Download - Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là một trong những nhà văn xuất
sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông được coi là người mở đầu cho
trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Nguyễn Công
Hoan còn là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất
sắc. Hơn nửa thế kỉ cầm bút nhà văn để lại một số lượng lớn các tác phẩm ở
nhiều thể loại khác nhau, trong đó nổi bật là truyện ngắn. Nhiều trong số các
truyện ngắn của ông được xếp vào truyện hay, có ý nghĩa tiêu biểu cho nền
văn học dân tộc. Chúng ta có thể sánh ông với những nhà văn viết truyện
ngắn trào phúng nổi tiếng nhất như Guy dơ Mopatxang, Sekhov…. [37,tr.
181]. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều th ế
hệ độc g iả, cho tới nay vẫn được tiếp tục khám phá và đào sâu để tìm tiếp
những " vỉa vàng" lấp lánh.
Sekhov (1860 - 1904) là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế
kỷ XIX, là nhà văn, nhà cách tân nghệ thuật mới mẻ trong lĩnh vực truyện
ngắn. Hơn hai mươi năm cầm bút, Sekhov để lại một khối lượng lớn truyện
ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới. Sự nghiệp
sáng tác của ông vẫn luôn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê
bình "nghĩ tiếp" và khơi sâu vào những " địa tầng" mới trong thế giới nghệ
thuật của ông.
Trải qua sự thử thách lâu dài của thời gian, truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan và truyện ngắn Sekhov vẫn ngày càng thu hút sự quan tâm của bạn đọc
trong nước và ngoài nước. Điều đó chứng tỏ, truyện ngắn của hai nhà văn này
vừa mang những giá trị dân tộc đặc thù vừa đạt được những giá trị chung phổ
quát của văn học thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
1.2. Đối với bạn đọc Việt Nam, Nguyễn Công Hoan rất quen thuộc và
gần gũi. Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về sáng tác của ông.
Sekhov cũng là một hiện tượng văn học lớn không xa lạ với bạn đọc Việt
Nam. Ở Nga đã có hẳn một ngành Sekhov học, với nhiều công trình nghiên
cứu về Sekhov. Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình chuyên biệt nào
xem xét thế giới nhân vật của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn
Sekhov trong mối quan hệ so sánh. Vì vậy chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài
“Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn
Sekhov”. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng tìm ra những nét tương đồng trong
việc tổ chức hệ thống nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn, chỉ ra những
hiệu quả nghệ thuật, hiệu quả thẩm mĩ của cách thức tổ chức đó; tìm ra những
nét khác biệt thể hiện cái độc đáo, cái sắc nét của mỗi nhà văn với đặc trưng
dân tộc, đặc trưng văn hoá khác nhau.
1.3. Trong khoa học giáo dục Việt Nam, Nguyễn Công Hoan và Sekhov
là hai tác gia trong số các tác gia tiêu biểu được đưa vào chương trình giảng
dạy ở nhà trường.Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn đóng góp một
cách “đọc, hiểu” mới tác phẩm của hai nhà văn nói riêng và tác phẩm văn
chương nói chung. Điều này bổ sung và làm mới cách thức tiếp nhận văn học,
cũng như công tác giảng dạy của chúng tôi trong nhà trường. Đồng thời đề tài
của chúng tôi góp một phần nhỏ bé vào việc chứng tỏ vai trò của bộ môn văn
học so sánh - một bộ môn khoa học có tính chất quốc tế mà hiện nay đang
được giới nghiên cứu văn học nghệ thuật trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng quan tâm.
2. Lịch sử vấn đề
Với đề tài “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và
Sekhov”, chúng tôi tập trung xem xét những tư liệu có liên quan đến nhân vật,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn. Từ những tài liệu thu
thập được chúng tôi có những nhận xét sau:
2.1. Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn
Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến “ một đời văn lực lưỡng” . Ông
không chỉ có những đóng góp to lớn cho sự hình thành và phát triển của trào
lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 mà còn có công xây dựng nên
một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
luôn thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học trong mấy chục năm qua.
Nguyễn Công Hoan đã gây được sự chú ý của dư luận ngay từ tập truyện
ngắn đầu tiên “Kiếp hồng nhan”, xuất bản năm 1923. Nhưng phải đến những
năm 1929 – 1933 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bằng những truyện
ngắn in ở mục Xã hội ba đào ký trong An Nam tạp chí do Tản Đà chủ trương.
Những truyện ngắn này được độc giả yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên
viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã nhanh chóng trở nên quen thuộc
với bạn đọc. Tháng 6 – 1935, khi tập truyện ngắn “ Kép Tư Bền” ra đời, sáng
tác của Nguyễn Công Hoan đã được bạn đọc đón nhận nhiệt tình và thu hút
được sự quan tâm đặc biệt của giới phê bình.. Tập Kép Tư Bền đã mở đầu cho
trào lưu văn học tả chân xã hội, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội.. Với
Nguyễn Công Hoan, Kép Tư Bền có thể xem là mốc đánh dấu trong đời văn
chương Ông viết: “ việc cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi tin rằng
tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và tôi có thể theo đuổi được nghề văn"
[35, tr.118].
Tập truyện với nghệ thuật độc đáo mới lạ, đã thu hút được đông đảo bạn
đọc trong cả nước, Họ chú tâm nhiều hơn đến những tác phẩm hiện thực của
Nguyễn Công Hoan. Năm đó Kép Tư Bền là tậ p truyện được đánh giá hay
nhất, được mười tám tờ báo Bắc, Trung, Nam viết bài khen ngợi và trở thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ thuật. Phái nghệ thuật vị nhân sinh của
Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công kích phái nghệ thuật vị nghệ
thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ gay cấn nhất thì Hải
Triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh đưa phái Nghệ
thuật vị nhân sinh đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến Hải Triều có viết: “
Cái chủ trương Nghệ thuật vị nhân sinh của tôi ngày nay đã được biểu hiện
bằng những bức tranh linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn
Công Hoan”[66, tr.64]
Sau khi tập truyện Kép Tư Bền ra đời, Thiếu Sơn đã xếp Nguyễn Công
Hoan và Tam Lang ở cùng một phái " tả chân xã hội" và cho rằng: " Cũng như
Tam Lang, tác giả của Kép Tư Bền ưa nói đến những bề trái của xã hội, ưa
phanh phui, bày tỏ những cái hèn kém, xấu xa gian tà, độc ác của người đời"
và cuối cùng tác giả đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả
(...) ". Cái đặc sắc của ông Hoan là ỏ chỗ biết quan sát những cái gì chung
quanh mình, biết kiếm ra những câu truyện tức cười, biết vẽ người bằng
những nét ngộ nghĩnh thần tình, viết vấn đáp bằng những giọng hoạt kê lý thú
và biết kết cấu thành những tấn bi hài kịch (...) còn nói về cái tài vẽ người của
ông thì thật là tuyệt diệu, có lẽ không thua gì những Carcteres và Paraits của
La Bruyere" [71, tr.441- 442].
Trần Hạc Đình khi nhận xét về “Kép Tư Bền”, qua nghệ thuật khắc hoạ
tính cách nhân vật có viết "Ông ưa tả , ưa vẽ cái xấu xa, hèn mạt đê tiện của
cả một hạng người xưa nay vẫn đeo cái mặt lạ giả dối. Hạng người này có
gặp ở đời, ta thường lầm vì cái bề ngoài mà phải kính trọng nể nang họ” và
tác giả kết luận “Nhà văn ở đây vô tình lại có cái đau đớn, khổ sở lầ m than
của hạng người cùng đinh nghèo khổ và cái giả trá xấu xa bất lương của bọn
quyền quý trưởng giả, nhà văn đã nhận thấy rằng: “cái xã hội hiện thời đầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
rẫy sự ô trọc, giả dối lại xây lên trên mọi sự bất bình, là một xã hội cần phải
đạp đổ”” [17, tr.40].
Về thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc
Phan đã nhận định : “Ông miêu tả đủ hạng người trong xã hội, nhưng ít khi
ông tả những ý nghĩ của họ nhất là những điều u uất của họ thì không bao giờ
ông đả động, bao giờ cũng đặt họ vào một khuôn riêng, đó là khuôn lễ giáo
hay phong tục mà họ đã " ra trò" với những bộ mặt phường tuồng của họ”
[64, tr.1078]
Trên đây là những ý kiến đánh giá và phê bình về thế giới nhân vật được
miêu tả, khắc hoạ trong truyện ngắn Nguyễn công Hoan trước năm 1945. Sau
năm 1945 các nhà nghiên cứu đi vào khai thác sâu hơn về thế giới nhân vật
trong truyện ngắn của ông và đi đến những ý kiến thống nhất về nghệ thuật
mô tả nhân vật, xây dựng tính cách nhân vật, chân dung nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan.
Nhóm tác giả trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam có nhận xét
về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật như sau: " ông có sở trường về cách mô tả tư
cách hèn hạ, đê tiện hết chỗ nói của bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại, bọn
hãnh tiến giầu có, sang trọng và khinh người" [ 9, tr.101].
Nói về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Công Hoan qua thủ pháp
nghệ thuật trào phúng, Trương Chính lại cho rằng: "cách vẽ phóng đai, cách
vẽ biếm hoạ của nghệ thuật gây cười... cách tập trung tất cả những cái xấu về
hình thức cũng như về tư tưởng vào nhân vật phản diện không phải là cách
sáng tạo điển hình. Cách đó sẽ làm cho nhân vật kỳ dị, méo mó, không thật.
Bệnh công thức, bệnh sơ lược bắt đầu từ đây chứ còn từ đâu nữa" [8, tr.169]
Tại cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tác giả Nguyễn Trác nhận định:
"Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một tấn trò đời rộng rãi và phong phú,
ông chỉ cốt khám phá trong hiện thực, những mâu thuẫn, những cảnh tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
trái và phản nhau…. Thế giới của Nguyễn Công Hoan là thế giới những
những kẻ khốn khổ đáng thương. Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan người
đọc như được trực tiếp sống giữa cái xã hội khốn cùng của những con người
dưới đáy, những thói hư tật xấu của đám thanh niên tiểu tư sản thành thị chạy
theo lối sống "Âu hoá". Hoặc “khi nhân vật ông miêu tả vừa là kẻ có tiền, có
quyền vừa có nhân cách và hành động trái ngược với thứ đạo đức ông ưa, thì
ông lên án bằng cả lý trí và tình cảm. Tiếng cười đả kích của ông sảng khoái,
nhân vật của ông sống, tác phẩm của ông thành công” [75, tr.222].
Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển văn học - tập 2 đánh giá về nghệ
thuật khắc hoạ tính cách nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Mỗi nhân vật nhà
văn thường chỉ nêu lên một nét tính cách cơ bản, bộc lộ qua hành động ngôn
ngữ, tình huống nào đó (...). Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
chưa có bề sâu tâm lý. Song không vì vậy mà chúng không chân thực, không
sinh động. Có thể nói trái lại, chỉ bằng vài nét vẽ, nhà văn đã phác ra được
một bộ mặt, một tư thế, một chân dung khá sinh động với nét tâm lý chủ yếu
nổi bật, phù hợp với bản chất xã hội nhân vật" [39, tr.56].
Vũ Ngọc Khánh trong Thơ văn trào phúng Việt Nam , có viết về thủ pháp
nghệ thuật, cách mô tả nhân vật của Nguyễn Công Hoan như sau: "Thủ pháp
quen thuộc và độc đáo của Nguyễn Công Hoan là hay làm cho bộ mặt đối
tượng trở nên méo mó hơn, lố bịch hơn để bản chất ti tiện của nó được nổi rõ
hơn" [38, tr.375].
Nhóm Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu Trong cuốn Văn học Việt Nam giai
đoạn giao thời 1900 - 1930 nhận xét về ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, cho rằng: "Đọc ông, độc giả phân biệt rõ đâu là ngôn
ngữ của tác giả đâu là ngôn ngữ nhân vật và mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ
của riêng mình. Với Nguyễn Công Hoan, có thể nói truyện ngắn hiện đại và
ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại đã hình thành" [13, tr.386]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
Nguyễn Đức Đàn trong Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt
Nam đã nhận xét như sau: “Với số lượng khá lớn như vậy… Nguyễn Công
Hoan đã hợp thành một bức tranh rộng lớn khá đầy đủ về xã hội cũ. Hầu hết
trong xã hội thực dân phong kiến đều có mặt: nông dân, công nhân, tiểu tư
sản, trí thức làm các nghề tự do như thầy thuốc, nhà báo, nhà văn, nhà giáo,
các nghệ sĩ, tư sản, các nhà buôn, nha thầu khoán, địa chủ, quan lại, cường
hào,nghị viên, công chức, học sinh đứa ở, phu xe, kẻ cắp, anh hát xẩm, chị
bán hàng rong, binh lính, bồi bếp…từ các giai cấp bị bóc lột, các giai cấp
thống trị và các tầng lớp trung gian cho đến những người ở dưới đáy của một
xã hội hết sức phức tạp”. “Quả thật, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn có
tài xây dựng nhân vật phản diện (...) việc xây dựng nhân vật phản diện cho
phép nhà văn được tô đậm khuếch ®¹i những nét tiêu biểu” [14, tr.351]
Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức
Hạnh, với những công trình nghiên cứu sâu sắc, cụ thể, bà đã chỉ ra được
những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Khi nhận
xét về cách miêu tả nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, bà
viết: “Cách miêu tả nhân vật trong sự đối lập giữa hai sự vật bản chất khác
nhau, giữa bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức..." [28, tr.58]
Nhận xét về chân dung nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan,
tác giả Hoàng Anh trong Văn tập 39 khẳng định: "Những chân dung Nguyễn
Công Hoan vẽ nên là những ký hoạ hoặc biếm hoạ linh hoạt, không chỉ đặc tả
tính cách của từng loại nhân vật qua cái thần của họ, mà xếp bên cạnh nhau
còn hiện lên lồ lộ bức tranh toàn cảnh của xã hội thực dân nửa phong kiến,
mặc dù chúng cố tình che đậy, giấu giếm sau tấm phông loè loẹt, mỹ miều"
[67, tr.54]
Nhìn dưới góc độ thi pháp học, Trần Đình Sử nhận xét: "Con người
trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan là con người bị tha hoá,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
vật hoá, sống và hoạt động hầu như phi nhân tính. Thế giới truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan là thế giới làm trò, nhân vật là những kẻ làm trò”
[21, tr.142]
Những tổng hợp ý kiến trên, một mặt cho thấy tài năng nghệ thuật của
Nguyễn Công Hoan trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một mặt đã ít nhiều
chú ý đến thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Từ những
ý kiến đó đã gợi ý cho chúng tôi khi thực hiện đề tài.
2.2. A.Sekhov và truyện ngắn
Nhà văn lão thành Nga Grigôrôvich là người đầu tiên có công phát hiện
và đưa ra ý kiến đánh giá mang tính dự báo về tài năng nghệ thuật độc đáo
của Sekhov. Đồng thời ông còn khích lệ cổ vũ và xác định ưu thế vượt trội
của tác giả trong thể loại văn học này: “Tôi rất kinh ngạc về sự độc đáo của
các chi tiết trong truyện, và nhất là tính trung thực, chân xác sâu sắc trong
việc mô tả các nhân vật và cả thiên nhiên nữa (...), anh đã có khả năng phân
tích nội tâm rất sâu, cả tài tả cảnh điêu luyện” [20, tr.161-162]
Yêu mến tài năng nghệ thuật của nhà văn Sekhov, đại văn hào Nga
L.Tonxtoi không chỉ coi ông như một người kế tục và thừa hưởng đầy đủ
truyền thống văn hoá, tinh thần tốt đẹp của dân tộc Nga, mà còn là người cách
tân của văn học Nga. “Điều chủ yếu là bao giờ Sekhov cũng chân thành, và
đó là phẩm chất cao quý của nhà văn, nhờ đó mà Sekhov đã sáng tạo ra được
những hình thức viết mới, hoàn toàn mới” [20, tr.330] hoặc “đây là một viên
ngọc, một ngôn từ tuyệt diệu. Cả Tuôcghênhep và Gônsarôp, cả tôi không ai
viết được như ông ta” [58, tr.41]. Nhận xét này có ý nghĩa định hướng và cổ
vũ A.sêkhov vững tin sáng tạo.
G.N. Pospelôp với chuyên luận “Dẫn luận nghiên cứu văn học”, khi xây
dựng lý thuyết về cốt truyện cũng đánh giá quan trọng về những cách tân
nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn: “ Cơ sở của truyện không phải là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
các sự kiện đột biến, mà là những cơn thăng trầm trong cảm xúc của nhân
vật, thường là độc lập với bất cứ sự kiện nào, sự cảm thụ và lý giải các hiện
tượng và sự thực ngày càng mới, những sự bừng sáng của trí tuệ, các bước
chuyển hoá từ quan niệm hư ảo đến cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc có tính phê
phán đối với thế giới, hoặc là ngược lại, ngày càng phụ thuộc vào sức ỳ của
cái tầm thường”[63, tr.42]
M.Gorki là người rất say mê Sekhov. Ông đã nhận xét: “Sự tầm thường
ti tiện là kẻ thù của anh, suốt đời anh đã đấu tranh với nó, bắt nó hiện nguyên
hình nghiêm khắc qua ngòi bút của anh, anh biết moi móc ra vết mốc meo hôi
hám của nó ở ngay chỗ mà mới nhìn tưởng như mọi vật đều sắp đặt khéo léo
và có vẻ choáng lộn nữa” [59, tr.36]. Đồng thời ông cũng khẳng định tinh
thần nhân đạo trong tác phẩm Sekhov: “Mỗi một truyện của Sekhov đưa ra, là
nhấn sâu thêm vào cái điểm dũng cảm và yêu thương cuộc đời, nó là một
điểm rất quý và rất cần cho chúng ta”… “ Mỗi một truyện ngắn là một cái
thảm kịch nhỏ, nó cảm người một cách sâu sắc” [78, tr.258]
M.Gorki đã có những nhận xét chân thành và sâu sắc về tính hiện thực
trong sáng tác của Sêkhov: "Tất cả những con người ấy, kẻ xấu cũng như
người tốt, đều sống trong câu chuyện của Sekhov đúng như họ sống trong
hiện thực. Trong các truyện ngắn của Sekhov, không hề có một cái gì mà lại
không có thật trong cuộc sống. Cái sức mạnh khủng khiếp của tài năng ông,
chính là ông không bịa đặt ra một cái gì, “không có trên đời này”, tuy có thể
là tốt đẹp, có thể là đáng mong ước. Ông không bao giờ tô vẽ cho con
người...” [22, tr.5]
Nhận xét về đầu óc nô lệ trong thế giới nhân vật của Sekhov M. Gorki
viết: “Trước mắt ta diễu qua cả một chuỗi dài vô tận những kẻ nô lệ và nô tỳ
của tình yêu, của sự ngu dại và của thói lười biếng, của sự tham lam đối với
những lạc thú trần gian; đó là nhưng kẻ nô lệ của một nỗi sợ hãi, tối t ăm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
trước cuộc sống, họ quằn quại trong một nỗi lo âu mơ hồ và trút ra những lời
lẽ đầu Ngô mình Sở về tương lai vì cảm thấy trong hiện tại không có chỗ cho
mình đứng...” [22, tr.5]
Là đại diện xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga cuối thế kỷ
XIX Sekhov được giới thiệu ở Việt Nam khá sớm. Nhiều nhà văn Vi ệt Nam
say mê Sekhov như Nguyễn Tuân, Nam Cao. Những truyện ngắn đầu tiên của
Sekhov được dịch ra tiếng Việt từ năm 1943. Nguyễn Tuân đã có bài nghiên
cứu đầu tiên về ông. Đến nay ở Việt Nam A.Sêkhov được coi là một tài năng
đặc biệt, được hâm mộ và ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng.
Nhà văn Nguyễn Tuân trong lời giới thiệu ở tập truyện ngắn Sekhov, đã
nhận xét: “Trong sáng tác, Sekhov không chen vào mà giải quyết vấn đề,
hoặc gián tiếp giải quyết bằng nhân vật này khác. Sekhov cho ta thấy, cho ta
xem hết ông nọ bà kia, cho ta gặp nhưng thằng, những con người và như ngụ
ý hỏi lại những người đồng điệu chúng ta rằng: “ Trò đời là vậy đó? Vậy thì
có nên để nó tồn tại thế không? Có nên bắt chước họ sống một cách tồi tàn,
bậy bạ như thế không?” [77, tr.14]
Nhấn mạnh cái tính chất ban đầu, tính chất khởi điểm trong cách miêu tả
nhân vật của Sekhov, Hoàng Xuân Nhị nhận xét: “lần đầu tiên trong văn học
Nga và thế giới chúng ta thấy toàn bộ sáng tác của nhà văn tập trung vào
biểu hiện những con người nhìn bề ngoài mà nói rất tầm thường, biểu hiện
cảnh sống buồn chán, nghẹt thở, đau thương của họ”[ 65, tr.79]
Dịch giả Đỗ Khánh Hoan cho rằng: Thế giới nhân vật Sekhov "là một
nhân loại nho nhỏ", qua đó ông nhấn mạnh tính phức tạp của những "mảnh
đời" những "mảng sống" của đủ mọi hạng người trong xã hội. Nhà nghiên
cứu Phan Hồng Giang đã đưa ra những nhận định để khái quát số lượng nhân
vật đông đảo, nhân vật trong truyện ngắn của Sekhov "đó là những cảnh
tượng đông đúc huyên náo thật đáng kinh ngạc, hàng nghìn con người, chải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
chuốt và bê tha… nói tóm lại chúng ta sẽ gặp được cả một thế giới trên cái
đường phố tưởng tượng kia một thế giới thu nhỏ dường như thật hơn, cô đọng
hơn, vừa xấu xa hơn mà cũng vừa cao cả hơn" [20, tr.12]
Năm 2004 ở Việt Nam đã có một cuộc hội thảo kh oa học kỉ niện 100
năm ngày mất Sekhov. Chúng tôi chú ý đến một số ý kiến về nhân vật trong
truyện ngắn Sekhov.
Đi sâu tìm tòi những cái mới trong truyện ngắn Sekhov, Nguyễn Hải Hà
đã chú trọng khám phá “Sekhov không trực tiếp miêu tả nhân vật như
F.Dostoievski, L.Tonxtoi nhưng ông vẫn quan tâm đến thể hiện tâm lý theo
cách riêng của mình, qua hành động, đối thoại, cảm nhận thiên nhiên và qua
chân dung nữa". Đồng thời chú ý đến bút pháp nghệ thuật trong miêu tả chân
dung của Sekhov, ông viết: "Ông rất chú trọng đến chân dung nhân vật, nắm
bắt tâm lý của nó". [22, tr.6]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hải Hà trong bài Cái mới
trong truyện ngắn Sekhov, đã chỉ ra thói tật nô lệ của những nhân vật trong
truyện ngắn của Sekhov: “Có thể nói thói nô lệ ngấn sâu và đầu độc người
lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức, viên chức, quan nhân, thương gia, sinh
viên, nông dân, “ những con người không biết kính trọng cái phẩm giá làm
người của mình, đành tâm ngoan ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những
kẻ nô lệ”[22, tr.5]. Sekhov muốn giúp con người “chắt lọc, loại bỏ khỏi con
người mình từng giọt nô lệ”.
Phạm Xuân Nguyên cũng gặp gỡ Nguyễn Hải Hà khi khẳng định tài
năng của Sekhov trong miêu tả tâm lý nhân vật "... Sekhov có biệt tài khám
phá những khả năng kinh ngạc của bản tính con người, sự phân tích tâm lý
của ông rất sâu sắc và linh động”[57, tr.6].
Trong bài Sekhov - Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, Nguyễn Trường
Lịch lại chú ý tới giọng điệu, điểm nhìn của người thuật truyện như: “lối dẫn
truyện khách quan, sự vắng mặt cả người thuật truyện. Ông đã chứng minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
cho các luận điểm của mình bằng các tác phẩm như Người đàn bà có con
chó nhỏ, Hai kẻ thù....” [44, tr.89]
Đến với thế giới nhân vật đông đảo của Sekhov nhiều nhà nghiên cứu
khẳng định lần đầu tiên trong văn học những con người bình thường trong
cuộc sống chiếm vị trí quan trọng trong sáng tác của Sekhov…. Nói cách
khác, có thể khẳng định "gu" thẩm mĩ hay cái tạng của Sekhov là "nhà văn
của đời thường”.
Như vậy hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Sekhov là nhà văn của
tầng lớp bình dân, nhân vật của ông chỉ loay hoay với cuộc sống đời thường
với những lo lắng tủn mủn về vật chất, những biến động tinh thần không lớn
lắm trong từng nhân vật. Tuy nhiên, với tài năng của mình, thông qua cái thế
giới nhân vật sám xịt ấy, Sekhov đã phản ánh và nói lên được những vấn đề
nóng bỏng của xã hội Nga hoàng lúc bấy giờ.
Với một loạt bài viết của mình, Đào Tuấn Ảnh là một trong những người
mở đầu cho khuynh hướng nghiên cứu Sekhov theo lối so sánh loại hình. So
sánh truyện ngắn của Se khov với truyện ngắn của Nam Cao nhà nghiên cứu
đã chỉ ra những tương đồng loại hình trong sáng tác của hai nhà văn thể hiện
ở kiểu truyện “không cốt truyện” , ở nghệ thuật trần thuật (người kể chuyện,
ngôi kể, điểm nhìn…), ở nghệ thuật xây dựng tâm lí nhân vật. Từ những so
sánh nêu trên nhà nghiên cứu đã hướng tới kết luận về một “chủ nghĩa hiện
thực kiểu mới” mà người mở đầu trong văn học Nga giao thời thế kỉ XIX- XX là
Sekhov, trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945, là nhà văn Nam Cao.
Tóm lại: Từ những ý kiến trên chúng tôi nhận thấy:
- Về vị trí, vai trò của hai nhà văn viết truyện ngắn Sêkhov và Nguyễn
Công Hoan, hầu hết các ý kiến đều nhất trí khẳng định tài năng cùng những
đóng góp của họ cho văn học nước nhà và văn học thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
- Các ý kiến đó đều thống nhất khẳng định thế giới nhân vật phong phú,
đa dạng, độc đáo trong truyện ngắn của hai nhà văn.
- Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chưa tập trung phân tích thế giới nhân
vật của hai nhà văn, nhất là đặt nó trong hệ thống tiếp cận thi pháp học. Hơn
nữa, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu và so sánh thế giới nhân
vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov.
- Mặc dù vậy, những ý kiến chúng tôi thu thập trên đều là những gợi
mở, định hướng tốt cho chúng tôi khi lựa chọn và thực hiện đề tài.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu
trong tập Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội 2005 và những truyện ngắn trong Truyện ngắn Sekhov, NXB Văn
học 1978, tập I, II, để khảo sát và trích dẫn. Số lượng tác phẩm ở hai tập
truyện ngắn của hai nhà văn rất nhiều, nhưng chúng tôi chỉ chọn ở mỗi nhà
văn 30 tác phẩm để khảo sát và phân tích . Trước hết, chúng tôi căn cứ vào
yêu cầu về dung lượng của truyện ngắn để chọn tác phẩm. Căn cứ tiếp theo để
chúng tôi lựa chọn là tính tiêu biểu của tác phẩm đã được khẳng định theo
thời gian và quá trình nghiên cứu, tiếp nhận. Đối tượng khảo sát của chúng tôi
là nhân vật và cách thức tổ chức hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
công Hoan (trước năm 1945) và truyện ngắn Sekhov (tập I, II do Phan Hồng
Giang và Cao Xuân Hạo dịch).
3.2. Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Sekhov có thể
có nhiều vấn đề nghiên cứu như : nghệ thuật kết cấu truyện, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, thời - không gian nghệ thuật…, nhưng chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và
truyện ngắn Sekhov trên hai phương diện hình thức và nội dung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
3.3. Từ việc khám phá cách thức tổ chức hệ thống nhân vật, chúng tôi
xem xét hai nhà văn đã cắt nghĩa những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế
kỉ XX, xã hội Nga cuối thế kỉ XIX như thế nào, với những phương thức biểu
hiện nào.
4 Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: nhằm nghiên cứu so sánh truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan và A.Sêkhov trong tính chỉnh thể
4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học nhằm giải quyết nhiệm vụ đề tài
đặt ra. Phương pháp này cho phép không chỉ dừng lại xem xét tác phẩm nói
lên cái gì mà phải xem còn được nói như thế nào. Trên cơ sở phương pháp
nghiên cứu này chúng tôi sẽ tìm hiểu thông qua việc tổ chức hệ thống nhân
vật trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Công Hoan và Sekhov đã cắt
nghĩa những vấn đề gì của xã hội đương thời.
4.3. Phương pháp so sánh: giúp cho chúng tôi chỉ ra những nét tương
đồng và khác biệt của hai nhà văn, ở hai quốc gia khác nhau trong những điều
kiện lịch sử (dựa trên phông văn hoá khác nhau, lịch đại, lịch sử khác nhau).
Sử dụng phương pháp loại hình nhằm so sánh truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan và Sekhov trên một cấp độ và bình diện cụ thể, để từ đó chỉ ra những
nét tương đồng mang tính phổ quát và cả những nét khác biệt mang tính
đặc thù.
4.4. Phương pháp phân tích tổng h ợp: giúp chúng tôi đi vào phân tích
nhân vật cụ thể nhằm thuyết minh cho những luận điểm, từ đó quy nạp, tổng
hợp lại vấn đề.
5. Những đóng góp mới của luận văn
So sánh thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn có “cơ địa
sáng tác” khác nhau này, chúng tôi muốn hướng tới những tương đồng về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
loại hình nhân vật trong truyện ngắn của hai ông, đồng thời chỉ ra những điểm
độc đáo trong phương thức xây dựng thế giới nhân vật của từng nhà văn, qua
đó xác định những đóng góp của hai nhà văn đối với chủ nghĩa hiện thực trong
văn học Việt Nam, văn học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung.
Thực hiện được điều này, luận văn bước đầu đóng góp thêm vào việc tìm
kiếm những cách thức tiếp cận mới sáng tác của Nguyễn Công Hoan, nhằm
phát hiện những giá trị về nội dung, tư tưởng nghệ thuật đang còn tiềm ẩn
trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Điều này bổ sung thêm một cách “đọc
hiểu” hiện tượng văn học được coi là có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình
văn học thế kỉ XX ở Việt Nam. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và
Sekhov.
Chương 2: Nhân vật - những dị tật của xã hội trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan và Sekhov.
Chương 3: Nhân vật - những nạn nhân bi thảm trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan và Sekhov.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
Chương 1:
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ TRUYỆN NGẮN A.SEKHOV
1.1. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
1.1.1. Nguyễn Công Hoan và thời đại
Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) được xem là một trong những đại thụ
của văn xuôi Việt Nam, là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn học
Việt Nam.
Được sinh ra trong một gia đình nho học thất thế, cuộc sống của anh em
Nguyễn Công Hoan đã trải ra trong khó khăn, vất vả. Nhà nghèo, đông anh
em, Nguyễn Công Hoan phải đến ở với bác ruột - một Phó bảng, làm Tri
huyện. Những năm tháng sống ở nhà bác, Nguyễn Công Hoan chứng kiến rất
nhiều chuyện xung quanh mối quan hệ quan - dân. Chuyện nhà quan, chuyện
làm quan đã để lại những ấn tượng sâu sắc, làm thành ý thức khám phá thời
cuộc ở Nguyễn Công Hoan.
Năm 1926, Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp trường sư phạm, bắt đầu cuộc
sống tự lập của một ông giáo tiểu học. Cuộc đời dạy học của ông không mấy
suôn sẻ. Vốn tinh tường, sắc sảo, trung thực, khảng khái, Nguyễn Công Hoan
không được cấp trên vừa ý. Ông bị chuyển chỗ dạy nhiều nơi. Thị xã Hải
Dương, Thị xã Lao Cai, Thị xã Nam Định, Trà cổ… là những nơi Nguyễn
Công Hoan bị điều đến và dạy học. Mỗi nơi, ông và gia đình không ở quá
được 2 năm. Vất vả, long đong, nhưng bù lại, ông có điều kiện đi nhiều nơi,
biết và khám phá được nhiều điều.
Năm 17 tuổi, truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu” (1920) của
Nguyễn Công Hoan ra đời. Năm 20 tuổi, tập truyện ngắn “Kiếp hồng nhan”
ra mắt độc giả. Cũng như “Quyết chí phiêu lưu”, tập “Kiếp hồng nhan”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
không được độc giả đón đợi nhiều. Năm 1935, truyện ngắn “Kép tư bền” ra
đời, gây một tiếng vang lớn trên văn đàn, khẳng định tài năng nghệ thuật, mở
ra một giai đoạn mới, sung sức trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Có thể
coi, sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan được bắt đầu từ những năm
20 và thực sự được khẳng định ở những năm 30 của thế kỷ XX, với thể loại
truyện ngắn. Giai đoạn sáng tác truyện ngắn thành công nhất của Nguyễn
Công Hoan được tính từ 1920 đến 1945. Đây là thời kỳ mà tình hình chính trị,
xã hội Việt Nam rất phức tạp, rối ren với tính chất thực dân nửa phong kiến.
Nhà nước phong kiến già nua, lỗi thời, phản động, chế độ thực dân tàn bạo
hiện hữu và cùng với nó là sự đàn áp khốc liệt phong trào đấu tranh của nhân
dân, là phong trào Âu hóa rầm rộ, lố lăng…, sự vận động của phong trào yêu
nước ở các sỹ phu, những manh nha đầu tiên của các tổ chức cộng sản v…v…
là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị, làm biến
đổi đời sống tinh thần của mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại, khoa bảng, Nguyễn Công
Hoan chịu ảnh hưởng sâu sắc hệ tư tưởng phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của
Nguyễn Công Hoan là tư tưởng yêu nước, yêu con người. Con gái ông - Nhà
văn Lê Minh - khẳng định: “Cha tôi trước khi là nhà văn đã là một nhà giáo
yêu nước” [81]. Sống trong thời thế rối ren, đảo lộn đó, ông ghi nhận và đồng
tình với tâm lý bất mãn của tầng lớp quan lại thất thế với xã hội nửa Tây, nửa
Tầu nhố nhăng. Ông cũng không chấp nhận, thậm chí cảm thấy bị xúc phạm
bởi sự xu nịnh, luồn cúi của bọn quan lại “thức thời”, lũ “liếm gót giầy cho
Tây”. Ông khinh bỉ bọn hãnh tiến, bọn tư sản chạy theo lối sống Âu hóa đồi
bại. Ông đau đớn trước sự biến đổi khôn lường của những thước đo giá trị cho
những vấn đề, vốn được coi là thiêng liêng. Những khái niệm nghĩa: cha -
con, tình chồng - vợ, bạn bè… đã được thay đổi nội hàm, được đem ra hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
xử theo kiểu xu thời mẫn thế. Xã hội, nhất là nơi thành thị, nhan nhản những
rởm đời, học đòi, đua chen, bẩn thỉu.
Thời đại, hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống… đã tạo nên ở Nguyễn
Công Hoan một cái nhìn sắc sảo. Ông viết: “Do gia đình tôi là một gia đình
quan lại lỗi thời lép vế, hằn học với bọn quan lại đương lên, ôm chân bọn đế
quốc để có thể có tiền, bản thân tôi làm cái nghề bị bạc đãi là cái nghề dạy
học, lại làm thêm nghề viết tiểu thuyết kiểu tôi, là nghề mà bọn thống trị
chẳng ưa tý nào. Tất cả những cái ấy giáo dục cho tôi nhìn đế quốc, phong
kiến, tư sản bằng con mắt căm thù” [35, tr.282].
Nguyễn Công Hoan là người quan tâm nhiều đến thời cuộc với những
biến đổi khi ồn ào, dữ dội, lúc bình lặng, tinh vi. Không một câu chuyện nào
ngoài đời, không một cảnh tượng nào bất chợt xuất hiện…, lại không được
ông lưu giữ. Một gánh tuồng với những đào kép son phấn lòe loẹt diễu qua
phố lúc chiều muộn, một mẩu tin trên báo đọc hàng ngày, có thể thoáng qua,
vô nghĩa đối với người khác, nhưng với ông lại có giá trị và ông không bỏ
qua. Với lòng yêu nước, với cái nhìn sắc sảo, tỉnh táo, Nguyễn Công Hoan
quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch. Ông từng tự bạch : “Tôi là một
người bi quan, hoài nghi, nên khinh thế ngạo vật, hay đùa và hay chế nhạo.
Sống dưới chế dộ thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa
bịp, đáng khôi hài. Thế mà thằng làm trò khôi hài là thằng thực dân, lại làm
ra mặt nghiêm chỉnh. Thật là buồn cười. Cho nên tôi hay chế giễu, mỉa mai để
khôi hài tác giả việc khôi hài. Tôi coi thường tất cả. Tất cả đối với tôi chỉ là
trò cười. Vì vậy tôi hay pha trò cười” [35, tr.367].
Cái nhìn thời cuộc, xã hội thuộc địa thực dân phong kiến này của
Nguyễn Công Hoan gặp gỡ cái nhìn của Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng
cũng nhìn thấy sự quay cuồng, hỗn loạn, điên đảo của “xã hội chó đểu”. Ông
cũng phanh phui thực chất sự vô luân lý, vô nghĩa lý của xã hội, khi bố con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
trở thành kẻ thù, vợ chồng hóa ra anh em, nghèo đói trở thành triệu phú, mạt
hạng trở thành vĩ nhân. Có thể nói, cả Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng
Phụng đều nhìn đời là một trò diễn sân khấu đầy bi hài. Bằng cách của riêng
mình, mỗi ông đã giải phẫu những sinh thể quái dị ấy, “xé toạc mọi trạng thái
đang bị che giấu”. Không chỉ nhìn đời bằng con mắt lạnh lùng, kết hợp khôi
hài để chế giễu những trò diễn sân khấu, Nguyễn Công Hoan còn nhìn đời
bằng con mắt trắc ẩn, đầy cảm thông, đau xót. Là một người nhân hậu, sống ở
thời kỳ đất nước bị đô hộ, dân chúng lầm than, đói nghèo, loạn lạc. Ông luôn
khuyên, dạy các con: “Con người sống phải biết căm thù bọn bóc lột và yêu
thương những người cùng khổ [81]
Cái nhìn chân thực, cảm thông đối với những kiếp lầm than như hệ quả
tất yếu của cái nhìn đời là một trò diễn và không hề mâu thuẫn, trái lại, đó là
cái nhìn hiện thực hết sức tinh nhạy, tỉnh táo. Có thể nói, quan điểm đạo đức
phong kiến, dẫu có sâu sắc, cũng không là quan điểm nhìn nhận hiện thực duy
nhất và của Nguyễn Công Hoan. Từ cái nhìn hiện thực nhiều chiều đó,
Nguyễn Công Hoan đã phát hiện mâu thuẫn giầu - nghèo trong xã hội. Đó là
“nỗi ám ảnh thường trực, trở thành ý thức nghệ thuật của Nguyễn Công
Hoan” [37,tr.359].
Ý thức nghệ thuật đã chi phối Nguyễn Công Hoan trong sáng tác chính là
“yếu tố quyết định một tác phẩm bao giờ cũng là sự sống” [35,tr.236]. Ông
luôn đứng về phía những con người nghèo khổ, bần cùng, bị ức hiếp, bóc lột
để lên án bọn giầu có, quyền thế, bất nhân, bất nghĩa. Đó chính là cảm quan
hiện thực khỏe khoắn và tiến bộ cuả ông. Trong thời của ông, khi người ta
đang say sưa với chủ nghĩa lãng mạn, thì Nguyễn Công Hoan dứt khoát chọn
con đường hiện thực phê phán. Sức mạnh thuyết phục của cách thức phản ánh
này là bám rất chặt và o đời sống, nhìn thẳng vào nh÷ng vấn đề của xã hội
đương thời, công khai đả kích, phê phán không thương tiếc những thói hư tật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
xấu, những cái ác, thói rởm đời và bênh vực những con người bé nhỏ, cơ cực.
Mục đích sáng tác mà Nguyễn Công Hoan nhằm tới là “(…) yêu quan ngày
xưa, so sánh với quan ngày nay, sẽ khinh ghét, kinh tởm bọn đỉa đói”.
Để người đọc nhận biết, hiểu được điều mình nói ra, Nguyễn Công Hoan
chú ý khai thác đề tài trong xã hội hiện hành và tìm tới hình thức t ruyện ngắn.
Nguyễn Công Hoan quan niệm: “Truyện ngắn không phải là truyện, mà là
một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ,
với cách đặt câu, dùng tiếng có cân nhắc” [35, tr.301]. Mỗi truyện ngắn “chỉ
có thể tóm tắt bằng một câu, nêu lên một ý” [35, tr.307].
Từ những sự có thật trong cuộc sống, tìm cho nó được hình thức Nguyễn
Công Hoan còn rất chú ý tới kỹ thuật viết để sao cho thích hợp với ngòi bút
trào phúng của mình, đồng thời làm cho truyện nổi rõ tư tưởng, chủ đề. Quan
niệm của Nguyễn Công Hoan về một truyện hay là “dễ hiểu. Người đọc phải
nhận ra được, phải hiểu tác giả định nói cái gì?” [35, tr.132]. Theo Nguyễn
Công Hoan để người đọc hiểu được truyện, nhận thấy được từ truyện những
cái đang có rất nhiều ở ngoài đời, điều căn bản mà nhà văn phải làm là biết sử
dụng chi tiết, phải biết “bớt cái thừa, thêm cái thiếu, nhấn mạnh cái cần ở
trong sự việc có thật” [35, tr.315]. Nguyễn Công Hoan sử dụng chi tiết với tư
cách là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để p hản ánh cuộc sống
với tất cả sự rộng lớn bên trong.
Tóm lại, thời đại, hoàn cảnh xã hội cụ thể, điều kiện gia đình, đã tác
động mạnh mẽ đến quá trình hình thành, phát triển tài năng của Nguyễn Công
Hoan. Hiện thực cuộc sống của một trí thức yêu nước đã trở thành nguồn
nguyên liệu quý giá để Nguyễn Công Hoan kiến tạo nên hệ thống hình tượng
trong sáng tác của mình. Những quan niệm về cuộc đời, về con người đã giúp
nhà văn tìm hiểu, khám phá hiện thực, phản ánh hiện thực một cách sống
động trong tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
1.1.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
Mỗi tác phẩm nghệ thuật hàm chứa một thế giới nghệ thuật do nhà văn
sáng tạo ra và nó mang tính chỉnh thể. Đó là toàn bộ những yếu tố hợp thành,
cấu tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, tạo nên
giá trị thẩm mỹ, tư tưởng và nội dung cho tác phẩm. Đối tượng phản ánh của
thế giới nghệ thuật là hiện thực khách quan. Qua thế giới nghệ thuật, nhà văn
bộc lộ quan niệm về thế giới, con người và cách cắt nghĩa về thế giới đó, con
người đó. Tính chỉnh thể bao hàm cả cách thức tổ chức các yếu tố cấu thành
thế giới nghệ thuật, mang đậm tính sáng tạo của nhà văn. Trong thế giới nghệ
thuật, thế giới nhân vật được coi là thành tố quan trọng nhất, giữ vị trí trung
tâm. “Có bao nhiêu nhà văn sẽ có bấy nhiêu thế giới nhân vật riêng biệt”
[46,tr.700]. Tạo nên thế giới nhân vật trong tác phẩm là nhân vật và hệ thống
nhân vật. Nhân vật là trung tâm của nhận thức, là nơi tập trung tư tưởng nghệ
thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Từ cái nhìn của tác giả, nhân vật
được khắc họa, miêu tả ở nhiều góc độ và thực hiện những chức năng khác
nhau. Vì vậy, đọc tác phẩm, người đọc tiếp xúc trực tiếp với một hệ thống
hình tượng nhân vật và thông qua đó, nắm bắt được những vấn đề nhà văn đặt
ra, giải quyết.
Thế giới nhân vật được cấu thành bởi nhiều kiểu loại nhân vật với những
đặc điểm tÝnh cách, số phận khác nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau tạo
thành một hệ thống, thực hiện nhiệm vụ chuyển tải nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Thế giới nhân vật cũng tạo cho tác phẩm sự độc đáo - dấu ấn sáng tạo
của mỗi cá nhân. Từ sự phong phú của thế giới nhân vật người ta có thể phân
loại nhân vật dựa trên những tiêu chí khác nhau. Dựa vào vị trí, vai trò của
nhân vật trong tổ chức tác phẩm, có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật
trung tâm. Dựa vào phương thức xây dựng nhân vật, có nhân vật tư tưởng,
nhân vật tính cách, nhân vật loại hình và nhân vật chức năng. Tuy nhiên, sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
phân loại chỉ mang tính chất tương đối. Dù là kiểu nhân vật nào, thì nhân vật
khi xuất hiện tr ong tác phẩm, cũng đều là kết quả sự lựa chọn của tác giả,
nhằm đạt đến hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Đó chính là đối tượng miêu tả mà
nhà văn tìm đến và mục đích của việc tổ chức đối tượng đó. Từ những vấn đề
lý luận trên, tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện ngăn Nguyễn Công Hoan
và Sekhov, chúng tôi dựa trên tiêu chí chung nhất: đối tượng miêu tả và mục
đích phản ánh. Với tiêu chí này, chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống nhân
vật trong truyện ngắn. Chúng tôi tiếp tục xem xét, các nhà văn đã cắt nghĩa
những vấn đề thời đại như thế nào qua hệ thống nhân vật đó.
Đề tài và những vấn đề xã hội mà Nguyễn Công Hoan đề cập trong
truyện ngắn rất đa dạng, phong phú. Xuyên suốt các tác phẩm là bức tranh đời
sống, hiện thực xã hội Việt Nam những năm đầu XX phức tạp, đảo điên. Bức
tranh đó được hiện ra với hai mảng mầu đối lập. Một bên là những quan lại,
cường hào, tư sản ăn trên, ngồi trốc. Một bên là những số phận nghèo hèn,
lầm than, khổ nhục.
Khảo sát 30 truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi có kết quả sau:
TT Tên tác phẩm
Nhân vật
Ghi
chú Nhân vật là những
dị tật của Xã hội
Nhân vật là những
nạn nhân bi thảm
của xã hội
1 Răng con chó nhà tư sản X
2 Oẳn tà roằn X
3 Hai thằng khốn nạn X
4 Người ngựa ngựa người X
5 Gói đồ nữ trang X
6 Thằng ăn cắp X
7 Báo hiếu trả nghĩa cha X
8 Báo hiếu trả nghĩa mẹ X
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
9 Cụ Chánh Bá mất giầy X
10 Mất cái ví X
11 Kép tư bền X
12 Thanh! Dạ! X
13 Đàn bà là giống yếu X
14 Một tấm gương sáng X
15 Cái vốn để sinh nhai X
16 Nhân tài X
17 Xuất giá tòng phu X
18 Được chuyến khách X
19 Quyền chủ X
20 Phành phạch X
21 Chiếc quan tài X
22 Đồng hào có ma X
23 Thằng ăn cướp X
24 Thịt người chết X
25 Sáu mạng người X
26 Sáng, chị phu mỏ X
27 Hé! He! He! X
28 Công dụng của cái miệng X
29 Người thứ ba X
30 Bữa…no đòn X
Tổng số 19 11
Kết quả khảo sát cho chúng tôi nhận xét: nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, về cơ bản, được tổ chức thành hai tuyến rõ rệt. Tuyến
một gồm những nhân vật thuộc lớp quan lại, địa chủ, cường hào, ác bá, tư sản
mới lên. Tuyến này chiếm tỷ lệ tương đối nhiều (19/30) trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan. Có thể nói, đây là những nhân vật quen thuộc và là
những nhân vật xấu trong xã hội thuộc địa, phong kiến. Đó là bọn nhà giầu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
cậy quyền cậy thế mà ức hiếp người nghèo. Đó là bọn quan lại, địa chủ, tư
sản, tiểu tư sản với những nét nhơ bẩn cả về vật chất lẫn tinh thần. Loại người
này xuất hiện nhiều trong xã hội nhốn nháo, nửa Tây, nửa Ta, nửa Tầu.
Chúng là sản phẩm tấ t yếu của xã hội đó. Nguyễn Công Hoan đã đưa chúng
vào tác phẩm, tạo điều kiện cho chúng diễn đủ trò. Điều mà Nguyễn Công
Hoan nhìn thấy và muốn chỉ cho mọi người thấy là ở chỗ: xã hội đầy rẫy sự
bất công, lừa bịp, xấu xa, trơ trẽn, bẩn thỉu, nhưng, kẻ thống trị lại cố tìm mọi
cách để che đậy. Đưa chúng vào tác phẩm, Nguyễn Công Hoan phanh phui
những mâu thuẫn đó, phơi bầy những xấu xa, tàn bạo đó. Loại nhân vật này
xuất hiện dưới hai dạng thức. Một là bọn quan lại phong kiến, vô trách nhiệm,
“ăn bẩn” , bọn tư sản hãnh tiến ác độc. Đó là quan huyện, xuất hiện lúc là
Quan, lúc là Huyện Hinh, lúc là Tổng đốc Lê Thăng …; Đó là các cụ chánh
bá, lý trưởng…. Những điển hình này mang tính khái quát về lũ sâu mọt
(nhân danh nhà nước, đại diện nhà nước) chuyên đục kho ét, áp bức dân lành
với đủ mánh khóe, thủ đoạn. Đó là các ông chủ hãng xe hơi, ông chủ báo, nhà
tư sản… vô nhân tính, keo bẩn, độc ác. Hai là hệ thống nhân vật bị đồng tiền
chi phối mà trở nên mất nhân cách, vô liêm sỉ, mất lương tâm. Loại này xuất
hiện tương đối nhiều (10/19) truyện. Cuộc sống xã hội Việt Nam buổi giao
thời hiện ra với bao điều kệch cỡm, xa hoa, lố lăng, nhảm nhí. Thói đạo đức
giả, đểu cáng được phơi bầy trong một loạt các truyện như: “Mất cái ví”,
“Xuất giá tòng phu”…. Hình ảnh ông Tham bày trò mất ví để đuổi khéo cậu
ruột ra khỏi nhà khiến người đọc bật ra tiếng cười khinh miệt. Tiếp nhận hình
ảnh ông chủ hãng xe hơi đuổi mẹ già về quê ngay trong ngày làm giỗ, báo
hiếu cha, thì người đọc chỉ còn biết thở dài cho sự vô sỉ, vô lương tâm ... Và,
không còn gì để nói khi một quan Tham lấy luân thường đạo lý ra dạy vợ, bắt
vợ ngủ với quan trên để tiến thân ... Nguyễn Công Hoan đã tập trung phơi bầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
bản chất xấu xa của bọn này. Tiền, danh vọng với chúng là trên hết. Đó là căn
bệnh do xã hội sản sinh ra và nhà văn đã giải phẫu một cách kiên quyết.
Tuyến nhân vật thứ hai là những kiếp người nghèo khổ, bị áp chế, ức
hiếp. Tuyến này chiếm tỷ lệ (11/30) trên tổng số truyện ngắn. Họ là những
con người sống lay lắt trong xã hội Việt Nam ở cả thành thị lẫn nông thôn. Đó
là những anh phu kéo xe, kép hát, gái điếm… không chỉ đổ mồ hôi, sôi nước
mắt, mà còn nhục nhã, khốn cùng (“Người ngựa ngựa người”, “Kép tư
bền”). Đó là những người nông dân do dốt nát mà bị ức hiếp (“Hai thằng
khốn nạn”, “Gánh khoai lang”, “Thịt người chết” ). Cái cách mà Nguyễn
Công Hoan sử dụng ở những truyện kiểu này là những phi lý trở thành có lý.
Người đọc tiếp nhận hiện thực ở góc độ vô lý nhất, bật ra tiếng cười chua xót,
cay đắng, đầy nước mắt và nhận thấy sự có lý hiển nhiên. Đó là “được đến chỗ
đau đớn của người đời, truyện như bịa chơi mà trò đời thường có”[37,tr. 412].
Tham gia vào tuyến nhân vật này còn là những nhân vật trẻ em
(“Thanh! Dạ”, “Giá ai cho cháu một hào”, “Thằng bé ăn mày”, “Quyền
chủ”…). Đó là những đứa bé đi ở, ăn trộm, ăn cắp, ăn mày…. Chúng cũng bị
đánh đập, bóc lột như bất kỳ kẻ nghèo đói, cùng quẫn nào. Cuộc sống của
chúng là chuỗi dài đầy ải khủng khiếp. Chúng là thú vui của bọn nhà giầu
hợm hĩnh, ác độc. Sự góp mặt của những nhân vật trẻ em đã gia tăng sự
phong phú của những con người nghèo khổ, là những mảng màu bổ sung cho
bức tranh xã hội vốn đã xám xịt, càng xám xịt thêm.
Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn sáng tạo ra loại nhân vật đặc biệt:
nhân vật - đồ vật. Nhân vật hóa đồ vật là một thủ pháp các nhà trào phúng
thường sử dụng và khai thác triệt để khả năng phản ánh hiện thực của chúng.
Nói về cuộc sống khốn khổ của người dân bằng chính họ chưa đủ, Nguyễn
Công Hoan còn sử dụng đồ vật như nhân vật để làm tăng cái nghèo, cái bấp
bênh, cái khốn cùng của kiếp người (“Chiếc quan tài”).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
Tóm lại, thế giới nhân vật trong truyện ngăn Nguyễn Công Hoan thật
phong phú, đa dạng. Đó là một thế giới đông đúc với đủ hạng người, đủ các
thành phần. Tất cả từ quan lại, tư sản, đến me Tây, gái điếm, phu phen, nông
dân, kéo xe, ăn mày, từ người lớn đến trẻ con, từ sang trọng đến thấp hèn …
đều đang nhố nhăng, đi lại, nói cười trong truyện ngắn của ông. Thế giới nhân
vật ấy thật sinh động, góp phần thể hiện quan niệm của ông về cuộc đời, về
con người. Thế giới ấy cũng góp phần chứng minh cho nguyên lý: xã hội thế
nào thì con người thế ấy.
1.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn A.Sekhov
1.2.1. A.Sekhov và thời đại
A.P.Sekhov (1860 -1904) là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn
học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung. Ông được sinh ra trong một
gia đình tiểu th ị d ân ở th ị trấn Tagan ro c - một thành phố cảng cổ, một nơi
buôn bán sầm uất. Dòng họ Sekhov có tới năm đời là nô lệ. Đến đời ông nội
của Sekhov dòng họ mới chuộc được tự do. Thoát khỏi kiếp nô lệ, là người tự
do, nhưng cuộc sống của gia đình Sekhov vẫn rất chật vật. Họ sống trong sự
chắt bóp, dè sẻn, tằn tiện. Cuộc sống vất vả đã cho cha Sekhov - ông Peven
E.S. một bài học giáo dục đáng sợ và ông thực hiện nó với con cái. Cần phải
có quy củ trong cuộc sống; cần phải có luật lệ trong gia đình; cần phải nghiêm
khắc với con cái…. Vì thế, sinh hoạt trong gia đình Sekhov là thời gian biểu
bất di bất dịch. Sáng, lũ trẻ cùng bố mẹ đi lễ nhà thờ, về ăn qua quít, người
cha bán hàng. Trưa, đi lễ nhà thờ và tối đến, sau bữa ăn, Paven đọc báo cho cả
nhà nghe và ông sẽ không chịu nổi nếu ai đó tỏ vẻ không lắng nghe. Trước
khi đi ngủ, họ lại cầu nguyện. Bản thân Sekhov nhiều lần suýt bị đánh đòn, vì
đã lấy làm lạ, sao lại cứ phải cúi rạp, chạm trán xuống sàn nhà.
Có thể nói, tuổi thơ của anh em Sekhov trải qua trong nhàm chán, buồn
tẻ, sợ hãi. Cầu kinh, đi học, trông hàng, đòn roi ở nhà và đòn roi ở trường…,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
đó là vßng luẩn quẩn, tẻ nhạt mà họ phải chịu đựng. Khi đã trưởng thành,
Sekhov chua chát nhắc lại: “Thuở nhỏ, tôi không có thời thơ ấu…”.
Quyền lực, trật tự gia đình mà Peven muốn gây dựng, cuối cùng không
thực hiện được. Buôn bán khó khăn, vỡ nợ, phá sản, ông buộc phải trốn đi, để
lại gánh nặng cho Sekhov. Năm 1876, gia đình Sekhov thực sự phá sản, phải
chuyển đến Maxcơva. Đang học dở trung học, Sekhov ở lại Taganroc với cô
ruột. Cuộc sống khó khăn, nhờ sự giúp đỡ của bà cô, cộng với nghị lực của
bản thân, Sekhov đã vượt qua.
Cuộc sống “không có thời thơ ấu” , nỗi đau của cha, mẹ, những vất vả
của họ, sự tráo trở, đê tiện của người vốn là bạn của cha, những tháng năm
một mình bươn trải để sống ở Taganroc đã tạo cho Sekhov cái nhìn tỉnh táo,
lạnh lùng, nghiêm khắc. Không chỉ có thế, nỗi đau vì nghèo đói, nô lệ đã thấm
sâu trong Sekhov. Tốt nghiệp trung học, Sekhov quyết định lên M axcơva.
Trước khi đi, Sekhov chào bà cô với tâm trạng bùi ngùi: “Đừng buồn cô ạ.
Cháu đi Maxcơva rồi sẽ thành bác sỹ. Cháu sẽ sống đàng hoàng, sống cho ra
con người cô ạ”. Đây, không đơn giản là một lời chào, mà là một tâm niệm,
được xuất phát từ thực tế cuộc sống, để rồi trở thành quan niệm về cuộc đời,
về con người của nhà văn Sekhov sau này.
Ở Maxcơva, Sekhov vừa học trường y, vừa bắt đầu viết văn. Chất hài
hước xuất hiện trong những tác phẩm đầu tay của ông. Mặc dù còn trẻ, nhưng
Sekhov đã trở thành chỗ dựa cho mẹ và các em ở Maxcơva. Ông rất quan tâm
đến việc giáo dục các em, uốn nắn họ. Hơn ai hết, Sekhov hiểu rõ, cay đắng,
căm phẫn với sự nô lệ đã trở thành máu thịt của bao kiếp người, trong đó có
cha ông, anh, em ông. Cho nên, theo ông, cần phải tẩy rửa đến cùng những
giọt máu nô lệ. Trong thư gửi anh trai Nicolai, Sekhov đã nói rõ quan niệm
của mình về một con người có đạo đức, có giáo dục. Đó là người cần thỏa
mãn những điều kiện:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
“- Phải biết tôn trọng cá tính con người, luôn độ lượng, nhã nhặn, lễ
độ…
- Không chỉ yêu thương những con người nghèo khổ mà còn phải biết
yêu thương những con mèo.
- Phải biết đau xót tâm hồn…” [ 19,tr.2].
Sự nghiệp văn học của Sekhov được tính từ những năm 80 của thế kỷ
XIX. Những năm 80,90 của thế kỷ XIX là những năm cực kỳ phức tạp của
lịch sử xã hội Nga. Nhận xét về thời kỳ này, Sekhov viết:
“Cảnh sống chung quanh thật tồi tệ… theo như sự suy xét của tôi về trật
tự sự vật, thì cuộc đời hầu như chỉ gồm toàn những điều khủng khiếp, cãi cọ,
cấu xé nhau. Sự ti tiện, thấp hèn, xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc”. Do đâu mà có
hiện thực đó?
Nước Nga nửa sau thế kỷ XIX thật sự rối ren. Cuộc cải cách nông nô 19-
12-1861 với tính chất nửa vời, bịp bợm đã làm đảo lộn toàn bộ xã hội. Chế độ
nông nô không những không bị thủ tiêu m à còn trở nên tàn bạo hơn, tinh vi
hơn trong việc áp chế nhân dân. Chế độ phong kiến Nga hoàng bước vào thời
kỳ khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn. Đó là “tình trạng bế tắc, đứng
ở ngã ba đường về xu hướng chính trị, xã hội, cuộc sống tràn ngập vô vàn
mâu thuẫn” [61,tr. 45]. Để tồn tại, giai cấp quý tộc già nua câu kết với giai
cấp tư sản vừa “thoát thai từ giai cấp nông nô” , non yếu, bạc nhược và cũng
đầy toan tính. Giai cấp vô sản mới ra đời chưa đủ sức trở thành một lực lượng
chính trị độc lập, như ng đã phần nào thể hiện những yếu tố tiến bộ, cách
mạng, tác động nhất định đến phong trào đấu tranh của nhân dân Nga.
Những năm 80,90 của thế kỷ XIX là những năm trì trệ nhất trong lịch sử
xã hội Nga. Sekhov tận mắt nhìn thấy đời sống khổ cực của nhân dân do nạn
mất mùa xảy ra liên tiếp trong mấy năm. Ông cũng chứng kiến sự tàn bạo, hà
khắc của Nga hoàng và nhà nước phong kiến trong ngày tàn, cùng sự ngoi lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
của tầng lớp tư sản mới trở lại. Không khí ngột ngạt, oi bức bao trùm toàn bộ
đất nước. Tư tưởng nhân dân bị phân tách. Phần đông giới trí thức hoang
mang, dao động, rơi vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Tầng lớp tiến bộ
muốn rời bỏ vũ đài chính trị, thậm chí thỏa hiệp, đầu hàng. Học thuyết
“không chống lại cái ác bằng bạo lực” của L.Tonxtoi có điều kiện phát huy
tác dụng. Có thể nói, Đây là giai đoạn thoái trào của cách mạng. Nước Nga
rơi vào hoàn cảnh ảm đạm, xám xịt, phá sản về nhiều mặt và nổi bật nhất là
sự phá sản về tinh thần của giới trí thức Nga. Họ lặn ngụp trong sự tầm
thường và dung tục.
Như vậy, những năm 80,90 của thế kỷ XIX là thời kỳ giao thời của xã
hội với những rối ren, đảo lộn. Cái cũ chưa mất đi, cái mới chưa hình thành.
Đời sống văn học lúc này, về cơ bản, là bế tắc. Tuy nhiên văn học hiện thực
vẫn có thành tựu.
Sekhov sống và sáng tác trong buổi giao thời đó. Ô ng được coi là đại
biểu xuất s¾c cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga. Sekhov bước vào lịch
sử văn học Nga với tư cách nhà cách tân thiên tài trong lĩnh vực truyện ngắn.
Sekhov - nhà văn của thời đại. Năng khiếu qua n sát, nhạy bén với xã hội
đã giúp nhà văn hình thành nhận th ức kh ách quan. Bằn g sự tin h tế, sự trải
nghiệm, nhà văn thu lượm chất liệu cho truyện ngắn từ đời sống hàng ngày,
gần gũi với tất cả mọi người. Chứng kiến sự thật trần trụi của xã hội đảo điên,
Sekhov đau xót và hi vọng vào sự thức tỉnh của nhân cách. Ông không chỉ
đưa ra lời khuyên mà còn khích lệ tích cực cho sự bảo vệ, hoàn thiện nhân
cách. Quan niệm về cuộc đời và con người luôn được Sekhov duy trì. Trong
thư gửi em trai, Sekhov viết:
“Việc gì em phải tôn sùng người khác bằng cách tự gọi mình là kẻ hèn
mọn, không đáng để ý đến…. Không! Giữa người đời cần phải ý thức được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
nhân phẩm của mình…. Em hãy biết rằng con người nhỏ bé, trung thực,
không phải là người hèn mọn”. [19,tr. 82]
Khuyên em và cũng là nhắc mình. “Phải sống sao cho ra con người”,
“(…) Giữa người đời phải ý thức được nhân phẩm của mình” - Đó cũng là
mục đích sáng tạo của Sekhov. Có thể nói, toàn bộ sự nghiệp văn học của
Sekhov đã và chỉ phục vụ cho mục đích cao cả ấy. Trong sự phá sản tinh thần
khủng khiếp của thời đại, Sekhov là người dũng cảm lôi ra những xấu xa, tội
lỗi chui rúc sâu trong ngõ ngách tâm hồn, phản ánh thực trạng xã hội đen tối.
Ông cũng là người lên tiếng phê phán xã hội qua những cuộc đời khổ ải, bất
công…. Tất c ả những việc làm đó của ông đều nhằm tìm và trả lại cho con
người ý nghĩa đẹp đẽ và cao cả của chính nó.
Cuộc sống vất vả, chật vật tạo điều kiện cho Sekhov khả năng quan sát,
khám phá hiện thực. Cùng lúc Sekhov vừa làm thày thuốc chữa bệnh, vừa làm
nhà văn. Nghề y buộc ông tiếp xúc với nhiều hạng người trong xã hội. Nhà
giải phẫu, nhà chữa bệnh thân xác, nhà châm biếm, thầy thuốc tâm hồn có
thêm điều kiện hiểu cặn kẽ mỗi loại người. Nhờ thế, trong tác phẩm, những
xấu xa, ti tiện được ông moi ra từ mỗi đường gân, thớ thịt để xem xét, mô tả,
phê phán, đớn đau. Bất kỳ ở đâu, chỗ nào, Sekhov cũng nhìn ra căn bệnh tinh
thần khủng khiếp. Sau thời gian làm việc ở đảo Xakhalin - nơi Nga hoàng đầy
ải các tù nhân - Sekhov chứng kiến nhiều nỗi kinh hoàng của tù nhân. “Chúng
ta làm chết dần chết mòn hàng vạn người trong n hà tù, làm lụi dần ánh bình
minh (…) Chúng ta là những kẻ vô nhân đạo; chúng ta đã xua đuổi nhiều
người vào nơi băng giá, trong gông cùm…. Chúng ta đã làm sinh sôi, nảy nở
ra những tên tội phạm và chú ng ta đã trút tất cả điều đó cho những tên
cai ngục mũi đỏ. Không phải những tên cai ngục có tội mà tất cả chúng
ta đều có tội”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
Trung tâm chú ý của Sekhov là “mong muốn khám phá và mô tả thân
phận nô lệ, đầu óc nô lệ của con người biểu hiện qua vô vàn dạng thức (…)
Thói nô lệ ngấm sâu và đầu độc người lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức,
viên chức, quân nhân, thương gia, sinh viên, nông dân - những con người
không biết kính trọng cái phẩm giá làm người của mình, đành tâm ngoan
ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những kẻ nô lệ”. Chính vì vậy, khao khát
của Sekhov là ở chỗ, tác phẩm của ông không chỉ phanh phui, lên án, công
kích hiện tại, mà còn hướng đến tương lai qua nhận thức của người đọc. Đây là
những lời ông nói với một thanh niên, khi anh ta khóc trước vở kịch của ông:
- “Đấy, annh kể với tôi rằng anh đã khóc khi xem kịch của tôi. Mà không
phải chỉ mình anh. Nhưng tôi đâu có viết để thấy những giọt nước mắt? Tôi
muốn cái khác kia. Tôi chỉ muốn nói thật, nói thẳng với mọi người rằng:
“Hãy nhìn lại mình, hãy nhìn xem chúng ta đang sống tồi, sống tệ như
thế nào? Cái quan trọng nhất là để họ thấu hiểu điều đó, và khi đã thấu hiểu,
thế nào họ cũng phải tạo cho mình cuộc sống tốt hơn. Tôi không thấy cuộc
sống đó, nhưng tôi biết rằng nó sẽ hoàn toàn khác, không giống gì với cuộc
sống hiện tại.
Và bây giờ, khi nó chưa tới, tôi sẽ còn mãi mãi nói với mọi người: Hãy
nhận ra đi, các người sống thật tồi, thật tệ”.
Vậy, thì có gì phải khóc?” [19,tr.282]
Những năm cuối đời, Sekhov vẫn tiếp tục quan niệm sống, quan niệm
nghệ thuật vì con người đó. Nhờ vậy, sự phản ánh mặt trái xã hội ở ông thời
kỳ này nghiêm khắc hơn, quyết liệt hơn. Vấn đề gay cấn của thời đại, của xã
hội đã hiện hình rõ nét. Đó là cuộc sống tầm thường, dung tục trở nên phổ
biến, bao vây con người.
Sekhov đã vật lộn với cuộc sống, tìm tòi trong đó, và bẳng thái độ lạnh
lùng, khách quan, ông đã phản ánh thực trạng xã hội, phanh phui, lật tẩy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
những cái xấu, cái ác bọc trong nhung lụa, hào nhoáng. Theo ông, khi viết
truyện có thể khóc lóc, có thể rên rỉ, có thể đau đớn cùng nhân vật của mình.
Càng tỏ ra khách quan bao nhiêu, ấn tượng gây ra càng mạnh mẽ bấy nhiêu.
Đó chính là sự hi vọng vào cộng đồng sáng tạo ở độc giả của Sekhov, thể hiện
rất rõ quan hệ giữa sáng tạo và đời sống hiện thực.
Quan niệm về cuộc đời, con người, nghệ thuật đã đem lại cho nhà văn
những giá trị riêng. Toàn bộ sáng tác của Sekhov đã phản ánh một cách đầy
đủ, trọn vẹn và sâu sắc thời đại mà ông sống, hoạt động nghệ thuật. Từ hoàn
cảnh sống, đến sự vận động, phát triển và những thay đổi của thời đại… đều
được thâu tóm bằng cái nhìn tinh tế, nhạy bén và sâu sắc của nghệ sỹ Sekhov.
Tác phẩm của Sekhov không chỉ cất lên tiếng nói của thời đại nước Nga
những năm 80 - 90, mà còn phản ánh được hơi thở chung, sự gần gũi của các
dân tộc khác trong những hoàn cảnh tương tự.
“Chắc rằng người đọc chúng ta ngày nay vẫn tìm thấy trong tác phẩm
Sekhov cái thế giới và cuộc sống của nước Nga những năm 80 không có gì
rạng rỡ đó, những con người, những tâm hồn sao mà gần gũi, giống như họ
đang sống đâu đây” [45,tr.215]
1.2.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Sekhov
Truyện ngắn Sekhov là truyện ngắn hiện thực, do vậy, nhân vật, sự việc
được đề cập đến đều xuất phát từ những nguyên mẫu ngoài đời. Cũng như khi
phân loại truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi cũng lấy đối tượng miêu
tả và mục đích phản ánh của tác giả làm tiêu chí để khảo sát thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Sekhov. Đối tượng miêu tả của Sekhov là tất cả các tầng
lớp người trong xã hội. Từ bọn quan lại trí thức, những người bình thường,
đến tầng lớp đáy cùng của xã hội… đều xuất hiện trong tác phẩm của Sekhov
với tư cách là nhân vật chính. Mục đích phản ánh của Sekhov, như ông viết
trong thư gửi Pleseev: “Tôi că m thù sự dối trá và bạo lực trong mọi dạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
thức của chúng, thói giả nhân giả nghĩa, sự đần độn và thói độc đoán ngự trị
không chỉ trong các gia đình thương gia và cả trong nhà tù” [52,Tr. 252]
Chúng tôi đã khảo sát 30 truyện ngắn của Sekhov và có bảng khảo sát
thế giới nhân vật sau:
TT Tên tác phẩm
Nhân vật Ghi
chú Nhân vật là những
dị tật của xã hội
Nhân vật là những nạn
nhân bi thảm của xã hội
1 Cái chết của một viên chức X
2 Anh béo anh gầy X
3 Con kỳ nhông X
4 Phẫu thuật X
5 Mặt nạ X
6 Lão quản Prisubeep X
7 Vanka X
8 Chuyện đời vặt vãnh X
9 Vé trúng số X
10 Đánh cược X
11 Những người đàn bà X
12 Các bà X
13 Ionuts X
14 Người trong bao X
15 Lũ trẻ X
16 Quân ăn hại X
17 Một phiên tòa X
18 Buồn ngủ X
19 Một chuyện đùa nho nhỏ X
20 Khóm phúc bồn tử X
21 Một chuyện tình yêu X
22 Nỗi khổ X
23 Nỗi nhớ X
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
24 Trong thung lũng X
25 Hai kẻ thù X
26 Thủ đoạn X
27 Cái mề đay X
28 Thày giáo dạy văn X
29 Cô đào hát X
30 Rối ren X
Tổng số 23 07
Từ bảng khảo sát, chúng tôi nhận xét: nhân vật trong truyện ngắn
Sekhov, về cơ bản, được tổ chức thành hai tuyến cơ bản. Tuyến một gồm
những nhân vật thuộc lớp quan lại, công chức, trí thức. Loại nhân vật này
chiếm một số lượng lớn truyện ngắn (23/30). Loại nhân vật này của Sekhov
không là những người tai to mặt lớn như các quan tri huyện, tuần phủ của
Nguyễn Công Hoan, mà thuộc loại trung bình trong xã hội (Họ trung bình về
tất cả mọi mặt: thành phần giai cấp, vị trí xã hội, tài sản, trình độ…). Họ là
lớp người được sản sinh ra sau cải cách 1861, trong sự đảo lộn, rối ren của xã
hội Nga n ửa sau thế k ỷ XIX và đ an g có rất n h iều ở xã h ội Nga. Lo ại này
trong cuộc sống, có chút công việc ổn định, chút của cải, chút ít danh vị, học
thức, nhưng chưa leo được vào xã hội thượng lưu. Đây là cái mới của Sekhov
khi lựa chọn đối tượng phản ánh.Cái gọi là tinh thần trống rỗng, vô liêm sỉ
của những ông chủ, các quý bà đã được các nhà văn lớp trước đề cập và giải
quyết trọn vẹn. Đến lượt mình Sekhov chú ý đến tầng lớp tiểu tư sản, thị dân
và chĩa mũi nhọn phê phán vào chúng, tạo ra sự phê phán mang tính toàn diện
trong văn học Nga nói chung.
Lớp người này xuất hiện khá nhiều trong truyện ngắn Sekhov. Tỷ lệ
23/30 truyện có loại nhân vật này cho thấy mối quan tâm đặc biệt và tập trung
“giải phẫu” cho lớp người này của tác giả. Tỷ lệ này cũng cho thấy họ -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
thành viên của xã hội Nga sau 1861 - đã là lực lượng phổ biến, chịu sự tác
động hết sức mạnh mẽ của một xã hội rối ren, trì trệ, đầy ung nhọt. Sekhov đã
không nương tay khi phanh phui từng lớp tâm hồn lũ người này, lôi ra chân
tướng của chúng để đả kích, phê phán, làm thành những toa thuốc trị bệnh.
Một tuyến nhân vật nữa được Sekhov lưu tâm. Đó là những người đáy
cùng trong xã hội. Truyện về loại người này (“Cô đào hát”, “Con ở”, “Quân
ăn hại”…) xuất hiện không nhiều, có 7/30 truyện. Trước Sekhov, loại nhân
vật này đã xuất hiện trong sáng tác của Puskin, Gogon, Turghenhev. Đó là
những con người bé nhỏ, thấp cổ bé họng. Dù bị chà đạp, hủy diệt, nhưng dẫu
sao, họ vẫn ở bậc thấp nhất của ngạch công chức nhà nước, được cấp cho một
loại công việc, một chút lương để tạm duy trì cuộc sống. Sekhov tiếp tục đề
tài con người bé nhỏ với diện mạo mới. Những năm 90 của thế kỷ, nước Nga
đã phô ra rất nhiều điều khủng khiếp, mà phải gần dân lắm, phải từ cùng khổ
mà ra như Sekhov mới thấu hiểu hết cái kiếp tôi đòi, nô lệ đó. Sekhov đã hết
sức tỉnh táo, khám phá những biểu hiện nhỏ nhất, từ đó nói lên kiếp người
trong cõi tối tăm, khổ nhục. Về mặt này, Sekhov đã kế tục xuất sắc truyền
thống văn học trước đó và dọn đường tích cực cho M.Gorki sau này.
Bên cạnh những người lớn bị đầy đọa, là những đứa trẻ với thân phận tôi
đòi, bị đầy đọa không kém gì người lớn. Cuộc sống cơ cực của những em bé
này xuất hiện không nhiều, chỉ 3/7 truyện, nhưng sức tố cáo thật lớn. T rong
những truyện ngắn này (“Vanka”, “Buồn ngủ”, “Lũ trẻ”) chuyện tưởng như
không có chuyện. Một đứa bé mới 9 tuổi viết thư, một đứa bé đi ở phải trông
con cho nhà chủ làm nhiều quá và buồn ngủ, những đứa bé chơi với nhau vô
tư…, tưởng như không có gì đáng nói. Vậy mà, qua ngòi bút Sekhov, nó
mang ý nghĩa nhân sinh vô cùng lớn. Những câu chuyện đơn giản nhưng đã
làm xúc động người đọc. Mục đích Sekhov muốn đạt đến là tất cả cùng nhìn
cuộc sống xung quanh mình, trăn trở và sửa đổi cuộc sống thực, nhìn ra tương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
lai. Những câu hỏi về số phận những nhân vật này cứ treo lơ lửng, không có
kết thúc như bức thư của Vanka, số phận của Varka….
Miêu tả loại người này trong tác phẩm với ngòi bút lạnh lùng khách
quan, Sekhov tái hiện lại những lát cắt hiện thực khắc ngh iệt. Èn sâu dưới
hình thức lạnh lùng là tấm lòng nhân đạo, sự cảm thông, thấu hiểu của
Sekhov. Nỗi khổ nhục, cùng quẫn của loại nhân vật này đã như bản cáo trạng,
lên án chế độ nông nô chuyên chế của Nga Hoàng kéo dài.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Sekhov cũng có nhân vật đặc biệt -
nhân vật là đồ vật. Đó là bức thư trong truyện ngắn “Vanka”. Nhân vật là đồ
vật, thứ vô tri nhưng lại mang tiếng nói rõ ràng, sâu sắc. Đây là phát hiện mới
của Sekhov trong lịch sử văn học Nga, thể hiện sự đồng cảm với những con
người nghèo khổ bị chà đạp. Nhân vật - đồ vật của Sekhov cũng mang ý nghĩa
phê phán xã hội rất lớn.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Sekhov phong phú, đa dạng, đã
chuyển tải một dung lượng hiện thực lớn, và làm nên tài năng của Sekhov.
“Nếu có một phép màu nào làm nhân vật của Sekhov rời khỏi trang sách,
bước xuống đường phố, thì chúng ta sẽ thấy một cảnh tượng đông đúc, huyên
náo, thật là đáng kinh ngạc; hàng nghìn con người, mỗi người một vẻ, lớn bé
già trẻ, nữ, nam, chải chuốt, bê tha, nghèo hèn và giàu có, xinh đẹp và dị
dạng, cao sang và bần tiện…” [19,tr. 29].
Nguyễn Công Hoan và Sekhov đều là những nhà văn viết truyện ngắn tài
ba. Họ sống ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau. Sekhov sống trọn vẹn 44 năm
cuối của thế kỷ XIX. Nguyễn Công Hoan sống 73 năm của thế kỷ XX. Mặc
dù sống và viết ở hai thời đại kh¸c nhau với truyền thống lịch sử, văn hóa,
dân tộc khác nhau, nhưng truyện ngắn của họ có những nét tương đồng. Cơ sở
của sự tương đồng đó, trước hết là ở tính chất thời đại mà chúng tôi đã chỉ ra.
Lịch sử nước Nga cuối thế kỷ XIX và lịch sử Việt Nam đầu XX đều mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
một đặc điểm cơ bản: giao thời giữa cái cũ (nhà nước phong kiến lỗi thời,
phản động) và cái mới (giai cấp tư sản, giai cấp vô sản hình thành với những
định hướng chính trị khác nhau), sự cấu kết giữa phong kiến và tư sản hòng
ngăn chặn phong trào đấu tranh của nhân dân. Đặc điểm cơ bản này đã chi
phối đời sống chính trị, kinh tế, tinh thần của tất cả mọi tầng lớp xã hội, tạo ra
sự khủng hoảng, phá sản về tinh thần, sự đảo lộn trật tự xã hội. Xã hội đó đã
đẻ ra những quái thai, dị tật, đẻ ra lớp quần chúng bần hàn, mông muội. Cơ sở
thứ hai thuộc về hai nhà văn. Họ đều là những người tôn trọng đạo lý, giá trị
tinh thần đích thực. Họ đều là những người thông minh, nhạy bén, có cảm
quan xã hội khỏe khoắn. Họ đều trải qua cuộc sống gần gũi với mọi lớp người
trong xã hội. Họ đều hiểu biết xã hội, con người sâu sắc. Quan trọng hơn cả,
họ đều nắm được đời sống bên trong con người thông qua những biểu hiện
hết sức vụn vặt, thậm chí rất bình thường bên ngoài. Vì thế, ở họ có quan
niệm đúng đắn về cuộc đời, về con người. Họ gặp gỡ nhau về quan niệm nghệ
thuật, gặp gỡ nhau ở cách xây dựng truyện ngắn, lấy truyện ngắn làm công cụ
giải phẫu xã hội bệnh. Họ khao khát gạt bỏ chất nô lệ trong con người, đem
và trả lại giá trị đích thực cho con người. Xã hội Nga cuối XIX, Việt Nam đầu
XX đã cung cấp cho họ những đề tài, chủ đề về sự méo mó, sự thô lậu, bẩn
thỉu của nhân cách. Họ đã phản ánh tất cả sự thực đó trong tác phẩm của mình
thông qua hệ thống nhân vật hết sức phong phú và sinh động. Có khác chăng
là ở cách thức sử dụng những phương tiện nghệ thuật trào phúng, châm biếm,
tạo cái cười…. Tựu chung lại, đối tượng, mục đích sáng tác của họ đều gặp
gỡ nhau, và họ đóng góp cho văn học nước nhà, văn học thế giới từ thực tế
sáng tác của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
Chương 2:
NHÂN VẬT – NHỮNG DỊ TẬT CỦA XÃ HỘI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYÊN CÔNG HOAN VÀ A.SEKHOV
Một trong những cơ sở quan trọng tạo nên giá trị hiện thực sâu sắc cho
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov là thông qua hệ thống nhân vật
phong phú và đa dạng, hai tác giả đã phản ánh chân thực mối quan hệ giữa
thời đại và con người của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX và văn học Nga
cuối thế kỉ XIX. Ở chương 1 chúng tôi đã chỉ ra những yếu tố lịch sử xã hội
tương đồng, tác động đến quá trình hình thành quan niệm về cuộc đời, về con
người, về nghệ thuật của hai tác giả. Rõ ràng, cả hai nhà văn, trong điều kiện
xã hội cụ thể mà họ đã sống, chứng kiến, trải qua…, đã khám phá mối quan
hệ giữa thời đại và con người. Họ đã tiến hành những cuộc giải phẫu bằng
ngôn từ, để làm rõ mối quan hệ một chiều này. Đó là quan hệ mà trong đó,
thời đại có vai trò quyết định, tác động đến tâm lý, tình cảm, tư tưởng con
người, làm thay đổi số phận con người. Con người chịu sự chi phối của thời
đại, không có khả năng cải tạo xã hội. Giải quyết, làm rõ mối quan hệ này, cả
hai nhà văn đều thực hiện nhiệm vụ tố cáo, đả kích, lên án những bất công phi
lý, thói tật xấu xa, nô lệ mà xã hội đẻ ra nhằm thức tỉnh con người.
2.1. Nhân vật – những quái thai đắc lực của nhà nước thống trị
Thời đại thế nào sẽ sản sinh ra loại người tương ứng với nó. Những nhân
vật là công cụ đắc lực này cùng xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan và Sekhov với những cách thức khác nhau. Ở Nguyễn Công Hoan, loại
nhân vật này xuất hiện trong 9/10 truyện (“Răng con chó nhà tư sản”, “Báo
hiếu trả nghĩa cha”, “Đàn bà là giống yếu”, “Thịt người chết”, “Đồng hào
có ma” ….).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
Viết về loại nhân vật này, Nguyễn Công Hoan rất chú ý đặc tả ngoại hình
và hành động của chúng. Thể loại tr uyện ngắn không cho phép để nhà văn
miêu tả cặn kẽ ngoại hình nhân vật. Chính vì vậy, Nguyễn Công Hoan thường
chọn một trong số những yếu tố ngoại hình, tập trung bút lực đặc tả, tạo ra nét
chân dung chứa đựng tâm lý bên trong. Khi đặc tả, tác giả thường kết hợp lời
bình trực tiếp, cộng với giọng điệu châm biếm, vì thế, chân dung nhân vật
hiện lên rất rõ nét, đập ngay vào nhận thức của người đọc. Ví dụ, tả cái béo
của quan huyện Hinh trong “Đồng hào có ma”, tác giả viết: “Chà! Chà! Béo
ơi là béo! Béo đến nỗ i…”. Không cần phải mô tả thêm, người đọc cũng hình
dung ra được Huyện Hinh thế nào.
Cách thức đặc tả của Nguyễn Công Hoan là phóng đại, cường điệu một
số đặc điểm ngoại hình, tô đậm, tăng cường sự đối lập, làm tăng tính trào
phúng, châm biếm. Cách thức nà y tác động ngay tới sự chú ý của người đọc,
tạo ấn tượng khó quên về nhân vật. Đây là hình ảnh Nghị Trinh trong “Hai
thằng khốn nạn”:
“Mặt mũi phương phi, cổ rụt, bụng phệ, môi trễ mà không râu, mặc quần
áo lụa, phe phẩy cái quạt”. [ 36,tr.36]
Mỗi người mỗi vẻ, tập hợp thành bức tranh mà trong đó sự no đủ, phè
phỡn là ấn tượng chủ đạo. Bà chủ trong “Phành phạch” được miêu tả: “Bà
nằm đó. Nhưng, thoạt trông đố ai bảo là một người (…) Cái mặt phị, cái cổ
rụt, cái thân nung núc, và bốn chân tay ngắn chùn chùn” (…) Thật thế, bà
béo lắm, một cái béo rất hùng vĩ” [36,tr.378]. Không cần nhân vật phải hoạt
động, không cần phải vẽ kỹ lưỡng chân dung, chỉ cần thế thôi, người đọc
cũng đã phát ngấy, phát nóng trước phản thịt ấy.
Cũng cách tả như vậy, cái béo ngốt người của một bà chủ khác lại hiện
ra: “Bà béo quá. Gớm! Béo đâu béo lạ béo lùng thế! Béo đến nỗi hai má chảy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
ra, rụt cổ lại. Béo đến nỗi bụng sệ xuống. Béo đến nỗi trông phát ngấy lên” [
36,tr.378].
Những câu: - Chà! Chà! Béo ơi là béo.
- Thoạt trông đố ai bảo là người.
- Gớm! Béo đâu béo lạ béo lùng.
- Béo đến nỗi….
là những lời bình trực tiếp của tác giả, tác động ngay đến trí tưởng tượng của
người đọc. Chưa cần phải có những chi tiết cụ thể, người đọc đã có cái nhìn
khái quát về nhân vật rồi.
Không chỉ c ó thế, các nhân vật thuộc lớp nhµ giầu này còn được tác giả
miêu tả chân dung luôn có nét thô kệch. Cũng dễ hiểu, một khi đã béo quá,
thô kệch cũng là đương nhiên. Có điều, những nét chân dung thô kệch đó, qua
ngòi bút châm biếm của Nguyễn Công H oan trở lên tởm lợm. Quan bà (một
tấm gương sáng) - một góa phụ “đoan chính” - được tả chỉ bằng hai bộ phận
trên cơ thể: “Cặp môi đỏ nẫn” và “Cái ngực đầy lù lù nóng hổi”, đã đủ để
người đọc biết góa phụ này có đoan chính thật hay không. Và quả nhiên, cặp
môi đỏ nẫn, cái ngực đầy lù lù nóng hổi ấy đã từng bước đưa bà từ cái bóng
nghèo hèn, lên dần, lên cao dần thành bà Phủ, rồi cụ Tuần. Chân dung quan
bà trong “Đàn bà là giống yếu” được tác giả vẽ:
“Chỉ riêng bộ mặt cũng đủ long trọng. Người ta tưởng chiếc bánh dầy
đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự và ngay đầu quả chuối nằm dài hai
múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cái mắt híp (…)
thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thẳm, sâu như bụng dạ đàn bà”
[36,tr.191]. Chân dung đó phù hợp với tâm địa của một mụ đàn bà hư hỏng,
trơ trẽn, khi mụ ta ném vào mặt chồng: “Tôi cứ nói. Rồi tôi đi khắp chỗ quen
thuộc, bạn bè với ông, báo với họ rằng: Mười mấy lần bà phủ ngủ với trai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
ngay trong buồng quan Phủ”. Cái trơ trẽn đã giúp bà chuyển bại thành thắng,
chuyển xấu xa thành tốt đẹp, chuyển có lỗi thành không có lỗi.
Chân dung, ngoại hình bọn quan lại giầu có hiện ra rất đa dạng. Không
phải chỉ có cái béo đến phì nộn, phát ngấy, phát tởm, mà chúng còn là “những
hình thể khác hẳn. Vì ở người ngài cái gì cũng cong cong, từ cái sống mũi,
đến cái lương tâm, từ cái lưng đến cái xử kiện”. Nguyễn Công Hoan không
che giấu thái độ của mình qua cách miêu tả đó. Ông lôi chúng ra để chế giễu,
khinh miệt. Bất kỳ một tên quan lại, tư sản nào cũng bị ông vẽ t hành bức biếm
họa. Có điều, mỗi cái biếm họa theo một kiểu khác nhau. Bọn quan lại, phong
kiến béo nẫn, béo nần. Bọn tư sản đang lên cũng béo, nhưng cái béo cũng có
vẻ “tân tiến” hơn . Vẽ bọn tư sản, tác giả thường chú ý đến đầu, tóc hơn là
mặt mũi. Nhà tư sản trong “Báo hiếu trả nghĩa cha” được tả:
“Cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp, cũng thẳng như cái
hộp. Tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo úp trên đầu, không chịu kém với bộ
ria sửa khéo như vẽ” [ 36,tr.118 ].
Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Công Hoan chọn lựa cho nhân vật của
mình những diện mạo, hình dạng như thế. Chân dung của mỗi người như thế
nào sẽ phản ánh cái con người bên trong của họ như thế. Trên thực tế, không
phải tự nhiên mà hầu hết các quan, đến các quan bà đều béo nứt, béo trương.
Nguyễn Công Hoan đã để cho nhân vật xưng tôi trong “Một tấm gương
sáng” phát biểu:
“Vì “thế sự” đã xoay thành ngược, mà “đời” ngày nay chẳng phải là
một bà hiền mẫu biết thưởng phạt công minh. “Đời” đã hóa ra một con mụ
chửa hoang, đẻ bậy, sinh non ra toàn những hạng hoặc mất dạy, hoặc đói
cơm (…) Hạng đói cơm thì ngài thấy nhan nhản khắp nơi (…) Còn hạng mất
dạy, cũng chẳng ít. Họ rất no đủ, sang trọng, chuyên môn đeo mặt nạ để lừa
dối, bóc lột lẫn nhau” [36,tr.218].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
Đó, có thể nói, là chỉ dẫn của Nguyễn Công Hoan cho người đọc đi vào
thế giới nhân vật no đủ, phè phỡn của ông. Lập luận của Nguyễn Công Hoan
rất rõ ràng: “Ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những anh
thích ăn bẩn cả” [36,tr.406]. Ăn bẩn, trong khám phá của Nguyễn Công Hoan
là công cụ, cách thức để ức hiếp dân nghèo của bọn quan lại.
Bọn quan lại, được mệnh danh là những bậc phụ mẫu của dân, nhưng
thực chất chúng là lũ sâu mọt. Điều đó đã được miệng một quan bà phát ra và
nó có sức mạnh như một chân lý: “Chữ “tử tế” của ông bêu lên cho mọi
người, giá viết của nó là “bắt bí”, mà đọc nó là “bóp nặn” thì đúng hơn (…)
Đào trong ruột những thằng dân của ông, chứ còn đâu nữa! Ông quên rằng,
ô tô của bọn các ông chẳng phải chạy bằng etxăng, mà chạy bằng mồ hôi
nước mắt của dân đen à”.
Lấy “Đồng hào có ma” làm ví dụ. Sự ăn bẩn của huyện Hinh, hiếm có ai
bằng. Đường đường là một quan Huyện, quyền sinh quyền sát, nhưng ông ta
ăn chặn của dân từng đồng một. Ăn chặn, ăn của đút lót là bản chất của quan.
Cách thức ăn chặn của huyện Hinh mới thật độc đáo. Cái hay là ở chỗ, huyện
Hinh ngay mở đầu tác phẩm đã được giới thiệu: “Chà! Chà! Béo ơi là béo!”.
Cái béo được giải thích bằng tác phong làm việc của quan với dân. Dân vào
cửa quan, ngoài chờ đợi lâu la, phải đút lót tiền cho cai, cho lệ mới được vào
hầu quan. Dân có cần nhưng quan chưa vội. Dân sợ càng tốt cho quan. huyện
Hinh cứ đủng đỉnh “dặn dò cậu lệ xuống nhà bảo nhà bếp ninh cho thật dừ
cái chân giò”. Con mẹ Nuôi đứng khép nép ở đó không làm quan chú ý,
nhưng, chỉ nghe hai con gà Tây béo mẫm quàng quạc kêu, thì “Quan đang
ngồi, choàng một cái, ngài đứng dậy, chạy vội ra hiện, đứng ngay cạnh nhà
Nuôi và gọi váng: Có đứa nào đấy, lừa hai con gà vào cho tao” [36,tr.409].
Chi tiết “chân giò” hầm, gà Tây béo được đưa ra, gián tiếp giải thích vì
sao quan lại béo đến thế, và như thế là hợp lẽ đời. Ăn ngon, quan béo là phải.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
Đồng thời, những chi tiết đó cũng là sự chuẩn bị cho người đọc tiếp nhận sự
chuyển nghĩa của từ “ăn ngon” sang “ăn bẩn”, từ nghĩa đen sang nghĩa bóng
của “ăn bẩn”.
Dân vào hầu, trì nh quan việc mất trộm, phải có tiền để vi thiềng quan.
Con mẹ Nuôi cởi giải yếm để lấy tiền, sợ vía quan lớn mà run, làm rơi hết cả
tiền, “choáng váng cả người, hoa cả mắt”. Chị ta tìm tiền. Đến mạt kiếp, chị
ta cũng không sao giải thích được vì sao chỉ có chị ta và quan phụ mẫu, mà
năm hào đôi của chị ta biến mất. Tác giả để cho chị ta vừa tìm tiền, vừa sợ
hãi. Tác giả diễn tả ý nghĩ của người đàn bà tội nghiệp:
“Nó phải có năm hào đôi. Năm hào đôi mới thành đồng bạc được (…)
Không lẽ đồng hào ấy có ma, đã biến đi đâu mất chóng thế được (…) Trình
đơn có tám hào, tất nó bị quan chửi (…) Nó tần ngần chắp hai tay, vái: “Lạy
quan lớn ạ”. Rồi nó lùi lùi bước ra cửa. Rồi nó đi về…” [36,tr.411].
Tác giả kết câu chuyện bằng một cảnh:
“Ông huyện Hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn
nạn. Rồi khi thấy nó đã đi thoát, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc
giầy ra một tý. Và, vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống thò tay nhặt đồng
hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở giầy dính vào, rồi bỏ tọt v ào
túi” [36,tr.411].
Không một lời bình luận nào được đưa ra, và người đọc hiểu rõ tại sao
tác giả lại phải tranh luận về vấn đề ăn uống vệ sinh ở đầu tác phẩm, cũng
hiểu vì sao huyện Hinh béo đến thế. Hơn thế, cái tức cười mà tác phẩm đạt
đến chính là sự nhập nhằng giữa có và không ngay tại cửa pháp luật này. Dân
mất trộm, trình quan để tìm trộm, lại mất trộm ngay trong cửa quan. Quan là
nơi điều hành luật lệ, tìm trộm cho dân lại chính là kẻ lấy trộm của dân một
cách trắng trợn. Ý nghĩa tố cáo, sự phơi bầ y bản chất sâu mọt, ăn bẩn của
quan lại là ở chỗ đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
Những tên quan ăn bẩn, vô trách nhiệm như thế không phải là hiếm trong
xã hội Việt Nam ngày đó. Chúng chỉ biết “ăn tiền và chơi gái” (“Đồng hào
có ma”). Chúng cũng chỉ biết “cả đêm trước ngài nhảy đầm trên tỉnh, ba bốn
giờ sáng mới về”. Mọi việc quan mặc kệ. Sự ăn bẩn được Nguyễn Công Hoan
đưa lên đỉnh điểm trong tác phẩm “Thịt người chết”. Vì sự vô trách nhiệm
của quan mà người chết đã hai hôm không được chôn cất. Người ta trình báo,
người ta chờ đợi cuộc khám xét của quan phụ mẫu. Tác giả đã cho xuất hiện
ba cảnh song hành. Cảnh 1 - cảnh gia đình người chết, buồn thương, ảm đạm,
người chết “chờ chôn, mỗi lúc một trương to, rập rình cảnh cái quan tài
ngoác miệng chờ việc”. Cảnh 2 - cảnh hoạt động tấp nập của những loài
“khác giống” với tử thi:
“Dưới nước, lũ cá mương vui vẻ, nô giỡn nhau, chui vào kẽ nách, lỗ tai,
đớp thật nhanh, rồi chạy nhào biến mất. Rồi lại đớp, rồi lại chạy. Trên không,
vo ve đàn ruồi nhặng, rủ nhau đậu đen kịt vào mặt mũi, chân tay, mải miết
hút chất đồ ăn bổ (…) Trên ngọn tre, một con quạ đen (…) rồi một con nữa
(…) chẳng mấy chốc, hai ba con nữa bay lại (…) cả lũ theo nhau, mổ rỉa từng
nơi một (…) Như thế anh Xích vô tình là ân nhân của đàn cá, ruồi, nhặng,
quạ” [36,tr.442].
Cảnh 3 - “cho đến tận 9 giờ sáng hôm sau, còi ô tô đằng xa thét váng”
[36,tr.442]. Quan huyện tư pháp về, làm tan mất cuộc rỉa mồi của lũ quạ, ruồi
nhặng, cá mương…. Cảnh này sinh động nhất. Ngoài những “họ hàng, người
làng, ai nấy khoanh tay im lặng nuốt đờm, n hìn chằm chặp vào xác chết.
Người thở dài, người lau nước mắt” ra còn có hẳn một lực lượng tranh ăn
trên xác chết của Xích. Đó gồm “quan huyện là một, cụ lục sự là hai, cậu lính
lệ là ba, cùng trịnh trọng làm việc, cùng trịnh trọng khạc nhổ”. Nếu chỉ có
vậy, chưa đáng nói. Nguyễn Công Hoan đã dàn một cuộc đối thoại rất hợp về
hình thức (hỏi, lấy thông tin xung quanh về người chết) nhưng lại không hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
lý về nội dung (khả năng thu nhập, nguồn tài chính của khổ chủ), để quan đi
đến quyết định “tôi không thể cho chôn ngay được. Vì tôi xét trong người tên
Xích có nhiều vết khả nghi (…) xin đốc-tờ về khám cẩn thận”. Cuộc đối thoại
chỉ chỉ có hai người tham gia, mỗi người đại diện cho một lực lượng đối lập
nhau về tất cả mọi mặt. Quan huyện - phụ mẫu - đại diện cho lực lượng hành
pháp nhà nước, ông Cửu (bố Xích) đại diện cho lực lượng được chăn dắt.
Quan lạnh lùng, sắt đá. Nhà Cửu run cầm cập, não ruột. Cuộc đối thoại vẫn
tiếp tục. Mỗi một lượt tham thoại của quan là một lần tiến gần đến mục đích
moi tiền khổ chủ. C uộc đối thoại thư hai có thêm cụ lục sự, là đối tượng để
quan trao đổi, nhưng không cần trả lời. Đó là khâu trung gian đối thoại, mà
nội dung cuộc thoại dành cho ông Cứu. Kết quả của hai cuộc thoại:
“- Xin quan lớn cho con mai táng, con xin hậu tạ quan lớn.
- Anh định tạ tôi bao nhiêu” [36,tr.445].
Cuộc thoại thứ ba xuất hiện. Lần này, lục sự tham gia với tư cách tác
động đẩy nội dung và mục đích cuộc thoại lên cao trào. Việc lục sự tham
thoại đồng lượt với cả quan và ông Cửu.
Với quan :
“- Bẩm quan lớn, việc này to chứ chẳng vừa”.
Với ông Cửu:
“- (…) Anh muốn chôn ngay con anh, anh không tạ ơn quan nổi một bách hay
sao?”.
Kết quả cuộc ngã giá: ông Cửu đành chấp nhận vì:
“(…) ít ra, anh cũng lo lấy bát thập, còn thập nguyên, cho đằng này ăn với
chứ?”.Nhờ vậy, “một giờ sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngơ”
[36,tr.446].
Huyện Hinh trong “Đồng hào có ma” đã là ăn bẩn. Ăn sống ăn sượng
đồng hào đôi của người dân đen tội nghiệp - huyện Hinh đã bẩn lắm rồi. Quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
huyện trong “Thịt người chết” còn bẩn gấp bội lần. Huyện Hinh ăn vì đồng
hào lăn một cách vô thức vào chân ông ta. Quan huyện tư pháp ăn bẩn một
cách có tính toán, vì thế mà bẩn hơn, tởm lợm hơn. Nguyễn Công Hoan hạ
bút: “chúng (lũ ruồi, cá, quạ) có biết đâu rằng quan huyện tư pháp đã tranh
mất món mồi ngon của chúng” [36,tr.446]. Vì, “thịt người chết, ai hay cũng
là món đồ ăn quý hóa”.
Mỉa mai thay, đó là những quan lại, thay mặt nhà nước mà chăn dắt con
dân. Đó là lũ sâu mọt, vô nhân đạo. Mục đích của Nguyễn Công Hoan như
ông đã từng khẳng định: mở mắt cho nhân dân, để họ nhìn rõ hơn chân tướng
lũ quan lại nhơ bẩn, lũ đỉa đói ấy.
Viết về công cụ đại diện cho nhà nước, Nguyễn Công Hoan tập trung vào
các nhân vật làm quan to , n h ữn g tư sản lớn. Sekhov, trái lại, tập tru n g vào
tầng lớp công chức bình thường, có chức phận bình thường. Trước Sekhov,
văn học Nga đã lên tiếng tố cáo, phê phán sự áp bức bóc lột của lớp quan
chức, giai cấp quý tộc và nhà nước phong kiến. Những cái ác trong xã hội đã
được phanh phui, mổ xẻ. Đến lượt mình, Sekhov không chọn đối tượng đó
nữa. Ông chọn lớp người là công cụ đắc lực cho nhà nước phong kiến và khai
thác họ ở góc độ: những quái thai, dị dạng do chính xã hội, nhà nước phong
kiến cũ, tư sản mới đẻ ra. Những nhân vật này xuất hiện 5/23 truyện (“Con kỳ
nhông”, “”Lão quản Prisubeep”, “Đánh cîc”, “Một phiên tòa” v…v….).
Với “Con kỳ nhông”, Sekhov chỉ ra một chất nô lệ quánh đặc ở nhân vật
Otsumelov - thày quản coi g iữ trật tự ở một kh u ph ố chợ. Sekh ov gặp gỡ
Nguyễn Công Hoan ở nghệ thuật kết cấu truyện ngắn “Thịt người chết”. Câu
chuyện được kết cấu theo lối hướng tâm, mà tiêu điểm kết cấu là con chó con
cắn ngón tay người thợ kim hoàn Khriukin. Làm tăng giá trị của kết cấu kiểu
này là sự tổ chức chi tiết theo kiểu: một chi tiết trung tâm và hỗ trợ cho nó là
các chi tiết xung quanh. Chiều hướng vận động của các chi tiết theo hướng đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
lên, tăng dần mức độ và xoáy chặt, làm nổi bật nội dung, tư tưởng tác phẩm.
Trong “Con kỳ nhông”, tình tiết duy nhất là con chó cắn người thợ, khi anh ta
trêu nó. Vì nó cắn tay mình mà K hriukin chửi mắng nó, bắt nó trình với thày
quản Otsumelov. Vì nó cắn người khi chạy rông, nên thày phải có trách
nhiệm xử lý vi phạm trật tự công cộng. Vì là chó thả rông nên phải tìm ra chủ
nó để bắt phạt. Vì chủ nó khó xác định, lúc người này, lúc tưởng không là
người này, nên thái độ thầy quản phải thay đổi theo. Những chi tiết xung
quanh có tác dụng hỗ trợ rất lớn cho việc thể hiện nội dung. Tác giả để
Otsumelov có hai lần hắng giọng và đi liền với hắng giọng là hành động nhờ
Endurin cởi áo, mặc áo hộ. Tình huống để hai chi tiết này xuất hiện: con chó
con được xác định của tướng Giugalov.
Lần 1: Trước đó, Otsumelov ra lệnh đập chết con chó con. Nhưng, có ai
đó nói: “Hình như của tướng Giugalov…”. Nghe thấy, Otsumelov liền:
“- Hèm… Endurin! Cởi hộ tao cá i áo bành tô với… Chà, thật khủng
khiếp, nóng chi là nóng! Hình như trời sắp mưa rồi hay sao ấy…”[68,tr.16].
Lần 2: Người ta lại bảo chó con không phải của Giugalov. Otsumelov lại
xoay giở đủ kiểu, đòi đánh đập, chê bai con chó. Khi người ta lại khẳng định
nó là của Giugalov thật, Otsumelov lại:
“- Hèm… Endurin, mặc hộ ta cái áo bành tô một tý…. Trời chuyển gió
rồi đấy…ren rét là…” và, ông ta quay ra nịnh con chó.
Câu chuyện ngày càng trở nên hấp dẫn, khi con chó được coi là vô chủ.
Otsumelov hống hách, kiê n quyết đòi đập nó, xúc phạm nó và không cần phải
cởi áo hay mặc áo, không cần bình luận về thời tiết. Qua cách để các chi tiết
xung quanh này xuất hiện đúng lúc (chó được coi là của tướng Giugalov), tác
giả cho thấy: Otsumelov hành động không phải theo bản năng. Từ chính
mình, ông ta thừa biết sự quay quắt, thay đổi thái độ theo vị trí con chó con
của mình là vô lý, đáng khinh. Biết thế, nhưng ông ta vẫn làm, tự phỉ nhổ vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
mình. Vì thế, ông ta mới đánh lạc sự chú ý của mọi người bằng sự cởi áo, mặc
áo, bằng sự trời thoắt nóng đấy, lại rét ngay đấy.
Cái hay của câu chuyện con ở chỗ: với con chó, Otsumelov thay đổi thái
độ liên tục còn với người bị chó cắn, người dưới mình, nhất loạt, ông ta chỉ có
một thái độ: hống hách, đe dọa.
Lựa chọn chi tiết, đặt chúng trong những tình huống cụ thể, đẩy chúng
lên cao, cho chúng phát huy tối đa khả năng diễn tả, Sekhov làm nối bật sự xu
nịnh, tồi tệ trong nhân cách của Otsumelov. Sự thay hình đổi dạng của con
người trước một con chó hiện lên cứ tự nhiên như không, nhưng lại tạo được
ấn tượng sâu đậm, khó quên. Sự tiếp nhận của người đọc, nhờ thế nhanh hơn,
luôn giữ lâu hơn. Sự đau đớn, day dứt của người đọc nhiều hơn.
Những công cụ, những người máy phục vụ đắc lực cho nhà nước phong
kiến còn được tác giả thể hiện ở những góc độ khác nhau. Dưới ngòi bút
Sekhov, một loạt người vừa đần độn, vừa hống hách, vừa thảm hại hiện ra.
Những giám đốc nhà băng, những thủ quỹ, những thầy quản, những cảnh
binh…, vừa hung hăng, đầy nộ khí đấy thôi, khi đứng trước một “mặt nạ”
ngang ngược, đã vội “nhũn như con chi chi”, xum xoe, bợ đỡ khi cái mặt nạ
được bỏ ra, hiện nguyên cái “khuôn mặt trơ tráo, bị thịt, nhẵn bóng, đỏ lừ vì
rượu” của một thân hào truyền kiếp.
Nhân vật là quái thai, dị tật của xã hội xuất hiện trong truyện ngắn
Sekhov làm nhức nhối tâm hồn người đọc. “Lão quãn Prisubeev” và “Rối
ren” là ví dụ điển hình. Trong “Lão quãn Prisubeev”, tác giả đảo trình tự kết
cấu. Câu chuyện được trình bày từ giữa, tức cảnh phiên tòa xử Prisubeev vì
tội đã quá mẫn cán, về hưu rồi vẫn thực thi nhiệm vụ giữ trật tự như thuở còn
đi làm. Cách đảo lộn này cho thấy những lý do đưa ra buộc tội lão quản là rất
đúng luật pháp. Về hưu rồi mà lão còn dám làm nhục trương tuần, chánh tổng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
những người thi hành công vụ. Nên, lão bị xử là thích đáng. Sự tức cười dẫn
đến nỗi đau là ở chỗ: công việc đã in sâu vào tim, óc lão, đến nỗi, không còn
ai khiến nữa mà lão vẫn cứ lo lắng cho luật pháp nhà nước. Đến nỗi, nhà nước
cũng bị làm phiền vì lão. Sự việc kết thúc, đặt đúng vị trí, đã làm nổi bật cái
quái dị trong lão quản Prisubeev. Bị tòa tuyên án, phạt một tháng tù giam.
Vậy mà:
“Khi bước ra khỏi phòng xử án, nhìn thấy đám nông phu tụ tập nói với
nhau cái gì đấy, thì lão ta, theo một thói quen, không thể nào tẩy rửa được,
bèn duỗi thẳng tay theo đường nẹp quần và quát to bằng cái giọng rè rè, giận
dữ: Ê, dân chúng, giải tán ngay! Không được xúm đông thế này! Ai về nhà
nấy!” [68,tr.29].
Cái kết chuyện với sự góp mặt của chi tiết quát dân chúng của lão quản
đã đẩy sự khôi hài lên cao độ. Rõ ràng, đây không là con người nữa mà là một
cái máy. Đằng sau sự khôi hài đó, là nỗi đau ám ảnh. Thực tế tàn nhẫn, nghiệt
ngã mà lão quản không nhận ra: Ngay cả chế độ Nga Hoàng cũng không chấp
nhận loại nhân viên “người máy” ấy. Không chấp nhận không phải vì nhà
nước cần những công cụ có lương tâm, không trì độn, mà họ còn bênh vực
những kẻ lười nhác, vô trách nhiệm, vô lương tâm khác.
Mỗi người một cách tiếp nhận, khám phá, phản ánh hiện thực khách
quan khách quan khác nhau, nhưng chung lại, cả Nguyễn Công Hoan và
Sekhov đều đưa người đọc trở lại với thế giới tù túng, ngột ngạt, người bóc lột
người một cách thậm tệ, tàn bạo và bẩn thỉu. Những sâu mọt đục khoét dân
lành, những công cụ hành pháp trơ tráo, máy móc đã hiện ra vô cùng sinh
động trong tác phẩm của hai nhà văn. Mỗi thế hệ người đọc đều nhận thấy câu
hỏi hai nhà văn đặt ra và đều tìm cho mình câu trả lời từ những câu chuyện
khôi hài mà đau đớn đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
2.2. Nhân vật - những kẻ dung tục, nô lệ
Nguyễn Công Hoan và Sekhov không chỉ phê phán bọn quan lại - những
công cụ đắc lực của nhà nước phong kiến, mà còn tập trung lôi ra những thói
tật nô lệ ẩn sâu dưới mẽ n go ài chải ch uốt, đ ẹp đ ẽ. Nguyễn Công Hoan và
Sekhov gặp gỡ nhau ở chỗ, lôi ra chân tướng của lũ người này, cả hai nhà văn
đều nhằm thức tỉnh con người trước hiện thực xấu xa. Nguyễn Công Hoan
đưa vào tác phẩm những cảnh đời nhố nhăng lai tạp của xã hội thực dân nửa
phong kiến. Ông đã xây dựng khá thành công một thế giới nhân vật đông đúc,
đa dạng với nhiều màu sắc, một thế giới người đông đúc và cũng thật là lúc
nhúc. Với đủ các thàn h phần từ quan lại, me tây, gái điếm, ph u phen, th ợ
thuyền, nông dân, tư sản đến người ăn mày… Cả một xã hội nhố nhăng đang
đi lại, nói cười trong tác phẩm của ông. Thế giới nhân vật ấy góp phần thể
hiện được quan niệm của ông về con người tha hoá theo lối vật hoá, con
người làm trò, diễn trò để tồn tại.
Nguyễn Công Hoan phơi bầy bản chất xấu xa, đạo đức giả, đua đòi rởm
của bọn tư sản, lũ nhà giầu. Những nhân vật kiểu này có trong 10/19 truyện.
Với chúng đồng tiền và danh vọng là tất cả. Có thể nhận ra chúng trong các
truyện: “Báo hiếu trả nghĩa cha”, “Báo hiếu trả nghĩa mẹ”, “Xuất giá tòng
phu”, “Mất cái ví”…. Từ tầng lớp này Nguyễn Công Hoan đã phát hiện thêm
một căn bệnh nữa của xã hội mà cần phải mổ xẻ, phanh phui. Tâm hồn chúng
đã hoàn toàn chai sạn trước tiền bạc, của cải.
Lấy “Báo hiếu trả nghĩa cha” làm ví dụ. Ý nghĩa mỉa mai nằm ngay
trong nhan đề câu chuyện: “Báo hiếu…”. Đạo đức của người con thể hiện ở
việc làm cỗ giỗ cha. Nhà văn đã sử dụng từ ngữ gây cười để bộc lộ bản chất
sự việc. Tác giả miêu tả vợ chồng ông chủ hãng xe Con Cọp:
“(…) Miệng lúc nào cũng chực tóe ra một chuỗi cười. Vì ngày hôm nay,
bổn phận ông bà là phải hay cười. Mà đã cười thì cười thật to, ôm bụng mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến cả câu nói không buồn cười. Nghĩa là
ông hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản”
[36,tr.119 ].
Vợ chồng nhà tư bản “tươi như hoa” đón rước khách đến dự buổi “kỵ cố
ông”. Thoáng qua, ai cũng thấy họ thật có hiếu.
Thường thì, Nguyễn Công Hoan ít miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên xuất
hiện trong tác phẩm của ông thường là những đoạn tả rất ngắn. Ông chọn lựa
yếu tố thiên nhiên phù hợp , diễn tả đ ược đ ú n g b ản chất sự v iệc. Bức tranh
thiên nhiên ở đây được cấu thành bởi hai yếu tố: gió, mưa và mang tính chất
rét buốt. Câu chuyện báo hiếu được diễn ra trong cái nền thiên nhiên rất đặc
biệt. Có ba lần, bức tranh thiên nhiên xuất hiện, 2/3 bức được tả ngắn, gọn:
“Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương” . Đi liền với hai bức
tranh đó là hai nghịch cảnh. Cảnh 1: Bữa tiệc linh đình báo hiếu cha diễn ra
bên trong, sang trọng, ấm áp. Cảnh 2: ngoài đường phố, một bà cụ rách rư ới
như ăn mày, lọ mọ tìm đến “ông chủ” và bị chửi mắng, đuổi đi. Đó là mẹ đẻ
của ông chủ. Bà được đưa vào từ cửa ngách thông ra ngõ nhỏ, được chính ông
chủ “tiếp” bằng câu: “Một suýt nữa làm tôi ê cả mặt. Ai bảo bà ra làm gì?
(…) Bà không biết để sĩ diện cho tôi (…) Mặc kệ bà…” [ 36,tr.124].
Bức tranh thiên nhiên thứ ba xuất hiện làm nhiệm vụ kết thúc câu chuyện
buồn tủi của bà lão, đã trót đẻ ra thằng con “có hiếu”, và cũng làm rõ bộ mặt
thật của ông chủ hãng xe hơi Con Cọp:
“Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đang
khen là hiếu tử” [ 36,tr.125 ].
Tác giả không dừng sự mổ xẻ ở đây. “Báo hiếu trả nghĩa mẹ” đã đảm
nhiệm xuất sắc vai trò phanh phui thói đạo đức giả, sự bất hiếu của lũ người
giầu có.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
Nguyễn Công Hoan vận dụng lối kết cấu chương hồi của tiểu thuyết cổ
điển vào sáng tác truyện ngắn. Hiệu quả nghệ thuật của lối kết cấu này rất lớn.
Hai câu chuyện độc lập với nhau, nhưng được xâu chuỗi với nhau bởi tư
tưởng, chủ đề. Nhân vật ông chủ hãng xe hơi Con Cọp cùng vợ ông ta lại xuất
hiện. Mở đầu “Báo hiếu trả nghĩa mẹ” không là bức tranh thiên nhiên nữa, mà
là một cuộc đối thoại. Những lượt tham thoại không ăn nhập cho phép xuất
hiện lớp nghĩa hàm ẩn.
“- Thưa cụ (…) cụ có phải là cụ sinh ra ông chủ tôi không ạ?
- Không phải, con vú già đây!
- Kia có phải là bà chủ không?
- Không phải, đấy là mẹ đấy!” [36,tr.126].
Không giải thích, ai cũng hiểu vú già là mẹ chồng và “mẹ đấy” là con
dâu - tức vợ ông chủ hãng xe Con Cọp. Ai cũng hiểu, giữa mẹ chồng nàng
dâu đang có va chạm, xung đột lớn.
Cuộc thoại thứ hai xuất hiện, gồm ông chủ và bà chủ tham gia đối thoại.
Có 5 lượt thoại và 5 lượt hồi đáp. Cả 10 lượt thoại đều bóc trần bản chất khốn
nạn của vợ chồng ông chủ hãng xe Con Cọp. Thằng con trai đuổi mẹ, thề thốt
với vợ sự bất hiếu của mình (“Tôi không đuổi thì tôi chết! Mợ cứ chửi đứa
nào nói dối mợ”). Đứa con dâu vật vã vì “bà ấy ở đây ngày nào, tôi ê chề
ngày ấy”.
Con trai: “Tôi xin mợ! Tôi van mợ! Tôi lạy mợ!”
Con dâu: “Đồ mặt dày! Thế mà không biết nhục! Sao nó không chết đi
cho người ta nhẹ nợ!” [36,tr.127].
Kết thúc cuộc thoại: “Cậu buông tôi ra. Tôi không để con mẹ ấy yên đêm
nay được” [ 36,tr.127].
Vẫn giọng điệu lạnh lùng khách quan, vẫn cái cách kết cấu không cần lời
bình, bản thân câu chữ, giọng điệu đã nói lên tất cả. Tính dự báo của lời thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
rất cao. Đạo đức, hiếu tử của vợ chồng ông chủ hiện rõ trong cuộc đối thoại
đó. Hơn thế, số phận b à cụ được địn h đoạt bởi chính “đạo đức” của bọn
chúng.
Cái đám ma linh đình ngày hôm sau, lại một lần chứng tỏ cho thiên hạ
thấy “hiếu thảo” của bọn chúng. Cách tả của tác giả đậm tính chất chất gây
cười. Đây là thằng con trai - ông chủ:
“Người ấy mặc đồ sô gai, chứ còn bụng dạ nào mà áo quần chải chuốt
(…) người ta lại sợ hiếu chứ thương mẹ quá mà đập đầu vào quan tài, lỡ chết
thì hoài”.
Đây là đứa con dâu - bà chủ:
“Người con dâu mới lại đáng ngại nữa chứ! (…) kêu khản cả tiếng, khóc
hết cả hơi (…) Áo quan chưa ngắm đúng hướng, người ấy đã nhảy đánh tụp
xuống mà nằm thẳng cẳng…” [36,tr.132].
Với cách thức tổ chức nhân vật, tổ chức thiên nhiên, những cuộc thoại,
lối kết cấu chương hồi, tác giả bày ra trước người đọc những cảnh diễn bi hài,
mà diễn viên là những nhân vật đại tài. Họ diễn trò hay bao nhiêu, sự thối tha,
bẩn thỉu trong họ bày ra đậm đặc bấy nhiêu.
Không chỉ vạch trần sự vô đạo, xấu xa, đê tiện của những kẻ giầu sang
Nguyễn Công Hoan còn viết về thói dâm ô, bỉ ổi, cùng với sự đua đòi rởm
của chúng. Có thể nói bọn người này là sản phẩm của một xã hội tối tăm, mục
ruỗng, hỗn loạn, thiếu hẳn một nền đạo đức luân lý chính thống.
Người đọc ghê tởm vị quan hèn hạ đến mức đánh vợ, ép vợ đi ngủ với
quan trên để cho mình thăng chức (“Xuất giá tòng phu”). Có vị quan tham
lam, keo kiệt, bỉ ổi đến không còn nhân cách, bầy mưu để có được đôi giầy
mới (“Cụ Chánh Bá mất giầy”).
Người đọc cũng ghê tởm khi một bà vợ lăng loàn rước trai về nhà,
chồng bắt được lại té tát mắng chửi chồng, thậm chí, còn ngang nhiên tuyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
bố ngủ với trai ngay trong buồng chồng tới mười bảy lượt (“Đàn bà là giống
yếu”). Một cô gái tự cho mình là thuỷ chung tiết hạnh nhưng chính cô cũng
không biết cái thai trong bụng mình là con của ai (“ Oẳn tà roằn”). Đám đàn
bà truỵ lạc đám gái mới lẳng lơ đó là những hiện hình sinh động nhất của sự
băng hoại về đạo đức, đánh mất đi nhân phẩm của mình. Nguyễn Công Hoan
miêu tả đám đàn bà xấu xa ấy, kẻ nào cũng phổng phao, hồng hào, sang trọng
quý phái nhờ vào luồng gió " Âu hoá" đang tràn lan khắp các hang cùng ngõ
hẻm của đô thị. Chúng đã đi ngược lại luân lý đạo đức của truyền thống dân
tộc bằng lối sống lố lăng, đồi bại.
Cái bụng "tròn như cái thúng" và một chú "Oẳn tà roằn đen như cột nhà
cháy" mà cô Nguyệt có được sau những mối tình "thuỷ chung" với không biết
bao nhiêu đàn ông, chính là kết quả của những ngày tháng " ăn gió nằm
sương" của người đàn bà chung tình nhất thế gian. Hay truyện Một tấm gương
sáng là bà Phủ Bống, một người đàn bà goá nhưng chẳng thủ tiết chờ chồng
mà lại tìm mọi cách có được một tấm bảng phong tặng " tiết hạnh khả phong"
và trở thành tấm gương sáng để mọi người noi theo. Cái thực trạng xã hội nhố
nhăng, đồi bại ấy ông gọi chung đó là " đời" và quan niệm "...Đời ngày nay
chẳng phải là một bà hiền mẫu biết thưởng phạt công minh. Đời đã hoá ra
một mụ chửa hoang, đẻ bậy, sinh non ra những hạng mất dạy hoặc đói cơm”
[36,tr.218].
Lấy nhân vật làm phương tiện phản ánh hiện thực, nhà văn Nguyễn Công
Hoan đã giúp bao thế hệ người đọc cách sống triết lý nhân sinh. Trong đó lối
sống “Âu hoá” một lối sống rởm hợm đã làm cho xã hội nhốn nháo hơn.
Thước đo giấ trị nhân phẩm đã bị thay đổi. Các nhân vật đã tự xổ toẹt nhân
cách mình, vứt nó xuống tận cùng của xấu xa, bỉ ổi.
Là con dân của cái xã hội đảo điên thối nát, họ trở thành nạn nhân của
đồng tiền của quyền lực và của những kẻ thống trị là lẽ tất nhiên. Nếu đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
tiền và quyền lực làm tha hoá hoàn cảnh bản chất của những người dân lao
động nghèo, thì nó lại là công cụ tác yêu, tác quái của lũ nhà giầu, tham quan
vô lại, làm biến chất hoàn toàn những nhân cách sống của đạo làm người, trở
thành những kẻ vô nhân hình, vô nhân tính.
Viết “ Xuất giá tòng phu”, nhà văn nhằm đả kích, châm biếm hạng
người vì danh lợi sẵn sàng đem cả vợ mình ra để làm chiếc thang bước lên
danh vọng. Đó là ngay giáp tết, người chồng bắt vợ trở thành món đồ lễ tết bề
trên. Tiếng khóc, tiếng van xin của vợ không bằng những hy vọng tốt đẹp ở
ngày mai.
“ - Tôi lậy cậu, tôi van cậu, cậu đừng ép tôi. Tôi là vợ cậu…
- À, tôi là vợ cậu! Là vợ mà chồng bảo không nghe. Luân lý để đâu?
Giáo dục để đâu?”.
Nếu chỉ đọc câu này của người chồng, thì chúng ta sẽ nghĩ ngay rằng, vợ
ông ta hẳn là phạm tội lớn lắm, và ông ta ắt phải là một người đạo đức, trọng
tình nghĩa lắm. Nhưng không, đây là câu nói ở miệng kẻ vô đạo, hắn đang cao
giọng bắt vợ đi làm điều ô nhục. Ông ta đánh đập, quát tháo, doạ dẫm bắt vợ
phải đi phục vụ quan trên làm theo ý mình, không chút xấu hổ nhục nhã.
Ở một khía cạnh khác, con người đã tự đánh mất đi nhân cách của mình
trở thành “đồ đểu” thậm chí “chó đểu” (thú vật hoá). Nhân vật ông Tham
(“Mất cái ví”) là trí thức có trình độ học vấn cao, cương vị xã hội không thấp
nhưng lại đối xử tàn tệ với họ hàng bề trên. Hành động ông Tham tự ăn cắp ví
của mình để đuổi khéo người cậu ruột là một hành động đê tiện:
“ Ông tham ung dung, tủm tỉm cười, đáp:
- Thế gì đã làm sao?
- Thế sao cậu lại ngờ cho ông làm gì vậy?
- Tôi vờ thế, chứ ví đây này, có mất đếch đâu!
Vừa nói ông vừa móc túi quần, quẳng cái ví đánh bẹt xuông mặt phản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
Bà tham trố mắt nhìn chồng.
- Rõ khỉ, thế có phải ông giận không?
- Mợ không hiểu. Tôi cốt làm để bận sau ông đừng ra chơi nữa. Tốn kém
lắm” [ 36, tr. 157-158]
Kết thúc truyện đột ngột không một lời bình, nhưng để lại trong lòng
người đọc nỗi buồn sâu sắc, về sự xuống cấp đạo đức của lớp người được coi
là trí thức.
Tuy không có quan niệm rành rẽ như Sêkhov, song Nguyễn Công Hoan
sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, lại phải chứng
kiến những cảnh bất công phi lý, những điều xấu xa đồi bại của chế độ thực
dân phong kiến mọt ruỗng nên nhà văn cảm nhận " phải làm một cái gì để
khỏi tủi con nhà gia giáo". Bằng giọng văn ngắn gọn, hài hước Nguyễn Công
Hoan phơi bày cái thói xu nịnh diễn ra ở các tầng lớp người trong xã hội, từ
giai cấp thống trị cho đến những người dân nghèo, từ nông thôn cho đến
thành thị, đâu đâu cũng thấy sự xuất hiện của nó trong mỗi con người. Bằng
thực tế sáng tác của của mình Nguyễn Công Hoan đã phơi bày thói tật nô lệ
đó tồn tại trong xã hội phong kiến thực dân đương thời.
Viết về tình trạng con người bị tha hoá về nhân tính trong cảnh đi xuống
của xã hội, nhà văn Sêkhov đã có nhiều trang viết bất hủ qua các nhân vật
Nicôlai Iônưt, Acinhia… Sêkhov đã phơi bày thói dã tâm, độc ác trong chế độ
phong kiến quý tộc Nga đang đi nhanh đến chỗ diệt vong, nhường chỗ cho
chế độ tư bản bằng một loạt tác phẩm như Trong thung lũng, Iônưts, K hóm
phúc bồn tử,...
Nhân vật Acxinhia (“Trong thung lũng”) đại diện cho sự tác oai tác quái
của đầu óc tư hữu, tích luỹ tư sản. Ở con người này đã hội tụ mọi điều xấu xa
nhơ bẩn. Chồng ả là một người đần, nên ả đã có nhiều chồng không chính
thức khác. Khi biết bố chồng làm chúc thư để lại cho cháu trai những ruộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
đất, Acxinhia đã nổi cơn tam bành, xỉa xói bố mẹ chồng, rồi dội nước sôi giết
cháu trai, cấm ch ị d âu khôn g đ ược kh ó c co n. Ngày đ ưa ma cháu trai,
Acxinhia mặc váy áo mới, đánh phấn, thoa son, vui cười như tết. Dần dần ả
đã trở thành một nhà tư sản và cuối cùng Acxinhia đuổi bố chồng ra đường.
Khi con người bị của cải chế ngự thì lập tức mất hết tình cảm tự nhiên đối với
đồng loại và biến thành loài lang sói.
Nhân vật Iônưts, trong truyện ngắn cùng tên của Sêkhov, là một bác sĩ
trẻ hăng hái yêu đời, những muốn đem hết tâm huyết sức lực của mình góp
phần thay đổi nơi anh ta sống và làm việc. Song cuộc sống tù túng nơi tỉnh lẻ,
đã nhấn chìm ý chí của nhân vật. Cuối cùng "anh đã khoát tay phó mặc đời
một cách miễn cưỡng", và nỗi đam mê duy nhất của anh ta lú c này là kiếm
cho thật nhiều tiền.
Trong sáng tác của Sêkhov, chất nô lệ được lôi ra thật khủng khiếp. Khác
với Iônưts từ một người háo hức sống, muốn cống hiến tài năng sức lực cho
xã hội, bị hoàn cảnh và đồng tiền chi phối, đã chấp nhận thoả hiệp với hoàn
cảnh, trở thành nô lệ của đồng tiền, nhân vật Nhikôlai Ivanưts ngay từ buổi
đầu lập nghiệp đã quyết thay đổi hoàn cảnh của mình. Bằng mọi cách hắn tậu
được trang trại, để tự mình trồng cấy. Hắn ao ước được ăn những quả từ chính
vườn nhà. Để đạt mục đích tối cao này, hắn đã không ngần ngại lấy một bà
goá già để đào mỏ, bắt vợ ăn uống kham khổ để tích cóp tiền bạc. Ước mơ
làm giầu và thưởng thức sản phẩm do chính mình làm ra của mỗi con người là
chính đáng. Nhicôlai Ivanưts trong “Khóm phúc bồn tử ” được khắc hoạ tính
cách theo sự cảm nhận của nhân vật khác. Hình ảnh của Nhicôlai được hiện
lên qua lời kể của nhân vật khác nhưng vẫn sinh động. Sự dung tục, thói nô lệ
đã trở thành bản chất của Nhicôlai Ivanưts. Hình ảnh Nhicôlai “thưởng thức”
thành quả lao động của mình được miêu tả:“Nhicôlai Ivanưts cười thích chí
rồi im lặng nhìn phúc bồn tử một lúc, ứa nước mắt anh ta không thể nói được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
câu gì vì xúc động lát sau anh ta đưa lên miệng một quả, nhìn tôi với vẻ đắc
thắng của đứa trẻ cuối cùng đã được thứ đồ chơi nó mơ ước và nói “Chà!
Ngon quá”. Anh ta ăn ngấu nghiến, luôn mồm nhắc lại: Chà! N gon thật! Anh
cứ ăn thử mà xem! [ 68,tr.170]. Đọng lại trong người đọc là hình ảnh Nhicôlai
ưá nước mắt, nước mũi, sùi cả bọt mép, ngấu nghiến nhai, vươn mãi cái cổ ra
cố nuốt những trái phúc bồn tử vừa chua, vừa chát mà vẫn cố khen ngon khen
ngọt. Anh ta đã tự đưa mình vào vị trí nô lệ của chính mình, nô lệ cho của cải
mình làm ra. Một kiểu nô lệ đến rùng mình ghê sợ. Nhicôlai tự quỳ gối nịnh
bợ những trái cây đắng chát của chính anh. Sekhov đã khám phá ra kiểu nô lệ
chưa từng thấy bao giờ trong thế giới loài người.
Người đọc bắt gặp kiểu nô lệ tương tự như Nhicolai ở “Gói đồ nữ trang”
của Nguyễn Công Hoan. Thật kinh tởm khi cả hai vợ chồng người đổ phân
thuê vui cười hỷ hả, cắm đầu tìm vàng trong thùng phân nhày nhụa. "Mùi khai
thối sực lên tận óc. Con vợ thấy nhiều vàng quá, mừng rú lên, vồ lấy vồ để.
Bất đồ trượt chân, nó ngã đánh oạch một cái, bê bết cả cứt vào mặt lẫn
người. Nhưng vì nó mê của cải, nó không thấy bẩn, không ngửi thấy thối, cứ
tự nhiên như không, lăn xả vào cái mỏ vàng mà nhặt” [ 36,tr.109] .
“Chuyện đời vặt vãnh” lại đề cập đến một thói tật dung tục khác.
Bêliaep chỉ là người bình thường như bao người khác. Đằng sau vẻ ngoài hào
hoa, phong nhã của Bêliaep, Sekhov đã chắt lọc ra được thói xấu xa, chất
dung tục. Đó là sự giả dối, tráo trở, lật lọng từ trong sâu kín tâm hồn hắn. Từ
đầu đến cuối truyện, nhân vật hiện ra là một người lớn chân thực, tôn trọng trẻ
con. Thái độ, lời nói của Bêliaep được miêu tả bắt đầu từ thái độ “không biết
đến ai” khi vào nhà người tình, đến thái độ thờ ơ đáp lại sự quan tâm, lòng
nhiệt tình của Aliôsa, rồi vờ như quan tâm “cháu lại đây cháu”, “Sao cháu
biết? Cháu vẫn gặp ba đấy ư?” “Cháu với ba cháu làm gì ở đấy?” “ Cháu
hãy nói với bác như người bạn thân của cháu!”, “ Cháu coi bác là ai mà lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
thế”. Anh ta vồ vập, sốt sắng một cách sống sượng. Sau khi được nghe mọi
chuyện của Aliôsa rồi, thì anh ta làu bàu, cáu kỉnh và cuối cùng đã hành động
hoàn toàn bất ngờ, đột ngột với người đ ọc. Anh ta đã không giữ lời hứa vừa
mới nói cách đó vài phút mà “Cái người lớn” kia đã phản bội một cách trắng
trợn lòng tin, sự ngây thơ rong trắng của Aliôsa bằng thái độ tàn nhẫn “đấy,
cô hãy xem ông nhỏ này, ông ấy kể cho mà nghe, cứ hỏi mà xem!” . Nhân vật
đã tự lộ mình bằng chính cau nói của mình, thái độ lời nói của nhân vật diễn
ra rất thườngnhưng lại là quá trình chắt lọc chát xấu xa ẩn sâu trong lòng
người. Câu chuyện tưởng hết sức bình thường, nhưng đã lột tả chân dung con
người thật của những kẻ đạo dức giả trong cuộc sống.
Quan sát truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Sêkhov cho thấy hai
nhà văn dành rất nhiều trang viết về tình trạng " tha hoá" của con người trong
xã hội. Dưới cái nhìn của một nhà văn, sự tinh vi sắc sảo của một bác sĩ
Sêkhov đã phơi bày sự nhẫn tâm độc ác, mọi sự xấu xa ghê tởm của con
người trong xã hội Nga cuối thế kỷ XIX. Nguyễn Công Hoan bằng ngòi bút
sắc sảo của một nhà văn, sự tinh tế của một nhà giáo cũng đã nhìn rõ đã vẽ
nên những hình tượng xấu xa, tiêu biểu trong xã hội nửa thực dân phong kiến
đầu thế kỷ XX. Tất cả những điều đó được thể hiện trong sự căm ghét và sự
cảnh tỉnh của nhà văn với con người trước tình trạng suy thoái đạo đức trở
nên hèn mọn, nhỏ nhoi. Thế giới nhân vật đã phơi bày tất cả sự xấu xa đồi bại
của xã hội đã biến con người đi đến tận cùng của sự xa đoạ trước đồng tiền và
quyền lực. Một sự gặp gỡ giữa Nguyễn Công Hoan và Sêkhov khi thể hiện
thế giới nhân vật trong truyện ngắn.
Viết về thói tật nô lệ của con người trong xã hội, cả Sêkhov và Nguyễn
Công Hoan đã đưa vào tác phẩm biết bao cảnh diễn ra thường ngày trong xã
hội đầy rẫy sự bất công, tàn bạo. Từ cuộc sống hiện thực đời thường, hai nhà
văn đã phát hiện ra những xấu xa để phanh phui, mổ xẻ. Muôn chuyện nằm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
trong dòng đời bất tận đã trở thành đố i tượng phản ánh trong truyện ngắn.
Mỗi sự việc, mỗi con người, xuất hiện trong tác phẩm rÊt tự nhiên, bình
thường như nó vốn có ngoài đời thực. Vì vậy, thế giới nhân vật của họ đa
dạng, phong phú. Những cao sang, bần tiện, lạnh lùng, giễu cợt, nhỏ nhen,
luồn lọt, đau khổ, sung sướng... tất cả xen kẽ nhau trong dòng đời không yên
ả. Là nhà văn của mọi tầng lớp, họ đã lách ngòi bút của mình vào đáy sâu tâm
hồn con người, để chắt lọc những giọt nô lệ, đem lại sự trong sáng, cái đẹp
cho con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
Chương 3
NHÂN VẬT- NHỮNG NẠN NHÂN BI THẢM CỦA XÃ HỘI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYÊN CÔNG HOAN VÀ A.SEKHOV
Như đã nói, một trong những cái mới Nguyễn Công Hoan và Sekhov
mang lại cho văn học Việt Nam đầu XX và văn học Nga cuối XIX là sự kiến
tạo được một thế giới nhân vật đa dạng, độc đáo. Ở chương 2 chúng tôi đã
xem xét vai trò của loại nhân vật là công cụ đắc lực của nhà nước, giai cấp
thống trị, loại nhân vật dung tục, nô lệ, chúng tôi đã chỉ ra nét tương đồng
trong việc thể hiện loại nhân vật này của hai nhà văn. Bên cạnh những nhân
vật thuộc tầng lớp trên và trung bình đó, cả Nguyễn Công Hoan và Sekhov
đều tập trung ngòi bút vào tầng lớp cùng khổ trong xã hội từ thành thị đến
nông thôn. Đời sống của tầng lớp dân nghèo trong xã hội buổi giao thời với
những đói rách, cùng quẫn đã hiện ra sinh động trong các tác phẩm.
3.1. Nhân vật - những con người cùng khổ bị đầy đọa và hủy diệt Loại nhân vật này xuất hiện trong 11 truyện ngắn trên tổng số 30 truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan. Bằng cái nhìn hiện thực và cái nhìn nghệ thuật
“ vào mặt trái cuộc đời”, Nguyễn Công Hoan đã phát hiện và miêu tả những
cảnh khổ cực của người dân lao động đói nghèo. Họ là những thành phần đáy
cùng của xã hội. Đó là người nông dân, anh kép hát, kẻ đi ở, phu xe, đứa ăn
cắp, ăn mày, gái điếm…. Nhà văn đã lôi ra biết bao cảnh khổ của họ để từ đó
khám phá, phơi bày bản chất thực của xã hội thực dân, phong kiến.
Mỗi người, mỗi nhân vật là mỗi cảnh đời, mỗi số phận khác nhau, nhưng
họ đều giống nhau ở nỗi bất hạnh và sự đói nghèo.
Người đọc có thể nhận thấy các tầng lớp dưới của xã hội trong truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan trước hết là những người phải bán thân, bán sức lao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
động với giá rẻ mạt để nuôi miệng, nuôi gia đình mà vẫn đói khát, cực khổ về
cả vật chất lẫn tinh thần.
Xây dựng loại nhân vật này, Nguyễn Công Hoan thường chú ý tới những
hoàn cảnh éo le, những mâu thuẫn cả bên ngoài và bên trong nhân vật. Lấy
truyện Kép Tư Bền làm ví dụ. Để làm nổi bật số phận của nhân vật Nguyễn
Công Hoan đã chọn lựa tình huống tiêu biểu. Đó là mâu thuẫn giữa hoàn cảnh
thê thảm của anh kép hát (bố chết) và tình thế buộc anh ta phải mua vui, cười
cợt (đóng vai hề).
Nỗi niềm đắng cay của anh kép hát Tư Bền hiện rõ trong tình huống đó.
Là người có tài, một "ông chúa khôi hài" nhưng cuộc đời anh lại đầy nh ững
đắng cay chua xót. Sự trớ trêu bắt đầu từ việc: “đã hơn một tháng nay, anh ta
không diễn ở đâu cả. Vì cha anh ta ốm…anh ta phải đi vay trước của ông chủ
rạp hát ít nhiều…”. Vở bi hài được “khai màn”, báo trước chiều hướng phát
triển của câu chuyện. Những mâu thuẫn xẩy ra liên tục và được đẩy lên cao
khi ông chủ rạp đến nhà, nhắc khéo anh món nợ. Sự gay cấn xuất hiện khi ông
chủ bắt ép anh đi diễn, lúc doạ dẫm, lúc ngọt ngào. Để có tiền chữa bệnh cho
cha, anh buộc phải đi diễn giữa lúc ông ốm rất nặng và đã trở thành con rối
trong tay hắn. Nhắm mắt nhận lời diễn vai mới, Tư Bền phó mặc cho số phận
để lên sân khấu, nuốt nước mắt mua vui cho công chúng. Cảnh Tư Bền đang
chết từng khúc ruột mà vẫn phải đánh phấn, hoá trang để đóng một vai giàu
sang, sung sướ ng là một cảnh bi hài. Cái trớ trêu, cái mỉa mai được đẩy lên
bước nữa khi lững thững bước ra sân khấu, vì lo cho cha, anh "đứng thần
người y như phỗng", thì khán giả lại vỗ tay cười vì tưởng anh muốn pha trò
như thế. Trò diễn càng trở nên oái oăm khi, trê n sân khấu, Tư Bền phải làm
điệu làm bộ, nhiều lúc phải "rặn ra mà cười ha hả" để thiên hạ được vui,
được cười. Mâu thuẫn giữa nội tâm nhân vật và hoàn cảnh càng phát triển.
Trong khi ở nhà, cha Tư Bền đang chết dần, thì tại sân khấu, tài năng diễn hài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
của anh cần phải được thăng hoa vào cảnh cuối. Khi diễn xong,Tư Bền không
còn bụng dạ nào để tận hưởng mọi lời hoan nghênh, khen ngợi của công
chúng “yêu nghệ thuật”. Đỉnh điểm của nỗi đắng cay, đau xót, bi hài chính là
lúc nhận món tiền của chủ từ tay người bạn cũng là lúc Tư Bền nhận được tin
cha chết. "Mau về anh Tư! Hỏng từ ban nãy mất rồi! Khốn nạn thân
anh quá!".
Để thiên hạ được vui, được cười với hy vọng sẽ có tiền chữa bệnh cho
cha Tư Bền phải quên cha mà diễn trò. Nhưng niềm hy vọng ấy đã tắt lịm khi
anh nghe tin người cha đã trút hơi thở cuối cùng. Thế là cha chết không được
nhìn mặt con, con không được nhìn mặt cha phút cuối cùng.... Thật xót xa cho
người nghệ sĩ có tài năng nhưng phải sống không chỉ thiếu thốn về vật chất
mà còn bị đầy đoạ về tinh thần. Tài năng của họ chỉ là công cụ cho bọn tư sản
kiếm lời.
Nếu như ở “Kép Tư Bền”, người đọc gặp sự trớ trêu, bi thảm của Kép
Tư Bền, th ì ở “Người ngựa, ngựa người”, người đọc cũng lại bắt gặp một
cảnh trớ trêu, bi hài khác. Cái hay của câu chuyện này là ở chỗ: tác giả cho
hai loại người cùng đi kiếm khách gặp nhau, lừa nhau, bóc lột nhau, xỉ vả
nhau. Đó là anh phu kéo xe và cô gái điếm. Hoàn cảnh để họ gặp nhau là đêm
30 Tết, tình huống để họ lừa nhau, biết rõ nhau là cả hai cùng ế khách. Anh
phu xe không có khách nào đi,cô gái điếm chẳng có khách nào gọi. Người đọc
cảm thông với những lời than thở của anh phu xe, "Tôi thật nợ nàn gì cô kiếp
trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô thế này, đầu năm mà đã rấp. Rắc rối!",
và cũng xót thương cho cô gái giang hồ, khi nghe cô năn nỉ "Anh đừng nói
thế, ai lại muốn thế này làm gì". Anh phu xe “vừa đi vừa thở dài, khách cũng
vừa đi vừa thở dài, càng đi càng thấy phố vắng tanh, vắng ngắt…". Bi thảm
là ở chỗ, cả hai đều không có cơ hội nào dù nhỏ để kiếm chút tiền vào đêm
cuối năm. Nực cười là ở chỗ: đến tận cùng khốn quẫn, cô gái điếm buộc phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
lừa anh phu xe để không bị đòi tiền xe. Cho nên, không phải ngẫu nhiên, tác
giả lại đặt tên cho tác phẩm: “Người ngựa, ngựa người”. Cũng không vô cớ
chút nào, khi tác giả hạ một câu: “…Bất đắc dĩ, con ngựa người lại kéo con
người ngựa”. Cái cười bật ra là cái cười rơi nước mắt.
“Người ngựa, ngựa người” của Nguyễn Công Hoan đưa người đọc liên
tưởng đến “Hai kẻ thù” của Sekhov. Cũng là kiểu đầy đọa lẫn nhau, làm khổ
nhau, nhưng Sekhov khai thác ở khía cạnh khác. Trong “Hai kẻ thù” , cuộc
sống của viên bác sỹ Kirilop và bệnh nhân Aboghin khốn khổ, khốn nạn như
nhau. Họ đều là những kẻ mất mát, đau đớn và vì thế họ làm khổ nhau. Bác sỹ
Kirilop đau đớn vì đứa con tra i yêu quý vừa chết chưa đầy 5 phút. Vì nhân từ,
vì lương tâm nghề nghiệp phải đi cấp cứu cho vợ Aboghin, để mặc vợ mình ở
nhà với xác đứa con trai. Aboghin thì bị vợ lừa đi mời bác sỹ, để đi với người
tình. Hành động của bác sỹ là vì trách nhiệm nghề nghiệp, nhân đạo và ông bị
Aboghin “lừa” một cách vô tình. Hành động mời bác sỹ, năn nỉ bác sỹ đi cứu
vợ mình của Aboghin cũng vì trách nhiệm, lòng thương và hơn thế nữa là tình
yêu. Aboghin bị vợ lừa. Khi sự thật nghiệt ngã đã được phơi bày: Vợ Aboghin
không ố m, chỉ giả vờ ốm để trốn đi với người tình, thì nỗi đau và sự bị xúc
phạm của cả Kirilop và Aboghin là quá lớn, họ đã bùng phát cơn tức giận
không thể kìm chế nổi. Họ hạ n h ục n h au và mãi mãi xa rời n hau, đ ầy
định kiến:
“Bất hạnh - Bác sỹ khinh bỉ cười khẩy - Xin ông đừng động đến chữ ấy,
nó không dính dáng gì đến ông sốt. Những kẻ ăn không ngồi rồi, không vay
đâu được tiền cũng tự cho mình là bất hạnh, thằng hoạn quan béo ra vì thừa
mỡ cũng bất hạnh. Thật là những kẻ thảm hại, nhỏ nhoi!”. [ 68,tr.65]
Nỗi uất giận mà không thể làm gì được của viên bác sỹ và của cả
Aboghin nữa, sẽ phảng phất ở anh phu xe và cô gái điếm trong “Người ngựa,
ngựa người”. Sự căm ghét và khinh bỉ làm trái tim các nhân vật thắt lại đau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
đớn. Thời gian rồi sẽ qua đi, nỗi khổ củ a v iên b ác sỹ rồi cũ n g sẽ qua đi,
nhưng những hành vi không công bằng, không tương xứng với trái tim con
người sẽ không biến đi, trái lại, mãi mãi còn trong tâm trí nhân vật và nhiều
thế hệ người đọc. Cũng như ngày nay, trên sân khấu hài của Việt Nam, người
ta diễn đi diễn lại “Người ngựa, ngựa người” với diễn xuất của những diễn
viên hài nổi tiếng, mà khán giả vẫn không nhàm chán. Tuy xót xa, cám cảnh
vẫn còn, nhưng người đọc sẽ phân tích, đánh giá tỉnh táo hơn, để rồi biết yêu
con người hơn.
Những người lao động nghèo khốn khó, cùng quẫn xuất hiện khá nhiều
trên những trang viết của Nguyễn Công Hoan. Mỗi người, mỗi cảnh ngộ khác
nhau, mỗi day dứt khác nhau. Nếu anh phu xe trong “Người ngựa, ngựa
người” bật ra nỗi đau khổ, uất ức, thậm chí nỗi cảm thông, thông qua những
lời thoại chứa chất bực bõ, mỉa mai, thì anh phu xe có tên Tiêu trong “Được
chuyến khách” lại ngẫm về nỗi khổ, sự khốn cùng của mình bằng những ý
nghĩ vụt đến. Nguyễn Công Hoan đứng ra, “đọc” ý nghĩ của nhân vật, bằng
lời của mình, diễn tả mạch cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Nhân vật xuất
hiện, bộc lộ nội tâm ở ngôi thứ ba: “Anh rùng mình khi nghĩ đến tiền đền một
buổi xe ngày hội. Hay là anh chịu lỗ vốn ít nhiều, gọi một người bạn nào mà
bán lại xe cho ngươì ta buổi tối nay?” (…) “Hay là bây giờ còn sớm? Phải,
người sang trọng còn đương ăn cơm. Chốc nữa, có mà vứt đi cũng không hết
khách" [36,tr.344-345]. Đây là cả một mạch suy nghĩ, tự động viên và hy
vọng kiếm được khách của anh phu xe. Trong truyện Nguyễn Công Hoan, sự
xen kẽ giữa phân tích tâm lý trực tiếp của người kể chuyện với sự tự phân tích
tâm lý nhân vật thường được tác giả sử dụng kết hợp với việc tạo ra tình
huống căng thẳng. Sự hấp dẫn của câu chuyện không dừng lại ở những suy
nghĩ triền miên của anh phu Tiêu, mà còn ở ch ỗ: Anh phu Tiêu chỉ biết nghĩ,
thậm chí tranh luận với riêng mình. Anh không thể nói ra với ai và chắc chắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
66
cũng chả ai thèm nghe anh nói. Cái đói, cái nghèo đã đẩy con người vào
đường cùng, đã vắt kiệt sức lao động của con người, miếng ăn đối với người
nghèo là phải trả giá bằng mồ hôi, bằng nước mắt mà còn bằng cả máu. Đói,
nghèo cũng tước đi khả năng hòa đồng của nhân vật. Đó là tình cảnh đáng
thương của anh phu xe trong truyện Được chuyến khách, anh Tiêu đã phải vắt
kiệt sức của mình vào những chuyến xe, thậm chí đổ máu vào những chuyến
xe, để có tiền nuôi vợ, nuôi con. Bệnh tật không dám nghỉ, sau những cơn ho
đến kiệt sức tưởng như không gượng đứng lên được, vậy mà nghe tiếng gọi
"xe!", không kịp hoàn hồn, anh vội vàng “quẹt tay, chùi máu mép, với lấy
càng xe, cũng cắm cổ chạy. Chiếc xe nhẩy lên chồm chồm. May sao anh lại
tranh được chuyến khách". [ 36,tr.346]
Những Kép Tư Bền, Phu xe Tiêu … không phải hiếm thấy trong xã hội
đương thời. Họ là hiện thân của nghèo hèn, đói khổ, là sản phẩm tất yếu của
xã hội người bóc lột người mà Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra.
Người đọc bắt gặp sự tương đồng số phận của những kẻ nghèo hèn ở
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Những suy nghĩ về nỗi khổ, về
miếng cơm manh áo, về bất hạnh vợ con của anh Phu Tiêu gặp gỡ những suy
nghĩ của bác xà ích già Ion - người đánh xe ngựa đêm ở thành phố Peterbua
tráng lệ (“Nỗi nhớ”). Nỗi bất hạnh của Ion là ở chỗ mất đứa con trai, bác đau
đớn, nhớ con khôn nguôi. Bác không thể ở với con mà phải đi làm. Nỗi đau
quá lớn, nỗi nhớ quá dày, nỗi buồn quá nặng, bác giãi bày với khách đi xe,
nhưng chẳng một ai để tâm. Cái lạnh lùng, dửng dưng của người đời mà Ion
vấp phải, đã khiến bác sợ hãi, gục ngã. Ion đành giãi bày nỗi lòng của mình
với con ngựa. Con ngựa không biết nói nhưng nó biết nghe, biết vẫy tai, biết
rùng mình trước tiếng nấc khô khan của bác xà ích. Được tâm sự, được sẻ
chia, được nói tiếng người với người - khát khao đơn giản trong xã hội loài
người mà mong manh, hiếm hoi quá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
67
Miêu tả, phản ánh cuộc sống của lớp người cơ cực, không nơi bấu víu,
không nơi nương tựa tinh thần là cái mới của Sekhov và cũng là cái mới của
Nguyễn Công Hoan. Đây chính là điểm gặp gỡ giữa Sekhov và Nguyễn Công
Hoan. Cả hai nhà văn đã nhìn thấy và chỉ ra sự dửng dưng, ghẻ lạnh của con
người với con người trong xã hội rối ren, đảo lộn.
Đói là một đề tài được các nhà văn hiện thực phê phán chú ý khai thác.
Những năm 30 - 45, xã hội Việt Nam tràn ngập đói. Đi liền với đói bụng là
nhu cầu được ăn để khỏi đói. Mỗi nhà văn nhìn, thể hiện cái đói và sự ứng xử
của con người trước cái đói, cái ăn khác nhau. Với Nam Cao, cái đói đưa con
người về với bản năng và vì bản năng mà chết (“Một bữa no”). Nguyễn Công
Hoan lại nhìn cái đói như là một công cụ đưa con người trở về kiếp vật. Cái
khác người trong cách khám phá hiện thực của Nguyễn Công Hoan là ở chỗ
đó. Đọc “Răng con chó nhà tư sản”, người đọc từ ngạc nhiên đến thấm thía,
đến kinh hãi và đau thắt con tim trước sự gầm ghè, tranh giành miếng ăn giữa
thằng người ăn mày, đói rã họng và con chó nhà giầu, no. Ở truyện này,
Nguyễn Công Hoan miêu tả cuộc tranh ăn giữa người và chó, chủ yếu bằng
hành động. Hành động của nhân vật được xếp theo chuỗi, lúc nhẹ lúc mạnh.
Cuộc trò chuyện khoe thú chơi mới, khoe chó khôn ngoan của nhà tư sản là
nền để người nghèo và chó xuất hiện. Tình huống phát lộ hành động là bữa
cơm sang trọng của nhà giầu và đĩa cơm trắng thơm trộn thịt, cho chó ăn.
Thoạt đầu, thằng ăn mày ngồi “lù lù” bên cạnh cổng nhà tư sản. Khi
trong nhà sắp cơm với mùi thơm, hắn “gào lên xin”, “lạy van rã bọt mép”.
Bị quát, hắn lại “im thin thít”. Một loạt hành động của chó và người được tổ
chức theo kiểu ngang bằng. Hành động của chó và người đồng thời lại được
sắp xếp kế tiếp nhau và ngày một tăng về tính chất mạnh. Người quan sát, chó
theo dõi. Người nhìn, chó nhìn. Ngườ i tiến, chó tiến. Người đánh, chó cắn ….
Sự sắp xếp này, một mặt tăng tính hấp dẫn của câu chuyện, một mặt cho thấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
sự đ ối lập gay gắt g iữa g iầu - nghèo trong xã hội đương thời. Ngoài ra
Nguyễn Công Hoan còn rất thành công khi sáng tạo sự đối lập giữa người và
vật. Thứ nhất là đối lập về địa vị. Người ăn mày, bẩn thỉu thuộc vị trí cùng
đáy, chó gốc nước ngoài, sạch sẽ, cao quý hơn người. Thứ hai, người ăn mày
và chó Tây không hiểu nhau. Thứ ba, người ăn mày muốn liều mạng để được
ăn đĩa cơm chó, trong khi chó “rất ngoan” trông đĩa cơm của mình khi chủ
chưa cho ăn.
Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn khi tác giả sử dụng cách sắp xếp chi
tiết theo lối châu tuần. Chi tiết trung tâm là đĩa cơm của chó đặt ở sân. Các chi
tiết hành động của người ăn mày và chó được đặt xung quanh và theo cặp
đồng đẳng với nhau. Trước hết là cặp chi tiết: người ăn mày “nhìn chòng chọc
vào đĩa cơm” và chó thì dửng dưng, ngồi “canh đĩa cơm”. Hành động “đánh
liều dồ ra, tiến gần lại mấy bước” của người được thực hiện, ngay “lập tức
con chó đứng dậy, cũng tiến lại mấy bước”. Thằng người “giương mắt nhìn
con chó. Con chó cũng giương mắt nhìn thằng người” . “Thành ra đĩa cơm ở
giữa, người tiến chó cũng tiến, người lui chó cũng lui. Hai bên hằm hè nhau.
Người lườm chó, chó lườm người, đều cùng giữ miếng nhau, như hai kẻ thà
không đội trời chung”. [36,tr.22-23]
Cuộc tranh ăn, giữ miếng lên đến cao trào. Khi thằng người nghĩ ra kế,
cầm hòn đá dọa chó, vừa chạy tọt lại đĩa cơm, rón một miếng rõ nhanh, đút
cơm vào mồm, thì con chó đã nhanh hơn. “Nó chồm vọt lại, nhảy xổ lên, há
mồm, nhe răng”. Kết quả, vì miếng ăn, mấy phút trước, thằng người còn sợ
chó cắn, còn mong chó biết tiếng người mà “lân la”, hi vọng chó có tình
“nhân đạo” để đánh đổi số phận cho chó…, thì bây giờ, “giơ thẳng cánh tay,
nhằm giữa mồm con chó, uỵch hòn đá một cái rõ mạnh”, lại bồi thêm một cú
đấm vào đầu chó, khiến chó “buông thằng người ra, nằm sóng soài, ẳng ầm
lên”. [36,tr.23]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
Giá trị tố cáo của tác phẩm không chỉ dừng ở đấy. Nguyễn Công Hoan
đã dùng “chi tiết hội tụ” kết hợp với giọng lạnh lùng, khách quan để kết câu
chuyện. Trong khi:
“Thôi chết rồi! Con Lu làm sao thế này! Ối giời ơi! Nó gãy hai cái răng
rồi! Khổ tôi quá”, thì: “Mày đánh gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày
chết tươi, ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng. Nói đoạn, ông tắt đèn
pha, phóng xe hết sức nhanh, đuổi theo…”. [36,tr.23-24]
Vì đói mà phải liều, phải tranh ăn với cả một con chó, phải lấy cả tính
mạng để đổi lấy miếng ăn bốc trộm, chưa kịp nuốt - con người đã không còn
là người nữa, mà ngang bằng kiếp vật, thậm chí không bằng.
Cũng từ đề tài đói để phản ánh cuộc sống cơ cực, thê thảm của những
con người nghèo khổ, qua đó tố cáo sự bất công, vô nhân đạo của chế độ Nga
Hoàng, Sekhov nhìn ở góc độ khác. Cũng là cách thức tổ chức nhân vật theo
kiểu quan hệ giữa người và vật, nhưng cách xử lý của Sekhov khác với
Nguyễn Công Hoan. Hiệu quả nghệ thuật của cách sắp xếp này rất lớn. Lấy
truyện “Quân ăn hại” làm ví dụ. “Quân ăn hại” kể về cuộc sống cùng quẫn
của Zotop - một ông già nghèo, 70 tuổi. Zotop rất nghèo, sống cô đơn với một
con chó già chột mắt, một con ngựa già yếu, còm cõi. Quan hệ giữa Zotop và
hai con vật là quan hệ ngang bằng, thấu hiểu, thân thiết gắn bó, chứ không đối
kháng như quan hệ người - vật trong “Răng con chó của nhà tư sản” . Mối
quan hệ này chi phối suy nghĩ, hành động của nhân vật. Ba nhân vật này
(người, chó, ngựa) đều tiều tụy, xơ xác vì đói, nghèo, rét mướt triền miên,
nhưng không thể thiếu nhau. Cũng có lúc họ dằn vặt nhau, tất nhiên, chỉ
Zotop dằn vặt, thậm chí hắt hủi hai con vật. Khổ quá, không có ăn cho mình,
cho hai con vật, Zotop thường xuyên chửi bới số phận. Kiếp của lão là kiếp
“đọa đầy”, “kiếp chó má”. Kiếp lão gắn chặt với kiếp hai con vật, cũng già
nua, khốn khổ như lão. Chửi mình chán, lão quay ra chửi hai con vật. Thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
nhưng, chúng không chịu rời lão. Sekhov đặt vào miệng Zotop những câu
chửi con chó già Lyxka trụi lông, chột mắt và con ngựa già nhẫn nhục, xiêu
vẹo. Song, trong lời mắng chửi ấy, lão đã gom cả mình vào. Thực ra, lão rất
thương, rất gắn bó, rất vì chúng. Đây là lời lão mắng, đuổi hai con vật, khi
không còn gì cho chúng ăn:
“Chúng mày chẳng cho ông lấy một chút vui vẻ, lợi lộc gì, chỉ rặt buồn
khổ, túng thiếu! Sao mãi chúng mày chẳng chết rấp đi cho rảnh, hả?... Xéo
ngay! Xéo ngay ra khỏi nhà tao! Cho khuất hẳn mắt tao đi! Tao không có bổn
phận phải chứa những của khỉ ấy trong sân nhà tao! Cút!”. [70,tr.59]
Sau lời chửi, hai con vật nhẫn nhục, cúi đầu bước ra cổng và cứ đứng ở
đó. Mắng chửi dữ tợn thế, nhưng chỉ ít phút sau, chính lão lại ra cổng, làm vẻ
hung ác, quát chúng:
“Kìa, sao cứ đứng đực ra đấy? Đợi ai? Cứ nghênh ngang giữa đường,
không cho người ta đi phỏng? Vào sân ngay!”. [70,tr.60]
Sự hiểu biết, nhẫn nhục, biết nghe lời của hai con vật là biểu hiện của sự
gắn bó, đồng cảm giữa người và vật trong cảnh khốn khó, nghèo hèn. Hai con
vật càng lầm lũi bao nhiêu, Zotop càng quát mắng bao nhiêu, cái khổ, cái tội
nghiệp càng tăng lên bấy nhiêu, lòng thương chúng của Zotop càng sâu sắc
bấy nhiêu.
Cũng như Nguyễn Công Hoan, Sekhov cũng sử dụng chi tiết hội tụ và
giọng điệu lạnh lùng khách quan làm kết chuyện. Từ đầu đến cuối tác phẩm,
người đọc chỉ chứng kiến những gắt gỏng, chửi mắng, đuổi đi của Zotop đối
với hai con vật tiều tụy. Những băn khoăn, lo lắng cho chúng, chưa đủ sức
thuyết phục để nói lên sự gắn bó, không thể thiếu của ba thân hình già nua,
còm cõi ấy. Thế nhưng, chỉ với một chi tiết cuối tác phẩm: (…) “Đang khi
choáng váng vì quẫn trí và say rượu, lão trông thấy xác hai con vật nằm sóng
soài ra đấy, liền đến bên cái khung giết thịt, giơ đầu ch o Ignat đập nốt”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
[70,tr.64] đã đủ nói lên tất cả, rằng: ba cái mạng ấy, một người già sắp đến cõi
và hai con vật cũng sắp đến cõi ấy, hóa ra không thể thiếu nhau, gắn bó với
nhau biết chừng nào, trong cuộc sống vốn dĩ chẳng bao giờ no đủ, vui vẻ, đầy
những buồn tủi, giận hờn. Trong lạnh lẽo, buồn thảm của cuộc sống, đó vẫn là
cái đẹp nhất, ấm áp tình nhất, nâng đỡ và sưởi ấm nhau nhất. Chi tiết kết thúc
câu chuyện, gieo vào lòng người đọc cảm giác buồn đau, sâu lắng, cùng sự
cảm thông, xót thương cho những kiếp sống vất vưởng, lụi tàn.
Cái khổ, sự lay lắt, vật vờ thường trực trong cuộc sống của những dân
nghèo. Cả Sekhov lẫn Nguyễn Công Hoan đều có những độc đáo khi tổ chức
hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của mình. Đọc truyện Nguyễn Công
Hoan, khó có thể quên được hình ảnh chiếc quan tài (“Chiếc quan tài”) của
anh Cu “chết ngay vào độ trời làm vỡ đường”. Lụt to, người ta phải đặt quan
tài lên bè chuối lềnh bềnh, đẩy đi chôn. Cảnh đưa tang thật thê thảm. Chỉ có
bốn người đẩy quan tài anh Cu đi trong nước lụt, và: “Những bọt sóng tóe
bắn lên, làm tắt cả hương. Mấy cây nến cắm trên khúc chuối, bị gió, không
sao cháy được. Người ta đã nhiều lần thắp lại cả hương lẫn nến, nhưng vẫn
tắt như thường” [36,tr.400]. Cuộc chôn cất diễn ra dưới nước thật vất vả. Cả
bốn người cố gắng mãi, không sao ấn được quan tài xuống hố nước. Tình
cảnh đã thảm thương: “Chị muốn khóc cho hết nước mắt”, càng thê thảm hơn
khi: “chiếc quan tài đứng sững lại, không xuống được nữa. Nước ở dưới đội
nổi lên. Tiếng khóc im bặt” [36,tr.401]. Bằng đủ cách, ấn, nhảy, dẫm, kể cả
cách cậy nắp quan tài cho nước chảy vào…, quan tài mới chịu nằm gí xuống
đáy huyệt sau nhiều lần chìm xuống lại nổi lên.
Giá trị hiện thực không chỉ dừng ở cuộc chôn cất vất vả, quá mức thương
tâm này. Chỉ nửa ngày sau, nư ớc dềnh lên, sóng nhè nhẹ vỗ và làm nở dần
nấm đất mới đắp. Nước cứ bền bỉ moi dần, moi dần, để rồi, “ục một tiếng, cả
chiếc quan tài nổi bềnh lên”. Và: “chiếc quan tài nổi theo mực nước cao dần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
Sóng bập bềnh cứ vỗ mãi vào thành nó như cố đẩy nó đi. Rồi sau, nó không bị
vướng gì nữa. Nó quay đầu, lừ lừ theo chiều gió và chiều nước, lênh đênh, lúc
trôi ngang, lúc trôi dọc. Độ nửa ngày, chiếc quan tài đã tự đến góc vườn (…).
Nước phía ngoài chảy xiết, hút nó bạt ngang vào rặng tre. Nó mắc ở đó”
cùng bè ngổ, cụm bèo, cụm rừa…. Mấy thứ rác cỏ nơi vùng quê nghèo cụm
lại với chiếc quan tài, như cố níu giữ nhau khỏi sự lôi cuốn của dòng nước.
Nhưng, khi gió đổi chiều, “một mình chiếc quan tài cựa quậy, như muốn tìm
ra lối rộng. Nhưng nó nặng nề, nên hết xoay dọc lại xoay ngang. Nó tiến rất
chậm chạp” [36, tr.404]. Hình ảnh chiếc quan tài lừ lừ trôi, lúc nhích lên, lúc
giúi nghiêng…, bập bềnh, chật vật… được tác giả miêu tả tỉ mỉ. Kết thúc tác
phẩm là chi tiết: “Tự nhiên, nó lao một cái, thích hai cạnh vào hai bên, rồi
đâm thẳng ra giữa lạch chảy xiết. Đến đây, nó quay mấy vòng, rồi lừ lừ, nó
trôi theo dòng nước”. [36,tr.405] Không có lời bình nào của tác giả, nhưng
người đọc không thể dừng sự tiếp nhận tại đây. Số phận chiếc quan tài sẽ ra
sao, khi nó không còn bất k ỳ sự níu giữ nào của rong rêu, rác cỏ, giong tre?
Sẽ ra sao khi nó đã trôi theo dòng nước lụt mênh mông?
Như vậy, với đối tượng miêu tả chính là chiếc quan tài - một đồ vật đựng
người chết g iá trị h iện thực đã g ia tăng. Nhân vật quan tài được miêu tả có
ngoại hình, có hành động, có hoàn cảnh. Quan tài được giới thiệu: “Chiếc
quan tài ấy đặt trên tấm phản, giữa một túp nhà xiêu (…). Nó bằng gỗ tạp, lỗ
chỗ những vết mọt đen, mỏng vừa một đốt ngón tay”. Hình dạng quan tài
cùng hoàn cảnh khốn khó, cực khổ của nó hiện ra rõ nét qua mấy câu văn đó.
Trong quá trình vật lộn với nước lụt gần trọn ngày trời, ngoại hình quan tài đã
thay đổi: “Nắng gay gắt làm cho khô đất bết trên mặt gỗ cỗ ván và cong vênh
một phần nắp lên. Cả người nằm trong, chương phềnh ra, cũng hình như
không chịu được chỗ quá chật hẹp”. Rõ ràng, sự thay đổi ngoại hình đó cho
thấy cái sự nghèo hèn, khốn khó của người nông dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
Nhân vật là đồ vật - thứ vô tri, qua miêu tả của nhà văn đã mang tiếng
nói rõ ràng, sâu sắc. Hình ảnh chiếc quan tài bị nướ c lụt moi lên từ huyệt, nổi
lên, bị đẩy đi, dập dềnh trên biển nước, lúc dạt vào ngọn tre, lúc quay ngang,
lúc lao dọc… cứ xoáy vào lòng người đọc cảm giác xót xa, buồn bã. Không
có kết thúc có hậu cho chiếc quan tài thương tâm. Số phận chiếc quan tài hay
số phận của những người dân nghèo, lay lắt, nổi trôi trong dòng đời đen bạc,
bất công.
Cũng nói về thân phận người nghèo khổ thông qua việc lấy đồ vật làm
nhân vật, tạo nên tính chất đặc biệt trong hệ thống nhân vật, ở Sekhov có
truyện ngắn “Vanka”. Câu chuyện kể về cuộc sống khổ cực, bị đầy đọa của
một cậu bé nông thôn, đi ở, mới 9 tuổi. Nội dung thông báo về cuộc đời khốn
khổ của cậu bé 9 tuổi này, cùng những khao khát được giải thoát và vô
vọng… nằm trọn trong bức thư nó viết, gửi cho ông người quen, ở quê nhà,
trong đêm Giáng sinh. Sekhov đã có sự lựa chọn hình thức biểu đạt độc đáo:
Bức thư. Bức thư do đứa trẻ 9 tuổi viết, vì vậy nó bộc lộ đầy đủ lối tư duy
ngây thơ, hồn nhiên của con trẻ và đóng vai trò thông báo chính. Vanka
không còn ai thân thích, chỉ có ông quen cùng đi ở ở nhà quê. Nó đi ở ngoài
thành phố, chịu nhiều khổ ải, đói khát, thiếu ngủ. Bức thư của Vanka thấm
đẫm nước mắt, buồn rầu và tuyệt vọng. Bức thư đã chứa đựng tất cả những gì
Vanka trải qua. Đó là bị đánh đập, bị chửi bới, bị đói khát, rét mướt, cộng với
những mơ ước nhỏ nhoi, khao khát giải thoát vô vọng: “Ông thương lấy cháu
mồ côi mồ cút khổ sở, không người ta cứ đánh cháu mà cháu thèm được ăn
no lắm, cháu buồn lắm, không nói được gì, chỉ khóc thôi… đời cháu khổ lắm,
khổ hơn một con chó ông ạ…. Ông thân yêu. Ông lên đây đón cháu nhé”. Ý
nghĩa tuyệt vọng của bức thư, của Vanka càng lớn hơn nữa, khi Vanka dán
phong bì, đề lên đó hàng chữ: “Gửi ông nhà quê
Ông Konxtantin Makaruts”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
Bao nỗi niềm, hi vọng, Vanka để hết trong bức thư và gửi đi với một địa
chỉ vu vơ. Giữa xô bồ bao nhiêu cái ác, giữa vạn trùng giả dối, vô lương, thờ
ơ, vô trách nhiệm…, bức thư của Vanka với địa chỉ lơ lửng kia, làm sao đến
tay người nhận, để ông nhà quê biết được nỗi đau khổ vô tận của nó. Số phận
bức thư, Sekhov không nói, nhưng người đọc dự cảm được. Lá thư cũng như
Vanka, ngây thơ đến khờ khạo, hồn nhiên đến đau lòng, cũng sẽ bị tung tẩy,
lưu lạc và rồi sẽ bị lãn g quên, bị v ứt vào mộ t xó nào đ ó của xã hội đ en
ngòm đó.
Người đọc nhận thấy sự gặp gỡ tuyệt vời giữa Nguyễn Công Hoan và
Sekhov. Hai hình ảnh bức thư và chiếc quan tài đã xuất hiện trong sáng tác
của họ, đã sống trong tâm thức mọi người. Qua bao thời gian, chúng vẫn bơ
vơ, vẫn bị quăng quật, vẫn lừ lừ quay ngang, quay dọc giữa dòng đời, vẫn ám
ảnh khôn nguôi, vẫn đòi một câu trả lời.
Nỗi khổ bị đọa đầy của những kiếp người lầm than, không chỉ được hai
nhà văn khám phá ở góc độ vật chất mà còn cả ở góc độ tinh thần. Sự đói khát
về vật chất đã khủng khiếp, sự đầy đọa về tinh thần còn khủng khiếp hơn. Với
truyện ngắn “Hai thằng khốn nạn”, Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra một kiểu
thảm cảnh không kém thương tâm. Người nông dân tên Lan, sau đê vỡ, lụt
lội, nhà đổ, trâu chết, vợ chết, ruộng phải cầm cố… gia tài trở nên sạch bách.
Tài sản duy nhất chỉ là đứa con trai mới biết ngồi. “Cái cảnh gà sống không
còn mồi mà nuôi con mới đáng đau lòng. Bác Lan thực là một thằng khốn nạn
vậy” [36,tr.35]. Đói khát, mắt mờ, bác Lan buộc phải bán con. Nhờ người
mách bảo, bác đến gặp Nghị Trinh để bán con cho “nhà hiếm”. Cuộc ngã giá
mua - bán thằng bé con của bác Lan và Nghị Trinh được tac giả tả tỉ mỉ. Bằng
phương thức giãn cách thời gian, tác giả đã làm tăng tính chất bi hài của cuộc
mua bán đặc biệt này. Thời gian được tính bằng : “một giờ sau”, “hơn nửa
giờ nữa”; rồi lại “nửa giờ sau”; rồi lại “một lát sau”… cộng với những cụm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
từ hàm thời gian: “nghĩ vẩn vơ mãi”, “lạy van mãi”, “xem xét đứa bé rất kỹ
càng”, “dặn dò mãi”… cho thấy sự nài nỉ, kì kèo, thêm bớt của “hai thằng
khốn nạn” diễn ra như thế nào, trong bao lâu. Thời gian càng kéo dài, có lúc
ngưng đọng, đã diễn tả đầy đủ nỗi khổ vì đói nghèo, nỗi đau phải bán con của
bác Lan, tương phản gay gắt với Nghị Trinh, giầu có hiếm hoi, muốn mua con
nhưng lại keo bẩn nhưng lại ti tiện. Mua một con người, mấ t có ba hào, đến
phút cuối, khi xem xét kỹ thằng bé, thấy lưng nó nhiều nốt ruồi, Nghị Trinh
bớt 2 xu. Vậy, nhưng hắn vẫn thấy thật “hoài của, giá bớt hẳn 5 xu, nó cũng
phải chịu” [36,tr.39].
Cái nghèo, cái đói đã làm con người ta trở nên thảm hại. Người c ha phải
bán con lấy hai hào tám để đỡ “cái dạ dầy đã lả” đã khốn nạn. Cái thằng
người no đủ, lợi dụng cái đói nghèo, bóp chẹt từng đồng xu còn khốn nạn gấp
bội lần. Giá trị hiện thực của vấn đề nắm ngay trong nhan đề truyện: “Hai
thằng khốn nạn”.
Sự đầy đọa về tinh thần này cũng sẽ tìm thấy trong “Cô đào hát”, “Rối
ren”, “Hai kẻ thù” của Sekhov. Số phận những kiếp người lầm than được hai
nhà văn khám phá ở mọi phương diện. Những anh cu Bản trong “Ngậm
cười”, Bà Nuôi trong “Đồng hào có ma” của Nguyễn Công Hoan cũng gặp
gỡ Ion trong “Nỗi nhớ”, Lipa trong “Trong thung lũng” của Sekhov. Cùng
với kép Tư Bền, Zotop v…v… họ làm thành một mảng màu sinh động trong
bức tranh hiện thực của xã hội bất công, vô nhân đạo, trong đó, quyền sống
tối thiểu của con người không được đảm bảo. Họ là nạn nhân bi thảm của chế
độ phong kiến cũ nát và tư sản mới.
3.2. Nhân vật trẻ em - những mầm sống bị đứt đoạn
Thế giới những con người cùng khổ trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan và Sekhov hiện lên thật sinh động, phản ánh rõ nét sự c ùng quẫn, khổ
nhục trong xã hội bất công, vô nhân đạo. Thế giới đó không chỉ khủng khiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
mà còn hoang lạnh, mù xám, hiu hắt hơn khi có sự góp mặt của những nhân
vật trẻ em.
Với Nguyễn Công Hoan, nhân vật trẻ em xuất hiện trong 5/11 truyện về
những nạn nhân bi thảm. Đó là những em bé gái đi ở như con Đỏ trong
“Phành phạch”, con Thanh trong “Thanh! Dạ!”; Đó là thằng bé ăn mày
trong “Cái vốn để sinh nhai”, ăn cắp trong “Thằng ăn cắp” và “Bữa…no
đòn”. Trong quan sát của Nguyễn Công Hoan, dường như những đứa bé này,
vừa sinh ra đã bị tung ra xã hội, nhanh chóng đứng vào hàng ngũ lớp người
dưới đáy. Chúng không có tuổi thơ, không nơi nương tựa, bấu víu. Cuộc đời
chúng là những nghịch cảnh đau lòng.
Viết về loại nhân vật này, Nguyễn Công Hoan thường sử dụng cách giới
thiệu nhân vật trực tiếp và cho xuất hiện ngay mở đầu tác phẩm. Ngoài ra,
ông còn sử dụng giọng điệu cơ bản là lạnh lùng, khách quan, có xen những lời
bình giễu nhại. Nhân vật thường được đặt vào hoàn cảnh đối lập, gay cấn. Lấy
“Thanh! Dạ!” làm ví dụ. N gay mở đầu tác phẩm, người đọc đã tiếp nhận một
cặp từ gọi - đáp:
-“Thanh!
- Dạ!”.
Hoàn cảnh xã hội, phông văn hóa những năm 1935 cho phép người đọc
hiểu ngay Thanh là ai. Thanh là bé gái đi ở và sẽ bị sai bảo. Người gọi tất
phải là chủ, chí ít cũng có quyền sai khiến. Thanh xuất hiện trước người đọc
không phải là hình hài mà bằng âm thanh: “Dạ!”. Hoàn cảnh để Thanh
“Dạ!”, được tác giả giới thiệu liền đó.
“Trong nhà hôm nay tấp nập như mở hội. Me cho phép cả sáu cô ra Đồ
Sơn chơi. Ngay 7 giờ sáng, sáu chị em đã gọi nhau choàng cả dậy (…) Các cô
tranh nhau rửa mặt, rồi thi nhau trang điểm. Mùi phấn, mùi nước hoa thơm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
phức cả nhà. Mỗi cô chọn một màu áo, rồi ngắm hết cho nhau, lại ngắm cho
nhau”. [36,tr.238]
Một trong những khác biệt khi miêu tả kiếp trẻ bị đọa đầy, Nguyễn Công
Hoan dồn nén rất nhiều hoạt động trong khoảng thời gian chật hẹp. Thời gian
nghệ thuật là thời gian hiện tại. Sự tồn tại của thời gian rất ngắn. Các cô chủ
được tíu tít chuẩn bị cho chuyến đi từ 7 giờ đến 9 giờ. Trong 2 giờ đó, các cô
vừa vội vã, cuống quít, chuẩn bị, vừa đủng đỉnh giỡn đùa nhau. Trong khi đó,
con Thanh tất bật. Để diễn tả sự khốn khổ, quay cuồng của con Thanh, tác giả
đã cho cặp từ gọi - đáp, những câu sai khiến xuất hiện với mật độ dày, liên
tiếp. Trong hai giờ, cặp từ gọi - đáp “Thanh! Dạ!” được lặp đi lặp lại 10 lần.
Đó là các cô gọi trực tiếp. Cùng với gọi - đáp là các câu sai khiến xuất hiện
nhiều hơn. Không tính tới lệnh của bà chủ, riêng các cô, các cậu đã sử dụng
24 câu sai khiến, tương ứng là 24 lệnh sai bả o dành cho con Thanh. Con bé
ngập đầu trong mệnh lệnh và công việc.
Nội 10 lần xuất hiện của cặp từ gọi - đáp, 24 lần xuất hiện của câu sai
khiến đã cho thấy vai trò chủ đạo của hành động trong tác phẩm này. Hành
động xuất hiện liên tục, không có điểm dừng. Hành động của nhân vật được
sắp xếp theo kiểu một hành động trung tâm, và xoay quanh là các hành động
khác. Hành động trung tâm của câu chuyện là của bà chủ sai nó đi gánh nước.
Đây là hành động duy nhất trong tác phẩm vận động chậm. Nhận lệnh gánh
nước từ sáng sớm nhưng con Thanh đến gần 9 giờ sáng chưa thực hiện xong.
Xoay quanh hành động trung tâm này là 24 hành động sai bảo và con Thanh
phải thực hiện. Đối tượng phục vụ của nó là các cô chủ và các cậu bạn của họ.
Có thể nói con bé tối tăm mặt mũi. Nó trở thành đối tượng sai khiến, đù bỡn,
khinh miệt của các cô chủ, cậu chủ.
Hỗ trợ cho hành động là sự góp mặt của không gian nghệ thuật. Không
gian hoạt động của con bé là nhà bếp, phòng khách, hàng tạp hóa, hàng giặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
là. Công việc mà nó phải làm là gánh nước, đi mượn tiểu thuyết cho cô này,
mua hạt tiêu cho bà, nước đá cho cậu này, ô mai cho cô kia…. Đôi chân nhỏ
nhoi của nó thoắt chỗ này lại phải guồng chạy đến chỗ kia. Nỗi vất vả của con
bé được tác giả miêu tả trực tiếp thông qua những lời bình ngắn gọn. Ví như:
- “Chung qui chỉ chết con Thanh. Đã bận lại thêm tíu tít”.
- “Một mảng áo lưng nó bết vào với thịt”.
- “Tội nghiệp con bé, trên mặt mũi, mồ hôi nhỏ giọt”.
Nguyễn Công Hoan tiếp tục sử dụng lối kết chuyện không bình luận. Tất
bật phục vụ các cô chủ, con Thanh không còn chút rảnh rỗi nào để thực hiện
lệnh của bà chủ. Thế, cho nên, chưa xong việc cho các cô, nó buộc phải hứng
chịu cơn tam bành của bà chủ: (…) “Cái đuôi gà ở đầu khăn ngỏng ngược lên
trời, quệt cái tay áo đẫm mồ hôi lên trán, tay cầm thanh củi, trỏ vào thạp
nước, trợn tròn mắt, rồi phang vào đầu, vào mặt, vào lưng con Thanh túi bụi,
để đánh nhịp với những tiếng:
- Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười!”. [36,tr.244]
Một kết thúc đầy ý nghĩa. Đúng như tác giả đã bình ở đầu câu chuyện:
“Chung qui chỉ chết con Thanh”.
“Thanh! Dạ!” của Nguyễn Công Hoan nhắc người đọc nhớ tới “Buồn
ngủ” của Sekhov. Có thể nói đây là hai truyện ngắn có khá nhiều nét tương
đồng về nhân vật, cách xử lý đề tài và hiệu quả nghệ thuật. Tất nhiên, môi
trường hoạt động của các nhân vật có khác nhau, bởi những đặc trưng văn hóa
khác nhau.
Varka trong “Buồn ngủ” cũng là một bé gái đi ở, 13 tuổi. Chủ nhà của
Varka cũng thuộc tầng lớp thị dân như nhà chủ của con Thanh. Họ cũng đua
đòi rởm, cũng ác độc, cũng đầy đọa người ở như nhau. Sekhov cũng giới
thiệu nhân vật ngay từ đầu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
“Đêm đã khuya. Varka, con sen 13 tuổi, luôn tay lắc lắc cái nôi có đặt
thằng bé nằm, miệng lẩm bẩm hát ru rất khẽ…. Ru hời ru hỡi là ru”.
[70,tr.109]
Cách giới thiệu này, một mặt, cho người đọc tiếp xúc ngay với nhân vật,
mặt khác, tạo ấn tượng cho người đọc. Một câu hỏi đặt ra: Đêm hôm khuya
khoắt, hoàn cảnh như thế nào mà một bé gái 13 tuổi vẫn còn đưa nôi, ru em?.
Câu chuyện dần hé mở, bằng một loạt những chi tiết chỉ hành động, được
xếp liên tục. Trước hết là chi tiết thằng bé con “khóc hoài”, “khóc quá đã
khản đặc và kiệt sức từ lâu”. Tiếp đó là chi tiết Varka buồn ngủ:
- “Varka buồn ngủ lắm rồi. Mắt nó cứ ríu lại, đầu cứ gục xuống, cổ mỏi
rã rời (…) Nó có cảm giác như mặt nó đã khô đét và trơ ra như gỗ, đầu nó
teo quắt lại, chỉ còn bé bằng cái đầu đanh ghim”. [70,tr.109]
Tiếp nữa là giấc mơ mù mịt, mụ mẫm của con bé. Giấc mơ ngủ trên bùn
lầy lội cùng đám người lũ lượt, vật vờ thật hợp lý với sự buồn ngủ ghê gớm
của con bé. Cách kể của Sekhov khác với cách kể của Nguyễn Công Hoan.
Nhịp điệu câu chuyện cứ dàn trải ra, chậm chạp. Giấc mơ của Varka kéo dài
và toàn bộ gia cảnh nhà nó hiện lên rời rạc, đứt đoạn nhưng, hợp lại, vẫn rõ
ràng. Xen kẽ giữa giấc mơ vẫn là âm thanh tiếng ru ạ ời và sự b uồn ngủ của
Varka. Trong mơ, Varka khóc vì bố chết, nó chạy vào rừng và va vào cây
bạch dương. Cú va đập làm nó tỉnh ngủ, mở chừng mắt. Ông chủ đã đứng
trước mặt, véo tai nó rất đau…. Thằng bé vẫn khóc. Ông chủ đã ra. Thế mà,
tất cả lũ người, dậy phơi quần áo, cái phòng chật hẹp, vệt sáng xanh… lại tràn
vào cái đầu mụ ra vì buồn ngủ của Varka….
Cứ như vậy, thằng bé khóc, Varka đưa nôi, buồn ngủ và không được
ngủ. Trời lại sắp sáng và Varka đi nhóm lò. Lại một ngày bắt đầu. Cũng như
“Thanh! Dạ!” , trong “Buồn ngủ”, những mệnh lệnh thức được đưa ra liên
tục, kế tiếp nhau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
“- Varka, đốt lò sưởi lên nào!
- Varka, đặt ấm lò đi!
- Varka, đánh giầy cho chủ!
- Varka, rưả phía ngoài cầu thang!
- Varka, chạy đi mua chai bia về đây!
- Varka, chạy xuống hầm lấ y vodka! Varka, cái mở nút chai đâu?
Varka, đi làm cá tý….
- Varka, ru em nhé! - Lệnh sai cuối cùng vang lên”…
Varka cũng quay cuồng trong công việc và sự sai bảo. Varka khốn khổ
hơn Thanh ở chỗ: Varka không được ngủ, buồn ngủ. Cái buồn ngủ của đứa trẻ
13 tuổi thật tội nghiệp và chắc chắn rất hiếm thấy:
“Nó ngồi xuống sàn đánh giầy, bụng nghĩ, giá chui đầu vào chiếc giầy to
tướng, sâu hoắm mà ngủ một giấc thì sướng quá…. Rồi, bỗng chiếc giầy to
lên, choán hết cả căn phòng…”. [70, tr.114-115]
Kết thúc “Thanh! Dạ!” là một trận đòn tới tấp của bà chủ dành cho bé
Thanh, có tiếng quát “Lười! Lười!....” làm nhạc đệm. Kết thúc “Buồn ngủ”
là cảnh:
“Miệng cười khanh khách, Varka vừa nháy mắt với cái vệt sáng xanh,
giơ ngón tay lên dọa nó, vừa rón rén đến cạnh cái nôi và cúi xuống sát người
thằng bé. Bóp cổ nó xong, Varka nhanh nhẹn nằm ra sàn nhà, cười khoái trá
vì bây giờ không còn cái gì cản trở giấc ngủ của nó nữa, và chỉ phút sau, nó
đã ngủ say như chết…”. [70,tr.117]
Cũng là giọng lạnh lùng, khách quan. Cũng kết thúc không lời bình luận.
Hiệu quả nghệ thuật được gia tăng rất nhiều.
Có thể nói, “Buồn ngủ” và cả “Thanh! Dạ” là những truyện ngắn hấp
dẫn. Cuộc sống bị đầy đọa, tủi hờn của những đứa trẻ hiện ra thật sinh động.
Trong toàn câu chuyện, cả hai tác giả đ ều cho nhân vật bé con của mình mỉm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
cười một lần. Con Thanh:… “trên mặt mũi, mồ hôi nhỏ giọt, nhưng hai mắt
nó sáng long lanh, vì vừa làm tròn một việc mà không bị mắng” .[36,tr.241]
Varka thì sau một ngày cật lực với công việc, “nhìn mấy khung cửa sổ tối
dần, Varka đưa tay lên bóp hai thái dương cứng đờ, và mỉm cười bâng quơ,
chẳng biết mình cười chuyện gì. Bóng hoàng hôn mơn trớn đôi mắt nặng trĩu
của nó và hứa hẹn với nó một giấc ngủ ngon lành”. [70,tr.115]
Ở hai quốc gia xa nhau, với hai dân tộc khác nhau, hai nền văn hóa khác
nhau, cuộc đời truyện ngắn cách nhau 67 năm (“Buồn ngủ” (1888), “Thanh!
Dạ!” (1935)), hai đứa trẻ trải đời mình trong sự đọa đày gần giống nhau.
Niềm vui ngây thơ, mong ước thơ ngây và hồn nhiên của chúng khiến người
đọc đau đớn trong tâm can. Cả “Buồn ngủ” và “Thanh! Dạ!” đều đem lại cho
người đọc một sự căng thẳng về thần kinh mà vẫn không sao dứt truyện ra
được. Cảm giác thường trực là mệt mỏi kéo dài. Lệnh tiếp lệnh, việc tiếp
việc… không có lấy một khoảng trống nào cho hai bé gái nghỉ ngơi. Con
Thanh còn “Dạ” được sau 10 lần bị quát gọi và còn trả lời, giải thích đôi câu
với các cô chủ. Varka thì im lặng từ đầu đến cuối tác phẩm, vì, trong đầu nó
chỉ có nhu cầu được ngủ. Người đọc xót xa, như bị đánh khi Thanh bị đánh.
Người đọc sững sờ trước một đứa bé 13 tuổi lẫm lũi trong công việc và chỉ có
một nhu cầu thúc bách là được ngủ mà không được ngủ. Còn sững sờ hơn
nữa, khi tác giả để Varka tìm lối thoát khỏi cơn buồn ngủ là bóp cổ thằng bé
con chủ nhà đến chết, rồi lăn ra sàn nhà mà ngủ.
Những số phận như Thanh, Varka không phải là hiếm gặp, Nhu cầu
muốn ngủ mà không được ngủ như Varka, lại thấy thấp thoáng nơi con Đỏ
trong “Phành phạch” của Nguyễn Công Hoan. Tình huống của câu chuyện là
đêm mùa hè, nóng bức, ngột ngạt. Bà chủ không chịu nổi cái oi bức, mặc dù
đã “tắt đèn đi cho dịu mát, mở tung hai cánh cửa chớp, rồi vặn quạt máy vù
vù” [36,tr.378]. Bà quyết định gọi con Đỏ lên quạt hầu bà, vì: “Bà đã đủ lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
nhân đạo đối với một con bé mười hai, mười ba tuổi đầu. Phải, còn gì nhẹ
nhàng cho bằng việc ngồi yên một chỗ, cầm chiếc quạt khẽ đưa đi đưa lại….
Con Đỏ con, cả ngày chỉ có việc bế anh, rồi làm phụ dưới bếp…” [36,tr.378].
Câu chuyện cứ nhẹ nhàng diễn ra, như chẳng động đến ai, chỉ là chuyện một
bà chủ “béo lắm, một cái béo rất hùng vĩ” với con hầu “vẫn gầy còm lắm”.
Nhưng toàn bộ sự ác độc, ích kỷ của chủ và nỗi khổ bị áp bức, bóc lột của
người nghèo cứ hiển hiện. Nhất cử lưỡng tiện, con Đỏ quạt hầu, bà chủ vừa
đỡ “hại quạt và tốn tiền điện”, vừa lại được tiếng là người có nhân đức, vì,
“cái ngữ ấy (con Đỏ)… chẳng xin ở không công để kiếm miếng ăn, tất chỉ có
ăn mày”. Người đàn bà béo nứt béo trương, vật vã trên giường vì nóng. Con
bé gày còm, hai tay khẳng khiu, phành phạch quạt cho bà, để cho “lưng áo
lụa của bà phồng lên như cánh buồm”. Thời gian con Đỏ quạt hầu bà chủ
được tính từ mười giờ tối cho đến sáng. Bà mơ màng, con Đỏ mỏi tay, buồn
ngủ, cũng lơ đãng. Cái nóng khiến bà tỉnh. Tiếng quát, mệnh lệnh “Mạnh lên,
mày” và cái “giúi đầu” nó của bà, làm con Đỏ tỉnh giấc. Bà bực d ọc, khó
chịu. Con Đỏ luống cuống, sợ hãi…. Hỗ trợ cho cơn buồn ngủ mà không
được ngủ của con Đỏ là âm thanh của đêm trường thanh vắng. Tiếng chuông
đồng hồ của nhà giầu, cứ đến cữ lại đổ chuông, tiếng gà gáy xa xa, đặc biệt
cái âm thanh “phành phạch”, “phành phạch”… cứ kéo dài, nổi trội, ám ảnh
người đọc.
Sự dồn nén của cuộc sống cay nghiệt đã dồn đẩy tuổi thơ tới phạm tội.
Phạm tội mà chúng không biết mình đã làm điều ác. Ai là người chịu trách
nhiệm về số phận bé Thanh (“Thanh! Dạ!”), số phận thằng bé con chủ nhà,
về số phận Varka (“Buồn ngủ”), nếu không phải chính xã hội Việt Nam đầu
thế kỷ XX và xã hội Nga cuối thế kỷ XIX.
Những thân phận đi ở, bị đầy đọa đến mấy, vẫn còn có chút gì hơn
những kiếp lang thang phải ăn cắp, ăn xin, ăn mày. Như đã nói, dường như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
những đứa trẻ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov vừa sinh ra
đã có tên trong danh sách hạng người cầu bất cầu bơ.
Ở Nguyễn Công Hoan, nhân vật là những đứa trẻ lang thang chiếm 3/5
truyện (“Bữa no đòn”, “Cái vốn để sinh nhai”, “Thằng ăn cắp”).Cái hay mà
Nguyễn Công Hoan khám phá và đem lại cho người đọc ở những tác phẩm
này không chỉ là hiện thực xô bồ, khủng khiếp, nỗi đau nhân thế, mà còn ở sự
thức tỉnh nhận thức của con người. Sự va chạm giữa giầu và nghèo, rất dễ
nhận thấy, rất dễ bộc lộ sự cảm thông, thương xót hoặc căm ghét. Sự va chạm
giữa những người cùng cảnh ngộ, hoặc na ná như nhau, không dễ nhận ra.
“Thằng ăn cắp” là câu chuyện về một thằng bé lang thang, đói rạc đói
dài, lấy cái chợ nghèo làm chốn nương thân. Tác phẩm được mở ra bằng cái
kết thúc của câu chuyện:
“Phải trận đòn này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp! Ai thương! Ai
bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp”. [36,tr.111]
Ở truyện ngắn này, có hai loại nhân vật cùng lúc xuất hiện là đám đông
và thằng bé. Nhân vật đám đông, bao gồm những bà bán hàng rau, hàng thịt,
hàng lê, hàng bún riêu, bánh đúc, và những người qua đường. Nhân vật đám
đông vừa là cái nền để làm rõ thân phận thằng bé “lử thử lừ thừ”, vừa là cái
tương phản trong tương quan lực lượng với thằng bé ăn xin không được, sinh
ra ăn cắp này. Cùng cảnh khổ cả, có chăng hơn ở chỗ có rau, có bánh đúc, bún
riêu mà bán, nhưng cả chợ đều nhìn thằng bé bằng con mắt khinh miệt, thậm
chí lãnh đạm, dửng dưng, thậm chí nhẫn tâm:
“Quân ấy tinh quái lắm! Ấy, nó cứ giả vờ đói khát để ăn xin, trát bùn
vào mặt, vào người, lử thử lừ thừ, làm như thằng ốm…” [36,tr.111]. Điều
đáng nói là ở đó. Cái nhìn lạnh lùng, hoài nghi của đám đông đã làm họ thiếu
tỉnh táo để nhận ra sự thực: thằng bé đói thật và nó đã thật lòng ăn xin: “Cắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
cỏ lạy bà, con đói khát, bà làm phúc…”. Lê la ăn xin không được, ở chỗ nào
nó cũng chỉ nhận được sự khinh thị, mỉa mai, phũ phàng:
- “Ba mươi sáu cái nõn nường…. Thôi đi! Dơ!”
- “Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!”.
Cũng vẫn là cái đám đông vô tình với cái đói của một thằng bé khốn nạn
ấy, nhưng lại rất nhiệt tình, thậm chí hăng hái quá mức khi thằng bé ấy quỵt
bát bún riêu. Họ nhốn nháo, kêu gào. Lực lượng đuổi bắt được gia tăng bởi
người đi đường ủng hộ. “Họ chạy huỳnh huỵch, họ làm như bắt giặc” (…)
“Một thằng chạy. Mấy trăm người đuổi. Bụi mù! Khổ chủ thì “chạy sau rốt.
Áo lấm. Khăn sổ. Tóc rũ. Ngửa mặt kêu…” [36,tr.114]. Cả đám đông ấy
hoắng lên, truyền cho nhau những thông tin đáng để bỏ công sức ra đuổi. Nào
là “nó cắt ruột tượng của người kia” , nào là “lấy của người ta 5 đồng bạc,
lại còn đánh người ta”…. Thế thì đáng đánh quá. Cho nên, người ta ùa vào
đánh nó. Nào đấm, đá, thúc… khiến thằng bé mềm như sợi bún. Trong khi
thực chất, nó quỵt 2 xu bún riêu.
Hỗ trợ đắc lực cho quan hệ tương phản của nhân vật là hệ thống âm
thanh mà tác giả sử dụng trong tác phẩm. Đó là những âm thanh của con
người, do con người phát ra. Đó là tiếng kháo nhau, tiếng thì thào to nhỏ,
tiếng quát, tiếng pha trò, tiếng cười ha hả của những người bán hàng. Đó là
tiếng kêu, tiếng chân chạy, tiếng thở, tiếng van xin, tiếng chân đá, tiếng tay
đấm… rầm rầm, huỳnh huỵch..... Tất cả tạo nên sự hỗn độn, huyên náo của cả
một khối người bộc lộ sức mạnh của “đạo lý” trước sự việc ăn cắp. Chỉ với 2
xu bún riêu mà trở thành vấn nạn, cần phải đến nhà chức trách ra tay. 2 xu
bún riêu ăn quỵt, phải lên Cẩm để giải quyết.
Họ phản ứng dữ dội trước sự ăn cắp, ăn quỵt - điều đó hoàn toàn chính
đáng. Nhưng vì sao, thằn g b é phải ăn qu ỵ t, k hôn g ai đ ể tâm. Đó là điều
Nguyễn Công Hoan muốn nói đến, muốn đánh động tới lòng trắc ẩn của con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
người. Không phải ngẫu nhiên khi tác giả sử dụng giọng điệu giễu nhại, châm
biếm. Đằng sau những câu văn ngắn, phần nhiều là câu đặc biệt, vô chủ, là
tình cảm của tác giả, đau xót cho cái gọi là tình người giữa nhân quần. Liệ u
sự khinh miệt, dửng dưng, nhẫn tâm có dạy cho lũ trẻ kia điều gì? Một câu
hỏi treo trên đầu người đọc thưở ấy và cả bây giờ.
Thằng bé trong “Thằng ăn cắp” không có lối thoát, như bé Varka trong
“Buồn ngủ” của Sekhov. Nó phạm tội trong sự tính toán ngây thơ, khờ khạo.
Đói quá sinh liều. Nó không tính đến khả năng không chạy thoát, cũng như
Varka, buồn ngủ quá, chỉ biết vì thằng bé khóc mà không được ngủ. Thằng ăn
cắp quyết ăn quỵt bát bún, Varka quyết bóp cổ thằng bé con chủ nhà… chỉ
cần được ăn và được ngủ.
Với “Cái vốn để sinh nhai”, Nguyễn Công Hoan một lần nữa chỉ ra sự
dửng dưng, ghẻ lạnh của người đời đã hủy hoại những đứa trẻ như thế nào.
Vẫn là những con người không tên, hợp thành đám đông, làm nền cho
nhân vật hoạt động. Thằng bé ăn xin với cái gậy , cái rá chọn bến xe để kiếm
ăn. Cay đắng ở chỗ nó nhận ra một thực tế: “Chẳng may giời đầy nó làm kiếp
ăn mày, mà lại bắt nó phải lành lặn. Gia dĩ cái gầy gò, xấu xí cũng không
được bằng ai. Rõ khổ”. [36,tr.169]. Đội ngũ ăn mày thân tàn ma dại, không
mù thì câm, không toét mắt thì què chân, gãy tay…. Đội ngũ ấy hoạt động
mới có kết quả, dù chẳng đáng bao nhiêu, nhưng cũng đủ cho nó thèm và so
sánh với mình. Một thực tế nữa cứ xoáy vào thằng bé. Đó là những câu răn
dạy của mọi người, từ quan, đến thày khóa, đến những ông, bà đi xe.
- “Mày lành lặn thế, sao không đi làm đi ăn, chỉ lười biếng quen xác
thôi”.
- “Thừa tiền cũng không cho thứ mày”.
- “Đi mà làm ăn! Đừng lười thế.”
- “Mặc kệ mày, cho mày chết đói…”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
Những câu luân lý ấy, nghe mãi quen tai, nhưng thằng bé cũng rút ra
được điều rằng: lành lặn khó xin, lành lặn đi liền với chết đói. Tác giả đã diễn
tả nỗi đau đớn, thất vọng của thằng bé bằng những đoạn độc thoại nội tâm
gián tiếp. Nhà văn mô tả lại suy nghĩ tuyệt vọng của thằng bé:
“(…) Nó biết đi xin thế này là nhục (…) Khốn nạn! Nào nó có lười biếng
gì cho cam? Nó có máu động kinh, lắm lúc đương yên lành tử tế, thì lăn đùng
ra đất, mắt trợn lên, bọt mép sùi ngầu (…) Vì thế nó bị đuổi khỏi nơi đi ở. Vì
thế nó phải đi ăn mày” [36, tr.168 - 169].
Đầu óc trẻ thơ có sâu sắc mấy cũng chỉ nhận ra bài học: Vì còn lành lặn
nên có thể chết đói.. Nó chỉ biết tuyệt vọng khi nghĩ đến chết đói. Nhưng đám
đông kia đã khai thông đầu óc cho nó bằng một lời đùa nhiều hơn thật:
- “Mày què đi thì lần sau tao cho” . Câu nói ám ảnh, câu nói mở đường.
Câu nói như một luồng ánh sáng thức tỉnh sự u mê của thằng bé. “Ở đời, làm
nghề gì chả phải có vốn? Chả phải cạnh tranh? Đi ăn mày, tưởng dễ lắm đấy
hẳn” [ ]. Chi tiết thằng bé chống gậy đi, tìm đến một cây cao, cố hết sức leo
lên, để tìm vốn sinh nhai, bằng cách:
“Nó thở dài, nó liều. Nó nhắm nghiền mắt lại, buông phắt hai tay, ngả
người ra. Vụt một cái:
Ối!... Nó rơi đánh bộp xuống đất (…) cánh tay lủng lẳng như chỉ còn
bám xương vào vai nó một tý lấy lệ” [36, tr.171-172], như một lưỡi dao cùn
cứa vào tim người đọc.
Với người đời, với thằng bé, lối thoát thật đơn giản. Nhưng, khi nghĩ
cách tìm được cái vốn để sinh nhai ấy, nó đâu biết, vào những ngày trở trời,
nó sẽ đau như dần, nó sẽ phải bò lê đi kiếm ăn….
Cũng cho nhân vật trẻ em tìm lối thoát khỏi cảnh bị đọa đày, ở Sekhov
có “Buồn ngủ” và “Vanka”. Cô bé Varka tìm lối thoát ở hành vi phạm tội. Bé
Vanka trong “Vanka” lại tìm lối thoát ở sự sẻ chia và mơ ước mong manh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
9 tuổi đầu, Vanka đi ở cho gia đình tiểu chủ ở thành phố. Toàn bộ cuộc
đời khốn khổ của Vanka được tái hiện qua bức thư nó viết cho ông nhà quê.
Ngoài hình thức viết thư, Sekhov còn sử dụng kết cấu chuyện lồng chuyện.
Có hai câu chuyện được lồng trong truyện ngắn này. Câu chuyện (1) là
chuyện Vanka viết thư, tức điểm nhìn trần thuật là người kể ở ngôi thứ ba.
Câu chuyện (2) là câu chuyện đời Vanka được kể trong thư, tức điểm nhìn
trần thuật đã chuyển sang Vanka. Hỗ trợ đắc lực cho hai câu chuyện là sự đan
xen của thời gian nghệ thuật. Tại câu chuyện đời của Vanka, thời gian được tổ
chức từ điểm n h ìn của Vank a. Thời g ian q uá kh ứ, h iện tại, tươn g lai đ ồng
hiện và đan cài với nhau. Cuộc sống khốn khổ của Vanka hiện ra rõ nét qua
từng lời lẽ trong thư, được Vanka hồi nhớ. Những cụm từ “ngày hôm qua”,
“tuần vừa rồi”, “hôm vừa rồi” xuất hiện cùng với những sự việc bị bà chủ
đập cả một con cá mòi vào mặt, ông chủ cầm khuôn khâu giầy đập vào mặt
đến bất tỉnh…, cho thấy Vanka đã bị đày đọa thế nào. Giữa dòng hồi tưởng
đầy hãi hùng, Vanka sực nhớ ra: “Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang
cháu về nhà ông, về làng…”. Đoạn thư dài sau đã hàm chứa cả quá khứ, hiện
tại và tương lai.
“Cháu quỳ lạy bên chân ông, cháu cầu thượng đế suốt ngày đêm để ông
mang cháu đi khỏi nơi này (…) Cháu sẽ thái thuốc lá cho ông (tương lai).
Ông thân yêu, cháu chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ con nước là chết nữa thôi
(hiện tại), cháu đã định chạy trốn về làng nhưng mà không có giầy (quá khứ)
(…) Còn khi nào cháu lớn lên, cháu sẽ trả ơn ông và nuôi ông (tương lai)”
[68, tr.36].
Trong suốt bức thư, thời gian hiện tại xuất hiện rất ít, phản ánh rất chính
xác tâm lý trẻ con. Cậu bé không quan tâm mấy đến hiện tại. Với cậu chỉ là
những khiếp hãi, đau đớn đã trải qua và khao khát được giải thoát. Sự sắp xếp
thời gian cũng rất lộn xộn, phù hợp với nhân vật. Ở độ tuổi còn cần rất nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
sự chăm chút của người lớn, mới có cách tư duy hồn nhiên và lộn xộn như
vậy, nên, sự việc được kể chưa được chắt lọc để viết cho rõ ràng. Yếu tố hồn
nhiên đã làm tăng giá trị hiện thực và tác động rất mạnh đến người đọc.
Tại câu chuyện Vanka viết thư, thời gian cũng được đan xen giữa hiện tại
(thời gian Vanka viết ra các đoạn thư) với quá khứ (Vanka dừng viết, hồi
tưởng) và tương lai (Vanka dừng viết và mơ). Dấu hiệu nhận biết là lời kể của
người kể chuyện. Ở câu chuyện này, thì hiện tại xuất hiện thường rất ngắn. Có
5 lần xuất hiện câu kể hàm chỉ thời gian hiện tại, kiểu như: “Vanka đưa mắt
nhìn ra cửa sổ tối tăm…”, “bây giờ…”, “Vanka thở dài, … viết tiếp…”, “cậu
đưa nắm tay đen bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc…”, “Vanka gấp lá thư làm
tư rồi bỏ vào phong bì”. Những khoảnh khắc hiện tại làm nhiệm vụ kết nối
quãng đời đã qua trong hạnh phúc nhỏ nhoi mà ấm áp với quãng đời hiện tại
đau khổ và cực nhục của Vanka. Thời gian quá khứ không nhiều nhưng dài
hơi hơn. Đó là những hồi ức của Vanka về quê nhà, nơi cậu đi ở. Bên cạnh
hồi tưởng là giấc mơ ngắn ngủi của Vanka. Thời gian để giấc mơ tồn tại rất
ngắn và xuất hiện một lần ở cuối tác phẩm, cho thấy, cái tương lai mà Vanka
khao khát rất bấp bênh. Tính chất thời gian với những thấp thoán g của hiện
tại, quá ít của tươn g lai, quá đ ậm của qu á k h ứ ở câu ch u y ện (1 ), gó p phần
khẳng định, tô đậm nỗi khổ nhục, bế tắc của Vanka.
Như vậy, những yếu tố nghệ thuật được tác giả sử dụng đã phát huy tối
đa hiệu quả của chúng. Sự lồng ghép các mạch thời gian, sự đan xen các dạng
thức thời gian tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Cùng với đó là hình thức
bức thư được Vanka viết và gửi với địa chỉ vu vơ cho thấy sự hồn nhiên của
Vanka. Càng hồn nhiên bao nhiêu trong việc tìm lối thoát càng cho thấy, trẻ
em càng tội nghiệp, số phận của chúng càng bấp bênh, càng bế tắc.
Thế giới những con người nghèo khổ bị chà đạp, bị triệt tiêu dần khả
năng làm người hiện ra rõ nét, sinh động trong sáng tác của Nguyễn Công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
Hoan và Sekhov. Cả hai nhà văn đều bộc lộ tài năng khi xử lý đề tài “con
người bé nhỏ”. Bằng thái độ tiếp nhận hiện thực, bằng những thủ pháp nghệ
thuật hữu hiệu, hai nhà văn đã đưa những con người lam lũ, nghèo khổ, bất
hạnh vào tác phẩm, trao cho họ nhiệm vụ phản ánh hiện thực ngang trái, bất
công. Thông qua đó, hai nhà văn gửi gắm sự cảm thông, thương xót những số
phận bấp bênh, bị coi rẻ, khinh miệt. Thông qua hệ thống nhân vật nghèo hèn,
đủ mọi lứa tuổi này, hai nhà văn đã giải quyết triệt để mối quan hệ giầu -
nghèo trong xã hội. Họ đã góp phần tích cực trong việc vạch trần tội ác ở mọi
hình thức của lũ người ăn trên ngồi trốc, nhẫn tâm, cũng như góp phần lay
động thức tỉnh lòng trắc ẩn của con người trước hiện thực nghiệt ngã.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Công Hoan là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện
đại, ông được coi là người có công lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn
xuôi và là người đặt nền móng cho trào lưu văn học hiện thực phê phán
1930 - 1945. Một trong những nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Công
Hoan là đã mang l ại cho văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX một
phong cách nghệ thuật độc đáo, một kiểu nhân vật mới mẻ, vừa mang quan
điểm thẩm mĩ của nhà văn, vừa thể hiện được những vấn đề xã hội của
thời đại.
Là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế kỉ XIX, Sekhov đã
mở ra khuynh hướng mới cho văn học hiện thực phê phán Nga. Bằng các tác
phẩm của mình, ông kịch liệt lên án những thói hư tật xấu tồn tại trong xã hội.
Tố cáo chính quyền Nga hoàng tàn bạo và đồng cảm sâu sắc với số phận của
nhân dân. Hơn 20 năm cầm bút, Sekhov đã để lại một khối lượng lớn truyện
ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới
Bằng nghệ thuật độc đáo, đặc sắc Nguyễn Công Hoan đã chĩa thẳng ngòi
bút của mình vào những vấn đề nổi cộm của hiện thực cuộc sống , túm lấy
những khoảnh khắc trong cuộc đời con người để phanh phui, bóc trần, lên án,
tố cáo xã hội đương thời đầy ung nhọt, nhơ nhớp của những hạng người bất
nhân và bất nghĩa. Qua những truyện ngắn bất hủ của mình, Sekhov đã phơi
bày toàn bộ hiện thực nước Nga dưới ách chuyên chế của chế độ Nga hoàng.
Giai cấp quý tộc độc ác đê tiện, bọn thị dân phàm tục, Sekhov đã tái hiện bức
tranh xã hội rộng lớn, phê phán một cách gay gắt những cái xấu, cái ác trong
xã hội đương thời.
2. Cả Nguyễn Công Hoan và Sekhov đều rất thành công khi tổ chức hệ
thống nhân vật của mình. Một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
động…, nhìn vào thế giới nhân vật này người đọc các thế hệ đều hình dung
được xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX. Hệ thống
nhân vật này vừa mang quan điểm thẩm mĩ của nhà văn, vừa thể hiện những
vấn đề của xã hội, của thời đại. Họ chính là nguyên cớ, là bằng chứng về một
thực trạng xã hội không nhân tính và là nạn nhân của lòng tham, của tội ác,
của quyền lực. Đồng thời qua thế giới nhân vật, hai nhà văn đã bày tỏ khát
vọng cháy bỏng của mình về một xã hội có nhân tính, là nơi để nhà văn hy
vọng vào sự đổi thay ở con người, vào những phẩm chất tốt đẹp của con
người.
3. Nguyễn Công Hoan và Sekhov đÒu chú ý đến các loại người trong xã
hội như: quan lại, những công chức, tiểu tư sản, dung tục tầm thường, vô liêm
sỉ. Bằng nghệ thuật kết cấu, sử dụng chi tiết, lời đối thoại, lời độc thoại…,
hình ảnh các nhân vật hiện ra một cách cụ thể. Đó là bọn quan lại, tư sản giầu
có, lắm tiền mà bất nhân, vô nhân đạo. Thế giới nhân vật ấy chính là hiện thân
của một hiện thực xã hội vô nhân đạo, không có sự tồn tại của tấm lòng lương
thiện của con người. Viết về giai cấp tư sản quý tộc, tầng lớp thị dân, Sekhov
thẳng tay phanh phui, mổ xẻ những thói hư tật xấu của những kẻ sống phàm
tục, thói nô lệ tầm thường trước uy quyền và của cải tồn tại trong xã hội Nga
cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên ở mỗi nhà văn tổ chức loại nhân vật này có những
nét khác nhau. Nguyễn Công Hoan tập trung vào tầng lớp quan lại nhiều để
vạch trần những dị tật xấu xa, ghê tởm mang những điển hình của xã hội thực
dân nửa phong kiến. Còn Sekhov tập trung nhiều vào lớp công chức bình
thường, từ những con người bình thường ấy nhà văn đã chỉ ra những con
người máy, những quái thai nó chính là sản phẩm của xã hội Nga trong buổi
giao thời.
4. Bằng cái nhìn thông cảm và xót thương cả hai nhà văn chú ý đến đời
sống khổ cực của lớp người cùng đáy trong xã hội. Đồng cảm sâu sắc với số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
phận những người dân nghèo, đằng sau giọng mô tả bình thản của Nguyễn
Công Hoan và Sekhov về những cuộc đời cơ cực, vất vưởng, lê lết ta như
nghe rõ tiếng đạp bồi hồi, đau đớn chứa đựng niềm cảm thông sâu xa với nỗi
thống khổ của những kiếp đói nghèo. Một sự gặp gỡ tài năng nghệ thuật và
tấm lòng nhân đạo trong thể hiện thế giới nhân vật của hai nhà văn.
5. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được rọi
chiếu bằng một thứ ánh sáng gay gắt, khiến tính cách, hành động của đủ mọi
hạng người trong đó phát lộ ra bên ngoài. Còn Sekhov âm thầm nhẹ nhàng lôi
kéo ngườ i đọc xâm nhập vào thế giới bên trong con người, tìm những uẩn
khúc, những nguyên nhân tha hoá hay những phút thăng hoa của nó. Tuy
không đi sâu vào khai thác tâm lý bên trong nhân vật như Sekhov, nhưng
Nguyễn Công Hoan cũng đã thể hiện một cách sắc sảo bằng nghệ thuật độc
đáo của riêng mình để phanh phui những căn bệnh xấu xa của thời đại, được
biểu hiện trong tâm lý nhân vật. Chính điểm này là nơi gặp gỡ giữa Nguyễn
Công Hoan và Sekhov
Tất nhiên, giữa Sekhov và Nguyễn Công Hoan cái khác biệt giữa hai
người là lớn. Cái Sekhov có mà nguyễn Công Hoan không có là nhiều. Bởi
Sekhov là người có vai trò kết thúc và đưa lên đỉnh cao trào lưu hiện thực vào
giai đoạn cuối của nó, được coi là nhà hiện thực kiểu mới với những cách tân
trong thể loại truyện ngắn, đặc b iệt ở mảng tâm lý bên trong của nhân vật và
kiểu truyện không cốt truyện. Còn Nguyễn Công Hoan là người mở đầu cho
trào lưu hiện thực ở Việt Nam. Nhưng cả hai nhà văn lại có những nét tương
đồng về thời đại, về thể tài, một thế giới nhân vật đa dạng, độc đáo, một cái
nhìn sắc sảo phát hiện ra những căn bệnh của xã hội trong từng tế bào nhỏ.
Bằng tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan đã trở thành bậc thầy của truyện ngắn Việt Nam. Sekhov là bậc thầy của
truyện ngắn nhân loại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
Nghiên cứu thế giới nhân vật trong tác phẩm văn chương không còn là
một vấn đề mới, song không có nghĩa là không thể khám phá ở lĩnh vực này
những điều thú vị, hấp dẫn. Bởi mỗi nhà văn sẽ có một thế giới nghệ thuật
riêng, mỗi thế giới nghệ thuật lại có một thế giới nhân vật riêng. Luận văn của
chúng tôi đã chỉ ra những tương đồng và khác biệt trong việc tổ chức thế giới
nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn. Tìm hiểu thế giới nhân vật của
Nguyễn Công Hoan trong tương quan so sánh với Sekhov còn là một điều khá
mới lạ đối với giới nghiên cứu. Với giới hạn và khuôn khổ của luận văn,
chúng tôi cố gắng đưa một cái nhìn mới mang tính khái quát về một vài đặc
điểm nổi bật trong thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Vì
vậy những vấn đề chúng tôi nêu ra chắc chắn còn chưa thật đầy đủ và thật sâu
sắc, chưa thật sự khai thác hết những đóng góp của hai nhà văn. Chúng tôi
mong muốn, hy vọng được trở lại vấn đề trong tương lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
2. Đào Tuấn Ảnh (2005), “Antôn Sêkhốp và Nam Cao – nhìn từ góc độ thi
pháp”, Tạp chí nghiên cứu văn học (số 4), Viện văn học – Viện khoa học
xã hội Việt Nam.
3. Đào Tuấn Ảnh "Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhov. Thử một cách tiếp cận
mới", Tạp chí nghiên cứu văn học (số 8), Viện văn học - Viện khoa học
xã hội Việt Nam.
4. Đào Tuấn Ảnh (2004), "Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhov và sự tiếp nhận
sáng tác của ông ở Việt Nam", Báo cáo khoa học tại Hội thảo Kỷ niệm
100 năm ngày mất A.Sêkhov.
5. Trần Lê Bảo (2004), “A.Sêkhov và Lỗ Tấn dưới góc nhìn so sánh” (Hội
thảo khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất A.sêkhov).
6. Nam Cao (2000), Con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
17. La Côn (1960), "Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm Sê-Khốp", Tạp chí
văn học (số 2), tr. 60-71.
8. Trương Chính (1990), (viết chung) Tác phẩm văn học 1930 - 1945, tập I
Nxb Khoa học xã hội.
9. Trương Chính (1977), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập III, Nxb
xây dựng.
10. Phạm Vĩnh Cư (1996), "Đôi nét cơ bản về giao lưu văn học Việt Nam -
thế giới từ sau cách mạng tháng tám". In trong 50 năm Văn học Việt Nam
sau cách mạng tháng tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Dân (1995), Văn học so sánh, Nxb khoa học xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
95
12. Nguyễn Văn Dân (1988), Nghiên cứu văn học so sánh trước nhu cầu
đổi mới.
13. Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900 – 1930, Nxb ĐH & TH chuyện nghiệp.
14. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt
Nam, NxbKhoa học xã hội.
15. Trần Thanh Đạm (1997), “ Mấy vấn đề về đối tượng chức năng của văn
học so sánh”, Tạp chí văn học (số 9) tr, 39 – 42.
16. Phan Cự Đệ (1982), “ Ảnh hưởng của tư tưởng mác xít và phong trào
cách mạng đối với sự phát triển của văn xuôi hiện thực phê phán Việt
Nam (1930 - 1945)”, Tạp chí văn học (số 6), tr,83 – 93.
17. Trần Hạc Đình (1936), “ Phê bình Kép Tư Bền Hà Nội báo” (số 2).
18. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NxbHà Nội.
19. Phan Hồng Giang T.Sekhov (1979), Chuyên luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Phan Hồng Giang (2001), A.Sêkhốp, Nxb Hải Phòng.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Hải Hà (2004), “Cái mới trong truyện ngắn của A.Sêkhov”, (Hội
thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov.
23. Nguyễn Hải Hà (1992), Văn học Nga, sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
24. Hồng Hạnh (2001), “ Vấn đề "người trong bao" trong một số tác phẩm
của Sêkhốp”, Tạp chí văn học tuổi trẻ (số 12).
25. Lê Thị Đức Hạnh (1970) “ Mấy vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn
trong truyện của Nguyễn Công Hoan trước các mạng”, Tạp chí văn học
(số 6) tr, 46 – 54.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
26. Lê Thị Đức Hạnh (1975), “ Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan”, Tạp chí văn học (số 5), tr. 121 – 132.
27. Lê Thị Đức Hạnh (1977), “Nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan”, Tạp trí văn học (số 4), tr. 83 – 93.
28. Lê Thị Đức Hạnh (1979), Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ,
Nxb Khoa học xã hội.
29. Lê Thị Đức Hạnh (1990), “ Kép Tư Bền”, Tạp chí văn học (số 3), tr, 24 -
25.
30. Lê Thị Đức Hạnh . (1991), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977), Nxb
KHXH, Hà Nội.
31. Lê Thị Đức Hạnh (1996), “Nguyễn Công Hoan - tài năng và nhân cách”,
Tạp chí tác phẩm mới (số 12).
32. Lê Thị Đức Hạnh (2003), Sưu tầm và biên soạn Nguyễn Công Hoan tác
giả, tác phẩm, Nxb Giáo dục.
33. Trọng Hiền (1960) Sê-Khốp nhà văn hiện thực vĩ đại, Báo văn nghệ (số 3)
34. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học.
35. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.
36. Nguyễn Công Hoan (2005), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà
Nội..
37. Nguyễn Công Hoan (2005), Tác gia - tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Vũ Ngọc Khánh (1974), Thơ văn trào phúng Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội.
39. Nguyễn Hoành Khung (1984), Nguyễn Công Hoan trong từ điển văn học
(tập hai), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Hoành Khung (1988), (viết chung) Văn học Việt Nam 1930 –
1945, tập I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
41. Phong Lê (1976), Nguyễn Công Hoan " Văn và người", Nxb Văn h ọc Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
97
42. Phong Lê (1993), “Nguyễn Công Hoan một đời văn lực lưỡng” , Tạp chí
văn học (số 6).
43. Phong Lê (2004), A.Sêkhov và Nam Cao " nhìn từ hai nền văn học". Tạp
chí văn học nước ngoài (số 4), Hội nhà văn Việt Nam.
44. Nguyễn Trường Lịch (2004), Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, (Hội
thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov).
45. Mai Thúc Luân (1984), Nghệ thuật dân tộc quốc tế, Nxb Khoa h ọc, Hà Nội.
46. Phương Lựu (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Lê-nin V.I (1960), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Tổng tập văn học Việt Nam, (phần khải
luận) – Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
51. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. M.B kharapchenkô (1993), Sáng tạo nghệ thuật hiện thực con người,
Nxb Khoa học, Hà Nội.
53. M.B kharapchenkô (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp
nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
54. M.B kharapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự p hát
triển văn học, Nxbtác phẩm mới, Hà Nội.
55. M. Gorki (1998), Bàn về văn học, NxbVăn học, Hà Nội
56. Trần Quỳnh Nga (2000), “A.Sêkhov ở Việt Nam”, Tạp chí văn học (số 10).
57. Phạm Xuân Nguyên (2004), Đặc điểm văn A.Sêkhov, (Hội thảo khoa
học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
98
58. Vương Trí Nhàn Bản dịch truyện ngắn và một giai đoạn giới thiệu văn
học nước ngoài ở Hà Nội, Evan. Vnexprress. Net.
59. Vương Chí Nhàn (2000), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
60. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại, Văn học Việt Nam giao lưu
và gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
61. Nhiều tác giả (1998), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Hà Nội
62. Nhiều tác giả. (2000), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
63. Pespelop G.N (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (hai tập), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
64. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.
65. Đỗ Hải Phong (1971), Bài giảng Thi pháp A.Sêkhov của Truđacôp, Nxb
Giáo dục Maxcơva.
66. Vũ Dương Quý (1999), Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
67. Vũ Tiến Quỳnh (1977), Sưu tầm và biên soạn tác phẩm bình luận văn
học, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.
68. Sêkhov (1988), Truyện ngắn A.Tsêkhốp, Nxb Cầu vồng Maxcơva do
Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.
69. Sekhov (1978), Truyện ngắn A.Tsêkhốp (Tập một), Nxb Văn học, Hà Nội
do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.
70. Sekhov (1978), Truyện ngắn A.Tsêkhốp (Tập hai), Nxb Văn học, Hà Nội
do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.
71. Thiếu Sơn (2002), Phê bình “ Kép Tư Bền”, in lại trong tác giả tác phẩm,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Trần Đình Sử (1993) Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, BGD & ĐT -
Vụ giáo viên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
73. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học , Nxb giáo dục,
Hà Nội.
74. Timôphiep (1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hoá.
75. Nguyễn Trác (1973), (viết chung) Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945,
(tập V phần 1), Nxb Bộ giáo dục, Hà Nội
76. Nguyễn Thanh Tú (1995), “Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Công
Hoan trong truyện ngắn trào phúng”, Tạp chí văn học (số 6), tr, 7- 11.
77. Nguyễn Tuân (1957), Tìm hiểu Sêkhốp, Lời giới thiệu A.sêkhov truyện
ngắn (tái bản 2004), Nxb Hà Nội.
78. Nguyễn Tuân (1999), Bàn về nghệ thuật, Nxb Hội nhà văn.
79. Vũ Thanh Việt (2000), Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc
(sưu tầm và biên sọan), Nxb Văn học thông tin, Hà Nội.
80. Nguyễn Thị Vượng (2006), Thời gian - không gian nghệ thuật trong
truyện ngắn "Vaska" của A.Sêkhov. TCKH & CN Đại học Thái Nguyên
(số 3).
81. w w w. Can d. com. Vn. 12/2007