kû yÕu khoa häc - mdy.vnmdy.vn/uploads/news/2017_06/mdy-2016-ky-yeu-khoa-hoc.pdfkû yÕu khoa...
TRANSCRIPT
M¹NG L¦íI nhµ khoa häc trÎ
p
SCIENCE 2016
Thanh niªn
®ång b»ng
s«ng cöu long
Kû YÕU KHOA HäC
Lời nói đầu
MDY tin rằng tất cả thanh niên đều tràn đầy năng lượng và lòng nhiệt quyết muốn
bảo vệ ĐBSCL thông qua việc hành động phản đối các hoạt động phát triển gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường. Sứ mệnh của chúng tôi là kết nối thanh niên lưu vực
sông Mekong và mang đến nhiều cơ hội hơn cho thanh niên hành động, thực hiện
các ý tưởng nhằm hỗ trợ cộng đồng. Tầm nhìn của chúng tôi chỉ đơn giản là một
vùng Mekong thịnh vượng với sự hợp tác hài hòa giữa các nhóm thanh niên
Trong năm 2016, MDY đã trao cơ hội cho 12 thanh niên khu vực ĐBSCL thực hiện
các nghiên cứu khoa học đối với 3 vấn đề chính bao gồm đa dạng sinh học; biến đổi
khí hậu; và nhu cầu sử dụng nước, tất cả các công trình nghiên cứu này hoàn toàn
thuộc về thanh niên.
Kỷ yếu khoa học này nhằm cung cấp một bức tranh tổng thể về các vấn đề liên quan
đến đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước. Chúng tôi hy vọng
đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các đề xuất giải pháp phát triển phù hợp
–bền vững khu vực ĐBSCL.
Lời cám ơn
Chúng tôi chân thành cám ơn đến các nhà khoa học trẻ đã đóng góp thời gian và trí
tuệ cho các công trình nghiên cứu hữu ích cho cộng đồng.
Để có được những công trình nghiên cứu mang tính khoa học như vậy, sự đóng góp
của ban cố vấn khoa học của MDY thật sự là một phần không thể thiếu. Chúng tôi
gửi lời cám ơn sâu sắc đến ThS. Trần Thị Kim Hồng, ThS Huỳnh Vương Thu Minh
và ThS Phùng Thị Hằng đã cung cấp những kiến thức cần thiết giúp nhà khoa học
trẻ định hướng được con đường nghiên cứu của mình.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến tổ chức Oxfam là nhà tài trợ
không những về mặt tài chính mà còn về mặt kỹ thuật trong quá trình triễn khai dự
án này.
Cuối cùng, MDY xin biết ơn đến Câu Lạc Bộ Đa Dạng Sinh Học thuộc chi đoàn bộ
môn Quản Lí Môi Trường, Đoàn khoa Môi Trường và TNTN cũng như tất cả các
đối tác của MDY.
MỤC LỤC
PHẦN 1. CÂU CHUYỆN CỘNG ĐỒNG
Bài 1: Người trồng sen tháp mười cần gì? 1
Bài 2: Nước mắt gương sen 2
Bài 3: Đồng sen Tháp Mười 3
Bài 4: Sen Tháp Mười 4
Bài 5: Đẹp ngỡ nàng đồng sen Tháp Mười 5
Bài 6: Thanh Niên Đồng Bằng Sông Cửu Long và chuyến đi thực địa 6
Bài 7: Chuyến đi của thanh niên 7
Bài 8: Cù Lao Dung, Sóc Trăng 8
Bài 9: Bài thu hoạch thực địa Đồng Tháp – Sóc Trăng 8
Bài 10: Tôi thử thách bản thân mình 9
Bài 11: Trải lòng 11
Bài 12: Bài thu hoạch chuyến đi Đồng Tháp-Sóc Trăng 11
PHẦN 2: NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bài 1: Chuyện của nước 12
Bài 2: Điều tra và lập cơ sở dữ liệu đa dạng cây làm thuốc ở chùa
và vườn thuốc nam ở Đồng Tháp – Sóc Trăng 15
Bài 3: Khảo sát nhu cầu sử dụng nước dưới đất trong canh tác hành
tím tại Thị Xã Vĩnh Châu, Tỉnh Sóc Trăng 18
Bài 4: Đánh giá xu thế biến đổi khí hậu vùng Bán Đảo Cà Mau 25
Bài 5: Đánh Giá Xu Thế Biến Đổi Khí Hậu Vùng Đồng Tháp Mười 30
Bài 6: Đánh giá xu thế và biến đổi tài nguyên nước dưới đất vùng Ven
Biển Bán Đảo Cà Mau 36
Bài 7: Khảo sát nhu cầu nước cho mô hình trồng sen tại huyện Tháp
Mười, Đồng Tháp 40
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 5
Phần 1: CÂU CHUYỆN CỘNG ĐỒNG
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 1
Bài 1: NGƯỜI TRỒNG SEN THÁP
MƯỜI CẦN GÌ? Thạch Thị Kim Thanh – Đại Học Y
Dược Cần Thơ
Không sợ tính đỏng đảnh của thời tiết, người trồng
sen vẫn mỉm cười trước đợt hạn mặn khủng khiếp
vừa qua. Tuy nhiên, không phải lúc nào nụ cười của
họ cũng vô tư tươi rói như hoa sen trên chính mảnh
đất này - Tháp Mười. Tháp Mười, bao la là sen, và
câu chuyện về nghề trồng sen cũng bao la những vui
buồn.
Ngày 28.5, tại xã Mỹ Hòa_Tháp Mười_Đồng Tháp,
chúng tôi được chú Tám hướng dẫn tham quan mô
hình sen-cá 50 công nhỏ của chú. Sen được trồng
khoảng 2 tháng trước và đang vào mùa thu hoạch.
Theo lời chú Tám, sen sẽ được thu hoạch dần trong
3 tháng nếu năng suất tốt. Và 1-1,5 tháng nếu sen
cho năng suất thấp. Trung bình 2-3 ngày thu hoạch
một lần, mỗi lần thu về khoảng tiền khá lớn. Ngoài
ra, mô hình này còn đem lại thu nhập 20-30 triệu
đồng/năm từ cá.
Song song với nguồn thu nhập cao này, nghề trồng
sen còn nhận được sự ưu ái của thiên nhiên. Qua
mùa hạn-mặn, năng suất sen vẫn không bị ảnh
hưởng. Thậm chí, với kinh nghiệm “phèn tốt sen”,
nước mặn đã giúp người dân ở đây giảm bớt nỗi lo
sâu bệnh ở sen. Với nước nhiễm phèn, sen ít gặp
phải bệnh thúi ngó, phát triển tốt và cho năng suất
cao.
Tuy nhiên, nghề trồng sen có luôn êm đềm
như vậy?
Ngoài khoảng chi phí thường vụ cho phân, thuốc và
bơm nước, tiền công cho nhân lực hái sen, phân loại
sen,…là rất lớn. Số tiền bỏ ra để đầu tư trồng sen
không nhỏ nhưng lợi nhuận thu vào có ổn định
không? “500kg sen thu hoạch trước được thương lái
mua 42 ngàn 1kg. 800-900kg sau đó làm tôi ngã
ngửa vì người ta cho 22 ngàn 1kg. Chúng tôi vẫn
phải bán, để lâu không bán sen hư hết không ai
mua”- chú Tám tâm sự và đặt ra câu hỏi trong lòng
mỗi người về đầu ra cho sen. Giá sen giảm một nửa,
người dân lo lắng gấp bao nhiêu lần. Thâm chí,
không chỉ ½ giá sen bị mất, 15-16ngàn/1kg sen là
chuyện không xa lạ gì với chú Tám và người dân ở
đây.
Hình 2. Người dân kể chuyện giá cả sen
Bề nổi là thu nhập cao, nhưng phía sau đó có thật sự
tốt đẹp? Người dân cần một thu nhập ổn định chứ
không bấp bênh khó đoán như hiện nay. Họ xứng
đáng nhận được lợi nhuận phù hợp với công sức đã
bỏ ra. Nhưng sen Tháp Mười lại hoàn toàn phụ
thuộc vào người mua. Vậy đâu là giải pháp cho đầu
ra và cuộc sống của người trồng sen?
CHUYỆN CỦA SEN
Hình 1. Trên đường thu hoạch sen.
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 2
Bài 2: NƯỚC MẮT GƯƠNG SEN.
Nguyễn Thủy Hà Anh – Đại Học Cần
Thơ
Chặng đầu tiên trong hành trình đi thực địa cùng
MDY, tôi theo đoàn, bon bon trên con xe đầy ấp
tiếng cười và lời ca của các bạn thành viên trong
đoàn. Sau hơn 3 giờ ngồi xe vượt gần 100km, tôi đặt
chân đến vùng đất Đồng Tháp Mười. Đến nhà bác
Hai để đi xuồng vào đồng sen nhà bác là một điều
cực kỳ thú vị. Xuống con ghe to, có nét gì đó cổ xưa
và lâu đời, ghe chạy, sóng nước lăng tăng như chào
mừng chúng tôi vậy, một cảm giác mới mẻ mà từ
trước đến giờ tôi chưa từng thử - hòa mình với thiên
nhiên. Dừng chân là một đồng sen rộng, những hoa
sen nở rộ như hồng cả vùng trời, từng chiếc gương
sen lay động trong gió, bắt mắt làm sao! Hỏi bác sen
nơi đây được dùng làm gì, bác kể ra những món làm
từ sen mà tôi đã đói cồn cào. Chủ yếu sen nơi đây
trồng để lấy gương, bán cho những thương lái mang
về để chế biến, xuất khẩu. Ngoài ra còn những món
hấp dẫn như cơm lá sen, gỏi ngó sen, chè hạt sen,
sữa sen,..Tôi nghĩ chắc đồng sen lớn vậy, gương sen
nhiều vậy thì thu nhập sẽ ổn định và dư dã lắm. Theo
chân bác, nghe bác tâm sự về cái nghề - cái nghiệp
trồng sen..tôi mới thấm, thoáng buồn vì nó khác xa
tôi nghĩ..
“Cái nghề này nó bấp bênh lắm con, trồng thì cực,
thuê người bẻ sen thì khó, mà giá cả thì “sáng nắng
chiều mưa” biết đâu mà lần con ơi” – Bác Hai thở
dài chia sẻ với chúng tôi. Ở đây người ta trồng một
mùa lúa, một mùa sen vì tùy vào chế độ nước.
Có khi thiếu nước phải tốn thêm một khoảng để lắp
các máy bơm nước, vậy là thu nhập phải giảm xuống
chút nữa. Rồi có khi không may mắn, sen nhiễm
bệnh, có khi cứu được thì năng suất cũng giảm, đôi
khi không cứu được lại mất trắng một mùa.
Chưa kể đến những khó nhọc khi thu thập gương
sen, không phải như lúa, có máy cắt, máy đập, mà
phải bẻ từng chiếc từng chiếc, mang về còn phải
tách ra từng hạt, từng hạt. Tất cả các công đoạn đều
được làm bằng bàn tay những con người nơi đây.
Nhà bác Hai làm không xuể, phải thuê người làm,
với tiền công là 150.000/người/buổi. Vậy là phải tốn
thêm một khoảng lớn. Nhưng mà, đắng cay nhất là
lúc bán những hạt sen này, giá cả không hề ổn định,
đầu mùa giá cao, vài ngày sau thì giảm mạnh, rồi
người ta mua giá nào thì mình phải bán giá đó, có
khi lúc đầu nói mua, khi bẻ rồi lại không mua nữa
hoặc ép giá thấp xuống, nhưng buộc lòng phải bán
vì không bán hạt sen sẽ khô thì không bán được nữa.
Ngồi nghe bác tâm sự mà chúng tôi lặng người đi vì
buồn, vì thương cho bác và cho cả những con người
dân chất phác chân lắm tay bùn nơi đây.
Cuộc hành trình thứ hai bắt đầu từ lúc 5h30 sáng
hôm sau ngày đi Đồng Tháp. Vượt hơn 70 km, qua
những chặng đường lớn có nhỏ có, có cả qua phà,
chúng tôi dừng chân tại An Thạnh 2, Cù Lao Dung,
Sóc Trăng – mảnh đất đầy ấp tình người.
Hơn 2 giờ đồng hồ ngồi xe, chúng tôi đến quá cơm
nhà cô Hoa ăn sáng và bắt đầu cuộc hành trình thú
vị. Cô Hoa rất nhiệt tình và dễ thương, cho tôi 2 trái
xoài chín to thiệt to vì tôi than đói, những món ăn
cô nấu cũng rất ngon lại nhiều. Sau khi nạp đủ năng
lượng, chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình của mình.
Theo cậu bé dẫn đường, đi bộ gần 2km chúng tôi
xuống một chiếc ghe lớn, và tiến thẳng ra sông lớn,
để đi về phía rừng. Dọc theo bờ sông là những dãi
bần to, sông rộng mà lại ít ghe xuồng, mang lại cho
tôi một cảm giác buồn mang mác. Trên ghe, ngoài
đoàn chúng tôi còn có một anh đi cùng dể dẫn chúng
tôi vào rừng, anh vui tính, nhiệt tình, nên chúng tôi
rất thích nói chuyện với anh, hỏi anh về những loại
cá, cách bắt cá, rồi những món ăn đặc sản nơn này.
Vừa ngồi vừa nói chuyện có lẽ làm thời gian trôi
nhanh hơn, sau hơn 1 giờ chúng tôi đến bìa rừng và
bắt đầu theo anh vào sâu bên trong. Được sự hướng
dẫn của cô Hằng (cố vấn của đoàn) chúng tôi học
được cách khoanh ô, đếm mẫu và thu mẫu rất vui và
Hình 3. Một gương sen không đạt
CHUYỆN CỦA SEN
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 3
rất thú vị, có điểu lần đầu chưa có kinh nghiệm trang
bị nên tôi bị muỗi cắn khá nhiều.
Sau khi ra khỏi rừng, chúng tôi tiếp tục lên ghe và
duy chuyển ra vùng bãi bồi gần cửa biển, tại đây các
bạn được vui chơi, tung tăng như đang đi biển vậy.
Thật sự rất vui, như được giải tỏa sau những ngày
học tập, các thành viên trong đoàn như thân thiết
hơn. Kết thúc cuộc chơi, cũng gần 2h chiều, chúng
tôi di chuyển về nhà cô Hoa tất nhiên vẫn bằng con
ghe lúc đầu.
Màng hấp dẫn mới thực sự bắt đầu khi chúng tôi
nướng cá và thưởng thức tại chỗ, ôi trời thì mưa nhè
nhẹ, hơi lạnh lan tỏa, cá thì vừa nướng, nóng hổi
thơm lừng, vị ngọt khó tả làm sao. Có lẽ đó là mùi
vị mà tôi không bao giờ quên được. Sau chuyến đi,
những gì còn động lại chỉ là những kí ức đẹp trong
lòng mỗi chúng tôi. Rất cảm ơn MDY đã trao cho
tôi cơ hội và tạo điều kiện cho chúng tôi được làm
việc cùng nhau, được học hỏi những kinh nghiệm
bổ ích và có những trải nghiệm vô cùng thú vị.
BÀI 3: ĐỒNG SEN THÁP MƯỜI
Trần Huỳnh Như – Đại Học Cần Thơ
Sau một chặng đường dài xuất phát từ Cần Thơ đến
với Đồng Tháp, nhóm MDY chúng tôi đã đặt chân
đến vớimột vùng trời đầy sen. Len lõi qua những
con kênh với hai bên là bờ đê thẳng tắp, người dẫn
đoàn là bác Támđã đưa chúng tôi đến với ruộng sen
đang đến độ thu hoạch của bác để tìm hiểu và khảo
sát,ở đây chúng tôi biết được nhiều điều từ những
người dân mộc mạc và giản dị.
Ruộng sen của bác Tám mỗi năm trồng tầm 2 đến 3
vụ, bác trồng theo mô hình lúa- sen và cá- sen đem
lại nhiều lợi nhuận. Sen được trồng bằng ngó sen
một lần duy nhất và sen phát triển liên tục. Cứ mỗi
năm sen được trục hoặc phát ngang thân hai lần, lần
1 vào tháng 11, lần 2 vào tháng 4. Sau khi trục 3
tháng thì có thể thu hoạch sen dần dần. Thời gian
thu hoạch sen có thể lên đến 3 tháng, lần lượt từ 2-
3 ngày thu hoạch sen một lần. Những tháng gần đây
do hạn hán lâu ngày nên bác phải bơm nước từ kênh
vào để cung cấp cho sự phát triển của sen, điều này
đã khiến bác thêm một phần chi phí để phục vụ việc
cung cấp nhiên liệu cho máy bơm. Được biết theo
kinh nghiệm của người dân nơi, lượng nước cung
cấp tốt nhất cho sự phát triển của sen là từ 3cm-7cm,
nước càng nhiều phèn sen sẽ mở hoa càng to và thu
hoạch cho nâng suất cao hơn. Đây là một trong
những mô hình mới nên vấn đề đầu ra cho sen đang
là vấn đề đau đầu của người dân nơi đây, theo bác
Tám cho biết thì giá sen không cố định thu hoạch
xong rồi mới biết giá, giác có lúc cao có lúc thấp
người dân ở đây không thể nào đoán trước trước
CHUYỆN CỦA SEN
Hình 4. Trên đường thăm rừng phòng hộ
Hình 5. Thực phẩm từ thiên nhiên
Hình 6. Sen đang mùa trổ bông
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 4
được. Nên vấn đề tìm nguồn ra cố định cho sen đang
được chú trọng nhiều để cuộc sống của dân “đồng
sen” được ổn định hơn.Ngoài việc trồng sen để thu
hoạch, người dân còn tận dụng cảnh quan nơi đây
để mở ra các khu du lịch sinh thái tham quan đồng
sen, điều này cũng mang lại khá nhiều lợi nhuận.
Khách tham quan đến với khu du lịch sinh thái đồng
sen có thể thưởng thức được nhiều đặc sản làm từ
sen như: cơm lá sen, rỏi ngó sen, rượu sen, hạt sen
gang muối....Qua những món ăn du khách có thể
cảm nhận rõ hơn mùi vị của “ đồng sen”,của những
giọt mồ hôi của người dân khi thu hoạch sen.
Chuyến đi khép lại với nhiều bâng khuâng trăn trở
về việc tìm đầu ra cho sen, việc làm sao để ổn định
chất lượng nước của vùng và các yếu tố về mặt khí
hậu để canh tác sen một cách tốt nhất. Vấn đề này
không chỉ của riêng một ai, một tổ chức nào mà là
chung của cả một cộng đồng. Hãy cùng góp sức
chung tay với chúng tôi -nhóm MDY để thực hiện
những điều này.
Bài 4: SEN THÁP MƯỜI
Hồ Thị Kim Nhung – Đại học Cần Thơ
Không biết từ lúc nào tôi lại dành cho loài hoa này
một tình yêu mãnh liệt đến như vậy. Một loài hoa có
môi trường sống khá khắc khổ nhưng vẫn luôn tỏa
hương sắc một cách vô điều kiện. Đó chính là sen.
Ngày 28/5 vừa qua tôi có một chuyến đi thực tế ở
Đồng Tháp Mười được đến với sen loài hoa mà tôi
luôn yêu mến.Chuyến hành trình tuy không quá dài
nhưng cũng không quá ngắn để tôi có thể hiểu thêm
nhiều kiến thức mới và những vấn đề liên quan tới
sen đồng thời cũng được ghi lại những khoảnh khắc
tuyệt vời với những người bạn mới tràn đầy sức
sống và nhiệt huyết mà tôi được gặp trong cuộc tập
huấn của MDY. Sen, một loài hoa xinh đẹp và có
một mùi thơm rất dịu dàng, thanh thoát tuy không
nồng nàn như những loài hoa khác nhưng chắc hẳn
rằng không một ai có thể quên được hương thơm đó
khi đã có dịp thưởng thức, sen mang một vẻ đẹp
thuần túy đậm chất dân tộc, không phải tự nhiên mà
sen được mệnh danh là quốc hoa của Việt Nam mà
vì sen mang trên mình vẻ đẹp tự nhiên hiền hòa với
đất trời. Sen cũng đi vào thơ văn của nhiều tác giả
và “ Tháp mười đẹp nhất bông sen”, “ Việt Nam đẹp
nhất có tên Bác Hồ”, nhắc đến sen là nhắc đến Tháp
Mười vùng đất bao đời nay đã gắn bó với loài hoa
này,sen cũng đi vào ẩm thực của người dân nơi
đâyvà là đặc sản đối với du khách từng đặt chân đến
với Tháp Mười, trong chuyến đi tôi cũng được ăn
cơm sen, sen rang mỡ, sen xào...và đặc biệt hơn là
tôi được thưởng thứcgiữa cánh đồng bát ngát sen
lộng gió cảm giác thật khó tả.Sen không những đẹp
mà còn có khả năng trị bệnh, chắc hẳn đây là loài
hoa “tài sắc vẹn toàn”, gương sen còn lại trên đồng
do hái sót sẽ được người dân đem về phơi khô để
sắc uống nó có thể chữa huyết áp, mỡ trong máu,
gan nhiễm mỡ, thậm chí cả chứng mất ngủ, hạt sen
khô được bán tại nhà khoảng 40000đ/kg, nhưng vận
chuyển ra chợ thì khoảng 100000đ/kg đây cũng là
một nguồn thu nhỏ của nhiều hộ gia đình nơi đây.
Ngoài ra còn có tim sen, lá già cũng được sắc để
phơi khô để chữa bệnh, còn có rượu sen hương vị
nồng nàn mà còn có thể trị nhức mỏi. Sen còn là
nguồn thu nhập của nhiều hộ dân tại Đồng Tháp, sen
được trồng với mục đích thu hoạch khác nhau như
trồng để lấy gương, ngó, hoa....Tùy vào mục đích sử
dụng mà đồng sen được chăm sóc với những cách
khác nhau và giá cả cũng bấp bênh không ổn định,
tùy vào mùa vụ và thương lái giá cả lên xuống bất
Hình 7. Sen Tháp Mười
CHUYỆN CỦA SEN
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 5
thường, đầu ra còn hạn chế nên cũng gây khó khăn
cho người dân trồng sen.
Một ngày thực tế trôi qua thật nhiều ý nghĩa và tôi
tin chắc rằng trong mỗi người đếu đã đọng lại những
kỉ niệm đẹp về nhau. Riêng tôi ấn tượng sâu sắc về
Đồng Tháp và sen sẽ theo tôi mãi, nhiều điều lí thú
về vùng đất này tôi vẫn chưa được khám phá và
chiêm ngưỡng, xin hẹn Đồng Tháp vào một ngày
không xa tôi sẽ trở lại và sẽ ghi lại nhiều hơn nữa
những khoảnh khắc với sen, loài hoa tôi yêu.
Bài 5: ĐẸP NGỠ NGÀNG ĐỒNG
SEN THÁP MƯỜI
Huỳnh Khánh Toàn – Đại học Cần Thơ
Trong khuôn khổ tập huấn của MDY (MEKONG
DELTA YOUTH) từ ngày 25/05 đến ngày
29/05/2016, vào ngày 28/06/2016 thì chúng tôi có
chuyến đi thực tếghé thămxã Mỹ Hòa huyện Tháp
Mười tỉnh Đồng Tháp, do quãng đường đi khá xa
nên chúng tôi tập trung từ rất sớm khoảng 5h30’ tại
khoa Môi Trường-TNTN thì xe bắt đầu khởi hành,
khoảng 8h30’ sau khi ăn sáng xong chúng tôi lại tiếp
tục di chuyển đến nhà hộ dân tại đây chúng tôi có
cuộc trao đổi ngắn với chủ hộ các thông tin có liên
quan đến mô hình trồng sen như: hiện trạng, cách
thức canh tác, giá cả khi thu hoạch,…
Sau đó chúng tôiđược người dân cho di chuyển bằng
xuồng máy để đến nơi tham quan ruộng sen của họ,
mọi người đều cảm thấy rất thích thú khi được ngấm
cảnh sông nước hữu tình. Trong lúc đi thì tôi quan
sát hai bên bờ thì thấy có hiện tượng sạt lở đất, trò
chuyện với người dân thì tôi mới biết được con kênh
này được gọi là kênh đào An Phong do nhu cầu về
nguồn nước cho canh tác của vùng, cũng như mong
muốn giao thông thủy được thuận lợi hơnnên nhà
nước đã tiến hành đào kênh, nó có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của
vùng, nguyên nhân sạt lở ban đầu được cho là nền
móng của kênh còn yếu cộng với sóng vỗ vào 2 bên
bờ do xuồng, ghe đi lại tương đối nhiều.
Theo quan sát của tôi thì nhà nước cũng đang tiến
hành khắc phục sự cố bên cạnh đó thì người dân
cũng có các biện pháp giữ đất như trồng cách cây
tre, trúc, cây tràm ven bờ và cũng có thêm thu nhập
từ các loại cây này.
Sau một hồi di chuyển thì chúng tôi cũng tới được
ruộng sen tại đây chúng tôi được trò chuyện nhiều
hơn nữa với người dân, thấy được rõ hơn về hoạt
động thu hoạch gương sen, biết được rằng khâu thuê
nhân công để thu hoạch gương sen là tốn chi phí
nhiều nhất trong quá trình trồng senvà giá cả lúc bán
ra cũng không ổn định lúc cao, lúcthấprất thất
thường và cũng được người dân kểvề các dịch bệnh
có trên cây sen và cách thức chữa trị theo kinh
nghiệm của họ, trong ruộng sen thì người dân có đào
ao nhỏ chạy dọc theo bờ cách bờ khoảng 1m tận
dụng được diện tích mặt nước để nuôi cá, cá tự nhiên
sẽ theo nước sau một năm cá sẽ được thu người dân
để lại một lượng cá để chúng sinh sản tạo giống cho
mùa thu hoạch tiếp, việc này cứ lặp lại hàng năm tạo
nên nguồn thu nhập khá ổn định.
Chia tay ruộng sen chúng tôi lại tiếp tục đi đến một
hình thức canh tác khác của sen nữa là sen kết hợp
với du lịch, thật ra mô hình sen kết hợp với du lịch
cũng tương tự như các cánh đồng sen khác, người
dân dựng thêm các lều bằng lá trên các cánh đồng
sentạo không gian thoáng mát, gần gủi với thiên
nhiênđể phục vụ thêm cho du khách, cũng tại đây
chúng tôi tổ chức họp nhóm để thảo luận, báo cáo
về những gì mọi người đã thấy được, những kiến
Hình 8. Sạt lở đất dòng bờ kênh An Phong
Hình 9. Quá trình thu hoạch gương sen
CHUYỆN CỦA SEN
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 6
thức đã hỏi được từ người dân sau chuyến đi và có
một bữa tiệc thân mật nho nhỏ để có dịp thưởng thức
các đặc sản từ làm từ sen như sữa sen, cơm sen, rượu
sen…
Sau bữa tiệc chúng tôi tiến hành di chuyển về Cần
Thơ kết thúc chuyến tham quan thực tế đầy tuyệt vời
tại Đồng Tháp.
BÀI 6: THANH NIÊN ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG VÀ CHUYẾN ĐI
THỰC ĐỊA
Huỳnh Thị Lệ Thu-Đại học Cần Thơ
Đồng Tháp – một vùng quê thanh bình nơi toát lên
vẻ đẹp của một loài hoa gần bùn mà chẳng hôi tanh
mùi bùn, vâng đó chính là sen loài hoa được xem là
quốc hoa của đất nước Việt Nam. Nơi đây có những
con người hiền lành, chất phát và đầy dịu dàng
nhưng chưa bao giờ chịu khuất phục. Đây cũng
chính là lí do tại sao MDY lại chọn Đồng Tháp là
nơi đầu tiên và Sóc Trăng sẽ là nơi đến thứ 2 trong
chuyến thực địa này.
Sáng hôm ấy 28/6/2016 toàn bộ thành viên của
MDY chúng tôi đã có mặt trước khoa môi trường và
bắt đầu cho chuyến hành trình, lúc ngồi trên xe mọi
người nói đùa, ca hát rất là vui. Không mấy chốc
chúng tôi đã đến được nhà bác Tám, người nông dân
vui vẻ cần cù và được xem là người luôn đi đầu
trong phòng trào canh tác sen bằng cách kết hợp
nhiều mô hình kết hợp và đạt được hiệu quả kinh tế
cao. Bác Tám dẫn chúng tôi ra ruộng sen của gia
đình và những cánh đồng xung quanh, khi nhìn thấy
những cánh đồng sen nối tiếp nhau chạy dài đến
chân trời tôi chỉ có thể dùng 3 từ đó là quá tuyệt
vời… ngắm được cảnh đẹp nhưng tôi và các bạn vẫn
không quên nhiệm vụ của mình đó là phải hỏi bác
Tám tất cả những thông tin liên quan về sen từ việc
gieo cấy chăm sóc và thu hoạch. Khi tôi hỏi bác về
công dụng của sen bác vui vẻ trả lời “sen có nhiều
công dụng lắm con mình có thể chế biến làm những
món ăn đặc sản hay sử dụng trong việc chữa bệnh”.
Đúng ngay mục tiêu cần đạt, tôi hỏi bác tiếp “vậy
bác ơi mình sử dụng phần nào của sen để làm thuốc
cũng như là nó sẽ chữa được bệnh gì?” Bác nói: Lá
sen phơi khô, thái nhuyễn dùng nấu cháo với đường
cát, có tác dụng thanh nhiệt, trị cảm sốt, say nắng,
giúp hạ huyết áp. Còn củ sen giúp tuần hoàn máu,
giảm nhiệt, tăng cường chức năng tim mạch và dạ
dày. Hạt sen có tác dụng kích thích ăn ngon, hấp thụ
tốt các chất dinh dưỡng, tăng khí huyết, giúp ngủ
ngon, phục hồi sức khỏe. Tim sen thì có vị đắng,
tính hàn, công dụng thanh tâm, hạ huyết áp, cầm
máu...dùng để chữa các chứng bệnh như đầu choáng
mắt hoa, mất ngủ hay hồi hộp đánh trống ngực, nhịp
tim nhanh…
Sau khi lắng nghe hết những chia sẻ từ bác tôi thật
sự rất vui, vui vì mình vừa học được 1 lượng kiến
thức có giá trị cũng như là hoàn thành được nhiệm
vụ được giao lúc đầu. Sau khi phỏng vấn xong
chúng tôi di chuyển về khu du lịch đồng sen để nghĩ
trưa và dùng buổi trưa tại đây, buổi cơm trưa hôm
ấy ngon lắm, vui lắm vì các thành viên dường như
đã bắt đầu thân với nhau hơn. Đến chiều hôm ấy
chúng tôi di chuyển về Cần Thơ sớm để chuẩn bị
tiếp cho ngày hôm sau, kết thúc 1 ngày làm việc khá
Hình 10. Khu du lịch sen
Hình 11. Đồng sen tháp mười
CHUYỆN THANH NIÊN
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 7
mệt nhưng mọi người vẫn luôn nở nụ cười tươi trên
môi.
Ngày 29/6/2016 là ngày thứ 2 của cuộc hành trình
khám phá đầy thú vị tại tỉnh Sóc Trăng và cụ thể là
ở Cù Lao Dung. Dường như chưa từng trải qua sự
mệt mỏi của ngày hôm qua, khi vừa vào tới rừng
phòng hộ chúng tôi ai nấy đều năng nổ với tinh thần
ham học hỏi khi được cô Hằng hướng dẫn để căn
dây chia ô để đếm số lượng cây có trong rừng, các
bạn hăng hái và bắt tay ngay vào công việc…Vừa
làm vừa nói chuyện rất là vui tiếng cười cứ vang xa
trong khu rừng ấy, có những chỗ quá lầy lội 1 số bạn
bị lún quá sâu … thế là vừa nhìn thấy thôi là bạn
đứng gần kế bên nắm tay bạn mình kéo lên, tình
đoàn kết lúc ấy khiến tôi nhớ mãi trong đầu và thầm
cảm ơn MDY nơi đã tạo điều kiện quá thuận lợi để
những bạn sinh viên như tôi đây có thể học tập mọi
lúc mọi nơi không chỉ học về kiến thức mà còn giúp
tôi biết cách trân trọng những tình cảm chân thành
từ đồng đội…Thế là ngày cuối cùng trong chuyến
đi này cũng đã kết thúc, 16h cùng ngày chiếc tàu lúc
sang chở 18 thành viên chúng tôi quay về đất liền,
chiếc tàu ấy chạy khá nhanh trên những con sông
lớn. “Tàu tuy nhỏ nhưng đủ võ để vượt qua những
con sóng lớn” đó là suy nghĩ của tôi khi ngồi trên
tàu, nó như nhắc nhở tôi rằng có thể mình nhỏ bé
nhưng hãy tin và mình sẽ làm được những việc lớn
hơn. Rồi tôi và các bạn sẽ thành công như những gì
chúng ta đã hứa trước khi trở thành thành viên chính
thức của MDY. Tôi tin rằng tất cả chúng ta sẽ làm
được.
BÀI 7: CHUYÊN ĐI CUA THANH
NIÊN
Trần Vinh Hiển – Đại học Cần Thơ
Sau 3 ngay tâp huân tai Cân Thơ, thi nhom MDY
chung tôi gôm 18 thanh viên đa co chuyên đi thưc
tê vê Đông Thap- Soc Trăng . Chuyên đi thât sư rât
y nghia va đa đê lai trong tôi rât nhiêu ki niêm bên
cac ban mơi, cung vơi đo la thêm nhiêu kiên thưc
rât bô ich tư cô Phung Thi Hăng va cô Huynh Vương
Thu Minh.
Cân Thơ ngay 28/05/2016, 5h30 nhom MDY chung
tôi lên đương vơi tâm trang hao hưc. Ngôi trên xe
suôt 2 tiêng đông hô, chung tôi đa chơi nhưng tro
chơi rât thu vi . Nhiêu ban đa bôc lô đươc tai năng
cua minh. Đoan chung tôi đên Thap Mươi vao luc
9h. Tư đây chung tôi ngôi thuyên 30 phut đê vao
thăm đông sen cua bac 8, môt nông dân trông sen
lâu năm vung Thap Mươi . Tai đây, chung tôi đa
đươc tân măt thây đông sen bat ngat như anh. Ngoai
ra con chưng kiên đươc mô hinh lua-sen tư tay hai
gương sen .Tôi cam thây rât thu vi . Ngoai ra, bac 8
con chia se cach trông, giai thich ki mô hinh cho tôi.
Cứ mỗi năm sen được trục hoặc phát ngang thân hai
lần, lần 1 vào tháng 11, lần 2 vào tháng 4.Sau khi
trục 3 tháng thì có thể thu hoạch sen dần dần. Được
biết theo kinh nghiệm của người dân nơi, lượngnước
cung cấp tốt nhất cho sự phát triển của sen là từ 3cm-
7cm, nước càng nhiều phèn sen sẽ cho năng suất cao
hơn. Giơ đây tôi mơi hiêu vi sao “ Thap Mươi đep
nhât bông sen”.Nhưng, bên canh ve đep cua đông
sen, tôi con nhân ra sư cưc nhoc, kho khăn cua ngươi
nông dân trông sen nơi đây. Bac 8 chia se răng: “
Trông sen cưc lăm! Gương sen gia la phai thu hoach,
nêu không no khô thi ban mât gia. Gia ca thi bâp
bênh, ma gương sen thi không trư đươc nên hai
xuông la phai ban. Gia re cung phai ban.”. Hinh anh
nhưng ngươi đi thu hoach sen chân bun, tay theo
lom khom trên ruông sen tư sang đên trưa lam tôi
thâm thia đươc vi đăng long trong vi ngot bui cua
sen.
Sau đo đoan chung tôi nghi chân tai khu du lich
Đông Sen. Tai đây chung tôi đa co buôi tông kêt
ngăn. Chung tôi đươc thương thưc sưa sen- đăc san
nơi đây, cung vơi đo la sen rang muôi ơt nhưng mon
Hình 12. Thu mẫu thực địa
CHUYỆN THANH NIÊN
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 8
ăn ma tôi không bao giơ co thê quên, hương vi đăng
bui cua sen.15h, đoan chung tôi khơi hanh vê Cân
Thơ.
Tôi thưc sư rât cam ơn chương trinh MDY đa cho
chung tôi chuyên đi thưc tê nay, đê cho tôi co thê
mơ rông kiên thưc, co thêm ban mơi va hơn hêt la
thêm thâu hiêu nhưng gian lao khô cưc cua nhưng
nông dân trông sen phi thương, nhưng con ngươi
đang vươt qua sư khăc nghiêt cua thiên nhiên đê tao
ra nhưng san vât cho chung ta. Va điêu đo thuc đây
chung tôi se cô găng lam môt cai gi đo đê co thê
giup đơ ho.
BÀI 8: CÙ LAO DUNG SÓC TRĂNG
Nguyễn Hồng Thảo Ly – Đại học Cần
Thơ
Sau ba ngày tập huấn ở Green house về “Kỹ năng
nghiên cứu và thu thập số liệu thực địa” vào ngày
29/5/2016 tôi được đi thực tế ở Sóc Trăng cùng cô
Minh, cô Hằng, nhóm MDY và các bạn trong khóa
tập huấn. Nơi mà tôi đến là Cù Lao Dung thuộc tỉnh
Sóc Trăng, nằm cuối sông Hậu giữa hai cửa sông
Trần Đề và Định An. Tôi thấy được nơi đây trồng
rất nhiều mía hầu hết trên suốt đoạn đường tôi đi
qua.
Chúng tôi ăn sáng tại nhà một người dân ở đó, sau
đó chúng tôi xuống tàu để di chuyển đến bờ rừng
phòng hộ. Trong khi mọi người vào rừng để cô Hằng
chỉ cách thu mẫu và phân ô thì tôi, bạn Hiển và cô
Minh ở lại cùng người dân nướng cá và trò chuyện
cùng cô Minh, nghe cô nói về thủy văn ở đây. Kế đó
chúng tôi di chuyển đến bãi nghêu gần cửa biển để
tham quan. Gần 2 giờ trưa chúng tôi lên tàu đi về
đất liền. Trên tàu mọi người cùng nướng cá, nói
chuyện rất vui vẻ. Sau khi đến bờ chúng tôi ăn uống
ở nhà người dân ban sáng và chuẩn bị về lại Cần
Thơ. Tối hôm đó, tôi dự một bữa tiệc thân mật với
nhóm MDY và các bạn, có cô Liên và cô Minh nữa.
Tôi rất tiếc khi không thể đi thực tế ngày 28/5/2016
ở Đồng Tháp do phải thi giữa kỳ. Qua đợt tập huấn
và chuyến đi thực tế này tôi học được rất nhiều bài
học quý giá từ cô Minh, cô Hằng, cô Hồng và các
anh chị trong nhóm MDY. Điều đó giúp tôi có nhiều
kinh nghiệm hơn, dạn dĩ hơn trong giao tiếp và quen
được rất nhiều bạn, anh chị mới. Tôi rất cảm ơn
nhóm MDY, các cô đã cho tôi có nhiều bài học và
trải nghiệm quý giá này.
BÀI 9: BÀI THU HOẠCH THỰC ĐỊA
ĐỒNG THÁP - SÓC TRĂNG
Huỳnh Thanh Thiên – Đại học Cần Thơ
Nhóm Thanh niên Đồng Bằng Sông Cửu Long hay
còn gọi là MDY (Mekong Delta Youth) có khóa tập
huấn về kỹ năng nghiên cứu và thu thập số liệu thực
địa, được diễn ra từ ngày 25-29/05/2016. Gồm có 3
ngày tập huấn về kiến thức các lĩnh vực có liên quan
và 2 ngày cho các thành viên tham gia nhóm đi khảo
sát thực tế ở 2 tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long đó
là Đồng Tháp và Sóc Trăng. Trong chuyến đi thực
tế 28 – 29/05 vừa qua của nhóm MDY đoàn chúng
tôi gồm có 18 thành viên với sự dẫn dất của các thầy
cô và ban tổ chức. Tuy trải qua khoảng thời gian
không quá dài nhưng nó đã đem lại rất nhiều đều
hay, về kỹ năng thực tế, quan sát, đánh giá, phỏng
vấn, thu thập số liệu,…
Chuyến thực tế của chúng tôi đích đến đầu tiên là
Đồng Tháp, đến nơi chúng tôi được đoàn giới thiệu
nhà bác Tám và tham quan đồng sen nhà bác, tại đây
mỗi tiểu nhóm sẽ hoạt động trên lĩnh vực riêng của
mình. Riêng nhóm nhỏ của chúng tôi gồm 7 thành
viên nghiên cứu về đa dạng sinh học thực vật và
thuốc nam:
Chúng tôi đã tìm hiểu được: là các bộ phận của sen
đều có thể dùng làm thuốc như: lá sen dùng để an
thần, cầm máu. Hạt sen khô dùng điều trị bệnh lỵ
mãn tính. Ngó sen và củ sen tác dụng dinh dưỡng,
dùng tươi cầm máu,…
Hình 13. Chuẩn bị vào rừng
CHUYỆN THANH NIÊN
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 9
Tìm hiểu về hiện trạng canh tác: ở đây có rất nhiều
loại mô hình canh tác như: canh tác lúa 3 vụ, canh
tác Thâm canh sen, canh tác sen + du lịch, canh tác
sen + cá, và canh tác sen + lúa. Riêng nhà của bác
Tám thì dùng mô hình sen cá, bác cho biết thêm là
mô hình này rất đạt hiệu quả vì cá được mùa nước
lũ đưa về sống tự nhiên theo mương đào sẵn quanh
ruộng sen, ít tốn chi phí nhưng có thu nhập.
Còn về sen thì: sen được trồng bằng ngó sen một lần
duy nhất và sen phát triển liên tục. Cứ mỗi năm sen
được trục phát ngang thân 2 lần. Lần đầu vào tháng
11 và lần sau là tháng 4. Sau khi trục 3 tháng thì có
thể thu hoạch sen dần dần, thời gian thu hoạch sen
có thể lên đến 3 tháng, lần lượt từ 2 -3 ngày thu
hoạch sen một lên. Bác còn cho biết thêm về khó
khăn của người trồng sen nơi đây là giá cả đầu ra,
và tiền nhân công thu hái, và một số thuận lợi và khó
khăn khác.
Về quản lí nguồn nước: trong đê hệ thống canh tác
phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống trạm bơm. Còn
ngoài đê thì vào mùa lũ, nước lũ tràn vào các cánh
đồng tạo nên một vùng mênh mông nước là điều
kiện tốt cho các hộ kinh doanh du lịch kết hợp sen.
Riêng về đa dạng sinh thái thì nhóm lặp danh sách
các cây thấy được nơi này.
Ngày thực tế tiếp theo của đoàn chúng tôi, xuất phát
từ Cần Thơ đến vùng đất cù lao Dung của tỉnh Sóc
Trăng. Đến An Thạnh 2 của cù lao Dung đoàn chúng
tôi di chuyển trên tàu ra ngoài biển nơi có rừng
phòng hộ.
Trong chuyến đi này nhóm được dẫn dất bở cô Hằng
và cô Minh. Trong đó cô Hằng chuyên môn về đa
dạng sinh học và là người có rất nhiều kinh nghiệm
thu thập số liệu thực địa, không như lần trước khi
đến nơi đoàn được làm việc cùng nhau không phân
lĩnh vực nghiên cứu như hôm trước, vì trong đoàn
có rất ít bạn biết về thu thập số liệu. Khi tàu đến nơi
rừng phòng hộ đoàn chúng tôi lội bộ vào rừng,
đường đi thì khó khăn, muỗi, sìn,… nhưng nhờ các
bạn trong nhóm giúp đỡ lẫn nhau nên cũng dễ dàng
đến nơi thực tập thu mẫu, khi đã đến nơi chúng tôi
mang dụng cụ đã chuẩn bị trước ra và bắt đầu thực
tập.
Các nhóm được cô Hằng và các bạn đã từng đi thu
mẫu hướng dẫn về: chia ô, đếm cây, tính độ che phủ,
tính độ đa dạng, đo chiều cao cây, đường kính ngang
ngực,…
Do khó khăn trong việc đi đến nơi nên đoàn chúng
tôi mất khá nhiều thời gian, nên các nhóm trong
đoàn bỏ qua các thông tin về cù lao Dung như: Hiện
trạng canh tác, rừng ngập mặn, đe bao ven sông,
biển,…
Qua chuyến đi này đã cho chúng tôi nhiều bài học
kinh nghiệm, kỹ năng mới, những bạn bè thân thiết
mới,…Làm cho mỗi chúng tôi thêm yêu thương con
người, yêu thiên nhiên hơn.
BÀI 10: TÔI THỬ THÁCH BẢN
THÂN MÌNH
Mai PhúcThịnh – Đại học Cần Thơ
Trong tháng 5 này, tôi có dịp được tập huấn kỹ
năng nghiên cứu và thu thập dữ liệu thực địa với
nhóm MDY. Tôi nộp đơn tham gia vì để thỏa niềm
đam mê xê dịch và khám phá của bản thân, đồng
thời cũng thực tế hóa những kiến thức sinh thái môi
trường mà tôi đã đượ chọc. Sau gần một tuần được
nghe những bài báo cáo và đi thực địa, chương trình
mang đến cho tôi nhiều bất ngờ và tôi cũng đã có
dịp tự thử thách bản thân.
Thực sự lúc đầu nộp đơn xin tham gia, tôi không có
nhiều thông tin về nhóm MDY và cũng không biết
cụ thể những hoạt động sẽ diễn ra trong chương
trình. Nhưng khi nhận được mail được chọn tham
gia và lịch làm việc thì tôi vô cùng hứng thú. Sau 3
ngày tập huấn trên lớp, mọi sự hoài nghi về chương
Hình 14. Chuẩn bị đi thu mẫu đa dạng sinh học
CHUYỆN THANH NIÊN
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 10
trình khi nộp đơn đều bay biến đi mất, mọi thứ đều
được chuẩn bị khá chỉnh chu, kỹ lưỡng từ khâu tổ
chức, đến các hoạt động, bài báo cáo và thậm chí là
những bữa ăn cho đoàn. Khi học ở trường, những
tiết dạy lý thuyết khô khan không đủ sinh động để
tôi có thể biết được làm thế nào thực hiện một đề tài
nghiên cứu từ việc lên kế hoạch, thu thập số liệu, xử
lý và viết báo cáo. Nhưng thông qua chương trình,
đặc biệt là các hoạt động làm việc nhóm, trình bày
ý tưởng, kế hoạch, không những giúp tôi được trang
bị nhiều kiến thức bổ ích mà còn cải thiện nhiều kỹ
năng tốt cho bản thân.Trong buổi hội chợ nghiên
cứu khoa học, tôi chọn làm đề tài về khảo sát nhu
cầu nước của sen do cô Hồng hướng dẫn. đây là thử
thách đầu tiên tôi tự đặt ra cho mình vì tôi chưa có
nhiều kinh nghiệm trong thu thập, phỏng vấn và xử
lý số liệu về môi trường. nhưng quan điểm của tôi,
mỗi chuyến đi là một bài học, nên tôi sẽ cố gắng trau
dồi nhiều điều mới mẻ qua những việc lần đầu tiên
làm.
Chuyến thực địa đầu tiên đưa đoàn chúng tôi đến
vùng đất đồng tháp, mà cụ thể là đất sen hồng Tháp
Mười. Mặc dù tôi đã có nhiều chuyến tham quan đến
Đồng Tháp trước đó, nhưng đây là lần đầu tiên tôi
có dịp tiếp cận thực tế và sâu sát các mô hình trồng
lúa và sen ở đây. Những cánh đồng sen bạt ngàn,
rực rỡ, ngào ngạt hương hoa, là những khung hình
tuyệt đẹp cho những tay nhiếp ảnh gia. Nhưng đối
lập với đó là hình ảnh những anh thanh niên vác
từng giở sen hang chục ký trên lưng dưới trời nắng
cháy, chân lội bùn hái từng gương, mặc gai sen cứa
từng đường ngang dọc. trồng sen đã khó, hái sen đã
cực, người nông dân lại chịu thêm cảnh giá cả bấp
bênh, phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái, thì thử
hỏi làm sao họ có thể giữ lửa để tiếp tục làm hồng
vùng đất này? Tôi chỉ hy vọng bằng một phần nhỏ
sức lực của mình qua đề tài nghiên cứu, có thể sẽ
cung cấp thêm một chút cơ sở khoa học về quá trình
canh tác sen cho người dân nơi đây.
Khác với ngày thực địa đầu tiên là chúng tôi chủ yếu
chỉ tham quan, thì thứ hai đến Cù Lao Dung thực sự
đúng nghĩa là “lăn xả”. Thuyền chông chênh đưa
chúng tôi men theo từng con rạch, con sông với
những rặng dừa nước, rặng bần xanh mướt. tôi thích
cảm giác đó, không khí đó vì nó làm tôi thấy mình
hòa với tự nhiên, thoải mái và quên đi các xô bồ nơi
phố thị. Nhưng một điều đáng buồn là đâu đó thấp
thoáng trong những mảng màu đẹp kia, là những
bọc nilông, chai nhựa, rác thải đang len lỏi vào. Tôi
không biết với tình trạng như thế thì liệu vài năm
nữa, vùng đất này có còn sạch không?
Trên đời này với nhiều người có nhiều nỗi sợ không
giống ai, và tôi cũng sợ một thứ hơi ngộ đó là bùn.
Thuyền cập vào một cánh rừng với nhiều bần và dừa
nước ven bờ, để đến nơi dự kiến, khoanh ô thu mẫu
thì chúng tôi buộc phải cởi dép lội bùn và đi vào
trong. Cảm giác bước xuống bùn làm tôi vô cùng
khó chịu, vưà nhớt, vừa dơ lại vừa có mùi. Để không
làm ảnh hưởng đến các bạn khác và không muốn lún
sâu hơn, tôi buộc mình phải tiếp tục bước và tiến về
phía trước. đi vào đến nơi thì hầu như tôi đã quên
cái cảm giác ghê ghê lúc đầu mà tập trung vào công
việc khoanh ô, chụp mẫu, thu mẫu. rõ rang nếu
không dám đối diện nỗi sợ của mình thì không thể
nào khắc phục được. Mặc dù công việc trong buổi
hôm đó chỉ là một phần nhỏ (mô phỏng) việc nghiên
cứu đa dạng sinh học, nhưng cũng đủ để phản ánh
những khó khăn, vất vả, cả sự kiên nhẫn, chịu
thương chịu khó của những người làm về môi
trường và sinh thái.
Trong thời gian tập huấn, tôi còn khá nhiều kế
hoạch, hoạt động diễn ra song song nên có nhiều lúc
mất tập trung vào công việc, tôi muốn xin lỗi
chương trình. Rất cảm ơn nhóm MDY đã cho tôi
một cơ hội tuyệt vời để tôi có dịp thử thách mình,
kiểm tra lại năng lực của mình và tiếp cận đến các
vấn đề liên quan đến môi trường một cách vô cùng
thực tế.
CHUYỆN THANH NIÊN
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 11
BÀI 11: TRẢI LÒNG
Trần Anh Thư – Đại học Cần Thơ
Tuổi trẻ là những chuyến đi và khám phá nhưng
không phải ai cũng có được may mắn có được cơ
hội này. Tôi rất cám ơn MDY đã tạo điều kiện cho
tôi được tham gia buổi hội thảo và có những chuyến
đi thực tế để hiểu thêm về cuộc sống của người dân
đồng bằng Sông Cửu Long. Tôi vẫn thường ấp ủ
thực hiện dự án để đóng góp cho sự phát triển của
cộng đồng nơi mình sinh sống, đặc biệt là về lĩnh
vực môi trường. Tuy nhiên, thật sự qua chuyến đi
này tôi mới thấy mình được mở rộng thêm nhiều
kiến thức; thấu hiểu cuộc sống của người dân địa
phương, sự quý giá của nước ngọt ở vùng nước mặn
Sóc Trăng; sự cực khổ của nông dân ở vùng trồng
sen Đồng Tháp.
Những chuyến đi kết nối chúng tôi với nhau – những
con người thanh niên trẻ với cùng khao khát đóng
góp cho sự bền vững của môi trường – những người
thầy tận tâm hướng dẫn sinh viên và những người
dân sẵn sang tiếp đón chúng tôi như thân bằng
quyến thuộc. Rất cám ơn MDY đã tạo điều kiện để
chúng tôi – những người trẻ có cơ hội nâng cao năng
lực bản thân để đóng góp sức mình vào việc bảo vệ
vùng đồng bằng Sông Cửu Long.
BÀI 12: BÀI THU HOẠCH CHUYẾN
ĐI ĐỒNG THÁP- SÓC TRĂNG
Lê Thị Yến Nhi – Đại học Cần Thơ
Trong chuyến đi thực tế ngày 28/05, 29/05 vừa qua
của nhóm MDY về Đồng Tháp- Sóc Trăng. Đoàn
gồm 18 thành viên với sự hướng dẫn của cô Phùng
Thị Hằng, cô Huỳnh Vương Thu Minh.Trải qua
khoảng thời gian không quá dài nhưng đã đem lại
rất nhiều điều bổ ích, kinh nghiệm thực tế, rất nhiều
niềm vui, là một kỷ niệm đẹp trong tôi.
Hành trình về Đồng Sen ở Tháp Mười vào ngày
28/05/2016, vùng đất Cù Lao Dung ở Sóc Trăng
ngày 29/05/2016. 5h30’ ngày 28/05, Tại Khoa Môi
Trường xe lăn bánh vượt gần 100km để đến Tháp
Mười, dùng bữa ăn sáng xong đến khoảng 9h được
lên tàu tiến vào Đồng Sen nơi đây. Tại đây, tôi được
tham quan đồng Sen nhà Bác 8 cũng như các cánh
đồng lân cận với các mô hình canh tác( sen+lúa,
sen+cá, sen+du lịch) được các bác tận tình chia sẽ
kinh nghiệm trồng trọt cũng như tình hình nguồn
nước đê bao làm cho tôi hiểu phần nào sự cực nhọc,
khó khắn nay càng khó khăn hơn khi mà điều kiện
tự nhiên khắc nghiệt ảnh hưởng mùa màng nơi đây.
Sau khi lấy thông tin xong, đoàn lên tàu di chuyển
về khu du lịch sinh thái, trước là để tham quan mô
hình Sen+ du lịch, sau là báo cáo kết quả cũng như
diễn biến trong ngày này. Chúng tôi đã có buổi tiệc
thân mật tại đây với các bác nông dân khu vực. Đến
khoảng 14h00, xe di chuyển về Cần Thơ.
Cũng như kế hoạch ban đầu, ngày 29/05 chúng tôi
tiếp tục hành trình vượt trên dưới 70km về vùng đất
Cù Lao Dung. Đến An Thạnh 2, Cù Lao Dung tôi
được di chuyển lên tàu tiến về bờ rừng phòng hộ.
Với sự hướng dẫn của các cô chúng tôi đã lấy mẫu,
chia ô để tìm hiểu về sự đa dạng thực vật nới đây.
Sau buổi nghiên cứu tại rừng, chúng tôi di chuyển
ra cửa biển tại nơi có bãi hào và được đánh bắt cùng
người dân địa phương.Cuối cùng thì chúng tôi trở
về bờ, ăn uống và di chuyển về Cần Thơ.
Qua chuyến đi, nó để lại cho tôi biết bao bài học
kinh nghiệm, những kiến thức mới, kỷ năng mới mà
tôi chưa từng được biết. Làm tôi thêm yêu thương
con người, thêm yêu thiên nhiên, hiểu thêm sự khó
nhọc vất vả của những ngư dân, nông dân. Là em út
của đoàn, tôi lun được mọi người thương yêu, giúp
đỡ. Tôi cảm thấy thật vui vì được tham gia chuyến
đi này, cảm ơn MDY, cảm ơn giáo viên hướng dẫn
đã truyền đạt cho tôi những điều hữu ích.
Hình 15. Cách di chuyển của người dân
CHUYỆN THANH NIÊN
Phần 2: NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 12
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 12
BÀI 1: CHUYỆN CỦA NƯỚC
Nước là một trong những yếu tố cần thiết cho mọi
hoạt động sống trên trái đất, đóng góp vai trò vô
cùng quan trọng cho cuộc sống của con người, sự
phát triển nền kinh tế -xã hội và cân bằng hệ sinh
thái tự nhiên. Theo Viện Quy Hoạch Thủy Lợi Miền
Nam (2012), Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội,
có tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp, đặc biệt
là sản xuất lương thực, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ
sản. Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên đất và
nước là vấn đề cốt lõi nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái ở
ĐBSCL. Bên canh đo, biến đổi khí hậu (BĐKH) dân
đên tình trạng nươc mặn xâm nhập sâu vào đất liền
đa anh hương đáng kể đên nguôn nươc tươi cho sản
xuất nông nghiêp và cho sinh hoạt ở các tỉnh trên
ĐBSCL. Cung cấp nước sạch cho sinh hoạt, xử lý ô
nhiễm từ các khu công nghiệp, từ các vùng chuyên
canh thuỷ sản, gìn giữ và bảo vệ môi trường là vấn
đề sống còn đối với phát triển bền vững ở ĐBSCL.
Ở các khu vực khác nhau, nguồn nước được sử dụng
và cách khai thác cũng thay đổi phù hợp với điều
kiện địa hình khác nhau.
NƯỚC NGẦM
Nước ngầm là một trong những nguồn tài nguyên
quan trọng đối với những địa phương vùng ven biển.
Do nguồn nước mặt bị ô nhiễm (bao gồm cả hiện
tượng nhiễm mặn) nên hầu hết người dân các tỉnh
ven biển ở ĐBSCL đều đang khai thác nguồn tài
nguyên nước ngầm nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng
nước trong gia đình cũng như cho một số hoạt động
sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Ví dụ, tại tỉnh
Sóc Trăng, do tình trạng thiếu nguồn nước ngọt vào
mùa khô (chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn) và
nước sông bị ô nhiễm nên một số hoạt động nông
nghiệp như: trồng màu tại Thị xã Vĩnh Châu, phụ
thuộc gần như hoàn toàn vào nguồn tài nguyên nước
ngầm.
Năm 2016, nhóm thanh niên đồng bằng (được thành
lập 2015 với sự tham gia của các bạn sinh viên trong
khu vực) đã tiến hành khảo sát việc sử dụng các
nguồn nước ở ĐBCSL. Theo Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Sóc Trăng, 2010. Thị xã Vĩnh Châu có
tổng cộng 12.257 công trình khai thác nước ngầm
phục vụ cho 18.295 hộ gia đình. Mật độ công trình
khai thác so với diện tích của Vĩnh Châu là 26 công
trình/km2 và so với số hộ dân là 0,67 công trình/hộ
cao hơn mức trung bình của tỉnh.
Vĩnh Châu là thị xã đồng bằng ven biển phía Nam
của tỉnh Sóc Trăng, là vùng đất trồng các loại cây
rau màu và cây ăn trái đã phát triển từ lâu đời như
hành, hẹ, tỏi, củ cải, khoai lang, nhãn, mãng cầu...
Nguồn nước ngọt được sử dụng (sinh hoạt, nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản và kinh doanh…) trong
vùng chủ yếu từ nước mưa và nước dưới đất. Do hầu
hết các kênh rạch tại đây đều bị nhiễm mặn thì nước
ngầm đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn, song
hiện tại người dân vẫn chưa nhận thức rõ tầm quan
trọng trong việc khai thác và sử dụng và bảo vệ nước
ngầm.
Hình 1: Nông dân sử dụng nước ngầm cho canh tác
hành. (http://lachongcorp.vn/wp-
content/uploads/2016/07/fd5xKH3Y.jpg)
NƯỚC MƯA
Trong nhiều tháng qua, tình hình khô hạn và xâm
nhập mặn tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
đang ở mức báo động. Hầu hết cửa sông, ven biển
nước mặn đều lấn sâu vào đất liền từ 40-60km, độ
mặn đo được từ 4-12g/lít và chỉ có khoảng 40-50%
số dân vùng nông thôn có nước sạch sinh hoạt. Bên
cạnh đó, ô nhiễm nguồn nước; hạn hán kéo dài; lũ
lụt… nên sự khan hiếm nguồn nước càng trầm
trọng, xảy ra hầu khắp các địa phương ở Đồng bằng
DƯƠNG MINH TRUYỀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 13
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 13
sông Cửu Long. Nguồn nước sinh hoạt nông thôn
đang được sử dụng tại Đồng bằng sông Cửu Long
gồm nước mưa, nước mặt và nước ngầm. Riêng
nước mưa được sử dụng hầu hết ở các vùng nông
thôn, phổ biến nhất là các vùng ven biển do nước
mặt và nước ngầm bị nhiễm mặn, nhiễm phèn. Các
vùng khác tuy nguồn nước mặt dồi dào vào mùa
mưa song lại thiếu hụt lớn vào mùa khô.
Với mục đích sinh hoạt thì tỷ lệ người dân sử dụng
nước mưa thấp hơn các loại nguồn nước khác. Tại
Đồng Tháp, theo kết quả khảo sát của nhóm thanh
niên đồng bằng, cho thấy có 18.5% người dân sử
dụng nước mưa vào mùa khô và 25% sử dụng nguồn
nước này vào mùa khô. Người dân tại đây đều ưu
tiên sử dụng nước mưa cho ăn uống vì chất lượng
của nước mưa rất tốt. Và người dân có xu hướng trữ
nước mưa vào mùa mưa để sử dụng vào màu khô,
nên tỷ lệ sử dụng nước mưa cho ăn uống vào mùa
khô cao hơn mùa mưa.
Nước mưa chứa ít các loại muối khoáng hòa tan, ít
sắt, làm cho nước không có mùi tanh, nước mưa
chứa ít các thành phần kim loại nặng nên rất có lợi
cho sức khỏe con người. Tuy nhiên với bản chất rơi
từ độ cao xuống nước mưa sẽ hòa tan và tiếp xúc
với các tạp chất trong không khí làm cho nước chứa
nhiều bụi, vi khuẩn, tạp chất hóa học vô cơ hữu cơ.
Hình 2: Người dân sử dụng nước mưa để ăn uống.
(http://www.voh.com.vn/Data/News/200910/canGi
o161009.jpg)
NƯỚC SÔNG
Hệ thống nước mặt Việt Nam có hơn 2.360 con
sông, suối dài hơn 10km và hàng nghìn hồ, ao.
Nguồn nước này là nơi cư trú và nguồn sống của các
loài động, thực vật và hàng triệu người. Tuy nhiên,
những nguồn nước này đang bị suy thoái và phá hủy
nghiêm trọng do khai thác quá mức và bị ô nhiễm
với mức độ khác nhau. Thậm chí nhiều con sông,
đoạn sông, ao, hồ đang “chết”.
Hệ thống sông ở Đồng bằng sông Cửu Long nước
thải nông nghiệp lớn nhất nước (70% lượng phân
bón được cây và đất hấp thụ, 30% đi vào môi trường
nước). Vì vậy chất lượng nước sông Tiền và sông
Hậu đã có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ (mức độ ô nhiễm
sông Tiền cao hơn sông Hậu). Tuy nhiên, nước sông
cũng là một trong những nguồn nước sinh hoạt
chính của người dân địa phương ở các tỉnh ĐBSCL.
Tỷ lệ người dân sử dụng nước sông cho mục đích
sinh hoạt chiếm 15,2 % vào mùa khô và 14,1 % vào
mùa mưa. Tuy nhiên kết quả cho thấy tại Gò Công
thì số lượng người sử dụng nước sông chỉ chiếm
2,27% vào mùa mưa. Nguyên nhân là do người dân
không tin tưởng chất lượng nước sông, cho rằng
nước bị nhiễm mặn vào mùa khô. Còn tại Tháp
Mười, tỷ lệ sử dụng nước sông chỉ chiếm 29,17 %.
(Hình 3)
Hình 3: Sử dụng nước sông để tắm giặt
(http://imgs.vietnamnet.vn/Images/2012/07/27/17/
20120727173411_4.jpg)
Có 90,9% người dân đều cho rằng các kênh rạch tại
Đồng Tháp đều bị ô nhiễm. Trong đó, nguyên nhân
chính của sự ô nhiễm kênh rạch là do thuốc BVTV
từ các ruộng đồng, rác thải, nước thải sinh hoạt,
nước thải chăn nuôi chiếm, xác chết động vật và vịt
thả đồng.
DƯƠNG MINH TRUYỀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 14
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 14
Với nước sông thì tỷ lệ sử dụng cho ăn uống rất thấp.
Không có người nào được phỏng vấn có sử dụng
nước sông cho mục đích ăn uống trừ các hộ dân có
hoàn cảnh khó khăn ( nhà tạm).
Theo kết quả, có đến 95,65% người dân sử dụng
nước sông làm nguồn nước phục vụ cho sản xuất.
Lượng nước sử dụng cho sản xuất chủ yếu cho mục
đích nông nghiệp trồng lúa chiếm 90,21% trong đó
tất cả đều sử dụng nước sông làm nguồn chính.
Ngành chăn nuôi chiếm 6,52% lượng nước mục
đích sản xuất, trong đó nước sông chiếm 50% lượng
nước cung cấp.
GIẢI PHÁP ĐỀ RA
Theo Viện Biến đổi khí hậu Trường Đại học Cần
Thơ, hiện nguồn nước sử dụng trong sản xuất nông
nghiệp tại ĐBSCL chiếm 70%, nước dùng trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp chỉ chiếm hơn 20%
và gần 10% lượng nước còn lại được sử dụng cho
sinh hoạt của người dân. Thạc sĩ Bùi Thị Bích Liên,
Giảng Viên khoa Môi Trường, ĐH Cần Thơ cho
biết: “Hiện nay lượng nước ngọt được khai thác và
sử dụng chiếm 12%, trong đó có tới 11% là nước
ngầm được khai thác sử dụng. Tuy nhiên, một vài
nơi, nguồn nước ngầm ghi nhận có dấu hiệu nhiễm
thạch tín (Asen) trong địa chất. Ngoài ra, việc khai
thác nước ngầm quá mức sẽ gây sạc lún đất.”
Hình 4: Thạc sĩ Bùi Thị Bích Liên chia sẻ về hiện
trạng nước ở ĐBCSL.
Để quản lý nguồn nước ngầm, cần kiểm soát chặt
chẽ và thực hiện nghiêm túc việc cấp giấy phép khai
thác nước ngầm, tiến tới thu phí sử dụng nước, đặc
biệt là với ngành công nghiệp; có các quyết định cấp
vùng hoặc cấp tỉnh, thành phố cho việc sử dụng
nước ngầm cho nông nghiệp, chăn nuôi, công
nghiệp; cấm hoặc giảm khai thác nước ngầm nhỏ lẻ,
tập trung khai thác nước ngầm ở các nhà máy nước
quy mô nhỏ và vừa; bổ sung nước ngầm bằng nước
mưa; điều phối nước đến những vùng khan hiếm
nước để tạo sự cân bằng nước ở các địa phương
trong vùng. Thạc sĩ Bích Liên cho rằng: “Trước hết
cần nâng cao trình độ nhận thức của người dân địa
phương về nguồn nước sử dụng, thu thập số liệu về
các chỉ số thủy văn. Ngoài ra, theo dõi thường xuyên
sự thay đổi của các số liệu thu được để đưa ra cảnh
báo kịp thời cho người dân. Phục hồi, xây dựng các
công trình chứa nước dự trữ ở các địa phương”.
Theo báo cáo hiện trạng bảo vệ môi trường (BVMT)
lưu vực sông của Viện Công nghệ môi trường, Việt
Nam đã ban hành các văn bản pháp luật về công tác
BVMT nói chung và môi trường nước trên các lưu
vực sông nói riêng. Để thực hiện tốt công tác quản
lý BVMT nước lưu vực sông, các chuyên gia cho
rằng cần hoàn thiện, bổ sung văn bản pháp luật,
củng cố tổ chức quản lý, quy hoạch lưu vực sông.
DƯƠNG MINH TRUYỀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 15
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 15
BÀI 2: ĐIỀU TRA VÀ LẬP CƠ SỞ
DỮ LIỆU ĐA DẠNG CÂY LÀM
THUỐC Ở CHÙA VÀ VƯỜN
THUỐC NAM CỦA ĐỒNG THÁP –
SÓC TRĂNG.
TÓM TẮT
Việc sử dụng cây thuốc nam để chữa bệnh đã được
người Việt Nam chú trọng từ rất lâu, đặc biệt là ở
vùng nông thôn, vùng khó khăn. Việc thực hiện đề
tài “ĐIỀU TRA VÀ LẬP CƠ SỞ DỮ LIỆU ĐA
DẠNG CÂY LÀM THUỐC Ở CHÙA VÀ VƯỜN
THUỐC NAM CỦA ĐỒNG THÁP – SÓC
TRĂNG” nhằm mục đích điều tra, tạo cơ sở dữ liệu
để phục vụ công tác quản lý và bảo vệ cây thuốc
trong khu vực. Qua kết quả khảo sát được 130 loài
cây làm thuốc thuộc 49 họ khác nhau ở 2 tỉnh Đồng
Tháp và Sóc Trăng. Có 8 nhóm bệnh chính sử dụng
cây thuốc để chữa bệnh, trong đó nhóm cây chữa
các bệnh tiêu hóa có số lượng loài nhiều nhất là 72
loài (chiếm 32%), nhóm cây chữa các bệnh tim
mạch có số lượng loài ít nhất là 2 loài (chiếm
0,89%). Kết quả khảo sát có 8 loài cây làm thuốc
được đưa vào danh sách quý hiếm cần được bảo vệ,
với 6 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam và 4 loài nằm
trong Danh lục đỏ Việt Nam.
GIỚI THIỆU
Việt Nam có hệ thực vật rất phong phú và đa dạng.
Tổng số loài thực vật đã ghi nhận cho Việt Nam là
10.500 loài, ước đoán hệ thực vật Việt Nam có
khoảng 12.000 loài. Trong số này, nguồn tài nguyên
cây làm thuốc chiếm khoảng 30%. Kết quả điều tra
nguồn tài nguyên dược liệu ở Việt Nam giai đoạn
2001-2005 của Viện Dược liệu (2006) cho biết ở
Việt Nam có 3.948 loài thực vật bậc cao, bậc thấp
và nấm lớn được dùng làm thuốc. Trong đó nhóm
thực vật bậc cao có mạch có 3.870 loài. Những cây
thuốc có giá trị sử dụng cao, có khả năng khai thác
trong tự nhiên là những cây thuốc nằm trong danh
mục 185 cây thuốc và vị thuốc thiết yếu của Bộ Y
tế cũng như những cây thuốc đang được thị trường
dược liệu quan tâm gồm có 206 loài cây thuốc có
khả năng khai thác. Sóc Trăng và Đồng Tháp là hai
vùng có đặc điểm tự nhiên khác nhau.
Đồng Tháp là vùng đất ngập nước với hệ sinh thái
ngập nước đa dạng và phong phú. Sóc Trăng có
phần diện tích tiếp giáp biển, hệ sinh thái có cả nước
ngọt lẫn nước mặn. Hiện nay, việc sử dụng cây
thuốc để chữa bệnh đang được chú trọng trở lại, nhu
cầu sử dụng cây thuốc ngày càng nhiều, tuy nhiên
chủ yếu là tự phát. Việc sử dụng và trồng cây thuốc
cũng chưa được chú trọng quản lý, vấn đề hiện tại
là cần có một cơ sở dữ liệu về cây thuốc để phục vụ
cho việc quản lý loại và lượng cây thuốc ở từng khu
vực cũng như cách sử dụng cây thuốc cho từng loại
bệnh. Từ những vấn đề trên, đề tài “Đa dạng cây làm
thuốc ở các vườn thuốc nam của Đồng Tháp và Sóc
Trăng” là cần thiết thực hiện.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp điều tra phỏng vấn
Phỏng vấn người dân trong vùng và thầy thuốc về
những cây thuốc nam được sử dụng trong vùng cũng
như công dụng của từng loại ở hai tỉnh Đồng Tháp
và Sóc Trăng
Phương pháp thu mẫu
Mẫu vật được thu theo danh mục đã phỏng vấn và
theo sự chỉ dẫn của các thầy thuốc bản địa. Các mẫu
thu được có bộ phận dinh dưỡng và bộ phận sinh
sản; trường hợp mẫu thu được không đủ đặc điểm
phân loại (do không vào mùa hoa, trái) thì tiến hành
thu và thay thế mẫu trong các đợt thu mẫu tiếp theo.
Mẫu sau khi thu được xử lý và định danh tại phòng
thí nghiệm Bộ môn Sư phạm sinh học, đại học Cần
Thơ.
Phương pháp xác định tên khoa học
Xác định tên khoa học của cây thuốc sử dụng
phương pháp so sánh hình thái truyền thống kết
hợp với kinh nghiệm của các chuyên gia và một
số tài liệu chuyên ngành như: Cây cỏ Việt Nam
(Phạm Hoàng Hộ, 1999-2000); Từ điển cây
thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 2012); Những
cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi,
2005); Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt
Nam (Viện Dược liệu, 2006); Sách đỏ Việt
Nam, phần II- Thực vật (2007), Danh lục đỏ cây
thuốc Việt Nam (Nguyễn Tập,2007),
Iconographia Cormophytorum Sinicorum (ICS, 1972-1976).
Phương pháp xử lý số liệu
ĐOÀN MINH SANG- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 16
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 16
Sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2013 để quản
lý và phân tích số liệu
KẾT QUẢ
Đa dạng về thành phần cây thuốc ở khu vực
nghiên cứu
Qua kết quả khảo sát cây thuốc ở hai tỉnh Đồng
Tháp và Sóc Trăng, thu được tổng cộng 130 loài
thuộc 49 họ khác nhau. Trong đó, Đồng Tháp khảo
sát được 52 loài thuộc 33 họ, Sóc Trăng Khảo sát
được 88 loài thuộc 35 họ. Sóc Trăng là khu vực có
điều kiện tự nhiên đa dạng, bao gồm hệ sinh thái
nước mặn và nước ngọt, tạo điều kiện cho sự phát
triển đa dạng các loài cây thuốc. Thêm vào đó, Sóc
Trăng nền văn hóa đa dạng về dân tộc, nhiều chùa
chiềng, đây cũng là một trong những nguyên nhân
làm tăng sự đa dạng cây làm thuốc trong khu vực.
Do điều kiện tự nhiên và mức độ đa dạng văn hóa
khác nhau giữa Đồng Tháp và Sóc Trăng, thành
phần cây làm thuốc ở hai khu vực có sự khác biệt
lớn. Có 42 loài cây làm thuốc chỉ xuất hiện ở Đồng
Tháp và 78 loài cây làm thuốc chỉ xuất hiện ở Sóc
Trăng.Có 10 loài có mặt ở cả hai khu vực nghiên
cứu, đây là những loài thân thuộc, dễ trồng và được
người dân sử dụng nhiều, cụ thể là: Dâu tầm, thuốc
dòi, từ bi, mật gấu, kim vàng, màng màng, chỉ thiên,
ngũ trảo, sục sạc, dành dành.
Bảng 1. Đa dạng cây làm thuốc ở khu vực nghiên
cứu
Trong đó, 9 họ có số lượng loài nhiều nhất là
Euphorbiaceae 15 loài (chiếm 11,54%), Fabaceae
13 loài (chiếm 10%), Asteraceae 10 loài chiếm
(7,69%), Verbenaceae 7 loài (chiếm 5,38%),
Rubiaceae 6 loài (chiếm 4,61%), còn lại các họ
Apocynaceae, Araceae, Malvaceae, Moraceae có 5
loài (chiếm 3,85%).
Hình 1. Biểu đồ thể hiện thành phần loài cây làm
thuốc của các họ trong vùng khảo sát
Đa dạng về công dụng của cây thuốc ở khu vực
nghiên cứu
Qua khảo sát, phỏng vấn người dân, thầy thuốc
trong khu vực nghiên cứu, ta có 8 nhóm bệnh phổ
biến và số các loại cây thuốc được trồng nhằm trị
các nhóm bệnh ấy được thể hiện qua bảng 2:
Bảng 2. Đa dạng về giá trị sử dụng của các cây
thuốc ở khu vực nghiên cứu
Kết quả điều tra cho thấy nhóm cây chữa các bệnh
tiêu hóa là nhiều nhất với 72 loài (chiếm 32%), ít
nhất là nhóm cây chữa các bệnh tim mạch có 2 loài
(chiếm 0,89%). Nhóm cây chữa các bệnh xương
khớp có 44 loài (chiếm 19,57%), nhóm cây chữa các
bệnh tiết niệu có 32 loài (chiếm 14,22%), nhóm cây
chữa các bệnh hô hấp có 26 loài (chiếm 11,55%),
nhóm cây chữa các bệnh nội tiết có 19 loài (chiếm
8,44%), nhóm cây chữa các bệnh thần kinh có 16
loài (chiếm 7,11%), nhóm cây chữa các bệnh gan
mật có 14 loài (chiếm 6,22%)
Nguyên nhân số cây làm thuốc khảo sát được chỉ có
130 loài nhưng số tổng số cây có khả năng chữa trị
các nhóm bệnh trên lớn hơn là do đối với mỗi cây
thuốc có thể có nhiều công dụng và có thể chữa được
nhiều nhóm bệnh khác nhau.
Một số loài thuốc cần dược bảo vệ ở khu vực
nghiên cứu
Qua việc điều tra cây làm thuốc ở khu vực nghiên
cứu và so sánh với các danh mục các loài thực vật
trong Sách đỏ Việt Nam phần II- thực vật (2007),
danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam của Nguyễn Tập
(2007) có 8 loài cây làm thuốc quý hiếm , được thể
hiện qua Bảng 3
Qua bảng 3 cho thấy ở Sóc Trăng có số loài cây làm
thuốc quý hiếm (6 loài) lớn hơn so với ở Đồng Tháp
(2 loài). Ở cả hai khu vực nghiên cứu có 6 loài được
đưa vào sách đỏ Việt Nam với 4 loài rất nguy cấp
là bí kì nam (Hydnophytum Formicarum), đỗ trọng
nam (Euonymus Chinensis), hoàng bá (Mahonia
Nepalensis), thủy xương bồ (Acorus
Khu vực Loài Họ
Đồng Tháp 52 33
Sóc Trăng 88 35
Stt Nhóm bệnh
Đồng Tháp Sóc Trăng Tổng
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
1 Thần kinh 5 5,15 11 8,6 16 7,11
2 Tim mạch 0 0 2 1,56 2 0,89
3 Hô hấp 17 17,53 9 7,03 26 11,55
4 Tiêu hóa 26 26,8 46 35,93 72 32
5 Gan mật 5 5,15 9 7,03 14 6,22
6 Tiết niệu 14 14,43 18 14,06 32 14,22
7 Nội tiết 7 7,22 12 9,37 19 8,44
8 Xương khớp 23 23,71 21 16,42 44 19,57
11.54%10%
7.69%
5.38%
4.61%
3.85%3.85%3.85%
3.85%
45.38Euphorbiaceae.FabaceaeAsteraceaeVerbenaceaeRubiaceaeApocynaceaeAraceaeMalvaceaeMoraceaeHọ Khác
ĐOÀN MINH SANG- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 17
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 17
Macrospadiceus) và 2 loài sắp nguy cấp là lá khôi
(Ardisia Silvestris), hà thủ ô (Fallopia Multiflora).
Có 4 loài được đưa vào danh lục đỏ Việt Nam là cù
đèn (Croton Delpyi), lá khôi (Ardisia Silvestris),
hoàng đằng (Fibraurea recisa) và đỗ trọng nam
(Euonymus Chinensis). Đặc biệt, lá khôi (Ardisia
Silvestris), đỗ trọng nam (Euonymus Chinensis) là
2 loài có mặt trong cả sách đỏ Việt Nam và Danh
lục đỏ cây thuốc Việt Nam cho thấy giá trị và mức
độ nguy cấp của hai loài này rất cao,cần được sử
dụng và bảo vệ một cách hợp lý.
Bảng 3. Danh sách các loài cây làm thuốc quý
hiếm ở khu vực nghiên cứu
Công dụng của những cây làm thuốc cần được
bảo vệ
Croton Delpyi - Cù Đèn: Dùng chữa đau lưng, nhức
xương thấp, bốn mùa cảm mạo, đau bụng, đắp chữa
rắn rết cắn. Người ta dùng lá Cù đèn non phối hợp
với lá Đại bi, Dầu mè và Tầm gửi nấu nước tắm ghẻ.
Phối hợp với các loại thuốc khác để chữa bệnh về
gan.
Fibraurea recisa - Hoàng Đằng: Làm thuốc chữa đau
mắt, sốt rét, bệnh về gan, thuốc bổ đắng, chữa viêm
ruột, dạ dày, ỉa chảy ở người lớn và trẻ em
Ardisia Silvestris - Lá Khôi: Điều trị đau dạ dày,
viêm loét dạ dày, hành tá tràng, tác dụng trung hòa,
làm giảm tiết acid dịch vị, làm se vết loét , giúp liền
sẹo và vết thương, kích thích lên da non và làm lành
dạ dày, tá tràng nhanh chóng.
Fallopia Multiflora - Hà Thủ Ô: Vị thuốc dân gian
làm thuốc bổ, trị thần kinh suy nhược, các bệnh về
thần kinh, ích huyết khỏe gân cốt, sống lâu, làm đen
râu tóc. Đối với phụ nữ hà thủ ô được dùng chữa các
bệnh sau khi sinh các bệnh xích bạch đới.
Mahonia Nepalensis - Hoàng Bá: Thuốc bổ đắng,
giúp cho sự tiêu hóa, bệnh do khuẩn ở ruột. Dùng
rửa mặt, chữa giun, chữa mụn nhọt, vết thương.
Giúp thanh nhiệt, chữa bệnh về mắt, bệnh ngoài da,
trĩ hậu môn, xích bạch đới ở phụ nữ.
Euonymus Chinensis - Đỗ Trọng Nam: Tăng lưu
thông máu, hạ huyết áp, kháng viêm, tăng cường
chức năng vỏ tuyến thượng thận, chống co giật,
giảm đau, tăng miễn dịch cơ thể, lợi tiểu.
Acorus Macrospadiceus - Thủy Xương Bồ: Tác
dụng kích thích tiêu hóa, lợi tiểu, trị cảm cúm, viêm
phổi nhẹ, viêm khí quản, viêm thận, khó tiêu, trị
giun cho trẻ em.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát đã thu được 130 loài cây làm thuốc
thuộc 49 họ khác nhau
Có 9 họ có số lượng loài nhiều nhất, tổng số loài của
9 họ là 71, chiếm 54,6% tổng số loài. Cụ thể là:
Euphorbiaceae 15 loài (chiếm 11,54%), Fabaceae
13 loài (chiếm 10%), Asteraceae 10 loài chiếm
(7,69%), Verbenaceae 7 loài (chiếm 5,38%),
Rubiaceae 6 loài (chiếm 4,61%), còn lại các họ
Apocynaceae, Araceae, Malvaceae, Moraceae có 5
loài (chiếm 3,85%).
Ở khu vực nghiên cứu dùng cây làm thuốc để trị cho
8 nhóm bệnh khác nhau. Trong đó, nhiều nhất là
nhóm bệnh tiêu hóa có 72 loài (chiếm 32%), kế đến
là bệnh xương khớp có 44 loài (chiếm 19,57%), ít
nhất là bệnh tim mạch có 2 loài (chiếm 0,89%). Các
nhóm bệnh còn lại có từ 14- 26 loài (chiếm từ 6,22-
14,22%).
Có 8 loài được đưa vào nhóm quý hiếm cần được
bảo vệ, trong đó có 6 loài nằm trong Sách đỏ Việt
Nam, 4 loài nằm trong Danh lục đỏ Việt Nam. Hai
loài lá khôi (Ardisia SilvestrisPitard),đỗ trọng nam
(Euonymus ChinensisLindl) nằm trong cả Sách đỏ
Việt Nam và Danh lục đỏ Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Khoa học và Công nghệ, 2007. Sách đỏ Việt
Nam, phần Thực vật, Nxb. Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ, 611trang.
[2] Đỗ Tất Lợi, 2005. Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam, Nxb. Nội, 1274trang.
[3] Nguyễn Tập, 2007. Cẩm nang Cây thuốc cần bảo
vệ ở Việt Nam, Viện Dược liệu, 23 trang.
[4] Phạm Hoàng Hộ, 1999-2000. Cây cỏ Việt Nam.
Nxb. trẻ Tp Hồ Chí Minh, tập 1-3.
[5] South - Western Forestry College, Forestry.
Department of Yunnan province (1972-1976).
Iconographia Cormophytorum Sinicorum - ICS.
Science Publisher, Beijing, Tomus I-V.
Stt Tên Khoa Học Tên Địa
Phương ĐT ST
Cấp Qui Định
SĐVN DLĐCT
1 Acorus Macrospadiceus
Thủy Xương Bồ
X EN B1+2b,c
2 Ardisia Silvestris Lá Khôi X VU
A1a,c,d+2d.
VU
A1a,c,d+2d
3 Croton Delpyi Cù Đèn X VU A1c,d
4 Euonymus Chinensis
Đỗ Trọng Nam
X EN A1b,c,d. EN A1b,c,d.
5 Fallopia
Multiflora Hà Thủ Ô X VU A1c,d
6 Fibraurea recisa Hoàng Đằng X VU A1b,c,d
7 Hydnophytum
Formicarum Bí Kì Nam X
EN A1b,d,
B1+2b,e
8 Mahonia Nepalensis
Hoàng Bá X EN A1c,d
Trong đó:
SĐVN: Sách đỏ Việt Nam
DLĐCT: Danh lục đỏ
cây thuốc
VU - Sắp nguy cấp – Vulnerable
EN - Rất nguy cấp
ĐOÀN MINH SANG- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 18
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 18
BÀI 3: KHẢO SÁT NHU CẦU SỬ
DỤNG NƯỚC DƯỚI ĐẤT TRONG
CANH TÁC HÀNH TÍM TẠI THỊ
XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC
TRĂNG
TÓM LƯỢC
Nghiên cứu được thực hiện nhằm (1) Đánh giá
lượng NDĐ khai thác sử dụng trong canh tác hành
tím của hộ dân trên địa bàn nghiên cứu, (2) Đánh giá
công tác quản lý NDĐ tại địa phương và nhận định
của người dân về ảnh hưởng của việc khai thác, sử
dụng đến sự bền vững nguồn NDĐ, (3) Đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác
quản lý, cũng như trong quá trình sản xuất và sử
dụng hiệu quả, bền vững hơn nguồn tài nguyên
NDĐ. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng vấn
nông hộ kết hợpsử dụng các phần mềm nhằm hỗ trợ
mã hóa, xử lý các số liệu sơ cấp để tiến hành phân
tích, đánh giá các dữ liệu, các biểu bảng và biểu đồ.
Kết quả nghiên cứu cho thấykỹ thuật trồng hành tím
của người dân tại khu vực nghiên cứu chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm truyền thống của từng hộ gia đình,
chưa có sự tiếp cận được những tiến bộ về mặt kỹ
thuật trong quá trình canh tác, dẫn đến hầu hết các
hộ dân được phỏng vấnđã sử dụng lãng phí một
lượng lớn nước tưới trong mùa vụ so với việc áp
dụng kỹ thuật tưới phun mưa tự động. Đặc biệt vụ
hành mùa là vụ hành được người dân trồng nhiều
nhất trong năm rơi vào mùa khô, kết hợp với những
đợt nắng nóng kéo dài dẫn đến nhu cầu sử dụng
NDĐ để phục vụ cho việc tưới hành tím tăng lên rất
cao, việc khai thác NDĐ đồng loạt, ồ ạtkhông được
bổ cập như vậy đã gây ra áp lực lớn đối với nguồn
tài nguyên NDĐ. Trữ lượng khai thác tiềm năng
NDĐ tại thị xã Vĩnh Châu tổng cộng là
204.634m3/ngày. Đây là địa phương có số lượng
công trình khai thác nhiều nhất trong tỉnh Sóc
Trăng. Hiện trạng lượng khai thác của thị xã Vĩnh
Châu đã lên đến 317,4% so với trữ lượng an toàn.
Điều này có nghĩa Vĩnh Châu là một trong các địa
phương thiếu nước.Công tác quản lý NDĐ tại thị xã
Vĩnh Châu nhìn chung còn tồn tại nhiều hạn chế,
chưa mang lại hiệu quả cao. Sự liên kết các thành
phần xã hội khác nhau tham gia vào công tác quản
lý nguồn tài nguyên NDĐ chưa được thực hiện một
các tích cực và hiệu quả, dẫn đến cộng đồng người
dân địa phương chưa thực sự quan tâm để góp phần
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nguồn tài
nguyên có vai trò quan trọng này ở địa phương.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước là một trong những yếu tố cần thiết cho mọi
hoạt động sống trên trái đất, đóng góp vai trò vô
cùng quan trọng cho cuộc sống của con người, sự
phát triển nền kinh tế -xã hội và cân bằng hệ sinh
thái tự nhiên (An et al, 2014). Theo Viện Quy Hoạch
Thủy Lợi Miền Nam (2012), Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) có vị trí quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội, có tiềm năng lớn nhất để phát triển
nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, nuôi
trồng, đánh bắt thuỷ sản, phát triển vườn cây ăn trái
đem lại giá trị xuất khẩu lớn cho cả nước và mở rộng
giao lưu với khu vực và thế giới. ĐBSCL có đặc
điểm tự nhiên nổi bật ít có trên thế giới với gần một
nửa diện tích bị ngập lũ từ 3-4 tháng mỗi năm, là
hạn chế lớn đối với canh tác nông nghiệp, gây nhiều
khó khăn cho cuộc sống của dân cư. Khai thác và sử
dụng hợp lý tài nguyên đất và nước là vấn đề cốt lõi
nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế-xã hội và bảo
vệ môi trường sinh thái ở ĐBSCL. Khai thác và nuôi
trồng thuỷhải sản là nguồn lợi kinh tế lớn và quan
trọng của vùng ven biển. Những năm gần đây việc
phát triển nhanh chóng diện tích nuôi tôm tự phát,
không theo quy hoạch chung, thiếu các giải pháp kỹ
thuật đã gây nhiều thiệt hại cho lâm nghiệp, nông
nghiệp và ảnh hưởng xấu tới môi trường, không
những gây suy thoái môi trường ngay tại các khu
vực chuyển đổi mà còn làm tăng mức độ lan truyền
mặn sâu vào nội đồng. Nhiều khu vực sự lan truyền
ô nhiễm diễn ra không kiểm soát được. Việc sút
giảm diện tích và suy thoái chất lượng rừng ngập
mặn gây hậu quả nghiêm trọng, là một trong những
nguyên nhân chính của vấn đề xói lở bờ biển, cửa
sông, ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của thuỷ
hải sản ven biển. Cung cấp nước sạch cho sinh hoạt,
xử lý ô nhiễm từ các khu công nghiệp, từ các vùng
chuyên canh thuỷ sản, gìn giữ và bảo vệ môi trường
là vấn đề sống còn đối với phát triển bền vững ở
ĐBSCL. Bên canh đo, biến đổi khí hậu(BĐKH) lam
dâng mưc nươc biên dânđên tình trạng nươc mặn
xâm nhập sâu vào đất liền đa anh hương đáng kể đên
nguôn nươc tươi cho sản xuất nông nghiêp ở
ĐBSCL (Hồng Minh Hoàng et al, 2015).
Sóc Trăng là một tỉnh ven biển ở ĐBSCL, có lợi thế
về điều kiện thổ nhưỡng, nguồn nước mặt và khí hậu
để phát triển nền nông nghiệp đa dạng, với nhiều
hình thức canh tác khác khau. Lua la san phâm chu
lưc cua nông nghiêp Soc Trăng với san lương tăng
HUỲNH KHÁNH TOÀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 19
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 19
bình quân 5,26%/năm, đên năm 2012 san lương lua
cua tinh đat trên 2,2 triêu tân, tăng trên 285 ngàn tấn
so năm 2010. Bên cạnh đó, thuy san la ngành kinh
tê mui nhon cua tinh co thê phát triển nuôi trồng
thủy sản ở cả 03 vùng sinh thái nước ngọt, lợ và mặn
ở ven biển và nội địa. Năm 2012, diên tich nuôi
trông thuy san đat 64434 ha, trong đo diên tich nuôi
tôm nươc lơ la 37346 ha (co 21613 ha nuôi thâm
canh va ban thâm canh), đây la nganh kinh tê co tôc
đô phat triên nhanh cua tỉnh Soc Trăng, làm thay đổi
đơi sông vung nông thôn ven biên cua tinh. Ngoài
ra, Soc Trăng cung phat triên rât tôt các loại cây ăn
trái, rau màu như hành tím, củ cải, cây công nghiệp
ngắn ngày như mía cũng góp phần cải thiện thu nhập
cho người dân địa phương(Nguyễn Trần Khánh,
2015)
NDĐ là một trong những nguồn tài nguyên quan
trọng đối với những địa phương vùng ven biển. Do
nguồn nước mặt bị ô nhiễm (bao gồm cả hiện tượng
nhiễm mặn) nên hầu hết người dân các tỉnh ven biển
ở ĐBSCL đều đang khai thác nguồn tài nguyên
NDĐ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nước trong gia
đình cũng như cho một số hoạt động sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp. Tại Sóc Trăng, do tình trạng
thiếu nguồn nước ngọt vào mùa khô (chịu ảnh
hưởng của xâm nhập mặn) và nước sông bị ô nhiễm
nên một số hoạt động nông nghiệp (như: trồng màu
tại Thị xã Vĩnh Châu, trồng mía tại huyện Cù Lao
Dung) phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nguồn tài
nguyên NDĐ (Nguyễn Thị Kiều Diễm et al, 2015).
Vĩnh Châu là thị xã đồng bằng ven biển phía Nam
của tỉnh Sóc Trăng,là vùng đất trồng các loại cây rau
màu và cây ăn trái đã phát triển từ lâu đời như hành,
hẹ, tỏi, củ cải, khoai lang, nhãn, mãng cầu... Đây là
địa phương có diện tích lớn nhất tỉnh, có nhiều bí
quyết về bảo quản và chế biến các loại sản phẩm
này, đồng thời có truyền thống canh tác cây hành
tím lâu đời, với kỹ thuật trồng tương đối cao vì chu
kỳ canh tác hành tím ngắn nên có thể trồng nhiều vụ
trong năm trong điều kiện có hệ thống tưới tiêu chủ
động (Dương Vĩnh Hảo, 2012). Tuy nhiên, sản xuất
nông nghiệp lại gặp không ít khó khăn, thách thức
trong những năm gần đây do đất đai bị nhiễm mặn,
nhiễm phèn, không có nguồn nước ngọt tự chảy để
chủ động tưới cho cây trồng và tháu chua, rửa mặn
cải tạo đất. Nguồn nước ngọt được sử dụng (sinh
hoạt, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và kinh
doanh…) trong vùng chủ yếu từ nước mưa và nước
dưới đất (NDĐ). Do hầu hết các kênh rạch tại đây
đều bị nhiễm mặn thì NDĐ đóng vai trò ngày càng
quan trọng hơn (Nguyễn Thị Thanh Duyên el al,
2014), song hiện tại người dân vẫn chưa nhận thức
rõ tầm quan trọng trong việc khai thác và sử dụng
và bảo vệ NDĐ. Bên cạnh đó, những bất cập trong
công tác quản lý dẫn đến nguy cơ suy thoái, cạn kiệt
nguồn tài nguyên này. Vì vậy vấn đề được đặt ralà
làm sao để có thể đảm bảo đủ lượng nước ngọt phục
vụ cho nhu cầu tưới tiêu trong nông nghiệp đặc biệt
là trong canh tác cây hành tím về lâu về dài vào mùa
khô đang được bà con nông dân và chính quyền địa
phương đặc biệt quan tâm.
Từ những vấn đề nêu trên việc thực hiện đề tài
“Khảo sát nhu cầu sử dụng nước dưới đất trong canh
tác hành tím tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng”
là thật sự cần thiết nhằm khảo sát hiện trạng nhu cầu
sử dụng nước trong canh tác hành tím, từ đó đề xuất
một số giải quản lý, sử dụng hiệu quả và bền vững
hơn nguồn tài nguyên NDĐ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu của đề tài được thực hiện
theo Hình 1
Xử lý
số liệu
Thu thập số
liệu thứ cấp
Thu thập số
liệu sơ cấp
Số liệu về
hiện trạng
canh tác
hành tím
Số liệu về
trữ lượng,
hiện trạng
khai thác và
sử dụng
NDĐ
Phỏng vấn
nông hộ
Đánh giá
lượng
NDĐ khai
thác sử
dụng trong
canh tác
hành tím
của hộ dân
trên địa
bàn nghiên
cứu.
Đề xuất một số
giải pháp nhằm
nâng cao hiệu
quả trong công
tác quản lý,
cũng như trong
quá trình sản
xuất và sử dụng
hiệu quả, bền
vững hơn
nguồn tài
nguyên NDĐ.
Đánh giá công
tác quản lý
NDĐ tại địa
phương và
nhận định của
người dân về
ảnh hưởng của
việc khai thác,
sử dụng đến
sự bền vững
nguồn NDĐ.
Hình 1. Sơ đồ nghiên cứu
HUỲNH KHÁNH TOÀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 20
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 20
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN HIỆN TRẠNG CANH TÁC HÀNH TÍM
Hoạt động sản xuất nông nghiệp ở khu vực nghiên
cứu khá phong phú và đa dạng với nhiều loại cây
trồng khác nhau phân bố đều trong năm. Các loại
cây được trồngtại khu vực nghiên cứu như: hành
tím, củ cải, củ sắn, ớtvà các loại cây trồng ngắn ngày
khác.Nhưng trong số đó hành tím vẫn là cây trồng
chủ yếu của của vùng
Theo kết quả khảo sát 58 hộ dân cho thấy trong một
nămhành tímcó thể được trồng tối đa 3 vụ bao gồm:
vụ hành giống, vụ hành sớm và vụ hành mùa, tất cả
các hộ dân được phỏng vấn đều có trồng hành tím
trong vụ hành mùa, trong số đó có một số hộ trồng
thêm vụ hành sớm và vụ hành giống để tăng thêm
thu nhập và cung cấp giốngcho vụ hành mùa. Đây
cũng là lý do mà đề tài tập trung vào khảo sát nhu
cầu sử dụng NDĐ trong vụ hành mùa vì đây cũng là
vụ hành chính trong năm.
Lịch thời vụ:theo kết quả khảo sát cho thấy thời gian
xuống giống cho vụ hành mùa bắt đầu từ tháng 9
cho đến tháng 12 dương lịch, tỷ lệ xuống giống tập
trung nhiều nhất rơi vào tháng 11 với 30 hộ (Hình
2).
Hình 2: Thời điểm bắt đầu vụ hành mùa ở khu vực
nghiên cứu
Thời gian kết thúc vụ mùa trải dài từ tháng 12 cho
đến tháng 3 dương lịch nhưng chủ yếu là rơi vào
tháng 1 và tháng 2 (Hình 3)
Hình3: Thời điểm kết thúc vụ hành mùa tại khu
vực nghiên cứu
Đa phần người dân được phỏng vấn cho rằng lý do
mà họ chọn mô hình canh tác hành tímvì đó làtruyền
thống đã có từ lâu đời, đem lại thu nhập ổn định cho
cuộc sống gia đình và họ cũng không có dự định
muốn chuyển sang mô hình canh tác khác trong
tương lai. Bên cạnh đó do nhu cầu tiêu thụ hành
thương phẩm vào dịp tết nguyên đánlà rất lớn kết
hợp với hành bán được giáhơn so với vụ hành sớm
vì thế hầu hết người dân tại khu vực nghiên cứulựa
chọn vụ hành mùa làm vụ hành chủ lực trong
năm.Nhìn chung lịch thời vụ của vụ hành mùarơi
vào mùa khô dẫn đến nhu cầu sử dụng NDĐ để phục
vụ cho việc tưới hành tím tăng lên rất cao, việc khai
thác NDĐ đồng loạt và ồ ạtkhông được bổ cậpcó
nguy cơ sẽ gây thiếu hụt,đồng thời cũng gây áp lực
lớn đối với nguồn tài nguyên NDĐ.
Bảng 1: Số lượng và mật độ công trình khai thác
NDĐ theo từng địa phương
TT Tên huyện, thành
phố
Diện
tích (km2)
Công trình khai
thác
Số hộ sử dụng
NDĐ
Số lượng
Mật độ (giếng/km2)
Số lượng
Mật độ (giếng/hộ)
1 TP. Sóc Trăng 76,2 1.304 17 2.103 0,62
2 H. Kế Sách 353,0 10.70
0 30
12.995
0,82
3 H. Long Phú 263,7 11.21
5 43
14.185
0,79
4 H. Ngã Năm 242,2 5.994 25 5.994 1,00
5 H. Thạnh Trị 287,6 6.936 24 8.073 0,86
6 H. Mỹ Tú 368,2 4.952 13 15.73
3 0,31
7 H. Vĩnh Châu 473,4 12.25
7 26
18.29
5 0,67
8 H. Mỹ Xuyên 371,0 11.14
1 30
12.65
8 0,88
9 H. Cù Lao Dung 261,4 5.224 20 6.436 0,81
10 H. Châu Thành 236,3 4.695 20 10.90
6 0,43
11 H. Trần Đề 378,8 5.563 15 24.15
1 0,23
Tổng 3.311,8 79.98
1
131.5
29
Trung bình 24 0.61
HUỲNH KHÁNH TOÀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 21
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 21
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG NDĐ
TẠI THỊ XÃ VĨNH CHÂU
Số lượng và mật độ công trình khai thác
NDĐ
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc
Trăng, 2010. Thị xã Vĩnh Châu có tổng cộng 12.257
công trình khai thác NDĐ phục vụ cho 18.295 hộ
gia đình. Đây là địa phương có số lượng công trình
khai thác nhiều nhất trong tỉnh. Các công trình phân
bố không đồng đều. Số lượng công trình khai thác
phụ thuộc vào dân số cũng như mức độ phát triển
kinh tế xã hội, loại hình sản xuất và mức độ bao phủ
của các hệ thống cung cấp nước của địa phương.
Mật độ công trình khai thác so với diện tích của
Vĩnh Châu là 26 công trình/km2 và so với số hộ dân
là 0,67 công trình/hộ cao hơn mức trung bình của
tỉnh (Bảng 4.3 )
Hiện trạng khai thác NDĐ
Hiện trạng khai thác NDĐ ở Sóc Trăng là 244.850
m3/ngày, so với trữ lượng tiềm năng xấp xỉ 8,0%.
Riêng Vĩnh Châu, lượng khai thác là 39.390
m3/ngày, so với trữ lượng tiềm năng chiếm 19,2%
(Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng,
2010).
Bảng 2. Đánh giá hiện trạng khai thác NDĐ
Trong toàn tỉnh Sóc Trăng thì có TP. Sóc Trăng và
huyện Mỹ Xuyên đã vượt qua ngưỡng 20% trữ
lượng tiềm năng. Thị xã Vĩnh Châu và Trần Đề có
lượng khai thác cũng đạt xấp xỉ 20% trữ lượng khai
thác tiềm năng. Như vậy, nếu xét theo ngưỡng khai
thác bền vững là 20% trữ lượng khai thác tiềm năng
thì Vĩnh Châu, TP. Sóc Trăng, Mỹ Xuyên và Trần
Đề cần hạn chế khai thác hoặc có biện pháp khai
thác hợp lý. Các địa phương còn lại tỷ lệ thấp hơn
10% trữ lượng khai thác tiềm năng (Bảng 2)
Hiện trạng lượng khai thác của Vĩnh Châu lên đến
317,4% so với trữ lượng an toàn. Điều này có nghĩa
Vĩnh Châu là một trong các địa phương thiếu nước.
Ngoại trừ huyện Kế Sách, Long Phú, Châu Thành
và Thạnh Trị thì các huyện còn lại đều ở tình trạng
thiếu nước.
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ
CÁCH THỨC TƯỚI NƯỚC CỦA NGƯỜI DÂN
TRONG CANH TÁC HÀNH TÍM TẠI KHU
VỰC NGHIÊN CỨU
Hiện trạng khai thác, sử dụng NDĐ trong
canh tác hành tím
Nguồn nước chính được sử dụng để tưới cho canh
tác nông nghiệp tại thị xã Vĩnh Châu là nguồn NDĐ.
Qua kết quả phỏng vấn cho thấy có đến 98% biết
được độ sâu giếng khoan mà họ đang sử dụng,độ sâu
giếng khoan mà hộ dân đang sử dụng thuộc vào các
tầng Pleistocen giữa- trên ( qp2-3) và Pleistocen
dưới (qp1), dao động từ 55-185m, đa phần các hộ
dân đang khai thác ở độ sâu từ 101-145m (chiếm
60%), có khoảng 31% hộ dân đang khai thác ở độ
sâu từ 55-100m, còn lại là khai thác ở độ sâu từ 146-
185m (chiếm 7%) (Hình 4).
Hình 4: Độ sâu giếng khoan khai thác
Với độ sâu khai thác trên, có khoảng77% trong tổng
số hộ được phỏng vấn có đủ nước sử dụng để tưới
cho hành tím trong mùa khô và có tới 23%bị thiếu
nước sử dụng,trong đó có một vài hộsử dụng thêm
TT Huyện, thị,
thành phố
Hiện
trạng
khai
thác
Trữ lượng
(m3/ngày)
Đánh giá
theo tiềm
năng
Đánh giá
theo trữ
lượng an
toàn
Tiềm
năng An toàn
Tỉ lệ
(%)
Tiềm
năng
Tỉ lệ
(%)
Tiềm
năng
1 TP.Sóc trăng 31.145 78.405 6.646 39,7 Thừa
nước 468,6
Thiếu
nước
2 Kế Sách 23.442 627.529 38.852 3,7 Thừa
nước 60,3
Thừa
nước
3 Long Phú 22.344 441.667 23.774 5,1 Thừa
nước 94,0
Thừa
nước
4 Ngã Năm 22.868 230.166 22.847 9,9 Thừa
nước 100,1
Thiếu
nước
5 Thạnh Trị 16.666 492.163 30.750 3,4 Thừa
nước 54,2
Thừa
nước
6 Mỹ Tú 12.243 160.495 10.189 7,6 Thừa
nước 120,2
Thiếu
nước
7 Vĩnh Châu 39.390 204.634 12.410 19,2 Thừa
nước 317,4
Thiếu
nước
8 Mỹ Xuyên 31.298 138.409 9.454 22,6 Thừa
nước 331,1
Thiếu
nước
9 Cù Lao Dung
11.417 249.022 10.355 4,6 Thừa nước
110,3 Thiếu nước
10 Châu Thành 8.710 286.495 16.267 3,0 Thừa
nước 53,5
Thừa
nước
11 Trần Đề 25.328 143.392 5.522 17,7 Thừa nước
458,7 Thiếu nước
Tổng cộng 244.850 3.052.3
78 187.065
Trung bình 8,0 130,9
HUỲNH KHÁNH TOÀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 22
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 22
nguồn nước mưa dự trữ từ các ao, đìa và đa phần
đều cho rằng không có nguồn nước nào khác để sử
dụng bổ sung.
Việc thiếu nguồn nước ngọt để sử dụng đã gây ra
ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và sản xuất của các hộ
dân, hầu hết người dân được phỏng vấn cho biết
phải sửdụng thêm các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ như:
sử dụng “ống tiêm” (Hình 4.10) hoặc “bơm hơi”ở
các giếng đểgiúp tăng khả năng hút nước, cải thiện
lực bơm nước từ giếng khoan lênthì mới có thể khai
thác được NDĐ. Tuy nhiên vì ống được cấu tạo từ
nhựa tổng hợp nên sau một thời gian sử dụng, khả
năng chịu áp lực từ dòng chảy của nước được bơm
lên giảm đi, ống có thể bị vỡ, làm cho các chất như
phèn, cát rò rỉvàobên trong ống làm ô nhiễm nguồn
nước. Bên cạnh đó, một số hộ còn cho biết dù đã có
sử dụng thêm các biện pháp về mặt kỹ thuật nhưng
trong một vài năm trở lại đây lại gặp phảitrường hợp
nước không bơm lên được hoặc bơm lên được
nhưng rất yếu.Dấu hiệu này cho thấy mực NDĐ
đang bị suy giảm và có với nguy cơ cạn kiệt.
Hình 5: Người dân sử dụng ống tiêm giúp tăng khả
năng hút nước
Cách thức tưới nước của người dân trong canh tác
hành tím
Kết quả khảo sát về phương pháp tưới cho thấy
có41% trong tổng số hộ được phỏng vấnbơm nước
trực tiếp từ giếng khoan để tưới cho hành tím và59%
còn lại phảibơm trữ nước vào bể nổirồi sau đó tiến
hành tưới cho hành tím (bơm chuyền) (Hình 4.11),
dẫn đến chi phí tưới tăng lên gấpđôi so với cách tưới
trực tiếp từ giếng khoan trên cùng một diện tích đất,
khi được hỏi tại sao lại phải sử dụng đến phương
pháp “bơm chuyền” đa phần người dân đều nhận
định rằng, do mực NDĐsụt giảm nên nước bơm từ
giếng khoan lên kháyếu và khókhăn hơn trước.
Hình 6: Người dân bơm nước trữ vào bể nổi có lót
nilon
Hầu hết người dân tại khu vực nghiên cứu sử dụng
mô tơ để bơm nước tướivàkỹ thuật tưới nước chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống của từng hộ
gia đình, trong đó có 43 hộ trên tổng số 58 hộ được
phỏng vấn dựa vào kinh nghiệm bản thân để biết
được lượng nước cần tưới cho hành tím là đủ trong
mỗi lần tưới, 12 hộ kiểm tra mức độ ướt của đất, chỉ
có 3 hộ dựa vào tổng thời gian tưới trên diện tích đất
trồng. (Hình 6)
Hình 7: Cách ước lượng lượng nước cần tưới là đủ
của người dân
Trong một vụ hành tím, người dânchia ra thành
nhiều giai đoạntưới nước khác nhau và phần lớn các
hộ dân chia ra3giai đoạn tưới chiếm đến68%, số hộ
dân chia ra 2 giai đoạn tưới chiếm26%. Một số hộ
dân chia ra 4 giai đoạn tưới chiếm 3% và cũng chỉ
có 3% số hộ dân chỉ tưới một giai đoạn trong suốt
mùa vụ (Bảng 3).
Người dân thường tưới nước 2 lần trong ngày, tưới
buổi sáng và buổi chiều và mỗi giai đoạn tưới có
thời gian tưới khác nhau. Thời gian tưới nước cho
cây hành tím tại khu vực nghiên cứu giao động từ
1.8h –3h/ngày và trung bình là 2.2h/ngày.
HUỲNH KHÁNH TOÀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 23
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 23
Đối với hộ dân chia làm 1giai đoạn tưới thì gian tưới
sáng và tưới chiều là giống nhau (1.5h – 1.5h) và
duy trì trong suốt vụ mùa.Tuy nhiên theo kinh
nghiệm trồng của những hộ dânchia ra 2, 3 và 4 giai
đoạn tưới đều nhận định rằngtrong mỗi giai đoạn
phát triển của cây hành tím đều cần một lượng nước
tưới khác nhau vàcây hành tím càng lớn thì càng cần
nhiều lượng nước tưới hơn, nhưng khoảng từ 10-15
ngày trước lúc thu hoạch thì cần phải giảm lượng
nước tưới lại chỉ tập trung tưới vào buổi sáng và
không tưới hoặc tưới rất ít vào buổi chiều để tránh
làm cho hành tím bị thối củ không bán được.
Bảng 3: Thời gian trung bình các giai đoạn tưới và
thời gian tưới nước cho cây hành tím tại khu vực
nghiên cứu tính trên diện tích 1000 m2
Người dân tại khu vực nghiên cứu sử dụng mô tơ
bơm nước SUPERWIN-1.5 HP (Hình 4.13)dùng để
bơm nước từ giếng khoan tưới cho hành tím, với
công suất bơm cực đại được nhà sản xuất niêm yết
trên thân máy là 10m3/giờ. Tuy nhiên, trong thực tế
với tình trạng hiện tại của mô tơ, các mô tơchỉ hoạt
động với hiệu suất tối đa là khoảng 80% nên lượng
nước tưới trung bình trong một giờ là khoảng 8
m3/giờ. Như vậy trong một ngày người dân trung
bình sử dụng một lượng nước tưới cho cây hành tím
là khoảng 17.6 m3/ngày/1000m2(2.2h x 8 m3/giờ),
và trong một mùa vụ 70 ngày, người dân tại khu vực
nghiên cứu sử dụng lượng nước trung bình là
khoảng 1232 m3/vụ/1000m2.
Hình 8: Mô tơ người dân sử dụng tại khu vực
nghiên cứu
Trong nghiên cứu của Lê Văn Dũ et al, 2015,sử
dụng kỹ thuật tưới phun mưa tự động và dùng mô
hình CropWat đểmô phỏng lượng nước tưới cho cây
hành tímtrong vụ hành mùa trên diện tích đất là
1000m2, theo kết quả mô phỏng đã qua hiệu chỉnh
cho thấy lượng nước tưới trung bình trong một vụ
mùa 70 ngàychỉ khoảng 483 m3/vụ/1000m2, thấp
hơn nhiều so với lượng nước tưới hiện tạimà người
dân đã sử dụng (1232 m3/vụ/1000m2) để tưới cho
cây hành tím. Mặt khác mô hình tưới phun mưa tự
động vẫn đảm bảo chonăng suất hành tím tương
đương nhưng manglại hiệu quả kinh tế cao hơn
ngoài ra còn rút ngắn được thời gian tướiso với cách
tưới hiện tại của người dân tại khu vực nghiên cứu.
Tuy nhiên do chi phí đầu tư ban đầu cho mô hình
tưới phun mưa tự độngtương đối cao cũng như việc
thiết kế, lắp đặt mô hìnhcòn phức tạpđòi hỏi người
dân phải có được sự hiểu biết nhất địnhtrong quá
trình vận hành nếu quản lý việc tưới từ mô hình tưới
phun mưa tự động không tốt sẽ ảnh hưởng đáng kể
đến sự phát triển và ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm của cây hành tím.
Hình 9: Người dân sử dụng mô tơ để tưới cho
hành tím (Nguồn: Cổng thông tin điện tử thị xã
Vĩnh Châu)
Cách
thức
tưới
%
Số
hộ
dân
Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Giai đoạn 4 TB/
Ngày Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều
1 3%
0-70 ngày
3h
1.5h 1.5h
2 26
%
0-42 ngày 43-70 ngày
1.8h
1.1h 0.8h 1.2h 0.4h
3 68
%
0-22 ngày 23-52 ngày 53-70 ngày
2h
1.4h 0.3h 1.5 h 1.3 h 1.4 h 0.2h
4 3%
0-11 ngày 11-31 ngày 32-48 ngày 49-70 ngày
2.1h
0.9h 0.4h 1.3h 1h 1.5h 1.5h 1.8h 0h
Tổng thời gian tưới trung bình/ngày 2.2h
HUỲNH KHÁNH TOÀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 24
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 24
Qua đó cho thấy rằng, việc áp dụng cách tưới nước
truyền thốngngười dân tại khu vực nghiên cứu đã sử
dụng lãng phí một lượng nước đáng kể cho việc
tướihành tím; thêm vào đó, thời gian canh tác vụ
hành mùa chủ yếu diễn ra vào mùa khô cộng với
việc sử dụng nguồn NDĐđồng loạt và lãng phí như
hiện nay thì khả năng dẫn thiếu hụt và cạn kiệt
nguồn tài nguyên NDĐ trong tương lai là khá cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] An, T.D., M. Tsujimura, V. Le Phu, A. Kawachi,
and D.T. Ha. 2014. Chemical Characteristics of
Surface Water and Groundwater in Coastal
Watershed, Mekong Delta, Vietnam. Procedia
Environ. Sci. 20: 712–721Available at
http://linkinghub.elsevier.com/retrieve/pii/S187802
9614000863.
[2] Đoàn Văn Cánh. 2014. Tài Nguyên Và Trữ
Lượng Nước Dưới Đất. 6: 1–15.
[3] Dương Vĩnh Hảo. 2012. Trồng Và Tiêu Thụ
Hành Tím Vĩnh Châu. (1): 1–8.
[4] Hồng Minh Hoàng, Văn Phạm Đăng Trí, and
Nguyên Hiếu Trung. 2015. So Sánh Lượng Nước
Và Số Lần Tưới Của Các Kỹ Thuật Tưới Nước Cho
Cây Lúa : Áp Dụng Mô Hình Hệ Thống STELLA.
Tạp chí Khoa học - Đại học Cần Thơ 40: 50–61.
[5] Huỳnh Vương Thu Minh, Trần Văn Tỷ, Lâm
Văn Thịnh, Trịnh Trung Trí Đăng, Nguyễn Thị
Thanh Duyên, and Lê Thị Yến Nhi. 2014. Hiện
Trạng Khai Thác, Sử Dụng Nước DƯới Đất Ở Vĩnh
Châu, Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học - Đại học Cần
Thơ 30: 48–58.
[6] IUCN. 2011. Groundwater In The Mekong
Delta. MeKong water dialogues: 1–12.
HUỲNH KHÁNH TOÀN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 25
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 25
BÀI 4: ĐÁNH GIÁ XU THẾ BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU VÙNG BÁN ĐẢO CÀ
MAU
TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một thách thức của
nhân loại, tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời
sống, môi trường của nhiều quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam mà nhất là các vùng thấp, ven
biển, dể bị tổn thương bởi các hiện tượng thời tiết
cực đoan mà đặc biệt là vùng Bán Đảo Cà Mau
(BĐCM). BĐCM là vùng có sự đa dạng về các hoạt
động nông nghiệp, giữ tiềm năng quan trọng trong
cơ cấu kinh tế đất nước, tuy nhiên các hoạt động
nông nghiệp này đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng
bởi sự tác động của BĐKH. Nghiên cứu nhằm đưa
ra được số liệu cụ thể về xu thế diễn biến của BĐKH
thông qua hai nhân tố chính là nhiệt độ và lượng
mưa bằng các phương pháp thống kê thủy văn.
Đồng thời, nghiên cứu cũng đánh giá mức độ nhận
thức của người dân vùng BĐCM về BĐKH và tác
động của BĐKH đến sinh kế người dân vùng
BĐCM thông qua phương pháp chọn ngẫu nhiên
phân tầng với số mẫu là 84 hộ dân đang sinh sống
trong vùng BĐCM. Kết quả của nghiên cứu cho
thấy trong khoảng 15 năm trở lại đây, nhiệt độ và
lượng mưa có nhiều biến động phức tạp, nhưng nhìn
chung thì nhiệt độ có xu hướng tăng, lượng mưa có
xu hướng giảm. Chính vì sự biến động thất thường,
khó dự báo, cùng sự xuất hiện của các hiện tượng
thời tiết cực đoan như hạn hán, xâm nhập mặn, mưa
lớn kéo dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh kế
người dân vùng BĐCM. Tuy nhiên, người dân vẫn
chưa có nhận thức cao về BĐKH cũng như những
biện pháp thích hợp để thích ứng. Qua đó, nghiên
cứu cũng đưa ra một số giải pháp nhằm giúp người
dân thích ứng với BĐKH hoặc giảm nhẹ những tác
động tiêu cực từ BĐKH.
GIỚI THIỆU
Bán Đảo Cà Mau ( BĐCM) bao gồm 6 tiểu vùng:
Tây sông Hậu, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Quản
lộ Phụng Hiệp, Nam Cà Mau và ven biển Bạc Liêu
– Vĩnh Châu. Diện tích khoảng 1.6 triệu ha, chiếm
42,7% diện tích Đồng Bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL). BĐCM có nhiều tiềm năng và điều kiện
để phát triển một nền sản xuất đa dạng với nhiều
hoạt động nông nghiệp khác nhau, giữ vai trò quan
trọng đối với an ninh lương thực quốc gia, thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, BĐCM có nhiều
bất lợi về điều kiện tự nhiên, chế độ thủy văn. Theo
Lê Anh Tuấn, vùng Bán đảo Cà Mau rất dễ bị ảnh
hưởng và chịu nhiều tổn thương bởi các hiện tượng
thời tiết cực đoan và nước biển dâng từ biến đổi khí
hậu. Với những diễn biến phức tạp của BĐKH như
hiện nay sẽ tác động nghiêm trọng đến nguồn tài
nguyên nước, làm giảm năng suất thủy hải sản, ảnh
hưởng đến sinh kế, đời sống người dân và nền kinh
tế - xã hội nước nhà.
Đề tài được thực hiện nhằm đánh giá xu thể thay đổi
nhiệt độ và lượng mưa trong khoảng 15 năm, đồng
thời đánh giá mức độ nhận thức của người dân về
BĐKH và đánh giá tác động của BĐKH đối với sinh
kế người dân vùng BĐCM.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài tiến hành thu thập số liệu về lượng mưa
ngày, số ngày mưa, lượng mưa cao nhất tại các trạm
quan trắc môi trường thuộc các tỉnh Cần Thơ, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau trong 15 năm
(2000 – 2015). Áp dụng các phương pháp xử lý
thống kê thủy văn, lặp biểu bảng và sơ đồ để chỉ ra
xu thế biến đổi của nhiệt độ và lượng mưa trong
khoảng 15 năm.
Đề tài tiến hành phỏng vấn 100 hộ thuộc ba vùng,
đại diện cho toàn vùng BĐCM bao gồm: huyện Cờ
Đỏ, Cần Thơ; huyện Cù Lao Dung, Sóc Trăng và
huyện Cái Nước,Cà Mau. Sau quá trình tổng hợp có
84/100 phiếu phỏng vấn đạt yêu cầu.Vùng phỏng
vấn là các vùng gần các sông lớn, ven biển, cửa biển,
dể bị tác động bởi nước biển dâng, xâm nhập mặn.
Đối tượng phỏng vấn của đề tài là những người có
độ tuổi từ 18 tuổi trở lên và có thời gian sống tại
vùng nhiều hơn 10 năm. Các hộ được phỏng vấn chủ
yếu là nông dân với nhiều hoạt động nông nghiệp đa
dạng và dể bị tác động bởi các hiện tượng thời tiết
cực đoan. Sau đó tiến hành thống kê số liệu sơ cấp,
thể hiện số liệu lên biểu bảng và sơ đồ để đánh giá
mức độ nhận thức của người dân về BĐKH, đồng
thời đánh giá mức độ tác động của BĐKH đến sinh
kế người dân vùng BĐCM.
Quá trình nghiên cứu được thực hiện như Hình 1.
NGUYỄN THỦY HÀ ANH- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 26
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 26
Hình 1. Tiến trình nghiên cứu
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
Đánh giá xu thế biến đổi của nhiệt độ và lượng
mưa trong 15 năm (2000 – 2015) của vùng Bán
đảo Cà Mau.
Từ Hình 2 cho thấy, Cần Thơ là nơi có lượng mưa
thấp nhất trong khu vực, ít xảy ra biến động như
tăng, giảm bất thường. Cà Mau là tỉnh giáp biển, có
lượng mưa khá lớn và ổn định hơn các tỉnh khác.
Riêng có Bạc Liêu, năm 2011 có lượng mưa tăng
cao bất thường, tổng lượng mưa đạt đến 3119 mm/
năm. Lượng mưa tại Sóc Trăng cũng có nhiều biến
động, cụ thể, tổng lượng mưa tăng giảm liên lục
trong khoảng từ 2003 – 2006, chênh lệch lượng mưa
giữa các năm khá lớn.Nhìn chung, trong 14 năm
(2000 – 2014), lượng mưa có xu hướng giảm. Năm
2000, tổng lượng mưa của vùng là 11207.5 mm đến
năm 2014 tổng lượng mưa đạt 9396.5 mm, giảm
1811 mm.
Để đánh giá xu thế biến động của nhiệt độ, đề tài đã
thu thập được số liệu nhiệt độ không khí tối cao,
nhiệt độ không khí tối thấp của tỉnh Bạc Liêu vào
năm 2012. Số liệu nhiệt độ trung bình tháng của tỉnh
Sóc Trăng trong giai đoạn từ 1998- 2012. Sau quá
trình thống kê, phân tích số liệu được kết quả như
sau:
Bảng 1 Nhiệt độ không khí tối thấp – tối cao của
Bạc Liêu năm 2012 Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Nhiệt
độ tối
thấp 23.6 24.3 25.1 25.5 25.5 25.9 24.9 25.7 24.3 24.9 24.8 24
Nhiệt
độ tối
cao
29.9 31 32.4 32.6 32.1 32.5 31.4 31.7 30.3 31.1 31.4 31.3
Trong năm 2012, nhiệt độ không khí tỉnh Bạc Liêu
có nhiều biến động, nhiệt độ tối thấp là 23.6 0C,
nhiệt độ tối cao là 32.6 0C. Trong từng tháng chênh
lệch nhiệt độ tối thấp và tối cao khoảng 6.6 0C, tháng
3 có mức chênh lệch nhiệt độ lớn nhất khoảng 7.3 0C. Nhìn chung cả nhiệt độ tối thấp và tối cao đều
có xu hướng tăng.
Kết quả thống kê số liệu nhiệt độ trung bình tháng
của tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn 15 năm (1998-
2012) được thể hiện qua Hình 3
Hình 3 Xu hướng biến động nhiệt độ tỉnh Sóc trăng
trong 15 năm (1998-2012)
Thứ
cấp
- Sở/Phòng TN &
MT
- Trung tâm khí
tượng thủy văn
Sơ
cấp
- Phỏng vấn hộ gia
đình
Thống
kê mô tả
Sử dụng các hàm
toán học Max,
Min, Trung bình;
vẽ biểu đồ thể
hiện
Mục tiêu
- Đánh giá xu thế biến đổi của
nhiệt độ và lượng mưa.
- Đánh giá mức độ nhận thức về
BĐKH, mức độ ảnh hưởng của
BĐKH đến sinh kế người dân
tại vùng.
Thu thập
số liệu
Xử lý số
liệu
Viết báo
cáo
1000
1200
1400
1600
1800
2000
2200
2400
2600
2800
3000
3200
3400
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
20
09
20
10
20
11
20
12
20
13
20
14
LƯ
ỢN
G M
ƯA
(M
M)
NĂM
Bạc Liêu Sóc trăngCà Mau Kiêng Giang
Hình 2. Xu thế biến động lượng mưa vùng BĐCM
giai đoạn 2000 - 2014
24.4
23.723.9
26
24.123.9
23.724
24.224.6
23.924.3
24.724.3
24.8
23
24
25
26
Nh
iệt
độ
tru
ng
bìn
h n
ăm
(o
C)
Thời gian (năm)
NGUYỄN THỦY HÀ ANH- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 27
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 27
Từ Hình 3, cho thấy nhiệt độ có sự tăng giảm bất
thường, nhiệt độ trung bình năm trong giai đoạn từ
2000 – 2002 có sự biến động manh nhất, từ 2000 –
2001 tăng 2.1 0C, từ 2001 – 2002 giảm 1.9 0C. Nhiệt
độ thấp nhất vào năm 2004 với 23.7 0C và tăng dần
đến 2007 đạt 24.6 0C. Nhìn chung, trong khoảng 15
năm, nhiệt độ không khí đang có xu hướng tăng dần,
cụ thể, từ năm 1998 – 2012 tăng 0.4 0C. Qua những kết quả trên cho thấy, với tình hình diễn
biến ngày càng phức tạp của biến đổi khí hậu, nhiệt
độ và lượng mưa vùng BĐCM đang có nhiều ảnh
hưởng. Cụ thể là lượng mưa đang có xu hướng giảm
dần, trong khoảng 14 năm (2000-2014) lượng mưa
giảm trung bình khoảng 129.36 mm/năm. Nhiệt độ
có xu hướng tăng khá mạnh, cụ thể tại Sóc Trăng
trong khoảng 15 năm từ 1998 – 2012 nhiệt độ không
khí trung bình tăng khoảng 0.4 oC. Đồng thời trong
từng thời điểm, từng khu vực, nhiệt độ và lượng
mưa có nhiều biến động bất thường, như lượng mưa
tăng khá cao, xuất hiện nhiều cơn mưa lớn kéo dài
hay nhiệt độ tăng cao sau đó lại đột ngột giảm mạnh
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất
và kinh tế xã hội của vùng.
Đánh giá mức độ nhận thức về BĐKH của người
dân vùng BĐCM và đánh giá mức độ ảnh hưởng
của BĐKH đến sinh kế người dân vùng BĐCM.
Trong tổng số hộ phỏng vấn có nguồn thu nhập
chính chủ yếu từ các hoạt động trồng mía, trồng lúa
và nuôi trồng thủy sản (nuôi tôm).Cụ thể hoạt động
trồng lúa chiếm 33.3%, trồng mía chiếm 38.1%. Các
hoạt động khác như là trồng cây ăn quả, bồn bồn,
buông bán nhỏ. Đây đều là những hoạt động kinh tế
chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các hiện tượng thời tiết
cực đoan mà nhất là xâm nhập mặn.
Hình 4. Thống kê nguồn thu nhập chính của các hộ
trong vùng phỏng vấn
Kết quả thống kê về mức độ tự nhân thức của người
dân về BĐKH:
Theo nhận thức của người dân khi được hỏi về
“Biến đổi khí hậu”, hơn 70% các hộ được phỏng vấn
cho biết đã từng nghe nói đến BĐKH, chủ yếu qua
Ti-vi, đài phát thanh, báo,.. Có 65.5% người dân cho
là bản thân hiểu một phần nào đó về BĐKH, 10.7 %
cho là hiểu khá nhiều. Về các vấn đề xã hội hiện
nay, vấn đề được nhiều người dân quan tâm nhất là
vấn đề môi trường. Từ đó cho thấy rằng, người dân
có nhận thức khá tốt về BĐKH và có sự quan tâm
đến các vấn đề môi trường
Kết quả thống kê những biểu hiện đã và đang diễn
ra của BĐKH từ nhận thức của người dân cho thấy
răng từ những kinh nghiệm thực tế trong nhiều năm
sinh sống và canh tác, người dân đã nhận thức được
nhiều sự thay đổi của thời tiết, lượng mưa, nhiệt độ,
.trong thời gian hiện nay so với nhiều năm trước.
Hơn 80% các hộ được phỏng vấn cho rằng lượng
mưa trong khoảng 10 năm trở lại đây ít hơn rất nhiều
so với những năm trước. 48.8% cho rằng tần suất
xuất hiện các cơn mưa lớn, kèm theo giông gió là
thường xuyên. Về nhiệt độ không khí, hầu hết các
hộ được phỏng vấn đều cho rằng nhiệt độ không khí
tăng lên nhiều so với nhiều năm trước, thời gian
nắng nóng kéo dài. Các hiện tượng thời tiết diễn
biến bất thường, mưa trái mùa, mùa mưa đến trể làm
ảnh hưởng đến sản xuất và canh tác của các hộ dân
vì không có biện pháp ứng phó hoặc phòng tránh kịp
thời.
Hình 5. Thống kê những tác động tiêu cực của
BĐKH ảnh hưởng đến người dân
Từ hình cho thấy, 55/84 hộ cho rằng mưa trái mùa,
mưa lớn kéo dài có sự tác động nhiều nhất, 44/84 hộ
biết hiện tượng năng nóng kéo dài, nhiệt độ tăng cao
làm xuất hiện hạn hán, làm thiếu nước cho hoạt
động nuôi tôm hay tưới tiêu cho cây trồng. 30/84 hộ
cho rằng xâm nhập mặn có tác động tiêu cực đến
sinh kế và đời sống của họ. Ngoài ra còn có những
tác động tiêu cực khác như xuất hiện nhiều dịch
bệnh, có hại cho cây trồng vật nuôi, và cho cả sức
khỏe con người do sự chuyển biến thất thường của
thời tiết, mưa nhiều gây động nước, tạo môi trường
cho các vi sinh vật gây hại phát triển, xâm nhập mặn
làm mía bị vàng lá, ủng rể cây. Chính từ những tác
động tiêu cực này, mà sinh kế cũng như đời sống
26.2 %
33.3%38.1%
2.4 %
Nuôi Tôm
Trồng Lúa
Trồng Mía
Khác
0 20 40 60
4455
148
301
282
Số hộ
Khác Xuất hiện nhiều dịch bệnhMưa ít hơn Xâm nhập mặnThiên tai xuất hiện thường xuyên hơn Nhiệt độ cao hơnMưa lớn kéo dài Hạn hán xuất hiện nhiều
NGUYỄN THỦY HÀ ANH- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 28
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 28
người dân bị ảnh hưởng khá nhiều. Kết quả thống
kê mức độ ảnh hưởng của BĐKH đến sinh kế người
dân
Hình 6. Mức độ ảnh hưởng của BĐKH đến sinh kế
người dân
Từ hình cho thấy, có 32.1% các hộ cho rằng mức độ
ảnh hưởng của BĐKH đến sinh kế gia đình là ảnh
hưởng rất lớn, 38.1% ảnh hưởng lớn,13.1% ảnh
hưởng trung bình, 6% ít ảnh hưởng và 10.7% cho
rằng không ảnh hưởng. Có thể giải thích rằng, các
hộ bị ảnh hưởng rất lớn hay ảnh hưởng lớn là do
hoạt động nông nghiệp của họ bị ảnh hưởng rất
nghiêm trọng, nơi họ sinh sống và canh tác bị tác
động của xâm nhập mặn nhiều hơn các nơi khác
hoặc ảnh hưởng từ các hiện tượng thời tiết cực đoan
nhiều hơn các nơi khác. Hầu hết các hộ bị ảnh hưởng
cho rằng, những tác động tiêu cực của BĐKH trực
tiếp làm giảm thu nhập của họ trong thời gian gần
đây, đặc biệt trong giai đoạn 2014 – 2015 là những
năm bị ảnh hưởng nhiều hơn cả vì xâm nhập mặn
diễn ra đột ngột và xâm nhập khá sâu. Đặc biệt là
vùng Cù Lao Dung thuộc tỉnh Sóc Trăng, hoạt động
nông nghiệp chính của vùng là trồng mía, bị tác
động rất mạnh bởi xâm nhập mặn, vì đặc tính của
mía không chịu được mặn nên khi nước mặn xâm
nhập sâu mía dể chết hoặc xuất hiện nhiều bệnh lạ,
làm giảm năng suất và ảnh hưởng đến sinh kế người
dân.
Từ những tác động tiêu cực của BĐKH và những
ảnh hưởng mà nó đem lại, nghiên cứu đã điều tra về
những phương pháp ứng phó mà người dân đã làm
để ứng phó với BĐKH, kết quả thống kê:
Hình 7. Thống kê các biện pháp ứng phó với
BĐKH của người dân
Với những tác động tiêu cực từ BĐKH, tuy người
dân có những nhận thức và quan tâm đến BĐKH
nhưng vẫn chưa có những biện pháp ứng phó hay
thích ứng với BĐKH. 67.9% cho biết họ không có
bất kỳ biện pháp nào để thích ứng, hay có thể giảm
nhẹ được những ảnh hưởng xấu của BĐKH. Cụ thể,
cũng vẫn tại Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng, mặc dù
xâm nhập đang diễn ra và có xu hướng này càng
nặng nề, nhưng trước tình hình đó người dân vùng
này vẫn tiếp tục đổ vốn vào các ruộng mía, mà
không thể chuyến sang một hình thức canh tác nào
khác. Mặc khác cũng có một số ít các hộ thay đổi cơ
cấu sản xuất, tại huyện Cái Nước, Cà Mau, do hạn
hán kéo dài, dẫn đến việc thiếu nước cho các vuông
tôm, hoặc mưa lớn kéo dài làm ảnh hưởng đến độ
mặn thích hợp cho tôm, nên một số hộ dân đã
chuyển từ hoạt động nuôi tôm sang trồng cây bồn
bồn, loại cây có khả năng thích ứng cao với điều
kiện khắc nghiệt của môi trường. Tuy lợi nhuận
không cao nhưng không tốn nhiều vốn và chi phí
phân thuốc.
Tóm lại, sau quá trình phỏng vấn và xử lý số liệu sơ
cấp, có thể nhận định rằng, người dân có những hiểu
biết sơ lược cũng như sự quan tâm đến BĐKH cũng
như các vấn đề môi trường. Với tình hình diễn biến
ngày càng phức tạp của BĐKH, người dân đã và
đang chịu ảnh hưởng rất lớn từ những tác động tiêu
cực đó mà chủ yếu là sự biến đổi bất thường của
nhiệt độ, lượng mưa và sự xuất hiện của xâm nhập
mặn. Có thể nhận thức được BĐKH đang diễn ra
ngày càng nghiêm trọng, nhưng người dân vẫn chưa
có những biện pháp nhất định để có thể ứng phó hay
làm giảm những ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế và
cuộc sống. Mặc khác, chính quyền địa phương vẫn
chưa có nhiều giải pháp nhằm trang bị cho người
dân đủ khả năng để thích ứng với BĐKH
KẾT LUẬN
Hiện nay, trước tình hình BĐKH đang ngày càng
diễn biến phức tạp, khó dự báo chính xác, các hiện
tượng thời tiết cực đoan xảy ra ngày càng nhiều làm
ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động nông
nghiệp, sinh kế, sức khỏe, đời sống người dân. Tuy
nhiên, mặc dù đã có những hiểu biết nhất định về
BĐKH nhưng người dân vẫn chưa có những biện
pháp cụ thể để thích ứng với BĐKH. Qua phỏng vấn
điều tra cũng cho thấy được chính quyền địa phương
tuy đã có những chính sách hổ trợ phần nào thiệt hại
cho người dân, nhưng vẫn chưa có sự quan tâm sâu
sác về các hoạt động nâng cao nhận thức người dân
về BĐKH cũng như những buổi tập huấn về phương
Ảnh hưởng rất lớn
Ảnh hưởng lớn
Ảnh hưởng trung bình
Ít ảnh hưởng
Không ảnh hưởng
14.3
17.9
67.9
Thay đổi giống
Di cư, thay đổi cơ cấu
sản xuất
Không làm gì cả
NGUYỄN THỦY HÀ ANH- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 29
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 29
pháp ứng phó khi có các hiện tượng thời tiết cực
đoan xảy ra nghiêm trọng.
Qua đó, mỗi vùng, mỗi địa phương nên có những
biện pháp riêng, cụ thể thích hợp cho từng đặc điểm,
hoạt động nông nghiệp của mỗi vùng.
Cần nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân về
bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu bằng
nhiều hình thức khác nhau cho những đối tượng
khác nhau. Đồng thời kế hợp với các hoạt động
tuyên truyền về giữ gìn vệ sinh môi trường sống, sử
dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên,..góp phần
chống lại BĐKH.
NGUYỄN THỦY HÀ ANH- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 30
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 30
BÀI 5: ĐÁNH GIÁ XU THẾ BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU VÙNG ĐỒNG THÁP
MƯỜI
Đồng Tháp Mười là vùng đất trũng thấp với diện
tích tự nhiên 696.000ha, chiếm 17,72% diện tích tự
nhiên của ĐBSCL bao gồm 3 tỉnh Long An, Đồng
Tháp và Tiền Giang. Đồng Tháp Mười được xem là
vựa lúa lớn nhất của ĐBSCL, đang ngày càng có vị
thế và tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, theo Hồ Đình Hải, kinh tế vùng Đồng
Tháp Mười càng phát triển sẽ kéo theo những bất lợi
về môi trường và rõ nét nhất là những ảnh hưởng
bởi biến đổi khí hậu gây ra cho vùng. Những hiện
tượng của biến đổi khí hậu như nhiệt độ cao, thời
tiết thất thường đang tác động đến sinh kế và đời
sống người dân trong vùng ngày càng mạnh mẽ. Từ
đó đề tài được thực hiện nhằm đánh giá xu thế thay
đổi lượng mưa và so sánh lượng mưa trong từng giai
đoạn, đồng thời đánh giá sự hiểu biết, mức độ ảnh
hưởng và biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
của người dân trong vùng Đồng Tháp Mười
Với mục tiêu thứ nhất
Đánh giá xu thế thay đổi lượng mưa, nhiệt độ và
so sánh lượng mưa trong từng giai đoạn của vùng
Đồng Tháp Mười
Dựa vào số liệu thứ cấp thu thập được tại các trạm
quan trắc Mộc Hóa, Cao Lãnh và Mỹ Tho của 3 tỉnh
Long An, Đồng Tháp và Tiền Giang, được các biểu
đồ sau:
Nhiệt độ đang có xu hướng ngày càng tăng. Cao
nhất ở các tháng 4, tháng 5 và tháng 6 gần chạm và
trên mức ngưỡng 35oC
So sánh giai đoạn 2010 – 2015 với 2000 – 2010
Tổng lượng mưa trung bình năm thấp hơn 10.5%
Tại Mộc Hóa: Số ngày mưa trong năm trung bình
thấp hơn 145.6 – 141.5. Tần suất xuất hiện những
tháng mưa lớn (hơn 500mm) gấp đôi (3.3%)
Hình 2. Biểu đồ thể hiện lượng mưa trung bình
năm ở giai đoạn 2000 – 2010
Hình 3. Biểu đồ thể hiện lượng mưa trung bình
năm ở giai đoạn 2011 – 2015
Giai đoạn năm 2000 – 2010 lượng mưa trung bình
tại Mỹ Tho thấp nhất, nhưng qua giai đoạn 2011 –
2015 lượng mưa phân bố đều khắp 3 tỉnh và có xu
hướng ngày càng tăng
Với mục tiêu thứ hai: Đánh giá ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu đến đời sống và sinh kế
người dân vùng Đồng Tháp Mười
Tiến hành phỏng vấn 94 hộ thuộc 2 tỉnh đại diện
cho toàn vùng Đồng Tháp Mười là huyện Tháp
Mười, Cao Lãnh của Đồng Tháp và huyện Gò Công
Tây, Gò Công Đông, thị xã Gò Công của Tiền
Giang.
Vùng phỏng vấn là các vùng gần các sông lớn, ven
biển, dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Các hộ
được phỏng vấn chủ yếu là nông dân với nhiều hoạt
động nông nghiệp đa dạng.
Biểu đồ thống kê theo nghề nghiệp của các hộ (%):
-200
100
400
700
1000
1300
1600
Cao Lãnh Mỹ Tho Mộc Hóa
NGUYỄN HỒNG THẢO LY- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
25.0
30.0
35.0
40.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Mỹ Tho Cao Lãnh Mộc Hóa
Hình 1. Biểu đồ thể hiện xu thế của nhiệt độ trung
bình từng tháng trong năm 2015
1300
1400
1500
1600
1700
Cao Lãnh Mỹ Tho Mộc Hóa
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 31
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 31
Hình 4. Biểu đồ thống kê theo nghề nghiệp của các
hộ dân Nghề trồng lúa chiếm tỉ lệ cao nhất nhưng cũng
phân bố đều các ngành nghề khác nhau
Hình 5. Biểu đồ thống kê mức độ hiểu biết của các
hộ dân Nhìn chung đa số người dân hiểu rõ về BĐKH khá
ít, % nhóm người hiểu một chút chủ yếu biết về
BĐKH qua ti vi, sách, báo, một số ít được phổ biến
qua các lớp tập huấn nhưng vẫn không nắm rõ
những ảnh hưởng, hậu quả của BĐKH ra sao. Một
số hộ dân khi hỏi về BĐKH thì chưa từng nghe,
nhưng khi được giải thích những tác động của
BĐKH như thời tiết thất thường, nắng nóng kéo dài
thì họ lại nói được khá nhiều.
Biểu đồ trên cho thấy 88.3% số hộ dân đều bị những
ảnh hưởng của BĐKH tác động đến đời sống và sinh
kế rất nhiều.
Hình 7. Biểu đồ thống kê nhiệt độ trong 10 năm
gần đây theo kinh nghiệm và nhận thức của người
dân Nhiệt độ tăng chiếm 59% theo kinh nghiệm và nhận
thức của người dân cho biết và họ thấy nhiệt độ ngày
càng tăng ảnh hưởng rất nhiều đến việc trồng lúa
của họ.
Hình 8. Biểu đồ thống kê mức độ xuất hiện các cơn
mưa lớn trong 10 năm gần đây theo kinh nghiệm
và nhận thức của người dân Theo các hộ dân, trong 10 năm trở lại đây các cơn
mưa lớn xuất hiện thường xuyên hơn chiếm gần
45% số người được phỏng vấn
KẾT LUẬN
Biến đổi khí hậu đang tác động không nhỏ trong
vùng Đồng Tháp Mười nhưng chưa đến mức gây
thiệt hại nhiều cho đời sống của người dân nơi đây
Hình 9. Biểu đồ thống kê những hoạt động ứng
phó với BĐKH ở địa phương
0% 20% 40% 60% 80%
trồng lúa
nuôi trồng thủy sản
trồng cây ăn quả
có hưởng lương
buôn bán
trồng sen
chăn nuôi
đánh bắt thủy sản
hoa màu
lao động thời vụ
có trợ cấp
khác
13.80%
74.50%
11.70%hoàn toàn không hiểu
hiểu một chút
hiểu khá nhiều
59%
34.90%
2.50% 3.60%nhiệt độ tăng
nắng nóng kéo dài
ngày và đêm chênh
lệch lớn
không thay đổi
88.30%
11.70%
có ảnh hưởng
không ảnh hưởng
Hình 6. Biểu đồ thống kê mức độ ảnh hưởng đến
sinh kế và đời sống của các hộ dân
0%
10%
20%
30%
40%
50%
Rất thường
xuyên
Thường
xuyên
Có xuất
hiện nhưng
không nhiều
Ít xuất hiện Không có
xuất hiện
25.80%
33.30%
15.10%
25.80%mở các lớp tập huấn
hỗ trợ vay vốn
xây dựng công trình
không có hoạt động
NGUYỄN HỒNG THẢO LY- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 32
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 32
Tuy BĐKH chưa ảnh hưởng nhiều đến đời sống
người dân vùng Đồng Tháp Mười nhưng chính
quyền địa phương trong vùng luôn tạo điều kiện hỗ
trợ người dân bằng cách hỗ trợ vay vốn chiếm
33.3%, mở các lớp tập huấn chiếm 25.8% và 15.1%
là xây dựng công trình. Nhưng số % nhiều nơi
không tổ chức hoạt động nào còn khá nhiều chiếm
25.8%.
Hình 10. Biểu đồ thống kê mức độ tham gia các
hoạt động ứng phó với BĐKH của người dân ở địa
phương Số % hộ dân chiếm số lượng khá đông 56.4%. Đa
số họ cho rằng không cần thiết phải tham gia và một
số hộ khi có tập huấn thì bận nên không thể tham
gia được.
Hình 11. Biểu đồ thống kê biện pháp thích ứng với
biến đổi khí hậu của gia đình người dân
Đa phần người dân khi bị ảnh hưởng của BĐKH thì
không làm gì cả, cam chịu và sống chung với nó. Số
ít người dân tìm cách thay đổi cơ cấu sản xuất chiếm
23.5%. Số còn lại chuyển sang nghề khác (7.8%)
hoặc tìm cách khắc phục tạm thời (6.9%).
Chính quyền địa phương vùng Đồng Tháp Mười rất
chú trọng trong việc đảm bảo đời sống và sinh kế
của người dân. Nhưng vẫn còn số đông người dân
chưa ý thức được những tác động mà BĐKH gây ra
đối với mình
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP Nâng cao nhận thức cho người dân về biến đổi khí
hậu như tuyên truyền, mở các lớp tập huấn. Giúp
người dân hiểu rõ hơn về biến đổi khí hậu
61.80%7.80%
23.50%
6.90%Không làm gì
Thay đổi ngành nghề
Thay đổi cơ cấu sản xuất
Khắc phục tạm thời
43.60%
56.40%
Có tham gia
Không tham gia
NGUYỄN HỒNG THẢO LY- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 33
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 33
BÀI 6: HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG
NƯỚC CHO MỤC ĐÍCH SINH
HOẠT VÀ SẢN XUẤT Ở HUYỆN
THÁP MƯỜI VÀ HUYỆN GÒ
CÔNG
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 92 hộ dân, trong
đó 48 hộ ở huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp và 44
người ở huyện Gò Công tỉnh Tiền Giang về việc sử
dụng nước cho mục đích sinh hoạt và sản xuất trong
mùa mưa và mùa khô.
KẾT QUẢ Thông tin chung về người được phỏng vấn
Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 92 hộ dân,
trong đó
Hình 1: số hộ dân phỏng vấn tại Tháp Mười theo
từng xã
Trong 48 phiếu phỏng vấn tại Tháp Mười thì có 15
phiếu phỏng vấn tại Mỹ An (chiếm 31.25%), Đốc
Bình Kiều có 11 phiếu (chiếm 22,92%), Mỹ Hòa có
8 phiếu (chiếm 16,67%), Phú Điền có 6 phiếu (
12.5%). Vì diện tích xã Mỹ An tương đối lớn và
cũng là trung tâm của huyện Tháp Mười nên có chợ,
khu nông nghiệp, khu dân cư nên tiến hành phỏng
vấn nhiều hộ hơn đảm bảo phân phối đều .
Tại Gò Công Đông tiến hành phỏng vấn 44 hộ , trải
đều 6 thị xã Bình Ân, Kiểng Phước, Tân Điền, Tân
Thành, thị xã Gò Công
Hình 2: số hộ dân phỏng vấn tại Gò Công Đông
theo xã
Trong đó Thị xã Gò Công và Tân Điền có số phiếu
cao nhất là 11 phiếu cho mỗi thị xã ( chiếm 25%),
kế đến là Tân Thành với 10 phiếu ( chiếm 22,73%),
Kiếng Phước có 7 phiếu ( chiếm 15,91%), Bình Ân
có 5 phiếu (chiếm 11,36%). Vì thị xã Gò Công là
trung tâm của Gò CÔng Đông nên số phiếu chiếm
cao để đảm bảo tính phân phối, trong khi Tân Điền
lại có diện tích lớn nhất trong các xã còn lại.
Hình 3: thành phần ngành nghề người được phỏng
vấn
Nông dân chiếm 72 phiếu (78.26%) trong tổng số
92 phiếu phỏng vấn, các nghề như buôn bán, chăn
nuôi, nghề khác có cùng số phiếu là 6 phiếu
(6.52%), đánh bắt thủy sản gồm 2 phiếu ( 2.17%).
SỬ DỤNG NƯỚC CHO MỤC ĐÍCH SINH
HOẠT
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn về loại nước mà
người dân sử dụng cho mục đích sinh hoạt và ăn
uống trong mùa mưa và mùa khô. Kết quả được thể
hiện qua biểu đồ
Hình 4: hiện trạng sử dụng nước cho mục đích sinh
hoạt
Đối với nước máy
Đa số người dân sử dụng nước máy cho các mục
đích sinh hoạt như tắm giặt, rửa trong cả mùa khô
và mùa mưa. Theo kết quả, phần trăm người sử dụng
nước máy trong mùa khô là 64.1% và vào mùa mưa
TRẦN VINH HIỂN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
15
11
8
6Tháp Mười
Mỹ An
Đốc Bình Kiều
Mỹ Hòa
Phú Điền
5
7
11
10
11
Gò Công Đông
Bình Ân
Kiểng Phước
Tân Điền
Tân Thành
Thị xã Gò Công
72
6
62
6Nông dân
Buôn bán
Chăn nuôi
Đánh bắt thủy sản
Khác
63.0
25.0
14.1
10.9
64.1
18.5
15.2
10.9
0 20 40 60 80
Nước máy
Nước mưa
Nước sông
Nước giếng
%
Mùa Khô
Mùa mưa
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 34
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 34
là 63%. Và số lượng người sử dụng nước máy cho
sinh hoạt tại Tháp Mười và Gò Công Đông không
có sự khác biệt đáng kể, tại Gò Công là 63,64% vào
mùa khô và 65,91% vào mùa khô, tại Tháp Mười
thì kết quả lần lượt là 62.5% vào cả 2 mùa. Nguyên
nhân chính là 83,05%( 49/59) người dân nghĩ rằng
nước máy tiện lợi hơn các loại nước khác, không
phụ thuộc vào mùa, có quanh năm, 16,95% (10/59)
người dân còn lại nghĩ lí do chính là do chất lượng
xuống thấp của các loại nước còn lại. Ngoài ra,
78,27% (78/92) tất cả người dân được phỏng vấn đề
cho rằng nước máy dễ tiếp cận.
Đối với nước mưa
Với mục đích sinh hoạt thì tỷ lệ người dân sử dụng
nước mưa thấp hơn nước máy. Theo kết quả cho
thấy có 18.5% người dân sử dụng nước mưa vào
mùa khô và 25% sử dụng nguồn nước này vào mùa
khô. Tỷ lệ người dân sử dụng nước mưa có sự khác
nhau đáng kể giữa Gò Công Đông và Đồng Tháp.
Kết qua cho thấy 25% người dân sử dụng nước mưa
vào mùa khô tại Gò Công Đông, trong khi, tại Tháp
Mười thì kết quả cho thấy chỉ có 8,33% người dân
sử dụng nước mưa vào mùa khô.
Đối với nước sông
Tỷ lệ người dân sử dụng nước sông cho mục đích
sinh hoạt chiếm 15,2 % vào mùa khô và 14,1 % vào
mùa mưa. Tuy nhiên kết quả cho thấy tại Gò Công
thì số lượng người sử dụng nước sông chỉ chiếm
2,27% (1/44) vào mùa mưa và vào mùa khô thì
không có người dân ở Gò Công Đông sử dụng nước
sông. Nguyên nhân là do 45.45 % (20/44) người dân
không tin tưởng chất lượng nước sông, 63.63%
(28/44) người dân cho rằng nước bị nhiễm mặn vào
mùa khô. Còn tại Tháp Mười, 93,75% người được
phỏng vấn đều có sự tiếp cận rất dễ với nước sông,
tuy nhiên thì tỷ lệ sử dụng nước sông chỉ chiếm
29,17 %( 14/48) và tập trung ở xã Mỹ An, người
dân cho biết sử dụng nước sông chủ yếu để rửa chén
bát nhằm tiết kiệm nước máy. Còn lại, có 90,9%
(40/44) người dân đều cho rằng các kênh rạch tại
Đồng Tháp đều bị ô nhiễm. Trong đó, nguyên nhân
chính của sự ô nhiễm kênh rạch theo 95% (38/40) là
do thuốc BVTV từ các ruộng đồng, ngoài ra các
nguyên nhân khác như rác thải chiếm 70% (28/40),
nước thải sinh hoạt chiếm 40%( 16/40), nước thải
chăn nuôi chiếm 50%(20/40), xác chết động vật và
vịt thả đồng chiếm 35% ( 14/40). Trong đó các kênh
như Kênh Nhất, Kênh 500, Kênh Cầu Móng đều
được cho là ô nhiễm rất nặng.
Đối với nước giếng
Tỷ lệ sử dụng đều bằng 10,9% trong cả 2 mùa và
đây là tỷ lệ thấp nhất. Ngoài ra, tỷ lệ người dân sử
dụng nước giếng tại Gò Công chỉ chiếm 2,27%
(1/44), trong khi tại Tháp Mừa thì tỷ lệ này là
18.75%. Nguyên nhân là tại Gò Công Đông 86,34%
(38/44) người cho rằng khó tiếp cận với nguồn nước
giếng, tương tự tại Tháp Mười thì tỷ lệ người dân
cho rằng khó tiếp cận với nước giếng là 37.5%
(18/48), đặc biệt tại Đốc Bình Kiều thì 100% người
dân được phỏng vấn cho rằng khó tiếp cận vì phải
đào từ 100-200m mới có nước, nhưng vẫn bị nhiễm
phèn, phải đào sâu hơn mới có thể sử dụng.
Hình 5: hiện trạng sử dụng nước cho mục đích ăn
uống
Nhìn biểu đồ ta thấy, đối với mục đích ăn uống, thì
tỷ lệ người dân sử dụng nước mưa chiếm tỷ lệ cao
nhất với 65,2% (60/92)vào mùa mưa và 59,8%
(55/92) vào mùa khô. Tiếp theo là nước máy, với tỷ
lệ là 55,4% (51/92) vào mùa mưa và 48,9% (45/92)
vào mùa khô. Nước đóng chai chiếm 31.5%(29/92)
mùa mưa và 26,1% ( 24/92) vào mưa khô.Nước
sông và nước giếng đều có tỷ lệ thấp chỉ 5,4% (6/92)
cho nước sông và 6,5%(6/92) cho nước giếng.
Với nước mưa có tỷ lệ sử dụng cao nhất trong cả 2
mùa. Đặc biệt tại Gò Công thì tỷ lệ sử dụng nước
mưa cho ăn uống khá cao 72,72% ( 32/44) vào mùa
mưa và 95,45 % ( 42/44) vào mùa mưa. Lý giải cho
sự khác biệt này thì 97,72% ( 43/44) người dân tại
đây đều ưu tiên sử dụng nước mưa cho ăn uống vì
chất lượng của nước mưa rất tốt. Và người dân tại
Gò Công Đông có xu hướng trữ nước mưa vào mùa
mưa để sử dụng vào màu khô, nên tỷ lệ sử dụng
nước mưa cho ăn uống vào mùa khô cao hơn mùa
mưa.Tại Tháp Mười thì tỷ lệ người sử dụng nước
mưa cho ăn uống khoảng 47.91%(23/48) vào mùa
khô và 37,5% (18/48) vào mùa khô, người dân vẫn
trữ nước mưa để sử dụng vào mùa khô, nhưng
không đủ nên vào mùa khô thì người dân phải đổi
nguồn nước khác.
48.90
59.80
5.40
6.50
26.10
55.40
65.20
5.40
6.50
31.50
0 20 40 60 80
Nước máy
Nước mưa
Nước sông
Nước giếng
Nước đóng chaiMùa mưa
Mùa khô
TRẦN VINH HIỂN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 35
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 35
Với nước máy tỷ lệ người dân sử dụng nước máy
cho ăn uống chỉ dao động khoảng 48,9 % (45/92)
đến 55,4% (51/92). Tỷ lệ người dân ở Gò Công sử
dụng nước máy cho ăn uống khá thấp chỉ khoảng
31,8% (14/44) vào mùa mưa và 45,45%(20/44) vào
mùa khô. Vì có đến 63,63% (28/44) người dân được
phỏng vấn cho rằng nước máy không tốt cho sức
khỏe khi sử dụng ăn uống. Đối với Tháp Mười, thì
ngược lại, tỷ lệ người dân sử dụng nước rất cao 64,
53 % (31/48) trong cả 2 mùa. Nguyên nhân người
dân được phỏng vấn cho biết vì nước máy có sẵn
trong cả 2 mùa, đồng thời 58,3% (28/48) người dân
đánh giá nước máy có chất lượng tốt.
Với nước sông và nước giếng thì tỷ lệ sử dụng cho
ăn uống rất thấp. Tại Gò Công thì không có người
nào được phỏng vấn có sử dụng nước giếng và sông
cho mục đích ăn uống. Chỉ có 12,5% (6/48) sử dụng
nước giếng và 10,4% (5/48) sử dụng nước sông cho
mục đích ăn uống. Trong 10,4 % sử dụng nước thì
có 80% (4/5) đều là hộ dân có hoàn cảnh khó khăn
( nhà tạm).
Với nước bình thì chỉ chiếm từ 26,1%(24/92) đến
31,5%(29/92) mặc dù có đến 82,6% (76/92) người
được phỏng vấn cho rằng dễ tiếp cận với nguồn
nước bình đóng chai. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng nước
bình cho ăn uống vẫn thấp vì đa phần người dân đều
tin tưởng chất lượng của nước mưa hơn nước bình,
đồng thời có 28,26% (26/92) người dân cho rằng
chất lượng nước bình không đảm bảo, có mùi rong.
Tỷ lệ người dân xử lý nước trước khi sử dụng chiếm
75% ( 69/92) và tỷ lệ này bằng nhau trong cả Gò
Công Đông và Tháp Mười. Trong khi tại Gò Công
Đông thì có 43.18 % ( 19/44) người dân xử lý nấu
sôi trước khi sử dụng cho ăn uống và 68,18% dùng
biện pháp phèn lắng trước khi sử dụng. Tại Tháp
Mười thì có 54,17% ( 26/48) xử lý nấu sôi trước khi
sử dụng , trong đó thì hầu hết áp dụng cho nước
máy, còn đối với nước mưa thì tỷ lệ nấu sôi trước
khi sử dụng khoảng 38,46 %(10/26) vì người dân có
thói quen uống nước mưa không qua nấu sôi.
HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NƯỚC CHO SẢN
XUẤT
Theo kết quả, có đến 95,65%(88/92) người dân sử
dụng nước sông làm nguồn nước phục vụ cho sản
xuất. Trong khi nước máy và nước giếng chỉ chiếm
2,17% . Điều này giống nhau ở cả Gò Công Đông
và Tháp Mười đều đa phần sử dụng nước sông cho
mục đích sẩn xuất vì dễ tiếp cận và không tốn nhiều
chi phí hơn các loại nước khác. Lượng nước sử dụng
cho sản xuất chủ yếu cho mục đích nông nghiệp
trồng lúa chiếm 90,21% trong đó tất cả đều sử dụng
nước sông làm nguồn chính. Ngành chăn nuôi
chiếm 6,52% lượng nước mục đích sản xuất, trong
đó nước sông chiếm 50% lượng nước cung cấp,
50% còn lại là nước máy sử dụng chăn nuôi heo và
nước giếng nuôi vịt.
Hình 7: hiện trạng sử dụng nước của các mục đích
sản xuất
KẾT LUẬN
Đối với mục đích sinh hoạt, thì tỷ lệ người dân sử
dụng nước máy chiếm tỷ lệ cao nhất tại Gò Công
Đông và Đồng Tháp Mười.
Đối với mục đích ăn uống thì Gò Công Đông sử
dụng chủ yếu bằng nước mưa, trong khi Tháp Mười
sử dụng chủ yếu là nước máy.
Đối với mục đích sản xuất thì cả 2 vùng đều sử dụng
nước sông là nguồn nước chính và đều tập trung cho
trồng lúa.
Tại Gò Công Đông thì những người được phỏng vần
đều không sử dụng nước sông và nước giếng cho
mục đích sinh hoạt và ăn uống. Còn tại Tháp Mười
thì tỷ lệ sử dụng thấp, nguyên nhân do khó tiếp cận
và chất lượng nguồn nước không đảm bảo.
Tại Tháp Mười thì hầu hết người dân được phỏng
vấn đều cho rằng kênh rạch của họ bị ô nhiễm và
nguyên nhân chính là thuốc BVTV từ đồng ruộng.
Tỷ lệ người dân xử lý thứ cấp, đun sôi nguồn nước
trước khi sử dụng cho mục đích ăn uống tại cả Tháp
Mười và Gò Công Đông đều cao ( 75%). Tại Tháp
Mười thì tỷ lệ người dân sử dụng nước mưa chưa
qua xử lí cao. 88
2 2
Nước sông
Nước giếng
Nước máy
Hình 6. Hiện trạng sử dụng nước cho sản xuất
83
62 1
Trồng lúa
Chăn nuôi
Vườn
Khác
TRẦN VINH HIỂN- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 36
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 36
BÀI 6: ĐÁNH GIÁ XU THẾ VÀ BIẾN
ĐỘNG TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI
ĐẤT VÙNG VEN BIỂN BÁN ĐẢO
CÀ MAU
Đánh giá xu thế thay đổi cao độ NDĐ tầng
Pleistocene trên và giữa-trên
Đặc điểm nước dưới đất tại bán đảo Cà Mau hình
thành từ 5 tầng chứa nước: alocen(qh), Pleistocen-
trên(qp3), Pleistocen giữa - trên (qp_(2-3)),
Pleistocen-dưới(qp1), Pliocen(m4), Miocen(m3), ở
từng địa điểm sẽ có sự biến động cao độ khác nhau
Tại vùng Sóc Trăng, tổng chứa nước lổ hỗng tuổi
Pleistocen giữa – trên (qp2-3): trong phạm vi tỉnh
Sóc Trăng, tầng chứa nước qp2-3 có diện phân bố
rộng khắp toàn vùng và không lộ ra trên bề mặt.
Tầng này thường gặp ở độ sâu từ 54 m đến 137 m
(trung bình là 82,63 m) và kết thúc ở độ sâu 92 m
đến 175 m (trung bình là 131,47 m). Bề dày của tầng
biến đổi trong khoảng 38 m đến 50 m, có khả năng
chứa rất giàu nước, chất lượng tốt, tuy nhiên có hàm
lượng sắt cao. Nguồn cung cấp nước cho tầng qp2-
3 chủ yếu từ chung quanh chảy đến và một phần
thấm xuyên giữa các tầng chứa nước nằm kề. Trong
điều kiện tự nhiên mực nước có xu hướng dao động
theo mùa với biên độ dao động trung bình khoảng
0,45 m. Tầng qp2-3 có diện phân bố rộng, bề dày
lớn và chất lượng khá tốt nên khả năng khai thác sử
dụng cao. Cao độ NDĐ tầng Pleistocen giữa – trên
giai đoạn 2001 – 2012 có sự sụt giảm liên tục theo
thời gian, so với các khu vực khác trong tỉnh, TP
Sóc Trăng có mức độ sụt giảm cao nhấtcó thể nhận
thấy, cao độ NDĐ trung bình năm 2012 là -8,43 m,
sụt giảm so với năm 2001 (-4,11 m) là 4,32 m. Tốc
độ sụt giảm trung bình 0,39 m/năm, trong khi toàn
tỉnh Sóc Trăng là 0,33 m/năm (Hình 1).
Hình 1: Diễn biến cao độ NDĐ tầng Pleistocen
giữa – trên (2001 – 2012), Sóc Trăng (Nguồn: Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng)
Ở Cần Thơ, Pleistocen giữa – trên và Pleistocen
dưới là hai tầng có khả năng cung cấp nước cho sinh
hoạt (Trung tâm Quan trắc TN&MT Cần Thơ,
2011). Các tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích
Pliocen phân bố trên khắp diện tích vùng ở độ sâu
từ 260 m trở xuống. Trữ lượng tiềm năng toàn vùng
ở tầng Pleistocen là 1.438.456 m3/ngày.đêm. Trong
đó, trữ lượng động 5.502 m3/ ngày.đêm, trữ lượng
đàn hồi 8.528 m3/ ngày.đêm và trữ lượng tĩnh là
1.424.427 m3/ ngày.đêm (Sở TN&MT Cần Thơ).
Trong khi nhu cầu về nước của TPCT dự đoán đến
năm 2020 là 180.000 m3/ ngày.đêm, thì điều kiện
khai thác nước của tầng Pleistocen giữa– trên là khá
thuận lợi (chiều sâu mực nước tĩnh nhỏ (0,80 – 1,50
m) và chiều sâu tầng chứa nước nông (60 – 179 m)).
Riêng tầng Pleistocen dưới thì việc tính toán trữ
lượng chưa được chính xác nhưng theo nhận định
của các chuyên gia thì đây là tầng chứa nước có triển
vọng và khả năng cung cấp nước tốt (cả về chất và
lượng) cho TPCT (Trung tâm Quan trắc TN&MT
Cần Thơ, 2011)
Đánh giá biến động cao độ NDĐ theo mùa
qua các năm
Theo kết quả nghiên cứu động thái nước dưới đất
của Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên
nước miền Nam: Bình quân mỗi năm mực nước
ngầm của Sóc Trăng giảm từ 0,5 – 1 m ở tầng 90m
và giảm từ 3 – 4 m ở tầng nước sâu hơn. Kết quả
quan trắc mực nước dưới đất tại thành phố Sóc
Trăng tháng 5 năm 2013 cho thấy: Các tầng chứa
nước từ Pleistocen cho đến tầng chứa nước Miocen
trên đều có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm
2003. Trong đó, mực nước giảm nhiều nhất ở tầng
Pliocen giữa (với độ sâu tầng chứa nước từ 157,5
đến 307,5m) và Pliocen dưới (độ sâu tầng chứa nước
từ 307,5 đến 376,7m). Cụ thể, tại tầng chứa nước
Pliocen giữa, quan trắc công trình có chiều sâu
giếng 234,20m cho thấy: Mực nước trung bình từ
mặt đất là -11,21m, thấp hơn so với tháng 4 năm
2013 là -0,45m và thấp hơn so với cùng kỳ năm
2003 là -7,56m. Còn ở tầng chứa nước Pliocen dưới,
quan trắc tại công trình có chiều sâu giếng là
360,90m cho thấy: Mực nước trung bình từ mặt đất
là -12,35m, cao hơn so số liệu quan trắc tháng 4 năm
2013 là 0,06m, nhưng thấp hơn so với cùng kỳ năm
2003 là -7,30m. Đối với tầng chứa nước Pleistocen
trên (chiều sâu từ 17,2 đến 76,0m), quan trắc tại
công trình có mực nước trung bình từ mặt đất là -
8,61m, thấp hơn so với tháng 4 năm 2013 là -0,07m
và thấp hơn so với cùng kỳ năm 2003 là -1,58m. Còn
TRẦN HUỲNH NHƯ- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 37
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 37
ở tầng chứa nước Pleistocen giữa trên (chiều sâu
tầng chứa nước từ 62,0 đến 105,0m), quan trắc tại
công trình có mực nước trung bình từ mặt đất là -
9,21m, thấp hơn so với tháng 4 năm 2013 là -0,07m
và thấp hơn so với cùng kỳ năm 2013 là -6,81m.
Ở Bạc Liêu, Cao độ mực nước dưới đất đang có xu
hướng hạ thấp qua từng năm, Theo số liệu quan trắc,
mực nước dưới đất của Trung tâm Quan trắc quốc
gia, ở tầng nước ngầm mà tỉnh Bạc Liêu đang khai
thác nhiều nhất mỗi năm sụt giảm khoảng 0,5m.
Mức hạ thấp cao độ có sự chênh lệch giữ các giếng,
cụ thể ở Hình 1, giếng Q597020 mực nước năm
2006 là -5.84 đến năm 2013 hạ xuống là -8.08, ở
giếng Q597030 năm 2006 là -7.02, năm 2013 hạ
thấp xuống là -9.64, ở giếng Q59704T năm 2006 là
-7.04, năm 2013 hạ thấp xuống là -9.32, ở giếng
Q59704Z năm 2006 là -4.31, năm 2013 hạ thấp
xuống là -6.26.
Hình 2: Diễn biến mực nước dưới đất theo từng
năm ở Bạc Liêu.
Vào mùa khô, do lượng mưa giảm nên việc khai thác
nước ngầm càng tăng cao, nhằm đáp ứng nhu cầu sử
dụng nước của các hộ dân trong việc sinh hoạt và
sản xuất. Tần suất sử dụng nước cho sản xuất bơm
2 lần/ ngày chiếm 85.8%
Hình 3:Tần suất khai thác nước dưới đất cho sản
xuất
Đa số những hộ dân ở khu vực này ít chứa nước mưa
đế sử dụng cho mùa khô nên việc khai thác nước
dưới đất ngày càng nhiều khiến cao độ mực nước
ngầm ngày càng hạ thấp.
Xác định yếu tố (tự nhiên và nhân tạo) có ảnh
hưởng đến cao độ NDĐ. Các yếu tố tự nhiên
Dựa vào kết quả nghiên cứu, phân tích xu thế thay
đổi cao độ NDĐ trong khu vực, nghiên cứu tiến
hành phân tích một số các yếu tố tự nhiên có thể dẫn
đến sự thay đổi cao độ NDĐ.
Đối với lượng mưa, nhìn chungcó xu hướng giảm
dần nhưng lượng giảm không nhiều và có sự biến
động lớn giữa các năm. Lượng mưa theo xu hướng
chung của ĐBSCL, lượng mưa ở Sóc Trăng qua các
năm là 1.854 mm/năm (lượng mưa trung bình ở
ĐBSCL 1.400 – 2.800 mm/năm). Lượng mưa lớn
nhất là 2.223 mm vào năm 2008 và thấp nhất là
1.424 mm vào năm 2004, trong giai đoạn này, lượng
mưa phân bố không đều, có xu hướng tăng trong các
giai đoạn 2002 – 2003, 2004 – 2005, 2006 – 2008,
2009 – 2010. Đặc biệt, giai đoạn 2006 – 2008, lượng
mưa có xu hướng tăng cao từ 1.660 mm lên 2.223
mm.
Hình 4: Tổng lượng mưa và cao độ NDĐ tầng
Pleistocen giữa – trên công trình Q598020 (Sóc
Trăng) (Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Sóc Trăng)
Đối với nhiệt độ, nhìn chung nhiệt độ trung bình
năm tại khu vực nghiên cứu biến động khá phức tạp,
tăng giảm không rõ rệt qua các năm. Nhiệt độ trung
bình năm giảm từ năm 2001 đến năm 2004, nhưng
lại tăng vào năm 2004 đến năm 2007 và lại giảm đến
năm 2008. Trong khi nhiệt độ có xu hướng tăng,
giảm thất thường thì cao độ NDĐ trong giai đoạn
này giảm từ -5,16 m năm 2001 xuống -9,19 m năm
2013.
-12.00
-10.00
-8.00
-6.00
-4.00
-2.00
0.00
Q597020 Q597030 Q59704T Q59704Z
Mự
c n
ướ
c d
ướ
i đ
ất
(m)
Năm 2006 Năm 2013
37.5
0.4
85.8
9.74.3 1.5
0102030405060708090
100
khô mưa khô mưa khô mưa
1 lần/ngày 2 lần/ngày 3 lần/ngày
Tần
Su
ất (
%)
Số lần
bơm
TRẦN HUỲNH NHƯ- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 38
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 38
Hình 5: Nhiệt độ trung bình năm và cao độ NDĐ
tầng Pleistocen giữa – trên (Sóc Trăng) (Nguồn: Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng)
Các yếu tố nhân tạo
Nguồn nước dưới đất ở vùng bán đảo Cà Mau đang
có xu thế giảm dần.Cụ thể ở vùng Cà Mau (cụ thể
Huyện Đầm Dơi) có gần khoảng 90% người dân sử
dụng nước dưới đất để sử dụng trong sinh hoạt cũng
như sản xuất.
Hình 6: Tình hình sử dụng các nguồn nước ở
huyện Đầm Dơi.
Đa số người dân sử dụng giếng khoan để khai thác
nguồn nước ngầm, trung bình một hộ khai thác
khoảng 2-5 m3/ngày sử dụng cho mục đích sinh
hoạt.
Hình 7: Tần suất khai thác nước dưới đất cho sinh
hoạt
Có thể thấy được số lần bơm trong ngày có sự thay
đổi khá lớn giữa các hộ dân, từ 3 lần/ngày đến 6
lần/ngày. Số lần bơm nhiều tập trung vào mùa khô
chiếm khoảng 65% còn lại là vào mùa mưa 35%. Và
một phần của việc bơm nhiều nước trong ngày là do
đây là vùng nước mặn nên mọi hoạt động tập trung
chủ yếu vào khai thác nguồn nước ngầm. Trong sản
xuất, các mô hình canh tác chủ yếu tại Đầm Dơi-Cà
Mau là nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi gia súc,
đây là hai hoạt động nhìn chung là ít sử dụng nguồn
nước ngầm, do đặt tính sản xuất chủ yếu phụ thuộc
vào nước sông. Tuy nhiên vào mùa khô, đặc biệt là
khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 thì độ mặn
trong nước sông đặc biệt cao lên đến 33‰ trong khi
đó thì giới hạn chịu đựng độ mặn của các loài thủy
sản là từ5‰-20‰ điều đó gây ảnh hưởng lớn đến
việc sinh trưởng và phát triển của hải sản. Để giảm
thiểu thiệt hại thì đa số người dân nơi đây phải cấp
thêm nước ngọt để trung hòa nguồn nước trong ao,
hồ và lượng nước được cấp vào rất lớn.
Đối với vùng Cần Thơ, Lượng nước ngầm được
khai thác có phần thấp hơn so với ở Cà Mau, do nơi
đây thuộc vùng nước lợ. Nên việc tưới tiêu, sản xuất
không quá phụ thuộc vào nguồn nước ngầm. Trong
sinh hoạt người dân vẫn thiên về sử dụng nước ngầm
nhiều hơn vì môi trường nước sông hiện hiện có
nhiều dấu hiệu ô nhiễm không còn đủ chất lượng để
phục vụ cho sinh hoạt. trung bình một ngày người
dân sử dụng khoảng 0.5-2 m3/ ngày.
Vùng Sóc Trăng cụ thể tại huyện Vĩnh Châu là vùng
do chịu ảnh hưởng nhiều của việc xâm nhập mặn
nên nguồn nước ngầm cũng bị tác động dáng kể.
Theo kết quả khảo sát, Vĩnh Châu nằm về phía hạ
lưu của sông Mê Công và do đó khu vực này gần
như quanh năm không nhận được nguồn nước ngọt
từ sông Hậu như các huyện khác trong tỉnh. Trong
sinh hoạt, số lần bơm trong ngày có sự thay đổi khá
lớn giữa các hộ dân, từ dưới 1 lần/ ngày cho đến trên
4 lần/ngày. Tần suất bơm phần lớn là 1 lần/ngày,
chiếm đến 40,4% trong mùa khô và 35,2% trong
mùa mưa với thời gian bơm trung bình 30 phút.
Trong mùa mưa, hầu hết tần suất số lần bơm đều
giảm (1 lần, 2 lần và 3 lần trong ngày); trong khi tần
suất số lần bơm nhỏ hơn 1 lần/ngày lại tăng lên.
Điều này được các hộ gia đình cho biết, trong mùa
mưa khả năng khai thác NDĐ được dễ dàng hơn
mùa khô do mực nước trong giếng cao hơn và áp lực
nước lớn hơn. Do vậy lưu lượng bơm trong mùa
mưa cũng lớn hơn trong mùa khô. Còn trong sản
88.7
9.4
0.7 1.2
nước dưới đất
nước mưa
nước sông
nguồn khác
25.231.3
41.132.7
26.5 23.1
5.8 4.1 3.2 2.8
0
10
20
30
40
50
khô mưa khô mưa khô mưa khô mưa khô mưa
< 1
lần/ngày
1 lần/ngày 2 lần/ngày 3 lần/ngày >=4
lần/ngày
Tần
suất
(%
)
Số lần bơm
TRẦN HUỲNH NHƯ- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 39
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 39
xuất, Các mô hình canh tác chính tại Vĩnh Châu
cũng như trong vùng nghiên cứu gồm: Chuyên màu,
luân canh lúa - màu, chuyên tôm và xen canh tôm –
màu. Trong đó, mô hình chuyên màu được trồng vào
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 với cây trồng chính
là hành tím, củ cải, ớt, tập trung chủ yếu ở Phường
2 và xã Lạc Hòa. Đối với mô hình luân canh lúa -
màu tập trung ở xã Vĩnh Hải và phường 2, ngoài
việc trồng màu vào mùa khô các hộ trồng lúa vào
mùa mưa (từ tháng 6 đến tháng 9). Bên cạnh các
vùng chuyên tôm (từ tháng 4 đến tháng 9) thì từ năm
2009 tại xã Lai Hoà có thêm mô hình sản xuất mới
tôm – màu, trong đó màu được trồng quanh năm trên
đất bờ bao ao nuôi tôm. Mô hình chuyên tôm tập
trung nhiều ở phường Khánh Hòa. Qua khảo sát và
phân tích cho thấy NDĐ được sử dụng chủ yếu cho
sinh hoạt (chiếm trên 95% số hộ được phỏng vấn);
tuy nhiên trữ lượng khai thác cho các hoạt động sản
xuất nông nghiệp, thủy sản và kinh doanh khá cao
(tổng lượng khai thác 7.160 m3/ngày).
ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ Ở cấp địa phương, cần thiết
Nâng cao giáo dục cộng đồng về khai thác, sử
dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên NDĐ thông qua
buổi tuyên truyền, giải thích cho người dân hiểu hậu
quả của việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên
nước ngầm cũng như việc không lấp trám các giếng
không sử dụng theo đúng kỹ thuật;
Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý;
Lập một bộ cơ sở dữ liệu về nước ngầm và có sự
chia sẻ cập nhật thông tin từ địa phương đến Trung
ương.
Cần có những nghiên cứu: thay đổi giống cây trồng
chịu hạn nhằm giảm lượng nước tưới nhưng vẫn
đảm bảo sinh kế người dân trong vùng; hệ thống
tưới (theo cụm) giảm thất thoát nước, tiết kiệm nước
và nâng cao hiệu quả tưới cho cây màu; khả năng và
kỹ thuật bổ cập NDĐ nhân tạo; và tìm nguồn nước
khác thay thế nguồn NDĐ (nếu có) trong tương lai.
TRẦN HUỲNH NHƯ- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 40
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 40
BÀI 7: KHẢO SÁT NHU CẦU NƯỚC
CHO MÔ HÌNH TRỒNG SEN TẠI
HUYỆN THÁP MƯỜI, ĐỒNG THÁP
TỔNG QUAN CHUNG
Tổng số hộ nông dân đã và đang canh tác mô hình
trồng sen tại Tháp Mười khảo sát được là 25 hộ với
tổng diện tích là 48,5 ha, tập trung tại địa bàn các xã
Mỹ Hòa, Trường Xuân, Tân Kiều và Láng Biển, với
diện tích cụ thể được thể hiện trong biểu đồ ở hình
1
Hình 1. Phân bố diện tích trồng sen tại các xã khảo
sát (Số liệu khảo sát năm 2016)
Nhìn chung, các hộ nông dân canh tác từ 1 đến 3 vụ
sen một năm (tính theo vụ lúa) và mỗi vụ có thể kéo
dài từ 3 đến 4 tháng. Một số hộ trồng luân canh 2 vụ
lúa, 1 vụ sen hoặc 2 vụ sen 1 vụ lúa để có thể tăng
thêm thu nhập, tận dụng được nguồn nước mùa lũ
và cải tạo đất. Hình 2 thể hiện tỷ lệ các kiểu mô hình
canh tác sen (thâm canh hoặc luân canh) các hộ
nông dân được khảo sát. Theo ý kiến của đa số hộ
trồng sen, trước đây mặc dù trồng 3 vụ lúa trong 1
năm, nhưng cuộc sống vẫn rất cơ cực. Vì làm lúa
nhiều thì giá hạ, đất bạc màu, sử dụng nhiều phân
bón hoá học và thuốc trừ sâu khiến hạt lúa kém
phẩm chất, khó bán. Đối với trồng luân canh 2 vụ
sen và 1 vụ lúa, một năm các hộ nông dân chỉ trồng
một vụ lúa Đông Xuân, còn lại trồng sen.Sen từ lúc
trồng đến kết thúc, khoảng 5 tháng, thời gian còn lại
trong năm vừa cho một vụ lúa. Nhiều nông dân cho
biết chăm sóc cho sen ra hoa làm gương suốt chu kỳ
sinh trưởng với năng suất cao. Cây sen thay hai vụ
lúa, đỡ vất vả rất nhiều từ việc chăm sóc đến vận
chuyển, lợi nhuận cũng cao hơn vì giảm chi phí.
Theo số liệu khảo sát được từ các hộ nông dân, lợi
nhuận trung bình khi trồng lúa 3 vụ/ năm cho 1 ha
dao động từ 40 triệu đồng đến 52 triệu đồng (với giá
lúa là 5000 đồng/kg), trong khi đó với giá ổn định là
12000 đồng/ kg gương sen thì thâm canh 1 ha sen
cho lợi nhuận trung bình từ 55 triệu đồng đến 65
triệu đồng/ năm.
Hình 2. Tỷ lệ các kiểu mô hình trồng sen tại các hộ
được khảo sát (Số liệu khảo sát năm 2016)
NHU CẦU NƯỚC CHO MÔ HÌNH TRỒNG
SEN
Do mùa mưa năm 2015 đến muộn và kết thúc sớm,
dòng chảy thượng nguồn sông Mê Kông bị thiếu
hụt, mực nước thấp nhất trong vòng 90 năm qua nên
xâm nhập mặn đã xuất hiện sớm hơn so với cùng kỳ
hàng năm gần 2 tháng, ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp. Do tác động của biến đổi khí hậu, xâm nhập
mặn ngày càng nghiêm trọng nên không thể trồng
lúa 3 vụ quanh năm. Trong năm 2015, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, khuyến khích bỏ
làm lúa vụ xuân hè vì thiếu nước tưới (Tổng Cục
Thủy lợi, 2015). Trong khi đó, sen là cây có thể cao
vượt nước, vẫn có thể sống tốt trong lũ, nên mô hình
trồng sen có thể giúp trữ nước để cung cấp cho vùng
lúa và hoa màu xung quanh trong trường hợp khô
hạn.
Theo kết quả khảo sát được, nhu cầu nước cho canh
tác sen cao hơn đối với lúa và cần được thường
xuyên duy trì trong ruộng từ 30 cm đến 60 cm, tổng
lượng nước trung bình cần cho một vụ từ 10000 m3
– 14000 m3/ha/vụ. Trong khi đó, nhu cầu nước cho
lúa thấp hơn ở mức 4700 m3 – 5100 m3/ha/vụ(theo
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy lợi, 2009).
Hình 3 thể hiện nhu cầu nước của các hộ canh tác
sen tại địa bàn khảo sát.
Hình 3. Nhu cầu nước cho canh tác sen tại địa bàn
khảo sát (Số liệu khảo sát năm 2016)
MAI PHÚC THỊNH- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
0
5
10
15
20
Xã
Trường
Xuân
Xã Mỹ
Hòa
Xã Tân
Kiều
Xã Láng
Biển
15.7
18.5
9.3
6.5ha
32%
68%
Thâm canh sen
Luân canh lúa - sen
12%
68%
20%
Dưới 9000 – 10000 m3/ha/vụ
10000 – 12000 m3/ha/vụ
12000 – 14000 m3/ha/vụ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 41
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 41
Mặc dù được xem như là “túi chứa nước” ở vùng
ĐBSCL, nhưng do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu,
hạn hán nên trong các tháng thiếu nước (từ tháng 2
đến tháng 5), để duy trì mực nước tối thiểu cho sen,
đa số các hộ nông dân phải tìm cách dẫn nước vào
trong ruộng sen. Theo chia sẻ của chị Vân, một hộ
trồng sen ở xã Láng Biển thì Vùng này dù có hạn
hán đỉnh điểm thì cũng chưa từng thiếu nước, tuy
nhiên nguồn nước không thể tiếp cận và cung cấp
cho ruộng sen, nên mình phải bơm nước vào, tốn
khá nhiều chi phí. Nếu ruộng sen không gần nguồn
nước, thì hầu hết các hộ nông dân đều sử dụng máy
bơm hoặc thuê máy bơm để lấy nước khoảng 1 lần
1 tuần”. Với các máy bơm có công suất khoảng 132
m3/giờ (2200 lít/ phút), nông dân cần bơm nước liên
tục 10 giờ/ tuần.
THUẬN LỢI TRONG MÔ HÌNH CANH
TÁC SEN
Người trồng sen có hai hướng kinh doanh: Trồng
sen để lấy ngó hoặc trồng lấy gương, trong một
ruộng sen thì không thể vừa trồng lấy ngó, vừa lấy
gương được vì ruộng sen trồng lấy ngó thì gương
sen không thể tốt được, gương sen sẽ có nhiều hạt
lép. Hiện nay phần lớn người trồng sen ở địa phương
thường điều trồng sen lấy gương.
Sen vốn dễ trồng, ít tốn công chăm sóc, không cần
sử dụng nhiều phân bón và thuốc trừ sâu, do sen có
khả năng chống chọi sâu, bệnh, phù hợp với điều
kiện tự nhiên ở địa phương. Đến vụ thu hoạch, nhiều
thương lái đến mua trực tiếp tại ruộng.
Trung bình một kg gương sen có giá từ 11000 đồng
đến 40000 đồng tùy từng thời điểm. Vào thời điểm
cận kề Tết nguyên đán (tháng 11 – 12 Âm lịch), một
kg gương sen có giá hơn 60000 đồng. Theo chú
Tám, một hộ trồng sen tại xã Mỹ Hòa, nhận định:
“Đối với cây sen lấy gương, ngoài việc bón phân
cân đối thì 3 đến 4 ngày phải thay nước để hạn chế
bệnh và bệnh thối ngó. Nói chung, khi trồng sen
mình không cần chăm sóc, theo dõi sâu bệnh nhiều
như trồng lúa. Từ khi trồng đến 3 tháng là sen cho
thu hoạch. Từ tháng thứ 3 trở lên, 1 công sen cho
thu nhập trung bình từ 150 -200 kg gương sen, thu
hoạch kéo dài đến 1 năm và nếu giá cả ổn định thì
lợi nhuận cho 1 ha sen trung bình là 50 triệu – 60
triệu đồng/ha/vụ”.
Kết quả khảo sát 25 hộ nông dân cho thấy rằng có 3
thuận lợi chính của trồng sen so với trồng lúa là dễ
chăm sóc, tiết kiệm chi phí đối với phân bón, thuốc
trừ sâu và lợi nhuận cao nếu giá cả và đầu ra ổn định.
Số liệu cụ thể về đánh giá các mặt thuận lợi của canh
tác sen được trình bày ở Hình 4 - Có đến 20 hộ dân
được khảo sát đánh giá mô hình trồng sen cho lợi
nhận cao, 18 hộ cho là mô hình này dễ chăm sóc và
15 hộ cho rằng mô hình trồng sen tiết kiệm được chi
phí canh tác.
Hình 4. Những thuận lợi trong canh tác sen (Số
liệu khảo sát năm 2016)
KHÓ KHĂN TRONG MÔ HÌNH CANH
TÁC SEN
Hình 5 thể hiện đánh giá của hộ khảo sát về những
khó khăn trong mô hình trồng sen.
Theo kết quả khảo sát, có đến 20 hộ đánh giá khó
khăn nhất của mô hình trống sen là giá cả không ổn
định. Mặc dù canh tác sen có thể tạo thu nhập và lợi
nhuận cao hơn lúa, tuy nhiên giá gương sen để lấy
hạt (sản phẩm chính) thường bấp bênh, không ổn
định và không có một thị trường chung cho sản
phẩm này. Hầu hết, gương sen sau khi thu hoạch
xong, nông dân sẽ đem đến có cơ sở thu mua,
thương lái để bán và giá hoàn toàn phụ thuộc vào
những người này. Trung bình thì thường một kg
gương sen có giá từ 10000 đồng đến 14000 đồng.
Tuy nhiên, nếu nguồn cung cấp gương sen từ nông
dân nhiều và dồi dào thì thương lái sẽ hạ giá mua
xuống, đỉnh điểm có khi là 4000 đồng/ kg. Sau đó,
các cơ sở thu mua sẽ tách hạt sen, hoặc sơ chế thành
các sản phẩm như hạt sen đóng gói (giá khoảng
80000 đồng đến 150000 đồng/ kg theo mùa), hạt sen
rang, tim sen. Như vậy, nông dân thường xuyên chịu
cảnh ép giá dẫn đến thua lỗ khi canh tác sen. Chính
vì nguyên nhân này, mặc dù một số thuận lợi thấy
rõ từ việc trồng sen, nhưng nhiều hộ canh tác đã từ
bỏ và quay trở lại làm lúa 3 vụ.
Ở một số hộ, một phần diện tích trồng sen bị thiệt
hại và thất bát nặng nề do chuột hoành hành. Gương
sen chưa kịp lớn đã bị chuột cắn hết, làm giảm năng
suất và thậm chí mất trắng cả một vụ sen. Bà Oanh,
ngụ xã Láng Biển cho biết, “Sen ở đây trồng có ăn
lắm chú, nhưng gần đây không biết sao mà chuột nó
1815
20
0
5
10
15
20
25
Dễ chăm sóc Tiết kiệm chi
phí
Lợi nhuận cao
Số hộ
nông dân
MAI PHÚC THỊNH- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 42
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 42
ăn gương sen quá chừng, có khi sáng ra là không
còn thấy một gương nào nguyên vẹn, nó phá ruộng
sen mình xong, nó còn vô nhà cắn phá đồ đạc và tìm
đồ ăn. Nhà tôi năm nay mới có vụ đầu mà lỗ gần 5
triệu cho 2 công sen (0,2 ha) này vì lũ chuột”.
Nguyên nhân chuột tấn công ruộng sen và cách để
tiêu diệt chuột là câu hỏi còn đang bổ ngõ đối với bà
con nông dân. Một số hộ dùng điện để giăng bẫy
chuột trên ruộng sen hết sức nguy hiểm.
Ngoài ra, ở một số hộ canh tác sen với diện tích lớn,
công việc thu hoạch gương sen hoặc ngó sen cũng
hết sức vất vả. Không giống như lúa chỉ thu hoạch
một lần và có sự hỗ trợ của máy móc, nông dân phải
thường xuyên hái gương sen (hằng ngày). Nếu hộ
gia đình không đủ nhân lực, thông thường phải thuê
thêm lao động từ bên ngoài. Điều này một mặt giúp
tạo công ăn việc làm cho nhiều người, nhưng mặt
khác lại làm tăng thêm chi phí cho hộ nông dân.
Công việc hái sen đòi hỏi có sức khỏe, tốn thời gian,
dễ xảy ra xay xát và bị thương từ gai của cây sen.
Hình 5. Những khó khăn trong canh tác sen (Số
liệu khảo sát năm 2016)
Tình hình nông dân có còn muốn duy trì mô hình
trồng sen hoặc chuyển sang canh tác loại cây trồng
khác trong thời gian sắp tới được thể hiện trong
Hình 6. Với những khó khăn gặp phải khi canh tác
nhưng cũng có đến 36% số hộ khảo sát muốn duy
trì tiếp tục mô hình luân canh lúa sen, tỷ lệ số hộ tiếp
tục trồng sen cũng khá cao chiếm tỷ lệ 28% và tỷ lệ
số hộ bỏ canh tác sen chiếm tỷ lệ thấp nhất 16%.
Nhìn chung, với những thuận lợi và khó khăn hiện
tại thì mô hình trồng sen và luân canh lúa – sen vẫn
là các mô hình mang tính bền vững và tạo sinh kế
khá ổn định cho hộ dân vùng Tháp Mười.
Hình 6. Tỷ lệ hộ nông dân gắn bó với mô hình
trồng sen
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP TRONG
TƯƠNG LAI
Để phát triển mô hình trồng sen thành mô hình trữ
lũ cho các cây trồng khác trong mùa khô và khuyến
khích bà con nông dân gắn bó với việc canh tác sen
thì cần có sự phối hợp, hỗ trợ chặt chẽ từ chính
quyền, nhà khoa học và người nông dân, cụ thể là
Các doanh nghiệp cần có chính sách thu mua, tạo
“đầu ra” cho các sản phẩm từ sen để giúp đỡ, hỗ trợ
nông dân tăng cường sản xuất và đảm bảo thu nhập.
Cần tăng cường các chương trình truyền thông,
quảng bá, tiếp thị các sản phẩm được chế biến, sản
xuất từ sen.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có chính
sách quản lý, điều chỉnh giá thu mua các sản phẩm
từ sen một cách hợp lý, duy trì ổn định để người
nông dân có thể an tâm canh tác.
Các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp, nhà khoa
học nên hỗ trợ các kỹ thuật, phương pháp canh tác
sen có hiệu quả nên giảm thiểu thiệt hại do sâu bệnh,
tiết kiệm các loại chi phí, giúp tăng năng suất.
Tuyên truyền, tiếp xúc, gặp gỡ giúp người nông dân
có thể hiểu rõ lợi ích của việc trữ lũ từ các cánh đồng
sen trong việc ứng phó với tác động của biến đổi khí
hậu, mà cụ thể là vấn đề xâm nhập mặn, thiếu nước
vào mùa khô đang diễn ra nghiêm trọng.
Phát triển và đầu tư có khoa học, có quy hoạch hợp
lý mô hình du lịch sinh thái từ các cánh đồng sen, vì
mô hình này giúp tiêu thụ các sản phẩm từ sen, làm
tăng giá trị của mô hình thông qua việc tạo thêm thu
nhập và công việc cho nhiều người, góp phần vào
việc quảng bá du lịch tỉnh nhà.
20
14
9
0
5
10
15
20
25
Gía cả không
ổn định
Chuột cắn phá Nhân công và
thu hoạch
Số hộ
nông dân
16%
28%36%
20%Đã bỏ canh tác sen
Tiếp tục trồng sen
Tiếp tục luân canh lúa - sen
Sẽ canh tác cây trồng khác
MAI PHÚC THỊNH- ĐẠI HỌC CẦN THƠ
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 43
MẠNG LƯỚI NHÀ KHOA HỌC TRẺ - 2017 43
Cần Thơ, tháng 2 năm 2017
MẠNG LƯỚI THANH NIÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Website: http://mdy.vn
Facrbook: Thanh niên đồng bằng sông cửu long
Mọi đóng góp ý kiến xin vui lòng liên hệ chúng tôi thông qua email:
M¹NG L¦íI nhµ khoa häc trÎ
Xuất bản lần 1