hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh - hcma.vn an (1).pdf · nhất trong tình...
TRANSCRIPT
1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN PHƯƠNG AN
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN DÂN
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2017
2
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN PHƯƠNG AN
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN DÂN
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số : 62 31 20 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
TS. HỒ VIỆT HIỆP
Hà Nội - 2017
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn theo quy định.
Tác giả
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN 7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7
1.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu 21
Tiểu kết Chương 1 24
Chương 2 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 25
2.1. Quan niệm về Nhân dân theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh 25
2.2. Nhân dân là mục tiêu và động lực của sự nghiệp cách mạng
Việt Nam 43
Tiểu kết Chương 2 70
Chương 3 SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ HỒ CHÍ MINH LÀ ĐƯA NHÂN DÂN LÊN ĐÚNG VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA
NHÂN DÂN
72
3.1. Giải phóng Nhân dân, đưa Nhân dân lên địa vị là chủ và làm
chủ xã hội, làm chủ đất nước 72
3.2. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân 87
Tiểu kết Chương 3 103
Chương 4 Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN
DÂN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA 105
4.1. Công cuộc đổi mới phải đạt tới mục tiêu và lý tưởng của nhân dân
Việt Nam 105
4.2. Công cuộc đổi mới chỉ thành công khi phát huy được toàn bộ
sức mạnh của nhân dân 128
Tiểu kết Chương 4 146
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến Nhân dân. Người khẳng
định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân… Trong xã hội không có gì tốt
đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân” [87, tr.453]. Độc lập cho
dân tộc, tự do và hạnh phúc cho Nhân dân là tất cả những gì Hồ Chí Minh
muốn, tất cả những gì Người làm. Giải phóng Nhân dân, xây dựng chế độ
chính trị của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, mang lại ấm no, tự do,
hạnh phúc cho Nhân dân không chỉ dừng lại ở mong mỏi mà kết tinh thành lý
luận, biến thành hoạt động thực tiễn thể hiện trong toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng chính trị về Nhân dân là một trong những nội dung quan
trọng, có tầm bao quát và có ý nghĩa đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và tư tưởng chính trị của Người nói riêng. Đó là tư tưởng chỉ đạo
đường lối, là nguồn sức mạnh quyết định những thắng lợi vĩ đại trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước. Thắng
lợi mà cách mạng Việt Nam có được là do sức mạnh của Nhân dân được tập
hợp và phát huy dưới ánh sáng soi đường của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
về Nhân dân.
Sự nghiệp đổi mới đất nước là thử thách lớn đối với Đảng. Sự nghiệp
ấy không chỉ diễn ra từ thúc bách của thực tiễn khủng hoảng, mà còn từ trăn
trở trọng trách của Đảng đối với tiền đồ cách mạng. Với nỗ lực phấn đấu của
toàn Đảng, toàn dân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử, song vẫn còn không ít khó khăn, thử thách, nguy cơ.
Phát huy thành tựu, triệt tiêu khó khăn, vượt qua thử thách, loại trừ nguy cơ là
yêu cầu cấp thiết của cách mạng đặt ra cho Đảng. Từ thực tiễn đổi mới, Đảng
đề ra năm bài học lớn, trong đó “... đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa
2
vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân,...” [42, tr.19]
được xem là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.
Thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa được tạo nên bởi mối quan hệ bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với
Nhân dân. “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là
nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng
ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử
thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu...” [40, tr.73]. Điều đó
cho thấy, trong quá trình đổi mới, về cơ bản chúng ta đã làm đúng theo tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân. Tuy nhiên, chưa thật sự chú trọng,
phát huy sức mạnh Nhân dân với tinh thần tất cả của Nhân dân, vì Nhân dân
là một thực tế trong đời sống chính trị nước ta hiện nay. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên, nhất là những người có chức có quyền, có những biểu hiện sa sút
phẩm chất, sống xa dân, vô trách nhiệm với dân. Nhiều cán bộ lãnh đạo các
cấp, các ngành giữ tác phong quan liêu, gia trưởng, độc đoán, thậm chí trù
dập, ức hiếp quần chúng. Ở nhiều nơi trong khi đời sống nhân dân còn khó
khăn, nhiều yêu cầu thiết yếu của quần chúng chưa được bảo đảm thì lại có
những cán bộ, đảng viên chỉ lo thu vén cá nhân, xoay xở làm giàu, sinh hoạt
bê tha. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: "Thậm chí có người vô trách
nhiệm với dân, vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng. Một
số người còn lợi dụng chức quyền để đục khoét, vơ vét của cải của Nhà nước,
trở thành những con sâu mọt tệ hại của xã hội. Có lẽ đây là điều mất mát lớn
nhất trong tình cảm của nhân dân, là điều người dân cảm thấy xót xa, buồn
phiền nhất"; “Một số hiện tượng tham nhũng, đặc quyền đặc lợi trong Đảng
và trong các cơ quan nhà nước không được đấu tranh kiên quyết và xử lý
nghiêm minh. Do đó đã làm tổn thương thanh danh, uy tín của Đảng, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng” [141].
Về phía Nhân dân, trong điều kiện mở cửa, phát triển nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế, ý thức chính trị của Nhân dân không thuần nhất như
3
thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Bên cạnh mặt tích cực chính trị, ở một
khía cạnh khác, sự quan tâm đến các vấn đề chính trị bị phân tán, thậm chí bị
lấn át bởi các nhu cầu về kinh tế. Chủ nghĩa cá nhân và lối sống thực dụng
trỗi dậy. Mục tiêu và lý tưởng của Đảng chưa biểu lộ đậm nét, nếu không nói
là mờ nhạt trong suy nghĩ và hành động của một bộ phận người dân. Sự gắn
kết giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước có lúc, có nơi chưa thật sự là nhu
cầu tự giác, nhiều khi trừu tượng, thậm chí vì động cơ cá nhân. Nhiều người
dân không nể trọng, thậm chí thiếu tin tưởng cả về đạo đức và năng lực của
không ít cán bộ, đảng viên. Hiện tượng Nhân dân không hăng hái phấn đấu
vào làm việc trong hệ thống chính trị hoặc phấn đấu gượng ép, vì động cơ
trục lợi cá nhân có chiều hướng tăng. Nhân dân tham gia vào các hoạt động
của hệ thống chính trị còn hạn chế, có lúc có nơi mang tính hình thức.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu các bài học kinh nghiệm lớn của cách
mạng, trong đó bài học thứ hai cảnh báo: “... xa rời nhân dân sẽ dẫn đến
những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội
chủ nghĩa và của Đảng” [43, tr.65]. Thông điệp đầu năm 2015 của Chủ tịch
nước khẳng định: “Chúng ta không sợ bất cứ kẻ thù nào dù là hung bạo nhất,
chỉ sợ mất lòng dân. Lòng dân, đó là Quốc bảo dựng nước và giữ nước Việt
Nam!”. Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay có thời cơ, thuận lợi lớn, nhưng
khó khăn, thách thức cũng vô cùng gay gắt, quyết liệt. Chỉ có sự đồng lòng,
nhất trí của toàn dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc mới là sức mạnh vô địch
để chúng ta vượt qua mọi sóng to, gió lớn của thời cuộc. Khắc phục những
yếu kém, hạn chế trong quan hệ có tính quyết định thành công sự nghiệp cách
mạng Việt Nam hiện nay là nhiệm vụ vừa căn bản vừa cấp bách. Tuy nhiên,
nhận thức đúng, đề ra giải pháp đúng và đặc biệt là định hình mối quan hệ nêu
trên trong thực tế thì không phải là đơn giản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của cách mạng Việt Nam. Trong đó, Hồ Chí Minh thể hiện sự quan tâm
4
đặc biệt đối với Nhân dân bằng một hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc
và rất có giá trị. Đi sâu nghiên cứu, vận dụng và phát huy tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh về Nhân dân sẽ mang lại những chỉ dẫn phương pháp luận soi
đường cho việc giải quyết hạn chế nêu trên, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực,
thực hiện đúng và phát huy hiệu quả của tư tưởng ấy, góp phần tiếp tục củng
cố mối quan hệ bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, phát huy sức
mạnh vô địch của Nhân dân tiếp tục tạo nên các thắng lợi to lớn và mang tính
bước ngoặt của sự nghiệp đổi mới.
Với toàn bộ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu “Tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh về Nhân dân và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện
nay” với tư cách một đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học là hết
sức có ý nghĩa và cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Luận án nghiên cứu, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh về Nhân dân; trên cơ sở đó, phân tích ý nghĩa to lớn của tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về quan niệm và vị
trí, vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ việc đảm bảo thực hiện vị trí, vai trò của Nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh –
giải phóng Nhân dân, đưa Nhân dân lên địa vị làm chủ; công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
- Phân tích làm rõ ý nghĩa to lớn của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về
Nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những quan điểm cốt lõi về Nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh.
Ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân đối với sự
nghiệp đổi mới hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
về Nhân dân theo nghĩa là những khái quát ban đầu.
Nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân trên cơ sở các
công trình, bài viết, bài nói, thực tiễn hoạt động chính trị của Người trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ
thể
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Nhân dân.
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
là phương pháp luận của việc nghiên cứu, thực hiện đề tài luận án.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp giữa phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgíc; phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp;
phương pháp lý luận gắn liền với thực tiễn; phương pháp khái quát hóa.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Thứ nhất, luận án khái quát về mặt lý luận những tư tưởng chính trị
của Hồ Chí Minh về quan niệm và vị trí, vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp
cách mạng Việt Nam.
- Thứ hai, luận án khái quát những tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh
về việc đảm bảo thực hiện vị trí, vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, cụ thể: trước hết là giải phóng Nhân dân; sau đó là đưa Nhân
6
dân lên địa vị là chủ và làm chủ xã hội, làm chủ đất nước; kế tiếp là tạo lập
nội dung, cơ chế, điều kiện để Nhân dân xây dựng và phát triển xã hội, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thứ ba, luận án phân tích, làm rõ ý nghĩa to lớn của tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh về Nhân dân đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đó
là: Đổi mới hướng tới và thực hiện cho được mục đích, lý tưởng cao đẹp của
Nhân dân Việt Nam theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân; công
cuộc đổi mới của Đảng và Nhân dân ta hiện nay chỉ đạt tới thành công theo
hướng nêu trên khi Đảng, Nhà nước phát huy cao nhất toàn bộ sức mạnh của
Nhân dân.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khái quát rõ hơn tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân; cung cấp nhận thức đúng đắn về quan
niệm của Hồ Chí Minh về Nhân dân và vị trí, vai trò của Nhân dân cũng như
việc đảm bảo thực hiện vị trí, vai trò đó trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam;
từ đó giúp cho việc sử dụng lực lượng vô tận của Nhân dân, phát huy lực
lượng của Nhân dân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, đổi mới đất
nước hiện nay nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án góp vào thực tiễn hoạt động của hệ
thống chính trị trong việc đảm bảo và phát huy vai trò của Nhân dân ở sự
nghiệp đổi mới hiện nay; là tài liệu phục vụ nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng
Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án
gồm 4 chương với 8 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Vì công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ngoài không
nhiều nên các nghiên cứu chuyên biệt về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh gần
như chưa được thống kê. Ở các nước tư bản phương Tây, chưa thấy có công
trình nào nghiên cứu trực diện và hệ thống tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh;
đôi khi xuất hiện một vài quan điểm đề cập đến tư tưởng chính trị của Hồ Chí
Minh trong quá trình phân tích cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Jean Lacouture, sử gia nổi tiếng của Pháp, là tác giả công trình Ho Chi
Minh, A Political Biography in lần đầu năm 1967 [169]. Công trình gồm 15
chương mô tả một cách sinh động toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh. Lồng ghép trong những trình bày về quá trình hoạt động (chủ yếu là
hoạt động chính trị) của Hồ Chí Minh, Jean Lacouture vừa làm nổi bật phẩm
chất cá nhân vừa thông qua đó liên hệ lý giải nguyên nhân thắng lợi mang
tính tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tác giả cho rằng Hồ Chí Minh “Là một
kiểu mẫu cao nhất và hầu như độc đáo, một người gắn bó mật thiết với quần
chúng” [169], là “người có óc xét đoán vượt trội với những năng khiếu đột
hứng và trí thông minh kỳ diệu” [169]. David Halberstam trong tác phẩm Ho
đánh giá đóng góp chính trị của Hồ Chí Minh trên phạm vi quốc tế: Lúc sinh
thời, ông Hồ Chí Minh không những đã giải phóng đất nước của ông mà thay
đổi chiều hướng của chế độ thuộc địa ở cả châu Phi lẫn châu Á, mà ông còn
làm được một điều đáng chú ý hơn: ông đã dùng tới nền văn hóa và tâm hồn
của kẻ địch của ông. Đối với Hồ Chí Minh ...đó là một cuộc đời đầy đủ. Ở
một góc độ khác, A. Pátti– trong cuốn Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) [4]
8
nhìn nhận phẩm chất lãnh tụ chính trị của Hồ Chí Minh khá sắc sảo: “Ông Hồ
không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế hay một
người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to đường
lối của đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng
lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước
mình, một con người biết điều và tinh tế” [4]. Tầm vóc của Hồ Chí Minh
được tác giả nhận định: “...Hơn một phần tư thế kỷ nay, chỉ có Hồ Chí Minh
mới giữ được cho ngọn đuốc độc lập bập bùng cháy trong trái tim, khối óc
của những người Việt Nam cộng sản cũng như không cộng sản, và duy nhất
chỉ có ông đã trở thành hiện thân của chủ nghĩa quốc gia Việt Nam, một
Gioócgiơ Oasinhtơn của Việt Nam... Từ lâu ông đã trở thành Bác Hồ của
người nghèo và tầm thường với một ánh hào quang trên đầu mà tất cả các chế
độ bù nhìn liên tiếp đã không bao giờ có khả năng đánh đổ được” [4]. N.
Khơrútsốp, trong Hồi ký đã dành hẳn một chương viết về Hồ Chí Minh và đi
đến kết luận: Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, tôi đã biết rất
nhiều người nhưng không có người nào gây được ở tôi một ấn tượng đặc biệt
như Hồ Chí Minh. Những người có đầu óc tín ngưỡng thường hay nói đến các
vị Thánh. Đúng vậy, với cách sống và uy tín của ông đối với đồng bào trong
nước, Hồ Chí Minh đúng là có thể so sánh với “các vị Thánh đó, một vị
Thánh cách mạng...”; “Không ai có thể chống lại nổi ông vì niềm tin của ông
mãnh liệt, tin ở nhân dân mình và tất cả các dân tộc cũng như ở sự nghiệp cao
cả. Mỗi lời nói của ông hình như dựa vào niềm tin là về nguyên tắc tất cả mọi
người cộng sản đều là anh em cùng giai cấp, họ chỉ có thể tỏ ra trung thực và
chân thành với nhau mà thôi. Hồ Chí Minh quả thực là một trong “các vị
Thánh” của chủ nghĩa cộng sản. Cũng với góc nhìn phẩm chất chính trị của
Hồ Chí Minh, Stanley Karnow trên tờ Time (Mỹ) có bài viết nhận định: Một
thân hình gầy gò, chòm râu dài, chiếc áo khoác cũ và đôi dép cao su đã mòn,
Hồ Chí Minh đã tạo ra một hình ảnh Bác Hồ hiền lành giản dị. Nhưng người
là nhà cách mạng dày dạn kinh nghiệm và một nhà dân tộc chủ nghĩa nồng
9
nhiệt, suốt đời đấu tranh cho một mục đích duy nhất: mang lại độc lập tự do
cho dân tộc mình. Không có sự dao động trong niềm tin của Hồ Chí Minh,
không thể lay chuyển ý chí của Người, ngay cả khi cuộc chiến tranh của Mỹ
leo thang, tàn phá đất nước, người vẫn giữ niềm tin đối với nền độc lập của
Việt Nam. Dưới con mắt phương Tây, điều dường như không thể tưởng tượng
được là Hồ Chí Minh có thể cống hiến sự hy sinh to lớn như ông đã làm.
Tsuboi Yoshiharu trong tham luận tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ 3
tổ chức tại Hà Nội (5-8/12/2008) đi vào “Khảo cứu lại Hồ Chí Minh” [150].
Trên một lập trường cho rằng “giá trị tự do hơn”, tác giả tiếp cận nghiên cứu
Hồ Chí Minh với tư cách là một người theo chủ nghĩa Cộng hòa và “nhận ra
rằng có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời của mình
là những giá trị của nền Cộng hòa... nếu nhận thức Hồ Chí Minh như một
người theo chủ nghĩa Cộng hòa, chúng ta có thể đánh giá được một cách đầy
đủ và đúng đắn nhất những tư tưởng và hành động của Ông” [150]. Tác giả
phân tích “Tinh thần nền Cộng hòa Pháp” và nhận thức tinh thần Cộng hoà
của Hồ Chí Minh để kết luận: “có lẽ Hồ Chí Minh là lãnh đạo chính trị duy
nhất ở Đông Á nhận thức được một cách đúng đắn nhất tinh thần nền Cộng
hòa và Ông đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam” [150]. Tác giả phân tích “Ý
nghĩa của Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” mà Hồ Chí Minh đề ra và phấn đấu
thực hiện để làm cơ sở cho việc khẳng định: “chúng ta có thể nhìn thấy một
phần cách suy nghĩ theo chủ nghĩa Cộng hòa của Hồ Chí Minh” [150]. Công
trình này của Tsuboi Yoshiharu góc độ tiếp cận có nhiều khác biệt nên trên
không ít nhận định ngược lại với quan điểm chính thống ở Việt Nam. Tuy
nhiên, có thể thiên về lý giải sự khác biệt do tính chất khoa học hơn là động
cơ xấu về chính trị của tác giả.
Như vậy, đến nay chưa thấy thống kê các công trình nghiên cứu chuyên
biệt về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh ở nước ngoài. Nhận định sau đây của
nhà nghiên cứu Vladimir N. Kolotov (Nga) có thể xem như là một trong
những lý giải: "Mặc dù hệ tư tưởng Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào mọi lĩnh
10
vực của xã hội Việt Nam, cho đến nay, vấn đề này còn được nghiên cứu rất ít
ở phương Tây, nơi người ta thích nhìn vào Việt Nam qua lăng kính hệ tư
tưởng của mình, dán vào các quá trình khách quan những nhãn hiệu không có
gì giống hiện thực" [151].
1.1.1.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là nội dung cốt lõi và bao trùm trong
tư tưởng Hồ Chí Minh nên các công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí
Minh thực chất đã là nghiên cứu tư tưởng chính trị của Người. Tuy nhiên,
nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh một cách riêng biệt và độc lập thì
còn ít được triển khai. Công trình Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph.Ănghen,
V.I. Lênin và Hồ Chí Minh của Lê Minh Quân [119] là một trong số ít đó khi
dành một phần nội dung đề cập những vấn đề rất cơ bản của tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh. Tác giả quan niệm: Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là một bộ
phận chủ yếu trong hệ thống tư tưởng của Người, đề cập đến nhiều vấn đề, từ
nhận thức hay quan niệm về chính trị đến những vấn đề của chính trị trong
thực tiễn như đường lối của cách mạng Việt Nam; từ những vấn đề xây dựng
Đảng, giành và giữ chính quyền, xây dựng chế độ mới, xây dựng và thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, vấn đề cán bộ và đạo đức cách mạng, vấn đề
vận động quần chúng đến những vấn đề về chiến lược, sách lược và nghệ
thuật chính trị, phương pháp và phong cách của hoạt động và con người chính
trị.
Phân tích các nội dung chủ yếu trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
về đường lối cách mạng Việt Nam, xây dựng Đảng, xây dựng chế độ mới,
phương pháp và nghệ thuật chính trị, con người chính trị, tác phẩm trên khẳng
định: Chính trị trong quan niệm của Hồ Chí Minh là đạo đức và hành động
cách mạng vì nước, vì dân, vì con người; tự do cho Tổ quốc, độc lập cho dân
tộc, hạnh phúc cho Nhân dân là tất cả những gì nhà chính trị Hồ Chí Minh
muốn, tất cả những gì Người làm. Đặc biệt, trong phân tích nội dung xây
dựng và thực hiện quyền lực của Nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do
11
dân và vì dân, tác giả đã khái quát và đi đến khẳng định các quan điểm chính
trị toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, quyền hạn, trách
nhiệm, sức mạnh, lực lượng của Nhân dân; phương thức Nhân dân sử dụng
quyền lực; mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân. Tất cả đều phải hướng
tới mục tiêu xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân ngày càng rộng rãi hơn,
thực sự hơn.
Các bộ phận, các yếu tố cấu thành nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh được nghiên cứu trong nhiều công trình. Đó là các công trình nghiên
cứu tư tưởng về Đảng và xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng của Nguyễn Quốc Bảo [22], Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh của Phạm Ngọc Anh và Bùi
Đình Phong [5], Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng do Phạm Ngọc Anh
chủ biên [6],... Các công trình này đề cập một cách hệ thống, toàn diện nhiều
khía cạnh về vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng; về các mặt công tác (tổ
chức – cán bộ, tư tưởng, kiểm tra, dân vận,...), các yếu tố (văn hóa, bản chất,
mục tiêu, lý tưởng,...) của Đảng; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
về việc vận dụng tư tưởng đó vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở
nước ta... từ vị trí, vai trò của Đảng và công tác xây dựng Đảng.
Nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước đã luận giải trên nhiều khía cạnh: cơ sở, quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân; quan niệm
về nhà nước của dân, do dân và vì dân; bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước ta; nhà nước pháp quyền; tổ chức, bộ máy, phương thức hoạt động;...
Một số công trình tiêu biểu đề cập đến các vấn đề trên là: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về tổ chức nhà nước và cán bộ, công chức (Hà Quang Ngọc, Nguyễn
Minh Phương) [102]; Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin về xây dựng Nhà nước pháp quyền (Phạm Ngọc Dũng) [32];
Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh (Vũ Đình Hòe) [64];...
12
Con người chính trị là một nội dung quan trọng của Chính trị học.
Trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, con người chính trị được đề cập rất
nhiều. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này phải kể đến Hồ Chí Minh đào
tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài (Đức Vượng) [159], Tư tưởng Hồ Chí
Minh về việc giải quyết mối quan hệ cá nhân – xã hội trong đạo đức của
người cán bộ cách mạng (Phạm Huy Kỳ) [77],... Ở các công trình này, trong
khi khẳng định cán bộ là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách
mạng thì việc gắn bó với Nhân dân, đi đúng đường lối Nhân dân là yêu cầu
trước tiên và bao trùm đối với cán bộ. Nhân dân vừa là nguồn cung cấp cán
bộ, vừa là môi trường nuôi dưỡng, rèn luyện cán bộ, vừa là lực lượng không
gì hơn giúp cán bộ hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng là đối tượng mà cán
bộ thực hiện vai trò lãnh đạo và đầy tớ.
Như vậy, nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đa số đi vào các
nội dung bộ phận, đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt. Khái
niệm, bản chất, nội dung của hệ thống tư tưởng này vẫn còn là vấn đề mới cần
phải được tập trung nghiên cứu làm rõ. Tuy nhiên, từ nhiều công trình nghiên
cứu các nội dung bộ phận của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh nêu trên cho
thấy hầu hết nội dung của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đều liên quan đến
Nhân dân, đều cho thấy Nhân dân đóng vai trò rất quan trọng và bao trùm.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về
Nhân dân và ý nghĩa, vận dụng tư tưởng đó trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Hồ Chí Minh từ lâu đã là đề tài nghiên cứu thu hút sự quan tâm của
không ít cá nhân, tổ chức. Các nghiên cứu của những học giả nước ngoài về
Hồ Chí Minh là khá đa diện và đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân thì hầu như chưa có các công trình nghiên
cứu một cách hệ thống và chuyên biệt; phần lớn được thể hiện qua các nhận
13
định trong những công trình nghiên cứu tiểu sử, sự nghiệp hoạt động chính trị
của Hồ Chí Minh. Một số tiêu biểu như:
Công trình “Ho” của David Halberstam xem Hồ Chí Minh “là hiện
thân của một cuộc cách mạng”, “là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng, đấu
tranh, hy sinh và thắng lợi” của nông dân – thành phần chiếm đại đa số trong
Nhân dân Việt Nam. Tác giả đi tìm nguyên nhân từ những yếu tố thuộc phẩm
chất cá nhân của Hồ Chí Minh, đặc biệt nhấn mạnh Hồ Chí Minh “không cố
tìm kiếm cho mình những cái trang sức quyền lực vì ông tự tin ở mình và ở
mối quan hệ của ông với nhân dân”.
Ahn Kyong Hwan trong Chủ tịch Hồ Chí Minh qua cảm nghĩ của một
người Hàn Quốc [1], cho rằng tinh thần yêu nước thương dân, yêu dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhân vật vĩ đạt nhất xứng đáng là tấm gương
cho tất cả các nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới. Người đã không màng đến
địa vị của mình, được công nhận là một nhà lãnh đạo tầm cỡ thế giới, sống
như cuộc sống của người dân bình thường, chăm lo cải thiện cuộc sống của
đồng bào Việt Nam. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể nói một cách
tóm tắt là "Tinh thần cùng với người dân" (cùng sống với người dân, cùng ăn
với người dân, cùng làm việc với người dân). Tác giả đưa ra và nêu ra nhiều
dẫn chứng để phân tích ba lý do sau đây nhằm lý giải vì sao Hồ Chí Minh
được toàn dân tôn kính, vì sao Người có thể tập hợp được sức mạnh của toàn
dân: (i) Trong bất cứ hoàn cảnh nào Người cũng sống cuộc sống thanh liêm;
(ii) Mang hoài bão về giáo dục của đất nước, Người giáo dục cho giới trẻ để
chuẩn bị cho tương lai của quốc gia; (iii) Lúc nào cũng đứng về phía những
người yếu thế, luôn đùm bọc che chở những người cô đơn.
Trong bài viết Đấng cứu tinh của hòa bình, độc lập và hạnh phúc [51],
Geetesh Sharman (Chủ tịch điều hành Ủy ban đoàn kết Ấn Độ - Việt Nam)
cũng đánh giá theo hướng nêu trên khi khẳng định Nhân dân luôn là tâm điểm
của quá trình tư tưởng Hồ Chí Minh; Nhân dân chiếm một vị trí quan trọng,
vững chắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự quan tâm của Người đối với Nhân
14
dân không bị giới hạn trong các ranh giới địa lý. Hồ Chí Minh là người mà
trong lời nói và việc làm của mình luôn nhấn mạnh đến độc lập và phúc lợi
của Nhân dân. Mục đích của Người không chỉ là giải phóng đất nước mình
khỏi sự thống trị ngoại bang mà trong chiều sâu tư tưởng của mình, bên cạnh
mục đích giành độc lập, Người còn mong ước mang đến sự công bằng, bình
đẳng và no ấm cho Nhân dân mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh và triết lý chính
trị theo định hướng vì Nhân dân của Người không phải là ảo tưởng theo bất
kỳ nghĩa nào. Người đã đồng hóa cái cốt lõi của toàn bộ kinh nghiệm với triết
lý của mình và do đó triết lý theo định hướng Nhân dân hoàn toàn thực dụng
và thực tiễn. Sự nghiệp cách mạng Việt Nam vĩ đại như thế không thể đạt
được nếu thiếu sự lãnh đạo sáng suốt và nhân cách của Hồ Chí Minh với
những chính sách, chiến lược theo hướng coi Nhân dân là nhân tố quyết định
của Người. So với các vĩ nhân của thời kỳ hiện đại thì những lý tưởng và
chính sách của Hồ Chí Minh dễ hiểu hơn đối với các quyền lợi của Nhân dân.
Tiếp cận từ góc độ nghiên cứu Chính sách xã hội và tinh thần thời đại
của Hồ Chí Minh [2], nhà nghiên cứu người Nga A.X. Varônhin cho rằng tầm
vóc nhân vật Hồ Chí Minh như một chính trị gia đòi hỏi chúng ta nghiên cứu
những quan điểm và chính sách chính trị - xã hội của Người trong bối cảnh
lịch sử rộng hơn nữa. Phẩm chất vĩ đại của Hồ Chí Minh như một chính trị gia
là ở chỗ Người hiểu rất rõ và đặt niềm tin sâu sắc vào năng lực, sự nhiệt huyết
và sự nhận thức đang trỗi dậy trong Nhân dân. Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ nhân
dân, chưa bao giờ đi chệch khỏi con đường phục vụ Nhân dân, bảo vệ lợi ích
của Nhân dân, dù chỉ một bước, dù phải chịu bao nhiêu gian khổ. Trong mọi
vấn đề, trong mọi việc, từ nhỏ đến lớn, thước đo chân lý của Người là một đất
nước Việt Nam độc lập tự do và tiến bộ xã hội. Lợi ích của Nhân dân là khởi
điểm và cũng là cái đích đến cuối cùng, là hòn đá tảng của triết lý và hoạt
động chính trị của Hồ Chí Minh. Không hiểu được điều này có nghĩa là không
hiểu được điều quan trọng nhất tạo nên sự khác biệt của Hồ Chí Minh với các
chính trị gia vĩ đại khác của thế kỷ XX.
15
Khẳng định giá trị và sức sống của giá trị tinh thần Hồ Chí Minh trong
lòng Nhân dân thế giới nói chung, cụ thể là Nhân dân Mỹ Latinh, nhà báo,
nhà hoạt động chính trị người Mêhicô Igơnaxiô Gônxalết Hanxen trong Tinh
thần Hồ Chí Minh ở Mỹ Latinh [74] đã phân tích tầm nhìn xa và thiên bẩm
chính trị của Hồ Chí Minh trong mối tương tác với Nhân dân. Theo tác giả,
đối với những người cách mạng và những nhà đấu tranh xã hội trên toàn thế
giới, tấm gương đấu tranh của Nhân dân Việt Nam luôn gắn liền với tầm nhìn
xa của Hồ Chí Minh – tầm nhìn mang tính giác ngộ, đoàn kết và tập hợp lực
lượng, với một niềm tin vào chủ nghĩa yêu nước lịch sử của quần chúng. Tầm
nhìn xa và thiên bẩm chính trị Hồ Chí Minh được nảy sinh từ mối quan hệ
gắn bó với người dân và nhận thức nhạy bén trước những nguyện vọng của
Nhân dân. Hồ Chí Minh đã dạy "làm chính trị" với sự tham gia tích cực và có
tổ chức của toàn dân. Tình yêu Tổ quốc và đồng bào luôn hiện hữu trong từng
cư xử và từng nỗi trăn trở của Người: "Mang lại hạnh phúc cho nhân dân".
Liên quan đến tư tưởng và thực tiễn hoạt động chính trị vì Nhân dân
của Hồ Chí Minh, một số bài viết trên tạp chí ở nước ngoài cũng đề cập thông
qua nhiều nhận định sâu sắc. Xã luận trên tuần báo Bằng chứng Thiên Chúa
giáo viết: Cụ Hồ Chí Minh là một trong những chiến sĩ đầu tiên của thế giới
thứ 3, của các dân tộc nghèo đói và khát khao cuộc sống cho ra con người.
Tờ Manila Times thì viết: Cụ Hồ là một biểu tượng của châu Á. Không những
cụ đã thành công trong sự lãnh đạo một cách mẫu mực, toàn tâm, toàn ý phục
vụ quyền lợi của nhân dân mà còn nêu một chân lý chưa từng thấy: Một dân
tộc dù nhỏ bé nếu có quyết tâm thì có thể chống lại cả những cường quốc
quân sự mạnh nhất.
Ở các bài viết nêu trên, các vấn đề chính trị về Nhân dân trong tư tưởng
Hồ Chí Minh được phản ánh một cách gián tiếp, lồng ghép qua chủ đề khác.
Ngay ở phần nội dung của các bài viết đề cập những khía cạnh khác nhau liên
quan đền tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân cũng thiên về nêu lên
luận điểm mang tính khẳng định hơn là luận giải. Bản chất, vị trí, vai trò của
16
Nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh và nội dung cơ bản của tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân chưa thể hiện hệ thống và rõ nét
trong các nghiên cứu.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới (12/1986) đến nay, tuy chưa có các
nghiên cứu chuyên biệt nhưng tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân
lại được phản ánh gián tiếp, lồng ghép, tồn tại như một phần trong tổng thể
nội dung của nhiều công trình nghiên cứu có liên quan.
Các công trình nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng và Dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện với tần suất nhiều nhất. Tiêu biểu trong đó là
công trình Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh của
Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng [146]. Nội dung sách trình bày một cách khá hệ
thống khái niệm dân và những quan điểm, thái độ khác nhau về dân trong lịch
sử, quá trình hình thành và nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân, về Đảng cầm quyền và về mối quan hệ biện chứng giữa dân và Đảng. Từ
đó, nêu lên thực trạng và giải pháp nhằm tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng
và dân trong thời kỳ mới.
Các công trình nghiên cứu vấn đề dân chủ, dân quyền trong tư tưởng,
phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh có nhiều nội dung liên quan. Trong
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ [31], tác giả Phạm Hồng Chương khái quát
bản chất dân chủ trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một phạm trù chính trị.
Theo tác giả, quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh nổi bật lên nội dung chính
trị, khi Người nhấn mạnh đến vấn đề nhà nước, xem dân chủ là một hình thái
nhà nước với đặc điểm là Đảng lãnh đạo – Nhân dân lao động làm chủ - Nhà
nước dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù; là phương thức tổ chức
hệ thống chính trị trong đó thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng và việc tổ chức
các đoàn thể nhân dân nhằm thu hút ngày càng nhiều quần chúng tham gia
xây dựng và phát triển nền dân chủ; là một thiết chế xã hội – “nước ta là một
nước dân chủ”.
17
Trong các nội dung “Chìa khóa vạn năng”, “Dân chủ mới”, “Dân chủ
có định hướng”, tác giả trình bày quan điểm chính trị của Hồ Chí Minh xem
dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là chìa khóa của sự phát triển xã
hội. Để dân chủ có định hướng, tác giả chỉ ra những quan điểm của Hồ Chí
Minh về dân chủ dưới sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản; cùng với luật
pháp, đạo đức là giới hạn của dân chủ, là công cụ kiểm tra và định hướng dân
chủ; quan hệ biện chứng giữa dân chủ và dân tộc. Ở nội dung “Dân chủ trong
lĩnh vực chính trị”, tác giả cho rằng: Quan điểm Hồ Chí Minh về dân chủ
trong lĩnh vực chính trị cho thấy quyền lực của Nhân dân được khẳng định
bằng Hiến pháp và pháp luật, được bảo đảm trong việc tổ chức ra và xây dựng
nhà nước dân chủ mới của dân, do dân, vì dân; xây dựng Đảng và các tổ chức
chính trị - xã hội vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Tác giả
kết luận: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là quá
trình thay đổi vị trí của Nhân dân lao động từ vị trí thụ động trong xã hội sang
vị thế người chủ trong quản lý đất nước và xây dựng xã hội mới. Ngoài ra, tác
giả còn trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhân dân.
Tập thể tác giả công trình Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh [28]
thông qua việc trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về phương pháp
dân chủ Hồ Chí Minh, nêu lên nhiều nội dung liên quan đến quan điểm chính
trị Hồ Chí Minh về Nhân dân. Khẳng định phương pháp dân chủ Hồ Chí
Minh là phương pháp của một lãnh tụ chính trị, các tác giả luận chứng rõ mục
tiêu, lý tưởng về Nhân dân; quan niệm, cách hiểu về dân chủ rất đơn giản
nhưng khoa học và hiện đại – dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ; mối quan
hệ giữa phương pháp dân chủ với tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh.
Theo nhóm tác giả, Hồ Chí Minh coi thực chất phương pháp dân chủ
của mình là “Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền
dân chủ, dám nói, dám làm”. Hồ Chí Minh coi cải thiện và nâng cao đời sống
Nhân dân là mục tiêu, tiêu chuẩn và hiệu quả của mọi cải cách xã hội do
chính phủ dân chủ tiến hành, là thước do hành động cách mạng. Xét từ góc độ
18
dân chủ thì cái đảm bảo vững chắc cho sự tồn tại của hệ thống chính trị là
trình độ dân chủ của xã hội ở mức nào. Từ góc nhìn đó, nhóm tác giả đi đến
phân tích quan điểm và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh để Đảng,
Chính phủ, đoàn thể nhân dân thực thi tốt việc mở rộng dân chủ thực sự. Trên
cơ sở thực trạng và các yêu cầu của tình hình mới, nhóm tác giả phân tích khá
sâu sắc việc vận dụng phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh vào hoàn thiện
phương pháp dân chủ trong lãnh đạo của Đảng trên nhiều lĩnh vực.
Trên nhiều tạp chí khoa học xuất hiện không ít các bài viết có nội dung
đề cập liên quan đến tư tưởng chính trị về nhân dân của Hồ Chí Minh. Nhóm
các bài viết có nội dung phân tích khái niệm, vai trò của nhân dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh tiêu biểu như “Khái niệm nhân dân trong tư tưởng Hồ
Chí Minh” của Mai Trung Hậu [54]; “Nhân dân – Một phạm trù văn hóa
chính trị Hồ Chí Minh” của Bùi Đình Phong [112]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng” của Trần Quang Nhiếp
[99]; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố nhân dân và dư luận xã hội trong
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng" của Nguyễn Thế Thắng [133]; "Tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân và dân chủ" của Nguyễn Thị Mai Anh [8],... Các
bài viết trên có sự gần nhau trong trình bày quan niệm về Nhân dân của Hồ
Chí Minh: Tất cả mọi người con đất Việt mà Hồ Chí Minh hay gọi là đồng
bào đều là dân. Dân là một tập hợp lớn những con người, là khối quần chúng
đông đảo có truyền thống đoàn kết, yêu nước và lao động cần cù. Dân là toàn
bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kể cả kiều bào Việt
Nam ở nước ngoài. Về vai trò của Nhân dân, nhiều tác giả làm rõ trong mối
tương tác đối với đất nước, với sự nghiệp cách mạng; một số bài viết khác
luận chứng vai trò của Nhân dân đối với những chủ thể (Đảng, Nhà nước)
hoặc lĩnh vực cụ thể (chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng đời sống
mới,...). Tựu trung lại, Nhân dân đóng vai trò bao trùm trên nhiều phạm vi, là
nhân tố quyết định sự thành bại của công việc, là cội nguồn ra đời, nuôi
19
dưỡng và bảo vệ sự nghiệp cách mạng, tổ chức cách mạng, con người cách
mạng.
Dân chủ, dân quyền, dân vận trong tư tưởng, phương pháp, phong cách
Hồ Chí Minh cũng là nội dung của nhiều bài viết trên các tạp chí khoa học:
“Phương pháp dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua bài báo “Dân vận”- ý
nghĩa thực tiễn” của Nguyễn Thanh Tuyền [149], “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát huy quyền dân chủ để nhân dân tích cực tham gia quản lý nước nhà”
của Nguyễn Thế Phúc [115], "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân quyền"
của Phạm Văn Bính [28],... Các tác giả đã khẳng định cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí, thực hành dân chủ là mục tiêu và động lực của công tác quần
chúng; quyền dân chủ chính là quyền chính trị tất yếu của Nhân dân, phải
phát triển quyền dân chủ cho Nhân dân, giáo dục ý thức dân chủ cho dân bằng
cách nâng cao dân trí và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng một thiết
chế chính trị hoàn chỉnh, tích cực đưa Nhân dân tham gia vào sinh hoạt chính
trị trong xã hội; dân quyền là quyền công dân do luật pháp quy định và đảm
bảo, trong đó, quyền dân sự và quyền chính trị là hai quyền cơ bản.
Nhiều nhà nghiên cứu đi sâu phân tích tính cấp thiết, tầm quan trọng,
yêu cầu, nội dung, cách thức mà hệ thống chính trị (chủ yếu là Đảng và Nhà
nước) phải làm nhằm chăm lo cho Nhân dân, nhằm phát huy vai trò của nhân
dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh như Phạm Bá Lượng trong "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về "lấy dân làm gốc"" [104], Đỗ Xuân trong "Học Bác lấy dân làm gốc"
[161], Đặng Văn Thái trong "Những tâm huyết trong Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân" [127], Phạm Ngọc Anh trong
"Quan điểm của Hồ Chí Minh về các biện pháp phát huy nguồn lực của nhân
dân trong xây dựng và phát triển đất nước" [7], Nguyễn Lương Uyên trong
"Phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh" [165], Lê Quốc Lý trong "Thực hiện Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh "không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"
[105],... Nhóm bài viết này nêu vai trò, tầm vóc của Nhân dân, đi đến khẳng
20
định tầm quan trọng và chỉ ra những nội dung cơ bản của việc chăm lo phát
huy vai trò của Nhân dân, liên hệ với thực tiễn hiện nay và gợi mở các
phương hướng, giải pháp để thực hiện tốt trong hiện tại và tương lai.
Dù có số lượng không nhiều bằng các chủ đề khác, một số bài viết tiếp
cận vấn đề Nhân dân với tư cách là một bộ phận nội dung trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn có chỗ đứng riêng. Các tác giả hệ thống tần suất xuất
hiện và những điểm chủ yếu về Nhân dân trong tư tưởng cũng như thực tiễn
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh để đưa ra khẳng định vị trí, vai trò của
vấn đề này đối với toàn bộ tư tưởng. Nguyễn Đình Hòa trong bài viết "Độc
lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân - cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh"
[57] đã luận giải để khẳng định, đối với Hồ Chí Minh, độc lập cho dân tộc
luôn gắn liền với hạnh phúc cho Nhân dân. Độc lập dân tộc là mục tiêu hàng
đầu của cách mạng Việt Nam, là tiền đề quan trọng để đưa đất nước tiến tới
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không gì khác hơn là giải
phóng và phát triển con người, là hạnh phúc của Nhân dân. Đó không chỉ là
giá trị cốt lõi, hạt nhân xuyên suốt tư tưởng cách mạng và nhân văn của Hồ
Chí Minh, mà còn là định hướng chủ đạo mang tầm chiến lược, soi đường cho
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo Nhân dân tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Ở góc độ nghiên cứu tác phẩm Di chúc, tác giả Nguyễn Tất Giáp trong
"Trọng dân, thân dân – Tư tưởng nổi bật trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh" [50] đã trình bày những bổ sung, phát triển tư tưởng trọng dân, thân
dân trong triết lý truyền thống của dân tộc và văn hóa nhân loại của Hồ Chí
Minh để làm nên diện mạo mới, bản chất mới của quan niệm này trên ba khía
cạnh: (1) Khái niệm về "Dân" trong quan niệm của Hồ Chí Minh có sự khác
biệt với khái niệm "Dân" trong quan niệm của các nhà tư tưởng phong kiến và
tư sản ở phương Đông và phương Tây; (2) Chỉ rõ vai trò tích cực, chủ động
của người dân trong những hoạt động thực tiễn nhằm mang lại ấm no, hạnh
phúc cho chính họ; (3) Dựa vào dân, coi dân là gốc và lấy dân làm gốc hoàn
21
toàn không phải là một khẩu hiệu, một "nghệ thuật" chính trị, mà đó là một
chiến lược cách mạng xuyên suốt trong các thời kỳ, các giai đoạn lịch sử. Từ
đó, tác giả chứng minh: Trọng dân, thân dân là tư tưởng nổi bật trong Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở mọi thời đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
khẳng định, đánh giá cao vai trò, sức mạnh của Nhân dân. Nhân dân chính là
một trong những động lực chủ yếu, là lực lượng có sức mạnh vô địch và là lực
lượng quyết định sự thành bại của cách mạng trong cả giai đoạn đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất nước nhà và giai đoạn xây dựng xã hội mới văn
minh, tốt đẹp. Hồ Chí Minh luôn quán triệt sâu sắc trong tư duy và hành động
bài học dân là gốc và lấy dân làm gốc.
Ở hầu hết các công trình nêu trên, liền với trình bày các nội dung liên
quan đến tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân là nêu bật ý nghĩa của
nội dung trình bày.Các nghiên cứu đều khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn
to lớn của các vấn đề về nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; luận
chứng những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình cách mạng Việt Nam, tập
trung ở thời kỳ đổi mới có mối liên hệ chặt chẽ với việc trung thành và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, các quan điểm chính trị về Nhân dân
nói riêng; trên cơ sở đó đề ra các giải pháp, khuyến nghị. Có thể khẳng định,
nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân và ý nghĩa, vận dụng
các nội dung đó trong thời kỳ đổi mới là “cặp đôi” trong các nghiên cứu.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở trên cho
thấy việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức
phong phú, nhiều góc độ, khía cạnh nội dung sâu sắc. Tuy nhiên, nghiên cứu
tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, nhất là nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về Nhân dân chưa có những công trình độc lập, trình bày hệ thống, đặc
biệt là từ góc độ chuyên ngành Chính trị học. Từ thực trạng nghiên cứu trên,
nghiên cứu sinh nhận thấy cần tiếp tục nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về Nhân dân một cách hệ thống, cố gắng đi vào chiều sâu bản chất của
22
vấn đề. Căn cứ mục đích và nhiệm vụ của luận án đề ra, từ góc độ chuyên
ngành Chính trị học, luận án thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm rõ
những vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ quan niệm về Nhân dân, vị trí, vai trò của
Nhân dân theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Trong quan niệm về Nhân
dân, làm rõ sự tìm hiểu và chọn lọc của Hồ Chí Minh đối với các lý thuyết
quan niệm về nhân dân đã có, các góc độ tiếp cận quan niệm nhân dân khác
nhau của Hồ Chí Minh, nội hàm và ngoại diên, những biến đổi quan niệm về
nhân dân trong các thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Từ quan niệm về nhân
dân như thế dẫn đến các quan điểm về vị trí, vai trò của Nhân dân đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam và nhiều quan điểm khác, cũng như những hoạt
động thực tiễn của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo, thiết kế bộ máy nhà nước,
chế độ chính trị để đảm bảo vị trí, vai trò của Nhân dân. Làm rõ quan điểm
của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của Nhân dân theo hướng luận chứng nhân
dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, phân tích để làm rõ rằng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
về Nhân dân, con đường để Nhân dân Việt Nam thực hiện đúng vị trí, vai trò
của mình khi mà tình cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến đã tước mất
chính là tiến hành sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm về vị trí, vai
trò của Nhân dân như thế; nhận thấy trong bối cảnh đất nước đương thời vị
trí, vai trò của Nhân dân bị xâm phạm, tước đoạt nên xác định con đường
cách mạng nhằm giải phóng Nhân dân, đưa nhân dân lên địa vị là chủ và làm
chủ xã hội, làm chủ đất nước; sau đó, tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội theo tôn chỉ của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Luận giải rõ
những vấn đề trên để cho thấy đây không chỉ là lý thuyết, mong muốn chính
trị mà còn là nội dung hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân trong
công cuộc đổi mới nước ta hiện nay. Khẳng định giá trị, ý nghĩa của tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân trong thời kỳ trước khởi xướng đổi mới
23
(12/1986), nhất là thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 – 1975). Chứng
minh những thành tựu đạt được trong 30 năm đổi mới vừa qua có nguyên
nhân quan trọng ở chỗ đã trung thành, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân; ngược lại, những hạn chế, khuyết điểm
có nguyên nhân không nhỏ từ những thiếu sót, sai lầm trong nhận thức và vận
dụng tư tưởng này. Từ đó khẳng định công cuộc đổi mới phải đạt tới mục tiêu
và lý tưởng của nhân dân Việt Nam và chỉ thành công khi phát huy được toàn
bộ sức mạnh của nhân dân.
24
Tiểu kết Chương 1
Nghiên cứu “Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân và ý nghĩa
đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay”, Chương 1 của luận án đã tổng quan tình
hình nghiên cứu liên quan đến đề tài thông qua khảo sát, phân tích, nhận định
các công trình nghiên cứu (sách, bài viết trên tạp chí khoa học) trong và ngoài
nước theo hai nhóm: (1) Các công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh; (2) Các công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân. Qua đó nhận thấy:
Một là, ở nước ngoài, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh nói chung, tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân nói riêng là đề tài hầu như chưa có
các công trình nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên biệt; phần lớn được
thể hiện qua các nhận định trong những công trình nghiên cứu tiểu sử, sự
nghiệp hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh.
Hai là, ở trong nước, nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đa số
đi vào các nội dung bộ phận và hầu hết liên quan đến Nhân dân, cho thấy
Nhân dân là phạm trù trung tâm, đóng vai trò rất quan trọng và bao trùm. Tuy
nhiên, Nhân dân mới chỉ được phản ánh gián tiếp, lồng ghép, tồn tại như một
phần trong tổng thể nội dung của nhiều công trình nghiên cứu có liên quan.
Kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan là nguồn tư liệu quý
báu giúp thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, từ tổng
quan tình hình nghiên cứu cũng đặt ra những vấn đề luận án cần tiếp tục làm
rõ đó là: Quan niệm về Nhân dân; vị trí, vai trò và việc đảm bảo thực hiện vị
trí, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam theo tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh; ý nghĩa của tư tưởng này đối với sự nghiệp đổi mới
hiện nay. Những vấn đề này cũng chính là nhiệm vụ nghiên cứu chính và
được làm rõ trong các chương tiếp theo của luận án.
25
Chương 2
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP
CÁCH MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.1. QUAN NIỆM VỀ NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ
MINH
2.1.1. Quan niệm chung về Nhân dân
"Nhân dân" là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội
nói chung, đời sống chính trị nói riêng. Tính phổ quát ấy tạo nên sự đa dạng
các tiếp cận của nhiều khoa học trong định nghĩa khái niệm mang tính chính
trị - xã hội này. Mặt khác, cần lưu ý trong nhiều trường hợp, thuật ngữ này
cũng được dùng thay thế bởi các thuật ngữ khác tương ứng, gần nghĩa.
Tư tưởng chính trị, cả ở phương Tây lẫn phương Đông, đều đề cập đến
"Nhân dân" như là khái niệm cơ bản. Từ rất sớm, khái niệm "Nhân dân" xuất
hiện phổ biến trong các thư tịch của nhiều trường phái lý thuyết Trung Hoa cổ
đại, nổi bật là Nho giáo. Điều đó cũng diễn ra ở phương Tây dưới thời Hy
Lạp, La Mã cổ đại. Nhìn chung, khái niệm "Nhân dân" ở thời kỳ này thường
được định nghĩa dưới lăng kính tư tưởng của giai cấp thống trị (chủ nô, phong
kiến) với những tiêu chuẩn xác định thành phần thuộc về nhân dân nặng tính
đẳng cấp.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, cụ thể ở Hy Lạp và La Mã, nhân dân
được xem là một tập hợp bao gồm trong đó thành phần chủ yếu là chủ nô,
tăng lữ, thương gia, trí thức và dân tự do. Người nô lệ chiếm đa số và là lực
lượng lao động chính của xã hội không được xem là thành phần trong nhân
dân. Quan niệm này chọn lọc những thành phần riêng biệt trong toàn thể xã
hội, không tùy thuộc vào số lượng hay vai trò đối với lao động sản xuất như
thế nào, mà dựa trên quan niệm đẳng cấp của giới cầm quyền, để đưa vào
thành phần cấu thành tập hợp người được gọi là nhân dân. Với quan niệm
này, nhân dân không phải là lực lượng chiếm số đông trong xã hội, càng
26
không phải là lực lượng lao động chính của xã hội. Đó là tập hợp những
người giữ địa vị thống trị (chủ nô) và những người được hưởng quyền lợi từ
quan niệm đẳng cấp của giai cấp thống trị đó (dân tự do).
Các triều đại phong kiến phương Đông, thể hiện tập trung ở Trung
Quốc, xem "Nhân dân" là một tập hợp người được xác định bởi địa vị bị trị
trong mối quan hệ với giai cấp phong kiến thống trị. Nói cách khác, nhân dân
là tập hợp những người trong xã hội mà đặc điểm lớn nhất là không nắm giữ
quyền lực chính trị, không làm việc trong bộ máy triều đình, không thừa
hưởng vị thế xã hội từ quan hệ huyết thống với người nắm giữ quyền lực
chính trị. Quan niệm này tiến bộ hơn so với thời chiếm hữu nô lệ ở chỗ đã xác
định được nhân dân với hai đặc điểm: chiếm số đông và là lực lượng lao động
sản xuất chính trong xã hội. Tuy nhiên, sự tương đồng phản tiến bộ giữa hai
quan niệm vẫn rõ nét ở chỗ lấy quan hệ đẳng cấp là tiêu chí chính để định
nghĩa, cũng như xem nhẹ vai trò của nhân dân.
Quan niệm về nhân dân của các học giả tư sản, từ thời Cận đại đến nay,
rất phong phú tùy theo tư duy, lập trường nghiên cứu, góc độ tiếp cận qua các
giai đoạn khác nhau. Tựu trung lại, chiếm số đông là sử dụng rộng rãi khái
niệm nhân dân thường với nghĩa chỉ chung cho toàn thể thành viên trong xã
hội giới hạn bởi chủ quyền quốc gia dân tộc – quốc dân – hay chỉ các thành
viên trong xã hội được giới hạn bởi quyền công dân do pháp luật quy định –
công dân. Trên cơ sở tư tưởng của Rousseau về phạm trù nhân dân, có quan
điểm cho rằng, nhân dân là toàn bộ cư dân của một nhà nước chịu ảnh hưởng
của chủ quyền quốc gia của nhà nước đó. Trong khi đó, học giả người Pháp
Marcel Prelot giới hạn phạm trù nhân dân ở phạm vi hẹp hơn khi cho rằng
nhân dân là một bộ phận dân cư của quốc gia hợp thành từ những cá nhân
được hiến pháp trao cho quyền bầu cử.
Các nhà tư tưởng Mác – Lênin tiếp cận phạm trù "Nhân dân" dưới góc
độ biện chứng lịch sử. "Nhân dân" không phải là phạm trù nhất thành bất biến
mà có cơ sở xã hội thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội và tương quan
27
lực lượng trong cuộc đấu tranh giai cấp ở mỗi quốc gia. Mác – Ăngghen xem
nhân dân là cộng đồng xã hội nhất định mà các thành viên trong đó được gắn
kết với nhau bởi lợi ích chung. Đó là quần chúng đông đảo những người bị trị
so với thiểu số giai cấp thống trị. Theo nghĩa đó, Lênin cho rằng: "quần chúng
là toàn bộ những người lao động và những người bị tư bản bóc lột" [154,
tr.235]; "... quần chúng là đa số, và hơn nữa chẳng những chỉ là đa số công
nhân, mà là đa số tất cả những người bị bóc lột" [154, tr.38]. Cũng theo quan
điểm của Lênin, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, ở điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định, phạm trù nhân dân bao gồm các giai cấp, tầng lớp đóng vai trò
tiến bộ, cách mạng.
Quan niệm về nhân dân của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin
có những đặc điểm nổi bật sau:
Một là, trong khi chỉ ra nhân dân là cộng đồng người đông đảo của xã
hội, các nhà kinh điển Mác – Lênin không xem thành phần cấu thành cộng
đồng đó là một khối đồng nhất. Lênin nói: “Khi dùng danh từ nhân dân, Mác
không thông qua danh từ ấy xoá mờ tất cả sự khác biệt về giai cấp..." [153,
tr.159]. Cụ thể hơn, nhân dân là cộng đồng người có sự khác nhau về thành
phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp,... Nhân dân là khái niệm vừa
mang tính xã hội, vừa mang tính giai cấp; là khái niệm có ý nghĩa chính trị,
nói về một xã hội đã phân chia thành giai cấp, thành các tập đoàn người có
địa vị và lợi ích khác nhau. Mặc dù khẳng định có sự khác biệt dẫn đến nhân
dân không phải là khối đồng nhất nhưng các nhà kinh điển Mác – Lênin
không vì thế mà xem nhẹ tính thống nhất. Đó là cộng đồng có sự khác biệt
nhưng được gắn kết thống nhất bởi nhiều yếu tố.
Hai là, yếu tố chủ yếu gắn kết các thành phần để tạo nên cộng đồng
nhân dân là sự tương đồng địa vị xã hội – bị trị - trong mối quan hệ với giai
cấp thống trị. Ở nhiều quan niệm, Mác, Ăngghen, Lênin xác định trên nghĩa
chung nhất nhân dân là tất cả những người bị thống trị, bị bóc lột. Hoàn cảnh
đó dẫn đến sự gần gũi về lợi ích chung. Như thế vẫn chưa đủ bởi trong đông
28
đảo những người bị bóc lột, không phải ai cũng nằm trong thành phần nhân
dân. Nhân dân chỉ bao gồm tất cả những người bị bóc lột đóng vai trò tiến bộ,
cách mạng. Những ai trong số đông người bị bóc lột thể hiện vai trò phản
động, phản cách mạng, đi ngược lại lợi ích chung tiến bộ của đông đảo người
trong xã hội thì không được xem là nhân dân. Như vậy, yếu tố tiến bộ, cách
mạng cũng được các nhà kinh điển Mác – Lênin xem trọng khi quan niệm về
nhân dân.
Ba là, nhân dân vừa được quan niệm trên bình diện chung bao gồm tất
cả các thành phần trong xã hội bị bóc lột, đóng vai trò tiến bộ, cách mạng,
đồng thời không ít lần, các nhà kinh điển Mác – Lênin cũng xác định nhân
dân trong phạm vi hẹp hơn – phạm vi nòng cốt – chỉ gồm những người lao
động, hẹp hơn nữa là những người lao động đông đảo nhất, đóng vai trò quan
trọng nhất thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Với Mác – Ăngghen, đó là công nhân,
nông dân. Lênin thì bổ sung thêm vào đó binh lính. Mao Trạch Đông trong
"Bàn về chuyên chính dân chủ nhân dân", khi giải thích chuyên chính dân chủ
nhân dân là sự kết hợp “mặt dân chủ đối với nội bộ nhân dân và mặt chuyên
chính đối với bọn phản động”, cho thấy "khái niệm nhân dân đã được nói rõ
là đại bộ phận công dân đối lập với một thiểu số “bọn phản động”; quyền lợi
và địa vị của hai bộ phận này quyết định bởi địa vị giai cấp của họ" [53].
Trong Từ điển Triết học (1986), các học giả Liên Xô tiếp cận khái niệm
nhân dân theo hai nghĩa. Thông thường, nhân dân đồng nghĩa với dân cư của
một quốc gia, tức toàn bộ những người thực hiện hoạt động sinh sống của
mình trong phạm vi những cộng đồng xã hội nhất định. Tuy nhiên, chỉ trong
xã hội xã hội chủ nghĩa, khái niệm "nhân dân" mới bao quát toàn bộ dân cư,
tất cả các nhóm xã hội của nó. Điều này cũng dễ hiểu, bởi dưới các chế độ
bóc lột giai cấp, dân cư bao gồm trong đó cả giai cấp, tầng lớp thống trị - bộ
phận không thể nằm trong thành phần nhân dân. “Nhân dân... với nghĩa khoa
học chặt chẽ: cộng đồng người thay đổi trong lịch sử, bao gồm một bộ phận,
những tầng lớp, những giai cấp của dân cư mà theo địa vị khách quan của
29
mình, có khả năng cùng nhau tham gia giải quyết những nhiệm vụ phát triển
tiến bộ của một nước nhất định trong một thời kỳ nhất định” [157, tr.401].
Theo Lênin, khi dùng danh từ "nhân dân", Mác đã gộp vào danh từ ấy những
thành phần nhất định, có khả năng làm cách mạng đến cùng. Nhân dân bao
gồm những người sản xuất trực tiếp – những người lao động, các nhóm dân
cư không bóc lột – với tư cách là những thành phần chủ yếu của mình, tuy
nhiên, không phải lúc nào nhân dân cũng có thể được quy vào những giai cấp
và tầng lớp đó. Trong tiến trình phát triển xã hội, khi tiến hành những cải cách
cách mạng nhất định, bản thân những nhiệm vụ khách quan cũng biến đổi,
bản thân nội dung của cách mạng cũng thay đổi, cho nên cả thành phần xã hội
của các tầng lớp tạo nên nhân dân trong giai đoạn đó cũng không thể không
thay đổi. Tính tiến bộ, cách mạng – tiêu chí quan trọng để xác định thành
phần nhân dân – không phải là bất biến ở mỗi người, mỗi bộ phận người, mỗi
giai cấp, tầng lớp. Trước đó tiến bộ nhưng một khi trở nên phản động thì bị
loại trừ khỏi thành phần nhân dân; trái lại, từ phản động trải qua quá trình cải
biến sâu sắc, triệt để, trở thành lực lượng tiến bộ, có chung lợi ích với đông
đảo bộ phận khác trong xã hội thì được đưa vào thành phần nhân dân.
Ở Việt Nam, "nhân dân" từ lâu đã được đề cập trong tư tưởng chính trị
truyền thống. Các triều đại phong kiến, các nhà tư tưởng, nhà chính trị lớn
đều đề cập xem Nhân dân là bộ phận đông đảo của xã hội đặt dưới sự trị vì
của vương triều. Tính đẳng cấp trong xác định thành phần thuộc Nhân dân
của các triều đại phong kiến Việt Nam không nặng nề như phong kiến Trung
Quốc. Các nhà tư tưởng phong kiến Việt Nam quan niệm về dân có tiến bộ
hơn, họ đã phần nào nhìn ra sức mạnh, sự sáng tạo của dân. Trong tư tưởng
của Nguyễn Trãi, Nhân dân là số đông, là cơ sở của xã hội, là lực lượng có
vai trò quyết định đến việc ủng hộ hay phế truất một triều đại, một ông vua; là
người dân lao động - những người chịu nhiều đau khổ và bị áp bức bóc lột
nhiều nhất không chỉ khi có nạn ngoại xâm mà thậm chí cả khi đất nước yên
bình.
30
Hiện nay, "Nhân dân" được quan niệm dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở
Trung Quốc, quan niệm chính thống xác định nhân dân là quần chúng nhân
dân đông đảo nhất của Trung Quốc, bao gồm tất cả nhân dân các giai tầng
trong xã hội, lấy những người lao động như công nhân, nông dân, phần tử trí
thức… làm chủ thể. Thành phần trong nhân dân có thể thay đổi, được bổ sung
nhưng thành phần đóng vai trò chủ thể thì ổn định [73, tr.5].
Ở nước ta, xét trên phương diện ngôn ngữ học, Đại từ điển Tiếng Việt
do Nguyễn Như Ý chủ biên khái niệm Nhân dân là "bộ phận gồm đông đảo
những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu là
những người lao động, phân biệt với bộ phận khác là giai cấp và tầng lớp
thống trị xã hội" [160, tr.1238]. Quan niệm này kế thừa cách tiếp cận Nhân
dân theo địa vị bị trị trong mối tương quan đối lập với bộ phận thống trị xã
hội đã được sử dụng nhiều từ lâu. Tuy nhiên, trong điều kiện quá độ lên chủ
nghĩa hội ở Việt Nam, với mục tiêu, lý tưởng xây dựng xã hội dân chủ, công
bằng, với quan điểm cán bộ, đảng viên là người đầy tớ của Nhân dân, thì việc
xác định Nhân dân như trên cần phải bổ sung, điều chỉnh. Hơn nữa, ngay cả
những người làm việc trong cơ quan công quyền - cán bộ, công chức, viên
chức,... – thì không phải lúc nào họ cũng tồn tại với tư cách và vị thế đó để
phân biệt với những người lao động bình thường không thuộc bộ máy công
quyền. Khi không thực thi công vụ, sinh hoạt đời thường thì họ cũng tồn tại
với tư cách công dân, một thành phần trong Nhân dân.
Một số nghiên cứu tiếp cận khái niệm Nhân dân từ các tiêu chí khác
nhau:
+ Lấy tiêu chí mẫu số chung về địa bàn sống, nghề nghiệp, có người
xem "nhân dân là một thể thống nhất bao gồm tất cả các dân tộc, giai cấp,
tầng lớp cùng sinh sống, lao động trên lãnh thổ Việt Nam" [128, tr.17]. Theo
quan niệm này, Nhân dân đồng nhất với dân cư. Đây là quan niệm chung nhất
về Nhân dân nên chưa phản ánh hết nội hàm khái niệm này. Đơn cử, công dân
31
nước ngoài vì nhiều lý do đến công tác, sinh sống tạm trú trên lãnh thổ Việt
Nam không thể xem là thành phần trong Nhân dân Việt Nam được.
+ Căn cứ vào sự thống nhất về văn hóa và lịch sử, có quan niệm cho
rằng nhân dân là cộng đồng người gắn kết với nhau bởi nền văn hóa và lịch sử
chung. Văn hóa và lịch sử đề cập ở đây thuộc phạm vi quốc gia. Nói cách
khác, nhân dân một nước là cộng đồng người gắn kết với nhau bởi nền văn
hóa và lịch sử của nước ấy. Quan niệm bao gồm trong nhân dân các thành
phần phản động, có mục tiêu và lợi ích sống đối nghịch với số đông còn lại.
Nếu vậy thì dù có chung một nền văn hóa và lịch sử cũng không thể gắn kết
thành một thể thống nhất hợp thành nhân dân được.
+ Lấy tiêu chí là sự thống nhất ý chí, mục tiêu thúc đẩy tiến bộ xã hội,
có nghiên cứu cho rằng "Nhân dân là khái niệm chỉ giai cấp, tầng lớp, tập
đoàn xã hội chiếm số đông, thuận theo sự phát triển của lịch sử và thúc đẩy
lịch sử tiến lên"; "Khái niệm “nhân dân” dùng để chỉ một cộng đồng của mọi
cá nhân trong xã hội tuy có sự khác nhau về thành phần xã hội như dân tộc,
sắc tộc, hoạt động chính trị - xã hội, quan điểm tư tưởng, tôn giáo, giới tính,
nghề nghiệp... nhưng thống nhất lại, vượt lên trên sự khác biệt xã hội để có và
thực hiện một ý chí, một định hướng, một mục tiêu phát triển cộng đồng, đất
nước" [162]. Quan niệm này có sự kế thừa quan niệm của Lênin về nhân dân.
Từ các khái niệm nhân dân nêu trên có thể nhận thấy những đặc trưng
nổi bật sau của phạm trù này:
Trước hết, nhân dân là toàn thể cộng đồng người (nghĩa rộng, hiểu
thông thường) hoặc cộng đồng người chiếm đa số trong xã hội (nghĩa hẹp,
cách hiểu khoa học chặt chẽ).
Thứ hai, nhân dân là cộng đồng người được gắn kết chặt chẽ thành thể
thống nhất bởi mẫu số chung. Mẫu số chung này khác nhau trong nhiều quan
niệm.
32
Thứ ba, nhân dân là phạm trù chính trị - xã hội có tính lịch sử, vừa
mang tính cộng đồng xã hội vừa mang tính giai cấp. Thành phần trong nhân
dân có sự thay đổi và luôn khác biệt về giai cấp, tầng lớp.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến này luôn tồn tại trong
mối quan hệ máu thịt với Nhân dân Việt Nam. Tư tưởng thể hiện xuyên suốt
qua nhiều văn kiện của Đảng là: "Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn
giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng
của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và
người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù
sống trong nước hay ở nước ngoài" [41, tr.45]. Như vậy, Nhân dân là toàn thể
dân tộc, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, vị thế xã hội, dân tộc, tín ngưỡng,
tôn giáo… cùng tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phạm trù "nhân dân" không chỉ gồm cộng
đồng dân cư trên lãnh thổ Việt Nam mà còn gồm cả những người Việt Nam
sinh sống ở nước ngoài. Trong sự đồng thuận, thống nhất, đoàn kết toàn dân,
lực lượng nền tảng, nòng cốt là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức. Quan niệm về dân của chúng ta hiện nay có thể được xem như là
một bước nhảy vọt, một sự biến đổi về chất so với truyền thống lịch sử, là sự
phù hợp thực tế, khách quan với yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam hiện
đại.
2.1.2. Cơ sở hình thành và nội dung quan niệm về Nhân dân trong
tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh nói riêng, Nhân dân đứng ở vị trí trung tâm thể hiện qua tần suất rất lớn
các quan điểm đề cập đến trong di sản bài viết, bài nói. Trong đó, quan niệm
về Nhân dân là sự khởi đầu, điểm xuất phát cho hệ thống quan điểm chính trị
toàn diện và sâu sắc về Nhân dân của Người.
33
2.1.2.1. Cơ sở hình thành quan niệm về Nhân dân trong tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh
Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhân dân là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo quan niệm về nhân dân của các nhà tư tưởng Mác –
Lênin và nhiều quan niệm thuộc các trường phái tư tưởng khác, kế thừa và
phát huy tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc vào điều kiện cụ thể
đương thời của Việt Nam. Do vậy, Nhân dân trong quan niệm của Người vừa
có điểm nhất quán, vừa có những thay đổi, điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện cụ thể.
Quan niệm về Nhân dân trong dòng chảy tư tưởng, văn hóa truyền
thống Việt Nam là yếu tố đến với Hồ Chí Minh sớm nhất, đặt cơ sở đầu tiên
và tạo dựng nền tảng cho việc tiếp thu các quan niệm khác sau này. Mạn đàm
của phụ thân với các nhà yêu nước đề cập nhiều đến tình cảnh nhân dân Việt
Nam đương thời đã bước đầu hình thành trong nhận thức của Hồ Chí Minh
rằng Nhân dân là những người bị áp bức, bóc lột trong mối quan hệ với giai
cấp phong kiến thống trị và thế lực ngoại xâm. Nhân dân là đối tượng mà
những người có trách nhiệm với đất nước phải nghĩ đến, chăm lo, dẫn dắt. Họ
chiếm số đông trong xã hội, lao động bình thường và là những người yếu thế.
Các quan niệm về Nhân dân trong dòng chảy tư tưởng, văn hóa truyền thống
dân tộc tiếp tục “thẩm thấu” vào Hồ Chí Minh trong quá trình Người theo phụ
thân rời quê hương đến sống và trải nghiệm hiện thực ở nhiều nơi. Tuy nhiên,
quan niệm truyền thống nghiêng về tạo dựng hình ảnh Nhân dân là những
người cần được giúp đỡ, chăn dắt hơn là những người có khả năng “tự mình
giúp mình”. Mặc dù đánh giá rất cao vai trò của Nhân dân nhưng trong thực tế
thì quan niệm truyền thống vẫn cho rằng Nhân dân không thể tự thực hiện
được các hành vi làm chủ xã hội; đó là công việc của vua quan trong cương vị
phụ mẫu chăn dân. Nhận thức này dẫn đến dù tiến bộ thế nào đi nữa thì hầu
hết các quan niệm truyền thống về Nhân dân đều dẫn đến việc đặt nhân dân
trong vị trí người bị trị, thụ động; đều dẫn đến việc bảo vệ vương quyền.
34
Dù chưa rõ ràng nhưng có lẽ Hồ Chí Minh không hoàn toàn đồng tình
với quan niệm nêu trên và chắc chắn manh nha những suy nghĩ khác. Điều đó
dần được thể hiện rõ trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước. Đến nhiều nơi,
nhất là các nước Anh, Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh nghiên cứu các lý thuyết chính
trị và khảo nghiệm thực tiễn đời sống. Hồ Chí Minh sớm phát hiện điểm
giống cũng như khác của nhân dân ở các nước này so với nhân dân trong
nước. Tình cảnh cùng bị áp bức, bóc lột là điểm chung nhưng dù là vậy thì
nhân dân các nước tư bản phương Tây mà Hồ Chí Minh đến vẫn có vị trí tốt
hơn khi được tham gia bầu cử tổ chức nên bộ máy chính quyền và những
quyền tự do, bình đẳng khác mà luật pháp quy định. Dân chủ, dân quyền dù
chưa thật sự triệt để trong thực tế nhưng ít nhiều đã được khẳng định trong
hiến pháp và các đạo luật. Một hình ảnh đơn giản nhưng tác động rất lớn đến
nhận thức của Hồ Chí Minh đó là việc người bình dân ở Pháp có thể ngồi
chung quán ăn và được phục vụ giống như những người làm việc và có chức
vụ trong bộ máy chính quyền. Điều đó hoàn toàn khác với hình ảnh “kẻ trên”
(vua, quan) - “bề dưới” (dân) như ở trong nước. Đến đây, nhận thức của Hồ
Chí Minh đã có sự thay đổi. Nhân dân bình đẳng với giai cấp cầm quyền
trước pháp luật hơn so với trong nước, đặc biệt là sự tham gia chính trị của
nhân dân mang tính hiện thực hơn. Tuy nhiên, sống cùng với nhân dân lao
động các nước, Hồ Chí Minh nhận thấy dù có được tự do, bình đẳng nhưng
trong thực tế nhân dân vẫn bị đặt trong mối quan hệ với giai cấp cầm quyền
trong tư thế “bên dưới”. Quyền của nhân dân vẫn còn có sự khác nhau tùy
thuộc vào tài sản, xuất thân.
Nhân dân là lực lượng chủ thể của quyền lực chính trị, xã hội và đất
nước là rõ ràng. Vấn đề còn lại ở chỗ nhân dân sẽ là lực lượng thực hiện vị
thế đó như thế nào. Nhìn vào tính chất, mức độ và những thành phần tham gia
thực hiện hành vi làm chủ ở những nơi khác nhau sẽ cho thấy những quan
niệm khác nhau về dân. Trong quan niệm về dân truyền thống đã tiếp nhận
trước đó, Hồ Chí Minh xác lập nhận thức một cách bền vững vị thế dân là
35
chủ, ý dân là ý trời – một vị thế rất cao – nhưng không hài lòng với sự thể
hiện gần như hoàn toàn trái ngược trong thực tiễn. Con đường để hiện thực
hóa quan niệm ấy hầu như chưa có. Với lý thuyết và hiện thực dân chủ tư sản
phương Tây, Hồ Chí Minh nhận thấy tiến bộ hơn ở chỗ nhân dân là công dân
chứ không phải thần dân, tức là họ có quyền lợi và trách nhiệm được pháp
luật quy định rõ ràng, đồng thời các quy định đó được hiện thực hóa bằng
hành vi, cơ chế cụ thể chứ không phải dừng lại trên lời nói. Như vậy, yếu tố
chủ yếu của lý thuyết và hiện thực ở phương Tây mà Hồ Chí Minh bổ sung
vào nhận thức là nhân dân phải được và có khả năng trực tiếp tham gia đời
sống chính trị - xã hội trong cương vị là chủ. Tuy nhiên, điều đó lại không
công bằng giữa các giai tầng, bộ phận xã hội khác nhau về xuất thân và tài
sản. Ở phương Tây, càng nhìn xuống số đông người giảm dần về tài sản thì
càng có nhiều những hoài nghi, do dự về khả năng làm chủ dẫn đến những
thiết kế luật pháp và bộ máy nhà nước có sự khác nhau trong thực hiện quyền
là chủ giữa các thành phần xã hội. Hồ Chí Minh không chấp nhận điều này và
do vậy không dừng lại ở lý thuyết, hiện thực dân chủ tư sản phương Tây. Tiếp
tục tìm kiếm một lý thuyết và hiện thực phản ánh quan niệm về dân triệt để
hơn là điều Hồ Chí Minh tiếp tục.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các tác phẩm của chủ nghĩa Mác trong quá
trình tìm hiểu lý thuyết tư sản. Hoạt động này được đẩy mạnh sau khi Hồ Chí
Minh chọn con đường cứu nước theo quỹ đạo cách mạng vô sản, trở thành
người cộng sản. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quần chúng nhân
dân được Hồ Chí Minh tiếp thu, đó là: (1) Nhân dân là người sáng tạo ra mọi
của cải vật chất và những giá trị tinh thần - nhân tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội; (2) Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội. Các quan điểm này được thực chứng bằng hiện thực Liên Xô
mà Hồ Chí Minh trực tiếp thấy. Tiếp thu lý thuyết và hiện thực dân chủ xã hội
chủ nghĩa, Hồ Chí Minh hiểu nhân dân một cách đầy đủ hơn. Ngoài quan
niệm đề cao vai trò của nhân dân tương đồng với các lý thuyết khác thì chủ
36
nghĩa Mác – Lênin bổ sung thêm vào nhận thức của Hồ Chí Minh rằng nhân
dân là chủ thể, lực lượng, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng – con đường
giành lấy và hiện thực hóa vị thế là chủ của nhân dân. Sau này, vận dụng vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh cả tính giai cấp và
tính dân tộc trong quan niệm về nhân dân. Hồ Chí Minh dần hoàn chỉnh quan
niệm về nhân dân trong quá trình thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
2.1.2.2. Nội dung quan niệm về Nhân dân trong tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đề cập đến Nhân dân chủ yếu là Nhân
dân Việt Nam. Trong một số trường hợp, khi bàn đến các vấn đề chính trị khu
vực và quốc tế, khi tham gia xây dựng khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ khai
thác sức mạnh thời đại cho cuộc đấu tranh trong nước, Hồ Chí Minh đề cập
đến nhân dân các nước, khu vực, thế giới, nhưng không trực tiếp nêu khái
niệm. Nhân dân Việt Nam trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh vừa có đặc
điểm chung giống với nhiều quan niệm đã được Hồ Chí Minh kế thừa vận
dụng, vừa mang sắc thái riêng phản ánh điều kiện cụ thể của Việt Nam.
* Quan niệm từ góc độ tiếp cận thành phần trong Nhân dân
Hồ Chí Minh hay gọi Nhân dân một cách ngắn gọn là dân theo cách nói
thông thường, quen thuộc. Cũng giống như nhiều quan niệm khác, Hồ Chí
Minh xem Nhân dân là tập hợp gắn kết đa số người khác nhau về dân tộc, tôn
giáo, giới tính, giai tầng, địa vị,... trong xã hội nhưng thống nhất thành một
cộng đồng chung. Đó là toàn dân, toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm mọi người
thuộc các dân tộc đa số và thiểu số, sống ở trong nước hay ở nước ngoài,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, tôn giáo. Tuy nhiên, dân
không phải là một khối đồng nhất, mà là cộng đồng gồm nhiều dân tộc, giai
cấp, tầng lớp, có sự thống nhất và khác biệt về lợi ích, có thái độ và vai trò
khác nhau đối với sự phát triển của xã hội. Trong điều kiện nước Việt Nam
nông nghiệp, thuộc địa, nói đến dân chủ yếu là nói tới Nhân dân lao động
gồm công nhân, nông dân, trí thức, là lực lượng trực tiếp sản xuất, có tiềm lực
37
vật chất và tinh thần to lớn nhất. Họ là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Hồ Chí Minh viết: Dân là mọi người dân Việt Nam; là mọi con dân
nước Việt; là mỗi người con Rồng cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ, gái,
trai, giàu, nghèo, quý, tiện, trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số.
Do quan niệm như trên, trong nhiều trường hợp, Hồ Chí Minh gọi Nhân
dân là quần chúng, quốc dân, đồng bào. Quan niệm này bao hàm trong đó các
tiêu chí văn hóa, lịch sử, lãnh thổ cư trú. Nhân dân Việt Nam là cộng đồng
mọi người dân, không phải tất cả, mà phải là người Việt Nam chung gốc tích,
lịch sử, văn hóa. Người nước ngoài đến tạm trú, khác biệt về gốc tích, lịch sử,
văn hóa, thì không nằm trong thành phần Nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh
cũng không cứng nhắc khi lấy tiêu chí lãnh thổ cư trú để xác định thành phần
Nhân dân. Cần lưu ý cách Hồ Chí Minh nói: Dân là mọi người dân Việt Nam;
là mọi con dân nước Việt; là mỗi người con Rồng cháu Tiên... . "người dân
Việt Nam" muốn nói ở đây là tất cả mọi người Việt Nam đang sinh sống trên
lãnh thổ Việt Nam. Hồ Chí Minh đặt ở vị trí đầu tiên trong quan niệm nêu
trên tiêu chí về lãnh thổ cư trú để nhấn mạnh. Ở điểm này, Hồ Chí Minh
tương đồng với nhiều quan niệm hiện nay khi lấy chủ quyền quốc gia làm một
trong những tiêu chí để xác định thành phần nhân dân. Tuy nhiên, biên độ
Nhân dân của Hồ Chí Minh không dừng lại ở phạm vi lãnh thổ cư trú – lãnh
thổ quốc gia – mà mở rộng ra ở phạm vi văn hóa. Hồ Chí Minh nhận thấy,
Nhân dân Việt Nam nếu chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam sẽ bỏ
mất lực lượng người Việt Nam đang sinh sống, định cư ở nước ngoài. Cách
mạng Việt Nam nói chung, cuộc đấu tranh chính trị - xã hội với đế quốc thực
dân và tay sai phản động, công cuộc xây dựng chế độ chính trị của dân, do
dân, vì dân định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng chỉ có thể thành công khi
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là trách nhiệm chung nên không
thể để kiều bào đứng ngoài. "mọi con dân nước Việt", "mỗi người con Rồng
cháu Tiên" trong quan niệm về Nhân dân của Hồ Chí Minh chỉ cả người Việt
Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài. Kết hợp tiêu chí lãnh thổ
38
cư trú và văn hóa, lịch sử giúp cho quan niệm về Nhân dân của Hồ Chí Minh
phản ánh đầy đủ thành phần trong Nhân dân, vừa có trọng tâm là mọi người
Việt Nam sinh sống trong nước, vừa bao quát khi có cả người Việt Nam định
cư ở nước ngoài. Đây là quan niệm về Nhân dân theo nghĩa rộng.
Từ cách tiếp cận hẹp hơn, Hồ Chí Minh phân biệt sự khác nhau giữa
quốc dân và Nhân dân. Quốc dân là tất cả mọi người Việt Nam chung gốc
tích, văn hóa, lịch sử, không phân biệt trong đó tính chất tiến bộ hay phản
động. Nhân dân cũng là tập hợp tất cả người Việt Nam thuộc các giai cấp,
tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu là những người lao động, nhưng không
bao hàm những kẻ tay sai, bán nước, phản động, xâm hại lại lợi ích quốc gia,
dân tộc. Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân và quốc dân khác nhau.
Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và
những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân.
Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng
chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi như
nhân dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có quyền tổ chức
tuyên truyền, v.v.. Song chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, như phục tùng trật
tự, tuân theo pháp luật của nhân dân” [85, tr. 264].
Xác định quyền lực chính trị thuộc về Nhân dân cũng có nghĩa là phải
sử dụng quyền lực đó để chuyên chính với kẻ thù của Nhân dân. Hồ Chí Minh
viết: "Dưới chế độ dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân
chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống
lại chế độ dân chủ của nhân dân" [87, tr. 457]. Phản động ở đây được hiểu là
những kẻ chống lại Nhân dân lao động, "kẻ phá hoại", chống lại lợi ích của
Nhân dân. Lý giải về điều này, Hồ Chí Minh dẫn chứng: Bảo Đại khi trao ấn
kiếm thoái vị, trở thành công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
tham gia Chính phủ của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân thì ông ta được
xếp vào Nhân dân Việt Nam. Khi quay đầu chống phá cách mạng, chống phá
chính quyền của Nhân dân, phản bội lại lợi ích của dân tộc, của Nhân dân, trở
39
nên phản động, thì ông ta bị tước bỏ tư cách công dân, loại ra khỏi Nhân dân
nhưng vẫn là người Việt con rồng cháu tiên nên nằm trong quốc dân.
Hồ Chí Minh xem Nhân dân "là nền tảng của quốc dân". Trong quốc
dân, "Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và
những phần tử yêu nước". Lênin lấy vai trò tiến bộ, cách mạng thúc đẩy xã
hội phát triển để xác định Nhân dân. Hồ Chí Minh lấy "yêu nước" làm tiêu chí
để xác định các thành phần trong quốc dân gắn kết thành khối thống nhất với
tên chung "Nhân dân". Trong điều kiện nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu
đang bị ngoại xâm thống trị thì hành động tiến bộ nhất là hành động yêu nước
– mẫu số giá trị bao trùm nhất, cao nhất trong bảng giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc. Tuy nhiên, "yêu nước" được Hồ Chí Minh nhắc đến ở đây
không chung chung, trừu tượng, mà biểu hiện qua nhận thức và hành động
mang tính chính trị - xã hội rõ nét. Đó là đấu tranh lật đổ chế độ thống trị của
ngoại xâm và tay sai, làm cho "nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"
[81, tr. 187]. Đó là trung thành, đoàn kết thống nhất thực hiện đường lối chính
trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức chính trị được đại đa số thành
phần trong quốc dân tin cậy, trao cho quyền lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo
chính quyền; hiệp đồng dựng lên, chung sức bảo vệ, củng cố và phát triển nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Tóm lại, yêu nước gắn chặt với yêu chế độ
chính trị được thiết lập bởi cuộc đấu tranh cách mạng của đại đa số thành
phần trong xã hội, lấy phục vụ lợi ích của số đông đó làm mục tiêu tồn tại và
hoạt động.
Trong quan niệm nêu trên, Hồ Chí Minh nhìn Nhân dân theo nghĩa
hẹp. Nhân dân không đồng nhất với dân cư, quốc dân. Nhân dân là khối đông
đảo người yêu nước thuộc các giai cấp và tầng lớp lao động không bóc lột
trong dân cư, trong quốc dân, trực tiếp sản xuất ra của cải cho xã hội, có khả
năng tham gia giải quyết những nhiệm vụ phát triển tiến bộ xã hội; tức là
phần lớn chứ không phải toàn bộ. Quan niệm này của Hồ Chí Minh cũng cho
40
thấy, khái niệm Nhân dân mang màu sắc và ý nghĩa chính trị khá rõ rệt, phần
nào phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội. Nhân dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù rộng, mang tính cộng đồng dân tộc mà
vẫn bao hàm và thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
Điểm nổi bật dễ nhận thấy là có hai kiểu phân chia thành phần Nhân
dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, căn cứ theo giai tầng, tôn giáo, tầng lớp, độ tuổi, giới tính,
nghề nghiệp, dân tộc, Hồ Chí Minh xem Nhân dân là tập hợp thống nhất của
"bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác
yêu nước" [85, tr. 264]; cộng đồng người không phân biệt "già, trẻ, gái, trai,
giàu, nghèo, quý, tiện". Trong đó, Hồ Chí Minh khẳng định liên minh công
nhân - nông dân - trí thức là cốt lõi, nền tảng. Biên độ Nhân dân ở đây rộng
hơn Phan Bội Châu khi nhà yêu nước theo hệ tư tưởng dân chủ tư sản này đưa
ra quan điểm tập hợp lực lượng gồm: 1. Phú hào; 2. Quý tộc; 3. Sĩ phu; 4.
Lính tập; 5. Tín đồ đạo Thiên chúa; 6. Du đồ hội đảng; 7. Nhi nữ anh sĩ; 8.
Thông ngôn; 9. Ký lục; 10. Bồi bếp. Tập hợp này không phải là số đông trong
xã hội, không phản ánh hết thành phần trong nhân dân, nhất là thành phần cốt
lõi. Đến cuối đời, Phan Bội Châu cũng đã nhìn thấy lực lượng cơ bản nhất
trong xã hội là công nhân và nông dân, nhưng lực bất tòng tâm, lực đã tàn,
sức đã kiệt.
Thứ hai, căn cứ theo hệ giá trị tinh thần, vào vai trò tiến bộ xã hội, theo
Hồ Chí Minh, về đại thể dân gồm ba tập hợp con người: "Bất kỳ nơi nào có
quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa, và
hạng kém. Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa, nhiều hơn hết,
hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn" [82, tr. 329]. Plato và nhiều chính trị
gia khác chia xã hội thành ba lớp người giàu, nghèo và trung lưu và phê bình
thói xấu, cái bệnh của người giàu là khinh người nghèo; phê bình thói xấu, cái
bệnh của người nghèo là ghen ghét người có của. Plato chỉ phê bình cái giàu
và cái nghèo về vật chất, chưa chú trọng yếu tố tinh thần. Hồ Chí Minh bàn
41
tới Nhân dân không đề cập nhiều tới mối quan hệ vật chất mà rất chú trọng tới
đặc điểm tinh thần. Hăng hái, vừa vừa hay kém, nói đến ở đây là tinh thần đối
với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ chính trị mới của toàn
dân tộc. Trong ba hạng đó, không bao giờ có thành phần phản động.
* Quan niệm từ góc độ tiếp cận vị trí, vai trò của Nhân dân trong
các mối quan hệ
Trong nhiều hoàn cảnh cụ thể, Hồ Chí Minh quan niệm về Nhân dân
một cách ngắn gọn, phản ánh những đặc trưng chung nhất. Hồ Chí Minh quan
niệm về Nhân dân trong mối quan hệ với quyền lực chính trị, tập trung là với
quyền lực nhà nước. Đây là cách tiếp cận quan niệm Nhân dân đi vào nội
hàm, trả lời cho câu hỏi Nhân dân có gì (vị trí, vai trò), khác với cách tiếp cận
ngoại diên nêu trên trả lời cho câu hỏi Nhân dân gồm những ai. Ở cách tiếp
cận này, vị trí, vai trò của Nhân dân được lấy làm tiêu chí để quan niệm. Với
logic ấy, đặt trong mối quan hệ với chế độ chính trị, sự nghiệp chính trị, hệ
thống chính trị, rộng hơn nữa là với xã hội, với đất nước, Hồ Chí Minh đưa ra
các quan niệm cụ thể:
- Với con người chính trị (chủ yếu là cán bộ, đảng viên,...), Nhân dân là
chủ, là đối tượng lãnh đạo và phục vụ. Những ai được xem là đối tượng để
lãnh đạo, lấy làm mục tiêu phục vụ thì đó là Nhân dân.
Trong quan điểm về mối quan hệ với Nhân dân, Hồ Chí Minh thường
xuyên xác định cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật sự trung thành. Cán bộ, đảng viên là “đầy tớ” của nhân dân trong tư cách
“người lãnh đạo”. Lãnh đạo để phục vụ nhân dân. Tư duy biện chứng của Hồ
Chí Minh thể hiện ở chỗ này. Lãnh đạo nhân dân, nhưng người đảng viên
cộng sản không phải là “quan” dân, “không vào Đảng để hưởng thụ, để làm
quan cách mạng”, mà phải “một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phải là người
đầy tớ hết sức trung thành của nhân dân”, là người kiên cường bất khuất,
"không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ
nào dù nặng nề, nguy hiểm đến mấy", nhưng đối với nhân dân “sẵn sàng vui
42
vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”. “Lãnh đạo” và “đầy
tớ” là hai mặt có quan hệ chặt chẽ trong vai trò của người đảng viên. Lãnh đạo
để làm đầy tớ dân, phục vụ dân. Đầy tớ trong tư cách người lãnh đạo, giác ngộ,
hướng dẫn, tổ chức, quản lý nhân dân. Trong “lãnh đạo” có “đầy tớ”, trong “đầy
tớ” có lãnh đạo. Hai mặt của một chỉnh thể thống nhất.
- Với hệ thống chính trị (Đảng, chính quyền, đoàn thể), Nhân dân là lực
lượng tổ chức ra, nuôi dưỡng và bảo vệ, đồng thời là người chịu sự lãnh đạo,
quản lý.
Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn khẳng định nhất quán, rõ ràng rằng tất cả
các thành tố của hệ thống chính trị đều từ Nhân dân mà ra, do Nhân dân tổ
chức nên. Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội ra
đời từ nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân. Cán bộ, đảng viên – nhân tố cấu
thành các tổ chức trong hệ thống chính trị - là “con, em” của Nhân dân.
Nguồn kinh phí để tổ chức và duy trì hoạt động do Nhân dân cung cấp thông
qua đóng thuế và các nguồn đóng góp khác. Nhân dân đoàn kết, hy sinh bảo
vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ chính trị. Tuy nhiên, đồng thời với khẳng
định vai trò là lực lượng tổ chức ra, nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng, Nhà nước,
Hồ Chí Minh cũng xác định Nhân dân là người chịu sự lãnh đạo, quản lý. ồ
Chí Minh xem "dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự
lãnh đạo của ta" [82, tr. 325].
- Với sự nghiệp chính trị, Nhân dân là chủ thể, lực lượng chủ yếu.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam trước hết là sự nghiệp chính trị bởi các
mục tiêu cốt yếu và bao trùm là các mục tiêu chính trị. Khi đề cập đến vị trí,
vai trò của Nhân dân đối với sự nghiệp chính trị, Hồ Chí Minh cũng đồng thời
đưa ra quan niệm. Người thường xuyên khẳng định cách mạng Việt Nam là
sự nghiệp của Nhân dân. Lực lượng chính yếu thực hiện sự nghiệp đó cũng
chính là Nhân dân. Đây là một trong những tiêu chí cụ thể, rất rõ ràng để xác
định Nhân dân.
43
Nhìn chung, với cách tiếp cận này, quan niệm về Nhân dân của Hồ Chí
Minh vừa cho thấy vị trí, vai trò của Nhân dân, vừa cho thấy mối quan hệ
giữa Nhân dân với các chủ thể khác, vừa nêu rõ những yêu cầu về nghĩa vụ,
trách nhiệm của Nhân dân.
Như vậy, đặt Nhân dân trong mối quan hệ với cán bộ, đảng viên), hệ
thống chính trị (Đảng, chính quyền, đoàn thể), sự nghiệp chính trị (đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới) nên mọi quan niệm về Nhân dân
của Hồ Chí Minh trước hết đều là quan niệm chính trị, đều mang sắc thái
chính trị. Quan niệm ấy thống nhất với nhiều quan niệm khác về Nhân dân ở
chỗ xem đó là tập hợp, cộng đồng người thống nhất. Tuy nhiên, quan niệm
Nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh cũng mang sắc thái riêng thể
hiện sự kế thừa, vận dụng và phát triển nhiều quan niệm khác. Kết hợp cả hai
cách hiểu rộng và hẹp, nhân dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh vừa có
biên độ rất rộng, là toàn dân tộc, vừa có sự chọn lọc khi đề ra tiêu chuẩn yêu
nước, vai trò tiến bộ. Nhân dân là cộng đồng xã hội không chung chung, đồng
nhất, mà có sự khác biệt về giai tầng, tôn giáo, dân tộc, giới tính, tuổi tác,
nghề nghiệp,... trong đó liên minh công nhân – nông dân – trí thức là nền
tảng. Tính cộng đồng và tính giai cấp tồn tại thống nhất trong Nhân dân.
2.2. NHÂN DÂN LÀ MỤC TIÊU VÀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG VIỆT NAM
2.2.1. Nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Nếu như quan niệm về Nhân dân là tiền đề xuất phát để Hồ Chí Minh
xây dựng hệ thống các quan điểm chính trị thì đích đến cuối cùng của hệ
thống quan điểm đó cũng chính là Nhân dân. Nói cách khác, tư tưởng – liền
với đó là hành vi chính trị - của Hồ Chí Minh có đối tượng hướng đến cuối
cùng không phải là bản thân Hồ Chí Minh hay hệ thống chính trị (Đảng, Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội) do Người sáng lập, lãnh đạo
và rèn luyện. Xét đến cùng, nhận thức cũng như hành vi chính trị của Hồ Chí
44
Minh nhất quán hướng đến Nhân dân như là mục tiêu thường xuyên và tối
thượng.
Sự nghiệp cách mạng (tập trung trước hết ở cách mạng chính trị - xã
hội), tổ chức chính trị, con người chính trị – những chủ thể chiếm vị trí bao
trùm toàn bộ nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh – đều được Hồ Chí
Minh xác định có mục tiêu, lý tưởng vì Nhân dân. Trên tất cả các nội dung, ở
mọi phạm vi, cấp độ đề cập của sự nghiệp cách mạng đều được Hồ Chí Minh
xác định là vì dân. Mong muốn thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày
như tương, cà, mắm, muối, áo cho dân mặc, nhà cho dân ở, dạy cho dân
học,... là mục tiêu cách mạng Việt Nam. Giải phóng Nhân dân, giúp Nhân dân
phát triển toàn diện, phát huy tối đa sức mạnh của Nhân dân, đưa Nhân dân
lên địa vị làm chủ vận mệnh của chính mình, làm chủ chế độ, làm chủ sự
nghiệp cách mạng, làm chủ xã hội là lý tưởng chính trị của sự nghiệp cách
mạng. Ở mọi giai đoạn của sự nghiệp cách mạng (cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa), mọi cấp độ của tổ chức chính trị
(trung ương đến cơ sở); từ nhận thức đến chủ trương, quan điểm, nghị quyết,
cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tôn
chỉ cũng như đường hướng hoạt động của Mặt trận và đoàn thể; từ phong
cách đến phương pháp, đạo đức, văn hóa chính trị của người cán bộ, đảng
viên, tất cả không được giây phút nào xao lãng mục đích phục vụ Nhân dân.
Nhân dân tồn tại với tư cách là mục tiêu cần hướng đến của sự nghiệp
cách mạng không chỉ hình thành khi Hồ Chí Minh nêu lên các quan điểm
chính trị khởi điểm hay ở những hành vi chính trị đầu tiên. Từ trước đó, thuở
thiếu thời cho đến trước khi hoạt động chính trị chuyên nghiệp và xây dựng
nên hệ thống quan điểm chính trị của mình, Nhân dân đã tồn tại trong nhận
thức, tư duy của Hồ Chí Minh dưới góc độ triết lý đạo đức, văn hóa truyền
thống. Sinh hoạt chính trị - xã hội ở những nơi mà Hồ Chí Minh trải nghiệm
trước khi ra đi tìm đường cứu nước; những trăn trở của thân phụ và các tiền
bối yêu nước trước tình cảnh dân nô lệ lầm than, trong đấu tranh với chế độ
45
phong kiến nửa thuộc địa để cứu nước cứu dân; phong cách, nếp sống, đạo
đức, lời dạy của cụ Nguyễn Sinh Sắc về đạo nghĩa, triết lý sống của kẻ thất
phu trước dân trước nước, thấm dần trong tâm can của Hồ Chí Minh. Khát
vọng lật đổ chế độ thống trị thuộc địa, nền quân chủ bạc nhược, xây dựng chế
độ xã hội mới với tôn chỉ cao nhất là Nước độc lập, Nhân dân được tự do,
bình đẳng, bác ái sôi sục trong tinh thần của mọi người dân yêu nước, điển
hình ở Hồ Chí Minh. Tất cả thôi thúc Hồ Chí Minh quyết định xuất dương
sang phương Tây với mục tiêu cứu nước, cứu dân.
Hoạt động chủ yếu của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu
nước không gì khác hơn là hoạt động chính trị thể hiện qua sự tham gia theo
chiều hướng ngày càng sâu rộng vào các tổ chức chính trị - xã hội ở nhiều
nước, trên nhiều cương vị khác nhau. Đặc biệt là sự kiện Hồ Chí Minh tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và hoạt động trong tổ chức Quốc tế Cộng
sản. Nội dung nổi bật nhất trong quan điểm và các hoạt động chính trị của Hồ
Chí Minh giai đoạn này là sự thức tỉnh trong nhận thức của giai cấp vô sản,
nhân dân lao động, các chính đảng tiến bộ và Quốc tế Cộng sản về vấn đề
thuộc địa. Nâng tầm vấn đề thuộc địa là điều Hồ Chí Minh kiên trì thực hiện
trong hầu hết các nghị luận của mình. Vấn đề thuộc địa ấy chính là giải phóng
các quốc gia thuộc địa, giải phóng nhân dân thuộc địa, mang lại cho họ cuộc
sống tốt đẹp hơn.
Suốt ba mươi năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài (1911 – 1941), Hồ
Chí Minh không bao giờ nguôi nghĩ đến Nhân dân. Cũng ngần ấy thời gian kể
từ khi về nước đến lúc về cõi vĩnh hằng (1941 – 1969), mục tiêu, lý tưởng đó
vẫn không thay đổi: "Tôi hiến cả cuộc đời tôi cho dân tộc tôi". Nhân dân là
mục tiêu, lý tưởng cả ở một Hồ Chí Minh trong tư cách người dân nô lệ,
người lao động làm thuê, công dân nước ngoài, nhà báo, nhà hoạt động chính
trị... hay khi là người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính khách, nhà tư tưởng, nhà văn hóa,...
có tầm vóc quốc tế. Nhân dân cũng tồn tại với vị trí đó trong tư tưởng chính
46
trị của Hồ Chí Minh ngay ở những quan điểm đầu tiên, trải dài trong quá trình
bổ sung và hoàn thiện, đến khi trở thành một chỉnh thể hệ thống quan điểm
thống nhất.
Như vậy, Nhân dân là mục tiêu, lý tưởng của Hồ Chí Minh, của sự
nghiệp cách mạng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh không mang tính
nhất thời, không là một thủ đoạn, sách lược chính trị mà là vấn đề có tính
chiến lược được duy trì và phát triển theo hướng không ngừng củng cố, bổ
sung, phát triển. Mục tiêu, lý tưởng vì Nhân dân trở thành sợi chỉ đỏ xuyên
suốt, ngọn hải đăng dẫn đường cho toàn bộ quan điểm và hành vi chính trị
của Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhiều nghiên cứu cho
rằng, mục tiêu, lý tưởng đó tựu trung lại trong các mệnh đề sau:
(1) Dân tộc độc lập
Dân tộc là một hình thức cộng đồng rộng hơn bộ tộc, ra đời với sự xuất
hiện và hình thành hình thái tư bản chủ nghĩa. Đó là hình thức cộng đồng
người hình thành trong quá trình lịch sử, được đặc trưng bởi sự đồng nhất ổn
định về đời sống kinh tế, về ngôn ngữ, lãnh thổ và tính cách dân tộc thể hiện ở
những đặc thù trong văn hóa và sinh hoạt. Giữa hai phạm trù "Dân tộc" và
"Nhân dân" có sự gần gũi rất lớn khiến trong nhiều trường hợp người ta xem
Nhân dân chính là sự tập hợp tất cả các dân tộc có chung truyền thống văn
hóa, lịch sử đang sinh sống trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia.
Không phải đến bây giờ độc lập dân tộc mới trở thành lẽ sinh tồn của
mọi quốc gia trong thế giới ngày càng đi sâu vào toàn cầu hóa. Lịch sử phát
triển loài người chứng tỏ độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước là liên tiếp các
cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố nền độc lập. Đó là giá trị thiêng liêng được
bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người dân Việt
Nam. Chính thể nào tôn trọng, nâng niu và kiên quyết giữ gìn, bảo vệ giá trị
đó cũng chính là thuận lòng dân, vì dân. Ngược lại là sự phản bội cao nhất
dẫn đến đối nghịch với Nhân dân. Có thể khẳng định, độc lập dân tộc là tiêu
47
chí cao nhất được sử dụng để đánh giá mọi thể chế và cá nhân chính trị có đại
biểu trung thành cho lợi ích của Nhân dân, của đất nước hay không.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân thực hiện nhiệm vụ giành độc lập dân tộc thông qua cách mạng giải
phóng dân tộc và giành quyền dân chủ thông qua cách mạng giải phóng giai
cấp. Trong điều kiện của dân tộc Việt Nam, giữa hai nhiệm vụ đó, Hồ Chí
Minh dành sự quan tâm trên hết đến cách mạng giải phóng dân tộc, đề cập rất
nhiều trong tư tưởng của mình, bởi giành độc lập dân tộc là nguyện vọng cao
nhất, là mấu chốt để giành quyền dân chủ và là tiền đề trực tiếp để thực hiện
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là cuộc cách mạng giải phóng các dân tộc
thuộc địa khỏi chế độ cai cai trị, áp bức, bóc lột của ngoại xâm và tay sai
nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thiết lập chế độ chính trị mà trung
tâm là nhà nước dân tộc độc lập của đông đảo nhân dân tiến bộ. Đó cũng
chính là mục tiêu chính trị của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh vạch ra
và cùng toàn dân ta "quyết dùng tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải" để thực hiện thành công.
Hồ Chí Minh trước hết được ca ngợi là anh hùng giải phóng dân tộc
Việt Nam và là chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc thế giới
trong thế kỷ XX. Nghị quyết số 18.65 thông qua bởi Đại hội đồng Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) tại kì họp lần
thứ 24 (Paris, 20 tháng Mười đến 20 tháng Mười Một 1987) kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một hiện tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp giải phóng Nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ. Ghi nhận đó minh chứng độc lập dân tộc là nội dung bao trùm xuyên suốt
48
tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đối với Hồ Chí
Minh, "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Như vậy, sự nghiệp cách mạng Việt Nam trước hết, trên hết là cách
mạng giải phóng dân tộc. Sự vận động của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ
XX – sinh thời của Hồ Chí Minh – về cơ bản là sự vận động của cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Thực tiễn bao giờ cũng là cội
nguồn của tư tưởng. Phản ánh các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam
đương thời, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
nói riêng, lấy độc lập dân tộc làm nội dung chính là lẽ tất yếu. Độc lập dân tộc
giữ vị trí cao nhất trong mục tiêu, lý tưởng vì Nhân dân của Hồ Chí Minh.
Các vấn đề giai cấp hay cách mạng xã hội chủ nghĩa được tư tưởng Hồ Chí
Minh đề cập đều hướng đến củng cố, bảo vệ độc lập dân tộc.
(2) Nhân dân tự do
Nhân dân là cộng đồng được hợp thành bởi nhiều cá nhân. Đề cập đến
Nhân dân, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đề cao tính cộng đồng, các giá trị
cộng đồng, yếu tố tập thể nhưng cũng không xem nhẹ, lãng quên yếu tố cá
nhân mỗi người dân. "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Giá trị cao nhất
của cộng đồng Nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc. Ở mỗi người, không có
gì quý hơn tự do. Lấy phụng sự Nhân dân làm mục tiêu, lý tưởng, tư tưởng
Hồ Chí Minh đi đôi với xác định mục tiêu giành độc lập dân tộc cho toàn thể
là mang lại quyền tự cho cho mỗi cá nhân. Không phải vô cớ khi trong Tuyên
ngôn độc lập, Hồ Chí Minh viết: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc... Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được" [81, tr.1].
Dân quyền là những quyền con người được luật pháp quy định và đảm
bảo. Tự do là quyền cơ bản trong dân quyền. Nó được Hồ Chí Minh bàn đến
như là mục tiêu chủ yếu mà Người và cách mạng Việt Nam hướng đến. Hồ
Chí Minh luôn khẳng định "dân ta được hoàn toàn tự do" là ham muốn tột
49
bậc. Không những thế, Hồ Chí Minh còn xác định tự do cho Nhân dân là một
trong ba mục tiêu, lý tưởng chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thể
hiện qua tiêu ngữ "Độc lập – Tự do – Hạnh phúc".
Con đường cách mạng Việt Nam gồm hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh tập trung phản ánh hai giai đoạn này. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản là giải phóng dân tộc và
nhiệm vụ dân chủ. Độc lập cho dân tộc và tự do cho Nhân dân là kết quả
hướng đến của hai nhiệm vụ này. Hồ Chí Minh quan tâm đến độc lập dân tộc
bao nhiêu thì cũng như thế đối với tự do cho Nhân dân. Nhắc đến độc lập dân
tộc thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đề cập đến tự do cho Nhân dân đi kèm.
Người luôn nhắc nhở: Nếu nước được độc lập mà Nhân dân không hưởng tự
do thực sự thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa gì. Trong giai đoạn cách
mạng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy thành quả của cách mạng dân tộc
dân chủ, củng cố giá trị tự do cho Nhân dân, làm cho phong phú thêm về mặt
nội dung, xác lập các điều kiện hiện thực hóa các nội dung đó là nhiệm vụ căn
bản. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng
xã hội chủ nghĩa mới đảm bảo cho một nền độc lập thật sự, chân chính. Với
quan điểm đó, tự do cho Nhân dân tiếp tục là mục tiêu, lý tưởng trong các
quan điểm về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của
Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh "là một người Thầy vĩ đại trong môn học giành tự do cho
các dân tộc. Là người Thầy trong nghề sư phạm giành tự do – chủ đề chính
của tất cả các nền văn hóa và là mục tiêu đầu tiên của nhân loại" (Igơnaxiô
Gônxalết Hanxen, nhà báo, nhà hoạt động chính trị Mêhicô) [74, tr.476]. Từ
cái cốt yếu và bao trùm là tự do cho Nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn
đặt trong mục tiêu tự do cho tất cả nhân dân các nước. Tư tưởng và những
hoạt động phấn đấu không mệt mỏi đưa Hồ Chí Minh "không chỉ là một lãnh
50
tụ xuất chúng của dân tộc mình" mà còn là "một yếu nhân của quá trình phi
thực dân hóa trong thế kỷ XX".
(3) Nhân dân hạnh phúc
Lịch sử nhân loại thực chất là lịch sử đời sống của các thế hệ người
tiếp nối. Với mỗi con người, quyền cơ bản nhất là quyền được sống. Mọi hoạt
động của con người suy cho cùng đều để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn,
tiến bộ hơn. Quyền sống hạnh phúc trở thành nội dung đề cập và mục tiêu
hướng đến của nhiều trường phái tư tưởng cổ kim.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh không nằm ngoài xu hướng chung đó.
Hệ thống quan điểm chính trị của Hồ Chí Minh thừa nhận tư tưởng nổi bật
trong Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ - tạo hóa mang lại
cho con người những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có
quyền sống - và vận dụng, phát triển vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với
Hồ Chí Minh, xét trong phạm vi Việt Nam, con người ở đây là mỗi người dân
và toàn thể Nhân dân. Cùng với "nước ta được hoàn toàn độc lập", "dân ta
được hoàn toàn tự do" thì ham muốn tột bậc nữa của Hồ Chí Minh là "đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc". Đời sống "Hạnh phúc" cũng đi cùng với
dân tộc "Độc lập" và dân quyền "Tự do" trong tiêu ngữ của chế độ nhà nước
của dân, do dân, vì dân được Hồ Chí Minh xác lập.
Mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân là mục tiêu
nhất quán của Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam. Người ra đi tìm đường
cứu nước cũng là muốn trở về giúp đồng bào đang sống với cái giá không
đáng một trinh dưới chế độ thực dân phong kiến có được đời sống đúng nghĩa
là người tự do, công dân của một quốc gia độc lập, chủ thể của một chế độ
của mình, do mình tổ chức ra và vì mình mà tồn tại. Cuối đời, trong Di chúc
thiêng liêng, Hồ Chí Minh dặn dò: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân" [92, tr. 612]. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, điểm cốt lõi và cũng là
sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là luôn gắn kháng chiến với kiến quốc.
51
Kháng chiến là để giải phóng Nhân dân khỏi cuộc sống nô lệ. Kiến quốc là để
xây cuộc sống mới tốt đẹp, hạnh phúc. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ
Chí Minh luôn coi mục đích của “chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho
nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc
làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc" [89, tr. 415]. Ở mọi giai đoạn,
tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đều xem "dân sinh hạnh phúc" là mục tiêu.
"Không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân" đồng thời là mục tiêu
của sự nghiệp cách mạng, của hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều phải hướng tới mục tiêu từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Nó được thể hiện
rõ ràng và thường xuyên trong nhiều bài nói, bài viết khi Hồ Chí Minh nhấn
mạnh đến trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị
- xã hội, đến bổn phận của người cán bộ, đảng viên đối với dân: Nếu nước
được độc lập mà dân không hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập ấy cũng
không có ý nghĩa. Đảng phải phụng sự Nhân dân từ những điều thường nhật
nhất như tương, cà, mắm, muối. Hồ Chí Minh nhấn mạnh "mục đích duy
nhất" mà Nhà nước phải hướng đến "là mưu cầu hạnh phúc cho Nhân dân.
Người nói: "Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc Chính phủ
làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi
người" [81, tr.21]. Hồ Chí Minh theo sát và không ngừng nhắc nhở cán bộ,
đảng viên "Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng,
những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho
dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo,
phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý"
[81, tr. 51-52]. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý. Trong cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước,
Hồ Chí Minh không khi nào thôi nghĩ đến, luôn gương mẫu, tự giác, phấn đấu
52
không ngừng nghỉ để "đặc biệt chú ý" thực hiện "những vấn đề quan hệ tới
đời sống của dân".
Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập đến mục tiêu "Dân sinh hạnh phúc" một
cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp độ, nhiều phạm vi và thể hiện
xuyên suốt trong toàn bộ chiều dài hoạt động cách mạng của Người. Đó là
mang lại hạnh phúc cho Nhân dân cả về mặt vật chất lẫn tinh thần; là lo cho
dân từ hạnh phúc được thỏa mãn lý tưởng, giá trị sống, các nhu cầu chính trị -
xã hội đến "tương, cà, mắm, muối"; lo cho tất cả mọi người dân nhưng quan
tâm nhiều hơn đến đồng bào nghèo khổ, thiếu thốn, ở vùng cao, vùng xa...
Đây là nguyên nhân khiến cho mục tiêu này có phạm vi rộng và tần suất dày
đặc trong các quan điểm chính trị của Hồ Chí Minh.
Tất cả chứng minh, "hạnh phúc cho nhân dân là cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh" và sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
(4) Dân trí nâng cao
Đóng góp nổi bật của Hồ Chí Minh không chỉ trong vai trò nhà tổ chức
kỳ tài, nhà tư tưởng lỗi lạc,... mà còn trong vai trò nhà giáo dục vĩ đại. Chính
Người đã "kế tục và phát triển cao hơn cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh,
dân chủ, dân trí của thế hệ những người Việt Nam yêu nước cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX" và "dày công tìm kiếm, phát hiện và giới thiệu cho đất nước
những nét tiến bộ của nền giáo dục kiểu mới của nhân dân lao động – nền
giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân và tính dân chủ cao
cả, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện những năng lực sẵn có của con
người".
Tổng kết sự nghiệp của Hồ Chí Minh dễ thấy trong hệ thống quan điểm
của Người sự quan tâm đến nâng cao dân trí như là một trong những ham
muốn tột bậc. Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, dân chủ
thực hành – tất cả các mục tiêu, lý tưởng đó muốn đạt được phải có những
con người có ý chí, năng lực đầy đủ và mạnh mẽ. Lênin nói: “Một người
không biết chữ là người đứng ngoài chính trị” [155, tr. 218]. Hồ Chí Minh
53
nhận thấy một dân tộc dốt là một dân tộc yếu nên từ rất sớm đã quan tâm đến
không ngừng nâng cao dân trí khi nêu lên các quan điểm chính trị của mình.
Mục tiêu đó thể hiện tập trung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào
tạo với phương châm "không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không
nói gì đến kinh tế, văn hóa".
Mục tiêu nâng cao dân trí được Hồ Chí Minh đề ra từ đòi hỏi của thực
tiễn hơn 90% dân số nước ta mù chữ. Ra đi tìm đường cứu nước, trải nghiệm
đời sống chính trị - xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển như Anh,
Pháp, Mỹ,... Hồ Chí Minh nhận thấy bài học mang tính quy luật: Ở nơi đâu
quan tâm đến giáo dục, nâng cao dân trí thì sự tham gia chính trị của nhân dân
tốt hơn. Trăn trở, suy nghĩ bài học đó, Yêu sách của nhân dân An Nam do
Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi đến Hội nghị
các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất ở Vécxay đã nêu yêu
cầu cho Nhân dân Việt Nam được "Tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh của người bản xứ". Trong nhiều bài
viết, bài nói đến năm 1945, Hồ Chí Minh rất nhiều lần lên án chính sách ngu
dân của thực dân Pháp, xem đấu tranh chống chính sách thâm hiểm đó là một
trong những mục tiêu của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Người dành
nhiều sự quan tâm cho việc nghiên cứu và ca ngợi nền giáo dục Liên Xô và
vận dụng nó vào tổ chức, giảng dạy các lớp huấn luyện cán bộ những năm
1925 – 1927. Các bài giảng của Hồ Chí Minh được tập hợp, biên soạn thành
tác phẩm Đường Kách mệnh, trong đó nêu quan điểm thụ hưởng nền giáo dục
là quyền của mọi người; xây dựng và phát triển nền giáo dục là nghĩa vụ của
toàn dân; giáo dục gắn liền với nhiệm vụ chính trị, hướng vào phục vụ cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, cải thiện và nâng cao đời sống văn hóa – xã hội
của nhân dân. Quan điểm này được bổ sung và cơ bản hoàn thiện trong các
cương lĩnh chính trị đầu tiên và lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam: "Phổ thông giáo dục theo công nông hóa"; "Thực hành giáo dục
toàn dân" là một trong mười nhiệm vụ mà Đảng phải thực hiện.
54
Không lâu sau khi về nước (1/1941), Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ tám (5/1941). Nghị quyết Hội nghị, sau đó là
Chương trình Việt Minh, đều xác định mục tiêu nâng cao dân trí qua nêu rõ
các nhiệm vụ văn hóa – giáo dục của Đảng và Mặt trận: "Hủy bỏ nền giáo dục
nô lệ. Gây dựng nền quốc dân giáo dục. Cưỡng bức giáo dục từ bực sơ học...
Khuyến khích và giúp đỡ nền giáo dục quốc dân làm cho nòi giống ngày thêm
mạnh" [80, tr. 630]. Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh
nêu sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ lâm thời. Ở "Vấn đề thứ hai, nạn
dốt", Hồ Chí Minh lên án chính sách ngu dân của thực dân Pháp, chỉ ra hậu
quả bạc nhược của một dân tộc dốt và xúc tiến mở các lớp bình dân học vụ,
khôi phục dần nền giáo dục quốc dân. Suốt những năm kháng chiến chống
thực dân Pháp, xóa nạn mù chữ, mở mang dân trí luôn được Hồ Chí Minh để
ý đến. Các báo cáo, đánh giá thành quả tiến bộ của cách mạng của Hồ Chí
Minh đều thống kê số liệu xóa nạn mù chữ cho Nhân dân. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
rằng nếu dân không được học hành, Đảng và Chính phủ có lỗi. Người luôn
khẳng định: "Giáo dục phải phục vụ đường lối của Đảng, Chính phủ". Chỉ khi
trình độ dân trí của Nhân dân được nâng cao, sự hiểu biết của Nhân dân được
mở rộng, thì các hoạt động của Đảng và Nhà nước mới được dân hiểu và thực
hiện tốt.
Hồ Chí Minh lấy Nhân dân làm mục tiêu, lý tưởng của bản thân và sự
nghiệp cách mạng Việt Nam nhưng "Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho
dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình,
bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây
dựng nước nhà..." [81, tr. 40]. Đó là lý do để nâng cao dân trí trở thành một
trong những nội dung quan trọng trong mục tiêu, lý tưởng về Nhân dân của
Hồ Chí Minh.
55
(5) Dân chủ thực hành
Sự vận động của lịch sử chính trị thế giới xoay quanh vấn đề ai là chủ -
thiểu số (một cá nhân, một giai cấp, một lực lượng) hay đa số nhân dân. Các
lý thuyết chính trị tiến bộ chung quy đều cho thấy nội dung căn bản nhất của
loài người về khái niệm "Dân chủ" là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Đấu
tranh để tất cả quyền lực thuộc về nhân dân không dừng lại ở lời nói hiệu triệu
mà được thực hành bởi chính bộ phận cầm quyền và đông đảo nhân dân là
mục tiêu, lý tưởng của cách mạng vô sản nói chung, cách mạng Việt Nam nói
riêng.
Đặc điểm lớn nhất của các nhà tư tưởng, nhà chính trị tiến bộ là suy
nghĩ và hành động đều hướng đến phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Hồ
Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà thực hành dân chủ vĩ đại của thế kỷ XX. Là
nhà tư tưởng dân chủ, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống các luận điểm về
dân chủ, từ quan niệm cho đến sự thể hiện của chúng trong các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội..., cũng như phương thức hiện thực hóa chúng
trong thực tiễn. Hệ thống các luận điểm này đã trở thành một bộ phận văn hóa
của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh đã "Thiết kế thành thể chế, cơ cấu vận
hành của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện đại trên nền tảng dân chủ ở tất cả
các lĩnh vực" [31, tr. 241], các phạm vi, các đối tượng. Di sản tư tưởng ấy
càng khổng lồ bao nhiêu lại càng làm nổi bật dân chủ với tư cách là mục tiêu
hướng đến. Theo thống kê, cụm từ "Dân chủ" xuất hiện hơn 1400 lần trong
các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Hễ đề cập đến dân chủ, tư tưởng nhất
quán của Hồ Chí Minh là gắn chặt hai mệnh đề: "dân là chủ" và "dân làm
chủ". Dân chủ với tư cách là mục tiêu trong tư tưởng Hồ Chí Minh không
dừng lại ở lời nói "dân là chủ" mà phải tiến lên thực hành "dân làm chủ". Dân
chủ thực hành mới là đích đến của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Lênin có lúc nhấn mạnh nội dung chính trị của khái niệm dân chủ khi
xem "dân chủ là một phạm trù thuộc riêng lĩnh vực chính trị". Nhiều quan
56
điểm cũng tương đồng với Lênin ở chỗ coi dân chủ là hình thức chế độ chính
trị dựa trên cơ sở công nhận những nguyên tắc về quyền lực nhân dân, quyền
tự do và bình đẳng của công dân. Nội dung dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí
Minh hơn hết thể hiện qua quá trình hiện thực hóa mục tiêu "dân là chủ, dân
làm chủ" chế độ chính trị. Đấu tranh đưa dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ
dưới ách thống trị thuộc địa và quân chủ tay sai lên địa vị là chủ và làm chủ
đất nước là khát vọng và nội dung chính trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh.
Xác định dân chủ trước hết là "một hình thức chế độ chính trị", Hồ Chí Minh
đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh lập ra, bảo vệ, củng cố, phát triển chế độ dân
chủ nhân dân ở Việt Nam – mô hình thứ ba trong lịch sử dân chủ vô sản, sau
dân chủ kiểu Công xã Pari và dân chủ Xôviết. Bằng các phong trào dân chủ
do chính mình phát động và gương mẫu thực hiện, Hồ Chí Minh đã hiện thực
hóa tư tưởng dân chủ, trở thành nhà thực hành dân chủ vĩ đại.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đề cập đến sự nghiệp chính trị, chế độ
chính trị, con người chính trị... Nội dung nào Hồ Chí Minh cũng xác định mục
tiêu thực hành dân chủ rộng rãi. Cách mạng Việt Nam theo con đường độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giành độc lập dân tộc để nước ta thành
một nước dân chủ và dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ chính
trị mà các thành tố như Đảng, Nhà nước, đoàn thể phải lấy đó là mục tiêu
trong từng đường lối, chủ trương, chính sách và hoạt động cụ thể. Với quan
điểm này, Hồ Chí Minh hầu như cứ hễ nhắc đến bổn phận của Đảng, Nhà
nước, đoàn thể là đều xác định "phát huy quyền làm chủ của nhân dân" làm
mục tiêu. Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân tiến
đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
thực chất là để đạt tới mục tiêu xây dựng chế độ dân chủ, nước ta là nước dân
chủ. Đó là tiêu chí phát triển của đất nước được Hồ Chí Minh trong cương vị
người lãnh đạo cao nhất cùng với tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước xác định
qua các thời kỳ. Tại Đại hội II (1951), Đảng ta xác định mục tiêu phấn đấu
xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Sau kháng
57
chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954), Hồ Chí Minh chỉ rõ mục tiêu
trong giai đoạn mới là Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và
giàu mạnh. Cuối đời, trong Di chúc, Hồ Chí Minh tiếp tục nhắc đến dân chủ
khi nói đến mong muốn cuối cùng của Người. Tất cả cho thấy thực hành dân
chủ là mục tiêu phấn đấu không ngừng nghỉ của Hồ Chí Minh.
Tóm lại, "Nhân dân luôn là tâm điểm của quá trình tư tưởng Hồ Chí
Minh và sự quan tâm của Người đối với nhân dân không bị giới hạn trong các
ranh giới địa lý. Mục đích của Người không chỉ là giải phóng đất nước mình
khỏi sự thống trị ngoại bang mà trong chiều sâu tư tưởng của mình, bên cạnh
mục đích giành độc lập dân tộc, Người còn mong ước đến sự công bằng, bình
đẳng và no ấm cho nhân dân mình" [51, tr.412-413]. Riêng ở phạm vi chính
trị, Hồ Chí Minh là "người mà trong lời nói và việc làm của mình luôn nhấn
mạnh đến độc lập và phúc lợi của nhân dân" [51, tr.413]. Đó chính là bản chất
tạo nên giá trị vĩnh hằng của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
2.2.2. Nhân dân là động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Vai trò của Nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam thể hiện ở
chỗ Nhân dân là động lực to lớn thúc đẩy cách mạng tiến lên, quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng. Nhân dân, bằng tất cả tinh thần và lực lượng của
mình, đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các yếu tố mà nếu thiếu thì sự
nghiệp cách mạng không thể nảy sinh, duy trì và phát triển được. Có thể phân
tích điều đó qua các điểm chủ yếu sau:
- Nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân là động lực khởi phát sự nghiệp
cách mạng Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử đất nước, mỗi sự thay đổi mang tính cách
mạng đều nảy sinh từ đòi hỏi của thực tiễn đời sống Nhân dân. Nhu cầu,
nguyện vọng của Nhân dân là dòng chảy “vận hành” lịch sử dân tộc đi lên bởi
đó là yếu tố tiên quyết làm nảy sinh những sự kiện tạo ra các chuyển biến tiến
bộ. Không ai khác hơn ngoài Nhân dân đặt ra các vấn đề đòi hỏi cần phải
được giải quyết. Tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu đó dưới nhiều hình thức
58
khác nhau như kháng chiến, khởi nghĩa, cải cách,... là căn nguyên trực tiếp
thúc đẩy lịch sử dân tộc tiến lên.
Cách mạng Việt Nam là sự nghiệp vì Nhân dân. Để đảm bảo điều đó,
cách mạng trước hết phải ra đời từ cái nôi Nhân dân. Chỉ khi được khởi phát
bởi nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân, sự nghiệp cách mạng mới thật sự từ
Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà tiến hành. Chính nhu cầu, nguyện vọng của
Nhân dân đặt ra những yêu cầu tạo nên sự thôi thúc để sự nghiệp cách mạng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta được khởi xướng.
Những biến cố lớn của lịch sử dân tộc và quốc tế trong nửa cuối thế kỷ
XIX khiến quốc gia phong kiến Việt Nam độc lập không thể thoát khỏi âm
mưu và hành động xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Ngày 1/9/1858, Pháp
công khai nổ súng xâm lược Việt Nam. Trước sức mạnh “tàu sắt”, “đạn
đồng” của quân đội đến từ quốc gia có trình độ phát triển cao hơn một
phương thức sản xuất cùng với những hạn chế nội tại mang tính bản chất của
mình, giai cấp phong kiến cầm quyền nhanh chóng bị phân hóa, nhượng bộ
từng bước đi đến đầu hàng. Năm 1884, với Hiệp ước Patơnốt, triều Nguyễn
“dâng” nước ta cho Pháp.
Tuy khuất phục được triều đình nhà Nguyễn nhưng thực dân Pháp vấp
phải phong trào đấu tranh chống xâm lăng anh dũng vốn đã là truyền thống
của nhân dân ta. Chính ý chí, nguyện vọng của Nhân dân tạo nên tần suất liên
tiếp của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Đời sống cùng khổ và
khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của Nhân dân tác động tới các cá nhân
yêu nước tiêu biểu, thôi thúc họ đứng ra tổ chức phong trào đấu tranh. Sự thất
bại của khuynh hướng đấu tranh theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng
dân chủ tư sản có nhiều nguyên nhân nhưng đều dẫn đến chỗ chưa hoàn toàn
đáp ứng được nhu cầu đang hàng ngày hàng giờ được Nhân dân đặt ra.
Sự khủng hoảng đường lối cứu nước là hệ quả tất yếu khi các con
đường nêu trên đều bị thực tiễn loại trừ. Tuy nhiên, vận mệnh dân tộc không
đi vào ngõ cụt. Các phương thức cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và
59
dân chủ tư sản thất bại chẳng những không làm suy giảm mà ngược lại còn
khiến gia tăng mạnh mẽ nhu cầu, khát vọng giải phóng dân tộc, chấn hưng đất
nước của Nhân dân. Chính đây là nguồn động lực nuôi dưỡng, kích thích việc
tìm tòi đường lối cứu nước mới. Ở bối cảnh đó, sự phát triển phong trào đấu
tranh của giai cấp vô sản đánh dấu chuyển biến về chất trong quá trình tìm
kiếm con đường cứu nước đúng đắn. Tuy nhiên, để khuynh hướng vô sản
thoát khỏi tình trạng tự phát, thể hiện tính đúng đắn duy nhất cần phải có một
đường lối cách mạng đúng đắn phù hợp với sự phát triển tất yếu của diễn
trình lịch sử dân tộc và xu thế thời đại.
Nhân dân đứng ở vị trí chủ thể trong quá trình vận động của thực tiễn
lịch sử Việt Nam đi đến xác lập con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo
cách mạng vô sản. Nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân được tiếp thu và làm
thỏa mãn bởi cá nhân kiệt xuất – Hồ Chí Minh. Trong gần hai mươi triệu
đồng bào, Hồ Chí Minh là người thấu hiểu mong muốn của Nhân dân đầy đủ
nhất, tiếp nhận được sự thôi thúc của Nhân dân nhiều nhất, biến sự thôi thúc
đó kết hợp với phẩm chất cá nhân một cách hài hòa và hiệu quả nhất để tổng
hợp nên nguồn sức mạnh tìm đường, vạch đường và dẫn đường cứu nước,
giải phóng dân tộc.
Phương châm định hướng tư tưởng và hành động trong thời gian tìm
đường cứu nước là cá nhân, tổ chức, lý thuyết nào quan tâm đến ủng hộ cuộc
đấu tranh giải phóng nhân dân các nước thuộc địa, cụ thể là Việt Nam, thì Hồ
Chí Minh tìm đến. Đó là lý do được Hồ Chí Minh nêu ra khi gia nhập Đảng
Xã hội Pháp. Hồ Chí Minh không thỏa mãn sự quan tâm ủng hộ đến cuộc đấu
tranh của nhân dân các nước thuộc địa ở lời nói, thậm chí cả ở những hành
động mang tính lừng chừng, không đầy đủ và kịp thời. Hồ Chí Minh sớm
nhận thấy hạn chế trong quan điểm đối với nhân dân thuộc địa của Đảng Xã
hội Pháp và tích cực hoạt động để khắc phục nhằm hướng sự quan tâm đúng
mức hơn. Đây là "bước đệm" đưa Hồ Chí Minh đứng trong hàng ngũ những
đảng viên Đảng Xã hội có tư tưởng đổi mới tiến bộ hướng về Quốc tế Cộng
60
sản và Cách mạng tháng Mười Nga. Sự kiện đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, từ đó tin và đi theo Quốc tế
thứ III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt
Nam đầu tiên, đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng và hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh. Điều đó cũng khẳng định một cách dứt
khoát và rõ ràng sự kiên định đến mức cao độ phương châm lấy Nhân dân làm
tiêu chí để xác định, lựa chọn, tiếp thu, đi theo tư tưởng, lý luận khoa học nào
của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nói: Mặc dù trong luận cương của Lênin có
nhiều điểm khó hiểu nhưng chỉ một điểm duy nhất là ủng hộ và giúp đỡ cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa đã đủ để xem đây là con đường
giải phóng đồng bào chúng ta. Hồ Chí Minh đấu tranh mạnh mẽ để tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp cũng có nguyên nhân chính là xác định chắc
chắn chủ trương ủng hộ và giúp đỡ cuộc đấu tranh của nhân dân các thuộc địa
Pháp. Như vậy, Nhân dân là tiêu chí mang tính động lực để Hồ Chí Minh lựa
chọn chủ nghĩa Mác – Lênin làm "cẩm nang thần kỳ", là nền tảng tư tưởng
của mình.
Tiếp thu các lý thuyết đã có chưa đủ để Hồ Chí Minh hình thành nên tư
tưởng chính trị. Song song với công việc đó, Hồ Chí Minh thâm nhập, khảo
nghiệm thực tiễn chính trị - xã hội ở nhiều nơi đi đến để nhận định và rút ra
những giá trị. Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam đầu tiên sang
phương Tây mang theo tư tưởng cứu nước, cứu dân. Trước Người đã có Phan
Văn Trường, Phan Chu Trinh và nhiều nhà yêu nước khác. Ở họ có nhiều
khác biệt nhưng điểm khác biệt lớn nhất để lịch sử lựa chọn Hồ Chí Minh là
người tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn chính là tư thế và đối tượng
hướng đến trong thời gian hoạt động ở nước ngoài. Phan Văn Trường, Phan
Chu Trinh,... ra nước ngoài trong tư thế của sĩ phu, trí thức lớn; sống và hoạt
động chủ yếu trong bộ phận tầng lớp bên trên của xã hội. Các ông rất ít lăn
lộn trong đời sống cùng khổ của nhân dân lao động ở dưới đáy xã hội. Do
vậy, sự am hiểu và tính đúng đắn khi đề xướng tư tưởng giải phóng tình cảnh
61
nô lệ của Nhân dân trong nước là chưa thể. Hồ Chí Minh khác ở chỗ sang
phương Tây trong tư thế người dân lao động mất nước. Cuộc sống làm thuê
giúp Hồ Chí Minh cùng ăn, cùng ở, hòa nhập với nhân dân lao động cùng
khổ. Đi đến đâu, điều Hồ Chí Minh quan tâm nhiều nhất cũng là tìm hiểu đời
sống chính trị - xã hội (quyền lợi chính trị, mối quan hệ với giai tầng cầm
quyền, cuộc sống xã hội, mong muốn nguyện vọng) của nhân dân lao động ở
nơi đó và liên hệ so sánh, ngẫm nghĩ về Nhân dân Việt Nam. Sau khi đã
khẳng định được chỗ đứng và vị thế xã hội, có nhiều điều kiện tiếp xúc với
tầng lớp bên trên của xã hội, Hồ Chí Minh cũng không thay đổi. Hơn nữa, Hồ
Chí Minh còn tận dụng các mối quan hệ và vị trí xã hội của mình để tìm hiểu
nhiều hơn đời sống nhân dân. Đặc điểm đó giúp Hồ Chí Minh nhận thức ngày
càng sâu sắc, phân tích tinh tế, liên hệ sát hợp những vấn đề của nhân dân
nước ngoài, đưa ra quan điểm giải quyết đúng đắn và rút ra nhiều bài học vận
dụng rất giá trị cho Nhân dân Việt Nam. Không nặng lòng với đất nước, với
nhân dân đang quằn quại rên siết, Hồ Chí Minh chỉ thấy được ánh hào quang
mà không phát hiện ra vết nhơ của văn minh tư bản phương Tây. Không kiên
định trở về giúp dân cứu nước, Nguyễn Ái Quốc có lẽ cũng sẽ bị chìm đắm
trong các đô thành tráng lệ ở Pari, Luân Đôn, Neu York,… Như vậy, Nhân
dân là tiêu chí mang tính động lực thôi thúc, định hướng cho Hồ Chí Minh
khảo nghiệm thực tiễn, cung cấp cơ sở thực tiễn để hình thành nên hệ thống tư
tưởng. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, đây chính là sự chuẩn bị về nền tảng
tư tưởng và đường lối của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Sự hình thành hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với quá trình
hoạt động chính trị của Người. Đó cũng là quá trình Hồ Chí Minh chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào
đầu năm 1930. Sau này, Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là sản phẩm kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Hai trong ba yếu tố cấu thành
Đảng Cộng sản Việt Nam – phong trào công nhân và phong trào yêu nước - là
62
các hoạt động được tổ chức bởi Nhân dân Việt Nam (hoặc bộ phận trong
Nhân dân – giai cấp công nhân) nhằm thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng của
chính Nhân dân. Bản thân chủ nghĩa Mác – Lênin nếu không đáp ứng được
nhu cầu của Nhân dân thì cũng không được tiếp thu và đón nhận làm hệ tư
tưởng chỉ đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh
chính trị xác định con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo phương
hướng cách mạng vô sản đã giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường
lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra
con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Đường
lối của Đảng thỏa mãn được nhu cầu về đường lối cứu nước của Nhân dân.
Trong bài viết “Ba mươi năm hoạt động của Đảng”, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu
rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập,
người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của
đại đa số nhân dân...” [89, tr. 407]. Do vậy, thời điểm ra đời cũng là mốc son
đánh dấu Nhân dân trao cho Đảng vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng Việt
Nam. Có thể xem đây cũng là mốc son chính thức khởi phát sự nghiệp cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Nhân dân đóng góp trí tuệ góp phần quyết định việc xây dựng và đảm
bảo tính đúng đắn của đường lối cách mạng.
Đường lối là vấn đề đóng vai trò rất quan trọng đối với một cuộc cách
mạng. Tính chất, phương hướng, mục tiêu, phương pháp và nhiều yếu tố khác
của cách mạng đều được thể hiện tập trung và cơ bản trong đường lối. Khởi
phát một sự nghiệp cách mạng trước hết chính là khởi phát đường lối mà sự
nghiệp đó theo đuổi. Đường lối luôn cần phải được quan tâm trước hết trong
quá trình chuẩn bị các yếu tố của sự nghiệp cách mạng. Nhiều trường hợp, khi
chưa thật sự hoàn thiện về tổ chức, bộ máy thực hiện cách mạng nhưng đường
lối đã được chuẩn bị cơ bản đầy đủ thì sự nghiệp cách mạng vẫn được tiến
hành. Đường lối cách mạng là linh hồn dẫn dắt thực tiễn cách mạng.
63
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến đường lối cách mạng. Người luôn
nhấn mạnh yêu cầu: “Phải có đường lối cách mạng đúng“ [91, tr. 608]. Theo
Hồ Chí Minh, mọi sai lầm về đường lối đều gây nguy hại nghiêm trọng đến
vận mệnh của sự nghiệp cách mạng. Đường lối đúng “chỉ có thể là đường lối
của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh
cụ thể của dân tộc, ở Việt Nam đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của giai
cấp vô sản và đảng của nó là Đảng Lao động Việt Nam” [91, tr. 608].
Xây dựng đường lối trước tiên là trách nhiệm của Đảng. Cán bộ, đảng
viên là những người ưu tú trong quần chúng, được tin cậy giao trọng trách
vạch đường lối và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Trong khi khẳng định tính ưu
tú của cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh không đặt họ cao hơn Nhân dân. Trái
lại, Hồ Chí Minh luôn khẳng định không có sự giúp sức của Nhân dân thì
Đảng không làm tốt trách nhiệm của mình được. Trí tuệ của Đảng phải được
nuôi dưỡng, phát triển trong mối quan hệ mật thiết với trí tuệ của Nhân dân,
được trí tuệ của Nhân dân cộng hưởng, làm gia tăng thì mới có thể hoạch định
được đường lối cách mạng đúng đắn.
Hồ Chí Minh mỗi khi đánh giá và ca ngợi đường lối của Đảng đúng
đắn đều chứng minh bằng những thắng lợi trong thực tiễn. Sự thể hiện thắng
lợi trong thực tiễn là biểu hiện chắc chắn nhất cho thấy một đường lối là đúng.
Đường lối chính trị đúng luôn chứa đựng khả năng thực thi do xuất phát từ thực
tiễn, bám sát thực tiễn và lấy phục vụ thực tiễn làm tiêu chí. Thực tiễn ở đây
gồm hai phạm vi: trong nước và thế giới. Ở phạm vi trong nước, đó chính là
thực tiễn đời sống Nhân dân. Cơ sở thực tiễn của đường lối cách mạng chính là
đời sống của Nhân dân. Chất liệu thực tiễn mà Nhân dân cung cấp là bộ phận
quan trọng xây dựng nên đường lối cách mạng. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh
trong mọi hoạt động cách mạng phải đi đúng đường lối quần chúng, tức là
trước hết phải xuất phát từ đời sống Nhân dân.
Sức mạnh trí tuệ của Nhân dân được Hồ Chí Minh đề cao. Người luôn
nói với cán bộ, đảng viên rằng việc gì Nhân dân cũng biết, việc gì Nhân dân
64
cũng có thể chỉ ra cách giải quyết. Đảng nhìn vào đời sống Nhân dân để “dự
thảo“ quan điểm, đường lối nhưng muốn hoàn thiện và đi vào cuộc sống thì
phải đem ra cho Nhân dân góp ý. Hơn nữa, Nhân dân không chỉ cho ý kiến để
hoàn việc xây dựng đường lối mà còn tiếp tục theo sát đóng góp để điều chỉnh
trong quá trình thực hiện nảy sinh những hạn chế, bất cập. Hồ Chí Minh không
bao giờ xem đường lối khi mới được xây dựng là xong xuôi theo kiểu “bất khả
xâm phạm“. Trong quá trình thực hiện, đường lối phải luôn được điều chỉnh,
bổ sung để phù hợp với thực tiễn cách mạng. Việc điều chỉnh, bổ sung đó phải
dựa vào Nhân dân, phát huy trí tuệ của Nhân dân thì mới đúng đắn. Hồ Chí
Minh viết: “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết.
Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị
quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào
ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”[82, tr. 337]. Một
khi xa rời Nhân dân, không phát huy trí tuệ của Nhân dân thì đường lối cách
mạng được xây dựng trên cơ sở chủ quan, duy ý chí, áp đặt vào thực tiễn và bị
thực tiễn từ chối.
- Nhân dân cung cấp tài lực, vật lực đảm bảo yêu cầu nền tảng vật chất
để sự nghiệp cách mạng được thực hiện thắng lợi.
Bất kỳ cuộc cách mạng nào cũng phải được tiến hành trên một nền tảng
vật chất nhất định. Thiếu nền tảng vật chất, sự nghiệp cách mạng không thể
được tiến hành trong thực tiễn và đi đến thắng lợi. Đường lối dù đã được
hoạch định nhưng chưa có cơ sở vật chất thì chỉ dừng lại ở trang giấy. Nền
tảng vật chất của một cuộc cách mạng là tất cả những yếu tố vật chất được
huy động để thực hiện mục tiêu, đường lối cách mạng. Trong nhiều trường
hợp, thắng lợi của một cuộc cách mạng cũng chính là thắng lợi của sự huy
động lực lượng vật chất để đánh bại đối tượng mà cuộc cách mạng ấy hướng
đến.
Nền tảng vật chất của sự nghiệp cách mạng Việt Nam do Nhân dân
đóng góp. Hồ Chí Minh luôn vạch rõ cho cán bộ, đảng viên thấy rằng họ chỉ
65
là một bộ phận nhỏ bé trong toàn dân. Tiềm lực vật chất của Đảng, Nhà nước
là rất nhỏ bé, hữu hạn và nếu chỉ dựa vào đó thì sự nghiệp cách mạng không
thể tiến hành thắng lợi. Trái lại, Hồ Chí Minh đề cao nguồn lực của Nhân dân,
xem đó là nguồn lực to lớn và vô tận mà nếu Đảng, Nhà nước huy động, khai
thác, phát huy được thì việc cách mạng chóng thành công. Với quan điểm
này, Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng ở cương vị nào cũng
chú trọng dựa vào dân, phát huy sức dân.
Yêu cầu tối thiểu nhất để tiến hành cách mạng là phải có con người
cách mạng, trước hết là cán bộ cách mạng. Hồ Chí Minh từng nhiều lần nói
"không có nhân dân thì không có Bác". Với tư tưởng và hành động mang tính
cách mạng triệt để, Hồ Chí Minh là đối tượng truy nã gay gắt của chủ nghĩa
thực dân đế quốc và tay sai bán nước. Thực dân Pháp từng lập tòa án phán
quyết tử hình vắng mặt và treo giải thưởng rất cao cho những ai cung cấp
thông tin giúp bắt được Nguyễn Ái Quốc. Trong điều kiện hoạt động bí mật
và bị truy lùng gay gắt như vậy, Hồ Chí Minh nhiều giai đoạn phải hoạt động
ở những khu vực có điều kiện sống vô cùng khắc nghiệt, rất thiếu thốn về ăn,
mặc, ở, thông tin, người bảo vệ... Nguyên nhân giúp Hồ Chí Minh vượt qua
được tất cả các khó khăn, nguy hiểm trên chính là sự gắn bó máu thịt với
Nhân dân. Người che chở, cưu mang, đùm bọc khi Hồ Chí Minh gặp khó
khăn, nguy hiểm là Nhân dân; người cung cấp cho Hồ Chí Minh nhân lực, vật
lực để sống và gầy dựng phong trào cách mạng là Nhân dân; người đấu tranh
với các thế lực ngoại xâm và tay sai phản động để bảo vệ Hồ Chí Minh cũng
là Nhân dân. Nhân dân đã làm điều đó với tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải. Không có Nhân dân, Hồ Chí Minh không thể tồn tại được để
đề ra tư tưởng và chỉ đạo thực tiễn cách mạng Việt Nam. Các thế hệ cán bộ
cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn đầu, đều hoạt động dựa vào sự
giúp đỡ vật chất của Nhân dân như vậy. Nhân dân là động lực đảm bảo điều
kiện vật chất tối thiểu mà thiếu nó thì không thể có con người cách mạng.
66
Đối với tổ chức cách mạng, Nhân dân cung cấp tài lực, vật lực để hoạt
động. Hồ Chí Minh khẳng định vai trò này của Nhân dân đối với tất cả các cơ
quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và đoàn thể. Hồ Chí Minh xem nguồn gốc
của mọi cơ sở, điều kiện vật chất mà tổ chức cách mạng có đều do Nhân dân
ủng hộ, đóng góp. Từ trụ sở, phương tiện hoạt động cho đến những cái rất nhỏ
như viết, giấy, bàn ghế,... đều trực tiếp do Nhân dân mang đến hoặc được
trang bị bằng tiền của Nhân dân. Chi phí hoạt động của tổ chức cách mạng,
đặc biệt là ngân sách Nhà nước, xét đến cùng đều thu dưới nhiều hình thức
khác nhau từ Nhân dân. Trong nhiều trường hợp, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự
đóng góp của Nhân dân đến mức xem tất cả những điều kiện vật chất – hạ
tầng mà Đảng, Nhà nước, Mặt trận và đoàn thể đang có để đảm bảo hoạt động
đều do Nhân dân mà ra. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhất quán trong tư tưởng
của mình rằng Đảng, Nhà nước có nhiệm vụ phải khai thác sức dân, tài dân để
trước hết là có cơ sở nền tảng duy trì hoạt động, sau đó là tùy theo chức năng,
nhiệm vụ của mỗi tổ chức mà làm lợi cho dân. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa
sinh tồn, quyết định hiệu quả hoạt động của tổ chức cách mạng.
Nhân dân không chỉ đóng góp tài lực, vật lực để giúp đỡ cán bộ, đảng
viên và tổ chức cách mạng mà còn để tổ chức và giải quyết thắng lợi nhiệm
vụ của các phong trào cách mạng. Trong diễn trình cách mạng Việt Nam, ở
mỗi giai đoạn có những phong trào khác nhau được tổ chức nhằm giải quyết
nhiệm vụ đặt ra. Có những phong trào đấu tranh trực tiếp với kẻ thù ngoại
xâm – nội phản, có phong trào nhằm giải quyết cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, thói quen và truyền thống lạc hậu. Ở tất cả các phong trào
được tổ chức thành công đều có sự đóng góp rất lớn và hiệu quả của Nhân
dân. Hồ Chí Minh dựa vào sự đóng góp của Nhân dân để giải quyết khó khăn
về tài chính cho chính quyền cách mạng thành lập sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945; dựa vào Nhân dân để giải quyết nạn đói; nhờ sự ủng hộ cơ sở vật
chất, tiền của của Nhân dân mà tổ chức phong trào diệt giặc dốt trên toàn quốc.
Trong điều kiện ở Việt Bắc, hầu như cơ sở vật chất cho tất cả hoạt động của
67
Đảng, Chính phủ, Mặt trận, đoàn thể đều dựa vào dân. Hồ Chí Minh chỉ đạo
phải làm tốt công tác cung cấp cho chiến dịch Điện Biên Phủ và chính sự đóng
góp của Nhân dân tạo nên sức mạnh để thắng lợi. Lãnh đạo kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước ở miền Nam, Hồ Chí Minh không lúc nào quên nhắc nhở phải
dựa vào tiềm lực của Nhân dân. Mỗi phong trào cách mạng đều được tổ chức
trên cái nền đó. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh nói
thành công hay không là tùy thuộc ở chỗ có phát huy được sức dân.
Lịch sử cách mạng Việt Nam khẳng định, mỗi khi biết khai thác sức
dân thì cán bộ, đảng viên có chỗ đứng vững, tổ chức cách mạng có chỗ dựa
chắc, phong trào cách mạng có nguồn lực vô tận để đi đến thắng lợi. “Khi
nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít,
giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn” [84, tr. 270]. Bài học đó cho
thấy sự đóng góp tài lực, vật lực của Nhân dân là động lực mạnh mẽ trên tất
cả các khâu (con người, tổ chức, phong trào) của sự nghiệp cách mạng.
- Nhân dân là lực lượng đông đảo, hùng hậu đóng vai trò chính thực
hiện đường lối cách mạng, bảo vệ thành quả cách mạng.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam trước hết là sự nghiệp chính trị bởi các
mục tiêu chính trị là đầu tiên và quan trọng hơn hết. Đó là mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu độc lập dân tộc tập trung ở lật đổ chế
độ thống trị thuộc địa nửa phong kiến thiết lập quốc gia dân tộc độc lập với nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội tập trung ở thực hành
dân chủ rộng rãi, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân
dân. Chủ thể và lực lượng của sự nghiệp ấy là Nhân dân. Hồ Chí Minh nói rất
nhiều về điều này: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”; “sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”; "việc cách mạng là việc
chung của dân chúng chứ không phải việc của một hai người"... Đối với sự
nghiệp cách mạng, nhân dân đóng vai trò quyết định thành bại, "có dân là có tất
cả", “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”...
Trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, sự nghiệp chính trị nói riêng, sự nghiệp
68
cách mạng nói chung của dân tộc ta do Nhân dân mà được khởi xướng, do Nhân
dân thực hiện mà diễn ra, do Nhân dân ra sức mà thắng lợi.
Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đề cập đến con người chính trị
rất toàn diện, song tập trung đặt ra yêu cầu trước hết đối với cán bộ, đảng
viên. Đây là gốc của mọi công việc; việc cách mạng thành công hay thất bại
là tùy thuộc ở họ. Nguồn cung cấp cán bộ, đảng viên cho hệ thống chính trị
xét đến cùng là Nhân dân. Cán bộ, đảng viên không ai khác hơn là con em của
Nhân dân, được Nhân dân vì ủng hộ chế độ mà cho đi theo. Hồ Chí Minh nói:
“Đảng viên chúng ta... đều là con của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động" [89, tr. 334]. Sự ủng hộ, giúp đỡ của Nhân dân được Hồ Chí Minh xem
là yếu tố quyết định để người cán bộ, đảng viên trưởng thành và ngày càng tốt
hơn. Tiêu chuẩn quan trọng để trở thành cán bộ, đảng viên xét ở yếu tố vì dân,
gần dân. Hiệu quả làm việc của cán bộ, đảng viên tùy thuộc ở mức độ ủng hộ,
giúp đỡ của Nhân dân. "Đường lối quần chúng" là thuật ngữ Hồ Chí Minh
thường xuyên đề cập khi chỉ ra cho cán bộ, đảng viên những điều kiện, yêu
cầu đảm bảo công việc đúng hướng và hiệu quả.
Chế độ chính trị mà sự nghiệp cách mạng phấn đấu xây dựng là chế độ
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Mọi yếu tố của chế độ đều do Nhân
dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Hệ thống chính trị gồm Đảng, Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội đều do Nhân dân tổ chức nên:
“Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra”, “Đoàn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”. Quyền lực chính trị trong chế độ là
của Nhân dân: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; mọi “quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Nhân dân đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để nuôi dưỡng, che chở, bảo vệ chế độ. Không có Nhân dân thì chế
độ chính trị không có cơ sở để ra đời và tồn tại.
Nhân dân không phó mặc việc cách mạng cho Đảng và Nhà nước.
Nhân dân tổ chức nên Đảng và Nhà nước là để dẫn dắt mình làm cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định: Việc cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân thực
69
hiện. Nhân dân không đứng ngoài quan sát hay chỉ hỗ trợ cán bộ, đảng viên
mà trực tiếp tham gia làm cách mạng. Hơn nữa, Nhân dân là lực lượng chính
trực tiếp quyết định thành bại của phong trào cách mạng. Sự nghiệp cách
mạng tiến nhanh hay chậm, thành công ở mức độ nào tùy thuộc ở sự tham gia
cách mạng của Nhân dân. Trong đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh
chủ trương phát động khởi nghĩa toàn dân; kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân; trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh kêu gọi sự tham gia của
mọi tầng lớp Nhân dân. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh xem việc cách mạng
là trách nhiệm của Nhân dân. Đến khi thắng lợi, mỗi đánh giá tổng kết của Hồ
Chí Minh đều quy về một căn nguyên: Đó là thắng lợi của Nhân dân. Điểm
này cho thấy Hồ Chí Minh đánh giá sự tham gia cách mạng của Nhân dân là
cội nguồn quyết định cách mạng thắng lợi.
70
Tiểu kết Chương 2
Với nhiệm vụ làm rõ quan niệm, vị trí, vai trò của Nhân dân trong tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh, nội dung Chương 2 trình bày hai phần: Quan
niệm về Nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; Nhân dân là mục
tiêu và động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh. Tinh thần cốt lõi là:
Thứ nhất, mọi quan niệm về Nhân dân của Hồ Chí Minh trước hết
đều là quan niệm chính trị, đều mang sắc thái chính trị. Kết hợp cả hai cách
hiểu rộng và hẹp, Nhân dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh vừa có biên độ
rất rộng, là toàn dân tộc, vừa có sự chọn lọc khi đề ra tiêu chuẩn yêu nước, vai
trò tiến bộ. Nhân dân là cộng đồng xã hội không chung chung, đồng nhất, mà
có sự khác biệt về giai tầng, tôn giáo, dân tộc, giới tính, tuổi tác, nghề
nghiệp,... trong đó liên minh công nhân – nông dân – trí thức là nền tảng.
Tính cộng đồng và tính giai cấp tồn tại thống nhất trong Nhân dân.
Thứ hai, sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trên tất cả các khía cạnh, ở
mọi phạm vi, cấp độ đề cập, đều vì dân. Nhân dân là mục tiêu không mang
tính nhất thời, không là một thủ đoạn, sách lược chính trị mà là vấn đề có tính
chiến lược được duy trì và phát triển theo hướng không ngừng củng cố, bổ
sung, phát triển. Mục tiêu, lý tưởng vì Nhân dân trở thành sợi chỉ đỏ xuyên
suốt, ngọn hải đăng dẫn đường cho toàn bộ quan điểm và hành vi chính trị của
Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, Nhân dân là động lực to lớn thúc đẩy cách mạng tiến lên, quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng. Nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân là
động lực khởi phát sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhân dân đóng góp trí tuệ
góp phần quyết định việc xây dựng và đảm bảo tính đúng đắn của đường lối
cách mạng; cung cấp tài lực, vật lực đảm bảo yêu cầu nền tảng vật chất để sự
nghiệp cách mạng được thực hiện thắng lợi. Nhân dân là lực lượng đông đảo,
hùng hậu đóng vai trò chính thực hiện đường lối cách mạng, bảo vệ thành quả
cách mạng. Tựu trung lại, Nhân dân, bằng tất cả tinh thần và lực lượng của
71
mình, đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các yếu tố mà nếu thiếu thì sự
nghiệp cách mạng không thể nảy sinh, duy trì và phát triển được.
Như vậy, trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, Nhân dân là quan niệm
mang bản chất chính trị, có sự thống nhất giữa tính cộng đồng và tính giai cấp
trong mối quan hệ tương tác với cán bộ, đảng viên, hệ thống chính trị (Đảng,
chính quyền, đoàn thể), sự nghiệp chính trị (đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng chế độ mới). Nhân dân có vị trí, vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực
tiên quyết, xuyên suốt sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, tư tưởng và
hành vi chính trị của Hồ Chí Minh nói riêng; trở thành chủ thể có sức ảnh
hưởng lớn nhất đối với Hồ Chí Minh và sự nghiệp chính trị mà Hồ Chí Minh
lựa chọn.
72
Chương 3
SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH LÀ ĐƯA NHÂN DÂN LÊN ĐÚNG
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN
3.1. GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN, ĐƯA NHÂN DÂN LÊN ĐỊA VỊ LÀ CHỦ
VÀ LÀM CHỦ XÃ HỘI, LÀM CHỦ ĐẤT NƯỚC
3.1.1. Cách mạng Việt Nam là sự nghiệp giải phóng Nhân dân
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân khẳng định: Trong điều
kiện đất nước đương thời, để Nhân dân trở về đúng vị trí, vai trò, thực hiện
được mục đích chính trị của mình thì trước hết phải giải phóng Nhân dân.
Giải phóng Nhân dân, giải phóng con người, mà trước hết là con người
Việt Nam, là tư tưởng – hành động quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp
chính trị Hồ Chí Minh. Trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến,
Nhân dân Việt Nam mà tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đề cập mang thân
phận nô lệ, bị trị. Không những phải chịu hai tầng áp bức, bóc lột của thực
dân, đế quốc và địa chủ phong kiến, Nhân dân Việt Nam còn bị "trói buộc"
bởi lề thói và truyền thống lạc hậu xưa cũ. Đây là tiền đề thực tiễn mang tính
bức thiết đặt ra yêu cầu cho Hồ Chí Minh xây dựng các quan điểm chính trị
về giải phóng Nhân dân.
Giải phóng Nhân dân được tập trung đề cập từ khi tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh được hình thành về cơ bản, kéo dài xuyên suốt quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc, cả trước và sau khi có được chính quyền dân chủ
nhân dân. Điểm đặc biệt ở chỗ, trong toàn bộ di sản văn tự để lại, Hồ Chí
Minh không trực tiếp nêu ra bất cứ một quan niệm nào về phạm trù "Giải
phóng", "Giải phóng Nhân dân" nhưng vẫn được tôn vinh một cách rộng rãi
và nhiệt thành trong cả nước, trên thế giới là "anh hùng giải phóng dân tộc
của Việt Nam", "Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa trong thế kỷ XX". Không trực tiếp nêu quan niệm nhưng cuộc đời,
73
sự nghiệp và toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh để lại đã phác họa rất rõ.
Theo đó, giải phóng Nhân dân Việt Nam là mục tiêu và nội dung chính trong
sự nghiệp đấu tranh cách mạng của toàn thể Nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm giải thoát Nhân dân khỏi tình cảnh bị thống
trị, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân đế quốc và các thế lực nội phản,
khỏi sự trói buộc bởi những thói quen và truyền thống lạc hậu đang kiềm kẹp
sự phát triển, mang lại cho Nhân dân cuộc sống tự do cả về tinh thần lẫn thể
chất trong tư cách người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ chế độ,
làm chủ chính mình.
Hồ Chí Minh bàn đến giải phóng Nhân dân một cách toàn diện như là
nỗi trăn trở thường trực. Giải phóng Nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh gắn liền với các nhiệm vụ: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Nội dung của giải phóng Nhân dân có
nhiều cấp độ gắn liền với các quan điểm về xác định và nhận định kẻ thù của
Nhân dân – thế lực nắm địa vị thống trị, áp bức, kiềm kẹp Nhân dân trong tình
cảnh mất tự do, cũng là đối tượng của cuộc đấu tranh giải phóng:
Trước hết, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi sự thống trị của các thế
lực ngoại xâm.
Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù ngoại xâm cơ bản và chủ yếu của cách
mạng Việt Nam vì đây là thế lực trực tiếp xâm lược và áp bức Nhân dân ta.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa thực dân là “kẻ địch rất nguy hiểm” được hình
thành từ chính sách xâm lược thuộc địa của giai cấp tư sản ở các quốc gia tư
bản chủ nghĩa, trước hết ở châu Âu. Chủ nghĩa thực dân đã làm mọi cách để
“kìm giữ trong vòng áp bức biết bao quần chúng của các dân tộc bị nô dịch”
[78, tr. 300] bằng vũ khí, lừa bịp và sự đầu độc đằng sau lá cờ giương cao khẩu
hiệu “khai hóa văn minh”. Trong chủ nghĩa thực dân đế quốc, kẻ thù trực tiếp
của Nhân dân Việt Nam là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Bản chất của chủ
nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là như nhau. Nếu thực dân Pháp “thực
hiện chính sách ăn cướp và bóc lột” [78, tr. 307] thì “chính sách của Mỹ là
74
“lấy máu người, phát tài ta” [85, tr. 271]. Do vậy, cũng như thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ là kẻ thù của dân tộc ta, cùng một mục đích là thống trị và bóc lột
tận xương tuỷ Nhân dân ta. Sự đánh giá, nhận xét đúng đắn bản chất của kẻ
thù là cơ sở để Đảng ta xây dựng đường lối kháng chiến trong cách mạng giải
phóng dân tộc cũng như đường lối bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Hai là, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi các thế lực nội phản áp
bức, bóc lột.
Hồ Chí Minh gọi các thế lực nội phản là “Việt gian” gồm “phong kiến,
địa chủ, có một số là tư sản mại bản” [85, tr.58]. Người xem địa chủ phong
kiến và tư sản mại bản là kẻ thù của cách mạng Việt Nam vì chúng thà chịu
“nước nhà phụ thuộc vào đế quốc” để có những lợi ích giai cấp nhỏ nhen mà
phản bội dân tộc, bán nước làm tay sai cho kẻ xâm lược. Cái nhìn của Hồ Chí
Minh đối với hai kẻ thù này là rõ ràng và kiên quyết nhưng luôn có thái độ
khoan dung, tranh thủ những khi cách mạng cần và họ thức tỉnh.
Ba là, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi sự cản trở của thói quen và
truyền thống lạc hậu.
Hồ Chí Minh cho rằng “thói quen và truyền lạc hậu cũng là kẻ địch to”.
Cuộc đấu tranh chống kẻ địch to này cũng không kém phần quan trọng so với
cuộc đấu tranh chống “kẻ địch nguy hiểm” là chủ nghĩa tư bản và bọn đế
quốc. Thói quen và truyền thống lạc hậu là “bà đỡ” của nghèo nàn, dốt nát tức
giặc đói và giặc dốt theo cách gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các giá trị
truyền thống lạc hậu đi ngược lại với sự phát triển của thời đại. “Nó ngấm
ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ”, trước hết là ngăn trở việc làm “sống dậy”
các giá trị truyền thống tốt đẹp, đưa nó vào cuộc chiến chống ngoại xâm. Sau
nữa, nó ngăn trở công cuộc xây dựng “đời sống mới” của Nhân dân ta. Vì lẽ
đó, nó nhanh chóng trở thành vũ khí trong tay các thế lực phản cách mạng,
trước hết là chính quyền thực dân để thiết lập nền cai trị của chúng.
Kẻ địch to này bao gồm cả các yếu tố tiêu cực hình thành từ chính sách
thống trị của thực dân, đế quốc như: văn hóa nhồi sọ; óc kiêu ngạo, tự phụ;
75
thói quen uống rượu cồn, hút thuốc phiện; chủ nghĩa vị lai vong bản; sự phân
biệt vùng miền, dân tộc, giới tính… Đây là các căn bệnh mà chủ nghĩa thực
dân cố tình gieo rắc vào xã hội Việt Nam để đầu độc, làm bại hoại, hủ hóa con
người và văn hóa Việt Nam khiến chúng ta không thể ngóc đầu dậy nổi mà phải
chịu mãi kiếp ngựa trâu. Phạm vi ảnh hưởng của thói quen và truyền thống lạc
hậu là rất lớn. “Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong
mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói
quen” [88, tr. 601-602].
Cũng với cách nhìn biện chứng, Hồ Chí Minh cho rằng thói quen và
truyền thống lạc hậu không phải tất cả đều xấu, đều là “kẻ địch to”. Theo
Người, “cái nào cũ mà xấu, thì phải bỏ” [82, tr. 112], “cái gì cũ mà không
xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý” [82, tr. 112]. Như vậy,
Hồ Chí Minh đã phân hóa một cách rõ ràng đâu là đối tượng cần “kiên quyết
tiêu diệt” và đâu là đối tượng cần “cải tạo”. Người nhấn mạnh cụm từ “phải
bỏ” tức dứt khoát phải tiêu diệt và dặn “sửa đổi lại cho hợp lý” nghĩa là cải
tạo. Giữa hai thái độ đó, Hồ Chí Minh thiên về cải tạo: “Muốn gột rửa sạch
những vết tích xấu xa của xã hội cũ… thì chúng ta phải ra sức học tập tự cải
tạo” [88, tr. 602] chứ không thể trấn áp nó. Quá trình cải tạo phải được tiến
hành “một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài” [88, tr. 606].
Thói quen và truyền thống lạc hậu bám vào và gây hại cho xã hội còn
dai dẳng hơn cái vòi hút máu của con đỉa thực dân. Chiến trường của cuộc
đấu tranh chống “kẻ địch to” này không có ranh giới rõ ràng như đấu tranh
chống ngoại xâm vì nếu không có một cái đầu tỉnh táo, sáng suốt chúng ta dễ
dàng đánh đổ “cái mới” thay vì phải tiêu diệt “cái lạc hậu” của văn hóa truyền
thống. Ngày nay, khi mà cái mới hôm nay ngày mai lại rất dễ trở thành cái cũ
kỹ, lạc hậu cần phải bị đánh đổ thì các quan điểm trên của Hồ Chí Minh có ý
nghĩa to lớn cho chúng ta trong trận chiến không ngừng nghỉ này.
Xác định đúng kẻ thù là cơ sở để Hồ Chí Minh để ra phương pháp giải
phóng Nhân dân. Phương pháp ấy, tựu trung lại, được diễn đạt súc tích qua
76
hai từ "cách mạng". Công trình “Hồ Chí Minh Toàn tập” chỉ ra cho chúng ta
thấy hai phạm trù "giải phóng" và "cách mạng" là bạn đường. Muốn giải
phóng Nhân dân phải làm cách mạng, tùy đối tượng đấu tranh thế nào mà có
hình thức cách mạng tương ứng. Đồng thời, làm cách mạng không để giải
phóng cho riêng ai, riêng giai tầng nào mà là để giải phóng đất nước, giải
phóng toàn dân.
Không phải đến Hồ Chí Minh thì giải phóng mới được tiến hành bằng
hình thức cách mạng. Tư tưởng và thực tiễn lịch sử nhân loại đã đề cập đến từ
lâu và rất thường xuyên. "Lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm"
[79, tr. 282]. Dưới quan điểm biện chứng và phát triển, "cách mạng là sự thay
đổi căn bản, sự nhảy vọt về chất trong quá trình phát triển của tự nhiên, xã hội
và nhận thức" [79, tr.8]. Trong lĩnh vực xã hội, cách mạng là sự biến đổi sâu
sắc, triệt để, không cải lương, nửa vời, làm thay đổi tận gốc rễ chế đội xã hội,
đưa giai cấp tiên tiến lên cầm quyền. Dưới góc độ này, cách mạng mang nội
dung chính trị sâu sắc.
Hồ Chí Minh quan niệm về cách mạng theo nghĩa chung và dễ hiểu:
“Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt” [79, tr. 284].
Tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Người đề cập đến cách mạng một cách toàn
diện, nhưng tiêu điểm là cách mạng trên lĩnh vực xã hội. Tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh bàn đến nhiều hình thái cách mạng xã hội khác nhau như cách mạng
giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng vô sản, dân tộc cách mạng, giai cấp cách mạng, thế giới cách
mạng,… Mỗi hình thái có đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ, tính chất khác nhau.
Xét đến cùng, giải phóng Nhân dân là mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của tất cả
các hình thái bởi bản chất đích thực của cách mạng là giải phóng con người.
Trong đó, về cơ bản và cần kíp trước mắt thì giải phóng Nhân dân là mục tiêu,
nhiệm vụ, nội dung chủ yếu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, rộng hơn
nữa là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
77
Cách mạng giải phóng dân tộc sau khi xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đã
trở thành thuật ngữ chính trị phổ biến trong thế kỷ XX. Đây "là cuộc cách mạng
nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập, thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng nhà nước dân tộc" [23, tr.8]. Hồ Chí Minh không nêu
lên định nghĩa một cách đầy đủ và trực tiếp về thuật ngữ "Cách mạng giải phóng
dân tộc". Song, trong một số tác phẩm, đặc biệt là Đường Cách mệnh, Hồ Chí
Minh nêu khái niệm "Dân tộc cách mệnh". Có thể hiểu "Dân tộc cách mệnh"
mà Hồ Chí Minh đề cập chính là cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc "Dân
tộc cách mệnh" giải quyết nhiệm vụ cấp bách đầu tiên của tình cảnh Nhân dân
Việt Nam là bị ngoại trị. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta, giải phóng Nhân
dân không thể triệt để nếu chỉ đánh đuổi ngoại xâm thống trị. Cùng với thực
dân đế quốc, các thế lực nội phản bán nước làm tay sai, tập trung chủ yếu ở
địa chủ, phong kiến, tư bản phản động, cũng đang áp bức, bóc lột Nhân dân.
Cách mạng giải phóng dân tộc hướng đến đối tượng đấu tranh là thực dân đế
quốc thống trị đến từ bên ngoài. Cuộc cách mạng ấy không giải phóng Nhân
dân bằng cách thủ tiêu ách thống trị từ nội tại đất nước. Vì thế mà Hồ Chí
Minh đề cập đến cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với nghĩa tuy nó giải
quyết nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến như một cuộc cách mạng dân
chủ tư sản, nhưng nó không phải do giai cấp tư sản lãnh đạo mà do giai cấp
công nhân lãnh đạo, nó chống đế quốc đến cùng và không thành lập quyền
thống trị của tư bản mà thành lập quyền thống trị của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh, đó "là cách mạng dân chủ mới".
"Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam tiến hành từ năm 1930 dưới
ngọn cờ "độc lập tự do" của Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân" [63, tr. 327]. Thắng lợi
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước trong mùa xuân 1975 kết thúc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân khi hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ đánh đổ sự
thống trị của chủ nghĩa thực dân đế quốc và ngụy quyền tay sai, xóa bỏ tàn
78
tích của chế độ phong kiến, thực hiện quyền tự do, dân chủ cho Nhân dân và
xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ, mở đường cho xã hội phát triển.
Mục tiêu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh hướng đến trong giải phóng
Nhân dân luôn mang tính triệt để. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh chống thực
dân đế quốc và tay sai bán nước dẫu lâu dài nhưng chắc chắn có ngày kết thúc
thắng lợi. Với kẻ thù là thói quen và truyền thống lạc hậu cản trở sự tiến bộ
của Nhân dân trong tư cách lực lượng chính trị đóng vai trò chủ thể của cách
mạng, chủ thể của chế độ, xã hội, đất nước, thì không có điểm kết thúc. Nhiều
lần, Hồ Chí Minh chỉ ra cho chúng ta thấy sự trói buộc của thói quen và
truyền thống lạc hậu đến tư duy, nhận thức và hoạt động của Nhân dân, kiềm
hãm và làm suy yếu năng lực làm chủ của Nhân dân một nước dân chủ cộng
hòa. Để giải phóng Nhân dân khỏi kẻ thù này, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có
một cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hóa – xã hội một cách bền bỉ, không
ngừng nghỉ và quyết tâm cao. Biểu hiện rõ nét của cuộc cách mạng chống thói
quen và truyền thống lạc hậu là công cuộc xây dựng đời sống mới được Hồ
Chí Minh đề cập ngay trong những hoạt động cách mạng đầu tiên, chính thức
phát động rộng rãi không lâu sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công và được duy trì, phát triển liên tục về sau.
Hồ Chí Minh ý thức rõ tính chất phức tạp và mức độ khó khăn của cuộc
cách mạng này. Người lý giải, đấu tranh chống thói quen và truyền thống lạc
hậu thì không phân định rõ được giới tuyến như với thực dân đế quốc và tay
sai. "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt" nhưng
để xác định cái cũ, cái mới, cái tốt, cái xấu trong thực tiễn sinh động và phát
triển không ngừng là vô cùng khó khăn. Do đó, để xây dựng đời sống mới,
Hồ Chí Minh chỉ ra những giá trị mang tính nền tảng và nguyên tắc: Những gì
ích nước lợi dân, những gì có lợi cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân là
cái tốt, cái mới cần giữ gìn, phát huy; ngược lại là cái cũ, cái xấu cần loại trừ.
Đây vừa là giá trị đạo đức, văn hóa, vừa là tiêu chí chính trị đòi hỏi sự chấp
hành triệt để của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
79
Theo Hồ Chí Minh, "cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải việc một hai người" [79, tr. 283]. Lực lượng tiến hành cách mạng
nhằm mục tiêu giải phóng Nhân dân không đâu khác ngoài Nhân dân nhưng
không phải lúc nào Nhân dân cũng có thể hoàn thành tốt vai trò đó. Nhân dân
được Hồ Chí Minh đề cập trong tư cách là chủ thể, lực lượng quyết định
thắng lợi của cách mạng phải là cộng đồng yêu nước được giác ngộ, "nghĩ rồi
thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh" [79, tr.
283]. "Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng, chí
có đồng , tâm mới đồng, tâm đã đồng lại phải biết cách làm thì làm mới
chóng" [79, tr. 282].
Hồ Chí Minh thấy rõ phẩm chất cao quý và sức mạnh to lớn của Nhân
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn
dân” [87, tr. 453]. Phẩm chất và sức mạnh này không phải lúc nào cũng được
khơi dậy, quy tụ và phát huy để đưa cách mạng đến thắng lợi. Chỉ khi được tổ
chức, dẫn dắt bởi một tổ chức chân chính có nhận thức và hành động đúng
quy luật, thuận lòng dân, hợp thời đại thì mới tạo nên được. Lịch sử trao sứ
mệnh đó cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong tư cách là bộ phận ưu tú từ
Nhân dân mà ra, lãnh đạo Nhân dân đấu tranh cách mạng để giải phóng đất
nước, giải phóng Nhân dân. Trong thành phần cấu thành lực lượng cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức tiên phong đóng vai trò lãnh đạo.
Để xây dựng lực lượng cách mạng hùng mạnh đảm bảo thắng lợi, Hồ
Chí Minh rất chú tâm củng cố mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân. Đây là
quan hệ chính trị mang tính biện chứng. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ trung thành của Nhân dân. Nhân dân là đối tượng lãnh đạo của
Đảng. Có Nhân dân, Đảng mới có quyền lãnh đạo. Nhân dân lại là lực lượng
cách mạng to lớn. Lực lượng mạnh thì Đảng mới vững, cách mạng mới thắng
lợi. Làm cho dân mạnh tức là làm cho đối tượng lãnh đạo của Đảng, làm cho
lực lượng cách mạng của Đảng vững mạnh. Đó cũng là làm cho Đảng vững
80
mạnh. Nhân dân là một tập hợp không thuần nhất. Trách nhiệm của Đảng là
phải không ngừng đoàn kết Nhân dân thành một khối, chăm lo nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần, phát huy dân chủ, khai thác trí dân, lực dân, tài dân
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Khi Đảng làm cho Nhân dân phát huy được
sức mạnh vô địch là lúc Đảng mạnh, làm cho Nhân dân trở thành anh hùng là
Đảng anh hùng. Nhân dân thế nào, rất quan trọng, quyết định Đảng thế ấy.
3.1.2. Lập ra nhà nước của Nhân dân, người dân là chủ xã hội, làm
chủ đất nước
"Cách mạng" trong quan niệm của Hồ Chí Minh rất rộng, nhưng cốt lõi
và được đề cập nhiều nhất là cách mạng chính trị - xã hội. Đối với mọi cuộc
cách mạng chính trị - xã hội, chính quyền là vấn đề cơ bản. Thiết lập và kiện
toàn nhà nước của Nhân dân là chiều hướng phát triển tất yếu của cuộc cách
mạng giải phóng Nhân dân. Ngay khi xác định cách mạng Việt Nam là sự
nghiệp giải phóng Nhân dân thì Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến "giành lấy
chính quyền về tay nhân dân" và xây dựng chính quyền trở thành công cụ
mạnh mẽ, sáng suốt để Nhân dân thực hiện vai trò là chủ xã hội, làm chủ đất
nước.
- Giành lấy và kiến lập Nhà nước của Nhân dân là điều kiện đảm bảo
đầu tiên để đưa Nhân dân lên đúng vị trí, vai trò và thực hiện đúng mục đích
của mình.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn với mục tiêu
và nội dung khác nhau nhưng đều xoay quanh vấn đề chính quyền nhà nước,
cụ thể là việc giành chính quyền về tay ai và chính quyền phục vụ ai. Hồ Chí
Minh ra đi tìm đường cứu nước cũng từ sự thúc bách của khát vọng giải
phóng dân tộc mà biểu hiện tập trung là ở yêu cầu lật đổ chính quyền nhà
nước thuộc địa nửa phong kiến thiết lập nhà nước độc lập của Nhân dân.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, trước khi đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu lý luận và khảo nghiệm thực tiễn tổ chức,
hoạt động của các mô hình nhà nước tư sản nổi bật ở Anh, Pháp, Mỹ,... Hồ
81
Chí Minh xoáy sâu vào xem xét mối tương quan giữa quyền lợi của con
người, của Nhân dân được đề ra trong lý thuyết với sự thể hiện trong thực tiễn
thông qua tổ chức và hoạt động của nhà nước sở tại. Đặc biệt, Người chú ý rất
nhiều đến quyền Nhân dân kiểm soát chính phủ. Điểm mấu chốt dẫn đến
quyết định không lựa chọn các mô hình ấy của Hồ Chí Minh đó là các nhà
nước này không thỏa mãn một cách triệt để việc thực hiện vai trò làm chủ của
Nhân dân trong thực tiễn đời sống. Hồ Chí Minh nói: Cách mạng Mỹ và cách
mạng Pháp đã dạy chúng ta rằng, làm cách mạng thì không nên sợ phải hy
sinh, và đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cách mạng cho “đến nơi”,
nghĩa là làm cách mạng rồi thì chớ để chính quyền trong tay số ít, chính
quyền phải thuộc về dân chúng số đông. Như vậy, nếu chính quyền là vấn đề
cơ bản của mọi cuộc cách mạng thì đối với Hồ Chí Minh sự khẳng định vai
trò làm chủ chính quyền và thông qua làm chủ chính quyền để làm chủ xã hội,
làm chủ đất nước của Nhân dân là vấn đề cơ bản của chính quyền. Chủ nghĩa
Mác – Lênin và mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đã đáp ứng
được mong mỏi đó của Hồ Chí Minh trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Thông qua một cuộc cách mạng triệt để - Cách mạng tháng Mười – nhân dân
Nga đã thực sự có quyền làm chủ đất nước bằng một chính quyền nhà nước
của chính họ. Bài học rút ra từ Cách mạng tháng Mười đó là: Làm cách mạng
để giải phóng Nhân dân phải đi đến thành lập được nhà nước của Nhân dân để
thông qua đó thực thi quyền Nhân dân làm chủ. Đây là kim chỉ nam cho Hồ
Chí Minh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Mục đích của Nhân dân Việt Nam là được đứng đúng với vị trí, vai trò
là chủ và làm chủ xã hội, đất nước, được phát triển không ngừng kể cả đời
sống vật chất và tinh thần. Điều đó chỉ có thể đạt được thông qua thủ tiêu bộ
máy chính quyền thống trị và kiến lập nên chính quyền của Nhân dân. Thủ
tiêu bộ máy chính quyền thống trị và kiến lập nên chính quyền của Nhân dân
phải gắn liền với nhau, không thể có sự lựa chọn nào khác. Làm cách mạng
rồi thì chớ để chính quyền trong tay số ít bởi như vậy chỉ là sự thay thế chủ
82
thể bóc lột Nhân dân. Làm cách mạng rồi thì chính quyền phải thuộc về dân
chúng số đông mới thực hiện được mục đích của Nhân dân triệt để. Chính
quyền Nhân dân không quay trở lại biến thành công cụ bóc lột, thống trị như
các "chính quyền của số ít" mà trái lại là công cụ để Nhân dân thực thi quyền
là chủ và tiếp tục đấu tranh chống các kiềm kẹp khác để tiếp tục giải phóng
chính mình. Trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Hồ Chí Minh khởi thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua
thể hiện rõ là sau khi đánh đổ thực dân thống trị và tay sai bán nước sẽ thành
lập chính phủ công – nông – binh. Dù cách diễn đạt có khác song nhiều văn
kiện sau này vẫn khẳng định lại. Đó là lựa chọn duy nhất đảm bảo tính triệt để
của sự nghiệp cách mạng.
- Thông qua nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân để xác
lập và đảm bảo quyền là chủ và quyền làm chủ của Nhân dân.
Trở về nước sau ba mươi năm (1911- 1941), Hồ Chí Minh chủ trì Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII đánh dấu chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược, đặt nền tảng cho thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945. Tại Hội
nghị Trung ương VIII, Hồ Chí Minh đề xuất quan điểm xây dựng nhà nước
dân chủ nhân dân đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng về nhà nước kiểu
mới. Sự kiến lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ thắng lợi của
Tổng khởi nghĩa tháng 8 đã hiện thực hóa tư tưởng xây dựng nhà nước dân
chủ thực sự của Hồ Chí Minh. Những nỗ lực thiết kế, tổ chức, xây dựng Nhà
nước sau đó đều được Hồ Chí Minh chú tâm xác lập, đảm bảo quyền là chủ
và làm chủ của Nhân dân. Có thể đánh giá trên ba nét lớn:
Một là, thể chế hóa, pháp lý hóa quyền là chủ và làm chủ nhà nước của
Nhân dân.
Quyền là chủ nhà nước của Nhân dân phải được quy định bởi pháp luật.
Đó là điều kiên tiên quyết. Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Hồ
Chí Minh trong cương vị đứng đầu Chính phủ cách mạng lâm thời đã chú ý
xúc tiến soạn thảo và ban hành Hiến pháp vừa là để đảm bảo tính hợp hiến
83
của Nhà nước, vừa là để pháp lý hóa quyền là chủ nhà nước của Nhân dân.
Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: "Nước Việt Nam là một nước dân
chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam…". Năm 1959, Hồ Chí Minh lãnh đạo soạn thảo và ban hành Hiến pháp
tiếp tục khẳng định: "Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đều thuộc về nhân dân". Pháp luật là tối thượng. Sự quy định của luật pháp
đối với quyền là chủ nhà nước của Nhân dân là sự quy định cao nhất, do vậy
là sự khẳng định mạnh mẽ và chắc chắn nhất. Chỉ có trên cơ sở quy định của
pháp luật, Nhân dân mới là chủ nhà nước một cách chặt chẽ, toàn diện và bền
vững. Đó là lời tuyên bố hùng hồn nhất, thực tế nhất rằng Nhân dân đã được
giải phóng khỏi chế độ chính trị thuộc địa nửa phong kiến, chính thức đứng ở
địa vị người là chủ chế độ.
Hai là, nhà nước phải nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân.
Tính triệt để của giải phóng Nhân dân thể hiện qua quyền lợi và địa vị
mà Nhân dân được thụ hưởng. Quyền lợi và địa vị đó được Hồ Chí Minh khái
quát qua phạm trù "là chủ" đi liền với "làm chủ". Đây là hai phạm trù được
Hồ Chí Minh nhắc đến rất nhiều, xem là mục tiêu trực tiếp và cao nhất của sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân. Đây là chiều
hướng phát triển không thể khác được của cuộc cách mạng giải phóng Nhân
dân.
Tiêu chí "là chủ" xác định vị thế của Nhân dân đối với chế độ chính trị
tiêu điểm là chính quyền nhà nước, với xã hội, với đất nước và với chính
mình. Tiêu chí này rất quen thuộc trong lịch sử nhân loại, là khẩu hiệu trong
nhiều phong trào đấu tranh, nhiều cuộc cách mạng đã có từ trước. Tuy nhiên,
quá trình nghiên cứu lý luận và khảo nghiệm thực tiễn ở nhiều nơi, đặc biệt ở
các nước tư bản phương Tây cho Hồ Chí Minh thấy nhân dân là chủ dưới chế
độ phong kiến, tư bản chủ nghĩa chỉ dừng lại ở khẩu hiệu. Kỳ thực trong thì
tước lục công nông, ngoài thì xâm lược bóc lột thuộc địa. Qua phân tích của
Hồ Chí Minh cho thấy các tập đoàn thống trị trong chế độ phong kiến, tư bản
84
chủ nghĩa chỉ nếu mục tiêu đưa nhân dân lên vị thế là chủ như một thủ đoạn
chính trị, một kiểu mị dân để thu hút nhân dân tham gia cuộc đấu tranh lật đổ
chế độ chính trị đương thời thiết lập chế độ do họ cầm quyền, hoặc sau đó thì
mị dân để nhân dân chấp nhận chế độ chính trị do họ cầm quyền.
Để đảm bảo tính triệt để của mục tiêu giải phóng Nhân dân, Hồ Chí
Minh luôn gắn liền tiêu chí "là chủ" với "làm chủ" và có phần nhấn mạnh luận
giải vế "làm chủ" hơn. Đưa Nhân dân lên vị thế là chủ phải được thể hiện
trong thực tiễn hành vi làm chủ. Chỉ bằng hành vi làm chủ, Nhân dân mới
chạm tới được chiều sâu nhất của giải phóng. Hồ Chí Minh khẳng định trách
nhiệm làm chủ: Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; Chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra; Đoàn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên; Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của
dân. Để thực hiện tốt công việc to tát đó, Hồ Chí Minh yêu cầu Nhân dân phải
có năng lực tương xứng, phải xứng đáng là chủ nhân một nước tự do, độc lập.
Có như thế, Nhân dân mới thực hiện một cách tự giác và hiệu quả trách nhiệm
chính trị được tạo nên bởi vị thế, quyền lợi là chủ của mình.
Một nhà nước áp bức nhân dân, nhà nước của thiểu số thống trị đa số
Nhân dân thì không bao giờ quan tâm đến năng lực làm chủ của Nhân dân
hoặc nếu có thì chỉ mị dân. Chỉ có thông qua nhà nước của mình thì Nhân dân
mới thật sự được quan tâm nâng cao năng lực "làm chủ" để tiếp tục thực hiện
các yêu cầu, nhiệm vụ tiếp theo của sự nghiệp cách mạng. Cách mạng Việt
Nam là sự nghiệp đưa Nhân dân trở lại đúng vị trí, vai trò làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội và làm chủ chính vận mệnh của mình. Điều đó chưa thể đạt
được ngay khi Tổng khởi nghĩa mùa thu tháng 8 thắng lợi, chế độ thuộc địa
nửa phong kiến bị thủ tiêu. Mặc dù nhà nước được thành lập từ thắng lợi của
Cách mạng tháng 8 là nhà nước dân chủ nhân dân nhưng ở lúc này Nhân dân
trong tư cách "là chủ" vẫn chưa thật sự có đầy đủ năng lực để "làm chủ".
Không phải cứ nói Nhân dân là chủ thì họ sẽ làm chủ được. Do vậy, song
song với việc tổ chức tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu để Nhân dân tổ chức
85
nên nhà nước của mình, song song với việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp
để vị thế là chủ của Nhân dân được thể chế hóa thì Hồ Chí Minh chú ý ngay
đến "giáo dục tinh thần của nhân dân", diệt giặc dốt, thực hành đời sống mới
để giải phóng Nhân dân khỏi những kiềm kẹp của thói quen, truyền thống lạc
hậu. Thực tiễn đó cho thấy, đồng thời với việc tiến hành các hoạt động để
khẳng định vị thế "là chủ" của Nhân dân là những nỗ lực từ rất sớm để nâng
cao năng lực "làm chủ". Hồ Chí Minh xem đó là chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước. Chỉ có nhà nước của Nhân dân mới thật sự chăm lo làm giàu năng
lực làm chủ của Nhân dân. Khi đó Nhân dân mới là chủ Nhà nước, là chủ xã
hội, là chủ đất nước một cách trọn vẹn.
Ba là, xây dựng nhà nước trở thành công cụ cốt yếu để Nhân dân thực
hiện vai trò làm chủ xã hội, làm chủ đất nước.
Nhà nước là tổ chức đặc biệt duy nhất có chức năng quản lý xã hội và
đại diện chủ quyền, lãnh thổ quốc gia. Ai nắm quyền lực nhà nước sẽ sử dụng
quyền lực đó để tổ chức, quản lý xã hội, trở thành người đại diện cho đất
nước. Một nhà nước của Nhân dân phải được Nhân dân sử dụng như là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ đối với xã hội và đất nước mình. Giúp
Nhân dân làm tốt vai trò làm chủ xã hội và đất nước là sự hoàn thành trách
nhiệm cao nhất mà một nhà nước của Nhân dân mong muốn.
Hồ Chí Minh không "nhốt" quyền và trách nhiệm là chủ của Nhân dân
trong mối quan hệ với nhà nước. Trên con đường đi đến giải phóng triệt để, là
chủ và làm chủ nhà nước vô cùng quan trọng đối với Nhân dân nhưng không
phải là duy nhất. Nhân dân phải dùng nhà nước của mình để vươn ra làm chủ
xã hội, làm chủ đất nước. Nhân dân đưa ý chí của mình vào tổ chức và hoạt
động của Nhà nước, cụ thể là vào pháp luật, chính sách để xã hội vận hành,
đất nước phát triển theo mong muốn của mình. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
điều này. Người thường yêu cầu "phải đi đúng đường lối quần chúng" cũng
chính là để chính sách, pháp luật phản ánh được ý chí của Nhân dân và thông
qua đó mà giúp Nhân dân tổ chức, quản lý xã hội.
86
Thực hành đời sống mới để Nhân dân làm chủ xã hội, làm chủ đất
nước. Đây là biện pháp có hiệu quả nhằm xóa bỏ những tàn dư lạc hậu do chế
độ cũ để lại; là biện pháp từng bước giáo dục các tầng lớp nhân dân nhận thức
được tính ưu việt của chế độ mới và trách nhiệm của mình đối với xã hội,
nhận thức được quyền làm chủ đất nước của nhân dân do cách mạng mang
lại. Hồ Chí Minh nói: "thực hành đời sống mới để trở nên những công dân
mới, xứng đáng với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" [tập 4, tr. 194]; "đồng
bào ta sẽ phấn đấu cho một đời sống mới, ai cũng góp sức vào cuộc kháng
chiến lâu dài, để làm cho nước ta được hoàn toàn tự do độc lập" [81, tr.196].
Tóm lại, giải phóng Nhân dân để đưa Nhân dân lên địa vị là chủ và làm
chủ phải đạt tới "tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Việc thiết lập
nhà nước của Nhân dân và thông qua nhà nước ấy để Nhân dân thực hiện vị
thế là chủ luôn tồn tại với vai trò là nội dung chính trị trung tâm của cách
mạng Việt Nam. Để đảm bảo củng cố, phát huy được quyền lợi và địa vị làm
chủ của Nhân dân, cuộc cách mạng giải phóng Nhân dân sau khi thành công
phải vận động theo chiều hướng của cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh khẳng
định: Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành
được thắng lợi hoàn toàn. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ" [89, tr.563]. Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định chiều hướng phát triển
đó của cuộc cách mạng giải phóng Nhân dân là bởi công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội là sự nghiệp của chính Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
87
3.2. CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ
CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
3.2.1. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là của Nhân dân và do
Nhân dân
Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa xã hội là một chế độ chính trị cao hơn,
tiến bộ hơn chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa và là giai đoạn đầu của chế độ
cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân
lao động là chủ và nhân dân lao động làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân,
vì dân, dựa trên khối đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công – nông
– trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Về mặt kinh tế, chủ nghĩa xã hội có chế
độ kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, phân phối theo nguyên tắc làm theo năng lực hưởng
theo lao động, có phúc lợi xã hội. "Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa,
ngân hàng,... làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai
không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ
con" [87, tr. 390]. Về văn hóa – xã hội, chủ nghĩa xã hội là xã hội văn minh,
tiến bộ, có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không
còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và
lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có
điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự
nhiên.
Ruth Fisher, đại biểu Đảng Cộng sản Đức tại Quốc tế Cộng sản, nhận
xét về Hồ Chí Minh: "Theo bản tính, anh thiên về hành động hơn là những
cuộc tranh luận về học thuyết" [trích theo 167]. Nhận định tinh tế này được sự
đồng tình của nhiều học giả trong và ngoài nước. Hồ Chí Minh nghiên cứu lý
thuyết chủ nghĩa xã hội và nêu ra các quan niệm không chỉ đơn thuần để làm
giàu trí óc của mình và hướng đến các cuộc tranh luận lý thuyết. Thiên về
hành động, Hồ Chí Minh dành nhiều thời gian của mình cho xây dựng chủ
88
nghĩa xã hội theo phương châm mang tính nguyên tắc: của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân.
Nói công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vị trí chủ thể của nhân dân đối với giai đoạn
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trong con đường cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xét trên phạm vi chung, vị
trí chủ thể sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Nhân dân có được xuất
phát từ vị trí, vai trò của Nhân dân đối với đất nước, xã hội và sự nghiệp cách
mạng. Điều này vốn được xác lập từ lâu, rất rõ ràng và thống nhất cao nên Hồ
Chí Minh đề cập như là sự khẳng định hơn là luận giải nguyên nhân. Xét
riêng ở góc độ mối quan hệ với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh từ nhiều hoàn cảnh và mức độ khác nhau đã luận giải vì sao Nhân dân
đóng vai trò chủ thể. Những luận giải đó chính là các quan điểm của Hồ Chí
Minh xem xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp do Nhân dân thực hiện và
lấy phục vụ Nhân dân làm mục tiêu. Nói cách khác, làm rõ vai trò của Nhân
dân trong tư cách lực lượng thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và vị trí của
Nhân dân như là mục tiêu bao trùm của sự nghiệp này, chính là cung cấp
những cơ sở thuyết phục để lý giải vị trí chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nhân dân. Đây cũng chính là mối quan hệ biện chứng giữa ba mệnh đề
"của Nhân dân" – "do Nhân dân" – "vì Nhân dân" trong tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp do Nhân dân, thể
hiện trên ba góc độ cơ bản sau:
Một là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân mà có.
Tình cảnh đời sống Nhân dân dưới hai tầng áp bức, bóc lột của thực
dân đế quốc và bè lũ tay sai thống trị là động lực thôi thúc Hồ Chí Minh ra đi
tìm đường cứu nước. Con đường cứu nước mà Hồ Chí Minh muốn tìm phải
giải quyết một cách triệt để tình cảnh nêu trên và đưa Nhân dân đến một cuộc
89
sống ấm no, tự do, hạnh phúc thật sự. Vì Nhân dân mà ra đi, Hồ Chí Minh
cũng vì Nhân dân mà lựa chọn con đường cách mạng vô sản bởi trong thời đại
ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vô sản thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Ở thời
khắc đọc sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa của Lênin, tìm ra được con đường cứu nước, đối tượng Hồ Chí Minh nghĩ
đến không phải là cá nhân, bộ phận riêng nào mà chính là Nhân dân. Hồ Chí
Minh chọn cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản –
con đường tất yếu dẫn tới công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này –
chính là do đáp ứng các yêu cầu được Nhân dân đặt ra.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải muốn là có thể làm được liền.
Cần phải có các tiền đề. Tiền đề trực tiếp là phải hoàn thành thắng lợi cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân – giai đoạn trước của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề trực tiếp để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chưa giành được độc lập dân tộc, chưa đưa Nhân dân lên địa vị làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội, làm chủ chế độ chính trị thì chưa thể tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội được. Thực tế, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
chỉ bắt đầu sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giành được thắng lợi
trên phạm vi một nửa đất nước, miền Bắc được giải phóng. Nhân dân chính là
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo ra
tiền đề trực tiếp cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân thực hiện.
Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
những con người xã hội chủ nghĩa" [90, tr. 542]. Phải có con người xã hội chủ
nghĩa bởi đó chính là người thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không có
con người xã hội chủ nghĩa thì công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ dừng
lại trên lời nói mà không được tiến hành trong thực tiễn. Con người xã hội
chủ nghĩa ở đây bao gồm những ai?; Phải đáp ứng những tiêu chí nào mới trở
90
thành con người xã hội chủ nghĩa?; Họ tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội
như thế nào? Những vấn đề nêu trên được Hồ Chí Minh đặt ra và lý giải đầy
đủ.
Con người xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh nhắc khi nói đến xây
dựng chủ nghĩa xã hội với nghĩa là lực lượng thực hiện. Như vậy, cách hiểu
đơn giản nhất, tất cả những ai chân thành thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam đều là con người xã hội chủ nghĩa. Đây là một khối thống nhất
gồm toàn Đảng (toàn hệ thống chính trị) và Nhân dân. Cán bộ, đảng viên tồn
tại trong tư cách người gương mẫu đi đầu lãnh đạo, tổ chức Nhân dân thực
hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cán bộ, đảng viên không thể thay thế Nhân
dân để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội được. Đó là công việc do Nhân
dân thực hiện và cũng chỉ có Nhân dân mới đủ sức làm nổi. Bàn đến thi đua
xã hội chủ nghĩa, trong một bài viết trên báo Nhân dân, Hồ Chí Minh mở đầu
bằng câu nhắc nhở: "Lênin nói: chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân
tự mình xây dựng nên" [89, tr. 568]. Nhân dân làm điều đó trên tất cả các lĩnh
vực. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta “có bốn vấn đề
chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa”. Về chính trị, Nhân dân xây dựng chế độ chính trị của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả thành tố của hệ thống chính trị đều phải được
xây dựng trên cơ sở dựa vào dân, củng cố mối quan hệ mật thiết với Nhân
dân. Về kinh tế, Hồ Chí Minh nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải ra
sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm... tăng gia sản xuất phải đi đôi với
tiết kiệm" [84, tr. 296]; "Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con
đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội..." [91, tr. 311]. Đó là công
việc do Nhân dân thực hiện. Về văn hóa – văn nghệ, Nhân dân vừa cung cấp
chất liệu cho các sáng tạo văn hóa - chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng
tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống; vừa trực tiếp sáng tác - quần
chúng là những người không phải chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội
mà còn là những người sáng tác nữa; đồng thời cũng là người kiểm nghiệm
91
tác. Về xã hội, Nhân dân tiến hành gột rửa những tàn tích của đời sống dưới
chế độ cũ, đồng thời thực hiện xây dựng đời sống mới.
"Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp,
gian khổ và lâu dài" [88, tr. 216] đòi hỏi Nhân dân phải là những "con người
xã hội chủ nghĩa". Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào vai trò và sức mạnh
của Nhân dân, song đó phải là những con người có tinh thần và năng lực
tương xứng.
Theo Hồ Chí Minh, muốn Nhân dân "xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải
có ... có tư tưởng xã hội chủ nghĩa". "Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa
thì không làm việc xã hội chủ nghĩa được... Mỗi người phải có tư tưởng xã
hội chủ nghĩa đúng đắn, thì mới có thể góp phần xứng đáng vào việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội". Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là gì? Hồ Chí Minh "nói
tóm tắt là phải đặt lợi ích chung của cả nước lên trước hết, lên trên lợi ích của
cá nhân mình. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư tưởng cá nhân chủ nghĩa
chống đối nhau, nếu cứ lo cho mình không lo cho làng, cho nước thì không
thể có tư tưởng xã hội chủ nghĩa được" [88, tr. 242-243].
Hồ Chí Minh dành nhiều công sức để giác ngộ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa cho Nhân dân. Nước ta bắt đầu đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc từ sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1945 – 1954). Không phải đến thời điểm này, Hồ Chí Minh mới lãnh
đạo thực hiện các hoạt động giác ngộ tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho Nhân
dân. Sớm hơn rất nhiều, khi tiến hành các hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác
– Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến giác ngộ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa cho Nhân dân. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định con
đường cách mạng Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh
khẳng định sự phát triển tất yếu của cuộc cách mạng sau khi hoàn thành thắng
lợi giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam cũng là truyền
bá con đường cách mạng vô sản. Đối tượng hướng đến của hoạt động này là
92
Nhân dân. Trong Đường Kách Mệnh, tác phẩm đầu tiên đề cập một cách đầy
đủ những vấn đề cơ bản của con đường cách mạng Việt Nam, được Hồ Chí
Minh viết bằng ngôn phong mộc mạc, dễ hiểu, bởi đối tượng tác phẩm hướng
đến là Nhân dân. Hồ Chí Minh viết: "Mục đích sách này là để nói cho đồng
bào ta biết rõ"; "ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh
dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh". Sau này, trong
quá trình lãnh đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí
Minh dành nhiều thời gian để nói chuyện với Nhân dân về chủ nghĩa xã hội
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người phê phán các cán bộ, đảng viên phổ biến
về chủ nghĩa xã hội và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cho Nhân dân
một cách khó hiểu, khó nhớ, khó làm: "nếu nói nào là làm "cách mạng xã hội
chủ nghĩa", nào là "tiến lên chủ nghĩa xã hội", nào là "xây dựng chủ nghĩa xã
hội", đồng bào... khó hiểu, ít người hiểu. Phải nói rõ xây dựng chủ nghĩa xã
hội là làm cái gì? Nói nôm na để cho người ta dễ hiểu, hiểu để người ta làm
được. Không nên lúc nào cũng trích Các Mác, cũng trích Lênin, làm cho đồng
bào khó hiểu. Nói thế nào cho đồng bào hiểu được, đồng bào làm được" [tập
91, tr. 161].
Đi liền với tư tưởng là hành động. Khi Nhân dân đã có tư tưởng xã hội
chủ nghĩa đúng đắn rồi thì Hồ Chí Minh đề cập đến cách làm. "Tiến lên chủ
nghĩa xã hội là một công cuộc rất phức tạp và gian khổ. Không phải chỉ muốn
không là được. Miệng nói tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhưng tư tưởng còn
không thông và hành động còn không đúng thì không tiến lên được" [88, tr.
248]. Trước hết, Hồ Chí Minh yêu cầu Nhân dân phải học tập, tìm hiểu để
hiểu, để thông về tư tưởng. Điều này thể hiện qua sự nỗ lực không mệt mỏi
của Hồ Chí Minh nói về xây dựng xã hội chủ nghĩa với Nhân dân và yêu cầu
"cán bộ phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, lập trường phải rõ ràng, vững chắc
đã. Rồi cán bộ làm cho nhân dân hiểu" [88, tr. 248]. Khi đã hiểu, nhân dân
phải "ra sức", "gắng sức", "bền bỉ", "hăng hái" đoàn kết chặt chẽ, phấn đấu
"thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, hiểu cho rõ và làm cho đúng
93
chính sách của Đảng và Chính phủ, hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước" [89,
tr. 490]; "mỗi người phải cố gắng trở thành lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua,
anh hùng lao động, mỗi người phải nâng cao tinh thần làm chủ nước nhà" [90,
tr. 387]. Hồ Chí Minh nêu công thức: "Chủ nghĩa xã hội là phải có biện pháp.
Kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần và quyết tâm phải ba phần" [90,
tr. 25].
Ba là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân giữ gìn, bảo
vệ.
Đây là khía cạnh thứ ba thể hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
là sự nghiệp do Nhân dân. Hồ Chí Minh ca ngợi thành quả to lớn của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời luôn kêu gọi "Cả nước
một lòng đấu tranh anh dũng... Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc nhất định thắng lợi" [91, tr. 488]. Các bài nói, bài viết của Hồ
Chí Minh ít đề cập trực tiếp, chi tiết đến trách nhiệm giữ gìn, "bảo vệ chủ
nghĩa xã hội" của Nhân dân như thế nào. Trách nhiệm này được Hồ Chí Minh
nhắc nhiều đối với các thành tố trong hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng
viên, đặc biệt là lực lượng vũ trang. Nếu vì vậy mà nói rằng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, vai trò Nhân dân giữ gìn, bảo vệ chủ nghĩa xã hội là mờ nhạt
thì rất vội vàng, thiếu chính xác, bởi Đảng, Nhà nước là của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân; cán bộ, đảng viên là con em của Nhân dân đảm nhận
vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của Nhân dân; lực lượng vũ
trang từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu. Đảng, Nhà nước, cán bộ
đảng viên, lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt, chủ lực, tiên phong của
Nhân dân trong giữ gìn, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Nhân dân tin tưởng giao
phó, ủng hộ, đi theo cùng với cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang đấu tranh
giữ gìn, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Không có "làng nước theo sau" thì mọi hoạt
động của cán bộ, đảng viên giữ gìn, bảo vệ chủ nghĩa xã hội như muối bỏ
biển.
94
Chủ nghĩa xã hội do Nhân dân giữ gìn, bảo vệ còn thể hiện qua những
cố gắng để công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển với nhiều thành
tựu hơn nữa. Chiều sâu của các quan điểm giữ gìn, bảo vệ chủ nghĩa xã hội
trong di sản Hồ Chí Minh thể hiện ở kêu gọi Nhân dân ngày càng gắng sức
phấn đấu hơn để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, với sự nỗ lực
của tất cả mọi người thì con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ngày càng gần.
Cùng với quá trình đó, Hồ Chí Minh chỉ ra những ưu việt của chủ nghĩa xã
hội thể hiện rõ ràng và nhiều hơn. Sức sống của một chế độ thể hiện ở nhu
cầu cuộc sống cần đến nó. Sức sống của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở ưu việt
mà chủ nghĩa xã hội mang lại cho toàn dân, cho đất nước. Mỗi ưu việt như
chất keo gắn kết chặt chẽ Nhân dân với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội;
khơi dậy và thôi thúc ở Nhân dân trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ. Không có cách
bảo vệ nào tốt hơn việc làm gia tăng không ngừng sức sống của chủ nghĩa xã
hội. Đó là điều mà Hồ Chí Minh thể hiện trong tư tưởng của Người.
Hồ Chí Minh là một thành tố trong Nhân dân Việt Nam tham gia xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh là một thành tố đặc biệt, là
người tiên phong, dẫn đường, người thấy rõ và đề cao nhất, kiên quyết và
sáng tạo nhất để khẳng định và thực tiễn hóa vị trí, vai trò của Nhân dân trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tôn trọng và thấu hiểu Nhân dân, Hồ
Chí Minh khẳng định công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là của Nhân dân,
do Nhân dân. Đến lượt mình, Nhân dân tin cậy, ủng hộ, đoàn kết, kiên quyết
gắng sức tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chính phủ. Trong trường hợp này, mối quan hệ giữa cá nhân kiệt xuất và
quần chúng nhân dân hòa hợp, quyện chặt, tương tác thúc đẩy sự nghiệp cách
mạng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
3.2.2. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vì nhân
dân
Cách mạng Việt Nam là sự nghiệp vì Nhân dân. Điều đó được khẳng
định xuyên suốt qua các giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
95
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiếp liền sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiệm vụ xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa, đỉnh cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa trên đất nước
ta. Các mục tiêu vì Nhân dân của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân được kế thừa thực hiện và phát triển theo hướng vươn tới mức độ cao
nhất trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội tiếp tục khẳng định và thực hiện mục tiêu vì Nhân
dân đến đích cao nhất mà cách mạng Việt Nam đặt ra.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội khẳng định và thực hiện các mục
tiêu vì lợi ích và sự phát triển của Nhân dân trên các khía cạnh cơ bản sau:
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống vật chất cho
Nhân dân.
Nâng cao đời sống vật chất của Nhân dân là mục tiêu xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
việc phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật chất của Nhân dân được quan
tâm nhưng ở mức độ nhất định bởi sự ưu tiên các nguồn lực cho thực hiện
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Tuy
nhiên, bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện một
nửa đất nước (miền Bắc) giành được độc lập, Hồ Chí Minh nhắc đến rất nhiều
việc xác định mục tiêu nâng cao đời sống vật chất cho Nhân dân. Trong quan
niệm về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhiều lần đặt lên đầu yếu tố “đời sống
vật chất” của Nhân dân với nghĩa là mục tiêu phải đạt tới trước tiên: Chủ
nghĩa xã hội là “không ngừng nâng cao đời sống vật chất... của nhân dân” [90,
tr. 30]; “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no...” [89, tr.
415]; “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu...” [87, tr. 390]; “Chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng...” [90,
tr. 438]; “Chủ nghĩa xã hội là mọi người dân được áo ấm cơm no, nhà ở tử
tế...” [89, tr. 490];...
96
Sự ưu tiên của Hồ Chí Minh đến việc nâng cao đời sống vật chất của
Nhân dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội có nguyên nhân từ đặc
điểm của đất nước. Hồ Chí Minh viết: “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ
quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa...” [89, tr. 411].
Đặc điểm đó đặt ra cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiệm vụ quan
trọng nhất “là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến... phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài” [89, tr.
412]. Đời sống Nhân dân bần cùng dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã lật đổ chế độ thống trị nô dịch đó và
thiết lập nên Nhà nước Dân chủ Cộng hòa. Bước vào giai đoạn cách mạng
tiếp theo, chế độ mới phải thể hiện được tính ưu việt hơn hẳn chế độ cũ vừa bị
lật đổ. Chính đời sống bần cùng của Nhân dân đã đặt ra yêu cầu đòi hỏi chế
độ mới bằng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của mình phải nhanh
chóng cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất cho Nhân dân.
Phương thức duy nhất để có chủ nghĩa xã hội là phải phát triển sản xuất. Hồ
Chí Minh khẳng định: “Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác
là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất” [90, tr. 68]. Đây là “mặt
trận chính của chúng ta” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt trận
ấy được thực hiện bằng cách “dốc lực lượng” của Nhân dân, đồng thời chính
Nhân dân chứ không phải ai khác là người thụ hưởng trước tiên và nhiều nhất
thành quả thể hiện qua đời sống vật chất được nâng cao. Như vậy, đặc điểm
của đất nước, sự đòi hỏi thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, phương thức để
có chủ nghĩa xã hội – cả ba yếu tố đều đặt ra các nhiệm vụ chăm lo, nâng cao
đời sống vật chất của Nhân dân.
Cùng với xác định nâng cao đời sống vật chất cho Nhân dân là mục tiêu
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra cách
97
thức, biện pháp trong tổ chức thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu đó. Tựu trung
lại, cách mà Hồ Chí Minh chỉ ra gói gọn trong hai vế: “dốc lực lượng” và “tiết
kiệm”. “Dốc lực lượng” ở đây được hiểu là khai thác triệt để sức dân, tài dân,
của dân vào sản xuất, tập trung phát triển cả công nghiệp và nông nghiệp, lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu. Để có thể “dốc lực lượng” của toàn dân,
Hồ Chí Minh chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Phát triển
kinh tế quốc doanh để tạp nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy
cải tạo xã hội; đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ kinh tế hợp tác xã
phát triển; bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp
đỡ người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ cải tiến cách làm ăn; không
xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của những nhà tư sản
công thương, mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân
sinh. Đồng thời với chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh
tế, để “dốc lực lượng” của toàn dân, Hồ Chí Minh chú trọng tới phân phối lao
động sao cho kích thích được sức lao động sản xuất. Hồ Chí Minh nhắc nhở
“Phải tránh chủ nghĩa bình quân” bởi “Không nên có tình trạng người giỏi,
người kém, việc khó, việc dễ cũng công điểm như nhau” [90, tr. 216]. Trong
phân phối lao động, quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Phân phối phải theo
mức lao động. Lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì được
phân phối ít. Lao động khó thì được phân phối nhiều, lao động dễ thì được
phân phối ít” [90, tr. 216]. Hồ Chí Minh đã đề cập đến chế độ khoán trong sản
xuất như là “một điều kiện của chủ nghĩa xã hội”, tác nhân kích thích phát
huy sức lao động, “khuyến khích người công nhân luôn tiến bộ, cho nhà máy
tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng... làm khoán tốt, thích hợp và
công bằng dưới chế độ ta hiện nay” [87, tr. 537].
Song song với “dốc lực lượng” trên mặt trận sản xuất, Hồ Chí Minh
đồng thời đặt ra yêu cầu phải “tiết kiệm” như là biện pháp để vừa tránh lãng
phí nguồn lực cho lao động sản xuất, vừa giữ gìn và phát triển được thành tựu
mà mặt trận sản xuất tạo ra. Hồ Chí Minh nói: “Sản xuất mà không tiết kiệm
98
thì khác nào gió vào nhà trống” [87, tr. 600]. Trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vì xuất phát điểm của nền sản xuất nước ta thấp, nên của cải vật chất
được tạo ra trên mặt trận sản xuất cần phải giữ gìn và bổ sung vào nguồn lực
để tiếp tục đẩy mạnh sản xuất. Tích lũy dần dần là một trong những cách tốt
để công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển sản xuất, nâng cao đời
sống vật chất của Nhân dân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống văn hóa –
tinh thần cho Nhân dân.
Đời sống văn hóa – tinh thần là cặp đôi song trùng với đời sống vật
chất trong mục tiêu cần phải nâng cao qua công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nó cũng được Hồ Chí Minh nhắc tới tiếp liền theo sau đời sống vật chất
trong các quan niệm về chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là “không ngừng
nâng cao đời sống... tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”
[90, tr. 30]; “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân... ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học... những phong tục tập quá không tốt dần dần được
xóa bỏ” [90, tr. 438]; “Chủ nghĩa xã hội là mọi người dân... được học hành”;
“Chủ nghĩa xã hội nhằm nâng cao đời sống... văn hóa của nhân dân...” [89, tr.
490];...
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đời sống văn hóa, tinh
thần của nhân dân trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã
hội không chỉ làm cho mọi người có đời sống vật chất ấm no, mà còn phải có
đời sống văn hóa, tinh thần phong phú. Trong rất nhiều bài viết, tác phẩm đã
thể hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng tư tưởng văn hóa diễn
đồng thời với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học - kỹ thuật
nhằm xóa bỏ những tàn dư tư tưởng, thói hư tật xấu do xã hội cũ để lại, xây
dựng một nền văn hóa mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và đậm đà bản sắc
dân tộc, xây dựng con người mới, lối sống mới và đạo đức mới xã hội chủ
nghĩa. Hồ Chí Minh viết: "… để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
99
nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức"
[89, tr. 471].
Nếu như trong nâng cao đời sống vật chất, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
trước tiên các nhu cầu áo “ấm cơm no, nhà ở tử tế” thì ở đời sống văn hóa –
tinh thần sự ưu quan tâm đến học hành, loại trừ tàn dư văn hóa lạc hậu – phản
động, xây dựng văn hóa - tinh thần theo phương châm “Dân tộc – Khoa học –
Đại chúng”. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải nâng cao cho được
trình độ dân trí của Nhân dân thông qua mở mang và phát triển hệ thống giáo
dục để “ai nấy được đi học”. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách
mạng ngay sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh xác định sáu nhiệm
vụ cấp bách, trong đó diệt giặc dốt và giáo dục tinh thần nhân dân được nhắc
đến. Sau này, trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí
Minh tiếp tục quan tâm nhiều đến thực hiện hai nhiệm vụ này thông qua phát
động xây dựng đời sống mới. Phong trào bình dân học vụ được tổ chức rộng
rãi, cùng với đó từng bước xây dựng hệ thống giáo dục đại học. Mặt khác,
trong xây dựng đời sống mới, cuộc đấu tranh loại trừ tàn dư văn hóa cũ và
gầy dựng dần dần nếp sống văn hóa mới tiến bộ. Hồ Chí Minh xác định
nhiệm vụ là phải "… thanh toán cho xong nạn mù chữ", "…phải học đạo đức
công dân, phổ thông chính trị", "… để trả lời cho thế giới biết nước ta là nước
văn minh... ". Như vậy, trên phạm vi cộng đồng xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt
chú trọng vấn đề giáo dục văn hóa đạo đức cho cộng đồng, đặc biệt coi trọng
xây dựng lối sống, lẽ sống, nếp sống xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một đời
sống mới, một nền đạo đức mới, một nền văn hóa mới toàn diện, toàn dân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xây dựng chế độ chính trị phục vụ
Nhân dân, từng bước hướng đến xóa bỏ bất công, bóc lột, giải phóng triệt để
con người.
Một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà cách mạng
Việt Nam hướng đến xây dựng đó là thiết lập và từng bước hoàn thiện chế độ
chính trị, biểu hiện tập trung ở Nhà nước, của Nhân dân, do Nhân dân, vì
100
Nhân dân. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, các thành tố của hệ
thống chính trị có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều phải chung mục
đích phục vụ Nhân dân. Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản phải
tự chỉnh đốn, tự phát triển để thực hiện các nhiệm vụ phục vụ lợi ích của
Nhân dân khi bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa: lãnh đạo,
quản lý sự nghiệp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển
và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu
thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Chính sách kinh tế của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là không ngừng phát triển sản xuất để nâng cao mãi đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân” [89, tr. 372]. Tất cả cơ quan nhà nước
phải dựa vào Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự
kiểm soát của Nhân dân; xây dựng bộ máy nhà nước vững mạnh, thực sự của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu
Nhà nước phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân
nhằm phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của Nhân dân, giúp cho sự tham
gia chính trị của Nhân dân ngày càng được tăng cường. Đối với Đảng, trước
tình hình cách mạng chuyển biến đòi hỏi phải luôn chỉnh đốn, nâng cao sức
chiến đấu, kiện toàn tổ chức bộ máy phù hợp với nhiệm vụ lãnh đạo của giai
đoạn mới.
Về lâu dài, trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, cao hơn là chủ
nghĩa cộng sản, Hồ Chí Minh xác lập mục tiêu giải phóng triệt để con người,
giải phóng triệt để toàn dân: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội,
thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không
còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc” [89, tr. 221]. Sự giải
phóng này yêu cầu phải loại trừ nhiều yếu tố đang kiềm hãm sự phát triển
toàn diện của Nhân dân, chủ yếu là thói quen và truyền thống lạc hậu; xây
dựng một chế độ kinh tế - xã hội đảm bảo tiêu chí bình đẳng, loại trừ áp bức,
bất công, bóc lột; xây dựng chế độ chính trị phục vụ Nhân dân triệt để. Khi
101
đạt tới xã hội cộng sản chủ nghĩa thì sự giải phóng Nhân dân đạt đến mức triệt
để. Hồ Chí Minh sớm thấy được mức độ khó khăn của việc thực hiện các mục
tiêu này: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn
nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa
nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta” [88, tr. 91]. Hồ Chí Minh không ảo
tưởng, chủ quan sẽ sớm hoàn thành xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản ở Việt Nam – “khi nào chủ nghĩa Các Mác thực hiện được thì tôi
không thể trả lời được” [81, tr. 315] – nhưng cũng không từ bỏ mục tiêu giải
phóng con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
kiên định các mục tiêu này bằng phương châm “Không thể làm mau được mà
phải làm dần dần” [87, tr. 390].
Yêu cầu đối với lực lượng thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa dẫn
đến sự phát triển toàn diện của con người, của Nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng
định muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Đó
chính là lực lượng thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng
chính là Nhân dân. Con người xã hội chủ nghĩa phải được phát triển cả về
phẩm chất và năng lực để có thể thực hiện “cuộc biến đổi khó khăn nhất và
sâu sắc nhất”. Hồ Chí Minh viết: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải
bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa là con
người có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,...” [91, tr. 140]. Sự
quan tâm đào tạo, bồi dưỡng con người nêu trên là để có lực lượng đủ khả
năng thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vì Nhân dân. Chính ngay
trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa đó, mục tiêu
phát triển toàn diện con người, phát triển Nhân dân cũng được thực hiện. Điều
này cho thấy, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mục tiêu vì Nhân
dân không chỉ thể hiện ở đích đến mà còn trong từng biện pháp thực hiện.
Sự phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu. Hồ Chí Minh
chứng minh:
102
Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó mà tư
tưởng của người, chế độ xã hội... cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều
biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá phát
triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát
triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến
chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến lên chế
độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó
không ai ngăn cản được [88, tr. 600].
Chính vì là một tất yếu nên các mục tiêu vì Nhân dân của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội là lẽ tất nhiên. Trên cả phương diện lý thuyết chính
trị và chế độ xã hội, "Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa
cộng sản, chủ nghĩa xã hội như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất
phong phú, hoàn chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện, tự do.
Trong một xã hội như thế, mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu
giải phóng con người" [29, tr. 100]. Với cách nhìn này, khi đề cập đến giải
phóng nhân dân bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tập
trung luận giải nhiều hơn vấn đề xây dựng tinh thần xã hội chủ nghĩa và từng
bước thiết lập trong thực tiễn chế độ chính trị - kinh tế - xã hội quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội. Hai nội dung này phản ánh chiều sâu và tính toàn diện của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
bởi hướng đến cả lĩnh vực nhận thức và thực tiễn, cá nhân và tập thể theo tinh
thần "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người".
103
Tiểu kết Chương 3
Chương 3 của Luận án trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh về Nhân dân trên hai góc độ: (1) Giải phóng Nhân dân, đưa
nhân dân lên vị trí là chủ và làm chủ xã hội, làm chủ đất nước; (2) Công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân. Tựu trung lại có thể rút ra mấy kết luận sau:
Một là, giải phóng Nhân dân Việt Nam là mục tiêu và nội dung chính
trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của toàn thể Nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm giải thoát nhân dân khỏi tình cảnh bị
thống trị, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân đế quốc và các thế lực nội
phản, khỏi sự trói buộc bởi những thói quen và truyền thống lạc hậu đang
kiềm kẹp sự phát triển, mang lại cho Nhân dân cuộc sống tự do cả về tinh
thần lẫn thể chất trong tư cách người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm
chủ chế độ, làm chủ chính mình.
Hồ Chí Minh bàn đến giải phóng Nhân dân một cách toàn diện như là
nỗi trăn trở thường trực. Xác định đúng kẻ thù là cơ sở để Hồ Chí Minh để ra
phương pháp giải phóng Nhân dân. Phương pháp giải phóng Nhân dân tựu
trung lại được diễn đạt súc tích qua hai từ "cách mạng". Hồ Chí Minh toàn tập
chỉ ra cho chúng ta thấy hai phạm trù "giải phóng" và "cách mạng" là bạn
đường. Muốn giải phóng Nhân dân phải làm cách mạng, tùy đối tượng đấu
tranh thế nào mà có hình thức cách mạng tương ứng. Đồng thời, làm cách
mạng không để giải phóng cho riêng ai, riêng giai tầng nào mà là để giải
phóng đất nước, giải phóng toàn dân.
Tính triệt để của giải phóng Nhân dân thể hiện qua quyền lợi và địa vị
mà Nhân dân được thụ hưởng. Quyền lợi và địa vị đó được Hồ Chí Minh khái
quát qua phạm trù "là chủ" đi liền với "làm chủ". Đây là hai phạm trù được
Hồ Chí Minh nhắc đến rất nhiều, xem là mục tiêu trực tiếp và cao nhất của sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Thiết lập và kiện
toàn nhà nước của Nhân dân là chiều hướng phát triển tất yếu của cuộc cách
104
mạng giải phóng Nhân dân. Nhà nước phải trở thành công cụ mạnh mẽ, sáng
suốt để Nhân dân thực hiện vai trò là chủ xã hội, làm chủ đất nước.
Hai là, cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai đoạn tiếp liền sau khi cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi, giải phóng đất nước khỏi ách thống
trị của ngoại xâm và tay sai, thiết lập chính quyền của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân.
Nói công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vị trí chủ thể của Nhân dân đối với giai đoạn
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trong con đường cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội do Nhân dân mà có bởi nó được khởi xướng từ nhu cầu của
Nhân dân và được thực hiện bởi Nhân dân. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội từ chỗ "do Nhân dân" mà có phải chuyển thành "vì Nhân dân" mà thực
hiện mới đảm bảo vị trí chủ thể của Nhân dân xuyên suốt từ khi bắt đầu đến
quá trình thực hiện và đích đến cuối cùng.
105
Chương 4
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN
DÂN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
4.1. CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI PHẢI ĐẠT TỚI MỤC TIÊU VÀ LÝ TƯỞNG CỦA
NHÂN DÂN VIỆT NAM
4.1.1. Công cuộc đổi mới phải đạt tới “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”
Nhận thức, học tập tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân có ý
nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của Đảng và Nhân dân ta trong
ba mươi năm qua.
Thuật ngữ "sự nghiệp đổi mới", "công cuộc đổi mới" mà chúng ta đang
sử dụng phổ biến hiện nay được dùng để chỉ giai đoạn cách mạng được chính
thức khởi xướng từ tháng 12 năm 1986 tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đây không phải là một cuộc cách mạng mới, riêng lẽ mà là một
giai đoạn mang tính bộ phận hòa trong tiến trình vận động tổng thể của cách
mạng Việt Nam. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà
làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng
hiệu quả hơn. "Khi chúng ta nói mục tiêu lý tưởng cao đẹp, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nói mục tiêu ở cấp độ khái quát nhất, về thực
chất là khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta, chứ chưa nói
được những gì cụ thể về mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội"
[95]. Do vậy, trong tiến trình đổi mới, Đảng, Nhà nước không ngừng nâng
cao nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa, vừa chỉ ra những đặc trưng cơ bản,
vừa nêu lên mục tiêu tổng quát dưới dạng khẩu hiệu đơn giản, dễ hiểu như Hồ
Chí Minh từng làm. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu: "Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh". Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
106
(thông qua năm 2013) cũng nêu rõ: "Nhà nước... thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Từ Đại hội khởi xướng công
cuộc đổi mới (Đại hội VI, 12/1986) đến nay, mục tiêu này đã được thể hiện
dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Ở thời điểm công cuộc đổi mới
chuẩn bị bước qua ba thập kỷ, hai văn kiện quan trọng nêu trên của Đảng,
Nhà nước tiếp tục khẳng định và diễn đạt rõ ràng, chuẩn xác hơn cho thấy
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" đã và sẽ tiếp tục là mục
tiêu phải đạt tới của công cuộc đổi mới đất nước.
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" là một chỉnh thể
được cấu thành bởi năm mục tiêu tồn tại trong mối quan hệ thống nhất: "dân
giàu", "nước mạnh", "dân chủ", "công bằng", "văn minh". Đây là kết quả của
quá trình kế thừa, vận dụng lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, trực tiếp là thực tiễn đổi mới. Trên
phạm vi chỉnh thể hay từng phạm trù, nội hàm của nó đều thể hiện sự kế thừa,
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
về Nhân dân nói riêng. Không chỉ trên phương diện lý luận, thực tiễn đổi mới
phấn đấu hiện thực hóa các mục tiêu ấy cũng được soi đường bởi hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc này của Hồ Chí Minh.
- Dân giàu
Sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trước hết chỉ có thể được thiết lập từ
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển mạnh
mẽ sẽ tạo nên nguồn của cải vật chất dồi dào, thể hiện qua đời sống ngày càng
giàu có của Nhân dân. Trong khi xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, đã có lúc chúng ta làm không đúng
những chỉ dẫn của Người. Dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau song một
trong những tiêu chí cốt lõi của chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đề cập
chính là "dân giàu". Thế nhưng, trước đổi mới, chúng ta không nói “dân giàu”
vì cho rằng khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong thì không còn phân
biệt giàu, nghèo; cho rằng giàu là tư hữu, là tư bản; nói “dân giàu” không
107
đúng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với nhận thức này,
sau mười năm cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, "đời sống nhân dân lao
động còn nhiều khó khăn"[36, tr.35], thậm chí tốc độ phát triển sản xuất và
tốc độ gia tăng "giàu có" trong Nhân dân thua cả những năm đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Tiến hành đổi mới, lần đầu tiên “dân giàu” được xem là tiêu chí của
chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới được khởi xướng từ sự thúc bách trực
tiếp của đời sống rất nghèo khó mà Nhân dân đang hứng chịu. Chính vì thế,
mục tiêu trước hết của đổi mới phải là giải quyết bài toán này, tức là phải đạt
tới "dân giàu". Đổi mới tự nó là một cuộc cách mạng bao gồm hàng trăm
quyết định ở các cấp vĩ mô và vi mô của nền kinh tế nhằm đưa nền kinh tế ra
khỏi khủng hoảng, phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Trước đây, không nói
"dân giàu" thì nay làm giàu được khuyến khích, tạo mọi điều kiện, tất nhiên là
phải hợp pháp. Sau ba mươi năm đổi mới, nền kinh tế phát triển lên 6 - 7 lần;
đời sống Nhân dân được nâng lên rõ rệt, từ chỗ thiếu đói, thiếu thốn nhiều
nhu yếu phẩm cần thiết đến nay đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào
hàng ngũ các nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình.
Trong điều kiện Việt Nam, thực hiện mục tiêu "dân giàu" không thể
nóng vội. Tất nhiên, chúng ta đã nghĩ đến những giải pháp đột phá để rút ngắn
thời lượng đạt được, nhưng phương châm bao trùm là làm dần dần, chắc chắn
để khi đạt được "dân giàu" thì giữ vững và tiếp tục nâng cao. Điều này đã
được Hồ Chí Minh nói: "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá
giàu, người khá giàu thì giàu thêm" [82, tr. 287]. Với chỉ dẫn đó, Đảng và
Nhà nước quan tâm, khuyến khích, làm sống dậy mạnh mẽ tinh thần làm giàu
trong mọi tầng lớp Nhân dân. Một bộ phận trong Nhân dân có nhiều điều kiện
thuận lợi đã bứt phá, nhanh chóng giàu có, thậm chí vươn lên tầm khu vực. Số
này có chiều hướng tăng. Đảng và Nhà nước tiếp tục tạo cơ chế thuận lợi để
họ giàu thêm một cách hợp pháp. Một bộ phận lớn người dân có cuộc sống
khá giả, từ chỗ đủ ăn đủ xài dần tiến đến dư ăn dư xài. Bộ phận này hiện
108
chiếm đa số, được quan tâm khuyến khích để giữ vững mức sống và tiếp tục
vươn lên giàu có nhiều hơn. Một bộ phận người dân có điểm xuất phát thấp
và nhiều nguyên nhân khác nên còn sống trong tình trạng nghèo khó, thiếu
thốn về ăn, mặc, ở và nhiều nhu cầu thiết yếu khác. Đối với bộ phận này,
Đảng và Nhà nước có sự quan tâm đặc biệt, đề ra nhiều chủ trương và thực
hiện không ít giải pháp để xóa đói giảm nghèo.
Xóa đói giảm nghèo được thực hiện bởi chính sách riêng, đồng thời
được lồng ghép trong các chính sách, chương trình khác. Xác định xóa đói
giảm nghèo cần sự tham gia của toàn xã hội, Đảng và Nhà nước đã thường
xuyên nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng cũng như
phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề nghèo đói cho các cấp, các ngành và
mọi người dân đặc biệt là người nghèo và xã nghèo. Xóa đói giảm nghèo
vươn lên khá giả và làm giàu không phải chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà
trước hết thuộc về từng cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng và trách nhiệm
của toàn xã hội. Chính sự hợp lực này đã tạo ra phong trào xóa đói giảm
nghèo sôi động nhiều năm trong cả nước góp phần vào thành công của
chương trình. Cùng với sự chia sẻ trách nhiệm xã hội của mọi người dân trong
việc trợ giúp người nghèo, còn có sự đồng thuận của các tổ chức quốc tế, các
quốc gia trong việc tiếp cận và giải quyết vấn đề nghèo đói ở Việt Nam. Với
cách làm này, công tác xóa đói giảm nghèo vừa được thực hiện với sự tập
trung cao và chuyên nghiệp, lại vừa mang tính xã hội hóa với sự tham gia của
nhiều ngành, nhiều tầng lớp. Chính sách phát triển kinh tế được xem là động
lực quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ những chuyển biến tích cực trong công tác
xóa đói giảm nghèo bằng cách tạo ra nhiều nguồn lực vật chất.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh qua các năm, bình quân 2%/năm, các huyện
miền núi khó khăn thì khoảng 4%/năm. Tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ
58% (năm 1993) xuống còn 20% (năm 2005), khoảng 9,45% (năm 2010).
Việt Nam đã sớm hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ cam kết với cộng đồng
quốc tế: đến năm 2015, giảm 1/2 số người nghèo. Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở
109
các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường,
đời sống người dân không ngừng được cải thiện. Cộng đồng quốc tế ghi nhận:
“Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện
thành công nhất trong phát triển kinh tế” [94].
- Nước mạnh:
Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi thân phận thuộc
địa, khỏi tình cảnh nước nhược tiểu, vươn lên sánh vai với các cường quốc
năm châu. Nhận thức rõ điều đó, ngay sau khi thống nhất Tổ quốc bước vào
giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định: “Ngày nay Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là một”, “có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế
hiện đại, văn hóa khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh; do đó bảo đảm
cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập tự do và ngày càng phát triển phồn vinh”
[33, tr. 40-41]. Như vậy, mười năm trước đổi mới, làm cho đất nước hùng
cường thông qua xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được nói đến. Tuy nhiên,
trong thời gian này, đất nước yếu cả về vị thế và nội lực – hai yếu tố biểu hiện
sức mạnh của quốc gia.
Nội lực của một đất nước thể hiện qua nhiều khía cạnh, tập trung ở sức
mạnh kinh tế, quốc phòng và văn hóa.
Về kinh tế, trước đổi mới (12/1986), trong bối cảnh khủng hoảng, nền
kinh tế chẳng những không cấu tạo nên sức mạnh quốc gia mà còn cho thấy
rõ hình ảnh một đất nước đang suy yếu, khủng hoảng. Chủ nghĩa xã hội có thể
được xây dựng ở nước có xuất phát điểm thấp nhưng không thể thành hiện
thực khi cứ đứng hoài ở vị trí đó. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
chứng kiến sự vươn lên mạnh mẽ của quốc gia tiến hành, trước hết trên lĩnh
vực kinh tế. “Đổi mới là giải pháp ra đời từ những đòi hỏi không thể trì hoãn
của nền kinh tế" [98, tr.71]. Đổi mới kinh tế tức là tìm cách giải quyết các khó
khăn kinh tế theo một mô hình mới. Không dừng lại ở "giải quyết các khó
110
khăn", đó chỉ là mục tiêu trước mắt, mục tiêu lâu dài của đổi mới là phải thúc
đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ để tham gia đúng tầm vào cấu tạo sức
mạnh quốc gia. Thực tiễn đổi mới chứng tỏ điều này. Nhờ động lực của tiến
trình đổi mới, nền kinh tế đã vượt qua được tình trạng trì trệ, suy thoái, từng
bước nâng dần nhịp độ tăng trưởng. Giai đoạn 1986 – 1990, mức tăng trưởng
GDP hàng năm chỉ đạt 4,4%/năm đến giai đoạn 1991 – 1995 GDP bình quân
tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; giai đoạn 1996 – 2000 GDP tăng bình quân
7%/năm mặc dù phải chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997
– 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp; giai đoạn 2001 – 2005,
GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006 – 2010, dù kinh tế toàn cầu suy
giảm, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân vẫn đạt 6,32%/năm; trong giai đoạn
2011 – 2015, GDP bình quân có suy giảm, ước đạt 5,9%/năm do chịu ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 và
khủng hoảng nợ công năm 2010. Đến năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP
bình quân đầu người ở nước ta mới chỉ đạt 471USD/năm, nhưng đến năm
2009, GDP bình quân đầu người đã vượt ngưỡng 1000USD/năm. Năm 2012,
quy mô nền kinh tế đạt khoảng 153,3 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người
đạt khoảng 1540 USD/năm, tăng gấp 11 lần so với năm 1992 (140USD/năm).
Theo “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2016-2020” (dự thảo) của Đảng, GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỉ
USD, bình quân đầu người khoảng 2.200 USD. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế trong 30 năm đổi mới đưa đất nước ta thoát khỏi nước nghèo, trở thành
nước có thu nhập trung bình.
Vượt lên trên các con số, thành tựu quan trọng hơn cả là đổi mới đã tạo
cơ sở cho thể chế kinh tế mới – kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Suốt quá trình đổi mới, "Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi
mới của Đảng tiếp tục được thể chế hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách
111
ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải
thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát
triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh" [43, tr. 152-
153]. Sự phát triển của nền kinh tế đã đưa đất nước từ chỗ nặng tính lệ thuộc
trở nên tự chủ, tự tin, mạnh mẽ hơn.
Cùng với nền kinh tế, nội lực của một quốc gia mạnh thể hiện ở năng
lực quốc phòng. Một quốc gia mạnh phải bảo đảm khả năng bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa với các nội dung “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa” [42, tr. 108]. Đây là mục tiêu mà sự nghiệp đổi mới
luôn tập trung thực hiện. Sau 30 năm đổi mới, nền quốc phòng toàn dân được
xây dựng toàn diện, có bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, ngày
càng vững chắc; tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng, an ninh được
tăng cường, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; sức mạnh
tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước. Xây dựng nền an ninh
nhân dân có bước phát triển. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phát
triển sâu rộng, tạo tiền đề vững chắc củng cố nền an ninh nhân dân và thế trận
an ninh nhân dân, gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng
toàn dân nên đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
và của toàn dân trong bảo vệ Tổ quốc. Nhờ vậy, trong 30 năm đổi mới, "Độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững” [43, tr. 170].
Trước đây, khi đề cập đến sức mạnh quốc gia thì văn hóa ít được nhắc
đến. Đây là cách hiểu chưa đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh. "Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu". Hồ Chí Minh cảnh báo và làm rất nhiều để giữ gìn, phát
huy nền văn hóa dân tộc để văn hóa trở thành sức mạnh soi đường cho quốc
dân đi. Tiến hành đổi mới, trở lại với những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, xuyên
suốt nhiều kỳ Đại hội Đảng, chúng ta xác định mục tiêu phải xây dựng văn
hóa thành nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh, động lực tinh thần to
112
lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp phát
triển văn hoá và xây dựng con người đã được Đảng, Nhà nước quan tâm
trong các chính sách kinh tế - xã hội từ trung ương đến các địa phương.
“Qua 30 năm đổi mới, lĩnh vực xây dựng, phát triển văn hóa, con người đã đạt
những kết quả quan trọng. Những tiến bộ trong giáo dục, đào tạo, khoa học,
công nghệ; sự khởi sắc trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền thông đại
chúng, bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa; sự tăng cường các thiết chế văn
hóa cơ sở... làm cho đời sống tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa
dạng hơn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước được nâng lên”
[65, tr. 160]. Các hoạt động giao lưu, đối ngoại văn hóa được đẩy mạnh góp
phần rất lớn vào nâng cao hình ảnh, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế,
khẳng định bản sắc để tránh hòa tan khi đất nước hội nhập sâu rộng với thế
giới.
Vị thế quốc gia được nâng cao cả về "chỗ đứng" và "tiếng nói". Từ chỗ
bị bao vây, chủ yếu quan hệ đối ngoại với các nước trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa, từ Đại hội VI với tinh thần muốn là bạn với tất cả các nước, cùng hợp
tác phát triển bình đẳng đến nay Việt Nam đã là thiết lập quan hệ ngoại giao
với hầu hết các nước và nhiều tổ chức quốc tế. Với các nước, Việt Nam đưa
quan hệ ngoại giao ngày càng đi vào chiều sâu, đặc biệt chúng ta đã có quan
hệ đối tác chiến lược với Nhật, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc và nhiều cường
quốc khác; xóa bỏ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao từ mức bình thường
lên đối tác toàn diện với Hoa Kỳ; thắt chặt quan hệ với các nước láng giềng
và trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam là thành viên tích cực và chủ động
của nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là ASEAN. Chúng ta đã đảm nhận vai trò
phụ trách (luân phiên) nhiều tổ chức và điễn đàn quốc tế; tiếng nói ngày càng
được chú ý góp phần vào "tham gia kiến tạo luật chơi quốc tế".
- Dân chủ
Thực hành dân chủ là mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong mọi giai
đoạn. Từ sau khi thống nhất đất nước (1975) đến trước Đại hội VI (1986), bên
113
cạnh những hậu quả của cơ chế cũ về quản lý kinh tế, chúng ta vẫn chưa phê
phán và khắc phục được tệ quan liêu trong thái độ, phong cách làm việc của
cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành, kể cả ở các đơn vị kinh tế, đơn vị hành
chính cơ sở. Đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội có
nguyên nhân sâu xa từ tệ quan liêu, xa dân, không đặt Nhân dân đúng với vị
trí chủ thể của cách mạng dẫn đến không phát huy được trí tuệ, sức mạnh của
Nhân dân – động lực quyết định của cách mạng.
Khởi xướng đổi mới, bài học đầu tiên được Đảng xác định là "trong
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”,
xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động... trong điều kiện
đảng cầm quyền, phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân
dân; tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ
nghĩa quan liêu. Mỗi đảng viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Mọi chủ trương, chính
sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân
dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng.
Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân là
làm suy yếu sức mạnh của Đảng" [37, tr. 29-30]. Đây vừa là bài học, vừa là
mục tiêu của toàn bộ công cuộc đổi mới.
Ngày 18 tháng 02 năm 1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30-CT/TW Về
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, xác định: “Mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là
động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới”. Thực
hiện Chỉ thị, trong cùng năm, Quy chế dân chủ ở cơ sở được Nhà nước ban
hành. Năm 2007, Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở ra đời thay cho Quy chế được
thông qua năm 1998. Pháp lệnh quy định những nội dung về thực hiện dân chủ
cơ sở như: Chính quyền cấp xã công khai cho dân biết phương án điều chỉnh
quy hoạch đất đai, quy hoạch khu dân cư, công tác tái định cư; chức trách,
nhiệm vụ của từng cán bộ công chức; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch Hội
114
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã; quy định dân bàn và quyết định
trong việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra nhân dân,
trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, các công việc khác trong nội bộ cộng đồng
dân cư; quy định nhân dân giám sát đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ công
chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố và cán bộ công chức, viên chức làm việc,
sinh sống trên địa bàn; giám sát quá trình thực hiện các công trình, dự án của
cấp trên đầu tư trên địa bàn xã, thôn, tổ dân phố...
Đẩy mạnh dân chủ hóa, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của công
dân, năng lực làm chủ của Nhân dân. Về thực hiện chủ trương dân chủ hoá mọi
mặt đời sống xã hội, trong nhiều lĩnh vực chúng ta đạt được những thành tựu
quan trọng thể hiện tập trung ở xây dựng, củng cố và hoàn thiện nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Văn kiện Đại hội XI viết: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh
đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân” [43, tr.52]. Đại hội xác định ba nội dung lớn của xây dựng
Nhà nước là: Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới; tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng chống tham
nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Vai trò làm chủ của Nhân dân được chú
trọng phát huy. Nhân dân được tạo điều kiện tham gia vào mọi hoạt động của
Nhà nước; kiểm soát trực tiếp và thông qua các tổ chức đại diện; bày tỏ tín
nhiệm hay bất tín nhiệm với mọi cơ quan nhà nước, công chức nhà nước. Tất
cả nhằm có một Nhà nước thực sự dân chủ, thực sự là công cụ thực thi những
quyền chính đáng của Nhân dân.
Tổng kết 30 năm đổi mới, nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của Nhân
dân tiếp tục được ban hành. Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn bản luật đã xác
định đầy đủ hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
115
kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm
đối với xã hội. Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ,
tham gia quản lý xã hội của Nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được
nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện được đổi mới góp phần phát huy tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh
tế. Lắng nghe, tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân, tôn trọng sự khác biệt ý kiến
được nhiều cấp ủy đảng, chính quyền tăng cường thực hiện thành nền nếp.
Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo
vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn
trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký
kết.
- Công bằng
Trong khi khẳng định công cuộc đổi mới là để chủ nghĩa xã hội được
xây dựng đúng đắn và hiệu quả hơn thì cần phải thực hiện tốt nguyên tắc công
bằng xã hội vốn là đặc trưng riêng có của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các
chế độ xã hội tồn tại bóc lột giai cấp khác. Trong gian khổ của đấu tranh giải
phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Không sợ thiếu, chỉ sợ
không công bằng" [92, tr. 224]. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ áp
bức, bất công và những cơ sở nảy sinh áp bức bất công. Công cuộc đổi mới
phải thầm nhuần, hướng tới và làm cho được điều đó.
Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
tại Đại hội VI, Đảng đã thẳng thắn nhìn nhận: "Công bằng xã hội bị vi phạm".
Từ đó, "Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước
ta" được Đại hội VI xác định là một trong các mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã
hội của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Quan điểm này được kế thừa và phát huy cho đến nay. Chúng ta đã thực hiện
116
công bằng xã hội trên nhiều mặt. Về kinh tế, thực hiện công bằng xã hội đối
với các thành phần kinh tế, xóa bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự đánh
giá và đối xử đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Thực hiện công bằng xã hội là một tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả
xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về xã hội, từng
bước hoàn thiện chính sách xã hội, làm tốt chính sách bảo trợ xã hội, xóa đói
giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, "bảo đảm sự công
bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống đặc quyền đặc
lợi" [37, tr.88-89]. "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy
nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với
chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [39,
tr.13]. Về xây dựng hệ thống chính trị, công bằng xã hội phải được thể hiện
trong từng hoạt động, từng chính sách phát triển. Phát huy dân chủ, xây dựng
dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo ra khả năng để nhân dân ý thức về lợi ích của
mình và có được công bằng xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 – 2020 tiếp tục xác định "thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo
đảm phát triển nhanh, bền vững" [43, tr.124] là mục tiêu, nhiệm vụ lớn của
công cuộc đổi mới.
- Văn minh
Khái niệm “văn minh” được xem như một mục tiêu, tiêu chí của chủ
nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới. Đây là khái niệm rất chung, khá trừu
tượng, có thể hiểu thế này hay thế khác. Vì vậy, với tính cách đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội, nội dung khái niệm “văn minh” không chỉ là văn minh vật
chất - kỹ thuật mà còn là văn minh tinh thần, không chỉ văn minh trong quan
hệ giữa người với thiên nhiên mà còn là văn minh trong quan hệ giữa người
với người, văn minh trong tổ chức xã hội, văn minh trong chất lượng cuộc
117
sống và lối sống. "Đó là nền văn minh của một xã hội “dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ”, nền văn minh của một xã hội do nhân dân làm chủ. Nền
văn minh xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả của sự kế thừa những thành
tựu của văn minh nhân loại kết hợp với sự kế thừa những giá trị tốt đẹp của
truyền thống dân tộc. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải là một xã hội hiện đại, văn
minh, giàu bản sắc dân tộc" [147].
Để thực hiện mục tiêu "văn minh" cần chú ý kết hợp hai yếu tố: văn
hóa truyền thống và văn minh của xã hội hiện đại. Đảng đề ra mục tiêu xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; tiên tiến tức là
hòa nhịp với xã hội văn minh hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc tức là bảo tồn,
phát huy được các giá trị văn hóa truyền thống. Trên con đường trở thành
nước công nghiệp, chúng ta phải kết hợp được hai yếu tố này.
Những năm đổi mới vừa qua đã tập trung xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt sau khi ra đời Nghị quyết Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa VIII (1998). Đối với Đảng Cộng sản Việt
Nam, xây dựng văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội là một trong
ba nhiệm vụ chủ đạo. Văn hóa đã thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, trở thành mặt trận trong hội nhập và hợp tác quốc tế. Đến nay, cơ sở vật
chất kỹ thuật của nền văn hóa được tạo dựng, quá trình đổi mới tư duy về văn
hóa, xã hội, xây dựng con người có bước phát triển. Môi trường văn hóa xã
hội có những thuận lợi cho việc phát huy nguồn nhân lực văn hóa, xã hội để
xây dựng đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh mục tiêu "Xây
dựng một cộng đồng xã hội văn minh", từ hệ thống chính trị phải trở thành là
đạo đức, là văn minh đến Nhân dân phải truyền thống về nền tảng, bản sắc,
văn minh về lối sống, trí tuệ.
Những kết quả đạt được trong thực hiện các mục tiêu nêu trên thể hiện
sự phát triển toàn diện của đất nước 30 năm qua; là bằng chứng sinh động cho
thấy công cuộc đổi mới đi đúng hướng và mang lại những lợi ích to lớn cho
118
Nhân dân. Tuy nhiên, quá trình phấn đấu đạt được các mục tiêu này cũng còn
tồn tại không ít hạn chế. Nhân dân giàu lên nhưng đó là so với chính mình; so
với mặt bằng chung thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn ở rất
rất xa so với mức trung bình của thế giới. Năm 2014, mức GDP/người trung
bình của thế giới là hơn 10.700 USD/người. Chỉ số này ở Việt Nam chỉ ở mức
hơn 2.000 USD, tức còn thua tới 8.700 USD so với thế giới. So với các nước
trong khu vực, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đứng
thứ tư, chỉ hơn Campuchia, Myanmar, Lào; mức thu nhập bình quân đầu
người mà Việt Nam đạt được năm 2014 thì Malaysia đạt được năm 1988,
Thái Lan đạt được năm 1993, Indonesia đạt được năm 2008, Philippin đạt
được năm 2010. “Những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hóa qua 30 năm
đổi mới còn hạn chế, chưa bền vững, chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu
quả đến quá trình xây dựng con người và các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhất là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống“ [65, tr.163]. Mặc dù vị thế đất
nước được nâng lên thông qua tăng cường các hoạt động đối ngoại nhưng
chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp; còn lúng túng và bị động trước
những ý đồ và hành động của một số nước lớn; việc bày tỏ quan điểm của
Việt Nam về một số vấn đề quốc tế chưa thật rõ nên còn thiếu thuyết phục;
hội nhập quốc tế còn thụ động, hiệu quả chưa cao. Tất cả dẫn đến môi trường
hòa bình, thuận lợi cho phát triển đất nước đã được tạo dựng nhưng chưa thật
bền vững. “Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa
được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới“ [44,
tr.67]. “Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải
quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài
hoà giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo
chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia
tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hoà, chưa có
chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân
119
hoá giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã
hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người“ [44, tr.133-134].
Hạn chế nêu trên đang tác động với tính chất ngày càng phức tạp đến
Nhân dân trong tư cách chủ thể, quyết định sự tiến lên hay lùi bước của công
công đổi mới. Đó là các hạn chế cả về phát triển kinh tế, xây dựng và bảo tồn
văn hóa – lối sống cũng như xây dựng hệ thống chính trị. Quán triệt tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân, Đảng và Nhà nước luôn xác địch trách
nhiệm đối với những hạn chế đang tồn tại. Ở mỗi kỳ Đại hội, qua hai lần tổng
kết 20 năm và 30 năm đổi mới, trước mỗi hạn chế Đảng đều thẳng thắn nhìn
nhận trách nhiệm và chỉ ra nguyên nhân từ trong nhận thức, đường lối cũng
như quá trình tổ chức thực tiễn. Đây là sự thể hiện đúng với tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh về Nhân dân và cần được duy trì thành nền nếp. Đó là cơ sở
xuất phát để Đảng và Nhà nước bổ sung, phát triển nhận thức, điều chỉnh
quan điểm đường lối cho phù hợp nhằm có thể tạo ra được động lực cho sự
phát triển mới. Trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện tốt các phương
hướng, nhiệm vụ mang tính giải pháp: Tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ phát triển
nền kinh tế thông qua đổi mới mô hình tăng trưởng, kết hợp có hiệu quả phát
triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; hoàn thiện cơ
chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân
ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế; bảo tồn gắn với phát triển văn hóa trong tương quan phù
hợp với tăng trưởng kinh tế; đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp
hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu
đến xây dựng nền văn hoá, làm tha hoá con người. “Gắn kết chặt chẽ chính
sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt
hơn thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi người dân đều có cơ hội và điều
kiện phát triển toàn diện“ [44, tr.135-136].
120
Bên cạnh việc bổ sung, điều chỉnh quan điểm đường lối, để thực hiện
tốt mục tiêu tổng quát nêu trên cần nâng cao hiệu quả phát huy sức mạnh của
Nhân dân. Đưa các mục tiêu tổng quát từ tầm vĩ mô đến sát sườn cuộc sống
của Nhân dân, chứng minh cho Nhân dân thấy thực hiện các mục tiêu này là
công việc của mình, kết quả đạt được trong thực hiện mục tiêu là lợi ích thiết
thân của mình. Các chủ trương, chính sách cụ thể hóa từng khía cạnh của mục
tiêu, từ cấp Trung ương cho đến địa phương, ban ngành cần làm rõ và đưa
mục tiêu chung đi đến gần dân hơn; khắc phục nhanh chóng tình trạng cấp
dưới cụ thể hóa nhưng vô hình chung lại làm phức tạp hơn, khó hiểu hơn, đưa
đường lối xa Nhân dân hơn. Bài học sinh động mà Hồ Chí Minh để lại đó là
diễn đạt các mục tiêu tổng quát của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cho
Nhân dân rất đơn giản, dễ hiểu cần phải được quán triệt vận dụng sáng tạo.
Làm sống dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc sao cho Nhân dân hết lòng hết sức
phấn đấu đạt được các mục tiêu của sự nghiệp đổi mới như trong thời đấu
tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời, việc tổ chức Nhân dân tham gia vào hoạt
động thực tiễn vì mục tiêu đề ra phải hết sức linh hoạt, loại bỏ xu thế hành
chính hóa, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" là mục tiêu phải
đạt tới của công cuộc đổi mới. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng trình bày đã khẳng định: “Ba mươi năm đổi mới là một
giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước,
đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.
Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc,
toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh““
[44, tr.16]. Đó là sự thể hiện kế thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân nói riêng. Trên phương
diện nhận thức hay tổ chức thực tiễn, các mục tiêu này đều được xây dựng và
121
từng bước hiện thực hóa trên nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của toàn Đảng và toàn dân tộc ta – chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. "Nó đúng là tinh thần đoàn kết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa vào
tâm khảm của người dân Việt Nam và làm cho việc thực hiện chính sách đổi
mới được tương đối êm xuôi, không nhiều trắc trở" [107, tr.49].
4.1.2. Công cuộc đổi mới phải đạt tới Nhân dân “ấm no, tự do,
hạnh phúc”, con người phát triển toàn diện
Một trong những thuộc tính của cách mạng là đổi mới. Không đảm bảo
thuộc tính ấy, một sự nghiệp không thể được khởi xướng thật sự xứng đáng
với cái tên "cách mạng". Không duy trì thuộc tính ấy một cách thường xuyên,
liên tục trong suốt diễn trình, sự nghiệp cách mạng dần đi vào ngõ cụt,
nghiêm trọng hơn là dẫn đến cái chết từ nội tại. Cách mạng phải đổi mới, đổi
mới để cách mạng. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm khi
quan niệm "cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt".
Tiêu chí để có cái mới, cái tốt thay thế cho cái cũ, cái xấu là mục tiêu vì lợi
ích và sự phát triển của đại đa số người trong xã hội, tức là Nhân dân. Chỉ dẫn
đó trở thành phương châm có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam.
Đổi mới là yêu cầu sống còn của cách mạng. Tuy nhiên, lịch sử cách
mạng Việt Nam cho thấy không phải lúc nào đổi mới cũng được thực hiện
đúng với tầm vóc cần có. Thực tiễn cho thấy, mỗi khi chúng ta chậm đổi mới,
thậm chí là không đổi mới, thì giai đoạn cách mạng đó luôn gặp khó khăn, tổn
thất, rơi vào thoái trào, nghiêm trọng hơn là đi đến khủng hoảng. "Cái mới",
"cái tốt" mà cách mạng phải vươn tới tạo dựng bị bao vây, đè nén bởi "cái
cũ", "cái xấu". Những lúc như thế, cách mạng không thực hiện tốt mục tiêu
"vì dân" - quyền lợi của Nhân dân không được chăm lo đầy đủ, thậm chí bị
xâm hại. Về phương diện lý luận, đó cũng là thời gian chúng ta xa rời, hiểu và
vận dụng không đúng nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách
mạng – chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
122
Chiều hướng phát triển của cách mạng Việt Nam sau khi hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc là tiến lên chủ nghĩa xã
hội nhằm ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân.
Hồ Chí Minh nói rất rõ: Nếu nước được độc lập mà Nhân dân không được tự
do, hạnh phúc thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa gì. Mỗi bước đất nước đi
tới chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện bằng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và
sự phát triển toàn diện của Nhân dân. Tuy nhiên, sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện cuộc sống Nhân dân vô cùng chật vật, khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất
lẫn tinh thần. "Đời sống của các tầng lớp nhân dân sa sút chưa từng thấy".
Trong một thập kỷ chậm đổi mới (1975 – 1986), áp lực cuộc sống vật chất,
tinh thần khiến cho con người luôn ở trong trạng thái "cố mà sống". Tình cảnh
đó khiến con người cảm thấy không bao giờ có thể vươn tới những cái cao
đẹp. Nhu cầu tồn tại lấn át nhu cầu phát triển dẫn đến chỗ tự cho phép làm bất
cứ điều gì khi thấy cần. Tiêu cực xã hội lan rộng. Lòng dân không yên. Đêm
trước đổi mới (12/1986), đại đa số quần chúng nhân dân cảm thấy không thể
tiếp tục sống như cũ được nữa.
Hồ Chí Minh xem không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho Nhân dân, làm cho Nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn
diện là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của cách mạng. Đời sống của Nhân
dân là bộ mặt của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với tinh thần "Đảng
ta không có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân", Đại
hội VI (1986) xác định các mục tiêu kinh tế - xã hội đầu tiên cho những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “Sản xuất đủ
tiêu dùng và có tích luỹ”. Sau năm năm thực hiện, Đại hội VII tiếp tục đề ra
mục tiêu: Bảo đảm đầy đủ hơn các nhu cầu thiết yếu của Nhân dân; đáp ứng
những nhu cầu ngày càng đưa dạng của các tầng lớp dân cư. Giải quyết tốt
các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội. Mở rộng mạng lưới và nâng
cao chất lượng hoạt động các loại hình dịch vụ phục vụ đời sống Nhân dân.
123
Trong nhiều năm tiếp theo, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của Nhân dân tiếp tục được xem là mục tiêu, nhiệm vụ trung tâm.
Ba mươi năm qua, đất nước đổi thay từng ngày, đời sống Nhân dân từ
thiếu thốn, khó khăn đã được cải thiện rõ rệt, vươn lên dư giả, giàu có. Từ
một nước phải nhập khẩu lương thực để cứu đói (199,5 nghìn tấn năm 1988)
đến năm 2015, Việt Nam đã xuất khẩu được 6,568 triệu tấn gạo và hiện là
một trong ba nước xuất khẩu sản lượng gạo lớn nhất thế giới. Hàng hóa và
các nhu yếu phẩm dồi dào đáp ứng tốt đời sống của Nhân dân. Hoạt động văn
hóa đa dạng, phát triển mạnh mẽ hệ thống thông tin đại chúng, giao lưu văn
hóa được đẩy mạnh. Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển về quy mô, đa
dạng hoá về các loại hình trường lớp từ mầm non đến cao đẳng, đại học. Mức
độ tụt hậu của Nhân dân so với mặt bằng thế giới được rút ngắn đáng kể.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân dân đạt nhiều kết quả, mở rộng
mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở, không chế và đẩy lùi một số dịch bệnh
nguy hiểm; tuổi thọ trung bình của dân số nước ta tăng từ 67,8 (năm 2000) lên
73,2 (tỷ lệ người trên 65 tuổi chiếm gần 7% dân số) (năm 2015) vượt tuổi thọ
trung bình của thế giới (trung bình thế giới là 69 tuổi). Nhìn chung, sau 30
năm đổi mới, cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân từ miền xuôi tới
miền ngược, từ nông thôn tới thành thị, đều có sự thay đổi rõ rệt. Theo Phùng
Hữu Phú, "Thành tựu ấy đi vào mâm cơm, tấm áo, phương tiện đi lại, điều
kiện học hành, chăm sóc sức khỏe… So với trước, chúng ta đã có một bước
tiến dài. Đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của nhân dân phong phú hơn,
dân chủ hơn, cởi mở hơn” [137].
Trọng tâm chiến lược của công cuộc đổi mới là phát triển con người,
mỗi người dân và toàn dân. Đổi mới trước hết là sự giải phóng con người khỏi
những yếu tố kìm kẹp sự tiến bộ của con người bằng cách chống lại bảo thủ,
giáo điều, trì trệ, quan liêu,...; sau đó, đổi mới đặt con người trở lại đúng với
vị trí là vốn quý của dân tộc, là động lực quan trọng nhất của cách mạng. Tự
do là phạm trù gắn liền với cuộc sống xã hội của con người. Sự tự do của con
124
người là một tất yếu, đương nhiên, vốn có, do tạo hóa ban tặng, từ khi con
người được sinh ra, nó là bất khả xâm phạm. Hồ Chí Minh luôn gắn liền
giành độc lập cho dân tộc với mang lại tự do cho Nhân dân, xem là nhiệm vụ
đặt lên hàng đầu và xuyên suốt của cách mạng. Sự quan tâm nhắc nhở của Hồ
Chí Minh đối với cán bộ đảng viên rằng nếu nước được độc lập mà dân không
tự do thì độc lập không có ý nghĩa gì, cho chúng ta bài học: Khi nào và ở đâu
mà những người lãnh đạo lãng quên vấn đề tự do, hạn chế tự do cũng có
nghĩa là vô tình rời bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Ba mươi năm đổi mới đất
nước cũng là từng ấy thời gian chúng ta đấu tranh loại bỏ những yếu tố tiêu
cực, lạc hậu đang kiềm kẹp Nhân dân; cởi trói Nhân dân khỏi sự ràng buộc
của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp lỗi thời, không còn phù hợp; thúc đẩy
nhanh hơn quyền tự do sống, tự do làm ăn, tín ngưỡng, tôn giáo, đi lại, ngôn
luận của Nhân dân. Quyền tự do, dân chủ ngày càng được thể chế hóa và thực
hiện nghiêm túc. Nếu như trước đây, Nhân dân được tự do làm những gì mà
pháp luật cho phép thì hiện nay Nhân dân được tự do làm những gì mà pháp
luật không cấm. Công bằng xã hội được chú ý thực hiện trong mỗi chính sách,
mỗi bước phát triển đã tạo nên môi trường cởi mở, tự do cho Nhân dân trong
các lĩnh vực, từ sản xuất kinh doanh đến sinh hoạt văn hóa – tinh thần. Nhà
bình luận Brad O"Leary (Mỹ) “cho rằng trong suốt 150 năm qua, chưa bao
giờ Việt Nam tự do như bây giờ".
Từ khi đổi mới đến nay, theo các báo cáo được công bố, chỉ số phát
triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561
năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm
2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007; đến năm 2015, do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế thế giới nên chỉ số phát triển con người suy giảm đôi
chút, đạt 0,666. Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì
xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu
người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ
116/182. Đến năm 2015, HDI đứng thứ 116/185 quốc gia, đứng ở nhóm các
125
nước trung bình. Tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của
nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc
về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao
hơn chỉ số về kinh tế. Trong thực tế, quá trình "đó cũng là cuộc đấu tranh vì
dân chủ, công bằng xã hội, lợi ích sống còn và cuộc sống có phẩm giá của
quần chúng... Không có gì là quá đáng khi quan niệm rằng sự nghiệp đổi mới
là sự nghiệp phục vụ cho phát triển, tiến bộ xã hội và phát huy con người. Đổi
mới đã đặt con người ở vị trí trung tâm của những nỗ lực phát triển kinh tế và
xã hội, là lợi ích của con người chính là căn bản của tất cả những hành động
vì dân vì nước" [107, tr.79].
Nền kinh tế phát triển, Nhân dân được thụ hưởng đời sống ấm no hơn
nhiều so với thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc hay bao cấp trước đổi mới.
Tuy nhiên, còn một bộ phận lớn dân nghèo có sống chật vật, thiếu thốn. Theo
báo cáo 30 năm đổi mới, nếu tính theo chuẩn nghèo mới thì hiện thời tỷ lệ
nghèo còn khá cao và chênh lệch giàu nghèo có xu hướng tăng trong các năm
gần đây. Tỷ lệ nghèo đa chiều (phản ánh thêm khía cạnh nghèo phi tiền tề như
giáo dục, y tế, nhà ở, tài sản, thông tin, vệ sinh và môi trường,…) còn cao hơn
nhiều so với nghèo tiền tệ. Người nghèo dễ bị tổn thương bởi các cú sốc về
kinh tế, dịch bệnh và thiên tai trong khi độ bao phủ và chất lượng của hệ
thống an sinh xã hội còn hạn chế. Tình trạng thiếu thốn thức ăn, đồ mặc, nhà
ở và trường học xuống cấp nghiêm trọng, chăm sóc y tế yếu kém vẫn còn tồn
tại và chưa được khắc phục đúng mức ở vùng sâu, vùng cao. Nhiều nơi còn
tình trạng mất dân chủ, xâm phạm quyền làm chủ, quyền tự do của Nhân dân;
tình trạng duy ý chí, quan liêu, áp đặt sai pháp luật của cơ quan, cá nhân trong
bộ máy chính quyền với người dân có xu hướng diễn biến phức tạp. Mặt
khác, đời sống xã hội hiện nay đang nảy sinh và lan rộng biểu hiện tự do quá
mức, vượt ngoài khuôn khổ pháp luật, vô tổ chức, mất kỷ cương. Điều kiện
vật chất được cải thiện hơn nhưng các giá trị tinh thần trong gia đình, dòng
tộc, cộng đồng xã hội đang bị tấn công và xói mòn nghiêm trọng. Trong thời
126
kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc hay bao cấp trước đây, dù đời sống vật chất
rất thiếu thốn nhưng nền tảng hạnh phúc gia đình, dòng tộc, cuộc sống hạnh
phúc thôn xóm, cộng đồng vẫn cơ bản giữ được. Hiện nay, các giá trị đó đang
bị xói mòn nghiêm trọng, tỷ lệ ly hôn lớn, những bất đồng xung đột trong
quan hệ gia đình – xã hội diễn biến phức tạp. Không ít người đang thừa vật
chất nhưng thiếu tinh thần nên không thể có một cuộc sống hạnh phúc đúng
nghĩa. Thành tích về mặt phát triển con người thấp hơn so với phát triển kinh
tế. Phát triển con người của Việt Nam từng tiến nhanh nhưng gần đây đã
chậm lại. Mức độ và chủng loại những lợi ích gặt hái được trong giai đoạn
đầu đổi mới giờ đây đã trở nên khó khăn hơn nhiều để đảm bảo. Chỉ số về sự
phát triển con người đang giảm chậm - từ khoảng 1,7% trước năm 2000
xuống còn khoảng 0,96% trong những năm gần đây. Theo Báo cáo Phát triển
con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm của Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam và UNDP, “tốc độ tăng bình quân của chỉ số HDI là
1,07%/năm từ 1980 đến 2014, tức là thấp hơn mức bình quân 1,23% của các
nước có mức phát triển con người trung bình và mức bình quân 1,29% của
khu vực Đông Á – Thái Bình Dương. Tiến bộ chậm dần của Việt Nam trong
thập kỷ qua đã kéo lùi sự tiến bộ phát triển con người khá nhanh của Việt
Nam trước kia để ngày nay trở nên tụt hậu so với nhiều nước khác có cùng
trình độ phát triển” [156, tr.21].
Hạn chế trên cho thấy trong quá trình đổi mới vì mục tiêu mang lại
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và phát triển toàn diện con người Việt
Nam còn có lúc, có nơi chưa thực hiện tốt tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về
Nhân dân. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn hướng sự phát
triển toàn diện nhưng tổ chức thực hiện thì còn nhiều bất cập. Hồ Chí Minh
sinh thời luôn yêu cầu đường lối đúng phải là đường lối phát huy hiệu quả
trong thực tiễn, tức là phải mang lại lợi ích cụ thể cho Nhân dân. Đảng và Nhà
nước phải biến đường lối đổi mới thành lợi ích thiết thân của Nhân dân. Đồng
thời, trong mỗi bước phát triển của cách mạng, Hồ Chí Minh lưu ý phải chăm
127
lo cả đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, không xem nhẹ vế nào.
Trong thời gian qua, tư duy phát triển của chúng ta còn biểu hiện nặng về đời
sống vật chất, thiếu sự quan tâm đúng mức cho đời sống tinh thần; quản lý
phát triển xã hội còn lúng túng và thụ động so với biến động đời sống Nhân
dân; đầu tư phát triển còn chưa đúng mức và mang lại hiệu quả ở vùng sâu,
vùng xa, vùng cao, ở các bộ phận người dân nghèo dễ bị tổn thương bởi biến
động kinh tế - xã hội. Do vậy, để tiếp tục chăm lo đời sống Nhân dân được tốt
cần phải xem trọng khía cạnh xã hội của quá trình phát triển kinh tế. Thúc đẩy
kinh tế phát triển để tiếp tục tạo ra nguồn của cải vật chất và thu nhập ngày
càng tăng cho đời sống Nhân dân, đồng thời thực hiện nghiêm túc các tiêu chí
phát triển bền vững. Nâng cao nhận thức và đầu tư đúng mức cho chính sách
an sinh xã hội, hướng tới hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao trùm và công
bằng hơn. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo
dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
học. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Đổi mới chính sách, cơ chế
tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả
đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hoá, trước hết đối
với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục thực hiện mục tiêu
kiên cố hoá trường, lớp học; từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ
thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục
và khoa học quản lý. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất
nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải
pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn
nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh.
“Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con
người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
128
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực,
cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán,
đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai
trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hoá, làm tha hoá con
người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội,
khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” [44, tr.126-127].
Công cuộc đổi mới được chính thức khởi xướng từ tháng 12 năm 1986
tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Càng nhất quán rằng "đổi mới"
là đặc trưng, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung chính của "sự nghiệp đổi mới" thì
càng cần phải thấm nhuần trong mỗi nếp nghĩ, cách làm chỉ dẫn nêu trên của
Hồ Chí Minh về tiêu chí cho sự ra đời "cái mới", "cái tốt". Ba thập kỷ trôi qua
kể từ mốc son khởi xướng (12/1986 ), ngần ấy thời gian là chưa nhiều so với
dòng chảy vô tận của cách mạng nhưng suốt tiến trình đó, trong tất cả các
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, dù cách diễn đạt có khác nhau,
song tinh thần cơ bản của các bài học được rút ra là: “... đổi mới phải vì lợi
ích của nhân dân". Bài học này không chỉ là ngọn nguồn để sự nghiệp đổi mới
được khởi xướng mà còn là kim chỉ nam định hướng cho quá trình đổi mới
thực sự đáp ứng mục tiêu và lý tưởng của toàn dân đã được đề cập trong tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân: cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, được phát triển toàn diện.
4.2. CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CHỈ THÀNH CÔNG KHI PHÁT HUY ĐƯỢC
TOÀN BỘ SỨC MẠNH CỦA NHÂN DÂN
4.2.1. Nhân dân thực sự là chủ và làm chủ quá trình đổi mới
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam nhằm tới sự phát triển của đất nước,
của Nhân dân ta. Để đi đúng định hướng đó, điều kiện tiên quyết ở chỗ xác
định rõ ràng và dứt khoát chủ thể của cách mạng là Nhân dân. Điều đó được
Hồ Chí Minh khẳng định, xem là tiêu chí mang tính nguyên tắc, vừa là mục
tiêu tiên quyết cần đạt tới vừa là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh có ý nghĩa
129
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Khắc phục các hạn
chế trước đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh xác định Nhân dân là chủ thể cách
mạng cần đạt tới mức độ cao nhất - mức độ "thật sự" - tức là vị trí chủ thể
của Nhân dân không thể chỉ dừng lại ở lời nói "nhân dân là chủ" vốn đã là
khẩu hiệu của rất nhiều cuộc cách mạng trước đó, mà phải biểu hiện hành
động "làm chủ" của Nhân dân trong thực tiễn quá trình cách mạng từ khởi
điểm cho đến thắng lợi, từ gian khổ cho đến thụ hưởng thành tựu. Từ "là chủ"
đến "làm chủ" là một bước tiến dài trên con đường đạt tới mức độ "thật sự"
khẳng định vị trí, vai trò chủ thể cách mạng của Nhân dân. Tư tưởng này chỉ
đạo toàn bộ nhận thức và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, thấm vào
đường lối cách mạng của Đảng dẫn đến những thắng lợi to lớn. Các văn kiện
của Đảng tổng kết mỗi giai đoạn của cách mạng Việt Nam thường xuyên tồn
tại hai nhóm cụm từ: (1) Sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta, cuộc đấu
tranh của Nhân dân ta, cuộc kháng chiến của Nhân dân ta; (2) Thắng lợi của
Nhân dân ta. Đây không phải là sự xuất hiện ngẫu nhiên mà là quan hệ
nguyên nhân – kết quả có tính quy luật. Chỉ khi xác định là "của Nhân dân"
thì mới có được thắng lợi; Nhân dân là chủ thể kể từ thời điểm khởi đầu cho
đến thắng lợi cuối cùng. Chân lý này là ngọn nguồn của thắng lợi mà cách
mạng Việt Nam đạt được. Bài học rút ra là: Thành công hay thất bại của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam tùy thuộc ở chỗ có tôn trọng chân lý phổ biến
này hay không.
Trước khi khởi xướng đổi mới, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp khi
không còn phù hợp nữa là tác nhân kéo lời nói "Nhân dân là chủ" ra xa dần
thực tiễn "làm chủ" của Nhân dân. Không chỉ chúng ta chưa tạo điều kiện tốt
để Nhân dân thực hiện hành vi của người làm chủ mà hơn nữa trên nhiều
phương diện và mức độ khác nhau còn xâm phạm quyền làm chủ của Nhân
dân. Sức mạnh Nhân dân đóng vai trò quyết định đến thành bại của sự nghiệp
cách mạng và chỉ có thể đạt được khi Nhân dân thực sự là chủ, làm chủ. Tất
cả những sai lầm, khuyết điểm nêu trên làm suy giảm nặng nề nguồn sức
130
mạnh ấy bởi mức độ là chủ và làm chủ của Nhân dân xuống rất thấp. Khi đó,
hệ quả tất yếu là đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, sự
nghiệp cách mạng lâm vào thoái trào.
Công cuộc đổi mới được khởi xướng và tiến hành một cách toàn diện,
từ tư duy đến tổ chức thực tiễn, kinh tế đến chính trị. Trong mỗi khía cạnh đổi
mới đểu nổi lên những nỗ lực đặt Nhân dân trở lại thực sự là chủ thể của cách
mạng thông qua việc nhìn thẳng, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm đã tồn tại
trước đó và quyết tâm sửa chữa, khắc phục.
Kinh tế là mặt trận tiên phong của công cuộc đổi mới bằng việc chuyển
đổi từ mô hình kế hoạch hóa bao cấp sang "Thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [41, tr.23]. Cơ chế này đã
loại bỏ cách quản lý chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính thông qua giao kế
hoạch pháp lệnh và chỉ đạo tác nghiệp cụ thể của Nhà nước; phân định rạch ròi
giữa quyền quản lý của Nhà nước với quyền của người sở hữu, quyền của người
sử dụng tư liệu sản xuất. Thay cho tính cưỡng chế, áp đặt của mô hình kế hoạch
hóa là "những lực lượng thị trường được hoạt động khá tự do" [107, tr.47]; việc
"sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai" là vấn đề của người sản xuất. Cơ chế mới
đã trao quyền tự chủ cho người lao động. Ý chí, nhu cầu của Nhân dân là xuất
phát điểm đồng thời thể hiện rất nhiều trong đường lối, chính sách kinh tế.
Trong lĩnh vực kinh tế, Nhân dân không chỉ là chủ và làm chủ sự
nghiệp đổi mới nhìn từ nhận thức, hành động của Đảng, Nhà nước như nêu
trên. Nhân dân còn làm tròn vị trí, vai trò đó ở trong chính hoạt động của
mình. Cần lưu ý, một trong những nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới là
sự "phá rào" của một bộ phận Nhân dân dưới cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp. Đảng và Nhà nước đã tôn trọng, lắng nghe, tiếp thu để xây dựng đường
lối đổi mới. Không xem Nhân dân là chủ, không muốn Nhân dân thực sự làm
chủ, chắc chắn không có sự tôn trọng, lắng nghe, tiếp thu này. Do vậy, đường
131
lối đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng cho thấy Nhân dân thể hiện
vai trò làm chủ, tham gia vào xây dựng đường lối. Điều này luôn được thể
hiện trong suốt quá trình đổi mới trên nhiều phương diện, hình thức và mức
độ khác nhau. Hơn nữa, không chỉ tham gia xây dựng đường lối, Nhân dân
còn thể hiện vai trò làm chủ trong thực hiện đường lối đổi mới kinh tế. Nhân
dân cung cấp đại đa số nguồn lao động cho nền sản xuất, đồng thời là lực
lượng tiêu thụ sản phẩm khổng lồ. Nhu cầu và sức sáng tạo của Nhân dân tạo
nên tính năng động, sức sống của nền kinh tế. Nhân dân thực hiện đường lối
kinh tế, đồng thời trong quá trình đó góp phần phản ánh, cung cấp các luận cứ
thực tiễn cho Đảng, Nhà nước điều chỉnh đường lối, chính sách.
Quá trình 30 năm đổi mới về kinh tế đã trả lại quyền chủ động sản xuất
kinh doanh cho doanh nghiệp và giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào kinh
doanh; những vấn đề trung tâm của nền kinh tế "sản xuất cái gì, cho ai, như
thế nào "thuộc về quyền tự chủ của người lao động và đơn vị sản xuất kinh
doanh. Ý chí, nguyên vọng của nhân dân được xem trọng; hoạt động của
Nhân dân là động lực chủ yếu của nền kinh tế; nâng cao đời sống Nhân dân là
mục tiêu trọng tâm của sản xuất kinh doanh. Chính sách kinh tế mới đã thúc
đẩy xây dựng lại tư duy kinh tế theo hướng Nhà nước và nền kinh tế phục vụ
Nhân dân; "Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động
trong nền sản xuất xã hội". Đây là nguồn gốc sâu xa của các thành tựu to lớn
mà nền kinh tế đạt được trong gần ba mươi năm đổi mới.
Xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, Đảng đồng thời đặt ra nhiệm vụ
từng bước đổi mới về chính trị. Khẳng định "có dân là có tất cả, mất dân là
mất tất cả", Hồ Chí Minh chỉ ra cách "có dân" hay nhất là đặt Nhân dân lên
đúng vị thế là chủ và thực sự làm chủ theo tiêu chí "Công việc đổi mới và xây
dựng là trách nhiệm của dân", "Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử
ra", "Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên"; "Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Như vậy, đổi mới về chính trị cần
phải đạt đến quyền lực chính trị thực sự thuộc về Nhân dân và hệ thống chính
132
trị phải do Nhân dân tổ chức nên, hoạt động vì Nhân dân. "Chỉ khi nhân dân –
với tư cách là người chủ và người làm chủ, là chủ thể gốc của quyền lực chính
trị - trực tiếp tham gia xây dựng, thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực thi
quyền lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị thì mới có thể xem đổi mới
là thành công" [121, tr.355-356].
Trung tâm của quyền lực chính trị là quyền lực nhà nước, ai nắm quyền
lực nhà nước thì chắc chắn chính thức là chủ thể của quyền lực chính trị. Do
vậy, để Nhân dân thực sự là chủ quyền lực chính trị thì điều kiện quyết định
là phải khẳng định vai trò làm chủ quyền lực nhà nước của Nhân dân trước
hết ở khía cạnh pháp lý. Sáu năm sau khi công cuộc đổi mới được khởi
xướng, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
khẳng định "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân" và "Nhà nước
bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân".
Năm 2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
Hiến pháp tiếp tục khẳng định lại nội dung nêu trên. Trong khi thượng tôn
pháp luật, xây dựng chế độ chính trị mà trung tâm là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa thì sự khẳng định nêu trên của Hiến pháp có giá trị pháp lý cao
nhất, là nền tảng cho toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị.
Để đảm bảo khẳng định của Hiến pháp về vai trò làm chủ quyền lực
nhà nước nói riêng, quyền lực chính trị nói chung, nhiều văn bản của Đảng và
Nhà nước đã được ban hành để tạo cơ chế cho Nhân dân thực thi hành động
làm chủ quyền lực chính trị. Tại Đại hội IV, Đảng đã nêu lên cơ chế tổng thể
"Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ tập thể" song
cho đến trước Đại hội VI vẫn còn lúng túng "chưa cụ thể hóa thành thể chế".
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI lần đầu tiên nêu khái niệm "hệ thống chính
trị" sử dụng rộng rãi thay cho khái niệm "hệ thống chuyên chính vô sản". Đây
không phải là sự thay đổi câu chữ. Khái niệm "hệ thống chính trị" khắc phục
"tính chất chung chung, nặng về bản chất giai cấp và mặt chuyên chính", thay
vào đó là "nhận rõ và nhấn mạnh tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ
133
giữa các bộ phận cấu thành hệ thống". Điểm nhấn là đã định hình rõ các tổ
chức quần chúng, trong đó xác định Mặt trận Tổ quốc và 5 đoàn thể chính trị -
xã hội (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam) thuộc hệ thống chính trị. Đảng nhấn mạnh: "Toàn
bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là
nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo quyền lực thuộc về nhân dân" [45, tr.145]. Thực chất của việc đổi mới và
kiện toàn hệ thống chính trị là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của toàn bộ công cuộc đổi mới. Ba mươi
năm đổi mới là chừng ấy thời gian nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được từng
bước hoàn thiện và nâng cao trình độ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về
Nhân dân đo bằng những tiến bộ trong thực tiễn nắm giữ và sử dụng quyền
làm chủ của Nhân dân đối với hệ thống chính trị và xã hội.
Biến khẩu hiệu "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" thành phương
châm quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội; thành nền nếp, thói quen hằng
ngày trong công việc của Đảng và của các cơ quan nhà nước các cấp từ Trung
ương đến cơ sở; thành hành động tự giác và có hiệu quả cao của đông đảo tầng
lớp Nhân dân. "đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân
dân lao động tự quản lý nhà nước của mình" [37]. Thực hiện phương châm này,
phạm vi và mức độ Nhân dân "làm chủ" bằng cách tham gia tổ chức nên chính
quyền các cấp, tham gia vào công việc của Đảng, Nhà nước được tăng cường
mạnh mẽ. "Biết" – "Bàn" – "Làm" – "Kiểm tra" là các hoạt động chủ yếu thể
hiện sự tham gia chính trị của Nhân dân trong tư cách làm chủ. Sự tôn trọng,
chấp hành, tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước để Nhân dân "Biết" – "Bàn" –
"Làm" – "Kiểm tra" và tính tích cực, sự mở rộng phạm vi "Biết" – "Bàn" –
"Làm" – "Kiểm tra" của Nhân dân trong gần ba thập kỷ đổi mới là minh chứng
sinh động cho thấy nhân dân "làm chủ" đang đạt tới trình độ "thật sự".
134
Bên cạnh thành tựu đạt được, trong điều kiện hiện nay, còn nhiều yếu
kém, bất cập trong thực tiễn xây dựng và phát huy nền dân chủ. Nhận thức về
dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân còn hạn chế. Tình
trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương pháp luật trong
xây dựng và thực hiện dân chủ còn tồn tại ở nhiều nơi. Có lúc dân chủ trong
Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức, chưa
thật sự trở thành biểu tượng và động lực mạnh mẽ định hướng và thúc đẩy
phát triển dân chủ trong xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền còn những
bất cập đã hạn chế việc thực hiện đầy đủ các quyền và điều kiện làm chủ của
Nhân dân. Bộ máy hành chính còn tình trạng quan liêu, tiêu cực khiến cho
việc dân chủ hóa quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân chưa nhanh, nhạy, hiệu quả không cao. Có nơi, có lúc thì
quyền làm chủ của Nhân dân bị vi phạm, mang tính hình thức, song cũng có
tình trạng “dân chủ quá trớn, dân chủ cực đoan“; có tình trạng lợi dụng dân
chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. “nguyên tắc “Đảng lãnh đạo – Nhà nước
quản lý – Nhân dân làm chủ“ chưa được thể chế hóa đủ cụ thể và rành mạch
thành cơ chế đồng bộ để Nhân dân thực sự là chủ và làm chủ các quá trình
phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, làm chủ theo tinh thần “tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân“.
Dân chủ là chìa khóa thành công của sự nghiệp đổi mới. Muốn vậy, cần
phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất trên cơ sở xác lập
quyền là chủ và làm chủ của Nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Điều đó cần phải được thiết lập trên hai hướng chủ yếu:
Một là, tăng cường thể chế hóa quyền làm chủ của Nhân dân thông qua
xác lập quyền đó trong hệ thống pháp luật một cách chi tiết và đầy đủ để có cơ
chế thu hút Nhân dân tham gia sâu hơn vào các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trọng tâm là đời sống chính trị. Đồng thời, việc tăng cường thể chế hóa cũng
buộc cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên
135
phải thường xuyên thực hành dân chủ, loại trừ quan liêu. Nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước để đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu Nhân dân đặt ra, phụng sự Nhân dân hiệu quả hơn. Trong quá trình
này, Đảng và Nhà nước tăng cường huy động, tổ chức Nhân dân tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền, lấy sức mạnh của Nhân dân làm điểm tựa,
làm động lực chấn chỉnh tổ chức, bộ máy, đấu tranh hiệu quả với tình trạng suy
thoái, quan liêu xa dân trong cán bộ, đảng viên. Dựa vào dân là cách làm hay
nhất để xây dựng tổ chức và cũng là con đường khẳng định, đảm bảo quyền làm
chủ của Nhân dân tốt nhất. Đó là phương châm mà Hồ Chí Minh để lại.
Hai là, nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân. Vị thế làm chủ của
Nhân dân chỉ đi vào thực tế khi họ có đầy đủ năng lực đảm đương. Hồ Chí
Minh trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời đã nêu 6
nhiệm vụ trong đó có giáo dục tinh thần Nhân dân. Sự quan tâm này có
nguyên nhân ở chỗ Hồ Chí Minh sớm thấy được khiếm khuyết trong năng lực
của Nhân dân khi bước lên vị thế làm chủ đất nước. Hồ Chí Minh luôn xác
định trách nhiệm đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân từ hai phía: Đảng,
Nhà nước chăm lo và Nhân dân phải tự mình vươn lên cho xứng đáng. Do
vậy, trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân trước
hết phải nâng cao dân trí. Mù chữ đứng ngoài chính trị. Nhân dân cần phải
được nâng cao dân trí thông qua đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo dục. Mặt
khác thông qua tăng cường hệ thống thông tin tuyên truyền để cung cấp thông
tin và tạo hành lang mở cho Nhân dân tham gia sâu hơn vào đời sống chính trị
đất nước. Phải biến Nhân dân thành những người giám sát hệ thống chính trị
chứ không phải là những người thụ động trông chờ. Cùng với nâng cao dân
trí, cần quan tâm đến giáo dục, xây dựng phong cách dân chủ cho Nhân dân.
Đẩy lùi tư tưởng “nhút nhát“, “thờ ơ“ với chính trị tồn tại hàng ngàn năm
dưới chế độ cũ; thúc đẩy các điều kiện để Nhân dân tiếp cận sâu hơn các giá
trị dân chủ tiến bộ trên thế giới. Không chỉ nâng cao dân trí để Nhân dân hiểu
136
biết mà tham gia làm chủ mà còn phải tập cho Nhân dân mạnh dạn, chủ động,
biết cách thể hiện quyền làm chủ đúng đắn và hiệu quả.
Sự nghiệp đổi mới diễn ra gần ba mươi năm. Thành tựu đạt được là to
lớn và đáng tự hào làm sáng tỏ hơn tầm vóc của Nhân dân – người là chủ và
làm chủ thật sự của toàn bộ quá trình đổi mới. Trong suốt thời gian ấy, "Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện". Do vậy,
công cuộc đổi mới có được sức mạnh to lớn để đi tới mục tiêu "Dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Những hạn chế, khiếm khuyết
mắc phải trong quá trình đổi mới xét ở chiều sâu có căn nguyên từ những
thiếu sót còn tồn tại trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay. Khó khăn, thách thức là không tránh khỏi, luôn đặt ra một
cách đa dạng, liên tục với tính phức tạp ngày càng nhiều đòi hỏi chúng ta phải
luôn có nguồn sức mạnh dồi dào, to lớn, vô tận nếu muốn công cuộc đổi mới
tiếp tục đi lên. Trong lúc này, hơn lúc nào hết cần thiết phải quán triệt sâu sắc
trong nhận thức và hành động chân lý "Trong bầu trời không gì mạnh bằng
sức mạnh đoàn kết của nhân dân", "Có dân là có tất cả" bằng mọi nỗ lực để
Nhân dân luôn thật sự là chủ thể của công cuộc đổi mới.
4.2.2. Phát huy được mọi tiềm năng trong Nhân dân, nguồn lực vĩ
đại của Nhân dân
Toàn bộ lịch sử nhân loại chứng minh chân lý: đối với người cầm
quyền có dân là có tất cả, mất dân là mất tất cả. Để có được dân, cách mạng
trước hết phải là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, việc xác lập
vị thế chủ thể của Nhân dân mới chỉ giúp sự nghiệp cách mạng có được một
nửa sự đảm bảo thắng lợi. Không phải cứ đặt Nhân dân lên địa vị làm chủ là
cách mạng thành công. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy xuyên suốt
mọi giai đoạn Nhân dân luôn được xem là chủ và làm chủ nhưng không phải
lúc nào cách mạng cũng tiến triển thuận lợi, gặt hái thành công. Vấn đề cốt
137
yếu ở chỗ đi liền với sự khẳng định vị thế của Nhân dân là phải nhận rõ và
phát huy được mọi tiềm năng, nguồn lực vĩ đại của Nhân dân.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt
Nam làm nên những thắng lợi lịch sử đã tồn tại rất nhiều phong trào yêu
nước, chống ngoại xâm, duy tân chấn hưng đất nước. Tuy nhiên, khủng hoảng
bế tắc đường lối cứu nước là hệ quả được tạo nên bởi sự thất bại của các
phong trào này. Đi tìm nguyên nhân để lý giải một cách hợp lý, nhiều nghiên
cứu cùng nhận thấy những hạn chế trong đánh giá tầm vóc và phương thức
phát huy nguồn lực vĩ đại của toàn dân nên không thể kiến tạo sức mạnh đủ
để chiến thắng kẻ thù xâm lược và bọn nội phản tay sai, đạt được mục tiêu, lý
tưởng đề ra. Rất nhiều người đứng đầu các phong trào này, xét về trách nhiệm
với Tổ quốc, lòng yêu nước, kiên gang trong đấu tranh, trăn trở trong tìm
đường chấn hưng dân tộc và cả sự tôn trọng Nhân dân thì không thua kém thế
hệ sau này – những người đã làm được điều mà họ chưa làm được là giải
phóng dân tộc và phát triển đất nước. Tuy nhiên, những hạn chế từ bản chất
giai cấp, những thiếu sót trong xác định lực lượng nòng cốt nền tảng, những
sai lầm trong nhận thức vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực
đã làm phân tán nguồn lực vĩ đại của toàn dân. Phong trào Đông Du cầu ngoại
viện do Phan Bội Châu lãnh đạo hay phong trào Duy tân khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh theo phương châm "Ỷ Pháp cầu tiến bộ" do Phan Châu
Trinh chủ xướng thất bại có phần nguyên nhân là do vậy.
Hồ Chí Minh chắc chắn nhận thấy được những hạn chế nêu trên khi ra
đi tìm đường cứu nước. Do vậy, con đường mà Hồ Chí Minh lựa chọn phải
thấy được nguồn lực của toàn dân Việt Nam, khơi dậy và phát huy để nguồn
lực đó chuyển hóa thành sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù, mọi trở lực. Yêu
cầu này lý giải vì sao trong thời gian hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh
thường xuyên có những bài viết chỉ rõ cái nhược tiểu của đất nước và nêu lên
tấm gương của nhiều quốc gia vì biết phát huy sức mạnh dân tộc họ mà làm
nên thành tựu. Bằng nhiều hoạt động diễn thuyết, tranh luận, phổ biến tài
138
liệu,... Hồ Chí Minh thức tỉnh giới tinh hoa của đất nước lúc bấy giờ trong
đánh giá tầm vóc nguồn lực của Nhân dân, làm cho họ chuyển hóa nhận thức
để đi đến xác định chính nhân dân lao động với sức mạnh của mình mới là
yếu tố quyết định sự thành bại của việc cứu nước. Đồng thời, Hồ Chí Minh
thức tỉnh Nhân dân để họ vượt qua tâm lý thân phận thấp hèn, thấy được sức
mạnh to lớn của mình và biết đứng lên làm chủ sự nghiệp đấu tranh bằng
nguồn sức mạnh đó. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sự bắt nhịp của
hai dòng chảy - giới tinh hoa (đội ngũ cán bộ, đảng viên và cá nhân yêu nước
tiêu biểu khác) và Nhân dân – đã khởi phát nguồn sức mạnh to lớn của toàn
dân tộc để làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945. Đó là kết quả
đầu tiên minh chứng cho tính đúng đắn của Hồ Chí Minh trong xác định và
phát huy nguồn lực vĩ đại của Nhân dân. Trong suốt thời gian sau đó cho đến
lúc về với thế giới người hiền, Hồ Chí Minh rất thường xuyên nhắc nhở cán
bộ, đảng viên và Nhân dân về nguồn lực to lớn của toàn dân (Nhân dân có
trăm tai, nghìn mắt, sức mạnh của Nhân dân là sức mạnh vô địch,...), về vai
trò quyết định của nguồn lực đó (có dân là có tất cả) và khẳng định nhiệm vụ
trọng yếu của Đảng, Nhà nước là phải phát huy cho được nguồn lực vĩ đại của
Nhân dân để đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng. Tư tưởng cũng như thực
tiễn hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh luôn hướng đến sự thắng lợi của
cách mạng, và để đảm bảo sự thắng lợi đó, Hồ Chí Minh dành hết sự quan
tâm đến phát huy nguồn lực, sức mạnh của Nhân dân, xem đó là vấn đề quyết
định. Chính vì tiếp tục tôn trọng, biết cách phát huy nguồn lực, sức mạnh của
Nhân dân theo những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh mà chúng ta giành thắng lợi
sau một thập kỷ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), sau hai
mươi mốt năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đây là bài học có ý nghĩa quyết định thành bại.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh hướng đến phát huy mọi nguồn lực để
Nhân dân "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Để phát huy được nguồn lực
của Nhân dân, Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong tư tưởng và qua thực tiễn hoạt
139
động chính trị của mình sự cần thiết phải có ba yếu tố cơ bản: Phát huy dân
chủ - Dân vận khéo – Đại đoàn kết toàn dân. Nghiên cứu tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh nói riêng, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung sẽ thấy được mối
quan hệ mật thiết nguồn lực của nhân dân với "Phát huy dân chủ - Dân vận
khéo – Đại đoàn kết toàn dân. Đó là mối quan hệ giữa mục tiêu (nguồn lực
của Nhân dân) với phương pháp đạt được mục tiêu (Phát huy dân chủ - Dân
vận khéo – Đại đoàn kết toàn dân). Để phát huy được nguồn lực của nhân
dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết phải xác định đúng vị thế là chủ và
làm chủ để Nhân dân có quyền lợi và trách nhiệm tương xứng; khi đã là chủ,
Nhân dân cần vận động một cách có tổ chức, có định hướng để các nguồn lực
không ẩn tiềm tàng mà được khởi phát, dẫn dắt phục vụ cho mục tiêu của
cuộc cách mạng; "sản phẩm" đỉnh cao của sự vận động trên nền tảng dân chủ
phải là một khối Nhân dân thống nhất trong đó các nguồn lực riêng rẽ được
quy tụ, kết nối thành nguồn nội lực quốc gia, thành sức mạnh dân tộc để giải
quyết các yêu cầu, nhiệm vụ mà cách mạng, đất nước đang đặt ra.
Trải ba mươi năm đấu tranh giải phóng dân tộc (1945 – 1975), nguồn
lực của toàn dân được phát huy cao độ đưa đất nước đến ngày non sông thu
về một mối, hòa bình, thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới nặng nề không thua kém
nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng đã qua đặt ra yêu cầu phải tiếp tục "khơi
thông dòng chảy" nguồn lực của Nhân dân trên một tầm cao mới phù hợp với
đặc điểm tình hình mới. Sự vận động thông suốt của "dòng chảy" nguồn lực
Nhân dân đảm bảo cho con tàu cách mạng vững tiến. Ngược lại, sự phân tán,
đình trệ, bế tắc làm suy yếu sức tiến của cách mạng. Nếu hình dung cách
mạng là "con tàu" thì nguồn lực của Nhân dân chính là "động cơ" tạo nên sức
mạnh để tiến; động cơ mạnh thì tàu tiến nhanh, động cơ yếu thì chậm, động
cơ không hoạt động thì đứng yên tại chỗ.
Nguồn lực của Nhân dân thể hiện qua ba khía cạnh: Sức dân, tài dân,
lực dân. Cả ba yếu tố này trong mười năm trước Đại hội VI (12/1986) đều
140
chưa được khai thác, phát huy đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Có thể nói
nôm na rằng chúng ta có tài sản nhưng chưa biết cách sử dụng để tạo nên hiệu
quả; chúng ta mong muốn chăm lo tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của
Nhân dân nhưng vì cách làm chưa đúng nên không "đem tài dân sức dân mà
làm lợi cho dân được". Do vậy, cách mạng thiếu sức mạnh, sức sống và đất
nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.
Một trong những yêu cầu mấu chốt đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới là
phải thay đổi cách làm như thế nào để có thể "đem tài dân, lực dân làm lợi
cho dân". Yêu cầu này chỉ có thể được đáp ứng khi biết vận dụng đúng đắn,
sáng tạo con đường khai thác nguồn lực của Nhân dân bằng cách phát huy
dân chủ - dân vận khéo – đại đoàn kết toàn dân.
Trước hết, cần phải xác định một cách dứt khoát, rõ ràng vị thể là chủ của
nhân dân và có cơ chế thuận lợi để đảm bảo sự thể hiện vị thế đó bằng hành vi
"làm chủ" trong thực tiễn. Chính do phát huy dân chủ mà Đảng ta đề ra được
đường lối đổi mới đúng đắn và thực hiện đường lối đó có kết quả trong cuộc
sống. Những vấn đề này đã được đề cập trong nội dung mục 4.2.1 của luận án.
Trên nền tảng "Dân chủ", cán bộ, đảng viên và Nhân dân cùng vận
động trong mối tương tác chặt chẽ nhằm một mục tiêu là làm cho nguồn lực
của toàn dân đang tồn tại dưới dạng tiềm tàng được vận hành theo định hướng
của sự nghiệp đổi mới. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phục vụ Nhân dân bằng
cách "đem tài dân, lực dân làm lợi cho dân", tức là tổ chức Nhân dân, lấy
nguồn lực của toàn dân để thực thi các chương trình, kế hoạch phục vụ cho
chính lợi ích của Nhân dân. Bằng cách này, chế độ chính trị - ngôi nhà mà cán
bộ, đảng viên làm việc trong đó – sẽ có được nền tảng vững chắc để đứng
vững, có sức mạnh được tạo nên từ nguồn lực to lớn của Nhân dân để tự bảo
vệ và phát triển. Đây là sự đảm bảo chắc chắn nhất! Về phía Nhân dân, trong
vai trò người chủ, phải tự giác, tích cực vận động trên hai góc độ: (1) Xây
dựng đường lối, kế hoạch; (2) Hiện thực hóa đường lối, kế hoạch. Hai nội
dung này chính là sự tham gia chính trị của Nhân dân – một trong những tiêu
141
chí đánh giá dân chủ. Muốn làm tốt cả hai nội dung, Nhân dân phải có sức
mạnh được tạo nên từ chính nguồn lực, tiềm năng của mình. Tức là phải khai
thác, phát huy tối đa sức dân, tài dân, lực dân.
Trong gần ba mươi năm đổi mới, việc huy động, khai thác, phát huy
"Dân trí" được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt theo hai hướng: nâng cao
trình độ của Nhân dân và tạo cơ chế để Nhân dân tham gia đóng góp trí tuệ
thuận lợi, hiệu quả. Giáo dục và đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu,
được đầu tư phát triển về số lượng và luôn tìm tòi nâng cao chất lượng. Nhân
dân ngày càng biết nhiều và bàn sâu vào nhiều vấn đề ở Trung ương và địa
phương theo phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Nhân
dân đóng góp trí tuệ không chỉ để bổ sung, hoàn thiện mà còn phản biện;
không ít chương trình, kế hoạch,... khi có ý kiến không đồng tình của đông
đảo Nhân dân đã bị hủy bỏ hoặc thay đổi. Lấy ý kiến Nhân dân trở thành việc
làm tự giác, thường xuyên của các cấp chính quyền.
Khai thác và phát huy “sức dân” cũng được tiến hành theo hai hướng:
(1) Tạo cơ chế, tập trung ở cơ chế kinh tế, để không ngừng nâng cao nhiệt
tình lao động của Nhân dân; (2) Chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể lực của
Nhân dân. Từ khi được khởi xướng đến nay, một trong những thành công lớn
nhất của sự nghiệp đổi mới là đã giải phóng được "Dân thể" vốn bị kiềm hãm
bởi sự suy giảm nghiêm trọng nhiệt tình lao động của Nhân dân trong cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tạo ra sự phân phối lợi ích kinh tế hợp lý hơn, là căn nguyên chủ yếu
thúc đẩy Nhân dân tích cực, năng động, chuyên cần lao động sản xuất. Nhiệt
tình lao động đó được đảm bảo duy trì và nâng cao khi nhiều tiến bộ của hệ
thống y tế đã chăm sóc và nâng cao thể lực của Nhân dân ngày càng tốt hơn.
"Của dân” cũng được khai thác và phát huy bằng cách không ngừng đổi
mới, hoàn thiện cơ chế chính sách để thu hút tài vật, kỹ thuật công nghệ trong
Nhân dân, đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền và lợi
ích của Nhân dân khi tham gia đóng góp. Tiến hành đổi mới, chuyển từ mô
142
hình kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội
chủ nghĩa trong đó các thành phần kinh tế bình đẳng, được khuyến khích phát
triển đã thu hút được nhiều của cải, tài vật, kỹ thuật, công nghệ cho xây dựng
và phát triển đất nước. Trong mười năm trước đổi mới chúng ta chưa làm tốt
việc này, thậm chí còn làm thất thoát.
Các nguồn lực “Sức dân”, “Tài dân”, “Của dân” luôn vận động theo
hướng đi từ riêng lẻ đến gắn kết, quy tụ thành khối thống nhất. Đó cũng là
quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Xuyên suốt ba mươi năm
đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn thấm nhuần sâu sắc chân lý "Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công" của Chủ tịch Hồ
chí Minh. Do vậy, việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc được
quan tâm đặc biệt. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ khóa VI
đến khóa XII đều nhấn mạnh đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngoài ra, Đảng còn có các Nghị quyết chuyên đề về xây dựng và phát huy
khối đại đoàn kết dân tộc như Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 17 tháng 11
năm 1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường
Mặt trận Dân tộc thống nhất; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX (tháng 1 năm 2004) về Phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đây là những định hướng quan trọng cho hệ thống chính trị và Nhân
dân trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết. Sự quan tâm đặc biệt đó đã
thúc đẩy huy động nhiều nguồn lực, không ngừng đổi mới phương thức để
khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, đứng vững trước tác động liên tục
của mặt trái kinh tế thị trường và hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch. Đánh giá kết quả xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong 25
năm đổi mới, văn kiện Đại hội XII nhận định: Khối đại đoàn kết toàn dân tộc
tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có
nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
143
nhân dân có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát
huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã
hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước,
góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Đạt được kết
quả trên là do Đảng và Nhà nước luôn chủ trương nhất quán, phát huy cao
độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Kết quả đạt được trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc là
rất to lớn. Thông qua đó, quyền làm chủ của Nhân dân trong tham gia quản lý
Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội đã từng bước được phát huy, góp phần tích
cực động viên Nhân dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh bằng tất cả
mọi nguồn lực, tiềm năng của mình. Bài học rút ra từ xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộclà: Khi toàn dân đã đồng tình thì chắc chắn sẽ dẫn đến đồng lòng,
đồng sức làm cách mạng với mọi khả năng cao nhất. Khi đó, đất nước ta, sự
nghiệp cách mạng của chúng ta luôn gặt hái thành tựu bởi "Trong thế giới,
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân".
Sức mạnh của Nhân dân quyết định nguồn nội lực của đất nước. Để
đảm bảo cho nguồn lực quốc gia được duy trì, không ngừng gia tăng cần phải
có sự "cộng hưởng" với ngoại lực. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam cho
thấy, mặc dù xác định sức mạnh đoàn kết của Nhân dân là vô địch, mặc dù
xem dựa vào sức mình là chính, nhưng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
không vì thế mà đặt nội lực trong trạng thái bị cô lập. Trái lại, càng xem trọng
nội lực thì càng phải đặt nội lực trong môi trường gắn kết với ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Những năm sau giải phóng miền
Nam, trong khi cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp làm suy yếu
nội lực thì quan hệ quốc tế chủ yếu "khép kín" với các nước thuộc hệ thống xã
hội chủ nghĩa khiến cách mạng Việt Nam không tranh thủ được tối đa ngoại
144
lực để làm tốt nhiệm vụ khôi phục và phát triển đất nước. Việc thu hút ngoại
lực trong thời gian này chủ yếu là "xin viện trợ". Tuy nhiên, sự suy yếu, sụp
đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa – quan hệ quốc tế chủ yếu của nước ta –
khiến cho nguồn lực này bị cắt giảm nghiêm trọng, tạo nên hụt hẫng không
nhỏ, tác động tiêu cực rất lớn đến nội lực. Nhận thấy điều này, khi khởi
xướng đổi mới, Đại hội VI khẳng định bài học: phải biết kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Nước ta có thể từ
một nền sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa là vì cuộc cách mạng ở nước ta diễn ra trong thời đại
quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới... Sự phát triển của
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày nay và xu thế mở rộng phân công,
hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau,
cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội của nước ta. Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, chúng ta
phải đặc biệt coi trọng kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền
thống và thời đại, sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp
tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, và luôn luôn làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình đối
với các nước anh em và bầu bạn.
Quan điểm này được thực hiện, bổ sung và phát triển trong nhiều
nhiệm kỳ Đại hội sau đó. Sự phát triển công tác ngoại giao trong gần ba mươi
năm qua đã mang lại nguồn ngoại lực to lớn cho sự nghiệp đổi mới. Đảng
tổng kết: Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu,
góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các nước
láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng. Hoàn
thành phân giới cắm mốc trên đất liền với Trung Quốc; tăng dày hệ thống
mốc biên giới với Lào; hoàn thành một bước phân giới cắm mốc trên đất liền
với Campuchia; bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc
Bộ với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển phía Tây Nam với các nước
145
liên quan. Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và
quốc tế; đảm nhiệm tốt vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc; đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm
thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các
nước Đông Nam Á (AIPA). Quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân,
đảng cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân
dân tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết
quả tích cực. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng
thắn về tự do, dân chủ, nhân quyền. Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), ký kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp
tác với các đối tác; góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị
trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn tài
trợ quốc tế khác.
Có thể nói, trong ba mươi năm đổi mới chúng ta đã làm cho nguồn lực
của Nhân dân chuyển từ trạng thái "ngủ đông", suy giảm sang "thức tỉnh", gia
tăng. Đây là cội nguồn của những thành tựu. Thực tiễn thắng lợi đó được
Đảng đúc rút thành bài học:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân.
Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi
mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc
đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới
tiến lên, giành những thành tựu lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở
rộng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, cả ở trong nước và ở nước ngoài,
phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [40, tr.73].
146
Tiểu kết Chương 4
Chương 4 tập trung làm rõ ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
về Nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay thông qua phân
tích, luận chứng giá trị, vai trò của tư tưởng đó đối với việc hoạch định đường
lối đổi mới cũng như đối với thực tiễn thắng lợi trong ba mươi năm qua (1986
– 2015), cụ thể như sau:
Thứ nhất, công cuộc đổi mới phải đạt tới mục tiêu và lý tưởng của
Nhân dân Việt Nam. Đổi mới là yêu cầu sống còn của cách mạng. Tuy nhiên,
lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy không phải lúc nào đổi mới cũng được
thực hiện đúng với tầm vóc cần có. Thực tiễn cho thấy, mỗi khi chúng ta
chậm đổi mới, thậm chí là không đổi mới, thì giai đoạn cách mạng đó luôn
gặp khó khăn, tổn thất, rơi vào thoái trào, nghiêm trọng hơn là đi đến khủng
hoảng. "Cái mới", "cái tốt" mà cách mạng phải vươn tới tạo dựng bị bao vây,
đè nén bởi "cái cũ", "cái xấu". Những lúc như thế, cách mạng không thực hiện
tốt mục tiêu "vì dân" - quyền lợi của Nhân dân không được chăm lo đầy đủ,
thậm chí bị xâm hại. Về phương diện lý luận, đó cũng là thời gian chúng ta xa
rời, hiểu và vận dụng không đúng nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của cách mạng – chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba thập kỷ trôi qua kể từ mốc son khởi xướng (12/1986 ), ngần ấy thời
gian là chưa nhiều so với dòng chảy vô tận của cách mạng nhưng suốt tiến
trình đó, trong tất cả các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, dù
cách diễn đạt có khác nhau, song tinh thần cơ bản của các bài học được rút ra
là: “... đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân". Bài học này không chỉ là ngọn
nguồn để sự nghiệp đổi mới được khởi xướng mà còn là kim chỉ nam định
hướng cho quá trình đổi mới thực sự đáp ứng mục tiêu và lý tưởng của toàn
dân đã được đề cập trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân: cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện.
Thứ hai, muốn gặt hái nhiều thành tựu, đạt tới được mục tiêu và lý
tưởng của Nhân dân, công cuộc đổi mới phải phát huy được toàn bộ sức mạnh
147
của Nhân dân. Để đi đúng định hướng này, điều kiện tiên quyết ở chỗ xác
định rõ ràng và dứt khoát chủ thể của cách mạng là Nhân dân vốn được Hồ
Chí Minh xem là tiêu chí mang tính nguyên tắc, vừa là mục tiêu tiên quyết
cần đạt tới vừa là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh có ý nghĩa quyết định thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đi liền với sự khẳng định vị thế của
Nhân dân là phải nhận rõ và phát huy được mọi tiềm năng, nguồn lực vĩ đại
của Nhân dân thông qua quán triệt và thực hiện đúng đắn, sáng tạo việc phát
huy dân chủ - dân vận khéo – đại đoàn kết toàn dân kết tinh trong tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân.
Được khởi xướng từ cuối năm 1986, công cuộc "đổi mới là sự lựa chọn
cách mạng nhằm mục tiêu phát triển của Việt Nam". Trong toàn bộ quá trình
đổi mới, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về
Nhân dân nói riêng được "nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển...
lấy đó làm cơ sở xuất phát để hoạch định và hoàn thiện đường lối". Sự nghiệp
đổi mới diễn ra ba mươi năm. Thành tựu đạt được là to lớn và đáng tự hào
làm rõ hơn tầm vóc của Nhân dân – người là chủ và làm chủ thật sự của toàn
bộ quá trình đổi mới. Thực tiễn thắng lợi đó làm sáng tỏ bài học: Khi nào, ở
đâu chúng ta trung thành, vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh thì cách mạng gặt hái thành tựu; ngược lại, nếu xa rời, vận dụng
thiếu đúng đắn, thiếu sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiêm trọng hơn là
làm sai, thì cách mạng gặp khó khăn, thậm chí là tổn thất.
148
KẾT LUẬN
Nhiệm vụ của luận án là làm rõ những nội dung chủ yếu của tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với sự
nghiệp đổi mới hiện nay. Nội dung của các chương đã giải quyết được yêu
cầu này, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về những nội dung chủ yếu của tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về nhân dân.
Luận án khẳng định tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là bộ phận bao
trùm, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hệ thống các quan điểm chính
trị của Người, Nhân dân đứng ở vị trí trung tâm, vừa là đối tượng được đề cập
nhiều nhất, vừa là mục tiêu hướng đến của Hồ Chí Minh, vừa là động lực
đóng vai trò quyết định tác động đến sự hình thành và phát triển tư tưởng
chính trị nói riêng, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Nội dung của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân có thể phân
chia thành hai nhóm chính:
Một là, các quan điểm về vị trí, vai trò của Nhân dân đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh quan niệm về Nhân dân vừa có biên độ rất rộng, là toàn
dân tộc, vừa có sự chọn lọc khi đề ra tiêu chuẩn yêu nước, vai trò tiến bộ.
Nhân dân là cộng đồng xã hội không chung chung, đồng nhất, mà có sự khác
biệt về giai tầng, tôn giáo, dân tộc, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp,... trong đó
liên minh công nhân – nông dân – trí thức là nền tảng. Tính cộng đồng và tính
giai cấp tồn tại thống nhất trong Nhân dân.
Vị trí, vai trò của Nhân dân đối với cách mạng Việt Nam thể hiện ở
chỗ Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Xác
định nhân dân là mục tiêu của cách mạng là vấn đề có tính chiến lược, được
duy trì và phát triển theo hướng không ngừng củng cố, bổ sung ở mọi phạm
vi, cấp độ, thể hiện tựu trung qua: (1) Dân tộc độc lập; (2) Nhân dân tự do; (3)
149
Nhân dân hạnh phúc; (4) Dân trí nâng cao; (5) Thực hành dân chủ. Mục tiêu
vì Nhân dân trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt, ngọn hải đăng dẫn đường cho
toàn bộ quan điểm, hành vi chính trị của Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách
mạng Việt Nam.
Nhân dân là động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam thể hiện ở
chỗ là chủ thể và lực lượng của sự nghiệp cách mạng; trực tiếp xây dựng, nuôi
dưỡng và bảo vệ chế độ chính trị; nguồn cung cấp đội ngũ cán bộ, đảng viên
cho cách mạng. Mặt khác, Nhân dân là động lực của tư tưởng Hồ Chí Minh –
nền tảng tư tưởng của cách mạng Việt Nam. Nhân dân là nguồn cảm hứng,
môi trường nảy sinh và nuôi dưỡng, môi trường thực hiện, thử thách và kiện
toàn nên giá trị to lớn của hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh. Đến lượt mình,
tư tưởng Hồ Chí Minh là động lực soi đường cho tiến trình thắng lợi trong sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Hai là, các quan điểm về đảm bảo vị trí, vai trò nêu trên của Nhân dân
thông qua sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp của Hồ Chí Minh mang nội dung chính trị đậm nét. Trên
cách nhìn chung nhất, sự nghiệp đó phản ánh hai giai đoạn cơ bản của cách
mạng Việt Nam: Giai đoạn thứ nhất, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân với nhiệm vụ đánh đổ sự thống trị của chủ nghĩa thực dân đế quốc
giành độc lập cho dân tộc, xóa bỏ tàn tích chế độ phong kiến và tiền phong
kiến đem lại ruộng đất cho nông dân, thực hiện quyền tự do, dân chủ cho
nhân dân và thiết lập chế độ cộng hòa dân chủ, mở đường cho xã hội phát
triển; Giai đoạn thứ hai tiếp nối theo đó là tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa nhằm bảo vệ và phát triển thành quả đạt được trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân, xây dựng đất
nước phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trên tất
cả các vấn đề cơ bản, từ con đường, mục tiêu, lực lượng, lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đến đối tượng, nhiệm vụ, quan hệ quốc tế của cách mạng Việt Nam
đều xoay quanh vấn đề lợi ích của Nhân dân, đều vì sự phát triển của Nhân
150
dân, đều đảm bảo vị trí, vai trò vốn có của Nhân dân. Lợi ích và sự phát triển
của Nhân dân là cặp đôi song trùng mà sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới
ánh sáng soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh hướng đến.
Thứ hai, về ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân
dân đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Đổi mới là yêu cầu có ý nghĩa sống còn đối với đất nước. Để đổi mới
thành công, đạt nhiều thành tựu, chúng ta xác định rõ ràng và dứt khoát phải
quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động bài học "lấy dân làm gốc". Để
đảm bảo đi đúng định hướng, sự nghiệp đổi mới phải xác định mục tiêu vì
dân. Để có thể vượt qua khó khăn, thách thức mà tiến lên, sự nghiệp đổi mới
phải khai thác, phát huy được sức mạnh của Nhân dân. Đây là vấn đề có ý
nghĩa quyết định. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân là hệ thống lý
luận khoa học làm nền tảng cho hệ thống chính trị trong việc hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách, quan điểm, đồng thời là kim chỉ nam cho
tổ chức thực tiễn, nhằm đảm bảo mục tiêu vì Nhân dân của sự nghiệp đổi mới
cũng như tập hợp, khai thác, phát huy sức mạnh của Nhân dân để đổi mới đạt
nhiều thành tựu.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Phương An (2011), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về “Dân
vận khéo””, Tạp chí Mặt trận, (10).
2. Nguyễn Phương An (2012), “Chủ trương xây dựng và kiện toàn Ủy
ban nhân dân các cấp sau Cách mạng tháng Tám năm 1945”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, (8).
3. Nguyễn Phương An (2013), “Củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Mặt trận, (117 – 118).
4. Nguyễn Phương An (2016), “Vấn đề Nhà nước thuộc về Nhân dân
trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (6).
5. Nguyễn Phương An (2016), “Nhân dân là động lực trong tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (247).
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
1. Ahn Kyong Hwan (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh qua cảm nghĩ của một
người Hàn Quốc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120
năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị -
Hành chính, Hà Nội.
2. A.X. Varônhin (2010), Chính sách xã hội và tinh thần thời đại của Hồ
Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm
ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
3. A.M. Ru-mi-an-txép (Chủ biên) (1986), Chủ nghĩa cộng sản khoa học từ
điển, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, Nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội.
4. A. Pátti (1995), Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?), Nhà xuất bản Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
5. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (Chủ biên) (2005), Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Nhà xuất bản Lý luận chính
trị, Hà Nội.
6. Phạm Ngọc Anh (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Phạm Ngọc Anh (2011), "Quan điểm của Hồ Chí Minh về các biện pháp
phát huy nguồn lực của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất
nước", Tạp chí Lịch sử Đảng, (12).
8. Nguyễn Thị Mai Anh (2002), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân và dân
chủ", Tạp chí Dân vận, (12).
9. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2003), Tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, lãng phí (Tài liệu chỉ đạo,
153
hướng dẫn thực hiện; Lưu hành nội bộ), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
10. Ban Dân vận Trung ương (1997), "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra" – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
11. Ban Dân vận Trung ương (2001), Tập bài giảng về công tác dân vận ở
cơ sở, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Ban Dân vận Trung ương, Nguyễn Thế Trung (chủ biên) (2014), Tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và Dân trong thời kỳ mới, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Ban Dân vận Trung ương (2014), Nghiệp vụ công tác của cán bộ dân
vận, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Ban Dân vận Trung ương, Vụ Nghiên cứu (2014), Tập bài giảng về
Công tác Dân vận, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Ban Tổ chức Trung ương – Tạp chí Cộng sản – Thành ủy Thành phố Hồ
Chí Minh (2012), Bàn về giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
16. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2006), Chuyên đề nghiên cứu
Nghị quyết Đại hội X của Đảng (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo
cáo viên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Báo Nhân dân (2013), Những việc cần làm ngay về xây dựng Đảng, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Một số bài
nghiên cứu về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng đăng trên
các tạp chí, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hoàng Chí Bảo (2004), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nhà xuất
bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
154
20. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Hoàng Chí Bảo (2013), "Truyền thống và giá trị của Đảng nhìn từ mối
quan hệ giữa Đảng với Dân", Tạp chí Lịch sử Đảng, (1).
22. Nguyễn Quốc Bảo (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng,
Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
23. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên) (2010), Sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
24. Lê Đức Bình (2003), Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Trần Văn Bính (2000), Vai trò văn hóa trong hoạt động chính trị của
Đảng ta hiện nay, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
26. Trần Văn Bính (2011), Xây dựng văn hóa, đạo đức, lối sống của người
Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
27. Phạm Văn Bính (chủ biên) (2008), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Phạm Văn Bính (2013), "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân quyền",
Đặc san Hồ Chí Minh học, (1).
29. Bộ Giáo dục và đào tạo (2011), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dành
cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
30. Trần Nam Chuân (2008), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước kiểu
mới”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (12).
31. Phạm Hồng Chương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nhà
xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
155
32. Phạm Ngọc Dũng (2009), Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận
- thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006) (Lưu hành nội bộ),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo
Tổng kết (2015), Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Tập I, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 51, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
46. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Phạm Văn Đồng (2009), Hồ Chí Minh – Tinh hoa và khí phách của dân
tộc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Trần Kim Đỉnh (2008), “Về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể để thực hiện tốt quyền làm chủ của
nhân dân”, Tạp chí Dân vận, (11).
49. Trần Ngọc Đường (2012), "Phấn đấu để "Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân"", Tạp chí Dân vận, (2).
50. Nguyễn Tất Giáp (2014), "Trọng dân, thân dân – Tư tưởng nổi bật trong
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Lịch sử Đảng, (9).
51. Geetesh Sharman (2010), Đấng cứu tinh của hòa bình, độc lập và hạnh
phúc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.
52. Hồng Hà (2000), Sức mạnh nhân dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
53. Hồ Anh Hải (2012), Chuyển biến nhận thức về nhân quyền ở Trung
Quốc, Tạp chí Tia sáng, tại trang www.tiasang.com.vn, [truy cập
ngày 2/3/2014].
54. Mai Trung Hậu (2009), “Khái niệm nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).
55. Vũ Văn Hiền (chủ biên) (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
56. Đỗ Trung Hiếu (2003), Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng
nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
57. Nguyễn Đình Hòa (2011), "Độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân
cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Triết học, (5).
58. John Lê Văn Hóa (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong tư
tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội.
59. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xây dựng Đảng (1999),
Xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh tiểu sử,
Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
61. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Đảng
Cộng sản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, Nhà xuất bản
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
62. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, Khoa Chính trị học (2010),
Chính trị học – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam
(1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 1, Trung tâm biên soạn
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
64. Vũ Đình Hòe (2007), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nhà xuất
bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
65. Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền,
Nguyễn Viết Thông (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Lê Quốc Hùng (2007), "Về vấn đề hoàn thiện hành lang pháp lý để tăng
cường sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội",
Tạp chí Cộng sản, (8).
158
67. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2010), Đảng Cộng sản cầm quyền - Nội
dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
68. Trần Thị Thu Hương (2010), “Vì nhân dân – Cội nguồn làm nên sức
mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam qua 80 năm hoạt động và trưởng
thành”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, tại trang
www.dangcongsan.vn, [truy cập ngày 5/4/2014].
69. Trần Thị Thu Hương (2005), "Vai trò của nhân dân trong công cuộc xây
dựng nhà nước hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (9).
70. Nguyễn Mạnh Hưởng (2004), "Củng cố và tăng cường hơn nữa mối
quan hệ biện chứng giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ", Tạp chí Quốc phòng, (11).
71. Đỗ Trung Hiếu (2003), Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng
nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
72. Nguyễn Đắc Hưng (2004), "Mối quan hệ "Dân – Đảng" trong tư tưởng
Hồ Chí Minh", Tạp chí Khoa giáo, (4).
73. Đới Lập Hưng (2012), Phân tích hiện trạng, đặc điểm và đối sách của
mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng ở Trung Quốc, Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc, (1).
74. Igơnaxiô Gônxalết Hanxen (2010), Tinh thần Hồ Chí Minh ở Mỹ Latinh,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
75. Vũ Trọng Kim (2006), “Tăng cường mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng,
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tạo cơ sở để thực hiện
tốt quyền làm chủ của nhân dân”, Tạp chí Dân vận, (5).
76. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2010), Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
77. Phạm Huy Kỳ (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giải quyết mối
quan hệ cá nhân – xã hội trong đạo đức của người cán bộ cách
mạng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
79. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 11, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 13, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
160
91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 14, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn Tập, Tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
93. Trương Ngọc Nam, Hoàng Anh (đồng chủ biên) (2011), Đảng ta là đạo
đức là văn minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), Bước ngoặt mới trong nỗ lực xoá đói,
giảm nghèo, Tạp chí Cộng sản, tại trang
www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 24/7/2015].
95. Vũ Hữu Ngoạn (2011), Về mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh””, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tại trang
www.tapchiqptd.vn, [truy cập ngày 16/5/2014].
96. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn quốc gia (2002), Đổi mới để phát triển, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
97. Trần Nhâm (1997), Có một Việt Nam như thế đổi mới và phát triển, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng thiên tài, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Trần Quang Nhiếp (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân
dân trong sự nghiệp cách mạng”, Tạp chí Cộng sản, (31).
100. Lê Hữu Nghĩa (2013), “Tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong
công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (11).
101. Dương Xuân Ngọc (2005), “Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành
công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Dân vận,
(10).
161
102. Hà Quang Ngọc, Nguyễn Minh Phương (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về tổ chức nhà nước và cán bộ, công chức, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
103. Nguyễn Nguyên (2001), Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa trong
thế giới toàn cầu hóa, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
104. Phạm Bá Lượng (2005), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về "lấy dân làm
gốc"", Tạp chí Triết học, (2).
105. Lê Quốc Lý (2014), "Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
"không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân", Tạp chí Lịch sử
Đảng, (9).
106. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện
nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
107. Nguyễn Xuân Oánh (2001), Đổi mới – Vài nét lớn của một chính sách
kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh
108. Nguyễn Trọng Phúc (1991), Về xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân
dân trong những năm 1975 – 1990, Luận án tiến sĩ chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
109. Lê Khả Phiêu, Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng
vững bước tiến vào thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
110. Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh (2005), Công tác xây dựng Đảng
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước,
Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
111. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
112. Bùi Đình Phong (2010), “Nhân dân – Một phạm trù văn hóa chính trị
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tuyên giáo, (3).
113. Bùi Đình Phong (2011), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân là gốc”, Báo
Diễn đàn doanh nghiệp, tại trang
www.diendandoanhnghiep.com.vn, [truy cập ngày 11/6/2015].
114. Vũ Văn Phúc – Ngô Văn Thạo (2011), Những giải pháp và điều kiện
thực hiện phòng chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong
cán bộ, đảng viên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Nguyễn Thế Phúc (2014), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy quyền
dân chủ để nhân dân tích cực tham gia quản lý nước nhà”, Tạp chí
Mặt trận, (7).
116. Đào Bá Phương (1998), Vấn đề dân chủ trên lĩnh vực chính trị ở nông
thôn Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay (qua khảo sát
vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long), Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
117. Phạm Ngọc Quang, Nguyễn Viết Thông (2000), Góp phần tìm hiểu sự
phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới
trên các lĩnh vực chủ yếu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Phạm Ngọc Quang, Trần Đình Nghiêm (chủ biên) (2001), Thời kỳ mới
và sứ mệnh của Đảng ta (Nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của
Đảng), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Lê Minh Quân (2009), Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph.Ănghen, V.I.
Lênin và Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 9-11-1946),
Cơ sở dữ liệu Bộ Tư pháp tại trang http://moj.gov.vn, [truy cập
ngày 21/3/2014].
163
121. Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2003), Làm người cộng
sản trong giai đoạn hiện nay (Sách tham khảo), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng
chủ biên) (2006), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ
1986 đến nay (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
123. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (đồng chủ biên) (2005), Thể chế dân
chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
124. Nhật Tân (2007), "Tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Quốc hội với
nhân dân", Tạp chí Cộng sản, (5).
125. Vũ Minh Tâm (2006), "Quan niệm về dân của phong trào Duy Tân đầu
thế kỷ XX ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (2+3).
126. Nguyễn Thị Tâm (2007), Dân chủ ở cơ sở và vấn đề thực hiện dân chủ
ở nông thôn nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính
trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
127. Đặng Văn Thái (2009), "Những tâm huyết trong Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân", Tạp chí Dân
vận, (9).
128. Phạm Hồng Thái (2012), "Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước
qua các Hiến pháp Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (1).
129. Trần Thị Băng Thanh (2002), Vai trò của Nhà nước đối với việc thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
130. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nhà xuất bản
Lý luận chính trị, Hà Nội.
164
131. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Mạch Quang Thắng (chủ biên) (2009), Hồ Chí Minh – Nhà cách mạng
sáng tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
133. Nguyễn Thế Thắng (2008), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố nhân
dân và dư luận xã hội trong đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng”, Tạp chí Cộng sản, (789).
134. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Lao động, Hà Nội.
135. Nguyễn Đài Trang (2010), Hồ Chí Minh – Tâm và tài của một người
yêu nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136. Nguyễn Đài Trang (2013), Hồ Chí Minh – Nhân văn và phát triển, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
137. Huyền Trang (2010), “Không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân
như mong ước của Bác Hồ”, Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam,
tại trang www.vov.vn, [truy cập ngày 20/9/2014].
138. Nguyễn Phú Trọng (2002), Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình
đổi mới đất nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Nguyễn Phú Trọng (2005), Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. Nguyễn Phú Trọng (chủ biên) (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được
giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
141. Nguyễn Phú Trọng (27/5/2016), “Phát biểu tại Hội nghị triển khai
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội 12 của Đảng
và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân
vận”, Báo Tiền Phong online tại trang www.tienphong.vn, [truy cập
ngày 05/6/2016].
165
142. Trần Xuân Trường (1996), Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận cấp bách, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
143. Trung tâm Thông tin – Tư liệu, Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1994), Tư tưởng Hồ Chí
Minh – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Thông tin chuyên đề, Tài
liệu tham khảo phục vụ lãnh đạo nghiên cứu và giảng dạy, Hà Nội.
144. Lê Minh Thông (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở
Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. Nguyễn Tiến Thịnh (Chủ biên) (2005), Công tác dân vận của các cơ
quan nhà nước trong thời kỳ mới, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
146. Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng (1997), Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
147. Trần Hữu Tiến (2007), “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, Tạp chí Cộng sản tại trang
www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 12/7/2015].
148. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
149. Nguyễn Thanh Tuyền (2005), “Phương pháp dân vận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh qua bài báo “Dân vận”- ý nghĩa thực tiễn”, Tạp chí Dân
vận, (10).
150. Tsuboi Yoshiharu (2011), Khảo cứu lại Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo
Việt Nam học lần thứ 3, Tập 1, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
151. Vladimir N. Kolotov (2015), "Hệ tư tưởng Hồ Chí Minh – Hợp phần
then chốt của thắng lợi và cải cách thành công của Việt Nam", Đặc
san Hồ Chí Minh học, (2).
166
152. Hồng Văn (2013), "Để tăng cường giám sát của nhân dân trong xây
dựng Đảng, chính quyền", Tạp chí Dân vận, (3).
153. V.I. Lênin (1972), Toàn tập, Tập 2, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
154. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
155. VI. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 45, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
156. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam – Chương trình phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP) (2015), Tăng trưởng vì mọi người – Báo
cáo phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm,
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
157. Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (1986), Từ điển Triết học, Nhà xuất
bản Tiến Bộ, Mát-xcơ-va,.
158. Lê Xuân Vũ (2003), Trong ánh sáng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh,
Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
159. Đức Vượng (1995), Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân
tài, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
161. Đỗ Xuân (2009), “Học Bác lấy dân làm gốc”, Tạp chí Xây dựng Đảng,
(9).
162. Đào Trí Úc, Đinh Phượng Huỳnh (2012), “Chế định chủ quyền nhân
dân và việc sửa đổi Hiến pháp 1992”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, (17).
163. UNESCO (1987), Nghị quyết số 18.65 Kỉ niệm 100 năm ngày sinh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội đồng thông qua tại Kỳ họp thứ 24,
Paris, 20 tháng 10 đến 20 tháng 11 năm 1987.
164. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1981), Hội nghị khoa học nghiên
cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh
của Hồ Chủ tịch (1890 - 1980), Hà Nội.
167
165. Nguyễn Lương Uyên (2014), "Phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Đặc
san Hồ Chí Minh học, (2).
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NƯỚC NGOÀI
166. Bernard (1967), Ho Chi Minh on Revolution, Frederick A. Praeger.
167. David Halberstam (1971), HO, Random House, New York.
168. Paul Mus (1971), Ho Chi Minh, Le Vietnam, L'Asie, Paris, Seuil.
169. Jean Lacouture (1968), Ho Chi Minh, A Political Biography, Random
House, New York.
170. Jean Sainteny (1970), Face à Ho Chi Minh, Édition Seghers, Paris.
171. William J. Duiker (2000), Ho Chi Minh, A Life, Hyperion Books, New
York.