ĐẠi hỌc quỐc gia thÀnh phỐ hỒ chÍ minh · nho giáo nói chung, quá trình nho giáo...

27
ĐẠI HC QUC GIA THÀNH PHHCHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC XÃ HI VÀ NHÂN VĂN PHM THLOAN QUÁ TRÌNH DU NHP CA NHO GIÁO VÀO VIT NAM TĐẦU CÔNG NGUYÊN ĐẾN THKXIX Chuyên ngành: LCH STRIT HC Mã s: 62.22.80.01 TĨM TT LUN ÁN TIN SĨ TRIT HC THÀNH PHHCHÍ MINH – 2015

Upload: others

Post on 31-Aug-2019

4 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ LOAN

QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA

NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM TỪ ĐẦU CÔNG

NGUYÊN ĐẾN THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

Mã số: 62.22.80.01

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2015

Page 2: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRƯƠNG VĂN CHUNG

Phản biện độc lập:

1. PGS. TS. Nguyễn Quang Hưng

2. PGS.TS. Nguyễn Thanh

Phản biện:

1. GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu

2. PGS.TS. Lương Minh Cừ

3. PGS.TS. Nguyễn Xuân Tế

Luận án được bảo vệ tại hội đồng chấm án tiến sĩ tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, số 10-12 Đinh Tiên Hoàng, Q.1 vào lúc: 8giờ 00 ngày 10 tháng 12 năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại:

Thư viện trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, số 10-12 Đinh Tiên Hoàng, Q.1.

Page 3: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

1. Đồng tác giả (2006), “Sự phát triển của Nho giáo thời kỳ Lý - Trần”,

tạp chí Triết học, số 12 (187).

2. Tác giả (2011), “Thế giới quan triết học của các nhà nho trong xã hội

phong kiến Việt Nam”, tạp chí Triết học, số 2 (237).

3. Tác giả (2015), “Sự tiếp biến các quan niệm đạo đức Nho giáo của

người Việt trong lịch sử”, tạp chí Khoa học chính trị, số 4

4. Tham gia (2007), “Khái quát sự phát triển của Nho giáo thời kỳ Lý –

Trần”, sách Tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần, PGS.TS. Trương Văn

Chung – PGS.TS. Doãn Chính đồng chủ biên, Nxb. Chính trị, quốc

gia, Hà Nội.

5. Tham gia (2011), “Ảnh hưởng của Tống Nho trong tư tưởng triết học

Nguyễn Bỉnh Khiêm”, sách Tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ

XIX, PGS.TS. Doãn Chính chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia.

6. Tham gia (2012), Lịch sử triết học phương Đông, PGS.TS. Doãn

Chính chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Tham gia (2013), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kì dựng

nước đến đầu thế kỷ XX, PGS.TS. Doãn Chính chủ biên, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

Page 4: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

1

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Là học thuyết triết học, chính trị, đạo đức Trung Quốc, ra đời ở thế kỷ VI

trước Công nguyên, sau đó lần lượt được truyền sang các nước Á Đông khác, Nho giáo đã có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm nay và trải qua nhiều biến đổi. Từ chỗ những ngày đầu còn xa lạ và bị phần lớn người Việt từ chối, sau thời Bắc thuộc, Nho giáo đã dần được các triều đại Việt Nam tiếp nhận, sử dụng làm hệ tư tưởng và công cụ trị nước, đào tạo ra những con người phù hợp với mục đích cai trị của chế độ phong kiến nước nhà. Nho giáo đã trở thành một trong những thành tố của truyền thống văn hóa Việt Nam, chi phối mạnh mẽ đến tư duy và thái độ ứng xử của người Việt.

Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày một mạnh mẽ, vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những thách thức to lớn đối với vấn đề bảo vệ, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc trong bối cảnh mới của thế giới hiện đại. Trong xu hướng đó, việc khẳng định và phát huy những yếu tố văn hóa bền vững, lâu dài, làm nền tảng tinh thần cho sự tồn tại và phát triển của cả một dân tộc là điều kiện hết sức thiết yếu. Nền văn hóa ấy tất yếu phải kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc mà trong đó Nho giáo đã từng giữ vai trò chủ đạo suốt nhiều thế kỷ. Việc nghiên cứu vấn đề Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch sử, chính trị và văn hóa mà Nho giáo có thể bén rễ trong xã hội, những ảnh hưởng của Nho giáo thể hiện qua tư tưởng, phong tục tập quán, lối sống, cách ứng xử xã hội... mặt khác để có thái độ đúng đắn đối với một học thuyết đã có những ảnh hưởng sâu sắc đối với đời sống xã hội của dân tộc trong lịch sử, đồng thời đem lại những bài học kinh nghiệm về sự tiếp thu, vận dụng của dân tộc ta đối với Nho giáo nói riêng và các học thuyết, tư tưởng ngoại lai nói chung vừa để tránh bị đồng hóa văn hóa vừa để làm giàu thêm nền văn hóa của riêng mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam được nhận

thức trong lý luận về sự chuyển đổi tư tưởng từ một nền văn hóa này sang một nền văn hóa khác, thể hiện ở nhiều công trình nước ngoài, như: Learning as Transformation: Critical perspectives on a theory in progress (2000) và Perspective Transformation (2012) của Jack Mezirow; Organizational Transformation: Approaches, Strategies, Theories, Amir Levy, Uri Merry, Havard, New York, 1998; Understanding religious conversion, Lewis Rambo, Yale University, 1993; Thought on the problem of religious conversion in history, Propper Karl, London, Oxford University, 1986; Rambo’s stages of

Page 5: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

2

conversion, Judy Harrow, Sociology and social Research (UNESCO), vol 36, No 3; Religion and the transformation of society, Wilson Monica, Cambridge, Cambridge University, 1971…

Về vấn đề Nho giáo nói chung, Nho giáo ở Việt Nam nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều tác giả với ba hướng nghiên cứu chủ yếu sau:

1. Hướng nghiên cứu điều kiện du nhập, đặc điểm và tiến trình lịch sử của Nho giáo ở Việt Nam, có các công trình tiêu biểu như: Đại Việt sử ký toàn thư, 3 tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993 và tập 2, Lê Sỹ Thắng (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Đăng Thục (6 tập), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1998; Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Nguyễn Hùng Hậu (chủ biên), tập 1, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2002; Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (tập 3) của Nguyễn Khắc Thuần, Nxb. Giáo dục, 1997; Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ XIX đến Cách mạng Tháng Tám của Trần Văn Giàu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993 (tập 1, tập 2); Nho giáo ở Gia Định của Cao Tự Thanh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1996... cùng nhiều bài viết trên các tạp chí Triết học và tạp chí Hán Nôm đề cập đến vấn đề này.

2. Hướng nghiên cứu nội dung tư tưởng, vai trò và ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam, có các công trình như: Tập sách Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào Duy Anh, Nxb. Quan Hải tùng thư, Huế, 1939, Nho giáo, Trần Trọng Kim, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992; Nho giáo xưa và nay, Vũ Khiêu (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991; Nho giáo tại Việt Nam, Lê Sỹ Thắng (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, Đến hiện tại từ truyền thống của Trần Đình Hượu, Nxb. Văn hóa, 1995; Nho học và Nho học ở Việt Nam của Nguyễn Tài Thư, Nxb. Hà Nội, 1997; Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Phan Đại Doãn (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Nho giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, Nxb. Hà Nội, 1998; Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh của Nguyễn Hoài Văn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam của Nguyễn Thanh Bình, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007…

3. Hướng nghiên cứu việc kế thừa các giá trị của Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới, được đề cập trong tác phẩm Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Vũ Khiêu, Nxb. Khoa học xã hội, 1997, các công trình của Lê Sỹ Thắng, Trần Đình Hượu... và các bài viết trên tạp chí Triết học của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Tài Thư…

Page 6: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án Mục đích của luận án là làm rõ được bản chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch

sử của quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX. Để đạt được mục đích đó, luận án có nhiệm vụ: Khái quát về học thuyết Nho giáo và những điều kiện cho sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam; Trình bày, phân tích các giai đoạn và những nội dung tư tưởng trong quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam; Nhận diện những đặc điểm cơ bản của quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam, trên cơ sở đó rút ra một số ý nghĩa lịch sử từ quá trình ấy.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Về đối tượng nghiên cứu, luận án tập trung tìm hiểu quá trình du nhập

của Nho giáo vào Việt Nam ở góc độ triết học, trong đó cố gắng phân tích, làm rõ những chuyển biến của Nho giáo trong quá trình truyền bá và tiếp nhận ở Việt Nam nhằm tìm ra tính quy luật của quá trình đó. Phạm vi nghiên cứu của luận án là từ đầu Công nguyên cho đến cuối thế kỷ XIX.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa

duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tiếp cận đề tài dưới góc độ triết học tôn giáo, đồng thời, tham khảo các lý thuyết chung về tiếp biến văn hóa, chuyển đổi tư tưởng để làm rõ quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam. Bên cạnh phương pháp liên ngành, luận án cũng sử dụng các phương pháp như phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, logic - lịch sử, diễn dịch - quy nạp.

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án Về ý nghĩa khoa học, luận án muốn góp phần làm rõ thêm quá trình du

nhập của Nho giáo vào Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX ở góc độ triết học. Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài giúp người đọc nhận thức rõ hơn về vấn đề tiếp thu và biến đổi Nho giáo của người Việt trong lịch sử, làm cơ sở cho những nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam nói riêng, về tư tưởng, văn hóa Việt Nam nói chung. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những sinh viên, học viên, những người quan tâm đến lĩnh vực lịch sử tư tưởng Việt Nam nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.

7. Cái mới của luận án Thứ nhất, luận án làm rõ nội hàm khái niệm về sự du nhập, bản chất của

sự du nhập văn hóa, tư tưởng ở góc độ triết học. Thứ hai, luận án phân tích đặc điểm của quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam. Thứ ba, luận án đề xuất một số ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam trong lịch sử tư tưởng.

8. Kết cấu của luận án

Page 7: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

4

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành ba chương, sáu tiết, mười sáu tiểu tiết.

Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO SỰ DU NHẬP

CỦA NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM 1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT NHO GIÁO 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức nổi tiếng của Trung Quốc

thời cổ đại, do Khổng Tử (551-479 TCN) hệ thống hóa những tư tưởng và tri thức trước đây mà thành, sau này Mạnh Tử (372-289 TCN) kế thừa và phát triển theo chiều hướng duy tâm, gọi là Nho nguyên thuỷ hay Nho Khổng - Mạnh. Thời Hán, Đổng Trọng Thư (179 -104 TCN) đã phát triển Nho Khổng - Mạnh theo hướng duy tâm, thần bí và tăng thêm tính đẳng cấp nhiệt ngã gọi là Hán Nho. Đến thời Tống, Nho giáo pha trộn với nhiều bộ phận của tư tưởng Phật, Lão - Trang, Âm Dương thành một hệ thống hoàn chỉnh, dựa vào Kinh Dịch làm xương sống triết học, với các cặp phạm trù cơ bản, cả về bản thể luận, nhận thức luận và luân lý - đạo đức, chính trị - xã hội, như là lý - khí, tâm - vật, số, tính, tình, mệnh, tam cương ngũ thường, tri và hành, thiên lý và nhân dục… Vào thời Minh, Vương Thủ Nhân (1472 - 1527) phát triển thêm theo hướng duy tâm và xây dựng nên học thuyết Tâm học. Đến đời Thanh, Vương Phu Chi, Hoàng Tông Hi, Cố Viêm Võ.. đã đề xướng trào lưu Thực học, cố gắng đổi mới Nho học theo hướng hiệu quả, thiết thực hơn. Cuộc cách mạng tư sản đầu thế kỷ XX đã làm sụp đổ triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc, đồng thời chấm dứt vị trí chính thống của Nho giáo trong đời sống xã hội.

1.1.2. Nội dung tư tưởng cơ bản của Nho giáo Trong quan điểm về thế giới, nhìn chung, Nho giáo là một học thuyết duy

tâm. Tuy trong quan niệm của người sáng lập Nho giáo là Khổng Tử cũng đã chứa đựng một số yếu tố tiến bộ nhưng do những biến đổi của thời cuộc, do những hạn chế bởi lợi ích giai cấp và nhận thức khiến cho tư tưởng của ông không tránh khỏi có những yếu tố duy tâm, thần bí. Mạnh Tử đã kế thừa tư tưởng “Thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy nó tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm khi khẳng định ý chí và quyền uy của trời trong việc sáng tạo và chi phối vạn vật: “Chẳng có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời. Mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy” (Mạnh Tử, Tận tâm thượng, 1, 2). Tư tưởng này của Khổng Tử và Mạnh Tử đến đời Hán được Đổng Trọng Thư kết hợp với thần học, “sấm vĩ”, quan điểm Âm dương - ngũ hành đã hình thành nên một hệ thống triết học mang tính chất duy tâm thần bí rõ rệt với các luận đề “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân cảm ứng”, “vương quyền thần thụ”,

Page 8: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

5

“thiên bất biến đạo diệc bất biến” cho tất cả đều là do trời định. Từ thời Tống trở đi, với sự kết hợp tư tưởng của Phật giáo và Đạo gia, đồng thời lấy Kinh Dịch làm cơ sở chủ đạo, quan điểm của Nho gia về thế giới trở nên khái quát và trừu tượng hơn, mang tính triết học nhiều hơn với các nguyên lý và các phạm trù như đạo và khí, lý và khí, trong đó lý là cái tuyệt đối vĩnh viễn không biến đổi, là bản thể của thế giới vạn vật, chi phối khí; còn khí là cái cụ thể, hữu hình, biểu hiện của lý và chịu sự chi phối của lý.

Về tư tưởng chính trị - xã hội, Nho giáo, đặc biệt là Nho Khổng - Mạnh đã nêu lên một xã hội lý tưởng như thời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, xem đó như là mục tiêu phấn đấu của mình. Để đạt tới xã hội đó, Nho giáo chủ trương “nhân trị”, “đức trị” nghĩa là lấy đạo đức để giáo hóa con người Bởi lẽ, nếu người cầm quyền “dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn can tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận từ gốc từ mặt tư tưởng” (Luận ngữ, Vi chính, 3) và “dựa vào đức hạnh khiến người khác phục thì người ta chịu tâm phục, tức là phục mà trong lòng thật tâm thật ý” (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu Thượng, 2, 1). Không những thế, nhà cầm quyền còn phải chăm lo cho dân, không để dân phải đói khổ, phải được lòng dân, bởi: “Muốn được thiên hạ có đạo lý nên theo là: có được dân là có được thiên hạ” (Mạnh Tử, Ly lâu thượng, 9).

Về mặt đạo đức - luân lí, Nho giáo chủ trương con người luôn phải có năm đức tính cơ bản (ngũ thường): nhân, nghĩa, lễ, trí, tín để có thể xử lý tốt quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em và bạn bè. Trong đó, Nho giáo đặt lên hàng đầu đức nhân, tất cả các đức khác cũng nhằm thực hiện đức nhân. Trong quan niệm của Nho giáo Khổng Mạnh, những mối quan hệ giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ và các hành vi ứng xử của con người trong xã hội là có tính hai chiều, chứ không mang tính khắt khe một chiều của bề dưới đối với bề trên. Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư đã hệ thống hóa các phạm trù đạo đức thể hiện những mối quan hệ cơ bản giữa người với người trong xã hội, trở thành nội dung, tiêu chuẩn cho sự giáo hóa đạo đức phong kiến. Ông đặc biệt nhấn mạnh ba mối quan hệ cơ bản nhất trong xã hội: “Quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương” (tam cương) và tuyệt đối hóa một chiều những chuẩn mực đạo đức và các mối quan hệ này. Vào thời Tống, khi chế độ phong kiến trung ương tập quyền được củng cố thêm, cái được gọi là lý lại được họ vận dụng vào xã hội để chỉ cái lý trong quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, cũng chính là những quy phạm đạo đức phong kiến, tạo ra những chuẩn mực vô cùng khắc nghiệt đối với con người.

1.2. KHÁI LUẬN VỀ DU NHẬP VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO SỰ DU NHẬP CỦA NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM

Page 9: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

6

1.2.1. Khái luận chung về sự du nhập Du nhập là khái niệm được Việt hóa từ tiếng Trung Quốc dùng để chỉ sự

đưa vào của một yếu tố từ một quốc gia, một nền văn hóa bên ngoài vào khu vực bản địa bằng một hành vi của con người. Về mặt văn hóa, bản chất của sự du nhập chính là mối liên hệ giữa yếu tố truyền bá văn hóa và yếu tố tiếp nhận văn hóa, mối liên hệ này được hiểu trong khái niệm về sự tiếp biến văn hóa (Accultuaration). Đó là “sự tiếp xúc giữa các cộng đồng văn hóa khác nhau và kết quả là những thay đổi về văn hóa trong mỗi nhóm”1. Trong quá trình tiếp xúc giữa mô hình văn hóa bản địa và văn hóa bên ngoài, diễn ra sự chuyển hóa hay kết hợp giữa các giá trị văn hóa nội sinh với các giá trị văn hóa ngoại sinh, trong đó có những giá trị bị khước từ, có những giá trị được vay mượn, có những giá trị được cải biến và cũng có những giá trị được sáng tạo. Bên cạnh những giải thích quan trọng từ lý luận tiếp biến văn hóa, sự biến đổi của một yếu tố văn hóa, tôn giáo, tư tưởng từ bên ngoài trở thành yếu tố bản địa hoặc từ nguyên gốc chuyển thành tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau còn được giải thích thông qua lý luận về sự chuyển đổi (Conversion theories). Theo đó, sự chuyển đổi là một quá trình chứ không phải một sự kiện, quá trình đó phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, được xem xét trong những mối tương quan về văn hóa, xã hội. Sự chuyển đổi này không chỉ là sự di chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác mà nó bao hàm nhiều sự thay đổi vi diệu trong sự thâm nhập, hòa quyện tư tưởng, văn hóa, niềm tin giữa các chủ thể, các nhóm người. Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam được xem xét trong một quá trình lâu dài với nhiều giai đoạn chuyển đổi khác nhau. Quá trình này thể hiện mối liên hệ giữa chủ thể truyền bá và chủ thể tiếp nhận Nho giáo, tạo thành hai quá trình - truyền bá và tiếp nhận - diễn ra song song nhưng không đồng nhất, hai quá trình đó khác nhau về mục đích, cách thức, nội dung, kết quả... ở từng giai đoạn nhất định.

1.2.2. Những điều kiện cho sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam Điều kiện địa lý, lịch sử: Về vị trí địa lý, Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, về hướng Bắc, cả

trên đất liền và biển, Việt Nam đều tiếp giáp Trung Quốc, giữ vai trò là cửa ngõ, thuận lợi nhất cho Trung Quốc nếu muốn xuống phía Nam. Xuất phát từ vị trí địa lý đó, từ xa xưa Việt Nam và Trung Quốc đã diễn ra sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các tộc người thuộc hai quốc gia trong một không gian có không ít tương đồng về địa lý, lịch sử và văn hóa. Là sản phẩm của Trung Quốc cổ đại, Nho giáo được truyền vào Việt Nam không phải thông qua con đường giao lưu văn hóa bình thường mà thông qua con đường xâm lược

1 Phạm Xuân Nam (2013), Sự đa dạng và đối thoại giữa các nền văn hóa - một góc nhìn từ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.83.

Page 10: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

7

của chính quyền phong kiến nhà Hán (110 TCN - 39 SCN). Bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, qua các thời điểm khác nhau dưới thời Bắc thuộc, giai cấp phong kiến thống trị phương Bắc đã truyền bá Nho giáo vào Việt Nam, xem đó là công cụ tinh thần để thống trị và đồng hóa người Việt. Đầu thế kỷ XV, sự xâm lăng của nhà Minh trên đất nước ta với những chính sách cai trị tàn bạo, xét ở một phương diện nào đó, đã củng cố cho sự phát triển sâu rộng của Nho giáo ở Việt Nam. Bên cạnh con đường của sự xâm lược, các yếu tố văn hóa Trung Hoa trong đó có tư tưởng Nho giáo cũng tràn vào đất phương Nam theo dấu chân của các đoàn thương gia. Đồng thời, hoạt động đối ngoại của các sứ giả triều đình trong mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trong lịch sử đã tạo cơ hội để người Việt hiểu biết thêm về sự phát triển của Nho giáo Trung Quốc, tiếp nhận kinh điển Nho giáo.

Điều kiện chính trị: Các triều đại phong kiến Việt Nam khi đã thiết lập bộ máy chính quyền

của mình với sự tập trung cao độ quyền lực vào một dòng họ thống trị, đứng đầu là một ông vua thì việc tìm được một hệ tư tưởng có khả năng phản ánh lợi ích, địa vị thống trị của triều đại mình, đồng thời giúp đỡ cho hoạt động quản lý xã hội, cai trị đất nước của vương triều là một điều hết sức thiết yếu. Cùng với Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cũng sớm du nhập Việt Nam và tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo trong bản chất không phải là một đạo trị nước mà chỉ có Nho giáo ở góc độ một học thuyết chính trị - đạo đức, chủ trương quyền hành phải tập trung vào thiên tử, bảo vệ quyền lợi của dòng họ thống trị và các địa vị tôn quý của nó, đồng thời đưa ra cái gọi là “tam cương”, “ngũ thường” như là những chuẩn mực cho hành vi ứng xử của con người đã tỏ ra là một công cụ hữu hiệu giúp các triều đại củng cố sự thống trị giai cấp, ổn định trật tự xã hội nói chung, đáp ứng được yêu cầu của giai cấp phong kiến thống trị. Do đó, các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng bước tạo điều kiện cho Nho giáo phát triển, biến nó thành ý thức hệ vững chắc để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị.Sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam gắn với xu thế đi lên tập quyền và thống nhất của chế độ phong kiến dân tộc.

Điều kiện kinh tế - xã hội: Nền kinh tế nước ta trong xã hội Việt Nam trước đây về thực chất, là một

nền kinh tế nông nghiệp lúa nước mang tính lạc hậu, khép kín, ổn định. Chính cơ sở kinh tế ấy khiến cho con người ta có sự cố kết cộng đồng hơn, hoà nhập vào thiên nhiên, chịu ảnh hưởng của thiên nhiên và sùng bái thiên nhiên (trời, đất), khiến con người trong các xã hội ấy tôn trọng tuổi tác, tôn trọng những người có kinh nghiệm, tôn trọng trật tự trong gia đình và xã hội, chú trọng sự hài hoà, hoà hợp… Trong nền sản xuất tiểu nông ấy, người nông dân tiến hành

Page 11: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

8

canh tác với kỹ thuật thô sơ và lối làm ăn riêng lẻ, đồng thời mỗi gia đình trở thành một đơn vị sản xuất hoàn chỉnh và vai trò của người chủ gia đình hết sức được đề cao. Nền sản xuất ấy trong xã hội phong kiến đã tồn tại trên một chế độ ruộng công, tạo ra các làng xã tự trị có tính chất như một công xã nông thôn. Cùng với quan hệ đẳng cấp của xã hội phong kiến, quan hệ gia trưởng phụ quyền, thị tộc góp phần làm tăng thêm tôn ti trật tự của gia đình, làng xã. Đó chính là mảnh đất thuận lợi nhất để Nho giáo tồn tại và phát triển ở Việt Nam.

Điều kiện văn hóa - giáo dục: Sau thời Bắc thuộc, Nho giáo du nhập Việt Nam gắn với nhu cầu phát

triển văn hóa - giáo dục của các triều đại phong kiến nước nhà. Để nắm quyền quản lý đất nước, các triều đại Lý - Trần đã quan tâm đến việc nâng cao tri thức. Đồng thời, do yêu cầu củng cố và phát triển của nhà nước phong kiến, nên việc bổ nhiệm quan lại bằng con đường cũ - con đường “nhiệm tướng” và “thủ sĩ” không đáp ứng được, mà cần phải có một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới để bổ sung vào đó. Điều này chỉ thực hiện được bằng việc phát triển một nền giáo dục mới, với chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài mà lúc này, chỉ có Nho giáo, với hệ thống lý thuyết đầy đủ về giáo dục và khoa cử, mới có thể đảm đương được nhiệm vụ lịch sử đó. Do vậy, từ cuối thời Trần, số người tiến thân bằng con đường cử nghiệp ngày càng nhiều, giới Nho sĩ đông đảo hơn trước. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, cho dù thời cuộc biến động, chủ trương chung của nhà nước phong kiến vẫn là mở mang, phát triển giáo dục Nho học, tuyển lựa nhân tài cho đất nước. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với sự suy tàn của chế độ phong kiến và việc bãi bỏ giáo dục, khoa cử Nho học, Nho giáo cũng mất đi vị trí và vai trò của mình. Sự tồn tại của Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam gắn bó không thể tách rời với việc giáo dục, khoa cử của nhà nước phong kiến.

Kết luận chương 1 Nho giáo là học thuyết do Khổng Tử sáng lập vào cuối thời Xuân Thu,

được bổ sung và phát triển qua nhiều giai đoạn, trở thành một hệ thống triết lý chính trị - đạo đức có ảnh hưởng lớn ở Trung Hoa. Nho giáo ngay từ đầu đã hướng đến xây dựng một xã hội thịnh trị và chủ trương lấy đạo đức, lễ nghĩa để giáo hóa con người, chủ trương chăm lo cho đời sống của nhân dân, coi dân là nền tảng để có được thiên hạ. Về sau, nó được bổ sung những luận điểm mới để khẳng định quyền uy tối cao của nhà vua, bảo vệ quyền lợi, địa vị của vương triều thống trị, dần dần tuyệt đối hóa thân phận và sự phục tùng của bề dưới đối với bề trên, trở thành những quy phạm khắc nghiệt, ràng buộc con người trong xã hội. Nho giáo du nhập Việt Nam trước hết bắt nguồn từ mưu đồ bành trướng lãnh thổ, đồng hóa nhân dân ta của các thế lực phong kiến phương

Page 12: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

9

Bắc xâm lược. Bên cạnh đó, sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về sản xuất nông nghiệp, quan hệ thương mại, bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa đã tạo ra những thuận lợi trong việc tiếp thu về cách thức xây dựng, quản lý nhà nước cũng như về văn hóa, tư tưởng đối với các triều đại phong kiến Việt Nam.

Chương 2 CÁC GIAI ĐOẠN VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA

NHO GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH DU NHẬP VIỆT NAM 2.1. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG QUÁ TRÌNH NHO GIÁO DU NHẬP VIỆT NAM

2.1.1. Giai đoạn đầu Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam Giai đoạn đầu tiên Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam tương ứng với

thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử dân tộc. Nho giáo được truyền vào Việt Nam với mục đích thống trị và đồng hóa người Việt của các triều đại Trung Quốc. Lực lượng truyền bá Nho giáo lúc này chủ yếu là chính quyền đô hộ, các viên quan cai trị như Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp... Bên cạnh đó, các nho sĩ di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau cũng tham gia vào quá trình truyền bá Nho giáo và văn hóa Hán ở Giao Châu bấy giờ. Sau khi xâm lược nước ta, cùng với việc chia lại khu vực hành chính và tổ chức bộ máy cai trị trên vùng đất mới chiếm được theo chế độ quận huyện của Trung Quốc, lực lượng đô hộ thực hiện một loạt các chính sách, biện pháp nhằm đồng hóa nhân dân ta mà theo đó Nho giáo được truyền bá vào: Thứ nhất, bắt nhân dân ta thay đổi phong tục tập quán theo người Trung Quốc; Thứ hai, phổ biến tiếng Hán và chữ Hán trong nhân dân nhằm thay đổi ngôn ngữ, chữ viết của người Việt; Thứ ba, mở trường dạy học để truyền bá Nho giáo nhằm đồng hóa dân tộc ta về tư tưởng tinh thần.

2.1.2. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận chủ động ở Việt Nam Xuất phát từ nhu cầu củng cố nhà nước quân chủ tập quyền và trật tự của

xã hội phong kiến, nhu cầu phát triển văn hóa giáo dục, từ thời Lý - Trần, nhà nước phong kiến đã chủ động tiếp nhận và sử dụng Nho giáo trong quản lý đất nước. Nho giáo trong giai đoạn này được truyền vào Việt Nam chủ yếu thông qua các hoạt động như: Các chuyến đi sứ; Xin sách, nhân bản sách; Những luồng người nhập cư. Về cách thức Nho giáo được tiếp nhận ở Việt Nam: Thứ nhất, các vị vua thời Lý - Trần đã cho mở mang giáo dục Nho giáo, xem trọng khoa cử Nho học và từng bước đưa nó trở thành công cụ chính để tăng cường sự thống trị của giai cấp phong kiến, tạo nên sức mạnh cho bộ máy nhà nước; Thứ hai, Nho giáo được phổ biến và gây ảnh hưởng trong xã hội cùng với sự mở rộng và vị thế ngày càng tăng của tầng lớp nho sĩ; Thứ ba, sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn này còn thông qua đóng góp của của các tăng sĩ - những người có ảnh hưởng lớn trong triều đình

Page 13: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

10

và xã hội bấy giờ. Sự ảnh hưởng của Nho giáo trong lĩnh vực giáo dục đã tác động trực tiếp vào sự hình thành đội ngũ trí thức dân tộc, tạo nên những bậc danh nho, danh tướng lẫy lừng, những người có đóng góp lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam như Lê Văn Hưu, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư...

2.1.3. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận làm hệ tư tưởng chính thống của nhà nước phong kiến Việt Nam

Nhằm củng cố và tăng cường chế độ tập quyền phong kiến trung ương, chuẩn mực hóa kỷ cương triều đình và trật tự xã hội, từ thời Lê sơ trở đi, giai cấp cầm quyền đã hết sức đề cao Nho giáo, xem đó là cơ sở lý luận để xây dựng đất nước, làm bệ đỡ tư tưởng bảo vệ lợi ích của vương triều. Nho giáo trong giai đoạn này được truyền bá vào nước ta thông qua nhiều hoạt động: hoạt động chính trị, ngoại giao hai nước, trao đổi ấn phẩm, dịch thuật sách chữ Hán và sự tiếp xúc với những người di cư. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, nhà nước phong kiến đã tiến hành rất nhiều biện pháp nhằm phổ biến Nho giáo trong nhân dân, làm cho nó trở thành tư tưởng chi phối sâu sắc toàn diện xã hội: Thứ nhất, giai cấp thống trị thời kỳ này hết sức chú trọng mở mang giáo dục và khoa cử Nho học; Thứ hai, thời kỳ này, nhà nước phong kiến còn ban hành các văn bản chính trị - xã hội dựa trên hệ thống quan điểm Nho giáo; Thứ ba, nhằm đề cao Nho giáo, triều đình còn thi hành những biện pháp hạn chế Phật giáo, Đạo giáo. Thông qua các chính sách, biện pháp đó, Nho giáo đã từng bước thâm nhập vào các lĩnh vực xã hội, đi sâu vào các thiết chế làng xã, tác động lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan của những người theo học đạo nho. Giai đoạn này gắn liền với tên tuổi của những nhà nho xuất sắc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Lê Thánh Tông và Minh Mệnh... những người với tài năng, trí tuệ và bản lĩnh của mình đã có những đóng góp to lớn, để lại những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nước nhà.

2.2. NHỮNG NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH DU NHẬP VIỆT NAM

2.2.1. Về thế giới quan Trong quan niệm về trời, mệnh trời, mối quan hệ giữa trời đất và con

người, những người cầm quyền đều cho rằng, mình là người nhận mệnh trời, thừa hành ý chí của trời để cai quản muôn dân, đồng thời tin rằng trời có thể thấu hiểu, giúp đỡ hoặc hóa giải nạn tai cho con người nếu con người thật sự có thành ý và bằng hành động chân thành của mình khấn xin làm cho trời cảm động. Các nhà nho cũng tin tưởng vào trời, mệnh trời và sự tương cảm giữa

Page 14: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

11

trời đất với con người. Chu Văn An cho rằng: “Nhà tranh hay nhà ngọc, đều có số mệnh”1. Theo Nguyễn Trãi: “Nước thịnh hay suy quan hệ ở trời, quân mạnh hay yếu không cứ ở nhiều”2. Ngô Sĩ Liên quan niệm: “Phàm người làm vua thận trọng trước sự răn bảo của trời, lo lắng làm hết phận sự của người thì đó là đạo vãn hồi tai biến của trời”3. Theo ông: “Lòng tin thành thực cảm thông đến cả vàng đá, huống nữa là trời? Việc gì trời đã giúp sức là thuận”4.

Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, cục diện nội chiến, chia cắt của đất nước đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của các nhà nho. Sự thay thế của các vương triều và sự biến đổi nhanh chóng của số phận con người làm cho các nhà nho thời kỳ này càng tin tưởng vào vào ý trời, mệnh trời và sự phụ thuộc, mối liên hệ chặt chẽ giữa con người và trời đất. Các vua quan nhà Nguyễn quan niệm, sự tồn tại của vương triều mình là “vâng chịu mệnh trời”, rằng trời vì dân mà đặt ra vua để thống trị, họ xem “mệnh trời” là một vũ khí vạn năng để biện minh tính chính thống của triều đại mình và củng cố quyền lực cho vương triều. Có thể nói, một mặt, những tư tưởng về trời đã được nhà nước phong kiến sử dụng để đề cao ngôi vua và thần thánh hóa vương quyền, mặt khác, nó cũng tác động và làm sâu sắc thêm ý thức về trời của con người Việt Nam, đáp ứng nhu cầu về mặt nhận thức của con người bấy giờ về những biến đổi của tự nhiên, xã hội và cuộc sống con người.

Trong quan niệm về âm dương, lý khí, các nhà nho quan niệm âm dương như hai sự vật khác nhau hoặc hai mặt khác nhau của cùng một sự vật, chúng vừa thống nhất lại vừa đối lập nhau, làm cơ sở cho sự sinh thành, biến hóa vạn vật. Về vấn đề lý, khí, các nhà tư tưởng xem lý là quy luật biến đổi của trời đất, vạn vật, còn khí là bản thể của vũ trụ như quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng: “Thái cực xưa đã phân, Tam tài chia ba vị. Nhẹ trong bay thành trời, Nặng đục dưới là đất. Ở giữa là con người, Tuy ba chung một khí” (Cảm hứng). Quan niệm về khí sau này được lý giải rõ hơn ở Lê Quý Đôn, khí không chỉ là nguồn gốc, bản chất của vạn vật mà khí còn quy định cả tính chất, hình trạng, đặc điểm của sự vật, hiện tượng trong thế giới. “Khí rất thần diệu, tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái; khí mà suy thì phải co rút; xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong trong thì thông, khí đục thì tắc; xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn...”5. Theo ông, quan hệ giữa lý và khí là quan hệ giữa quy tắc, quy luật với tồn tại vật chất, không thể tách rời, lý “nương theo khí mà hiện lộ ra”6. Ngô Thì Nhậm cũng

1 Viện văn học (1978), Thơ văn Lý - Trần, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.60. 2 Nguyễn Đăng Duy (1998), Sđd, tr.324. 3 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.45. 4 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 1, tr.200. 5 Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội, tr.59. 6 Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội, tr.37.

Page 15: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

12

quan niệm, khí chính là cái gốc của vạn vật, nhờ có lý thì khí mới chuyển hóa thành sự vật đa dạng khác nhau, “khí và hình vật đã chia rời nhau ra, thì khí trời xuống dưới, khí đất bay lên, có cái biến hóa vô cùng”1.

2.1.2. Tư tưởng chính trị - xã hội Chịu ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về mục tiêu xây dựng một xã

hội bình trị, thống nhất ổn định như xã hội Đường Nghiêu, Ngu Thuấn xa xưa, các vị vua quan, nhà nho người Việt thường lấy vua Vũ, Thang, Văn để làm khuôn mẫu cho các bậc đế vương, lấy xã hội các ông trị vì làm kỳ vọng để phấn đấu. Để có thể xây dựng được một xã hội thái bình, thịnh trị như xã hội Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Nho giáo chủ trương lấy “nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “trí”, “dũng”, “hiếu”, “kính”, “đễ”… để giáo hóa, cải biến con người. Chủ trương “đức trị”, “nhân trị” này cũng chính là đường lối trị nước cơ bản của của hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam, chủ yếu xoay quanh hai nội dung chính: Một là, sự tu thân sửa đức của nhà vua là cơ sở để xác lập những chuẩn mực đạo đức cho toàn xã hội. Hai là, sự quan tâm của nhà vua đến đời sống nhân dân, những chính sách, biện pháp nhằm giáo hóa dân, đem lại lợi ích và ấm no cho dân.

Các nhà nho cho rằng, vị trí quan trọng nhất trong xã hội là một ông vua, do đó, việc tu thân, sửa đức của nhà vua được nhấn mạnh như là điều kiện tiên quyết để xây dựng một xã hội thái hòa, thịnh trị bền vững. Nhà vua có đức và thường xuyên sửa đức sẽ thu phục được lòng người, ân trạch thấm thía đến muôn dân để mọi người được sống yên vui trong cảnh thái bình, thịnh trị. Theo Lê Văn Hưu, “người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, chỉ xem ở đức mà thôi”2. Nguyễn Trãi cũng nhấn mạnh “nhân nghĩa” của người cầm quyền trong việc trị nước an dân, coi đó như là nguồn gốc sức mạnh giữ nước và dựng nước, ổn định xã hội. Theo ông: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nghĩa làm đầu” (Lại thư trả lời Phương Chính). Theo Nguyễn Trãi, người cầm quyền muốn mưu nghiệp lớn phải được lòng dân, phải dùng nhân nghĩa để yên dân, làm cho nhân dân được no đủ để “chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn than”3. Kế thừa tư tưởng Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông giương cao đường lối “lễ trị”, nhấn mạnh nhân nghĩa trong việc trị nước, yên dân, coi thương “thân yêu dân là trách nhiệm”, coi: “Lễ nghĩa để sửa tốt lòng dân, nông tang để có đủ cơm áo. Hai điều đó là việc cần kíp của chính sự, là chức trách của các quan nuôi giữ dân”4. Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm: “Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn

1 Mai Quốc Liên (Chủ biên và khảo luận) (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 3, Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, tr.156. 2 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 1, tr.146. 3 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.336. 4 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.497.

Page 16: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

13

giữ được nước, cốt phải được lòng dân” (Cảm hứng). Nguyễn Dữ viết: “Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân” (Câu chuyện đối đáp với người tiều phu ở núi Na). Minh Mệnh nhấn mạnh: “người làm chính trị không thể trái ý muốn của dân”1. Trên cơ sở ý thức được sức mạnh của dân, các nhà nho chủ trương người cầm quyền phải chăm lo cho đời sống nhân dân, làm sao cho nhân dân được ấm no, sung túc, được sống thái bình, yên vui.

2.1.3. Tư tưởng đạo đức - luân lý Ở các triều đại đầu tiên của nhà nước phong kiến dân tộc độc lập, vấn đề

luân lý - đạo đức trong các mối quan hệ xã hội chưa thực sự được quan tâm, các mối quan hệ xã hội cũng chưa bị ràng buộc nhiều bởi khuôn mẫu cứng nhắc của đạo Nho. Nhà Lý và nhà Trần có học theo đạo Nho nhưng không phải giáo điều, rập khuôn tư tưởng Nho giáo mà vận dụng nó trên tinh thần thực tiễn của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước bấy giờ. Trong quan hệ vua - tôi, chữ trung được đề cao nhưng trung quân gắn liền với ái quốc, chứ không chỉ trung với vua, với triều đại của vua. Còn hiếu được xem là gốc của đức “trung”, nếu không có hiếu trong gia đình dễ dẫn đến phản loạn, trái nghịch với bề trên. Từ cuối thời Trần trở đi, đặc biệt đến thời Lê sơ, khi Nho giáo phát triển mạnh mẽ và tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, các nho sĩ bắt đầu đề cao những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo như là điều kiện thiết yếu cho một xã hội phong kiến trị bình, coi tam cương ngũ thường “là luân lý lớn của loài người”2, “là đạo thường của muôn đời, không thể ngày một rối loạn”3.

Thời Lê sơ, quan niệm về đạo trung của bề tôi được khái quát ngắn gọn trong lời nói của Lê Thánh Tông: “Đạo làm tôi cốt yếu có hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung, yêu dân phải hết lòng thành, thế thôi”4. Cùng với đạo trung, chữ hiếu được đề cao. Nguyễn Trãi bày tỏ: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu, mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng thâm”5. Còn về đạo vợ chồng, Ngô Sĩ Liên cho rằng: “Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa”6. Trong bối cảnh loạn lạc của xã hội cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, những giá trị đạo đức, kỷ cương trật tự của xã hội rơi vào khủng hoảng trầm trọng, quan niệm đạo đức - luân lý cũng không còn hoàn toàn theo chuẩn mực của Nho giáo, và còn chịu ảnh hưởng một số tư tưởng của Phật giáo, Lão giáo. Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm: “trung nghĩa là 1 Quốc sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, tập XIII, Nxb, Khoa học, Hà Nội, 1965, tr.6. 2 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.16. 3 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 1, tr.221. 4 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.310. 5 Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.419. 6 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 1, tr.222.

Page 17: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

14

đứng giữa, không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ vẹn được điều thiện thì không phải là trung vậy;... Như trung với vua, hiếu với cha mẹ, thuận với anh em, hòa giữa vợ chồng, tín giữa bạn bè, đó là trung vậy. Trung ở chỗ nào tức là điều chí thiện ở chỗ ấy”1. Vào nửa thế kỷ XVIII, cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên, tiến hành cuộc lật đổ tập đoàn Lê - Trịnh khiến nhiều triều thần Lê - Trịnh hốt hoảng, khư khư giữ lấy quan niệm ngu trung của Nho giáo. Tuy nhiên, nhiều nhà nho tiến bộ bấy giờ mà tiêu biểu là Ngô Thì Nhậm, đã quan niệm rằng, đạo đức Nho giáo mà đứng đầu là đạo trung phải được thực hành một cách sáng suốt và hợp lý, bởi lẽ: “nghĩa làm bầy tôi, có trường hợp đáng chết, có trường hợp không đáng chết, có cái chết phải nghĩa, có cái chết không phải nghĩa”2. Theo ông, chỉ cần vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc thì đó chính là trung và cũng chính là nghĩa.

Thế kỷ XIX, sau khi thiết lập bộ máy trung ương tập quyền thống nhất trên cả nước, các vua Nguyễn đã tìm cách chấn chỉnh kỷ cương phép nước, coi đạo đức Nho giáo là giường cột cho nền đạo đức chính thống và cho chế độ cai trị của mình. Các nhà nho bấy giờ cũng đề cao chữ trung và đưa ra những quan niệm về hiếu, nghĩa, trí, tín,... coi đó là những phẩm chất cao đẹp cần phải có của con người. Nguyễn Đình Chiểu quan niệm: “Làm người trung nghĩa đáng bia soi. Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn. Tinh thần hai chữ pha sương tuyết. Khí phách ngàn thu rực rỡ núi non”3.

Kết luận chương 2 Với mục đích đồng hóa và nô dịch nhân dân ta, các triều đại phương Bắc

đã truyền bá Nho giáo vào Việt Nam bằng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, người Việt tiếp nhận hết sức thụ động và mang tính phản kháng, Nho giáo chưa đi sâu vào đời sống tư tưởng, sinh hoạt của quần chúng. Với những yêu cầu mới của thực tiễn, Nho giáo từ sau thời Bắc thuộc, đặc biệt là từ thời Lý - Trần đã được chủ động tiếp thu như một công cụ tư tưởng bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, tổ chức bộ máy chính quyền và quản lý đất nước. Bằng con đường giáo dục khoa cử tuyển lựa nhân tài, Nho giáo đã từng bước giành được vị trí quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Thông qua quan niệm về trời đất, con người, về các vấn đề chính trị - xã hội, đạo đức nhân sinh của những người chịu ảnh hưởng của Nho giáo có thể thấy ở đó, sự tiếp thu Nho giáo mang đậm tinh thần dân tộc, gắn với thực tiễn, lại vừa thể hiện được khí phách, bản lĩnh của người Việt. Từ thế

1 Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1979), Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, tập 2, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr.140. 2 Mai Quốc Liên (Chủ biên và khảo luận) (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 4, Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, tr.179. 3 Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb. Hà Nội, tr.363.

Page 18: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

15

kỷ XV cho đến thế kỷ XIX, Nho giáo được xem là hệ tư tưởng chính thống của nhà nước phong kiến. Hệ thống giáo dục thi cử phát triển tạo ra nhiều nhà tư tưởng lớn với tài năng xuất sắc trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong thế giới quan, nhân sinh quan và các quan điểm về chính trị - xã hội, các nhà tư tưởng nhìn chung chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo Tống - Minh nhưng bên cạnh đó họ cũng tiếp thu và chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo đồng thời gắn các quan điểm này với tình hình thực tiễn của xã hội, đất nước, thể hiện tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ, tinh thần nhân đạo yêu nước, thương dân.

Chương 3 ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

CỦA QUÁ TRÌNH NHO GIÁO DU NHẬP VIỆT NAM 3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH NHO GIÁO DU

NHẬP VIỆT NAM 3.1.1. Tính phức tạp của quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam Tính phức tạp của quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, Nho giáo được truyền bá và tiếp nhận ở Việt Nam không hoàn toàn đi theo quy luật giao lưu văn hóa thông thường mà trước hết là do sự áp đặt của các thế lực xâm lược phương Bắc với âm mưu đồng hóa về văn hóa, tư tưởng đối với nhân dân ta. Thứ hai, sự truyền bá và tiếp nhận Nho giáo vào Việt Nam diễn ra liên tục, ở nhiều thời điểm, với mục đích, nội dung và tính chất khác nhau.

Ở giai đoạn đầu tiên của quá trình du nhập, với âm mưu bành trướng lãnh thổ, đồng hóa nhân dân Việt Nam, Nho giáo truyền vào Việt Nam buổi đầu phải là Hán Nho. Tuy nhiên, nếu sự truyền bá Nho giáo diễn ra mạnh mẽ, chủ động và chủ yếu là áp đặt thì sự tiếp nhận diễn ra chậm chạp, thụ động và bị ép buộc. Lúc này, nhân dân ta chủ yếu học hỏi, tiếp thu kĩ thuật canh tác nông nghiệp, văn hóa phong tục tập quán từ người Trung Quốc như về phục trang, hôn thú, lễ nghi,.. chứ không phải tiếp nhận những quan điểm hệ thống về chính trị, đạo đức, bản thể của Nho giáo như ở các giai đoạn sau. Đồng thời, người Việt lại lựa chọn tiếp nhận Phật giáo và Đạo giáo như là cách thức để chống lại sự áp đặt và đồng hóa văn hóa của thế lực xâm lược. Sau thời Bắc thuộc, trước yêu cầu đặt ra về việc xây dựng và phát triển nhà nước Đại Việt, giai cấp phong kiến bản địa với sứ mệnh xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập tự chủ giàu mạnh đã chủ động tiếp thu Nho giáo thông qua giao lưu kinh tế, văn hóa, ngoại giao với Trung Hoa. Sự tiếp nhận Nho giáo lúc này đạt được những kết quả nhất định về phát triển văn hóa, giáo dục và sự hình thành đội ngũ nho học. Những quan niệm về vũ trụ vạn vật, trời đất, con người, về những vấn đề chính trị - xã hội, đạo đức, nhân sinh của Hán Nho và Tống Nho

Page 19: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

16

đã có những tác động nhất định vào đội ngũ những người học Nho. Tuy nhiên, do bối cảnh đất nước ở giai đoạn mới giành tự chủ còn chưa ổn định, yếu tố truyền bá diễn ra chưa thật mạnh mẽ, sâu sắc và sự tiếp nhận Nho giáo cũng chưa diễn ra trên bình diện rộng. Từ thế kỷ XV, quá trình du nhập Nho giáo mới diễn ra thật sự mạnh mẽ, Nho giáo đã thay thế vị trí của Phật giáo để đóng vai trò là trung tâm của tam giáo, trở thành nền tảng của mọi thiết chế chính trị, xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi hoạt động văn hóa của nước nhà. Nho giáo được tiếp thu lúc này đã mang tính hệ thống hơn, về mặt học thuật và lý luận cũng được chú ý nhiều hơn. Các nhà nho Việt Nam từ thời Lê - Nguyễn cho đến đầu thế kỷ XX chỉ lấy các sách của Khổng, Mạnh, Trình, Chu làm kinh điển. Họ mong muốn tìm thấy ở Nho giáo những quan điểm, tư tưởng hữu ích cho việc xây dựng một quốc gia thái bình, một vương triều thống nhất, một xã hội ổn định. Mặc dù cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, phong trào Thực học của nhà Thanh đã có ảnh hưởng đến tầng lớp học Nho Việt Nam, tuy vậy, Tống Nho vẫn là học thuyết được truyền bá và có ảnh hưởng sâu sắc nhất ở Việt Nam, hơn nữa càng về sau với sự độc tôn Nho giáo ngày một cực đoan đã khiến cho sự tiếp thu Tống Nho ngày càng phiến diện, khuôn sáo, cộng với chế độ khoa cử hư danh khiến cho phong trào học thuật suy thoái.

3.1.2. Tính dung hợp trong quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam Thuật ngữ “dung hợp” bắt nguồn từ chữ Synkretimos trong tiếng Hy

Lạp cổ, nghĩa là sự liên kết, kết hợp, pha trộn, vay mượn các bộ phận, yếu tố trong các hệ thống khác nhau1. Theo Hoàng Phê, trong Từ điển tiếng Việt, dung hợp là trạng thái hòa vào nhau để tạo thành một thể thống nhất2. Trong quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam, tính chất đó được thể hiện rõ ràng nhất ở sự dung hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo trên cơ sở văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam. Tam giáo du nhập và tồn tại đồng hành ở Việt Nam không phải với tư cách từng học thuyết, từng yếu tố văn hóa, tôn giáo đơn lập, tách biệt mà giữa chúng có nhiều mặt thâm nhập vào nhau, hòa quyện vào nhau, chi phối như một tổng lực đối với tâm thức người Việt. Sự dung hợp này xuất phát chủ yếu từ tính hài hòa và dung hợp của văn hóa Việt Nam. Trên cơ sở một nền văn hóa bản địa vững chắc mà ý thức hệ cốt lõi trước hết là tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, người Việt đã tiếp nhận, dung hợp và biến đổi các học thuyết Nho, Phật, Đạo một cách linh hoạt. Tính dung hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo trong quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam biểu hiện cụ thể ở các phương diện: chính trị - xã hội; tư tưởng, đạo đức; văn hóa dân gian.

1 Trương Văn Chung - Doãn Chính (Đồng chủ biên) (2008), Tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.277. 2 Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.266.

Page 20: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

17

Trước hết, trong lĩnh vực chính trị - xã hội, sự dung hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo được biểu hiện ở sự phân công hợp tác và bổ trợ cho nhau giữa Nho, Phật, Đạo nhằm phục vụ cho mục đích cai trị đất nước, quản lý xã hội của nhà nước phong kiến Việt Nam. Dưới chế độ phong kiến Việt Nam, Nho, Phật, Đạo đều có vị trí, vai trò nhất định trong đời sống chính trị - xã hội. Với tư tưởng tôn quân quyền, đường lối tu tề, trị, bình, nguyên tắc chính danh định phận, tư tưởng thiên mệnh trung hiếu... Nho giáo đã dần dần trở thành hệ tư tưởng cần thiết, hữu ích và thiết thực đối với giai cấp phong kiến trong việc định hướng triển khai đường lối cai trị, duy trì trật tự, kỷ cương xã hội và lợi ích cũng như địa vị thống trị của họ. Còn đối với Đạo giáo và Phật giáo, giai cấp phong kiến Việt Nam khai thác các yếu tố “tôn giáo”, “an thần”, để ổn định nhân tâm, dẫn dắt và thu phục lòng người, giải tỏa những nhu cầu về mặt nhận thức. tâm linh tinh thần nói chung của con người. Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo được tiếp nhận và sử dụng nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau cùng đáp ứng những nhiệm vụ của thực tiễn đất nước, của đời sống xã hội trong lịch sử.

Thứ hai, trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, sự dung hợp Nho giáo với Phật giáo, Đạo giáo được biểu hiện rõ nét ở sự xâm nhập, hòa quyện vào nhau trong quan niệm về vũ trụ, vạn vật, con người, về chính trị - xã hội đặc biệt là trong triết lý đạo đức nhân sinh của người Việt Nam. Theo Trần Thái Tông, các vị sáng lập ra Nho, Phật, Lão vốn là những nguời bạn đồng hành: “Người chưa hiểu chia bừa thành tam giáo, Giác ngộ rồi thấu hiểu một chữ tâm”1. Chính vì vậy, các nhà nho một mặt đề cao lý tưởng Nho giáo, phấn đấu theo tiêu chuẩn đạo đức Nho gia, nhưng mặt khác, họ cũng am hiểu và tin theo Phật, Đạo, nhất là khi đứng trước những thay đổi của cuộc đời, những biến động xã hội. Sự tồn tại của Phật giáo, Đạo giáo ở Việt Nam bên cạnh Nho giáo được xem như một “duyên nợ”, nó giúp cho các nhà nho “vừa hóa giải được cách nhìn cứng nhắc của hệ tư tưởng Nho giáo trong họ, vừa có tác dụng nâng đỡ tâm hồn họ, giúp cho tình cảm của họ trở nên thanh thản và cũng thêm uyển chuyển mềm mại, qua một thoáng trầm mặc siêu hình. Và sau những giờ phút phải đặt mình vào cái khuôn “nhất nguyên” Nho giáo, lý trí nặng như đá đeo vì những chuẩn mực trung, hiếu, tiết, nghĩa khô cứng, bao giờ nhà Nho cũng bằng cách này hay cách khác tìm sự thăng bằng trở lại cho tâm hồn họ trong các biện pháp “phóng niệm”, “buông xả” của Phật giáo và Đạo; nó là một phương thức tiếp nhận “đa nguyên” đầy ý nghĩa, một chuyển động ngầm nhưng hầu như khó cưỡng”2.

1 Viện văn học (1989), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.65. 2 Nguyễn Huệ Chi (1998), “Về hiện tượng dung hợp trong văn hóa Việt nam”, Xưa và Nay, số 57B, tháng 11-1998.

Page 21: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

18

Thứ ba, trong lĩnh vực văn hóa dân gian, sự dung hợp Nho giáo với Phật giáo, Đạo giáo biểu hiện ở sự thâm nhập của tam giáo trong văn học dân gian hay trong tín ngưỡng của người Việt. Trong bộ phận văn học dân gian Việt Nam, chúng ta thường xuyên bắt gặp những câu dân ca, ca dao, tục ngữ đề cập đến các tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo, Phật giáo, hay Đạo giáo. Các câu chuyện cổ tích, thần thoại Việt Nam, các vị thánh thần, tiên, Phật luôn luôn có mặt để nhắc nhở con người tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ, đồng thời các câu chuyện cũng giáo dục con người về đạo hiếu, sự trung trinh, tình nghĩa vợ chồng, tình cảm anh em, bè bạn... Bên cạnh đó, sự dung hợp Nho giáo với Phật giáo, Đạo giáo trên cơ sở văn hóa truyền thống được thể hiện trong các tín ngưỡng dân gian của người Việt như tín ngưỡng thờ trời, tín ngưỡng thờ cúng âm hồn, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên....

Tóm lại, xuất phát từ nhờ truyền thống cởi mở, khoan dung của người Việt, Nho giáo trong quá trình du nhập Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX đã đồng hành và kết hợp với Phật giáo, Đạo giáo tạo thành hiện tượng dung hợp tam giáo ở nước ta. Trên nền tảng đó, các dòng tư tưởng, tôn giáo này khi vào nước ta đã có nhiều biến đổi để thích ứng với thực tiễn xã hội và đời sống tư tưởng của dân tộc ta. Đồng thời, tồn tại bên cạnh nhau, chúng không chỉ ảnh hưởng lẫn nhau mà hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, vừa phục vụ cho nhu cầu của giai cấp thống trị, đồng thời đáp ứng được những nhu cầu của đời sống tinh thần của con người.

3.1.3. Tính Việt hóa trong quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam Nho giáo được truyền vào nước ta đã trải qua một quá trình bản địa hóa,

được tiếp thu, hấp thụ, được cải tạo trên cơ sở truyền thống và hệ giá trị của người Việt trong đó, tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, tính gắn kết cộng đồng, lối sống trọng tình nghĩa,... là những yếu tố cơ bản.Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam đã cho thấy quy luật về sự tác động qua lại giữa yếu tố yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh. Trong đó, những yếu tố ngoại sinh phải trải qua quá trình: lúc đầu bị phản ứng quyết liệt, sau đó là cộng sinh và cuối cùng là hòa nhập; người Việt cũng tiếp nhận yếu tố ngoại sinh đó và biến đổi nó theo trật tự: lúc đầu là tiếp thu, tiếp đó là hệ thống hóa và cuối cùng là Việt hóa nó, tức là được người Việt biến thành cái của mình. Trong mối quan hệ với yếu tố ngoại sinh, những yếu tố nội sinh đã được biến đổi theo ba bước là: tháo rời cấu trúc cũ, sau đó sắp xếp lại (tái cấu trúc) và cuối cùng được hiện đại hóa1. Tính chất Việt hóa của Nho giáo trong quá trình du nhập Việt Nam được thể hiện ở ba điểm cơ bản:

1 Nguyễn Hồng Dương (2013), Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.220.

Page 22: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

19

Thứ nhất, người Việt đã thông diễn lại tư tưởng Nho gia bằng tiếng Việt để làm rõ các vấn đề nghĩa lý trong kinh điển như là sự bản địa hóa các yếu tố học thuật Trung Quốc; Việc thông diễn lại kinh điển Nho gia bằng việc phiên dịch, diễn dịch, chú giải, chú sớ... trong tiếng Việt là con đường làm cho tư tưởng Nho gia phù hợp với tư duy người Việt, nhu cầu tư duy tư tưởng, triết học bằng tiếng Việt. Những hoạt động của các nhà nho như truyện, chú, tiên sớ, luận, khảo, giải nghĩa, diển nghĩa, huấn hỗ, khảo chứng, diễn ca, quốc âm ca, ước giải, lược giải, giải âm,... đều nhằm mục tiêu đó.

Thứ hai, người Việt không tiếp nhận toàn bộ nội dung Nho giáo Trung Quốc mà chỉ tiếp nhận những gì gần gũi, phù hợp. Trong sự tiếp thu này, người Việt “không bàn nhiều về lý luận phức tạp, mà chú trọng vào củng cố nhân luân hiếu đễ, củng cố nền kinh tế nông nghiệp, củng cố khối cộng đồng gia đình - họ tộc - xóm làng, củng cố việc học hành khoa cử”1. Họ đã “tinh giảm Nho giáo thành một loại hình ý thức hệ đặc thù, tách khỏi các dòng chủ lưu của Nho học Trung Quốc bằng cách chỉ lấy một vài phần có giá trị thực dụng để bảo vệ Tổ quốc khỏi ách ngoại xâm hoặc gắn kết cho quyền lực của kẻ thống trị. Người Việt chỉ nhặt nhạnh những gì hữu ích nhất cho các mục đích thực dụng và không đụng đến phần còn lại”2.

Thứ ba, khi tiếp nhận các khái niệm của Nho giáo, người Việt đã biến đổi nó, tái cấu trúc và sắp xếp lại thang bậc các giá trị. Khi vào Việt Nam, “các khái niệm phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo đã được tái cấu trúc thành hệ thống mới chứ không còn là những yếu tố của hệ thống cũ”3. Do đó, nếu như ở Trung Quốc, các phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo như trung, hiếu, nhân và các tiêu chuẩn khắt khe đối với con người trong các mối quan hệ xã hội chủ yếu hướng đến việc củng cố quyền uy tuyệt đối của quân quyền, phụ quyền, nhấn mạnh sự phục tùng tuyệt đối của kẻ dưới đối với bề trên thì khi du nhập Việt Nam, chúng được thêm nội dung yêu nước và nội dung này mới là nền tảng cho những quan niệm đó được thực hiện. Những chuẩn mực đạo đức, tam cương ngũ thường đã không dễ dàng thay đổi được lối sống của người Việt mà còn hòa vào thiết chế cộng đồng làng xã, chịu sự tái tạo của hệ giá trị người Việt Nam trong suốt các thời kỳ lịch sử khác nhau. Trong quá trình người Việt tiếp nhận và vận dụng Nho giáo như một học thuyết chính trị để xây dựng và bảo vệ đất nước, Nho giáo được biến đổi, bổ sung và dung hợp những yếu tố mới của văn hóa, truyền thống bản địa tạo thành Nho giáo của người Việt mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là Việt Nho.

1 Phan Đại Doãn (1997), “Mấy vấn đề Nho học - Nho giáo ở miền Bắc Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX”, Triết học, số 2, tháng 4 - 1997, tr.10. 2 Nguyễn Hùng Hậu (2005), “Một số đặc điểm của Nho Việt”, Nghiên cứu tôn giáo, số 1, tr.36-37. 3 Doãn Chính - Nguyễn Sinh Kế, “Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam (từ đầu công nguyên đến thế kỷ XIX)”, Triết học, số 9, tháng 9 - 2004, tr.38.

Page 23: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

20

3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA QUÁ TRÌNH NHO GIÁO DU NHẬP VIỆT NAM

3.2.1. Ý nghĩa về phương diện văn hóa Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam trong lịch sử đã đóng

góp nhất định vào tiến trình giao lưu, tiếp nhận và tác động văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa. Trong quá trình đó, Nho giáo đã từng bước hòa quyện vào truyền thống văn hóa vốn có của dân tộc, bổ sung và làm cho diện mạo văn hóa Việt Nam có thêm những sắc thái mới.

Về mặt văn hóa nói chung, một quốc gia chỉ có thể phát triển nhờ kế thừa các nền văn hóa trước đó và giao lưu với các nền văn hóa đồng đại. Trong trường hợp tự nguyện tiếp thu văn hóa bên ngoài thì sự vay mượn mang tính chủ động, có tổ chức, khi đó, tộc người chủ thể chỉ chọn lọc lấy những giá trị thích hợp cho tộc người mình hoặc là dường như tiếp nhận cả hệ thống nhưng đã có sự sắp xếp lại theo quan niệm giá trị của chính họ, đồng thời mô phỏng và biến thể một số thành tựu của văn hóa tộc người khác bởi tộc người chủ thể1.

Trước khi Nho giáo du nhập Việt Nam, người Việt đã có một lịch sử dựng nước sớm, một nền văn hóa bản địa lâu đời. Khi Nho giáo du nhập Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, nó đã có tác động và làm thay đổi diện mạo văn hóa Việt Nam, từ chữ viết cho đến phong tục tập quán, cũng như các sáng tác văn học nghệ thuật người Việt. Sự du nhập này, một mặt góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa - xã hội người Việt, ổn định trật tự xã hội và tăng cường mối quan hệ bền chặt trong gia đình và dòng họ, giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ. Mặt khác, nó cũng cũng để lại những tác động tiêu cực đối với đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt.

3.2.2. Ý nghĩa về phương diện tư tưởng, đạo đức Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam đã tác động lớn đến thế

giới quan, nhân sinh quan và tư tưởng chính trị - xã hội của người Việt. Một mặt, những quan điểm của Nho giáo đã kết hợp với các yếu tố văn hóa, tâm lý truyền thống, trên cơ sở đó, bổ sung và tạo ra sự thay đổi trong tư tưởng, quan niệm của người Việt. Mặt khác, nó đã góp phần hình thành nếp tư duy, lối sống đạo đức theo tinh thần Nho giáo của con người Việt Nam.

Về mặt thế giới quan, sự du nhập những quan niệm của Nho giáo đã bổ sung và làm phong phú hơn đối với ý thức của người Việt về trời đất, con người bằng nhiều phạm trù và những lý giải hệ thống về trời, mệnh trời, càn khôn, âm dương, bát quái, lý - khí, thái cực... Trong quan điểm chính trị - xã hội, các nhà tư tưởng Việt Nam đã kế thừa những yếu tố tích cực của Nho 1 Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.52.

Page 24: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

21

giáo trên tinh thần dân tộc nhằm xác lập ý thức hệ phong kiến theo mô hình trung ương tập quyền. Đó là tư tưởng về một xã hội lý tưởng như trong quan niệm của Nho giáo, tư tưởng thân dân, trọng dân, coi dân là gốc của quốc gia, tư tưởng nhân nghĩa trong đời sống chính trị - xã hội, tư tưởng về đường lối trị nước vương đạo, về đạo lý quân thần... Đối với tư tưởng đạo đức nhân sinh người Việt, quá trình du nhập những quan niệm của Nho giáo vào Việt Nam đã chuẩn mực hóa và làm sâu sắc hơn ý thức đạo đức của người Việt trong xã hội bằng các học thuyết tam cương ngũ thường, ngũ luân, những phạm trù quân tử, chính danh, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu... Đồng thời, những quy tắc đạo đức của Nho giáo dần dần đã làm thay đổi và chi phối nếp nghĩ, lối sống đạo đức của con người.

Tóm lại, trong quá trình du nhập Việt Nam, những tư tưởng của Nho giáo đã được người Việt kế thừa, cải biến và vận dụng nó dựa theo yêu cầu của thực tiễn xã hội, góp phần làm sâu sắc và hệ thống hơn những quan niệm, tình cảm, ý thức của người Việt. Tuy nhiên, mặt trái của nó là sự ràng buộc quá mức của những quan niệm mà Nho giáo đã đem lại đối với tư tưởng và hành động của con người, khiến cho những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp bị mất đi.

3.2.3. Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội Về phương diện chính trị - xã hội, quá trình du nhập, tiếp thu và cải biến

Nho giáo ở người Việt không chỉ đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước của giai cấp phong kiến dân tộc bấy giờ mà còn góp phần vào việc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ của người Việt nói chung trước triều đình phương Bắc.

Trước hết, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam đã cung cấp nền tảng tư tưởng cho việc quản lý và cai trị đất nước của các triều đại phong kiến, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền, thống nhất. Các quan điểm về mệnh trời, chính danh định phận, tam cương, ngũ thường, trung hiếu lễ nghĩa,... của Nho giáo Trung Quốc đã trở thành nền tảng tư tưởng cho triều đình Việt Nam tổ chức nên hệ thống cai trị, quy định nên các sinh hoạt chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán,... mang sắc thái Việt Nam. Sự du nhập, kế thừa và vận dụng học thuyết Nho giáo của giai cấp phong kiến thống trị Việt Nam không những đã cải biến chế độ chính trị - xã hội còn nhiều yếu tố đơn sơ, chất phác của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, không những đã xóa bỏ những tàn tích nô lệ và phụ thuộc của thời kỳ Bắc thuộc, biến Việt Nam thành một xã hội phong kiến độc lập, mà còn góp phần thúc đẩy xã hội đó nhanh chóng đi đến chỗ tập quyền và thống nhất. Từ thời Lê sơ, những nguyên tắc chính trị - đạo đức của Nho giáo bắt đầu được vận dụng vào việc chuẩn mực hóa kỷ cương triều đình và trật tự xã hội, góp phần củng cố và tăng cường chế độ tập quyền phong kiến trung

Page 25: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

22

ương. Tuy nhiên, về sau, những nguyên tắc đức trị mà giai cấp cầm quyền đề ra và buộc mọi người tuân thủ đã trở nên phản động, trì trệ, kìm hãm sự phát triển của xã hội, không đáp ứng được thực tiễn lịch sử đất nước.

Thứ hai, quá trình du nhập chữ Hán và Nho giáo ở người Việt trong lịch sử đã góp phần nâng cao ý thức tự cường dân tộc, giữ gìn độc lập tự chủ. Từ chỗ ban đầu chữ Hán và Nho giáo bị xem như công cụ nô dịch và đồng hóa của đế chế phương Bắc, bị tẩy chay, xa lánh đã được người Việt dần ý thức nó như một công cụ ghi chép, đồng thời có thể lợi dụng chữ Hán và Nho giáo để học tập văn hóa, phát triển nhân tài, xây dựng nền văn hóa thành văn của dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Sau thời Bắc thuộc, việc tiếp nhận chữ Hán và Nho giáo từ chỗ bị động trở thành chủ động. Người Việt đã vận dụng những tư tưởng Nho giáo để khẳng định và nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, nguyện vọng xây dựng một quốc gia phong kiến vững chắc để chống chọi với “thiên triều” phong kiến phương Bắc.

Nhìn chung, quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam vừa có những đóng góp tích cực nhất định vừa để lại những tác động tiêu cực trong lịch sử xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam là một hiện tượng văn hóa - xã hội có tính tất yếu. Nghiên cứu quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX, chúng tôi đã khái quát được một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa đối với quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa ở Việt Nam hiện nay như sau:

Thứ nhất, sự tiếp thu cởi mở đối với các giá trị ưu trội của các yếu tố văn hóa, tư tưởng chứ không độc tôn một yếu tố nào một là cơ sở để làm giàu văn hóa truyền thống và tránh được nguy cơ đồng hóa văn hóa

Thứ hai, việc du nhập Nho giáo hay bất kỳ một yếu tố văn hóa, tư tưởng nào vào Việt Nam đều phải dựa trên hệ giá trị tinh thần cốt lõi của người Việt, trong đó chủ nghĩa yêu nước là nền tảng hàng đầu xuyên suốt

Kết luận chương 3 Với những điều kiện và nhu cầu thực tiễn riêng của từng giai đoạn, Nho

giáo khi vào Việt Nam đã được người Việt tiếp nhận ở các mức độ khác nhau. Từ chỗ chưa có vị trí gì trong đời sống tinh thần người Việt, sau thời Bắc thuộc, Nho giáo đã tham gia vào nền giáo dục khoa cử để đào tạo nhân tài cho bộ máy quan lại, tác động vào luật pháp và đường lối trị nước của các vương triều để từ đó có thể vươn lên vị trí chính thống trong ý thức hệ của giai cấp phong kiến thống trị nước nhà. Để có thể tồn tại lâu dài và bám rễ sâu trong lòng xã hội Việt Nam, Nho giáo đã từng bước biến đổi mình, kết hợp với văn hóa truyền thống người Việt cũng như kết hợp với các học thuyết Phật giáo, Đạo giáo để thay thế nhau, đáp ứng những nhu cầu về quản lý xã hội và về tâm

Page 26: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

23

linh tinh thần của con người Việt Nam. Trên tất cả, dù tiếp thu Nho giáo, Phật giáo hay Đạo giáo thì người Việt vẫn dựa trên các giá trị văn hóa truyền thống mà trong đó chủ nghĩa yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần đoàn kết, khoan dung thương người là nền tảng cơ bản.

KẾT LUẬN

Sự du nhập một học thuyết, một tư tưởng ở một nền văn hóa nhất định là hiện tượng có tính tất yếu. Mặc dù con đường du nhập Nho giáo vào Việt Nam đầu tiên và chủ yếu là xuất phát từ quá trình xâm lược và đồng hoá dân tộc Việt Nam của các triều đại phong kiến Trung Hoa, tuy nhiên, sau thời Bắc thuộc, với yêu cầu xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền và duy trì trật tự xã hội, Nho giáo đã được người Việt chủ động tiếp nhận và trở thành một công cụ tinh thần thiết yếu của Nhà nước. Sự du nhập Nho giáo ở Việt Nam không mang tính sự kiện, cũng không giống nhau ở mọi thời điểm mà là một quá trình liên tục và phức tạp. Trong thời kỳ Bắc thuộc, người Việt đi từ chỗ ứng xử thụ động để bảo tồn cái bản địa và chối từ cái mới áp đặt ngoại lai đến chỗ tiếp thu một số yếu tố văn hóa, lễ giáo phù hợp với cộng đồng, đồng thời tiếp nhận và đề cao những tư tưởng, tôn giáo khác như Phật giáo, Đạo giáo. Sau thời Bắc thuộc, Nho giáo được người Việt chủ động tiếp nhận nhưng lúc đầu những ảnh hưởng của Nho giáo còn hạn chế, sự tiếp nhận của người Việt đối với Nho giáo mang tính gạn lọc, kết hợp hài hòa giữa các yếu tố truyền thống dân gian với các yếu tố Phật giáo, Đạo giáo. Từ thế kỷ XV cho đến thế kỷ XIX, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà nước phong kiến, để lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội Việt Nam, cả tích cực lẫn tiêu cực. Giai đoạn này, Nho giáo được tiếp nhận với nhiều nội dung khác nhau, từ Nho giáo Khổng - Mạnh, Hán Nho cho đến Tống Nho, Minh Nho, Thanh Nho, trong đó Nho giáo Tống - Minh có ảnh hưởng nhiều nhất đến những người theo học đạo Nho ở Việt Nam. Quá trình tiếp nhận Nho giáo cũng chính là quá trình biến đổi và tái tạo các yếu tố tư tưởng, quan niệm của nó, làm cho Nho giáo không còn như ban đầu mà là Nho giáo đã được biến đổi cho phù hợp với bối cảnh thực tiễn của xã hội, với truyền thống và tâm thức của người Việt Nam.

Nhìn chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam là một quá trình phức tạp, với nhiều giai đoạn. Gắn với từng giai đoạn này là mục đích, cách thức, nội dung, tính chất khác nhau của sự truyền bá và tiếp nhận Nho giáo. Trong quá trình đó, Nho giáo cũng đồng hành và tác động qua lại với Phật giáo, Đạo giáo tạo thành hiện tượng dung hợp tam giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, dù là tiếp thu Nho giáo hay dung hợp tam giáo thì người Việt vẫn dựa trên nội lực riêng của mình. Nội lực đó là các giá trị văn hóa truyền thống

Page 27: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH · Nho giáo nói chung, quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem xét những cơ sở lịch

24

được hình thành ngay từ buổi đầu dựng nước, trong đó tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, tình nghĩa xóm làng, đạo lý thương người,... mà sau này được phát triển thành chủ nghĩa yêu nước chính là giá trị tinh thần cốt lõi.

Mặc dù có nhiều tác động tiêu cực, tuy nhiên, quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam cũng đem lại những ý nghĩa nhất định. Về mặt văn hóa, nó góp phần quan trọng vào tiến trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa. Về mặt tư tưởng, những quan niệm của Nho giáo đã bổ sung và làm phong phú thêm ý thức, tư tưởng của người Việt trong các vấn đề về thế giới, về đạo đức nhân sinh với những phạm trù, những khái niệm được lý giải sâu sắc, hệ thống. Trên phương diện chính trị - xã hội, sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam đã cung cấp nền tảng tư tưởng cho quá trình quản lý xã hội, hoạch định chính sách, góp phần xây dựng bộ máy quân chủ tập quyền, thống nhất của giai cấp cầm quyền trong xã hội phong kiến. Đối với rất nhiều người Việt bấy giờ, việc tiếp thu Nho giáo cùng với chữ Hán còn là cách để giữ gìn độc lập tự chủ.

Quá trình du nhập của Nho giáo nói riêng và các học thuyết nói chung trong lịch sử tư tưởng Việt Nam để lại cho chúng ta những ý nghĩa và bài học nhất định về sự tiếp thu các yếu tố văn hóa bên ngoài vừa để không đánh mất chính mình, vừa làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc, tiếp thêm sinh lực cho sự phát triển đất nước.