i b - sacombank · thế hiển cho rằng, nếu các công ty tài chính bị kiểm soát cho...

11
1 hoav BẢNG CHỈ SỐ Chng khoán (ngày 16/10) VN - Index 963,37 1,23% HNX - Index 108,60 0,86% D.JONES CK Mỹ 25.798,42 2,17% STOXX CK C.Âu 3.257,34 1,46% CSI 300 CK TQ 3.100,97 0,81% Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 17/10) SJC Ng.đ/L 36.620 0,08% Quốc tế USD/Oz 1227.30 0,76% Tgiá USD/VND BQ LNH 22.715 0,01% EUR/USD 1,1580 0,10% Du WTI USD/th 72,20 0,49% 6 Năng lực quản lý rủi ro của các NHTM đang dần tiệm cận chuẩn theo Hiệp ước Basel II. Phần lớn các NHTM đều chủ động lên kế hoạch áp dụng chuẩn Basel II, một số ngân hàng đã công bố hoàn thành việc triển khai hệ thống quản lý rủi ro và một số ít đã chuyển sang giai đoạn áp dụng chuẩn Basel II trong hoạt động. Tuy nhiên, một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay của các ngân hàng là việc tăng vốn điều lệ, đặc biệt với các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối. Từ nay tới cuối năm 2020, UBGSTCQG ước tính, các ngân hàng phải tăng vốn tự có gấp 1,8 - 2 lần so với thời điểm hiện tại mới có thể đáp ứng quy định của Basel II. Do đó, các ngân hàng cần có lộ trình cụ thể và tính toán phù hợp cho việc bổ sung vốn từ nay đến năm 2020. Tin nổi bật Áp lực nâng hệ số an toàn vốn theo chuẩn Basel II Nợ xấu ế vì giá cao Nửa tháng, NHNN bơm ròng gần 41.000 tỷ đồng ra thị trường Năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp thứ 77 toàn cầu Thâm hụt ngân sách của Mỹ đang ở mức cao nhất 6 năm ThTư, ngày 17/10/2018 BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH [a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM [t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]

Upload: others

Post on 31-Dec-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

hoav

BẢNG CHỈ SỐ

Chứng khoán (ngày 16/10)

VN - Index 963,37 1,23%

HNX - Index 108,60 0,86%

D.JONES CK Mỹ 25.798,42 2,17%

STOXX CK C.Âu 3.257,34 1,46%

CSI 300 CK TQ 3.100,97 0,81%

Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 17/10)

SJC Ng.đ/L 36.620 0,08%

Quốc tế USD/Oz 1227.30 0,76%

Tỷ giá

USD/VND BQ LNH 22.715 0,01%

EUR/USD 1,1580 0,10%

Dầu

WTI USD/th 72,20 0,49%

6

Năng lực quản lý rủi ro của các NHTM đang

dần tiệm cận chuẩn theo Hiệp ước Basel II.

Phần lớn các NHTM đều chủ động lên kế

hoạch áp dụng chuẩn Basel II, một số ngân

hàng đã công bố hoàn thành việc triển khai hệ

thống quản lý rủi ro và một số ít đã chuyển

sang giai đoạn áp dụng chuẩn Basel II trong

hoạt động. Tuy nhiên, một trong những khó

khăn lớn nhất hiện nay của các ngân hàng là

việc tăng vốn điều lệ, đặc biệt với các ngân

hàng có vốn nhà nước chi phối. Từ nay tới cuối

năm 2020, UBGSTCQG ước tính, các ngân

hàng phải tăng vốn tự có gấp 1,8 - 2 lần so với

thời điểm hiện tại mới có thể đáp ứng quy định

của Basel II. Do đó, các ngân hàng cần có lộ

trình cụ thể và tính toán phù hợp cho việc bổ

sung vốn từ nay đến năm 2020.

Tin nổi bật

Áp lực nâng hệ số an toàn vốn theo chuẩn

Basel II

Nợ xấu ế vì giá cao

Nửa tháng, NHNN bơm ròng gần 41.000

tỷ đồng ra thị trường

Năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp

thứ 77 toàn cầu

Thâm hụt ngân sách của Mỹ đang ở mức

cao nhất 6 năm

Thứ Tư, ngày 17/10/2018

BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH

[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM

[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]

2

Đổ xô cho vay tiêu dùng: Nghẹt

thở với lãi suất!

Bên cạnh một số hình thức đòi nợ kiểu quấy rối, dọa nạt, khách hàng

vay tiêu dùng còn phát hoảng bởi mức LS "trên trời" mà các đơn vị cho

vay công bố. Do đó, nhiều người đề nghị NHNN cần kiểm soát cho vay

tiêu dùng và áp trần LS để bảo vệ người vay. Tuy nhiên, các chuyên gia

tài chính lại không đồng tình với đề xuất này. Chuyên gia KT - TS Đinh

Thế Hiển cho rằng, nếu các công ty tài chính bị kiểm soát cho vay tiêu

dùng, nhu cầu thị trường không đáp ứng được, người dân sẽ chuyển

sang vay "tín dụng đen". Do đó phải kiểm soát bằng cách tạo sự cạnh

tranh, minh bạch trên thị trường này và tuyên truyền cho người dân

những kiến thức về tài chính, có sự hiểu biết khi đi vay, tránh tình trạng

vay xong dùng vào mục đích khác hoặc không có khả năng trả nợ…

TS-LS.Bùi Quang Tín, chuyên gia tài chính, phân tích: "Hiện theo quy

định, hoạt động cho vay của các công ty tài chính không bị áp trần LS

mà là LS thỏa thuận. Nhưng nếu áp trần LS cho vay tiêu dùng chưa

chắc là giải pháp tốt, cũng không tạo được thị trường lành mạnh và

người vay chưa hẳn có lợi. Điều cần lúc này là sự tăng cường quản lý

của cơ quan nhà nước". Trong khi nhà nước và các chuyên gia tập

trung vào việc lành mạnh hóa các công ty tài chính thì một hình thức

khác của cho vay tiêu dùng là cho vay trực tuyến lại đang bị bỏ ngỏ.

Loại hình cho vay này mới xuất hiện tại VN trong vài năm gần đây cùng

với sự bùng nổ của điện thoại thông minh, thanh toán trực tuyến, mạng

XH và trí tuệ nhân tạo. Theo đó, người có nhu cầu vay thường chỉ được

vay số tiền nhỏ từ 1-10 triệu đồng/lần trong thời hạn không quá 30

ngày. Bên cho vay thường là một DN công nghệ tài chính (Fintech) đồng

thời cũng là đơn vị giải ngân. Hoặc DN Fintech chỉ đóng vai trò trung

gian kết nối người vay thông qua các ứng dụng (app) trên điện thoại,

còn bên cho vay đích thực là một DN khác. Khi có người vay, bên cho

vay luôn đưa ra mức LS tượng trưng, phần còn lại được chuyển hóa

thành phí DV hoặc một khoản phí nào đó nhưng khi tính tổng lại cao

hơn rất nhiều so với LS công bố, có khi lên tới 720%/năm. Trên thị

trường hiện có khoảng 38 ứng dụng cho vay trực tuyến. Tuy nhiên, do

pháp luật chưa công nhận loại hình cho vay này và cũng không cấm

Tài chính – Ngân hàng

3

nên khi có khiếu nại về dấu hiệu cho vay trực tuyến biến tướng thành

tín dụng đen thì cơ quan chức năng cũng không có cơ sở xử lý vì luật

chưa quy định. Theo chuyên gia tài chính - TS Cấn Văn Lực, nhu cầu

vay tiền trực tuyến là rất lớn, thậm chí tại TP.HCM, một DN cho vay trực

tuyến tiếp nhận 2.000 khách hàng/ngày. "Loại hình vay này mới xuất

hiện nên cần sớm có khuôn khổ pháp lý để giám sát, tránh gây hệ lụy

lâu dài. Theo đó, nhà nước có thể chỉ định một bộ, ngành nhất định để

quản lý theo hướng DN cho vay trực tuyến phải có một số vốn nhất

định, ban hành quy định hạn mức huy động vốn kể cả hạn mức người

dân gửi tiền cho DN cho vay trực tuyến, hạn mức giải ngân đối với bên

cho vay, phương thức đòi nợ phù hợp pháp luật" - ông Lực đề xuất.

Chuyên gia tài chính - NH Nguyễn Trí Hiếu cho biết số vốn mà hầu hết

DN cho vay trực tuyến hiện nay có được là nhờ huy động từ người dân

thông qua hình thức hợp tác KD hoặc là vốn tự có của DN. Thời gian

tới, nếu cho vay trực tuyến bùng phát dữ dội nhưng chưa có một đầu

mối nào quản lý, giám sát chặt chẽ thì loại hình cho vay này có thể "vỡ

trận" giống như các DN cho vay trực tuyến ở Trung Quốc.

Áp lực nâng hệ số an toàn vốn

theo chuẩn Basel II

Năng lực quản lý rủi ro của các NHTM đang dần tiệm cận chuẩn theo

Hiệp ước Basel II. Phần lớn các NHTM đều chủ động lên kế hoạch áp

dụng chuẩn Basel II, một số NH đã công bố hoàn thành việc triển khai

hệ thống quản lý rủi ro và một số ít đã chuyển sang giai đoạn áp dụng

chuẩn Basel II trong hoạt động. Tuy nhiên, một trong những khó khăn

lớn nhất hiện nay của các NH là việc tăng vốn điều lệ, đặc biệt với các

NH có vốn nhà nước chi phối như Vietcombank, BIDV. Thời gian tới, để

đảm bảo hệ số CAR theo Basel II, nhu cầu tăng vốn của các NH là rất

lớn, đặc biệt là đối với các NHTM NN. Trong khi đó, bên cạnh việc thực

hiện giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn từ 45%

hiện nay xuống 40% vào đầu năm 2019, các NH còn chịu các áp lực

khác. Mặc dù hoạt động NH đã có những chuyển dịch theo hướng lành

mạnh hơn, nhưng theo các chuyên gia, tái cơ cấu các TCTD vẫn còn

nhiều thách thức, nhất là áp lực tăng vốn chủ sở hữu cho các NHTM.

Hệ số CAR của các NHTM hiện nay theo chuẩn của NHNN vẫn đạt y/c

>9%, nhưng nếu áp theo chuẩn Basel II thì chưa đạt y/c (<8%). Theo

TS. Nguyễn Xuân Thành, GĐ phát triển, ĐH Fulbright VN, trong nỗ lực

tái cơ cấu và xử lý nợ xấu thời gian qua, các NH đã phải tự cải thiện lợi

nhuận để có nguồn xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, điều quan trọng để hệ

4

thống NH lành mạnh hơn là các NH phải tăng vốn chủ sở hữu để nâng

hệ số CAR. Thời gian tới, để đảm bảo hệ số CAR theo Basel II, nhu cầu

tăng vốn của các NH là rất lớn, đặc biệt là đối với các NHTM NN. Bà

Dung Vũ, chuyên gia phân tích của StoxPlus cho rằng, bên cạnh những

tín hiệu lạc quan về hoạt động của ngành NH, thì vẫn còn đó những

cảnh báo. Đặc biệt, TTTD hiện nay vẫn cao, gây áp lực lên hệ số CAR.

Từ nay tới cuối năm 2020, UBGSTCQG ước tính, các NH phải tăng vốn

tự có gấp 1,8 - 2 lần so với thời điểm hiện tại mới có thể đáp ứng quy

định của Basel II. Do đó, các NH cần có lộ trình cụ thể và tính toán phù

hợp cho việc bổ sung vốn từ nay đến năm 2020.

Nợ xấu ế vì giá cao

Nghị quyết 42 tưởng sẽ “tháo” được vướng mắc giúp các NH xử lý khối

nợ xấu tồn đọng hàng thập niên trong hệ thống, nhưng thực tế việc bán

đấu giá các khoản nợ xấu hầu hết ế ẩm dù đó là dự án nằm ở vị trí đắc

địa. Chủ tịch một công ty mua bán nợ nói thẳng nợ xấu như một “khúc

xương” nên giá bán nợ phải thấp hơn giá thị trường thì mới đủ hấp dẫn.

Chứ giữ quan điểm bán nợ không mất vốn thì rất khó. Đặc biệt các

công ty chỉ mua nợ có tài sản đảm bảo là BĐS, còn đối với TSĐB là

máy móc, thiết bị, hàng tồn kho..., đa phần nói “không”. Mặc dù Nghị

quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu cho phép bán nợ xấu theo giá thị

trường, nhưng các chủ nợ thường không muốn lỗ nặng nên vẫn đưa ra

mức giá cao hoặc bằng nợ gốc. Trong khi đó, trước đây có tình trạng

một số tài sản đảm bảo đẩy định giá lên cao để được cho vay nhiều

hơn. Nếu đòi bán với giá vốn vay thì cũng là quá cao, rất khó có người

mua. Chuyên gia tài chính Cấn Văn Lực cho rằng NH muốn bán nợ giá

cao là điều đương nhiên, khi thị trường không chấp nhận thì điều chỉnh

giá giảm xuống. Nghị quyết 42 của Quốc hội cho phép mua bán nợ xấu

theo giá thị trường, thậm chí chấp nhận giá thấp hơn so với giá sổ sách

là hỗ trợ rất lớn cho các NH bán nợ xấu. Tuy nhiên, việc bán nợ theo giá

thị trường không phải dễ, đặc biệt là những khoản nợ lớn cần phải có

công ty định giá chuyên nghiệp.

Nửa tháng, NHNN bơm ròng gần

41.000 tỷ đồng ra thị trường

Theo Báo cáo thị trường tiền tệ tuần từ 8/10 - 12/10/2018 của Công ty

CK Sài Gòn (SSI), tuần qua, thị trường LNH tiếp tục giao dịch ổn định

với LS tăng nhẹ so với tuần trước. LS các kỳ hạn qua đêm, 1 tuần, 1

tháng và 3 tháng tại thời điểm cuối tuần ghi nhận ở mức 2,74%, 3,0%,

3,64% và 4,14%, 0,04-0,14 điểm%. LS USD cũng tăng lên mức

5

2,25% nhưng chênh lệch LS VND-USD vẫn được duy trì ở mức dương

hỗ trợ cho tỷ giá. Để duy trì LS ở vùng này, NHNN tiếp tục bơm ròng

tiền ra hệ thống tuần thứ hai liên tiếp với giá trị 16.584 tỷ đồng. Cụ thể,

đã có 22.981 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn trong khi tổng khối lượng tín

phiếu phát hành trong tuần chỉ đạt 6.180 tỷ đồng. Như vậy, tổng cộng 2

tuần qua, NHNN đã bơm ròng gần 41.000 tỷ đồng ra thị trường. Trên thị

trường tiền gửi, LS huy động tiếp tục tăng ở kỳ hạn dài 12 tháng với

bước 0,2 điểm%. Mặc dù thanh khoản hệ thống NH không bị thiếu

hụt, các NH tiếp tục đẩy mạnh LS để tái cơ cấu nguồn vốn theo hướng

tăng tỷ trọng vốn dài hạn. Tỷ giá trong nước tiếp tục diễn biến khá ổn

định. Tỷ giá NH 5 đồng lên mức 23.305/23.385, trong khi tỷ giá tự do

giảm trở lại ngưỡng 23.420/23.450, 40 đồng so với cuối tuần trước.

Tuần qua, KBNN thu hẹp gọi thầu trái phiếu, chỉ với 3 kỳ hạn 5, 10 và

15 năm với tổng giá trị gọi thầu 5.600 tỷ đồng. Mặc dù vẫn chào thầu

hai kỳ hạn chính là 10 và 15 năm, kỳ hạn 15 năm bất ngờ không phát

hành thành công khi LS kỳ vọng 0,28 điểm% so với phiên trước.

Tương tự, kỳ hạn 5 năm cũng không được phát hành mặc dù cầu khá

cao với khối lượng đăng ký 4.651 tỷ đồng, gấp 2,3 lần khối lượng chào

thầu. Kỳ hạn 10 năm phát hành được 1.106 tỷ/2.600 tỷ gọi thầu với LS

0,05 điểm% lên 4,85%. NH Chính sách Xã hội (VBSP) cũng dần thu

hẹp huy động trái phiếu, chỉ gọi thầu 1.500 tỷ đồng cho hai kỳ hạn 10

và 15 năm. Có 800 tỷ đồng trúng thầu cho kỳ hạn 15 năm.

6

Năng lực cạnh tranh của Việt

Nam xếp thứ 77 toàn cầu

WEF ngày 16/10 công bố Chỉ số Cạnh tranh Toàn cầu (GCI) năm 2018,

trong đó VN xếp thứ 77/140 nền KT, 3 bậc so với năm 2017. WEF

năm nay sử dụng phương pháp xếp hạng mới theo thang điểm 100.

GCI dựa trên 12 khía cạnh gồm thể chế, hạ tầng, tiếp nhận công nghệ

thông tin và liên lạc, ổn định KTVM, y tế, giáo dục và kỹ năng, thị trường

sản phẩm, thị trường lao động, hệ thống tài chính, quy mô thị trường, sự

năng động KD, năng lực đổi mới.

Hiệp định thương mại USMCA và

6 tác động tới Việt Nam

Sau hơn 14 tháng đàm phán, cuối cùng Mỹ cũng đã đạt được một thỏa

thuận thương mại với Canada và Mexico (USMCA). Theo các chuyên

gia, sự ra đời của USMCA sẽ đem lại lợi ích cho DN và người dân Bắc

Mỹ, nhưng vẫn có thể gây ra nhiều rào cản thương mại mới. Hiệp định

này sẽ tác động đến nền KT cũng như an ninh toàn cầu, trong đó có

VN. Đối với VN, USMCA cũng sẽ tác động trên mọi bình diện của vấn

đề an ninh quốc gia, bao gồm cả an ninh chính trị, an ninh quân sự, an

ninh KT, an ninh năng lượng, môi trường... nhất là an ninh KT và an

ninh môi trường. (1) Ở cấp độ vĩ mô, USMCA có thể tác động đến tổng

thể nền KT thông qua hoạt động thương mại, đầu tư, chẳng hạn như

nhập siêu, nợ nước ngoài... Ở cấp độ vi mô là tác động đến hoạt động

SXKD của một ngành nghề, một đơn vị, một DN. Khi tiến hành hoạt

động thương mại, đầu tư từ USMCA, đồng nghĩa với việc chấp nhận sự

cạnh tranh bình đẳng giữa KT nhà nước đối với các tập đoàn KT của

khối này. Với tiềm lực mạnh, các tập đoàn KT có thể thao túng, chi phối

một phần của nền KT. (2) USMCA có điều khoản quy định, nếu một

trong những đối tác trong hiệp định tham gia một thỏa thuận thương

mại tự do với một nền KT “phi thị trường” nhằm cô lập và ngăn chặn

Trung Quốc sử dụng Canada, Mexico làm nơi trung chuyển để XK vào

Mỹ. Theo đó, VN cũng chịu ảnh hưởng gián tiếp. (3) Theo điều khoản

của USMCA, chuỗi cung ứng sản phẩm sẽ được chuyển về Bắc Mỹ,

điều này cũng gây nên khó khăn cho VN, chẳng hạn, USMCA y/c, 40-

45% các bộ phận xe hơi được mua bởi các quốc gia ký kết phải được

SX bởi các công ty mà người lao động được trả ít nhất 16 USD/giờ,

Kinh tế Việt Nam

7

hoặc hàng dệt may, việc sử dụng chỉ khâu… cũng phải có nguồn gốc

từ một trong 3 quốc gia ký kết. (4) Theo điều khoản “không phá giá

đồng nội tệ” của USMCA, không nhằm vào nội bộ mà nhằm vào những

quốc gia bên ngoài, tạo lợi thế cho Mỹ trong đàm phán thương mại với

các đối tác khác, trong đó VN cũng chịu tác động. Trong bối cảnh vị thế

quốc tế của đồng USD có xu thế tăng, khiến cho vấn đề an ninh tài

chính, tiền tệ của VN cũng cần phải quan tâm. (5) USMCA có điều

khoản quy định bổ sung thương mại kỹ thuật số, cấm đánh thuế hải

quan đối với hàng hóa được phân bổ thuộc dạng số hóa như phần

mềm, trò chơi điện tử, sách điện tử, âm nhạc và phim ảnh. Điều này có

thể có tác động đến an ninh mạng của VN. Nên VN cần chủ động khai

thác mặt tích cực của thương mại điện tử, nhưng cũng cần quan tâm

đến bảo đảm an ninh mạng theo Luật an ninh mạng mới được ban hành

năm 2018. (6) Để khai thác có hiệu quả quan hệ KT, thương mại với

các thành viên Hiệp định USMCA và hạn chế những tiêu cực có thể

ảnh hưởng đến an ninh KT VN, chúng ta cần thực hiện tốt Chỉ thị số 12-

CT/TW ngày 05/01/2017 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh KT trong điều kiện phát

triển KT thị trường định hướng XHCN và hội nhập KT quốc tế”.

Tại sao mục tiêu đạt 1 triệu

doanh nghiệp khó hoàn thành?

Phát triển KV KT tư nhân là một trong những nhiệm vụ quan trọng được

Chính phủ nhiều lần nhắc đến. Trong báo cáo lên UB Thường vụ Quốc

hội, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh giai đoạn từ 2016 – 2018,

chính sách phát triển KT tư nhân đã dần hoàn thiện, nhiều giấy phép

con, điều kiện bất hợp lý bị loại bỏ. Nhờ vậy, số lượng DN thành lập mới

nhiều lần đạt kỷ lục về số lượng và vốn đăng ký, trong khi lượng DN

tạm ngừng KD có xu thế giảm. Tuy nhiên, có một điều đáng chú ý trong

giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng DN mới có xu hướng chững lại. Phía

Bộ KHĐT cho biết năm 2018 dự báo chỉ khoảng 130.000 DN thành lập,

chỉ 2,5% so với năm 2017. Trong khi đó, để đạt được con số 1 triệu

DN, tính toán của Tổng cục Thống kê đưa ra từ nay đến năm 2018, mỗi

năm cả nước phải có thêm 120.000 DN và không được có DN nào phá

sản, giải thể. Điều này gần như bất khả. Mặt khác, DNTN cũng có xu

hướng nhỏ đi về quy mô, tỷ lệ DN làm ăn có lãi thấp, mức độ kết nối

vào nền KT toàn cầu chưa cao.

8

Chứng khoán Mỹ tăng mạnh nhờ

lợi nhuận, số liệu kinh tế

TTCK Mỹ >2% trong phiên giao dịch ngày 16/10, nhờ báo cáo LN khả

quan từ một loạt công ty lớn và những dữ liệu KT khả quan. Thị trường

gia tăng hy vọng rằng các BCTC Q.III có thể xoa dịu mối lo về căng

thẳng thương mại và lợi suất trái phiếu lo thang. LN Q.III của các DN

thuộc S&P 500 dự báo 21,8% sv cùng kỳ 2017. "LN DN chắc chắn đã

là cú huých lớn nhất cho thị trường. Bởi vậy mà mùa báo cáo KQKD này

sẽ có ảnh hưởng rất lớn". Đóng cửa, Dow Jones 2,17%, đạt

25.798,42 điểm. S&P 2,15%, đạt 2.809,92 điểm. Nasdaq 2,89%,

đạt 7.645,49 điểm… Về dữ liệu KT, sản lượng công nghiệp của Mỹ

tháng 9 tăng tháng thứ 4 liên tiếp, nhờ sự gia tăng hoạt động của ngành

chế tạo-chế biến và khai mỏ. Số công việc cần tuyển dụng của các

công ty đạt mức cao kỷ lục trong tháng 8.

Thâm hụt ngân sách của Mỹ

đang ở mức cao nhất 6 năm

Thâm hụt ngân sách Mỹ đã tăng lên 779 tỷ USD trong năm tài chính

2018, mức cao nhất kể từ 2012, trong bối cảnh Mỹ đang cắt giảm thuế

và tăng chi tiêu. Thâm hụt ngân sách trong 12th tính đến tháng 9 là 17%

lớn hơn sv cùng kỳ 12th trước đó, chi tiêu 3,2% và doanh thu chỉ

0,4%. Thâm hụt ngân sách #3,9% tổng sản lượng KT của năm tài

chính 2018, cao hơn 0,4 điểm % sv 2017. Thâm hụt ngân sách đã tiếp

tục leo thang trong những năm gần đây, làm gia tăng những lo ngại về

khoản nợ hơn 21,5 tỷ USD sẽ không thể nằm trong tầm kiểm soát.

Trong tháng này chính phủ sẽ trả mức LS lên tới 523 tỷ USD trong năm

tài chính 2018, mức cao nhất từ trước đến nay. Văn phòng Ngân sách

Quốc hội Mỹ, dự báo chi tiêu của chính phủ sẽ vượt quá mức doanh thu

973 tỷ USD trong năm tài khoá 2019 và hơn 1.000 tỷ USD trong năm

tới. Đó sẽ là lần đầu tiên thâm hụt vượt quá 1.000 tỷ USD kể từ 2012,

khi nền KTMỹ đang trong quá trình phục hồi từ cuộc Đại suy thoái.

Mỹ vung tiền cho vay để giành

ảnh hưởng với Trung Quốc

Không chỉ áp thuế, chặn dòng đầu tư từ đại lục mà chính quyền tổng

thống Trump cũng sẽ tăng đầu tư để giành ảnh hưởng với TQ. Cụ thể,

ông đang tìm cách chống lại ảnh hưởng địa chính trị ngày càng tăng

của TQ bằng cách sẽ mở rộng một khoản viện trợ nước ngoài lớn để tài

trợ cho các dự án CSHT ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ. Ông đã ký một

Kinh tế Quốc tế

9

dự luật để tạo ra 1cơ quan viện trợ nước ngoài mới, Tập đoàn Tài chính

Phát triển Quốc tế Mỹ (US-IDFC) và cho phép cấp 60 tỷ USD tiền vay,

bảo lãnh vay và bảo hiểm cho các công ty sẵn sàng làm KD ở các nước

đang phát triển. Động thái này là sự đảo ngược đáng kể với ông, người

đã chỉ trích mạnh mẽ viện trợ nước ngoài. Sự thay đổi của ông sang

ủng hộ viện trợ nước ngoài không gì ngoài một mong muốn để ngăn

chặn kế hoạch của TQ nhằm thống trị KT, công nghệ và chính trị. TQ

đã dành gần 5 năm để lập kế hoạch để có được ảnh hưởng toàn cầu

lớn hơn bằng cách tài trợ cho các dự án lớn trên khắp châu Á, Đông Âu

và châu Phi. Nỗ lực này là một phần trong nỗ lực của chính quyền

Trump nhằm ngăn chặn sự thống trị KT và chính trị của TQ.

Giá cả nhiều mặt hàng cơ bản ở

Trung Quốc tăng cao đột biến

Tháng thứ 4 liên tiếp, CPI - thang đo tính chỉ số lạm phát theo thời kỳ -

tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 2, đạt 2,5%. Siêu bão tấn công miền

Nam hồi tháng 9 đã làm ảnh hưởng xấu đến SX nông nghiệp. Bên cạnh

đó, nhà SX thịt lợn lớn nhất thế giới đang phải vật lộn để kiểm soát đợt

bùng phát cúm lợn châu Phi lan truyền, khiến giá thịt lợn tăng đáng kể

từ tháng 8. Người tiêu dùng chịu thêm gánh nặng khi giá dầu diesel và

gas >20% trong 2017. Dầu được định giá bằng USD, đồng tiền đang

tăng giá sv CNY, khiến việc NK nhiên liệu trở nên đắt đỏ hơn. Chỉ số

giá SX (PPI) của TQ đạt 3,6% trong tháng 9 và 8 là 4,1% nhưng mức

này vẫn cao hơn dự đoán 3,5% của Bloomberg… Theo nhà KT học

Julian Evans: “Các nhà chính sách dường như sẽ bỏ qua hiện tượng

lạm phát giá tiêu dùng mới xảy ra và tập trung vào dấu hiệu cho thấy

những xáo động của nền KT đang dịu lại, bao gồm lạm phát cơ bản

chậm hơn và áp lực giá xuất xưởng yếu hơn.. Tăng lạm phát tiêu dùng

không có nhiều khả năng ngăn chặn (NHTW) nới lỏng CSTT hơn trong

những tháng tiếp theo nhằm giữ mức tăng trưởng nền KT”.

10

Tài liệu tham khảo:

Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06

https://hnx.vn/

https://www.bloomberg.com/markets/stocks

http://www.sjc.com.vn/

https://goldprice.org/vi/index.html

https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000

Tin Tài chính - NH https://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/ap-luc-nang-he-so-an-toan-von-theo-chuan-basel-ii-

245694.html

https://vietstock.vn/2018/10/no-xau-e-vi-gia-cao-757-633307.htm

http://vietnamfinance.vn/nua-thang-ngan-hang-nha-nuoc-bom-rong-gan-41000-ty-dong-ra-thi-

truong-20180504224214486.htm

http://cafef.vn/do-xo-cho-vay-tieu-dung-nghet-tho-voi-lai-suat-20181017071358523.chn

Tin KT vĩ mô http://ndh.vn/nang-luc-canh-tranh-cua-viet-nam-xep-thu-77-toan-cau-

2018101708147435p145c153.news

https://www.stockbiz.vn/News/2018/10/16/849345/hiep-dinh-thuong-mai-usmca-va-6-tac-dong-toi-

viet-nam.aspx

http://cafef.vn/tai-sao-muc-tieu-dat-1-trieu-doanh-nghiep-kho-hoan-thanh-

20181016140847429.chn

Tin KT Quốc tế http://vneconomy.vn/chung-khoan-my-tang-manh-nho-loi-nhuan-so-lieu-kinh-te-

20181017070157904.htm

http://cafef.vn/tham-hut-ngan-sach-cua-my-dang-o-muc-cao-nhat-trong-vong-6-nam-

20181016134321413.chn

https://nhipcaudautu.vn/the-gioi/my-vung-tien-cho-vay-de-gianh-anh-huong-voi-trung-quoc-

3326425/

http://cafef.vn/gia-ca-nhieu-mat-hang-co-ban-o-trung-quoc-tang-cao-dot-bien-

20181016162923538.chn

11

Danh mục viết tắt

Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS

Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH

Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT

Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST

Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A

Bất động sản BĐS Ngân hàng NH

Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW

Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN

Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP

Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN

Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg

Doanh nghiệp tư nhân DNTN NSNN NSNN

Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH

Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB

Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD

Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD

Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS

Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN

Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ

Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN TPCP TPCP

KT vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN

KT KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK

Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL

Khu vực KV Vốn tự có VTC

Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK

Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD

Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV

Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP

Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA

Ngân hàng Thế giới World Bank Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA

Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA

Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE

Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO

Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO