính Thời đến mùa xuân chưa muộn Núi phủ mây, ngọn như gần, ngọn như xa Đường đầy hoa, nửa thì râm, nửa thì nắng. Hay như Trúc Lâm Đệ Tam Tổ Huyền Quang (Lý Đạo Tái, 1254 - 1334), cũng như Đệ Nhất Tổ, thì miêu tả: An bức thanh tiêu lãnh Môn khai vân thượng tằng Trúc lâm đa túc điểu Quá bán bạn nhân tăng. Tạm dịch: ở sát trời xanh, am nhỏ lạnh lẽo Cửa am mở trên tầng mây cao

12

Page 13: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Rừng trúc có nhiều chim đậu Quá nửa làm bạn với nhà sư. Nhà thơ nổi tiếng Cao Bá Quát, hiệu Chu Thần (1808 - 1855), đã từng làm một bài thơ dài tám khổ, 224 chữ, nói về Tây Thiên - Tam Đảo, trong đó có nhiều câu khắc họa tài tình: Địa khống tam biên, hoành nhất đắc Sơn liên thất huyện uất thiên bàn. Tạm dịch: Đất trống ba bề, một dải chạy ngang Núi nối liền bảy huyện, cảnh trời bày ra khuất khúc. Hoặc: Cửu khúc hồi khê sơn bách chuyển Độc cao phong bán thị Tây Thiên. Tạm dịch: Suối chín khúc từ trăm khe núi đổ về Lưng chừng ngọn núi cao nhất là chùa Tây Thiên. Pháp Loa (Đồng Kiên Cương) - Đệ Nhị Tổ Trúc Lâm đã viết cuốn “Đoạn Sách Lục” đặt nền móng cho cuốn “Tam Tổ Thực Lục”. Cuốn sách có một chương ghi niên phả, và một chương “Thiền Đạo Yếu Lược” tóm tắt cương lĩnh của đạo Phật, viết vào năm Đại Trị Nhâm Dần 1362, đời vua Trần Dụ Tông. Căn cứ vào đó, Pháp sư Tịnh Không đã miêu tả Trúc Lâm Thiền viện như sau: “... ở tầng trệt có chỗ giảng kinh, tụng kinh, có chỗ kinh hành, tư duy, tọa thiền... Tịnh xá, giảng đường, cho đến cung điện, lan can, cũng đều do bẩy báu vật trang trí. Lại có cả Bạch Ngọc Ma Ni làm thành anh lạc, treo đan chen như mắt võng, phản chiếu vào nhau óng ánh, tạo ra ánh sáng huyền diệu. Cung điện của Bồ Tát cũng giống như nơi Phật ở, biểu thị tính bình đẳng của pháp giới Tây Phương cực lạc...”. (Vô Hướng Thọ Kinh). 3. Một khả năng có từ sớm của vùng Phật giáo Tây Thiên Nhân chứng để có thể khẳng định Tây Thiên nằm trong một vùng Phật giáo có từ khá sớm trong lịch sử, đó là sự xuất hiện của các vị thiền sư thời Lý, ít nhất qua Thiền Uyển Tập Anh. Sự suy đoán là có cơ sở, bởi vì theo chúng tôi nghĩ, cần phải có một môi trường Phật giáo nhất định nào đó đã trở nên nhuần nhuyễn mới có thể sinh ra các nhà sư xuất chúng vào thời Lý, hay trực tiếp, vùng Phật giáo Tây Thiên đã là cái nôi nuôi dưỡng các nhà sư thời Lý. Ngoài Thiền sư Từ Đạo Hạnh, còn có nhiều vị cao tăng khác trụ trì quanh vùng Tam Đảo như: Thiền sư âu Đạo Huệ (? - 1173), người đất Phú Nguyệt; Thiền sư Nguyễn Nguyện Học (? - 1174), người hương Châu Hộ, đất Như Nguyệt; Thiền sư Lê Thước, người Châu Phong, thầy dạy của Thái úy Tô Hiến Thành và Thái bảo Ngô Hoà Nghĩa thời Lý; Thiền sư Nguyễn Trí Bảo (? - 1190), cậu ruột Thái úy Tô Hiến Thành, tu hành 16 năm ở chùa Thanh Tước, huyện Từ Liêm, nay là Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Và nếu chỉ căn cứ vào một số nhà sư của thời Lý vừa nhắc trên, chúng ta cũng có thể nghĩ đến một mối liên hệ giữa vùng Phật giáo Tây Thiên với vùng Phật giáo Yên Tử vào thời nhà Trần. Một số chứng tích khảo cổ học đã phát hiện vừa qua cho phép chúng ta một liên tưởng có thực như thế (1). 4. Chứng tích văn hóa vật thể của Phật giáo Tây Thiên Trên nền móng những ngôi chùa cổ ở khu vực Tây Thiên bị thời gian và giặc Minh tàn phá, về sau này, các vua nhà Lê, nhà Mạc, nhà Nguyễn đã cho hưng công lại. Bởi thế, ở

13

Page 14: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

các sườn núi Tam Đảo ngày nay còn tồn tại nhiều ngôi chùa, hoặc vết tích những nơi thờ Phật như: chùa Tây Thiên, chùa Phù Nghì, chùa Thiên ân, chùa Chân Tiên, chùa Đồng Cổ, am Vân Tiêu, am Lưỡng Phong, am Song Tuyền... Những ngôi chùa ấy, theo truyền thuyết, đều đã có từ thời Hùng Vương. Theo lệnh của Minh Thành Tổ Chu Lệ, nhiều di tích và hiện vật văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng ở nước ta, trong đó có các di tích ở Tây Thiên, bị phá hủy. Nhưng cho đến nay, rất may mắn, ở khu vực Tây Thiên vẫn tồn tại hai tấm bia, mộ chí của “Võng Sơn Thiền Sư” và “Cúc Khê Thiền Sư”, cùng với tấm bia có khắc chữ “Giác Linh Ngã”. Phải chăng “Võng Sơn” là núi “bập bềnh” như tấm lưới, do dây leo rừng đan dệt? Còn “Cúc Khê” là khe suối có cúc vàng mọc? Hai hiện tượng này biểu hiện có thật ở Tam Đảo, dân gian gọi là núi “Rùng Rình”, và hoa cúc “khuy áo”, dùng thay chè để nhà sư pha nước uống. Có lẽ, hai vị thiền sư thuộc Thiền Tông Tây Thiên khi xưa đã lấy những tên gọi đó làm pháp danh cho mình. ở đền Thõng còn tấm bia bốn cạnhở, dựng vào năm Bảo Thái thứ 5 đời vua Lê Dụ Tông (1723), mặt đông khắc 4 chữ “Tam Đảo linh sơn”, bên dưới là một bài minh văn khá dài. Chúng tôi tạm dịch một số đoạn như sau: “Từng nghe: Mọi việc trong cõi trời đất, chỉ có đạo Phật là lớn lao nhất. Sức mạnh giúp con người, hẳn do việc âm bày đặt. Trải xem cổ tích danh lam, chỉ có Tây Thiên là nơi cảnh đẹp, núi thiêng, đá dựng ba toà, thác nước đẹp treo cao vời vợi; nước phun chín khúc quanh co, trong vắt nhìn thấy đáy. Mây lành lãng đãng trên chóp núi. ánh sáng vầng trăng chiếu khắp nơi Đền Ngọc, bao trùm vẻ lớn lao của trời đất, cảnh trí thật kỳ tú. Xưa, nơi đây lụp xụp, chật hẹp. Nay, theo cùng người trước mà làm nên bộ mặt uy nghiêm, đèn hương thắp khắp chốn xa gần, tiến lên nối tiếp mở mang rộng mãi. Nhờ có uy phúc lớn, thấu suốt lòng người, phổ độ duyên lành, cầu gì được nấy, càng nâng cao giá trị thiêng liêng, xứng danh cõi trời bậc nhất... Chỉ có Tây Thiên giữ được gốc tích danh lam. Nhờ đó, được mọi người quý mến, mong mỏi tu tạo...”. Tại quần thể di tích danh thắng Tây Thiên còn lại một chiếc khánh bằng kim loại, rộng 1,2m, cao 0,80m, gãy mất một phần chỗ để treo, hiện đặt ở phòng khách của Ban Quản lý Di tích Danh thắng Tây Thiên. Mặt trước khánh có ba chữ “Tam Đảo Sơn”, mặt sau ghi niên đại, nhưng không có triều đại: “Nhị niên kế chính nguyệt, thập tam nhật, An Nam quốc, Sơn Tây xứ, Đoan Hùng phủ, Tam Dương huyện, Sơn Đình xã, cập các xã hưng công hội chủ công đức sở hữu...” (Ngày 13 tháng Giêng, năm thứ hai, xã Sơn Đình, huyện Tam Dương, phủ Đoan Hùng, xứ Sơn Tây, nước An Nam, hội chủ ở các xã cùng góp sức hưng công...). Chúng tôi cho rằng, chiếc khánh này được đúc vào năm thứ hai niên hiệu Cảnh Thịnh, đời vua Tây Sơn Nguyễn Quang Toản (1774). Bởi vì, lúc đó có thể các hội chủ e ngại sự trả thù của vua Gia Long đối với nhà Tây Sơn, nên không dám khắc rõ niên đại triều đại này. Một hiện vật nữa là chiếc chuông đồng nặng 700kg, vai chuông có bốn chữ “Phù Nghi Tự Chung”, treo ở chùa Thiên ân, cạnh đền Thõng. Phần dưới chuông có dòng lạc khoản: “Hoàng Triều Thiệu Trị vạn vạn niên chi nhị, Nhâm Dần trọng hạ, chung hoàn cẩn cách, hữu Thường Tín phủ, Thanh Trì huyện, Kim Đường xã, Nguyễn Tú Tài soạn”. Tạm dịch: Năm thứ hai, triều vua Triệu Trị, tháng Năm mùa hạ Nhâm Dần, hoàn thành việc đúc chuông. Tú tài họ Nguyễn ở xã Kim Đường, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, soạn bài này. Trên vách đá bên bờ suối “Bát Nhã” cạnh chùa Gốc Gạo, trong diện tích 3,2m x 3m có ba chữ “Bát Nhã Tuyền” dịch từ chữ Prajn tiếng Phạn, nghĩa là Trí Tuệ, cùng với 170 chữ

14

Page 15: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Hán cỡ lớn nói về vẻ đẹp và việc gột rửa bụi trần, tuân theo Thiền pháp, do quan Tư Khấu Lê Khắc Phục triều Lê khắc năm 1450.

Nguyễn Quý Đôn (Nhà nghiên cứu tỉnh Vĩnh Phúc)

(1) xem các bài về Khảo cổ học

Một số di tích khảo cổ học Phật giáo xung quanh chùa Tây Thiên (08/05/2008 09:34)

Tây Thiên không những là di tích danh thắng, mà còn là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng từ lâu đời hứa hẹn những phát hiện bất ngờ mà hiện tại chúng ta chưa có điều kiện hoặc chưa có kế hoạch nghiên cứu, khai quật khảo cổ học một cách có hệ thống để trả lời hàng loạt các vấn đề đặt ra như: quần thể khu di tích chùa Tây Thiên được khởi dựng từ bao giờ, có những loại hình kiến trúc gì, bố cục của quần thể kiến trúc ra sao, hệ thống này (ngoài truyền thuyết dân gian, các kiến trúc xây mới và ngọc phả, thần tích từ thời Lê đến thời Nguyễn) từ khởi dựng đã có những tôn giáo tín ngưỡng gì, ảnh hưởng của trung tâm Phật giáo này đối với vùng, khu vực và quốc gia như thế nào, những di sản văn hoá vật chất của nó đóng góp gì cho kho tàng văn hoá truyền thống của tỉnh Vĩnh Phúc và dân tộc,v.v… Từ những ghi chép trong các sách cổ như: An Nam Chí Nguyên, Kiến Văn Tiểu Lục, Đại Nam Nhất Thống Chí, các thần tích và ngọc phả, các minh văn trên bia đá, chuông, khánh bằng đồng… bước đầu chúng ta biết được tại đây có những loại hình kiến trúc sau:

1. Hệ thống chùa cổ Bao gồm: chùa Tây Thiên, chùa Chân Tiên, chùa Thiên ân, chùa Phù Nghì, chùa Đồng Cổ, chùa Đồng, chùa Địa Ngục, chùa Lõng Sâu (?),chùa Đổ (?),chùa Gốc Gạo (?),chùa Thõng (?),v.v… Những ngôi chùa này hầu hết chưa xác định được chính xác vị trí, chưa rõ niên đại khởi dựng, quy mô và cấu trúc. Một số chùa chưa rõ tên gọi. Những tên gọi như chùa Lõng Sâu, chùa Đổ, chùa Gốc Gạo hoàn toàn theo cách gọi dân gian và có vẻ như chúng xuất hiện rất muộn so với sự ra đời và tồn tại của các ngôi chùa này. Theo chúng tôi, hệ thống chùa Tây Thiên - Tam Đảo có liên quan đến tông phái và chức năng của nó. Nếu nhìn rộng hơn, chúng ta thấy có 2 hệ thống chùa ở Tây Thiên - Tam Đảo: Hệ thống chùa vùng trước và chân dãy núi Tam Đảo (vùng thấp), và hệ thống chùa Tây Thiên - vùng đỉnh dãy núi Tam Đảo (vùng núi cao). Nếu chỉ tính đến những ngôi chùa có niên đại sớm, thời Lý - Trần (theo tài liệu của chúng tôi), thì vùng trước và chân núi Tam Đảo đã có hàng loạt chùa cổ như: chùa Báo ân, chùa Sùng ân, chùa Dật Châu (thị xã Phúc Yên), chùa Chò, chùa Đại Đồng, chùa Phượng Tường (Yên Lạc), chùa Cói… Đây là hệ thống chùa làng (hương tự). Nhiều ngôi chùa trong số này được sự ủng hộ và tài trợ của quan lại cao cấp hoặc hoàng thân quốc thích của các triều đình phong kiến. Ngược lại, hệ thống chùa Tây Thiên là hệ thống chùa mang tính quốc gia (quốc tự). Đã có nhiều ghi chép nói rõ về vấn đề này, chúng tôi xin không được dẫn ra nữa. Đã là quốc tự thì chắc chắn ở đây phải có các cao tăng tu luyện, truyền bá Phật pháp. Kinh Phật được dùng ở đây có thể là kinh Bát Nhã, vì thế mới có Bát Nhã Tuyền. Dòng chữ Hán “Giác Linh Ngã” khắc trên tấm đá cạnh bia mộ thiền sư và tháp mộ bằng đất nung phát hiện

15

Page 16: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

được ở đây là một trong những minh chứng cho sự có mặt của các cao tăng. Tại khu vực nền đền (chùa?) Thõng, khảo cổ học đã phát hiện được các nền kiến trúc với nhiều loại hình gốm thời Trần như: gốm hoa nâu, gốm men ngọc, men ngà, đồ dùng sinh hoạt bằng sành như vò, nồi, lon sành, vật liệu xây dựng như gạch, ngói. Hiện vật thời Lê Sơ và Lê Trung Hưng các thế kỷ XVII - XVIII gồm có: gốm men trắng xanh vẽ lam, gốm men trắng đơn sắc, gốm 2 màu men… của các lò gốm vùng Hải Dương và Hưng Yên, gạch, ngói và trang trí kiến trúc. Tại khu vực chùa Phù Nghì (nằm trong ngọn Phù Nghĩa, không được nhắc đến trong Kiến Văn Tiểu Lục và Đại Nam Nhất Thống Chí), đã phát hiện được một số mặt bằng kiến trúc cùng các phế tích kiến trúc, vật liệu kiến trúc đổ thành đống cao, gạch, ngói… có niên đại ít nhất từ thời Trần. Phải chăng ngôi chùa đã bị đổ nát trước thời Lê Trung Hưng nên người ta không còn biết gì về nó? Cuộc đào thám sát năm 2004 có diện tích rất khiêm tốn. Nếu tiến hành các cuộc khai quật có quy mô lớn ở khu vực này hy vọng sẽ tìm thấy những kiến trúc và di vật có niên đại sớm hơn nữa. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì tại Tây Thiên – Tam Đảo có 3 ngọn núi cao: ngọn Thạch Bàn (ở giữa), ngọn Thiên Thị (bên tả), ngọn Phù Nghĩa (bên hữu). (Lê Quý Đôn trong Kiến Văn Tiểu Lục lại gọi ngọn núi ở giữa là Thiên Kim). Theo Lê Quý Đôn, trong Kiến Văn Tiểu Lục, trên đỉnh núi Thiên Kim có chùa Đồng Cổ, sườn núi có Tây Thiên Cổ Tự. Nhưng ở sườn ngọn Thạch Bàn có phế tích chùa Đổ cùng mộ các thiền sư mà hiện nay nhiều người cho rằng đây chính là vị trí của Tây Thiên Cổ Tự. Nhiều khả năng ngọn Thạch Bàn và ngọn Thiên Kim chỉ là một. 2. Mộ các thiền sư Khu mộ các thiền sư gồm 3 mộ còn dấu tích, nằm dưới chân ngọn Thạch Bàn, chếch về phía đông đền Hoàng Thiên Địa Mẫu. Các mộ đều quay theo hướng tây, được người thời sau xếp đá ráp và đá tự nhiên màu xám nhạt theo hình tháp có 4 mặt, mặt trước cắm các bia mộ. Phía trước là mộ Võng Sơn Thiền Sư, bia mộ làm bằng đá ráp màu nâu xám. Theo cụ Từ giữ đền: trước đây khu mộ bị cây cối rậm rạp che phủ kín. Khi phát quang, người ta thấy có 3 mô đất hình nấm (giống như nấm mộ). Bia mộ Võng Sơn Thiền Sư bị đổ, mặt có chữ úp xuống đất, bên trên có một hòn đá bị đổ đè lên. Sau đó, mộ này được đào, khi thấy tiểu (thực ra là tháp đất nung 4 mặt, lòng rỗng) người ta đã cho lấp lại và dùng đá xếp thành hình tháp. Cách mộ Võng Sơn Thiền Sư khoảng 5 - 6m về phía bắc là mộ Cúc Khê Thiền Sư. Mộ còn một tấm bia chôn đứng cũng bằng đá ráp, trên khắc dòng chữ Hán “Cúc Khê Thiền Sư”. Mặt bia quay về hướng tây chếch nam 250. Theo cụ từ Nguyễn Văn Kỳ (thôn Đồng Thõng, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo): Tấm bia của mộ này từng bị đem về lát sân, sau đó mới được tìm kiếm và đem cắm lại ở mộ. Khi đào sâu khoảng 50-60cm, phát hiện được một “tiểu” bằng đất nung có 8 mái (thực ra là thân tháp đất nung còn lại 2 tầng, mỗi tầng có 4 mái), xung quanh “tiểu” kè đá. Năm 2003, cuộc đào thám sát để kiểm tra ngôi mộ Cúc Khê Thiền Sư tại vị trí cắm bia mộ được tiến hành. Kết quả khai quật cho thấy bia mộ đã bị dịch chuyển không còn ở vị trí ban đầu nữa. Tuy nhiên, có thể khẳng định chắc chắn rằng ở phía tây ngọn Thạch Bàn có khu mộ của các vị thiền sư. Về vấn đề này, chúng tôi đã có dịp trình bày trong cuốn Vĩnh Phúc - Gốm và nghề gốm truyền thống do Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Vĩnh Phúc ấn hành năm 2003. Những mảnh tháp đất nung vốn là của cây tháp đặt trên mộ các thiền sư. Tháp có nhiều

16

Page 17: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

tầng bằng đất nung mang phong cách Lý - Trần. Những mảnh tháp phát hiện được thuộc bộ phận thân tháp. Tháp có 4 mặt, mỗi mặt đều có các mái có góc đao cong, mái làm mô phỏng theo kiểu ngói ống, các tường tháp khắc nổi hình hoa chanh có 4 cánh. Hiện tại, chúng ta chưa tìm thấy các bộ phận đỉnh tháp, bệ tháp và đế tháp cùng hầu hết phần thân tháp. Những bộ phận này chắc hẳn còn đang nằm trong lòng đất. Các ngôi chùa lớn thời Lý - Trần thường có cây bảo tháp lớn trong thành phần bố cục kiến trúc. Do vậy, hy vọng trong tương lai, chúng ta sẽ tìm được những bảo tháp lớn ở một trung tâm Phật giáo lớn như Tây Thiên. 3. Các công trình kiến trúc Đạo giáo Không gian tiên cảnh như Tây Thiên chính là mảnh đất màu mỡ cho Đạo giáo phát triển. Trong quần thể kiến trúc ở đây có khá nhiều tên am, tên thang mây, chợ trời, vườn tiên, cầu mây, tuyết, bàn cờ tiên, … là những biểu hiện của Đạo giáo thần tiên. Tuy vậy, những di tích này chưa được điều tra nghiên cứu. 4. Các công trình kiến trúc tín ngưỡng khác Bao gồm các đền, điện, miếu… đa phần là được dựng vào các giai đoạn sau. Các tín ngưỡng thờ Sơn Thần (Sơn Thánh Tản Viên), thờ Mẫu được dung hợp một cách tự nhiên với Phật giáo và Đạo giáo cũng là nét đặc trưng ở quần thể di tích Tây Thiên. 5. Các loại hình di tích khác Chúng tôi cho rằng, quần thể di tích Tây Thiên là khu vực rộng, liên quan đến nhiều xã khác ngoài xã Đại Đình, vì vậy cần phải nghiên cứu những di tích có liên quan đến chùa Tây Thiên ở các xã này. Trong Kiến Văn Tiểu Lục, Lê Quý Đôn có nói tới hệ thống các giếng cổ, những nơi sản xuất gốm đất nung ở xã Yên Lịch. Với mật độ chùa chiền dày đặc như ở Tây Thiên, vấn đề nghiên cứu nơi sản xuất gốm vật liệu xây dựng, các lò nung gốm… cũng phải tính đến. Những hiểu biết của chúng ta về trung tâm Phật giáo Tây Thiên còn rất hạn chế so với tiềm năng vốn có của nó. Khu di tích Tây Thiên rất cần sự hỗ trợ kinh phí của các cơ quan chức năng, sự tham gia nghiên cứu của các nhà khoa học ở Trung ương và các cán bộ chuyên môn ở địa phương, đặc biệt là các cuộc khai quật khảo cổ học quy mô lớn để tìm kiếm và nghiên cứu những bí ẩn còn nằm trong lòng đất. 

Trần Anh Dũng (Viện Khảo cổ học, viện Khoa học Xã hội Việt Nam)

Di tích - danh thắng Tây Thiên qua đợt điều tra, khảo sát khảo cổ học năm 2004 (08/05/2008 09:27)

Khu di tích danh thắng Tây Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo (Tam Dương cũ), tỉnh Vĩnh phúc. Về mặt địa lý tự nhiên, Tây Thiên nằm trong thung lũng lòng chảo của sơn hệ Tam Đảo, có độ cao từ 54m đến 1.100m so với mực nước biển, phạm vi phân bố khoảng 11km2 (dài 11km, rộng 1km) với cảnh quan hết sức nên thơ, hùng vĩ. Trên nền cảnh ấy, cách đây ngót nghìn năm, nhiều di tích gắn với những vấn đề của lịch sử, tôn giáo và tín ngưỡng dân tộc đã được cha ông ta dựng nên, như: chùa Chân Tiên, chùa Thiên ân, chùa Phù Nghì, chùa Đồng Cổ, chùa Tây Thiên, đền Tây Thiên, đền Thõng, am Lưỡng Phong, am Song Tuyền, thang Bộ Vân, cầu Đái Tuyết… Qua bao thăng trầm lịch sử, một số di tích không còn nữa, một số tuy còn nhưng đã đổ nát, hoang phế. Do vậy, việc tìm lại, bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử văn hoá của những di tích đó nói riêng và quần thể di tích Tây Thiên nói chung là hết sức cần thiết theo tinh thần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời đóng góp sức thiết

17

Page 18: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

thực vào chiến lược phát triển bền vững nước nhà. Vì thế, trong chương trình nghiên cứu khảo cổ học phục vụ cho công tác trùng tu, tôn tạo và bảo tồn di tích của tỉnh Vĩnh Phúc do Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp với Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thực hiện, Tây Thiên được coi là một trọng điểm. Từ ngày 16/3/2004 đến ngày 20/3/2004, đợt khảo sát khảo cổ học ở Tây Thiên đã được tiến hành, do TS. Ngô Thế Phong phụ trách. Trong hệ thống di tích Tây Thiên, đoàn công tác đã khảo sát và thám sát ở hai khu vực là đền Thõng và chùa Phù Nghì. 1. Một số kết quả khảo sát 1.1. Khu vực đền Thõng Địa điểm khảo sát nằm trên một khoảng đất trống giữa hai sườn núi, thuộc khoảnh 3, tiểu khu 96, phân khu đền Thõng, cách đền Thõng khoảng 200m về hướng đông nam, ở độ cao khoảng 250m so với mực nước biển. Theo sử sách và truyền thuyết dân gian, vào thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), nơi đây đã từng tồn tại ngôi Thiên ân Thiền Tự. Qua khảo sát thực địa và các hố đào sâu thám sát, chúng tôi nhận thấy: Về mặt phong thuỷ, di tích tọa lạc trên một địa thế khá lý tưởng. Mặt trước hướng về phía tây nam nơi có thung lũng cánh đồng Thõng, hai bên là hai sườn núi tạo thế tay ngai, phía sau dựa vào dãy núi Tây Thiên, trước mặt là một khe nước do hai khe nước nhỏ ở hai bên đổ vào rồi chảy xuống cánh đồng Thõng. Mặt bằng di tích được phân thành ba cấp nền rõ rệt. Các cấp nền đều được kè bằng đá núi lấy tại chỗ, một số đoạn kè còn nguyên vẹn, một số đoạn đã được những người làm nương rẫy xếp lại. Trên cấp nền thứ nhất và cấp nền thứ hai có dấu tích của các công trình kiến trúc. Đó đều là các viên đá núi xếp thành hàng tương đối thẳng, có thể là dấu tích bó nền, bó móng. Di vật kèm theo là vật liệu kiến trúc và các mảnh gốm sứ Việt Nam từ thời Trần đến thời Nguyễn, trong đó nổi bật là gốm sứ Trần. Điều đó cho thấy quá trình tồn tại của di tích kéo dài từ các thế kỷ XIII - XIV đến các thế kỷ XIX - XX, nhưng tập trung nhất là thời Trần. Có thể vào thời Lê Sơ, ngôi chùa đã bị đổ nát. Vào thời Lê Trung Hưng, di tích đã được xây dựng nhỏ với việc phát hiện được một số mảnh ốp trang trí kiến trúc màu xanh xám rất đặc trưng của giai đoạn này. Đến thời Nguyễn, di tích mới được xây dựng lại. Điều này thể hiện ở trên bề mặt di tích cũng như trong địa tầng hố đào phát hiện được rất nhiều mảnh ngói lợp có niên đại khoảng các thế kỷ XIX - XX. Các kết cấu kiến trúc của chùa có lẽ đều được làm bằng tre gỗ, lợp ngói vì hầu như không phát hiện được gạch và chân tảng. Ngoài ra, trong quá trình phát quang khảo sát, chúng tôi còn phát hiện được con đường dẫn lên di tích, men theo khe nước chảy. Dựa vào địa hình tự nhiên mà người xưa đã xếp những thanh đá để tạo bậc. Những bậc này không liên tục mà nằm ngắt quãng tuỳ vào địa hình của sườn núi. Con đường khi gặp cấp nền thứ ba thì rẽ phải vòng lên cấp nền vào di tích. Do cây rừng quá rậm rạp nên chúng tôi chỉ tìm thấy một đoạn đường dài khoảng 50m. Rất có thể con đường này được sử dụng trong quá trình tồn tại của di tích. 1.2. Khu vực chùa Phù Nghì Chùa Phù Nghì nằm bên hữu ngạn suối Tây Thiên, cách đền Cô Bé khoảng 500m về phía đông, cách Ban Quản lý Di tích Danh thắng Tây Thiên khoảng 5 km về phía tây nam. Di tích này đã bị hoang phế từ lâu và được nhân dân phát hiện ra khi đi rừng. Theo lời kể của các cụ già trong vùng, nơi đây vốn tồn tại một ngôi chùa cổ. Qua khảo sát thực địa, chúng tôi thấy đây là một di tích tôn giáo có quy mô rất lớn, khoảng gần 5.000m2, được phân thành 5 cấp nền rõ rệt. Trên mỗi cấp nền tồn tại các kiến

18

Page 19: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

trúc với quy mô kích thước khác nhau. ở các hố thám sát, chúng tôi đã tìm thấy dấu tích bó nền kiến trúc bằng đá, các vật liệu kiến trúc như gạch ngói và đồ gia dụng như sành, gốm men có niên đại từ thời Trần đến thời Nguyễn, trong đó đậm đặc nhất là gốm sứ thời Trần. Thực tế đó cho thấy đã từng có sự tồn tại của ngôi chùa thời Trần, tuy chưa khẳng định được quy mô và mặt bằng kiến trúc. Nhiều khả năng ngôi chùa được khởi dựng từ thời Trần và tiếp tục được sử dụng vào thời Lê Sơ nhưng hầu như không xây dựng hay sửa chữa thêm. Đến thời Lê Trung Hưng, chùa được sửa sang, xây dựng nhỏ. Chúng tôi đã phát hiện được một số mảnh ốp trang trí màu nâu xám đặc trưng của thời kỳ này. Sang đến thời Nguyễn, mặt bằng di tích được mở rộng lên phía trên. Trên các cấp nền, chúng tôi thấy ngói lợp thời Nguyễn hầu như phân bố trên khắp bề mặt. Cũng giống như ở di tích đền Thõng, kiến trúc chùa Phù Nghì được làm bằng tre gỗ và lợp ngói, vì trong quá trình khảo sát chúng tôi chỉ tìm được một vài mảnh gạch thời Nguyễn và hầu hết vật liệu bó nền đều bằng đá. 2. Một vài nhận xét và kiến nghị Qua khảo sát hai địa điểm đền Thõng và chùa Phù Nghì, chúng tôi có một số nhận định như sau: Trước hết, cả đền Thõng và chùa Phù Nghì đều tìm thấy di tích và di vật có niên đại khoảng từ thế kỷ thứ XIII - XIV đến thế kỷ XIX. Điều đó cho thấy, các công trình kiến trúc ở đây có thể bắt đầu xuất hiện vào thời Trần, tiếp tục được sử dụng vào thời Lê Sơ, thời Mạc, thời Lê Trung Hưng và được trùng tu xây dựng lớn vào thời Nguyễn. Do thời gian có hạn nên chúng tôi chưa xác định được quy mô kích thước của các đơn nguyên kiến trúc. Dù vậy, việc tìm ra di tích chùa Phù Nghì cũng là một điểm đáng chú ý, bởi vì, như chúng ta đã biết, trong Kiến Văn Tiểu Lục và Đại Nam Nhất Thống Chí không hề nhắc đến địa điểm này. Trong đợt khảo sát trước, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Vĩnh Phúc đã phát hiện ra 3 bia mộ ở ngôi Tây Thiên Thiền Tự (khu vực đền - chùa Thượng) của các vị thiền sư: Cúc Khê thiền sư, Võng Sơn thiền sư và Giác Linh Ngã, cùng với các phế tích tháp mộ có niên đại thời Trần thế kỷ XIII -XIV tương đồng với niên đại sớm nhất của hai địa điểm mà chúng tôi đã khảo sát. Điều này cho thấy, đền Thõng và chùa Phù Nghì là hai di tích nằm trong hệ thống các di tích thời Trần ở Tây Thiên. Từ những kết quả trên, dưới góc độ khảo sát thực địa, chúng tôi nhận thấy di tích Thiên ân Thiền Tự (tục gọi là chùa Thõng) nói riêng và Tây Thiên nói chung có thể là một trong những trung tâm Phật giáo thời Trần. Việc Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc cho phép Hoà thượng Thích Thanh Từ - Viện trưởng Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt (Lâm Đồng) - phát tâm tái thiết ngôi chùa này là việc đáng khuyến khích. Những phát hiện và nhận thức khảo cổ học trên đây của chúng tôi mới chỉ là bước đầu và hết sức nhỏ bé so với quy mô của quần thể di tích danh thắng Tây Thiên. Một đợt khảo sát ngắn ngày, với hơn chục hố đào thám sát và một vài nhận xét như vậy không thể nói hết những giá trị của khu di tích Tây Thiên. Để nhận thức rõ ràng hơn về một Tây Thiên trong quá khứ, để có thêm những cơ sở khoa học phục vụ cho việc trùng tu, tôn tạo, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khảo cổ học. Rõ ràng, cần phải có những đợt điều tra, khảo sát dài ngày, những cuộc khai quật quy mô lớn hơn mới có thể nhận biết được nhiều nguồn tài liệu vô giá mà lòng đất Tây Thiên đang ẩn chứa.

19

Page 20: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

TS. Ngô Thế Phong Lê Văn Chiến

Trương Đắc Chiến (Viện Bảo tàng Lịch sử Viết Nam)

Sự tích Tây Thiên Quôc Mẫu (01/12/2007 09:50)

Sự tích Tây Thiên Quốc Mẫu được ghi trong bản Ngọc Phả đền Tây Thiên (Tây Thiên Quốc Mẫu ngọc phả lục) được phụng sao lại vào năm Khải Định thứ 2 (1917) viết bằng chữ Hán, do nhà nghiên cứu Hán nôm Nguyễn Quang Quỳnh phụng dịch dưới đây. Khải Định năm thứ 2: 02 "Đinh Tỵ lục nguyệt sơ bát nhật tại Tây Thiên Tự. Phụng sao cổ tích vu hậu. Tam Dương huyện, quan ngoại tổng. Đông Lộ xã Kỳ lý đằng thừa sức dân xã hà hữu linh từ cổ tích danh lam Tam Đảo Sơn trụ Quốc Mẫu đại Vương ngọc phả cổ truyền". Vào thời Việt Nam các Vua Hùng dựng nước lấy tên nước là Văn Lang. Đạo Sơn Tây.Phủ Đoan Hùng. Động Tam Dương, Trang Đông Lộ, có ông trưởng động Lăng Vĩ và bà Đào Liễu đã hơn 40 tuổi, ông trưởng động là con người khôi ngô, dũng lược, thể hiện là con người hào phóng anh hùng thuộc dòng dõi Vua Hùng. Trong một ngày ông bà nằm mộng đi lên núi Tam Đảo đến chùa Tây Thiên thắp hương cầu tự, cầu khấn ở trong chùa, đến khoảng canh ba, bà chợt thấy trong người bàng hoàng, thấy có mây ngũ sắc trong chùa hiện lên một dải như phượng bay lượn trong mây đồng thời thấy một bầy tiên khoảng bảy đến tám người đều mặc mũ áo, người thì ca hát, người thì nhảy múa, người thì gảy đàn, người thì ngâm thơ. Bà tỉnh dậy mới biết là mộng lành, từ ấy trở đi tinh thần chuyển động, mang thai mười bốn tháng, ngày mồng 10 tháng 5 năm Giáp Thân (-2480) sinh hạ được một người con gái nhan sắc, mặt mũi sáng sủa huy hoàng. Thể hiện là người con gái nết na, tuấn tú, long nhan, phượng cảnh dòng dõi Lạc Hồng. Năm lên năm đến sáu tuổi đã thông minh, hiểu âm, biết luật đặt tên là Tiêu (khách thập phương biết huý thường kiêng, gọi chuối tiêu là chuối rằm vì "Tiêu" là tên huý). ông bà động chủ rất yêu quý, chăm sóc cho ăn học, thể hiện là con người nữ tắc, nữ công, lúc mới mười một tuổi lại xuất hiện tài năng võ nghệ, binh thư thao lược, thật là người con gái anh hùng hào kiệt, đến tuổi hai mươi đã là một anh hùng dũng mãnh, có tài thao lược. Tiếng đồn trong Trang Đông Lộ cũng như xung quanh huyện thấy quả là một phụ nữ tài ba có nhiều phù phép thần thông biến hoá, lúc thì là Tiên, lúc thì là Thánh, thực là bậc quần thoa hào kiệt nhất bậc trượng phu. Thời bấy giờ. Giặc phương Bắc xâm lược, trong nhân dân dao động hết sức lo sợ, có chiếu Vua Hùng loan báo trong cả nước kêu gọi ai có tài ra giúp nước đánh giặc. Lệnh nàng nghe thấy chiếu chỉ đứng ra phân bổ kêu gọi trai tráng trong vùng lập tức triệu tập được. Trang Đông Lộ: 50 người Sơn Đình: 100 người. Quan Nội: 150 người. Quan Ngoại: 150 người. Quyết Trung: 70 người. Trai tráng trong huyện được tất cả ba ngàn tướng sĩ về Phong Châu - Việt Trì xin được vào yết kiến Vua Hùng (Nhập triều bệ kiến) Vua Hùng thấy nàng là một anh hùng hào kiệt có tài năng, lấy làm vui mừng liền tăng thêm cho nàng mười vạn tinh binh, ba ngàn

20

Page 21: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

kỵ binh, giao cho nàng thống chế thuỷ bộ quân sự ngày 29/2 xuất quân đánh giặc. Nàng nhận lệnh xuất quân từ kinh thành, chia quân làm ba đạo. Một đạo binh gồm ba vạn kỵ binh, một đạo một ngàn người từ Phong Châu tiến vào Hưng Hoá. Một đạo từ Phổ Châu sông Giang, các đạo quân cùng giáp chiến với quân giặc là một đạo hùng binh năm vạn quân tương kỵ binh một ngàn người. Từ Đà Giang tiến thẳng đến Mã Giang chiến đấu với quân giặc, lại đem thêm một đạo kỵ binh trên bốn vạn, một ngàn người thuyền chiến tiến thẳng tới Tuần Giáo cùng quân giặc hội chiến. Tất cả các đạo quân tập trung ở Quỳnh Nhai, trên một vạn quân giặc đại bại, còn lại bỏ chạy không dám trở lại. Nàng thu quân trở về triều, khải hoàn, triều đình lấy làm vui mừng liền ra lệnh mở tiệc. Tây chinh đại thắng, gia quan tước cho quân sĩ lệnh phong là "Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương" vào ngày 28/2, cả huyện làm lễ ăn mừng thắng lợi, sau đó về bản động làm lễ Tam sinh mổ trâu, bò, dê làm lễ bái tạ gia đường, tổ chức mời các bô lão, anh hùng hào kiệt trong cả huyện mở yến tiệc đại thắng tây chinh. Khi đó ông bà Động chủ tuổi đã hơn 80, cả hai ông bà đều mất mà không bệnh tật gì, lệnh nương cho làm lễ an táng cha mẹ vào ngày 12/1 (tháng Giêng). Công chúa nhân lúc nhàn rỗi nên ngắm cảnh sông núi. Truyền trong tổng nội: lập đền thờ xã Quan Nội lập làm tả cung, Quan Đình. Nhân lý lập làm hữu cung xã Quyết Trung lập làm hạ cung. Tây Thiên lập miếu sự, chợt thấy mây ngũ sắc từ trên trời buông xuống, trong khoảnh khắc có một sứ giả nhà trời xuất hiện trong đám mây truyền rằng: "Vâng mệnh thượng đế mời công chúa về triều". Sau đó, Người làm lễ tắm gội (Mộc dục). Công chúa cùng với quan sứ giả bay về trời, chỉ còn lại một dải Tây Thiên. Như vậy người mộc vào ngày 15/2. Trong trang nội thấy người là bậc Tiên Thánh bèn tâu về triều.Vua Hùng truyền với các quan chức là người thực sự là một nữ anh hùng có công và tặng thêm một sắc phong là"Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương đệ nhất Thượng đẳng phúc thần". Hàng năm cứ vào mùa xuân, mùa thu khắp nơi trên cả nước và nước ngoài đều ghi nhớ công ơn của người. Truyền lập miếu thờ hương hoả lưu truyền của đất Việt từ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng đất nước, đại định thiên hạ nhất nhất tuân theo. Truy phong lịch đại bách thần phong như các triều trước. Trong Ngọc Phả có bài vịnh như sau: Vua Tam Đảo trời sinh một nàng tiên giúp Vua Hùng là bậc thánh. Muôn đời lưu danh bất hủ, để lại dấu vết Tam Dương. Nơi sinh thần là Đông Lộ. Vào ngày sinh và mất của cha mẹ đều cấm màu vàng và màu xanh. Ngày 10/ 5/ Giáp thân là ngày sinh chính lệ, mở tiệc giết trâu, bò, ca hát. Ngày 15/2 là ngày mất, tổ chức tiệc xướng ca. Ngày 28/2 khao binh, mở tiệc. 29/2 lệ khai sắc, dùng lễ tam sinh bản huyện đồng tế. Ngày 1/3 bản tổng mở tiệc tế lễ. Ngày 12/1 lễ an táng cha mẹ.

Tây Thiên có thể là một trong những cái nôi của Phật giáo Việt Nam (08/05/2008 09:03)

21

Page 22: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

I. Các Nguồn sử liệu 1. Học giả người Pháp Jean Filliozat, trong Présence du Bouddhisme, Asoka et L’ Expansion Bouddhique, cho rằng: “Ngay sau đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba, tại thành phố Pataliputra (Hoa Thị) - ấn Độ, trước Tây lịch 300 năm, vua Asoka (A Dục) cùng với Đại lão Hoà thượng Moggaliputta Tissa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu) đã cử và đẩy mạnh các phái đoàn Như Lai sứ giả trên đường truyền bá Phật pháp tới các nước Viễn Đông, Trung Đông, Đông bộ Địa Trung Hải, Tích Lan và toàn cõi bán đảo Đông Dương, trong đó có Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam do hai vị cao tăng Sona và Uttara truyền tới (TKN nhấn mạnh). Hầu hết các nơi đều có dấu ấn bằng chùa tháp, cột đá hay bia đá để ghi lại công đức của vua Asoka”. 2. Học giả người Anh Edward Conze, trong Le Bouddhisme dans son essence et son développement, trang 70, đã ghi lại tên các vị cao tăng của các đoàn Như Lai sứ giả và địa điểm mà các vị đến truyền giáo sau đại hội kết tập kinh điển lần III: “1- Ngài Majjhantika được gửi đến Kasmir và Gandhara, thuộc vùng Tây Bắc ấn Độ. 2- Ngài Mahadeva đến Mahisamandala, thuộc miền Nam ấn Độ. 3- Ngài Rakkhita đến Vanavasa, vùng Đa Lâm cũng thuộc miền Nam ấn Độ, nhưng ở phía bắc của xứ Kamada. 4- Ngài Dhammarakkhita (người Hy Lạp) tới Aparantaka, ở phía tây miền Gujrat. 5- Ngài Mahadhammarakkhita đến xứ Marathe ở miền Tây Nam ấn Độ. 6- Ngài Maharakkhita đến nước Hy Lạp. 7- Ngài Kajjhima tới vùng Hy Mã Lạp Sơn. 8- Ngài Sona và Ngài Uttara đến vùng Kim Địa (Suvanabhumi) bao gồm các nước Miến Điện, toàn cõi bán đảo Đông Dương (trong đó có Việt Nam, Lào, Campuchia) và một phần bán đảo Mã Lai. 9- Ngài Mahinda, con trai Hoàng đế Asoka, đến Tích Lan (Sri Lanka ngày nay). 3. Học giả Maurice Durant, Trường Viễn Đông Bác Cổ (Pháp), trong bài viết Đạo Phật truyền vào Việt Nam, in trong cuốn Presence du Bouddhisme, trang 798, có viết: “Đạo Phật truyền vào Việt Nam bằng hai con đường: Con đường thứ nhất bằng đường biển phía nam, từ ấn Độ và từ các nước có ảnh hưởng ấn Độ như bờ biển vịnh Bengale, hải cảng Bombay và Calcutta. Con đường thứ hai từ Trung Quốc truyền sang...”. Theo chúng tôi, còn có con đường thứ ba, rất quan trọng cho việc truyền bá đạo Phật vào Việt Nam, đó là con đường (từ ấn Độ) qua Miến Điện, Vân Nam… tới vùng thung lũng sông Hồng (vùng trung du Bắc Bộ, vào thời Hùng Vương là trung tâm văn hoá của Nhà nước Văn Lang). Đây là con đường mà hai ngài Sona và Uttara đã đi để đến Việt Nam. 4. Hòa thượng Thích Đức Nghiệp, trong sách Đạo Phật Việt Nam do Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh ấn hành 1995, trang 28 viết: “Biết rằng: Đồ Sơn là một địa danh, chỉ cách thành phố Hải Phòng chừng 12 km thì chắc chắn, vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch, hai ngài Sona và Uttara, đã tới đây thuyết pháp, và cùng với nhân dân địa phương, đã xây bảo tháp Asoka...”. Hoà thượng còn trích dẫn lời của vị coi chùa Hang (Cốc Tự) cho rằng: “Vào cuối thời vua Hùng Vương có một nhà sư tên là Sư Bần (Bần Tăng), người ấn Độ, lập bàn thờ Phật và tu ở trong hang núi này và sau đó, cũng viên tịch tại hang núi này. Bởi vậy, dân địa phương gọi là chùa Hang hay Cốc Tự. Biết rằng khi còn bình sinh, Sư Bần có giảng đạo Phật cho Chử Đồng Tử. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái, Chử Đồng Tử có ghé thuyền vào núi Quỳnh Viên... Vậy, ngày xưa gọi là Quỳnh Viên Sơn và sư Phật Quang, thì nay gọi là Mẫu Sơn và Sư Bần...”. 5. Nhà Sử học Ngô Đăng Lợi, trong sách Phật giáo và văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1990, trang 12 cho rằng: “Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là Thành Nê Lê, nơi có bảo tháp của vua Asoka, nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch, Đạo

22

Page 23: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Phật đã được trực tiếp truyền vào nước ta”. 6. Truyện Nhất Dạ Trạch, trong Lĩnh Nam Trích Quái đã ghi lại việc công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng thứ 3 lấy Chử Đồng Tử. Việc học đạo của Chử Đồng Tử được ghi chép như sau: “...Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung và Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: “Quý nhân hãy bỏ ra một dật vàng, năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quý, đến sang năm được lãi mười dật”... Đồng Tử cùng thương nhân đi buôn bán lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên (Quỳnh Vi) trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một nhà sư tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón và bảo: “Các việc linh thông đều ở đó rồi”. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thầy học đạo”. 7. Học giả Lê Mạnh Thát, trong cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập I (Từ khởi nguồn đến thời Lý Nam Đế), Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1999, trang 31, viết: “Trước đây, Claude Madrolle căn cứ vào tên thành Nê Lê, tức là thành Bùn Đen, để giả thiết thành Nê Lê ở chính vùng Đồ Sơn của thành phố Hải Phòng. Nê Lê hiểu như nghĩa bùn đen tất nhiên không phù hợp với văn phạm chữ Hán. Bởi vì nếu hiểu Nê là bùn và Lê là màu đen, thì thành này phải có tên là Lê Nê, chứ không phải là Nê Lê. Hơn nữa cụm từ Nê Lê trong Hán văn thường được dùng như một phiên âm của chữ Naraka của tiếng Phạn. Và Naraka lại có nghĩa là Địa Ngục. Tại vùng núi Tam Đảo có ba ngọn cao nhất là Thạch Bàn, Phù Nghĩa và Thiên Thị, trong đó, giữa chân ngọn Thạch Bàn, tại làng Sơn Đình, có ngôi chùa Tây Thiên. Chùa này tương truyền là có liên hệ với vua Hùng và có một bản ngọc phả về vua Hùng thờ tại đây. Điểm lôi cuốn là chùa Tây Thiên này lại có tên nôm na là chùa Địa Ngục. Đã là chùa thì thiếu gì tên tại sao lại có tên Địa Ngục, phải chăng là do từ chữ Naraka mà ra. Huyện An Định do thế có khả năng nằm tại vùng núi Tam Đảo này chăng? Muốn trả lời dứt khoát câu hỏi này, ta phải đợi một cuộc điều tra khảo cổ thực địa”. 8. Lưu Hân Kỳ viết trong cuốn Giao Châu Ký: “Thành Nê Lê ở phía Nam huyện Định An, cách sông bảy dặm, tháp và giảng đường do vua A Dục dựng vẫn còn. Những người đốn hái củi gọi là kim tượng” (Nê Lê thành tại An Định huyện, đông nam cách thủy thất lý, A Dục vương sở tạo tháp giảng đường thượng tại hữu, thái tân giả vân thị kim tượng). 9. Lệ Đạo Nguyên viết trong Thủy Kinh Chú (Quyển 37, tờ 6b4-6): “Bến đò Quan Tắc xuất phát từ đó, song nó từ phía đông huyện đi qua huyện An Định và Trường Giang của Bắc Đái. Trong sông có nơi vua Việt Vương đúc thuyền đồng. Khi nước triều rút, người ta còn thấy dấu vết. Sông lại chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê, người ta bảo là vua A Dục dựng”. Trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 1, trang 30-31, học giả Lê Mạnh Thát cho biết: “Tên huyện An Định xuất hiện sớm nhất trong Tiền Hán Thư 28 hạ, tờ 10b9-11a25; ở đấy nó là một trong mười huyện thuộc quận Giao Chỉ mà ngoài nó ra, gồm có Luy Lâu, Liên Lâu, Phú Lầu, Mê Linh, Khúc Dương, Khúc Bắc Đái, Khể Từ, Tây Vu, Long Biên và Chu Diên…”. Nhưng đến đời Tam Quốc đổi thành Định An (Hậu Hán Thư 33 tờ 21a8-b5), đến đời Tấn đổi thành An Định (Tấn Thư 15 tờ 8b 13-9a2), qua đời Lưu Tống, An Định được đổi thành Định An (Tống Thư 38 tờ 40b1). Vậy trong vòng 5 thế kỷ, danh xưng Định An hay An Định cứ thay đổi nhau để chỉ cho một vùng đất, một huyện của

23

Page 24: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Giao Chỉ”. 10. Tăng Chiêu, người đã biên tập lại Giao Châu Ký từ những đoạn trích dẫn rải rác trong các tác phẩm Trung Hoa như Hậu Hán Thư, Thuỷ Kinh Chú, Tế Dân Yếu Thuật, Bắc Đường Thư Sao, Nghệ Văn Loại Tụ, Sơ Học Ký, Thái Bình Ngự Lãm,... đã kết luận: “Giao Châu Ký viết vào thời nhà Tấn và Lưu Hân Kỳ là người Đông Tấn, như vậy Lưu Hân Kỳ phải sống và viết vào những năm 360 - 420”. Như vậy, cho tới những năm 380 - 420, những người đi hái củi ở nước ta vẫn còn thấy được Thành Nê Lê và tháp vua Asoka ở huyện Định An.

11. Nhà bác học Lê Quý Đôn, ở thế kỷ XVIII, trong Kiến Văn Tiểu Lục đã mô tả về cảnh chùa ở Tây Thiên như sau: “...Sườn núi có chùa Tây Thiên Cổ Tự, tre xanh, thông tốt, cảnh sắc thanh nhã rộng rãi, trên đỉnh núi cao lại có chùa Đồng Cổ, vừa lên vừa xuống phải mất hai ngày. Từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi đến hồ Sen, nước xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và có sen đỏ, hoa nở bốn mùa, hai bên ngoài hồ, suối từ sườn núi chảy ra, bên trái gọi là suối Bạc, phát nguyên từ khe đá đỉnh núi chảy xuống, trông như tấm lụa; bên phải gọi là suối Vàng, từ chùa bên phải chảy ra. Chùa bên phải này vuông vắn phỏng hơn một trượng, tường nhà toàn bằng đá, hai bên cánh cửa khoá chặt lại bằng khoá sắt lớn, trên viên đá khắc chữ Triện là “Địa Ngục Tự” không biết dựng từ đời nào. Suối ở đây từ trong khe cửa chảy ra, sắc nước trông như vàng. Suối Bạc và suối Vàng hợp lưu ở trước hồ sen, quanh co chảy xuống rồi hợp lưu với khe Giải Oan...”. 12. Ngọc phả Hùng Vương ghi: “Có lần vua Hùng Vương thứ 7 là Chiêu Vương lên núi Tam Đảo cầu tự thì nghiễm nhiên đã thấy có chùa thờ Phật”. Cũng theo sử liệu cổ còn lại thì “từ thời các vua Hùng tại Tây Thiên đã có ba ngôi chùa cổ tên là: Hoa Long Thiền Tự, Thiên Quang Thiền Tự, Thiên ân Thiền Tự...”.

II. Tổng hợp và phân tích dữ liệu Qua các dữ liệu nêu trên, chúng ta thấy có ba vấn đề cần làm sáng tỏ: Một là, niên điểm Phật giáo truyền vào nước ta? Hai là, người đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta? Ba là, địa điểm đầu tiên Phật giáo truyền vào nước ta? Dưới đây, chúng tôi xin đi vào từng vấn đề.

1. Niên điểm Phật giáo truyền vào nước ta? Theo ngọc phả Hùng Vương, vào thời Hùng Vương thứ bảy (Chiêu Vương), trên núi Tam Đảo đã có chùa thờ Phật. Theo truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam Trích Quái, Chử Đồng Tử, chồng công chúa Tiên Dung, là một Phật tử thời Hùng Vương thứ ba. Theo sách Đại Sử Ký (Mahavamsa) của Tích Lan, năm 325 trước Công nguyên, đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba diễn ra tại thành Pataliputta (Hoa Thị), nước Maghada (Ma Kiệt Đà), do Hoàng đế Asoka (A Dục) đề xướng bảo trợ, Đại lão Hoà thượng Moggaliputta Tissa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu) làm chủ tọa. Sau đại hội này, có cử 9 phái đoàn đi hoằng pháp khắp các nơi trong nước ấn Độ và các nước bên ngoài ấn Độ. Sự hoằng dương Phật pháp thời vua A Dục trong và ngoài ấn Độ diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 325 đến năm 258 trước Công nguyên, tương ứng với thời Hùng Vương ở nước ta và trùng hợp với các sử liệu về Phật giáo ghi trong ngọc phả Hùng Vương, chuyện Chử Đồng Tử, Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ và Thuỷ Kinh Chú của Lệ Đạo

24

Page 25: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Nguyên. Như vậy, có thể khẳng định, Phật giáo truyền vào nước ta vào thời Hùng Vương.

2. Người đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta? Sách Đại Sử Ký (Mahavamsa) của Tích Lan cho biết: Vào năm 325 trước Công nguyên, trong 9 phái đoàn Như Lai sứ giả do vua A Dục và Đại lão Hoà thượng Moggaliputta Tissa cử đi, có phái đoàn thứ 8 do hai ngài Sona và Uttara đến Việt Nam và các nước Đông Dương hoằng dương Phật pháp. Trách nhiệm các đoàn là hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp, dựng bia ghi lại những thánh tích hay đánh dấu việc làm của từng đoàn do vua A Dục phái đi. Nhờ đó, sau này các nhà khảo cổ nước Anh đã tìm thấy những trụ đá có chữ viết do vua A Dục dựng lập tại các thánh tích Phật giáo ở ấn Độ, và tháp A Dục ở những nước do các đoàn hoằng pháp của vua A Dục thực hiện. Điều này trùng hợp với sử liệu Giao Châu Ký và Thủy Kinh Chú đã ghi “ở An Định có thành Nê Lê và tháp A Dục”. Sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 1, của học giả Lê Mạnh Thát, trang 35 ghi: “Đặc biệt khi ta nghiên cứu tư liệu lịch sử Phật giáo Trung Quốc, ta thấy vào khoảng hai thế kỷ thứ IV và thứ V sau Dương lịch, tức là gần cùng thời niên đại của Lưu Hân Kỳ, nổi bật một phong trào đi tìm chùa của vua A Dục ở Trung Quốc. Thí dụ việc tìm chùa vua A Dục ở Bành Thành, Thạch Lặc và Thạch Hổ, đào chùa của vua A Dục ở Lâm Tri và Đào Khản, tìm cách nghinh tượng Phật của vua A Dục từ chùa Hàn Khê, v.v… Cả một thời đại đi tìm chùa ở Trung Quốc như thế ắt không thể nào không ảnh hưởng đến việc tìm chùa vua A Dục ở nước ta...”. Các tư liệu đã trích dẫn ở trên đều khá thống nhất khi đề cập đến việc có Thành Nê Lê và tháp A Dục do các đoàn hoằng pháp của vua A Dục phái đến nước ta dựng lập. Thành Nê Lê và tháp A Dục chắc hẳn do hai ngài Sona và Uttara dựng lập để đánh dấu việc làm, chủ trương của vua A Dục, và cũng để ghi lại công đức của vua A Dục. Do vậy, chúng ta có thể nói, hai ngài Sona và Uttara là những người đầu tiên truyền Phật giáo vào nước Văn Lang thời Hùng Vương.

3. Địa điểm đầu tiên Phật giáo truyền vào nước ta? Những sử liệu trích dẫn ở trên cho thấy có 3 địa điểm Phật giáo truyền vào đầu tiên ở nước ta cần được làm sáng tỏ: Đồ Sơn (Hải Phòng), núi Quỳnh Viên (núi Quỳnh Vi) và Tây Thiên (Tam Đảo, Vĩnh Phúc).

a. Đồ Sơn (Hải Phòng) Claude Madrolle, tác giả sách Le Tokin Ancien (Bắc Bộ xưa) hiểu thuật ngữ Nê Lê theo nghĩa là bùn đen (Nê: bùn; Lê: đen), từ đó đưa ra giả thiết Nê Lê là vùng Đồ Sơn (Hải Phòng), vì từ Móng Cái đến Bắc Trung Bộ thì bãi biển cát vàng, riêng chỉ có bãi biển Đồ Sơn có bùn đen. Từ đó, nhiều nhà viết lịch sử Phật giáo như Hòa thượng Thích Đức Nghiệp, nhà nghiên cứu Ngô Đăng Lợi,... đều nghiêng về Đồ Sơn là nơi phái đoàn truyền bá Phật giáo đầu tiên đến Việt Nam. Các nhà nghiên cứu này cũng dựa vào bài thơ chữ Nho Tháp Sơn Hoài Cổ trong gia phả của gia đình ông Hoàng Gia Mỹ, trong đó có câu:

“Cổ tháp di hư loạn thảo đôi, Dục Vương khứ hậu ủy yên đồi

25

Page 26: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .” Tạm dịch: “Tháp xưa lau cỏ tốt bời bời, Dục Vương đi, vua sau cũng đổ rồi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .”

Và cho rằng “trên núi Mẫu Sơn có bảo tháp A Dục Vương dựng lên vào khoảng 300 năm trước Tây lịch; sau khi tháp này tàn phế, tiếp đến tháp Tường Long do vua Lý Thánh Tông xây trên nền tháp cũ”. Chúng ta thấy ý kiến cho rằng Đồ Sơn là thành Nê Lê và tháp Tường Long chính là tháp A Dục là không hợp lý. Bởi vì: Thứ nhất, Đồ Sơn là vùng bãi biển có núi nên không thể là thành Nê Lê. Thứ hai, Tháp Sơn Hoài Cổ cũng chưa đủ để gọi là chứng cứ sử liệu, vì bài thơ này không rõ tên tác giả và niên đại ra đời. Nếu bài thơ là của một thi nhân ở thời cận đại nghe truyền thuyết rồi làm thì sao? Sách Đạo Phật Việt Nam, trang 29 dựa theo bài thơ này ghi: “Chính tôi đã trèo lên ngọn Mẫu Sơn (núi Mẹ), cao chừng 168 mét so với mặt bể; trên đỉnh núi này, trước hết có một bảo tháp Dục Vương dựng lên vào khoảng 300 năm trước Tây lịch; sau khi tháp này tàn phế, tiếp đến tháp Tường Long do vua Lý Thánh Tông xây trên nền tháp cũ, vào khoảng giữa thế kỷ XI sau Tây lịch...”. Theo chúng tôi, truyền thuyết cho rằng tháp Tường Long xây trên nền tháp A Dục là không ổn, vì khi xây tháp mới trên nền tháp có di tích lớn như tháp A Dục thì không ai dám xoá tên tháp cũ. Việc xây tháp mới, nếu có, phải để tên di tích cũ là tháp A Dục. Do vậy, tháp Tường Long không phải là tháp A Dục. Nói cách khác, tháp A Dục phải ở vị trí khác, ở nơi khác, chứ không phải là ở Đồ Sơn.

b. Núi Quỳnh Viên Sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, của học giả Lê Mạnh Thát, trang 14-15 viết: “... đọc Minh Lương Cẩm Tú do Lê Thánh Tông viết về 13 cửa biển của đất nước ta trong khi tiến quân chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1470, thì ta gặp bài thơ thứ 7 nói về Nam Giới Hải Môn Lữ Thứ, trong đó có hai câu thơ:

Di miếu man truyền kim Vũ Mục Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên Dịch: Di miếu còn truyền nay Vũ Mục Danh sơn vẫn nhắc cổ Quỳnh Viên

Vũ Mục đây tức chỉ tướng Lê Khôi, cháu ruột của Lê Lợi, năm Thái Hoà thứ 2 (1444) đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Bí Cai, khi trở về tới cửa biển Nam giới thì mất. Dân thương nhớ lập đền thờ tại cửa biển này. Cửa biển này còn được gọi nôm na là cửa Sót. Còn núi Quỳnh Viên thì nằm ở phía Nam cửa biển này và từ thời Lê Thánh Tông đã được xác nhận là một danh sơn... Nói thẳng ra, vào thế kỷ thứ XV, khi Kiều Phú và Vũ Quỳnh hiệu đính cho ra đời hai bản Lĩnh Nam Trích Quái khác nhau, thì Quỳnh Viên thật sự là một danh sơn, một ngọn núi nổi tiếng đối với dân ta thời đó và trước kia.

26

Page 27: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

Nó dứt khoát không phải là một ngọn núi thần thoại, càng không phải là một ngọn núi không có địa điểm cụ thể trên đất nước ta...”. Hơn nữa, trong Lĩnh Nam Trích Quái còn ghi: “... Đồng Tử cùng thương nhân đi buôn bán lênh đênh ra khắp nước ngoài (TKN nhấn mạnh). Có núi Quỳnh Viên (Quỳnh Vi) trên núi có am nhỏ”. Có thể vào thời Hùng Vương, phần đất này chưa sáp nhập vào đất nước ta mà vẫn còn thuộc Chiêm Thành, nên nói nó thuộc cửa biển Nam giới (cửa biển ở biên giới phía Nam). Do đó, vị trông chùa Hang nói: “... xưa gọi là Quỳnh Viên và sư Phật Quang, thì ngày nay gọi là Mẫu Sơn và sư Bần” là không hợp lý, vì không có cơ sở. Nếu cho rằng núi Quỳnh Viên là nơi các nhà truyền giáo đạo Phật đến đầu tiên trên đất nước ta cũng không đúng. Chuyện Chử Đồng Tử chỉ cho chúng ta cứ liệu rằng Chử Đồng Tử là Phật tử đầu tiên trong lịch sử Phật giáo nước ta mà thôi. c. Tây Thiên là cái nôi của Phật giáo Việt Nam? Muốn được gọi là cái nôi của Phật giáo thì đó phải là nơi đầu tiên Phật pháp được truyền bá đến, có nhiều chùa chiền, nhiều Tăng ni tu hành… Như chúng ta đã biết, kinh đô là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế, quân sự của một quốc gia; thường là nơi có mật độ dân cư đông nhất, là nơi giao lưu văn hoá kinh tế với nước ngoài. Do đó, các nhà truyền giáo muốn đạt được mục đích hoằng pháp, thì tất yếu phải đến kinh đô quốc gia để tìm hiểu phong tục, tập quán, căn cơ của nhân dân, từ đó tìm người hữu duyên để gieo duyên, giáo hoá và ngược lại, được sự giúp đỡ, hướng dẫn của nhân dân tìm nơi tu hành và hành đạo. Tuy nhiên, với những bậc chân tu theo đạo Phật thường tìm chốn “sơn lâm cùng cốc” để tĩnh tu, để buông xả thân tâm, sống đời “thiểu dục tri túc” và giải thoát…Trong vùng Bắc Bộ, chỉ có vùng Tam Đảo núi non liên hoàn hùng vĩ, cảnh trí u nhã, có suối chảy nước trong, thác ghềnh, non cao, rừng rậm, thâm u tịch tĩnh, thích hợp cho người tu Thiền. Hơn nữa, vào thời Hùng Vương, Tam Đảo ở gần kinh đô nước Văn Lang, nên có thể nơi đây được đoàn hoằng pháp của hai ngài Sona và Uttara lựa chọn để hoằng dương Phật pháp. Đầu tiên các ngài cất am Thiền, thỉnh thoảng đến kinh đô khất thực hoá duyên. Khi số lượng Phật tử đã đông đảo, các ngài xây thành Nê Lê (cũng có nghĩa tương đương với chùa Địa Ngục) và dựng tháp A Dục. Một câu hỏi được đặt ra tại sao gọi là thành Nê Lê mà không gọi là chùa Nê Lê? Theo chúng tôi, có lẽ vì thời bấy giờ từ ngữ còn nghèo nàn, lại thêm đạo Phật mới truyền sang, người dân chưa biết đặt tên gọi nơi tu hành thờ Phật, chỉ thấy chùa xây bằng đá giống thành trì nên gọi là thành Nê Lê? Về sau quen miệng, nên người dân địa phương vẫn gọi là thành Nê Lê. Sau này, khi Phật giáo từ Trung Quốc truyền sang, nhờ giao lưu văn hoá chúng ta có thêm những từ ngữ mới để gọi nơi thờ Phật là Tự. Thế nên, thành Nê Lê đổi thành “Địa Ngục Tự” mà Lê Quý Đôn đã mô tả trong Kiến Văn Tiểu Lục. Tiếp nối Sona và Uttara là những đệ tử của các ngài mở mang Phật pháp, từ đó chùa chiền ở Tây Thiên phát triển, dần dần lan toả đi các nơi. Điều này trùng hợp với sử liệu cổ đã ghi vào thời Hùng Vương ở Tây Thiên có 3 ngôi chùa: Hoa Long Thiền Tự, Thiên Quang Thiền Tự, Thiên ân Thiền Tự. Khi An Dương Vương dời kinh đô về thành Cổ Loa, Phật giáo đã theo tín đồ và nhân dân phát triển xuống vùng đồng bằng Bắc Bộ, trung tâm Luy Lâu được hình thành và phát triển. Đến thế kỷ thứ II, Khương Tăng Hội từ Tây Thiên đến đó thuyết giảng Phật pháp, trước khi ngài sang Trung Hoa giảng đạo và lập chùa Kiến Sơ. Từ đó, Luy Lâu trở thành trung tâm lớn mạnh của Phật giáo. Đến thế kỷ thứ IX, núi non hùng vĩ liên hoàn, cảnh trí thâm u, suối chảy nước trong, …

27

Page 28: Khu Danh Thắng Tây Thiên có Diện tích Khoảng 148 Ha

của dãy núi Đông Triều (Quảng Ninh) giống như cảnh trí Tây Thiên, nên các bậc chân tu tìm đến tu hành trên núi Yên Tử. Đạo hạnh các ngài lan toả khắp nơi, chư Tăng ni kéo về, vua quan tìm đến, từ đó Yên Tử trở thành trung tâm Phật giáo đời Trần ở thế kỷ XIII. Theo Hòa thượng Thích Thanh Từ, thuật ngữ “Tây Thiên” phát xuất từ ý nghĩa “nơi các nhà sư Tây Thiên (sư ấn Độ) tu hành”. Vì theo trong kinh sách, thuật ngữ “Tây Thiên” để chỉ nước ấn Độ, cũng như thuật ngữ “Đông Độ” để chỉ nước Trung Hoa. Do đó, trong khi chờ đợi sự phát hiện mới về khảo cổ học ở Tây Thiên, qua sử liệu và lịch sử phát triển của dân tộc, chúng tôi nghiêng về hướng suy nghĩ, Tây Thiên là cái nôi của Phật giáo Viêt Nam.

III. Tổng kết Từ các sử liệu đã dẫn ở trên, cho phép chúng ta đưa ra lời nhận định: Đạo Phật truyền bá vào đất nước ta từ thời Hùng Vương. Đoàn hoằng pháp đầu tiên ở nước ta là hai ngài Sona và Uttara do vua A Dục và Đại lão Hoà thượng Moggaliputta Tissa phái đi. Tây Thiên là cái nôi của Phật giáo Viêt Nam.

Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt (Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên)

28