Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS),
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn –
Đại học Quốc gia Tp.HCM, Việt Nam.
WORKING PAPER
NO.2
Tranh chấp trên biển Đông:
Phân tích từ lý thuyết trò chơi
Lê Hồng Nhật
Thành phố Hồ Chí Minh 2/2016
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 1
SCIS Working Papers hướng đến mục đích phổ biến các kết quả nghiên cứu trước khi
công bố trên các ấn phẩm khoa học, qua đó khuyến khích sự trao đổi nghiên cứu và tranh
luận học thuật. Các bài viết thuộc SCIS Working Papers được xem là một bài viết khoa
học đang trong quá trình hoàn thiện (work in process), các trích dẫn nội dung trong bài
cần được sự đồng ý của tác giả.
Quan điểm trong các bài viết hoàn toàn là của riêng tác giả và không đại diện cho quan
điểm chính thức của Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS), Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Tp.HCM. Mọi hình thức sao chép đối với các bài bình luận này đều phải có sự
cho phép của Trung tâm SCIS cũng như xác nhận từ tác giả. Các sản phẩm của SCIS
Working Papers có thể được xem và download trên trang website
http://scis.hcmussh.edu.vn/
Những phản hồi cho bài bình luận xin vui lòng gửi thư về địa chỉ của ban biên tập chuyên
mục: [email protected].
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 2
Tranh chấp trên Biển Đông
Phân tích từ lý thuyết trò chơi
Lê Hồng Nhật1
1. Bản chất của tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông
Chủ quyền quốc gia về vùng đặc quyền kinh tế biển và trật tự hàng hải quốc tế đã được
phân định rõ theo công ước quốc tế về luật biển (UNCLOS). Tranh chấp chỉ trở nên căng
thẳng, khi Trung Quốc đơn phương đòi hỏi chủ quyền, chiếm tới 80% Biển Đông. Và
từng bước hiện thực hóa nó bằng việc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của các nước
lân bang. Ví dụ như vụ đưa dàn khoan 981 vào vùng biển của Việt Nam vào năm 2014.
Và tiếp đó trong năm 2015, Trung Quốc tiếp tục tôn tạo, xây đắp các đảo nhân tạo trên
các bãi đá thuộc Trường Sa, đã chiếm của Việt Nam bằng vũ lực. Để hiểu tại sao những
tranh chấp đó có thể xảy ra, chúng ta cần phải hiểu rõ khái niệm về chủ quyền.
Chủ quyền của một quốc gia (souvereignty) có thể được hiểu theo hai nghĩa
chính2: (1) Theo sự công nhận của cộng đồng quốc tế, và đi kèm theo đó là các công ước
quốc tế về chủ quyền. (2) Theo khả năng của nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền của
quốc gia, mà cơ bản nhất là đảm bảo an ninh quốc phòng; bảo vệ quyền của người dân
1 Lê Hồng Nhật tốt nghiệp Tiến Sĩ kinh tế học tại Đại học Stanford (Mỹ), hiện công tác tại Đại học Kinh tế
- Luật, ĐHQG HCM và là nghiên cứu viên không thường trú (Non-Resident Senior Fellow) tại Trung tâm
Nghiên cứu quốc tế (SCIS), Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp.HCM.
2 According to Stephen D. Krasner (1999), the term “souvereignty” could be understood in two main ways:
(1) domestic sovereignty – actual control over a state exercised by an authority organized within this state.
(2) international legal sovereignty – formal recognition by other sovereign states,
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 3
khai thác tài nguyên và sinh sống trên nơi mà cha ông họ đã sinh sống, dù là trên đất liền,
hay trên biển đảo. Khi hai đòi hỏi này không tương thích nhau, tức là khả năng đảm bảo
về an ninh quốc gia không cân xứng với quyền được công nhận bởi công ước quốc tế, thì
sự tranh chấp về chủ quyền dễ nổ ra.
Như vậy, chủ quyền quốc gia không phải là một khái niệm tuyệt đối, có tính vĩnh
hằng, mà mang tính tương đối. Với sự bất cân xứng vốn có về sức mạnh kinh tế và quân
sự giữa các quốc gia, thì các quan hệ kinh tế, chính trị và quân sự giữa các quốc gia khác
nhau, chia sẻ cùng một lợi ích chiến lược, mà nó phù hợp với công ước và luật pháp quốc
tế, sẽ tạo ra khối liên minh chính thức hay phi chính thức. Chẳng hạn như việc Mỹ thúc
đẩy việc lập ra khối ASEAN trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Sức mạnh của khối hay liên
minh, tạo ra một sự răn đe hữu hiệu đối với sự chèn ép hay xâm lấn của bất kỳ quốc gia
nào mạnh hơn với một quốc gia nhỏ, thuộc liên minh. Một khi liên minh bị suy yếu đi, thì
sự cân bằng về trật tự quốc tế và khu vực bị đảo lộn, do xuất hiện những vùng trống về
quyền lực. Tuy nhiên, sự thay đổi về trật tự khu vực đó có trở thành một xu thế hay
không, phụ thuộc rất nhiều vào tính chính nghĩa của tiến trình như vậy. Tức là nó có phù
hợp với chuẩn mực về trật tự quốc tế, được hầu hết các quốc gia trên Thế giới công nhận
hay không.
Những năm 2008 - 2010 chứng kiến cuộc khủng hoảng toàn cầu, bắt đầu từ Mỹ,
lan dần sang các nước Tây Âu. Điều đó kéo theo hai hệ lụy: Thứ nhất, Nước Mỹ, do áp
lực nợ chồng chất sau 2 cuộc chiến ở Iraq và Afganistan và khủng hoảng kinh tế, đã bị
yếu đi rất nhiều về khả năng triển khai sức mạnh cứng để duy trì trật tự quốc tế tại các
vùng biển có tính chiến lược. Thứ hai, sự suy yếu đi của kinh tế Mỹ sau khủng hoảng,
cộng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, đã làm thay đổi các dòng thương mại, vốn đầu tư
quốc tế theo hướng biến các nước thuộc vùng ngoại biên (periphery) xích lại gần hơn,
phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh kinh tế và quyền lực mềm của Trung Quốc. Việc
Trung Quốc vươn tầm ảnh hưởng về kinh tế, thương mại sang các nước thuộc Đông nam
Á, Châu Phi, và cả Mỹ Latinh, thể hiện xu thế này. Nói khác đi, trật tự hiện hữu bị yếu đi.
Cùng với nó là khả năng bảo vệ chủ quyền của các quốc gia thành viên thuộc liên minh,
như Nhật – Mỹ, hay khối hợp tác, như ASEAN, bị thách thức.
Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đứng trước hai lựa chọn: Thứ nhất, phối hợp với
các cường quốc trên thế giới, đứng đầu là Mỹ, nhằm duy trì trật tự khu vực; củng cố sự
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 4
ổn định và phát triển phồn thịnh, dựa trên hợp tác và thương mại toàn cầu. Thứ hai, thay
thế Mỹ, hình thành trật tự thế giới mới và lập liên minh quân sự mới do Trung Quốc đứng
đầu, nhằm cưỡng chế sự tuân thủ trật tự mới đó3.
Trên thực tế, Trung Quốc đã lựa chọn con đường thứ hai làm mục tiêu dài hạn
của mình. Tiến trình này bắt đầu bằng việc vi phạm công ước quốc tế về phân chia lãnh
hải (UNCLOS) trên Biển Đông, nhằm từng bước biến nó thành vùng biển thuộc Trung
Quốc. Điểm cốt lõi ở đây là có sự khác biệt rất rõ ràng giữa tuyến hàng hải quốc tế với
tuyến hàng hải thuộc địa phận Trung Quốc. Khi nẩy sinh mâu thuẫn chính trị hay xung
đột về lợi ích, Trung Quốc có thể dùng quyền kiểm soát để cấm quốc gia có liên quan
thông thương trên vùng Biển Đông, mặc dù về nguyên tắc, Trung Quốc cam kết duy trì tự
do hàng hải. Sự chèn ép ở quy mô quốc tế này không thể xảy ra, nếu Trung Quốc không
thể áp đặt được quyền kiểm soát trên thực tế (de facto control rights) về vùng biển bị bao
quang bởi đường chữ U. Như vậy, xung đột chủ quyền tại Biển Đông hiện nay không
phải chỉ là vấn đề song phương, mà là vấn đề về an ninh khu vực và thương mại toàn cầu.
Trung Quốc hiểu rất rõ điều đó, và Trung Quốc hiểu rằng, Mỹ, Nhật và các cường quốc
khác trên Thế giới, cũng hiểu là Trung Quốc đang toan tính gì. Cuộc chơi chèn ép
(holdup problem) trên bình diện quốc tế này thể hiện tham vọng mà Trung Quốc đang
theo đuổi trong dài hạn. Việc phân tích kỹ ván bài đó sẽ tạo nên sự đồng thuận quốc tế
nhằm giải quyết xung đột hiện thời, được Trung Quốc tô điểm thành xung đột song
phương với các nước lân bang về chủ quyền “không thể tranh cãi”, mà Trung Quốc là
bên bị xâm hại.
2. Chủ quyền quốc gia và vấn đề chèn ép
Như đã nêu, mục tiêu dài hạn của Trung Quốc là nhằm kiểm soát con đường hàng hải
quốc tế, đi từ Trung cận đông qua Ấn Độ Dương, và đi vào Biển Đông. Theo đà tăng
trưởng kinh tế, con đường biển này ngày càng trở nên có tính sống còn với Trung Quốc4.
3 Theo Viện nghiên cứu của Trung Quốc, Unirule (2011)
4 Hiện tại 80% dầu của Trung Quốc vận chuyển qua con đường biển quốc tế này. Khối lượng chuyên trở
dầu sẽ tăng từ 10 triệu thùng (10 millions barrels) một ngày vào năm 2002 lên 20 triệu thùng một ngày vào
năm 2020.
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 5
Nhưng nó cũng có tính chất sống còn với Mỹ, Nhật và các nước trong vùng. Một sự hợp
tác an ninh hàng hải quốc tế giữa Trung Quốc với Mỹ, Nhật và ASEAN sẽ là lý tưởng
cho sự ổn định và phồn thịnh của khu vực. Nhưng việc biến vùng biển quốc tế đó thành
lãnh hải thuộc địa phận Trung Quốc, lại là một bảo đảm an ninh hơn cho Trung Quốc, với
cái giá là chủ quyền của các nước nhỏ hơn trong khu vực bị xâm hại. Nói khác đi, chúng
ta đang chứng kiến một tiến trình mà Trung Quốc đang tìm cách chèn ép các nước nhỏ để
vẽ lại bản đồ khu vực. Sự chèn ép, hay tranh chấp song phương về chủ quyền biển đảo,
quyền khai thác dầu và đánh bắt cá, chỉ là bước đi ban đầu, được lồng trong một tranh
chấp lớn hơn về quyền kiểm soát đường hàng hải chiến lược đi qua Biển Đông, với hơn
1/3 thương mại toàn cầu đi qua vùng biển này. Để tránh một cuộc xung đột về quyền tự
do hàng hải trong tương lai, chúng ta phải hiểu rõ sự được mất của mỗi bên trong cuộc
chơi chèn ép về chủ quyền song phương, mà Trung Quốc đang tiến hành. Trung Quốc kỳ
vọng gì? Và tại sao việc chèn ép các nước nhỏ lại là các bước đệm ngắn hạn cho việc đạt
mục tiêu dài hạn của Trung Quốc là kiểm soát con đường hàng hải chiến lược qua Biển
Đông? Việc trả lời các câu hỏi như vậy sẽ cho phép tìm ra cơ chế thúc đẩy an ninh khu
vực, thông qua các giải pháp thương lượng hòa bình.
Để cụ thể, hãy nhìn lại vụ Trung Quốc cắt cáp tham dò dầu khí của Tàu Bình
minh 02 của Việt Nam vào các năm 2011, 2012, hay là việc đưa dàn khoan 981 vào lãnh
hải Việt Nam vào năm 2014. Hoặc việc Trung Quốc cho xây dựng cột sắt và thả phao ở
bãi Amy Douglas vào 2011 và chiếm bãi cạn Scarborough vào 2012. Trước các hành
động gây hấn như vậy của Trung Quốc, phía Việt Nam và Philippines có thể có năm lựa
chọn chính: Thứ nhất, không có phản ứng gì. Thứ hai, ra công hàm phản đối hành động
gây hấn của Trung Quốc trên các diễn đàn song phương hoặc đa phương, như tại Liên
hiệp quốc. Thứ ba, đem vụ việc ra kiện ở Tòa án Quốc tế. Thứ tư, có hành động tự vệ một
cách kiềm chế, nhưng thực chất, vẫn sẵn lòng nhân nhượng để tránh xung đột leo thang.
Chẳng hạn như việc Philippines cho nhổ các cột sắt, hoặc cho bắt giữ tàu đánh cá Trung
Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và đòi xử họ theo luật. Hay Việt Nam cho lực
lượng cảnh sát biển ra yêu cầu phía Trung Quốc di rời dàn khoan 981. Thứ năm, kiên
quyết bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền, mà không có bất cứ một sự nhân nhượng nào. Ví dụ
như việc Nhật quốc hữu hóa Senkaku; và Mỹ tuyên bố đưa Senkaku vào trong phạm vi
của hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ.
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 6
Cần phải nói rằng, nếu vụ việc chỉ gói gọn trong xung đột có tính song phương,
thì việc ra công hàm phản đối cũng gần giống như không làm gì cả. Mặt khác, việc đem
ra kiện tại tòa án quốc tế về tranh chấp đánh bắt cá hay khai thác dầu, thường hết sức tốn
kém, mất thời gian và dễ bị làm cho rắm rối, do luật quốc tế không thể đủ chi tiết để áp
dụng ngay cho việc xử các vụ kiện như vậy. Cuối cùng, khi xảy ra một chuỗi các vụ tranh
chấp liên tiếp, thì tính phức tạp của vụ việc chỉ có tăng. Và nguy cơ xung đột có thể nổ
ra. Điều đó dĩ nhiên chỉ có lợi cho bên lớn hơn, dùng sức mạnh để chèn ép, hơn là bên
nhỏ hơn, bị xâm hại, nhưng buộc phải phản ứng có kiềm chế và thỏa hiệp. Về lâu dài,
điều đó cũng giống như không làm gì để tránh nổ ra xung đột.
Như vậy, xét trên quan điểm của Trung Quốc, việc gây hấn về quyền đánh bắt cá
hay khai thác dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia nhỏ hơn trên Biển Đông
sẽ có lợi ở chỗ: (i) Trung Quốc có thể giữ cho mức độ xung đột đủ nhỏ, để mâu thuẫn
mang tính song phương, mà phía bị xâm hại ít làm được gì để thay đổi cục diện tình hình;
và (ii) Chuỗi xung đột phải đủ liên tục và đều khắp ở các điểm chiến lược trên Biển
Đông, để biến các sự việc đã rồi thành quyền kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc về
việc khai thác các nguồn lợi, mà chỉ quốc gia có chủ quyền được phép làm. Nói rõ hơn,
việc Philippines xua đuổi tàu cá Trung Quốc hay nhổ cọc ở bãi đá mà Trung Quốc vừa
dựng lên chỉ làm tăng rủi ro bị Bắc kinh tuyên bố rằng, Philippines sẽ phải hứng chịu các
hành động “chấp pháp” của Trung Quốc. Sức mạnh quân sự vượt trội và ngày càng mạnh
của Trung Quốc khiến cho nước nhỏ trong vùng phải đối mặt với rủi ro là sẽ chịu tổn thất
rất lớn, nếu một mình dám cưỡng lại hành động “chấp pháp” của Trung Quốc. Nhìn trước
kết cục như vậy, nước nhỏ đó có thể phải ngồi yên không làm gì, ngoài việc ra công hàm
phản đối, mà về thực chất cũng là không làm gì. Chính vì logic của sự chèn ép đó, mà
Việt Nam ngồi yên, khi Trung Quốc ra lệnh cấm bắt cá trong thời gian dài, trên một vùng
biển rộng lớn, bao gồm cả thềm lục địa của Việt Nam. Cam chịu sẽ dần biến thành sự
buộc phải chấp thuận quyền kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc đối với Biển Đông.
Khi đó, việc có hay không các công ước về luật Biển, bao hàm cả UNCLOS, thì cũng
chẳng thể làm được gì nhiều để thay đổi một thực tế: Đường chữ U đã được xác lập dần
trên thực tế. Điều đó bao hàm rằng, đường hàng hải chiến lược đi qua Biển Đông, dần sẽ
thuộc về Trung Quốc. Các nước khác sẽ buộc phải tuân thủ trật tự mới, được cưỡng chế
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 7
bởi sức mạnh quân sự của Trung Quốc, theo dự đoán là có thể thách thức Mỹ ở Tây Thái
bình Dương vào năm 2030.
Chiến lược chèn ép của Trung Quốc nhằm thôn tính Biển Đông có thể được tóm
tắt như sau:
Ngay sau vụ việc Trung Quốc xâm hại quyền khai thác tài nguyên thuộc chủ
quyền nước khác, như đánh bắt cá hoặc khai thác dầu của Việt Nam / Philippines. Cụ thể
là vụ dàn khoan 981. Nếu không gặp phải phản ứng gì, thì Trung Quốc sẽ ghi được 1
điểm trong chuỗi các bước chèn ép nhằm thôn tính Biển Đông. Trong hoàn cảnh đó, Việt
Nam / Philippines bị mất 1 điểm trong việc bảo vệ chủ quyền.
Một lựa chọn khác là thay vì ngồi yên, Việt Nam / Philippines có thể có phản ứng
tự vệ một cách cương quyết, phù hợp với thỏa thuận khu vực và công ước quốc tế. Nhưng
ngay sau khi vấp phải sự phản ứng tự vệ đó của Việt Nam / Philippines, Trung Quốc có
thể đáp lại bằng hai cách: Thứ nhất, tôn trọng cam kết của mình về nguyên tắc ứng xử
Biển Đông (DOC) và Luật Biển quốc tế (UNCLOS). Khi đó, các bên đạt được sự hòa
giải sau xung đột vừa xảy ra. Trung Quốc không ghi thêm được điểm nào trong chuỗi các
bước thôn tính Biển Đông (ghi điểm 0). Và Việt Nam / Philippines cũng không bị mất
điểm về chủ quyền (tức là “mất” 0 điểm).
Ngược lại, Trung Quốc có thể nuốt lời hứa tôn trọng thỏa thuận khu vực và Luật
quốc tế. Cụ thể là Trung Quốc tô vẽ lại vụ việc xung đột vừa xảy ra như mình là bên bị
xâm hại và vì vậy, buộc phải có hành động “chấp pháp”. Với sự bất cân xứng về sức
mạnh kinh tế và quân sự, phần thắng trong xung đột song phương sẽ thuộc về kẻ nào
mạnh hơn, bất kể công lý. Cụ thể là, Trung Quốc ghi được 2 điểm liên tiếp trong chuỗi
các bước “xác định lại” trật tự khu vực. Việt Nam / Philippines bị mất 2 điểm. Các tình
huống trên được biểu diễn bởi lược đồ sau:
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 8
Sơ đồ 1: Cuộc chơi chèn ép chủ quyền song phương do Trung Quốc tiến hành
Ta có thể thấy là, nếu Việt Nam / Philippines “phản ứng tự vệ” một cách đơn
phương, thì việc “xác định lại” trật tự khu vực sẽ diễn ra nhanh hơn. Nhìn trước kết cục
như vậy, thì ngay từ đầu, khi vừa xảy ra việc Trung Quốc gây hấn (vụ giàn khoan 981,
hay vụ chiếm bãi cạn Scarborough), Việt Nam / Philippines sẽ chọn việc gửi công hàm
phản đối, hoặc kiên trì thuyết phục, tuyên truyền, mà không có hành động tự vệ trên thực
tế. Kết cục là Trung Quốc chỉ ghi được 1 điểm. Việt Nam / Philippines chỉ bị mất có 1
điểm về bảo vệ chủ quyền. Dù sao đi nữa, chủ quyền của Việt Nam / Philippines vẫn bị
xâm hại.
3. Đa phương hóa việc xử lý chèn ép lãnh thổ
Trong cuộc chơi chèn ép song phương đã mô tả ở trên, điểm mạnh của Việt Nam /
Philippines là công luận quốc tế đứng về phía mình. Tính phiêu lưu trong chiến lược chèn
ép của Trung Quốc là nó ngày một đẩy Mỹ và các đồng minh của Mỹ là Nhật Bản, Tây
Âu, bao gồm cả Úc, và cả Ấn Độ, vào thế phải đối đầu với Trung Quốc trong một cuộc
cạnh tranh về tự do hàng hải. Cụ thể là xung đột trong tương lai về quyền tự do lưu thông
và an ninh hàng hải ở Tây Thái bình dương, mà nó có thể lan sang Ấn Độ dương, một
Không phản ứng Phản ứng tự vệ
Trung Quốc
Tôn
trọng
thỏa ước
Xác định
lại
VN /Ph: -1
TQ : 1
0
0
-2
2
Việt Nam / Philippines
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 9
khi Việt Nam / Philippines và các nước trong khu vực bị mất dần chủ quyền và rơi vào
quỹ đạo của Trung Quốc. Như vậy, song song với cuộc chơi chèn ép các nước nhỏ, Trung
Quốc tiến hành một cuộc chơi khác, giành thế và lực trong cuộc cạnh tranh hay đối đầu
trong tương lai về trật tự khu vực với Mỹ, Nhật, Úc và cả Ấn Độ. Xét ở thời điểm hiện
tại, hai cuộc chơi này không phải là không liên đới nhau.
Cụ thể là, trước sự chèn ép của Trung Quốc, việc gia nhập vào khối các quốc gia,
liên kết với nhau ngày càng mạnh hơn về thể chế tổ chức, trao đổi thương mại, và gìn giữ
an ninh khu vực, tự nó sẽ cho phép Việt Nam / Philippines bảo vệ chủ quyền của mình
hữu hiệu hơn. Một khi khả năng tự chủ của Việt Nam / Philippines về thể chế tổ chức,
kinh tế, và an ninh, tăng lên, thì sẽ làm tăng khả năng “tái cân bằng” (rebalance) ảnh
hưởng địa chính trị giữa các cường quốc tại khu vực Đông Nam Á. Tức là làm tăng khả
năng đối thoại và hợp tác trong cuộc chơi thứ hai, nhằm bảo vệ trật tự hiện hữu tại khu
vực.
Phân tích trên đây cho thấy, cuộc chơi chèn ép chủ quyền song phương mà Trung
Quốc tiến hành với nước nhỏ hơn trong vùng đã thay đổi về bản chất. Bây giờ, nó bị kết
nối với cuộc chơi khác, nhằm xác định trật tự hàng hải giữa Trung Quốc và Mỹ. Cuộc
chơi thứ hai không đơn thuần là sự đối đầu trực diện giữa hai siêu cường. Nó được lồng
trong việc hình thành khối các quốc gia liên kết về nhiều mặt trong quan hệ quốc tế,
chẳng hạn như việc ký kết TPP, nhằm đối trọng lại với ảnh hưởng ngày càng tăng của
Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á, mà tranh chấp Biển Đông là tâm điểm. Để hiểu
những kết cục gì có thể xảy ra trong tương lai, chúng ta hãy hiện thực hóa hơn nữa cuộc
chơi chèn ép song phương, mô tả ở Sơ đồ 1, bằng việc đưa thêm vào sự lựa chọn của Việt
Nam (hoặc Philippines) tham gia vào khối hợp tác giữa các quốc gia, như hợp tác TPP.
Cuộc chơi trong Sơ đồ 2 khác với cuộc chơi chèn ép song phương, mô tả ở Sơ đồ
1, ở chỗ Việt Nam có thêm sự lựa chọn tham dự vào quan hệ đối tác trên nhiều lĩnh vực
với một khối các quốc gia. Để cho cụ thể, ta hãy lấy triển vọng ký kết TPP làm ví dụ.
Chúng ta đơn giản hóa những chi tiết không cần thiết và giả sử rằng, TPP chỉ bao
gồm Việt Nam và Mỹ. Sau khi Việt Nam xin gia nhập TPP, thì Mỹ và Việt Nam sẽ cùng
tham dự một cuộc chơi phối hợp, xác định tương lai của TPP. Một triển vọng lạc quan là,
Mỹ và Việt Nam sẽ cam kết thúc đẩy các thay đổi về thể chế kinh tế. Chẳng hạn như việc
chấm dứt trợ cấp các doanh nghiệp Nhà nước. Quan trọng hơn, đó là việc du nhập dần
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 10
các thể chế quản trị tiến bộ từ các nền kinh tế thị trường hiện đại vào xã hội truyền thống
ở Việt Nam. Nhờ vậy, năng suất lao động và suất sinh lời của vốn tăng lên. Tức là làm
tăng khả năng thu hút vốn FDI; cũng như tạo ra dòng lao động có chất lượng cao chẩy
vào Việt Nam5. Hệ quả là có sự gia tăng giao dịch thương mại hai chiều và tăng trưởng
kinh tế bền vững của cả hai quốc gia. Điều này đã diễn ra trong quan hệ song phương
giữa Mỹ với Singapore; Hong Kong, Đài loan, hoặc Hàn Quốc, trong thập niên 1960-70.
Và quan hệ hợp tác đó tiếp tục phát triển cho tới ngày nay.
Trong triển vọng trung và dài hạn, sự gia tăng sức mạnh kinh tế - thương mại của
toàn khối sẽ cho phép tái cân bằng lại ảnh hưởng của các cường quốc tại Châu Á – Thái
bình Dương, trước một Trung Quốc đang lên. Trong bối cảnh như vậy, Mỹ sẽ có lợi ích
lớn hơn (và tổn phí ít hơn) trong việc “cam kết” bảo vệ trật tự khu vực và tự do hàng hải
tại Biển Đông, mà nó là điều kiện cần thiết cho tự do thương mại trong toàn khối TPP.
5 Điều này ngược với suy nghĩ của nhiều chính sách gia tại Việt Nam cho rằng lợi thế lao động rẻ và suất
thuế thấp đánh vào việc sử dụng tài nguyên, như đất đai, là cái thu hút FDI. Nếu không có sự tiến bộ về tổ
chức và công nghệ, thì khả năng thu hút FDI ngày càng có xu hướng chậm lại, khi tỷ lệ FDI/GDP ngày
càng cao.
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 11
Sơ đồ 2: Cuộc chơi chèn ép chủ quyền khi kết nối với cuộc chơi xác định trật tự hàng
hải6
Để cho cụ thể, ta xem rằng, nếu Trung Quốc “tôn trọng thỏa ước”, bao gồm cả
UNCLOS, thì Mỹ sẽ được lợi 4 điểm. Ngược lại, nếu Trung Quốc muốn “xác định lại”
bản đồ khu vực, nhưng Mỹ giữ “cam kết” bảo vệ trật tự hiện hữu, thì Mỹ vẫn được lợi
ròng là 1 điểm. Với điều kiện là TPP được làm cho có hiệu lực. Về phía mình, Trung
Quốc cũng sẽ thấy có lợi hơn trong việc “tôn trọng thỏa ước”, vì nó thúc đẩy giao thương
quốc tế và có lợi cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc (được 1 điểm). Lựa chọn đó rõ
ràng là tốt hơn việc “xác định lại” bản đồ khu vực, vì Trung Quốc sẽ vấp phải cam kết
của Mỹ và các quốc gia khác trong việc duy trì công ước quốc tế về biển, UNCLOS.
Trong đó có quy định về vùng đặc quyền kinh tế của từng quốc gia, và quyền tự do hàng
hải quốc tế (mất 1 điểm).
6 Trong Sơ đồ 2, cuộc chơi chèn ép song phương được viết gọn lại là kết cục Việt Nam “không phản ứng”.
Và bên cạnh đó, Việt Nam có lựa chọn là gia nhập TPP.
Không phản ứng
Trung Quốc
VN : -1
TQ : 1
Mỹ: 0
Việt Nam
Gia nhập TPP
1 1 4
Tôn trọng
Xác định lại
-0.5 -1 1
Mỹ
Xác định lại
Tôn trọng
-K 3 -L
0 0 0
Giữ cam kết Thỏa hiệp
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 12
Như vậy, khả năng cam kết duy trì trật tự khu vực được làm cho có hiệu lực. Điều
đó bao hàm rằng, thay vì bị chèn ép song phương, Việt Nam sẽ hưởng lợi nhờ hợp tác đa
phương TPP (được 1 điểm). Nhìn thấy triển vọng đó, Việt Nam sẽ tham gia TPP và cam
kết cải cách thể chế kinh tế. Chuyến thăm lịch sử của Tổng bí Thư Nguyễn Phú Trọng
sang Mỹ đã đánh dấu sự khởi đầu của một tiến trình như vậy.
Nhưng một cách thực tế, chúng ta phải nhìn nhận một khả năng khác, là sau khi
Việt Nam gia nhập TPP, cuộc chơi phối hợp giữa Việt Nam và Mỹ đem lại kết cục tồi: sự
khác biệt về thể chế tổ chức, khoảng cách về năng suất lao động và năng lực cạnh tranh
giữa hai nền kinh tế ngày càng mở rộng. TPP vẫn chỉ là sân chơi của các quốc gia đã phát
triển nhất. Và sự thay đổi về thể chế, theo hướng thúc đẩy tiến bộ về kinh tế và xã hội ở
các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, bị dậm chân tại chỗ hoặc bị đảo lộn.
Trước một Trung Quốc đang lên, và sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất trong vòng
một thập kỷ tới, thì các nước nhỏ ở vùng ngoại vi, bao gồm cả Việt Nam, sẽ rơi vào quỹ
đạo của Trung Quốc. Và chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ sẽ bị suy yếu nghiêm trọng;
hoặc có nguy cơ bị phá sản. Mỹ sẽ đứng trước một triển vọng là có lợi ích ít hơn nhiều
(và tổn phí cao hơn nhiều) trong việc “cam kết” bảo vệ trật tự khu vực, bao hàm cả việc
duy trì công ước quốc tế về luật Biển (UNCLOS) tại khu vực có tranh chấp là Biển Đông.
Trong khi đó, hiệp định tự do thương mại giữa Trung Quốc với ASEAN, hoặc với Hàn
Quốc và Nhật Bản, có thể phát huy ảnh hưởng, làm yếu liên kết TPP. Trung Quốc khi đó
sẽ trở nên quyết đoán hơn trong tranh chấp trên Biển Đông.
Như vậy, có sự thay đổi về kỳ vọng được / mất trong chiến lược của cả Mỹ và
Trung Quốc. Cụ thể là, nếu Mỹ tiếp tục giữ “cam kết”, thì tổn thất có thể sẽ lớn hơn, so
với việc Mỹ “thỏa hiệp” với Trung Quốc, một khi Trung Quốc quả quyết hơn trong việc
khẳng định chủ quyền đơn phương tại Biển Đông. Ngược lại, Trung Quốc sẽ chịu tổn thất
nhiều hơn, nếu không nắm quyền kiểm soát tuyến đường hàng hải huyết mạch. Vì nó
đảm bảo cho thương mại của Trung Quốc với Châu Á và phần còn lại của Thế giới không
bị làm chao đảo bởi tranh chấp, dẫn đến xung đột trên biển.
Nói khác đi, Trung Quốc có chiến lược trội (dominant strategy) là “xác định lại”
trật tự khu vực. Trong khi Mỹ sẽ phải chịu tổn phí cao hơn nếu giữ “cam kết”, hơn là
“thỏa hiệp”. Vì vậy, Mỹ sẽ nghiêng về phía “thỏa hiệp”. (Xem sơ đồ 3, phần phụ lục).
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 13
Kết cục này giống như nhánh cuối, về bên phải ở Sơ đồ 2. Nó thể hiện việc Trung
Quốc sẽ lựa chọn “xác định lại” trật tự khu vực (được 3 điểm), hơn là “tôn trọng thỏa
ước”. Rõ ràng rằng, Trung Quốc được lợi hơn nhiều, một khi “cam kết” tái cân bằng của
Mỹ tại Châu Á – Thái bình Dương không được làm cho có hiệu lực. Và Mỹ sẽ bị thiệt
(mất L điểm); nhưng tổn thất đó vẫn ít hơn, so với trường hợp không chấp nhận “thỏa
hiệp” với Trung Quốc. Việt Nam sẽ bị thiệt hại nhất trong trường hợp này (-K điểm, và K
là một số rất lớn), vì bị bỏ rơi bởi hầu hết các nước lớn trên bàn cờ địa chính trị trong khu
vực.
Như vậy, cuộc chơi phối hợp giữa Mỹ và Việt Nam, sau khi Hà Nội gia nhập
TPP, mang tính quyết định. Nếu sự phối hợp giữa Mỹ và Việt Nam trong việc cải cách
thể chế có bước tiến triển rõ ràng, thì có sự gia tăng quan hệ thương mại hai chiều. Điều
đó làm thu hẹp dần sự khác biệt giữa hai quốc gia, như trong quan hệ giữa Mỹ với bốn
con rồng Châu Á. Khi đó, tất cả các bên liên quan, kể cả Trung Quốc, sẽ có lợi trong việc
hợp tác nhằm duy trì ổn định khu vực và phát triển thương mại. Vì vậy, tranh chấp khu
vực sẽ có chiều hướng được giải quyết thông qua đàm phán hòa bình. Ngược lại, nếu sự
phối hợp giữa Mỹ và Việt Nam bị thất bại, thì điều đó làm tăng khả năng xảy ra tranh
chấp nóng hơn trên Biển Đông, mà Mỹ sẽ ít bị thiệt hơn, nếu thỏa thuận với Trung Quốc
trong việc “chia sẻ lại” vùng ảnh hưởng.
Dù gì đi nữa, sự thất bại trong chiến lược tái cân bằng vẫn sẽ là một tổn thất
mang tính chiến lược dài hạn. Nếu tổn thất do suy giảm ảnh hưởng địa chính trị tại Châu
Á đối với Mỹ (-L) là rất lớn, thì “cam kết” tái cân bằng của Mỹ cần phải làm cho có hiệu
lực. Điều đó bao hàm rằng, trong cuộc chơi phối hợp giữa Mỹ và Việt Nam, phía Mỹ cần
có một sự cẩn trọng trong thiết kế chính sách hỗ trợ cải cách thể chế tại Việt Nam. Vấn
đề là, thể chế là một dạng vốn (capital). Và cũng như mọi dạng vốn, sự thay đổi thể chế
chỉ có thể diễn ra từ từ (Arrow, 1994). Do vậy, cải cách ở Việt Nam cần có lộ trình và
mục tiêu rõ ràng, nhằm tăng khả năng cam kết đổi mới thể chế (Dixit, Nalebuff, 1992).
Nhờ đó, Việt Nam sẽ từng bước hiện đại hóa nền kinh tế trong khuôn khổ hợp tác TPP.
Điều đó sẽ đóng góp vào việc tái cân bằng ảnh hưởng địa chính trị giữa Mỹ, Nhật Bản và
cả Ấn Độ, đối với Trung Quốc tại Châu Á.
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 14
Nói khác đi, cuộc chơi phối hợp giữa Mỹ và Việt Nam là một quá trình phối hợp
dài hạn (repeated game). Đó không phải là một cuộc chơi ngắn hạn (one-shot game), mà
chỉ cần đội cái mark là thành viên TPP thì sự thần kỳ về kinh tế sẽ đến ngay, như nhiều
người ở Việt Nam nghĩ, hay kỳ vọng. Quan trọng hơn, việc cho rằng TPP sẽ đem lại cái
lợi chóng vánh, mà không cần phải nỗ lực hiện đại hóa về tổ chức nhằm du nhập tiến bộ
công nghệ, thì sẽ chỉ làm tăng hơn nữa khả năng rằng, kết cục tồi sẽ xảy ra. Sẽ không có
một sự chuyển mình thần kỳ, mà thay vào đó là sự thụt lùi về thể chế và kinh tế. Hoặc
tiến trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa bị làm cho đảo lộn. (Xem chứng minh ở phần
phụ lục).
Như vậy, làm cho mọi người hiểu rằng, TPP là một tiến trình hợp tác dài hạn,
nhằm đem lại ổn định và thịnh vượng cho khu vực, là làm tăng khả năng đạt được kết cục
tốt cho mọi thành viên trong khu vực, kể cả Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam. Và việc tạo ra
một ảo tưởng về sự thay đổi chóng vánh có tính thần kỳ, sau đàm phán TPP, thì sẽ chỉ
làm tăng khả năng đưa đến kết cục ngược lại: sự phá sản của chiến lược tái cân bằng của
Mỹ. Và Việt Nam có thể bị bỏ rơi trong cuộc chia lại quyền ảnh hưởng địa chính trị và
kinh tế giữa các nước lớn tại khu vực.
4. Kết luận
TPP không phải là một “cây gậy thần”, chỉ cần dựa vào đó, mà không cần phải có nỗ lực
gì cả. Và TPP cũng không phải là cái ô bảo hộ của một nước lớn giành cho Việt Nam,
trước sự chèn ép của một nước thứ ba. Việt Nam phải chủ động làm tăng khả năng phối
hợp với các quốc gia đã phát triển ở lĩnh vực, mà mình có lợi thế so sánh lớn nhất. Xét
trên quan điểm địa lý trong thương mại quốc tế, lợi thế lớn nhất của Việt Nam không phải
là lao động rẻ, mà chính là vị trí quan trọng của nó trong việc duy trì ổn định và làm tăng
hiệu quả của luồng vận tải thương mại qua Biển Đông.
Như vậy, sự phối hợp có thể bắt đầu bằng việc tận dụng lợi thế tuyệt đối về vị trí
địa lý nhằm khai thác nguồn tài nguyên biển. Không đơn giản chỉ là dầu khí hay hải sản.
Như đã gợi ý, quan trọng hơn rất nhiều, đó là đường hàng hải chiến lược qua Biển Đông,
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 15
với hơn 1/3 giá trị thương mại toàn cầu đi qua đó. Tiềm năng phát triển kinh tế và vị thế
địa lý chiến lược của Việt Nam có thể tạo ra sự bổ trợ lẫn nhau, cho phép Việt Nam tham
dự ngày càng nhiều hơn vào việc khai thác nguồn tài nguyên khổng lồ và ngày một tăng
này7. Việt Nam có thể sử dụng không cảng và hải cảng chiến lược, như Cam Ranh, làm
kho dự trữ và nơi cung cấp hậu cần, neo đậu và sửa chữa, bảo trì cho các tàu thuyền quốc
tế đi qua tuyến hàng hải từ Biển Đông sang Ấn Độ Dương và ngược lại. Các dịch vụ
logistic đó cho phép tăng tính an toàn và hiệu quả, hay giảm chi phí và rủi ro trong vận
chuyển trên không và trên biển. Vì vậy, nó làm tăng sự đóng góp của Việt Nam vào giá
trị thương mại của đường vận chuyển quốc tế dọc theo Biển Đông. Ở đây có sự ghép nối
giữa lợi ích thương mại và bảo đảm an ninh đa phương, mà các bên liên quan đều hưởng
lợi. Do đó, giá trị của sự phối hợp là rất lớn. Từ các điểm nút chiến lược ven biển, như
Cam Ranh, sự bùng nổ về giao dịch, vận chuyển quốc tế, sẽ cho phép các dòng vốn, công
nghệ, và các phương thức tổ chức hiệu quả lan truyền vào Việt Nam. (Điều mà đã diễn ra
tại Singapore vào thập kỷ 1960 -70 ở thế kỷ trước). Các nguồn lực này sẽ tạo nên sự tăng
trưởng dựa trên đổi mới tổ chức và sáng tạo (hay vốn tri thức); kéo theo sự hoà nhập
mạnh của Việt Nam vào chuỗi thương mại toàn cầu, thông qua hợp tác TPP. Dẫu rằng
TPP không xuất hiện vào ngày mai. Nhưng một tiến trình hợp tác như vậy có thể bắt đầu
từ ngày hôm nay. Sự hợp tác đó có thể làm thay đổi các tính toán về nước cờ địa chính trị
của các nước lớn, theo hướng có lợi cho tiến trình hiện đại hóa Việt Nam. Nói rõ hơn,
việc khai thác lợi thế về thông thương và tăng cường giao dịch quốc tế chính là làm tăng
giá trị kinh tế của chủ quyền và sức mạnh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam.
7 Theo dự đoán của các chuyên gia và các tổ chức có uy tín, tới năm 2050, Trung Quốc và Ấn Độ cộng lại
có thể chiếm đến 50% GDP toàn cầu. Vì vậy, giá trị thông thương trên đường biển quốc tế qua Biển Đông
sẽ là vô cùng lớn trong tương lai.
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 16
Phụ lục: Phân tích các bước đi chiến lược
Phần này giành cho việc trình bày một số mệnh đề, chứng minh cho các nhận định, lập
luận đưa ra trong bài viết.
Mệnh đề 1: Trong các tranh chấp song phương, biểu diễn bởi Sơ đồ 1, nước nhỏ như
Việt Nam hoặc Philippines luôn chọn việc “không phản ứng” (hay các giải pháp tương
tự), một khi bị nước lớn chèn ép về chủ quyền.
Chứng minh: Sau sự cố về việc Trung Quốc vi phạm chủ quyền, được quy định
bởi công ước quốc tế (UNCLOS), như vụ giàn khoan 981, hay vi phạm thỏa thuận Trung
Quốc - ASEAN (DOC), như tôn tạo các bãi đá ngầm ở Trường Sa. Việt Nam /
Philippines sẽ mong muốn có “Phản ứng”, nếu tin rằng Trung Quốc sẽ giữ cam kết thực
thi thỏa ước đã ký. Nếu vậy, thì trật tự hiện hành (status quo) trong khu vực được giữ
nguyên. (Các bên nhận (0,0) điểm). Tuy nhiên, việc Trung Quốc “tôn trọng thỏa ước” là
không đáng tin cậy (This strategy is not credible). Lý do là Trung Quốc sẽ vin vào các
chứng cứ lịch sử, không được nêu lên trong thỏa ước hay công ước quốc tế và rất khó
kiểm chứng, để làm cái cớ “xác định lại” trật tự khu vực (holdup problem). Khi đó, việc
nước nhỏ chọn “phản ứng” sẽ bị thiệt nặng trong tranh chấp song phương với Trung
Quốc. (Nước nhỏ thiệt 2 điểm, Trung Quốc lợi 2 điểm). So với trường hợp “không phản
ứng”, rõ ràng lựa chọn sau là tốt hơn. Vì nước nhỏ chỉ bị mất 1 điểm, do tránh được xung
đột với nước lớn. Kết cục là Trung Quốc sẽ chèn ép và nước nhỏ sẽ “không phản ứng”.
Mệnh đề 2: Nếu tiến trình phối hợpMỹ - Việt đem lại kết cục thành công của TPP, thì
hợp tác trong khu vực sẽ là xu thế dài hạn.
Chứng minh: Khả năng Việt Nam xin gia nhập TPP được biểu diễn bởi Sơ đồ 2.
Để đơn giản hóa phân tích, bài toán phối hợp Việt – Mỹ, sau khi Việt Nam gia nhập TPP,
bị làm ẩn. Thay vào đó, chỉ có kết cục thành công trong việc phối hợp dài hạn Việt – Mỹ,
được biểu diễn trong Sơ đồ 2. Cụ thể là Mỹ sẽ được hưởng lợi 4 điểm, nếu Trung Quốc
“tôn trọng thỏa ước”; và vẫn được 1 điểm, nếu Mỹ “cam kết” bảo vệ tự do hàng hải, một
khi Trung Quốc muốn “xác định lại” trật tự khu vực trên Biển Đông. Nhìn vào Sơ đồ 2,
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 17
chúng ta thấy Mỹ có chiến lược trội là “cam kết” bảo vệ công ước quốc tế hiện hữu trên
Biển Đông, bất kể chiến lược của Trung Quốc là gì. Vấn đề là, nếu hợp tác dài hạn trong
quan hệ Việt – Mỹ (TPP) thành công, thì giữ “cam kết” là chiến lược duy nhất cho phép
Mỹ luôn hưởng lợi. Nhưng nếu vậy, thì Việt Nam ngay từ đầu sẽ chọn việc gia nhập TPP,
hơn là “không phản ứng” gì, khi bị Trung Quốc chèn ép. (Trên thực tế, kỳ vọng này dẫn
đến cuộc viếng thăm Mỹ của Tổng bí Thư Nguyễn phú Trọng, năm 2015, như đã nêu.)
Điều đó hàm ý rằng, ở Sơ đồ 2, Trung Quốc sẽ tin rằng, trong triển vọng dài hạn, cuộc
chơi sẽ tiến đến điểm bên phải của đường gạch nét, khi Trung Quốc đến lượt mình sẽ
chọn “tôn trọng thỏa ước” hay “xác định lại” trật trự khu vực. So sánh được / mất, Trung
Quốc hiển nhiên sẽ chọn phương án hợp tác, hay “tôn trọng thỏa ước”, hơn là “xác định
lại” trật tự, vì vấp phải “cam kết” của Mỹ và đồng minh trong việc bảo vệ công ước quốc
tế, bao gồm luật biển UNCLOS. Việt Nam hiển nhiên được lợi trong kết cục hợp tác này.
Theo thuật ngữ Game theory, kết cục hợp tác cùng phát triển dài hạn nay là một trạng
thái ổn định (Sub-game Perfect Nash Equilibrium).
Mệnh đề 3: Nếu phối hợp Việt – Mỹ mang tính ngắn hạn và tiến trình hiện đại hóa của
Việt Nam bị chững lại hoặc bị làm cho đảo lộn, thì Trung Quốc nhất định sẽ “xác định
lại” trật tự khu vực.
Chứng minh: Hãy nhìn vào Sơ đồ 3: Bối cảnh bây giờ là sau khi TPP đã được ký
kết. Vì vậy, sự lựa chọn của Việt Nam bị thu hẹp. Quan trọng hơn, Sơ đồ 3 thể hiện rằng,
về lâu dài, sự “đối đầu” chủ yếu chỉ còn là giữa Mỹ và Trung Quốc. Mặc dù vậy, tính tự
chủ, độc lập, tự vươn lên của Việt Nam lại được nhấn mạnh ở kịch bản này.
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 18
Sơ đồ 3: Gia nhập TPP có kết cục tồi: M >> L
Nếu Việt Nam kỳ vọng rằng, vào TPP là có sự thay đổi thần kỳ, mà không cần nỗ
lực đổi mới tổ chức sản xuất, thu hút công nghệ hiện đại, thì hợp tác Việt – Mỹ có xu
hướng bị thất bại, ngay trong triển vọng ngắn hạn. Nhưng một khi TPP không phát huy
được hiệu lực trong ngắn hạn, thì nó làm thay đổi kỳ vọng được mất trong dài hạn về
chiến lược của các cường quốc. Cụ thể là, Trung Quốc có chiến lược trội (dominant
strategy) là “xác định lại” trật tự trên Biển Đông. Nhưng Mỹ lại được lợi ít hơn nhiều, và
tổn phí cao hơn nhiều, trong việc giữ “cam kết”. Vì vậy, trong dài hạn, Mỹ sẽ chọn
phương án “thỏa hiệp”. Nhưng nếu vậy, thì sẽ có lợi hơn cho Việt Nam, nếu như đã
không chọn gia nhập TPP, vì rủi ro bị bỏ rơi. Trong khi đó, Mỹ có lợi hơn, nếu không
vạch rõ đường lằn đỏ giữa “cam kết” hay “thỏa hiệp”, một khi Trung Quốc chưa thực sự
thách thức lợi ích của Mỹ.
Không phản ứng
Trung Quốc
Việt Nam
Gia nhập TPP
1 -2 0
Tôn trọng
Xác định lại
-0.5 -1 -M
Mỹ
Xác định lại
Tôn trọng
-K 3 -L
0 -2 0
Giữ cam kết Thỏa hiệp
VN : -1
TQ : 1
Mỹ: 0
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 19
Trên thực tế, tình huống này được thể hiện bởi tuyên bố hùng hồn của Tập Cận
Bình về vấn đề Biển Đông trong các cuộc viếng thăm Mỹ và Singapore, năm 2015, mà
Việt Nam chỉ có thể ra tuyên bố phản đối. Và Washington thì vẫn không có thái độ rõ
ràng với “cam kết” bảo vệ tự do hàng hải. Biểu hiện gần đây nhất là chuyến đi vô hại
(innocent passage) của tàu Mỹ qua các bãi Su Bi, Đá Vành Khăn và Ga Ven, nơi Trung
Quốc khó có thể thách thức quyền tự do hàng hải, do các thực thể này đều là các bãi đá
ngầm được tôn tạo.
Mệnh đề 4: Hợp tác dài hạn Việt – Mỹ (và các cường quốc khác trên Thế giới), nhằm đổi
mới phương thức quản lý và từng bước hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam, là điều kiện
cần thiết để đạt kết cục hợp tác tại khu vực, bao gồm cả vấn đề Biển Đông.
Chứng minh: Việc chứng minh mệnh đề này đòi hỏi chúng ta phải biểu diễn
tường minh cuộc chơi phối hợp giữa Việt Nam và Mỹ (hay với các cường quốc khác trên
Thế giới), sau khi Việt Nam đã gia nhập TPP. Hãy nhìn vào Sơ đồ 4.
Sơ đồ 4: Phối hợp trong khuôn khổ TPP: X >> L.
Trong sơ đồ này, nhánh ngoài cùng bên phải thể hiện kỳ vọng về kết cục hợp tác
dài hạn (Mệnh đề 2). Và nhánh trong cùng ứng với trường hợp TPP bị thất bại (Mệnh đề
Đầu tư thấp Đầu tư cao
Việt Nam
Nỗ lực
thấp
Nỗ lực
cao
Mỹ /Nhật: -L
Việt Nam : -K
-X
2
4
1
Mỹ / Nhật
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 20
3). Ngoài ra còn xuất hiện tình huống hiểu nhầm ngắn hạn (disequilibrium), biểu diễn bởi
nhánh ở giữa, khi Mỹ và đồng minh nỗ lực hay đầu tư cao vào phối hợp với Việt Nam,
nhưng Việt Nam chỉ nỗ lực thấp.
Vấn đề là, để có kết cục hợp tác trong khuôn khổ TPP (Mệnh đề 2), các nền kinh
tế phát triển, như Mỹ hoặc Nhật phải có “đầu tư cao” (big push), nhằm thúc đẩy việc đổi
mới phương thức tổ chức và con người. Nhờ đó, nâng cao khả năng thu hút công nghệ và
vốn (FDI) của Việt Nam. Nhưng dĩ nhiên, điều này chỉ xảy ra khi Việt Nam có “nỗ lực
cao” về đổi mới con người và bộ máy quản lý, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư nước
ngoài. Trong ngắn hạn, sự thay đổi thể chế như vậy thường đòi hỏi một cam kết chính trị
quá lớn, mà ít quốc gia đang phát triển nào thấy có thể thực hiện được. Vì vậy, Việt Nam
sẽ vin vào tính “đặc thù”; và chỉ thực hiện “nỗ lực thấp”. Nhưng nếu nhìn thấy trước
rằng, Việt Nam không sẵn sàng cho một chuyển biến về chất, thì ngay từ đầu, Mỹ (Nhật)
sẽ chọn mức “đầu tư thấp” cả về lượng và về chất: Tức là vẫn chỉ tập trung vào khai thác
lao động rẻ, kém kỹ năng, và thu lợi trước mắt. Kết cục là sau khi gia nhập TPP, tầm
nhìn của các bên đều mang tính ngắn hạn. Và hầu như không có gì thay đổi, so với trước
TPP. Như đã nêu ở Mệnh đề 3, tầm nhìn ngắn hạn sẽ dẫn đến mất mát dài hạn cho mọi
thành viên của TPP.
Bây giờ giả sử Mỹ / Nhật phân nhỏ tiến trình thúc đẩy đổi mới ở Việt Nam
(moving in small steps). Tức là, thay vì cuộc chơi một lần (one shot game), tương tác
giữa các bên sẽ tiếp tục trong tương lai, một khi đã đạt được hợp tác ở thời điểm hiện tại
(repeated game). Khi đó, khả năng cam kết đổi mới sẽ tăng lên. Cụ thể là, Việt Nam sẽ
thực hiện từng bước phối hợp với Mỹ (Nhật), nếu lợi ích dài hạn của sự đổi mới lớn hơn
lợi ích trước mắt của việc duy trì phương thức tổ chức kém hiệu quả: 1)1(1
K
. Ở
đây, là hệ số khấu hao (discount rate).
Trên thực tế, điều này thể hiện bởi thỏa thuận giữa Việt Nam và Nhật bản, cho
phép tàu của Nhật cập cảng Cam ranh để tiếp nhận hậu cần, mà việc đó đòi hỏi phải có sự
đổi mới về năng lực, trình độ tổ chức, và kỹ năng hậu cần. Những bước phát triển sâu
hơn trong quan hệ hợp tác giữa 2 nước trong lĩnh vực đảm bảo an ninh và ổn định trong
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 21
khu vực sẽ được mở ra trong tương lai, một khi hợp tác ở thời điểm hiện tại đem lại thành
quả cụ thể. Nhìn dưới ánh sáng đó, thì việc Mỹ cho tàu viếng thăm vô hại các bãi đá
Trung Quốc tôn tạo, hay cho máy bay B-52 bay vào Trường Sa, nhưng không đi vào
vùng 12 hải lý quanh các đảo nhân tạo của Trung Quốc, là một chiến lược hợp lý. Và các
bước đi đó sẽ tiếp tục được lặp lại trong tương lai.
Như vậy, hợp tác dài hạn Mỹ (Nhật) – Việt có thể được hiện thực hóa, ban đầu ở
những nơi hay lĩnh vực, mà sự hợp tác đem lại thành quả thấy được; và các bên nghĩ
nhiều hơn đến lợi ích của hợp tác trong tương lai, hơn là chỉ có mối lợi trước mắt
( không quá nhỏ). Từng bước, quan hệ hợp tác dài hạn sẽ được nhân rộng dần. Cùng với
nó là sự phát triển về vốn người, năng lực chuyên môn và phương thức tổ chức – quản
trị, có lợi cho sự hợp tác dài hạn tại Việt Nam. Cùng với Mệnh đề 2, triển vọng hợp tác
dài hạn trong khu vực có thể trở thành hiện thực, thông qua TPP.
Mệnh đề 5: Để hợp tác quốc tế dài hạn mang tính khả thi, Việt Nam cần có lộ trình
nhằm từng bước nâng cao vốn người (human resource), năng lực chuyên môn và trình độ
tổ chức – quản lý. Nhờ đó, làm tăng năng lực cạnh tranh và khả năng hòa nhập mạnh
hơn vào giao thương quốc tế.
Chứng minh: Để dễ hình dung, chúng ta hãy tiếp tục ví dụ về hợp tác từng bước Mỹ
(Nhật) – Việt, mà thành công ở bước hiện tại là cơ sở để tiếp tục hợp tác trong tương lai.
Việc tiếp tế hậu cần cho tàu Nhật cập cảng Cam ranh, hay việc Nhật trang bị tàu hải cảnh
cho Việt Nam, hay tập trận chung Việt – Nhật trong cứu hộ và đảm bảo hàng hải, là các
bước đi cụ thể trong quan hệ hợp tác. Nhưng đi kèm theo đó, là việc Nhật phải hỗ trợ
Việt Nam về huấn luyện kỹ năng làm việc, phương thức tổ chức làm việc, nhằm đảm bảo
tính hiệu quả của sự phối hợp.
Chúng ta ký hiệu năng lực của cá nhân hay tổ chức của Việt Nam, sau khi đã nhận
được sự đào tạo là 1 . Tham số thể hiện trình độ hiểu biết công nghệ hiện đại, hoặc
khả năng sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ phức tạp, hay rộng hơn nữa là sự hiểu biết về cơ hội
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 22
hoặc rủi ro đang đặt ra. Chúng ta giả sử rằng, 01 , ở đó,
0 là năng lực của cá nhân
hay tổ chức đó, trước khi được đào tạo để tham gia phối hợp Mỹ (Nhật) – Việt. Nỗ lực
1q và thành quả đạt được 1V của tổ chức và cá nhân đó qua hợp tác quốc tế, được xem là
cao hơn, so với khi không có sự hợp tác. Tức là, 01 qq và
01 VV . (Chẳng hạn, việc
hợp tác Nhật – Việt làm giảm chi phí cho việc sẵn sàng thực hiện tuần tra ở Biển Đông
của tàu Nhật, nhờ vào việc cập cảng Cam ranh để tiếp nhận hậu cần, thay vì phải vượt
qua 2000 km đường biển không có trạm tiếp tế hậu cần). Vì vậy, giá trị của sự hợp tác
1V hiển nhiên là lớn hơn, khi không có hợp tác, 0V . Viết gọn là:
01 VV . Nhưng nỗ lực
của phía Việt Nam trong hợp tác cũng cao hơn là trường hợp không có hợp tác: 01 qq .
Như vậy, rõ ràng là, cá nhân hay tổ chức có năng lực theo chuẩn mực quốc tế cao
hơn, 01 , thì nhận lãnh trách nhiệm lớn hơn,
01 qq , và tạo ra giá trị cao hơn,
01 VV . Vì vậy, cá nhân hay tổ chức đó của Việt Nam cũng phải nhận được thu nhập lớn
hơn, so với khi không tham gia vào hợp tác quốc tế: 01 tt . Ở đó,
10 , tt là thu nhập của
cá nhân hay tổ chức trước và sau khi có đào tạo và tham dự vào hợp tác quốc tế. Như
vậy, các mức thu nhập 10 , tt tương ứng với trình độ kỹ năng
10 , .
Một điều kiện cơ bản để hợp tác quốc tế khả thi, là lợi ích ròng (thu nhập cao, sau
khi bù cho nỗ lực làm việc cao) của cá nhân hay tổ chức tham gia hợp tác, ký hiệu là 1U ,
ít ra cũng phải nhỉnh hơn mức độ thỏa dụng (utility), khi không có hợp tác, ký hiệu là
0U . Hay cũng vậy: 01 UU . Nếu không có điều kiện này, thì không một cá nhân hay tổ
chức nào của Việt Nam muốn tham dự vào quan hệ hợp tác quốc tế.
Bây giờ, giả sử Việt Nam không có một lộ trình rõ ràng, nhằm nâng cao nguồn
vốn người. Nhờ đó, làm tăng khả năng của cá nhân hay tổ chức Việt Nam tham dự vào
hợp tác quốc tế. Hay nói cách khác, sự phối hợp Mỹ (Nhật) – Việt chỉ mang tính biểu
tượng, ngắn hạn. Khi đó, các cá nhân và tổ chức đã tham gia vào quan hệ hợp tác có tính
thời vụ đó, nay sẽ trở về công việc hàng ngày, giống như trước khi có sự hợp tác quốc tế,
với mức độ thỏa dụng 0U , tương ứng với thang bậc hành chính trong bộ máy quản lý
nhiều cấp ở Việt Nam.
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 23
Cần nhấn mạnh rằng, mức thỏa dụng nội địa, 0U , không hề thấp, nếu tính đến tất
cả lợi ích có được (perk), khi một cá nhân nắm giữ một chức vụ trong bộ máy. (Sử dụng
xe công đắt tiền, hưởng nhiều ưu đãi, bổng lộc theo vị trí công việc, vân vân).
Khi đó, cá nhân với năng lực cao, 1 , ít có kích thích để bỏ ra nỗ lực cao,
1q ,
nhằm kỳ vọng nhận được thu nhập cao, 1t , đủ bù lại cho họ mức thỏa dụng
0U , cái mà
họ vẫn nhận được ở vị trí của mình, khi chỉ cần bỏ nỗ lực thấp 0q , tạo ra thành quả thấp,
0V , giống như một người có năng lực thấp, 0 . Cơ chế gắn mức thỏa dụng
0U của cá
nhân, tương ứng với vị trí của cá nhân đó trong bộ máy hành chính, do vậy, có xu hướng
làm triệt tiêu động lực làm việc. Quan trọng hơn, các kỹ năng chuyên môn, hay khả năng
đáp ứng các yêu cầu phức tạp được giao, hay những hiểu biết của cá nhân về các cơ hội
hay rủi ro thị trường hay địa chính trị, cũng bị bỏ phí (cá nhân hay tổ chức với năng lực
1 chỉ làm việc như thể họ chỉ có năng lực 0 ). Điều này lý giải tại sao có sức ỳ trước
yêu cầu đổi mới về kỹ năng và phương thức tổ chức quản lý. Nhưng nó cũng nói lên sự
hạn chế về khả năng hòa nhập vào giao thương quốc tế của Việt Nam, sau nhiều thập kỷ
“đổi mới”. Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên việc khai thác lao động rẻ và tài nguyên thô,
tạo ra nấc giá trị thấp nhất, 0V , trong chuỗi giá trị gia tăng của thương mại toàn cầu.
Như đã nêu ở Mệnh đề 4, “nỗ lực thấp”, 0q , của cá nhân hay tổ chức Việt Nam,
dẫn đến việc đầu tư thấp của Mỹ (Nhật) vào Việt Nam. Các bên chỉ có tầm nhìn ngắn
hạn trong quan hệ hợp tác, với cái giá là sự mất mát dài hạn cho tất cả các bên.
Nhìn thấy như vậy, thì việc hợp tác Mỹ (Nhật) – Việt phải được đặt trong một lộ
trình phối hợp dài hạn, qua nhiều bước: từ việc nâng năng lực và trình độ tổ chức thấp
0 , lên cấp cao hơn 1 , như đã đề cập. Tiếp đó là .,...,, 32 n Ở đó, n ...21;
và n là năng lực cạnh tranh đẳng cấp quốc tế, như Singapore, Đài Loan, Hong Kong,
hay Hàn Quốc.
Như đã chỉ ra, điều này chỉ có thể đạt được trong sự hợp tác dài hạn của quan hệ
Mỹ (Nhật) – Việt; cũng như với các cường quốc khác ở những nơi hoặc lĩnh vực, mà sự
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 24
hợp tác dài hạn đem lại thành quả nhìn thấy được. Và các bên quan tâm đến thành quả
trong tương lai, hơn là chỉ có mối lợi trước mắt.
Cuối cùng, cơ hội cho Việt Nam ngày nay, cũng tương tự như cho Singapore vào
đầu thập kỷ 1960. Lúc đó, Singapore mới chỉ là hải cảng, kho dự trữ, tiếp tế hậu cần cho
Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Việc tối ưu hóa chuỗi cung ứng và tiếp tế hậu cần,
ngay khi có yêu cầu, đã làm phát triển năng lực vận tải đường không và đường biển của
Singapore. Điều đó cũng dẫn đến việc phát triển các ngành sản xuất linh phụ kiện tại chỗ
cho việc tiếp tế hậu cần, sửa chữa bảo trì, với chi phí thấp, khi có một nhu cầu rất lớn của
quân đội Mỹ. Việc phát triển công nghiệp vận tải hàng không và đường biển, cùng với
phát triển sản xuất, gia công linh kiện phụ kiện, đã đưa Singapore hòa nhập vào chuỗi
thương mại Toàn cầu, với sự đầu tư lớn của Mỹ (và Nhật Bản), ngay cả sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc. Khi các luồng đầu tư và lợi nhuận khổng lồ sinh ra từ các dịch
vụ logistic và công nghiệp lắp ráp, chế tạo, thì đó cũng là lúc biến Singapore thành trung
tâm tài chính – thương mại vào loại lớn nhất ở Đông nam Á. Sự thần kỳ của Singapore
thực ra là rất tự nhiên, một khi hiểu rõ lộ trình nâng dần năng lực cạnh tranh của quốc
đảo, từ 0 lên
n ,...,, 21. Đó là thành quả của sự hợp tác dài hạn với Mỹ (Nhật), làm
thay đổi cả về chất lượng và số lượng của vốn người (human resource) tại Singapore.
Ngày nay, Việt Nam ở vào một vị trí địa lý quan trọng, nằm bên cạnh luồng hàng
hải và hàng không qua Biển Đông, mà giá trị của chúng ngày càng tăng theo sự trỗi dậy
của Châu Á. Không có sự thần kỳ nào cho Việt Nam. Chỉ có tầm nhìn xa và một lộ trình
hợp tác dài hạn với Mỹ, Nhật (và các đối tác quan trọng trong khu vực) sẽ giúp Việt Nam
chấn hưng nền kinh tế.
WORKING PAPER NO.2
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 25
Tài liệu tham khảo
Arrow, K. (1994), “Methodological Individualism and Social Knowledge,”
American Economic Review, 84(2), 1-9.
Avinash K. and Nalebuff B. (1992). Thinking Strategically: The Competitive
Edge in Business, Politics and Everyday Life, New York: Norton.
Krasner, S. D. (1999) Sovereignty: organised hypocrisy. Chichester: Princeton
University Press.
Unirule (2011) http://english.unirule.org.cn/