giai phap han_che_va_xu_ly_no_qua_han
TRANSCRIPT
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một sản phẩm được hình thành và phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội loài người, nhưng không giống với nhiều sản phẩm khác,
xét về bản chất các hành vi mà nó ứng xử, người ta coi NHTM như là một sản phẩm
xã hội một ngành công nghiệp dịch vụ với tính cộng đồng và tính nhân văn rất cao,
chằng chịt vô số các mối liên hệ với đông đảo công chúng, không chỉ trải rộng phạm
vi toàn quốc gia mà còn lan tỏa trong phạm vi quốc tế. Cũng không giống như các tổ
chức khác, NHTM một định chế tài chính trung gian luôn phải kinh doanh bằng tiền
của người khác. Do vậy, vấn đề quan trọng đặt ra là hiệu quả hoạt động của các
NHTM. Hoạt động tín dụng ở mọi thời kì luôn chiếm vị trí quan trọng bậc nhất trong
việc đóng góp vào phần lợi nhuận của ngân hàng. Nhưng lợi nhuận càng cao thì rủi ro
càng lớn, hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn phải đối mặt với hàng loạt các khó
khăn, trong đó phải kể đến rủi ro nợ quá hạn.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín
dụng ngân hàng mà chủ yếu là hạn chế rủi ro nợ quá hạn, do vậy mà em đã lựa chọn
đề tài:
“Ngăn ngừa và xử lí nợ quá hạn tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn Hà Nội”
Nợ quá hạn thường xảy ra trong hoạt động cho vay bảo lãnh song trong pham vi đề tài,
em xin chỉ đi sâu nghiên cứu nợ quá hạn trong hoạt động cho vay.
BỐ CỤC CHUYÊN ĐỀ GỒM:
Trang 2
- Lời mở đầu
- Chương I: NHTM và Nợ quá hạn ở các NHTM
- Chương II: Thực trạng Nợ quá hạn tại NHNo & PTNT TP Hà Nội
- Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp phòng ngừa nợ quá hạn
tại NHNo &PTNT TP Hà Nội
Để hoàn thành được luận văn này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo
hướng dẫn Lưu Thị Hương, em cũng xin cảm ơn các cô, chú, anh chị phòng kinh
doanh NHNo &PTNT TP Hà Nội đã chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình làm
chuyên đề.
Trang 3
CHƯƠNG I:
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NỢ QUÁ HẠN Ở
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I- Ngân hàng thương mại
Theo luật các tổ chức tín dụng “Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán”.
Như vậy NHTM là một trung gian tài chính quan trọng đứng giữa người đi vay và
người cho vay, thông qua đó kiếm lợi nhuận cho mình. Điều đó được thể hiện thông
qua một số hoạt động cơ bản của ngân hàng:
- Huy động vốn: đây được coi là hoạt động đầu vào cho việc kinh doanh của các
NHTM. Nó đóng vai trò rất quan trọng đối với tất cả lĩnh vực trong nền kinh tế thông
qua việc cung cấp các điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền nhàn rỗi của dân cư vào tổ
chức kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng, hoạt động huy động vốn bao gồm việc
nhận tiền gửi, phát hành các giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay
vốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại
điều 30 luật NHNN.
- Cho vay: là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, NHTM không chỉ đi huy động vốn mà
còn phải sử dụng vốn huy động được để cho vay và đầu tư các tài sản có tính sinh lời
Các NHTM được cấp tín dụng cho các tổ chức cá nhân dưới hình thức cho vay chiết
khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức
khác theo quy định của nhà nước. Hoạt động tín dụng của các NHTM cũng được đa
dạng hóa từ hình thức đầu tư đến các loại vốn cho vay với thời hạn và điều kiện khác
nhau nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân
hàng với mục đích cuối cùng là an toàn và sinh lời.
- Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: để đảm bảo chi phí lưu thông và tăng độ an toàn,
thuận tiện cho các doanh nghiệp trong quan hệ kinh doanh, ngân hàng thực hiện dịch
vụ thu chi hộ và thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do Ngân hàng nhà nước
(NHNN) quy định. Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ ngân quỹ là dịch vụ
Trang 4
thu phát tiền mặt cho khách hàng, đồng thời tổ chức và tham gia các hệ thống thanh
toán nội bộ và hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước và quốc tế.
Hoạt động này ngoài việc đem lại thu nhập cho ngân hàng còn có tác dụng thu hút
khách hàng gửi tiền vào tài khoản ngân hàng, từ đó thu hút khách hàng cho các hoạt
động tài chính.
- Các hoạt động khác: để tạo lợi thế kinh doanh cũng như tận dụng mọi khả năng vốn
có của mình, NHTM ngoài các hoạt động cơ bản trên còn thực hiện các hoạt động
khác như góp vốn cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng,
nghịêp vụ uỷ thác và đại lý, tư vấn cùng các dịch vụ khác có liên quan đến hoạt động
ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Trang 5
II- Tín dụng ngân hàng
1- Khái niệm: Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số
vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai. Có thể định nghĩa một
cách đầy đủ như sau: tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
(dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một
thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
2- Vai trò của tín dụng ngân hàng:
- Thoả mãn nhu cầu của khách hàng thiếu vốn trên thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, vốn tự có của hầu hết các doanh nghiệp cũng như nguồn
vốn của các tổ chức xã hội, dân cư đều nhỏ hơn so với nhu cầu sử dụng vốn. Do đó tín
dụng ngân hàng trở thành một kênh cung cấp vốn tin cậy cho các nhu cầu đó. Ngân
hàng thực hiện nhiệm vụ cho vay đối với mọi thành phần kinh tế, trong một số trường
hợp còn thực hiện cho vay đối với ngân sách nhà nước thông qua việc mua trái phiếu,
cổ phiếu
- Thúc đẩy và kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Việc thoả mãn một phần hay toàn bộ nhu cầu vốn của doanh nghiệp đã tạo điều kiện
giúp cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng
cơ bản…. từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Đồng
thời việc đưa ra quyết định cho vay cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng tham gia
kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đảm bảo các
khoản vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Ngoài ra đó cũng là cách để
ngân hàng giúp Nhà nước quản lý tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
- Nâng cao tăng cường hệ thống kinh doanh:
Khác với việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp sử dụng vốn tín
dụng phải có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi của khoản vay đến khi hết hạn. Do đó
yêu cầu yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng
vốn, tránh tình trạng trì trệ, các doanh nghiệp phải tự chủ kinh doanh, tức là phải nắm
bắt được tình hình thị trường, đánh giá, phân tích những biến động và xu hướng phát
triển của thị trường để từ đó tìm ra hướng đi cho mình
3- Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng:
Trang 6
Hoạt động tín dụng giữ vai trò rất quan trọng trong các hoạt động của ngân hàng
thương mại. Chất lượng của hoạt động tín dụng có ý nghĩa sống còn đối với NHTM.
Do vậy hoạt động tín dụng cần tuân theo nguyên tắc nhất định nhằm hạn chế rủi ro có
thể xảy ra:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích:
Vốn vay ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp là nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh
doanh. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp phải gắn với mục đích hoạt động sản
xuất kinh doanh. Chính mục đích vay có ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản vay.
Để được vay vốn bên đi vay phải giải trình với ngân hàng về mục đích vay vốn, kế
hoạch vay vốn, số vốn vay, kế hoạch sản xuất kinh doanh.
- Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng thời hạn đã thoả thuận:
Thực hiện vai trò trung gian của mình, ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người
cho vay. Với tư cách là người đi vay, ở quan hệ này ngân hàng thực hiện các hành vi
giao dịch cho chính bản thân mình. Bởi vậy ngân hàng có trách nhiệm trả tiền cho
người gửi cả gốc và lãi. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng có quyền quyết định
cho người khác vay và yêu cầu người đi vay trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn.
III- Nợ quá hạn
1- Khái niệm:
Hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của NHTM và đem lại
phẩn lớn thu nhập cho các NHTM. Do vậy một trong những phương hướng hoạt động
cơ bản của ngành ngân hàng trong giai đoạn hiện nay là nâng cao chất lượng tín dụng,
giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống thấp.Trong quan hệ tín dụng việc phát sinh nợ quá hạn là
điều không thể tránh khỏi. Nhưng nợ quá hạn phát sinh vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn
đến tình trạng mất khả năng thanh toán của NHTM. Vậy thế nào là nợ quá hạn?
“Khi hết hạn trả nợ hoặc hết hạn cho vay, nếu khách hàng không có khả năng trả
nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi
suất nợ quá hạn đối với số tiền trả chậm”.
Tổng số tiền quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) = -------------------------- x 100
Tổng dư nợ
Trang 7
Công thức này phản ánh, nếu tỉ lệ NQH của ngân hàng ở mức cao thì chứng tỏ hoạt
động kinh doanh của ngân hàng chưa được hiệu quả,chất lượng tín dụng chưa được tốt
và ngược lại.
Việc phân loại nợ quá hạn sẽ giúp chúng ta đánh giá chất lượng tín dụng của ngân
hàng theo các tiêu thức khác nhau.
2-Phân loại nợ quá hạn
Nợ quá hạn được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau để làm căn cứ xây kế
hoạch thu hồi vốn trong từng trường hợp cụ thể. Dưới đây là một số phương pháp
phân chia thường được áp dụng nhất:
*Căn cứ vào thời gian quá hạn:
- Nợ quá hạn dưới 180 ngày
- Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày
- Nợ quá hạn trên 360 ngaỳ
*Căn cứ theo thành phần kinh tế:
- Nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước
- Nợ quá hạn của các doanh nghiệp tư nhân
- Nợ quá hạn của các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
- Nợ quá hạn của các hộ sản xuất cá thể
*Căn cứ theo khả năng thu hồi:
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 100%
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 1 phần
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
*Căn cứ theo loại nguyên tệ:
- Nợ quá hạn bằng VNĐ
- Nợ quá hạn bằng ngoại tệ
*Căn cứ theo thời hạn của khoản vay:
- Nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn
- Nợ quá hạn của các khoản vay trung và dài hạn
*Căn cứ theo nguyên nhân phát sinh:
- Nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan
Trang 8
- Nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan
3- Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn(NQH):
a) Nguyên nhân khách quan:
- Nguyên nhân bao trùm là sự biến động về kinh tế: Việt Nam mới chuyển từ nền kinh
tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, tuy có học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các
nước đi trước song không thể tránh được hết những sai lầm của các bước đi ban đầu.
Hoạt động trong cơ chế thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi này chứa
đựng nhiều rủi ro tất yếu không tránh khỏi có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá
sản dẫn đến tình trạng NQH đối với ngân hàng.
- Quy định phát triển của nền kinh tế mang tính chu kỳ: Lúc thịnh vượng kinh tế phát
triển mạnh, doanh nghiệp sẵn sàng có khả năng chi trả. Lúc suy thoái thậm chí không
trả được nợ quá hạn, gây ra tình trạng nợ quá hạn
- Sự điều khiển của bàn tay vô hình: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì quy luật
cạnh tranh diễn ra hết sức quyết liệt cộng với những thay đổi thường xuyên về nhu cầu
và thị hiếu của người tiêu dùng làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn
ra hết sức khó khăn, có thể dẫn đến sự đình đốn, phá sản của doanh nghiệp làm ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
- Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, cơ chế chính sách thường xuyên thay đổi, hệ
thống pháp luật không đồng bộ: Đây là vấn đề tất yếu của một đất nước đang trong
quá trình kiến thiết và phát triển. Tuy nhiên điều này đôi khi cũng làm ảnh hưởng tới
hoạt động của ngân hàng.
- Sự biến động kinh tế chính trị trong khu vực và thế giới càng làm tăng hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh quy trình hội
nhập hôm nay. Đồng thời sự biến động ấy có thể dẫn đến sự thay đổi chính sách, làm
ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản tín dụng.
- Thiên tai địch hoạ là rủi ro bất khả kháng của ngân hàngvà khách hàng khi thực hiện
một hợp đồng vay. Khi rủi ro xảy ra có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng. Nếu rủi ro xảy ra lớn đòi hỏi phải có thời gian ổn định hoạt
động sản xuất kinh doanh mới có khả năng trả nợ thậm chí mới khắc phục được.
b)Nguyên nhân chủ quan:
*Từ phía khách hàng:
Trang 9
- Kinh doanh thua lỗ do trình độ, năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp còn
yếu kém. Nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh quá nhiều mặt hàng, vay vốn mở
rộng sản xuất kinh doanh vượt khả năng quản lý dẫn đến ứ đọng hàng hoá, kinh doanh
thua lỗ, vốn bị thất thoát. Ngoài ra việc thẩm định dự án đầu tư không đúng cũng dẫn
đến tình trạng thua lỗ, nợ không trả được.
- Sử dụng vốn sai mục đích xin vay đã nêu trong phương án vay vốn và trong hợp
đồng tín dụng đã ký kết giữa ngân hàng và khách hàng. Nhiều khách hàng dùng tiền
ngân hàng quay vốn không đúng đối tượng kinh doanh hoặc xử lý vốn vay ngắn hạn
để đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản nên đã không trả nợ được
đúng hạn
- Lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng: Một số khách hàng sau khi vay vốn của
ngân hàng đã sử dụng nguồn vốn đó vào mục đích phi sản xuất kinh doanh thậm chí
còn sử dụng cho những mục đích trái pháp luật. Hơn nữa, một số khách hàng cố tình
chây ì không thực hiện những cam kết trong hợp đồng tín dụng. Do vậy đã phát sinh
nợ quá hạn.
- Đối tác của khách hàng không trả được nợ: trong nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp muốn phát triển được phải không ngừng mở rộng bạn hàng.
*Từ phía ngân hàng:
- Trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn hạn chế: khi thẩm định dự án cho vay
vốn, cán bộ tín dụng yếu về nghiệp vụ, khả năng phân tích các báo cáo tài chính kém
kết hợp với việc thiếu thông tin về khách hàng nên chưa đánh giá được đầy đủ về tính
khả quan của dự án
- Việc chấp hành các nguyên tắc, thể lệ tín dụng quy trình xét duyệt chưa nghiêm túc.
Các cán bộ tín dụng không xem xét kĩ hồ sơ và điều tra kĩ về khách hàng cũng như
việc đánh giá sai lệch về giá trị tài sản thế chấp đã làm cho nguy cơ nợ quá hạn của
ngân hàng tăng cao.
- Kiểm tra, giám sát vốn vay chưa chặt chẽ: Theo quy định tại khoản 1QĐ1627 thì tổ
chức tín dụng có trách nhiệm giám sát quá trình vay vốn và trả nợ của khách hàng.
Trách nhiệm này thường gắn với cán bộ tín dụng trực tiếp thẩm định việc cho vay.
- Định kỳ trả nợ chưa thích hợp với vòng luân chuyển vốn: kỳ hạn trả nợ được hiểu là
một khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa tổ chức tín dụng
Trang 10
và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần
hoặc toàn bộ tiền vay cho tổ chức tín dụng. Do vậy, kỳ hạn trả nợ phải được phải xác
định dựa trên chu kỳ sản xuất, kế hoạch bán hàng và doanh thu.
- Tư tưởng chạy theo thành tích, tăng dư nợ một cách không căn cứ vượt lên trên nhu
cầu phát triển kinh tế và nhu cầu vốn cần thiết hợp lý của doanh nghiệp và cả khả
năng quản lý hiện có của các doanh nghiệp.
4- Ảnh hưởng của nợ quá hạn
Nợ quá hạn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của một ngân hàng và. Tuy nhiên ảnh
hưởng của nợ quá hạn không chỉ dừng lại trong phạm vi ngân hàng. Sở dĩ người ta
phải quan tâm nhiều đến vấn đề nợ quá hạn của ngân hàng bởi nó có ảnh hưởng sâu
rộng tới các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Sau đây ta sẽ ngiên cứu ảnh hưởng của
nợ quá hạn:
*Ảnh hưởng của nợ quá hạn đối với nền kinh tế:
- Sức ép lạm phát: NQH ở mức độ cao sẽ dẫn đến sự khan hiếm vốn một cách giả tạo.
Một khối lượng vốn tồn đọng trong các khoản nợ quá hạn dẫn đến tiền trong lưu thông
giảm sút gây sức ép tăng cùng tiền mà hậu quả là lạm phát.
- Đình chỉ sản xuất: NQH còn ảnh hưởng đến việc lưu thông tín dụng khiến vốn ùn tắc
không đến được nơi cần vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, gây đình
đốn ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế.
-Khủng hoảng hệ thống tài chính ngân hàng, khủng hoảng kinh tế: ngân hàng là kênh
chủ yếu thực hiện huy động và cho vay phát triển kinh tế. Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh tế mang tính dây truyền. Tỷ lệ NQH cao nếu không kịp thời có biện
pháp xử lý sẽ gây thua lỗ cho ngân hàng. Hoạt động huy động vốn cho vay, đầu tư do
vậy bị thu hẹp ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời trực
tiếp làm khủng hoảng hệ thống tài chính ngân hàng và khủng hoảng kinh tế xã hội.
*Ảnh hưởng đối với ngân hàng:
- Giảm hiệu quả sử dụng vốn: NQH phát sinh đồng nghĩa với việc một phần vốn kinh
doanh của ngân hàng bị tồn đọng trong các khoản nợ này. Việc tồn đọng này làm cho
ngân hàng mất đi cơ hội làm ăn khác mà có thể đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Nó
làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng. Nói cách khác NQH phát sinh đã làm giảm
doanh số cho vay của ngân hàng từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Trang 11
- Giảm lợi nhuận: thu nhập của ngân hàng chủ yếu phát sinh từ hoạt động cho vay của
ngân hàng. Đồng thời nguồn vốn của ngân hàng cũng chủ yếu từ nguồn huy động phải
trả chi phí huy động vốn. Do vậy, khoản vay không thu được dẫn đến một bộ phận tài
sản của ngân hàng bị đóng băng làm giảm thu nhập mà vẫn phải trả chi phí huy động
vốn. Kết quả là làm lợi nhuận của doanh nghiệp giảm.
- Giảm khả năng thanh toán: các khoản NQH phát sinh làm thay đổi kế hoạch cũng
như nguồn thanh toán các khoản tiền đến hạn. Hơn nữa, tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
cao sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Nếu khách hàng
nắm bắt được dấu hiệu này sẽ ồ ạt đến rút tiền và ngân hàng gặp khó khăn trong huy
động vốn càng làm trầm trọng thêm tình trạng này.
- Giảm uy tín của ngân hàng: do hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng tiền của người
khác nên khi tỷ lệ NQH của ngân hàng cao tức là chất lượng tín dụng của ngân hàng
càng thấp có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng, sẽ làm cho khách
hàng không còn tin tưởng vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng dẫn đến
việc làm giảm đáng kể các quan hệ giao dịch của ngân hàng
- Nguy cơ phá sản: đây là ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của NQH đối với hoạt động
ngân hàng. Nếu NQH ở mức cao không sớm được hạn chế sẽ dẫn tới hàng loạt các
ảnh hưởng xấu như đã kể trên và cuối cùng là sự phá sản của ngân hàng.
*Ảnh hưởng đối với khách hàng:
- Giảm tốc độ chu chuyển vốn : trong nền kinh tế hiện đại, hầu hết các hoạt động thanh
toán giao dịch của khách hàng đều được thực hiện thông qua ngân hàng và hoạt động
kinh doanh của khách hàng cũng chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng. Do vậy, tình
trạng Nợ quá hạn dây dưa khó đòi của khách hàng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến
quan hệ của khách hàng với ngân hàng, làm giảm tốc độ chu chuyển vốn của khách
hàng.
- Tăng chi phí hoạt động: Lãi suất ngân hàng được quy định cao hơn mức lãi suất trần.
Như vậy nếu một doanh nghiệp phát sinh NQH sẽ làm tăng Chi phí hoạt động lên và
càng làm tăng gánh nặng trả nợ ngân hàng.
- Giảm uy tín: Việc phát sinh NQH sẽ làm khách hàng bị mất uy tín đối với ngân hàng.
Vậy mà trong hoạt động của mình, khách hàng có rất nhiều mối quan hệ với ngân
hàng. NQH phát sinh là vật cản lớn gây ra khó khăn cho khách hàng trong quan hệ với
Trang 12
ngân hàng. Sẽ không có một ngân hàng nào muốn duy trì quan hệ lâu dài với doanh
nghiệp có tỷ lệ nợ quá hạn cao bởi đây chính là tín hiệu nói lên hoạt động kém hiệu
quả doanh nghiệp.
5-Các dấu hiệu của khoản nợ có vấn đề:
Có nhiều dấu hiệu của khoản nợ có vấn đề, nhưng không có một mô hình nhất định
nào về khoản nợ có vấn đề. Dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng mà người ta đúc
kết được một số dấu hiệu sau:
- Trì hoãn nộp các báo cáo tài chính: Bằng việc phân tích các báo cáo tài chính, cán
bộ tín dụng có thể tìm ra những dấu hiệu cơ bản của tình hình kinh doanh kém hiệu
quả của doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp thường cố gắng tìm cách trì hoãn nộp
các báo cáo tài chính
- Quan hệ với ngân hàng giảm: khách hàng có thái độ trì hoãn, lưỡng lự khi đưa cán
bộ tín dụng xuống thăm cơ sở sản xuất kinh doanh.
- Gia tăng bất thường hàng hóa tồn kho, khoản nợ thương mại, khoản nợ phải thu:
điều này nói lên hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra tiêu thụ chậm và phải cho nợ
nhiều. Tình trạng này thường xuất hiện khi hàng hoá của doanh nghiệp bị giảm sút về
chất lượng hoặc không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng gây ứ đọng hàng hoá làm
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hoãn trả lãi vay ngân hàng chậm hơn thoả thuận đã quy định: Điều nói lên khả
năng thanh toán giảm hoặc có sự chây ỳ của doanh nghiệp đối với việc thanh toán cho
các ngân hàng.
- Thiên tai địch hoạ xảy ra ở mức độ nghiêm trọng: cũng là một dấu hiệu cho thấy
khách hàng sẽ bị ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đòi hỏi
có thời gian để phục hồi, thậm chí không phục hồi được nếu không có sự giúp đỡ của
nhà nước.
6 - Các biện pháp phòng ngừa phát sinh Nợ quá hạn:
Các ngân hàng thương mại hiện nay rất quan tâm đến các biện pháp phòng ngừa có
thể áp dụng để hạn chế những thiệt hại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình:
*Đối với các khoản cho vay mới cần:
- Nghiên cứu khách hàng:
Trang 13
Tìm hiểu nắm bắt khách hàng là một trong những yếu tố tạo nên thành công của ngân
hàng. Vì vậy trước khi thiết lập quan hệ tín dụng, ngân hàng phải nghiên cứu rõ về
khách hàng của mình. Trên cơ sở đó ngân hàng đánh giá khả năng chi trả của khách
hàng.
- Thiết lập hệ thống thông tin khách hàng:
Đây là một công cụ đắc lực giúp cho cả ngân hàng và khách hàng cùng phát triển.
Họat động tín dụng của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động khách hàng.
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển không thể thiếu ngân hàng. Ngân hàng là nhà
quản lý ngân quỹ giúp các doanh nghiệp, cung cấp các khoản tín dụng cho doanh
nghiệp hoạt động vào những thời điểm khó khăn và thực hiện dịch vụ thanh tóan giữa
các doanh nghiệp. Đồng thời, sự phát triển của các doanh nghiệp có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của ngân hàng. Với dịch vụ này, ngân hàng có thể tạo ra một thị
trường mới, tăng thêm lợi nhuận đồng thời giảm được rủi ro.
- Phân tán rủi ro:
Để tránh được rủi ro, ngân hàng cần đa dạng hoá đối với tượng cho vay, tránh chỉ dồn
vốn vào một số ngành nghề nhất định trong nền kinh tế, thực hiện đồng tài trợ với các
khoản vay lớn mà ngân hàng không thể kiểm soát nổi. Ngoài ra ngân hàng có thể tham
gia bảo hiểm để tránh rủi ro.
- Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng:
Đội ngũ cán bộ tín dụng là đội ngũ có quan hệ trực tiếp với khách hàng, trực tiếp làm
công tác thẩm định khách hàng. Do vậy trình độ của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng
khá quan trọng đến chất lượng của các khoản vay.
*Đối với khoản nợ có dầu hiệu xấu:
- Tăng cường tư vấn cho khách hàng:
Trong trường hợp khách hàng gặp khó khăn trong kinh doanh, ngân hàng có thể tư
vấn cho doanh nghiệp hướng giải quyết, từng bước củng cố thu nhập tạo nguồn thu trả
ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng có thể giúp khách hàng phân tích tài chính và dự đoán
xu hướng phát triển, thậm chí mời chuyên gia để cho lời khuyên tư vấn
- Khuyến khích người vay hợp nhất với người khá:
Trang 14
Để tăng năng lực tài chính giúp cho việc phục hồi sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên
điều này chỉ được đề nghị sau khi nghiên cứu và định giá cẩn thận tốt các yếu tố có
ảnh hưởng.
- Yêu cầu giảm bớt kế hoạch mở rộng:
Nếu khách hàng đang có kế hoạch mở rộng thì ngân hàng nên khuyến khích người
vay loại bỏ ý định đó cho đến khi cải thiện tình hình tài chính do những kế hoạch có
thể chiếm vốn từ hoạt đồng sản xuất kinh doanh.
- Khuyến khích thu hồi các khoản phải thu chậm trả :
Điều này có thể thực hiện bằng việc thúc đẩy một sự gia tăng trong chương trình thu
ngân hoặc thêm nhân sự chuyên về lĩnh vực này. Nó cũng có thể bao gồm một sự
kiểm tra chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
- Nhận thêm vật thế chấp:
Mặc dù người vay có thể nghi ngờ về biện pháp này nhưng nó có thể có lợi ích cho cả
2 bên. Ngân hàng ít muốn đòi nợ và quả thực có thể ở vào vị trí tốt hơn để xếp loại
khoản vay dễ trả nợ hơn. Dĩ nhiên nó cũng sẽ có lợi cho ngân hàng vì tình hình tài
chính của nó sẽ được tăng lên.
- Cơ cấu lại khoản nợ: Ngân hàng có thể cơ cấu lại khoản cho vay bằng việc kéo dài
kỳ hạn và rút bớt mức chi trả hàng tháng hay thậm chí huỷ bỏ sự trả vốn gốc trong
một thời gian. Ngân hàng cũng có thể giới thiệu một người cho vay dài hạn hơn hay
cộng tác với một người cho vay khác và như vậy giảm bớt rủi ro.
7- Xử lý nợ quá hạn:
Bất kỳ một ngân hàng nào dù có áp dụng biện pháp phòng ngừa tốt thì cũng không thể
tránh khỏi tình trạng nợ quá hạn của cáckhoản vay. Do vậy để hạn chế nợ quá hạn thì
ngoài việc phòng ngừa cần có những biện pháp xử lý đối với các khoản nợ quá hạn
phát sinh
7.1 Căn cứ lựa chọn các xử lý
Việc quyết định lựa chọn giải pháp xử lí NQH nào thường bị chi phối bởi quan điểm
về “đạo đức tín dụng” và chiến lược kinh doanh, chiến lược khách hàng của người
điều hành ngân hàng thương mại, trong đó phải kể đến các yếu tố chính sau:
- Tình hình thu ngân và tổn thất có thể xảy ra đối với các khoản vay.
- Sự thật thà và thái độ của người vay đối với các khoản nợ
Trang 15
- Sức mạnh tài chính và khả năng chi trả của người vay
- Thái độ của các chủ nợ khác của khách hàng
7.2- Các biện pháp xử lý chủ yếu:
a.Biện pháp khai thác:
Khi người vay ngân hàng gặp khó khăn về tài chính, ngân hàng có thể và thường tham
gia tổ chức khai thác, dĩ nhiên phải đặt trong trường hợp người vay thật thà và thái độ
của họ đối với khoản nợ và chi trả là thoả đáng. Ngân hàng có thể thực hiện các biện
pháp sau:
- Ngân hàng có những lời khuyên để giúp người vay tạo nguồn thu trả nợ cho ngân
hàng. Bằng kinh nghiệm và sự am hiểu của mình trên nhiều lĩnh vực, ngân hàng sẽ có
những lời khuyên để giúp người vay khôi phục tình hình kinh doanh
- Gia hạn nợ: Một khi khàch hàng đã gặp phải khó khăn trong việc trả nợ gốc thì phần
lãi càng khó có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Vì vậy chế tài chuyển nợ quá hạn
với lãi suất cao càng làm khó khăn thêm cho khách hàng. Trong trường hợp này, ngân
hàng phải tiến hành điều tra, xác minh xem nguyên nhân chính do đâu và thái độ của
người vay như thế nào? Nếu do các nguyên nhân: thua lỗ do giá cả thị trường biến
động mạnh ngoài dự kiến, sản lượng và doanh thu đạt thấp, thiên tai địch hoạ….thì
món vay cần phải xem xét ra hạn.
- Điều chỉnh kỳ hạn nợ: Đối với các khoản vay mà ngân hàng định kì trả nợ không
đúng chu kỳ kinh doanh, cho vay ngắn hạn các đối tượng trung và dài hạn thì ngân
hàng nên xem xét điều chỉnh kỳ hạn nợ cho phù hợp để tạo điều kiện cho khách hàng
có thể trả nợ đúng hạn.
- Cấp phát thêm vốn để “nuôi nợ”: trong những giai đoạn khó khăn, một số khách
hàng không những không trả được nợ đáo hạn, xin gia hạn nợ mà còn có nhu cầu vay
thêm vốn để giải quyết khó khăn tài chính tạm thời như: sản phẩm chưa tiêu thụ được
nhưng vẫn phải tiếp tục mua vật tư, trả lương công nhân để duy trì sản xuất bình
thường, khắc phục sự cố kĩ thuật…. Trong những trường hợp như vậy các ngân hàng
thương mại cần phân tích, cân nhắc thận trọng để tíêp thêm “sinh khí” cho khách hàng.
- Ngân hàng cần nắm giữ phần chủ động, thậm chí điều hành hoạt động kinh doanh
đến khi đảm bảo rằng khoản vay sẽ được chi trả: Điều này được thực hiện khi giám
Trang 16
đốc đương nhiệm không có khả năng, có bằng chứng về tính gian dối, và phương pháp
này có vẻ là giải pháp hợp lý cho một tình huống xấu.
- Chuyển tín dụng ngân hàng thành vốn cổ phần của doanh nghiệp: Đây là biện pháp :
Với uy tín, kinh nghiệm của mình sự góp mặt của ngân hàng với tư cách là cổ đông
của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp.
b. Biện pháp thanh lý:
Các biện pháp thanh lý thường được áp dụng:
- Ngân hàng thuyết phục doanh nghiệp tự bán tài sản thế chấp: Đây là một cách giải
quyết có lợi cho khách hàng và ngân hàng. Việc khách hàng tự bán tài sản thường
được đánh giá cao hơn là buộc phải phát mại, đồng thời tránh cho khách hàng khỏi bị
giảm uy tín trên thương trường. Mặt khác ngân hàng cũng tránh được chi phí phát mại
và thủ tục pháp lý gắn với sở hữu và phát mại tài sản tài chính.
- Ngân hàng bán tài sản tài chính để thu nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng: Đây là
cách giải quyết không dễ dàng bởi đây không phải là nhiệm vụ của ngân hàng. Hơn
nữa việc bán tài sản tài chính để thu nợ, doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản tài chính
làm tài sản sở hữu của mình làm trụ sở, bán trả góp cho cán bộ công nhân viên…theo
hợp đồng bán có điều kiện
- Gán nợ: Trong trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ, không có nguồn
thu nhập nào khác và có uỷ quyền cho ngân hàng toàn quyền đinh đoạt trong việc bán
tài sản tài chính để thu hồi nợ..
- Sử dụng biện pháp lý để thu hồi nợ vay: Ngân hàng có thể nhờ công an địa phương
thúc ép trả nợ hoặc khởi kịên ra toà. Đây là biện pháp mà các ngân hàng đều không
muốn áp dụng vì nó rất phức tạp, thủ tục lại rườm rà và mất nhiều thời gian.
-Thành lập uỷ ban chủ nợ: Nếu ngân hàng là một trong số các chủ nợ của khách hàng
và chủ nợ nào cũng muốn lấy lại tiền và tất cả các chủ nợ đều có thứ tự ưu tiên trả nợ
như nhau thì một uỷ ban trả nợ có thể được thành lập. Sau đó uỷ ban này bán số tài
sản của doanh nghiệp và chia số tiền thu được cho các chủ nợ khác nhau. Trong
trường hợp các chủ nợ không thoả thuận được với nhau thì lại cần đến sự phán xử của
người khác.
Trang 17
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG NỢ QUÁ HẠN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I)Giới thiệu về NHNo &PTNTTP Hà Nội:
1.Sự hình thành và phát triển:
Tháng 3/1998,hệ thống ngân hàng Việt Nam có sự chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng
một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, Ngân hàng nông nghiệp thành phố Hà Nội
(NHNoHN) được thành lập trên cơ sở tách chuyển từ NHNN tại thành phố Hà Nội và
12 huyện ngoại thành, ra đời sau nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/3/1988 và hai
pháp lệnh 1990/NHNN có hiệu lực. Đây là một ngân hàng thương mại quốc doanh, là
ngân hàng thành viên và hạch toán phụ thuộc của NHNoVN hoạt động trên địa bàn Hà
Nội.
Tháng 9/1991,quốc hội khoá IX đã phân định lại địa giới hành chính các tỉnh- thành
phố,huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội được tách chuyển về các tỉnh khác nên qui
mô và phạm vi hoạt động của NHNoHN bị thu hẹp. Đứng trước tình hình đó kết hợp
với định hướng mở rộng mạng lưới kinh doanh,NHNNo đã chuyển hướng kinh doanh
tập trung khai thác địa bàn nội thành Hà Nội bằng cách thành lập thêm 8 ngân hàng
quận nội thành nhằm khai thác hết nguồn vốn còn đang nhàn rỗi trong dân cư, cho vay,
cung cấp cac dịch vụ phát triển kinh tế thủ đô đồng thời làm nhiệm vụ của ngân hàng
phục vụ người nghèo trên địa bàn theo mô hình ngân hàng phục vụ người nghèo.
Với tên gọi: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội.
Tên giao dịch quốc tế: The branch for Agriculture and Rural Development Bank of Ha
Noi.
Trụ sở đặt tại: Số 77-Lạc Trung-Hai Bà Trưng-Hà Nội
NHNoHN là ngân hàng cấp thành phố, có địa bàn hoạt động rộng.Hà Nội là trung tâm
kinh té xã hội của cả nước, tập trung nhiều quan hệ kinh tế buôn bán lớn, nhiều doanh
nghiệp hoạt động.Do vậy hoạt động của NHNoHN tuân theo luật ngân hàng.Các hoạt
động chủ yếu của NHNoHN:
- Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng đồng Việt nam và ngoại tệ cho mọi
thành phần kinh tế.
Trang 18
- Cho vay uỷ thác theo các chương trình của chính phủ trong và ngoài nước
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước, mua bán ngoại tệ,tài
trợ ngoại thương,bảo lãnh và tái bảo lãnh.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán chuyển tiền nhanh qua mạng vi tính trong phạm vi toàn
quốc và qua hệ thống mạng Swift trên toàn thế giới.
- Thực hiện dịch vụ chi trả kiều hối,giao nhận tiền tận nơi cho đơn vị,thu,chi ngân
phiếu,tiền mặt và thực hiện các nghiệp vụ khác.
2.Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố
HN
2. 1 Về cơ cấu tổ chức bộ máy
Hiện nay ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố HN có chi nhánh
trên 7 quận của thành phố Hà Nội và một ngân hàng khu vực (khu vực Tam Chinh).
Dưới chi nhánh quận có quỹ tiết kiệm (hiện có 20 quỹ) Tại trụ sở chính tính đến ngày
31/12/02 có 297 cán bộ gồm một giám đốc và hai phó giám đốc và gồm các phòng
ban sau:
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lí
Phòng
Hành
chính
Phòng
Kế
toán
Phòng
Vi
tính
Phòng
Kế
hoạch
Phòng
Kinh
doanh
Phòng
Tổchứccán bộ
Phòng
Kiểmtra,kiểmsoát
Phòng
Thanh traquốctế
Phòng
Ngân
quỹ
Các
Chinhánhcấphai
PHÓ GIÁM ĐỐC I PHÓ GIÁM ĐỐC II
GIÁM ĐỐC
Trang 19
2. 2 Chức năng , nhiệm vụ của các phòng ban
Banh lãnh đạo: gồm 1 Giám đốc và 2 Phó giám đốc. Giám đốc là người trực tiếp
điều hành mọi hoạt động của Ngân hàng, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Tổng
giám đốc NHN0&PTNT Việt Nam. Quyền và nghĩa vụ của Giám đốc được thể
hiện trong quyết định 169/QĐ/HĐQUá TRìNH của Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam. Giúp việc cho Giám đốc là các Phó Giám đốc trong chỉ đạo điều hành, tham
gia chỉ đạo một số nghiệp vụ do Giám đốc phân công và thay mặt Giám đốc khi
được uỷ quyền.
Phòng Kế hoạch: Đây là phòng có vai trò rất quan trọng trong việc nghiên cứu
xây dựng các kế hoạch, hỗ trợ đắc lực cho ban lãnh đạo Ngân hàng trong việc ra
các quyết định kinh doanh chiến lược của Ngân hàng Nhiệm vụ phòng ban:
- Nghiên cứu và đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
- Xây dựng kế hoạch kinh doanh theo định hướng kinh doanh của Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam.
- Tổng hợp, theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh và quyết toán kế hoạch đến
các chi nhánh NHN0&PTNT trên địa bàn này, xây dựng các báo cáo trình giám
đốc.
- Cân đối nguồn vốn, sử dụng nguồn vốn và điều hoà vốn kinh doanh đối với chi
nhánh NHN0&PTNT trên địa bàn.
- Làm đầu mối thực hiện thông tin phòng ngừa rủi ro và xử lý thông tin tín dụng.
Phòng kinh doanh: Phòng kinh doanh thông qua các nghiệp vụ chuyên môn là
cho vay và đầu tư, tiến hành.
- Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng và đề xuất
các chính sách ưu đãi tín dụng đối với khách hàng.
Trang 20
- Thẩm định và cho vay theo cấp uỷ quyền nhằm mở rộng hoạt động, đảm bảo an
toàn và hiệu quả.
- Tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong và ngoài
nước, trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn thuộc Chính Phủ, bộ, ngành và các
cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
- Tổng hợp, báo cáo định kỳ và thường xuyên theo dõi, tư vấn cho Giám đốc về
những lĩnh vực do phòng phụ trách.
Phòng thanh toán quốc tế:
- Thực hiện công tác thanh toán ngoài nước của chi nhánh, nghiên cứu xây dựng
và áp dụng các kỹ thuật thanh toán hiện đại.
- Phòng chuyên thực hiện những nghiệp vụ: thanh toán xuất nhập khẩu, mở L/C,
chuyển tiền nước ngoài cho các cá nhân và các Doanh nghiệp, thanh toán nhờ thu,
thanh toán biên mậu với các nước có chung biên giới, thanh toán quốc tế thông qua
mạng SWIFT và cho vay tài trợ xuất nhập khẩu…
- Tạo điều kiện cho việc thanh toán nhanh nhất, chính xác kịp thời đáp ứng nhu
cầu của khách hàng.
- áp dụng công nghệ thanh toán hiện đại
Phòng kế toán có nhiệm vụ:
- Ghi chép thống kê các giao dịch, hạch toán kế toán, thanh toán.
- Lập các báo cáo, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch
thu, chi tài chính.
- Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo
theo quy định.
Trang 21
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong nước, bao gồm các bộ phận thanh toán qua
Ngân hàng bằng nội tệ, thanh toán bù trừ, thanh toán liên ngân hàng.
- Quản lý và sử dụng các thiết bị thông tin, điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh
doanh theo quy định chung.
Phòng ngân quỹ có nhiệm vụ:
- Chuyển tiền theo lệnh của các phòng ban khác cho khách hàng, lưu tiền mặt
trong kho để đáp ứng nhu cầu chi trả, cho vay đối với khách hàng của Ngân hàng.
- Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của Ngân hàng Nông
nghiệp Việt Nam.
- Chấp hành các quy định về an toàn kho quỹ và định mức kho theo quy định.
Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo: được tách ra từ phòng hành chính nhân sự (cũ)
do yêu cầu thay đổi cho phù hợp với thực tế kinh doanh tại Ngân hàng .
Nhiệm vụ của phòng:
- Xây dựng quy định lề lối làm việc trong đơn vị và mối quan hệ với tổ chức Đảng,
Công đoàn, chi nhánh trực thuộc địa bàn.
- Đề xuất mở rộng mạng lưới kinh doanh trên đại bàn.
- Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ , quản lý hồ sơ cán bộ, và các phong trào
thi đua khen thưởng.
- Đề xuất bổ nhiệm, miễm nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các cán bộ trong phạm vi
quyền hạn của mình.
- Tổ chức liên hệ các khoá đào tạo cán bộ, đề cử cán bộ đi học trong và ngoài nước.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao.
Trang 22
Phòng hành chính: nằm trong bộ máy giúp việc cho Giám đốc và phục vụ cho
các phòng nghiệp vụ trong quá trình hoạt động kinh doanh, chịu sự lãnh đạo trực
tiếp của Giám đốc NHN0&PTNT Hà Nội. Phòng được hình thành ngay từ khi
NHN0&PTNT Hà Nội đi vào hoạt động và đã có những đóng góp quan trọng trong
việc trợ giúp ban lãnh đạo ra các quyết định đúng đắn kịp thời phục vụ cho hoạt
động kinh doanh.
- Xây dựng chương trình công tác bán hàng, hàng quý và đôn đocó các phòng ban
thực hiện theo chương trình đã được giám đốc phê duyệt.
- Lưu trữ các văn bản pháp luật có liên quan đến ngân hàng và văn bản định chế
của Ngân hàng Nông nghiệp.
- Trực tiếp quản lý con dấu của chi nhánh. Thực hiện công tác văn thư, phương
tiện giao thông, bảo vệ, xây dựng cơ bản, mua sắm văn phòng phẩm…
- Thực hiện công tác thông tin tuyên truyền, quảng cáo tiếp thị theo chỉ thị của Ban
lãnh đạo.
- Chăm lo đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong
ngân hàng.
- Chăm lo đời sống vật chất, văn hoá tình thần cho các cán bộ công nhân viên
trong ngân hàng.
Phòng vi tính: được thành lập vào tháng 12 năm 2001 xuất phát từ yêu cầu hội
nhập, và nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ trong ngân hàng.
Nhiệm vụ của phòng:
- Tổng hợp thống kê và lưu trữ số liệu thông tin liên quan đến hoạt động của chi
nhánh.
Trang 23
- Xử lý các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hạch toán kế toán, kế toán thống kê,
hạch toán nghiệp vụ và tín dụng các hoạt động khác phục vụ cho hoạt động kinh
doanh.
- Chấp hành chế độ báo cáo, thống kê và cung cấp số liệu thông tin cho quy định.
- Quản lý, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc thiết bị tin học.
- Làm dịch vụ tin học.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao.
Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ có nhiệm vụ:
- Kiểm tra công tác điều hành của chi nhánh và các đơn vị trực thuộc trên địa bàn.
- Kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy trình nghiệp vụ kinh doanh, độ chính xác
của báo cáo tài chính và việc tuân thủ các nguyên tắc chế độ về tài chính kế toán
theo quy định của Nhà nước và ngành ngân hàng.
- Thực hiện giám sát việc chấp hành các quy định của Ngân hàng Nhà nước nước
đảm bảo an toàn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
Đồng thời cáo cáo và đề xuất các biện pháp xử lý khắc phục lên giám đốc chi
nhánh.
Phòng kiểm tra, kiểm soát làm việc tại NHN0&PTNT Hà Nội song là một bộ phận
đôc lập.
Ngoài ra trung tâm còn trực tiếp điều hành một mạng lưới chi nhánh gồm 7 chi
nhánh cấp quận (Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Tây
Hồ, Thanh Xuân), 3 chi nhánh ngân hàng khu vực (gồm: Tràng Tiền, Chương
Dương, Tam Trinh) cùng với các phòng giao dịch, quầy tiết kiệm trên toàn thành
phố.
Trang 24
2.3 Tình hình kinh doanh của ngân hàng:
2.3.1 Tình hình vốn và nguồn vốn của ngân hàng
Trong những năm qua, bằng nhiều hình thức phong phú như tiến phong phú, nên
nguồn vốn huy động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố
HN không ngừng tăng lên khách hàng. Đến nay mạng lưới khách hàng đã được mở
rộng, đến hầu hết các quận trong thành phố.
Đến ngày 31/12/02 tổng nguồn vốn ngân hàng đã huy động được là 2.322.760 triệu
đồng, tăng 24% so với năm 2001
Bảng số 1:Tìnhhìnhhuy độngvốn củangânhàngqua2năm2001, 2002như sau:
(Đơn
vị :triệu đồng)
Chỉ tiêu 2000 2001 2002
I. Tiền gửi của khách hàng 1.392.564 1.439.512 1.392.443
1. Tiền gửi có kì hạn
2.Tiền gửi không kì hạn
607.539
785.025
861.448
578.072
784.905
607.539
II.Tiền gửi của các TCTD trong
nước:
1.022.125 1.486.602 1.502.101
III.Kỳ phiếu 930.317 1.142.269 1.100.321
Tổng số 3.345.066 4.068.383 3.994.865
Qua số liệu đã cho ta thấy nguồn vốn của ngân hàng tăng lên với diễn biến tốt. Tuy
ngân hàng có nhiều phương thức huy động vốn khác nhau nhưng chủ yêú vẫn là nhận
tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và dân cư. Trong tổng nguồn vốn
huy động thì tiền gửi của khách hàng luôn chiếm tỷ lệ cao. Năm 2001 đạt giá trị
1.439.521 triệu đồng chiếm 77% tổng nguồn huy động. Đến năm 2002 là 1.392.443
triệu, chiếm 60% tổng nguồn huy động.
Tuy lượng tiền gửi của khách hàng có giảm đi về tỷ trọng song tiền gửi có kì hạn của
khách hàng lại tăng lên từ 578.072 triệu đồng năm 2001 lên 607.593 triệu đồng năm
Trang 25
2002 nguồn tiền gửi có kỳ hạn này ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn tiền gửi không
kì hạn, nhưng lại có thể sử dụng chúng cho vay với tỷ lệ lớn do có thời hạn ít biến
động hơn. Tuy nhiên đây là nguồn vốn dễ bị biến động do ảnh hưởng trực tiếp của các
yếu tố vi mô và vĩ mô như lãi suất, các quy định của chính phủ hay ngân hàng trung
ương….. Do đó ngân hàng luôn theo dõi tình hình biến động để có thể sử dụng triệt để
nguồn vốn này, đồng thời phả luôn có khoản tiền dự trữ để đề phòng rủi ro xảy ra khi
khách hàng rút tiền.
Bên cạnh đó nguồn tiền gửi không kì hạn cũng chiếm một vị trí đáng kể trong tổng
nguồn vố huy động được nhưng đang giảm xuống từ 861.488 triệu đồng, chiếm 46%
tổng nguồn vốn huy động năm 2001 xuống còn 784.037 triệu đồng, chiếm 33% tổng
nguồn vốn huy động. Nguồn tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng trả lãi suất rất thấp,
nhưng nó có đặc đIểm là không ổn định, khách hàng có thể đến rút ra bất cứ lúc nào,
do đó ngân hàng luôn phải dự trữ với một tỷ lệ lớn đề phòng khách hàng rút tiền bất
ngờ.
Ngoài ra ngân hàng có nguồn vốn huy động từ phát hành các loại kì phiếu phục vụ
thanh toán trong nền kinh tế, cũng góp phần không nhỏ vào nguồn vốn huy động và tỷ
trọng đang tăng lên từ 424.665 tiệu đồng năm 2001 lên 930.317 triệu đồng năm 2002
Có thể thấy rằng, nguồn vốn huy động được của NHNo&PTNT thành phố HN hiện
nay chủ yếu là khai thác trong dân cư. Tuy đã đạt được mục tiêu huy động nhuồn tiền
nhàn rỗi vào sản xất lưu thông song thực sự vẫn còn một nguồn tiền rất lớn trong đân
cư
2.3.2. Tài chính của ngân hàng
Song song với việc huy động vốn, việc đầu tư tín dụng cũng là một trong những mục
tiêu mũi nhọn của chi nhánh NHNo&PTNTHN. Nhờ thực hiện hiện chính sách sử
dụng vốn, chính sách khách hàng nên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đã có mức
tăng tưởng khá. Đến 31/12/02 dư nợ là 1.522.206 triệu đồng
Bảng số 2: Tình hình sử dụng vốn của ngân hàng
(Đơn vị : Triệu VNĐ)
Chỉ tiêu 2001 2002
I. Dư nợ 939.070 1.522.206
Trang 26
1.Kinh tế ngoài quốc doanh 33.256 74.660
2.Kinh tế quốc doanh 817.069 1.112.154
3. Hộ sản xuất 17.153 21.142
4.Cho vay khác 71.592 314.250
II. Quá hạn 45.915 23.380
1. Kinh tế ngoài quốc doanh 18.558 106
2.Kinh tế quốc doanh 15.636 21.239
3. Hộ sản xuất 8.305 1.068
4.Cho vay khác 3.416 967
Tổng dư nợ 984.985 1.545.586
II.Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
thành phố Hà Nội:
1.Hoạt động tín dụng và nợ quá hạn:
a)Hoạt động tín dụng:
Như đã đề cập ở trên hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng đem lại phần lớn lợi
nhuận trong hoạt động Ngân hàng. Do vậy trong định hướng hoạt động của mình
Ngân hàng No &PTNTTP Hà Nội luôn chú trọng đến công tác tín dụng tuy vậy việc
phát triển hoạt động tín dụng đòi hỏi phải cả lượng và chất.Trong diều kiện nền kinh
tế nước ta những năm qua gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng NNoHà Nội vẫn đạt được
những kết quả đáng khích lệ.
*Cơ cấu hoạt động tín dụng cho vay:
(Đơn vị:Triệu VNĐ)
Chỉ tiêu 2000 2001 2002
Mức % Mức % Mức %
Trang 27
1.Doanh số cho
vay
2.Doanh số thu nợ
3.Tổng dư nợ
*Theo thời hạn
-Ngắn hạn
-Trung & dài hạn
*Theo thành phần
kinh tế
-DNNN
-DNNQD
-Hộ sản xuất
-Cho vay khác
3034857
2561317
1295447
1132515
162932
1036922
145000
45369
68156
8
7,4
2,6
0,4
1,2
0,5
0,9
3424007
3668286
1571150
1109269
461881
126440
161149
48904
96657
7
00,6
9.4
0,5
0,3
0,1
0,2
4193540
3761945
2002709
1258545
734164
1308372
405553
127097
161687
6
2,8
7,2
5,3
0,3
0,3
0,1
(Nguồn báo cáo tín dụng các năm 2000,2001,2002)
Doanh số cho vay và doanh thu của ngân hàng No&PTNTTP Hà Nội trong năm 2001
tuy có tăng so với năm 2000 nhưng tốc độ tăng còn chưa cao phải sang đến năm 2002
thì mới phục hồi và tăng trưởng ở mức rất đáng kể. Sở dĩ tăng dần lên là do nền kinh
tế đang phục hồi do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã tác động mạnh mẽ
đến nền kinh tế Việt Nam tạo ra tâm lý lo sợ cho các nhà đầu tư nước ngoài khiến cho
họ xin rút giấy phép đầu tư làm ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành lắp máy xây dựng...
là những khách hàng đã có quan hệ với Ngân hàng, do đó trong năm 2000 quan hệ với
các khách hàng này còn quá ít, tình hình trả nợ còn gặp nhiều khó khăn. Bước sang
năm 2001 tình hình lại khó khăn hơn do nền kinh tế nước ta tăng trưởng chậm kéo
theo là giảm phát, Ngân hàng nhà nước liên tục hạ trần lãi suất cho vay làm cho tình
hình tài chính của các Ngân hàng thương mại thêm khó khăn hơn. Cạnh tranh Ngân
hàng trong năm 2000 bước sang năm 2001 gay gắt chưa từng có, các Ngân hàng
thương mại quốc doanh dư thừa vốn nên đua nhau hạ lãi suất cho vay và giành giật
khách hàng, nhất là các doanh nghiệp nhà nước lành mạnh. Điều này làm ảnh hưởng
nghiêm trọng tới hoạt động của NHNo&PTNTHà Nội. Tuy nhiên nhờ sự nỗ lực của
Trang 28
toàn bộ nhân viên trong năm 2002 Ngân hàng đã đạt được kết quả đáng khích
lệ .Trong năm 2002 doanh số cho vay của ngân hàng đã tăng 22.4% ,doanh số thu nợ
tăng 2,5 % so với năm 2001. Kết quả đạt được đấy cũng cho thấy định hướng phát
triển của NHNo &PTNTTPHN trong những năm qua là đúng đắn. Đó là duy trì khai
thác tối đa quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh lành mạnh có
các quan hệ tốt từ trước nhưng không tập trung sức cạnh tranh để lôi kéo các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh mà chưa có quan hệ. Trong khi đó lại tập trung tiếp thị để
xây dựng quan hệ với khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy nhiên xét
về mặt dư nợ thì dư nợ của Ngân hàng liên tục tăng lên trong những năm qua. Năm
2002 dư nợ tăng lên 21,3% so với năm2001 hay tăng 54,6 % so với năm 2000.
Mặt khác tỷ lệ dư nợ cho vay / tiền gửi của khách hàng cũng thường xuyên ở mức
70% (năm 2000 là 62,5%, năm 2001 là 64%, năm 2002 là 68%.) Điều này cho thấy
Ngân hàng không ở tình trạng ứ đọng vốn như hầu hết các Ngân hàng khác. Trong đó
tỷ trọng trung và dài hạn tăng lên rất nhanh từ 12,6% năm 2000 lên 29,4% năm 2001
và tăng nhanh vào năm 2002 là 37,2% tổng dư nợ
Dư nợ tín dụng và doanh số thu nợ đều tăng trong đó dư nợ trung và dài hạn tăng đều
còn dư nợ ngắn hạn lại giảm. Do chủ trương của Ngân hàng trong các năm 2001 trở
về trước là mở rộng đầu tư tín dụng cho khối khách hàng là doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp liên doanh có nhu cầu chủ yếu đầu tư trung và dài hạn vào máy móc
thiết bị công nghệ và công nghệ máy móc. Tuy dư nợ ngắn hạn giảm nhưng vẫn chiếm
tỷ lệ cao do Ngân hàng chuyên cho vay cá nhân nhiều về mặt tiêu dùng đấy là do đặc
thù của Ngân hàng. Tuy nhiên trong năm 2002 ngân hàng đã có chủ trương mở rộng
cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để khai thác tối đa tiềm năng từ
khối doanh nghiệp này.
Nếu xét theo các thành phần kinh tế thì có thể thấy rõ năm 2002 Ngân hàng đã mở
rộng đối tượng cho vay tạo ra một cơ cấu cho vay hợp lý, hơn nữa góp phần làm tăng
độ phân tán rủi ro cho ngân hàng và làm cho mức dư nợ của doanh nghiệp nhà nước
ngày một tăng lên từ 80% tổng dư nợ năm 2000 lên 80,5% năm 2001 hay tăng 227518
triệu VND và doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng tăng đáng kể. Tuy nhiên quan hệ
của ngân hàng với các doanh nghiệp tư nhân và hộ sản xuất còn chưa được mở rộng
Trang 29
lắm do độ rủi ro ẩn chứa cao nhưng cũng là một vấn đề mà Ngân hàng cần có biện
pháp để tạo ra một cơ cấu cho vay hợp lý hơn.
Tóm lại có thể thấy nổi bật lên trong quan hệ tín dụng của NHNo & PTNTTP Hà Nội
với khách hàng là quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng cũng đang
dần dần từng bước mở rộng quan hệ cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.
b)Tình hình nợ quá hạn:
Như các nhà quản lý Ngân hàng thường nói, lợi nhuận tỷ lệ thuận với rủi ro lợi nhuận
cáng lớn thì rủi ro càng cao. Do đó bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được
cũng giống như các Ngân hàng khác trong những năm qua NHNo &PTNTHà Nội
cũng rơi vào tình trạng NQH cao. Điều này đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn cũng
như vòng quay của vốn làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng,Ban
lãnh đạo Ngân hàng đã có những biện pháp hợp lý để ngăn ngừa và xử lý NQH, làm
cho tỷ lệ NQH trong tổng dư nợ giảm xuống và có những biểu hiện đáng mừng.
Chúng ta xem xét bảng sau để có cái nhìn tổng quát về tình hình NQH tại NHNo
&PTNT Hà Nội:
Bảng 2: Diễn biến nợ quá hạn theo thời hạn vay
(Đơn vị :Triệu VND)
Chỉ tiêu 2000 2001
So sánh 2000 với
2001 2002
So sánh 2001 với
2002
Mức Tỉ lệ Mức Tỉ lệ
* Tổng dư nợ
- Tổng NQH
+ Tổng NQH – NH
+ Tổng NQH, trung và
dài hạn
12954
722559
13845
8714
157115
137001
5749
14365
275703
17825
11909
5651
+21,3
+79
+86
+65
2002709
56405
40377
16028
431559
16021
14628
1663
27,5
40
56,9
9,1
TổngNQH/Tổng DN 1,7% 2,5% 2,8%
(Nguồn báo cáo tổng kết các năm 2000, 2001, 2002
Trang 30
Biểu đồ: Tình hình NQH trong Tổng Dư Nợ:
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy NQH trong 3 năm 2000, 2001, 2002 đều tăng dần lên cả
về số tuyệt đối lẫn tương đối. Tổng dư nợ năn 2001 tăng 21,3% (275703 triệu) so với
năm 2000 nhưng tổng NQH lại cũng tăng lên một con số khá cao là 79%(17825 triệu).
Có thể nói cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực xảy ra năm 1998 vẫn còn ảnh hưởng
rất sâu sắc đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Kết quả còn ảnh hưởng đó là khiến cho
hoạt động tín dụng ngân hàng năm 2002 tuy có khả quan hơn năm 1999 nhưng vẫn
chưa đạt ở nức cao. Những ảnh hưởng đó còn kéo dài sang năm 2001 và đến tận đầu
năm 2002. Bước sang năm 2002, tổng dư nợ của năm 2002 tăng một cách đáng kể
1295447
22559
1671150
40384
2002709
56405
0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
2000 2001 2002
Tæng d nî
Tæng NQH
NQH-T, DH/ tæng NQH
NQH - NH/tæng NQH
71,6%
NQH-T, DH/ tæng NQH
NQH - NH/tæng NQH
61,4%38,6%
63,7%36,3%
71,6%
28,4%
Trang 31
27,5% (431559 triệu) so với năm 2001. Nhưng kéo theo đó là tổng NQH cũng tiếp tục
tăng theo 40% (16022 triệu).
Tuy nhiên thực trạng của vấn đề này là tuy NQH năm 2001, 2002 có tăng dần lên
nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các khoản vay từ những năm trước đã đáo hạn
nhưng đến năm 2001 mới hạch toán chuyển sang NQH. Thực chất NQH là nó chỉ
mang tình thời điểm chứ không phản ánh được toàn bộ hoạt động của ngân hàng.
Tuy vậy ta thấy tỉ lệ NQH tuy ngày càng tăng nhưng tỉ lệ NQH trong tổng. Dư nợ luôn
ở mức dưới 3% điều này cho ta thấy ngân hàng luôn đảm mức dư nợ an toàn tín dụng
mà ngân hàng nhà nước cho phép.
Xét một cách tổng thể có thể thấy chất lượng tín dụng của NHNo &PTNTTP Hà Nội
trong năm 2002 đã tăng lên đáng kể. Để đạt được điều đó có một phần không nhỏ của
cán bộ nhân viên tín dụng, họ đã có trách nhiệm cao, thực hiện tốt qui chế, thể lệ tín
dụng đồng thời phản ánh trình độ của cán bộ tín dụng ngày càng được nâng cao.
Đối với NHNo & PTNTTPHà Nội khách hàng có quan hệ vay mượn được phân theo
thời hạn: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Trong cơ chế thị trường Ngân hàng làm nhiệm
vụ tiếp sức cho các thành phần kinh tế có vốn hoạt động. Ngân hàng tập trung phát
triển ngày càng nhiều khoản cho vay trung và dài hạn tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn trong
tổng dư nợ của Ngân hàng lại tập trung chủ yếu vào các khoản cho vay ngắn hạn.
Điều này cho thấy rủi ro trong tín dụng Ngân hàng rất cao phần lớn nguyên nhân của
nợ quá hạn cho vay ngắn hạn cao là do thời hạn vay vốn ngắn Ngân hàng cũng như
khách hàng xác định thời gian cho vay không chính xác, thêm vào đó là việc khách
hàng làm ăn thua lỗ, do hàng hoá ứ đọng không bán được để thu vốn để trả nợ Ngân
hàng dẫn đến bị chiếm dụng vốn, vỡ nợ... cố tình chây ỳ không trả nợ Ngân hàng để
sử dụng vào mục đích kinh doanh có lợi khác. Đó cũng chính là nguyên nhân làm cho
tỷ trọng cho vay ngắn hạn của Ngân hàng ngày càng ít đi. Như vậy dự án đầu tư theo
kế hoạch dài hạn là tương đối có hiệu quả.
Mặc dù vậy tín dụng trung dài hạn do có thời gian đáo hạn dài nên chứa đựng nhiều
rủi ro tiềm ẩn. Bước vào cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt doanh nghiệp không
thể tránh khỏi những khó khăn, gặp không ít thất bại trong kinh doanh dẫn đến rủi ro
cho Ngân hàng. Do vậy tỷ lệ NQH trung và dài hạn trên tổng nợ quá hạn thấp không
Trang 32
có nghĩa là các khoản cho vay trung và dài hạn có ít rủi ro bởi các khoản vay này chưa
đến ngày đáo hạn. Điều này đỏi hỏi cán bộ tín dụng NHNo&PTNTTP Hà Nội phải
thường xuyên theo dõi các khoản cho vay để sớm phát hiện ra những dấu hiệu xấu.
*Phân loại NQH theo các thành phần kinh tế:
Bảng 3: Cơ cấu NQH theo các thành phần kinh tế:
(Đơn vị :triệu VNĐ)
Chỉ tiêu2000 2001 2002
Mức % Mức % Mức %
1.DNNN
2.DNNQD
3.Hộ sản xuất
4.Cho vay khác
18213
4100
98
148
0,7
8,2
0,4
0,7
12
6351
100
241
2,9
16,2
0,3
0,6
56
9293
103
353
2,7
6,5
0,2
0,6
Tổng 22559 00 40384 56405
Trang 33
Biểu đồ 2: Diễn biến NQH theo thành phần kinh tế:
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
50000
2000 2001 2002
Tæng d nî Tæng NQH NQH cña hé s¶n xuÊt NQH cña c¸c kho¶n cho vay kh¸c
Trang 34
Qua số liệu trên cho ta thấy nợ quá hạn của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) năm2000
là 1823 triệu chiếm 80,7% tổng NQH. Sang đến năm 2001 tiếp tục tăng lên 3351 triệu
và chiếm 82,9% tổng nợ quá hạn và năm 2002 tỉ lệ NQH cũng tăng lên là 46566 triệu
nhưng lại chỉ chiếm 82,7% Tổng nợ quá hạn.
Điều này cho ta thấy tuy nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước có tăng nhưng
không đáng kể bởi xét về mức tăng thì NQH của các DNNN có tăng cao nhưng xét về
mặt tỉ lệ thì NQH của các DNNN chỉ giao động từ 2% đến 2,2% mà thôi. Mà như ta
đã biết NQH chỉ mang tính chất thời điểm chứ không phản ánh được toàn bộ hoạt
động của ngân hàng hơn nữa không chỉ có riêng NQH tăng mà ngay cẩ tổng dư nợ của
ngân hàng và mức cho vay của ngân hàng cũng tăng lên đó là một điều tất yếu.
Hơn nữa xét trong mối tương quan với tổng dư nợ của ngân hàng thì ta thấy dư nợ của
các DNNN chiếm tỉ trọng cao nhất khoảng từ 70% đến 75% . Nếu xét tỉ lệ NQH/Tổng
dư nợ thì tỉ lệ đó lần lượt là: 2000-1,9%:năm 2001-2,7%,năm 2002-3,5%. Đây là tỉ lệ
tuy không phải thấp nhưng cũng không phải là cao so với hoạt động của ngân hàng
hơn nữa nó vẫn luôn ở dưới mức an toàn cho phép.
Sở dĩ NQH của khối DNNN ở mức khá cao như vậy là do các doanh nghiệp thường
xuyên làm an thua lỗ, kém hiệu quả. Điển hình là một số công ty: Công ty thương mại
du lịch và dịch vụ hàng không nợ 14160 triệu, công ty kinh doanh và sản xuất vật tư
hàng hoá nợ 23415 triệu, công ty thương mại lâm sản Hà Nội nợ 15552 triệu, công ty
xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vân tải nợ 8584 triệu…vv. Điều này cho
thấy ngân hàng cần cố găng hơn nữa trong việc xử lí các khoản NQH đã phát sinh và
công tác phòng ngừa NQH.
Sang đến khoản cho vay đối với các DNNQD thì các khoản NQH ở thành phần kinh
tế này luôn chỉ dao động ở mức 16-18%. Tỉ lệ NQH của DNNQD/Tổng NQH lần lượt
các năm là: 2000-18,2%, 2001-16,2%, 2002-16,5%. Trong khi đó tỉ lệ dư nợ của các
DNNQD/Tổng Dư Nợ là: 2000-10,3%, 2001-10,2%, 2002-20,3%. Như vậy tỉ lệ NQH
tỉ lệ thuận với tổng dư nợ tức tổng dư nợ càng tăng thì tỉ lệ NQH cũng tăng theo.
Ở năm 2000 tỉ lệ NQH đạt ở mức cao nhất là do thực tế các khoản cho vay đối với
các DNNQD đã đến hạn từ năm 1999 và nhiều khoản chưa trả nợ được nhưng sang
năm 2000 mới hạch toán. Sở dĩ như vậy là do trong những năm qua Doanh nghiệp
Trang 35
ngoài quốc doanh được thành lập một cách ồ ạt mở rộng quy mô song lại tách rời khả
nănng tài chính các doanh nghiệp còn quá ít vốn thậm chí còn không có vốn hoạt động
kinh doanh hay ra đời bằng vốn ảo (chủ yếu hoạt động bằng vốn vay hay vốn đi chiếm
dụng), không tự chủ được về vốn nên kinh doanh thua lỗ, đó chưa kể rủi ro đạo đức có
thể xảy ra. Cùng với sự phát triển của đất nứơc, trong những năm qua nước ta có
thêm nhiều công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn, tuy nhiên công ty cổ phần do mới
thành lập hay do chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang và đặc biệt là các công ty
trách nhiệm hữu hạn hoạt động vẫn chưa thực sự có kết quả do vậy tỷ lệ các khoản nợ
quá hạn của thành phần kinh tế này còn cao. Do vậy trước tình hình NQH của khối
doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát sinh,ngân hàng đã tiến hành nhiều biện pháp thu
hồi nợ nên cuối cùng đã đạt được những kết quả đáng mừng trong năm 2002. Điều
này chứng tỏ ngân hàng đã thấy được tiềm năng và nội lực của thành phần kinh tế này
và có xu hướng đầu tư một cách có hiệu quả.
Các khoản nợ của các hộ sản xuất và cho vay khác ở ngân hàng không chiếm tỉ trọng
cao cả về dư nợ lẫn tỉ lệ NQH. Chứng tỏ ngân hàng không chú trọng lắm đến việc mở
rộng các khoản cho vay với thành phần kinh tế này. Tuy nhiên ngân hàng cũng nên
xem xét để khai thác tiềm năng từ thành phần kinh tế này và cần nâng cao kĩ
năng,nghiệp vụ của cán bộ tín dụng để luôn hạn chế rủi ro và tỉ lệ NQH ở mức thấp
nhất có thể.
*Căn cứ vào thời gian NQH:
Trang 36
Bảng 4: Cơ cấu NQH theo thời gian quá hạn:
(Đơn vị: Triệu VND)
Chỉ tiêu2000 2001 2002
Mức Tỷ lệ % Mức Tỷ lệ % Mức tỷ lệ %
1. NQH < 180 ngày 15654 69,4 33215 82,2 45274 80,3
2. NQH từ 180 – 360 ngày 2500 11,1 3500 8,7 4852 8,6
3. NQH > 360 ngày 4405 19,5 3669 9,1 6279 11,1
Tổng 22559 100 40384 100 56405 100
(Nguồn báo cáo tổng kết các năm 2000,2001,2002)
Biểu đồ: Diễn biến NQH theo thời gian quá hạn
Qua số liệu bảng trên ta thấy NQH<180 ngày, NQH từ 180 ngày-360 ngày, NQH>360
ngày ngày càng tăng dần lên. Năm 2000 NQH<180 ngày là 15654 chiếm 69,4% thì
năm 2001 tăng lên ở mức 33215 triệu chiếm 82,2% tổng NQH. Sang năm 2002
NQH<180 tăng lên ở mức 45274 triệu nhưng chỉ chiếm 80,3% tổng NQH. NQH từ
180-360 ngày năm 2000 là 2500 triệu chiếm 11,1% tổng NQH vậy mà năm 2001 lại
tăng lên 3500 triệu nhưng lại chỉ chiếm 8,7% tổng Nợ quá hạn. Đến năm 2002 NQH
15654
25004405
33215
35003669
45274
48526279
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
50000
Trang 37
từ 180-360 ngày vẫn tăng đạt mức 4852 triệu nhưng cũng chỉ chiếm 8,6% tổng nợ quá
hạn. Và cũng như vậy các khoản NQH >360 ngày năm 2000 NQH >360 ngày là 4450
triệu chiếm tới 19,5% tổng NQH, năm 2001 NQH >360 ngày lại giảm và ở mức 3669
triệu chỉ chiếm 9,1% và sang năm 2002 NQH>360 ngày tiếp tục lại tăng ở mức 6279
triệu và chiếm 11,1 % tổng NQH như vậy nếu xét về mặt tỉ lệ thì năm 200 NQH>360
ngày vẫn chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn so với 2 năm còn lại. Nhưng nếu xét về mặt số tuyệt
đối thì tỉ lệ NQH năm 2002 lại đạt ở mức cao nhất. Sở dĩ năm 2002 NQH tăng lên đặc
biệt là NQH>360 ngày càng tăng lên khá mạnh là do các món nợ từ năm 2001 chưa
xử lí được nhiều, nhất là tỉ lệ NQH>360 ngày là khá lớn gây khó khăn cho ngân hàng
trong việc xử lí, làm ứ đọng và thậm chí có nguy cơ làm mất vốn của ngân hàng đòi
hỏi ngân hàng phải có biện pháp để xử lí.
Nói chung tỉ lệ NQH của ngân hàng tuy có tăng nhưng không đáng kể đặc biệt nếu xét
tỉ lệ NQH/Tổng dư nợ thì ta càng thấy rõ điều này và càng thấy ngân hàng hoạt động
vẫn hiệu quả. Điều này chứng tỏ ngân hàng đã tích cực áp dụng những biện pháp khác
nhau nên đã hạn chế được số NQH ở mức có thể chấp nhận được.
Căn cứ và nguyên nhân phát sinh NQH:
(nguồn cáo cáo tín dụng các năm 2000,2001,2002)
Bảng 5:Cơ cấu Nợ quá hạn theo nguyên nhân phát sinh:
Chỉ tiêu2000 2001 2002
Mức % Mức % Mức %
I.Nguyên nhân của tổ chức tín dụng 0 0 0 0 0 0
II.Nguyên nhân khách quan
1.Do bất khả kháng và cơ chế chính sách
-Do sắp lại doanh nghiệp
-Do thay đổi cơ chế chính sách
-Do chỉ định hoặc quyết định của cấp trên
22559 40384 56405
2.Do khách hàng của ngân hàng
-Do kinh doanh thua lỗ
-Do sử dụng vốnvay không đúng mục đích
-Do khách hàngvay có chủ ý lừa đảo
16234 82 25643 63,5 48480 62,8
Trang 38
-Do khách hàngbị phá sản
-Nguyên nhân khác 6325 18 1471 36,5 17925 1,8
Tổng nợ quá hạn 22559 40384 56405
Đứng từ góc độ này để phân tích NQH sẽ cho ta đánh giá kết quả công tác phòng ngừa
NQH và cũng là một cơ sở để đưa ra phương thức xử lí nợ quá hạn.
Ta có thể dễ dàng nhận thấy NQH phát sinh chủ yếu do nguyên nhân từ phía khách
hàng và chiếm tỉ trọng ngày càng tăng trong tổng NQH của ngân hàng. Nợ quá hạn
quá hạn do nguyên nhân phát sinh tứ phía khách hàng cũng đang có dấu hiệu giảm dần
dặc biệt trong năm 2001 nếu xét về tỉ trọng thì nợ quá hạn do phía khách hàng đã giảm
từ 72 % năm 2000 xuống còn 63,5% năm 2002. Sở dĩ có kết quả đó là do NQH ngân
hàng đã ngày càng nâng cao khâu thẩm định cũng như việc thực hiện các nguyên tắc
cho vay và kiểm soát sau khi cho vay. Trong 3 năm tình hình nợ quá hạn tuy ở mức
không cao lắm song không vì thế mà ngân hàng chủ quan bỏ qua các bước trong khâu
cho vay, ngân hàng luôn luôn cố gắng thực hiện tốt từ khâu thẩm định cũng như việc
thực hiện các nguyên tắc cho vay và kiểm soát sau khi vay qua đó đã có những bước
chuyển biến đáng kể. Do vậy trong 3 năm qua tất cả đều không phải do nguyên nhân
từ phía ngân hàng.
Về phía khách hàng,thông thường khách hàng không trả được nợ là do ba nguyên
nhân chính: kinh doanh thua lỗ, do sử dụng vốn sai mục đích,và do cố ý lừa đảo.
Trong năm 2000, 2001, 2002 tỷ lệ nợ quá do khách hàng làm ăn thua lỗ ngày càng
tăng điều đó cũng phần nào phản ánh được tình hình khó khăn trong kinh doanh trong
những năm gần đây của nước ta. Như ta đã biết trong cơ chế thị trường ngày nay, các
doanh nghiệp ngoài việc phải cạnh tranh với nhau, rất khốc liệt thì còn có mối liên hệ
rất mật thiết với nhau. Do vậy, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp cũng có ảnh
hưởng lẫn nhau. Vì vậy ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng trong lĩnh vực am hiểu,
cũng vì lý do kinh doanh gặp nhiều khó khăn mà có nhiều khách hàng đã sử dụng vốn
sai mục đích đã ký kết trong hợp đồng tín dụng.
Ngoài ra, nợ quá hạn còn phát sinh do các nguyên nhân khách quan trong đó chủ yếu
là do cơ chế chính sách thay đổi. Nước ta đang trong tiến trình đổi mới, nên hệ thống
pháp luật còn chưa được đồng bộ còn nhiều mâu thuẫn nên thường xuyên có sự thay
Trang 39
đổi cơ chế chính sách để thích ứng với nền kinh tế thị trường. Trong những trưòng
hợp đó ngân hàng đã có chính sách đúng khi có các biện pháp “cứu cánh” cho doanh
nghiệp nên đã giúp cho nhiều doanh nghiệp là khách hàng của mình thoat khỏi tình
trạng nguy cấp,giảm đáng kể NQH do nguyên nhân này trong năm 2002 và tiến tới sẽ
giảm nhiều hơn nữa trong năm 2003.
Tóm lại ta thấy tình hình NQH của NH NN&PTNT TP Hà Nội trong 3 năm qua đã có
những thay đổi đáng kể từ chỗ nợ quá hạn đang ở mức khá cao nhưng dù vậy vẫn vẫn
luôn giữ ở mức cho phép đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng ,trong đó nợ
quá hạn chủ yếu tập trung ở các món vay ngắn hạn. Các khoản nợ phát sinh chủ yếu từ
các năm trước và trong 2 năm gần đây do công tác cán bộ được cảI tiến nhiều cũng
như những thay đổi hợp lí trong chính sách của ngân hàng mà NQH phát sinh mới
giảm đáng kể và không ở tình trạng quá suy yếu.
2.Các biện pháp phòng ngừa và xử lí nợ quá hạn tại ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn thành phố Hà Nội:
a)Các biện pháp phòng ngừa:
Như ta đã biết, NQH là một trong những rủi ro khó có thể tránh khỏi của tất cả các
ngân hàng. Một trong những nguyên nhân là do các ngân hàng có biện pháp phòng
ngừa khác nhau và mỗi một biện pháp lại đem lại một kết quả khác nhau. Trong đó
các biện pháp thường được áp dụng ở ngân hàng No&PTNTTP Hà Nội là:
*Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý:
Chính sách tín dụng của Ngân hàng là một hệ thống các biện pháp nhằm mở rộng hay
thu hẹp hoạt động cho vay
*Nghiên cứu khách hàng:
Mục tiêu kinh doanh hàng đầu của các Ngân hàng thương mại là lợi nhuận, song trên
con đường tìm kiếm lợi nhuận tối đa đó, các Ngân hàng thương mại luôn gặp phải một
rào cản đó là rủi ro. Để phòng ngừa, hạn chế rủi ro các NHNoHN đã áp dụng nhiều
biện pháp trong đó biện pháp cơ bản có vị trí quan trọng số một là phải phân tích,
đánh giá một cách toàn diện khách hàng trước khi cho vay, nếu khách hàng được đánh
giá là tốt thì được Ngân hàng cho vay.
*Thiết lập hệ thống thông tin khách hàng:
Trang 40
Ngoài việc nghiên cứu thu thập thông tin về các doanh nghiệp trong hồ sơ khách hàng,
NHNo&PTNTTP Hà Nội còn thu thập thông tin từ trung tâm rủi ro, NHNN và các
NHTM khác. Ngoài ra,các số liệu của cơ quan thông kê,báo chí… liên quan đến
doanh nghiệp cũng là một nguồn thông tin quý giá mà ngân hàng sử dụng để đánh giá
khách hàng .
*Phân tán rủi ro:
Quán triệt quan điểm “không bỏ chung trứng vào một rổ”, NHNo &PTNT TP HN
luôn tiến hành đa dạnh hoá các hình thức cho vay, lĩnh vực cho vay.
Đối với những khoản vay lớn mà ngân hàng khó xác định khả năng và mức độ rủi ro
thì ngân hàng sẽ tiến hành liên kết với các ngân hàng khác thực hiện cho vay đồng tài
trợ.
*Đẩy mạnh công tác cán bộ tín dụng:
Ngân hàng luôn chú trọng đào tạo,nâng cao năng lực quản lí,chủ động trong công việc
của cán bộ tín dụng. Bước sang năm 2003 ngân hàng vẫn sẽ tiếp tục có những kế
hoạch mở những lớp tập huấn cho cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói
riêng, khuyến khích cán bộ tín dụng tự đào tạo.
b)Các biện pháp xử lí:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, phòng tín dụng có trách nhiệm thường
xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng và đôn đốc khách
hàng trả nợ gốc và lãi theo đúng các điều kiện cam kết trong hợp đồng tín dụng và các
qui định của thể lệ tín dụng, quy trình quy phạm nghiệp vụ tín dụng của
NHNo&PTNT TP Hà Nội. Có thể nói, nhờ áp dụng các biện pháp đúng đắn ngân
hàng đã không những giúp được khách hàng mà còn giúp cho chính ngân hàng. Đồng
thời nó sẽ giúp cho quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng càng thêm chặt chẽ bở
khách hàng nào cũng muốn thiết lập quan hệ với ngân hàng đã giúp đỡ mình trong lúc
khó khăn.
*Dãn nợ:
Là hình thức kéo dài thời gian trả nợ (nhưng tối đa không quá 12 tháng), nếu hết khả
năng gia hạn thì hoãn chuyển sang nợ quá hạn,hoặc tùy mục đích sử dụng vốn được
xác định lại là trung hạn thì chuyển sang cho vay trung hạn, hoặc khách hàng đưa
Trang 41
thêm tài sản mới để thế chấp, cầm cố bổ sung bảo đảm món vay thì bổ sung thời hạn
cho vay.
* Thúc nợ:
Là biện pháp đệm,chuẩn bị cho các bước khởi kiện qua việc kết hợp với chính quyền
địa phương để áp lực thu hối nợ.
* Gán nợ:
Là hình thức trừ cân nợ bằng cách NHNo &PTNT Hà Nội mua lại tài sản thế chấp,
cầm cố của người vay với giá hợp lí.
* Khởi kiện:
Là bước xử lí sau cùng khi các bước xử lí trên được thực hiện nhưng vẫn không thu
hồi được nợ.
Việc xử lí tài sản thế chấp ở NHNo &PTNTTP Hà Nội chủ yếu dựa trên 3 phương
thức:
- Nhận gán nợ: nói chung phương thức này chưa được áp dụng nhiều tại ngân hàng.
Hơn nữa hiện nay nếu ngân hàng muốn nhận tài sản gán nợ còn phải tổ chức định giá
với sự tham gia của các cơ quan thi hành án, viện kiểm soát nhân dân, chính quyền địa
phương, phòng tài chính, phòng xây dựng quận, huyện nơi có tài sản thế chấp nên khá
phức tạp.
+ Phát mại tài sản thế chấp qua trung tâm đấu giá: Việc phát mại tài sản thế chấp theo
cách này thường rất tốn kém. Mặt khác,khi ngân hàng đề nghị cơ quan thi hành án
chuyển việc giải quyết tài sản thế chấp qua trung tâm đấu giá thì công tác thi hành án
rất chậm và gặp nhiều khó khăn,thậm chí bị ép giá. Do vậy, người đi vay sẽ bị thiệt
thòi nhiều và không chấp nhận. Hơn nữa, theo hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam thì “Mọi công dân đều có quyền về nhà ở”. Điều đó buộc ngân hàng nếu bán tài
sản thế chấp phải tính đến chỗ ở cho người đi vay là một điều không dễ và làng làm
giá trị thu được của ngân hàng sau khi phát mại tài sản giảm.
+ Thuyết phục người đi vay tự bán tài sản thế chấp: Bằng cách làm này sẽ khắc phục
được hầu hết nhược điểm của 2 phương án trên.
c) Đánh giá công tác phòng ngừa và xử lí nợ quá hạn tại NHNo &PTNTTPHN:
*Kết quả đạt được:
Trang 42
Nhờ áp dụng các biện pháp phòng ngừa NQH một cách thích hợp trong 2 năm qua
NQH của ngân hàng phát sinh không đáng kể, chất lượng tín dụng của các khoản vay
mới tăng lên rõ rệt. Đồng thời việc xử lí các khoản NQH đã phát sinh có kết quả rất
khả quan.
Đạt được những kế quả nói trên là do được sự chỉ đạo hợp lí của NHNo &PTNTTP
Hà Nội cũng như nỗ lực không ngừng của lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên tín
dụng cũng như các cán bộ trong ban xử lí nợ, cụ thể các mặt làm được là:
Cơ chế cho vay được sửa đổi hoàn thiện hơn. Công tác thẩm định trước khi cho vay
được thực hiện nghiêm túc hơn. Đồng thời gắn được trách nhiệm của mỗi cán bộ tín
dụng đối với các khoản cho vay mà mình thực hiện các khoản cho vay đều được
trưởng phòng tín dụng trực tiếp thông qua. Do đó trong 2 năm qua hầu hết như không
phát sinh nợ quá hạn đối với các khoản cho vay mới.
*Tồn tại chủ yếu:
Bên cạnh những mặt đã đạt được Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thông Hà
Nội cũng có những tồn tại nhất định cần khắc phục để đảm bảo cho các khoản vay
được an toàn hơn:
- Hệ thống thông tin khách hàng chưa hoàn thiện các thông tin không được cập nhật
thường xuyên vừa chậm vừa thiếu không đáp ứng được nhu cầu. Các kênh thông tin
khác nhau như phương tiện thông tin đại chúng chỉ dừng ở mức chung chung không
thể phản ánh được thực trạng nội bộ. Ngoài ra, quan hệ trao đổi thông tin với các
Ngân hàng khác chưa rộng.
- Công tác kiểm toán nội bộ giữ một vai trò khá quan trọng trong quản lý kinh doanh
Ngân hàng nhưng lại chưa được coi trọng. Việc kiểm nội bộ có tác dụng kiểm tra lại
các hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng của Ngân hàng nói
riêng (kiểm tra quá trình ghi chép sổ, lập các biểu, báo cáo...) giúp kịp thời phát hiện
những sai phạm của bản thân Ngân hàng, của cán bộ tín dụng để có biện pháp ngăn
chặn, xử lý kịp thời, Ngân hàng nên chú trọng công tác này.
Trang 43
- Hiểu biết của cán bộ tín dụng về các lĩnh vực này còn hạn chế. Do vậy việc tư vấn
cho khách hàng ít và gặp nhiều khó khăn trong quá trình kiểm tra trước và sau khi cho
vay.
- Các biện pháp áp dụng trong việc xử lý còn chưa phong phú, đa dạng cần phải có
thêm một số biện pháp khác để việc xử lý nợ quá hạn đạt kết quả cao hơn.
Trang 44
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
PHÒNG NGỪA NỢ QUÁ HẠN TẠI NHNOHN.
I.Phương huớng hoạt động tín dụng &kế hoạch thu hồi nợ năm 2003:
1.Mục tiêu định hướng hoạt động tín dụng năm 2003:
Căn cứ vào định hướng kinh doanh năm 2003 của HĐQT Ngân hàng No&PTNT Việt
Nam và kế hoạch kinh doanh năm 2003 của ngân hàng No&PTNTHN đã được tổng
giám đốc giao kế hoạch, từ thực tế kinh doanh năm 2003, phòng kinh doanh xây dựng
chỉ tiêu kế hoạch tín dụng năm 2003 như sau:
- Dư nợ cuối năm đạt 2600 tỉ đồng tăng trưởng 30% so với năm 2002
- Dư nợ ngắn hạn đạt 1600 tỉ đồng chiếm 61,5% tổng dư nợ, tăng trưởng 27,1% so với
năm 2002
- Dư nợ trung và dài hạn đạt 1000 tỉ đồng chiếm 38,5% tổng dư nợ, tăng trưởng 34%
so với năm 2002
- Nợ quá hạn khống chế ở mức 70 tỉ đồng đảm bảo tỉ lệ<3% tổng dư nợ.
-Trích rủi ro năm 2003: từ 60-65 tỉ để xử lí rủi ro căn cứ vào tình hình tài chính và
việc chuyển nợ quá hạn.
-Xử lí rủi ro cả năm: phấn đấu xử lí 55 tỉ đồng
-Thu nợ rủi ro phần đấu đạt 50 tỷ đồng tăng 43 tỷ so với năm 2002
-Mua bán ngoại tệ (USD): đạt 120 triệu USD tăng 12 triệu so với năm 2002
-Tỷ lệ thu lãi: đạt >95% lãi phải thu.
Đầu tư tín dụng:
Trang 45
(Đơn vị:triệu VND)
TT Chỉ tiêuThực hiện
2002
Thực hiện
2003
+,- so với KH
Số tiền % +,-
Tổng dư nợ 2.003 2.006 +600 +300
1
2
3
Dư nợ theo thời hạn
cho vay
Cho vay ngắn hạn
Cho vay trung hạn
Cho vay dài hạn
Dư nợ theo thành phần
kinh tế
CHO VAY DNNN
Cho vay DNNQD
Cho vay HTX
Cho vay HSX
Cho vay khác
Nợ quá hạn
1.259
465
279
1.308
402
4
127
162
56,4
1600
600
400
1610
600
10
180
200
70
+342
+136
+121
+302
+199
+6
+53
+38
+13,6
+27,1
+30
+43,3
+23
+50
+150
+41,7
+24,2
24,1
2.Kế hoạch thu hồi nợ:
Trong năm 2002 NHNo&PTNTHN đã kịp thời triển khai những văn bản của Chính
phủ, của NHNN và của các bộ ngành liên quan và đã đạt những hiệu quả rất đáng
khích lệ. Tiến tới năm 2003 Ngân hàng đã có những kế hoạch và phương hướng thu
hồi nợ như sau:
- Phải không ngừng tăng cường công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
Trong đó thẩm định là một trong những khâu quan trọng quuyết định đến hiệu quả và
an toàn của vốn vay.
- Về hồ sơ vay vốn nói riêng và hồ sơ tín dụng nói chung: từng bước sắp xếp, chỉnh
sửa đúng chế độ, lưu giữ cẩn thận.
- Việc thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn, thu lãi vay,thu nợ rủi ro đã được chú trọng
Trang 46
- Hàng tháng cán bộ tín dụng và cán bộ kế toán phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong
việc thông báo nợ đến hạn để cán bộ tín dụng đôn đóc khách hàng trả nợ đúng hạn
hoặc gia hạn nợ (nếu cần), tránh chuyển nợ quá hạn nếu không cần thiết.
Để đạt được kế hoạch đã đề ra không những cần có sự nỗ lực của bản thân ngân hàng
mà còn có sự giúp đỡ từ phía Chính Phủ, NHNN… Ngoài những biện pháp mà ngân
hàng đã và đang tiến hành, em xin góp một vài ý kiến về việc phòng ngừa xử lí NQH.
II/Kiến nghị đối với chính phủ và ngân hàng Nhà nước:
Trong thời gian qua, chính phủ và ngân hàng nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp quy mới nhằm củng cố hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, việc làm này không phải
đơn giản mà thường xuyên phát sinh mâu thuẫn mới cần khăc phục. Đứng trên góc độ
nhằm phòng ngừa và xử lí NQH, tôi xin có một số ý kiến sau:
1.Kiến nghị đối với Nhà nước, ngân hàng nhà nước và các cơ quan chức năng:
a) Kiến nghị ngăn ngừa hạn chế Nợ quá hạn:
- Chính phủ phải có thái độ dứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, chỉ để
tồn tại những doanh nghiệp làm ăm có hiệu quả, nhưng doanh nghiệp cần thiết cho
dân sinh, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Cần kiểm soát chặt chẽ, tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phép thành lập
và đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp sao cho phù hợp với năng lực thực tế của
doanh nghiệp đó.
- Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và sửa đổi, ban hành các bộ luật, văn bản dưới hình
thức luật liên quan đến hoạt động của nền kinh tế nói chung và đến hoạt động ngân
hàng nói riêng tạo hành lang pháp lí cho hoạt động doanh nghiệp và các ngân hàng
thương mại đi đúng hướng .
- Nhà nước cần có biện pháp đảm bảo môi trường kinh tế ổn định, góp phấn đảm bảo
hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng cấp cho nền kinh tế. Nhà nước nên có những bước
đệm hoặc những giải pháp thực hiện gỡ nhứng khó khăn gây ra khi có sự chuyển đổi,
điều chỉnh cơ chế, chính sách liên quan toàn bộ nền kinh tế.
*Về lãi suất nợ quá hạn:
Theo qui định của NHNN, lãi suất NQH bằng 150 % lãi suất cho vay cùng loại. Như
vậy, một khách hàng vốn đã gặp khó khăn không trả được nợ đúng hạn lại phải chịu
thêm gánh nặng bởi lãi suất NQH quá cao sẽ càng gây thêm khó khăn cho doanh
Trang 47
nghiệp. Nên chăng NHNN bỏ qui định về lãi suất NQH để cho các NHTM tuỳ theo
mức đọ rủi ro và các yếu tố khác của từng khoản vay mà quyết định lãi suất NQH phù
hợp với từng khoản vay nhằm thu hồi nhanh nhất và đầy đủ nhất các khoản cho vay
phát sinh nợ quá hạn, hạn chế tối đa rủi ro.
Hơn nữa, mức lãi suất NQH đựơc xác định căn cứ dựa trên mức qui định của thống
đốc ngân hàng nhà nước tại thời điểm kí kết hợp đồng tín dụng. Mặc dù hiện nay các
ngân hàng đang áp dụng qui chế mới là thực hiện hợp đồng tín dụng với khách hàng
dựa trên lãi suất thoả thuận với nhau.Vậy mà lãi suất làm căn cứ để xác định mức lãi
suất NQH lại không được điều chỉnh với mức lãi suất thoả thuận đã được thực hiện
mà phải căn cứ vào mức lãi suất từ khi kí kết hợp đông tín dụng. Do đó,thiết nghĩ cần
thay đổi qui định này nhằm tránh những bất hợp lí khi có những biến động lớn về lãi
suất cho vả hai bên tổ chức tín dụng và khách hàng. Qui đinh mới phải thể hiện được
lãi suất làm căn cư xác định lãi suất NQH là mức lãi suất hai bên đang áp dụng đối
với khoản vay tại thời điểm chuyển sang NQH. Có như vậy, việc áp dụng lãi suất
NQH mới có ý nghĩa.
*Về thời gian gia hạn vay:
Việc gia hạn nợ vay thuộc thẩm quyền quyết định của Ngân hàng nhà nước theo qui
định tại khoản 4 điều 54 Luật các tổ chức tín dụng về thơì gian gia hạn nợ. Việc qui
định này là quá cứng nhắc không tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lí một số trường hợp
phát sinh từ thực tiễn đòi hỏi phải có sự qui định linh hoạt trong chính sách như
trưòng hợp khách hàng bị thua lỗ trong 2, 3 năm do các nguyên nhân bất khả kháng.
* Về thời hiệu khởi kiện:
Qui định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế 6 tháng với hoạt động ngân hàng là quá
ngắn vì các khoản nợ vay của khách hàng khi đáo hạn chưa trả cho ngân hàng, ngân
hàng thường phải thương lượng với khách hàng để tìm ra giải pháp tốt nhất để thu nợ,
tránh phải đưa ra kiện tụng tranh chấp trước toà án,do đã mất một khoảng thời gian
dài. Nếu khách hàng biết được qui định này cố tình không xác nhận trong thời gian 6
tháng thì ngân hàng không thể khởi kiện do hết thời hiệu khởi kiện,nên quyền lợi
chính đáng của ngân hàng không được bảo vệ. Do vậy thiết nghĩ nên kéo dài thời hiệu
khởi kiện đối với tranh chấp liên quan đến hoạt động ngân hàng.
b) Kiến nghị xử lí nợ quá hạn
Trang 48
- Các cơ quan chức năng cần phát hiện và xử lí kịp thời các truờng hợp ra đời của một
doanh nghiệp ngoài quốc doanh băng “vốn ảo”. Mạnh dạn cho giải thể, phá sản doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ không có khả năng trả nợ ngân hàng kéo dài quá lâu.
- Các cơ quan hữu quan nhất là các cơ quan pháp luật cần giúp đỡ ngân hàng trong
việc xử lí NQH phát mại tài sản thế chấp thu hồi vốn cho Nhà nước, xử lí cán bộ ngân
hàng nghiêm minh,đúng người đúng việc khi có vi phạm.
2.Kiến nghị đối với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam:
- Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cần có biện pháp chỉ đạo
thực hiện chế độ nghiệp vụ sát sao,các văn bản hướng dẫn thực hiện cần ngắn gọn, dễ
hiểu, dễ làm, xử lí kịp thời những vướng mắc của chi nhánh.
- Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ để ngăn ngừa kịp thời những sai sót
- Coi trọng công tác cán bộ, thường xuyên mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ trang bị
kiến thức mới cho cán bộ tín dụng, quan tâm đến việc bố trí sắo xếp cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cho các chi nhánh.
-Làm tốt công tác phòng ngừa và xử lí rủi ro có sự liên lạc thường xuyên giữa thông
tin phòng ngừa rủi ro với các chi nhánh,hướng dẫn chi nhánh thực hiện tốt công tác
này.
Trang 49
III/Giải pháp phòng ngừa và xử lí nợ quá hạn tại NHNoHN:
1.Hoàn thiện hệ thống thông tin khách hàng:
Thông tin khách hàng càng phát triển về số lượng và chất lượng thì càng làm giảm
mức độ rủi ro cho hoạt động tín dụng. Thông tin khách hàng vay vốn ngân hàng trên
địa bàn là cần thiết để tìm hiểu một phần tình hình công nợ của khách hàng. Trên cơ
sở đó xác định khả năng thanh hoàn trả nợ vay của khách hàng. Ngoài ra,việc tìm
kiếm thông tin về ngành nghề,thị trường.. có liên quan đến hoạt động kinh doanh của
khách hàng cũng rất quan trọng để ngân hàng tìm hiểu về tình hình hoạt động kinh
doanh của khách hàng.
Hiện nay, Ngân hàng nhà nước đã có hệ thống trung tâm thông tin tín dụng song
thông tin được cập nhật còn chưa được nhanh và chưa đầy đủ,hình thức còn đơn điệu.
Do vậy,ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội nên thiết lập
một bộ phận chuyên trách về thông tin rủi ro, gọi là phòng nghiên cứu rủi ro nhằm thu
thập thông tin nhanh, đầy đủ và kịp thời hơn.
Bên cạnh việc khai thác thông tin từ trung tâm tín dụng của ngân hàng nhà nước,thông
tin còn cần được khai thác triệt để từ các nguồn khác chẳng hạn như:
*Thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
*Thông tin khai thác qua những lần tiếp xúc,giao tiếp với khách hàng,thông qua mối
quan hệ với các ban ngành liên quan.
2.Tăng cường công tác nghiên cứu khách hàng:
Trong công tác nghiên cứu khách hàng trước khi cho vay, việc sử dụng các hệ tài
chính để đánh giá khách hàng là rất quan trọng. NHNo&PTNTHà Nội đã sử dụng một
hệ thống các hệ số tài chính để đánh giá tình hình tài chính của khách hàng khá hiệu
quả,tuy nhiên ngân hàng nên sử dụng thêm hệ số tài trợ để đánh giá.
3.Cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng:
Chính nhờ giải pháp này mà cán bộ tín dụng sẽ có được kiến thức khá tốt giúp cho
việc tư vấn kinh doanh cho khách hàng có thể phát triển được. Việc cung cấp dịch vụ
này sẽ giúp cho cả khách hàng và ngân hàng cùng phát triển.
4.Tăng cường kiểm tra giám sát khách hàng vay vốn theo dõi rủi ro có thể xảy ra
Cán bộ tín dụng cần có những cuộc viếng thăm đột xuất khách hàng của mình để kiểm
tra tình hình sử dụng tiền vay,tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng để có
Trang 50
những đánh giá sơ bộ về hiệu quả dự án vốn vay. Đồng thời kiểm tra qua các nguồn
thông tin khác nhau thu thập được về khách hàng. Trên cơ sở đó thường xuyên bổ
sung thông tin vào hồ sơ khách hàng để phản ánh đúng kịp thời thực trạng của khách
hàng,giúp ngân hàng chủ động hơn trong quan hệ với khách hàng.
5.Ngân hàng khuyến khích khách hàng vay vốn mở tài khoản tại ngân hàng mình:
Để tiện theo dõi tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng,ngân hàng
nên khuyến khích khánh hàng mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng mình. Từ đó,ngân
hàng có thể sớm phát hiện ra những vấn đề nghi vấn để có biện pháp marketing giới
thiệu về những tiện ích của các phương tiện thanh toán mà ngân hàng cung cấp. Đồng
thời,ngân hàng cũng không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng và sự phù hợp với nhu
cầu và hoàn cảnh của khách hàng về các dịch vụ này.
6. Phân loại các khoản nợ:
Phân tích chi tiết nợ quá hạn để có biện pháp xử lí đối với từng loại nợ quá hạn. Đối
với doanh nghiệp ngừng hoạt động lâu ngày chỉ còn là một “con nợ quá hạn” thì chi
nhánh phải làm thủ tục đưa ra tòa đề nghị giả thể hay phá sản theo qui định
7. Cơ cấu lại các khoản nợ:
- Phân tích thực trạng các món nợ quá hạn,nợ tiềm ẩn rủi ro trình và nợ đã được xử lí
rủi ro để từ đó đánh giá được khả năng thu hồi nợ thông qua phân tích nợ có đảm
bảo,không đảm bảo, thực trạng tài sản thế chấp có thể xử lí thu hồi nợ, phương án xử
lí vận dụng các giải pháp,chính sách của các ban ngành liên quan trong việc xử lí nợ
tồn đọng.
- Quan hệ chặt chẽ với các cấp uỷ, chính quyền địa phương, các ban ngành chức năng
có liên quan trong việc cho vay, thu nợ, xử lí nợ, xử lí tài sản đảm bảo tiền vay.
- Tiếp tục chuyển nợ quá hạn của các món vay cũ không có khả năng trả nợ để xử lí
rủi ro.
8.Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư cho cán bộ tín dụng:
Đây là một yêu cầu luôn được đặt ra trong công tác thẩm định dự án của các ngân
hàng có thể chủ động trong việc ngăn ngừa những dự án tồi và tài trợ cho dự án tốt
một cách có hiệu quả. Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư có ý quan trọng
trong bối cảnh hiện nay nước ta đang đẩy nhanh tốc độ đầu tư, nhằm đạt được mục
tiêu duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo đà cho bước phát triển vững
Trang 51
chắc ở những năm sau và thực hiện thành công sự nghiêp công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước. Để nâng cao năng lực thẩm định đòi hỏi nguời thẩm định phải được
trang bị nhưng kiến thức cơ bản về dự án,kĩ năng thẩm định dự án và nắm được các
qui định của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Trong điều kiện ở nước ta
hiện nay khi mà hệ thống thông tin còn chưa phát triển lắm và chưa có hệ thống tiêu
chuẩn đối với các ngành nghề làm tiêu chuẩn cho việc cho việc so sánh các chỉ tiêu
hiệu quả và an toàn tài chính của các dự án thì ngoài sự cố gắng của bản thân cán bộ
tín dụng cần có sự kết hợp của ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Hà Nội
và sự quan tâm của Ngân hàng nhà nước. Do vây nên có một số biện pháp sau:
*Cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những qui định của nhà nước có liên
quan đến lĩnh vực đầu tư để bảo vệ lợi ích của mình trong các lĩnh vực thậm chí cả
những lĩnh vực mà các ngân hàng không có đủ khả năng chuyên môn để thẩm đinh
như lĩnh vực kĩ thuật, xây dựng, môi trường…
*Thu thập những thông tin cần thiêt về thị trường sản phẩm
9. Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ:
Công tác này như đã phân tích ở trên sẽ giúp ngân hàng kịp thời phát hiện những sai
phạm của bản thân ngân hàng cũng như của cán bộ tín dụng để có biện pháp kịp thời
ngăn chặn, xử lí .Về cơ bản công tác này thường bao gồm việc soát xét lại các phương
tiện đã sử dụng để xác định tính toán, phân loại và báo cáo thông tin, thẩm định các
khoản mục cá biệt, kiểm tra tính hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động trong ngân hàng.
Nhờ đó sẽ rà soát được các hoạt động của ngân hàng,các thông tin tài chính quan
trọng…Tuy nhiên, việc thực hiên các công tác này cần phải được làm một cách hợp lí
tránh ảnh hưởng đến những hoạt động bình thường của ngân hàng.
10. Đa dạng hoá các biện pháp xử lí nợ quá hạn:
Ngoài các biện pháp xử lí NQH đã được áp dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn thành phố Hà Nội còn có một số biện pháp mà trong một số trường
hợp tỏ ra rất có hiệ quả trong việc xử lí nợ quá hạn:
-Biện pháp nuôi nợ:
Đó là việc ngân hàng tiếp thêm vốn đẻ giúp khách hàng “vượt cạn” trong những giai
đoạn khó khăn tài chính tạm thời. Trong những trường hợp như thế này, việc ngân
Trang 52
hàng giám tiếp tục tài trợ thêm cho khách hàng đã giúp khách hàng của mình vượt qua
cơn “bí cực” sẽ góp phần làm lành mạnh hoá khoản nợ.
-Xử lí nợ quá hạng bằng đồng tài trợ:
Có một số khoản nợ quá hạn mà vượt khả năng của một ngân hàng đủ hoặc không đủ
hiệu quả giải quyết mà cần có sự phối hợp giữa các ngân hàng theo dạng đồng tài trợ
để xứ nợ quá hạn .Việc các ngân hàng tham gia đồng tài trợ hay hợp vốn để xử lí nợ
quá hạn tạo ra thế mạnh như: mỗi ngân hàng có hệ thống khách hàng quen thuộc có
lĩnh vực am hiểu tường tận nay nói cách khác là có thế mạnh riêng. Do vậy, việc đồng
tài trợ sẽ tập trung và bổ sung cho nhau thế mạnh, hạn chế mặt yếu, tạo sự kiểm soát
đồng bộ về khách hàng, bổ sung vốn, bổ sung nghiệp vụ và học hỏi lẫn nhau về
nghiệp vụ
Trên đây là một số biện pháp để phòng ngừa và xử lí nợ quá hạn, thiết nghĩ các ngân
hàng nên nghiên cứu kĩ các biện pháp phòng ngừa và xử lí nợ qua hạn để có thể ngăn
ngừa và quản lí nợ quá hạn của ngân hàng mình một cách tốt nhất.
Kết luận
Trước tình nợ quá hạn đang ở mức khác cao trong hệ thống ngân hàng Thương mại
Việt Nam trong những năm qua, ngành ngân hàng đã xác định một phương hướng
hoạt động cơ bản trong giai đoạn hiện nay là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỉ lệ
nợ quá hạn xuống dưới 3% đảm bảo hoạt động của ngân hàng diễn ra được an toàn.
Không nằm ngoài xu hướng đó, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành
phố Hà Nội phấn đấu trong năm 2003 không có nợ qúa hạn mới phát sinh,đồng thời
tiếp tục xử lí nợ quá hạn đã phát sinh trong những năm trước đó để đưa tỉ lệ nợ quá
hạn xuống càng thấp càng tốt. Để làm được đó cần có sự kết hợp của chính phủ,
NHNN và bản thân ngân hàng từ việc đảm bảo các điều kiện và trong môi trường
hoạt động tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường đầy rẫy sự rủi ro hiện nay thì hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực ngân hàng là một họat động hàm chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó việc nghiên
cứu rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một công việc tuy rất phức tạp nhưng lại
Trang 53
mang nhiều ý nghĩa quan trọng cho hoạt động ngân hàng. Với suy nghĩ đó, em đã đặt
trọng tâm nghiên cứu và công tác phòng ngừa và xử lí Nợ quá hạn trong hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội. Trên cơ
sở đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp mong góp phần nhỏ bé vào việc phòng
ngừa và xử lí nợ quá hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành
phố Hà Nội.
Để có được điều đó ngoài sự cố gắng của bản thân em đã được sự giúp đỡ tận tình của
cô Lưu Thị Hương và của các cán bộ ngân hàng. Em xin chân thành cảm ơn.
Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu và trình độ hạn chế nên không tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy cô và của các cán bộ tín dụng ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội để luận văn được hoàn
thiện hơn, em xin cam đoan tất cả số liệu trên đây là trung thực.
Em xin chân thành cảm ơn!
Trang 54
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu……………………………………………………………..
Chương I:Ngân hàng thương mại và nợ quá hạn của NHTM…
I.NHTM…………………………………………………………….
II.Tín dụng ngân hàng………………………………………………
1.Khái niệm………………………………………………………..
2.Vai trò của tín dụng ngân hàng………………………………….
3.Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng…………………………
Chương II:Thực trạng về nợ quá hạn tại ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội………………………….
I.Giới thiệu về NHNo&PTNTTPHN………………………………
1.Sự hình thành và phát triển………………………………………
2.Cơ cấu tổ chức……………………………………………………
II.Tình hình NQH tại NHNo &PTNTTPHN………………………..
1.Hoạt động tín dụng và nợ quá hạn……………………………….
2.Các biện pháp phòng ngừa và xử lí NQH tại NHNo&PTNT TP HN
Chương III:Một số kiến nghị và giải pháp phòng ngừa NQH tại NHNo
&PTNTTPHN……………………………………………….
I.Phương hướng hoạt động và kế hoạch thu hồi nợ năm 2003………
1.Mục tiêu định hướng hoạt động tín dụng năm 2003………………
2.Kế hoạch thu hồi nợ……………………………………………….
II.Kiến nghị với chính phủ và ngân hàng…………………………….
1.Kiến nghị với ngân hàng nhà nước và cơ quan chức năng…………
2.Kiến nghị với NHNo &PTNTVN………………………………….
III.Giải pháp phòng ngừa và xử lí NQH tại NHNo &PTNTTPHN……
Kêt luận:……………………………………………………………..
Trang 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Luật các tổ chức tín dụng
-Ngân hàng thương mại (GS-TS Edward W.Reed; GS-TS Edward K.Gille)
-Tạp chí ngân hàng
-Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính
-Thị trường tài chính tiền tệ
-Thời báo kinh tế Việt Nam
… và một số tài liệu khác