giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay thực trạng và...
DESCRIPTION
Giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay thực trạng và giải phápTRANSCRIPT
LUẬN VĂN:
Giáo dục quyền con người, quyền
công dân trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền ở nước ta
hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người, quyền công dân là những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã
hội dân chủ, văn minh. Tư tưởng về quyền con người (nhân quyền) đã hình thành từ rất
sớm trong lịch sử nhân loại; nhưng không phải trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào,
trong bất cứ kiểu Nhà nước nào nó cũng tồn tại và được thừa nhận một cách đầy đủ. Vì
thế, quyền con người là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không
ngừng của toàn nhân loại vươn tới những lý tưởng, giải phóng hoàn toàn con người nhằm
xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ, nhân đạo.
Giai cấp tư sản khi thực hiện cách mạng tư sản, đã coi nhân quyền như một vũ
khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến và để tập hợp lực lượng
trong xã hội; do đó từ thế kỷ XVIII vấn đề nhân quyền đã được giai cấp tư sản đề cập đến
như Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1789, Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Pháp năm 1789.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị đập tan năm
1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên của tổ
chức này là vấn đề nhân quyền. Nhân quyền đã trở thành vấn đề quan trọng, thường
xuyên được đề cập đến trong quan hệ quốc tế. Liên Hợp Quốc đã ban hành hàng loạt các
văn kiện khẳng định các quyền và tự do của tất cả mọi người, đặc biệt là Hiến chương
Liên Hợp Quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 thì vấn đề nhân
quyền đã chuyển sang một bước ngoặt mới trong lịch sử nhân loại, trở thành một quan hệ
cơ bản được điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế.
Đến nay quyền con người đã được ghi nhận, khẳng định trong Hiến pháp của
nhiều quốc gia trên thế giới.
ở Việt Nam, kể từ khi giành được độc lập (năm 1945), Đảng và Nhà nước ta luôn
tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2/9/1945 được coi là
một văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó,
quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Điều 50 Hiến pháp năm
1992 của nước ta khẳng định: "ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và bảo đảm thực hiện".
Gần đây nhất, vấn đề nhân quyền đã được tiếp tục khẳng định trong Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng: "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn
trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia" [35, tr. 134].
Vấn đề nhân quyền có vai trò quan trọng như vậy, nên nhiều nước trên thế giới
coi trọng việc giáo dục nhân quyền nhằm làm cho mỗi con người ý thức biết tôn trọng
quyền của người khác và tự mình biết bảo vệ quyền của mình. Năm 1978 UNESCO cũng
đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục nhân quyền tại Viên (Thủ đô nước áo) để phát
triển hơn nữa những lý do cho việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội
nghị công nhận rằng: "Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng
thời họ cũng phải biết tôn trọng những quyền của người khác", và đến 23/12/1994, Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc bằng Nghị quyết số 49/184 đã chính thức tuyên bố: "Thập kỷ
giáo dục nhân quyền bắt đầu từ 1/1/1995 đến 1/1/2004".
Nước ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục nhân quyền lại càng có ý nghĩa to lớn
hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội nhập với thế giới và khu vực, góp
phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu. Thực hiện được điều đó, Đảng và Nhà
nước ta đã hưởng ứng, tham gia có hiệu quả "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" của Liên
Hợp Quốc.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu làm rõ
cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu, ưu điểm đã đạt được và làm rõ những khuyết
điểm tồn tại của vấn đề giáo dục nhân quyền; đồng thời xác định phương hướng, nội
dung, phương pháp tiếp tục thực hiện giáo dục nhân quyền trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu
- Vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân đã được Liên Hợp Quốc,
các nhà khoa học pháp lý nước ta và thế giới quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, có thể
xuất phát từ quan điểm cho rằng giáo dục pháp luật đã bao hàm cả giáo dục quyền con
người, quyền công dân nên các nhà luật học nước ta mới chỉ tập trung nghiên cứu về giáo
dục pháp luật mà chưa quan tâm nghiên cứu vấn đề giáo dục quyền con người, quyền
công dân như là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập, riêng biệt. Vì thế thời gian qua, ở nước
ta đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật như: "Giáo dục ý thức
pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", luận án Phó tiến sĩ của Trần
Ngọc Đường; "ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao
động (ở Việt Nam)", luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo dục pháp luật cho
nhân dân" của Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983); "Giáo dục ý thức
pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới" của
Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức pháp luật" của
Nguyễn Trọng Bình (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989); "Cơ sở khoa học của việc xây
dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số 07-17 do
Viện Nhà nước - Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì; "Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", đề tài
khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp; "Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc
ít người" đề tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; "Giáo dục pháp
luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật)
ở nước ta", luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân Thảo; "Giáo dục pháp luật qua hoạt động
tư pháp ở Việt Nam", luận án Phó tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai; "Giáo dục pháp luật
cho dân tộc Khơme - Nam Bộ (qua thực tiễn tỉnh An Giang)", luận án Thạc sĩ của Lê Văn
Bền; "Bàn về giáo dục pháp luật" sách của Trần Ngọc Đường - Dương Thị Thanh Mai;
"Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" sách của Đào Trí úc chủ biên; "Một số vấn
đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay" của Vụ Phổ biến giáo dục
pháp luật - Bộ Tư pháp; "Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị
ở nước ta hiện nay", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Khoa Nhà nước - Pháp luật,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; "Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo
dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ của Đặng
Ngọc Hoàng...
Trong khi đó vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân mới chỉ được
nghiên cứu ở mức độ rất hạn chế. Đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn
đề này một cách có hệ thống, đầy đủ; nên số lượng các công trình nghiên cứu chưa nhiều
và cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ các bài viết, như: "Giáo dục nhân quyền hướng tới thế
kỷ XXI" của Tường Duy Kiên (Tạp chí Thông tin Khoa học thanh niên, số 4, 1997).
Vì vậy, có thể nói, luận văn này là công trình đầu tiên trình bày tương đối có hệ
thống về vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề giáo dục quyền con người, quyền
công dân để đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục quyền con người -
quyền công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục quyền con người, quyền công dân.
- Đánh giá thực trạng giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện
nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục quyền con người,
quyền công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam.
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung vào vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước
ta hiện nay, qua khảo sát thực tiễn vấn đề này ở nước ta thời gian qua.
5. Cái mới của luận văn
- Là công trình chuyên khảo nghiên cứu tương đối có hệ thống về giáo dục quyền
con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tính đặc thù của giáo dục quyền con người,
quyền công dân ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân, làm hạn chế hiệu quả giáo
dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta trong thời gian qua; trên cơ sở đó đề
xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt vấn đề giáo dục quyền con người, quyền
công dân ở Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với quyền con người, quyền
công dân, về giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta.
Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nghiên cứu nhà nước pháp quyền với việc giáo dục quyền con người - quyền công dân; sử
dụng phương pháp thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp để đánh giá thực
trạng giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay nhằm phân tích, luận
chứng một cách khoa học khi đề ra sự cấp thiết, phương hướng, giải pháp tăng cường
giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về giáo dục quyền con người,
quyền công dân
1.1. Khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân
1.1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân
Quyền con người - Nhân quyền, quyền công dân là một phạm trù lịch sử. Từ thời
cổ đại những tư tưởng và yêu sách về các quyền, mà trước hết yêu sách về các quyền con
người đã được phát sinh ở vùng Địa Trung Hải là nơi có nền văn minh, kinh tế phát triển
rực rỡ nhất lúc bấy giờ. Sau khi các quyền con người được triển khai ở các quốc gia trong
vùng và khu vực xung quanh rồi mới xâm nhập vào xã hội châu Âu cổ đại và châu Âu
mới.
Năm 1776, hầu hết các nước thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập
với đế chế Anh. Trong một văn bản có tên là "Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ", đã khẳng định: "... tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng... tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [93, tr. 15].
Như vậy, trong lịch sử phát triển của quyền con người, Tuyên ngôn độc lập của
Mỹ năm 1776 có thể được coi là sự xác nhận chính thức, đầu tiên về mặt nhà nước về
quyền con người. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã cho rằng: Nước Mỹ - đó là
nơi "lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về một nước cộng hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản
tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã được công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với
cuộc cách mạng châu Âu thế kỷ XVIII" [57, tr. 65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng
nên bản Hiến pháp của Mỹ năm 1787.
Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng trở nên bức xúc và
trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó, ngày 24-10-1945
tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản "Hiến chương Liên Hợp Quốc" với
mục đích chính là vì vấn đề quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Tiếp đến, tháng 12-
1948 Liên Hợp Quốc đã công bố bản "Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền". Trên cơ sở
này, hàng loạt văn kiện quốc tế về nhân quyền được tuyên bố, ký kết và trở thành luật
pháp quốc tế về quyền con người.
ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì Việt Nam đã có
một lịch sử truyền thống lâu đời, trải qua suốt quá trình dựng nước và giữ nước về sự
hình thành và đảm bảo quyền con người. Tuy nhiên, phải đến khi Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công mới thực sự mở ra một kỷ nguyên mới về quyền con người , thời
kỳ mà quyền con người được đề cao, được chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật.
Mặc dù vấn đề quyền con người, quyền công dân đã được hình thành từ rất sớm
trong lịch sử nhân loại. ở Việt Nam cũng vậy, nhưng do nó được nhìn nhận dưới những
góc độ khác nhau (triết học, chính trị học, kinh tế học, luật học...), xuất phát từ những mục
đích, màu sắc tư tưởng, lãnh địa chính trị của các quốc gia khác nhau; nên mặc dầu đã có
nhiều hội thảo quốc tế, nhiều công trình nghiên cứu, nhưng khái niệm quyền con người,
quyền công dân vẫn tồn tại một cách trừu tượng, chung chung và ngày càng trở nên mơ hồ,
rắc rối hơn.
Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ về khái niệm quyền con người, quyền công
dân và nội dung của nó chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng phương hướng, nội dung,
phương pháp, điều kiện cho việc thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân ở
nước ta hiện nay.
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người (Nhân quyền)
"Nhân quyền" là một từ Hán Việt, theo "Đại Từ điển Tiếng Việt" của Viện Ngôn
ngữ học thì "Nhân quyền" là "quyền con người" [104, tr. 1239]. Từ điển này mới chỉ giải
trình đơn thuần nghĩa Hán - Việt của từ Nhân quyền, mà chưa đề cập đến khái niệm của
vấn đề này theo nghĩa được khái quát hóa từ những đặc điểm, nội dung, tính chất đặc thù
của nó.
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, mỗi định nghĩa
là một sự biểu hiện khác nhau về góc độ nhìn nhận về vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên,
tổng hợp lại các quan niệm đó được phân chia thành ba quan niệm chủ yếu, khác nhau về
quyền con người như sau :
- Quan niệm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên,
nên quyền con người phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là quyền con
người, quyền lợi của con người với tư cách là người, gắn liền với cá nhân con người,
không thể tách rời.
Quan điểm này được các đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản ở thế kỷ XVII,
XVIII như Crotius, Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra trong
học thuyết về pháp luật tự nhiên. Trường phái này cho rằng, quyền tự nhiên, pháp luật tự
nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước.
- Về quan niệm thứ hai: Trái với quan niệm thứ nhất, quan niệm này lại chỉ đặt
con người và quyền con người trong mối quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng, con
người chỉ là một thực thể xã hội, nên quyền của nó chỉ được xác định trong mối tương
quan với các thực thể xã hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó được chế độ nhà nước,
pháp luật điều chỉnh bảo vệ.
Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con người là một khái niệm có tính
lịch sử, đặt con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con người là thực thể
của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên quyền con người cũng luôn gắn liền
với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống
bất công trong xã hội. Cơ sở của quyền con người ở đây chính là trình độ phát triển của
nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.
- Quan niệm thứ ba: Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề quyền con
người. Quan niệm này đã khắc phục được tính phiến diện, phản khoa học về con người,
quyền con người ở các quan niệm trên.
Xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm
của xã hội, con người mặc dù vẫn là một thực thể tự nhiên như các loài động vật khác,
nhưng lại khác với loài động vật khác ở chỗ con người chỉ thực sự tồn tại với tư cách là
một con người khi nó được tồn tại trong cộng đồng xã hội. Hai mặt này tồn tại biện
chứng trong một con người. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội và trong cái
xã hội của con người có mặt tự nhiên. Mặt này trở thành tiền đề cho mặt kia trong mối
quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Xuất phát từ quan niệm này về quyền con người nên
chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người: "Về bản chất bao hàm cả hai
mặt tự nhiên và xã hội" [65, tr. 12].
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là "động vật xã
hội" [63, tr. 855] có khả năng "tái sinh ra con người", con người là động vật cao cấp nhất
trong quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này, cũng như quan niệm thứ nhất, quyền con
người trước hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con người không phải là một "tặng
vật", do giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà nước mà quyền con người trong hình
thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được sống,
quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng
đáng với con người.
Xét về mặt thứ hai của quan niệm này, con người mặc dù là động vật cao cấp
nhất của tự nhiên, nhưng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con người đã sống
thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cương thứ VI về Phoi-
ơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội" [64, tr. 21]. Như vậy, con người mặc dù vẫn là thực thể tự nhiên
sinh học, là bộ phận của tự nhiên, nhưng bên cạnh đó, để được gọi là người nó còn phải
tồn tại trong cộng đồng xã hội, và biến đổi cùng với cộng đồng xã hội của mình. Bằng
khả năng của mình, con người tác động vào tự nhiên, xã hội làm biến đổi tự nhiên và xã
hội để phục vụ nhu cầu tự tồn tại, phát triển của mình. Ngược lại, những biến đổi của tự
nhiên, của xã hội do con người tạo ra cũng tác động chi phối trở lại con người, làm biến
đổi con người. Do đó xét về khía cạnh xã hội, thì "quyền con người, ngay từ khi có xã hội
loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội" [65, tr. 13].
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nước đã tạo ra những chuyển biến
có tính "bước ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tương quan giữa bản tính tự nhiên và
bản tính xã hội của quyền con người. Đi kèm xã hội có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và
đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện xã hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành
bản tính giai cấp. Và ngay cả bản tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con
người cũng tất yếu chịu sự chi phối của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, quyền con người, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng buộc, chi
phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của chính con người, nghĩa là
phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con người, sự phát triển của lực lượng
sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Con người càng có khả năng chế ngự, chinh
phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do, quyền con người ngày càng được mở rộng, ngày
càng được đảm bảo bấy nhiêu.
Từ quan điểm trên cho thấy, về bản chất, quyền con người bao gồm cả quyền tự
nhiên và quyền xã hội. Quyền tự nhiên phải được đặt trong tổng hòa các mối quan hệ xã
hội, chịu sự chi phối, ràng buộc của xã hội, gắn liền với quá trình chinh phục tự nhiên và
xã hội. Quyền con người chỉ được đặt ra khi nó tồn tại trong cộng đồng người. Khái niệm
quyền con người chỉ xuất hiện khi con người bị những thực thể người khác xâm hại đến
lợi ích của mình. Hoặc ngược lại, nếu con người tồn tại độc lập, không có mối liên hệ
cộng đồng, không bị các thực thể khác trong cộng đồng tác động xâm hại đến lợi ích của
mình thì không thể làm xuất hiện khái niệm quyền con người.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người không phải chỉ là
phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con người nêu trên, mà từ phân tích
nêu trên cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của quyền con người có những
thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
Nhận thức khái niệm quyền con người với đầy đủ bản chất, thuộc tính của nó cho
thấy quyền con người là một phạm trù phức tạp. Vì vậy, cần thiết phải đưa ra định nghĩa
về quyền con người. Tuy nhiên, nếu chỉ đưa ra định nghĩa quyền con người với tư cách là
một phạm trù riêng biệt của chính trị học, kinh tế học, triết học, luật học sẽ là điều phiến
diện, không đầy đủ, vì như thế nó mới chỉ thể hiện được quyền con người dưới góc độ
khoa học, mà không thể hiện được bản chất cũng như tính đa diện của vấn đề này. Hay
nói cách khác, nó mới chỉ thể hiện trạng thái tĩnh của quyền con người.
Jacques Mourgon (giáo sư đại học khoa học xã hội Toulouse) đưa ra định nghĩa:
"Quyền con người là những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà con người giữ
riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và với chính quyền" [68, tr. 12].
Định nghĩa này chủ yếu đề cập đến quyền con người ở khía cạnh tự nhiên của nó.
Một học giả Việt Nam cho rằng:
Quyền con người là các khả năng của con người được đảm bảo bằng
pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội,
các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong
phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người khác
trên cơ sở pháp luật [31, tr. 34].
Định nghĩa này cũng mới chỉ đề cập đến quyền con người với tư cách là phạm trù
luật học.
Chúng tôi nhận thức rằng, khái niệm quyền con người phải là một phạm trù tổng
hợp, bao hàm cả bản chất và những thuộc tính đa diện - nhiều mặt của nó. Có một định
nghĩa đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở nước ta
hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con người) là những năng lực và nhu cầu vốn có và
chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [90, tr. 10]. Chúng tôi cho rằng,
khái niệm này bắt nguồn từ khái niệm của Mác về quyền con người. Theo Mác: "Quyền con
người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con người, là thành
viên xã hội loài người" [57, tr. 14]. Định nghĩa này cũng tương ứng với nội dung của khái
niệm quyền con người do Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam phát biểu tại hội nghị quốc tế về
nhân quyền ở Viên (áo) tháng 6 năm 1993: Quyền con người là một phạm trù tổng hợp,
vừa là "chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một
quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triền", quyền con người "không thể
tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội... Quyền con người là một tổng thể những quyền gắn bó với nhau trong mối tương
quan biện chứng. Đó là quyền cá nhân và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị -
dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội...
Trong thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát
triển.
Như vậy, định nghĩa trên về nhân quyền đã được khái quát hóa từ góc độ bản
chất của vấn đề, được xem xét từ các đặc điểm của nó (so sánh giữa con người và động
vật khác), và cũng được xem xét từ góc độ giới hạn, phạm vi của vấn đề. Định nghĩa này
không chỉ khắc phục được tính phiến diện của các định nghĩa khác, mà nó còn xác định
rõ ràng "ranh giới" của vấn đề, hạn chế của việc hiểu và vận dụng lệch lạc về quyền con
người. Chúng tôi tán thành với khái niệm này.
1.1.1.2. Khái niệm quyền công dân
Quyền công dân, về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng
với cách mạng tư sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tư sản đã biến
con người (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong nhà nước quân chủ
sang địa vị công dân trong nhà nước cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái niệm
công dân là đề cập tới một bộ phận con người, theo quy định của pháp luật với tư cách
là những thành viên bình đẳng trong Nhà nước, từ đó mà quyền con người được thừa
nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhưng quyền
công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền con
người, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và mối quan hệ đó
được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch.
Hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công dân:
- Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền công dân là: "Quyền của người công dân
được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền về kinh tế - văn hóa xã hội"
[104, tr. 1384]
- Theo tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc, "quyền công dân - đó là sự thể chế hóa về mặt
nhà nước bằng pháp luật địa vị con người trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận,
trong chừng mực mà nhà nước chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong nhà nước
[91, tr. 75].
Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng: "Quyền công dân là tập hợp những quyền tự
nhiên được pháp luật của một nước quy định, mà tất cả những người có chung quốc tịch
của nước đó được hưởng một cách bình đẳng" [36, tr. 21].
Theo chúng tôi, các khái niệm trên tuy có sự diễn đạt khác nhau, nhưng về bản
chất, nội dung đều xuất phát từ khái niệm về quyền công dân của C. Mác. Về vấn đề này
C. Mác cho rằng: "Quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá nhân con
người, với tư cách là thành viên "xã hội công dân" [57, tr. 14].
Như vậy, khái niệm công dân, quyền công dân ra đời sau quyền con người, nó
gắn liền và được sử dụng rộng rãi trong xã hội tư sản.
So với khái niệm quyền con người thì khái niệm quyền công dân mang tính xác
định hơn. Vì thế, nội dung, số lượng, chất lượng quyền công dân của mỗi quốc gia là
khác nhau, và tùy thuộc vào thể chế chính trị xã hội, vào giai cấp cầm quyền trong xã hội.
Trước đây ở các nước xã hội chủ nghĩa vấn đề quyền con người ít được nói đến, nên mặc
nhiên được hiểu rằng quyền con người và quyền công dân là đồng nhất. Trong các văn kiện
pháp lý (Hiến pháp, luật) chỉ tồn tại thuật ngữ quyền công dân. Ngay ở Việt Nam cũng
vậy, trong các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, 1980 đều chỉ đề cập đến quyền và nghĩa
vụ của công dân mà không đề cập đến vấn đề quyền con người. Chỉ đến Hiến pháp năm
1992, vấn đề quyền con người mới chính thức được đề cập đến (Điều 50 Hiến pháp
1992).
1.1.1.3. Quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân
Khi nghiên cứu vấn đề "nhân quyền", ta phải xem xét đầy đủ cả hai khái niệm
quyền con người - quyền công dân. Đây là hai khái niệm cơ bản, có mối quan hệ biện
chứng, mật thiết với nhau, nhưng cũng có sự độc lập nhất định với nhau và cần được
phân biệt rõ khi tiếp cận vấn đề này.
Khái niệm quyền con người, là khái niệm rộng hơn so với khái niệm quyền công
dân. Nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước mà còn thể hiện mối
quan hệ giữa cá nhân con người với cộng đồng xã hội. Do đó, trong mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội, quyền con người bao gồm toàn bộ những quyền tự nhiên được xác định từ
khi họ sinh ra và tồn tại trong suốt cuộc đời của họ. Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng, quyền
con người đóng vai trò "là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con người, khả
năng độc lập của con người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân" [36, tr. 21].
Trong quan hệ với cộng đồng nhân loại, quyền con người bao gồm những nhu cầu,
lợi ích của con người được ghi nhận và bảo vệ bằng cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc
tế. Phạm vi tồn tại của nó không chỉ trong mối quan hệ với một nhóm, một dân tộc, một quốc
gia mà còn tồn tại trong mối quan hệ với cả cộng đồng nhân loại. Nó thể hiện sự bình đẳng
không chỉ những người có chung quốc tịch, mà còn biểu hiện sự bình đẳng của mọi người
trong cả cộng đồng người. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nó ngày càng trở thành yếu tố quan
trọng.
Từ phân tích trên cho thấy, khái niệm quyền con người, quyền công dân tuy có
mối quan hệ gần gũi, mật thiết nhưng không đồng nhất cả về chủ thể lẫn nội dung. Tuy
nhiên, hoàn toàn không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân. Trong
mối quan hệ giữa hai vấn đề này thì quyền con người là khái niệm rộng hơn bao hàm cả
quyền công dân, còn quyền công dân là một thành tố, một bộ phận thiết yếu cơ bản của
nó. Quyền con người không thể thay thế quyền công dân, đồng thời quyền công dân
không thể chứa đựng hết dung lượng của quyền con người. Về chủ thể, chủ thể quyền
con người cũng rộng hơn chủ thể quyền công dân vì ngoài những cá nhân là công dân,
chủ thể quyền con người còn bao gồm cả những người không phải là công dân như đã
người nước ngoài, người không quốc tịch.
Nhận xét về vấn đề này, C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng:
Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có nội dung và ý
nghĩa khác nhau, nhưng không thể tách biệt đến mức đối lập, mà về thực chất
chúng thống nhất với nhau. Quyền con người phải "thu hút" được quyền công
dân vào nội dung của nó, vì chúng nằm trong một chỉnh thể thống nhất, phản
ánh tổng thể nhu cầu của con người hiện thực trong điều kiện còn tồn tại Nhà
nước [57, tr. 14].
Và "Vì vậy, Mác - Ăngghen đã sử dụng cả hai khái niệm Quyền con người và
Quyền công dân" [57, tr. 14].
1.1.2. Khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân
1.1.2.1. Các quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con người, quyền công
dân
Hiện đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con người,
quyền công dân.
- Quan niệm của giai cấp tư sản: Các nước tư bản hiện đang rất quan tâm đến
vấn đề giáo dục quyền con người. Vấn đề này được các nước phương Tây thực hiện
thường xuyên, liên tục cho mọi đối tượng cả trong phạm vi quốc gia và cả trên phạm vi
toàn cầu dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, nhằm đạt được những mục đích
khác nhau. Xuất phát từ lợi ích chính trị của mình, họ chỉ tập trung vào việc giáo dục một
số quan điểm về quyền con người dưới đây:
Ưu tiên giáo dục các quyền tự nhiên:
Quan niệm này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa quyền tự nhiên của con người,
dẫn đến việc tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ cộng đồng xã hội, coi quyền con người
là bất khả xâm phạm, không phụ thuộc vào không gian, thời gian, quốc gia, dân tộc. Mục
đích của việc giáo dục quan điểm này nhằm:
Thứ nhất, đối với dân chúng trong nước, quan điểm này tạo ra được một hình
thức xã hội dân chủ. Mọi người đều có quyền như nhau trong việc thực hiện các mục
tiêu, ý tưởng sống, được quyền tự do, quyền sở hữu, quyền được an toàn và chống áp
bức...
Thứ hai, khi quyền, tự do cá nhân được đề cao tuyệt đối sẽ dẫn đến việc triệt tiêu
quyền lợi của tập thể, nhóm, giới, xóa nhòa quyền giai cấp và sẽ dẫn đến hệ quả mà giai
cấp tư sản - giai cấp đang thống trị xã hội mong muốn là ý thức đấu tranh giai cấp trong
xã hội bị thủ tiêu, ý thức đấu tranh đòi quyền lợi của tập thể dân cư, sắc tộc, bộ phận xã
hội bị xóa bỏ.
Để hiểu rõ quan điểm này của giai cấp tư sản, chúng tôi xin nêu một số dẫn
chứng cụ thể sau:
+ Nhà hoạt động xã hội người Mỹ Barbara B.Bird đã viết:
... chúng tôi khai quốc bằng một cuộc cách mạng chống chủ nghĩa
thực dân áp bức. Những sự kiện ấy kết hợp với chủ nghĩa cá nhân thô thiển.
Sự thiếu chủ nghĩa cổ điển, sự tin tưởng vào những tự do mà Hiến chương về
quyền lợi (Bill of Rights) đảm bảo đã dẫn đến sự chấp nhận bạo lực khi dân
chúng tôi tìm cách chiếm đoạt đất hoang, thú vật và người da đỏ vốn là thổ
dân ở đây trước. Điều này khiến cho người ta đặt ưu tiên vào cá nhân hơn là gia
đình hoặc cộng đồng trong khi di chuyển để cắm những địa bàn di dân, nhiều
khi ở những miền hẻo lánh, chúng tôi đã đưa điều ấy tới chỗ cực đoan.
Tôi lấy làm buồn vì sự tan vỡ của gia đình và cộng đồng Mỹ. Tôi kinh
tởm bạo lực trong nền văn hóa của chúng tôi. ấy là tôi đặc biệt nghĩ đến một
sự kiện lịch sử như sự phá hủy văn hóa và các dân tộc thổ dân Mỹ, sự bóc lột
nô lệ da đen châu Phi trong khi xây dựng kinh tế quốc gia... [3, tr. 50].
+ Khi phân tích về quan hệ giai cấp ở Mỹ, trong tác phẩm "Lối sống Mỹ" (đã
xuất bản ở 9 nước, bằng 7 ngôn ngữ khác nhau) A.R.Lanier đã viết:
... Hoa Kỳ thường tự hào là một xã hội không giai cấp. Khách lạ dễ
thấy ở Mỹ lương cao và mức sinh hoạt cao, quần áo các kiểu may sẵn hàng
loạt, ăn nói bỗ bã, hay sử dụng tên cúng cơm... Thực ra thì có giai cấp, bắt đầu
ngay từ khu vực ở. Có điều là ranh giới giai cấp ấy rất dễ bị hủy bỏ, chỉ cần có
nghị lực và thành công. Biết bao nhiêu người giàu sang xuất thân hàn vi.
Người Mỹ lại thay đổi chổ ở luôn; trong 5 gia đình, có 1 cứ ba năm lại dọn nhà
một lần. Với tâm lý tự lực, không có thành kiến giai cấp như ở nước khác.
Giai cấp gắn với gia đình. Từ thế chiến II, gia đình Mỹ càng lỏng lẻo;
thành công cá nhân ít có ảnh hưởng đến gia đình, do đó, khái niệm giai cấp
cũng có phần mờ nhạt hơn. Ngày nay, các khái niệm chủng tộc, gốc rễ dân tộc,
địa phương... thường át khái niệm giai cấp. Vị trí xã hội không phải là một yếu
tố ổn định, thừa hưởng của giai cấp như nhiều nơi khác" [78, tr. 152].
ở Pháp, quốc gia được coi là cái nôi của quyền tự do công dân khi từ năm 1789
đã công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng. Nội dung Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của Pháp gần đây nhất tiếp tục được thể hiện trong Hiến pháp
của Cộng hòa Pháp năm 1958, đã toát lên tư tưởng chủ đạo của nó là:
Hoạt động tự do của con người là một quyền tự nhiên, vì vậy, không
cần phải liệt kê lại những quyền gì là được phép: tất cả những gì luật pháp
không nghiêm cấm đều được phép làm; ngược lại, cần phải xác định rõ những
điều cần nghiêm cấm dĩ nhiên là có xét đến những quy định trong Hiến pháp
[47, tr. 370].
Đặc trưng cơ bản cho các quyền tự do của con người được Hiến pháp của Pháp
ghi nhận là quyền sở hữu. ở đây, quyền này được quan niệm như là quyền sở hữu, sử
dụng hay phân chia từng phần tùy theo ý chí chủ nhân. Theo một số nhà nghiên cứu thì
quyền này đã được phản ánh một cách nhất quán và chi tiết hóa qua các tiêu chuẩn của
Bộ luật Dân luật của Napoleon năm 1804. Mà Bộ luật này theo nhận xét của Ăngghen
chính là: "Là khung Bộ luật cơ bản mẫu mực của xã hội tư bản". Với tinh thần coi tài sản
sở hữu là nền tảng của tự do nêu trên, Điều 554 Bộ Dân luật Pháp quy định: "Sở hữu là
quyền được sử dụng và phân chia tài sản hoàn toàn tuyệt đối miễn sao việc sử dụng và
phân chia tài sản không phạm vào những gì sắc luật và quy chế không cấm". Nhà làm
luật không có quyền xâm phạm hoặc hạn chế quá mức việc chiếm giữ, sử dụng và phân
chia tài sản, phải theo đúng nguyên tắc: "Cho phép làm tất cả những gì không gây phương
hại đến những người khác, hay làm hại đến lợi ích xã hội" [47, tr. 372], hoặc theo ý kiến
của Giscard d'Estaing thì nhà làm luật:
Chỉ có được quyền can thiệp vào các quan hệ kinh tế tự do dựa trên cơ
sở cạnh tranh và thị trường trong những trường hợp bất đắc dĩ hoặc trong những
trường hợp phải kìm lại sự tiến triển buộc cá nhân phải mất qua nhiều công sức
vất vả không đáng có, hoặc nhằm mục đích thay đổi quá trình chuyên môn hóa
nền kinh tế đang khiến nó phụ thuộc quá vào người cấp vốn và thị trường quốc
tế [47, tr 372].
Theo quy định của Hiến pháp Pháp, một cơ sở quan trọng để bảo đảm các quyền
tự do là nguyên tắc tính phù hợp, dung hòa giữa các quyền tự do, tính chất cùng tồn tại
trong quan hệ thống nhất giữa các quyền tự do công cộng, địa phương và cá nhân. Trong
đó, các quyền tự do công cộng (mục 2 Điều 34 Hiến pháp Pháp), các quyền tự do của các
tập thể địa phương và vùng lãnh thổ (mục 4 Điều 34, mục 2 Điều 72 Hiến pháp Pháp)
đều được coi là "nền tảng để tôn cao quyền tự do của cá nhân, của công dân cũng như
quyền chiếm giữ và phân chia tài sản riêng" [47, tr. 373]. Như vậy, nghĩa vụ của bộ máy
nhà nước là phải đảm bảo thực hiện đúng pháp luật và trách nhiệm của mình để bảo đảm tôn
trọng và thực hiện ở mức độ cao nhất các quyền, tự do của công dân.
ở Đức, quyền công dân bắt đầu được ghi nhận trong Hiến pháp từ năm 1818 -
1819 (Hiến pháp Baria và Bađen năm 1818, Nurtemberg năm 1819), khi đó, nước Đức
còn đang ở trong thời kỳ quân chủ lập hiến. Đây là thời kỳ chuyển giao giữa chế độ
phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa nên thời kỳ này đã có một sự dung hòa, thích nghi
giữa trật tự pháp luật quân chủ tuyệt đối với những đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai
cấp tư sản mà trong đó, cái ảnh hưởng to lớn là những tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh
tế. Tư tưởng này đã trở thành căn cứ nền tảng cho việc hình thành nên những quyền và tự
do công dân có tính kinh điển đang dần được xác nhận trong pháp luật thực định và tồn
tại trong các Hiến pháp, văn bản pháp luật của nước Đức sau này. Điều 1 Luật cơ bản của
Đức quy định: "Việc tôn trọng và bảo vệ các quyền của con người được tuyên bố là nguyên
tắc cơ bản của toàn bộ quyền lực nhà nước" [47, tr. 410]. Nguyên tắc quyền tự chủ của
nhân dân và học thuyết quyền tự nhiên được tiếp tục thể hiện ở Điều 4 Luật cơ bản khi
nội dung của điều luật này tuyên bố cấm vi phạm và xuyên tạc các quyền của con người.
Chỉ tập trung giáo dục các quyền dân sự và chính trị:
Quyền chính trị, dân sự vừa là mục đích, vừa là động lực của cách mạng tư sản.
Vấn đề này tiếp tục được đề cao trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản vì những
lý do chính trị của giai cấp tư sản. Hiện nay, một số nhà khoa học, nhà chính trị tư sản
vẫn tiếp tục phủ nhận ý nghĩa của các quyền về kinh tế - xã hội đối với toàn bộ các quyền
về chính trị, dân sự và các quyền, tự do khác của con người. Họ cho rằng các quyền dân
sự, chính trị có tầm quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo thực hiện các quyền con
người. Thậm chí, họ còn phủ nhận cả trách nhiệm pháp lý của các quốc gia trong việc
bảo đảm thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc dù các quyền đó đã được
ghi rõ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các Công ước quốc tế khác về
quyền con người. Một minh chứng rất điển hình cho luận điểm này của giai cấp tư sản là
việc Liên Hợp Quốc cùng lúc thông qua hai "Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị" và "Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa". Giải thích về
vấn đề này, La-lê-ri Sa-lit-de cho rằng:
Khi Liên Hợp Quốc quyết định thảo ra một hiệp ước về quyền con
người, Liên Xô tham gia hoàn chỉnh hiệp ước này. Lập trường của Liên Xô về
những quyền xã hội - kinh tế rất cứng rắn, khó mà các nước tư bản thỏa hiệp
được với Liên Xô trên lĩnh vực này. Tuy thế, người ta vẫn tìm ra được cách
nhân nhượng nhau, đáng lẽ thảo chỉ một hiệp ước về quyền con người, người
ta đã thảo ra hai bản. Hiệp ước quốc tế về các quyền xã hội, kinh tế và văn
hóa, chủ yếu phản ánh quan điểm của Liên Xô và hiệp ước quốc tế về các
quyền công dân và quyền chính trị của con người phản ánh chủ yếu quan điểm
phương Tây [107, tr. 3].
Ông cũng cho rằng, hiện có nhiều người nghi ngờ thuật ngữ "các quyền xã hội -
kinh tế", họ thậm chí còn không cả thừa nhận các quyền này như là một bộ phận trong
toàn bộ các quyền cơ bản của con người và không chịu coi đó là những quyền phải được
nhà nước bảo đảm. Cơ sở của quan điểm này là việc trong các xã hội kinh doanh tư nhân
(chủ yếu là Tây Âu và Bắc Mỹ), con người phải tự lo liệu lấy cho mình và "trong những
điều kiện ấy, nói đến bảo đảm những quyền xã hội - kinh tế sẽ là vô nghĩa và mâu thuẫn
với mâu thuẫn xã hội. Trong lòng xã hội tự do kinh doanh, Nhà nước không sản xuất
hàng hóa và dịch vụ, nó cũng không sở hữu nhà ở và bất động sản, do đó, nó không thể
bảo đảm cho con người những của cải loại ấy" [107, tr. 5]. Khi Nhà nước cần đảm bảo
mức sống cho một bộ phận nhân dân nghèo khổ nhất trong xã hội thì Nhà nước phải bắt
những người có thu nhập cao phải tự hạn chế mình để nuôi sống bộ phận nghèo khổ
trong xã hội. Điều này tuy đang được khuyến khích ở các nước tư bản nhưng nó lại được
coi là hoạt động từ thiện chứ không phải là sự tôn trọng và bảo vệ các quyền xã hội và
kinh tế của công dân. Hay nói rõ hơn, nó không phải là một quyền của công dân.
Về vấn đề này, chúng ta cũng có thể thấy được rất rõ trong hệ thống pháp luật của
Cộng hòa Liên bang Đức. Hiến pháp năm 1848 của Đức lần đầu tiên ghi nhận một số quyền
xã hội, phản ánh ảnh hưởng của tư tưởng xã hội - dân chủ, thể hiện sự quan tâm đến quyền
lợi của giai cấp khác ngoài giai cấp tư sản, thể hiện quan niệm mới về quyền con người
không chỉ là các quyền chính trị và dân sự. Tuy nhiên, trong thực tế, các quyền này được
phân biệt rất rõ ràng:
... đồng thời với việc các quyền chính trị và tự do công dân được xem
như là những quyền có tính chất truyền thống, tức là những bảo đảm chống lại
sự tùy tiện của các cơ quan thừa hành và hành chính, người ta coi các quyền
xã hội như là những giá trị có tính chất cương lĩnh nhất thời, chứ không hề có
tính bắt buộc phải thực hiện" [55, tr. 403].
Trong Hiến pháp năm 1949 của Cộng hòa Liên bang Đức, trong khi các quyền và
tự do cơ bản (quyền dân sự và chính trị "tự do" truyền thống) được ghi rõ thuộc loại đầu
thì lại không có những quy phạm đảm bảo cho các quyền xã hội và những trường hợp
làm hại quyền xã hội không thể là căn cứ để khiếu nại lên tòa án Hiến pháp.
Giáo dục quan điểm về quyền con người là tuyệt đối, vĩnh hằng, phổ biến:
Chủ nghĩa nhân bản trừu tượng của giai cấp tư sản cho rằng, nhân quyền là
quyền lợi vốn có không thể tước đi được của con người với tư cách là con người. Mà
quyền con người do "luật lệ của tự nhiên và của đấng tạo hóa đã cho họ được hưởng" [93,
tr. 15] hoặc do "Quốc hội thừa nhận và tuyên bố, với sự chứng kiến và sự bảo hộ của
đấng tối cao, các quyền sau đây của con người và của công dân" [94, tr. 21].
Vì thế, quyền con người trở nên tuyệt đối, vĩnh hằng và phổ biến. Thậm chí các
nhà lý luận chính trị của giai cấp tư sản còn cho rằng quan niệm nhân quyền của họ như
là giá trị phổ biến mà toàn thế giới phải tuân thủ.
Giáo dục quan niệm về nhân quyền cao hơn chủ quyền:
Cũng với căn cứ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa nhân bản trừu tượng, luận
điểm của các nhà lý luận, chính trị tư sản cho rằng, con người là điểm xuất phát và cũng
là điểm cuối cùng, là giá trị cao nhất trong mọi giá trị. Vì thế, vấn đề thứ nhất của mọi
quan hệ quốc tế là con người, quyền con người. Nó còn cao hơn cả vấn đề chủ quyền
quốc gia. Khi quyền con người ở một quốc gia nào đó bị xâm phạm thì các nước khác có
nghĩa vụ phải can thiệp để bảo vệ quyền con người ở đó. Thí dụ: điển hình cho quan điểm
này là sự can thiệp của Mỹ, Anh và các nước NATO vào Irắc và Nam Tư trong thời gian
qua. Và gần đây nhất là việc Hạ nghị viện Mỹ thông qua "Đạo luật nhân quyền Việt
Nam", đã xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền của Việt Nam. Hàng năm Mỹ đều có
báo cáo về việc bảo đảm nhân quyền của các nước trên thế giới theo tiêu chí nhân quyền
của Mỹ; và coi đây là căn cứ để thực hiện chính sách can thiệp vào công việc nội bộ của
nước khác.
- Quan điểm của Liên Hợp Quốc về giáo dục quyền con người: Ngay từ khi ra đời,
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã lập tức có giá trị như một văn kiện vĩ đại trong
lịch sử nhân loại. Nó tạo ra sức mạnh về các khía cạnh pháp lý trong quan hệ quốc tế,
quốc gia, chính trị, đạo đức và những giá trị đó ngày càng không ngừng được nâng cao
với nền văn minh nhân loại. Kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan đã phát biểu:
... Hôm nay, chúng ta ghi nhớ sự bắt đầu của năm thứ 50 sự ra đời của
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền. ở khắp mọi nơi trên thế giới, đàn ông, phụ
nữ và trẻ em thuộc đủ các màu da và tín ngưỡng sẽ tụ họp để đón nhận những
quyền con người chung của chúng ta... Nhân quyền là cơ sở của sự tồn tại và
cùng tồn tại của con người. Quyền con người là phổ biến, không thể chia tách
và phụ thuộc lẫn nhau. Nhân quyền là cái làm nên nhân loại chúng ta. Đó là
những nguyên tắc mang tính cơ sở để chúng ta thiết lập cái ngôi nhà thiêng
liêng cho phẩm giá loài người... Khi chúng ta nói về quyền sống, hoặc về
quyền phát triển, hoặc về quyền được bất đồng quan điểm và có sự khác biệt,
có nghĩa là chúng ta đang nói về khoan dung. Khoan dung nếu được tăng
cường, bảo vệ và ghi nhận, sẽ bảo đảm cho tự do của tất cả chúng ta. Thiếu sự
khoan dung chắc chắn chúng ta sẽ không làm được gì... tính phổ biến của nhân
quyền sẽ cho nhân quyền sức mạnh. Nó là động lực để nhân quyền liên kết các
biên giới quốc gia, vượt qua mọi trở ngại, thách thức và bạo lực... Cuộc đấu
tranh cho các quyền con người trên toàn cầu luôn diễn ra ở khắp mọi nơi và đã
là cuộc đấu tranh chống trả tất cả các hình thức chuyên chế tàn bạo và sự bất
công, chống lại tình trạng nô lệ, chống lại chủ nghĩa thực dân, chống lại chủ
nghĩa A-pac-thai. Ngày hôm nay, cuộc đấu tranh đó chưa hề giảm sức mạnh
và chưa bị khác trước [50, tr. 1].
Nhân dịp này, Mary Robinson - Đại diện cho Cao ủy Liên Hợp Quốc cũng có
một thông điệp:
Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền nguyện hỗ trợ tất cả
những ai hành động theo tư tưởng của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền với
những dòng mở đầu như sau:
Thừa nhận phẩm giá vốn có cùng các quyền bình đẳng, bất di bất dịch
của tất cả các thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng của tự do, công
lý và hòa bình trên thế giới [66, tr. 3].
Như vậy, mục đích của vấn đề giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc chính là:
"Xây dựng một nền văn hóa nhân quyền toàn cầu và cho phép mọi người được hưởng các
quyền - giáo dục nhân quyền ở mọi cấp độ và cho tất cả mọi người - xây dựng mối quan
hệ hợp tác trên toàn cầu vì nhân quyền - thúc đẩy sự khoan dung trong tư tưởng nhân
quyền rộng khắp thế giới" [66, tr. 6].
Để thực hiện được những ý tưởng nhân văn đẹp đẽ trên - Liên Hợp Quốc đã ra tuyên
bố hành động năm nhân quyền 1998 với các mục tiêu: Làm cho nhân quyền trở thành hiện
thực trên toàn thế giới; ngăn chặn những vi phạm nhân quyền; xây dựng một mối quan hệ
hợp tác toàn cầu vì nhân quyền; làm cho nhân quyền cùng với hòa bình, dân chủ và phát
triển trở thành những nguyên tắc chỉ đạo của thế kỷ XXI. Tuyên bố đề ra 7 tư tưởng chỉ
đạo: Thừa nhận phẩm giá của tất cả mọi người là mục tiêu tối cao; nhân quyền - ngôn
ngữ chung của nhân loại; quyền phụ nữ - trách nhiệm của tất cả; nhân quyền dân chủ và
phát triển - những tiêu chí dẫn tới tương lai; xã hội dân sự - động lực phát triển của nhân
quyền; nhân quyền - những thành tựu và thách thức; Liên Hợp Quốc - hành động trong
lĩnh vực nhân quyền. Trong các tư tưởng chỉ đạo này, quan điểm về giáo dục nhân quyền
của Liên Hợp Quốc đã được thể hiện đầy đủ, rõ nét trong tư tưởng chỉ đạo về nhân quyền -
ngôn ngữ chung của nhân loại.
Những nội dung trên thể hiện quan điểm giáo dục quyền con người của Liên Hợp
Quốc, bao gồm những vấn đề sau:
- Mục đích của giáo dục nhân quyền nhằm: xây dựng một nền văn hóa nhân
quyền toàn cầu và cho phép mọi người được hưởng các quyền.
- Nội dung của giáo dục nhân quyền: là toàn bộ các quyền con người được ghi
nhận trong các Tuyên ngôn, các Công ước quốc tế về quyền con người.
- Đối tượng của giáo dục nhân quyền là toàn thể cộng đồng người, không phân
biệt nam nữ, già trẻ, dân tộc, tôn giáo... mọi người đều được quyền được giáo dục như
nhau về quyền con người.
1.1.2.2. Khái niệm giáo dục quyền con người - quyền công dân
Cho đến nay, những vấn đề về lý luận giáo dục quyền con người, quyền công dân
ở nước ta vẫn còn là một vấn đề mới mẻ, chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ
thống.
Để xác định được đúng bản chất, mục đích, nội dung, phương pháp đối tượng của
giáo dục quyền con người, quyền công dân, trước hết chúng ta cần phải xuất phát từ vấn
đề cơ bản của giáo dục, đó là khái niệm giáo dục của khoa học sư phạm.
Theo các nhà nghiên cứu khoa học, khi nghiên cứu về khoa học sư phạm, chúng
ta cần phải nghiên cứu xem xét cả hai mặt của vấn đề này: nghĩa rộng và nghĩa hẹp của
khoa học giáo dục.
+ Theo nghĩa rộng: có thể hiểu giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những
điều kiện khách quan đã và đang tồn tại xung quanh đối tượng giáo dục như môi trường
sống, chế độ xã hội, truyền thống văn hóa, xã hội, tập quán, phong tục, trình độ phát triển
kinh tế, nền văn minh của nhân loại... và sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch
của bản thân con người đối với đối tượng giáo dục.
+ Hiểu theo nghĩa hẹp: giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch cụ thể của chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục (khách thể của quan hệ giáo
dục) nhằm đạt được những kết quả nhất định trong việc truyền bá những kinh nghiệm
trong quá trình đấu tranh và sản xuất, truyền bá những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư
duy mà thế hệ trước đã tích lũy được cho thế hệ sau.
Như vậy, cũng như các lĩnh vực giáo dục khác, giáo dục quyền con người, quyền
công dân cũng được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, giáo dục
quyền con người, quyền công dân là sự ảnh hưởng và tác động của các điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên tri thức tình cảm và hành vi tôn trọng, đảm
bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Giáo dục quyền con người, quyền công dân mà luận văn nghiên cứu ở đây được
hiểu theo nghĩa hẹp và được xác định qua các yếu tố cụ thể sau:
+ Sự hình thành ý thức cá nhân của mỗi con người là kết quả tất yếu từ một quá
tình tác động đan xen qua nhiều yếu tố ảnh hưởng. Trong các sự tác động này, nhân tố
của các điều kiện khách quan chỉ đóng vai trò là những nhân tố ảnh hưởng mang tính thụ
động, còn nhân tố chủ quan đóng vai trò là những nhân tố tích cực mang tính tác động
chủ động, tự giác. Nhân tố ảnh hưởng mang tính thụ động có thể tự phát theo chiều
hướng này hay chiều hướng khác, trong khi đó, nhân tố tác động bao giờ cũng phải là
những hành động mang tính tự giác, có ý thức, có kế hoạch, có định hướng rõ ràng, cụ
thể.
+ Khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân theo nghĩa hẹp còn có ý
nghĩa trong việc phân biệt phạm trù giáo dục quyền con người, quyền công dân với ý
thức quyền tự do của con người, của công dân. Hai phạm trù này không thể đồng nhất với
nhau, nhưng chúng lại có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Hoạt động giáo dục là sự tác
động của nhân tố chủ quan của nhiều chủ thể tạo thành hệ thống các hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định. Còn sự hình thành ý thức chính là sản phẩm, là kết quả
của các ảnh hưởng của điều kiện khách quan và sự tác động mang tính định hướng chủ
đích của nhân tố chủ quan. Hay nói khác đi, ý thức quyền con người, quyền công dân là
kết quả mong muốn đạt được của chủ thể giáo dục thông qua hoạt động giáo dục quyền
con người, quyền công dân. Việc phân biệt này rất quan trọng, nó giúp ta xác định rõ nội
dung, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục quyền con người, quyền công dân.
Chỉ khi xác định được đúng đắn những vấn đề này và có cách thức vận dụng đúng đắn
trong từng thời kỳ, từng giai đoạn, từng khu vực, từng đối tượng giáo dục cụ thể thì kết
quả giáo dục mới đạt hiệu quả cao. Nếu xem nhẹ, buông lỏng vấn đề này, sẽ dẫn đến việc
các ảnh hưởng tiêu cực, các yếu tố khách quan sẽ có điều kiện phát sinh, phát triển.
+ Xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục, theo giáo dục học, để xây dựng
khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân, cho phép chúng ta chỉ ra mối quan
hệ giữa "cái chung" và "cái riêng" giữa giáo dục quyền con người, quyền công dân và
giáo dục nói chung. Trong mối quan hệ này, giáo dục quyền con người, quyền công dân
là "cái riêng" mang tính đặc thù, còn giáo dục là "cái chung" mang tính phổ biến. Dưới
góc độ tiếp cận của triết học Mác - Lênin thì cái "riêng" vừa phải mang những đặc điểm
chung lại vừa phải mang tính thể hiện những nét đặc thù, nghĩa là giáo dục quyền con
người, quyền công dân vừa phải chứa đựng trong nó những đặc điểm chung nhất của quá
trình giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói chung, lại vừa phải
chứa đựng những cái riêng làm nên tính đặc thù của mình. Nét đặc thù của giáo dục
quyền con người, quyền công dân khác với các dạng giáo dục khác ở những điểm sau:
- Trước hết, nó phải nhằm mục đích giáo dục riêng. Đây là hoạt động mang tính
hướng đích, nhằm hình thành tri thức tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với mong
muốn, với yêu cầu, quy định của dân tộc, của nhân loại, của thế giới về quyền con người,
quyền công dân.
- Nó phải chứa đựng nội dung giáo dục riêng. Đây là sự tác động có định hướng
với nội dung cơ bản là sự truyền bá tri thức của nhân loại, của dân tộc, những quan điểm
của Đảng và Nhà nước về quyền con người, quyền công dân, trong đó, các công ước
quốc tế về quyền con người, những quy định của Hiến pháp, pháp luật quốc gia về quyền
công dân là cực kỳ quan trọng, mang tính cơ bản, nền tảng.
- Xét trên các yếu tố chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp giáo dục quyền
con người, quyền công dân cũng chứa đựng những nét đặc thù riêng biệt. Nó là cả quá
trình tác động thường xuyên, liên tục, trên nhiều cấp độ, đối với từng đối tượng, là quá
trình lâu dài, chứ không phải chỉ là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo
dục là đã hoàn tất việc giáo dục. Vì vậy mà nó trở thành quá trình xuyên suốt, kết nối, tác
động hỗ trợ qua lại giữa gia đình, nhà trường, xã hội, bạn bè, các tổ chức tập thể lao
động, tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã hội, nhóm xã hội, tổ chức tôn giáo, các sắc
tộc, các dân tộc, các quốc gia và tổ chức Liên Hợp Quốc. Nhân tố con người, bằng hành
động của mình đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa một bên là
người giáo dục (chủ thể của quan hệ giáo dục) và một bên là người chịu sự tác động có tổ
chức, có định hướng các thông tin về quyền con người, quyền công dân (đối tượng của
quan hệ giáo dục). Do đó, người giáo dục cần thiết phải có hiểu biết nhất định về người
được giáo dục như: độ tuổi, giới, tôn giáo, sắc tộc, trình độ kiến thức, nhân thân, truyền
thống văn hóa, đạo đức, phong tục tập quán, ý thức chính trị, môi trường mà đối tượng
đang sống, sự tham gia vào các công ước quốc tế, các quy định của Hiến pháp và pháp
luật của quốc gia mà đối tượng là công dân, điều kiện kinh tế, xã hội nơi đối tượng đang
sinh sống... và người giáo dục còn phải có phương pháp truyền tải thích hợp, là tấm
gương, hình mẫu trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Từ những phân tích trên có thể nêu khái niệm giáo dục quyền con người, quyền
công dân như sau: Giáo dục quyền con người, quyền công dân là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục
nhằm hình thành ở họ tri thức về quyền con người, quyền công dân; biết tự mình bảo vệ
quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của
các chuẩn mực pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và tương lai tiến bộ của nhân loại
về quyền con người, quyền công dân.
Với khái niệm trên, trong điều kiện ở nước ta hiện nay, việc trang bị đầy đủ,
đúng đắn những tri thức về quyền con người, quyền công dân, tạo ra tình cảm, thói quen
ứng xử theo quy định về quyền con người, quyền công dân cho mọi công dân trong xã
hội là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các cơ quan chức năng, của các tổ chức đoàn
thể quần chúng, tổ chức kinh tế, trong đó, trách nhiệm này trước hết và trực tiếp là thuộc
về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục, đào tạo con người. Con người không có
tổ chức định hướng giáo dục về quyền con người, quyền công dân trong hoạt động của
mình là trái với bản chất của giáo dục của xã hội dân chủ, của nhà nước pháp quyền, và
vì thế, không thể có được ý thức quyền con người, quyền công dân ở cá nhân con người.
Mục đích của giáo dục quyền con người, quyền công dân:
Nếu như mục đích chung của giáo dục trong khoa học sư phạm, theo nghĩa hẹp
nhằm đạt được ba mục đích đó là: mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành
vi và thói quen xử sự, thì theo chúng tôi, giáo dục quyền con người, quyền công dân cũng
có những mục đích tương tự cơ bản sau:
- Cung cấp đầy đủ, đúng đắn những tri thức về vấn đề quyền con người, quyền
công dân trên bình diện quốc gia, quốc tế; trong mối quan hệ giữa dân tộc và nhân loại,
và những xu hướng phát triển của tri thức nhân loại về vấn đề này trong tương lai trên cơ
sở đòi hỏi của các đối tượng giáo dục khác nhau, phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể.
- Hình thành tình cảm, lòng tin vào các quy định của pháp luật quốc tế, quốc gia
về quyền con người, quyền công dân.
- Xây dựng sự vững chắc của các thói quen, ứng xử theo yêu cầu, nội dung đòi
hỏi của quyền con người, quyền công dân.
Sự phân chia này của chúng tôi chỉ mang tính tương đối, nhằm cho phép xác
định, tính toán chính xác hơn những đặc thù của giáo dục quyền con người, quyền công
dân trong tổng thể hệ thống các dạng giáo dục thống nhất, cho phép tính toán áp dụng
hợp lý các hình thức, phương tiện, cách thức giáo dục khác nhau để đạt được hiệu quả
cuối cùng cao nhất của yêu cầu giáo dục quyền con người, quyền công dân.
1.2. Chủ thể, khách thể, hình thức, nội dung, phương pháp giáo dục quyền
con người, quyền công dân
1.2.1. Khách thể và đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân
1.2.1.1. Khách thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân
Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khách thể. Tùy theo tính chất,
phương pháp, đối tượng nghiên cứu khác nhau mà các ngành khoa học khác nhau có
những quan niệm về các loại khách thể và đối tượng nghiên cứu của mình. Cụ thể:
- Theo khoa học pháp luật:
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, chính trị và
tinh thần mà các công dân, tổ chức mong muốn đạt được nhằm thỏa mãn những
nhu cầu của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật và thực hiện quyền
chủ thể, nghĩa vụ pháp lý. Khách thể là đối tượng chịu sự tác động, chi phối
của hoạt động trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động gọi là chủ
thể [32, tr. 344].
- Theo một số nhà nghiên cứu giáo dục pháp luật Việt Nam thì khách thể của
giáo dục pháp luật là ý thức pháp luật và những thói quen, nếp sống, hành vi ứng xử
của công dân, của các nhóm cộng đồng và toàn xã hội, thể hiện trình độ nhất định của
nền văn hóa pháp lý. Còn đối tượng giáo dục pháp luật là những cá nhân công dân,
hay những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể, tiếp nhận tác động của các loại hoạt động
giáo dục pháp luật mà ý thức và hành vi của họ là khách thể của giáo dục pháp luật.
Nghĩa là khách thể và đối tượng của giáo dục pháp luật là hai phạm trù mang ý nghĩa
khác nhau.
- Một số nhà nghiên cứu giáo dục pháp luật khác lại đồng nhất khách thể với đối
tượng giáo dục pháp luật dựa trên khái niệm về khách thể của Đại Từ điển Tiếng Việt,
[105, tr. 478] và theo quan niệm đồng nhất giáo dục của khoa học sư phạm. Những người
này cho rằng: "Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật ở đây không phải chỉ là những cá
nhân, những nhóm người chung chung mà còn bao hàm cả những yếu tố bên trong của họ
như nhận thức tình cảm, cảm xúc, hành vi, hành động cụ thể của họ phù hợp với pháp luật"
[43, tr. 16].
Theo chúng tôi, giáo dục quyền con người, quyền công dân cũng là một dạng của
quan hệ giáo dục, là một dạng của quan hệ xã hội nên nó cũng chứa đựng những yếu tố
chung nhất về khái niệm khách thể như những quan hệ xã hội khác, dạng giáo dục khác.
Vì thế, chúng tôi coi khách thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân chính là
những nhận thức, tình cảm, hành vi hành động của những cá nhân, những tập thể được
hình thành qua hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân. Hay nói cách khác,
nó chính là mục đích, kết quả mà chủ thể giáo dục quyền con người, quyền công dân
mong muốn đạt được khi tác động lên đối tượng giáo dục.
Chúng tôi cho rằng, khách thể và đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền
công dân là hai phạm trù khác nhau, không đồng nhất như quan niệm của một số nhà
nghiên cứu về giáo dục pháp luật nêu trên. Vì nếu đồng nhất hai phạm trù này, trước hết
thể hiện sự xem nhẹ kết quả mong muốn đạt được của hoạt động giáo dục quyền con
người, quyền công dân. Không thấy hết sự khác biệt về tính chất, vai trò, quan hệ tác
động qua lại giữa khách thể và đối tượng của dạng giáo dục này. Trong quan hệ giữa đối
tượng và khách thể thì đối tượng giáo dục có vai trò tiếp nhận sự tác động của hoạt động
giáo dục và là cơ sở của sự tồn tại của khách thể khi kết thúc hoạt động giáo dục, và là
phương tiện để khách thể thông qua đó mà biểu đạt ra ngoài. Hơn nữa, nếu đồng nhất
khách thể với đối tượng giáo dục sẽ không cho phép chúng ta xây dựng nội dung, phương
pháp giáo dục thích hợp vì mỗi đối tượng giáo dục khác nhau luôn chứa đựng những yếu
tố đặc thù đòi hỏi phải có nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp với yếu tố đặc thù
đó. Hoặc không thấy hết được vai trò tác động trở lại của khách thể đối với đối tượng
giáo dục khi nó đã hình thành và phát huy hiệu quả.
Sự tác động của hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân là sự tác
động có ý thức, có định hướng, có kế hoạch lên đối tượng của giáo dục là những cá nhân,
tập thể cụ thể, chứ không thể là sự tác động lên khách thể là cái được hình thành từ hoạt
động tác động đó.
1.2.1.2. Đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân
Đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân là một trong những
vấn đề cơ bản của lý luận giáo dục. Cũng như các dạng giáo dục khác, việc xác định nội
dung, phương pháp, hình thức giáo dục thích hợp nhằm thu được hiệu quả giáo dục cao
phụ thuộc rất nhiều vào việc nghiên cứu, đánh giá đúng đắn, toàn diện về đối tượng giáo
dục nói chung và giáo dục quyền con người, quyền công dân.
- Đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân trước hết bao gồm
toàn bộ cá nhân đang tồn tại trong cộng đồng nhân loại; bao gồm tất cả các dân tộc trong
mối quan hệ quốc tế. Trong mỗi dân tộc cụ thể, đối tượng của giáo dục quyền con người,
quyền công dân là những cá nhân công dân, những nhóm, cộng đồng xã hội cụ thể tiếp
nhận những tác động của các hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân vừa
mang tính quốc tế, vừa mang tính quốc gia mà ý thức và hành vi của họ là khách thể của
giáo dục quyền con người, quyền công dân. Đối tượng giáo dục quyền con người, quyền
công dân ở Việt Nam vừa mang những đặc điểm chung của cộng đồng nhân loại, vừa có
những đặc điểm riêng biệt. Đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt
Nam rất phong phú, đa dạng và có thể phân loại thành các nhóm dựa trên các cơ sở, yếu
tố, phản ánh trạng thái, địa vị pháp lý, điều kiện kinh tế, môi trường sống, việc làm,
truyền thống văn hóa, đạo đức, tôn giáo của từng đối tượng giáo dục này. Các chủ thể
giáo dục sẽ lựa chọn các nội dung, hình thức, giáo dục phù hợp nhằm làm cho từng đối
tượng giáo dục tiếp thu được những tri thức cần thiết về quyền con người, quyền công
dân để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, thích ứng với vai trò, địa vị của họ trong
quan hệ với cộng đồng, với công dân khác.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cần phân loại các nhóm đối tượng để phục
vụ cho hoạt động giáo dục quyền con người , quyền công dân. Có thể tập trung vào các
nhóm đối tượng sau đây:
+ Nhóm đối tượng thứ nhất, là đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong các cơ
quan, tổ chức của Đảng, trong các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và tư pháp.
+ Nhóm đối tượng thứ hai, là các thành viên của các tổ chức đoàn thể quần
chúng, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.
+ Nhóm đối tượng thứ ba, là đội ngũ học sinh, sinh viên đang học trong các nhà
trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
+ Nhóm đối tượng thứ tư, là những người lao động trong các doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân.
+ Nhóm đối tượng thứ năm, là người lao động ở khu vực nông thôn.
+ Nhóm đối tượng thứ sáu, là những người đã quá tuổi lao động, những người đã
về hưu.
+ Nhóm đối tượng thứ bảy, là những người có những đặc điểm tự nhiên cần được
nhà nước đặc biệt quan tâm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ để bảo đảm cho sự
phát triển tự nhiên của họ như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật,
trẻ em lang thang, phạm nhân.
+ Nhóm đối tượng thứ tám, là những người công tác trong lĩnh vực giáo dục mà
đặc biệt là những người trực tiếp làm công tác giáo dục quyền con người, quyền công
dân.
Việc phân loại đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân nêu trên
được căn cứ theo sự tương đồng về chuyên môn, nhiệm vụ, nghề nghiệp, vị thế xã hội,
giới, hoàn cảnh điều kiện sống...
Đối với từng nhóm đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân nêu
trên, cần có sự nghiên cứu đầy đủ những đặc điểm của họ về tâm lý, tuổi tác, trình độ văn
hóa, tôn giáo, giới tính, điều kiện sống để xác định nội dung, phương pháp giáo dục thích
hợp.
1.2.2. Chủ thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân
Theo từ điển tiếng Vịêt, có thể hiểu chủ thể "là đối tượng gây ra hành động mang
tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng chi phối của hoạt động tác động, gọi là
khách thể" [105, tr. 130].
Lý luận giáo dục học cho rằng, chủ thể giáo dục là những thầy, cô giáo và tất cả
những người làm công tác giáo dục khác.
Vận dụng quan niệm trên vào giáo dục quyền con người, quyền công dân có thể
thấy rằng, tuy đây là một dạng của giáo dục, nhưng nó có những đối tượng, phương
pháp, hình thức giáo dục khác với giáo dục trong các nhà trường. Người thực hiện hành
động giáo dục (tác động lên đối tượng giáo dục) quyền con người, quyền công dân
không phải chỉ có những thầy, cô giáo, những cá nhân làm công tác giáo dục, mà còn cả
các tổ chức, cơ quan được giao nhiệm vụ hoặc tự nhận nhiệm vụ giáo dục quyền con
người, quyền công dân trước cộng đồng, xã hội; hoặc các tổ chức quốc tế, tổ chức phi
chính phủ tham gia thực hiện dạng giáo dục này ở Việt Nam. Hình thức giáo dục cũng
vậy, không chỉ là những buổi học ở trên lớp, ở những hội thảo, mà việc giáo dục quyền
con người, quyền công dân còn được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại
chúng, qua sách báo và ở mọi nơi, mọi lúc, vì thế nếu coi chủ thể của giáo dục quyền
con người, quyền công dân chỉ là cá nhân những người làm công tác giáo dục thì sẽ
không đầy đủ. Theo chúng tôi, chủ thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân
là những cá nhân, những cơ quan, tổ chức làm công tác giáo dục quyền con người,
quyền công dân trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao hoặc mang tính tự nguyện,
mang tính trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu
giáo dục quyền con người, quyền công dân. Có những chủ thể đồng thời là đối tượng
của dạng giáo dục này.
Việc xác định chủ thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân có ý nghĩa
rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công
dân. Trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể, đối tượng giáo
dục trong hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân - chủ yếu là các hoạt
động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của người giáo dục lên đối tượng giáo dục -
cho phép xác định đúng mức những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động
lên hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân của đối tượng giáo dục này;
cũng như cho phép xác định chính xác yêu cầu khách quan của chủ thể giáo dục quyền
con người, quyền công dân trong việc xác định nội dung, hình thức, phương tiện, biện
pháp thích hợp để tiếp cận với đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân một
cách có hiệu quả nhất.
1.2.3. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục quyền con người, quyền
công dân
1.2.3.1. Nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân
Việc xác định nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân là yếu tố quan
trọng hàng đầu của quá trình giáo dục quyền con người, quyền công dân. Nội dung giáo
dục quyền con người, quyền công dân dựa trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của
từng đối tượng cụ thể, và xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ, mục đích của dạng giáo dục
này. Phạm vi của dạng giáo dục này là rất rộng, có những đặc điểm đặc thù riêng không
đồng nhất, không lẫn với các nội dung giáo dục khác, nhưng nó có thể lồng ghép, đan xen
với nội dung giáo dục khác như giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật (phần liên quan
đến quyền, nghĩa vụ của công dân).
Theo chúng tôi, nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân bao gồm
những vấn đề sau:
- Các thông tin về quyền con người, quyền công dân, bao gồm cả những tuyên
ngôn, công ước quốc tế về quyền con người và ghi nhận đảm bảo của Hiến pháp, pháp
luật quốc gia về quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Các quan điểm hiện nay trên thế giới, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề quyền con người,
quyền công dân.
- Lịch sử hình thành và phát triển quyền con người, quyền công dân (cả trên thế
giới và Việt Nam).
- Các thông tin về việc thực hiện quyền con người, quyền công dân ở các nước
trên thế giới và Việt Nam.
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, hình thức, phương pháp, nội dung, kinh
nghiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục quyền con người, quyền công dân của các nước
trên thế giới và thực tiễn giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.
- Các thông tin về giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc, của các tổ chức
phi chính phủ; quan hệ của Việt Nam với các tổ chức này trong việc thực hiện giáo dục
quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.
- Các thông tin về sự tác động, ảnh hưởng về việc giáo dục quyền con người,
quyền công dân của các tổ chức quốc tế, của Liên Hợp Quốc và của các nước khác tới
công dân Việt Nam.
- Các thông tin về đánh giá của Liên Hợp Quốc, của các quốc gia các về vấn đề
thực hiện quyền con người, quyền công dân và hoạt động giáo dục về vấn đề này ở Việt
Nam.
- Các thông tin về hệ thống, tổ chức thực hiện giáo dục quyền con người, quyền
công dân ở Việt Nam, của Liên Hợp Quốc và các nước khác trên thế giới...
Tuy nhiên, không phải bất kỳ đối tượng giáo dục nào cũng đòi hỏi được sự cung
cấp đầy đủ tất cả các thông tin về quyền con người, quyền công dân nêu trên. Và cũng
không thể thực hiện giáo dục một cách máy móc, thuần túy chỉ là cung cấp thông tin, mà
cần phải lưu ý tới một thực tiễn, sự tồn tại mâu thuẫn của các thông tin, sự phủ định lẫn
nhau của các thông tin và những đặc điểm đặc thù của nội dung giáo dục quyền con
người, quyền công dân để có nhận thức đầy đủ, khách quan, chính xác của chủ thể và đối
tượng giáo dục. Cần phải có sự phân tích, đánh giá một cách khoa học, khách quan về các
thông tin để tạo ra nhận thức một cách đúng đắn về vấn đề quyền con người, quyền công
dân, tránh tình trạng áp đặt chủ quan, định kiến duy ý chí, dẫn đến sự nhận thức sai lệch
hoặc không đạt hiệu quả cao của giáo dục quyền con người, quyền công dân. Vì thế, khi
thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân, cần phải xác định mục đích giáo
dục cần đạt được ở từng đối tượng giáo dục, trên cơ sở đó xác định mức độ, từng cấp giáo
dục khác nhau cho từng đối tượng cụ thể. Theo chúng tôi, trên cơ sở mục tiêu, đặc điểm
của đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân, chúng ta có thể phân định nội
dung giáo dục quyền con người, quyền công dân thành ba cấp độ khác nhau sau:
- Yêu cầu tối thiểu về nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân cho
mọi công dân. Cấp độ này bao gồm những nội dung tối thiểu nhất, phổ thông nhất về
quyền con người, quyền công dân, phù hợp với đối tượng là quảng đại quần chúng nhân
dân, nhằm giúp họ hình thành những tri thức tối thiểu, hình thành tình cảm, thói quen đơn
giản trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân.
- Yêu cầu riêng về giáo dục quyền con người, quyền công dân theo nhu cầu về
ngành, nghề, địa vị xã hội, giới, nhóm xã hội. Nội dung giáo dục quyền con người, quyền
công dân ở cấp độ này thường có tính tổng hợp, hệ thống, nền tảng, bao gồm: hệ thống
các khái niệm, phạm trù cơ bản của quyền con người, quyền công dân; những tri thức về
quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong pháp luật quốc gia, quốc tế,
những tri thức cơ bản về xây dựng và đảm bảo quyền con người, quyền công dân; việc xử
lý vi phạm quyền con người, quyền công dân...
- Yêu cầu giáo dục có tính chuyên ngành về quyền con người, quyền công dân. Đây
là cấp độ cao nhất của giáo dục quyền con người, quyền công dân, bao gồm những tri thức
mang tính chuyên sâu về quyền con người, quyền công dân, những vấn đề mang tính chất kỹ
năng, kỹ xảo, thao tác nghề nghiệp về quyền con người, quyền công dân... Nội dung giáo dục
ở cấp độ này chủ yếu dành cho các đối tượng trở thành chuyên gia nghiên cứu, giảng dạy,
các chuyên gia hoạt động trong các tổ chức quốc gia, quốc tế về quyền con người, quyền
công dân.
Từ việc xác định phạm vi và mức độ yêu cầu về nội dung giáo dục quyền con
người, quyền công dân nêu trên cho thấy, trong thực tiễn, khó có một hình thức hay một
chủ thể giáo dục quyền con người, quyền công dân riêng biệt nào có đủ khả năng đáp ứng
được việc truyền tải toàn bộ các yêu cầu phạm vi nội dung để đạt tới mục tiêu giáo dục
quyền con người, quyền công dân đặt ra cho từng loại đối tượng. Vì thế, cần thiết phải
tìm kiếm phối hợp với các chương trình, mục tiêu giáo dục quyền con người, quyền công
dân của các chủ thể khác nhau để bổ sung, hỗ trợ những ưu điểm và hạn chế những
nhược điểm của từng hình thức, phương tiện giáo dục.
1.2.3.2. Hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân
Mục đích, nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân không thể tự thân
trở thành nhận thức, tình cảm của đối tượng giáo dục mà phải thông qua các hình thức
giáo dục cụ thể. Việc xác định hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân vì
thế đóng một vai trò không nhỏ đến kết quả của hoạt động giáo dục này.
Hình thức giáo dục theo giáo dục học được hiểu là cách thức tổ chức hoạt động
phối hợp giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh nội dung giáo dục
và đạt mục đích giáo dục. Theo chúng tôi, ở khía cạnh này, giáo dục quyền con người,
quyền công dân cũng giống như các dạng giáo dục khác, do đó, cũng giống như khái
niệm về hình thức giáo dục của giáo dục học nêu trên. Hình thức giáo dục quyền con
người, quyền công dân là các dạng hoạt động cụ thể, có tổ chức, phối hợp giữa các chủ
thể giáo dục quyền con người, quyền công dân và đối tượng giáo dục quyền con người,
quyền công dân để thể hiện nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân và đạt
mục đích giáo dục quyền con người, quyền công dân.
Từ khái niệm trên cho thấy, có thể có nhiều hình thức giáo dục quyền con người,
quyền công dân khác nhau được thực hiện trong thực tiễn. Tuy nhiên, căn cứ vào mục
tiêu, nội dung, chủ thể, đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân, có thể chia
hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân thành hai loại sau:
- Các hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân mang tính phổ biến,
truyền thống như phổ biến, nói chuyện về quyền con người, quyền công dân tại các Hội
nghị, cuộc họp, hội thảo, câu lạc bộ về quyền con người, quyền công dân; các lớp giảng
chuyên đề cho các đối tượng chuyên biệt, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến qua sinh
hoạt văn hóa cộng đồng ở các cụm dân cư, làng xã, buôn làng, qua đoàn thể quần chúng;
các nơi thờ tự, sinh hoạt tôn giáo, tuyên truyền phổ biến giáo dục qua các phương tiện
thông tin đại chúng; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, sáng tác văn học nghệ thuật về đề tài
quyền con người, quyền công dân, thông tin cổ động, dạy và học về quyền con người,
quyền công dân.
- Các hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân đặc thù. Đây là các
hoạt động định hướng giáo dục quyền con người, quyền công dân thông qua các hoạt
động hoạch định đường lối, chính sách, hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp của các
cơ quan nhà nước (như Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát
nhân dân, Công an).
1.2.3.3. Phương pháp giáo dục quyền con người, quyền công dân
Theo các nhà nghiên cứu, thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "Me
Todos", có nghĩa là con đường, cách thức tự vận động bên trong nội dung, nó gắn với
hoạt động của con người, giúp con người hoàn thành được những nhiệm vụ phù hợp với
mục tiêu đã đề ra [88, tr. 40].
Phương pháp bao giờ cũng xuất phát từ một mục đích nhất định, nội dung giáo
dục nhất định. Mục đích, nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân quy định
phương pháp, nhưng bản thân phương pháp có tác dụng trở lại mục đích, nội dung, làm
cho nội dung ngày càng hoàn thiện, làm cho mục đích đạt được ngày càng cao.
Phương pháp giáo dục quyền con người, quyền công dân có mối quan hệ qua lại
rất mật thiết với các nhân tố khác của quá trình giáo dục mà trước hết là hình thức giáo
dục. Phương pháp giáo dục và hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân, theo
chúng tôi là hai khái niệm độc lập, không đồng nhất, nhưng lại có quan hệ mật thiết với
nhau. Mỗi hình thức giáo dục nhất định luôn luôn gắn với những phương pháp giáo dục
nhất định, đặc thù của hình thức đó. Ngược lại, phương pháp giáo dục tác động trở lại
làm cho hình thức giáo dục phát triển ngày càng hướng đích, ngày càng hoàn thiện hơn.
Vì thế, khi lựa chọn, sử dụng các hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân,
nhất thiết chúng ta còn phải lựa chọn, áp dụng những phương pháp cụ thể, thích hợp với
từng chủ thể và đối tượng cụ thể dựa trên tính chất đặc thù của chủ thể và đối tượng đó.
Đồng thời, chúng ta cũng phải thường xuyên học hỏi, áp dụng những phương pháp giáo
dục mới, đạt hiệu quả cao hơn mà khoa học giáo dục chuyên ngành trên thế giới đã tìm ra
và áp dụng.
1.3 Vai trò của giáo dục quyền con người, quyền công dân trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã được Đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra và tiếp tục được
khẳng định ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Đây là yêu cầu tất yếu, khách quan
nhằm duy trì bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh để nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành của Nhà
nước; giữ vững và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong tình
hình hiện nay.
Có nhiều quan điểm về Nhà nước pháp quyền nhưng đều đề cập một số đặc trưng
cơ bản. Chúng tôi tán thành quan điểm về Nhà nước pháp quyền do một học giả Việt
Nam đưa ra dưới đây :
Nhà nước pháp quyền là một Nhà nước mà ở đó, quyền và nghĩa vụ
của tất cả và của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Nhà nước
pháp quyền được định nghĩa là một chế độ mà ở đó, Nhà nước và cá nhân phải
tuân thủ pháp luật, việc thực hiện pháp luật được bảo đảm bằng một hệ thống
tòa án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là
con người. Nhà nước phải tuân thủ pháp luật và đảm bảo cho công dân có đủ
khả năng và điều kiện chống lại sự tùy tiện của Nhà nước, phải có một cơ chế
chặt chẽ để kiểm tra tính hợp pháp và hợp hiến của pháp luật và các hành vi
của bộ máy chính quyền Nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải tạo ra cho
công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những
điều được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nước pháp
quyền, Hiến pháp giữ vị trí tối cao trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp xây
dựng trên cơ sở bảo đảm tự do và quyền của công dân [76, tr. 39-40].
Từ quan điểm này, chúng ta thấy rằng Nhà nước pháp quyền có mối liên hệ với
những vấn đề quan trọng sau:
- Phải tạo ra cho được ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý
nhà nước.
- Xác định đúng đắn trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân.
- Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân.
- Xây dựng tổ chức, bộ máy nhà nước chặt chẽ, có tính ổn định cao.
- Tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước.
Trong các vấn đề trên, vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng
của công dân được coi là yêu cầu trọng tâm của nội dung về Nhà nước pháp quyền. Điều
đó có nghĩa là quá trình xây dựng Nhà nước pháp quền đặt ra yêu cầu cấp bách phải tăng
cường công tác giáo dục quyền con người, quyền công dân.
Chúng tôi cũng tán thành với quan điểm trên. Và từ đây cho thấy, các nội dung
này có liên quan trực tiếp tới việc thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân.
Cùng với giáo dục pháp luật và các dạng giáo dục khác, giáo dục quyền con người, quyền
công dân trực tiếp góp phần tạo ra các nội dung, giá trị của Nhà nước pháp quyền, đảm
bảo cho Nhà nước pháp quyền Việt Nam hình thành trong thực tiễn. Thực hiện tốt giáo
dục quyền con người, quyền công dân còn giúp cho quá trình này được rút ngắn và đi
đúng hướng, tránh được những lệch lạc, phiến diện trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam.
- Giáo dục quyền con người, quyền công dân nhằm nâng cao tri thức quyền con
người, quyền công dân cho các thành viên xã hội.
- Giáo dục quyền con người, quyền công dân góp phần xây dựng thái độ tôn
trọng giá trị cao quí của quyền con người, quyền công dân trong các thành viên của xã
hội, nhất là đối với cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước.
- Giáo dục quyền con người, quyền công dân góp phần xây dựng ý thức tự vệ, tự
đấu tranh bảo vệ quyền con người, qyuền công dân của mỗi thành viên xã hội, cũng như
đấu tranh bảo vệ quyền con người, quyền công dân của người khác khi những quyền đó
bị xâm hại.
Chương 2
Thực trạng giáo dục quyền con người,
quyền công dân ở Việt Nam hiện nay
2.1. Giáo dục quyền con người, quyền công dân của Liên Hợp Quốc và của
một số nước trên thế giới
2.1.1. Giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc
Liên Hợp Quốc có các cơ quan chính là Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Hội
đồng Kinh tế và xã hội (ECOSOC), Hội đồng quản thác và Tòa án quốc tế.
Theo Hiến chương, mỗi cơ quan trong số các cơ quan này đều có trách nhiệm
nhất định trong việc tổ chức bộ máy và các hoạt động về nhân quyền. Tuy nhiên, Điều 62
Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định ECOSOC có vai trò quan trọng nhất trong tất cả
các hoạt động nhân quyền. Để giúp việc cho mình, ECOSOC đã thiết lập các cơ quan
trực thuộc mình như ủy ban nhân quyền (Commission on Human Rights), ủy ban về vị
thế của phụ nữ, ủy ban ngăn ngừa tội ác và tư pháp hình sự. Các ủy ban này có chức năng
rất rộng trên các lĩnh vực nhân quyền của Liên Hợp Quốc, đặc biệt là ủy ban nhân quyền,
từ việc nghiên cứu các vấn đề, đề xuất xây dựng bộ máy, các chương trình hoạt động,
soạn thảo các văn kiện cho đến giám sát thực hiện các văn kiện quốc tế về nhân quyền.
Nghiên cứu các hoạt động của hệ thống Liên Hợp Quốc trên lĩnh vực nhân
quyền, có thể nhận thấy rằng: để thực hiện mục tiêu thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, hoạt động
của Liên Hợp Quốc hướng vào bốn phương diện chủ yếu sau:
+ Xây dựng hệ thống văn kiện quốc tế về nhân quyền.
+ Xây dựng cơ chế giám sát, đảm bảo việc thực hiện các văn kiện quốc tế về
nhân quyền.
+ Xây dựng cơ chế trợ giúp.
+ Tổ chức các hoạt động giáo dục, thông tin, tuyên truyền về nhân quyền.
Trong các hoạt động này, Liên Hợp Quốc coi hai hoạt động: xây dựng hệ thống
các văn kiện quốc tế về nhân quyền và xây dựng cơ chế giám sát, bảo đảm thực hiện các
văn kiện là quan trọng nhất. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa Liên Hợp Quốc coi
nhẹ hoạt động xây dựng cơ chế trợ giúp và tổ chức các hoạt động giáo dục, thông tin, tuyên
truyền nhân quyền, vì các hoạt động này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo tiền đề cho
nhau. Các hoạt động xây dựng hệ thống văn kiện quốc tế về nhân quyền và xây dựng cơ
chế giám sát, bảo đảm việc thực hiện các văn kiện quốc tế về nhân quyền này chỉ thực sự
đi vào cuộc sống và phát huy hết giá trị của nó khi thực hiện tốt hoạt động trợ giúp và đặc
biệt là hoạt động giáo dục, thông tin, tuyên truyền về nhân quyền.
Hoạt động giáo dục, thông tin, tuyên truyền về nhân quyền của Liên Hợp Quốc
đóng vai trò như cầu nối giữa Liên Hợp Quốc với các quốc gia và công chúng trên lĩnh
vực nhân quyền, là cơ sở để đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu của Liên Hợp Quốc về
nhân quyền.
Các hoạt động thông tin và giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc bao gồm
việc tổ chức đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản các ấn phẩm, tổ
chức các cuộc hội thảo, tập huấn, đàm luận và giảng dạy về nhân quyền trên phạm vi toàn
cầu. Các hoạt động này nhằm cung cấp những thông tin cơ bản về nhân quyền, tạo ra
nhận thức rộng rãi về vấn đề nhân quyền trong nhân dân thế giới.
Về hoạt động thông tin
Các hoạt động về truyền bá thông tin về nhân quyền đã được Liên Hợp Quốc
chính thức đề cập đến từ năm 1948, trong Nghị quyết 43/128, ngay sau khi thông qua
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền. Trong quá trình tồn tại và hoạt động của mình, Liên
Hợp Quốc ngày càng mở rộng hoạt động này cả về quy mô và hình thức.
Các tài liệu truyền thông về nhân quyền do hai cơ quan này tổ chức sản xuất,
phát hành rất phong phú, đa dạng như: phim, ảnh, tạp chí, bản tin, sách chuyên khảo,
sách bỏ túi và tập hợp các văn kiện quốc tế về nhân quyền.
Hoạt động giảng dạy nhân quyền cũng được Liên Hợp Quốc đề cập từ năm 1948,
trong Nghị quyết 2170 (III). Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết này
nhằm bày tỏ sự cần thiết phải tổ chức các hoạt động giáo dục về nhân quyền một cách
rộng rãi trên toàn cầu.
Từ năm 1995, để thúc đẩy mạnh mẽ hơn các hoạt động giáo dục nhân quyền trên
thế giới, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã phát động một chiến dịch giáo dục nhân quyền
với tên gọi: "Thập kỷ giáo dục nhân quyền". Chiến dịch này sẽ kéo dài từ năm 1995 đến
năm 2004, và diễn ra trên toàn thế giới.
Liên Hợp Quốc phát động chiến dịch "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" nhằm đạt
được các mục tiêu:
- Đánh giá các nhu cầu và hoạch định chiến lược cho giáo dục nhân quyền từ
các cấp học trong nhà trường đào tạo nghề và các chương trình đào tạo chính thức;
xây dựng và tăng cường các chương trình và năng lực cho giáo dục nhân quyền cho
tường địa phương, khu vực trong các quốc gia; phát triển có tính chất điều phối các tài
liệu về giáo dục nhân quyền; tăng cường vai trò và năng lực của phương tiện thông tin
đại chúng đối với việc thúc đẩy giáo dục nhân quyền; phổ biến rộng rãi toàn cầu về
Tuyên ngôn nhân quyền thế giới bằng nhiều ngôn ngữ nhất có thể thực hiện theo các
hình thức tương ứng ở các cường độ khác nhau, kể cả người tàn tật, mù chữ, thất học.
Các chủ thể chính thực hiên chương trình này: Chính phủ, tổ chức nhân quyền
quốc gia, Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Trung tâm nhân quyền Liên Hợp Quốc.
UNESCO, các tổ chức quốc tế khác (tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ), Các cơ
quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc như UNICEF, UNDP, ILO, Trung tâm phát triển các
vấn đề xã hội và nhân đạo...
Đánh giá về Thập kỷ nhân quyền của Liên Hợp Quốc:
Tháng 4 năm 2000 "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" của Liên Hợp Quốc đã thực
hiện được 6 năm. Văn phòng Cao ủy nhân quyền và UNESCO đã phát động cuộc khảo
sát toàn thế giới về giáo dục nhân quyền, nhằm đánh giá những tiến bộ đã đạt được trong
5 năm đầu của Thập kỷ, và đã đưa ra một số kết quả, kiến nghị các khu vực:
+ Các khuyến nghị tổng thể:
Tập trung vào các chủ thể cơ bản và việc thực hiện ở mọi cấp độ, lĩnh vực giáo
dục nhân quyền, các khái niệm và phương pháp; giáo dục nhân quyền cần phải tạo cơ sở
tiền đề cho các văn kiện nhân quyền, cơ chế bảo vệ, và các trình tự đảm bảo cho việc
đánh giá các phương pháp giảng dạy; tính tích cực, sáng tạo liên quan đến đời sống của
công chúng phải được sử dụng và vấn đề nhân quyền nên được giới thiệu trong một khuôn
khổ phù hợp; sự nhạy cảm về giới cần được nhấn mạnh trong tất cả các hoạt động giáo
dục, môi trường có thể cho các nhà giáo dục nhân quyền (kể cả việc cung cấp thông tin,
các cơ sở đào tạo, các trang thiết bị) và bảo vệ việc lạm dụng giới cần được bảo đảm; và
những ưu tiên cần dành cho những chiến lược, mục tiêu ổn định (đào tạo giảng viên),
việc đưa giáo dục nhân quyền vào trong các chương trình đào tạo nhân quyền có liên
quan.
+ Các khuyến nghị ở cấp độ quốc gia:
Các chính phủ cần khẳng định lại cam kết và nghĩa vụ mà họ đã nhận liên quan
đến GDNQ và tăng cường tiến hành thực hiện để có thể hiện thực hóa tất cả thành tựu
quan trọng vào cuối thập kỷ nhân quyền; các chính phủ cần khuyến khích và thúc đẩy các
chiến lược quốc gia về giáo dục nhân quyền mang tính chất phổ thông để đảm bảo hiệu
quả và lâu dài. Những chiến lược như thế phải được thể hiện trong các chương trình quốc
gia về GDNQ (theo hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về vấn đề này). GDNQ cần phải được
xem như là một bộ phận của các chương trình phát triển quốc gia và các chương trình
hành động quốc gia có liên quan (các chương trình hoạt động về nhân quyền nói chung,
hoặc các chương trình hành động có liên quan đến phụ nữ, trẻ em, dân tộc ít người, người
bản xứ); các chính phủ, tổ chức phi chính phủ cần phải được thừa nhận với thái độ tôn
trọng những khả năng của họ trong việc tăng cường hơn nữa việc GDNQ. Các quan hệ
đối tác cần phải được thiết lập khi cơ hội cho sự hợp tác diễn ra. Việc sử dụng tối đa các
chương trình hiện hữu, các nguồn lực, cơ sở vật chất đang có cho GDNQ; phải có hệ
thống điều phối và hợp tác hiệu quả và tốt hơn trong các cơ quan chính phủ; đồng thời
các tổ chức NGO cần phát triển và thực hiện các chiến lược khuyến khích chính phủ, thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ để đưa GDNQ vào tất cả mọi hình thức và lớp học đối với trẻ em,
thanh thiếu niên và người lớn. Và phải có sự giám sát các chiến lược đó. Các nguồn lực quốc
tế và các tài liệu mang tính quốc tế cần được chuyển tải phù hợp với điều kiện văn hóa và
ngôn ngữ địa phương.
+ Các khuyến nghị có tính chất cấp khu vực:
Các tổ chức GDNQ khu vực nòng cốt cần phải được hỗ trợ để nâng cao hơn nữa
năng lực GDNQ trong các khu vực kể cả việc trợ giúp tổ chức các cuộc hội thảo khu vực,
các khóa đào tạo giảng viên. Sự liên kết và chia sẻ tài liệu cụ thể trong khu vực. Các
chương trình cụ thể có tính khu vực, cơ chế điều phối phải tối đa hóa sự tham gia của các
chủ thể quốc gia, có thể là chủ thể chính phủ, phi chính phủ trong các chương trình
GDNQ. Các chương trình có tính khu vực như vậy cần phải liên kết với các chương trình
khu vực được hỗ trợ bởi Liên Hợp Quốc. Phải có chiến lược phân phối về tài liệu về nhân
quyền trong toàn bộ khu vực; sự liên kết cần phải được thiết lập giữa các phương tiện
thông tin đại chúng với các nhóm trong xã hội để có thể đưa GDNQ vào các chương trình
đào tạo; các tổ chức liên chính phủ hiện nay cần phải được khuyến khích để đưa GDNQ
vào chương trình của họ và xác định những nguồn hỗ trợ liên quan trong khuôn khổ thập
kỷ nhân quyền.
+ Các khuyến nghị có tính chất cấp độ quốc tế:
Các tổ chức của Liên Hợp Quốc cần phải thông qua một chiến lược mang tính
rộng rãi cho thập kỷ Giáo dục nhân quyền. Cơ chế điều phối hiệu quả cần phải được
phát triển và phát triển vai trò của cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền trong cơ chế
đó; vấn đề đào tạo về nhân quyền cần phải thực hiện cho tất cả nhân viên của Liên
Hợp Quốc; GDNQ cần đưa vào các chương trình nghị sự đặc biệt của Đại hội đồng,
tiếp theo là Hội nghị thượng đỉnh thế giới về trẻ em 2001. Văn phòng cao ủy theo yêu
cầu của Đại hội đồng cần phải giám sát sự phát triển của GDNQ trong thập kỷ nhân
quyền này.
Kể từ khi Liên Hợp Quốc được thành lập với công việc lập pháp về nhân quyền,
gìn giữ hoà bình và an ninh thế giới đã đóng góp một cách tích cực trong việc đẩy mạnh
việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Các chương trình giáo dục nhân quyền đã thực sự
được đẩy mạnh sau các hội nghị nhân quyền thế giới lần thứ nhất (năm 1968 tại Tê-hê-
ran); Hội nghị về Giáo dục nhân quyền năm 1978 do UNESCO triệu tập và Hội nghị thế
giới về nhân quyền lần thứ hai năm 1993 tại Viên (áo) đã thông qua Nghị quyết 49/184
ngày 23/12/1994 về Thập kỷ giáo dục nhân quyền và đến nay như đã đề cập ở trên: Thập
kỷ đã được phát động trên phạm vi toàn cầu và đã thu được những kết quả đáng khích lệ.
Các khuyến nghị được Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền và UNESCO
đưa ra sau khi có kết quả khảo sát đánh giá giai đoạn đầu của việc thực hiện Thập kỷ
Giáo dục nhân quyền là có căn cứ khoa học. Việc khuyến nghị ở các cấp độ chung, khu
vực, quốc gia và quốc tế sẽ thực sự có ý nghĩa để đẩy mạnh hơn nữa việc hưởng ứng
Thập kỷ và thực hiện ở những năm tiếp theo.
Hiện nay, hầu hết các khu vực đã triển khai chương trình giáo dục nhân quyền để
hưởng ứng Thập kỷ Giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Nhiều tổ chức giáo dục,
đào tạo, thông tin chung về nhân quyền đã tổ chức các hội nghị, khoá học ngắn về nhân
quyền để phổ biến các kiến thức, kỹ năng, chuẩn mực quốc tế về nhân quyền. Nhiều khu
vực đã hình thành cơ chế nhân quyền như việc thành lập ủy ban nhân quyền khu vực.
Riêng châu á chưa có cơ chế nhân quyền khu vực. Tuy nhiên, dự kiến một bản Hiến
chương nhân quyền châu á có thể được Liên minh Nghị viện châu á vì hòa bình (Việt
Nam là một thành viên) thông qua trong năm nay (2002), sẽ là tiền đề để tiến tới thiết lập
cơ chế nhân quyền khu vực.
- Liên Hợp Quốc cùng các cơ quan chuyên môn cũng đã tham gia tích cực trong
việc trợ giúp cả về kinh phí và kỹ thuật. Nhờ đó hiệu quả các chương trình giáo dục ngày
càng nâng cao; tuy nhiên, nhân quyền là vấn đề còn có những bất đồng lớn về mặt quan
điểm, nhận thức nên vẫn còn tồn tại cơ chế đơn lẻ cho việc huy động có tính toàn cầu tất
cả các chiến lược GDNQ, các tiềm năng của nó chưa phải đã được sử dụng hiệu quả. Hơn
nữa sự khó khăn không những về mặt nguồn lực con người mà khó khăn cả về kỹ thuật
và tài chính cũng là một thách thức.
2.1.2. Giáo dục nhân quyền ở một số nước trên thế giới
Hiện nay nhiều nước đã hình thành chương trình giáo dục quyền con người,
quyền công dân như: úc: Có chương trình giáo dục công dân và nhóm chuyên gia về
giáo dục công dân, thành lập 1994; áo: Bộ Giáo dục và các công việc văn hóa, tập
trung vào việc giới thiệu nhân quyền trong các trường học của áo, với sự giúp đỡ của
Phòng Giáo dục công dân và Trung tâm dịch vụ giáo dục nhân quyền; Botswana: Có
chương trình về giáo dục công dân, chính sách giáo dục cơ bản 10 năm; Canađa:
Chính sách chủ nghĩa đa văn hóa được chuyển tải vào trong các hình thức khác nhau ở
địa phương, các chương trình như nghiên cứu văn hóa để thống nhất về vấn đề nhân
quyền, các kỹ năng công dân và giáo dục giá trị; Colombia: có trường trung học
Escula-Nueva đã được trợ giúp để có một chương trình dẫn đầu trong khu vực liên
quan đến phương pháp sư phạm mới giảng dạy trẻ em và các thầy giáo về các vấn đề
về tự quản và quyền; Đan Mạch: Có một chương trình giáo dục nhân quyền cho các
trường học và hai khóa cho các thầy giáo. Các đơn vị trợ giúp này bao gồm Trung tâm
nhân quyền Đan Mạch (DCHR), Trung tâm trợ giúp giảng dạy, cao đẳng sư phạm,
Trường Nghiên cứu giáo dục Hoàng gia, Hội chữ thập đỏ, Hội đồng về tị nạn và Tổ
chức ân xá quốc tế trợ giúp nhà thờ của Đan Mạch; Vương quốc Anh: Năm 1998, một
đạo luật về nhân quyền đã được Hạ Nghị viện Anh thông qua. Hiện có chương trình
đạo tạo tư pháp ở Anh và Xứ Wales. Và có khoảng 3.500 thẩm phán, 33.000 hội thẩm
đã được đào tạo về nhân quyền. Một chương trình quốc gia mới cho các trường học ở
Anh và Xứ Wales bao gồm một bộ phận nhận thức về nhân quyền, được coi là một bộ
phận của chương trình giáo dục công dân nhằm tạo ra ý thức nhân quyền; Cộng hòa
Liên bang Đức: Các cuộc hội thảo đã được thiết kế và tổ chức trong suốt thời gian từ
1982 - 1994, cho sinh viên, thầy giáo và học sinh về giáo dục xã hội với chủ đề là giáo
dục hòa bình, công lý và nhân quyền. Guyvana: UNICEF và Bộ Giáo dục đã đạt được
một chương trình nhằm mục đích phát triển hơn về các lớp học có trẻ em: "Trẻ em
thân thiện" và nhằm thực hiện các điều khoản quốc tế về quyền trẻ em để có thể áp
dụng một cách trực tiếp vào giáo dục; Hà Lan: Có Trung tâm giáo dục công dân: nhấn
mạnh không chỉ việc chuyển giao kiến thức mà nghiên cứu bằng hành động, bằng việc
làm; Thụy Điển: Một trong những mục tiêu giáo dục chính trị của Thụy Điển là
khuyến khích học sinh hiểu biết các giá trị dân chủ theo đó, chia sẻ trách nhiệm và
phương pháp làm việc dân chủ đã trở nên ngày càng quan trọng; Mỹ: Đã có lịch sử lâu
đời về tầm quan trọng về việc giáo dục công dân và giáo dục lớp trẻ trở thành công
dân tốt đã trở thành yếu tố quan trọng nhất trong nghiên cứu giáo dục ở Mỹ; Liên
Bang Nga: Sau 1990, những khóa học bắt buộc về giáo dục công dân, giáo dục nhân
quyền đã bị xóa bỏ. Năm 1992, Luật Giáo dục mới của Nga đã được thông qua với
Điều 2 quy định các nguyên tắc mới, trong đó có giáo dục về nhân đạo; Nauy: Có
một cơ quan thanh tra về trẻ em "Ombudsman for children" và Bộ trẻ em và các công
việc gia đình.
Một số nước thuộc khu vực châu á cũng hình thành chương trình giáo dục
quyền con người như: ấn Độ có một chương trình bắt buộc liên quan đến hệ thống
chính trị và Hiến pháp ấn Độ, tình hình nhân quyền trên thế giới, đặc biệt là sự vi
phạm nhân quyền của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Apácthai và
những văn kiện lịch sử chính như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền; Malaixia: Bộ luật Giáo dục năm 1995 không đề cập đến sự cần thiết
phải giáo dục công dân mặc dù chương trình giáo dục quốc gia đã đưa các giá trị công
dân vào trong chương trình môn học lịch sử ở cấp trung học; Pakistan: Tổ chức "Xã
hội vì sự tiến bộ của giáo dục" là tổ chức phi chính phủ không mang tính lợi nhuận,
thành lập năm 1982, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục; Xirilanca: Là một nước đa
tôn giáo, đa chủng tộc giống nhiều nước Asian khác, năm 1994, Trung tâm nghiên cứu
về nhân quyền của Trường Đại học Colombo đã phát động thông qua Bộ Giáo dục đào
tạo một chương trình giáo dục nhân quyền có chọn lọc. Bắt đầu thiết lập các Trung
tâm nhân quyền của sinh viên ở 25 trung tâm, 8 tỉnh. Đến nay, đã có 65 Trung tâm
nhân quyền trên cả nước; Philippin: Năm 1991, Tổ chức Ân xá quốc tế của Philippin
(AIP) bắt đầu thực hiện một dự án giáo dục tự do với sự giúp đỡ tài chính của
Operasjon - một tổ chức thanh niên Nauy - Norwegian Youth, mục đích của nó là
công bố nhân quyền ở cả nông thôn và thành thị; Campuchia: Liên đoàn "Thúc đẩy và
bảo về nhân quyền Campuchia" được thành lập năm 1992, căn cứ vào Hiệp định Hòa
bình Pari năm 1991, đã xác định nhu cầu giáo dục nhân quyền ở Campuchia. Theo
Điều 16 của Hiệp định, cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc ở Campuchia (UNTAC)
sẽ thực hiện chương trình giáo dục nhân quyền để khuyến khích tôn trọng và hiểu biết
về nhân quyền.
Nghiên cứu qua nội dung chương trình giáo dục quyền con người ở một số nước
trên thế giới đến nay cho thấy: các nước hầu như cũng chưa phân biệt rõ ràng sự khác
nhau giữa giáo dục quyền con người với giáo dục quyền công dân, mà đa phần là sự lồng
ghép giữa hai nội dung này với nhau. Về nội dung chương trình giáo dục cho thấy cũng
chưa có nước nào có nội dung chính thức cho từng nhóm đối tượng khác nhau, mà mỗi
nước có cách thức giáo dục, nội dung và phương pháp riêng. Điều này cũng là lẽ thường,
vì giáo dục nhân quyền phụ thuộc nhiều các yếu tố về lịch sử, kinh tế, xã hội, tập quan và
hệ thống pháp luật của mỗi nước. Hưởng ứng Thập kỷ giáo dục nhân quyền cũng đã có
nhiều nước thiết lập cả Chương trình hành động quốc gia về giáo dục nhân quyền.
2.2. hoạt động Giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam hiện
nay
Xuất phát từ quan điểm "bảo vệ và phát triển quyền con người chính là lý
tưởng của những người cộng sản, của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là bản chất của chế độ ta, của nhà nước ta" [73, tr. 5], Đảng và Nhà nước ta cho
rằng quyền con người là giá trị cao quý nhất của nhân loại, là mục tiêu phấn đấu của
mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới; công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta chính là
sự tiếp nối các giai đoạn cách mạng trước đây trong việc bảo vệ và phát triển quyền
con người, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Tuy nhiên, trong suốt thời gian qua các nước phương Tây luôn lợi dụng vấn
đề nhân quyền để bôi nhọ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, can thiệp vào công
việc nội bộ nước khác. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ dân chúng do thiếu nhận
thức đầy đủ, do thiếu thông tin nên đã hiểu sai bản chất của nhà nước ta, hiểu sai
lệch tình hình nhân quyền ở nước ta. Để giải quyết vấn đề này Đảng, Nhà nước ta
chủ trương: "Chúng ta cần phải tiếp nhận có chọn lọc những giá trị chung của nhân
loại trên cơ sở những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước; ngăn
ngừa những kẻ xấu lợi dụng nhân quyền, dân chủ để can thiệp vào công việc nội bộ,
vào chủ quyền quốc gia" [79, tr. 2]. Để thực hiện được chủ trương này cần phải:
"Tăng cường tuyên truyền giáo dục các quan điểm đúng đắn, phê phán các quan
điểm sai lầm, những nhận thức mơ hồ về dân chủ và nhân quyền" [79, tr. 2].
- Thực hiện mục tiêu tăng cường giáo dục quyền con người, quyền công dân của
Đảng, Nhà nước; các cơ quan chức năng của Việt Nam đã tăng cường tổ chức các hoạt
động liên quan đến vấn đề này và đã thu được những kết quả nhất định.
+ Hoạt động của Trung tâm nghiên cứu quyền con người.
* Trung tâm nghiên cứu quyền con người, thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, được thành lập tháng 9/1994. Chức năng của trung tâm là nghiên cứu và giảng
dạy, giáo dục về quyền con người, quyền công dân. Cụ thể:
- Giảng dạy về quyền con người, quyền công dân trong hệ thống Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, bao gồm Trung tâm Học viện và 4 phân viện ở Hà Nội, Đà
Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh; mạng lưới 61 Trường chính trị thuộc 61 tỉnh, thành phố
trong cả nước.
- Nghiên cứu giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về quyền con người, quyền
công dân trong xã hội.
- Biên soạn chương trình, giáo trình, giáo khoa và các tài liệu về quyền con
người, quyền công dân.
- Chỉ đạo và hướng dẫn nội dung, chương trình, bồi dưỡng giảng viên môn học
về quyền con người, quyền công dân cho các phân viện và các trường chính trị tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương.
Mặc dù mới được thành lập nhưng Trung tâm đã thực hiện có kết quả nhiều hoạt
động nghiên cứu khoa học, xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình, đào tạo đội ngũ
giảng viên và giảng dạy về giáo dục về quyền con người, quyền công dân. Riêng trong
năm 2000 Trung tâm đã thực hiện các hoạt động sau:
Hoạt động giảng dạy về quyền con người, quyền công dân trong hệ thống Học
viện; thực hiện giảng dạy bộ môn "lý luận về quyền con người" cho 20 lớp cử nhân chính trị
tập trung, tại chức, với tổng số 20 lớp, 2.000 lượt học viên; hoàn thành việc soạn thảo mới
giáo trình "lý luận về quyền con người" và giảng dạy cho các đối tượng là nghiên cứu sinh,
cao học chuyên ngành Luật, các lớp bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân, bồi dưỡng
cán bộ hành chính; bồi dưỡng lý luận cho các cán bộ cơ quan nhà nước, các đoàn thể xã
hội, và các lớp tập huấn về giới, quyền bình đẳng của phụ nữ và quyền trẻ em ở trong và
ngoài học viện.
Hoạt động giáo dục, tuyên truyền về quyền con người, quyền công dân trong xã
hội:
- Năm 2000 Trung tâm đã kết hợp với UNICEF Hà Nội, ủy ban Bảo vệ, chăm
sóc trẻ em Việt Nam thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền giáo dục quyền con người,
quyền công dân; đặc biệt về giới, quyền bình đẳng của phụ nữ và quyền trẻ em, cụ thể:
+ Tổ chức và hỗ trợ tổ chức 41 hoạt động giáo dục, tuyên truyền về giới và
quyền trẻ em. Trong đó được phân ra: 01 hội nghị giảng viên kiêm chức về quyền trẻ em,
01 hội thi nhận thức về quyền trẻ em, 01 khóa tập huấn đào tạo giảng viên kiêm chức về
quyền trẻ em; 01 khóa tập huấn liên tỉnh, 04 khóa tập huấn nhỏ và 33 khóa tập huấn tỉnh,
huyện. Tổng số cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể được tập huấn về giới và quyền trẻ em
chương trình trên là 1.300 người.
+ Xuất bản 02 tập tài liệu tập huấn về quyền trẻ em, trong đó có 01 tập tài liệu
giảng dạy 320 trang với hệ thống 05 bài giảng được xây dựng theo phương pháp giảng
dạy mới; và một tập tài liệu tình huống 78 trang, 30 bài tập tình huống tương ứng với 05
bài giảng của tập tài liệu giảng dạy.
+ Xuất bản 02 bản tin lưu hành nội bộ về quyền con người và quyền trẻ em gồm:
Bản tin "Thông tin quyền con người" ra 3 tháng một kỳ với nội dung đề cập đến những
vấn đề lý luận, thực tiễn cơ bản về quyền con người, quyền công dân trên thế giới và ở
Việt Nam; bản tin "Vì quyền trẻ em" ra
03 tháng một kỳ với nội dung là diễn đàn của những người làm công tác giảng dạy tuyên
truyền và giáo dục về quyền phụ nữ và quyền trẻ em.
Hoạt động nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác liên quan đến giáo dục
quyền con người, quyền công dân.
- Nghiệm thu 02 đề tài mang tính lý luận cơ bản về quyền con người, quyền công
dân: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người", "lý luận về quyền con người".
+ Triển khai nghiên cứu đề tài: Sự phát triển về quyền con người trên lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hóa trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.
- Tổ chức nhiều hội thảo khoa học về các phương diện khác nhau của quyền con
người, quyền công dân nhằm cập nhật thông tin, làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn
về quyền con người, quyền công nhân như:
+ Hội thảo: Hiến pháp, pháp luật về quyền con người - kinh nghiệm Việt Nam và
Thụy Điển. Cuộc hội thảo này nhằm trao đổi kinh nghiệm giữa các nhà khoa học Việt
Nam - Thụy Điển trong việc bảo đảm quyền con người của các cơ quan hành pháp, lập
pháp, tư pháp giữa hai nước.
+ 03 hội thảo về quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự các cuộc hội
thảo này nhằm trao đổi thông tin kiến thức về quyền con người, luật quốc tế về quyền con
người, những kinh nghiệm thực tiễn trong việc thực thi pháp luật, bảo đảm quyền con
người giữa các nhà khoa học Việt Nam - Thụy Điển và cán bộ làm công tác thực tiễn
trong ngành kiểm sát ở nước ta.
+ Hội thảo: Nâng cao kỹ năng soạn thảo báo cáo quốc gia các công ước quốc tế
về quyền con người;
+ Hội thảo: Quyền, lợi ích của phụ nữ và trẻ em trong quan hệ hôn nhân - gia
đình; Hội thảo: Tập tục truyền thống với việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và
quyền trẻ em ở Việt Nam.
- Hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân của Trung tâm nghiên
cứu quyền con người trên lĩnh vực truyền thông, ấn bản phẩm:
+ Các ấn bản phẩm lưu hành nội bộ, phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy
như: Các văn kiện quốc tế và quốc gia về quyền con người, xuất bản năm 1995 (đề tài
KX 07-16); quyền con người của tác giả Jacques Mourgon - giáo sư trường Đại học khoa
học xã hội Toulrase - xuất bản năm 1995 (đề tài KX 07-16); tài liệu tham khảo phục vụ
lãnh đạo, nghiên cứu do Trung tâm nghiên cứu quyền con người và Phòng thông tin - tư
liệu - Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản.
- Tạp chí Vì quyền trẻ em ra 3 tháng 1 kỳ là diễn đàn công tác giảng dạy, tuyên
truyền về quyền trẻ em; Tạp chí thông tin, quyền con người ra
03 tháng 1 kỳ, giới thiệu quan điểm của Đảng, Nhà nước, cung cấp thông tin trong nước
và quốc tế về quyền con người.
- Giáo trình quyền trẻ em: Do Trung tâm nghiên cứu quyền con người và
UNICEF thực hiện năm 2000. Là tài liệu giáo dục, tuyên truyền về quyền trẻ em. Tài liệu
này dùng để tập huấn cho các giảng viên tổ chức các lớp tập huấn về quyền trẻ em cho
các học viên là các cán bộ đang làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã
hội.
- Các tình huống nghiên cứu về quyền trẻ em do Trung tâm nghiên cứu quyền
con người và UNICEF xuất bản năm 2000. Tài liệu này được xây dựng đồng bộ với giáo
trình "quyền trẻ em", nhằm cung cấp nhu cầu về giảng dạy, tuyên truyền về quyền trẻ em
ở Việt Nam nói chung và Trung tâm nói riêng.
- Quyền trẻ em - sách chuyên đề phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy và thực
hiện quyền trẻ em do Trung tâm nghiên cứu quyền con người xuất bản tháng 6/2000.
Nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn nhân
quyền sau hơn mười lăm năm thực hiện đường lối đổi mới, Trung tâm đang triển khai đề tài
khoa học cấp nhà nước: "Nhân quyền - thành tựu sau mười lăm năm đổi mới". Kết quả
nghiên cứu để tài này chắc chắn sẽ tạo cơ sở lý luận mới cho việc thúc đẩy quyền con người
ở nước ta trong những năm đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
* Hoạt động của ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam trên lĩnh vực
giáo dục quyền con người, quyền công dân:
- Công ước Liên Hợp Quốc về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW) thông qua và mở cho các nước ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết
34/180 ngày 18/12/1979 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và có hiệu lực từ ngày
3/9/1981 theo điều 27 (1) của công ước. Việt Nam là nước thứ 6 ký công ước năm 1979
và ngày 27/11/1981 Hội đồng Nhà nước Việt Nam đã phê chuẩn công ước này.
Từ khi phê chuẩn công ước CEDAW, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều
biện pháp, nhiều hoạt động để thực hiện công ước này. Đặc biệt tại hội nghị thế giới lần
thứ IV về phụ nữ của Liên Hợp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh - Trung Quốc tháng 9/1995,
Chính phủ Việt Nam đã chính thức công bố "Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ
nữ Việt Nam đến năm 2000". Đây là sự cam kết chính thức của Chính phủ Việt Nam
trước thế giới về việc thực hiện chiến lược toàn cầu vì mục tiêu "bình đẳng - phát triển -
hòa bình". Tháng 10 năm 1997 Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt "kế hoạch
hành động quốc gia đến năm 2000 vì sự tiến bộ của phụ nữ".
ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam là cơ quan chuyên trách thực
hiện kế hoạch hành động quốc gia này được thành lập theo quyết định số 72/TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 25/2/1993 trên cơ sở kiện
toàn và đổi tên từ ủy ban quốc gia về thập kỷ phụ nữ của Việt Nam.
- Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000
đề cập đến 11 mục tiêu trong đó có mục tiêu đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền vì
mục đích góp phần nâng cao nhận thức về quyền bình đẳng nam - nữ (mục tiêu 8) [49 tr.
22]. Theo mục tiêu này, đến năm 2000 nhằm tăng cường vai trò và sự tham gia của phụ
nữ trong công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về bình đẳng
giới, phát huy phẩm chất truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam; kế hoạch đề ra hai
mục tiêu cụ thể là tăng cường tuyên truyền về bình đẳng giới và tăng cường sự tham gia
của phụ nữ vào công tác truyền thống.
Để thực hiện được mục tiêu tăng cường tuyên truyền về bình đẳng giới bản kế
hoạch đưa ra 7 biện pháp nhằm chủ trì, phối kết hợp với Bộ Văn hóa thông tin, Đài tiếng
nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam và Trung ương Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam,
Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường tuyên truyền, giáo dục thực hiện công ước của Liên
Hợp Quốc về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, cương lĩnh hành động
toàn cầu vì sự tiến bộ của phụ nữ và chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam đến năm 2000.
ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam xác định công tác thông tin,
tuyên truyền, huấn luyện và phương tiện chủ yếu để nâng cao nhận thức của các cấp, các
ngành về bình đẳng giới.
- Hàng quý, ủy ban ra bản tin "phụ nữ và tiến bộ", để kịp thời chỉ đạo và thông
tin tới các ban vì sự tiến bộ của phụ nữ. Đến thời điểm năm 2000 đã ra được 24 số bằng
tiếng việt và 5 số bằng tiếng Anh. Hiện nay đã xuất bản
25 đầu sách và tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu, huấn luyện về giới, kỹ năng hoạt
động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở cơ sở; phát hành 4 loại áp phích cơ động với 5.000 bản,
đặt trên đường phố Hà Nội và một số tỉnh, thành; thực hiện 4 chương trình quảng cáo
phát trên kênh VTV1 và các đài truyền hình địa phương; làm 10 chuyên đề về bình đẳng
giới phát sóng trên đài truyền hình TW, đài tiếng nói Việt Nam; tổ chức 5 lớp tập huấn,
đào tạo nhằm nâng cao kiến thức về giới cho hơn 2.500 lượt người thuộc đối tượng thực
hiện kế hoạch vì sự tiến bộ phụ nữ, đặc biệt là tập huấn cho các đồng chí lãnh đạo cao
cấp (Thứ trưởng và tương đương, Phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Trưởng ban vì sự
tiến bộ phụ nữ); tập huấn cho 144 nữ ứng cử viên đại biểu Quốc hội khóa 10, góp phần
nâng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội lên 26,22%, đứng hàng thứ hai châu á - Thái Bình Dương
về tỷ lệ đại biểu quốc hội (sau Niu-di-lân); tập huấn cho 18.000 nữ ứng cử viên của cấp
phục vụ bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp khóa 1994 - 2004; hoàn thành có chất lượng
báo cáo quốc gia lần hai, báo cáo ghép lần thứ 3 và 4 về tình hình thực hiện công ước xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) theo quy định của Liên Hợp
Quốc.
Hoạt động của các cơ quan khác trong thực hiện kế hoạch hành động vì sự tiến
bộ của phụ nữ Việt Nam 1997 - 2000. Trên lĩnh vực giáo dục quyền con người, quyền
công dân.
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo trong năm học 1999 - 2000 đã tổ chức rà soát chương
trình và nội dung dạy học các bậc phổ thông, điều chỉnh chương trình dạy học và khối
trường đại học, đưa một số nội dung giáo dục mang tính toàn cầu vào nhà trường như
giáo dục dân số, môi trường, giới...
+ UBQG đã phối hợp với các bộ, ngành và địa phương tổ chức tuyên truyền
rộng rãi qua các cuộc họp, hội thảo, các phương tiện thông tin đại chúng về công ước
CEDAW. Các ngành, các cấp còn coi trọng công tác tuyên truyền các chủ trương, chính
sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước có liên quan đến quyền lợi của phụ nữ. Nhiều
đơn vị đã tổ chức các hoạt động bồi dưỡng nâng cao kiến thức về quyền, lợi ích của phụ
nữ với các hình thức phong phú như sinh hoạt câu lạc bộ phụ nữ, hội thi, tọa đàm trao
đổi kinh nghiệm, gặp mặt truyền thống... mang tính giáo dục thu hút đông đảo phụ nữ
tham gia.
+ Hội Liên Hiệp phụ nữ đã xây dựng chương trình hành động phòng chống buôn
bán phụ nữ và trẻ em với nhiều nội dung cụ thể, đặc biệt là đã phát động hai phong trào
thi đua yêu nước: "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng
gia đình hạnh phúc", "phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng
đất nước" đã được đông đảo phụ nữ tham gia.
+ Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam và các phương tiện thông
tin khác, đã tích cực tuyên truyền các nội dung liên quan đến lợi ích của phụ nữ.
+ Các bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về vai
trò gia đình đối với xã hội nhằm nâng cao nhận thức của phụ nữ về vai trò, trách nhiệm
của mình trong việc bảo vệ, giữ gìn và xây dựng hạnh phúc gia đình. Các ban vì sự tiến
bộ của phụ nữ đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu
dân cư, xây dựng gia đình văn hóa theo chuẩn mực no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
+ Hội Liên Hiệp phụ nữ thực hiện nghiên cứu hai đề tài: "Phụ nữ và vấn đề gia
đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa", "vai trò của gia đình xã hội hóa giáo
dục trẻ em".
+ Trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình thuộc ủy ban Khoa học xã hội và
nhân văn đã có nhiều đề tài nghiên cứu và cung cấp nhiều thông tin bổ ích về vấn đề gia
đình và vai trò của gia đình trong cơ chế quản lý mới.
+ Hội phụ nữ các cấp ở Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức các hội thi như: "Kỹ
năng gia đình trẻ", có 23 đội, 21 quận, 115 thí sinh tham gia; phát động phát triển toàn
dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, đã bình chọn 310 khu dân cư xuất
sắc, 312 hộ gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa cấp Thành phố; tuyên truyền, phổ biến
kiến thức xây dựng gia đình cho hơn 66.860 hội viên; xây dựng câu lạc bộ gia đình tận
các ấp phố hiện đã có 9.950 thành viên nữ, 9.300 thành viên nam tham gia đạt kết quả.
+ Về môi trường, giáo dục truyền thông đào tạo, đã triển khai dự án tại 37 xã của
32 tỉnh, thành phố trong cả nước với nội dung; xây dựng làng vệ sinh sạch đẹp, xây dựng
chuồng trại hợp vệ sinh, hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; xử lý chất thải làng
nghề...
+ Thành hội phụ nữ Hà Nội phát động phong trào vận động nhân dân không vứt
rác ra đường, thực hiện chiến dịch "xanh, sạch, đẹp". Chị em phụ nữ đã gương mẫu thực
hiện phong trào này.
+ TW Hội LHPN đã có những hoạt động tích cực tuyên truyền nói chuyện
chuyên đề, hội thảo, vận động nhân dân các vùng nông thôn xây nhà tắm, dùng nước
sạch, đào giếng, xây bể nước mưa, cải tạo bếp đun.
+ Thực hiện mục tiêu thứ 8 của Kế hoạch hành động, Bộ Văn hóa thông tin chủ
trì thực hiện 9 nội dung của mục tiêu thông tin đại chúng; phối hợp với ủy ban quốc gia
tổ chức hội nghị truyền thông quốc gia, xây dựng một bản cam kết hành động, hướng
việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng vào công tác tuyên truyền, nêu cao vai
trò của phụ nữ, tránh tình trạng thương mại hòa hình ảnh người phụ nữ trong các phương
tiện thông tin đại chúng và trước công chúng.
+ Hầu hết các đơn vị từ Trung ương đến địa phương đều triển khai học tập Nghị
quyết Trung ương lần thứ VIII nâng cao tinh thần yêu nước, thực hiện tốt các quyền và
nghĩa vụ của công dân.
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, giáo dục trong nhân dân
và phụ nữ về tinh thần cảnh giác cách mạng, chống âm mưu diễn biến hòa bình và các
luận điệu xuyên phục của kẻ thù, tích cực ủng hộ phong trào hoạt động vì hòa bình của
phụ nữ các nước trong khu vực và trên thế giới.
* Hoạt động giáo dục quyền trẻ em.
Với quan điểm: "Tiến bộ của trẻ em phải là một mục tiêu chủ chốt của sự phát
triển chung của quốc gia: Nó cũng phải là một bộ phận thống nhất của chiến lược phát
triển thế giới rộng lớn hơn đối với thập kỷ phát triển thứ ta của Liên Hợp Quốc. Vì trẻ em
của hôm nay là những công dân của thế giới ngày mai, nên sự sống còn, bảo vệ và phát
triển của trẻ em là điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển tương lai của loài người" [30,
tr. 14], ngay từ rất sớm Đảng, Chính phủ và nhân dân ta đã luôn quan tâm tới việc chăm
sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Từ năm 1960 đã có phong trào "toàn dân chăm sóc, giáo
dục thiếu niên, nhi đồng". Tháng 11/1979 ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Pháp lệnh "Bảo vệ và chăm sóc trẻ em". Tiếp tục
đường lối chính sách đó, Việt Nam đã ngay lập tức phê chuẩn công ước quốc tế về
"quyền trẻ em" (là nước thứ hai trên thế giới, là nước châu á đầu tiên ký và phê chuẩn
công ước này).
Tháng 9/1990 Việt Nam tham gia Hội nghị Thượng đỉnh thế giới vì trẻ em.
Tháng 3/1991 ký tuyên bố thế giới những sự sống còn bảo vệ và phát triển của trẻ em;
tháng 10/1991 tham gia Hội nghị tư vấn đầu tiên về công ước quyền trẻ em ở Bang Kok,
và tổ chức nhiều hội thảo tại Việt nam với sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo Đảng -
Nhà nước, chính quyền địa phương, các tổ chức quần chúng, xã hội đại biểu các tổ chức
quốc tế, tổ chức phi chính phủ. Hội nghị thông qua chương trình hành động quốc gia vì trẻ
em (1991 - 2000).
Các cơ quan chức năng của nhà nước địa phương căn cứ chương trình chung
này để xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể của mình trong việc tham gia thực
hiện kế hoạch hành động. Trong đó có hoạt động giáo dục "quyền trẻ em".
* Hoạt động giáo dục quyền trẻ em của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt
Nam.
- Ngày 9/9/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quyết định đổi tên ủy
ban thiếu niên nhi đồng (tên tiếng Anh VNCC) thành ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Việt Nam (tên tiếng Anh VNCPCC).
- Ngày 16/4/1991 Chính phủ ban hành Nghị định số 264/HĐBT quy định chức
năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy của ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam.
Theo báo cáo hai năm thực hiện công ước của LHQ về quyền trẻ em năm 1992
của UBBV & CSTE, các hoạt động về giáo dục quyền trẻ em đã được thực hiện thông
qua các hội nghị, hội thảo, vào lớp tập huấn ở Trung ương, địa phương, thông qua hệ
thống thông tin đại chúng, và các cuộc thi tìm hiểu về công ước. Cụ thể:
+ Tháng 8/1990 UBBV & CSTE Việt Nam phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào
tạo, các Bộ, ngành liên quan, UNICEF New York & UNICEF Hà Nội, và các quan chức
chính quyền địa phương tổ chức hội thảo về công ước quyền trẻ em tại Hà Nội.
+ Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em được dịch ra tiếng việt để phân
phát cho hội thảo nêu trên, và các hội thảo, hội nghị khác về chủ để này; đồng thời
phát cho người lớn, trẻ em ở nhiều địa phương và một số trường học.
+ Văn bản tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về sự sống còn bảo vệ
và phát triển trẻ em trong thập kỷ 90 cũng được phân phát theo phương thức tương tự
như những tài liệu khác liên quan đến vấn đề trẻ em và như hai đạo luật Bảo vệ chăm
sóc và giáo dục trẻ em, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học.
+ Xuất bản ba cuốn sách "Việt Nam với công ước quyền trẻ em", "hỏi đáp về
công ước quyền trẻ em" (do Nhà xuất bảnáNự thật và tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển -
RADDA BARNEN phối hợp xuất bản năm 1991); "Quyền trẻ em Việt Nam trong lĩnh
vực văn hóa nghệ thuật và vui chơi giải trí" do Vụ Văn hóa quần chúng và thư viện kết
hợp với RADDA BARNEN phát hành.
+ Tính đến thời điểm năm 1992 đã có 25.000 bản Công ước được in ấn và xuất
bản bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng dân tộc thiểu số; cuốn "Những điều cần cho cuộc
sống" được phát hành với 90.000 bản tiếng Việt, 15.000 bản tiếng dân tộc thiểu số. Các
sách, tài liệu này được in dưới dạng lịch nhỏ.
+ ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Bộ y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa
Thông tin và Thể thao, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ,
Hội nông dân, Tổng Liên đoàn lao động, Hội chữ thập đỏ, đều đã tổ chức các hội nghị,
Hội thảo đề cập tới các vấn đề của trẻ em.
+ Đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí ở cả Trung ương và địa phương
đã dành các chuyên mục về công ước và tuyên bố Hội nghị Thượng đỉnh thế giới. Các
báo, tạp chí cho trẻ em như Thiếu niên tiền phong, vì Trẻ thơ, Hoa học trò, nhà xuất
bản Kim Đồng đã chuyển tải các điều khoản công ước đến cho trẻ em qua sách, báo
bằng hình thức minh họa hấp dẫn và dễ hiểu.
ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, UNICEF, Radda Barnen và báo Thiếu niên
tiền phong tổ chức cuộc Thi tìm hiểu công ước, hỏi đáp công ước từ tháng 5 đến tháng
15/1992, đã có hơn 25 vạn, bài dự thi của các em.
+ Các đoàn thể, các tổ chức xã hội tại Trung ương và địa phương, còn tổ chức
Liên Hợp Quốc, còn tổ chức phi chính phủ và cơ quan quốc tế khác đã góp phần tích cực
vào việc tuyên truyền công ước ở các cấp thông qua mạng lưới của mình, một số mạng
lưới ở tất cả các tỉnh.
+ Giáo dục quyền trẻ em cũng đã được lồng ghép vào các chương trình vui chơi
giải trí và nghệ thuật như: Sáng tác và trình bày các bài hát, kịch, tranh vẽ, ảnh cùng với
sự tham gia của chính trẻ em và người lớn.
+ Những người và các cơ quan làm công tác nghiên cứu cũng tham gia vào các
hoạt động liên quan đến công ước như: Đã tổ chức hai hội thảo quốc gia về việc bảo vệ
chăm sóc giáo dục trẻ em hư, trẻ em phạm tội, trẻ em lang thang vào tháng 2/1992 tại Hà
Nội với 156 đại biểu tham dự và tại Thành phố Hồ Chí Minh với 120 đại biểu tham dự.
+ Để góp phần làm thay đổi thái độ và khuyến khích người lớn cần phải có trách
nhiệm hơn với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đồng thời phát huy nguồn lực
(nhân lực, vật lực) cho công tác trẻ em, ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em đã vận động
toàn xã hội tham gia thực hiện công ước. Các phong trào này gồm các hoạt động của
đoàn thể như cuộc vận động "giúp nhau làm kinh tế gia đình", "nuôi dạy con tốt", do Hội
phụ nữ thực hiện; phong trào xây dựng gia đình văn hóa do Bộ Văn hóa thông tin chủ trì;
cuộc vận động "kế hoạch hóa gia đình" do Đoàn thanh niên thực hiện; ở Thành phố Hồ
Chí Minh có phong trào "Người lớn gương mẫu, trẻ em ngoan", ở Hà Nội có phong trào,
"người tốt, việc tốt".
- Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em đã được dịch sang tiếng Việt
(tiếng phổ thông) và một số tiếng dân tộc thiểu số (Thái, H'mông, Êđê, Bana).
- Nội dung công ước đã được tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin
đại chúng, đặc biệt ở cộng đồng. ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em đã phối hợp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Hội đồng Đội Trung ương, Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói
Việt Nam tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu công ước và luật quốc gia về quyền trẻ em, đã
có hơn 6 triệu lượt em tham gia; in phát hành 150.000 bản giới thiệu về công ước, hướng
dẫn thực hiện quyền trẻ em, bảo vệ quyền trẻ em, tư pháp chưa thành viên...
- Các thông tin về luật quốc gia và Công ước được thường xuyên tuyên truyền tại
các trường học và cộng đồng với nội dung, hình thức ngày càng được cải tiến cho phù
hợp với từng nhóm đối tượng.
- Năm 1998, một số hội thảo về quyền trẻ em đã được ủy ban văn hóa, giáo
dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội tổ chức; Bộ Văn hóa thông tin
và ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em chủ trì phối hợp với UNICEF và các cơ quan có
liên quan khác tổ chức Hội nghị truyền thông quốc gia về quyền trẻ em.
- Tổ chức, nhiều lớp tập huấn, hội thảo về quyền trẻ em đã được tổ chức có sự
tham gia của nhiều cán bộ thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ làm công tác xã
hội, nhân viên y tế, thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, cán bộ quản giáo, giáo viên và
phóng viên báo chí. Quyền trẻ em đã được đưa vào giảng dạy tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, hệ thống các trường của ngành Tòa án, Viện kiểm sát, trường
cảnh sát và tại các trường đào tạo cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội.
- Hiện nay ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em đã xây dựng kế hoạch hành động Dự
án thúc đẩy quyền năm 2001 (Dự án Y112 - 01). Dự án này bao gồm nhằm tiểu dự án
cũng nhằm thúc đẩy quyền trong đó hoạt động giáo dục quyền trẻ em theo công ước CRC
và quyền phụ nữ theo công ước CEDAW được dự kiến thực hiện trong các tiểu dự án 4:
"lồng ghép quyền và giới"; tiểu dự án 5: "truyền thông về quyền" (xem phụ lục kèm
theo).
- Thực hiện Chỉ thị số 34/1999/CT-TTg ngày 27/12/1999 của Thủ tướng Chính
phủ về " đẩy nhanh việc thực hiện các mục tiêu đến năm 2000 về trẻ em, tổng kết chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em 1991 - 2000 và xây dựng chương trình hành động quốc
gia vì trẻ em 2001 - 2010. ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam đã phối kết hợp chặt
chẽ với các bộ, ngành và địa phương tổng kết, nghiên cứu xây dựng và trình Thủ tướng
Chính phủ quyết định ban hành chương trình hoạt động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001
- 2010.
* Hoạt động giáo dục quyền trẻ em của một số tổ chức quốc tế tại Việt
Nam.
Hiện có rất nhiều tổ chức của Liên Hợp Quốc, tổ chức Chính phủ và trên 400 tổ
chức phi chính phủ hoạt động ở Việt Nam [88, tr. 66], trên lĩnh vực giáo dục quyền trẻ
em như: UNDP, UNICEF của Liên Hợp Quốc; tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển -
RADDA BARNEN, Quỹ cứu trợ nhi đồng Anh... Tuy nhiên trong đề tài này chúng tôi
chỉ đề cập đến một số tổ chức tiêu biểu nhất.
+ Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF)
- UNICEF thành lập năm 1996 có tên gọi "quỹ quốc tế cứu trợ khẩn cấp trẻ em
Liên Hợp Quốc". Năm 1996, nhân kỷ niệm 50 năm thành lập, UNICEF được giao một sứ
mạng mới:
UNICEF được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc trao cho nhiệm vụ đấu
tranh cho việc bảo vệ quyền trẻ em, giúp trẻ em có được các nhu cầu cơ bản
của mình và mở rộng các cơ hội nhằm phát triển đầy đủ các tiềm năng của
chúng. UNICEF hoạt động theo chỉ dẫn của công ước về quyền trẻ em và
nguyên tắc đạo đức và dù chuẩn mực quốc quốc tế hay hành vi đối xử với trẻ
em... [81, tr. 31].
Công ước về quyền trẻ em chính là nguồn chỉ dẫn có tính chất chuẩn mực và đạo
đức đối với mọi hoạt động của UNICEF trong các hoạt động trợ giúp và nâng cao nhận
thức, trong các hoạt động hợp tác với Chính phủ, phối hợp với các tổ chức quốc tế khác,
nhất là đối với các tổ chức của Liên Hợp Quốc, các tổ chức phi chính phủ (NGO), tổ
chức có đại diện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Năm 1998, năm kỷ niệm lần thứ 50 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền,
UNICEF bổ sung cho chương trình hoạt động tương lai đề cập đến quyền trẻ em và phụ
nữ. UNICEF đề ra một số hoạt động cụ thể sau:
* Phát hành sổ tay hướng dẫn khái quát cho việc thực hiện Công ước về quyền
trẻ em.
- In tập sách về quyền trẻ em dùng cho việc thực hiện CRC.
- Công bố báo cáo về tình trạng của trẻ em thế giới năm 1999 (phát hành năm
1998) sẽ đề cập đến vấn đề không phân luật đối xử thông qua việc bàn bạc chi tiết về chủ
yếu để giáo dục trẻ em gái.
- Thành tựu đạt được của các quốc gia sẽ là điểm tập trung đặc biệt nhân kỷ niệm
ngày tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền ra đời.
- Hợp tác với UNIFEM phát hành một tạp chí về cương lĩnh Bắc Kinh với mục
đích làm nguồn chỉ dẫn nhằm đưa ra một biện pháp đánh giá tập trung các thành tựu đạt
được của việc thực hiện cương lĩnh hành động Bắc Kinh.
- Phát hành 1 báo cáo đại diện về vấn đề trẻ em phân rõ khi hội nghị Bắc kinh
diễn ra ở giữa các quốc gia và dự kiến cho ra mắt báo cáo về vị thành niên nữ, từ sau hội
nghị tư vấn ADDIS - 3/1998.
- Tiến hành phát chương trình ngày quốc tế thiếu nhi - năm 1998 sẽ tập trung vào
công ước về quyền trẻ em, nhấn mạnh đặc biệt đến các vấn đề liên quan tới bình đẳng,
giới tính.
- Giới thiệu công ước về quyền trẻ em tập trung vào vấn đề tham gia của trẻ em
tại hội nghị cấp cao về truyền hình cho trẻ em sẽ được tổ chức ở Luân Đôn 3/1998.
- Phát hành cuốn băng video được sản xuất tại Băng-la-đét khắc họa hình ảnh trẻ
em nói về quyền trẻ em có ý nghĩa như thế nào nói chung.
- In ấn tài liệu về công việc của ủy ban về quyền trẻ em.
- Tiếp tục tiến hành các khóa giáo dục về các điều khoản của Công ước Liên Hợp
Quốc về quyền trẻ em, tập trung dành cho trẻ em ở độ tuổi 8 - 12.
* Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển (RADDA BARNEN):
Hoạt động của Radda Barnen ở Việt Nam chủ yếu trên các phương diện hỗ trợ,
hợp tác với các Bộ, ngành hữu trách Việt Nam, các cơ quan nghiên cứu về nhân quyền
Việt Nam các cơ quan thông tin đại chúng về cung cấp tài chính, kỹ thuật, phương pháp,
kinh nghiệm giáo dục quyền trẻ em; thiết lập, xây dựng các dự án có liên quan đến tuyên
truyền công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em; xây dựng các giáo trình, tài liệu tập
huấn cho những người hoạt động trong các lĩnh vực có liên quan đến quyền trẻ em, tổ
chức các hội nghị, hội thảo, tập huấn về quyền trẻ em. Cụ thể:
- Năm 1996 hỗ trợ Viện nghiên cứu thanh niên (YRI) thực hiện dự án: Gia đình
và khả năng tái hòa nhập của trẻ em lao động kiếm sống tại Hải hưng. Dự án này được
tiến hành với mục đích "thu thập thông tin về đời sống gia đình cũng như các yếu tố tác
động đến sự ra đi và hội nhập của trẻ em nghèo lao động kiếm sống, là cơ sở để cung cấp
một quan điểm rõ ràng hơn trong việc xây dựng các chương trình hỗ trợ gia đình và trẻ
em nghèo lao động kiếm sống" [42, tr. 2].
- Năm 1999 hỗ trợ Trung tâm Công tác xã hội thanh thiếu niên thuộc trung ương
hội Liên Hợp Quốc thanh niên Việt Nam thực hiện dự án: "Trẻ em trong bóng tối". Mục
tiêu của dự án này nhằm:
Tìm hiểu những nguyên nhân đã và đang đẩy một bộ phận trẻ em vào
con đường mại dâm, những âm mưu, thủ đoạn mà bọn chủ chứa hoặc những
kẻ buôn người đã sử dụng để trói buộc các em vào công việc bẩn thỉu này,
đồng thời tìm hiểu những mơ ước, nguyện vọng của các em, từ đó, chúng ta có
thể hoạch định ra những giải pháp để bảo vệ trẻ em tốt hơn để cứu em thoát
khỏi cảnh tủi nhục và để giúp các em được phát triển một cách toàn diện và trở
thành những công dân hữu ích cho đất nước [99, tr. 12].
- Năm 1999 hỗ trợ ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam thực hiện: Giáo
án cho các bài giảng về công tác với trẻ em làm trái pháp luật. Tư liệu này nhằm phục vụ
cho các lớp tập huấn về "đào tạo, cơ bản cho cán bộ làm việc với trẻ em làm trái pháp
luật". Từ 61 tỉnh - thành phố trong cả nước, có tài liệu tham khảo" [37, tr. 3].
- Năm 1999 phát hành tài liệu: hoạt động của Radda Barnen vì trẻ em làm trái
pháp luật, người chưa thành niên phạm pháp [45, tr. 4]
- Năm 1999 xuất bản: Tài liệu tập huấn công ước về quyền trẻ em, tập tài liệu
này được biên soạn dựa trên cuốn tập huấn về quyền trẻ em của liên minh cứu trợ trẻ em,
nhằm "hỗ trợ" và giúp đỡ những người làm công tác nghiên cứu và huấn luyện về công ước
quyền trẻ em ở Việt Nam" [95, tr. 6].
- Phối hợp với tạp chí Thiếu niên tiền phong thực hiện dự án: Diễn đàn trẻ em.
Dự án này nhằm để "phát triển quyền trẻ em cũng như khuyến khích đối tác Việt Nam
hợp tác với trẻ em trong công cuộc của họ nhằm mục đích ủng hộ sự tham gia của trẻ
em" [6, tr. 1].
- Phối hợp với đài tiếng nói Việt Nam thực hiện dự án chương trình phát thanh về
quyền trẻ em. Tổ chức Radda Barnen muốn trợ giúp dự án này nhằm mục đích "đưa nội
dung của điều 12 công ước LHQ về quyền trẻ em được ứng dụng và thực hiện ở Việt
Nam" [23, tr. 1].
- Phối hợp với ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, các cơ quan chức
năng khác của Việt Nam, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thực
hiện các dự án về "tuần giáo dục quyền trẻ em", "tháng giáo dục quyền trẻ em", "giáo dục
quyền trẻ em trong trường tiểu học".
- Phối hợp với viện nghiên cứu giáo dục đào tạo phía Nam - Hội đồng Đội
thành phố Hồ Chí Minh thực hiện luận dự án "thăm dò ý kiến của thanh thiếu niên các
tỉnh phía nam về: "Thanh thiếu niên và quyền trẻ em" năm 1997".
* Hoạt động giáo dục quyền trẻ em của một số phương tiện thông tin đại chúng.
- Đài tiếng nói Việt Nam:
Năm 1996 - 1998 đài tiếng nói Việt Nam đã phối hợp với Radda Benren thực
hiện: Chương trình phát thanh về quyền trẻ em. Radda Benren trợ giúp cho dự án này
nhằm mục đích đưa nội dung của đầu của 12 công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em
được áp dụng và thực hiện ở Việt Nam. Dự án này được đài tiếng nói Việt Nam, chương
trình tiếng nói Việt Nam (VOV) ký thỏa thuận thực hiện từ ngày 22/2/1996 đến tháng
12/1998. Chương trình gồm ba thành phần: Người bạn thân thiết của tuổi thơ - phát vào
thứ ba hàng tuần; diễn đàn cho trẻ em với tiêu đề "Khát vọng tuổi thơ": Diễn đàn này
dành cho những trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, phát vào thứ năm hàng tuần;
đánh giá về hiệu quả của dự án:
VOV trên thực tế đã phát các chương trình hàng ngày dành cho trẻ em từ 35
năm nay, trước khi thực hiện dự án này [23, tr. 2]. Tuy nhiên, lúc đó các nội dung
cho người lớn thiết kế và giới thiệu chương trình, với các chủ đề chủ yếu là kể
chuyện, nói về hoạt động của đội thiếu niên tiền phong, gương sáng của những trẻ
em, cháu ngoan Bác Hồ, khoa học, tìm bạn và chương trình tâm tình bạn gái, hoặc
chương trình chủ nhật với tiêu đề "vì trẻ thơ" được phát từ 1995 có UNICEF trợ giúp
trong dự án này, trong dự án này chương trình được thực hiện theo một cách thức
mới cùng với trẻ em, sự tham gia của trẻ em được nhấn mạnh và vấn đề người lớn
đối thoại với trẻ em được chú trọng. Chương trình này nhằm giúp cho trẻ em nhận
thức được quyền của mình bao gồm các yếu tố: Hiểu rõ và được giáo dục để sử dụng
phương tiện thông tin đại chúng nhằm tiếp cận với các nhóm trẻ em; được đào tạo để
lập kế hoạch và thiết kế chương trình trẻ em trên Đài tiếng nói Việt Nam; thông qua
phương tiện thông tin đại chúng giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhận thức
được quyền của mình; phát triển ý kiến cho cộng đồng, kêu gọi quan tâm và bảo vệ
của xã hội đối với trẻ em; biểu lộ những mong muốn và ước vọng một cuộc sống tốt
đẹp hơn.
Kết quả thực hiện dự án: theo báo cáo đánh giá chương trình phát thanh về quyền
trẻ em do đài tiếng nói Việt Nam thực hiện (1996 - 1998) - bộ báo cáo đánh giá các dự án
số 7.
* Tạp chí thiếu niên Tiền Phong.
Tạp chí thiếu niên Tiền Phong phối hợp với Radda Barnen thực hiện diễn đàn
"tiếng nói chúng em", dự án bắt đầu được thực hiện từ 27/9/1996 và kết thúc năm 1998.
* Các phương tiện thông tin đại chúng, đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói
Việt Nam, các báo hàng ngày.
- Thành viên của câu lạc bộ báo chí dành cho trẻ em.
Kết quả thực hiện (Theo báo cáo đánh giá dự án tập số 5):
+ Từ 11/1996, chuyên mục "Tiếng của chúng em" đã được ấn định hàng tuần
trong Tạp chí thiếu niên Tiền Phong.
+ Một nhóm các phỏng vấn đã được sử dụng đã thu thập ý kiến của trẻ em bằng
cách thu thập tin tức hoặc chuyển tin tức tới cấp có thẩm quyền. Nhóm này đồng thời
cũng sắp xếp và phân loại ý kiến theo tầm quan trọng hoặc phân tích theo giới trẻ.
+ Các cuộc gặp gỡ cũng được tổ chức để thảo luận về các mục tiêu chính của
chuyên mục đặc biệt của Tạp chí thiếu niên Tiền phong.
+ Động viên, tuyên truyền và viết các bài báo có liên quan đến các vấn đề trẻ em
đã đưa ra.
+ Mỗi số báo của Tạp chí thiếu niên Tiền phong với số lượng 260 bản được gửi
cho 206 lớp học tình thương ở các tỉnh thành từ khi thực hiện dự án đến 28/3/1997.
* Hoạt động giáo dục "Quyền và bổn phận của trẻ em" của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
+ Tuần lễ giáo dục quyền và bổn phận trẻ em. (Theo báo cáo tổng kết "tuần lễ
giáo dục quyền và bổn phận trẻ em" số 141 /TH ngày 7/1/1998. Bộ Giáo dục và Đào
tạo phối hợp với ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Radda Barmen tổ chức thí điểm
việc giáo dục học sinh tại một số Trường tiểu học về các quyền và bổn phận của trẻ
em theo các nội dung trong công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em và luật bảo
vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Hoạt động này được thực hiện từ 8/9-13/9/1997 tại
271 trường thuộc quận, huyện ở 7 tỉnh, thành phố có đủ các vùng tiêu biểu như miền
núi, trung du, đồng bằng, đô thị (các tỉnh Lào Cai, Quảng Ninh, Vĩnh phúc, Hà Tây,
Nghệ An, Khánh Hòa và Hà Nội).
* Thực hiện dự án: "Tháng giáo dục quyền và bộn phận trẻ em".
- Năm học 1998 - 1999.
Cùng với năm nội dung của chương trình "Tuần lễ giáo dục quyền và bổn phận
trẻ em". Năm học 1998 - 1999 là năm thứ hai Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng tổ
chức cứu trợ trẻ em của Thụy Điển tổ chức thí điểm việc giáo dục quyền và bổn phận
của trẻ em trong các trường tiểu học. Năm 1998 - 1999 chương trình này được thực
hiện trên diện rộng hơn ở 16 tỉnh, 93 quận huyện, và 2.208 trường tiểu học (mỗi tỉnh
thực hiện ở 1/2 quận huyện, mỗi quận huyện thực hiện ở 1/2 số trường); thời lượng kéo dài
1 tháng, tài liệu tập huấn giảng dạy chuẩn bị công phu hơn, số lượng tài liệu, tranh cổ
động phát ra nhiều hơn (tài liệu phát: năm 1997 là 14.300 cuốn, năm 1998 là 57.750
cuốn; tranh: Năm 1997 là 15.000, năm 1998 là 30.000 bản). Hơn nữa để giúp giáo viên
ở những nơi xa xôi ít có điều kiện tham quan, dự án đã xây dựng 1 băng hình 5 tiết dạy
mẫu và in phát hành đến các quận, huyện nơi có chương trình thử nghiệm này.
Bảng 2.1: Số đơn vị trường, lớp, học sinh tham gia hoạt động "Giáo dục quyền và bổn
phận trẻ em" năm học 1998 - 1999
TT Tỉnh
Thành phố
Số
H.
Số
Trg
Tổng
số
lớp
Tổng
số
HS
Số
G/viên
Số PH
tham dự
Số
tranh
vẽ
Hoạt
động
khác
1 Hà Nội 6 130 2919 113884 2988 64.455 Giao lưu
2 Bắc Ninh 3 77 1815 64697 1960 có thi ở các trường
3 Hà Tây 7 170 3893 133553 4974 có t/c ở các trường
4 Vĩnh Phúc 3 72 1676 58296 1721 19800 30.830 Báo: 3680
5 Tuyên
Quang
3 99 2361 58194 3458 có t/c ở các trường
6 Lào Cai 5 107 1529 35023 1992 68700
7 Hải Phòng 9 144 3478 126400 4061 220 buổi
8 Quảng Ninh 6 89 2740 42890 2810 53000 1.686 71 buổi
9 Thanh Hóa 13 352 8643 275828 8438 285 trg` Có tổ
chức
10 Nghệ An 9 359 8153 270959 9375
11 Th.T-Huế 5 127 2385 84453 3003 ở
trường
thi tìm
hiểu
12 Khách Hòa 4 78 2061 72600 2855 29065 110 trg` Đố vui:
70
13 Bình Thuận 5 122 2587 97989 2786 70% tổ chức ở trường
14 Đồng Tháp 6 85 2047 67841 2047 tổ chức ở trường
15 Tiền Giang 5 109 2799 76249 3869 4528 6.244 Đố vui,
hát...
16 BếnTre 4 88 2189 60123 2200 2533 Thi tỉnh Phát thanh
Cộng 93 220
8
5127
5
166897
9
5853
7
108926
Nguồn: Báo cáo tổng kết "Tháng giáo dục quyền và bổn phận trẻ em" năm học
1998 - 1999 của Vụ Tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Năm học 1999 - 2000.
- Đây là năm thứ ba, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng tổ chức cứu trợ trẻ
em của Thụy Điển (Radda Barnen) tổ chức thí điểm việc giáo dục về quyền và bổn phận
của trẻ em trong các trường tiểu học thuộc 16 tỉnh thành phố (như năm trước).
Nội dung, hình thức, phương pháp, đối tượng tài liệu giảng dạy vẫn tiếp tục được
duy trì như năm 1998 - 1999.
Bảng 2.2 : Giáo dục "Quyền và bổn phận trẻ em" năm học 1999 - 2000
T
T
Tỉnh,
thành phố
Số
huyệ
n
Số
trườn
g
Số lớp Số học
sinh
Số
giáo
viên
Số
CMHS
Vẽ
tran
h
Hoạt
động
1 Hà Nội 6 129 2.904 115.947 3.651 115.00
0
2 Bắc Ninh 5 77 1.735 62.452 1.740 có
3 Hà Tây 7 170 3.686 129.968 4.338 10.096
4 Vĩnh Phúc 4 97 2.244 74.794 2.567 25.642 có 68
buổi
5 Tuyên Quang 3 97 1.911 53.848 1.911
6 Lào Cai 5 223 3.941 96.316 3.941 15.242
7 Hải Phòng 9 149 3.728 147.056 3.884 có
8 Quảng Ninh 6 86 2.365 72.859 2.457
9 Thanh Hóa 13 381 8.519 278.900 8.820 40.530 97
buổi
10 Nghệ An 9 307 8.003 258.800 8.818
11 Th. T-Huế 5 136 2.866 88.522 3.025
12 Khánh Hòa 5 125 3.133 112.481 3.134 85.126 có
13 Bình Thuận 5 126 2.690 100.761 2.706 75%
14 Đồng Tháp 6 85 1.941 65.768 1.939 có
15 Tiền Giang 9 237 5.949 182.180 5.949 178.15
4
16 Bến Tre 4 92 1.928 61.784 1.928
Cộng 101 2.517 57.543 1.902.43
6
60.808 469.79
0
Nguồn: Báo cáo tổng kết "tháng giáo dục quyền và bổn phận trẻ em" năm học
1999 - 2000 của Vụ Tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo 5/2000.
Trong năm 1999 - 2000, ngoài nội dung chương trình như năm học 1998 - 1999.
Vụ tiểu học và Bộ Giáo dục và Đào tạo còn thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho chương
trình này; tổ chức hai cuộc hoạt động giao lưu của học sinh 4 tỉnh, thành phố phía Bắc và
4 tỉnh, thành phố phía Nam. Hoạt động này đã thu hút 1.300 học sinh, 400 cán bộ giáo
viên tham gia.
- Hiện nay Bộ giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ
em Việt Nam, Radda Barnen tổ chức nghiên cứu lượng giá chương trình thử nghiệm về
giáo dục quyền và bổn phận của trẻ em ở Việt Nam.
- Dựa trên kết quả đạt được của chương trình thử nghiệm về giáo dục quyền và
bổn phận của trẻ em, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành xây dựng chương trình lồng
ghép, tích hợp những nội dung giáo dục quyền và bổn phận trẻ em vào trong chương
trình môn đạo đức cho bậc tiểu học và xây dựng chương trình khung môn giáo dục công
dân trong đó bao gồm cả giáo dục pháp luật có chứa đựng nội dung giáo dục quyền trẻ em,
quyền tự do của công dân.
* Giảng dạy môn học giáo dục công dân.
Theo chương trình khung môn Giáo dục công dân trường trung học cơ sở năm
1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Hoạt động giáo dục công dân của Bộ Giáo dục và Đào tạo được thực hiện ở tiểu
học trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9).
Giáo dục công dân trước đây chủ yếu đề cập đến đạo đức, bổn phận của học sinh.
Từ năm 1999 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng chương trình khung môn giáo dục
công dân với mục tiêu giúp cho học sinh:
- Hiểu và nắm vững những kiến thức về đời sống công dân bao gồm những chuẩn
mực xã hội có tính chất phổ thông, cơ bản và thiết thực, phù hợp với yêu cầu của lứa tuổi
học sinh trung học cơ sở về mặt đạo đức, pháp luật, văn hóa xã hội và đời sống cộng
đồng trên một số lĩnh vực cơ bản của đời sống và trong các mối quan hệ xã hội.
- Hiểu nội dung, vai trò, ý nghĩa của các chuẩn mực đó đối với sự phát triển của
cá nhân và xã hội, hiểu sự cần thiết phải rèn luyện và cách thức rèn luyện để thực hiện tốt
các chuẩn mực.
- Nội dung dạy môn Giáo dục công dân trường trung học cơ sở bao gồm hai phần
chính: Những chuẩn mực đạo đức và những chuẩn mực pháp luật.
Nội dung - cấu trúc chương trình (xem phụ lục 3).
- Về phương pháp giảng dạy: Chủ yếu là tổ chức hoạt động để học sinh tự giác,
chủ động tích cực chiếm lĩnh các chuẩn mục giá trị, có ý thức tự chủ rèn luyện hành vi
thói quen; phối hợp linh hoạt, hợp lý nhiều phương pháp và hình thức làm cho giờ học
sinh động, hấp dẫn, giàu cảm xúc hướng vào việc tổ chức cho học sinh hoạt động, tích
cực nhận thức và hành động, tự phát hiện và giải quyết vấn đề do bài học đặt ra, khắc
phục áp đặt, đơn điệu, thụ động hoặc hình thức chủ quan chủ nghĩa.
Các thiết bị dạy học gồm: Sơ đồ, bảng biểu, mô hình, tranh cảnh, phim đèn
chiếu, phim truyền hình, phim video, băng hình, các phương tiện nghe nhìn và các
phương tiện kỹ thuật khác.
2.3. Những thành tựu, tồn tại và nguyên nhân rút ra từ thực tiễn giáo dục
quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam trong thời qua
Mặc dù những số liệu, tài liệu về hoạt động giáo dục quyền con người, quyền
công dân ở Việt Nam được sử dụng trong đề tài này là chưa đầy đủ, nhưng từ những số
liệu, tài liệu đã có, có thể nói về cơ bản đã thể hiện được thực trạng hoạt động giáo dục
quyên con người, quyền công dân ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, có thể rút ra
những thành tựu đã đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của vấn đề này.
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực giáo dục quyền
con người, quyền công dân; đặc biệt là việc giáo dục quyền trẻ em theo nội dung công
ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (CRC), giáo dục quyền phụ nữ theo nội dung công
ước của Liên Hợp Quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử phụ nữ.
- Trong thời gian qua, nhất là từ những năm 1990 trở lại đây, Việt Nam đã chính
thức triển khai hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân, trong đó chủ yếu là
các hoạt động giáo dục quyền trẻ em, quyền phụ nữ dưới nhiều hình thức, nội dung,
phương pháp đa dạng phong phú. Các quan hệ quốc tế, quan hệ với các tổ chức liên chính
phủ, tổ chức quốc tế khu vực, tổ chức phi chính phủ được tăng cường nhằm thúc đẩy tốt
hơn các hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.
- Đảng, Nhà nước đã đề ra chủ trương chính sách và có sự quan tâm chỉ đạo thực
hiện hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt nam, đặc biệt là sự
quan tâm chỉ đạo trong các hoạt động giáo dục quyền trẻ em, quyền phụ nữ. Sự quan tâm
chỉ đạo này của Đảng, Nhà nước thể hiện cụ thể trong việc thành lập các cơ quan chuyên
trách nhà nước về nghiên cứu quyền con người, các cơ quan chuyên trách về quyền phụ
nữ, quyền trẻ em; đào tạo đội ngũ cốt cán về vấn đề này; chỉ đạo xây dựng các chương
trình hành động quốc gia về quyền phụ nữ, quyền trẻ em.
- Hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt nam trong thời
gian qua đã tạo ra nhận thức, ý thức về giá trị của hoạt động này trong việc hình thành
nhân cách người Việt nam trong chủ nghĩa xã hội và sự cần thiết phải tăng cường thực
hiện các hoạt động này trong thời gian tới.
- Các hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là các hoạt
động giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em đã có tác động tích cực đến một bộ phận lãnh
đạo các Bộ, ngành, các cấp chính quyền, một bộ phận cán bộ làm việc trong các lĩnh vực
có liên quan trực tiếp đến quyền của phụ nữ, quyền trẻ em.
- Một bộ phận quần chúng nhân dân, cha mẹ học sinh đã được tiếp cận chương
trình, nội dung giáo dục quyền trẻ em, quyền phụ nữ. Gần như tất cả những người được
tham gia tìm hiểu về quyền phụ nữ, quyền trẻ em đều nhấn mạnh vào sự cần thiết của
việc giáo dục quyền và bổn phận trẻ em, vấn đề bình đẳng giới và các quyền của phụ nữ.
- Đối với những người làm công tác quản lý trong ngành giáo dục, một bộ phận
trong số này đã ý thức được tầm quan trọng của hoạt động giáo dục quyền và bổn phận
trẻ em. Tất cả họ, những người đã tham gia hoặc chưa được tham gia vào hoạt động giáo
dục quyền và bổn phận trẻ em đều thấy rằng hoạt động giáo dục quyền trẻ em có ý nghĩa
sống còn đối với tương lai đất nước.
- Đối với giáo viên, những người trực tiếp làm công tác giảng dạy trẻ em đã có
cách nhìn tích cực về tầm quan trọng của quyền và bổn phận trẻ em. Họ nhận thấy môn
học này là quan trọng vì họ nhận thấy rằng khi trẻ em biết về quyền và bổn phận của
mình, chúng sẽ có thái độ và hành vi đúng mực hơn đối với mọi người và trong những
tình huống chúng gặp phải. Giáo viên thấy rằng phụ huynh chính là những người cần biết
nhiều nhất về quyền và bổn phận của trẻ em, sau đó là đến giáo viên. Theo họ, nếu như
các phụ huynh không được biết về quyền của trẻ em, thì họ sẽ vi phạm các quyền đó. Mặt
khác, điều này cũng cho thấy rằng giáo viên cần thấy mình phải có trách nhiệm trong
việc thực hiện các quyền của trẻ em. Nhiều giáo viên đã bộc lộ thành thật là trước đây
cũng chưa được hiểu rõ, đầy đủ về nội dung của "công ước của Liên Hợp Quốc về quyền
trẻ em", luật "Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em"; nay qua các hoạt động giáo dục "Quyền
và bổn phận trẻ em" họ mới được học hỏi, và hiểu đầy đủ hơn trong hành động thực tiễn.
- Đối với học sinh, sau khi thực hiện các dự án "Tuần giáo dục quyền và bổn
phận trẻ em", "Tháng giáo dục quyền và bổn phận trẻ em", đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận về nhận thức của học sinh nơi thực hiện các dự án này. Có thể thấy rõ
được kết quả này qua các tiết học trên lớp, qua các hoạt động tập thể của học sinh được tổ
chức trong và sau khi học tập. Trong thái độ ứng xử với người lớn, xây dựng, các em
mong muốn mọi người phải tôn trọng những quyền chính đáng đó của các em như quyền
được học tập, được vui chơi, quyền được hưởng sự chăm sóc của gia đình... Các em cũng
đã biết thông cảm với những người bạn đồng lứa phải chịu thiệt thòi vì chưa được hưởng
đầy đủ những quyền của mình.
- Giáo dục quyền trẻ em, quyền phụ nữ tuy mới ở giai đoạn đầu và cũng mới chỉ
thu được một số kết quả nhất định, nhưng tự bản thân nó đã thể hiện sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước đối với việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân,
đặc biệt là quyền phụ nữ và quyền trẻ em. Điều này đã tạo ra niềm tin sâu sắc của nhân
dân của Đảng, Nhà nước, tạo ra tiền đề cho việc xây dựng một xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh, và xây dựng nhà nước pháp quyền.
- Việc thực hiện tốt giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em trong thời gian qua ở
Việt Nam đã tạo ra cách nhìn mới của thế giới và khu vực đối với Việt Nam, từ đó tạo ra
khả năng thuận lợi hơn cho Việt Nam trong hội nhập khu vực và quốc tế.
- Giáo dục quyền con người, quyền công dân bước đầu đã tạo ra được những
nhận thức, nhu cầu về việc xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với các quy
định của công ước quốc tế về quyền con người.
2.3.2. Tồn tại
Giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta thời gian qua đã bộc lộ và
phát sinh những tồn tại sau:
- Đến nay Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập 8 điều ước quốc tế về nhân
quyền và nhiều công ước do Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thông qua [106, tr. 313-
315]; trong đó có nhiều điều ước quan trọng như: Công ước quốc tế về các quyền dân
sự - chính trị (tại Hội đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966, Việt Nam gia
nhập ngày 24/5/1982); công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội - văn hóa (Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966, Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982).
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử những phụ nữ (tại Hội đồng
Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 18/2/1979. Việt Nam phê chuẩn ngày 19/3/1982); công
ước về quyền trẻ em, Việt Nam phê chuẩn ngày 20/2/1990). Tuy nhiên, đến nay trong
thực tế Việt Nam mới chỉ tập trung giáo dục, tuyên truyền, phổ biến đối với hai công ước
là: "Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ" (công ước
CEDAW) và Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (công ước CRC).
- Việc giáo dục quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật cũng
chưa được thực hiện một cách đầy đủ, rộng rãi và thường xuyên.
- Việc giáo dục quyền con người và quyền công dân chưa gắn kết với nhau, ngay
cả trong một số trường hợp Công ước quốc tế đã được chuyển hóa thành luật quốc gia như
Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em và Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Khi tuyên truyền phổ biến, giáo dục thường chỉ chú ý đến tuyên truyền giáo dục công
ước quốc tế nhiều hơn luật quốc gia.
- Việc giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em mặc dù đã được sự quan tâm chỉ đạo
của Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng thực hiện, nhưng vẫn
còn những tồn tại sau:
+ Việc giáo dục quyền và bổn phận của trẻ em Việt Nam mới chỉ được thực hiện
mang tính thử nghiệm ở một bộ phận trẻ em, học sinh ở tiểu học, trung học cơ sở (cấp 1 -
2). Một số địa phương có điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện. Còn đa số trẻ
em, nhất là trẻ em ở các vùng sâu, vùng xa, trẻ em dân tộc thiểu số vẫn chưa được quan
tâm thực hiện thường xuyên.
Việc giáo dục quyền phụ nữ, thực chất mới chủ yếu dừng lại ở cán bộ làm công
tác quản lý, hội đoàn và một số vùng có điều kiện thuận lợi mà chưa được thực hiện sâu
rộng trong toàn thể xã hội nhất là đối với phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và phụ nữ dân tộc
thiểu số. Và mới chỉ thực hiện tùng đợt, theo dự án mà không được tổ chức thường
xuyên, liên tục.
+ Việt Nam có 54 dân tộc thiểu số, trong đó có nhiều dân tộc thiểu số (trên 20
dân tộc) có tiếng nói, chữ viết riêng; nhưng đến nay công ước Liên Hợp Quốc về quyền
trẻ em mới chỉ được dịch sang tiếng phổ thông và 4 tiếng dân tộc (Thái, H'mông, Êđê,
Bana). Điều này sẽ rất hạn chế việc thực hiện giáo dục quyền trẻ em trong dân tộc thiểu
số.
- ở một số cơ quan chức năng, một bộ phận cán bộ còn mang nặng ý thức ỷ lại,
trông chờ vào sự hỗ trợ kinh phí từ bên ngoài, hoặc chỉ tiến hành thực hiện hoạt động
giáo dục quyền con người, quyền công dân khi có kinh phí, khi có dự án, hoặc khi có
điều kiện thuận lợi. Các dự án giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em gần như phụ thuộc
hoàn toàn vào sự trợ giúp của các tổ chức Liên Hợp Quốc, tổ chức phi chính phủ cả về kỹ
thuật, phương pháp, tài liệu và tài chính, mà không có sự chủ động từ phía Nhà nước và
các cơ quan chức năng có liên quan.
- Một số Bộ, ngành chức năng và địa phương chưa tích cực chủ động, chưa có sự
quan tâm đúng mức, chưa phối hợp chặt chẽ, chủ động để thực hiện tốt các hoạt động
tuyên truyền giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em theo mục tiêu mà các kế hoạch hành
động quốc gia đã đề ra.
- Hệ thống thông tin đại chúng, mặc dù là phương tiện chủ lực trong hoạt động
giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em, nhưng còn rất thụ động, chủ yếu chỉ hoạt động dựa
trên các kế hoạch dự án đã được phê duyệt, được hỗ trợ về tài chính. Chưa chủ động thực
hiện hoạt động này mang tính tích cực, thường xuyên, liên tục, chưa coi đây là nhiệm vụ
của mình.
- Hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta trong thời gian
qua mặc dù mới chỉ tập trung giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em nhưng đã đòi hỏi phải
đầu tư một số lượng tài chính thích ứng, tuy nhiên số tiền ngân sách nhà nước dành cho
hoạt động này rất hạn chế, chủ yếu trông chờ vào sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, tổ
chức phái chính phủ. Do đó làm cho hoạt động giáo dục này không những hạn chế về kết
quả mà còn mang tính thụ động, phụ thuộc.
2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong hoạt động giáo dục quyền
con người, quyền công dân ở Việt Nam trong thời gian qua
Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại của hoạt động giáo dục quyền con người,
quyền công dân ở Việt nam có nhiều, song chủ yếu tập trung ở những nguyên nhân chính
sau:
- Trước hết và quan trọng nhất là về quan điểm, nhận thức. Chúng ta chưa nhìn
nhận trực tiếp, thẳng thắn vào vấn đề, chưa có nhận thức đúng đắn, đầy đủ giá trị cả về lý
luận và thực tiễn của hoạt động này. Các hoạt động giáo dục quyền con người, quyền
công dân còn bị né tránh, bị khỏa lấp trong các hoạt động giáo dục khác; hoặc chỉ thực
hiện một cách cầm chừng, thực hiện tập trung ở những lĩnh vực không liên quan trực tiếp
đến các quyền dân sự, chính trị. Và các hoạt động này chỉ được tập trung thực hiện ở đối
tượng là phụ nữ và trẻ em, mà chưa chú ý thực hiện ở các đối tượng khác có tính nhạy cảm
về quyền con người, quyền công dân trong xã hội.
- Chúng ta chưa có bộ máy điều phối chung, chuyên trách có đủ khả năng và thẩm
quyền để thực hiện điều phối hoạt động này trên bình diện quốc gia.
- Chúng ta chưa có quy định pháp luật về việc tổ chức thực hiện hoạt động này
trên phạm vi quốc gia, địa phương, và chưa có quy định pháp luật quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chúc quốc
tế, các tổ chức phi chính phủ có liên quan và tham gia hoạt động giáo dục quyền con
người, quyền công dân.
- Hàng năm ngân sách nhà nước chưa dành cho hoạt động này một cách thích
ứng.
Chương 3
Quan điểm và phương hướng, giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người,
quyền công dân
ở nước ta hiện nay
3.1. Những quan điểm chung về giáo dục quyền con người, quyền công dân
ở nước ta hiện nay
3.1.1. Quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục trong hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công
dân
Khi bàn về giáo dục, C.Mác - Ph.Ăngghen rất quan tâm đến việc giáo dục lý
tưởng Cộng sản cho giai cấp công nhân, vừa quan tâm đến việc giáo dục nhân cách làm
người, tư cách làm người của họ, vì theo C.Mác - Ph.Ăngghen thì: "Công nhân không
được tự do trong những hành động của mình. Trong quá nhiều trường hợp họ thậm chí
dốt nát đến mức là không hiểu được những lợi ích chân chính của con em mình hoặc những
điều kiện phát triển bình thường của con người" [58 tr. 37]. Từ nhận định này, C.Mác -
Ph.Ăngghen cho rằng việc giáo dục những thế hệ trẻ thành những lớp người mới không
bị ảnh hưởng của những cái xấu xa của chủ nghĩa tư bản là điều cần thiết mà giai cấp
công nhân phải quan tâm. C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh:
Nhưng dù sao thì bộ phận giác ngộ nhất trong giai cấp công nhân cũng
nhận thức rất rõ rằng tương lai của giai cấp họ và do đó, tương lai của cả loài
người, hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên.
Họ biết rằng trước hết cần phải bảo vệ nhi đồng và thiếu niên công nhân khỏi
những hậu quả tai hại của chế độ hiện tại. Chỉ có thể đạt tới điều đó bằng con
đường biến ý thức xã hội thành lực lượng xã hội [58, tr. 37].
Với quan điểm "giáo dục là một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã
hội hiện nay" [59, tr. 49]. Với tư cách là một người cách mạng, sứ mạng của C.Mác - Ph.
Ăngghen là góp phần vào việc lật đổ xã hội tư bản chủ nghĩa đã tạo nên, là tham gia vào
sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, và Mác đã trở thành: "Mác là người đầu tiên đã làm
cho giai cấp đó có ý thức về địa vị và yêu cầu của mình, có ý thức về những điều kiện để
tự giải phóng. Đấu tranh là yếu tố tồn tại của đời Mác. Và Mác đã đấu tranh một cách say
sưa, kiên cường và đạt được những thành công hiếm có" [60, tr. 74].
- Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc giáo dục ý thức cách mạng
cho giai cấp vô sản không phải chỉ cần thiết cho người lớn, mà phải tiến hành trước hết từ
thiếu niên nhi đồng. C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng: "Hiện nay nhiệm vụ của chúng ta chỉ
là chăm sóc nhi đồng và thiếu niên trong giai cấp công nhân" [59, tr. 36].
C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng, việc giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan trẻ
em phải được tiến hành đồng thời cả trong nhà trường và ngoài xã hội. Vì "nhà trường phổ
thông dạy cho học sinh của mình "tất cả những cái gì, tự bản thân chúng và theo nguyên
tắc, có thể có một sự hứng thú đối với con người", do đó, nhất là dạy những "cơ sở và
những kết quả chủ yếu của tất cả các ngành Khoa học có liên quan đến các thế giới quan và
nhân sinh quan" [61, tr. 64]; và vai trò của xã hội "nền kinh tế gia đình tư nhân biến thành
một ngành lao động xã hội, việc chăm sóc và giáo dục con cái trở thành một công việc
của xã hội; đối với tất cả các trẻ em, xã hội đều chăm sóc như nhau, dù đó là con hợp
pháp hay là con hoang" [62, tr. 75].
Chúng ta nhận thức rằng, mục đích, bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin là đấu
tranh giải phóng con người, là việc "đòi nhân quyền và dân quyền" cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, trong suốt quá trình hình thành và giáo dục lý luận về
chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn hướng tới
mục đích nhân đạo và cao cả là giải phóng con người, coi quyền con người vừa là mục
tiêu, vừa là phương tiện đấu tranh, là vũ khí sắc bén của giai cấp vô sản.
Từ những nêu trên cho thấy C.Mác - Ph.Ăngghen tuy không đề cập trực tiếp đến
giáo dục quyền con người, quyền công dân, nhưng thực chất vấn đề này là nội dung chính
yếu là bản chất của giáo dục lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa cộng sản
của C.Mác và Ph.Ăngghen cho giai cấp công nhân.
Khi bàn về việc huấn luyện, giáo dục, dạy dỗ thế hệ trẻ về chủ nghĩa cộng sản,
Lênin đã đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức cộng sản. Đây chính là mặt thứ hai của
quyền con người, quyền công dân. Về vấn đề này, Lênin đã chỉ ra rằng:
Các đồng chí phải tiến hành giáo dục thành những người cộng sản.
Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên là phải tổ chức hoạt động thực tiễn của mình
thế nào để khi học tập, khi tổ chức nhau lại, khi tập hợp nhau lại, khi đấu
tranh, tầng lớp thanh niên ấy tự tiến hành giáo dục thành những người cộng
sản và đồng thời cũng giáo dục cho tất cả những ai đã công nhận họ là người
dẫn đường chỉ lối. Phải làm cho toàn bộ sự nghiệp giáo dục, huấn luyện, học
tập của thanh niên ngày nay phát triển được đạo đức cộng sản trong thanh niên
[70, tr. 176-177].
Đạo đức cộng sản, theo Lênin chính là: "Chúng ta nói rằng đạo đức của chúng ta
hoàn toàn phụ thuộc vào lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp ấy của giai cấp vô sản. Luân
lý của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản" [70,
tr. 178].
Cũng như C. Mác, Lênin rất quan tâm giáo dục trẻ em và coi đây là điều kiện để
đảm bảo thực hiện thắng lợi của cách mạng vô sản. "Đoàn thanh niên cần giáo dục mọi
người từ khi họ còn nhỏ tuổi, theo tinh thần lao động tự giác và có kỷ luật. Như thế,
chúng ta có thể hy vọng giải quyết những vấn đề đặt ra hiện nay..." [70, tr. 190].
Đối tượng giáo dục lý luận, đạo đức cộng sản của Lênin không chỉ là giai cấp vô
sản, các thế hệ thanh thiếu niên, mà còn là toàn thể quần chúng nhân dân. "Cần phải giáo
dục cho quần chúng thấy là không thể không được phép đứng ngoài cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản" [71, tr. 200].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, người ra sức đem
chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá vào Việt Nam, người mở ra kỷ nguyên mới về quyền
con người, quyền công dân cho nhân dân Việt Nam; luôn quan tâm giáo dục đạo đức
cách mạng cho các thế hệ cách mạng Việt Nam. Và Người đặc biệt quan tâm đến việc
giáo dục thanh thiếu niên. Người cho rằng giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên cần
phải được đặt lên hàng đầu: "Đoàn viên và Thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều
hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo
dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" [51, tr. 9].
Đối với thiếu niên, nhi đồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành những tình cảm
và kỳ vọng đặc biệt ở thế hệ trẻ của đất nước này và những gì người mong muốn, nhắc
nhở thiếu niên nhi đồng thực hiện thật tốt, chính là nội dung chủ yếu của giáo dục quyền
trẻ em hiện nay. Khi nói chuyện với thiếu nhi Việt Nam đêm trung thu năm thứ nhất
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày 22/9/1945) người đã khuyên các cháu thiếu nhi:
"Các cháu phải ngoan, ở nhà phải nghe lời bố mẹ, đi học phải siêng năng, đối với thầy và
bạn phải kính yêu. Các cháu phải thương yêu nước ta. Mong các cháu mai sau lớn lên
thành những người dân xứng đáng với nước độc lập tự do" [52, tr. 15].
- Đối với các thế hệ thanh niên, nội dung giáo dục lý luận, đạo đức cách mạng
của Hồ Chí Minh đối với thế hệ này là: "Trước hết phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, phải
có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn" [53, tr. 43].
Như vậy, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không chính thức và trực tiếp gọi các
hoạt động giáo dục lý luận cách mạng, đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
các thế hệ người Việt Nam là giáo dục quyền con người, quyền công dân, nhưng quan điểm
giáo dục của Người có ý nghĩa chỉ đạo sâu sắc cả về nội dung, phương pháp, hình thức
giáo dục hiện nay.
3.1.2. Quán triệt những quan điểm của Đảng - Nhà nước ta về giáo dục
quyền con người, quyền công dân
Vấn đề quyền con người, quyền công dân và thực hiện giáo dục quyền con
người, quyền công dân ở Việt Nam hiện nay đang ngày càng trở nên bức thiết bởi giá trị
to lớn của nó đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách bộ máy hành chính
và cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, khu vực và quan trọng hơn hết là đảm bảo cho việc
thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Trong những
điều kiện đó giáo dục quyền con người, quyền công dân cần quán triệt những quan điểm
cụ thể dưới đây của Đảng và Nhà nước ta:
+ Việc giáo dục quyền con người - quyền công dân phải dựa trên cơ sở lý luận và
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về vấn đề quyền con người, quyền công dân.
+ Giáo dục quyền con người công dân phải gắn bó với mở rộng dân chủ, tuyên
truyền cái đúng, đấu tranh phê phán những quan điểm và nhận thức sai trái.
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phải tăng cường thực hiện giáo dục quyền
con người, quyền công dân ở nước ta: "Trước mắt, thực hiện tốt các quy chế dân chủ ở cơ
sở, mở rộng dân chủ ở các cấp; tăng cường tuyên truyền giáo dục các quan điểm đúng
đắn, phê phán các quan điểm sai lầm, những nhận thức mơ hồ về dân chủ và nhân quyền"
[79, tr. 2].
+ Nội dung, giáo dục quyền con người, quyền công dân: phải bao gồm những
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về vấn đề quyền
con người, quyền công dân, nội dung những quyền đã được thể chế hóa trong Hiến pháp
1992 và trong hệ thống pháp luật.
Phải quán triệt nguyên tắc tính thống nhất, tính phổ biến, tính đặc thù của
quyền con người khi xem xét giải quyết những vấn đề thực tiễn, cụ thể về quyền con
người.
Giáo dục quyền con người, quyền công dân là sự giáo dục đồng thời cả tính
giai cấp và giá trị nhân loại.
Quyền con người, quyền công dân cơ bản là thống nhất, việc giáo dục quyền
con người, quyền công dân phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục chính trị tư tưởng, giáo
dục pháp luật. Việc tuyên truyền phổ biến các công ước quốc tế về quyền con người phải
đi đôi với tuyên truyền phổ biến các văn bản luật quốc gia.
Giáo dục đồng thời cả các quyền dân sự chính trị, các quyền kinh tế, văn hóa,
xã hội. Giáo dục mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề quyền con người, quyền công dân với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và truyền thống dân tộc, giá trị văn hóa nhân
loại và trong xu thế quan hệ thời đại.
Giáo dục về mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng giữa hai vấn đề quyền con
người, quyền công dân và giáo dục đồng thời cả hai vấn đề này.
Giáo dục nhận thức cho nhân dân về luận điểm xuyên tạc của các nước phương
tây, các thế lực thù địch về vấn đề quyền con người, quyền công dân.
Giáo dục về lịch sử hình thành và phát triển quyền con người, quyền công dân
trên thế giới và Việt Nam.
+ Đối tượng, phạm vi giáo dục quyền con người, quyền công dân: Việc giáo dục
quyền con người, quyền công dân phải được thực hiện trên phạm vi cả nước, cho mọi đối
tượng, cho mọi công dân, trong đó đặc biệt chú ý đến các đối tượng dễ bị tổn thương
trong xã hội như phụ nữ, trẻ em, dân tộc thiểu số số ở vùng sâu, vùng xa.
+ Về hình thức, phương pháp: Việc giáo dục quyền con người, quyền công dân
phải được thực hiện đồng thời bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, phải kết hợp
giữa trong nhà trường và bên ngoài xã hội, giữa các cơ quan chức năng với các phương
tiện thông tin đại chúng.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ Đảng, chính quyền đoàn thể.
+ Tiếp tục xây dựng và kiện toàn bộ máy chuyên trách về vấn đề quyền phụ nữ,
quyền trẻ em và các nhóm dễ bị tổn thương khác.
+ Tăng cường, phát huy hiệu quả quan hệ quốc tế, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ trong các hoạt động về giáo dục quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là
giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em.
3.2. phương hướng, giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người quyền
công dân ở nước ta hiện nay
Xuất phát từ bản chất, vai trò của giáo dục quyền con người, quyền công dân nói
chung; từ các đặc trưng cơ bản cũng như thực trạng, kinh nghiệm giáo dục quyền phụ nữ,
quyền trẻ em ở nước ta hiện nay, trước hết cần phải có những chuyển biến mạnh mẽ từ tư
duy nhận thức đến tổ chức thực hiện của các chủ thể giáo dục quyền con người, quyền
công dân.
3.2.1. Phương hướng chung
3.2.1.1. Đổi mới nhận thức về giáo dục quyền con người, quyền công dân
Để từng bước giải quyết các tồn tại, hạn chế nhằm nhanh chóng nâng cao hiệu quả
giáo dục quyền con người, quyền công dân, trước hết chúng ta phải có cách nhìn mới, quan
niệm mới về giáo dục quyền con người, quyền công dân.
Trước hết, chúng ta cần phải khắc phục tư tưởng, nhận thức coi giáo dục
quyền con người, quyền công dân là hoạt động trái với bản chất của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là hoạt động xâm hại đến lợi ích của chủ nghĩa xã
hội. Khắc phục tư tưởng, nhận thức cho rằng quyền con người quyền công dân là giá
trị xã hội gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Thực hiện dòng giáo dục này sẽ dẫn đến sự
lợi dụng của các thế lực thù địch và tay sai đối với một bộ phận công chúng trong xã
hội, trách nhiệm của chúng ta là phải làm cho nhân dân hiểu rõ bản chất, nội dung của
quyền con người, quyền công dân, làm cho nhân dân thấy rằng đây chính là thành quả
đấu tranh của cả nhân loại, là mục tiêu của cách mạng vô sản, là bản chất của chế độ
ta. Từ đó xây dựng nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng thái độ
của công chúng đối quyền và nghĩa vụ của mình trước chính bản thân mình, trước
cộng đồng, dân tộc và nhân loại. Hình thành ý thức, tình cảm hành vi nhân quyền và
nền văn hóa nhân quyền trong việc xây dựng, thực hiện đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Chúng ta cần phải nhìn nhận trực diện vào vấn đề. Phải đánh giá đúng yêu cầu, tính
chất của hoạt động giáo dục này để tạo tiền đề cho hoạt động được thực hiện có hiệu
quả trong thực tiễn.
- Khắc phục tư tưởng tách rời giáo dục quyền con người với quyền công dân.
Cần phải gắn chặt việc giáo dục hai nội dung này với nhau, cái này là tiền đề cho nhận
thức cái kia trong mối quan hệ biện chứng. Nếu không sẽ dẫn đến nhận thức phiến diện,
chủ quan.
- Cần khắc phục tư tưởng coi giáo dục quyền con người, quyền công dân là một
bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật. Coi sự
hình thành ý thức quyền con người, quyền công dân chỉ là "sản phẩm phụ" của quá trình
giáo dục chung. Giáo dục quyền con người, quyền công dân phải được thực hiện đồng
thời trong mối quan hệ biện chứng, gắn kết chặt chẽ với giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo
dục đạo đức; giáo dục pháp luật và các dạng giáo dục khác và phải đưa công chúng vào
các hoạt động có tính thực hành chính trị - xã hội.
- Việc giáo dục quyền con người, quyền công dân phải mang tính hệ thống và
toàn diện, phải được thực hiện rộng rãi trong toàn bộ công chúng, cho mọi đối tượng trên
phạm vi quốc gia, trong đó cần có sự ưu tiên đối với các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt,
đối với các nhóm đối tượng trong các tổ chức tôn giáo, đồng bào dân tộc ít người ở vùng
sâu, vùng xa có điều kiện sống, đi lại, sinh hoạt khó khăn. Việc giáo dục quyền kinh tế,
văn hóa, xã hội phải gắn liền với giáo dục quyền dân sự, chính trị, và các công ước, điều
ước quốc tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền con người, các công ước này
phải được thực hiện đồng thời, trong mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục quyền công dân
được quy định trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Tránh tình trạng chỉ tập trung giáo
dục một vài công ước quốc tế liên quan đến quyền của một nhóm người trong xã hội như
hiện nay.
- Phải coi giáo dục quyền con người, quyền công dân là một dạng giáo dục độc
lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Khắc phục tình trạng chỉ thực hiện theo dự án hoặc khi có kinh phí. Dạng giáo dục này
phải được coi là một môn học độc lập trong chương trình giáo dục chính khóa của hệ
thống giáo dục Việt Nam từ cấp tiểu học đến đại học. Nội dung của nó có thể thực hiện
đan xen với nội dung của các dạng giáo dục khác. Đồng thời, việc giáo dục quyền con
người, quyền công dân trong các trường học phải được coi là một trong các hình thức
giáo dục quyền con người, quyền công dân chủ yếu, quan trọng, phổ biến và có hiệu quả
sâu rộng nhất.
Chúng ta phải nhận thức từng việc giáo dục quyền con người, quyền công dân
trong hệ thống giáo dục và đào tạo có ý nghĩa mang tầm chiến lược trong suốt cả quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, là bộ phận đặc biệt quan trọng của chiến lược con
người hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy đổi mới tư duy giáo dục quyền con
người, quyền công dân trong hệ thống giáo dục và đào tạo "phải bám sát mục tiêu giáo
dục là hình thành và phát huy toàn diện nhân cách, đào tạo con người có lòng yêu nước
và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn
hóa của loài người" [88, tr. 120].
3.2.1.2. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người, quyền
công dân
- Việt Nam là một nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, là thành viên của tổ chức Liên Hợp Quốc và đang
trong tiến trình thực hiện đường lối cải cách xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, đối với nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người, quyền công
dân ở nước ta là yêu cầu khách quan, tất yếu xuất phát từ những đặc thù riêng có của Việt
Nam như:
- Việt Nam có 54 dân tộc anh em, do đó, bên cạnh nền văn hóa truyền thống dân
tộc, còn tồn tại những truyền thống văn hóa, truyền thống sinh hoạt riêng mang tính độc
lập tương đối của các dân tộc thiểu số. Gần như mọi dân tộc đều có tiếng nói riêng và đặc
biệt trong số 54 dân tộc ở Việt Nam có trên 20 dân tộc có chữ viết riêng.
- Theo báo cáo quốc gia lần thứ 3 và 4 về tiến hành thực hiện công ước Liên Hợp
Quốc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) - Hà Nội 2000. Năm
1999 dân số Việt Nam là 76.787 triệu người. Trong đó nữ chiếm 50,8% dân số thành thị
23,5%; tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi là 33,5%; trên 65 tuổi là 5,8%; lực lượng lao động trong
độ tuổi quy định có khả năng lao động là 43,4 triệu; chiếm 56,5% dân số, tỷ lệ lao động
nữ là 50,6%; tỷ lệ hộ gia đình do nữ làm chủ hộ là 21,6%. Số lao động đang hoạt động
trong các ngành kinh tế quốc dân là 38 triệu người, chiếm 50% dân số, trong đó tỷ lệ nữ
là 48%. 76% dân số sống chủ yếu bằng nghề nông với phương tiện lao động thủ công là
chính và phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên. Trong 54 dân tộc khác nhau, người
Kinh chiếm chủ yếu với tỷ lệ là 86,8% dân số.
- Dân cư Việt Nam phân bố không đều, phần lớn dân cư sống ở nông thôn, trong
đó có những vùng đặc biệt khó khăn, xa xôi hẻo lánh. Do đó có điều kiện sống lao động,
tập quán sinh hoạt, văn hóa, truyền thống điều kiện, khác nhau. Đặc biệt do các vùng dân
cư Việt Nam được hình thành trong nhiều thời gian khác nhau của lịch sử, nên ngay đối
với bộ phận dân cư chính yếu là người kinh cư trú ở những vùng khác nhau cũng có
những tập quán, truyền thống văn hóa khác nhau.
Việt Nam còn là một quốc gia đa tôn giáo. Mỗi tôn giáo có đức tin, tín ngưỡng
riêng, tạo nên tập quán sinh hoạt, sắc thái văn hóa riêng trong cộng đồng tín đồ của mình.
Mỗi tôn giáo lại có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển gắn liền với từng
giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước, dân tộc. Điều này cũng phần nào góp phần tạo
ra ý thức, sự gắn kết khác nhau của các tôn giáo với cộng đồng dân tộc.
Tất cả những vấn đề trên tạo ra sự đa dạng, phong phú trong điều kiện sống, tập
quán sinh hoạt, truyền thống văn hóa của các dân tộc thiểu số, của các cộng đồng dân cư và
của các bộ phận dân chúng ở Việt Nam. Tạo ra những khả năng tiếp cận khác nhau với hoạt
động giáo dục quyền con người, quyền công dân.
Hơn nữa Việt Nam là một trong những nước xã hội chủ nghĩa còn lại, do đó
chúng ta đang phải đương đầu với sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch mà một trong những biện pháp chống phá của chúng là lợi dụng chiêu
bài nhân quyền để tuyên truyền xuyên tạc sự thật về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, để
dân chúng hiểu lệch lạc về bản chất nội dung nhân quyền mà chúng ta đã thực hiện được
ở Việt Nam...
- Từ tất cả những yếu tố trên, chúng tôi cho rằng để thực hiện giáo dục quyền con
người, quyền công dân có hiệu quả ở Việt Nam chúng ta phải có nội dung và phương
pháp giáo dục thích hợp với từng chủ thể giáo dục, từng đối tượng giáo dục. Việc giáo
dục quyền con người, quyền công dân không chỉ được giáo dục từng đợt theo các dự án
cho một số đối tượng nhất định mà phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và phối
hợp thực hiện chặt chẽ giữa cơ quan chuyên trách về giáo dục đào tạo, các Bộ ngành có
liên quan, các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức đoàn thể quần
chúng, tổ chức xã hội, những người có uy tín trong cụm dân cư, làng xã. Đặc biệt phải
tăng cường giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
- Đổi mới một cách căn bản phương pháp và hình thức giáo dục. Trước mắt cần
áp dụng các phương pháp giáo dục mới. Chuyển dần từ giáo dục theo kiểu truyền thống
"phương pháp ký gửi" (phương pháp truyền đạt thông tin một chiều) sang phương pháp
"cùng tham gia". Theo phương pháp này, học viên là chủ thể chính, giảng viên chỉ đóng
vai trò là người trợ giúp. Khuyến khích học viên tham gia thảo luận, tìm tòi suy nghĩ và
đóng góp ý kiến về bài giảng. Tuy nhiên, trong mỗi bài giảng và tùy thuộc vào nội dung
cũng như đối tuợng, giảng viên phải chuẩn bị kỹ lưỡng các kiến thức sẽ truyền đạt cho
học viên bằng những kỹ thuật, công cụ khác nhau như bảng biểu, tranh, hình vẽ, xem
phim để làm sao cung cấp cho họ những thông tin về quyền con người mà họ quan tâm,
gần gũi với công việc của học viên. Kết hợp chặt chẽ giữa giảng lý thuyết và thực hành,
đi tham quan thực tế, làm bài tập tình huống về những vấn đề xẩy hàng ngày có liên quan
đến công việc của họ, nhằm hình thành lối tư duy sáng tạo và độc lập suy nghĩ, tránh giáo
điều máy móc, sơ cứng.
3.2.1.3. Tham gia có hiệu quả chương trình giáo dục quyền con người của
Liên Hợp Quốc, đẩy mạnh hợp tác với các nước trên thế giới và các tổ chức chính
phủ, phi chính phủ
a) Tham gia chương trình giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc
- Bảo vệ, thúc đẩy quyền con người là mục tiêu của Liên Hợp Quốc, là quy tắc
xử sự cơ bản trong quan hệ pháp luật quốc tế. Vì vậy ngay từ khi thành lập đến nay, Liên
Hợp Quốc đã có một hệ thống tổ chức, bộ máy chuyên trách về giáo dục nhân quyền, có
nhiều kinh nghiệm, phương pháp và đầy đủ nguồn lực cho việc trực tiếp hoặc hỗ trợ các
quốc gia thành viên thực hiện giáo dục quyền con người. Thời gian qua Liên Hợp Quốc
đã thực hiện thường xuyên các hoạt động giáo dục nhân quyền trên phạm vi toàn cầu,
nhất là việc phát động và tổ chức thực hiện thập kỷ giáo dục nhân quyền nhằm tạo ra nền
văn hóa nhân quyền. Liên Hợp Quốc cũng đã có sự đánh giá sơ bộ kết quả thực hiện
Thập kỷ Giáo dục nhân quyền để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại và phương hướng
tiếp tục thực hiện chương trình trong thời gian tới. Vì thế, theo chúng tôi, Việt Nam cần
thiết tham gia tích cực các hoạt động giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc. Tuy
nhiên, sự tham gia này là có nguyên tắc trên cơ sở độc lập, tự chủ của Việt Nam. Chúng ta
tham gia các hoạt động giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc để trao đổi học hỏi
kinh nghiệm, phương pháp; để thông qua sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc đào tạo đội ngũ cốt
cán về giáo dục quyền con người và còn để có sự hỗ trợ về nguồn lực cần thiết (chuyên gia,
tài chính) cho các hoạt động giáo dục quyền con người ở Việt Nam.
Tham gia các hoạt động giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc không có
nghĩa là chúng ta rập khuôn một cách máy móc nội dung phương pháp giáo dục của Liên
Hợp Quốc; chúng ta phải tiếp thu và chuyển hóa các nội dung, phương pháp giáo dục của
Liên Hợp Quốc vào điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, sao cho các nội dung, phương
pháp đó phù hợp với yêu cầu giáo dục của Việt Nam, phù hợp với văn hóa Việt Nam, phù
hợp với điều kiện sống, lao động, trình độ nhận thức của đối tượng giáo dục ở Việt Nam.
Chúng ta tham gia chương trình giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc, nhưng
không thể bị áp đặt, phụ thuộc vào các chương trình này, mà cần thực hiện chương trình
này một cách chủ động, tự chủ theo điều kiện và yêu cầu của Việt Nam. Đồng thời, cũng
cần phải cảnh giác với các âm mưu lợi dụng bộ máy nhân quyền của Liên Hợp Quốc của
các nước thù địch, của các tổ chức phản động quốc tế và trong nước để đưa nội dung giáo
dục nhân quyền lệch lạc vào Việt Nam nhằm thực hiện các mưu đồ chính trị của họ.
Tham gia một cách tích cực, thường xuyên và chủ động để đóng góp quan điểm
và hình thành các quy định quốc tế về quyền con người. Trong nhiệm kỳ là thành viên ủy
ban nhân quyền Liên Hợp Quốc, Việt nam cần chủ động phối hợp các cơ quan chuyên
môn đề xuất những sáng kiến cho việc thúc đẩy nhân quyền nói chung vì sự nghiệp hòa
bình, xây dựng tình hữu nghị giữa các quốc gia, tránh kẻ xấu lợi dụng dân chủ, nhân
quyền can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Đồng thời trên các diễn đàn quốc tế,
cần chủ động giới thiệu những thành tựu nhân quyền đã đạt được sau mười lăm năm đổi
mới, chính sách, quan điểm nhân quyền của Đảng, Nhà nước ta.
b) Đẩy mạnh quan hệ hợp tác và các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức liên
chính phủ, tổ chức phi chính phủ trong hoạt động giáo dục quyền con người
- Thời gian qua, các tổ chức quốc tế, tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính
phủ đã có nhiều đóng góp với Việt Nam trong hoạt động giáo dục quyền con người, đặc
biệt là giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em. Hiện tại đang có hơn 400 tổ chức phi chính
phủ hoạt động ở Việt Nam. Sự tham gia của các tổ chức này trong thời gian qua rất có ý
nghĩa và hiệu quả, nhất là hoạt động của các Tổ chức cứu trợ nhi đồng quốc tế, Tổ chức
cứu trợ nhi đồng của Thụy Điển - Radda Barnen. Sự giúp đỡ này là đáng trân trọng và
cần phải tăng cường, mở rộng hơn nữa. Tuy nhiên sự giúp đỡ này trong thời gian qua
cũng thể hiện cho thấy chúng ta đã hoàn toàn lệ thuộc vào các tổ chức này cả về chương
trình, nội dung, phương pháp, tài liệu, tài chính. Và, hoạt động trợ giúp này cũng chỉ
nhằm tập trung vào giáo dục các công ước quốc tế về quyền trẻ em, quyền phụ nữ. Do
đó, vấn đề này dù mang tính chủ quan hay khách quan thì cũng làm cho chúng ta sao
nhãng hoặc thậm chí quên mất vế thứ hai của hoạt động này là giáo dục quyền công dân
trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật (các quy định của luật quốc gia về quyền, nghĩa vụ của
công dân). Điều này dẫn đến thực trạng là nhận thức của một bộ phận dân chúng trở nên
phiến diện, không phân biệt được đâu là vấn đề có tính chất chung, nhân loại, đâu là vấn đề
có tính quốc gia, dân tộc. Nhận thức phiến diện, không đầy đủ này có thể dẫn đến ý thức,
hành vi xử sự tiêu cực trong hoạt động đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Từ những
vấn đề trên, theo chúng tôi, chúng ta cần thiết phải có cơ quan chức năng nhà nước làm
nhiệm vụ tiếp nhận và điều phối các hoạt động hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi
chính phủ về giáo dục quyền con người.
Chúng ta cũng đồng thời phải xác định những vấn đề cụ thể cần thiết phải có sự
hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Chúng tôi cho rằng, cái chính yếu hiện nay chúng ta thiếu
và cần có sự hỗ trợ là nguồn lực bao gồm nguồn nhân lực, tức là đội ngũ cốt cán làm
nhiệm vụ trực tiếp giáo dục và nguồn tài lực như phương tiện kỹ thuật, tài chính để thực
hiện các chương trình, kế hoạch quốc gia về giáo dục quyền con người, quyền công dân. Vì
thế trong thời gian tới chúng ta cần tăng cường, mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, tổ
chức phi chính phủ trong hoạt động giáo dục quyền con người và tạo điều kiện thuận lợi
cho các tổ chức này hoạt động ở Việt Nam nhưng sự hỗ trợ phải dựa trên những nguyên
tắc, chuẩn mực nhất định, và cần thiết phải tập trung vào một đầu mối thống nhất quản lý,
điều phối. Và cũng chỉ trên hai lĩnh vực là đào tạo nguồn nhân lực cốt cán, hỗ trợ tài
chính, phương tiện kỹ thuật là chủ yếu.
Thực hiện quan điểm đối ngoại rộng mở đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng,
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước. Trong những năm tới, Việt
nam chủ động hội nhập với các nước, các tổ chức quốc tế về các lĩnh vực hoạt động
nhằm thúc đẩy quyền con người. Đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác với các tổ chức
nhân quyền quốc tế và cơ quan nhân quyền của các nước nhất là những nước có truyền
thống và kinh nghiệm trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Kinh nghiệm cho thấy, chủ động tham gia quan hệ quốc về nhân quyền không
chỉ có lợi làm cho bạn hiểu quan điểm, lịch sử đất nước con người mà qua đó cho họ thấy
được chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là vì con người, coi con người là vốn
quý nhất, bảo vệ và phát triển quyền con người chính là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
ổn định chính trị, xã hội, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam. Cũng qua đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về quyền con người chúng ta học tập được kinh nghiệm trong việc
bảo vệ nhân quyền mà họ đã tích lũy được.
3.2.2. Các giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người, quyền công dân ở
nước ta hiện nay
Giáo dục quyền con người, quyền công dân là cần thiết để xây dựng thành công
nhà nước pháp quyền, và thực hiện thắng lợi nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để tăng cường hoạt động giáo dục quyền con người, quyền
công dân và để hoạt động này đạt hiệu quả cao trong thời gian tới, chúng tôi xin nêu một
số giải pháp cơ bản, cụ thể sau:
3.2.2.1. Biên soạn giáo trình, sách và tài liệu giáo dục cho từng nhóm đối tượng
giáo dục cụ thể
- Hiện nay, chúng ta chưa có giáo trình chung, thống nhất; chưa có đầy đủ tài liệu
cho việc giáo dục quyền con người, quyền công dân theo từng nhóm đối tượng. Các cơ
quan chức năng tham gia giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em chủ yếu tự biên soạn tài
liệu giáo trình cho mình dựa trên sự hỗ trợ của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ
đang trực tiếp hỗ trợ mình, như tài liệu, giáo trình giáo dục quyền trẻ em thực hiện trong
chương trình thử nghiệm "quyền và bổn phận trẻ em" là do Radda Barnen hỗ trợ thực
hiện chỉnh lý biên soạn trên cơ sở tài liệu, tài liệu mà tổ chức này đã thực hiện giáo dục
trẻ em ở Thụy Điển và Pêru. Vì thế, chúng ta cần thiết phải "Việt Nam hóa" các tài liệu
giáo dục quyền con người, quyền công dân cho từng nhóm chủ thể giáo dục, từng nhóm
đối tượng giáo dục cụ thể, trên cơ sở tính hệ thống, tính liên thông của tài liệu và đảm
bảo gắn kết cả nội dung giáo dục quyền con người và nội dung giáo dục quyền công dân.
Cụ thể:
- Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con người, quyền công dân cho trẻ
em.
- Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con người, quyền công dân cho
người lớn.
- Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con người, quyền công dân cho đối
tượng là học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo dục - đào tạo quốc gia.
- Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con người, quyền công dân cho
công chúng ở thành thị, ở nông thôn, ở vùng sâu vùng xa, dân tộc ít người.
- Hệ thống giáo trình, tài liệu cho công chúng là tín đồ các tôn giáo.
- Hệ thống giáo trình, tài liệu cho cán bộ, công chức nhà nước nói chung và cho
đối tượng chuyên biệt như công an, luật sư, thẩm phán, công tố viên, phạm nhân, người
dân tộc thiểu số v.v...
3.2.2.2. Đưa chương trình giáo dục quyền con người, quyền công dân vào hệ
thống giáo dục nhà nước
Theo số liệu điều tra, tỷ lệ trẻ em Việt Nam dưới 15 tuổi là 33,5% dân số, khoảng
trên 25 triệu em và nếu tính đến dưới 16 tuổi là khoảng 30 triệu em, trong đó số trẻ em
học sinh ở các trường phổ thông là: 19.797.004, trong đó tiểu học có 10.063.025 em; học
sinh mới tuyển lớp 1 có 1.990.322 em; trung học cơ sở có 5.768.843 em; phổ thông trung
học có 1.974.814 em (xem phụ lục 4). Nếu cộng thêm vào đây cả số sinh viên của các
trường sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học, hệ thống các trường chính trị, thì số học
sinh, sinh viên trong các trường do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý là rất lớn có thể lên
đến trên 50% dân số cả nước. Hơn nữa, môi trường giáo dục là một trong các yếu tố quan
trọng nhất, hiệu quả nhất trong việc truyền thụ kiến thức và xây dựng nhân cách con
người. Vì vậy, việc đưa giáo dục quyền con người, quyền công dân trở thành môn học
chính thức trong hệ thống giáo dục nhà nước là cần thiết và đạt hiệu quả cao. Việc này
vừa đảm bảo tính thống nhất, tính liên thông của chương trình, vừa thực hiện được
thường xuyên, liên tục, rộng khắp trong cả nước và mang tính chủ động tránh được những
phụ thuộc vào các dự án, nguồn tài chính... Đảm bảo trách nhiệm của cả chủ thể và đối
tượng tham gia hoạt động giáo dục này. Khi đưa dạng giáo dục này vào giảng dạy chính
thức, nội dung của nó có thể được lồng ghép, tích hợp vào nội dung giảng dạy của các
môn học khác có mối liên quan, hỗ trợ như giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo
dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật...
Trước mắt cần tổ chức lại thời gian và nội dung môn học Giáo dục công dân,
chuyển lại thành bộ môn Giáo dục quyền con người, quyền công dân. Cần tổ chức môn
học này thành chương trình chính khóa từ cấp tiểu học đến cấp trung học phổ thông; hệ
đại học, cần đưa môn học quyền con người vào một số trường như Đại học Luật, Đại học
an ninh, Đại học cảnh sát, trường Cao đẳng kiểm sát, trường Lao động Tiền lương thuộc
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; các khoa Luật thuộc một số trường đại học và
Trường Trung cấp sư phạm, Cao đẳng sư phạm, Đại học sư phạm.
Đối với hệ đào tạo cán bộ, quản lý thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, cần tổ chức và biên soạn lại tập bài giảng về quyền con người, đảm bảo truyền tải
không những quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người mà còn cung cấp
phương pháp luận; các quan điểm nhân quyền khác nhau trong lịch sử và đương đại; đặc
biệt một nội dung không thể thiếu được đó là các chuẩn mực nhân quyền quốc tế có sự
đối chiếu và so sánh rất cụ thể các quy định pháp luật của Nhà nước ta. Trên cơ sở đó,
giúp học viên nắm được những điểm tiến bộ, sự phù hợp của pháp luật Việt Nam về
quyền con người với pháp luật quốc tế.
3.2.2.3. Xác định đúng đắn các hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp với
từng đối tượng giáo dục
- Như ở phần trên chúng tôi đã nêu, các đối tượng giáo dục quyền con người,
quyền công dân ở Việt Nam rất đa dạng. Mỗi đối tượng có những điều kiện, khả năng
khác nhau để tham gia, tiếp nhận nội dung của dạng giáo dục này. Do đó, theo chúng tôi
mỗi nhóm đối tượng giáo dục cụ thể chúng ta cần thiết phải xây dựng một hình thức,
phương pháp giáo dục riêng, thích hợp với điều kiện, khả năng của họ. Hình thức,
phương pháp này phải đảm bảo truyền tải nội dung giáo dục đã được xây dựng riêng cho
từng đối tượng, một cách sinh động, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp dụng ngay vào thực tiễn cuộc
sống. Như đối với dân tộc thiểu số, chúng ta cố gắng dịch nội dung giáo dục sang tiếng
của họ. Dân tộc nào có chữ viết thì thực hiện cả dịch viết và dịch nói, dân tộc nào không
có chữ viết thì diễn giải nội dung giáo dục bằng chính ngôn ngữ của họ. Đội ngũ tuyên
truyền, giáo dục cho dân tộc thiểu số là chính những già làng, trưởng bản, những người
dân tộc có trình độ học vấn đã được đào tạo trở thành cốt cán. Hình thức giáo dục có thể
thông qua các hoạt động văn hóa của làng, xã, bằng tranh ảnh, panô, áp phích, tờ rơi, đài
truyền thanh, đài phát thanh truyền hình, phim và các loại hình nghệ thuật khác.
Đối với người mù chữ, thất học, trẻ em lang thang, lại cần tăng cường tuyên
truyền giáo dục qua các hình thức tranh ảnh, tờ rơi, phương tiện phát thanh, truyền hình...
ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa điều kiện đi lại khó khăn, ít có điều
kiện thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục mang tính tập trung. Chúng ta có thể
in ấn tài liệu, tranh ảnh, tờ rơi có hình thức đẹp, dễ hiểu và giao cho các tổ chức đoàn
thể quần chúng, chính quyền địa phương phát cho từng hộ gia đình để họ bước đầu có
điều kiện tiếp cận, làm quen với nội dung giáo dục.
3.2.2.4. Đào tạo đội ngũ cốt cán, giáo viên chuyên trách
- Giáo dục quyền con người, quyền công dân là một dạng giáo dục đặc thù, chủ
thể giáo dục không nhất thiết phải có trình độ chuyên môn, chuyên ngành cao như giáo
dục chính trị, tư tưởng; giáo dục pháp luật. Nội dung giáo dục cũng cho phép thực hiện
dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, từ đơn giản như tranh ảnh đến phức tạp
như tuyên truyền, giảng dạy... và có thể thực hiện giáo dục tập trung hoặc không tập
trung.
Việc chuyển tải nội dung giáo dục sao cho đối tượng giáo dục hiểu được bản chất
của vấn đề để từ đó xây dựng ý thức hành vi của mình là việc làm khó khăn, phức tạp và
đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên, liên tục. Hơn nữa, hoạt động này lại diễn ra trên
phạm vi rộng lớn, đối tượng giáo dục đa dạng, và lại phải được thực hiện thường xuyên
liên tục. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cốt cán, giáo viên chuyên trách là rất cần thiết.
- Đối với hệ thống giáo dục nhà nước chúng ta cần thiết phải có đội ngũ giáo viên
chuyên trách. Đây là điều kiện bắt buộc để thực hiện việc đưa nội dung giáo dục này vào
giảng dạy chính thức trong hệ thống giáo dục. Trong khi đó hiện nay chúng ta hoàn toàn
không có giáo viên chuyên trách về lĩnh vực này. Vì vậy, trong các trường sư phạm cần
thiết phải đào tạo chuyên ngành này, hoặc lồng ghép với chuyên ngành có mối liên quan
mật thiết với môn học này. Để giải quyết yêu cầu cấp bách, trước mắt, chúng ta cần thiết
phải đào tạo ngay giáo viên chuyên trách từ đội ngũ giáo viên có sẵn đang dạy các môn
có liên quan và phải coi đây là giáo viên chuyên trách cho cả môn học này chứ không
phải chỉ mang tính chất tạm thời, kiêm nhiệm. Đội ngũ giáo viên này phải được đào tạo ở
tất cả các cấp, các hệ thống trường học trong hệ thống giáo dục nhà nước.
Đây là môn học có mối quan hệ mật thiết với giáo dục chính trị tư tưởng, giáo
dục pháp luật, do đó về chiến lược có thể đào tạo đội ngũ giáo viên chuyên trách cho
dạng giáo dục này từ nguồn sinh viên tốt nghiệp các trường luật, chính trị để có thể thực
hiện tích hợp, lồng ghép đồng thời các dạng giáo dục này trong quá trình giảng dạy.
- Đối với đội ngũ cốt cán: Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục quyền con người
quyền công dân ngoài nhà trường, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số
chúng ta rất cần có một đội ngũ cốt cán không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục
quần chúng nhân dân mà còn phải vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia hoạt
động giáo dục này. Đội ngũ chuyên trách có thể được xây dựng từ các tổ chức chính trị
xã hội, đoàn thể quần chúng, những người tình nguyện, các già làng, trưởng bản, đội ngũ
giáo viên vùng sâu, vùng xa, con em các dân tộc ít người có trình độ văn hóa nhất định.
Trong đó chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cốt cán trong tổ chức
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, để thông qua các hoạt động của tổ chức này mà
truyền tải nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân một cách sâu, rộng đến
mọi tầng lớp nhân dân.
3.2.2.5. Tăng cường hoạt động thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng
Kết quả thăm dò ý kiến của thanh thiếu niên các tỉnh phía Nam về "Thanh thiếu
niên và quyền trẻ em" do Viện Nghiên cứu giáo dục đào tạo phía Nam, Hội đồng Đội
Thành phố Hồ Chí Minh, Radda Barnen phối hợp thực hiện năm 1997 cho thấy, bình
quân có đến 43,7% trẻ em được hỏi cho biết đã nhận biết về quyền trẻ em từ các phương
tiện truyền thông, trong khi nhận biết từ cha mẹ chỉ chiếm 13,9%, từ thầy cô giáo chiếm
24,2%, từ bạn bè chiếm 3,6%, từ người thân chỉ chiếm 4,4% (xem phụ lục). Báo cáo
tham luận của ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em Việt Nam tại hội thảo "Thành tựu về
quyền con người của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới", cũng đánh giá công tác truyền
thông, vận động xã hội là một trong những biện pháp quan trọng để tuyên truyền, phổ
biến công ước và luật quốc gia. Trong khi đó, dự án truyền thông - tuyên truyền Việt
Nam - UNICEF về quyền trẻ em giai đoạn 2001 - 2005 (ký ngày 8/10/2001 với tổng ngân
sách 3.442.000 USD) mới chỉ nhằm đảm bảo cho 80% số cán bộ lãnh đạo địa phương,
40% số gia đình, 40% số trẻ em trong các trường học trên toàn quốc được thông tin và
tham gia các hoạt động thực hiện quyền trẻ em và 40% số gia đình và trẻ em của 10
huyện được lựa chọn trong số 66 huyện trọng điểm được tham dự các hoạt động truyền
thông về quyền trẻ em tại địa phương và các bộ tài liệu truyền thông cung cấp đến 100%
số xã trong 66 huyện trọng điểm [46].
Vì vậy, chúng tôi cho rằng, để hỗ trợ cho các hình thức, phương pháp giáo dục
khác, cần phải tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền, thông tin về
quyền con người, quyền công dân trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhà nước
cần có chính sách đầu tư nguồn lực, kỹ thuật thích hợp cho các cơ quan thông tin tuyên
truyền, đặc biệt các cơ quan phát thanh truyền hình, báo chí để các cơ quan này có khả
năng, điều kiện thực hiện hoạt động của mình mà không bị phụ thuộc quá nhiều vào các
nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ. Bản thân các cơ quan thông
tin đại chúng phải coi hoạt động tuyên truyền giáo dục nói chung và giáo dục quyền con
người, quyền công dân nói riêng là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình từ đó xây dựng các
chuyên mục, chương trình thường xuyên, liên tục và rộng khắp cho hoạt động này. Nên
dành riêng chuyên mục "nhân quyền của bạn" trên đài truyền hình, đài phát thanh và cả
báo chí với nội dung phong phú, đa dạng phù hợp với mọi đối tượng và lứa tuổi khác
nhau.
3.2.2.6. Xây dựng tổ chức, cơ quan chuyên trách về giáo dục quyền con người,
quyền công dân
- Hiện nay chúng ta mới chỉ có ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, ủy
ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam là các có quan chuyên trách về quyền
của phụ nữ và quyền của trẻ em. Bản thân hai cơ quan này cũng hoạt động độc lập với
nhau và đa số cán bộ của hai cơ quan này hoạt động mang tính chất kiêm nhiệm. Vì vậy,
theo chúng tôi, để đáp ứng được yêu cầu của các hoạt động về quyền con người, quyền
công dân nói chung và hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân nói riêng
trong thời gian tới, chúng ta cần thiết phải có một cơ quan chuyên trách chung về vấn đề
này. Cơ quan này được hình thành trên cơ sở hợp nhất hai ủy ban nêu trên và trực thuộc
Chính phủ. Cơ quan này chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt động nghiên cứu, tuyên
truyền giáo dục, đảm bảo quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam, tiếp nhận điều
phối các dự án, các nguồn hỗ trợ tài chính của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ
và thay mặt chính phủ thực hiện các quan hệ đối ngoại trong lĩnh vực này. Có như vậy
mới tạo ra được sự tập trung, thống nhất và có hiệu quả trong việc tuyên truyền giáo dục
và đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. Hoạt động này cũng
phù hợp mục tiêu cải cách hành chính hiện nay của Việt Nam.
Quốc hội, Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp luật, pháp quy, quy định rõ
chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của cơ quan này và mối quan hệ của cơ quan này cả các
cấp, các Bộ ngành có liên quan, với các tổ chức quốc tế và phi chính phủ, nhằm đảm bảo
hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân được thực hiện tập trung, thống
nhất và sự rõ ràng, minh bạch về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tham gia hoạt
động này.
Trong khi chưa có cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng nhà nước về bảo vệ
thúc đẩy quyền con người, cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tuyên truyền, giáo dục
quyền con người của Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người thuộc Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh. Phạm vi tuyên truyền, giảng dạy không chỉ bó hẹp trong khuôn
khổ Học viện mà cần phải mở rộng sang các cơ sở giáo dục khác với quy mô rộng lớn
hơn cho các đối tượng khác nhau. Tham gia phối hợp và giúp đỡ về chuyên môn, nghiệp
vụ về nhân quyền với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội khác để bảo đảm tính thống
nhất về chương trình và tính chính xác về nội dung.
3.2.2.7. Bảo đảm các điều kiện kinh phí, vật chất phục vụ hoạt động giáo dục
quyền con người quyền công dân
Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong thực hiện giáo dục quyền con
người, quyền công dân. Tuy nhiên, hoạt động này còn mang tính thụ động, phụ thuộc và
kết quả chưa cao. Điều này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có
một nguyên nhân quan trọng là nguồn ngân sách nhà nước dành cho hoạt động này còn
rất hạn chế.
Hiện nay kinh phí phục vụ cho các hoạt động tuyên truyền giáo dục, hội thảo
khoa học quyền con người chủ yếu là bằng tài trợ quốc tế. Vì vậy, để tạo ra được nguồn
lực cần thiết đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động giáo dục quyền con người,
quyền công dân trong thời gian tới, hàng năm Nhà nước cần có kế hoạch phân bổ một
khoản kinh phí thích ứng cho hoạt động này.
Kết luận
1. Giáo dục quyền con người, quyền công dân là sự tác động của nhân tố chủ
quan được định hướng trong toàn bộ hoạt động của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức đoàn thể quần chúng; các tổ chức của Liên Hợp Quốc, tổ chức
chính phủ, tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ bằng nhiều hình thức, phương
pháp khác nhau nhằm từng bước đưa vấn đề quyền con người, quyền công dân vào thực
tiễn cuộc sống, góp phần nâng cao dân trí, và tạo lập nền "văn hóa nhân quyền" cho cán
bộ, nhân dân, và cho toàn thể xã hội, toàn thể nhân loại.
2. Giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam đến nay vẫn còn là hoạt
động mang tính mới mẻ và nhạy cảm nhưng có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa chiến
lược đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ; đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước
pháp quyền và là cơ sở để quần chúng nhân dân hình thành nhận thức đúng đắn về quyền
con người, quyền công dân, là cơ sở để chống lại hoạt động lợi dụng chiêu bài "nhân quyền"
của các nước phương Tây và các thế lực thù địch sử dụng chống phá sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Là cơ sở để củng cố niềm tin của quần chúng với Đảng, Nhà nước.
3. Giáo dục quyền con người, quyền công dân cần thiết phải đưa vào hệ thống
giáo dục và đào tạo nhà nước và là chương trình đào tạo chính khóa như một môn khoa
học độc lập thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Môn học này có quan hệ khăng khít và có thể
lồng ghép trong nội dung giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, giáo dục văn hóa... có
cùng mục đích hình thành nhân cách và ý thức công dân cho học sinh, sinh viên, các đối
tượng giáo dục khác.
4. Việc tổ chức giáo dục quyền con người, quyền công dân phải xuất phát từ tính
đặc thù của nó, phải có sự kết hợp giữa hoạt động giáo dục trong nhà trường với ngoài
nhà trường, kết hợp các hoạt động mang tính quốc gia với các hoạt động mang tính quốc
tế, khu vực, các tổ chức phi chính phủ. Phải kế thừa kinh nghiệm của Việt Nam của nước
và của tổ chức Liên Hợp Quốc trên cơ sở tăng cường, mở rộng quan hệ có các tổ chức
này. Thực hiện hoạt động giáo dục này theo hướng kết hợp cả hai phương thức:
Một là, bằng các giải pháp tình thế để giải quyết vác vấn đề cấp bách, trước mắt,
tạo điều kiện cần thiết cho việc giáo dục quyền con người, quyền công dân trên cơ sở
thực trạng hiện có.
Hai là, bằng các biện pháp lâu dài nghiên cứu khoa học cơ bản, có hệ thống nhằm
hoàn thiện mục tiêu, yêu cầu. Chương trình giáo dục, chuẩn hóa các chương trình nội dung,
giáo trình sách, tài liệu, ấn phẩm văn hóa, phương pháp hình thức giảng dạy - giáo dục và đào
tạo đội ngũ giáo viên chuyên trách trong nhà trường, đội ngũ cốt cán trong các cơ quan, tổ
chức xã hội, đoàn thể quần chúng...
5. Giáo dục quyền con người, quyền công dân là một quá trình lâu dài, liên tục.
Đòi hỏi phải có sự tập trung chỉ đạo, tập trung quản lý, điều phối các quan hệ, hoạt động. Đòi
hỏi phải tiến hành từng bước, không chủ quan, nóng vội, hình thức. Phải thực hiện toàn diện
cả giáo dục quyền con người và quyền công dân, phải được thực hiện cho mọi đối tượng
trong đó cần tập trung ưu tiên đối với các đối tượng thanh thiếu niên, nhi đồng, phụ nữ, dân
tộc ít người. Phải nghiên cứu tìm tòi tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện. Kết
hợp hài hòa giữa mục tiêu ổn định lau dài với các nhiệm vụ cụ thể trước mắt, trong đó
không loại trừ việc thử nghiệm thông qua các "dự án", các "điểm chỉ đạo", và qua các hoạt
động hội nghị, hội thảo ngoài kế hoạch định trước.
6. Xuất phát từ vai trò của giáo dục quyền con người, quyền công dân trong việc tạo lập
nền "văn hóa nhân quyền quốc gia" và nền "văn hóa nhân quyền toàn cầu", việc thực hiện hoạt
động giáo dục này là chương trình mang tính chất quốc gia và quốc tế, đáp ứng đòi hỏi khách
quan và cấp bách. Thực hiện chương trình này là trách nhiệm của các chủ thể giáo dục mà
trước hết là nhà trường, gia đình, xã hội. Đồng thời phải có sự quan tâm và đầu tư thích ứng của
Đảng, Nhà nước.
7. Đây là hoạt động mang tính rộng lớn, lâu dài, phức tạp và nhạy cảm vì vậy cần thiết
phải có hệ thống văn bản pháp luật quy định về tổ chức thực hiện dạy giáo dục này và cần có
một cơ quan quản lý duy nhất nhằm đảm bảo sự chỉ đạo, quản lý tổ chức thực hiện, tiếp nhận điều
phối các quan hệ quốc tế tập trung, thống nhất.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Trọng An (2001), Báo cáo tham luận của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ
em Việt Nam tại hội thảo "Thành tựu về quyền con người của Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới".
2. Nguyễn Thị Bình (2000), "Chúng ta luôn phấn đấu vì quyền con người", Thông tin
quyền con người, (1).
3. Barbara B.Bird (1995), "Nhiều điều tôi không thích ở nước tôi dường như là những
cái thái quá của chính những điều tôi ưa chuộng", trong sách Hồ sơ văn hóa
Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
4. Báo cáo tháng 2 năm 2001 của Trung tâm nghiên cứu quyền con người về thành
tích về công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ biến luật năm 2000.
5. Báo cáo năm 2001 của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam - UNICEF về
kết quả hoạt động dự án trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt năm 2000 và1996 -
2000.
6. Bộ báo cáo đánh giá các dự án - Tập số 5 năm 1998 của Radda Barhen Việt Nam
về đánh giá dự án Diễn đàn trẻ em của Tạp chí "Thiếu niên tiền phong" năm
1996 - 1997.
7. Báo cáo tháng 9/1997 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về hoạt
động giáo dục quyền trẻ em năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Báo cáo ngày 26/8/1997 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về
tổng kết các hoạt động về tuần lễ quyền trẻ em (15 - 22/7/1997) và các hoạt
động tiếp theo.
9. Báo cáo ngày 24/8/1998 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về
tổng kết về hoạt động giáo dục quyền trẻ em năm 1998.
10. Báo cáo số 947/GDĐT ngày 28/8/1999 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ
Chí Minh về tổng kết dự án "tháng giáo dục quyền trẻ em" năm 1999.
11. Báo cáo nhanh của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về hoạt động
dự án "Tháng giáo dục quyền trẻ em" bổ sung năm 1999.
12. Báo cáo ngày 12/10/2000 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về
tổng kết hoạt động dự án "Tháng giáo dục quyền trẻ em" dành cho trẻ em theo
học các lớp linh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh năm học 1999 - 2000,
13. Báo cáo ngày 23/3/2001 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về
tổng kết hoạt động dự án "Giáo dục quyền trẻ em trong trường tiểu học" tại
thành phố Hồ Chí Minh năm học 2000 -2001.
14. Báo cáo số 141/TH ngày 7/1/1998 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổng kết "tuần lễ
giáo dục quyền và bổn phận trẻ em" (từ ngày 8 đến 13/9/1997).
15. Báo cáo ngày 15/12/1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tóm tắt kết quả hoạt động
về "Giáo dục quyền và bổn phận trẻ em" 1999.
16. Báo cáo số 11797/TH ngày 15/12/1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả hoạt
động giao lưu về "quyền và bổn phận trẻ em" - 1999 của 7 tỉnh, thành phố.
17. Báo cáo số 425/TH ngày 18/1/1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả hoạt
động của "Tháng giáo dục quyền và bổn phận trẻ em".
18. Báo cáo tháng 12/1998 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổng kết "Tháng giáo dục
quyền và bổn phận trẻ em năm học 1998 - 1999.
19. Báo cáo tháng 5/2000 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổng kết "Tháng giáo dục
quyền và bổn phận trẻ em" năm học 1999 - 2000.
20. Báo cáo quốc gia lần thứ 2 của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Về tình
hình thực hiện công ước Liên Hợp Quốc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ (CEDAW), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
21. Báo cáo quốc gia lần thứ 3 và 4 của CHXHCN Việt Nam (2000), Về tình hình thực
hiện công ước Liên Hợp Quốc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ (CEDAW), Hà Nội.
22. Báo cáo tháng 9/1992 của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam về hai năm
thực hiện công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ
em, 1992.
23. Bộ báo cáo đánh giá các dự án số 7 năm 1998 của Radda Barnen Việt Nam về đánh
giá chương trình phát thanh về quyền trẻ em do Đài tiếng nói Việt Nam thực
hiện (1996 - 1998).
24. Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh.
25. Chỉ tiêu trẻ em Việt Nam năm 1998, (1999), Trung tâm Thông tin tư liệu, UBBV và
CSTE Việt Nam, Hà Nội.
26. Chỉ tiêu trẻ em Việt Nam năm 1999, (2000), Trung tâm Thông tin tư liệu - UBBV
và CSTE Việt Nam, Hà Nội.
27. Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010,
(2/2001), UBBV và CSTE Việt Nam, Hà Nội.
28. Children Rights training package, (1999), UNICEF, Hà Nội.
29. Các văn kiện quốc tế và quốc gia về quyền con người (1995), Trung tâm nghiên cứu
quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
30. Dự thảo chương trình hành động quốc gia về trẻ em năm 1991 - 2000, UBBV và
CSTE Việt Nam.
31. Nguyễn Bá Diến (1993), Về quyền con người - trong tập chuyên khảo "quyền con
người, quyền công dân", Tập 1, Trung tâm nghiên cứu quyền con người - Học
viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 30 - 56.
32. Trần Ngọc Đường (1999), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập 1, 2, 3, Nxb
CTQG, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCHTW khóa VIII,
Nxb CTQG.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội.
36. Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Luận án thạc sĩ
Luật học.
37. Giáo án cho các bài giảng về công tác với trẻ em làm trái pháp luật, (1999), UBBV
và CSTE Việt Nam Radda Barnen, Hà Nội.
38. Hoàng Văn Hảo - Chu HồngThanh (10/1995), Các điều kiện bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong công cuộc đổi mới đất nước, đề tài KX 07-16,
Hà Nội.
39. Hoàng Văn Hảo, (19980 Chính sách cơ bản của Đảng - Nhà nước Việt Nam về
quyền con người, quyền công dân.trong tập bài giảng lý luận về quyền con
người, TTNCQCN,HVCTQGHCM,Hà nội.
40. Hoàng Văn Hảo - Chu Hồng Thanh (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự và chính
trị, Nxb CTQG, Hà Nội.
41. HoàngVăn Hảo - Chu Hồng Thanh (1996), Một số vấn đề về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa, Nxb Lao động, Hà Nội.
42. Đỗ Ngọc Hà (1996), Gia đình và khả năng tái hòa nhập của trẻ em lang thang kiếm
sống, Viện NCTN (YRI), Radda Barnen, Hà Nội.
43. Đặng Ngọc Hoàng (2000), Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp
luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Hà Nội.
44. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992, (1995), Nxb CTQG, Hà Nội.
45. Hoạt động của Radda Barnen vì trẻ em làm trái pháp luật, chưa thành niên phạm
pháp, Radda Barnen, Hà Nội, 1999.
46. Hợp tác Việt Nam - UNICEF về truyền thông, tuyên truyền quyền trẻ em, Báo Nhân
dân số 16885, ngày 9/10/2001.
47. Phạm Khiêm ích -Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới hiện đại,
đề tài KX 07-16, Viện TTKHXH, TTNCQCN, Hà Nội.
48. Kỷ yếu Hội nghị tổng kết kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
1997 - 2000 (2000), Xây dựng chiến lược 10 năm và KHHĐ 5 năm - ủy ban
quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Hà Nội.
49. Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000,
UBQH vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
50. Kofi Annan (4/1999), Thông điệp của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhân ngày nhân
quyền, trong quyền trẻ em tạo lập một nền văn hóa nhân quyền, Học viện
CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 1.
51. Hồ Chí Minh (1970), "Di chúc", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (1970), "Nói chuyện với các cháu thiếu nhi Việt Nam đêm trung thu
thứ nhất nước Việt Nam DCCH", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác
giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. "Hồ Chí Minh (1970) nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân dân Việt
Nam", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. HOFMANNR (1995), Bảo vệ quyền con người và Hiến pháp CHLB Đức trong quyền
con người trong thế giới hiện đại đề tài KX 07 - 16, Viện TTKHXH - TTNCQCN,
Hà Nội.
56. Đỗ Mười (1992), Sửa đổi Hiến pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
57. C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, Nxb CTQG, Hà Nội.
58. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Chỉ thị về một số vấn đề gửi BCH Trung ương lâm
thời", trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
59. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Phê phán cương lĩnh Gota", Trong sách C.Mác -
Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
60. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Điếu văn trước mộ Mác", Trong sách C.Mác -
Ph.Ăngghen - Lênin -Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
61. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Chống Đuy-rinh", trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen -
Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
62. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư bản và của
Nhà nước", Trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
63. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64. C.Mác - Ph.Ăngghen (1986), Toàn tập, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện
quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Hà Nội.
66. Mary Robinsơn, Thông điệp các đại diện cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền
nhân ngày nhân quyền 1997, trong quyền trẻ em tạo lập một nền văn hóa nhân
quyền, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tr. 3.
67. Dương Thị Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
68. Jacques Mourgon (1995), Quyền con người, Nxb Đại học Pháp, Hà Nội.
69. Lênin (1976), "Bàn về sự lẫn lộn chính trị", Trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen -
Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
70. Lênin (1976), "Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên", Trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen -
Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
71. Lênin (1976), "Diễn văn tại Hội nghị các ban giáo dục chính trị toàn Nga" Trong
sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin, Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
72. Lênin V.I. (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
73. Lê Hữu Nghĩa, Bảo vệ và phát triển quyền con người bản chất của
chế độ ta, Thông tin quyền và bổn phận của trẻ em ở Việt
Nam, Viện NCKHGD - UBBV và CSTE Việt Nam, Radd Barnen từ 9/10 -
3/11/2000.
74. Lượng giá chương trình thử nghiệm về giáo dục quyền và bổn phận của trẻ em ở
Việt Nam, Viện Nghiên cứu khoa học giáo dục, UBBV&CSTE, Radda Barnen
từ 9/10 - 3/11/2000.
75. Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
76. Nguyễn Hữu Lệ (1995), Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền, Luận án chuẩn hóa
trình độ thạc sĩ, Hà Nội.
77. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, (1998), Nxb CTQG, Hà Nội.
78. A.R.Lanier (1995), "Hành vi Mỹ", Trong sách Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội,
tr. 152.
79. Lê Khả Phiêu (2000), "Bảo vệ và phát triển quyền con người lý tưởng phấn đấu của
người cộng sản", Thông tin quyền con người, (1). Trung tâm Nghiên cứu quyền
con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
80. Phân tích đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, (2/2000), Bộ Lao động - Thương binh và xã hội - UNICEF, Nxb Lao
động.
81. Quyền trẻ em, (6/2000), Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
82. Quyền con người và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, (1991), Học viện Nguyễn ái
Quốc.
83. Quyền con người, (1995), Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Hà Nội.
84. Fean -Facques - Roussrau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb thành phố Hồ Chí
Minh.
85. Nalin Swaris (2000), Đạo luật nhân quyền và sự tái sinh xã hội, Nxb Asian.
86. Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người, Nxb
CTQG, Hà Nội.
87. Trần Thị Thanh Thanh (2001), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng
và triển khai thực hiện chiến lược bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em đến
năm 2010 - UBBV và CSTE Việt Nam, Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước,
Hà Nội.
88. Đinh Xuân Thảo (1996), Giáo dục pháp luật trong các Trường Đại học và Trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận
án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
89. Tổng luận đề tài Khoa học cấp bộ (1997), Các cơ sở pháp lý của quyền con người,
TTKHXH và NVQG, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
90. Tài liệu tham khảo nội bộ (1998), Tập bài giảng lý luận về quyền con người, Học
viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
91. Tài liệu phục vụ tọa đàm (2000), Một số bài viết về quyền con người của các tác giả
Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
92. Tập chuyên khảo (1990), CNXH và quyền con người, Đề tài khoa học "Nhân
quyền", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội.
93. "Tuyên ngôn độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776" (2000), Văn kiện quốc tế về
quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
94. "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1789" (2000), Văn kiện quốc tế về
quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
95. Tài liệu huấn luyện công ước về quyền trẻ em, (1999), Nxb CTQG, Hà Nội.
96. Tham luận hội thảo (2000), Hiến pháp, pháp luật và quyền con người, Kinh nghiệm
Việt Nam và Thụy Điển, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
97. Tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, (8/1998),
UBBV và CSTE Việt Nam, Nha Trang.
98. Trẻ em lang thang, (1997), Nxb CTQG, Hà Nội.
99. Trẻ em "Trong bóng tối", (1999), Nxb CTQG, Hà Nội.
100. Tạp chí phụ nữ và tiến bộ, số 1 (22)/2000.
101. Tập tham luận Hội thảo (2000), Quyền, lợi ích của phụ nữ, trẻ em trong quan hệ
hôn nhân, gia đình, TTNCQCN/Học viện CTQG Hồ Chí Minh, UNICEF, Hà
Nội.
102. Tuyên bố viên và chương trình hành động (1998), Trong các Văn kiện quốc tế về
quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103. Đinh Ngọc Vượng (1992), Thuyết tam quyền phân lập và bộ máy Nhà nước tư sản
hiện đại, Viện TTKHXH, Hà Nội.
104. Đại từ điển tiếng Việt (1999), Viện ngôn ngữ, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
105. Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
106. Văn kiện quốc tế về quyền con người, (2000), TTNCQCN VTTKH Học viện CTQG
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
107. Va-lê-ri - Sa-lit-de (1990), Sự ưu tiên của những quyền xã hội kinh tế quan điểm
của phương Đông và phương Tây trong tập chuyên khảo CNXH và quyền con
người, Đề tài Khoa học "Nhân quyền", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
108. United Nation (1994), Human Rights question and answers New York and
Geneva.
109. Human Rights Education in Asian schools (2001), Asia - Pacific Information
center - March.
110. Citizenship education and human rights education (2000), Key concepts and
debates 1 - The British council .
111. Citizenship education and human rights education (2001), Developments and
resources in the UK2 - The British council .
112. Citizenship education and human rights education (2000), An International
overview3. The British council .
113. Office of the United Nation High commissioner for human rights - United nations
Decade for human Rights Education 1995 - 2004.
114. General Assembly - United nations Decade for human rights Education 1995 -
2004 - Note by the secretary - General - General 7 September 2000.