hàng hóa công cộng

6
Hàng hóa công cộng Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh tranh và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không mang hai tính chất trên. Tính chất của hàng hóa cộng cộng Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng. Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như quốc phòng , ngoại giao , đèn biển , phát thanh ...Các hàng hóa đó có chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng. Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn.

Upload: dong-hai-nguyen

Post on 02-Aug-2015

53 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Hàng hóa công cộng

Hàng hóa công cộngHàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh tranh và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không mang hai tính chất trên.

Tính chất của hàng hóa cộng cộng

Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng.

Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó.

Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy

Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như quốc phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh...Các hàng hóa đó có chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng.

Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn.

Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công cộng địa phương

Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung cấp cho toàn bộ quốc gia. Những loại hàng hóa có cả hai tính chất trên ở mức cao sẽ thường được xếp vào hàng hóa công cộng quốc gia. Một số hàng hóa công cộng quốc gia tiêu biểu là ngoại giao, quốc phòng, chính sách lưu thông tiền tệ, v.v…

Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung cấp chủ yếu cho công dân địa. Hàng hóa công cộng địa phương thường chỉ mang một trong hai tính chất nói trên hoặc mang cả hai tính chất nhưng ở mức độ không cao. Một số hàng hóa công cộng địa phương tiêu biểu là giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch, v.v…

Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công cộng không bó hẹp trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có tính chất quốc tế. Tri thức có thể coi là một hàng hóa công cộng quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều có thể được hưởng lợi ích do tri thức đem lại.

Page 2: Hàng hóa công cộng

Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng

Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng điều đó là không được mong muốn

Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thể được hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức phí quá cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng người sử dụng có thể thấp hơn điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội xảy ra.

Hình bên là đồ thị minh họa trường hợp một cây cầu có công suất thiết kế là Qc, trong khi nhu cầu đi lại tối đa qua đó chỉ là Qm. Nếu việc qua cầu miễn phí thì sẽ có Qm lượt người đi qua nhưng nếu thu phí ở mức p thì chỉ còn Qe lượt và xã hội bị tổn thất một lượng bằng diện tích hình tam giác bôi đậm. Do vậy, đối với hàng hóa công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá.

Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng không hiệu quả là nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một người có vườn bên đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều người cùng được thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân mình chứ không tính đến nhu cầu của những người hàng xóm, chính vì vậy người đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi.

Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất lớn

Page 3: Hàng hóa công cộng

Hàng hóa công cộng có chi phí giao dịch lớn

Có những hàng hóa công cộng mà chi phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm loại trừ bằng giá (gọi là chi phí giao dịch) rất tốn kém, ví dụ chi phí để duy trì hệ thống các trạm thu phí trên đường cao tốc,...thì có thể sẽ hiệu quả hơn nếu cung cấp nó miễn phí và tài trợ bằng thuế. Tuy vậy, để cân nhắc việc này cần so sánh tổn thất phúc lợi xã hội trong hai trường hợp.

Đồ thị bên phải mô tả việc lựa chọn này. Giả sử hàng hóa công cộng có chi phí biên để sản xuất là c và do phát sinh thêm chi phí giao dịch nên giá của nó bị đẩy lên tới p. Mức cung cấp hàng hóa cộng cộng hiệu quả nhất là khi chi phí biên bằng lợi ích biên nghĩa là Qo. Tuy nhiên do giá bị đẩy lên p bởi chi phí giao dịch nên chỉ còn Qe người sử dụng hàng hóa, xã hội bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích tam giác ABE. Thế nhưng nếu hàng hóa được cung cấp miễn phí thì sẽ có Qm người sử dụng chứ không phải Qo. Trong trường hợp này lợi ích biên (chính là đường cầu) nhỏ hơn chi phí biên c nên xã hội cũng bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích hình tam giác EFQm do tiêu dùng quá mức. Trong trường hợp này chính phủ muốn quyết định xem nên cung cấp hàng hóa công cộng miễn phí hay thu phí cần phải so sánh tổn thất phúc lợi xã hội, nếu tổn thất do tiêu dùng quá mức nhỏ hơn tổn thất trong trường hợp tiêu dùng dưới mức hiệu quả thì cung cấp miễn phí và ngược lại. Tuy nhiên việc cung cấp hàng hóa cộng cộng miễn phí hay thu phí hoàn toàn không liên quan đến khu vực công cộng hay khu vực tư nhân sẽ sản xuất nó. Nếu chính phủ thấy rằng một hàng hóa công cộng nào đó cần được cung cấp miễn phí thì chính phủ hoàn toàn có thể đặt hàng khu vực tư nhân sản xuất rồi cung cấp nó.

~ ~ ~ o0o ~ ~ ~

Sản xuất hàng hóa và sau đó tiền tệ ra đời, đánh dấu sự phát triển về chất của kinh tế nhân loại. Đồng thời, dưới tác động của tiến bộ khoa học, kỹ thuật, của lực lượng sản xuất; sản xuất, lưu thông trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển và kéo theo sau đó là sự xuất hiện ngày càng đa dạng các loại thị trường; cơ chế thị trường hoạt động ngày càng linh hoạt, rộng khắp. Khi nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì gọi là nền kinh tế thị trường hoặc mô hình kinh tế thị trường, hay kinh tế thị trường. Đến thời điểm ngày nay, dù kinh tế thị trường có những khuyết tật bản chất của nó, nhưng đây vẫn là mô hình kinh tế ưu việt nhất.

Page 4: Hàng hóa công cộng

Lịch sử phát triển kinh tế thị trường nhân loại, tới hôm nay, ở góc độ tổng quát có thể phân thành hai mô hình: mô hình kinh tế thị trường ”cổ điển“ và mô hình kinh tế thị trường “hiện đại”.

Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là duy trì, và khuyến khích rộng rãi tự do cạnh, tự do trao đổi, tự do tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở tín hiệu và sự điều tiết của thị trường. Do vậy, hoạt động của mọi chủ thể kinh tế, sự vận động của giá cả đều chịu tác động trực tiếp của hệ thống quy luật kinh tế thị trường, mà A.Smit gọi là “Bàn tay vô hình“. Trong giai đoạn vận động, phát triển của kinh tế thị trường “cổ điển“, Nhà nước chỉ đóng vai trò “giữ nhà“, nghĩa là Nhà nước can thiệp rất hạn chế và mang tính gián tiếp vào các hoạt động kinh tế. Tiêu biểu của mô hình này là nền kinh tế Tây Âu từ thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XIX.

Ưu điểm nổi bật của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là nền kinh tế phát triển năng động, linh hoạt. Nhưng sự tồn tại và vận động của nền kinh tế theo mô hình này đến một giai đoạn nhất định, khi trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất cao, thì những khuyết tật của thị trường bộc lộ một cách mạnh mẽ, mâu thuẫn nội tại trong phát triển ngày càng gay gắt, khủng hoảng kinh tế bột phát với sức tàn phá nặng nề. Mà cuộc khủng hoảng 1929-1933 là một minh chứng.

Khuyết tật và mâu thuẫn trong phát triển kinh tế thị trường “cổ điển“ đã đặt ra yêu cầu khách quan về sự can thiệp, điều tiết sâu, rộng hơn của Nhà nước vào nền kinh tế. Và mô hình kinh tế mới xuất hiện – mô hình kinh tế thị trường hiện đại, hay còn gọi là nền kinh tế “hỗn hợp“. Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường hiện đại là có “hai người“ tham gia điều tiết nền kinh tế, đó là thị trường điều tiết ở tầm vi mô, Nhà nước điều tiết ở tầm vĩ mô; có “hai người” thực hiện các hoạt động đầu tư là Nhà nước và tư nhân. Khó khăn lớn nhất trong kinh tế thị trường hiện đại là xác định giới hạn sự can thiệp, điều tiết giữa thị trường và Nhà nước với tính khoa học, khả thi trong những công cụ mà Nhà nước sử dụng để điều tiết kinh tế. Vì giới hạn sự can thiệp và điều tiết của Nhà nước cũng như của thị trường ở những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế không phải là bất biến. Trong khi đó, nếu Nhà nước can thiệp quá sâu, chính sách của Nhà nước không khoa học và thiếu khả thi thì sẽ làm triệt tiêu những ưu thế, những động lực của thị trường. Ngược lại, nếu Nhà nước can thiệp không đủ liều lượng thì sẽ tạo điều kiện cho những khuyết tật của thị trường phát sinh tác động tiêu cực mạnh mẽ. Tương tự, trong lĩnh vực đầu tư, nếu kinh tế Nhà nước và phạm vi độc quyền của kinh tế Nhà nước quá rộng, sẽ hạn chế tính năng động, sáng tạo và khả năng thu hút nguồn lực của kinh tế tư nhân. Ngược lại, nếu tiềm lực kinh tế của Nhà nước quá yếu, cũng sẽ hạn chế hiệu quả can thiệp, điều tiết của Nhà nước khi cần thiết và sự thiếu hụt hàng hóa công cộng sẽ trầm trọng.

Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử kinh tế thị trường nhân loại rất đa dạng, phong phú. Dưới đây xin điểm qua một số mô hình với những nét cơ bản nhất của nó.