ĐỔi mỚi sỰ lÃnh ĐẠo cỦa ĐẢng ĐỐi vỚi cÔng tÁc vẬn
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ CÔNG LƯƠNG
ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước
Mã số : 62 31 02 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS Phan Hữu Tích
2. TS Hoàng Mạnh Đoàn
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6
1.2. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo và vấn đề
đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 21
Chương 2: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 24
2.1. Trí thức và công tác vận động trí thức ở nước ta 24
2.2. Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức - khái niệm, nội dung
và phương thức
41
Chương 3: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 60
3.1. Thực trạng đội ngũ trí thức và công tác vận động trí thức ở nước
ta hiện nay 60
3.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức -
thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm 79
Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025 116
4.1. Những nhân tố tác động và yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức 116
4.2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác vận động trí thức giai đoạn hiện nay 125
KẾT LUẬN 154
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158
PHỤ LỤC 169
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
KH&CN Khoa học và công nghệ
KH&KT Khoa học và kỹ thuật
KTTT Kinh tế tri thức
KT-XH Kinh tế - xã hội
LHH Liên Hiệp hội
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trí thức là vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ trí
tuệ của một quốc gia và có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Lịch sử cho thấy rằng: ở thời nào cũng vậy, sự hưng thịnh của đất nước
tùy thuộc phần lớn vào việc coi trọng và sử dụng đội ngũ trí thức như thế nào. Cách
đây hơn năm thế kỷ, trong bài Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu
Đại Bảo năm thứ 3(1942),Thân Nhân Trung đã nêu bật được tầm quan trọng của
giáo dục nhân tài đối với sự hưng thịnh của đất nước:
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà
hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế
vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn
kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết [137].
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn về sự tụt hậu ngày càng
xa so với các nước trong khu vực và quốc tế. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) để từng bước vượt qua thách thức đó. Đội ngũ trí thức với
đặc thù lao động của mình có vai trò quan trọng, có ý nghĩa rất quan trọng. Không có
đội ngũ trí thức đủ mạnh thì không thể tiến hành CNH, HĐH đất nước, không thể xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Trí thức vừa là một bộ phận của nguồn lực con người, vừa là nguồn tiềm năng
khoa học, kỹ thuật, trực tiếp tham gia vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân
lực cho đất nước. Đánh giá về xu thế phát triển này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI đã khẳng định: “Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó, con người và tri thức
càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia” [50, tr.97]. Nối tiếp
truyền thống của dân tộc, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, trong sự nghiệp đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm lãnh đạo công tác vận động đội ngũ trí thức. Đảng đã ban hành nhiều
nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo công tác vận động trí thức, điển hình là Nghị quyết
số 27-NQ/TW, về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH
(2008). Quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng chậm được cụ thể hóa vào tình
2
hình thực tế, chưa tạo ra được những chính sách đồng bộ đủ mạnh để gắn kết khoa
học công nghệ với giáo dục đào tạo và sản xuất kinh doanh, phục vụ sự phát triển
của đời sống xã hội. Đảng bộ, chính quyền các cấp có lúc, có nơi chưa thấy hết vai
trò, vị trí của trí thức trong sự phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), đặc biệt trong
phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa. Trong công tác quy hoạch đào
tạo, bồi dưỡng sử dụng, đãi ngộ đối với trí thức còn thiếu tính chiến lược, chưa
được xem như là một bộ phận cấu thành của chiến lược con người, chiến lược phát
triển KT - XH nên chưa tạo ra được một đội ngũ trí thức có cơ cấu đồng bộ, hợp lý
đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH. Sự quan tâm chỉ đạo đầu tư xây dựng các tổ
chức của trí thức chưa đúng mức, cả về tổ chức cũng như kinh phí hoạt động…
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch với chiến lược “diễn
biến hòa bình” đang tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng nước ta, phá
hoại khối đoàn kết toàn dân, chia rẽ dân với Đảng, đặc biệt chúng tập trung lôi kéo,
lợi dụng trí thức nhằm hạ thấp, làm lu mờ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó
đòi hỏi chúng ta phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận nói chung và công tác vận động trí thức nói riêng. Ngày 03/6/2013, Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đã ra Nghị quyết số 25-
NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới”. Nghị quyết đã nhấn mạnh mục tiêu lớn nhất của công tác dân
vận trong tình hình mới, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận động trí thức là bộ phận trong công
tác dân vận, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức góp
phần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong
tình hình mới là yêu cầu bức thiết. Do đó, tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đang đặt ra
những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu, làm sang tỏ thêm.
Xuất phát từ cách nhìn nhận, tiếp cận đó; từ yêu cầu nhiệm vụ, thực tiễn
công tác của bản thân, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ
3
chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức, đề xuất phương hướng, mục tiêu và giải pháp tiếp tục
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án, làm rõ kết quả
nghiên cứu về trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức;
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức;
- Đánh giá thực trạng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức, nêu nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm;
- Xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là một vấn
đề rất rộng và phức tạp. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về
trí thức và công tác vận động trí thức; nghiên cứu thực trạng đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức từ năm 1986 đến
nay, trong đó tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2000 đến 2013. Luận án cũng đề cập
đến những nhân tố tác động và những yêu cầu đặt ra đối với đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức, từ đó đề ra những giải pháp để tiếp tục
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn từ
nay đến năm 2025.
4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về trí thức và công tác vận động trí thức.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin đồng thời sử dụng
các phương pháp nghiên cứu lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, điều
tra, khảo sát thực tiễn, phương pháp chuyên gia và phương pháp điều tra xã hội học.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học
- Nghiên cứu và đưa ra khái niệm về trí thức và công tác vận động trí thức;
nội dung, phương thức lãnh đạo trí thức và xây dựng luận cứ khoa học khẳng định
tính tất yếu phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và rút ra những
kinh nghiệm lãnh đạo công tác vận động trí thức làm cơ sở thực tiễn cho việc đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.
- Dự báo thuận lợi, khó khăn, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất các
giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
đến năm 2025.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần tiếp tục nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
trong tình hình hiện nay. Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong tình hình hiện nay
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, các cơ quan, tổ chức và cá
nhân quan tâm.
7. Kết cấu của luận án
Gồm phần mở đầu, 4 chương với 8 tiết, kết luận, danh mục công trình nghiên
cứu đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Trí thức và công tác vận động trí thức có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự
phát triển của đất nước. Chính vì vậy, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về đội ngũ trí thức và công tác vận động trí thức với nhiều khía cạnh,
quy mô khác nhau, trong đó có một số công trình khoa học đã đề cập đến các nội
dung mà luận án cần nghiên cứu nghiên cứu tham khảo và kế thừa.
1.1.1.1. Sách
- Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, (1995) do Phạm Tất Dong (chủ
biên) [22]: Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí
thức Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm hiện
đại về “trí thức”, trên cơ sở đó nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử của thế kỷ XX. Từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu… đến
tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị
nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay.
- Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, do Phạm Tất Dong (chủ biên) [24]: Trên cơ sở nghiên cứu khái quát
tình hình CNH, HĐH đất nước và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ; tác giả
đã khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trong CNH, HĐH, trong phát triển lực
lượng sản xuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo,
quản lý và điều hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với thái độ tôn trọng trí thức,
tác giả khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, “sản phẩm lao động của trí thức là
một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bị chiếm đoạt mà không ai biết,
song nó cũng có thể được lưu thông và trả giá xứng đáng như bao thứ hàng quý
hiếm khác” [24, tr.330]. Đây chính là khởi nguồn cho sự đổi mới tư duy khi xem
6
tiền lương và các loại phụ cấp của trí thức như những chính sách đầu tư có lợi nhất
để mua lại “chất xám” - một loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
- Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước (1995) của
Đỗ Mười [117]. Tác phẩm tập hợp những bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư
Đỗ Mười về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước do Nguyễn Quốc Bảo, Đoàn Thị
Lịch (đồng chủ biên) [7]: Tác phẩm đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt
Nam trong công cuộc đổi mới, phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt
Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
- Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo tư tưởng Hồ Chí Minh do Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (đồng chủ
biên), [8]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc
độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước
ta trong công tác xây dựng trí thức; đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế
của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có sở đó, đi sâu phân tích, đề xuất
những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta thời kỳ 2011- 2020 đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn [138]. Tác giả
đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói chung đối với tiến bộ xã hội;
làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử và dự báo xu
hướng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những phương
hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách KT - XH đối với đội ngũ trí thức
Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, của Nguyễn Đắc
Hưng [67]. Trong tác phẩm này, tác giả đã làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai
trò của trí thức; những phương hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất
7
rộng của khái niệm trí thức, tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có
trình độ học vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có
tính sáng tạo, có những cống hiến nhất định, hữu ích cho xã hội và phải được xã hội
kiểm định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn. Đây là sự đổi mới tư duy về trí
thức, từ chỗ chỉ coi trọng bằng cấp đến chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động
thực tế thông qua sự đánh giá khách quan của xã hội.
- Cộng đồng và đội ngũ trí thức người Việt Nam ở một số nước Đông Âu
những năm đầu thế kỷ XXI, do Nguyễn An Hà chủ biên [58]. Cuốn sách gồm ba
phần đã trình bày khái quát thực trạng, những nhân tố tác động và quan điểm chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đối với cộng đồng người Việt và đội ngũ trí thức
người Việt ở một số nước Đông Âu những năm đầu thế kỷ XXI.
- Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, của Bùi Thị Ngọc
Lan [84]. Trong công trình này, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một cách khá công
phu về vị trí, vai trò và thực trạng nguồn lực trí tuệ của đất nước, tác giả đã tập
trung xây dựng hệ thống các giải pháp thiết thực, cấp bách nhằm phát huy có hiệu
quả nguồn lực này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
1.1.1.2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, Luận án
phó tiến sĩ Triết học của Phan Thanh Khôi [81]. Luận án tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức, từ đó đề ra
phương hướng và giải pháp để phát huy tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ trí
thức trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đất
nước nhiều vấn đề liên quan đến động lực của trí thức trong lao động sáng tạo cũng
có những biến đổi.
- Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Xuân Phương [124]. Luận
án đã phân tích thực trạng và vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức thủ đô Hà Nội
từ đó đưa ra được những nhiệm vụ và giải pháp để phát huy tiềm năng trí tuệ của
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
8
- Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007, Luận án tiến sĩ Lịch sử của Lương Quang
Hiển [63]. Luận án đã đánh giá khái quát công tác xây dựng đội ngũ trí thức của
Đảng bộ thành phố Hà Nội trong 10 năm 1997 - 2007, từ đó xác định phương
hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Thủ đô trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.
- Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới, Luận
án tiến sĩ Triết học của Trịnh Quang Cảnh [9]. Luận án đã khái quát được thực trạng
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số (chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc), chỉ ra được
những hạn chế của trí thức và công tác xây dựng trí thức người dân tộc thiểu số của
Đảng, từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số trong giai đoạn đổi mới, xây dựng đất nước.
- Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Giáng Hương [69]. Luận án đã làm rõ sự
cần thiết và những điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan cơ bản tác động đến việc
phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực
trạng nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học của Lương Công Lý [95]. Luận án đã
làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng vai trò của giáo dục - đào tạo với
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đề xuất một số phương hướng và
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ 1991 đến
2005¸ Luận án tiến sĩ Lịch sử của Nguyễn Thắng Lợi [93]. Luận án đã đánh giá quá
trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay.
Dưới góc nhìn của lịch sử, tác giả đã phân tích rõ những thành công cùng như
những khuyết điểm, hạn chế của Đảng trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức,
9
một lực lượng quan trong trong liên minh công - nông - trí. Trên cơ sở phân tích
nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm, tác giả đã đưa ra những giải pháp
để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với trí thức nhằm phát huy cao nhất tiềm
năng trí tuệ của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Xây dựng đội ngũ tri thức tại Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học của Trương Văn
Tuấn [140]. Luận án phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò của trí thức
đối với sự phát triển xã hội; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH;
Tính tất yếu của việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở Thành phố Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Những thành tựu, hạn chế và
những yếu tố tác động đến trí thức và công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức; Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức
Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH, HĐH. Luận án xác định mục tiêu,
phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
- Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930
đến năm 1945, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của Đặng Thị
Minh Phượng [125]. Luận án đã đề cập đến quá trình chuyển biến, phát triển nhận
thức trong tư duy về vận động trí thức và một số kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn và cũng là yếu tố tạo nên sự thành công của công tác vận động trí thức của
Đảng từ năm 1930 đến năm 1945. Luận án khẳng định: Đường lối cứu nước đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của công tác vận động trí thức và
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức, Luận án tiến sĩ Triết học
của Nguyễn Công Trí [135]. Từ cách tiếp cận tổng hợp, luận án nêu ra những đặc
trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện
phát triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và
thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Giá trị quan trọng
10
nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin
và ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao với
các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội.
- Phát triển đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa , Luận văn thạc sĩ Triết học của Trần Văn Thành [129]. Luận văn
góp phần làm rõ một số quan điểm của Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam về trí thức. Luận văn đã cơ bản xây dựng được khái niệm về đội ngũ
trí thức; Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi để xây dựng và phát triển
đội ngũ trí thức Hà Tĩnh hiện nay; Luận văn góp phần làm luận cứ khoa học cho
việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh và làm tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức và
sự vận dụng trong thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Thuận [133]. Luận
văn đã làm rõ cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng,
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức: Những giá trị tư tưởng, truyền thống dân tộc;
tinh hoa văn hóa nhân loại; kinh nghiệm cách mạng thực tiễn Việt Nam và thế giới
mà Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển trong xây dựng tư tưởng của mình; Luận văn
cũng đưa ra một số kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước, bản thân đội ngũ trí thức
nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức trong thời kì đổi mới.
Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đây đã làm rõ cơ sở lý luận, tổng kết
thực tiễn và đề xuất một số kiến nghị giải pháp về xây dựng đội ngũ trí thức ở nhiều
góc độ khác nhau.
1.1.1.3. Đề tài khoa học
- Đề cương báo cáo tình hình đội ngũ trí thức và công tác trí thức của Đảng
của Nguyễn Đình Tứ [142] đã đánh giá một cách tổng quát tình hình đội ngũ trí
thức Việt Nam sau 10 năm đổi mới và trình bày những quan điểm của Đảng ta về trí
thức và những giải pháp để xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai
đoạn 2011 -2020”, Mã số KX.04/06-10, do Đàm Đức Vượng làm Chủ nhiệm [146].
11
Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí
thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
trong đó, có tham khảo kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ trí thức ở một số
nước phát triển; Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam và chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức qua hơn 20 năm đổi mới và hiện
nay; Dự báo xu hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam đến năm 2020. Đề xuất
mục tiêu, quan điểm, phương hướng, giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức
giai đoạn 2011-2020; Kiến nghị những nội dung cụ thể về xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam đến năm 2020, phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng chiến lược phát triển
KT - XH Việt Nam giai đoạn 2011-2020; chiến lược phát triển và trọng dụng nhân
tài quốc gia Việt Nam; trình Trung ương xem xét để bổ sung, phát triển Cương lĩnh
năm 1991 và dự thảo các văn kiện Đại hội XI của Đảng.
- Đề tài cấp bộ “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức
nước ta hiện nay” do Ngô Huy Tiếp làm Chủ nhiệm đề tài [134]. Nhóm tác giả làm
rõ những vấn đề lý luận về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng; khái quát
được về thực trạng, mục tiêu, phương hướng và giải pháp đổi mới đối với đội ngũ
trí thức Việt Nam, từ đó làm rõ được một số vấn đề về đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong điều kiện
mới”, mã số KX. 04-02/11/15 thuộc chương trình khoa học xã hội và công nghệ
trọng điểm cấp Nhà nước “Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2011-
2015” do PGS, TS Trần Khắc Việt làm chủ nhiệm [144]. Đề tài đã phân tích lý luận
và tổng kết thực tiễn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong gần 30 năm thực hiện đường
lối đổi mới. Đề tài đã khẳng định những thành quả đạt được, chỉ ra những hạn chế,
thiếu sót trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở đó, đề tài đã đề xuất hệ
thống quan điểm, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong điều kiện mới.
12
1.1.1.4. Các bài viết đăng tạp chí
Trí thức là một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều đối tượng,
nhiều lĩnh vực, vì thế có khá nhiều bài viết , đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này.
Trong những năm gần đây ở Việt Nam đã có một số bài viết và đề tài nghiên cứu,
tiêu biểu là:
- Cơ cấu xã hội của giới trí thức Việt Nam thời xưa; Cơ cấu xã hội và sứ
mệnh lịch sử của người trí thức Việt Nam hiện nay của Vũ Khiêu [79,80]. Trong hai
bài viết này đã đề cập đến vai trò, vị trí của trí thức dưới chế độ phong kiến Việt
Nam và vai trò, vị trí của người trí thức hiện nay, từ đó giúp người đọc hiểu thêm về
quá trình hình thành phát triển và sứ mệnh lịch sử của đội ngũ trí thức Việt Nam
xưa và nay.
- Quá trình vận động và biến đổi cơ cấu xã hội tầng lớp trí thức Việt Nam
của Nguyễn Duy Quý [126]. Bài viết đã đề cập đến quá trình vận động và biến đổi
cơ cấu của tầng lớp trí thức dưới góc nhìn của xã hội học, từ đó tác giả đưa ra
những dự báo, khuyến nghị về công tác vận động trí thức
- Đảng,nhà nước và nhân dân tin tưởng, đặt kỳ vọng vào những đóng góp
tích cực,to lớn,hiệu quả của đội ngũ trí thức của Trương Tấn Sang [127]. Bài viết
tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng đối với trí thức, mong muốn trí thức phát
huy hơn nữa tinh thần yêu nước, thi đua lao động sáng tạo, góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát
huy tài năng trí tuệ (1995) và nhận thức về vấn đề trí thức [2,3] của Nguyễn Đức
Bách. Bài viết đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về trí thức, sự cần thiết phải đổi
mới tư duy, tạo điều kiện để trí thức phát huy vai trò của mình trong quá trình CNH,
HĐH, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức.
- Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Nguyễn
Văn Khánh [75]. Dưới góc độ sử học, tác giả đã phân tích những cống hiến đóng góp
to lớn của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Phùng Hữu Phú [123]. Trong bài viết tác giả đã đưa ra khái niệm chung về trí
13
thức, đánh giá tình hình đội ngũ trí thức nước ta và công tác xây dựng đội ngũ trí thức
của Đảng và Nhà nước ta. xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải
pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới của Trường Lưu [94]. Trong bài viết tác giả
đã đề cập đến vai trò vị trí của trí thức trong lịch sử nhân loại; Trí thức Việt Nam và sứ
mệnh của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức nước ta hiện nay và đề ra
một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam đáp ứng đòi hỏi
cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Phạm Tất Dong, Tác động của KTTT và sự phát triển đội ngũ trí thức Việt
Nam [25]. Dưới góc độ của một người nhiều năm làm công tác khoa giáo tác giả đã
thể hiện một tầm nhìn sâu sắc về những tác động, những thuận lợi, thời cơ và thách
thức của kinh tế trí thức, từ đó chỉ ra sự cấp thiết cần phải xây dựng và phát huy vai
trò của trí thức trong thời kỳ hội nhập quốc tế và KTTT.
- Hoàng Tụy, Những bài học về chính sách với trí thức [141]. Tác giả đã
tổng kết, khái quát hóa những bài học, những khuyết điểm, hạn chế trong việc sử
dụng nhân tài, đãi ngộ đối với trí thức, nhất là trí thức bậc cao trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.
Ngoài các bài viết về công tác vận động trí thức, còn có rất nhiều bài viết đề
cập đến vấn đề đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị nói chung và đối với Nhà nước, Quốc hội, MTTQ và các đoàn thể…
trong tiến trình đổi mới, CNH, HĐH đất nước, tiêu biểu là:
- Công tác vận động nhân dân của Đảng qua gần 30 năm đổi mới: Những
kết quả chủ yếu, bài học kinh nghiệm và vấn đề đặt ra của Hà Thị Khiết [77]. Tác
giả đã đánh giá kết quả công tác vận động nhân dân của Đảng; rút ra những kinh
nghiệm về công tác vận động nhân dân và những vấn đề đang đặt ra với công tác
vận động nhân dân của Đảng.
- Tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới của Hà Thị Khiết [78]. Với tư cách là Trưởng Ban Dân
14
vận của Đảng, tác giả khẳng định: Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế là vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước ta trong tình hình hiện nay. Thực chất của
công tác dân vận trong thời kỳ mới là xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, thực hiện
thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
- Lê Hữu Nghĩa, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị ở nước ta [120]. Trong bài viết tác giả đã khẳng định để nâng cao hiệu quả
lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào đổi mới nội dung lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào
đổi mới phương thức lãnh đạo.Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của phương thức lãnh đạo và
yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống
chính trị về hệ thống những hình thức, biện pháp, cách thức lãnh đạo và đã mang lại
những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng
thời phát huy tốt hơn vai trò của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Tác giả
cũng chỉ rõ những thành tựu và hạn chế trong đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, từ đó đề ra những giải
pháp để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Lưu Văn An, Đổi mới nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng trong
điều kiện hiện nay [1]. Theo tác giả, trong mỗi giai đoạn cách mạng, năng lực cầm
quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là vấn đề luôn mới bởi những
điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi. Nâng cao năng lực cầm
quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng
củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của CNXH.
- Nhị Lê, Đổi mới và tiếp tục giải quyết những vấn đề đặt ra, không ngừng
hoàn thiện phương thức lãnh đạo trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay [87].
Tác giả nhận định, thực tiễn phát triển phong phú và phức tạp về quy mô, tốc độ và
chiều sâu sau 70 năm cầm quyền, nhất là gần 30 năm của công cuộc đổi mới cấp
15
bách đòi hỏi phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Một trong những nhiệm vụ
bảo đảm cho Đảng hoàn thành trọng trách đó là phải tiếp tục đổi mới, từng bước
hoàn thiện phương thức lãnh đạo phù hợp với sự vận động của thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện Đảng cầm quyền. Để thực hiện
thành công những quyết sách mới, nhiều nhiệm vụ rất nặng nề, Đảng phải Đổi mới
và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của Nhà
nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, và người đứng đầu; khắc phục khuynh
hướng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chính trị, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Trần Ngọc Đường, Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Quốc hội ở nước ta hiện nay [57]. Trong bài viết tác giả khẳng định: Tổ chức và
hoạt động của Quốc hội có những đặc trưng khác so với các cơ quan trong bộ máy
Nhà nước nên nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội có
những nét đặc thù riêng biệt. Không thể rập khuôn, máy móc sử dụng một phương
thức lãnh đạo giống nhau cho các cơ quan Nhà nước khác nhau. Đảng lãnh đạo, chứ
Đảng không chỉ đạo công việc cụ thể của Quốc hội. Đảng lãnh đạo nhưng phải thực
sự tôn trọng Quốc hội với tư cách là cơ quan dân cử, cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất. Phải thừa nhận về phương diện chính trị và pháp lý rằng, Quốc hội chính
là cơ quan được nhân dân chính thức giao quyền lực Nhà nước và nhân dân thực
hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội. Đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội phải bảo đảm cho nền tảng chính trị - pháp lý
của quốc gia phát triển bền vững, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
Quốc hội và nhân dân.
- Nguyễn Thế Trung, Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội [136]. Theo tác
giả: Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó “máu thịt” giữa Đảng - Dân. Ở thời kỳ nào,
công tác vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghĩa chiến
lược. Quần chúng được thu hút, tập hợp trong các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ
16
chức chính trị - xã hội vừa là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, vừa là chỗ dựa
của chính quyền. Vì thế, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và
các tổ chức chính trị - xã hội trong tình hình mới là một đòi hỏi cấp thiết.
- Trương Tấn Sang, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH [127]. Theo đồng chí Trương Tấn Sang
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH không chỉ là yêu cầu khách quan của tình hình thanh niên và yêu cầu
phát triển của đất nước, mà còn là yêu cầu chủ quan tự thân của Đảng với vai trò là
lực lượng lãnh đạo xã hội; góp phần quan trọng bảo đảm phát huy tốt nhất mọi
nguồn lực và trí tuệ cho việc bồi dưỡng, đào tạo, hình thành thế hệ thanh niên cách
mạng “vừa hồng, vừa chuyên” của Đảng, phục vụ tốt nhất sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
1.1.2.1. Sách
- Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước,
do hai tác giả người Trung Quốc Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diện (chủ biên) [72].
Đây là cuốn sách có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam trong công cuộc đổi mới,
CNH, HĐH đất nước hiện nay. Nội dung cuốn sách là một công trình phân tích một
cách có hệ thống tư tưởng Đặng Tiểu Bình về trí thức, nhân tài, về tôn trọng và phát
triển nhân tài, về giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
quá trình cải cách, mở cửa. Đặng Tiểu Bình là người đã kết hợp những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn Trung Quốc, sáng lập ra lý luận xây
dựng mô hình CNXH đặc sắc Trung Quốc.
- Chiến lược quốc gia nhân tài biến đổi thế giới của Vương Huy Diệu [20].
Tác giả đã trình bày chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Trung
Quốc, phân tích những vấn đề cơ bản về nhân tài, đánh giá tình hình nhân tài Trung
Quốc hiện nay; đề xuất những chủ trương, nội dung, chính sách, đặc biệt là giáo dục
và đào tạo (GD&ĐT) phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong
thời kỳ phát triển mới.
17
- Trí thức, lịch sử và cách mạng - Bút ký về cuộc sống của nước Nga hiện
nay của Vladimir Alexanderovits Mau,do Ngân Xuyên dịch [143]. Trong tác phẩm
này tác giả khẳng định: Giới trí thức đã đưa lại cho đất nước một khối lượng cơ bản
các nhà lý thuyết và thủ lĩnh của cách mạng, chính xác hơn, của các cuộc cách
mạng; Các cuộc tranh luận về trí thức là gì, về sự khác biệt giữa giới có học và giới
trí thức, rất là lý thú, nhưng cũng rất là bất tận. Chúng ta chỉ cần hiểu “trí thức” theo
nghĩa Nga của từ này là đủ: đó là người xuất thân quý tộc có học, tách khỏi giai
tầng hay giai cấp của mình, không có các gốc rễ xã hội, thế nhưng lại có khả năng
và thị hiếu suy luận dài dòng về ý nghĩa cuộc sống và vai trò của mình trong lịch sử
toàn thế giới; Có ba dấu hiệu của giới trí thức về mặt nguyên tắc phân biệt nó với
các nhóm xã hội khác: thái độ đối với sự giàu có, với lịch sử và với nhà nước.
- Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh tầng lớp trí thức của N. A. Berdaev [118].
Một trong những vấn đề tác giả đặt ra là những người trí thức, những người sáng
tạo văn hóa tinh thần hiện nay cần phải thực hiện các đơn đặt hàng của đời sống,
phải phụng sự các quyền lợi của xã hội.
- Chính trị và kinh tế Nhật Bản của Okuhina Yasuhiro [122] đã nêu rõ những
vấn đề cơ bản về nhân tài; chính sách trong công tác cán bộ, phát triển nhân tài;
phân tích những kinh nghiệm trong việc đánh giá và luân chuyển cán bộ, phát huy
người tài của Nhật Bản trên cơ sở đặc điểm xã hội Nhật Bản; nhấn mạnh việc cố
gắng bảo tồn và phát huy yếu tố truyền thống dân tộc; thực hiện chế độ đào tạo,
quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền, chú trọng xây dựng các
phẩm chất, đặc biệt là phẩm chất trung thành của cán bộ; bảo đảm chế độ chính
sách và tiền lương cho cán bộ yên tâm cống hiến.
- Tuyển 40 năm chính luận của Lý Quang Diệu [20] đã thể hiện rõ những tư
tưởng của Lý Quang Diệu về trọng dụng nhân tài đất nước, về tầm quan trọng của
nhân tài, vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển nguồn nhân lực, đào tạo
nhân tài; nhấn mạnh “chế độ Singapore thực hành là chế độ trọng dụng nhân tài”,
coi việc biết đào tạo và dùng người tài là bí quyết thành công của Singapore trong
phát triển nhân lực bậc cao, phát triển nhân tài của Singapore
18
1.1.2.2. Luận án
- Thực trạng và xu hướng biến đổi của nhóm xã hội trí thức trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Khoa
học Chính trị của In pon nhôt xa vông [73]. Luận án đã nghiên cứu thực trạng đội
ngũ trí thức nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, chỉ ra được những mặt mạnh.
Mặt tồn tại hạn chế và những đóng góp của nhóm trí thức trong quá trình phát triển
của đất nước Lào, đồng thời đưa ra những dự báo về xu hướng biến đổi và vai trò
của đội ngũ trí thức trong phát triển kinh tế xã hội.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị của Khăm Phăn
Vông Pha Chăn [76]. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị ở nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào, luận án xác định quan điểm, phương hướng và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống
chính trị đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào hiện nay.
1.1.2.3. Bài viết về xây dựng đội ngũ trí thức, đào tạo thu hút nhân tài
Ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển cao trên thế giới hiện nay như: Anh,
Pháp, Đức, Hoa Kì, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore... đều khẳng định
vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức, nguồn lực trí tuệ đối với sự phát triển KT -
XH và tiến bộ xã hội. Vì thế, khi xây dựng chiến lược phát triển khoa học - công
nghệ, giáo dục - đào tạo, các quốc gia này đều gắn với chiến lược xây dựng, phát
triển nguồn nhân lực tài năng. Nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục - đào tạo là
động lực, là chìa khóa cho sự phát triển KT - XH , các quốc gia nói trên đều rất
quan tâm việc đầu tư trọng điểm vào chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo gắn
với chiến lược trí thức, nhân tài. Sau đây là một số tài liệu nghiên cứu về xây dựng
đội ngũ trí thức, phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ (KH&CN) qua các
chuyến đi nghiên cứu thực tế ở nước ngoài.
19
- “Về tình hình đội ngũ trí thức Trung Quốc và hoạt động của CAST” của
Hiệp Hội Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc tại phiên làm việc với Đoàn Cán bộ
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, sáng ngày 01-11-2011 [12]. Báo
cáo đã khái quát công tác trí thức của Đảng Cộng sản Trung quốc và quá trình xây
dựng phát triển của CAST. Báo cáo cho biết Đảng và Chính phủ Trung Quốc
thường xuyên coi trọng công tác đội ngũ trí thức, tiến hành nghiên cứu phân tích rất
sâu sắc tình hình biến động qua từng thời kỳ đối với đội ngũ trí thức, phát hiện và
giải quyết những vấn đề như nạn chảy máu chất xám, trí thức quay lưng với chính
trị... Trong công tác trí thức, Trung Quốc chia làm hai loại đối tượng là trí thức
trong Đảng và trí thức ngoài Đảng. Về cơ cấu bộ máy của Đảng, có một Ban của
Đảng là Ban công tác Mặt trận thống nhất (gọi tắt Ban Thống chiến), tương đương
Ban Dân vận của ta làm công tác trí thức, trong đó chủ yếu là đối với trí thức ngoài
Đảng. Công tác trí thức luôn được khẳng định là công tác chung của toàn Đảng,
nhiều bộ, ban, ngành của Đảng và Nhà nước có chức trách trong công tác này. Báo
cáo cho biết Hiệp hội Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc có 198 Hội ngành toàn
quốc, mỗi tỉnh có một hiệp hội khoa học và kỹ thuật (quan hệ giữa Liên hiệp hội
(LHH) trung ương và LHH địa phương chỉ là quan hệ hướng dẫn, định hướng chứ
không phải quan hệ lãnh đạo, độc lập hoàn toàn về kinh phí). Cơ quan trung ương
CAST có 160 người, 14 ban/ phòng (Ban Hợp tác Quốc tế có 18 người, trong đó có
02 người tham gia đi sứ nước ngoài). Khi cao nhất có đến 10.000 người làm việc
trong tổ chức CAST. Hàng năm, kinh phí bình quân, chính phủ Trung Quốc cấp cho
CAST 150 triệu USD.
- “Về chính sách đào tạo và sử dụng trí thức ở Trung Quốc” của Dương Tú
Cầm [10]. Theo báo cáo đến ngày 28-4-2011, tổng số dân của nước này hiện vào
khoảng 1,3 tỉ người, trong đó nguồn nhân lực dành cho ngành khoa học công nghệ
chiếm khoảng 36 triệu người và trở thành đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ với
quy mô hùng hậu đứng đầu thế giới. Trung Quốc chi ra hàng tỷ USD cho nghiên
cứu khoa học, hầu như mỗi bộ ngành của nước này đều có hàng loạt chương trình
nghiên cứu với mong muốn có được thành tựu vượt bậc trong tất cả các lĩnh vực, từ
tên lửa đạn đạo đến y khoa.
20
1.2. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LUẬN ÁN CẦN THAM
KHẢO VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và quốc tế về trí thức với
nhiều công trình nghiên cứu công phu, cho thấy tính chất đặc biệt quan trọng của vấn
đề này đối với tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Giá trị khoa học của khối lượng
lớn những tài liệu, công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về trí thức và vận động
trí thức đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả luận án nghiên cứu về vấn đề đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức ở nước ta hiện nay. Tổng quan
các công trình nghiên cứu đó, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu của các tác
giả trong nước và nước ngoài đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về trí
thức và công tác trí thức của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam, cụ thể là:
Một là, các công trình khoa học kể trên đã đề cập đến những vấn đề về lý
luận, vạch ra một hệ thống các phương pháp tiếp cận về về trí thức và công tác vận
động trí thức. Đáng chú ý là những quan điểm xem trí thức như một lực lượng xã
hội, một nhóm xã hội - nghề nghiệp được nhận diện và phân định bởi phương thức,
tính chất lao động trí óc, sáng tạo và phức tạp. Trong những năm gần đây, các công
trình nghiên cứu khi quan niệm về trí thức thường chú trọng nhấn mạnh tiêu chí
trách nhiệm và hiệu quả đóng góp cho sự phát triển xã hội từ từ đặc thù lao động trí
tuệ, lao động sáng tạo và tư duy phản biện xã hội của trí thức.
Hai là, các công trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu về vai trò, đặc điểm,
tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong xây dựng và phát triển đất nước nói chung
và trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước.
Ba là, một số công trình khoa học đã nghiên cứu thực trạng đội ngũ trí thức
và vấn đề xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, đặc biệt là các ngành khoa
học, các chuyên gia đầu ngành trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, một số công trình khoa học cũng đã tập trung nghiên cứu công tác vận
động trí thức của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong khi nghiên cứu
về trí thức và công tác vận động trí thức, các công trình khoa học nêu trên đều khẳng
định vai trò quan trọng của trí thức và công tác vận động trí thức; khẳng định việc xây
dựng đội ngũ trí thức là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và hệ thống chính trị.
21
Năm là, có một số công trình đề cập chừng mực nhất định về nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức và công tác vận động trí thức. Các
công trình này bước đầu đề cập đến nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của
Đảng, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ trí thức và đổi mới
công tác vận động trí thức. Đây chính là sự bổ sung vào cách tiếp cận mới về trí
thức, nó được thai nghén và dần trở thành hướng nghiên cứu trọng tâm trong quá
trình đổi mới tư duy về trí thức và công tác vận động trí thức, nhất là trong bối cảnh
phát triển kinh tế tri thức, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan
đến luận án đều có giá trị tham khảo về phương pháp tiếp cận, cung cấp tư liệu, giải
quyết vấn đề nghiên cứu. Những đề xuất các nhà khoa học về đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng trong xây dựng đội ngũ trí thức và đổi mới công tác vận động trí thức đều
có giá trị tham khảo trong quá trình triển khai thực hiện luận án.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án có mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu và cách thức tiếp cận khác nhau nên những công trình này nghiên cứu,
giải quyết ở góc độ, hay khía cạnh nhất định về lãnh đạo, tập hợp trí thức.. Những
nghiên cứu lý luận về trí thức và công tác vận động trí thức là khá phong phú nhưng
nghiên cứu về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
chưa được đề cập nhiều. Một số công trình đã giải quyết được một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về trí thức, đặc điểm của trí thức, thực trạng đội ngũ trí thức và công tác
vận động trí thức. Tuy nhiên, các công trình đã công bố đã lâu, nhiều cách tiếp cận
và tư duy chưa cập nhật, các số liệu tiêu chí đánh giá đã cũ, cần được bổ sung. Chưa
có công trình nào trực tiếp đi sâu luận giải sâu về vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua việc khai thác, kế thừa kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa
học trong và ngoài nước có liên quan, với phương pháp tiếp cận liên ngành triết học
- chính trị - xã hội - xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, luận án bổ sung nhận
thức, quan niệm có tính hệ thống về trí thức và công tác vận động trí thức, xây dựng
luận cứ khoa học đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
22
trong giai đoạn hiện nay. Luận án làm rõ thực trạng công tác vận động trí thức và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn
hiện nay để làm cơ sở thực tiễn đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức trong giai đoạn hiện nay, nghiên cứu những cơ hội và thách thức, yêu
cầu và đề xuất những giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
23
Chương 2
ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. TRÍ THỨC VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC Ở NƯỚC TA
2.1.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của trí thức
2.1.1.1. Khái niệm trí thức
Mỗi xã hội có sự nhìn nhận về trí thức khác nhau, cho đến nay trong giới
khoa học đang còn nhiều quan niệm khác nhau về trí thức. Theo thống kê, hiện nay
trên thế giới có trên 60 định nghĩa “trí thức”. Tùy góc độ tiếp cận mỗi người có sự
luận giải, quan niệm khác nhau về trí thức, luận án tập trung phân tích một số quan
niệm chủ yếu sau đây:
Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Intelligentia” nghĩa là sự
hiểu biết, nhận thức, kiến thức. Từ chữ “Intelligens” nghĩa là thông minh, trí tuệ, có
nhận thức hiểu biết, suy nghĩ. Theo một số nhà nghiên cứu, thuật ngữ trí thức được
dùng nhiều vào những năm nửa sau thế kỷ XIX để biểu thị một lực lượng xã hội
gồm những người có học thức.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra sự nhìn nhận về người trí thức và giới trí
thức: Giới trí thức tham gia các hoạt động xã hội với tư cách là “thuộc tính chung
của những sinh vật có trí tuệ”. Theo C.Mác, người trí thức là người sáng tạo tinh
thần, sản xuất tinh thần, là bộ phận tinh hoa của xã hội. Trí thức là một tầng lớp xã
hội đặc biệt chuyên lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn, đại diện cho trí tuệ
đương thời mà xã hội đạt được. Họ là những người sáng tạo, phổ biến và vận dụng
tri thức vào đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh sự phát triển văn hóa và tiến bộ xã hội.
V.I. Lênin, khi bàn về trí thức đã khẳng định: “Trí thức bao hàm không những chỉ
các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại
biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, sau khi đánh giá cao vai trò của
24
những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến, định nghĩa: “Trí
thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh
đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và
tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó không có trí thức
nào khác...” [104, tr. 235].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm trí thức thì phải có tri thức. Tri thức là sự
hiểu biết, có hiểu biết và điều quan trọng là phải đem tri thức đó phục vụ cho nhân
dân, cho xã hội, qua đó góp phần cải tạo thực tiễn và nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của xã hội. Nhìn chung, trong nhiều định nghĩa về trí thức ta thấy có hai
dấu hiệu cơ bản:
- Có trình độ học vấn cao.
- Lao động trí óc có chuyên môn cao.
Ngoài tiêu chuẩn về trình độ học vấn cao, người trí thức cần phải có tinh thần
sáng tạo và tiêu chuẩn đạo đức.
Những người trí thức ban đầu của xã hội, dân tộc có thể hình thành một cách
tự phát, không qua trường lớp. Nhưng để có đội ngũ trí thức thật sự thì nhất thiết
phải có hệ thống đào tạo chính quy với những bằng cấp, học vấn khác nhau đồng
thời cũng không phủ nhận các hình thức đào tạo khác kể cả tự học. Ngày nay trên
thế giới đã có sự thống nhất tương đối về nội dung đào tạo và bằng cấp. Sự xác định
trình độ tối thiểu của trí thức chưa thật giống nhau, nhưng ở nước ta ít nhất cũng
phải tốt nghiệp bậc cao đẳng trở lên. Với trình độ tri thức ban đầu như thế, người trí
thức mới có khả năng tiếp cận với lao động sáng tạo.
Bằng cấp là hình thức thể hiện học vấn, qua các chức danh về học vị, học
hàm nhưng đó mới chỉ là dấu bên ngoài vì đôi khi bằng cấp không tương xứng với
trình độ học vấn. Cá biệt có những người có bằng cấp cao song vẫn không đóng vai
trò của trí thức, trong phân công lao động xã hội. Họ không đáp ứng được yêu cầu
của lao động sáng tạo, hoặc họ từ bỏ lao động sáng tạo và đi vào kiểu lao động giản
đơn, lao động chân tay tay hoặc buôn bán nhỏ, thậm chí, không làm gì, làm những
nghề không lương thiện. Những người này, theo như Chủ tịch Hồ Chí Minh, họ
cũng chỉ được gọi là “người có học” “người đỗ đạt” người làm việc bằng trí óc mà
thôi chứ chưa phải là trí thức đầy đủ.
25
Bên cạnh đó, có những người bằng cấp không cao nhưng do tư chất thông
minh, lại chịu học hỏi nên có vốn tri thức khá sâu sắc và có nhiều sáng tạo được ghi
nhận trong những lĩnh vực chuyên môn nhất định, có người không được đào tạo
nhiều qua trường lớp nhưng họ tự trang bị kiến thức qua tài liệu và kinh nghiệm
thực tế cuộc sống mà thực hiện được công việc sáng tạo khoa học thì họ vẫn xứng
đáng được gọi là trí thức. Trong thực tế, không ít người trong số đó trở thành những
nhà bác học lớn, những trí thức hàng đầu, những nhà phát minh, sáng chế. Những
nhà phát minh vĩ đại như Ê- đi -xơn, như Bin - Ghết (Hoa Kỳ), những nhà văn hóa
dân gian hay những nhà sáng chế “Hai lúa” ở Việt Nam là những điển hình tiêu
biểu. Do vậy, nhìn nhận và đánh giá trí thức không chỉ trên cơ sở bằng cấp, trên sự
phân công lao động xã hội thuần túy mà chủ yếu ở tính chất lao động của họ. Trí
thức là "người lao động sáng tạo khoa học". Chính kiểu lao động thực sự đó của trí
thức mà làm cho tầng lớp này khác với những bộ phận lao động khác trong xã hội,
nhất là đối với nội bộ nhóm lao động trí óc...
Nói cách khác, người trí thức chân chính phải có tài và có đức. Thực chất hai
nhân tố đức và tài gắn bó với nhau, một con người không có khả năng sáng tạo hoặc
thiếu đạo đức đều không phải là trí thức hoàn toàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn
về phẩm chất của con người đã đề cập đến “đức” và “tài” trong đó “đức là gốc còn
tài là quan trọng”. Đức và tài là những yếu tố không thể thiếu được trong đội ngũ trí
thức, đặc biệt là những trí thức làm công tác lãnh đạo quản lý. Có tài mà không có
đức thì không chỉ không đem lại lợi ích thích đáng cho xã hội mà còn có thể gây tai
họa cho xã hội, ngược lại nếu có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó thậm
chí làm hỏng việc.
Về phương diện chính trị, trí thức tự bản thân không có hệ tư tưởng độc lập
nhưng lại góp phần quan trọng trong việc tổng kết, hình thành nên hệ thống tư
tưởng, học thuyết lý luận cho các giai cấp. Trong một thể chế chính trị nhất định,
tính giai cấp của đội ngũ trí thức là do tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định.
Kế thừa và phát triển quan niệm của Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về trí thức, Nghị quyết số 27- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
“Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
26
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan niệm về trí thức Việt Nam như sau: “Trí
thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên
môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức,
tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”.
Quan niệm này thể hiện nhận thức sâu sắc của Đảng về trí thức phù hợp với
điều kiện phát triển của xã hội nói chung cũng như sự biến đổi của cơ cấu xã hội -
giai cấp trong tình hình mới ở Việt Nam nói riêng. Qua đó làm cơ sở để Đảng ta và
toàn xã hội thống nhất trong nhìn nhận một cách đúng đắn, khách quan vị trí, vai trò
của trí thức đối với sự phát triển đất nước.
2.1.1.2. Vai trò của trí thức
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều
đánh giá cao vai trò của trí thức. Theo C.Mác, người trí thức là người sáng tạo tinh
thần, sản xuất tinh thần. Họ là những người sáng tạo, phổ biến và vận dụng tri thức
vào đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh sự phát triển văn hóa và tiến bộ xã hội. Trong
bức thư gửi V.IDaxulich, Ph.Ănghen đã nói tới thái độ kiên quyết và lòng nhiệt tình
của những người trí thức dân tộc trong việc “chặt đứt xiềng xích đang giam cầm
họ”, tức là nền quân chủ. Ph. Ănghen khẳng định, “để điều hành bộ máy hành chính
và toàn bộ nền sản xuất xã hội, hoàn toàn không cần những lời nói suông, mà cần
những trí thức vững vàng”[96, tr.432].
Tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng đề cao vai trò
của trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Người nói: “Sự hợp tác giữa
đại biểu khoa học và công nhân - chỉ có một sự hợp tác như thế mới có thể thủ tiêu
được toàn bộ nạn nghèo khổ, bệnh tật và bẩn thỉu... trước sự liên minh của các đại biểu
khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững
được” [148, tr. 218]. Mặc dù trí thức không phải là giai cấp kinh tế độc lập và vì thế
không phải là lực lượng chính trị độc lập nhưng V.I.Lênin đánh giá cao vai trò của
trí thức. Khi bàn về vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình xây dựng CNXH
hiện thực, V.I.Lênin đã khẳng định: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am
hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể chuyển lên
CNXH được, vì CNXH đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng
27
để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản đã đạt
được” [148, tr. 217].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc
và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin về trí thức trong sự nghiệp cách
mạng của Việt Nam. Người đã sớm nhận thức chính xác vai trò, vị trí của trí thức trong
xã hội. Người nhận định, trí thức là một bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng
và là “vốn liếng quý báu của dân tộc. Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Những người trí thức tham gia
cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì
công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều” [4, tr. 235, 238].
Từ các quan điểm của C.Mác - Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, từ chức năng của trí thức trong sự phát triển xã hội nói chung, vai trò của đội
ngũ trí thức được thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là, trí thức là vốn quý của đất nước, của nhân dân và dân tộc, có vai trò
quyết định sức sáng tạo và trình độ phát triển của quốc gia.
Trí thức là tầng lớp xã hội đặc biệt, thể hiện trình độ trí tuệ của mỗi quốc gia.
Trí thức là một nguồn lực phát triển của quốc gia. Từ xa xưa cha ông ta đã từng
nâng niu, trân trọng và đánh giá cao vai trò của trí thức. Ngày nay, trí thức hoạt
động trong hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội.
Hai là, đội ngũ trí thức là lực lượng trực tiếp nghiên cứu phát triển lý luận,
tổng kết thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối,
chính sách, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ.
Đội ngũ trí thức là một tầng lớp xã hội có tính đặc thù, đặc biệt là những cá
nhân tiêu biểu, xuất sắc, họ có mặt trong các giai cấp và trở thành đại biểu cho ý chí
và lợi ích của các giai cấp cơ bản trong xã hội mà trước hết là giai cấp nắm quyền
lãnh đạo. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra đối với đội ngũ trí thức trong tất
cả các ngành khoa học khác nhau: khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học
kỹ thuật. Đội ngũ trí thức tham gia đắc lực vào tổng kết thực tiễn, cung cấp những
luận cứ khoa học, phát triển lý luận của Đảng góp phần xây dựng làm sáng tỏ những
vấn đề về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đấu tranh chống những quan điểm lệch lạc
28
sai trái, những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng và chế độ.
Ba là, trí thức là chủ thể của cách mạng khoa học - kỹ thuật là động lực thúc
đẩy phát triển công nghệ hiện đại.
Không có trí thức, không có khoa học thì không thể xây dựng đất nước. Trí
thức sáng tạo ra công nghệ hiện đại. Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí tuệ, là
chủ thể đi đầu thực hiện những nhiệm vụ khoa học kỹ thuật. Họ có vai trò quan trọng
trong việc nghiên cứu, thiết kế triển khai tổ chức thực hiện sự lựa chọn và áp dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, gắn khoa học với sản xuất. Người trí
thức không chỉ có vai trò đào tạo xây dựng đội ngũ làm công tác khoa học mà còn là
người trực tiếp sử dụng và phát huy tiềm năng trí tuệ để giải quyết các vấn đề đặt ra
trong khoa học và thực tiễn. Bằng tài năng trí tuệ của mình, trí thức là người luôn
luôn tìm tòi sáng tạo ra cái mới, cái mà xã hội có nhu cầu. Trí thức có khả năng hợp
tác trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đảm nhiệm vai trò tư vấn, phản biện,
giám định các dự thảo về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các dự luật,
dự án kinh tế - xã hội, công nghệ ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới.
Bốn là, trí thức là lực lượng có vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định
trong sự nghiệp GD&ĐT, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Xét về quá trình đào tạo nguồn lực con người các thế hệ nối tiếp nhau, đội
ngũ trí thức tỏ rõ vai trò chủ lực trong việc giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho
xã hội với trình độ ngày càng cao. Trong KTTT hiện nay, vai trò đội ngũ trí thức
ở mọi quốc gia càng thể hiện rõ trong việc trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, toàn diện về đức, trí, thể, mỹ và trong vô vàn các lĩnh vực, các ngành
nghề mới, ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Thực tiễn đã chứng minh sự phát
triển nền kinh tế - xã hội hiện đại, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước cần phải có những con người hiện đại. Đội ngũ trí thức có vai trò và
trách nhiệm lớn lao trong việc đẩy mạnh đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra
lớp người có năng lực cao và phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng cho những nhu cầu
lao động hiện nay.
29
Năm là, trí thức là lực lượng trực tiếp tham gia giữ gìn và phát triển những giá trị
văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa giá trị văn hoá của
nhân loại nhằm làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân và đất nước.
Quá trình sản sinh, giữ gìn, phát huy, kế thừa các truyền thống giá trị văn hóa
của các dân tộc và của nhân loại, đội ngũ trí thức cũng là lực lượng xã hội có vai trò
nổi bật nhất. Mọi thành tựu, giá trị văn hóa, truyền thống và hiện đại của mỗi dân tộc,
của nhân loại đều gắn với những trí thức tiêu biểu, những danh nhân văn hóa. Trong
nền tảng văn hóa do nhân dân tạo ra, trí thức là những người vừa tham gia tạo dựng,
vừa có công khái quát giá trị (lý luận, khoa học, sách báo, di sản...) và hướng dẫn,
truyền bá, thực hiện bảo tồn, duy trì, phát triển... đối với xã hội về những giá trị di sản
văn hóa đó. Do đó, đội ngũ trí thức không chỉ thể hiện trong lĩnh vực sáng tạo ra của
cải vật chất, mà cả trong lĩnh vực sáng tạo những giá trị của đời sống tinh thần. Công
cuộc đổi mới đất nước đã hướng tất cả đội ngũ trí thức phát huy lao động sáng tạo
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ra sức khắc phục tình trạng đói nghèo về trí tuệ,
văn hóa, thông tin, mở mang tri thức, giao lưu văn hóa, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại góp phần làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng phong
phú và trong sáng. Người trí thức trên mặt trận văn hóa phải thực sự là các chiến sĩ
tiên phong chống những tàn dư văn hóa cũ, độc hại, hướng con người đến những giá
trị chân - thiện - mỹ, trực tiếp tham gia phát triển và phổ biến văn hóa. Giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới.
2.1.1.3. Đặc điểm của trí thức Việt Nam
Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, trí thức Việt Nam là lực lượng đại
diện cho trí tuệ của nhân dân và dân tộc, cho trình độ lao động phức tạp, lao động
sáng tạo và là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển, sự
phồn vinh của đất nước và dân tộc. Ngoài các đặc điểm của trí thức nói chung, trí
thức nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, trí thức Việt Nam là những người lao động trí óc có tính sáng tạo,
sản phẩm lao động của họ thường mang đậm dấu ấn cá nhân.
Lao động trí óc của trí thức thường mang tính sáng tạo với những sản phẩm
lao động là các giá trị tinh thần, đòi hỏi họ phải có sự chi phí hàm lượng trí tuệ lớn
30
trong quá trình lao động và đặc biệt là phải có sự sáng tạo, tức dùng tri thức đã có
để sáng tạo ra tri thức mới, các sản phẩm vật chất và tinh thần mới có giá trị đối với
xã hội. Hay nói cách khác, lao động của trí thức là sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo
cái mới, tiến bộ, đòi hỏi phải có tư duy ở mức độ cao, sự hao phí của năng lượng,
hoạt động của bộ não là chủ yếu. Đó có thể là các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, giải
pháp hữu ích giúp tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm mà hiệu
quả của nó có thể đo đếm, định lượng được; hoặc nó có thể là những luận điểm.
luận cứ, giải pháp để giúp Đảng, Nhà nước xây dựng đường lối, chủ trương, chính
sách đúng đắn. Trường hợp này, việc đánh giá hiệu quả của nó chỉ có thể bằng
phương pháp định tính mặc dù có những kết quả nghiên cứu khoa học xã hội - nhân
văn có ý nghĩa rất lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành. Những quan
điểm, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng ta là một ví dụ tiêu biểu. Mặt khác,
tính sáng tạo trong lao động của trí thức có thể gắn liền với kết quả trong thực tiễn,
ý tưởng sáng tạo gắn liền với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Chính nhờ đặc điểm
này mà trí thức đóng vai trò nhân tố quan trọng thúc đẩy khoa học - công nghệ, văn
hóa - nghệ thuật, kinh tế - xã hội phát triển.
Sản phẩm lao động của trí thức mang đậm dấu ấn cá nhân. Trong thực tế,
không phải không có sản phẩm trí tuệ là kết quả chung của một nhóm người, của
một tập thể các nhà khoa học, của một đơn vị nghiên cứu, giảng dạy. Thế nhưng, dù
là sản phẩm của một cá nhân hoặc là sản phẩm của nhiều người thì tính sáng tạo cá
nhân vẫn thường được thể hiện rõ, nhất là các công trình khoa học của cá nhân.
Hai là, trí thức Việt Nam đã tiếp nối và phát huy được truyền thống văn hiến
của dân tộc, luôn đồng hành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc,của Đảng và có
đóng góp đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc bị thực dân và phong kiến áp bức,
trí thức Việt Nam cũng chịu chung số phận với quần chúng nhân dân lao động. Trí
thức Việt Nam, thế hệ nối tiếp thế hệ, đã phát huy được truyền thống hiếu học của
dân tộc, Trí thức nói chung rất ham học, ham đọc. Nhờ đó mà người trí thức luôn
luôn tiếp cận được cái mới, do đó trình độ lý luận không ngừng được nâng cao. Phát
huy tinh thần cần cù, không ngại gian khó của dân tộc, nhiều trí thức đã từ bỏ vinh
31
hoa phú quý, từ bỏ chế độ đãi ngộ cao ở nước ngoài, trở về chia ngọt sẻ bùi, chấp
nhận gian khổ cùng nhân dân, phấn đấu cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, cho công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Đặc điểm này rất đáng trân trọng, nhưng nếu không có ý chí quyết tâm
cao để vượt khó, dễ nảy sinh tư tưởng chấp nhận, an phận thủ thường, thiếu ý chí
vươn lên trong cuộc sống.
Lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy quá trình hình thành và
phát triển của Đảng luôn có sự tham gia đắc lực của trí thức. Những trí thức như
Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong… Đó là thế hệ cán bộ đầu tiên của
Đảng, có công lớn trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,
góp phần làm nên sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Khi nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời còn muôn vàn khó khăn, theo lời
kêu gọi của Đảng, của Bác, nhiều trí thức được đào tạo dưới chế độ cũ và ở nước
ngoài, sẵn sàng rời bỏ môi trường làm việc thuận lợi sung sướng, rời bỏ vinh hoa
phú quý, gia nhập vào đoàn quân cách mạng, chấp nhận gian khổ, hy sinh cùng
với quân và dân lập nên bao chiến công anh hùng trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ.
Đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay chủ yếu xuất thân là con em nông dân,
công nhân, hoặc được hình thành trong quá trình trí thức hóa giai cấp công nhân
và nông dân, có mối quan hệ mật thiết với hai giai cấp này. Đây là tiền đề quan
trọng để trí thức tham gia và góp phần xây dựng liên minh công nhân, nông dân và
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. đồng thời gắn bó chặt chẽ với dân tộc. Đây là
một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với giới trí thức của nhiều
nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Nhìn chung, chỉ có một số
ít được thừa hưởng truyền thống của các gia đình dòng dõi. Đặc điểm đó đã tạo
cho giới trí thức nước ta một ý thức gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, thông
cảm với người lao động vất vả, cực nhọc, với hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu của
đất nước, thiết tha mong muốn xây dựng nước ta thành một quốc gia dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai với các nước có
nền kinh tế phát triển trên thế giới.
32
Ba là, trí thức Việt Nam được hình thành từ nhiều nguồn, có sự khác nhau;
qua biến cố của lịch sử nhưng không phản bội Tổ quốc, có những đóng góp về tư
tưởng, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, công nghệ.
Đội ngũ trí thức Việt Nam trưởng thành như hiện nay là đã ra đời và phát
triển trải qua những giai đoạn cách mạng do Đảng lãnh đạo. Với tính chất của cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, coi trí thức là một bộ phận có khả năng cách
mạng, nên Đảng ta đã tuyên truyền, động viên, thu hút nhiều trí thức yêu nước,
không kể xuất thân từ giai cấp, tầng lớp nào. Trong quá trình xây dựng đội ngũ trí
thức, từ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, với thực tế đi lên từ một
nước nông nghiệp lạc hậu và vận dụng quan điểm mác xít, đường lối của Đảng ta là:
sử dụng và cải tạo trí thức cũ, đồng thời đào tạo trí thức mới từ con em nhân dân lao
động, nhất là từ công nhân và nông dân. Do nguồn gốc xuất thân và nguyên nhân
chủ quan, khách quan nên việc xem xét, đánh giá, đối xử với một số trí thức có lúc
chưa đúng mức, thậm chí nặng nề, nhưng không có biểu hiện phản bội Tổ quốc, họ
vẫn âm thầm sống và đóng góp, tiêu biểu như Trần Đức Thảo và một số trí thức
sống ở nước ngoài. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, để đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT, chính sách phát triển GD&ĐT,
KH&CN từng bước đổi mới theo hướng ngày càng tiến bộ, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Những chính sách đó mở ra nhiều cơ hội cho trí thức Việt Nam
ngày càng phát triển cả về số lượng, chất lượng. Do đó, thành phần xuất thân của trí
thức đa dạng hơn và cũng phức tạp hơn. Bên cạnh số đông trí thức xuất thân từ giai
cấp công nhân, nông dân thì có một bộ phận không ít trí thức sinh ra trong các gia
đình giàu có, gia đình tư sản, chủ các doanh nghiệp, trang trại lớn... Hơn nữa, đường
lối đối ngoại rộng mở, nhiều trí thức được đào tạo ở nước ngoài theo các hình thức
khác nhau. Đây là một trong những yếu tố thuận lợi để hình thành đội ngũ trí thức
đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển KTTT
hiện nay. Cùng với đội ngũ trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật,
công nghệ; nghiên cứu lý luận chính trị, văn hóa-xã hội khá đông đảo trong các cơ
quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước… là các trí thức xuất thân từ môi trường lao
động trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng, doanh nghiệp tư nhân, hoạt động văn hóa,
33
nghệ thuật. Họ được gọi tên thân thương là “kỹ sư hai lúa, kỹ sư chân đất”, sang chế
được nhiều máy móc đem lại tiện ích và hiệu quả kinh tế cao, sưu tầm, lưu giữ,
truyền bá văn hóa dân gian… họ được gọi là “nghệ sĩ, nhà văn hóa” của làng quê,
bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.
Bốn là, trí thức Việt Nam được tổ chức thành đội ngũ, chủ yếu hoạt động
trong các tập thể khoa học công lập, do Nhà nước cấp kinh phí hoạt động và một bộ
phận hoạt động trong các tập thể khoa học ngoài công lập.
Hiện nay, lực lượng trí thức làm việc trong khu vực công chiếm tỷ lệ cao trên
(80%), nhất là lĩnh vực giáo dục và y tế. Trước hết, lực lượng này nằm ở các trường
đại học, nơi có đông trí thức đồng thời cũng là nơi đào tạo trí thức chủ yếu cho cả
nước. Thứ hai là các viện nghiên cứu nhà nước. Có một hệ thống các viện đồ sộ
được lập nên gồm các viện của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam và các viện, trung tâm nghiên cứu thuộc các bộ và các cơ quan
của bộ máy nhà nước, đảng. Chức năng của các viện là nghiên cứu khoa học và
phục vụ cho các yêu cầu của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Ngoài các trí thức
hoạt động trong các tập thể khoa học công lập, có khoảng 20% trí thức hoạt động
trong các đơn vị khoa học và công nghệ ngoài nhà nước. Với sự ra đời của Nghị
định số 35/1992 và sau đó là Nghị định số 81/2003, hiện nay là Nghị định số
08/2013, hàng ngàn tổ chức nghiên cứu khoa học độc lập, viện, trung tâm và các tên
gọi khác, tự trang trải ra đời. Các tổ chức này hoạt động rất đa dạng, năng động,
mạnh mẽ, đáp ứng linh hoạt các nhu cầu của xã hội.
Năm là, một số trí thức Việt Nam chịu ảnh hưởng của tàn dư phong kiến,
thiếu sự liên kết chặt chẽ trong sáng tạo khoa học, tinh thần hợp tác chưa cao.
Từ một nước nông nghiệp, hàng ngàn năm nay, nền kinh tế nước ta, sản xuất
nhỏ là phổ biến. Nó để lại hậu quả khá nặng nề trong đời sống văn hóa và tinh thần
của xã hội ta kể cả trí thức. Những mặt tiêu cực và hạn chế của nó đã in rất đậm, rất
sâu trong nếp nghĩ, trong tư tưởng người sản xuất nhỏ biến thành thói quen, lối sống
cố hữu. Nhiều quan điểm về đạo đức bị ràng buộc bởi những khuôn khổ hết sức khắc
nghiệt của lễ giáo phong kiến, như tư tưởng đẳng cấp, tư tưởng xem thường lao động
chân tay, tư tưởng trọng nam khinh nữ, v.v.. người trí thức chịu ảnh hưởng của tư
34
tưởng sản xuất nhỏ bộc lộ nhiều nhược điểm và còn bị nhiều hạn chế trong phương
pháp tư duy, trong tổ chức và trong quản lý nghiên cứu khoa học. Nếp nghĩ, tầm nhìn
của họ thường chủ quan, một chiều, giản đơn và thiển cận. Tính chất phân tán, tản
mạn, tự do chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật biểu hiện khá rõ nét. Trong đội ngũ trí
thức, ở chỗ này hay chỗ khác, có những biểu hiện khó đoàn kết, khó hợp tác với đồng
nghiệp. Tính chất cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa khá nặng nề, cản trở không ít
việc liên kết phối hợp của đội ngũ trí thức trong nghiên cứu tìm tòi, hợp tác, sáng tạo.
2.1.2. Công tác vận động trí thức - khái niệm, nội dung, hình thức
2.1.2.1. Khái niệm công tác vận động trí thức
Vận động trí thức là một bộ phận không thể tách rời công tác dân vận của
Đảng. Theo Từ điển tiếng Việt, “vận động” có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là hiện
tượng vật thể không ngừng thay đổi vị trí trong quan hệ với các vật thể khác. Nghĩa
thứ hai là tuyên truyền, giải thích, động viên làm cho người khác (hoặc một nhóm
đối tượng) tự nguyện làm việc gì. Hiểu theo nghĩa thứ hai, vận động trí thức là công
việc nhằm tuyên truyền, giải thích, động viên trí thức để họ tự nguyện tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Từ điển tiếng Việt, “công tác” là công việc của nhà
nước hoặc của đoàn thể .
Công tác vận động trí thức là một bộ phận quan trọng trong công tác dân
vận; là hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-
xã hội các cấp trong xây dựng chủ trương, chính sách và tuyên truyền, thuyết phục,
hướng dẫn, tập hợp, đoàn kết, cổ vũ, động viên, phát huy vai trò, tài năng trí tuệ
của đội ngũ trí thức góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng, xây dựng
và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Chủ thể công tác vận động trí thức là Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức của trí thức. Đảng không những lãnh đạo hệ thống
chính trị tiến hành công tác vận động trí thức, mà còn trực tiếp làm công tác vận
động trí thức. Mọi tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ, mọi cán bộ, đảng viên
phải làm công tác vận động trí thức theo chức trách của mình, đều là chủ thể công
tác vận động trí thức của Đảng.
35
Mục tiêu của công tác vận động trí thức nhằm củng cố vững chắc lòng tin
của trí thức đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ
gắn bó đặc biệt giữa Đảng với trí thức; tập hợp, vận động trí thức thực hiện tốt các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối tượng của công tác vận động trí thức là tất cả trí thức người Việt Nam
trong và ngoài nước đang hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhiệm vụ của công tác vận động trí thức gồm hai mặt chủ yếu: xây dựng đội
ngũ trí thức và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.
2.1.2.2. Nội dung công tác vận động trí thức
Công tác vận động trí thức là trách nhiệm của Đảng, của hệ thống chính trị,
và toàn xã hội. Công tác vận động trí thức bao gồm hai nội dung cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
Xây dựng đội ngũ trí thức là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự tham gia,
chung tay, góp sức của toàn Đảng toàn dân và toàn xã hội. Để có được đội ngũ trí
thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của đất nước phải chú trọng chăm lo đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức từ đào tạo mới, đào tạo lại và bồi
dưỡng thường xuyên kiến thức cho đội ngũ trí thức. Muốn làm tốt việc đào tạo đội
ngũ trí thức cần phải xem GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đặc biệt chú trọng giáo
dục đại học và sau đại học.
Để xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Đảng, Nhà nước tiến hành cải cách giáo dục từ cơ cấu hệ thống
đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu của người học
và nhu cầu của xã hội. Song song với đảm chất lượng đào tạo đại trà, xây dựng cơ
chế, chính sách thực hiện có hiệu quả đào tạo tài năng nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ trí thức và phát triển nhân tài cho đất nước. quan tâm đào tạo, bồi dưỡng trí
thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức
người dân tộc thiểu số và trí thức nữ. Thực hiện tốt kiểm định chất lượng đào tạo,
36
tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập. Tăng cường hoạt động nghiên
cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Gắn đào tạo đại học và sau đại học với
nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học
ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tạo điều kiện để các trường
đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo,
nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Trong xu hướng toàn cầu hóa, để
hội nhập quốc tế, để cần phải chủ động đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức
và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà đất nước có
nhu cầu bức thiết, quan tâm bố trí đãi ngộ thu hút trí thức được đào tạo về nước
công tác, hạn chế tình trạng chảy máu chất xám
Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của toàn xã hội vì vậy phải thực
hiện xã hội hóa giáo dục và đào tạo, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo, thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào
tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước, phải xây dựng cho được một xã hội học tập,
tuyên truyền vận động, phát huy vai trò gia đình, dòng họ, các cơ quan đơn vị phải
tích cực tham gia vào các hoạt động khuyến học khuyến tài. Mỗi một cá nhân phải
không ngừng học tập, học tập suốt đời.
Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc
Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, cần phải tập hợp, đoàn kết, tập hợp
đội ngũ trí thức trong các ngành, các lĩnh vực, trong nước, ngoài nước, phải đưa họ
vào tổ chức dù nhà nước hay ngoài nhà nước. Đồng thời phải tập trung xây dựng tổ
chức, bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức của trí thức như các
đơn vị nghiên cứu và giảng dạy ở các viện, các trường đại học, cao đẳng, và các hội
trí thức, các tổ chức KH&CN của trí thức ngoài công lập. Phải tuyên truyền, phổ
biến cho trí thức về chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, cổ vũ, động viên đội ngũ trí thức phát huy nhiệt tình cách mạng, sáng tạo
trong nghiên cứu khoa học, trong lao động, tự giác chấp hành, thực hiện hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
37
Thông qua công tác lý luận, công tác tuyên truyền cổ động và công tác văn
hóa văn nghệ của Đảng, của các tổ chức trong hệ thống chính trị góp phần định
hướng chính trị, giáo dục, nâng cao nhận thức của đội ngũ trí thức về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng động viên trí
thức tham gia các hoạt động nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học, trao đổi học
thuật, tiến hành phản biện có chất lượng các yêu cầu khoa học và lý luận. Từ đặc
trưng lao động sáng tạo của trí thức, phải tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ động
viên đội ngũ trí thức phát huy tinh thần lao động sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, khơi dậy và làm cho tiềm năng sáng
tạo của trí thức trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH đất nước.
Đảng, Nhà nước, các ngành các cấp tạo môi trường và điều kiện thuận lợi
cho hoạt động của trí thức. Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ
chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức phát triển, cống hiến.Mở rộng hợp tác và
giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn
nghệ. Đảng, Nhà nước và xã hội phải chăm lo bảo đảm chính sách, chế độ đãi ngộ,
lợi ích vật chất, tinh thần của đội ngũ trí thức.Việc đãi ngộ xứng đáng đối với trí
thức là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tinh thần tích cực trong lao
động sáng tạo. Để có chính sách đúng đắn đối với đội ngũ trí thức, Đảng và Nhà
nước cần phải khuyến khích và tạo thu nhập chính đáng bằng chất xám; Nhà nước
cần đặc biệt quan tâm đến lợi ích tinh thần, tôn vinh các nhà khoa học, các tổ chức,
tập thể trí thức có đóng góp lớn thông qua việc trao tặng các giải thưởng, phong
tặng các danh hiệu cao quý.
2.1.2.3. Hình thức vận động trí thức
Vận động trí thức cũng có những cách thức chung như vận động các tầng lớp
xã hội khác. Tuy nhiên, công tác vận động trí thức cần chú trọng những nét riêng
của tầng lớp xã hội đặc biệt, nhất là đặc điểm và vai trò của họ để có phương pháp,
hình thức vận động phù hợp. Công tác vận động trí thức được thể hiện qua các hình
thức sau đây:
38
Một là, vận động trí thức thông qua việc đề ra cương lĩnh, chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Muốn vận động trí thức trước hết
Đảng phải xác định mục tiêu, quan điểm, phương hướng làm kim chỉ nam cho mọi
hành động của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trên cơ sở đường lối chủ
trương của Đảng , Nhà nước phải cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật của Quốc
hội, chính sách cụ thể của Chính phủ, của các bộ ngành và chính quyền các cấp
trong việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.
Hai là, vận động trí thức bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, đối thoại,
gặp gỡ, giao lưu với trí thức. Đây là những hình thức quan trọng trong công tác tư
tưởng. Thông qua các hình thức này, xây dựng và xác lập kênh thông tin đa chiều
để kết nối giữa những người làm công tác vận động trí thức với trí thức, cho trí thức
hiểu về những quan điểm chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước từ đó họ thực
hiện đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, vận động trí thức bằng công tác quản lý nhà nước, thông qua việc thực
thi các chính sách, pháp luật của nhà nước. Mọi chủ trương và chính sách sẽ không
đi vào cuộc sống nếu không được triển khai thực hiện đầy đủ kịp thời. Trên cơ sở
các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, chính quyền các cấp cụ thể hóa
hơn nữa thành các chiến lược, chương trình, kế hoạch, quyết định… về công tác vận
động trí thức, tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức cống hiến, đóng góp sức mình vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, vận động trí thức bằng công tác cán bộ,thông qua vai trò tiên phong
gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng, những đảng viên trí thức để nêu gương, lôi cuốn, dẫn dắt, thuyết phục và vận
động những trí thức chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước.
Năm là, vận động trí thức bằng sự phối, kết hợp giữa các tổ chức đảng với
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -xã hội, các tổ chức của
trí thức, các tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm
xây dựng và đào tạo, phát huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm năng trí tuệ của đội
ngũ trí thức.
39
2.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC -
KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC
2.2.1. Khái niệm, nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo công tác vận
động trí thức
2.2.1.1. Khái niệm Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Lãnh đạo” là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo
đường lối cụ thể; “ lãnh đạo” còn dùng để chỉ các cơ quan lãnh đạo, gồm những
người có khả năng tổ chức, dẫn dắt phong trào [147, tr. 979 ]. Đảng lãnh đạo là một
khái niệm được các nhà kinh điển Mác - Lênin nêu ra vào những năm cuối của thế
kỷ XIX, đánh dấu sự trưởng thành về mặt tổ chức với sự ra đời các đảng của giai
cấp công nhân, lực lượng tiên phong thực hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng
nhân dân lao động thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội mới tiến bộ vì con
người, không còn bóc lột, áp bức, bất công. Đảng lãnh đạo (hay sự lãnh đạo của
Đảng) là toàn bộ hoạt động đề ra các quyết định; tổ chức các lực lượng thực hiện và
tiến hành kiểm tra, giám sát, nhằm thực hiện thắng lợi các quyết định của Đảng.
Đảng là tổ chức chính trị, chức năng của Đảng là lãnh đạo cách mạng. Sự lãnh đạo
của Đảng là lãnh đạo chính trị, tức là Đảng đề ra đường lối cách mạng, tổ chức thực
hiện và tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Đảng không can thiệp quá sâu, không
bao biện làm thay công việc của các tổ chức thuộc đối tượng lãnh đạo của Đảng.
Thực chất Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức tức là chỉ ra con đường đúng
đắn cho đội ngũ trí thức đi, đồng thời tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tập hợp, tổ
chức trí thức đi theo con đường đó nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp cách mạng.
Từ những căn cứ khoa học nêu trên, có thể hiểu: Đảng lãnh đạo công tác vận
động trí thức là toàn bộ hoạt động của Đảng từ việc đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách vận động trí thức nhằm đoàn kết tập hợp, xây dựng và phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc.
Đối tượng lãnh đạo công tác vận động trí thức là các tổ chức đảng, các cơ
quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các tổ chức
40
của trí thức, các tầng lớp nhân dân, đội ngũ trí thức. Chủ thể lãnh đạo là các cơ quan
Đảng từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tỉnh, thành ủy, quận,
huyện, thị ủy, cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ đảng viên; Mục đích Đảng lãnh đạo
công tác vận động trí thức là nhằm đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức, xây dựng đội
ngũ trí thức, phát huy cao nhất tiềm năng trí tuệ, tinh thần lao động sáng tạo của họ
để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.2.1.2. Nội dung Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức
Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức nhằm xây dựng đội ngũ trí thức và
lãnh đạo phát huy vai trò, tiềm năng của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức gồm:
Một là, Đảng xác định, mục tiêu, quan điểm, chủ trương về trí thức và vận
động trí thức
Đại hội Đảng toàn quốc thông qua Cương lĩnh, đường lối, chính sách thể
hiện qua Văn kiện, Nghị quyết Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo thông
qua việc ban hành các nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo bằng hình thức
ban hành nghị quyết, kết luận, chỉ thị, thông báo. Tỉnh, thành ủy cụ thể hóa thành
các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động riêng để thực hiện các chủ trương
đường lối của Đảng về vận động trí thức. Cấp ủy cấp huyện, cấp cơ sở tổ chức thức
hiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vận
động trí thức
Đường lối chính sách của Đảng có thể được điều chỉnh, thay đổi theo từng
thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử cho phù hợp với tình hình quốc tế, hoàn cảnh cụ thể
của đất nước nhằm đạt được mục tiêu cao nhất của công tác vận động trí thức.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa thành chính sách, pháp luật để
thực hiện công tác vận động trí thức.
Đảng không làm thay nhà nước, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể
hóa các nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật về công tác vận động trí
thức và quản lý nhà nước theo pháp luật về công tác vận động trí thức về công tác
vận động trí thức. Với chức năng nhiệm vụ của mình, Nhà nước phải thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với trí thức và công tác vận động trí thức, quan tâm
41
chăm lo công tác giáo dục và đào tạo để xây dựng đội ngũ trí thức, xây dựng cơ chế
chính sách để phát huy tiềm năng, trí tuệ của đội ngũ trí thức, tạo điều kiện cho trí
thức tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ba là, Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí
thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo các lực lượng sử dụng và phát huy tốt vai trò của các phương
tiện, công cụ tuyên truyền như: sách, báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, mạng
thông tin nội bộ, internet v.v… để tuyên truyền, phổ biến nền tảng tư tưởng, đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong các tập thể trí
thức, nâng cao chất lượng việc tổ chức học tập quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng; tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt chính trị,
báo cáo chuyên đề về tình hình tư tưởng và nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng.
Bên cạnh việc đề cao vai trò, trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng
chí cán bộ chủ chốt cấp ủy và các cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, các
cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan khoa học cần chú trọng sử dụng những trí
thức, những nhà khoa học có uy tín tích cực tham gia thực hiện công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, tránh tình trạng để họ thờ ơ, thụ động, đặc biệt,
tránh để họ chuyển sang trạng thái phản ứng, đối lập với tổ chức đảng.
Bốn là, Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức, cán bộ chuyên trách làm công tác
vận động trí thức.
Các cấp ủy đảng lãnh đạo kiện toàn, đổi mới đội ngũ cán bộ làm công tác
vận động trí thức. Lựa chọn những cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực trình
độ, uy tín làm cán bộ chủ chốt trong các tổ chức của trí thức. Đảng giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất làm công tác vận động trí thức và
tham gia vào trong các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức của trí thức, các cơ quan
khoa học, các học viện, viện nghiên cứu, các trường đại học...Các cấp ủy đảng, nhất
là người đứng đầu phải lắng nghe, tiếp thu những ý kiến góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng từ đội ngũ trí thức. Đảng lãnh đạo
các tổ chức của trí thức làm công tác vận động trí thức. Đảng lãnh đạo các tổ chức
của trí thức như các liên hiệp, các hội, các tổ chức khoa học công nghệ ngoài nhà
42
nước, đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các
Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam làm công tác vận động trí thức
Năm là, Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo xây dựng và
phát triển đội ngũ trí thức.
Chính sách giáo dục và đào tạo có vai trò to lớn trong việc xây dựng đội ngũ
trí thức. Vì vậy, Đảng lãnh đạo nhà nước tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo
theo quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; Đổi mới cơ cấu đào tạo
các ngành nghề, cấp học; Đa dạng hóa các loại hình đào tạo: chính quy tập trung,
chính quy không tập trung, tại chức, chuyên tu, từ xa; liên kết giữa các trường đại
học trong và ngoài nước… Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, đào tạo lại,
tránh chồng chéo, trùng lặp nội dung ở các cấp đào tạo, sửa đổi, bổ sung nội dung,
chương trình sau đại học, Bên cạnh đó cần mở rộng loại hình đào tạo tại chỗ như
mời chuyên gia đầu ngành của các nước đến làm việc hoặc báo cáo ở các cơ sở đào
tạo trong nước. Đó chính là cơ sở cho việc hình thành đội ngũ trí thức có số lượng
hợp lý, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước hiện nay.
Sáu là, Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, tập hợp, đoàn kết trí thức trong khối đại
đoàn kết toàn dân tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình để thực hiện công tác vận động trí thức. Trí
thức là một tầng lớp xã hội có mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống
xã hội, ngày nay được gọi là đội ngũ với lực lượng đông đảo. Để làm tốt công tác
vận động trí thức, cùng với các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội phải có trách nhiệm tham gia vào công tác vận động trí
thức. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, Nhà nước thể chế hóa, ban hành các chính
sách để phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện
công tác vận động trí thức.
Vận động trí thức không chỉ là trách nhiệm riêng của Đảng và hệ thống chính trị
mà là của toàn xã hội. Đảng lãnh đạo và tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội dân sự cùng
tham gia công tác vận động trí thức. Các tổ chức như Hội Khuyến học, Hội Cựu giáo
43
chức, hội đồng hương, hội sinh viên…, các gia đình, dòng họ và mỗi cá nhân đề có thể
tham gia công tác vận động trí thức bằng các hình thức khuyến học, khuyến tài, tạo lập
môi trường, điều kiện hoạt động khoa học thuận lợi cho trí thức lao động, cống hiến.
2.2.1.3. Phương thức Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là tổng
thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy trình, phong cách, lề lối
làm việc... mà Đảng sử dụng để lãnh đạo công tác vận động trí thức nhằm thực hiện
thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng thành
công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh
đạo công tác vận động trí thức bằng các phương thức sau đây:
Một là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức bằng Cương lĩnh, đường lối,
nghị quyết và các định hướng chính sách lớn về trí thức và công tác vận động trí thức.
Thực chất Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức tức là chỉ ra con đường
đúng đắn cho đội ngũ trí thức đi, đồng thời định hướng chỉ đạo các tổ chức trong hệ
thống chính trị tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tập hợp, tổ chức trí thức đi theo
con đường đó nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp cách mạng. Muốn thực hiện
điều này, Đảng phải căn cứ vào tình hình thực tiến, vận dụng sáng tạo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng ban hành và triển
khai thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết và các định hướng chính sách lớn
về trí thức và công tác vận động trí thức.
Hai là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua công tác tư
tưởng của Đảng.
Đây là phương thức lãnh đạo có tính bản chất của Đảng. Phương thức lãnh đạo
bằng công tác tư tưởng đòi hỏi toàn Đảng cũng như các cấp bộ đảng, sau khi có chủ
trương, chính sách đúng đắn, phải đi sâu vào các bộ phận, các tổ chức của trí thức để
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ tư tưởng cho trí thức, làm cho trí thức
hướng theo một cách tự nguyện, tự giác. Người lãnh đạo phải luôn nhận thức rõ rằng,
tiến hành công tác tư tưởng trong trí thức là làm công tác lãnh đạo; muốn lãnh đạo
hiệu quả phải tích cực làm công tác tư tưởng; trách nhiệm làm công tác tư tưởng
trước hết thuộc về người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng.
44
Ba là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua các mặt hoạt
động của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước tức là phải lãnh đạo tất cả các nhánh quyền lực: lập
pháp, hành pháp, tư pháp và ở mọi cấp, từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Đảng
lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng về công tác
vận động trí thức vào Hiến pháp, pháp luật, cụ thể hóa vào các kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong
cơ quan nhà nước, đoàn thể phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về công tác vận động trí thức.
Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức bằng công tác tổ chức và
cán bộ của Đảng.
Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức bằng tổ chức và công tác cán bộ là
một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng, vì các cấp ủy đảng
định rõ tiêu chuẩn, điều kiện cần có của người cán bộ làm công tác vận động trí
thức để đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và giới thiệu cho các cơ quan này bầu chọn
công khai, dân chủ; các cấp ủy đảng không nên hạn chế việc tự ứng cử từ phía các
tổ chức của trí thức. Cần tránh việc áp đặt cán bộ làm việc trong các cơ quan của trí
thức, nhất là trong bầu cử cán bộ lãnh đạo. Các cấp ủy đảng lãnh đạo các cơ quan
của trí thức làm tốt công tác hiệp thương để chọn ra những đại biểu ưu tú đưa vào
danh sách bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Quốc hội. Vì vậy, cần
nghiên cứu cơ chế để trí thức thực hiện quyền làm chủ Nhà nước của mình thông
qua các cơ quan của trí thức, không chỉ bằng tư vấn, phản biện, giám định xã hội,
mà còn thực hiện quyền làm chủ Nhà nước thông qua việc đưa những trí thức có tài
năng, năng lực quản lý tham gia trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Năm là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, hoạt động
của bộ máy nhà nước và các đoàn thể trong việc thực hiện các chủ trương, đường
lối của Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức. Đồng thời lãnh đạo, tổ chức,
động viên trí thức giám sát, phản biện hoạt động của cơ quan, công chức nhà nước
45
về xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức nói riêng. Mặt khác Đảng lãnh đạo các tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ chức và các
hội nghề nghiệp của trí thức trong việc thực hiện điều lệ, nghị quyết và chương
trình, kế hoạch công tác của tổ chức mình.
Sáu là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua vai trò tiền
phong, gương mẫu của các cán bộ, đảng viên là trí thức và các tổ chức đảng hoạt
động trong các tập thể lao động khoa học của trí thức.
Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên là trí thức,
hoạt động trong các cơ quan đoàn thể và tổ chức của trí thức. Uy tín và ảnh hưởng
trực tiếp của Đảng đối với đội ngũ trí thức trước hết là thông qua những đảng viên,
những cán bộ của Đảng hoạt động trong đội ngũ trí thức. Thông thường thì những
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong tổ chức của những người trí thức đều là
đảng viên của Đảng. Đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, gương mẫu
thực hiện nhiệm vụ đảng viên, thực hiện chức trách và nhiệm vụ trong cơ quan, tổ
chức của trí thức, là hoạt động lãnh đạo có hiệu quả đối với vận động trí thức.
Bảy là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các đoàn thể chính trị- xã hội và các hội trong tập
hợp, đoàn kết trí thức cống hiến cho đất nước.
MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội là tổ chức tập hợp lực lượng đông đảo
trí thức các ngành, lĩnh vực, các lứa tuổi; bao gồm cả trí thức trong nước và trí thức
Việt Nam ở nước ngoài. Thông qua MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội, dựa vào
MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội để tuyên truyền chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với trí thức. Thực té cho thấy. đây là
“kênh” truyền tải quan trọng và rất có hiệu quả.
2.2.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức -
Khái niệm, nguyên tắc, nội dung, phương thức
2.2.2.1. Khái niệm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “đổi mới” là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn,
tiến bộ hơn so với trước: Đổi mới cách làm ăn; cuộc sống có đổi mới [147, tr.657].
46
Đổi mới là trạng thái của mọi vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội
cũng như trong tư duy. Bất kỳ sinh vật nào cũng luôn luôn tự đổi mới để thích nghi
với những sự thay đổi của môi trường sống. Đối với xã hội, đổi mới là một phản
ứng mang tính tự nhiên của xã hội để bảo đảm sự thích nghi của nó trước những
biến đổi môi trường tự nhiên, môi trường quốc tế, để thích ứng với tình thế. Đổi
mới là quá trình vận động tự nhiên của mọi hiện tượng xã hội. “Đổi mới” là một
chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách đổi mới được thực hiện từ Đại hội
đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, năm 1986, khắc phục tình trạng lạc
hậu, trì trệ và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Đảng ta xác định đổi mới nội
dung, phương thức lãnh đạo xây dựng CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững
quyền lãnh đạo đất nước đi lên CNXH .
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trước hết là
đổi mới nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai là đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức bằng một hệ
thống các công cụ lãnh đạo: xây dựng Cương lĩnh, chiến lược, hoạch định các chính
sách và chủ trương công tác; tổ chức kiếm tra; nắm tổ chức và cán bộ; giới thiệu cán
bộ cho các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội. Nói cách khác là đưa các nội dung
đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức vào Cương lĩnh, chiến lược,
chính sách, công tác tổ chức và cán bộ…; đổi mới hệ thống các mối liên hệ, cơ chế
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước về công tác vận động trí thức; đổi mới hệ thống về
phương pháp tiếp cận trí thức và phong cách lãnh đạo của Đảng đối với vận động trí
thức. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai
đoạn hiện nay không có nghĩa là phủ định sạch trơn nội dung, phương thức vận
động trí thức của Đảng đã được xác định và thực hiện có hiệu quả những năm qua.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong tình hình
hiện nay phải: thay đổi, phát triển, nâng cao hơn những nội dung, phương thức đúng
đắn đã thực hiện trước đây đem lại hiệu quả đến nay vẫn còn phù hợp, loại bỏ
những gì đã lỗi thời.
47
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức trong tình hình hiện nay là toàn bộ các hoạt
động của Đảng, trực tiếp là các cấp ủy đảng, của các tổ chức đảng trong bộ
máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và đội ngũ cán
bộ, đảng viên làm thay đổi một phần hoặc thay đổi một số nội dung, phương
thức lãnh đạo công tác vận động trí thức để công tác vận động trí thức ngày
càng đạt hiệu quả cao hơn.
2.2.2.2. Nguyên tắc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức
Đổi mới muốn thành công đòi hỏi phải có tính nguyên tắc. Đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải vận dụng các nguyên tắc cơ
bản mà Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI) đã đề ra trong quá trình thực hiện
đổi mới đất nước. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
cần phải giữ vững các nguyên tắc sau đây:
Một là, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) đã xác định: Xây dựng đội ngũ trí
thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên
tiến trong khu vực và thế giới, tạo sự gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với
trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí. Đổi mới không phải là thay đổi
mục tiêu trên, mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan
niệm đúng đắn về trí thức, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp.
Hai là, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
trước hết phải lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Đổi mới là nhằm loại bỏ những
quan niệm sai lầm, khắc phục những biện pháp lạc hậu, lỗi thời về vận động trí
thức, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong
hoàn cảnh mới, chứ không phải xa rời những nguyên lý ấy.
48
Ba là, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là
nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, vai trò
của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội…để phát huy tiềm năng, trí
tuệ của trí thức, tạo điều kiện tốt nhất cho đội ngũ trí thức cống hiến và trưởng thành.
Bốn là, Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, đối với đội ngũ
trí thức là tất yếu. Những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của
Đảng đều phải phê phán. Tuy nhiên, bản thân Đảng cũng cần không ngừng hoàn
thiện, nâng cao sức chiến đấu, lắng nghe và tiếp nhận những ý kiến tư vấn, phản
biện của trí thức về những khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo cũng như trong
công tác vận động trí thức.
Năm là, phát huy quyền dân chủ, khuyến khích tự do lao động sáng tạo
của trí thức trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Dân chủ phải đi đôi
với tập trung, với kỷ cương, với pháp luật và với ý thức trách nhiệm công dân.
Dân chủ phải có sự lãnh đạo thống nhất để phát huy dân chủ đúng hướng. Ngược
lại, lãnh đạo phải bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở thực hiện và phát huy
dân chủ. Dân chủ với đội ngũ trí thức, nhưng mặt khác cũng cần nghiêm trị
những kẻ lợi dụng dân chủ để gây rối phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật
tự và an toàn xã hội.
Sáu là, khoa học không phân định ranh giới quốc gia nhưng nhà khoa học
chân chính phải có tổ quốc, phải hướng về tổ quốc. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác vận động trí thức là nhằm đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức trong
và ngoài nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại góp phần thúc
đẩy, đưa đất nước phát triển, hội nhập với khu vực và quốc tế.
2.2.2.3. Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức bao
gồm các vấn đề sau đây:
Một là, tiếp tục đổi mới nhận thức, quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng về công tác vận động trí thức.
Đổi mới tư duy của Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức trong
giai đoạn mới, trước hết là bỏ tư duy cũ, định kiến hẹp hòi với trí thức, coi trí thức
49
thuộc tầng lớp tiểu tư sản, đặc biệt cần xóa bỏ phân biệt trí thức cũ, trí thức mới,
nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện, chân thành với những trí thức dám nói
thẳng, nói thật và những trí thức có ý kiến khác. Tiếp tục nhìn nhận và làm rõ
thêm vai trò vị trí của trí thức với quan điểm hiền tài là “nguyên khí quốc gia” là
lực lượng tiêu biểu cho sáng tạo và truyền bá văn hóa dân tộc. Trí thức là nguồn
lực trí tuệ quan trọng nhất, là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, chấn hưng đất
nước. Chú trọng xây dựng, phát huy trí thức các lĩnh vực: khoa học xã hội, nhân
văn; khoa học kỹ thuật, công nghệ. Trí thức là nguồn lực trí tuệ quan trọng nhất, là
lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, chấn hưng đất nước. Để thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà trước mắt là phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, thì bảo đảm sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phát huy sức mạnh trí tuệ của toàn dân, trong đó
phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ trí thức là vấn đề đặc biệt quan trọng. Điều
đó đòi hỏi rất cao ở sự nhận thức sâu sắc của các cấp ủy đảng, đội ngũ cán bộ chủ
chốt các cấp về vai trò của đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở
đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, đổi mới
mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, của các cấp ủy, tổ chức đảng, thích ứng
với tình hình có nhiều biến đổi to lớn hiện nay.
Hai là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong xây
dựng chính sách, pháp luật về xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức và quản lý nhà
nước theo pháp luật về công tác vận động trí thức.
Trong quá trình đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức, Đảng
ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết chuyên đề về tri thức. Nhà nước thể
chế hóa các chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện
các chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực (giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, văn hóa - văn nghệ, chính sách đối với trí thức Việt kiều) để tạo động lực cho
trí thức phát huy năng lực sáng tạo, để chủ trương của Đảng vào cuộc sống.
50
Ba là, đổi mới nội dung lãnh đạo trong xây dựng tổ chức, bộ máy của trí
thức và cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí thức.
Trung ương Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng phân công cán bộ có đủ phẩm
chất, năng lực giữ trọng trách trong các cơ quan khoa học, cơ quan tham mưu xây
dựng chủ trương, chính sách, pháp luật về trí thức; lãnh đạo xây dựng, củng cố cơ
quan, tổ chức của trí thức. Quan tâm xây dựng các cơ quan, tổ chức làm công tác
dân vận, vận động trí thức. Cán bộ làm công tác vận động trí thức phải có tâm, có
tầm, được trí thức “tâm phục khẩu phục”.
Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyên truyền, thuyết
phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Đổi mới hình thức thông tin, tiếp cận để gần gũi trí thức, tăng cường gặp gỡ,
đối thoại trực tiếp để có quan hệ mật thiết giữa các cấp lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước với trí thức; đồng thời phát huy ảnh hưởng của những trí thức lớn, có uy tín
cao đến bộ phận đông đảo còn lại của đội ngũ trí thức. Do đặc điểm của đội ngũ trí
thức nên trong cách lãnh đạo đội ngũ trí thức, Đảng rất coi trọng hình thức gặp gỡ,
tiếp xúc trực tiếp và thông qua các trí thức lớn, có uy tín cao để tác động đến đội
ngũ trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu gương sáng về cách sử dụng hình thức
lãnh đạo trí thức này. Trong giai đoạn hiện nay, hình thức này cần được coi trọng và
tăng cường. Người đứng đầu tổ chức Đảng cần có chế độ gặp gỡ, đối thoại với đội
ngũ trí thức, nhất là những trí thức có uy tín cao. Phát huy ảnh hưởng của những
chuyên gia đầu ngành, có uy tín để tác động đến đội ngũ trí thức. Các cấp ủy, tổ
chức đảng, nhất là những người đứng đầu cần thể hiện rõ sự chân thành, cầu thị,
trân trọng sự đóng góp, tâm huyết của trí thức, có cơ chế “đặt hàng” để đội ngũ trí
thức có điều kiện tham gia nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Năm là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức.
Tiếp tục quán triệt và làm rõ thêm các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo quốc gia. Coi giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nhiệm vụ quan trọng để đào tạo xây dựng đội ngũ
51
trí thức. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước để đổi mới quản
lý của cơ quan, tổ chức giáo dục - đào tạo. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng
xã hội đối với giáo dục - đào tạo; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
giảng dạy các bậc học, ngành học.
Sáu là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với việc tạo lập môi trường,
điều kiện hoạt động khoa học thuận lợi cho trí thức lao động, cống hiến.
Một trong những điều kiện quan trọng nhằm phát huy tiềm năng sáng tạo của
đội ngũ trí thức là môi trường làm việc thuận lợi, phát huy quyền tự do sáng tạo của
đội ngũ trí thức, tạo điều kiện để những người làm công tác khoa học và công nghệ
tiếp cận những vấn đề mới của khoa học và công nghệ thế giới, phát huy tài năng,
giải quyết những vấn đề đặt ra của đất nước. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học các dự án, các công trình, đề tài nghiên cứu
khoa học, công khai dân chủ, hướng đến sản phẩm cuối cùng. Tạo lập môi trường
cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và tăng
cường nghiên cứu khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp, hoàn thiện môi
trường pháp lý, thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ. Hoàn thiện cơ sở pháp
lý và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ. Xử lý nghiêm những
hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ; bảo hộ, khuyến khích việc sử dụng
những, sang chế, giải pháp khoa học, công nghệ.
Bảy là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các đoàn thể
chính tri - xã hội trong việc tập hợp, phát huy trí thức tham gia sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các đoàn thể chính tri
- xã hội để vận động trí thức là xây dựng định hướng chính trị đúng đắn, sát hợp với
vị trí, vai trò của MTTQ và mỗi tổ chức chính trị-xã hội. Đảng tôn trọng đặc điểm,
hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận, phát huy vai trò, chức
năng của Mặt trận và các đoàn thể. Khắc phục biểu hiện buông lỏng lãnh đạo,
"khoán trắng" hoặc bao biện, làm thay, lấn sân, áp đặt. Quan tâm, giúp đỡ Mặt trận
và các tổ chức này cụ thể hóa công tác vận động trí thức vào trong các chương trình
hành động, trong nhiệm vụ đoàn kết tập hợp đoàn viên, hội viên là trí thức trong các
52
hoạt động. Thực hiện tốt nền nếp, chế độ làm việc giữa cấp uỷ đảng với lãnh đạo
Mặt trận và các đoàn thể, định kỳ nghe báo cáo kết quả hoạt động và đưa ra các chủ
trương, góp ý kiến về chương trình hoạt động, phương hướng công tác của Mặt trận
và các đoàn thể, giúp Mặt trận và các đoàn thể tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong
công tác vận động trí thức
2.2.2.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là, đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị quyết và các định hướng
chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước về trí thức và vận động trí thức
Đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị quyết và các định hướng chính sách,
pháp luật và quản lý nhà nước về trí thức và vận động trí thức theo hướng: các cấp
bộ đảng, nhất là người đứng đầu, phải sâu sát cơ sở để nắm được yêu cầu, nguyện
vọng của đa số trí thức, từ đó xây dựng và ban hành các quyết định lãnh đạo công
tác vận động trí thức. Khi xây dựng chủ trương, nghị quyết về trí thức, cần có đề án
nghiên cứu sâu sắc, toàn diện; huy động sự tham gia của trí thức các ngành, lĩnh
vực; lắng nghe ý kiến của đại diện rộng rãi trí thức…Trên cơ sở có được những
thông tin, tư liệu khách quan, khoa học, phản ánh đúng đắn nhu cầu, nguyện vọng
của trí thức, tình hình cụ thể của địa phương, đơn vị, các cấp bộ đảng mới có thể có
quyết sách lãnh đạo đúng đắn. Khắc phục tình trạng nghị quyết ban hành không sát
với yêu cầu, tình hình thực tế của trí thức, phát huy vai trò của trí thức; khắc phục
chính sách của Nhà nước ban hành đã bị dư luận gọi là “chính sách ở trên trời”.
Hai là, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động trí thức theo hướng mở
rộng dân chủ, tôn trọng, lắng nghe trí thức; thẳng thắn, chân thành với trí thức.
Có hình thức tổ chức phù hợp trong tuyên truyền, vận động trí thức. Cách tổ
chức nghiên cứu, quán triệt chủ trương, nghị quyết khác với tổ chức thông tin tình
hình trong nước, quốc tế; tình hình chính trị, kinh tế, xã hội… Xác định rõ đối
tượng tuyên truyền, phổ biến, trao đổi để có nội dung, hình thức phù hợp. Phân
công lãnh đạo Đảng, chính quyền hoặc người có trọng trách trực tiếp triển khai, có
53
đủ khả năng trao đổi, đối thoại khi cần và bảo đảm tính thuyết phục. Quan tâm quán
triệt quan điểm, đường lối, Cương lĩnh, chiến lược, chủ trương lớn của Đảng, Hiến
pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước đối với trí thức. Mở rộng các hoạt động
thông tin, trao đổi, đối thoại với trí thức về những vấn đề trong nước, quốc tế; về
những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, của mỗi địa phương,
ngành, lĩnh vực đang đặt ra để chuyển tải quan điểm chính thống của Đảng và lắng
nghe, tiếp thu đóng góp của trí thức. Đối với những ý kiến khác, cần thận trọng,
chân thành trao đổi, hướng dẫn. Đồng thời, thẳng thắn tranh luận dân chủ, khách
quan, không truy chụp, thành kiến.
Ba là, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chính quyền các
cấp trong công tác vận động trí thức.
Quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phải
phù hợp với Hiến pháp, xác định trách nhiệm của Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo,
kiểm tra các cơ quan của Nhà nước thể chế hóa đúng quan điểm, chủ trương của
Đảng về xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức thành Hiến pháp, pháp luật và các
chính sách để chuyển tải quan điểm, chủ trương của Đảng vào cuộc sống bảo đảm
có hiệu lực, hiệu quả nhất. Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan
hành chính và chính quyền các cấp thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với
việc xây dựng đội ngũ và phát huy vai trò của trí thức.
Bốn là, đổi mới công tác tổ chức, cán bộ của Đảng trong vận động trí thức
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bằng công tác tổ chức, cán bộ của
Đảng trong các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp khoa học, trong các
tổ chức và các hội nghề nghiệp của trí thức nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực chuyên
môn giỏi, có tinh thần say mê nghiên cứu, có năng lực thể chế hóa, vận dụng đúng
đắn, kịp thời quan điểm, đường lối của Đảng về trí thức và công tác vận động trí
thức; có khả năng quy tụ trí thức. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu
trong các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp khoa học, các tổ chức và
các hội nghề nghiệp của trí thức. Công tác cán bộ thực hiện khách quan, công tâm,
54
đúng quy trình, phát huy dân chủ, dựa vào tập thể và trí thức để tuyển chọn cán bộ.
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo các cấp ủy đảng,
đảng đoàn, ban cán sự đảng, trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ chung, xây dựng tiêu
chuẩn cụ thể cho từng chức danh cán bộ và xác định cơ cấu của đội ngũ cán bộ
trong các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp khoa học, các tổ chức và
các hội nghề nghiệp của trí thức làm cơ sở cho công tác quy hoạch, xây dựng đội
ngũ cán bộ. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, đổi mới đồng bộ quy định, quy chế về đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đề bạt và thực hiện chính sách cán bộ.
Hoàn thiện quy chế bổ nhiệm và chế độ bầu cử, lấy phiếu tín nhiệm theo hướng có
nhiều phương án nhân sự, có số dư để lựa chọn. Có cơ chế phát hiện trí thức có đức
có tài, cả đảng viên và người ngoài Đảng; thực hiện thi tuyển đối với một số chức
danh lãnh đạo chuyên môn trong các đơn vị sự nghiệp khoa học, trong các cơ quan
quản lý nhà nước, các tổ chức và các hội nghề nghiệp của trí thức.
Đổi mới việc phát huy vai trò tiên phong gương mẫu và trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các đơn vị sự nghiệp khoa học, trong các tổ
chức và các hội nghề nghiệp của trí thức. Trong lãnh đạo các hoạt động khoa học,
văn hóa, nghệ thuật, coi trọng phát triển học thuật, bổ sung lý luận có tác dụng thúc
đẩy, phát triển khoa học, nghệ thuật v.v… Đội ngũ trí thức đầu ngành là chỗ dựa,
cần phát huy trong công tác lãnh đạo trí thức của Đảng. Với đặc thù lao động sáng
tạo, có trí tuệ, có khả năng nắm bắt cái mới và sự cập nhật thông tin nhanh nhạy,
trong lãnh đạo công tác vận động đội ngũ trí thức cần chú trong việc phát huy ảnh
hưởng của những chuyên gia, trí thức lớn, có uy tín cao để tác động vào bộ phận
đông đảo còn lại của đội ngũ trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những kinh
nghiệm quý báu về cách sử dụng cán bộ và lãnh đạo công tác cán bộ trí thức.
Năm là, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị trong việc phối hợp nâng cao hiệu quả công tác vận động trí thức.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nâng cao chất lượng định hướng chính trị, định
hướng nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
trong từng thời kỳ. Tôn trọng và phát huy tính năng động, sáng tạo, đa dạng hóa các
55
hình thức tổ chức và hoạt động, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết
phục vận động trí thức. Tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong các tổ chức
hội của trí thức. Khắc phục biểu hiện hữu khuynh, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng
hoặc quan liêu, xơ cứng, máy móc, áp đặt.
Sáu là, đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong việc thực hiện các
chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với trí thức và công tác vận động trí thức.
Thực hiện kiểm tra giám sát từ khâu tổ chức thực hiện chủ trương, chính
sách. Coi trọng đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết kịp thời việc thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và các chính sách, pháp luật của Nhà nước về trí
thức và vận động trí thức. Cần tổ chức kiểm tra, giám sát chung, tổng thể và kiểm
tra, giám sát chuyên đề để nắm chắc tình hình, có thêm cơ sở đánh giá, sơ kết…
Thông qua kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để đôn đốc, chỉ đạo,
phê bình những nơi triển khai yếu, kết quả thấp và biểu dương, nhân rộng những
nơi thực hiện đạt hiệu quả cao.
Đảng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát bằng
sự lồng ghép, phối hợp sự kiểm tra, giám sát của Đảng với của Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị và cán
bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, về xây dựng đội ngũ trí thức và phát huy vai trò của trí
thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiểu kết chương 2
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới, phát triển của đất nước trong
30 năm vừa qua.. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng đã từng bước đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là đòi hỏi
khách quan trong tiến trình đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế. Đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải vận dụng sáng tạo các
nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thay đổi, bổ sung,
56
hoàn thiện, phát triển nội dung, phương thức lãnh đạo công tác vận động trí thức để
công tác này đạt kết quả cao hơn. Đổi mới muốn thành công đòi hỏi phải có tính
nguyên tắc. phải bám sát mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất
lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, ngang
tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trên thế giới. Đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải xuất phát từ đặc điểm của trí thức
Việt Nam, từ thực tế xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong điều kiện mới. Đổi
mới nhằm tạo sự gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí
thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh công - nông - trí.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đòi hỏi
phải đổi mới toàn diện và có hệ thống. Trước hết là đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Nói cách khác là đưa các
nội dung đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức vào Cương lĩnh,
chiến lược, chính sách, công tác tổ chức và cán bộ…; đổi mới hệ thống các mối liên
hệ, cơ chế quan hệ giữa Đảng và Nhà nước về công tác vận động trí thức; đổi mới
hệ thống về phương pháp tiếp cận trí thức và phong cách lãnh đạo của Đảng đối với
vận động trí thức.
57
Chương 3
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC -
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ
THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1.1. Thực trạng đội ngũ trí thức
3.1.1.1. Ưu điểm
* Đội ngũ trí thức phát triển nhanh chóng về mặt số lượng
Sự hình thành và phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam trước hết là kết
quả của những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng trí thức trong các giai đoạn cách mạng. Đặc biệt, từ khi đất nước thống
nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc đào tạo trí thức trở
thành nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam.
Với quy mô giáo dục phát triển nhanh chóng như vậy đã tạo nên sự phát triển
vượt bậc về số lượng đội ngũ trí thức. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, cùng với tốc độ
tăng trưởng quy mô đào tạo, số lượng đội ngũ trí thức cũng tăng lên một cách nhanh
chóng. Nếu như năm 2000, đội ngũ trí thức cả nước chỉ có 1.322.691 người (Từ cao
đẳng trở lên) thì đến năm 2013 con số này đã tăng lên là 6.550.234 (gấp 4,95 lần); số
thạc sỹ từ 10.000 lên 118.653 người (tăng 11,86 lần), còn số tiến sĩ thì tăng từ 12,691
lên đến 24.667 người (tăng 1.94 lần).
* Về cơ cấu đội ngũ trí thức có những chuyển biến hợp lý
Những tiến bộ trong chính sách xây dựng đội ngũ trí thức, xu thế phát triển
đất nước trong thời đại mới đã từng bước tạo cho trí thức nước ta phát triển về mặt
cơ cấu. Điều này được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau:
Một là, nguồn đào tạo của trí thức Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng.
Ngoài nguồn đào tạo trong nước, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tạo ra cơ
hội to lớn để mỗi người có điều kiện tham gia học tập ở nước ngoài theo nhiều hình
thức khác nhau.
58
Hai là, ngành nghề đào tạo của trí thức ngày càng được mở rộng. Xu thế này
là mang tính khách quan phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và thời đại trong
giai đoạn mới. Theo đó, trong giai đoạn hiện nay, ngoài những ngành nghề mang
tính “truyền thống”, xuất hiện nhiều loại hình ngành nghề mới như: hành chính
công, chính sách công, công nghệ đa phương tiện
Ba là, hình thức đào tạo ngày càng phong phú và đa dạng. Quan điểm và
chính sách GD&ĐT ở nước ta hiện nay tạo điều kiện cho mọi người có điều kiện
học tập nâng cao trình độ dân trí, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của xã hội.
Bốn là, cơ cấu đội ngũ trí thức phân theo loại hình đơn vị có sự chuyển biến
rõ rệt theo hướng tích cực. Đó là sự dịch chuyển tăng tỷ lệ trí thức trong khối kinh
tế và giảm tỷ lệ trí thức trong khối hành chính sự nghiệp. Nếu như năm 2002 đội
ngũ trí thức trong khối kinh tế tỷ lệ cơ cấu chỉ có 30,98% (571.114 người), thì đến
năm 2012 tỷ lệ cơ cấu tăng lên 49,64% (3.031.546 người). Ngược lại, khối hành
chính sự nghiệp tỷ lệ cơ cấu từ chỗ chiếm 69,02% (571.114 người ) thì đến năm 2012
tỷ lệ cơ cấu chỉ còn 49,99% (3.031.546 người).
* Đội ngũ trí thức đã có những đóng góp, cống hiến to lớn vào sự phát
triển của đất nước
Đội ngũ trí thức nước ta với tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc
sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bằng hoạt động sáng tạo, trí
thức nước ta có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Một là, đội ngũ trí thức đã xây dựng những luận cứ khoa học góp phần quan
trọng trong việc hoạch định, phản biện và hoàn thiện đường lối, chủ trương của
Đảng, nhà nước các cấp.
Trong những năm qua, đội ngũ trí thức đã trực tiếp tham gia vào việc chuẩn
bị những quyết sách của Đảng và Nhà nước. Trong bầu không khí sinh hoạt dân
chủ, tôn trọng trí thức của Đảng và Nhà nước, hoạt động của đội ngũ trí thức đã có
nhiều đổi mới. khuyến khích việc thảo luận, tranh luận, lấy ý kiến đóng góp… để có
những kiến giải, lý luận và phương án cải biến thực tiễn khả thi, hiệu quả và phù
59
hợp nhất. Vì vậy, trong việc xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính
sách, hoạch định các chiến lược phát triển KT - XH của Đảng và chính quyền các
cấp từ trung ương đến cơ sở đều có sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức.
Hai là, đội ngũ trí thức đã, góp phần tích cực vào quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước những yêu cầu nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đội ngũ các nhà trí thức khoa học, công nghệ đã đóng vai trò động
lực, đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ,
tiếp nhận và chuyển giao công nghệ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong quản lý
sản xuất, họ là người thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, góp phần tổ chức lại và
hướng dẫn các lực lượng lao động khác đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất để
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Người làm công tác khoa học
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trên các lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng,
triển khai công nghệ tiên tiến và các dịch vụ khoa học, công nghệ khác.
Ba là, đội ngũ trí thức đã có những đóng góp quan trọng, quyết định trong sự
nghiệp GD&ĐT, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Đội ngũ trí thức có vai trò và trách nhiệm lớn lao trong việc đẩy mạnh đổi
mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những người có năng lực cao và phẩm chất đạo
đức tốt đáp ứng cho những nhu cầu lao động hiện nay. Không chỉ tham gia quá
trình giáo dục đào tạo trong nước, đội ngũ trí thức Việt Nam còn tham gia giảng
dạy ở các trường đại học quốc tế. rất nhiều giáo sư người Việt đang công tác và
giảng dạy tại các nước phát triển.
Bốn là, đội ngũ trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần duy trì và phát triển
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của đất nước, tiếp thu nền văn hóa, văn minh
nhân loại.
Vai trò của đội ngũ trí thức tất nhiên không chỉ thể hiện trong lĩnh vực sáng
tạo ra của cải vật chất, mà cả trong lĩnh vực sáng tạo những giá trị của đời sống tinh
thần. Công cuộc đổi mới đất nước đã hướng tất cả đội ngũ trí thức phát huy lao
động sáng tạo trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ra sức khắc phục tình trạng đói
60
nghèo về trí tuệ, văn hóa, thông tin… Khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ
thuật trong quần chúng nhân dân lao động trên khắp cả nước, mở mang tri thức,
giao lưu văn hóa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại góp phần làm cho đời
sống tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú và trong sáng.
Năm là, các công trình nghiên cứu, sáng tạo khoa học của trí thức Việt Nam
ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng
Thông qua các phong trào thi đua lao động sáng tạo, các giải thưởng, hội thi,
hàng vạn lượt trí thức đã tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam được tổ chức hàng năm và
được xét trao tặng cho các tác giả có những công trình khoa học công nghệ có giá
trị khoa học - KT - XH lớn, đã được triển khai trong toàn quốc nhằm khuyến khích
nghiên cứu, áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời
sống và nhằm công nhận sự đóng góp nổi bật của các nhà khoa học, công nghệ. Sau
19 năm tổ chức từ 1995 đến 2014 đã có 2.076 công trình tham dự giải và đã có 650
công trình được trao giải.
Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật toàn quốc được tổ chức 2 năm/1 lần, nhằm thúc
đẩy phong trào lao động sáng tạo của toàn dân trong các lĩnh vực KHKT, thúc
đẩy việc áp dụng có hiệu quả các giải pháp kỹ thuật vào sản xuất và đời sống,
góp phần phát triển KT - XH, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tính từ Hội thi lần thứ 8 đến lần thứ 12 tức là từ năm 2004 - 2013 đã có gần
2.600 giải pháp tham dự và gần 250 giải pháp đoạt giải. các công trình đoạt giải
đã được chuyển giao ứng dụng vào sản xuất và đời sống.
Trên bình diện quốc tế, hoạt động của đội ngũ trí thức Việt Nam ngày càng
mở rộng và có những cống hiến đóng góp tích cực. Các công trình nghiên cứu được
công bố trên các tạp chí, hội nghị khoa học quốc gia và quốc tế ngày càng tăng.
Trong giai đoạn 1996-2011 Việt Nam có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các
tập san quốc tế có bình duyệt. Chỉ riêng Viện KH&CN Việt Nam, năm 2010, công
bố 1573 công trình khoa học, trong đó 336 công trình tiêu biểu được công bố trên
các tạp chí uy tín đạt tiêu chuẩn ISI (Institute for Scientific Information), tăng hơn
26% so với năm 2009. Số lượng bài báo đăng tạp chí quốc tế của Đại học Quốc gia
61
Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) đã tăng gần 4 lần từ năm 2006 đến 2013.
Năm 2006, toàn ĐHQG-HCM có 110 bài báo quốc tế, đến năm 2013 con số này là
412 bài. Số bài ISI trong tổng số bài báo quốc tế chiếm một tỉ lệ lớn, dao động từ
60% đến 78% tùy năm.
3.1.1.2. Khuyết điểm
* Trí thức Việt Nam phân bổ không đồng đều giữa các địa phương, các
vùng lãnh thổ, các loại hình đơn vị và các thành phần kinh tế
Trí thức Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các địa phương và các vùng
miền của đất nước, trong đó, chủ yếu là tại vùng đồng bằng Sông Hồng và Miền
Đông Nam bộ. Theo số liều điều tra của Tổng cục Thống kê đến 31/12/2012, cả
nước có 6.107.301 có trình độ cao đẳng trở lên, vùng đồng bằng Sông Hồng đã có
2.102.129 người chiếm 34,4% số lượng trí thức cả nước. Đặc biệt tập trung ở hai
thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó Miền núi và
Trung du phía Bắc chỉ có 583862 trí thức, chiếm 9,56% số lượng trí thức cả nước;
Vùng Tây Nguyên chỉ có 233938 trí thức, chiếm 3,83% số lượng trí thức cả nước
Sự phân bố không đồng đều lực lượng trí thức tạo ra nhiều bất cập cho quá trình
phát triển, ảnh hưởng trực tiếp tới nhiệm vụ xây dựng và củng cố khối liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức.
Đội ngũ trí thức Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các loại hình
đơn vị, chủ yếu là nằm ở khối hành chính sự nghiệp, giáo dục và y tế. Tuy
nhiên trong những năm gần đây xu hướng dịch chuyển cơ cấu từ khối kinh tế
sự nghiệp sang khối kinh tế đã gần ở cân bằng. Nếu như 10 năm trước (2002)
khối kinh tế chỉ có 30,98% trí thức thì đến cuối năm 2012 tỷ lệ này đã tăng lên
49,64%. Khối hành chính sự nghiệp từ 69,02% (2002) thì đến cuối năm 2012 tỷ
lệ này đã giảm còn 49,99%.
Đội ngũ trí thức Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các loại hình doanh
nghiệp. Trong những năm gần đây xu hướng dịch chuyển cơ cấu từ khối doanh
nghiệp nhà nước sang khối doanh nghiệp ngoài nhà nước.. Nếu như 10 năm trước
(2002) doanh nghiệp nhà nước có 31,35% trí thức thì đến cuối năm 2012 tỷ lệ này
chỉ còn 9,10% trí thức. Điều này thế hiện sự phát triển mạnh mẽ của khối doanh
62
nghiệp ngoài nhà nước, mặt khác thể hiện sự yếu kém của khối doanh nghiệp nhà
nước, sự mất dần vai trò chủ đạo trong kinh tế, suy giảm sự thu hút đối với trí thức.
* Trí thức bậc cao vừa thiếu vừa cơ cấu bất hợp lý, trí thức trẻ chất lượng
thấp, thất nghiệp cao
Về số lượng thống kê giáo sư (GS), phó giáo sư (PGS) ở Việt Nam hiện nay,
Theo GS.TSKH Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà
nước (HĐ CDGSNN), cho biết: Từ năm 1976 cho đến hết năm 2013, sau 37 năm,
tổng số GS,PGS đã công nhận ở Việt Nam là 10.453, trong đó có 1.569 GS và
8.884 PGS, nhiều người đã mất và về hưu. Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước
thống kê, trong 5 năm từ 2009 - 2013, Hội đồng CDGSNN đã xét và công nhận đạt
tiêu chuẩn chức danh GS, PGS cho tổng số 2.744 nhà giáo, trong đó 269 GS và
2475 PGS. Như vậy, trong 5 năm gần đây, bình quân mỗi năm có thêm được 54 GS
và 493 PGS, nhưng vẫn chưa bù kịp cho số GS, PGS về hưu hàng năm.
Trong sự phân bố cơ cấu đội ngũ tiến sỹ lại càng bất cập. Theo Bộ Giáo dục -
Đào tạo, tính đến năm 2013 chỉ có 633 tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519
tiến sĩ là giảng viên các trường đại học trong khi đó, Việt Nam có khoảng 24.300 tiến sĩ.
Trong khi đó, theo TS Nguyễn Khắc Hùng, nguyên Chuyên viên Đối ngoại, Học viện
Hành chính Quốc gia nếu tính từ hàm Thứ Trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở
Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản.
Trong khi trí thức bậc cao vừa thiếu vừa cơ cấu bất hợp lý thì số trí thức trẻ ra
trường do chất lượng đào tạo thấp, đào tạo tràn lan nên không tìm được việc làm ngày
một gia tăng nhanh chóng. Theo thống kê mới nhất từ Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội (LĐ-TB&XH), tính đến hết quý 1/2014, cả nước có hơn 1 triệu người trong
độ tuổi lao động bị thất nghiệp, tăng 145,8 nghìn người so với quý 4/2013. Đặc biệt
hiện có 162,4 nghìn người có trình độ từ đại học trở lên đang thất nghiệp; 79,1 nghìn
người có trình độ cao đẳng chưa có việc làm.
* Chất lượng đội ngũ trí thức Việt Nam chưa cao, chưa đáp ứng được yêu
cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chưa tiến kịp với khu vực và quốc tế
Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong giai đoạn 2006 - 2010,
Việt Nam có khoảng 200 bằng sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp tại Cục Sở hữu trí
63
tuệ”. Còn theo 2 tác giả Lê Văn Út và Thái Lâm Toàn thì “từ năm 2006 - 2010, Việt
Nam chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng kí tại Hoa Kì. Trong khi đó Nhật Bản là
46.139, Hàn Quốc là 12.262, Singapore là 647, Malaysia là 161, Thái Lan là 53,
Philippin là 27”. Về công bố quốc tế, theo thống kê của Viện Thông tin khoa học (ISI),
trong 15 năm qua (1996 - 2011), Việt Nam chỉ có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố
trên các tạp san quốc tế, bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/6 của Malaysia
(75.530), 1/10 của Singapore (126.881)...
Bên cạnh những hạn chế về khả năng sáng tạo, trình độ ngoại ngữ của trí
thức Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động chuyên môn. Thực tế
cho thấy, chỉ một bộ phận trí thức được đào tạo ở nước ngoài mới đáp ứng được yêu
cầu về trình độ ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quốc tế. Chính hạn chế này đã ảnh hưởng
trực tiếp tới hoạt động sáng tạo của trí thức Việt Nam, bởi lẽ, trong điều kiện hiện
nay, nếu không bảo đảm được yêu cầu về ngoại ngữ thì khó có thể tiếp cận được
kho tri thức phong phú của nhân loại được đăng tải trên Internet; ít có điều kiện để
tham gia các hoạt động hợp tác trong nghiên cứu với các tổ chức ở bên ngoài, các
cuộc hội thảo quốc tế v.v...Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, một bộ phận trí thức thoái hóa, biến chất, chạy theo đồng tiền mà không
chú ý tới việc thực hiện chức năng của người trí thức chân chính. Đặc biệt, trong
điều kiện nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, chế độ đãi ngộ của Đảng và Nhà
nước còn nhiều bất cập, một bộ phận trí thức (nhất là trí thức trẻ) có xu hướng xa
rời hoạt động của trí thức để tham gia vào các lĩnh vực khác có thu nhập cao hơn.
Bên cạnh đó, một bộ phận trí thức, trong đó, có những người có trình độ học vấn và
chuyên môn cao, còn thiếu tự tin, e ngại, né tránh những vấn đề nhạy cảm. Hay nói
cách khác, hoạt động phản biện của trí thức Việt Nam đối với những vấn đề hệ
trọng của đất nước vẫn còn yếu, chưa tương xứng với tiềm năng của họ. Đánh giá
về những hạn chế này, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa X về "xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước", Đảng ta khẳng định: “Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình
độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị qui kết về quan điểm, né tránh những
vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý
64
thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực
và tinh thần hợp tác. Một số trí thức không thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi
chuyên môn nghiệp vụ, thiếu ý chí và hoài bão. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu
phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên
môn” [49, tr. 86].
3.1.2. Thực trạng công tác vận động trí thức
3.1.2.1. Ưu điểm trong công tác vận động trí thức
a) Về nội dung công tác vận động trí thức
* Đảng đã ban hành nghị quyết, xác định nhiều chủ trương, chính sách về
công tác vận động trí thức
Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng đã xác định: đối với trí thức nhằm lôi
kéo họ về với cách mạng và không được đẩy họ về phía khác. Tuy nhiên, trong suốt
một thời kỳ dài, Đảng vẫn xếp trí thức tiểu tư sản vào hàng ngũ của giai cấp tư sản dân
tộc cải lương, chưa đặt họ vào hàng ngũ công - nông . Tới trước năm 1951, Đảng ta
vẫn xếp hai động lực chính (hai lực lượng chính) của cách mạng Đông Dương là thợ
thuyền và nông dân. Mãi đến Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Đảng mới xác nhận
tầng lớp trí thức “là bạn đồng minh có thể tin cậy”. Văn kiện Đại hội III (năm 1960)
của Đảng xác định: “Cần kết hợp cả ba mặt chính trị, vǎn hóa và kỹ thuật, nghiệp vụ,
lấy chính trị làm gốc, nhằm xây dựng một đội ngũ trí thức trung thành với CNXH, có
trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao”. Sau khi đất nước thống nhất,
tại Nghị quyết Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta ngoài việc chú trọng xây dựng một đội
ngũ trí thức đông đảo, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và CNXH, đủ sức làm chủ và
vận dụng sáng tạo những thành tựu văn hóa, khoa học, kỹ thuật hiện đại để giải quyết
những vấn đề cụ thể của đất nước, đã quan tâm đến điều kiện vật chất, phương tiện làm
việc cho trí thức đặc biệt đã quan tâm đến việc sử dụng trí thức dưới chế độ cũ, chú ý
đến tập hợp vận động trí thức Việt kiều. Bố trí, sử dụng trí thức một cách hợp lý, tạo
cho trí thức những điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi, trước hết là phương tiện
làm việc, phương tiện nghiên cứu. Sử dụng tốt những cán bộ khoa học, kỹ thuật đã làm
việc dưới chế độ cũ ở miền Nam, giúp anh chị em đó mau chóng trở thành những
người trí thức xã hội chủ nghĩa.
65
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng đã từng bước đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Điều đó thể hiện quan Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VII, IX, X, XI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991( bổ sung, phát triển năm 2011 ) và
trong các nghị quyết, kết luận chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ VI (1986)) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là “cột
mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân
ta”. Vấn đề trí thức và KHKT được thực sự mở ra với những luận điểm mới, lần
đầu tiên Văn kiện Đại hội Đảng khẳng định: “Khoa học, kỹ thuật là một động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội.”và “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là
đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho các khả năng sáng tạo được sử dụng
đúng và phát triển”.
Ngày 27-3-1990, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã kịp thời ban
hành Nghị quyết số 8B-NQ/TW về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Đối với trí thức, Nghị quyết số 8B-
NQ/TW nêu rõ “Các đoàn thể quần chúng cùng với các cấp ủy đảng, các cơ quan
nhà nước phải sâu sát tình hình các trường đại học, các cơ quan khoa học, các hội
văn học - nghệ thuật, giúp đỡ giải quyết những yêu cầu chính đáng, tạo điều kiện cho
trí thức phát huy tài năng”.
Đến Đại hội VII (Năm 1996), vấn đề trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức ngày càng được chú trọng. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: Thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH “, ngày 27-6-1996, cùng với công nhân và nông
dân, trí thức được xem là nền tảng, là một lượng lượng quan trọng trong liên minh
Công nhân, nông dân và trí thức. Đảng khẳng định cần phải “Đào tạo, bồi dưỡng và
phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho
đất nước”.
Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng
ta nêu quan điểm chủ đạo mang ý nghĩa phương hướng lớn cho công tác vận động
trí thức:
66
Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy
dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học
phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những
cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư
vấn, phản biện của các hội KHKT, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật
đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội [45, tr. 119].
Đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một nghị quyết riêng về trí
thức. Nghị quyết là cơ sở để Đảng ta và toàn xã hội thống nhất trong nhìn nhận một
cách đúng đắn, khách quan vị trí, vai trò của trí thức đối với sự phát triển đất nước.
Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng luôn quan tâm đến phát triển GD&ĐT.
Đổi mới GD&ĐT là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều Nghị quyết, chỉ
thị về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Nghị quyết Trung
ương 2 khóa VIII (12-1996) của Đảng khẳng định “Nhận thức sâu sắc giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng cường kinh tế
và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Thông
báo Kết luận số 242 của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 15/9/2009. Đảng đã khẳng định:
GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; Giáo dục là sự
nghiệp của Đảng, của Nhà nước và toàn dân; mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; giáo dục phải gắn liền với sự phát triển KT - XH,
những tiến bộ khoa học - công nghệ; đa dạng hóa các loại hình giáo dục; học đi đôi với
hành, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình, xã hội; thực hiện công bằng
trong giáo dục…
Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt được những kết quả
quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, GD&ĐT còn những bất
cập, yếu kém. Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, yêu cầu phát triển giáo dục,
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
67
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” [50]. Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội
XI, ngày 4/11/2013, Hội nghị Trung ương 8 đã thông qua Nghị quyết 29-NQ/TW về
đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. Đây là những nghị quyết hết sức quan trọng
góp phần đưa giáo dục đào tạo phát triển nhằm thúc đẩy việc nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, nhân tài nói chung và đặc biệt góp phần tạo nên nền tảng vững chắc
cho việc đặt nền móng để xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
Đảng đã đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm về khoa học và công nghệ để
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Đảng đã ban hành nhiều văn bản về KH&CN
như Nghị quyết số 26 NQ/TU ngày 30-3-1991 của Bộ chính trị (khóa VI) về "Khoa
học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới". Nghị quyết đã xác định rõ chủ trương,
chính sách, phương hướng, nhiệm vụ và các biện pháp lớn thúc đẩy hoạt động
KHCN, trong đó khẳng định: Kiện toàn Ủy ban Khoa học Nhà nước đủ sức thực
hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước các hoạt động khoa học và công nghệ trong
phạm vi cả nước.Tiếp theo đó Đảng đã ban hành các Nghị quyết 01 của Bộ Chính
trị và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII). NQTW 2 (Khóa VIII) về định hướng
chiến lược phát triển KH&CN và những nhiệm vụ đến năm 2000.Việc thực hiện các
nghị quyết này đã bước đầu nâng cao tiềm lực KH&CN của đất nước, thúc đẩy việc
đưa các tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống, góp phần đưa nước ta ra khỏi
tình trạng khủng hoảng KT - XH, tạo ra những tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, sau nhiều năm đổi mới, hoạt
động KH&CN vẫn bộc lộ nhiều tồn tại hạn chế: hoạt động KH&CN nhìn chung còn
trầm lắng, chưa thực sự trở thành động lực phát triển KT - XH . Việc huy động
nguồn lực của xã hội vào hoạt động KH&CN chưa được chú trọng; đầu tư cho
KH&CN còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao; Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ
cán bộ KH&CN còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động KH&CN chậm được
đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ chưa gắn với
yêu cầu phát triển KT - XH ; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý. Chính vì vậy, Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã Nghị quyết về phát triển
KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
68
* Công tác đoàn kết, tập hợp và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được chú trọng
Trong công tác vận động trí thức, Đảng, Nhà nước và các đoàn thể đã chú
trọng công tác đoàn kết, tập hợp đội ngũ trí thức. Ngoài số trí thức trong các tổ chức
công lập như các viện nghiên cứu, các trường học, Đảng, Nhà nước và các tổ chức
xã hội đã tiến hành nhiều hoạt động để thu hút, tập hợp trí thức vào trong các tổ
chức của trí thức ngoài công lập. Cho đến nay đã có hàng trăm tổ chức Hội trí thức
với hàng ngàn chi hội thành viên. Trong số đó, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam có 140 Hội thành viên (77 Hội ngành toàn quốc và 63 Liên hiệp Hội
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật có
73 Hội thành viên (10 Hội ngành toàn quốc và 63 Liên hiệp Hội Liên hiệp các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương). Ngoài ra để tập hợp phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức hoạt động riêng lẻ, Đảng và Nhà nước đã chủ trương cho thành lập các tổ
chức khoa học và công nghệ ngoài nhà nước (Thành lập theo Nghị định số 81/NĐ-
CP, nay là Nghị định số 08/NĐ-CP). Đến nay cả nước có gần 2000 tổ chức khoa
học và công nghệ (Trong đó Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có
hơn 800 đơn vị). Song song với việc đoàn kết tập hợp trí thức trong nước, Đảng và
Nhà nước cũng quan tâm chú trọng công tác đoàn kết tập hợp thu hút trí thức Việt
Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng quê hương.
b) Về hình thức vận động trí thức
Một là, công tác vận động trí thức đã được thể hiện trong Cương lĩnh, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Công tác vận động trí thức luôn dựa trên cơ sở chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác vận động nhân dân đã gắn
với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Chính
vì vậy, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận
động trí thức. Cương lĩnh năm 1991 đã đề cập tinh thần mới về trí thức, đặc biệt
Nghị quyết số 27- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Xây
dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
69
đã thể hiện nhận thức sâu sắc của Đảng về trí thức phù hợp với điều kiện phát
triển của xã hội nói chung cũng như sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp
trong tình hình mới ở Việt Nam nói riêng.
Thể chế hóa chủ trương đường lối của Đảng, Quốc hội đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật quan trong như Luật Giáo dục, Luật Khoa học và Công Nghệ,
Luật Sở hữu trí tuệ…Chính phủ và các Bộ, các cấp chính quyền đã ban hành nhiều
chính sách khuyến học, khuyến tài, thực thi đường lối vận động trí thức của Đảng.
Hai là, công tác tuyên truyền, thu hút, tập hợp trí thức với nhiều hình thức
(gặp gỡ, giao lưu, đối thoại, trao đổi …) được chú trọng.
Công tác vận động trí thức được tiến hành bằng nhiều hình thức đa dạng
phong phú như tuyên truyền, thuyết phục, đối thoại gặp gỡ, giao lưu với trí thức.
Khắc phục thông tin một chiều nặng về phổ biến truyền đạt theo kiểu áp đặt, công
tác tuyên truyền đã chuyển sang thông tin hai chiều, đã thực hiện chủ động tiếp
nhận thông tin, đối thoại, trao đổi, giải quyết những vấn đề đặt ra để tạo sự nhất trí
cao. Hoạt động tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, chú trọng đối tượng có
tính đặc thù. Việc phổ biến, quán triệt nghị quyết của Đảng được đổi mới theo
hướng xác định phương pháp, cách thức tuyên truyền; học tập, lựa chọn nội dung cơ
bản, thiết thực, sát hợp với từng đối tượng trí thức. Các tổ chức của trí thức và
những trí thức có uy tín được bố trí tham gia đấu tranh chống các thông tin, quan
điểm sai trái, thù địch, đa dạng hóa hình thức đấu tranh nhất là đối với những trí
thức có quan điểm sai trái, lệch lạc.
Ba là, Nhà nước đã xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản
pháp luật, chính sách liên quan đến công tác vận động trí thức.
Nhà nước đã quan tâm, tập trung xây dựng hệ thống pháp luật, chế độ chính
sách về các quyền và nghĩa vụ liên quan đến trí thức. Nhiều chủ trương, chính sách
và quy định của cơ quan nhà nước trước khi ban hành đã có sự tham gia đóng góp ý
kiến của trí thức nhất là từ khi có Quyết định số 22-2002/QĐ-TTg (đã được thay thế
bằng QĐ-TTg 14/2014/QĐ-TTg ngày 14/02/2014 ) của Thủ tướng Chính phủ về
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam.
70
Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của lãnh đạo các cơ quan đơn vị đối
với trí thức được nâng lên. Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp (Kể cả Ban Bí thư,
Thủ tướng Chính phủ) hằng năm đã xây dựng chương trình, kế hoạch đi cơ sở, gặp
gỡ các tổ chức của trí thức, đối thoại trực tiếp với trí thức, lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng của trí thức; quan hệ giao tiếp, thái độ ứng xử với trí thức có chuyển biến tích
cực. Tiến trình cải cách hành chính được đẩy nhanh, bảo đảm định hướng dân chủ,
công khai, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện; góp phần làm trong sạch bộ máy, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước; hạn chế cơ chế “xin,
cho” trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Các bộ, ngành và chính quyền các cấp đã quan tâm đến việc ban hành các
quy định liên quan đến các tổ chức của trí thức và công tác vận động trí thức nhằm
củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Nhiều cơ quan, đơn vị đã
chỉ đạo và tổ chức rà soát, bổ sung hoặc ban hành mới quy chế đào tạo bồi dưỡng,
bố trí, đề bạt trí thức. Các cơ quan chính quyền các cấp điều hành công việc theo
chức năng quản lý nhà nước, đồng thời làm tốt công tác vận động trí thức tạo điều
kiện để trí thức tham gia xây dựng, củng cố chính quyền.
Bốn là, vai trò tiên phong gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong công tác vận động trí thức có chuyển biến.
Đảng thực hiện công tác vận động trí thức thông qua vai trò tiên phong
gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng, nhất là những người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức giáo dục,
đào tạo, cơ quan, tổ chức của trí thức, những đảng viên trí thức có uy tín. Nhằm
tăng cường công tác vận động trí thức, trong những năm qua, Đảng đã cử
những cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực để làm công tác vận động
trí thức, giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan
có đông trí thức như các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, các tổ
chức của trí thức…. Đảng xác định các quan điểm, nguyên tắc về việc thành
lập, sắp xếp các tổ chức, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, về đào
tạo và sử dụng cán bộ. Đảng quyết định việc đảng viên giữ các chức vụ quan
trọng trong các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, các tổ chức của
71
trí thức, rồi giới thiệu và lãnh đạo để các cơ quan đó tổ chức bầu cử hoặc bổ
nhiệm theo quy trình, thủ tục của Nhà nước, theo Điều lệ và cách thức của các
đoàn thể. Đưa cán bộ giỏi, có uy tín của Đảng vào bộ máy các trường đại học,
các viện nghiên cứu khoa học, các tổ chức của trí thức để bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng là vấn đề hệ trọng, nhưng phải lựa chọn và bố trí đúng những cán bộ
vừa có năng lực lãnh đạo chính trị, vừa có năng lực chuyên môn, nhất là những
cơ quan khoa học. Không lấy tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên của Đảng để chuyển
sang và bố trí cán bộ làm công tác vận động trí thức. Không quan niệm đã là
cấp ủy thì đương nhiên có đủ trình độ, năng lực làm thủ trưởng cơ quan khoa
học, cơ quan của trí thức. Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ
làm công tác vận động trí thức có phẩm chất chính trị tốt và có trình độ chuyên
môn cao, làm việc chuyên sâu, thành thạo nghiệp vụ, tránh tình trạng áp đặt.
Năm là, vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị -xã hội, các tổ chức của
trí thức, các tổ chức xã hội được phát huy, đã có sự phối hợp để tạo ra sức mạnh
tổng hợp trong việc đoàn kết, tập hợp và phát huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm
năng trí tuệ của đội ngũ trí thức.
MTTQ và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội với các hình thức vận
động trí thức ngày càng đa dạng, phong phú, thu hút đông đảo các đối tượng trí
thức tham gia các hội, tổ chức, các câu lạc bộ theo sở thích, ngành nghề, theo
giới, lứa tuổi... Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tập hợp,
quy tụ các trí thức tiêu biểu trong các dân tộc, tôn giáo, doanh nghiệp... tham gia
đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân, MTTQ, các đoàn thể nhân dân. Thành
phần, cơ cấu ban lãnh đạo của các tổ chức được mở rộng với sự tham gia ngày
càng đông của đội ngũ trí thức. Thực hiện chức năng giám sát, MTTQ, các tổ
chức chính trị - xã hội tiến hành giám sát các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử, cán bộ, đảng viên, công chức trong việc thực hiện các chính
sách liên quan đến trí thức và vận động trí thức như KH&CN, GD&ĐT... Sự
phối kết hợp chặt chẽ toàn diện của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đã góp
phần xây dựng và đào tạo, phát huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm năng trí tuệ
của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
72
3.1.2.2. Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác vận động trí thức
a) Về nội dung công tác vận động trí thức
Một là, công tác tư tưởng đối với trí thức vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan khoa học, đơn vị sự nghiệp
như các học viện, nhà trường, bệnh viện… chưa quan tâm, coi trọng đúng mức công
tác tư tưởng, thậm chí một số nơi buông lỏng công tác này. Nhìn chung, nội dung,
hình thức công tác tư tưởng của Đảng đối với các tập thể, trí thức còn chung chung,
chưa phong phú, đa dạng, thông tin một chiều và thiếu tính nhạy bén, sâu sắc hạn
chế thay đổi chậm. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa đi sâu, đi sát từng đối tượng để
có nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng phù hợp, nên chưa
thỏa mãn nhu cầu thông tin tư tưởng của một bộ phận những nhà trí thức, những
nhà khoa học có trình độ cao.Việc định hướng chính trị tư tưởng, nhận thức, động
cơ, trách nhiệm cho trí thức, nhất là trí thức trẻ còn chậm, thiếu sinh động. Đây là
một hạn chế của cả nhà trường, gia đình và xã hội.
Hai là, việc tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức chưa cao, việc thu hút trí thức
Việt kiều về tham gia xây dựng đất nước còn hạn chế.
Công tác đoàn kết tập hợp trí thức vào các tổ chức chưa tốt, tỷ lệ trí thức
đứng ngoài các tổ chức Đảng, Đoàn, Hội còn cao. Ngay cả những tổ chức như Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật cũng chỉ mới tập hợp được khoảng 30% trí thức
vào tổ chức Hội. Công tác tập hợp, đoàn kết, thu hút trí thức người Việt Nam ở
nước ngoài còn hạn chế. Hiện nay có gần 300.000 chuyên gia, trí thức người Việt
Nam ở nước ngoài, bao gồm người có trình độ từ đại học trở lên và các chuyên gia
có kỹ thuật, tay nghề cao, tập trung chủ yếu ở các nước phương Tây. Tuy nhiên,
hằng năm mới có khoảng 300 lượt chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước
ngoài về nước tham gia giảng dạy, hợp tác với trong nước.
Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức còn
bộc lộ nhiều yếu kém.
Cùng với những yếu kém của ngành giáo dục và đào tạo, việc xây dựng đội
ngũ trí thức còn nhiều yếu kém. Đội ngũ trí thức tuy đông về số lượng nhưng yếu về
chất lượng. Nhiều trí thức không được bố trí lao động theo đúng ngành nghề của
73
mình, số trí thức trẻ thất nghiệp nhiều. Trí thức khoa học công nghệ có trình độ cao
còn ít, song chưa được sử dụng một cách có hiệu quả, đang bị lão hóa, ít có điều
kiện cập nhật kiến thức mới, sự hẫng hụt về trí thức đầu ngành là nghiêm trọng,
nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản. Một số trí thức chưa say mê nghiên cứu
khoa học, thiếu hoài bão lớn, chưa phát huy được năng lực nội sinh, tinh thần chủ
động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám thức trách nhiệm. Điều đó cho thấy, trước
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay, công tác xây dựng đội ngũ trí thức vừa
có trí, có tâm, vừa có tầm là một nhiệm vụ, đòi hỏi ngày càng cấp bách.
Bốn là, việc chăm lo bảo đảm chính sách, chế độ đãi ngộ, lợi ích vật chất,
tinh thần của đội ngũ trí thức còn thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu chính
đáng của trí thức.
Trước hết nói về việc làm, hiện nay tình trạng trí thức ra trường không có
việc làm, làm việc không đúng ngành nghề còn phổ biến. Một mặt đây là yếu kém
của ngành giáo dục và đào tạo, mặt khác thể hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước chưa đi vào cuộc sống, tâm lý chỉ tìm đường vào đại học nhưng
không xác định rõ về hướng nghiệp trong xã hội còn phổ biến. Chế độ, chính sách
tiền lương chưa phù hợp, sinh viên tốt nghiệp đại học mức lương hiện nay chưa đủ
nuôi sống bản thân, chưa thể phụ giúp gia đình. Điều này một phần lý giải tại sao trí
thức Việt kiều, sinh viên du học không về nước công tác.
Việc tôn vinh trí thức cũng còn nặng về hình thức, thiếu thực chất, thiếu thực
tế với những đòi hỏi khắt khe. Điều này làm cho một số trí thức, văn nghệ sỹ không
muốn tham gia vào việc vinh danh, xét thưởng.
b) Về hình thức công tác vận động trí thức
Một là, hình thức tuyên truyền thuyết phục trí thức đổi mới chậm, chưa sát
với đặc thù của trí thức.
Nhìn chung, hình thức tuyên truyền, thuyết phục trí thức vẫn đi theo lối cũ,
sáo mòn, chậm được đổi mới. Hình thức đối thoại, diễn đàn khoa học chuyên
nghiệp còn ít được sử dụng, chưa tạo môi trường bày tỏ quan điểm của trí thức và
chưa phát huy được vai trò của trí thức trong tư vấn phản biện chủ trương chính
sách. Đặc biệt đối với trí thức là những người có trình độ, có khả năng tiếp cận
74
thông tin cao, nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin, nếu đội ngũ báo cáo viên trình
độ không ngang tầm, nên hiệu quả tuyên truyền, thuyết phục thấp. Việc đổi mới,
mở rộng hình thức tuyên truyền, đoàn kết tập hợp trí thức Việt kiều cũng còn đơn
điệu, thiếu những kênh truyền hình phủ sóng quốc tế để tuyên truyền, cổ vũ kêu gọi
họ hướng về Tổ quốc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, vận động trí thức thông qua chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đôi lúc còn thiếu kịp thời, thiếu sự nhất quán, thiếu
thực tế.
Việc tổ chức triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về trí thức
đôi lúc chưa kịp thời; chưa dự báo, nắm bắt được những diễn biến, tâm tư, nguyện
vọng của các đối tượng để có biện pháp xử lý phù hợp. Việc thể chế hóa chủ trương,
quan điểm của Đảng về vận động trí thức còn chậm. Một số chủ trương chính sách
như Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sỹ cho các trường đại học, cao đẳng giai
đoạn 2010-2020, được Thủ tướng phê duyệt với chỉ tiêu là đến năm 2020 Việt Nam
sẽ đào tạo bổ sung ít nhất 20.000 tiến sỹ, hay “Chiến lược cán bộ, công chức khối
chính quyền thành phố” của Thành phố Hà Nội, đến năm 2020, Hà Nội phấn đấu có
100% cán bộ diện Thành ủy quản lý có trình độ tiến sĩ… thể hiện thiếu thực tế, chạy
theo bằng cấp. Nhiều chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ (tiền lương,
chế độ thưởng, phụ cấp, bảo vệ quyền sáng chế, trẻ hóa đội ngũ, quy chế dân chủ,
phát huy quyền tự do sáng tạo trong nghiên cứu…) chưa được thay đổi. Chưa tạo ra
được một không khí hoạt động khoa học và công nghệ sôi động.
Ba là, việc vận động trí thức bằng công tác cán bộ, thông qua vai trò tiên
phong gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng
viên chưa có sức thuyết phục trí thức.
Lãnh đạo trí thức, vận động trí thức đòi hỏi người cán bộ phải có tâm có đức,
song, điều không kém phần quan trọng là các cấp ủy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất
là cán bộ chủ chốt phải có trình độ trí tuệ đến mức cần thiết. Bởi vì, thông thường
trí thức thường không dễ chấp nhận người lãnh đạo mình lại quá non kém về trình
độ trí tuệ. Và nếu như thế thì cán bộ lãnh đạo khó tuyên truyền một cách thuyết
phục đường lối, quan điểm của Đảng cho đội ngũ trí thức và càng khó định hướng
75
hoạt động của trí thức theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, cũng như không
thể khơi dậy, phát huy tốt tính sáng tạo của trí tuệ cống hiến cho sự nghiệp cách
mạng. Trong bối cảnh hiện nay, một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, hư hỏng, biến
chất, tham ô, tham nhũng, nói không đi đôi với làm đang là những tấm gương xấu
cho trí thức, làm mất lòng tin của trí thức với Đảng chứ chưa nói đến việc trở thành
những tấm gương sáng cho trí thức noi theo.
Bốn là, việc vận động trí thức bằng sự phối, kết hợp giữa các tổ chức đảng
với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -xã hội, các tổ chức xã
hội thiếu sự liên kết đồng bộ.
Công tác vận động trí thức là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, Đảng
lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, MTTQ, đoàn thể làm nòng cốt, tham mưu
về công tác vận động, tập hợp trí thức thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.. Tuy nhiên sự phối hợp giữa MTTQ, các tổ chức chính trị
- xã hội với chính quyền các cấp trong vận động nhân dân chưa được triển khai
đồng bộ. Tình trạng “hành chính hóa”, làm theo phong trào, thiếu cụ thể, thiếu thực
tiễn còn phổ biến. Nhiều chương trình phối hợp được ký kết rất long trọng nhưng
triển khai thực hiện kém, thiếu sự sơ kết tổng kết dẫn hiệu quả không cao. Nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các Đoàn thể, các Hội của trí thức
chậm được đổi mới, chưa đủ sức thu hút tập hợp trí thức.
3.2. ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN
ĐỘNG TRÍ THỨC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM
3.2.1. Thực trạng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức
3.2.1.1. Những ưu điểm
* Những ưu điểm trong đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng
Một là, đã có những đổi mới trong nhận thức, quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng về công tác vận động trí thức và đổi mới việc tổ chức thực hiện các
chủ trương, chính sách đó
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng đã từng bước đổi mới nhận thức,
quan điểm, chủ trương … của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Điều đó thể
76
hiện quan Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII,VIII,IX, X, XI, trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991
(bổ sung, phát triển năm 2011) và trong các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ VI (1986)) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là “cột
mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân
ta”. Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã chính thức thông qua đường lối đổi mới toàn
diện nền kinh tế - chính trị của xã hội. Vấn đề trí thức và khoa học kỹ thuật KHKT
được thực sự mở ra với những luận điểm mới. Lần đầu tiên Văn kiện Đại hội VI
khẳng định: “Khoa học, kỹ thuật là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và xã
hội.”và “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là đánh giá đúng năng lực”.
Ngày 27-3-1990, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã kịp thời ban
hành Nghị quyết số 8B-NQ/TW về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Nghị quyết đã xác định rõ bốn quan
điểm và những giải pháp chủ yếu, nhằm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về công tác
dân vận (vận động nhân dân) phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước. Đối với trí thức, Nghị quyết số 8B-NQ/TW nêu rõ “Các đoàn thể quần
chúng cùng với các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước phải sâu sát tình hình các
trường đại học, các cơ quan khoa học, các hội văn học - nghệ thuật, giúp đỡ giải
quyết những yêu cầu chính đáng, tạo điều kiện cho trí thức phát huy tài năng”
Đến Đại hội VII (năm 1991), vấn đề trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức ngày càng được chú trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH”, cùng với công nhân và nông dân, trí thức được xem là nền tảng, là một
lượng lượng quan trọng trong liên minh công nhân, nông dân và trí thức “xây dựng
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đảng khẳng định cần phải “Đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và
nhân tài cho đất nước”.
77
Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng ta nêu
quan điểm, định hướng lớn cho công tác vận động trí thức: “Đối với trí thức, phát huy
trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến
khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi
trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội KHKT, khoa học xã hội và văn học, nghệ
thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội” [47, tr. 119].
Đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một nghị quyết riêng về trí
thức. Nghị quyết là cơ sở để Đảng ta và toàn xã hội thống nhất trong nhìn nhận một
cách đúng đắn, khách quan vị trí, vai trò của trí thức đối với sự phát triển đất nước.
Đảng đã đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm về khoa học và công nghệ để
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Để phát triển khoa học công nghệ và phát huy
tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, Đảng ta
đã ban hành nhiều văn bản về KH&CN như Nghị quyết số 26 NQ/TU ngày 30-3-
1991 của Bộ Chính trị (khóa VI) về “Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi
mới”. Nghị quyết đã xác định rõ chủ trương, chính sách, phương hướng, nhiệm vụ
và các biện pháp lớn thúc đẩy hoạt động KHCN, trong đó khẳng định: Kiện toàn Ủy
ban Khoa học Nhà nước đủ sức thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước các hoạt
động khoa học và công nghệ trong phạm vi cả nước.Tiếp theo đó Đảng đã ban hành
các Nghị quyết số 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
7 (khóa VII). Nghị quyết Trung ương 2 (Khóa VIII) về định hướng chiến lược phát
triển KH&CN và những nhiệm vụ đến năm 2000.Việc thực hiện các nghị quyết này
đã bước đầu nâng cao tiềm lực KH&CN của đất nước, thúc đẩy việc đưa các tiến bộ
KH&CN vào sản xuất và đời sống, góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng
hoảng KT - XH, tạo ra những tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, sau nhiều năm đổi mới, hoạt động KH&CN
vẫn bộc lộ nhiều tồn tại hạn chế: hoạt động KH&CN nhìn chung còn trầm lắng,
chưa thực sự trở thành động lực phát triển KT - XH. Việc huy động nguồn lực của
78
xã hội vào hoạt động KH&CN chưa được chú trọng; đầu tư cho KH&CN còn thấp,
hiệu quả sử dụng chưa cao; Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ KH&CN còn
nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động KH&CN chậm được đổi mới. Công tác
quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển
KT - XH ; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã ra Nghị quyết về phát triển KH&CN phục vụ
sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Hai là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với Nhà
nước trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về công tác vận động trí thức
và quản lý nhà nước theo pháp luật về công tác vận động trí thức
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, là tiền đề và
điều kiện để Nhà nước giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân của mình. Trong những năm đổi mới, Đảng luôn củng cố,
giữ vững vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, nắm chắc vai trò cầm quyền của mình -
cầm quyền vì lợi ích của nhân dân. Nội dung chủ yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức là Đảng đề ra đường lối, chủ
trương đúng đắn để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Đảng lãnh
đạo các nhánh quyền lực của Nhà nước như Quốc hội, Chính phủ thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước về vận động trí
thức và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó; tăng cường quản lý cán bộ,
đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch,
vững mạnh; tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan quản lý
nhà nước, các tổ chức sự nghiệp, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, doanh
nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về công tác vận động trí thức.
Ba là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây dựng tổ
chức, bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí thức.
Do đặc thù của đội ngũ trí thức khác với các giai tầng xã hội khác, họ là những
người có học vấn cao, vì vậy Đảng chủ trương từ Trung ương đến địa phương, cơ sở
79
phải đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng một đội ngũ cán bộ chủ chốt chuyên trách và bán
chuyên trách giúp Trung ương nghiên cứu, soạn thảo ra các “vấn đề vĩ mô”, các chủ
trương, đường lối và giúp các địa phương, cơ sở vận dụng, triển khai một cách đúng
đắn, sáng tạo, có hiệu quả tốt công tác vận động trí thức ở các cấp.
Nhìn chung, trình độ học vấn và trí tuệ của các cán bộ chủ chốt ở các cấp chí
ít cần bằng hoặc trội hơn, nhất là về lý luận chính trị, các khoa học lãnh đạo, quản lý
so với trình độ chung của bộ phận trí thức mà họ được trực tiếp phân công đảm
nhiệm trong công tác vận động trí thức. Đó vừa là nhận thức, vừa là kinh nghiệm
thực tiễn rất cần chú trọng trong công tác này. Hơn thế, đội ngũ cán bộ làm công tác
vận động trí thức còn phải được học tập, tích lũy các nghệ thuật tổng hợp trong
công tác vận động trí thức, ví dụ: nghệ thuật giao tiếp; nghệ thuật ứng xử; nghệ
thuật tuyên truyền, thuyết phục; nghệ thuật “phản biện” hay đấu tranh; nghệ thuật
biểu dương, khen thưởng về tinh thần và vật chất… Rất nhiều trí thức coi trọng
động lực tinh thần, dù không coi thường các động lực vật chất. Vì vậy, cán bộ làm
công tác vận động trí thức phải đạt yêu cầu: được đa số trí thức mà mình tiếp xúc
“khẩu phục, tâm phục”, thì công tác này mới có kết quả tốt.
Bốn là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư
tưởng, công tác tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường
lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Quá trình đổi mới công tác tư tưởng của Đảng thể hiện qua các Nghị quyết số
07-NQ/TW, ngày 24 - 8 - 1989 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI “Một
số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện
nay”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX số 16-
NQ/TW, ngày 18 - 3 - 2002 “về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong
tình hình mới” và một số nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác tư tưởng, công tác lý
luận đã thể hiện sự đổi mới, chú trọng công tác tư tưởng đối với trí thức.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, các cấp ủy Đảng đã tổ chức và
hướng dẫn các bộ phận khác nhau của tầng lớp trí thức học tập, nghiên cứu một
cách cơ bản và có hệ thống học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở những
mức độ, yêu cầu, nội dung, hình thức và phương pháp khác nhau, phù hợp mỗi đối
80
tượng; Tổ chức và hướng dẫn trí thức nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối
cách mạng, Cương lĩnh, Chiến lược, chủ trương lớn… của Đảng ta, Hiến pháp,
pháp luật, chính sách… của Nhà nước ta và một số nội dung cơ bản hoạt động của
cả hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài việc học tập lý luận
chính trị, việc học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng, vận động, yêu cầu và tạo điều
kiện để trí thức nhận thức và thực hiện đúng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của
Nhà nước, vận động trí thức tự giác và tích cực tham gia các hoạt động xã hội để
hợp tác với nhau, góp phần tăng cường sức mạnh đồng thuận của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Vận động và tạo
điều kiện cho trí thức Việt Nam mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong giai đoạn
hiện nay cũng đã được chú trọng. Nếu như trước đây, công tác chính trị, tư tưởng
đối với trí thức chỉ chú trọng vào việc tuyên truyền vận động thì trong những năm
gần đây, hình thức gặp gỡ, đối thoại trực tiếp để đối thoại giữa các cấp lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa cấp ủy chính quyền địa phương được chú
trọng; đồng thời phát huy ảnh hưởng của những trí thức lớn, có uy tín cao đến bộ
phận đông đảo còn lại của đội ngũ trí thức. Ngoài ra các hoạt động tôn vinh trí thức
như các giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ, giải thưởng Hồ Chí Minh… được
tổ chức định kỳ cũng góp phần động viên tinh thần đối với trí thức.
Năm là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức
Đảng đã đổi mới tư duy về giáo dục và đào tạo để xây dựng đội ngũ trí thức.
Đổi mới GD&ĐT là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị
về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Từ năm 1986, yêu cầu
của đổi mới đất nước là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học
và công nghệ, song giáo dục và đào tạo phải trở thành điều kiện tiên quyết để hiện
thực hóa những mục tiêu của khoa học và công nghệ. Như vậy, để có đội ngũ trí
thức có trình độ kỹ thuật cao thì phải coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu,
bên cạnh đó Đảng ta cũng khẳng định: “giáo dục và đào tạo là chìa khóa để mở cửa
tiến vào tương lai”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khóa VIII (12-1996)
của Đảng khẳng định “Nhận thức sâu sắc giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và
81
công nghệ là nhân tố quyết định tăng cường kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho
giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Với mục tiêu đầu tư cho giáo dục,
trong những năm đầu đổi mới chúng ta chú trọng vào giáo dục Đại học, các trường
đại học là ngành đào tạo chính đội ngũ trí thức trẻ bổ sung cho lực lượng cán bộ
khoa học - công nghệ và chuyên gia trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa
khác. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng chủ trương mở rộng đào tạo cán bộ
khoa học ở nước ngoài, nhằm vào các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn mà
ta đang có nhu cầu cấp bách. Một trong những vấn đề mà Đảng ta quan tâm trong
công tác xây dựng đội ngũ trí thức là việc “trẻ hóa” đội ngũ trí thức. Trước đây số
cán bộ trẻ trong các trường đại học rất ít và hầu như trí thức trẻ không ai được
phong học hàm giáo sư, phó giáo sư, nhưng những năm gần đây, nhờ có nhiều
chính sách như tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, các chính sách đãi ngộ
khác, nhiều trường đại học đã thu hút được đông đảo số lượng cán bộ trẻ, đa dạng
hóa các loại hình đào tạo.
Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt được những kết quả
quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, GD&ĐT còn những bất
cập, yếu kém. GD&ĐT vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa là động lực
quan trọng nhất cho phát triển. Chất lượng giáo dục nhìn chung thấp, chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển KT - XH, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời
kỳ hội nhập quốc tế. Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, yêu cầu phát
triển giáo dục, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” [47]. Cụ thể hóa Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng, ngày 4-11-2013, Hội nghị Trung ương 8 đã thông qua
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. Đây là những
nghị quyết hết sức quan trọng góp phần đưa giáo dục đào tạo phát triển nhằm thúc
đẩy việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhân tài nói chung và đặc biệt góp phần
tạo nên nền tảng vững chắc cho việc đặt nền móng để xây dựng đội ngũ trí thức đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
82
Sáu là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các
lực lượng xã hội trong việc tạo lập môi trường, điều kiện hoạt động khoa học thuận
lợi cho các tập thể trí thức lao động, cống hiến
Việc Đảng xác định một trong những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát
triển đất nước là phát triển KTTT, tiếp tục đổi mới phát triển GD&ĐT, khoa học và
công nghệ. Đây thực chất là tạo môi trường phát huy trí tuệ cho trí thức Việt
Nam. Đại hội XI của Đảng nêu rõ:
Phát triển kinh tế thị trường trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học,
công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết
là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực
nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức. Phát huy và sử
dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác
nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển
kinh tế thị trường đến năm 2020 [51, tr. 220-221].
Với môi trường này, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói
riêng trở thành trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển,
được tôn trọng và phát huy vai trò của mình. Sống trong môi trường trí tuệ thuận lợi,
con người Việt Nam, nhất là người trí thức phải học tập suốt đời, được đào tạo và đào
tạo lại thường xuyên, bằng trường lớp và tự học hỏi để có năng lực chuyên môn
tương xứng, lao động giỏi, đáp ứng được đòi hỏi cao về năng suất, chất lượng của
KTTT. Với đường lối đối ngoại ngày càng đổi mới sẽ mở ra môi trường quốc tế rộng
lớn cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Đường lối đối ngoại chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế tạo điều kiện đa dạng hóa các nguồn lực và địa chỉ đào tạo trí thức
nước ta từ các quốc gia khác nhau. Hợp tác quốc tế về khoa học được mở rộng tạo
khả năng để trí thức nước ta giao lưu, trao đổi thông tin, tiếp cận những tri thức mới.
Trí thức người Việt Nam định cư ở nước ngoài có cơ hội nhiều hơn hướng về Tổ
quốc, đóng góp trí lực và vật lực nhiều hơn vào xây dựng quê hương, đất nước...
83
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo khả năng nhiều cơ
hội và việc làm cho trí thức. Người trí thức có mặt ở mọi thành phần kinh tế, có cơ
hội lựa chọn những nơi làm việc phù hợp để được cống hiến nhiều nhất và hưởng
thụ xứng đáng, hơn nữa có khả năng vươn lên làm giàu chính đáng. Hoàn thiện thể
chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn là phát triển đồng bộ
các yếu tố thị trường và các loại thị trường, trong đó có thị trường khoa học và
công nghệ, thị trường lao động…. tác động trực tiếp đến người trí thức. Bởi vì,
như Đại hội Đảng lần thứ XI nêu rõ: “Phát triển mạnh kinh tế thị trường, KH&CN
gắn với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có hình thức thông tin giới thiệu các
hoạt động và sản phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế và mua bán
các sản phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường” và “Đẩy mạnh phát triển thị
trường lao động. Tiền lương, tiền công phải được gọi là giá cả sức lao động, được
hình thành theo cơ chế thị trường” [51, tr.213]. Như vậy, hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đem lại môi trường thuận lợi, bình
đẳng, và tạo nên động lực kinh tế mạnh mẽ cho trí thức nước ta trong lao động
sáng tạo khoa học. Thế nhưng trong nền kinh tế thị trường, người trí thức cũng
phải chịu sức ép cạnh tranh, phải không ngừng học tập, bồi dưỡng để giữ vững
“thương hiệu” cho sản phẩm khoa học và giá trị “chất xám” của mình. Nhất là,
người trí thức phải biết giữ mình, không bị tha hóa trước những “cám dỗ” và tiêm
nhiễm những tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường…
Bảy là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các
đoàn thể chính tri - xã hội trong việc tập hợp, đoàn kết trí thức trong khối đại đoàn
kết toàn dân tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Đảng đổi mới lãnh đạo Đảng đoàn MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính
trị - xã hội quán triệt sâu sắc, nắm vững và gương mẫu thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng về công tác vận động trí thức theo chức năng, nhiệm vụ của bộ, ngành,
mặt trận và các đoàn thể bằng chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể; Chỉ đạo và
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước liên
quan đến công tác dân vận và nhiệm vụ công tác vận động trí thức của bộ, ngành,
Mặt trận và các đoàn thể; Có biện pháp thực hiện tốt công tác vận động trí thức, ổn
84
định tư tưởng trí thức theo đặc thù, phạm vi của cơ quan, tổ chức mình. Từ sự lãnh
đạo của Đảng, MTTQ đã có nhiều hoạt động như vận động, kêu gọi trí thức Việt
kiều hướng về Tổ quốc, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng những hoạt
động thiết thực. Đoàn Thanh niên với các chương trình, đề án Trí thức trẻ đã tạo cơ
hội cho trí thức trẻ cống hiến và trưởng thành, góp sức vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Phụ nữ với dự án “Nữ trí thức Việt Nam với hoạt động sáng tạo”
nhằm tạo điều kiện để hỗ trợ thương mại hóa các đề tài nghiên cứu của nhà khoa
học nữ, tạo ra giá trị đích thực cho xã hội...
Đảng cũng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như: Chỉ thị 35-CT/TW
ngày 11-4-1988, của Ban Bí thư Trung ương Đảng về củng cố tổ chức và đẩy mạnh
hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, trong đó nêu rõ
“Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo
cơ cấu và quy chế của một đoàn thể quần chúng cấp trung ương”; Ngày 20-11-
1992, Ban Bí thư trung ương Đảng ra Thông báo số 37-TB/TW về tổ chức và hoạt
động của Liên hiệp hội Việt Nam, trong đó đề ra yêu cầu “cần thể chế hóa chức
năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội về khoa học và kỹ thuật của các hội”;
Ngày 11-11- 1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) ra Chỉ thị số 45-CT/TW về đẩy mạnh
hoạt động của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam, trong đó nêu rõ: “Liên hiệp hội
là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN Việt Nam, cùng với các đoàn
thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ngày 16-4-2010, Bộ Chính trị (khóa X) ra Chỉ
thị số 42-CT/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị nêu rõ: Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam có hệ thống từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương là tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo [50].
Nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và của đội
ngũ văn nghệ sĩ, ngày 16-6-2008, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về tiếp tục xây
dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Nghị quyết nêu rõ: Xây
dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng,
85
chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững chắc, có tình yêu
Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng
lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa dạng, đoàn kết, gắn bó cùng phát triển
trong cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước ta.
Ngoài những nghị quyết nêu trên Đảng còn ban hành nhiều nghị quyết khác
nhằm tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức như Nghị quyết số
36- NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII) Về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức, Đảng
còn thành lập các Đảng đoàn của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Hội Liên
hiệp Văn học, Nghệ thuật, Hội Luật gia, Hội nhà Báo… Đây cũng là một sự đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng. Các đảng đoàn tổ chức quán triệt các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, phát huy tinh thần dân chủ, tham gia tư vấn, phản biện về những vấn
đề hệ trọng liên quan đến quốc kế, dân sinh, cũng như mạnh dạn đề đạt ý kiến của
mình trong việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
* Những ưu điểm trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Một là, đã có những đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị quyết và các
định hướng chính sách lớn về trí thức và công tác vận động trí thức
Khác với trước đây, việc ban hành nghị quyết được đưa vào chương trình kế
hoạch toàn khóa của các kỳ Đại hội Đảng và được chuẩn bị kỹ càng, chu đáo, chứ
không phải theo từng vụ việc, từng vấn đề như trước. Ví dụ như khi ban hành Nghị
quyết số 27 - NQ/TW, theo chương trình toàn khóa của Ban Chấp hành Trung
ương, Hội nghị Trung ương 7 sẽ bàn và ra Nghị quyết về ''Phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế”. Trong quá trình chuẩn bị đề án, thấy rằng
về vấn đề giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có những nghị
quyết chuyên sâu: Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VII) về giáo dục và đào tạo, về
khoa học và công nghệ, v.v. Sau đó có rất nhiều nghị quyết và chỉ thị của Bộ Chính
trị liên quan đến vấn đề này. Nhưng về trí thức, dù đã được đề cập ở khía cạnh này,
86
khía cạnh khác trong các nghị quyết chuyên đề, về mặt chính thức chúng ta chưa
bàn tổng thể về xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức, trong khi đó thực tiễn xung
quanh vấn đề trí thức đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới, rất quan trọng. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của đội ngũ trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức, Bộ Chính trị đã
cân nhắc, đề nghị và được Trung ương nhất trí điều chỉnh tiêu đề của Đề án thành
“Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới CNH, HĐH đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế”. Sau đó tại Hội nghị Trung ương thống nhất bỏ cụm từ “ hội nhập
kinh tế quốc tế”. Trước khi ban hành Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa X
đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo để lấy ý kiến các đại biểu trí thức, thể hiện bầu
không khí sinh hoạt dân chủ đối với trí thức tham gia vào công việc có liên quan
đến vận mệnh của chính mình. Trong quá trình hội thảo, thảo luận, đã có khoảng
200 lượt ý kiến của trí thức phát biểu xoay quanh vấn đề trí thức Việt Nam. Khi bản
dự thảo Nghị quyết này đưa ra thảo luận tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X, trong
hai ngày 10 và 11-7-2008, Trung ương đã thảo luận rất sôi nổi, nhiều ý kiến tâm
huyết và sâu sắc. Đã có 108 lượt ý kiến phát biểu. Trong quá trình chỉ đạo chuẩn bị
Đề án, Bộ Chính trị đề xuất đổi tên đề án đã ghi trong Chương trình toàn khóa là
“Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế”,
thành tên mới: “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”. Tên gọi mới này của Nghị quyết đã được đa số các ủy viên
Trung ương nhất trí và trở thành tên gọi chính thức
Việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết về trí thức có sự lãnh đạo, chỉ
đạo chặt chẽ và thể hiện quyết tâm chính trị cao của Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy Đảng. Trong nghị quyết có giao trách nhiệm
cụ thể cho các ban của Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung
ương Đảng, các tỉnh ủy, thành ủy…. tổ chức nghiên cứu, quán triệt nghị quyết tới
cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân; xây dựng chương trình
hành động để đưa nghị quyết vào cuộc sống.
Công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết về trí
thức có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và thể hiện quyết tâm chính trị cao thông qua việc
87
tổ chức sơ kết tổng kết và có kết luận, đánh giá ưu, khuyết điểm, phê bình, nhắc nhở,
chấn chỉnh kịp thời đối với các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của
Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát,
phản biện công việc và hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công
quyền, phát hiện mặt tích cực để phát huy, mặt yếu kém để uốn nắn, khắc phục.
Hai là, đã có những đổi mới hoạt động của Đảng trong chỉ đạo xây dựng
chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước về công tác vận động trí thức.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, là tiền đề và
điều kiện để Nhà nước giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân của mình. Nội dung chủ yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức là Đảng đề ra đường lối, chủ
trương đúng đắn để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Trung ương
Đảng và Bộ Chính trị thông qua Đảng đoàn Quốc hội và các đảng viên là đại biểu
Quốc hội để lãnh đạo hoạt động của Quốc hội . Đảng đoàn Quốc hội chịu trách
nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng lập
hiến, lập pháp, đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước; thực hiện đúng đắn
đường lối, chủ trương của Đảng, quyết định những vấn đề về công tác vận động trí
thức, về GD&ĐT, KH&CN. Kiểm tra, giám sát tối cao việc thực hiện đường lối,
chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Quốc hội về công tác vận
động trí thức, về GD&ĐT, KH&CN.
Trong quá trình đổi mới, Đảng đã có đổi mới quan trọng về phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ trong công tác vận động trí thức. Với tư cách
là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề về quan điểm, tư
tưởng, chủ trương lớn để chỉ đạo, định hướng về công tác vận động trí thức về
GD&ĐT, KH&CN cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những
chủ trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ. Đảng không làm thay
chính quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định những
phương hướng, chủ trương, chính sách lớn về vận động trí thức, về văn hóa, xã hội,
giáo dục, khoa học, y tế ... còn Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và ban hành chiến
lược, chương trình, kế hoạch, quyết định cụ thể, Các bộ, ngành, đoàn thể cụ thể hóa
88
thêm một bước thành nghị quyết, thông tư, quyết định…cho từng nhiệm vụ, từng
giai đoạn và tổ chức thực hiện. Như vậy, việc lựa chọn đúng vấn đề quan trọng liên
quan tới hoạt động của Chính phủ mà Đảng cần bàn và ra quyết định là rất cần thiết
để tránh được sự lẫn lộn giữa chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý
của Chính phủ trong những vấn đề liên quan đến vận động trí thức.
Ba là, đã có những đổi mới công tác tư tưởng của Đảng trong tuyên truyền,
thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước
Công tác tư tưởng góp phần trực tiếp và thiết thực trong việc tuyên truyền các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng
thuận trong toàn xã hội và đội ngũ trí thức để mang lại hiệu quả thiết thực trong việc
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Trí
thức vừa là đối tượng vừa là chủ thể có điều kiện, ưu thế để làm công tác tư tưởng.
Đảng đã chú trọng hoạt động giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các trường đào
tạo cán bộ (của Trung ương, tỉnh, thành phố, quận, huyện), các trường đại học, cao
đẳng, và hệ thống giáo dục phổ thông. Đây là hình thức, biện pháp cơ bản để không
ngừng nâng cao trình độ lý luận, giác ngộ chính trị cho trí thức trẻ, cho cán bộ, đảng
viên và đội ngũ trí thức. Thông qua hệ thống truyền thông đại chúng như báo chí,
phát thanh, truyền hình và các thiết chế, ấn phẩm khác. Ngày nay, với những thành
tựu mới của khoa học - công nghệ, hệ thống truyền thông đại chúng đã trở thành một
loại “vũ khí” toàn diện và mạnh mẽ nhất trên mặt trận tư tưởng và là nhân tố thường
xuyên tác động tới đời sống tinh thần của đội ngũ trí thức và toàn xã hội. Hình thức
giáo dục chính trị tư tưởng thông qua sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức đảng
(cấp ủy các cấp, chi bộ), các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan, đơn vị, các tổ
chức hiệp hội, các câu lạc bộ trí thức được chú trọng. Hình thức, biện pháp này nhằm
phát huy vai trò tự giáo dục trong từng tổ chức, từng cơ sở, là hình thức để trí thức tự
giáo dục trí thức. Đây là biện pháp quan trọng bảo đảm cho công tác tư tưởng sát với
đặc điểm từng đối tượng trí thức, với điền kiện, hoàn cảnh của từng nơi và thiết thực
phục vụ cho hoàn thành nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ sở.
Ngoài các hình thức trên, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hoạt động biểu
diễn nghệ thuật, điện ảnh, các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, tuyên
89
truyền, giáo dục của cán bộ, đảng viên và hành động gương mẫu của họ trong công
tác và lối sống... mà giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, đạo đức, lối
sống lành mạnh cho đội ngũ trí thức. Nét đặc trưng của hình thức, biện pháp này là
giáo dục thông qua con đường tình cảm; hiệu lực của nó là để lại những dấu ấn sâu
sắc, bền vững trong nhận thức, tư tưởng, tâm khảm trí thức.
Bốn là, đã có những đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của Đảng trong các
cơ quan quản lý nhà nước về công tác vận động trí thức, trongcác tập thể lao động
khoa học, trong các đơn vị sự nghiệp khoa học công lập.
Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất về công tác cán bộ trong toàn bộ hệ thống
chính trị là một trong những nhiệm vụ lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức và công tác vận động trí thức, trong
những năm qua, Đảng đã cử những cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực để
làm công tác vận động trí thức, giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ
nhiệm vào cơ quan có đông trí thức như các trường đại học, các viện nghiên cứu
khoa học, các tổ chức của trí thức… Đảng xác định các quan điểm, nguyên tắc về
việc thành lập, sắp xếp các tổ chức, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, về
đào tạo và sử dụng cán bộ. Đảng quyết định việc đảng viên giữ các chức vụ quan
trọng trong các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, các tổ chức của trí
thức, rồi giới thiệu và lãnh đạo để các cơ quan đó tổ chức bầu cử hoặc bổ nhiệm
theo quy trình, thủ tục của Nhà nước, theo Điều lệ và cách thức của các đoàn thể.
Năm là, đã có những đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với
các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ chức và
các hội nghề nghiệp của trí thức
Ðảng ta đã khẳng định trong Ðiều lệ Ðảng: “Ðảng Cộng sản Việt Nam là
đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân
dân tiến hành sự nghiệp cách mạng”.
Nhận thức đầy đủ, đúng đắn mối liên hệ mật thiết giữa Ðảng với trí thức, khi
trí thức cùng với nhân dân thực hiện tốt được vai trò giám sát, tham gia góp ý xây
90
dựng Ðảng thì khi đó tạo nên mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa trí thức và nhân dân
với cán bộ, đảng viên. Đảng chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và
đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ chức và các hội nghề nghiệp
của trí thức trong việc triển khai thực hiện, sơ kết, tổng kết các chủ trương, nghị
quyết, chính sách về trí thức và vận động trí thức. Đảng chỉ đạo công tác kiểm tra,
giám sát các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ
chức và các hội nghề nghiệp của trí thức trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, Điều lệ
của tổ chức, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, kiên quyết đấu tranh và xử lý
những cán bộ, đảng viên hoặc tổ chức đảng, cơ quan có hành vi cản trở hay đối phó
với sự giám sát, phản ánh của trí thức đối với những sai phạm, tham nhũng.
Sáu là, đã có những đổi mới trong đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu và
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các tập thể lao động
khoa học; đổi mới phong cách, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên là trí thức.
Trong vận động trí thức đặc biệt trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng
Đảng yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các tập thể lao động
khoa học, nhất là những người đứng đầu cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống
mọi biểu hiện tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân, gương mẫu đi đầu trong công tác và cuộc
sống, nghiêm túc chấp hành và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; ra sức phấn đấu, rèn luyện bản lĩnh chính
trị vững vàng, đổi mới phong cách, tác phong công tác, trau dồi đạo đức lối sống
trong sạch theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 03-
CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Bảy là, đã có những đổi mới công tác Mặt trận và các đoàn thể theo hướng
phát huy vai trò của trí thức tham gia giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc đối với hoạt động của bộ máy Nhà nước; đoàn kết tập hợp trí thức công hiến
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong công tác vận động trí thức, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội giữ vai trò rất quan trọng. Trong quá trình đổi mới, Đảng rất coi trọng việc
91
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong đoàn kết tập hợp phát huy vai
trò đội ngũ trí thức. Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích
cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể;
Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội vận động trí thức có hiệu quả. Đảng lãnh đạo Quốc hội thể chế hóa
vai trò, chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội thành
các đạo luật: Luật Mặt trận Tổ quốc, Luật Công đoàn, Luật Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh; Luật Hội Nông dân, Luật Hội Liên hiệp phụ nữ và Pháp lệnh Hội
Cựu chiến binh. Đảng lãnh đạo Chính phủ và chính quyền các cấp thể chế hóa chủ
trương nghị quyết về vận động trí thức thành các chương trình, kế hoạch cụ thể. Đảng
thành lập, kiện toàn Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và đảng đoàn các đoàn thể chính trị
- xã hội trực thuộc Ban Bí thư. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, quy
định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Đảng đoàn Mặt
trận và đảng đoàn các đoàn thể; quan hệ công tác giữa Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc
với Đảng đoàn Quốc hội, với Ban Cán sự đảng Chính phủ và Ban Cán sự đảng các
bộ, ngành trung ương và với cấp ủy địa phương; quan hệ giữa Đảng đoàn Mặt trận Tổ
quốc với đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận từ đó tạo sự liên kết phối hợp
chặt chẽ trong việc vận động trí thức.
3.2.1.2. Những khuyết điểm
* Trong đổi mới nội dung lãnh đạo
Một là, việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng về công tác vận động trí thức; việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với Nhà
nước trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về công tác vận động trí thức
còn chưa kịp thời, kém hiệu quả
Việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
công tác vận động trí thức còn chưa kịp thời, hiệu quả thấp; chưa đánh giá và dự
báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu, tâm tư, nguyện vọng của trí thức...
để có chủ trương, chính sách phù hợp. Còn biểu hiện lúng túng trong đổi mới
phương thức lãnh đạo để chuyển từ nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung
92
ương Đảng, của Bộ Chính trị thành luật, nghị quyết của Quốc hội. Nhận thức về
mối quan hệ giữa thẩm quyền của Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất trong việc quyết định những chính sách cơ bản về trí thức và vận
động trí thức, về KH&CN, GD&ĐT với quyền quyết định của Đảng với tư cách là
đảng lãnh đạo chính quyền còn nhiều điểm chưa rõ. Việc cụ thể hóa các nghị quyết
của Đảng thành các Luật chưa kịp thời. Chất lượng nhiều dự thảo luật còn thấp,
năng lực làm luật còn nhiều hạn chế, khiến cho một số quy định pháp luật không
mang tính khả thi hoặc thiếu chặt chẽ nên phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần; việc
chuẩn bị một số dự án luật còn kéo dài. Một số luật chưa ra được như Luật về Hội,
sau hơn 2 nhiệm kỳ của Quốc hội vẫn chưa ban hành được. Việc lãnh đạo Quốc hội
thực hiện chức năng giám sát còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Nhất là việc giám
sát thực hiện Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Giáo dục.
Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ, chưa thật làm rõ chức năng,
nhiệm vụ của Ban Cán sự đảng, mối quan hệ giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với
Ban Cán sự đảng của bộ, ngành, quan hệ giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với với
Chính phủ. Từ đó chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm của Ban Cán sự Đảng trong
việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách thành các quy định của Nhà nước; việc
tổ chức thực hiện không kịp thời, thiếu kiên quyết nên đạt hiệu quả thấp. Ví dụ như
triển khai các đề án thực hiện Nghị quyết số 27- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” còn quá chậm,
thậm chí một số đề án không được xây dựng triển khai, hoặc triển khai nửa vời,
hiệu quả thấp.
Hai là, việc đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây dựng tổ chức,
bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí thức còn mang nặng tính
quan liêu, hình thức thậm chí hữu khuynh
Chưa xây dựng được đồng bộ những quy định cụ thể về phương thức lãnh
đạo của Đảng trong các tổ chức của trí thức về công tác cán bộ trong các cơ quan
93
công lập như trường, viện... Chính vì vậy, đôi lúc, đôi nơi còn có những hạn chế,
khuyết điểm trong việc đề bạt, bổ nhiệm. Việt thi tuyển để chọn hiệu trưởng,
viện trưởng mặc dù đã làm nhưng còn ít, chưa phổ biến. Việc phát huy trách
nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa tốt, có tình trạng dựa dẫm,
ỷ lại tập thể. Thành tích thì nhận về cá nhân, còn khuyết điểm thì đổ cho tập thể.
Đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác cán bộ của Đảng trong các tổ chức chính
trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp còn thể hiện sự buông lỏng, hữu khuynh Việc
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ vẫn còn những biểu
hiện vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương, tập trung quan liêu, dân chủ hình
thức, kỷ luật lỏng lẻo và hầu như không có quy hoạch. Chính vì vậy, một số đại
hội gần đây của Hội Nhà Văn, Hội Nhà Báo, Đoàn Luật sư... công tác nhân sự
còn nảy sinh một số vấn đề.
Ba là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, tuyên
truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chậm, tính thuyết phục không cao.
Công tác tư tưởng chưa được chú trọng đúng mức. Nội dung tuyên truyền
chưa phong phú, hình thức tuyên truyền thiếu sức hấp dẫn, chưa đáp ứng được nhu
cầu thông tin của đội ngũ trí thức. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên
truyền chưa theo kịp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác tuyên truyền trong
tình hình mới, đặc biệt là trong điều kiện phát triển của công nghệ thông tin, mạng
xã hội, internet. Năng lực tổng hợp, dự báo, nắm bắt tình hình tư tưởng, phát hiện,
tham mưu giải quyết các vấn đề trong thực tiễn chưa cao. Công tác tuyên truyền đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa còn thụ động, thiếu sắc bén. Tuyên
truyền điển hình, nhân tố mới, gương người tốt, việc tốt chưa đủ sức mạnh lôi cuốn,
cổ vũ trí thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống trong một
bộ phận cán bộ đảng viên và suy thoái đạo đức xã hội chưa được ngăn chặn, chưa
được đẩy lùi làm giảm lòng tin của trí thức; Việc gặp gỡ với một số trí thức có quan
điểm trái ngược với đường lối của Đảng, về Hiến pháp chưa được tổ chức đối thoại
94
công khai, thiếu sự phân công nghiên cứu để phản bác vì vậy tạo ra những ảnh
hưởng không tốt trong Đảng, trong nhân dân.
Bốn là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng, chăm lo xây dựng và bảo vệ đội ngũ trí thức chưa có chuyển biến đáng kể
Cùng với những khuyết điểm, hạn chế của ngành giáo dục và đào tạo,
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức thiếu một chiến lược và quy hoạch
cơ bản và dài hơi. Cùng với hạn chế về chiến lược chung trong xây dựng, phát
triển đội ngũ trí thức là những hạn chế về các chính sách cụ thể trong từng lĩnh
vực như: chưa có chính sách đồng bộ và hợp lý về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng nhân tài, lúng túng và thiếu đồng bộ trong chính sách lựa chọn, cử
cán bộ trẻ, sinh viên ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài và sử dụng họ sau khi đào tạo;
các trường đại học trong nước có chất lượng thấp về đào tạo, nghiên cứu khoa
học, chưa đạt chuẩn quốc tế; tỷ lệ sinh viên xuất thân công - nông giảm dần
trong các trường đại học và cao đẳng v.v…
Vì vậy, đội ngũ trí thức tuy có tăng về số lượng song chất lượng chưa cao; số
trí thức sáng tạo, chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học có trình độ cao còn ít, đội ngũ
trí thức kế cận hẫng hụt. Hoạt động chuyên môn (nghiên cứu, sáng tác...) của trí
thức chưa gắn kết, phù hợp với cơ chế thị trường và cũng chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cơ chế hành chính
quan liêu và tình trạng trì trệ, hình thức, hiệu quả hoạt động thấp trong các tổ chức
nghiên cứu khoa học, các hội trí thức chậm được khắc phục. Chính sách đãi ngộ đối
với trí thức và những người tài chưa thật rõ ràng, đồng bộ, không hợp lý và không
đủ để đáp ứng các yêu cầu về điều kiện làm việc. Bởi vậy, nhiều người có tài lại
thường vươn lên rất khó khăn, dẫn đến một bộ phận thoái chí, ít hy vọng thay đổi
hoàn cảnh. Một bộ phận trí thức có trình độ chuyên môn cao đã lựa chọn việc phục
vụ các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ nước ngoài để phát huy tối đa năng
lực công tác. Việc đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học vừa ít, vừa chia sẻ
manh mún, phương thức quản lý lạc hậu, bất cập, quá câu nệ vào những thủ tục rối
rắm, không chú ý khuyến khích hiệu quả. Những chính sách và cơ chế quản lý hoạt
động khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng đã lạc hậu, chậm đổi mới …
95
Năm là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các lực
lượng xã hội trong việc tạo lập môi trường, điều kiện hoạt động khoa học thuận lợi
cho các tập thể trí thức lao động, cống hiến chưa được như mong muốn
Việc tạo lập môi trường hoạt động của trí thức vẫn chưa thật sự dân chủ,
thoải mái trong nghiên cứu và sáng tạo. Thiếu chính sách và cơ chế tạo điều kiện
thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh
bằng chính những kết quả hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp. Sự động viên
khuyến khích đối với những trí thức có thành tích cao trong hoạt động sáng tạo
chưa được chú trọng đúng mức, còn nặng về hình thức. Chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với việc đề bạt, cất nhắc trí thức thành cán bộ lãnh đạo, quản lý
còn hẹp hòi, làm cho nhiều trí thức có năng lực quản lý mà chưa được xếp đặt
vào cương vị phù hợp.
Quan tâm về bảo đảm vật chất, chế độ đãi ngộ trí thức chưa thỏa đáng. Họ
làm việc quá nhiều mà lương lại thấp, ảnh hưởng rất nhiều đến việc nghiên cứu và
giảng dạy. Điều kiện và phương tiện làm việc của trí thức Việt Nam hiện nay còn
rất kém so với các nước trong khu vực tới 7 - 8 lần và còn kém so với các nước phát
triển tới 10 - 15 lần. Việc bảo hộ bản quyền, sở hữu trí tuệ còn hạn chế.
* Trong đổi mới phương thức lãnh đạo
Một là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng công tác tư tưởng chưa thực sự mang
lại hiệu quả mong muốn.
Sự lãnh đạo bằng công tác tư tưởng của Đảng đối với đội ngũ trí thức chậm
được đổi mới, hình thức còn xơ cứng, thiếu những cuộc đối thoại trực tiếp, nhất là
đối với những trí thức bất đồng quan điểm, chính kiến. Về công tác lý luận chưa đi
sâu, đi sát cuộc sống, chưa khắc phục tình trạng lạc hậu, chưa đáp ứng những đòi
hỏi của thực tiễn đổi mới, chưa phục vụ tốt việc cụ thể hóa và phát triển đường lối,
hoạch định các chính sách. Việc đổi mới nội dung giảng dạy của nhiều bộ môn khoa
học xã hội còn chậm,việc triển khai cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý luận
còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ lý luận chưa đồng bộ và nói chung trình độ chưa
ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng, chưa thu hút được nhiều trí thức tham
gia trên lĩnh vực này.
96
Công tác tuyên truyền chủ yếu tập trung vào những vấn đề thời sự, chưa thực
sự chú trọng những vấn đề cơ bản, chiến lược, chưa lý giải thấu đáo một số tâm
trạng xã hội cũng như những khuynh hướng tư tưởng mới nảy sinh. Việc đấu tranh,
phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch còn thụ động, chưa đủ sức thuyết
phục, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống công tác tư tưởng, lý
luận nghiên cứu khoa học. Chất lượng nội dung tuyên truyền miệng chưa đáp ứng
nhu cầu và trình độ ngày cao của trí thức; chủ yếu tuyên truyền một chiều từ trên
xuống, thiếu chủ động lắng nghe, đối thoại; tính định hướng, thuyết phục chưa cao,
còn có những biểu hiện né tránh những vấn đề bức xúc mà dư luận và trí thức quan
tâm. Hoạt động tuyên truyền chưa có sự kết hợp tốt với hoạt động trao đổi, đối thoại
nhằm tạo nên sự đồng thuận, hấp dẫn với trí thức.
Hai là, phương thức lãnh đạo bằng công tác tổ chức - cán bộ còn bộc lộ
nhiều khuyết điểm, hạn chế
Việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của Đảng trong các cơ quan quản lý
Nhà nước về công tác vận động trí thức, trong các tập thể lao động khoa học, trong
các đơn vị sự nghiệp khoa học công lập còn mang tính hình thức, chưa chọn được
cán bộ thực sự tiêu biểu, có năng lực, trình độ. Việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ làm công tác vận động trí thức chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới hiện nay. Việc đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu và trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các tập thể lao động khoa học; đổi
mới phong cách, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên là trí thức chưa thực sự
có tác dụng lan tỏa, ảnh hưởng sâu rộng trong tập thể trí thức. Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, xa dân, vô
cảm, gây bức xúc mất lòng tin của trí thức.
Tổ chức bộ máy các cơ quan của trí thức có sự chồng chéo, trùng lặp về chức
năng, nhiệm vụ; chưa bảo đảm tính đồng bộ về tổ chức giữa các tổ chức trong từng
lĩnh vực hoạt động. Các tổ chức Đảng chưa thật sự chăm lo công tác xây dựng tổ
chức và đội ngũ cán bộ trong các tổ chức của trí thức. Tình trạng cán bộ cán bộ yếu
97
kém được điều chuyển sang làm công tác vận động trí thức còn khá nhiều. Tình
trạng tham quyền cố vị, thậm chí làm lãnh đạo chủ chốt 3-4 nhiệm kỳ trong các hội
của trí thức không còn là cá biệt.
Ba là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
đối với các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ
chức và các hội nghề nghiệp của trí thức mới chỉ dừng ở quan điểm, chủ trương
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, chất
lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám
sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết liên quan đến trí thức. Mặc
dù các chỉ thị nghị quyết của Đảng về vận động trí thức, đặc biệt là Nghị quyết số
27- NQ/TW (Khóa X) được xây dựng hết sức công phu, thể hiện khá đầy đủ tư
tưởng chỉ đạo của Đảng. Tuy nhiên việc triển khai ở một số nơi còn hình thức, chưa
đạt yêu cầu, chưa có sự phê bình, nhắc nhở đôn đốc kịp thời nên kết quả đạt được
còn hạn chế. Ví dụ như sau năm năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-
NQ/TW, trong số 7 đề án chỉ mới thực hiện được 3 đề án. Việc biểu dương các đơn
vị làm tốt, phê bình nhắc nhở các đơn vị yếu kém chưa kịp thời, quyết liệt nên các
chỉ thị, nghị quyết chậm đi vào cuộc sống.
Bốn là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng hình thức nêu gương của đảng viên,
gương người tốt việc tốt chưa đạt yêu cầu.
Việc vận động trí thức thông qua đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu và
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các tập thể lao động
khoa học; đổi mới phong cách, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên là trí thức
chưa thực sự có tác dụng lan toả, ảnh hưởng sâu rộng trong tập thể trí thức. Một số
trí thức là lãnh đạo cũng sa vào những tiêu cực, bị tác động của mặt trái kinh kinh tế
thị trường, thoái hóa biến chất suy thoái đạo đức, gian trá trong nghiên cứu khoa
học, trong mua bán bằng cấp, chức tước… Điều này không những họ làm xấu hình
ảnh của họ mà còn nêu gương xấu cho trí thức trẻ, không đủ sức đoàn kết tập hợp trí
thức, làm hại đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
98
3.2.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm
3.2.2.1. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, Đảng nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò của trí thức và sự cần
thiết phải đổi mới để tăng cường công tác vận động trí thức.
Đường lối đổi mới của Đảng tạo tiền đề cho đổi mới công tác vận động trí
thức. Nghị quyết số 27-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ
xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày
nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của
mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.” Đảng xác định công tác vận động trí thức
là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ thống công tác vận động nhân dân (dân
vận) của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị nước ta. Trong đó, điều quan
trọng hàng đầu có tính nguyên tắc chính trị là vai trò lãnh đạo của Đảng ta, vai trò
quản lý của Nhà nước ta nhằm định hướng, tạo điều kiện để các đoàn thể chính trị -
xã hội của nhân dân hoạt động rộng rãi và có hiệu quả tốt trong việc đào tạo, phát
triển và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nước ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vận động trí thức là một trong những công tác
cực kỳ quan trọng trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Từ việc đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy, Đảng đã đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo công tác vận động trí thức trong Đảng và cả hệ thống chính trị, huy động
được sức mạnh của toàn Đảng toàn quân, toàn dân tham gia vận động trí thức.
Hai là, thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới, sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước đã góp phần mang lại những kết quả trong quá trình đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.
Những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo không chỉ làm cho chúng ta vững tin đi tiếp chặng đường
99
đã lựa chọn, mà còn khẳng định sự phát triển mới của Đảng ta trong việc khơi dậy
và phát huy tiềm năng, sức sáng tạo to lớn của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Với một hệ thống văn bản pháp luật ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là các văn
bản liên quan đến công tác vận động trí thức như Luật Giáo dục, Luật Khoa học và
Công nghệ…đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác vận động trí thức. Việc
xây dựng và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn là phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, trong đó có thị
trường khoa học và công nghệ, thị trường chất xám…. tác động trực tiếp đến người
trí thức. Như Đại hội XI nêu rõ: “Phát triển mạnh kinh tế thị trường, KH&CN gắn
với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có hình thức thông tin giới thiệu các hoạt động
và sản phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế và mua bán các sản
phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường” và “Đẩy mạnh phát triển thị trường lao
động. Tiền lương, tiền công phải được gọi là giá cả sức lao động, được hình thành
theo cơ chế thị trường” [51, tr.213]. Như vậy, hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đem lại môi trường thuận lợi, bình đẳng, và
tạo nên động lực kinh tế mạnh mẽ cho trí thức nước ta trong lao động sáng tạo khoa
học. Công cuộc đổi mới ở nước ta từng bước đạt những thành tựu to lớn, đất nước
có sự thay đổi ngày một cơ bản và toàn diện; kinh tế - xã hội phát triển, nhất là
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng để có được
một đội ngũ trí thức với số lượng và chất lượng đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mới có điều kiện chăm lo đời sống
vật chất tinh thần cho đội ngũ trí thức.
Ba là, năng lực trình độ của đội ngũ trí thức và cán bộ làm công tác vận
động trí thức có sự phát triển mới, tạo tiền đề cho công tác vận động trí thức.
Nhìn chung, trình độ học vấn và trí tuệ của các cán bộ chủ chốt ở các cấp chí
ít cũng bằng hoặc trội hơn, nhất là về lý luận chính trị, các khoa học lãnh đạo, quản
lý so với trình độ chung của bộ phận trí thức mà họ được trực tiếp phân công đảm
nhiệm trong công tác vận động trí thức. Vì vậy, họ vừa có nhận thức, vừa có kinh
nghiệm thực tiễn trong công tác vận động trí thức Ngoài ra, đội ngũ cán bộ làm
100
công tác vận động trí thức còn được học tập, tích lũy các nghệ thuật tổng hợp trong
công tác vận động trí thức, ví dụ: nghệ thuật giao tiếp; nghệ thuật ứng xử; nghệ
thuật tuyên truyền, thuyết phục; nghệ thuật “phản biện” hay đấu tranh; nghệ thuật
biểu dương, khen thưởng về tinh thần và vật chất… Rất nhiều trí thức coi trọng
động lực tinh thần, dù không coi thường các động lực vật chất. Vì vậy, cán bộ làm
công tác vận động trí thức phải đạt yêu cầu: được đa số trí thức mà mình tiếp xúc
“khẩu phục, tâm phục”, thì công tác này mới có kết quả tốt.
Bốn là, xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học và công nghệ thế giới đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho
trí thức trong hội nhập và phát triển.
Với đường lối đối ngoại ngày càng đổi mới sẽ mở ra môi trường quốc tế rộng
lớn cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng ta đã chú ý đến mở rộng quan hệ đối ngoại nhưng trước hết là hội nhập kinh
tế quốc tế. Đường lối đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã tạo điều
kiện đa dạng hóa các nguồn lực và địa chỉ đào tạo trí thức nước ta từ các quốc gia
khác nhau. Hợp tác quốc tế về khoa học được mở rộng tạo khả năng để trí thức
nước ta giao lưu, trao đổi thông tin, tiếp cận những tri thức mới. Trí thức người Việt
Nam định cư ở nước ngoài có cơ hội nhiều hơn hướng về
Năm là, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là
liên minh Công nhân - Nông dân và Trí thức được củng cố và tăng cường cũng là
một điều kiện thuận lợi để huy động sức mạnh tổng hợp thực hiện công tác vận
động trí thức.
Trong công cuộc đổi mới, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân được
củng cố, công tác vận động trí thức đã được cả hệ thống chính trị và toàn xã hội quan
tâm. Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết, chủ trương của Đảng
thành chính sách, pháp luật, chương trình đối với trí thức và công tác vận động trí thức.
Trong công tác vận động trí thức, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị
rộng rãi nhất, có điều kiện thực thi thường xuyên việc tập hợp, tuyên truyền, giáo dục,
mở rộng ý kiến để đội ngũ trí thức thể hiện vai trò và năng lực của mình. Trí thức Việt
Nam tham gia nhiều tổ chức xã hội thuộc thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như
101
Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh, Hội Cựu giáo chức, Hội Khuyến học… Thông qua các tổ chức xã hội
đó, trí thức có điều kiện về tổ chức để đóng góp trí tuệ, sức lực và tâm huyết cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta và dân tộc ta, tích cực thực hiện giám
sát và phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể với chức năng, nhiệm vụ của
mình đã quan tâm đến từng đối tượng trí thức cụ thể, từ trí thức trẻ, nữ trí thức, trí thức
trong nước, trí thức nước ngoài… đều có những chính sách, hình thức, biện pháp cụ thể
để đoàn kết tập hợp và phát huy tiềm năng trí tuệ của họ.
* Nguyên nhân của khuyết điểm
Một là, nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy đảng về trí thức và
công tác vận động trí thức vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm.
Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa thấy hết vai trò, vị trí của trí thức
trong sự phát triển đất nước, phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục và văn hóa,
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chưa nhận thức một cách sâu sắc
rằng, nếu không xây dựng được đội ngũ trí thức vững vàng về tư tưởng, gắn bó với
giai cấp công nhân và nông dân, có tài năng, có trình độ khoa học, công nghệ và văn
hóa cao thì dân tộc sẽ tụt hậu về mặt trí tuệ, không thể tiến hành thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do
quan điểm chưa rõ ràng nên nhiều chủ trương trong các nghị quyết của Đảng chậm
được thể chế hóa về mặt Nhà nước để đưa vào cuộc sống nhằm đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng tốt đội ngũ trí thức. Một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận thức
đúng về vai trò, vị trí của trí thức; đánh giá, sử dụng trí thức không đúng năng lực
và trình độ, ngay cả với những trí thức đầu ngành, dẫn đến tâm tư nặng nề trong đội
ngũ trí thức. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác vận động trí
thức chậm được đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn.
Phương pháp vận động, tập hợp trí thức chưa phù hợp với từng đối tượng trí thức,
văn nghệ sĩ, trí thức trẻ, trí thức Việt kiều.
Hai là, việc thể chế hóa các chủ trương đường lối của Đảng về vận động trí
thức của Nhà nước còn chậm, chưa đầy đủ, có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc.
Đường lối, nghị quyết của Đảng chưa được triển khai, cụ thể hóa và thực hiện
tốt. Chúng ta còn thiếu một chiến lược và quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí
102
thức cơ bản và dài hơi. Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức phải được coi
là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, gắn bó
hữu cơ và trở thành điều kiện của chiến lược cán bộ. Chiến lược ấy phải bao gồm đầy
đủ các phương diện từ đầu tư phát triển hệ thống giáo dục; đào tạo, bồi dưỡng đại học
và sau đại học ngang tầm với khu vực, thế giới; phát hiện, bồi dưỡng, thu hút và sử
dụng nhân tài; hệ thống nhất quán các chính sách về lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng đội
ngũ trí thức; phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ gắn với thu hút và phát huy
tiềm năng đội ngũ trí thức; chính sách đãi ngộ đối với trí thức, v.v.. Cùng với hạn chế
về chiến lược chung trong xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức là những hạn chế về
các chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực như: chưa có chính sách đồng bộ và hợp
lý về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, lúng túng và thiếu đồng bộ
trong chính sách lựa chọn, cử cán bộ trẻ, sinh viên ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài và
sử dụng họ sau khi đào tạo; các trường đại học trong nước có chất lượng thấp về
đào tạo, nghiên cứu khoa học, chưa đạt chuẩn quốc tế; tỷ lệ sinh viên xuất thân công
- nông giảm dần trong các trường đại học và cao đẳng v.v.. Chính sách đãi ngộ đối
với trí thức và những người tài chưa thật rõ ràng, đồng bộ, không hợp lý và không
đủ để đáp ứng các yêu cầu về điều kiện làm việc. Bởi vậy, nhiều người có tài lại
thường vươn lên rất khó khăn, dẫn đến một bộ phận thoái chí, ít hy vọng thay đổi
hoàn cảnh. Một bộ phận trí thức có trình độ chuyên môn cao đã lựa chọn việc phục
vụ các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ nước ngoài để phát huy tối đa năng
lực công tác. Việc đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học vừa ít, vừa chia sẻ manh
mún, phương thức quản lý lạc hậu, bất cập, quá câu nệ vào những thủ tục rối rắm,
không chú ý khuyến khích hiệu quả. Những chính sách và cơ chế quản lý hoạt động
khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng đã lạc hậu, chậm đổi mới v.v.. Những hạn chế
về chính sách đãi ngộ, sử dụng trí thức dẫn đến: nhiều sinh viên được đào tạo ở nước
ngoài sau khi tốt nghiệp không về nước làm việc, sinh viên tốt nghiệp các trường đại
học trong nước không muốn trở về phục vụ tại quê hương. Một số người có trình độ
chuyên môn cao, có khả năng sử dụng ngoại ngữ đã bỏ việc tại các cơ quan nhà nước
để đi tìm việc làm tại các cơ sở nước ngoài hoặc tư nhân, có thu nhập cao và phương
thức quản lý hiện đại. Nhiều trí thức làm việc trái ngành nghề đào tạo. Nhiều hoạt
103
động của các viện nghiên cứu xa rời thực tế, ít gắn bó với yêu cầu cụ thể của kinh tế,
xã hội và các yêu cầu thực chất của đời sống... Một số chính sách quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học quá lạc hậu, chậm được sửa đổi, ban hành.
Ba là, chưa tạo được không khí dân chủ, môi trường thuận lợi cho hoạt động
của trí thức.
Môi trường dân chủ và đồng thuận xã hội là động lực cho phát triển đất
nước. Người trí thức với đặc thù lao động trí óc lại càng cần đến tự do tư tưởng để
sáng tạo, cần đến bầu không khí đồng tình, đồng chí để nâng cao cảm xúc sáng tạo
đưa lại những tác phẩm, công trình có chất lượng cao. Đại hội XI yêu cầu: “Thực
hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo của trí thức vì sự phát triển đất nước” [51, tr.134]. Tuy nhiên, vẫn còn hiện
tượng ngại tiếp xúc, đối thoại, không thực sự lắng nghe, thậm chí quy chụp, nhất là
khi trí thức phản biện những chủ trương, chính sách, những đề án, dự án do các cơ
quan lãnh đạo và quản lý đưa ra. Tất nhiên, dân chủ luôn gắn liền với kỷ luật, kỷ
cương. Trí thức được tự do tư tưởng, nhưng trên cơ sở tuân thủ pháp luật, tôn trọng
những quy định chung của đơn vị, cộng đồng xã hội. Trí thức đoàn kết với các tầng
lớp nhân dân, đồng nghiệp, đối tác... trên tinh thần hợp tác lành mạnh, liên kết chính
đáng, thẳng thắn phê và tự phê bình, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Chủ trương xây
dựng quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học, khuyến khích sáng tạo, “bảo
hiểm” cho những nghiên cứu về khoa học xã hội chậm được thực hiện. Chưa thực
sự xóa bỏ ám ảnh về “vùng cấm” trong nghiên cứu những vấn đề về xã hội, chưa
tạo ra diễn đàn thảo luận, tranh luận thẳng thắn, cởi mở, thực sự dân chủ.
Bốn là, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế
chưa thực sự là tấm gương để trí thức học tập và noi theo.
Trí thức là những người nhạy cảm, và có sự suy tư, trăn trở trước các hiện
tượng tiêu cực của xã hội, nhất là đối với những người lãnh đạo. Trí thức mong muốn
đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước - bộ phận trí thức chủ chốt trong Đảng,
Nhà nước ta phải là những người đáp ứng được yêu cầu về trình độ trí tuệ mọi mặt
lẫn về bản lĩnh chính trị, nhân cách, đạo đức cách mạng và tác phong…xứng đáng là
những tấm gương để đội ngũ trí thức Việt Nam noi theo. Bộ phận trí thức trong Đảng
ta mà không đủ uy tín mọi mặt, tạo niềm tin yêu và tấm gương cho đại đa số trí thức
104
nước ta, thì vai trò lãnh đạo của Đảng đối với trí thức sẽ bị giảm sút trực tiếp nhất,
hiệu quả sẽ kém. Tuy nhiên hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, không những không làm gương cho
trí thức mà ngược lại còn làm suy giảm lòng tin của trí thức đối với Đảng.
Năm là, về khách quan, nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng lạc hậu,
trình độ khoa học và công nghệ còn thấp; giáo dục và đào tạo còn nhiều hạn chế,
yếu kém tác động tiêu cực đến công tác vận động trí thức
Đảng đã xác định, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu. Tuy nhiên, đối với khoa học và công nghệ, sự đầu tư chưa thảo đáng, việc
áp dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống chưa cao; thị trường khoa
học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ đang trong quá trình hình thành, chưa có đầy
đủ điều kiện để phát huy hết năng lực sáng tạo của trí thức. Đối với giáo dục, đào tạo,
lĩnh vực có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao dân trí cho toàn dân, tạo điều kiện
đầu tiên và quyết định cho việc hình thành đội ngũ trí thức, nơi thu hút một bộ phận
lớn trí thức có trình độ cao làm việc. Tuy nhiên, hiện nay nền giáo dục của chúng ta
đang có nhiều vấn đề, chưa đáp ứng yêu cầu của đất nước và kỳ vọng của nhân dân. ở
khu vực giáo dục phổ thông, chương trình nặng nề, chưa chú ý quan tâm đầy đủ đến
các nội dung bồi dưỡng, giáo dục về đạo đức, lối sống, ý thức công dân, tình cảm đối
với quê hương đất nước. Phương pháp đào tạo trong giáo dục phổ thông chậm đổi
mới, chủ yếu là phương thức truyền thụ một chiều từ giáo viên, làm cho học sinh thụ
động, ỷ lại, thiếu tính sáng tạo. Đối với hệ đào tạo đại học, tình trạng cũng không khả
quan hơn. Khung chương trình còn xơ cứng, không phát huy được trình độ và khả
năng đặc thù của từng trường. Không ít môn học trùng lặp nhiều về tri thức ở cấp phổ
thông. Các môn học lý luận Mác - Lênin chậm đổi mới về nội dung, phương pháp
giảng dạy nên không tạo được sự quan tâm, hứng thú của người học. Hoạt động
nghiên cứu khoa học nghèo nàn, chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu thực tế. Phương
pháp quản lý mang nặng tính bao cấp, quan liêu, không phát huy được sự tự chủ,
trách nhiệm và sự sáng tạo của từng nhà trường, từng người thầy, chưa quan tâm
thích đáng đến việc kiểm tra, đánh giá chất lượng đầu ra. Chính sách đãi ngộ đối với
105
giáo dục, nhất là với giáo viên không nhất quán, chưa đủ mức cần thiết để động viên,
khuyến khích đội ngũ giáo viên nâng cao năng lực, đổi mới phương pháp giảng dạy, v.v..
3.2.2.2. Một số kinh nghiệm
Qua quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí
thức từ Đại hội VI đến nay chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
Một là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
phải dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí
thức và vận động trí thức.
Để làm tốt công tác đoàn kết, tập hợp, xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức trong tiến trình đổi mới, CNH, HĐH đất nước, việc nghiên cứu quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đổi mới công tác vận
động trí thức là rất cần thiết. Phải quán triệt quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
để có nhìn nhận đúng đắn về người trí thức và đội ngũ trí thức, nếu người trí thức
không được giác ngộ sẽ là trở ngại đối với vận động cách mạng. Phải quán triệt
quan điểm của V.I.Lênin trong vấn đề liên minh công- nông trí thức cách mạng. Sự
liên kết này có ý nghĩa cả về kinh tế chính trị, văn hóa. Từ những quan điểm của
V.I.Lênin về tri thức chúng ta có thể rút ra được những bài học cho việc đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Đặc biệt đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức cần phải tiếp tục học tập, vận dụng tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của sức mạnh trí thức đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, về việc phát hiện, tập hợp bồi dưỡng trí
thức, đào tạo, phát hiện cảm hóa đưa họ vào hàng ngũ cách mạng. Trong đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động vận động trí thức phải biết tin tưởng,
tôn trọng và dùng trí thức đúng việc. Qua đó tạo niềm tin cho người trí thức vào sự
nghiệp cách mạng của đất nước và tương lai của mình, khơi dậy ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân của người trí thức trong xã hội.
Hai là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cần phải
gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Công tác vận động trí thức là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ thống
công tác dân vận của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị nước ta. Trong đó,
106
điều quan trọng hàng đầu có tính nguyên tắc chính trị là vai trò lãnh đạo của Đảng
ta, vai trò quản lý của Nhà nước ta nhằm định hướng, tạo điều kiện để các đoàn thể
chính trị - xã hội của nhân dân hoạt động rộng rãi và có hiệu quả tốt trong việc đào
tạo, phát triển và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nước ta trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH.
Do đó đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cần
phải gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đây
vừa là yêu cầu bức thiết của thực tiễn tiến trình xây dựng và bảo vệ chế độ, bảo vệ
đất nước, đồng thời là đòi hỏi cấp bách đặt ra trong quá trình phát triển và hội nhập.
Muốn đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị; tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, đưa
ra những quan điểm, tư duy đổi mới đủ sức thuyết phục đối với trí thức; tiếp tục đổi
mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên để cán bộ
đảng viên thực sự là tấm gương sáng để trí thức học tập, noi theo; đổi mới và nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác vận động trí thức, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với trí thức;
đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới phương thức lãnh
đạo, phương thức cầm quyền của Đảng.
Bên cạnh xây dựng Đảng, phải chú trọng xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh. Mọi chủ trương nghị quyết của Đảng về vận động trí thức sẽ không
được phát huy nếu Nhà nước không thể chế hóa bằng những các văn bản pháp luật,
các chiến lược, chương trình, đề án cụ thể về khoa học và công nghệ, về giáo dục và
đạo tạo, về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Một nhà nước yếu
kém, tham nhũng sẽ không thể đoàn kết, tập hợp, phát huy vai trò đội ngũ trí thức.
Ba là, trong đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí
thức cần chú trọng những đặc điểm của đội ngũ trí thức - tầng lớp xã hội đặc biệt;
mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích của trí thức.
Đội ngũ trí là tầng lớp xã hội có học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu,
chuyên lao động trí óc có tính sáng tạo. Từ phương thức lao động và vai trò của
107
trí thức, sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức không thể áp dụng như đối với
các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Trong đội ngũ trí thức cũng có những bộ
phận trí thức cụ thể khác nhau, mỗi bộ phận trí thức cụ thể đó đều có những
“cái chung” của cả tầng lớp trí thức lẫn “cái riêng”. Do đó, muốn lãnh đạo trí
thức có hiệu quả thì không phải chỉ cần quan điểm, đường lối, chủ trương đúng
mà còn phải có cách thức lãnh đạo thích hợp, khéo léo, phải cụ thể hóa thành
các nội dung, phương pháp, hình thức phù hợp với đối tượng mới có kết quả.
Bỏ qua những đặc thù của đội ngũ trí thức, áp đặt những phương cách lãnh đạo
chung chung thì kết quả lãnh đạo sẽ bị hạn chế, thậm chí còn gây phản ứng tiêu
cực từ đối tượng lãnh đạo.
Thúc đẩy hơn nữa phát huy dân chủ bảo đảm lợi ích, quyền lợi của người
dân thông qua lắng nghe, thu thập các ý kiến, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân, tạo điều kiện cho người dân được cống hiến và hưởng thụ một cách
công bằng. Cấp ủy các cấp cần quán triệt hơn trong thực hiện phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để việc phát huy dân chủ ngày càng
đi vào chiều sâu và huy động hiệu quả sự thống nhất, đồng thuận của nhân dân.
Thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật… nhằm
tạo sự minh bạch, đồng thuận trong hoạt động tăng cường công tác xây dựng
đảng, góp phần đẩy lùi và hạn chế tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối
sống, nạn tham nhũng, lãng phí…
Trong đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, bên
cạnh lợi ích chung của dân tộc, các chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích
của trí thức. Về vấn đề này, lý luận chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ rằng: Lợi ích
luôn gắn với hoạt động của con người, lợi ích là động lực để phát triển sản xuất,
thúc đẩy đấu tranh giai cấp, là động lực để phát triển xã hội. Vì vậy, phải luôn quan
tâm chăm lo đời sống của trí thức, phải giải quyết vấn đề lợi ích cho những nhà
khoa học có nhiều sản phẩm, công trình có giá trị. Mọi cống hiến hiện nay cũng đều
quy về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần,
thì lợi ích vật chất vẫn là cơ bản, có tính quyết định.
108
Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là
phải phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Công tác vận động trí thức là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra chủ trương nghị quyết về vận động trí thức,
bằng công tác tư tưởng, bằng công tác tổ chức, cán bộ của Đảng, Nhà nước tổ
chức thực hiện công tác vận động trí thức bằng việc cụ thể hóa chủ trương nghị
quyết của Đảng thành các chính sách cụ thể để chính quyền các cấp tổ chức thực
hiện có hiệu quả. MTTQ và các đoàn thể theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
mình,làm nòng cốt, tham mưu về công tác vận động, tập hợp trí thức thực hiện
nhiệm vụ chính trị của Đảng, thi đua lao động sáng tạo góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Gia đình và các tổ chức xã hội quan tâm chăm lo sự nghiệp giáo dục,
khuyến học, khuyến tài cũng là góp phần thực hiện công tác vận động trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là
quá trình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tính tích cực, độc lập và
năng động sáng tạo và giác ngộ của trí thức
Dân chủ là yêu cầu và nguyên tắc tổ chức xã hội: dân chủ chung đối với xã hội
và dân chủ với mỗi cá nhân; dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Dân chủ phản ánh một bước chuyển từ thể chế chính trị dựa trên áp lực,
tuân thủ mệnh lệnh sang thể chế hợp tác, đồng thuận đầy trách nhiệm. Đối với trí thức
việc lãnh đạo bằng mệnh lệnh, áp đặt sẽ thất bại. Đối với lao động của trí thức, đối
với hoạt động khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật rất cần môi trường dân chủ, vì
nó phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, giải phóng năng lực sáng tạo của con
người. Lãnh đạo công tác vận động trí thức cũng chính là quá trình phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy tính tích cực, độc lập và năng động sáng tạo và giác ngộ
của trí thức trong nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ; trong
GD&ĐT, văn học và nghệ thuật, y tế và thể dục thể thao… gắn với việc đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, hình thành và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển KTTT, góp phần thực hiện mục tiêu
xây dựng nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
109
Tiểu kết chương 3
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đạt được những thành
tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực. Trong đó, quá trình đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với đội ngũ trí thức đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác vận
động trí thức. Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí
thức phát triển nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên
mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Ðảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt
là các nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa
và văn nghệ, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... để tạo động lực
thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiện các
chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới
cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy
vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc
gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức
người Việt Nam ở nước ngoài...
Đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp phần
trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước
xóa đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống. Ðội ngũ trí
thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con
đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự
nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân
tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm
chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công
nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.
Những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và kinh nghiệm về đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong những năm qua
là những bài học kinh nghiệm quý báu cho sự lãnh đạo của đảng đối với công tác
vận động trí thức trong những năm tới.
110
Chương 4
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025
4.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
4.1.1. Những yếu tố tác động đến đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức
4.1.1.1. Thuận lợi
Một là, sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế tri thức.
Cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác
động đến mọi quốc gia, dân tộc, hàng ngày hàng giờ thay đổi tư duy nhân loại. Với
những thành tựu về công nghệ thông tin, phát thanh, truyền hình, internet, văn hóa
nhân loại được lan tỏa khắp hành tinh hết sức nhanh chóng. Tốc độ phát minh khoa
học ngày càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng rút ngắn. Sự cạnh
tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông về khoa học - công nghệ
diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và công nghệ khoa học mới liên tục ra đời và đang
được các quốc gia đón nhận. Khoa học Việt Nam đang đứng trước cơ hội thuận lợi
chưa từng có với sự hỗ trợ từ các chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước.
Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng đã xác định rõ quan
điểm, mục tiêu, định hướng nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển khoa học và
công nghệ. Sự phát triển của KTTT là tất yếu, phản ánh xu thế khách quan của lực
lượng sản xuất trong điều kiện mới. Trong KTTT, tri thức, KH&CN chuyển thành
một bộ phận hữu cơ của cả hệ thống KT - XH. Tri thức, KH&CN là yêu cầu hàng
đầu với người lao động. Chính vì vậy phát triển KTTT đòi hỏi phải có nguồn nhân
lực trình độ cao, đó chính là đội ngũ trí thức. Bởi vì, trí thức vừa là một bộ phận của
nguồn lực con người, vừa là nguồn tiềm năng khoa học, kỹ thuật, trực tiếp góp phần
vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đánh giá về xu thế
phát triển này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: "Kinh
111
tế tri thức phát triển mạnh, do đó, con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết
định sự phát triển của mỗi quốc gia" [51, tr 97].
Hai là, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới hay nói
cách khác con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại
toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết
định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các nước. Đối với nước ta,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là cơ hội giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực
và nền khoa học công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu
khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước
ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Đây cũng là thời cơ để đội ngũ
trí thức giao lưu, học tập nâng cao trình độ, tiếp cận với công nghệ mới, tìm kiếm
việc làm nâng cao thu nhập. Đây cũng là cơ hội tạo động lực và điều kiện để các nhà
hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ
đó có thể đề ra chính sách phát triển đất nước, nhất là lĩnh vực GD&ĐT, KH&CN,
thu hút đội ngũ trí thức nhất là trí thức Việt kiều về tham gia xây dựng đất nước.
Ba là, những thành tựu 30 năm đổi mới, xu hướng phát triển của đất nước
trong những năm tới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác vận động trí thức
Những thành tựu, kinh nghiệm của 30 năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước thế
và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước: Kinh tế nước ta đang lấy lại đà
tăng trưởng, nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương đang được
triển khai; Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố; Mặt bằng dân trí được nâng cao. Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra
nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa tiềm năng trí tuệ, sức sáng tạo
của đội ngũ trí thức. Đặc biệt, sau hơn 7 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7
(khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước đã tạo được chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của cả
hệ thống chính trị. Kết luận số 90-KL/TW ngày 04-3-2014 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về Xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhận định:
112
Việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 đã tạo được chuyển
biến tích cực về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị; việc cụ
thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết đã đạt được một số kết quả bước đầu. Hoạt
động của các hội trí thức tiếp tục có tiến bộ, nhất là trong việc tập hợp và
phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức tiếp tục được tăng
cường, có những đóng góp tích cực, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc [49].
Bốn là, truyền thống hiếu học và sự phát triển của GD&ĐT, nhất là giáo dục
đại học là tiền đề quan trọng để xây dựng đội ngũ trí thức
Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, trí thức Việt Nam chịu
khó, say mê nghiên cứu sáng tạo. Khuyến học, khuyến tài, xã hội hóa giáo dục đã
trở thành phong trào râu rộng, thu hút được các ngành, các cấp và toàn xã hội tham
gia. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng,
Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ
CNH, HĐH, lĩnh vực GD&ĐT nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,
góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống GD&ĐT
tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào
tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên
tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng
GD&ĐT có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số
lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Chi ngân sách cho GD&ĐT đạt
mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ
thống GD&ĐT ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển GD&ĐT chung của
toàn xã hội. Đây chính là tiền đề quan trọng để chúng ta xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức trong những năm tới.
4.1.1.2. Khó khăn
Một là, những tác động mặt trái của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Bên cạnh cơ hội thuận lợi, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng làm gia
tăng tình trạng chảy máu chất xám tại các quốc gia nghèo như nước ta. Khoảng 70%
những sinh viên mới tốt nghiệp ở nước ngoài không quay trở về sau khi đã nhận
113
bằng. Lý do chính là vì họ không có những cơ hội phát triển tương tự ở trong nước.
Việc các nhà khoa học sang làm việc cho nước ngoài cũng tác động xấu đến người
dân và các giới tri thức khác trong nước. Nguồn chất xám bị chảy máu khiến kinh
phí đào tạo của quốc gia không ngừng thất thoát, đồng thời phải bỏ ra một nguồn
kinh phí lớn để trả lương cho các chuyên gia nước ngoài. Bên cạnh đó, nhiều công
trình nghiên cứu khoa học ở trong nước thiếu nhân lực thực hiện, thành tựu khoa
học kỹ thuật không được phổ biến và ứng dụng. Đây là một sự lãng phí lớn về tài
sản quốc gia, làm chậm tốc độ phát triển nền kinh tế, đồng thời còn tác động, ảnh
hưởng lớn đến tâm lý và sự phấn đấu của trí thức.
Vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức là làm thế nào để hội nhập, tồn tại và
phát triển? Nếu không nâng cao trình độ, trí thức Việt Nam sẽ thua trên sân nhà, cơ
hội tìm kiếm việc làm nhất là những việc làm đòi hỏi trình độ cao sẽ vô cùng khó
khăn vì không thể cạnh tranh với trí thức, lao động chất lượng cao của nước ngoài.
Đối với công tác vận động trí thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đặt ra
nhiều vấn đề phải giải quyết như: làm thế nào để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng,
nhất là lãnh đạo trí thức và công tác vận động trí thức; Ngăn chặn sự chảy máu chất
xám; làm thế nào để hội nhập và phát triển kinh tế trí thức…
Hai là, chiến lược diễn biến hòa bình và sự chống phá trên mặt trận tư
tưởng, lý luận của các thế lực thù địch vẫn đang tiếp diễn
Với chiến lược diễn biến hòa bình, thời gian qua, các thế lực thù địch đã ra
sức tấn công về tư tưởng, lý luận, nhằm mục đích “đa nguyên, đa đảng”, xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Đối tượng
lôi kéo, tấn công của chúng không từ một thành phần, giai cấp nào, đặc biệt là đối
với trí thức. Nhằm mục tiêu “chuyển hóa” niềm tin của nhân dân, của trí thức chúng
thường xuyên theo dõi, bám nắm mọi diễn biến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội
của nước ta. Chúng tập hợp những ý kiến, phát biểu của những trí thức có “uy tín”,
“vị thế”, nhưng có quan điểm, chính kiến trung dung, thậm chí trái với đường lối,
quan điểm của Đảng, chủ trương, luật pháp của Nhà nước; kết hợp với sự tích hợp,
dẫn dắt những quan điểm, tư tưởng đối lập, sai lầm về chính trị từ những kẻ tạo
dựng là “nhà khoa học”, “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, giả danh “chủ bút” báo này,
114
tạp chí nọ… để tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng thù địch chế độ ta. Chúng
luôn đan cài những tư tưởng, quan điểm giả danh mácxít, đúng - sai lẫn lộn, làm
cho người đọc mất phương hướng, không phân biệt được ngay - gian, chính - tà.
Trong cuộc đấu tranh này trí thức vừa là một đối tượng bị lôi kéo đồng thời cũng là
lực lượng quan trong để đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
Ba là, những khuyết điểm yếu kém của giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục
đại học đang là lực cản trong xây dựng đội ngũ trí thức
Những năm qua, GD&ĐT nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,
góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chất lượng,
hiệu quả GD&ĐT còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp. Quản lý GD&ĐT còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu
cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề
nghiệp. Đầu tư cho GD&ĐT chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho
GD&ĐT chưa phù hợp. Hệ thống đào tạo chạy theo thành tích, bằng cấp, hư danh,
mà không quan tâm đúng mức đến chất lượng. Chính nhận thức sai đó đã dẫn đến
chất lượng không cao; có bằng cấp nhưng không có kiến thức thực sự. Nhiều sinh
viên ra trường nhưng không tìm được việc làm, do không đáp ứng được yêu cầu của
nhà tuyển dụng, phải làm những việc trái với chuyên môn, ngành nghề đào tạo.
Hàng năm, có thêm rất nhiều cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, nhưng trong thực tế, họ không
được xem là nguồn nhân lực cao cấp, là lao động chất xám, bởi họ không có những
kiến thức tương xứng với những văn bằng đã được cấp. Theo nghiên cứu của một tổ
chức quốc tế thì Việt Nam thuộc nước đứng đầu trong khu vực về tỷ lệ giáo sư, tiến
sĩ... nhưng lại đứng thấp nhất về trình độ ngoại ngữ, khoa học và công nghệ.
Bốn là, những hạn chế, bất cập về lý luận, sự thoái hóa biến chất của một bộ
phận cán bộ, đảng viên tác động xấu đến đội ngũ trí thức, gây khó khăn cho việc
tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
Về mặt lý luận, mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề Đảng cầm quyền và
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.. chưa thật sáng tỏ. Về thực tiễn,
115
sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội đi vào chiều sâu đang bộc lộ những
yếu kém, hạn chế về năng lực quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước các cấp, từ
đó gây bức xúc và giảm sút niềm tin của nhân dân đối với năng lực cầm quyền của
Đảng. Tình trạng thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên tác động xấu đến đội ngũ trí thức, gây khó khăn cho
việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Hội
nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã chỉ rõ:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tùy tiện, vô nguyên tắc,…[52, tr.22].
Năm là, những hạn chế, yếu kém của một bộ phận trí thức
Điều đáng lo ngại ở đây là sự sa sút về niềm tin, phai nhạt lý tưởng trong một
bộ phận trí thức ảnh hưởng tới chất lượng nghiên cứu, phát triển và vận dụng lý
luận vào thực tiễn. Về vấn đề này, đề tài cấp nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam giai đoạn 2011-2020” đánh giá là:
Một bộ phận trí thức trong lĩnh vực tư tưởng có biểu hiện phai nhạt lý
tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức không sâu, tư duy mòn, cũ,
nặng về nghiên cứu công thức, nhẹ về nghiên cứu phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin và CNXH khoa học; có dấu hiệu thiếu tính chiến đấu và tinh
thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước [146, tr. 123].
Thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn đan xen nhau. Làm thế nào để
tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua thách thức, khó khăn để thực hiện thành công
sự nghiệp CNH, HĐH, đưa Việt Nam hội nhập và phát triển đang đòi hỏi sự nỗ lực
của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đội ngũ trí thức. Đây cũng là những nhân tố tác
động đến đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong
giai đoạn hiện nay.
116
4.1.2. Mục tiêu và yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức đến năm 2025
4.1.2.1. Mục tiêu
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết Trung ương bảy khóa X,
XI của Đảng, mục tiêu đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí
thức trong giai đoạn hiện nay là: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị và toàn xã hội trong việc xây dựng đội ngũ trí thức có số lượng, chất
lượng và cơ cấu hợp lý, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các
nước tiên tiến trong khu vực và thế giới; phát huy tiềm năng trí tuệ, tinh thần lao
động sáng tạo của đội ngũ trí thức, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên
nền tảng liên minh công nhân - nông dân và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4.1.2.2. Những yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức đến năm 2025
Để đạt được mục tiêu trên, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, tạo sự gắn bó
vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí
thức cần phải thực hiện nghiêm túc Kết luận số 90-KL/TW ngày 04-03-2014 của Bộ
Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về Xây dựng
đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cụ
thể là: Nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, tiếp
tục quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết ngày càng tốt hơn; Đổi mới việc ban
hành, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết.. về công
tác vận động trí thức; phải bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo chính trị và định hướng
tư tưởng của Đảng đối với hoạt động của đội ngũ trí thức. Đồng thời tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức, đặc biệt là Liên hiệp các Hội
117
Khoa học và Kỹ thuật và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật và các tổ chức khoa
học công nghệ ngoài nhà nước. Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động
của các tổ chức đảng trong các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học và các cơ sở
giáo dục - đào tạo.
Hai là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
nhằm xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, bản
lĩnh chính trị.
Tiếp tục quán triệt quan điểm của Nghị quyết số 27-NQ/TW, khóa X: Xây
dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống
chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Để
xây dựng đội ngũ trí thức cần phải tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương
8, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Song song với đào
tạo phổ thông cần tập trung đạo tạo đại học và sau đại học, tập trung đào tạo
nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự
học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ
sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy
hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo
ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu
cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Phấn đầu xây dựng đội ngũ trí thức ngang bằng với
khu vực và quốc tế.
Ba là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải
bảo đảm cho đội ngũ trí thức Việt Nam phát huy vai trò lao động sáng tạo, đóng
góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức phải gắn với phát triển và ứng
dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực
quan trọng nhất để phát triển KT - XH và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần
được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các
cấp. Để khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, cần tổ chức thực
hiện tốt Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
118
XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
phải huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện
công tác vận động trí thức.
Phải xác định công tác vận động trí thức là một bộ phận quan trọng của
công tác dân vận của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Ngoài sự lãnh đạo
của Đảng, Ban cán sự đảng Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, Ðảng đoàn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các Đoàn thể, Ðảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và
kỹ thuật Việt Nam, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt
Nam và các doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty…phải có chương trình hành
động cụ thể để thực hiện công tác vận động đội ngũ trí thức. Mỗi tổ chức trong hệ
thống chính trị, các tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ, mỗi một cán bộ, đảng viên, ...
phải tham gia làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, đoàn kết, tập
hợp đội ngũ trí thức xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ cao, trung thành với sự
nghiệp cách mạng, phát huy vai trò lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức, đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
nhằm phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của
trí thức đi đôi với bảo đảm tuân thủ pháp luật, kỷ cương, kỷ luật.
Để đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, phải
xác định những giải pháp trọng tâm có ý nghĩa đột phá trong công tác trí thức: Thực
hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí
thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả
cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Đây chính là hoàn
thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức và trí thức đích
119
thực thì cái cần nhất là môi trường dân chủ, tự do sáng tạo, để thể hiện được những
ý tưởng mà mình ấp ủ, vì mục tiêu, vì đại nghĩa của dân tộc. Mặt khác, đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức nhằm tuyên truyền, vận động
đội ngũ trí thức tuân thủ pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, tự tu dưỡng, rèn luyện, say
mê, tâm huyết với nghề nghiệp, nêu cao ý thức trách nhiệm công dân.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của của các cấp uỷ, tổ chức đảng
về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
Một là, các cấp ủy, các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục đổi
mới nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức và công tác vận động
trí thức.
Đây là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định thành công của
việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Điều 4, Hiến
pháp năm 2013 ghi rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Với vai trò, vị
trí của một đảng cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng
phải tiên phong đi đầu trong công tác vận động trí thức. Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay đòi
hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng phải nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, nhà nước đối với trí thức và công tác vận động trí thức, đánh
giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức và yêu cầu nhiệm vụ của ngành mình, cấp
mình, đơn vị mình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để từ đó
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của trí thức đội ngũ trí
thức. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
đòi hỏi phải đổi mới nhận thức và nâng tầm trí tuệ của các cơ quan lãnh đạo, của
người lãnh đạo về tri thức, nhận thức, năng lực tổ chức; trình độ áp dụng các tiến bộ
120
khoa học vào công việc lãnh đạo. Vì thế đổi mới phương thức lãnh đạo đối với công
tác vận động trí thức không tách rời việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, về đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định kết quả đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung và sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức nói riêng.
Hai là, đổi mới quan điểm về lập trường chính trị, về vấn đề giai cấp trong
vận động trí thức, phải coi trí thức là lực lượng quan trọng trong liên minh công
nhân - nông dân và trí thức.
Đội ngũ trí thức hiện nay đội ngũ trí thức đang ngày càng trở nên đa dạng về
thành phần xuất thân, nguồn gốc đào tạo, nơi làm việc, vị trí xã hội, lợi ích…Bên
cạnh số được đào tạo trong nước cũng nhiều người được đào tạo từ nước ngoài về,
đặc biệt trong những năm gần đây, một số lượng lớn trí thức được đào tạo từ các
nước tư bản, một bộ phận trí thức làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, các tổ chức nước ngoài ngày càng tăng nhanh. Đây là kết quả tất yếu của
chính sách đổi mới, mở cửa, hội nhập. Điều cần chú ý nhất trong sự lãnh đạo của
Đảng đối với trí thức là, cùng với sự biến đổi đó, thế giới quan, nhân sinh quan, xu
hướng chính trị của một bộ phận trí thức cũng sẽ có những biến đổi theo, tính đồng
nhất về thế giới quan, nhân sinh quan, quan điểm chính trị trong đội ngũ trí thức
trước đây có xu hướng bị phá vỡ nếu thiếu sự định hướng kịp thời. Chính vì vậy cần
phải đổi mới tư duy, phương pháp lãnh đạo để phù hợp với các đối tượng trí thức.
Khắc phục nhận thức lệch lạc, coi trí thức là tầng lớp tiểu tư sản với lập trường
chính trị bấp bênh, thiếu kiên định dẽ bị các thế lực thù địch lôi kéo, lợi dụng. Hiểu
đúng để phát huy vai trò trí thức là động lực, là lực lượng xung kích trên mặt trận
khoa học, công nghệ, văn hóa, là lực lượng quan trọng trong liên minh công nhân-
nông dân và trí thức góp phần cùng với toàn Đảng, toàn dân tiến hành công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Ba là, trong lãnh đạo công tác vận động trí thức phải chú trọng đến đặc
điểm, đặc thù của trí thức.
Khác với những giai cấp khác, trí thức là những người có học vấn cao, trình độ
chuyên môn sâu, chuyên lao động trí óc có tính sáng tạo. Họ có tính độc lập, tự trọng
121
cao, nhưng dễ tự cao, tự đại; Ưa thích không khí tự do, dân chủ, công bằng. Đặc biệt,
niềm tin, tình cảm thường được xây dựng trên cơ sở nhận thức khoa học, không chấp
nhận sự áp đặt về tư tưởng, niềm tin; Tư duy sâu nhưng tầm nhìn thường hẹp theo
góc nhìn chuyên môn, dễ phiến diện; Nhạy cảm với cái mới, không thích những cái
sáo mòn, lạc hậu, trì trệ, nhưng cũng dễ cực đoan, thái quá… Các cấp ủy đảng phải
nhận thức đúng đắn và đề ra những giải pháp phù hợp nhằm phát huy nguồn lực trí
tuệ to lớn của đất nước: bảo đảm quyền tự do sáng tạo. phát huy trí tuệ và năng lực,
mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài; Khuyến khích các trí thức,
các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng
đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai
trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ
thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Với những đặc điểm, đặc thù nêu trên, muốn lãnh đạo trí thức có hiệu quả thì
không phải chỉ cần quan điểm, đường lối, chủ trương đúng mà còn phải có cách
thức lãnh đạo thích hợp, khéo léo. Không chú trọng đặc điểm, đặc thù của đội ngũ
trí thức, áp đặt những phương cách lãnh đạo thô thiển thì kết quả lãnh đạo sẽ bị hạn
chế, thậm chí còn gây phản ứng tiêu cực, chống đối.
Bốn là, quán triệt quan điểm của Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong đánh giá, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức
Các cấp ủy Đảng và chính quyền phải quán triệt quan điểm của Mác - Lênin
và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức nghiên cứu đánh giá đúng năng lực,
trình độ, chất lượng của trí thức, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ để từ đó có
cơ sở cho việc đào tạo và sử dụng. Việc đánh giá chất lượng của đội ngũ này phải
hết sức khách quan, khoa học.
Khi đã đánh giá đúng chất lượng của đội ngũ trí thức thì việc sử dụng phải
trên cơ sở tôn trọng, coi trọng năng lực chuyên môn, sử dụng đúng người, đúng
việc. Giao nhiệm vụ phù hợp, tương xứng với khả năng, trình độ. Đồng thời, Đảng
và Nhà nước cần tạo môi trường làm việc thuận lợi và có chế độ ưu đãi về vật chất
và tinh thần xứng đáng.
122
Việc sử dụng đội ngũ trí thức cần vận dụng bài học dùng trí thức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đó là phải tin tưởng và trọng dụng trí thức. Không nên quá khắt
khe về nguồn gốc xuất thân, quá khứ... để mất, lãng phí nhân tài. Đảng và Nhà nước
cần phải có chính sách mạnh dạn tin dùng, giao nhiệm vụ ngang tầm với vị trí, vai
trò cũng như khả năng đáp ứng của đội ngũ trí thức.
4.2.2. Đổi mới việc xây dựng và triển khai, tổ chức thực hiện các nghị
quyết của Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức
Một là, tiếp tục đổi mới việc xây dựng các nghị quyết của Đảng liên quan
đến trí thức và vận động trí thức .
Bất kỳ một hệ thống chính sách nào cũng cần phải mang tính đồng bộ và
toàn diện. Do vậy, trong quá trình hoạch định xác định chiến lược xây dựng đội ngũ
trí thức gắn với chiến lược phát triển KT - XH của đất nước. Báo cáo Chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI khẳng định:
Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm
chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ
xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đãi ngộ đặc biệt
đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám
định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội [51, tr.241-242].
Từ quan điểm này, việc xây dựng các nghị quyết, chính sách đối với công tác
vận động trí thức, phải bám sát các nội dung vận động trí thức. Ban Tuyên giáo
Trung ương cần chủ động và tích cực thực hiện chức năng tham mưu cho Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành các nghị quyết, chỉ thị, kết
luận… về trí thức và công tác vận động trí thức. Phối hợp với các ban, bộ, ngành
Trung ương tích cực triển khai, tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn về trí thức
và công tác vận động trí thức, về GD&ĐT và KH&CN.
123
Hai là, đổi mới việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng liên quan
đến trí thức và vận động trí thức .
Các cấp ủy đảng, đặc biệt là ngành Tuyên giáo cần chủ động trong công tác
hướng dẫn và kiểm tra, đôn đốc việc nghiên cứu, quán triệt, triển khai các nghị
quyết một cách sâu rộng, tới từng tổ chức đảng, đến mỗi cán bộ, đảng viên; đồng
thời bằng các hình thức thích hợp để tuyên truyền, phổ biến sâu rộng những nội
dung cơ bản của nghị quyết đến các tầng lớp nhân dân, nhằm tạo sự thống nhất cao
về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Việc tổ chức nghiên cứu,
quán triệt, triển khai nghị quyết cần phải được đổi mới mạnh mẽ hơn, thiết thực
hơn; gắn việc quán triệt, triển khai nghị quyết của cấp ủy với việc triển khai các
chương trình, đề án và cơ chế, chính sách của chính quyền, đoàn thể để thực hiện
nghị quyết. Việc xây dựng chương trình hành động của các cấp ủy phải sát thực tế
của địa phương, đơn vị; các cơ quan tham mưu khi xây dựng kế hoạch hành động
phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành, của đơn vị; phải chỉ rõ được các
chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể của địa phương, đơn vị, ngành để góp phần thực hiện nghị
quyết và thời gian hoàn thành.
Các đồng chí bí thư cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về kết quả công tác triển khai thực hiện nghị
quyết liên quan đến công tác vận động trí thức của địa phương, đơn vị, ngành mình;
chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nghị
quyết đến từng địa bàn dân cư, từng đoàn viên, hội viên, tổ chức các phong trào thi
đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là trí thức để thực hiện nghị
quyết; chú trọng tuyên truyền, giới thiệu những cách làm mới, sáng tạo; những mô
hình, điển hình tiên tiến trong việc triển khai thực hiện nghị quyết. Việc tiếp tục tổ
chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, khóa X cần được gắn kết chặt chẽ với
việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học
công nghệ và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo. Đẩy nhanh việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 7,
tạo môi trường làm việc thực sự phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự do
sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường
124
thực hiện cơ chế đặt hàng kết hợp với cơ chế trí thức tự đề xuất trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tác. Khẩn trương hoàn thành các đề án còn lại về thể chế hóa, cụ
thể hóa Nghị quyết Trung ương 7 để trình Bộ Chính trị cho ý kiến: Đề án “Quy chế
tạm thời về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị”; Đề án “Phát triển đội ngũ
trí thức đến năm 2020 phục vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế”.
Ba là, đổi mới công tác kiểm tra giám sát thực hiện các nghị quyết của
Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác vận động trí thức.
Nâng cao nhận thức của toàn Ðảng, của mọi tổ chức đảng và đảng viên về vị
trí, ý nghĩa công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng việc thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức
và vận động trí thức. tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động nhằm làm cho
công tác kiểm tra, giám sát thật sự có vai trò thúc đẩy và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng với công tác vận động trí thức.
Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác kiểm
tra, giám sát của các cấp ủy đảng; đổi mới hoạt động của công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và vận động trí thức. Cần đổi mới
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chú trọng từ việc hoàn thiện, bổ sung
các quy định, xây dựng ban hành nghị quyết đến việc tổ chức thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát.
Tăng cường sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác
kiểm tra, giám sát của Ðảng trong việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận
của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và vận động
trí thức. Ðảng đoàn Quốc hội chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
luật liên quan đến trí thức như Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Giáo dục, Luật
Sở hữu trí tuệ… các chương trình nghị quyết của Chính phủ liên quan đến công tác
vận động trí thức. Các bộ, ngành việc kiểm tra việc thực hiện các chính sách của
ngành mình liên quan việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức của trí thức kiểm tra giám
125
sát việc thực hiện các chủ trương chính sách như Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày
26-3-2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và
Chương trình hành động của chính phủ về công tác với người Việt Nam ở nước
ngoài, Chỉ thị số 42-CT/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-
NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Các đại biểu của Quốc hội, các đại biểu Hội đồng nhân dân có thể kiểm tra, chất
vấn các tổ chức, cá nhân người đứng đầu các cấp việc thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức
và vận động trí thức.
Ủy ban Kiểm tra và Ban Tuyên giáo các cấp cần chủ động tham mưu cho cấp
ủy có kế hoạch tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị,
kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và
vận động trí thức đặc biệt là Nghị quyết 27 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X), Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X),
Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học công nghệ và Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, định kỳ báo cáo với
lãnh đạo cấp ủy để có sự chấn chỉnh, phê bình nhắc nhở kịp việc thực hiện các nghị
quyết, tạo môi trường làm việc thực sự phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự
do sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
4.2.3. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong
công tác vận động trí thức
Một là, tiếp tục đổi mới việc lãnh đạo, chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội trong
các hoạt động lập pháp, giám sát tối cao việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về
trí thức và công tác vận động trí thức.
Với tư cách là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề
về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn về vận động trí thức để chỉ đạo, định
hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những chủ
trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước. Đảng không làm thay chính
126
quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cần tập trung chỉ đạo Ban Cán
sự đảng của Chính phủ, các bộ ngành tập trung thực hiện chức năng đề xuất dự
án luật, xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, quy hoạch, chính sách quản lý vĩ
mô liên quan đến vận động trí thức, KH&CN, GD&ĐT. Chính phủ chỉ đạo và
kiểm tra việc thực hiện các chính sách, kế hoạch… liên quan đến trí thức và công
tác vận động trí thức.
Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc chuẩn bị, trình Quốc
hội những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội liên quan đến trí
thức và công tác vận động trí thức; Lãnh đạo việc dự kiến nhân sự của trí thức tham
gia Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; Lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện
chế độ, chính sách cụ thể và việc bảo đảm các điều kiện hoạt động của trí thức và
các cơ quan của trí thức. Trên thực tế, hiện nay những văn bản đề cập đến trí thức
và vận động trí thức chưa được nhiều. Quốc hội mới chỉ ban hành được “Luật Sở
hữu trí tuệ” nhưng luật này cũng mới chỉ quy định về quyền tác giả, quyền liên quan
đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng với
việc bảo hộ các quyền đó, còn vấn đề trí thức chưa được đề cập trong luật này. Luật
Khoa học và công nghệ, Luật Giáo dục, Luật Báo chí, Pháp lệnh Cán bộ, công
chức,... cũng rất ít đề cập vấn đề trí thức. Do vậy, Quốc hội cần ban hành Luật Trí
thức. Luật Trí thức phải được làm rõ những khái niệm về tri thức, trí thức và người
trí thức; quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người trí thức Việt Nam;
làm rõ vai trò và trách nhiệm của Nhà nước đốỉ với người trí thức; làm rõ chính
sách của Nhà nước đối với người trí thức; làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với
người trí thức; làm rõ vấn đề khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng trí thức, trọng
dụng nhân tài; làm rõ vấn đề thưởng, phạt đối với việc nhà khoa học, trí thức thực
thi các công trình, đề tài, đề án, dự án của Nhà nước; làm rõ mối quan hệ giữa Nhà
nước và trí thức; làm rõ quyền sở hữu trí tuệ của tác giả; làm rõ những việc người
trí thức được làm và không được làm; làm rõ chính sách bầu cử, tuyển dụng, sử
dụng trí thức; làm rõ chính sách đối với những trí thức trong các tổ chức ngoài công
lập. Một khi Luật Trí thức ra đời, người trí thức sẽ được sống trong luật pháp và
được bảo đảm bằng chính pháp luật.
127
Mặt khác, hiện nay khoảng 50% trí thức đang hoạt động trong các Hội nghề
nghiệp, trong đó riêng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã có tới
140 hội thành viên với trên 3000 chi hội trực thuộc. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có
luật về hội. Việc điều chỉnh, quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động hội chỉ được
điều chỉnh qua các văn bản quy phạm Pháp luật như Nghị định số 45/2010/NQ-CP
về tổ chức hoạt động và quản lý Hội; Liên đoàn Luật sư được điều chỉnh bàng Luật
Luật sư; Nghị định số 08/1998/NĐ-CP về ban hành quy chế thành lập Hiệp hội
doanh nghiệp nước ngoài. Rõ ràng, việc ban hành Luật Hội là cần thiết nhưng hơn
10 năm, hàng chục lần góp ý, soạn thảo đi, soạn thảo lại nâng lên, đặt xuống khá
nhiều lần và đến lần này thì đưa ra Quốc hội để thảo luận nhưng theo ông Dương
Trung Quốc, đại biểu Quốc hội 3 khóa liền (Khóa XI- XIII). "Tôi muốn lưu ý rằng
những kỳ họp cuối cùng khóa 13 này chỉ thảo luận thôi, chứ còn việc quyết định thì
theo quy trình của nó, nó phải thêm một kỳ họp nữa, tức là nó có thể phải sang
nhiệm kỳ tới của Quốc hội khóa XIV…". Đã đến lúc việc ban hành Luật về Hội,
không thể trì hoãn được nữa.
Hai là, tiếp tục đổi mới việc lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa đường lối, nghị
quyết của Đảng thành các văn bản quy phạm pháp luật, ban hành cơ chế, chính
sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về trí thức và công tác vận động trí thức
của Chính phủ.
Sự quản lý của Nhà nước đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống của
người trí thức trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần, cả hai mặt này phải
được thể hiện bằng các chính sách cụ thể của Chính phủ. Mặc dù đã có nhiều cố
gắng nhưng trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW “Về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”các chính sách của
Nhà nước về vấn đề trí thức mới chỉ được thể hiện ở các văn bản chung và có thể
nói là chưa cụ thể. Chính phủ chưa thể hiện rõ vai trò của mình đối với trí thức, nhất
là việc quan tâm, quản lý đội ngũ trí thức. Vì vậy, Chính phủ cần có sự nghiên cứu
sâu sắc về chính sách đối với trí thức và cần ra các văn bản quy phạm pháp luật để
tiếp tục thực hiện Nghị quyết này.
128
Chính phủ cần phải rà soát lại toàn bộ chính sách về khai thác, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực trí thức và chính sách trọng dụng nhân tài, xem xét
đến những điều kiện lịch sử cụ thể, đến hoàn cảnh của đội ngũ trí thức để đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng, khuyến khích họ đóng góp nhiều cho sự nghiệp chấn hưng đất
nước. Nhà nước XHCN phải trọng dụng trí thức vượt trội hơn nhà nước tư bản chủ
nghĩa. Nhà nước XHCN, trước hết phải là nhà nước dân chủ, thể hiện ở việc tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho trí thức tham gia hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, đối ngoại, xây dựng và bảo vệ đất nước và tham gia vào
việc soạn thảo các văn bản có tính pháp quy.
Cơ sở để định ra các chính sách của Nhà nước đối với trí thức chính là giải
quyết hài hòa giữa các lợi ích vật chất và tinh thần của người trí thức. Mấu chốt của
vấn đề là nhà nước quan tâm đến đội ngũ trí thức chính là ban hành chính sách và chỉ
đạo tổ chức thực hiện chính sách đối với trí thức. Những năm qua, Chính phủ đã chỉ
thị cho các bộ, ngành rà soát lại chính sách đã ban hành, chỉnh sửa, thay thế được khá
nhiều chính sách khi xét thấy nó không còn phù hợp. Tuy nhiên, vẫn còn không ít
chính sách lỗi thời, nhưng vẫn chưa được điều chỉnh. Nhận xét chung về các chính
sách tài chính và khoa học và công nghệ còn nặng về quản lý tài chính, mà còn xem
nhẹ chất lượng nội dung và kết quả nghiên cứu của các đề tài, đề án, dự án cấp nhà
nước. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm sao cơ quan chức năng của Chính phủ thu về chất
lượng công trình tốt hơn và giảm thiểu các thủ tục thanh quyết toán đồng thời vẫn
đảm bảo được sự nghiêm minh, chặt chẽ trong chi tiêu ngân sách. Về phương pháp
định chính sách, những vấn đề nào mang tính bao quát chung, thì của Chính phủ, còn
những vấn đề nào mang tính chuyên ngành, thì để cho bộ chủ quản định ra.
Ba là, tiếp tục đổi mới tăng cường sự lãnh của Đảng đối với các bộ, ngành,
các cơ quan KH&CN,GD&ĐT, các đơn vị kinh tế… trong công tác vận động trí thức
Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức là lãnh đạo hệ thống chính trị và
toàn xã hội quan tâm chăm lo xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ trí thức có mặt trong mọi ngành, mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động trong tổ chức nào thì trí thức chịu sự tác
động trực tiếp của tổ chức đó. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động đội
129
ngũ trí thức không thể tách rời một cách riêng rẽ mà phải gắn với sự lãnh đạo các tổ
chức tổ chức Đảng, các ngành, các lĩnh vực và toàn xã hội. Do vậy, muốn tiếp tục
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cũng phải gắn với
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với tất cả các lĩnh vực, các tổ chức, đối với toàn
xã hội, trong thực hiện quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng đối với trí thức,
tạo nên văn hóa xã hội tôn vinh và tạo điều kiện tốt nhất cho đội ngũ trí thức. Các tổ
chức Đảng trong bộ, ngành, địa phương, các cơ quan KH&CN,GD&ĐT, các đơn vị
kinh tế.., xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự báo nhu cầu về
số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng
và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo đội ngũ trí thức, nguồn nhân lực có chất
lượng cao, lựa chọn, sử dụng, đãi ngộ, tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ trí thức
phát huy vai trò vị trí của mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan đơn vị, của
các bộ, các ngành và của đất nước.
4.2.4. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ để xây dựng đội ngũ trí thức và tạo môi trường thuận
lợi cho trí thức sáng tạo, cống hiến
4.2.4.1. Đảng lãnh đạo đổi mới toàn diện, triệt để giáo dục đào tạo, nhất là
giáo dục đại học tạo tiền đề cho việc xây dựng đội ngũ trí thức
Giáo dục và đào tạo có vai trò to lớn trong việc xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn quan tâm đến GD&ĐT.
Đổi mới giáo dục là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị
về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Đáng chú ý là Nghị
quyết Trung ương 4 (NQTW) (khóa VII), NQTW 2 (khóa VII), Thông báo Kết luận
số 242 của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 15-9-2009,.
Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt được những kết quả
quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, GD&ĐT còn những bất
cập, yếu kém. Giáo dục và đào tạo vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa là
động lực quan trọng nhất cho phát triển. Chất lượng giáo dục nhìn chung thấp, chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước
130
trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, thực trạng
và yêu cầu phát triển giáo dục, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”[47].
Cụ thể hóa đường lối của Đảng, ngày 4-11-2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã
ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục và đào tạo, cần
tập trung giải quyết những nội dung sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với
đổi mới giáo dục và đào tạo
Các cấp ủy Đảng phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào
tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng
thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; Coi trọng công tác phát
triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các trường học, trước hết là trong đội
ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ; các trường đại học có đảng bộ.
Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục - đào tạo phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu
thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo kiện toàn bộ máy
tham mưu và bộ máy quản lý giáo dục và đào tạo; thường xuyên kiểm tra việc thực
hiện, đặc biệt là kiểm tra công tác chính trị, tư tưởng và việc xây dựng nền nếp, kỷ
cương trong các trường học, phát hiện và giải quyết dứt điểm các biểu hiện tiêu cực
trong giáo dục và đào tạo. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện, ban hành mới hệ thống pháp luật về giáo dục và đào tạo, các luật, nghị quyết
của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực
hiện. Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới
các văn bản dưới luật; Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo
viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân
địa phương để xây dựng nhà trường. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất
lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Nâng
131
cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là
khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên
cứu khoa học và triển khai công nghệ với các trường đại học công lập. Xây dựng
chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với kinh tế tri thức cho đất
nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp
đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại đội ngũ trí thức. Các
bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự
báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ
sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực hiện. Phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện
tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chấm dứt
tình trạng, đào tạo chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng, phát triển giáo dục đại
học quá mức như hiện nay.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo,
đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã
hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo, đặt nền móng
vững chắc cho việc xây dựng đội ngũ trí thức.
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
khôn ngoan nhất, phấn đấu ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu
ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân
sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo
dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính sách học phí.Đối với giáo dục mầm non và
phổ thông, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các cơ sở giáo
dục công lập và có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm từng bước hoàn thành mục tiêu phổ
cập theo luật định. Khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập đáp
ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao ở khu vực đô thị.
Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Tiếp tục
hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc
thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được
132
vay để học. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài,
giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi. Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các cá
nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo dục và
đào tạo. Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ
trợ hoạt động đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối với các
loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực
hiện định kỳ kiểm toán các cơ sở giáo dục - đào tạo. Giám sát chặt chẽ, công khai,
minh bạch việc sử dụng kinh phí.
Ba là, Đảng lãnh đạo các tổ chức đảng trong ngành giáo dục và đào tạo chỉ
đạo tốt việc đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đại học và sau đại học, đa
dạng hóa các loại hình đào tạo để nâng cao chất lượng, đảm bảo cơ cấu đội ngũ trí
thức hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng kinh tế tri thức, CNH,HĐH đất nước.
Nội dung giáo dục từ bậc đại học trở lên ở nước ta hiện nay còn nặng về lý
thuyết, thời gian cho thực hành rất ít, chương trình đào tạo nhìn chung còn lạc hậu, xa
rời thực tiễn, không thích ứng kịp với sự phát triển của KH&CN thế giới, nên phần lớn
những sinh viên sau khi tốt nghiệp rất khó thích ứng với công việc thực tế.. Do đó, đổi
mới nội dung giáo dục đại học và sau đại học là yêu cầu bức thiết hiện nay. Việc đổi
mới hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta cần theo hướng hiện đại và toàn diện.
Phương pháp giáo dục - đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu tri thức
của người học. Cho nên, đổi mới phương pháp đào tạo là một trong những khâu quan
trọng nhất của việc cải cách giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay. Đối với giáo dục
đại học và sau đại học, đòi hỏi phải có sự đổi mới về phương pháp giảng dạy và
nghiên cứu. Đối tượng giảng dạy ở bậc này đã có nền tảng kiến thức cơ bản cho nên
nhiệm vụ đào tạo chủ yếu nhằm xây dựng phương pháp tiếp cận và tiếp nhận thông
tin một cách khoa học và hiệu quả. Hình thành cho người học năng lực nghiên cứu
độc lập, tư duy sáng tạo sát với thực tiễn cuộc sống. Đối với các ngành đào tạo thuộc
lĩnh vực khoa học - kỹ thuật cần chú trọng hơn đến phương pháp trực quan và các
hoạt động thực hành nhằm giúp người học gắn lý thuyết với thực tiễn.
Bên cạnh đó, cần phải đầu tư trang thiết bị cho dạy và học, đổi mới phương
pháp giảng dạy phải gắn với hiện đại hóa trang thiết bị giáo dục. Đa dạng hóa các
133
loại hình đào tạo: chính quy tập trung, chính quy không tập trung, tại chức, chuyên
tu, từ xa; liên kết giữa các trường đại học trong và ngoài nước… Việc đào tạo ở
nước ngoài do nguồn ngân sách nhà nước cần phải được quản lý chặt chẽ và hướng
vào các ngành mà ta đang có nhu cầu cấp bách công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử
viễn thông… Mở rộng loại hình đào tạo tại chỗ như mời chuyên gia đầu ngành của
các nước đến làm việc hoặc báo cáo ở các cơ sở đào tạo trong nước. Đó chính là cơ
sở cho việc hình thành đội ngũ trí thức có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Đổi mới cơ cấu đào tạo các ngành nghề, cấp học. Đào tạo nhiều cử nhân,
thạc sĩ là cần thiết nhưng trong điều kiện hiện nay, nước ta đang cần rất nhiều công
nhân lành nghề. Vì vậy, cần tăng chỉ tiêu đào tạo nghề hàng năm, đồng thời tổ chức
định hướng phân luồng cho học sinh trước khi tốt nghiệp lớp 12. Làm tốt được nội
dung này, chúng ta có thể tiết kiệm được kinh phí để đào tạo được nhiều chuyên
gia, nhiều trí thức giỏi ở bậc học cao hơn.
Bốn là, Đảng lãnh đạo các ngành, các cấp chăm lo xây dựng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.
Đội ngũ giáo viên, giảng viên có tầm quan trọng đặc biệt, thực sự là máy cái
để tạo nên các thế hệ trí thức không chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải là
những người có phẩm chất chính trị tốt, trung thành với Tổ quốc, với dân tộc. Đẩy
mạnh đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên cho các cấp học từ tiểu học đến sau đại
học, đặc biệt là giảng viên của các trường đại học, viện nghiên cứu trọng điểm quốc
gia. Do đó, hàng năm, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và các nhà
trường cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại cho đội ngũ giảng
viên, giáo viên của từng đơn vị, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất;
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và
đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào
tạo. Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng,
sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh
giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Có chế độ ưu đãi và quy
định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình độ cao; có cơ chế miễn nhiệm,
134
bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không
đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ . Lương của nhà giáo
được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và
có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
4.2.4.2. Đảng lãnh đạo đổi mới cơ chế, chính sách quản lý khoa học và
công nghệ tạo môi trường thuận lợi cho trí thức sáng tạo, cống hiến
Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và
công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, để tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách quản lý KH&CN tạo môi trường thuận lợi cho trí thức sáng tạo,
cống hiến, cần tập trung thực hiện những giải pháp sau đây:
Một là, Đảng lãnh đạo đổi mới hệ thống tổ chức, cơ chế hoạt động của các
tổ chức khoa học và công nghệ.
Mặc dù trong những năm gần đây, việc quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ
chức khoa học và công nghệ đã được chú trọng, tuy nhiên kết quả đạt được chưa
cao. Thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW và Luật Khoa học và Công nghệ năm
2013, cần phải tiếp tục việc quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và
công nghệ, các trường đại học bảo đảm hoạt động có hiệu quả, phù hợp với các mục
tiêu và định hướng nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ. Xây dựng các trung
tâm nghiên cứu hiện đại, làm hạt nhân cho việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng
khoa học và công nghệ ở các lĩnh vực được ưu tiên. Phát triển, nâng cao năng lực hệ
thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển thị
trường khoa học và công nghệ. Phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ
Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm
2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.
Tổ chức thực hiện tốt cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
khoa học, công nghệ và nhà khoa học theo tinh thần Nghị định số 115/2005/NĐ-
CP, ngày 5-9-2005 của Chính phủ. Giao quyển tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho thủ
trưởng các cơ quan, doanh nghiệp khoa học và công nghệ công lập, điều này có
135
nghĩa là họ có quyền tự quyết những vấn đề có tính chiến lược phát triển khoa học
công nghệ cho cơ quan, đơn vị mình, cũng như có toàn quyền tuyển dụng và sa
thải công chức, viên chức, tạo điều kiện thương mại hóa các kết quả nghiên cứu
khoa học ra thị trường. Người nhận làm đề tài, đề án, dự án được toàn quyền sử
dụng kinh phí và nếu không làm được, phải chịu trách nhiệm bồi thường. Triển
khai thực hiện Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN (gọi tắt Thông
tư 55) hướng dẫn định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối
với nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước. Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ,
nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Quy hoạch, sắp
xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một số trung tâm
nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ
khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ.Thực hiện cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Tăng
cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp, gắn nghiên
cứu khoa học với sản xuất và đời sống
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho trí thức sáng
tạo, cống hiến
Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức
trong việc bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Trước hết, cần có một nghị định mới của
Chính phủ về chính sách tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức, người lao
động theo tinh thần cải cách tiền lương triệt để. Tiền lương đang là vấn đề gay cấn
nhất, nhạy cảm nhất hiện nay. Nếu không đổi mới triệt để thì đất nước sẽ không thu
hút được nhân tài, không có năng suất lao động và chất lượng sản phẩm cao. Đây
cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám hiện nay.
Chính phủ cần sớm có một nghị định ban hành quy chế dân chủ trong hoạt
động khoa học, văn hóa, văn nghệ. Nội dung quy chế thể hiện được tính tự do sáng
tạo, tính tự chịu trách nhiệm, tính độc lập trong sáng tạo khoa học, tính thoát khỏi sự
ràng buộc của tổ chức, nhưng vẫn nằm trong ý thức hệ; làm rõ trách nhiệm của Nhà
136
nước trong phát huy dân chủ sáng tạo; trong việc tạo điều kiện về tinh thần, tư tưởng,
tư duy mới, trong đầu tư các điều kiện phương tiện nghiên cứu, phát triển, trong vấn
đề công bằng hưởng thụ các thành quả khoa học giữa cá nhân, tổ chức, nhà nước,
doanh nghiệp. Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan liên quan thực hiện Quyết định
501/QĐ-TTg , ngày 15 - 04 - 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm tổ chức
Diễn đàn khoa học chuyên nghiệp của trí thức tại Việt Nam để tư vấn, phản biện và
giám định xã hội các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ
sở đó có sự tổng kết điều chỉnh để nhân rộng các diễn đàn khoa học, bảo đảm các
quyền và trách nhiệm cao của trí thức vào quá trình quản lý phát triển đất nước.
Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công
nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động
sáng tạo của mình. Nhà nước cần thực hiện nghiêm quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sở hữu công nghiệp và tác giả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tác giả
các công trình khoa học và công nghệ; có chính sách đãi ngộ, khen thưởng đối
với tác giả các công trình được công bố quốc tế, các sáng chế được bảo hộ trong
và ngoài nước, nhanh chóng xây dựng thị trường KH&CN. Thông qua thị trường
này, các kết quả nghiên cứu khoa học, những phát minh, sáng chế được thực hiện
trao đổi ngang giá, giúp cho trí thức có thêm thu nhập chính đáng từ lao động
của mình. Có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ khoa học và công
nghệ đầu ngành, cán bộ khoa học và công nghệ được giao chủ trì nhiệm vụ quan
trọng của quốc gia, cán bộ khoa học và công nghệ trẻ tài năng. Tiếp tục điều
chỉnh chính sách động viên, sử dụng về chuyên môn, nghiệp vụ, tri thức và kinh
nghiệm đối với những trí thức có trình độ cao, có năng lực và sức khỏe tuy đã
hết tuổi lao động, không bình quân chủ nghĩa về tuổi tác. Cần làm rõ các đối
tượng, các lĩnh vực mà trí thức chuyên gia cần được tiếp tục sử dụng trong Quyết
định số 67/2007/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Đổi mới các chính sách khen thưởng - tôn vinh các trí thức khoa học và công
nghệ, các nhà quản lý giỏi, tập trung vào các danh hiệu khen thưởng nhà nước, các
danh hiệu ưu tú, nhân dân, nghệ nhân, bàn tay vàng, các giải thưởng nhà nước với
137
các mức thưởng có giá trị cao tương xứng với cống hiến, với các công trình, sản
phẩm khoa học, công nghệ có giá trị. Đủ để bù đắp các hao phí sức lực, tiền của, có
thể tái đầu tư cho nghiên cứu phát triển.
Xây dựng cơ chế phát hiện người có tài, có đức để quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, bổ nhiệm. Hoàn thiện hệ thống chức danh, chức vụ khoa học và công nghệ.
Cải tiến hệ thống giải thưởng khoa học và công nghệ, danh hiệu vinh dự Nhà nước
cho cán bộ khoa học và công nghệ.
4.2.5. Đảng lãnh đạo phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong
công tác vận động trí thức
MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận quan
trọng của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, có vai trò rất quan trọng trong trong công tác
vận động trí thức. Vì vậy, trong những năm tới, Đảng cần coi trọng việc đổi mới,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác vận động trí thức, thể
hiện qua các vấn đề sau đây:
Một là, các cấp ủy Đảng cần tiếp tục quán triệt và nâng cao nhận thức của
đội ngũ cán bộ Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai
trò, vị trí của trí thức và công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về trí thức và công tác vận động trí
thức. Tiếp nối truyền thống của dân tộc coi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”,
đặc biệt tiếp tục khẳng định quan điểm Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Làm tốt công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay là góp phần phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với trí thức, tạo động lực để trí thức phát
huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm năng trí tuệ, đóng góp tích cực vào phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
138
Hai là, Đảng tôn trọng tính tự chủ, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong công tác đoàn kết tập hợp trí thức trong và ngoài nước, phát
huy cao nhất vai trò, tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức trong tổ chức
mình để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Kiện toàn Đảng đoàn MTTQ và đảng đoàn các đoàn thể chính trị - xã hội trực
thuộc Ban Bí thư. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn Mặt trận và đảng
đoàn các đoàn thể trong công tác vận động trí thức của tổ chức mình. Thường xuyên
nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của Đảng, chính quyền đối với MTTQ
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và vai trò làm chủ của
trí thức thông qua MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, hội quần chúng. Nâng
cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước của trí thức trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội; cổ vũ các mô hình, điển hình tiên tiến; phát huy vai
trò trí thức tiêu biểu trong cộng đồng dân cư; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên, hội viên là trí thức. Phát huy quyền chủ động của MTTQ,
các đoàn thể trong vận động trí thức; các hình thức tập hợp trí thức phải đa dạng, phù
hợp với đặc thù cử trí thức. Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác sơ kết, tổng kết về
nội dung và phương thức vận động trí thức của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân. Định kỳ, cấp ủy đảng các cấp làm việc, nghe báo cáo tình hình và định
hướng công tác vận động trí thức của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân;
tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng về công tác vận động trí thức. Tiếp tục đưa nội dung vận động trí thức của
MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thành một trong những tiêu chuẩn đánh
giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp. MTTQ Việt Nam, các
đoàn thể chính trị - xã hội làm nòng cốt trong việc phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ,
ý thức trách nhiệm của trí thức trong thực hiện giám sát, phản biện xã hội và góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội lựa
chọn, cử những người có tín nhiệm vào hoạt động trong các tổ chức của trí thức; cán
bộ của làm công tác vận động trí thức phải được lựa chọn từ những người ưu tú trong
phong trào, có năng lực và có uy tín đối với trí thức.
139
Mặt trận Tổ quốc, Việt Nam và các đoàn thể chính trị, các tổ chức kinh tế, xã
hội, nghề nghiệp trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mình, đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động để làm tốt công tác vận động trí thức trong tổ chức mình,
quan tâm chăm lo đào tạo bồi dưỡng, tuyên truyền, vận động trí là người dân tộc ít
người, trí thức tôn giáo, trí thức doanh nhân, trí thức trẻ, nữ trí thức và trí thức
người Việt Nam ở nước ngoài góp công, góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa vai trò, chức năng, thẩm quyền
và trách nhiệm của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác vận động
trí thức bằng các chính sách, kế hoạch chương trình cụ thể phù hợp với từng đối
tượng trí thức.
Đối với Mặt trận Tổ quốc, Nhà nước cần thể chế hóa chức năng nhiệm vụ
của Mặt trận trong công tác đoàn kết tập hợp và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức. Nhà nước cần thể chế hóa vai trò liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu để từ đó phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức đó trong việc đoàn kết
toàn dân tộc nói chung và đoàn kết tập hợp trí thức nói riêng. Sẽ không có một tổ
chức nào làm tốt hơn, nếu MTTQ chỉ đạo các tổ chức thành viên trong việc đoàn
kết tập hợp trí thức tôn giáo, trí thức cao tuổi, trí thức là người Việt Nam ở nước
ngoài. Chỉnh phủ cần tạo điều kiện cho MTTQ thực hiện Kết luận số 65-KL/TW
ngày 04-02-2010 của Ban Bí Thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục thực hiện Chỉ
thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở do Ban Bí thư ban
hành và Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20-4-2007 của Ủy Ban
Thường Vụ Quốc Hội Khóa 11 về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
Nghị định 60/2013/NĐ-CP ngày 19-6-2013 của Chính phủ về việc hướng dẫn Bộ
luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc. Đây chính là
tiền đề để tạo môi trường dân chủ cho các hoạt động của trí thức, đặc biệt giúp trí
thức góp phần cùng với MTTQ thực hiện các hoạt động giám sát, phản biện xã hội
theo Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12 -12 - 2013 của của Bộ Chính trị ban hành
“Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” và Quyết định số 217-
140
QĐ/TW ngày 12 - 12 - 2013 về việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”.
Đối với các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
trí thức. Chính phủ cần tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện về cơ chế hỗ trợ kinh phí
cho các tổ chức như Đoàn Thanh niên với các chương trình, đề án Trí thức trẻ đã
tạo cơ hội cho trí thức trẻ cống hiến và trưởng thành, góp sức vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phụ nữ với dự án “Nữ trí thức Việt Nam với hoạt động
sáng tạo”, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam với các hoạt động tư
vấn, phản biện, diễn đàn khoa học chuyên nghiệp… để phát huy vai trò của trí thức
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với các hội nghề nghiệp của trí thức, trong
khi chờ đợi ban hành Luật về Hội, Chính phủ cần sửa đổi Nghị định số 45/NĐ-CP
về Tổ chức hoạt động và quản lý hội để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
của trí thức, nhất là các trí thức đã nghỉ hưu để họ tiếp tục cống hiến cho đất nước.
Đối với đối với các tổ chức của trí thức ngoài công lập, Đảng, Nhà nước cần
có sự đánh giá công tâm về các tổ chức khoa học công nghệ ngoài công lập, phải
gạt bỏ mọi nghi ngờ đối với các tổ chức này (hội, viện, trung tâm,...), trên cơ sở đó
mà có chính sách đúng đắn cho nó và tạo mọi điều kiện để nó phát triển. Chính phủ
cần quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức này hoạt động theo Nghị định số
08/2014/NĐ-CP ngày 27- 01 - 2014 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Khoa học và công nghệ. Đây là một lực lượng trí
thức trẻ trung, năng động, dám nghĩ, dám làm , dám chịu trách nhiệm, hoạt động tự
chủ tự quản về tổ chức và tài chính, không dựa vào ngân sách nhà nước nhưng lại
rất năng động hiệu quả, góp phần không nhỏ vào quá trình xã hội hóa GD&ĐT,
KH&CN, xóa đói giảm nghèo, phát triển cộng đồng.
Bốn là, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên
và các tầng lớp nhân dân trong công tác vận động trí thức.
Đây là một trong những phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng trong công tác
vận động trí thức. Uy tín và ảnh hưởng trực tiếp của Đảng đối với đội ngũ trí thức
trước hết là thông qua những đảng viên, những cán bộ của Đảng hoạt động trong đội
ngũ trí thức. Thông thường thì những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong tổ chức
141
của những người trí thức đều là đảng viên của Đảng. Nếu những cán bộ này mẫu mực
về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có tác phong gương mẫu, năng lực phù hợp
với chức trách thì sức ảnh hưởng của Đảng, sự cảm hóa trí thức từ những con người
cụ thể của Đảng hàng ngày gần gũi với họ trong tập thể cơ quan, đơn vị sẽ hết sức
lớn. Còn ngược lại thì niềm tin của trí thức vào Đảng cũng sẽ suy giảm rất nhanh.
Để giữ vững vị trí và vai trò lãnh đạo cách mạng của mình, để tiếp tục đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, Đảng phải thường
xuyên được xây dựng và chỉnh đốn, phòng và chống nguy cơ thoái hóa, biến chất
trong đội ngũ. Mỗi đảng viên phải không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng, tăng
cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, với trí thức. Đảng cần xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên gương mẫu về mọi mặt vì gương mẫu là "mệnh lệnh không lời".
"đảng viên đi trước, làng nước theo sau", "một tấm gương sống còn có giá trị hơn
một trăm bài diễn văn tuyên truyền", "lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày
giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các
tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới". Trong Đảng, mọi cán
bộ, đảng viên đều gương mẫu thì sẽ góp phần quan trọng củng cố lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, góp phần xây dựng, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân, với trí thức.
Để nâng cao chất lượng và phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán
bộ, đảng viên trong công tác vận động trí thức phải kiên quyết, kiên trì thực hiện tốt
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tăng cường công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét
xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp,
để củng cố niềm tin của trí thức và của nhân dân đối với Đảng.
Đảng phải xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp
trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
142
nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị, trong công tác vận
động trí thức. Mọi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách
mạng, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, xây dựng
lối sống lành mạnh, tham gia thực hiện cuộc vận động chính trị “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với quyết tâm cao nhất là ngăn chặn và đẩy
lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tham nhũng trong cán bộ,
đảng viên, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng
và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các
cấp, cán bộ trực tiếp làm công tác vận động trí thức để phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng trong lãnh đạo công tác vận động trí thức.
Ngoài trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đảng phải đổi mới sự lãnh
đạo để động viên các gia đình, dòng họ và mỗi công dân trách nhiệm tham gia vào
vào công tác vận động trí thức. Tham gia tích cực vào việc khuyến học, khuyến tài,
trao quỹ khuyến học, khuyến tài, vinh danh con cháu đạt thành tích cao trong học
tập chính là những hành động cụ thể để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức. Bản thân đội ngũ trí thức
Đảng cũng cần phải đổi mới sự lãnh đạo để động viên đội ngũ trí thức không
ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất, trình độ mọi mặt để đóng
góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường
phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi
mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng
tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất
lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ
của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.
4.2.6. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức
Cùng với cấp ủy đảng, chính quyền đoàn thể các cấp, các tổ chức của trí thức
đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác vận động trí thức. Để tiếp tục đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
tốt một số nội dung sau:
143
Một là, Đảng tiếp tục lãnh đạo củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt
động của các tổ chức đảng trong các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
các cơ sở giáo dục - đào tạo để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức.
Đảng đoàn, Ban Cán sự Đảng và các cấp ủy cần quan tâm chỉ đạo củng cố,
nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ quan nghiên cứu,
ứng dụng khoa học và các cơ sở giáo dục - đào tạo để các tổ chức đảng thực sự là
hạt nhân chính trị lãnh đạo các hoạt động ở các cơ quan đó và lãnh đạo đội ngũ trí
thức, phát huy vai trò của họ trong công cuộc đổi mới. Thực hiện tốt quy định của
Trung ương về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng trong các cơ quan đó.
Cần nghiên cứu và chỉ đạo việc xây dựng, củng cố hợp lý các cơ quan nghiên cứu
và triển khai khoa học, công nghệ. Làm tốt công tác quy hoạch đối với các chức
danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của các đơn vị nghiên cứu và giảng dạy ở
các viện, các trường đại học trọng điểm…, trên cơ sở xuất phát từ nhiệm vụ chính
trị, nhiệm vụ tổ chức của các đơn vị đó; đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ khoa
học hiện có; dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý để chủ động có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng. Đặc biệt chú trọng tạo
được nguồn cán bộ dồi dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu. Đồng thời,
các cấp ủy đảng phải định kỳ kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch cán bộ của đơn vị
mình cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của cơ quan và yêu cầu nhiệm
vụ chính trị trong từng giai đoạn. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong lĩnh
vực khoa học - công nghệ phải tích cực chuẩn bị người thay thế mình. Mỗi chức
danh phấn đấu có từ 2 đến 3 người dự bị và phải do tập thể lựa chọn và bồi dưỡng.
Khi cán bộ lãnh đạo cũ sắp kết thúc nhiệm vụ của mình, giao ngày càng nhiều công
việc lãnh đạo cho người cán bộ dự bị có khả năng nhất đảm nhiệm, không để xảy ra
tình trạng người mới thay bị bỡ ngỡ trong công việc.
Hai là, Đảng tiếp tục lãnh đạo củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của trí thức.
Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức tìm cách phá hoại
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, với những thành quả và tác động của cuộc
144
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, chúng lợi dụng các phương tiện thông tin
đại chúng để tuyên truyền tư tưởng phản động, đi ngược lại đường lối, chủ trương
của Đảng, đặc biệt là chia rẽ, làm mất lòng tin của trí thức với Đảng. Do đó, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức là nhiệm vụ cấp thiết. Điều này không
có nghĩa là Đảng sẽ quản lý, can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của các tổ chức
hội, mà thông qua các tổ chức Đảng để lãnh đạo củng cố, kiện toàn, nâng cao chất
lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của trí thức.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trước hết cần củng cố, kiện toàn, nâng
cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng như Đảng đoàn, Đảng ủy, Chi ủy
trong các tổ chức hội để các tổ chức đảng thực sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo các
hoạt động ở các cơ quan đó và lãnh đạo đội ngũ trí thức, phát huy vai trò của họ
trong công cuộc đổi mới. Thực hiện tốt quy định của Trung ương về chức năng,
nhiệm vụ của các tổ chức đảng trong các cơ quan đó.Cần nghiên cứu và chỉ đạo
việc xây dựng, củng cố hợp lý tổ chức bộ máy các hội phù hợp với điều lệ của các
tổ chức theo hướng tinh gọn, thiết thực hiệu quả. Chú trọng công tác cán bộ từ quy
hoạch, cơ cấu, bầu cử tại các đại hội, đề bạt, bổ nhiệm, bố trí sử dụng. Khắc phục
những yếu kém khuyết điểm trong công tác cán bộ, tình trạng hữu khuynh, tình
trạng vô tổ chức trong công tác cán bộ của một số hội trí thức trong thời gian qua.
Đảng Đoàn, các tổ chức đảng trong các hội của trí thức phải tổ chức quán triệt
sâu rộng và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về trí thức và vận động trí
thức, đặc biệt là về KH&CN, GD&ĐT. Bên cạnh đó, cần nâng cao công tác phát triển
Đảng trong các hội ngành từ Trung ương đến địa phương. Thông qua các chi bộ,
đảng viên, thực hiện sự lãnh đạo đối với đội ngũ trí thức thuộc các tổ chức hội.
Cùng với việc củng cố, tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, cần phải chủ
động đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức hội từ Trung ương
đến địa phương, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng
cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức. Đổi mới cách thức tập hợp lực lượng
nhằm thu hút đông đảo các thành phần trí thức tham gia vào tổ chức hội. Trong giai
đoạn hiện nay, cần nghiên cứu để thành lập các loại hình tổ chức phù hợp theo qui
định của pháp luật để thu hút trí thức KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài, trí
145
thức có trình độ chuyên môn cao, trí thức trẻ tài năng tham gia xây dựng đất nước
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo điều kiện để các hội trí thức thực
hiện các dịch vụ công, tham gia cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát hoạt động nghề
nghiệp, thực hiện tự chủ về tài chính. Việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn phải
trên cơ sở đề cao tính hiệu quả, chất lượng, tránh tình trạng “công chức hóa” “hành
chính hóa” hoạt động của hội. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hội với các
tổ chức của Đảng và Nhà nước, giữa các hội thành viên; giữa Trung ương và địa
phương. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động và phát huy vai trò của tổ chức
hội ở địa phương trên cơ sở gắn với chiến lược phát triển KT - XH ở địa phương.
Hoàn thiện cơ chế hoạt động của Hội và các hội thành viên trong tư vấn, phản biện,
giám định xã hội nhằm tập hợp, thu hút trí tuệ của đội ngũ trí thức đóng góp ý kiến
vào các dự thảo văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước; tham mưu, đề xuất với
Đảng, Nhà nước những vấn đề lớn trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương,
chính sách phát triển đất nước; phản biện, giám định các chương trình, dự án, đề án
lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
146
KẾT LUẬN
Trí thức là vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ trí
tuệ của một quốc gia. Dù ở thời đại nào, chế độ chính trị nào, các quốc gia đều phải
chăm lo xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Trong thời đại ngày nay, nhân loại đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão
của cuộc cách mạng KH&CN Sự phát triển ấy đang đưa nền kinh tế của một số
nước trên thế giới chuyển sang giai đoạn mới - KTTT. Trong giai đoạn này, tri thức,
KH&CN không chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực quan trọng
hàng đầu, mà còn là nguồn tài nguyên quý giá hơn nhiều so với các nguồn tài
nguyên khác. Vì thế, xây dựng đội ngũ trí thức, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao đang là một trong những vấn đề chiến lược, có tính ưu tiên hàng đầu đối
với tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Để thực
hiến tốt chiến lược này, các quốc gia phải quan tâm tới việc phát huy vai trò của trí
thức trong quá trình phát triển đất nước. Bởi vì, trí thức vừa là một bộ phận của
nguồn lực con người, vừa là nguồn tiềm năng khoa học, kỹ thuật, trực tiếp góp phần
vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trí thức ngày càng
giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, dân tộc.
Đối với Việt Nam để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH xây
dựng và phát triển kinh tế tri thức cần phải xây dựng một đội ngũ trí thức với số
lượng hợp lý chất lượng cao. Muốn đạt được điều đó, cần phải đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Đây là vấn đề có tính chiến lược, lâu
dài, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của Đảng và hệ thống chính trị, của các ngành, các cấp
và toàn xã hội. Qua nghiên cứu, tác giả luận án rút ra một số nhận định khái quát sau:
1. Trí thức là những người lao động trí óc, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri
thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội, là lực
lượng nòng cốt trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh
những mặt mạnh, những ưu điểm, đội ngũ trí thức cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế,
khuyết điểm cần được khắc phục kịp thời thì mới đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
mới của đất nước.
147
2. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá
cao vai trò vị trí của đội ngũ trí thức, luôn quan tâm chăm lo đoàn kết, tập hợp và
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Công tác vận động trí thức là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác
dân vận và là nhiệm vụ, trách nhiệm của Đảng, của hệ thống chính trị và toàn xã
hội. Để làm tốt công tác vận động trí thức cần phải nắm vững quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và vận động trí thức, phải
nắm được vai trò đặc điểm của trí thức để xác định nội dung phương thức vận
động phù hợp.
4. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng nói
chung, Đảng cũng đã đổi mới nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo công tác vận
động trí thức. Quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức đã huy động được sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội tham gia công tác vận động trí
thức, góp phần xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, góp phần thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy
nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cũng còn bộc lộ
nhiều tồn tại, yếu kém cần khắc phục.
5. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, phát triển
kinh tế tri thức,đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, việc xây dựng và phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức càng có ý nghĩa quyết định. Bằng tài năng, trí tuệ, sự
cống hiến của mình, trí thức Việt Nam đang tích cực, chủ động tham gia vào các
ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để xây dựng và phát huy hơn nữa vai
trò của trí thức, việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức là một tất yếu khách quan trước những thời cơ, thách thức do thời
đại và thời cuộc đặt ra. Việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ cả nội dung và phương thức lãnh
đạo, phải đổi mới sự lãnh đạo từ các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị và toàn xã hội.
148
Để tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức trong những năm tới, còn nhiều vấn đề tác giả luận án
sẽ tập trung nghiên cứu, luận giải trong thời gian tới như: Nắm bắt, quán triệt các
quan điểm, đường lối của Đảng trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII sắp tới, tiếp tục nghiên cứu về thời cơ, thách thức đối với việc đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức, bổ sung và hoàn thiện các kiến nghị
giải pháp mà mình đã đưa ra. Đó là những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
đang đặt ra trong tiến trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức trong những năm tới./.
149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. “Hà Tĩnh với công tác xây dựng đội ngũ trí thức”, Tạp chí Cộng sản, số 16/2008.
2. “Thực hiện tốt Chỉ thị số 42-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá X) về đẩy
mạnh công tác đoàn kết, tập hợp trí thức”, Tạp chí Cộng sản Điện tử [truy
cập ngày 23/5/2012].
3. ”Một số kinh nghiệm về công tác trí thức của Trung Quốc”, Tạp chí Cộng
sản Điện tử [truy cập ngày 31/5/2012].
4. “Kinh nghiệm từ Hiệp Hội Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc”, Tạp chí
Khoa học và Tổ quốc, số 5/2012.
5. “Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Bắc Giang làm tốt công tác tư
vấn, phản biện và giám định xã hội”, Tạp chí Cộng sản Điện tử [truy cập
ngày 4/9/2014].
6. “Trí thức Hà Tĩnh: xưa và nay”, Tạp chí Cộng sản Điện tử. [truy cập ngày
4/6/2014].
7. “Vài suy nghĩ về phản biện xã hội”, Tạp chí Trí thức và Phát triển, số 7/2014.
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Văn An (2014), “Đổi mới nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng
trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị (2).
2. Nguyễn Đức Bách (1995), “Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện
để trí thức nước ta phất huy tài năng trí tuệ”, Công tác khoa giáo, (4).
3. Nguyễn Đức Bách (2008), “Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề trí thức”, Tạp chí
Lý luận chính trị, (9).
4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Một số lời dạy và mẩu chuyện về
tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, (5), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
5. Hoàng Chí Bảo (2008), Dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Quốc Bảo (1998), Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước, Nxb Lao
động, Hà Nội.
7. Nguyễn Quốc Bảo, Đoàn Thị Lịch (đồng chủ biên), (1998), Trí thức trong công
cuộc đổi mới đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội.
8. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (đồng chủ biên) (2013), Xây dựng đội ngũ
trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
9. Trịnh Quang Cảnh (2001), Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong
công cuộc đổi mới, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
10. Dương Tú Cầm (2011), Báo cáo “Về Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức ở
Trung Quốc”, Tổng Thư kí Quỹ học bổng Quốc gia Trung quốc (CSC).
11. Center for Public Integrity (2010), Báo cáo của Trung tâm Minh bạch công ích,
và một số tổ chức khoa học ngoài nhà nước của Hoa Kỳ (USNGOs).
12. China Association of Science Technology - CAST (Hiệp Hội Khoa học và Kỹ
thuật Trung Quốc) (2011), Báo cáo “về tình hình đội ngũ trí thức Trung
Quốc và hoạt động của CAST”.
13. Chính phủ (2000), Chỉ thị số 14/2000/CT-TTg ngày 01/8 của Thủ tướng Chính
phủ về việc triển khai thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam, Hà Nội.
151
14. Chính phủ (2002), Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01 của Thủ tướng
Chính phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên
hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
15. Chính phủ (2003), Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7 của Chính phủ quy
định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội, Hà Nội.
16. Chính phủ (2010), Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ
chức, hoạt động và quản lý Hội, Hà Nội.
17. Chính phủ (2012), Quyết định 418/QĐ-TTg, Phê duyệt Chiến lược phát triển
Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2011-2020.
18. Chính phủ (2012), Quyết định 711/QĐ-TTg, Phê duyệt Chiến lược phát triển
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020.
19. Chính phủ (2014), Quyết định số 14/2014/QĐ-TTg ngày 14/02 của Thủ tướng
Chính phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên
hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
20. Lý Quang Diệu (1994), Tuyển 40 năm chính luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Vương Huy Diệu (2010), Chiến lược quốc gia nhân tài biến đổi thế giới, Nxb
Nhân dân, Hà Nội.
22. Phạm Tất Dong (chủ biên) (1995), Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Phạm Tất Dong (1999), “Chính sách của Đảng đối với trí thức”, Tạp chí Kinh
tế và phát triển, (30-31).
24. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức
Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
25. Phạm Tất Dong (2003), Tác động của kinh tế thị trường và sự phát triển đội
ngũ trí thức Việt Nam, Tạp chí Khoa giáo (4).
26. Phan Xuân Dũng (Chủ biên) (2008), Công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
27. Phan Viết Dũng (1998), Vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
152
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nghị quyết số 26-NQ/BCT của Bộ Chính trị
ngày 30/3 về chính sách phát triển khoa học và công nghệ trong sự
nghiệp đổi mới, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 45 - CT/TW ngày 11-11 về đẩy
mạnh hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Báo cáo một số vấn đề xây dựng và phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức và việc xây dựng, phát huy vai trò của trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
153
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Thông báo Kết luận số 145-TB/TW ngày 09-
7 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị số 45-CT/TW
đối với Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong giai đoạn
từ nay đến năm 2010, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số: 23-NQ/TW, ngày 16-6 -2008
của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật
trong thời kỳ mới.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16-4-2010 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về Phát triển khoa học và công nghệ
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Hà Nội.
154
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Kết luận số 90-KL/TW ngày 4-3-2014 của
Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
57. Trần Ngọc Đường (2015), “Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Quốc hội ở nước ta hiện nay”, http://quochoi.vn, ngày 15-10.
58. Nguyễn An Hà (chủ biên), Cộng đồng và đội ngũ trí thức người Việt Nam
ở một số nước Đông Âu những năm đầu thế kỷ XXI.
59. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Hoàng Hải (2002), “Để trí thức trẻ tiến vào kinh tế tri thức”, Tạp chí
Cộng sản, (17).
61. Vũ Ngọc Hải, Đặng Ứng Vận, Đào Thái Lai (2010), Kinh nghiệm của một số
nước về phát triển giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ gắn với
xây dựng đội ngũ trí thức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Trần Ngọc Hiên (2008), “Mục tiêu chiến lược của Đảng trong giai đoạn mới và
tính cấp bách xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh”, Tạp chí Cộng sản, (789).
63. Lương Quang Hiển (2012), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng và
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007, Luận án
tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
64. Lưu Chấn Hoa (2010), Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của
Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia.
65. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Thông tin khoa học (2004),
“Kinh tế tri thức - cơ hội và thách thức đối với Việt Nam”, Thông tin
chuyên đề, (3).
66. Lưu Tôn Hồng (2004), Nghiên cứu quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản
Trung Quốc.
67. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
68. Nguyễn Đắc Hưng (2008), Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
70. Đặng Hữu (2000), Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam, Kỷ
yếu hội thảo khoa học: Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra với Việt
Nam, Hà Nội.
71. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức - Thời cơ và thách thức đối với sự phát triển
của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (Chủ biên) (2008), Tôn trọng trí thức, tôn
trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
73. In pon Nhôt xa vông (1998), Thực trạng và xu hướng biến đổi của nhóm xã hội
trí thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
74. Nguyễn Văn Khánh (2002), “Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc”, Nghiên cứu lịch sử.
75. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Quốc Bảo (2001), Một số vấn đề về trí thức Việt
Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
76. Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2014), Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ
thống chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ
Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
77. Hà Thị Khiết (2014), “Công tác vận động nhân dân của Đảng qua gần 30 năm
đổi mới: Những kết quả chủ yếu, bài học kinh nghiệm và vấn đề đặt ra”,
http://tinhuytthue.vn, ngày 10-4.
78. Hà Thị Khiết (2014), “Tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới”,
http://dangcongsan.vn , ngày 15-4.
79. Vũ Khiêu (1986), “Cơ cấu xã hội của giới trí thức Việt Nam thời xưa”, Xã hội
học, (4).
156
80. Vũ Khiêu (1986), “Cơ cấu xã hội và sứ mệnh lịch sử của người trí thức Việt
Nam hiện nay”, Xã hội học, (4).
81. Phan Thanh Khôi (1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở
nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
82. Phan Thanh Khôi (2008), “Đóng góp của đội ngũ trí thức vào chủ trương,
đường lối hội nhập kinh tế quốc tế”, Lý luận chính trị, (3).
83. Phan Thanh Khôi, Nguyễn Văn Sơn (2011), “Các Văn kiện của Đảng tiếp tục
những quan điểm đổi mới đối với trí thức”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6).
84. Bùi Thị Ngọc Lan (2000), Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới
ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
85. Vũ Trọng Lâm (2004), Kinh tế tri thức ở Việt Nam: quan điểm và giải pháp
phát triển, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
86. Đặng Mộng Lân (2001), Kinh tế tri thức - Những khái niệm và vấn đề cơ bản,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
87. Nhị Lê (2015), “Đổi mới và tiếp tục giải quyết những vấn đề đặt ra, không
ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo trong điều kiện Đảng cầm quyền
hiện nay”, http:// tapchicongsan.org.vn, ngày 22-12.
88. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, (8), Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
89. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, (10), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị
Hội đồng Trung ương lần thứ tư, nhiệm kỳ IV, Hà Nội.
91. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị
Hội đồng Trung ương lần thứ tư, nhiệm kỳ V, Hà Nội.
92. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2010-2015, Hà Nội.
93. Nguyễn Thắng Lợi (2009), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội
ngũ trí thức từ 1991 đến 2005, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
94. Trường Lưu (2008), “Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới”, Tạp chí Cộng sản, (791).
157
95. Lương Công Lý (2014), Giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
96. C.Mác - Ph.Ănghen (1994), Toàn tập, (2), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
97. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, (4), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, (22), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Meridian International Center (2010), Báo cáo của Trung tâm Quốc tế
Meridian, Hoa Kỳ.
100. Hồ Chí Minh (1976), Về vấn đề trí thức và cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, (1), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, (3), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, (4), Nxb Sự thật, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, (5), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, (8), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, (10), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, (7), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, (12), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (4), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (4), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (5), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (6), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (9), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (10), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (11), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
116. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, (4), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất
nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. N. A. Berdaev (2009), Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh tầng lớp trí thức, Phạm
Nguyên Trường dịch
119. Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
120. Lê Hữu Nghĩa (2015), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị ở nước ta”, http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 30.12.
121. Trần Đình Nghiêm chủ biên (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Okuhina Yasuhiro (1994), Chính trị và kinh tế Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
123. Phùng Hữu Phú (2008), “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”, http://www.cpv.org.vn/, ngày 30.4.
124. Nguyễn Xuân Phương (2004), Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh Hà Nội.
125. Đặng Thị Minh Phượng (2015), Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải
phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
126. Nguyễn Duy Quý (1989), “Quá trình vận động và biến đổi cơ cấu xã hội tầng
lớp trí thức Việt Nam”, Xã hội học, (4).
127. Trương Tấn Sang (2008), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH “, Tạp chí Cộng sản, (8).
128. Trương Tấn Sang (2008), “Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng, đặt kỳ vọng vào
những đóng góp tích cực, to lớn, hiệu quả của đội ngũ trí thức”, Nhân dân.
129. Trần Văn Thành (2010), Phát triển đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận văn thạc sĩ Triết học, Đại
học Huế.
130. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (Đồng chủ biên) (2010), Phản biện
xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. The National Science Foundation, National Academy of Science (2010), Báo
cáo của Quỹ khoa học Quốc gia và Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia
Hoa Kỳ.
132. Lê Khả Thọ (2007), “Phát huy vai trò của trí thức Việt Nam trong hội nhập
kinh tế quốc tế”, Cộng sản, (777).
159
133. Hoàng Thị Thuận (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức và sự vận dụng trong thời kì đổi mới, Luận văn thạc
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
134. Ngô Huy Tiếp (2008), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí
thức nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Nguyễn Công Trí (2011), Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức,
Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
136. Nguyễn Thế Trung (2015), “Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội”, Tạp chí Cộng sản (3).
137. Thân Nhân Trung (1442), “Văn bia đề danh Tiến sỹ khoa Nhâm Tuất, niên
hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1942)”, http://www.hannom.vass.gov.vn/
noidung/vankhac, ngày 10/4/2013.
138. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
139. Trịnh Quốc Tuấn (1995), “Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí
thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa”, Nghiên cứu lý luận, (4).
140. Trương Văn Tuấn (2015), Xây dựng đội ngũ tri thức tại Thành phố Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án
tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
141. Hoàng Tụy (2008), “Những bài học về chính sách với trí thức”, Tia sáng.
142. Nguyễn Đình Tứ (1996), Đề cương báo cáo tình hình đội ngũ trí thức và công
tác trí thức của Đảng, Hà Nội.
143. Vladimir Alexanderovits Mau, Trí thức, lịch sử và cách mạng - Bút ký về cuộc
sống của nước Nga hiện nay, Ngân Xuyên dịch.
144. Trần Khắc Việt (chủ nhiệm), (2015), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong
điều kiện mới, mã số KX. 04-02/11/15 thuộc chương trình khoa học xã
hôi và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước
160
145. Viện Xây dựng Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với trí thức
nước ta hiện nay, Hà Nội.
146. Đàm Đức Vượng (2010), Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-
2020, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài cấp nhà nước, Hà Nội.
147. Nguyễn Như Ý (chủ biên), (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
161
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Với mục tiêu đưa ra những đánh giá thực trạng, phương hướng và giải pháp đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, chúng tôi tiến hành thu
thập thông tin đánh giá từ ông/bà về công tác vận động trí thức của Đảng Cộng sản
Việt Nam(CSVN) trong giai đoạn hiện nay. Ông/Bà đồng ý với phương án nào xin
đánh dấu X vào ô vuông cùng dòng. Không đồng ý xin để trống ô vuông .
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của Ông/Bà!
I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Tuổi: Xin Ông/Bà cho biết độ tuổi của bản thân:
< 35 tuổi 1 35-45 tuổi 2
46-55 tuổi 3 56- 60 tuổi 4
> 60 tuổi 5
2. Giới tính:
Nam 1 Nữ 2
3. Trình độ học vấn:
Cao đẳng 1 Đại học 2
Thạc sĩ 3 Tiến sĩ 4
4. Học hàm:
Giáo sư 1 Phó Giáo sư 2
5. Trình độ lý luận:
Sơ cấp 1 Trung cấp 2 Cao cấp 3
6. Trình độ ngoại ngữ:
Trình độ ngoại ngữ: A B C
+ Tiếng Anh 1 2 3
+ Tiếng Nga 1 2 3
+ Tiếng Đức 1 2 3
+ Tiếng Trung Quốc 1 2 3
+ Ngoại ngữ khác 1 2 3
162
7. Loại hình tổ chức đang công tác:
+ Tổ chức hành chính Đảng/HĐND/Quốc hội 1
+ Tổ chức hành chính Chính quyền 2
+ Tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp 3
+ Doanh nghiệp Nhà nước 4
+ Doanh nghiệp tư nhân 5
+ Tổ chức Phi chính phủ 6
+ Đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu...) 7
+ Khác (ghi rõ)
8. Cấp độ của loại hình tổ chức đang công tác
Cấp Trung ương 1
Cấp Tỉnh/Thành phố 2
Cấp Quận/Huyện 3
Cấp Xã/Phường 4
9. Hiện nay Ông/Bà có phải là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam không ?
Có 1 Không 2
II. KHẢO SÁT VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG
Câu 1. Theo Ông/Bà , từ khi thành lập đến nay Đảng CSVN đánh giá thế
nào về vai trò của trí thức trong: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
xã hội chủ nghĩa ?
Vai trò Cách mạng dân
tộc dân chủ
Cách mạng xã
hội chủ nghĩa
Thời kỳ đổi mới
hiện nay
1. Rất quan trọng 1 2 3
2. Quan trọng 1 2 3
3. Bình thường 1 2 3
4. Ít quan trọng 1 2 3
5. Khó đánh giá 1 2 3
163
Câu 2. Ông/Bà đánh giá thế nào về mức tuyên truyền vận động của Đảng
CSVN với trí thức trong Đảng CSVN ?
Mức độ tuyên
truyền
Cách mạng dân
tộc dân chủ
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa
Thời kỳ đổi mới
hiện nay
1. Rất tích cực 1 2 3
2. Tích cực 1 2 3
3. Bình thường 1 2 3
4. Chưa tích cực 1 2 3
5. Khó đánh giá 1 2 3
Câu 3. Ông/Bà đã tiếp nhận sự tuyên truyền vận động của Đảng CSVN đối
với những hình thức nào sau đây:
1. Phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trí thức 1
2. Phổ biến chính sách và các văn bản pháp luật liên quan đến trí thức 2
3. Học tập những tấm gương tốt của trí thức 3
4. Cán bộ đảng đến tuyên truyền và vận động 4
5. Tuyên truyền qua gương đảng viên/ quần chúng tốt 5
6. Cách khác ( ghi rõ):
Câu 4. Theo Ông/Bà cách thức tuyên truyền nào là hiệu quả ? (Chọn 3
phương án và đánh số thứ tự từ 1-3 theo mức độ hiệu quả của các phương án:
1-Hiệu quả nhất; 2-Hiệu quả thứ hai; 3-Hiệu quả thứ ba)
1. Phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trí thức 1
2. Phổ biến chính sách và các văn bản pháp luật liên quan đến trí thức 2
3. Học tập những tấm gương tốt của trí thức 3
4. Cán bộ đảng đến tuyên truyền và vận động 4
5. Tuyên truyền qua gương đảng viên/quần chúng tốt 5
6. Cách khác (ghi rõ)
164
Câu 5. Mức tiếp thu những nội dung tuyên truyền nào sau đây của Đảng đối với Ông/Bà thế nào?
Nội dung tuyên truyền: Rất tốt
Tốt Bình
thường Chưa
tốt Khó
đánh giá1. Đường lối, quan điểm của Đảng 1 2 3 4 5 2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước 1 2 3 4 5 3. Đại đoàn kết dân tộc 1 2 3 4 5 4. Đường lối đối ngoại 1 2 3 4 5 5. Vai trò của trí thức Việt Nam 1 2 3 4 5 6. Vận động trí thức vào Đảng 1 2 3 4 5 7. Vai trò của liên minh công nhân-nông dân-trí thức
1 2 3 4 5
8. Khác 1 2 3 4 5 Câu 6. Theo Ông/Bà, mức độ thực hiện các chính sách khuyến khích trí thức của nhà nước hiện nay thế nào?
Rất tốt
Tốt Bình
thường Chưa
tốt Khó
đánh giá1. Đảm bảo các điều kiện làm việc + Phòng làm việc 1 2 3 4 5 + Trang thiết bị 1 2 3 4 5 + Cơ chế/ chính sách 1 2 3 4 5 2. Đảm bảo điều kiện sống + Nhà ở 1 2 3 4 5 + Lương 1 2 3 4 5 + Tiền thưởng/phụ cấp 1 2 3 4 5 + Điều kiện đi lại 1 2 3 4 5 + Khác 1 2 3 4 5 3. Giáo dục, đào tạo + Đào tạo chính thức 1 2 3 4 5 + Đào tạo phi chính thức 1 2 3 4 5 + Đào tạo lại 1 2 3 4 5 4. Động viên về tinh thần + Vinh danh trí thức giỏi 1 2 3 4 5 + Tôn trọng trí thức 1 2 3 4 5 + Lãnh đạo Đảng/Nhà nước thăm hỏi, động viên 1 2 3 4 5 + Khác 1 2 3 4 5 5. Có chính sách quản lý, sử dụng trí thức phù hợp
+ Chính sách tự do sáng tạo 1 2 3 4 5 + Phát huy quyền dân chủ 1 2 3 4 5 + Kết hợp 4 nhà (nhà khoa học, nhà quản lý, nhà sản xuất và người lao động...)
1 2 3 4 5
165
Câu 7. Theo ông/bà, trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu
hóa hiện nay, Đảng và Nhà nước cần thiết phải đổi mới chính sách với trí
thức ở mức độ nào?
Rất cần thiết 1 Cần thiết 2
Bình thường 3 Chưa cần thiết 4
Câu 8. Theo Ông/Bà nếu rất cần thiết và cần thiết phải đổi mới chính sách
với trí thức thì đổi mới như thế nào?
8. 1. Coi trí thức là nhóm xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong
phát triển đất nước
1
8.2. Đưa thêm trí thức vào Đảng 2
8.3. Tranh thủ ý kiến của trí thức trong hoạch định đường lối chính
sách
3
8.4. Đưa trí thức vào các cương vị lãnh đạo hệ thống chính trị 4
8.5. Gắn trí thức với quá trình phát triển kinh tế-xã hội thống qua cơ
chế liên kết 4 nhà.
5
8.6. Tạo điều kiện cho trí thức học tập, nâng cao trình độ ở các cơ sở
giáo dục trong và ngoài nước
6
8.7. Chống tiêu cực trong sử dụng, cất nhắc, đề bạt trí thức 7
Các khuyến nghị khác (ghi rõ): ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. .................................................................................................................................
................................................................................................................................. Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà !
166
Phụ lục 2
TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Để phục vụ cho việc viết luận án tiến sĩ, đề tài “Đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay”, trong quý
I/2015, tác giả luận án đã tiến hành khảo sát trưng cầu ý kiến về công tác vận động
trí thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đối tượng khảo sát
chủ yếu tập trung trong các trí thức có học vấn từ trình độ cao đẳng trở lên đang công tác
trong các cơ quan Liên hiệp các Hội Khoa học các Kỹ thuật Việt Nam và Liên hiệp các Hội
Khoa học các Kỹ thuật tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các Hội Khoa học và Kỹ thuật
chuyên ngành, các đơn vị khoa học và công nghệ ngoài công lập (Viện, Trung tậm, Liên
hiệp…). Địa bàn khảo sát gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước.
Tổng số phiếu phát ra là 600 phiếu, tổng số phiếu thu về là 500 phiếu, đạt tỷ lệ 83,6 %. Kết
quả thu được như sau:
I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Tuổi: Xin Ông/Bà cho biết độ tuổi của bản thân:
Độ tuổi Tỷ lệ < 35 tuổi 30,6
35-45 tuổi 22,6 46-55 tuổi 14,0 56- 60 tuổi 7,4 > 60 tuổi 25,4
2. Giới tính:
Giới tính Tỷ lệ Nam 60,5 Nữ 39,5
3. Trình độ học vấn:
Trình độ học vấn Tỷ lệ Cao đẳng 3,2 Đại học 56,3 Thạc sĩ 25,9 Tiến sĩ 14,6
4. Học hàm:
Học hàm Tỷ lệ Giáo sư 3,6
Phó Giáo sư 5,6
167
5. Trình độ lý luận: Trình độ lý luận Tỷ lệ
Sơ cấp 22,2 Trung cấp 22,8 Cao cấp 37,8
6. Trình độ ngoại ngữ:
Trình độ Ngoại ngữ A B C
+ Tiếng Anh 14,6 36,2 36,8 + Tiếng Nga 3,6 6,8 11,0 + Tiếng Đức 0,6 0,6 1,0 + Tiếng Trung Quốc 2,6 1,8 1,2 + Ngoại ngữ khác 1,8 1,2 7,0
7. Loại hình tổ chức đang công tác:
Cơ quan công tác Tỷ lệ + Tổ chức hành chính Đảng/HĐND/Quốc hội 4,4 + Tổ chức hành chính Chính quyền 16,6 + Tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp 51 + Doanh nghiệp Nhà nước 5,2 + Doanh nghiệp tư nhân 1,0 + Tổ chức Phi chính phủ 7,6 + Đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu...) 11,2 + Khác (ghi rõ) 3,0
8. Cấp độ của loại hình tổ chức đang công tác
Cấp Tỷ lệ Cấp Trung ương 46,4 Cấp Tỉnh/Thành phố 45,4 Cấp Quận/Huyện 2,8 Cấp Xã/Phường 0,2
9. Hiện nay Ông/Bà có phải là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam không ?
Người trả lời Tỷ lệ Đảng viên 76,2
Không là đảng viên 18,8
168
II. KHẢO SÁT VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG
Câu 1. Theo Ông/Bà , từ khi thành lập đến nay Đảng CSVN đánh giá thế nào về vai
trò của trí thức trong: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ?
Vai trò Cách mạng dân
tộc dân chủ
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa
Thời kỳ đổi mới
hiện nay
1. Rất quan trọng 51,2 43,6 54,4
2. Quan trọng 30,6 36,4 27,2
3. Bình thường 9,2 11,8 10,0
4. Ít quan trọng 2,6 1,0 1,8
5. Khó đánh giá 2,0 1,8 2,0
Câu 2. Ông/Bà đánh giá thế nào về mức tuyên truyền vận động của Đảng CSVN với
trí thức trong Đảng CSVN ?
Mức độ
tuyên truyền
Cách mạng dân
tộc dân chủ
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa
Thời kỳ đổi mới hiện
nay
1. Rất tích cực 36 23,6 28,6
2. Tích cực 39,6 50,2 40,4
3. Bình thường 14,6 19,2 22,2
4. Chưa tích cực 3,4 1,2 4,0
5. Khó đánh giá 1,6 1,0 1,8
Câu 3. Ông/Bà đã tiếp nhận sự tuyên truyền vận động của Đảng CSVN đối với những
hình thức nào sau đây:
Phương thức tuyên truyền vận động Tỷ lệ
1. Phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trí thức 78,2
2. Phổ biến chính sách và các văn bản pháp luật liên quan đến trí thức 64,0
3. Học tập những tấm gương tốt của trí thức 43,6
4. Cán bộ đảng đến tuyên truyền và vận động 16,6
5. Tuyên truyền qua gương đảng viên/ quần chúng tốt 33,0
6. Cách khác ( ghi rõ): 1111,0
169
Câu 4. Theo Ông/Bà cách thức tuyên truyền nào là hiệu quả ? (Chọn 3 phương án và
đánh số thứ tự từ 1-3 theo mức độ hiệu quả của các phương án: 1-Hiệu quả nhất; 2-Hiệu
quả thứ hai; 3-Hiệu quả thứ ba)
Cách thức tuyên truyền Hiệu quả
nhất
Hiệu quả
thứ hai
Hiệu quả
thứ ba
Không
lựa chọn
1. Phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trí
thức
33,4 10,4 25,6 29,2
2. Phổ biến chính sách và các văn bản pháp lu
liên quan đến trí thức
20,6 40,4 19,0 18,8
3. Học tập những tấm gương tốt của trí thức 26,2 27 21,6 24,0
4. Cán bộ đảng đến tuyên truyền và vận động 5,0 7,2 8,8 77,8
5. Tuyên truyền qua gương đảng viên/quần
chúng tốt
13,0 11,8 19,8 54,4
6. Cách khác (ghi rõ) 1,2 0,8 0,8 93,6
Câu 5. Mức tiếp thu những nội dung tuyên truyền nào sau đây của Đảng đối với
Ông/Bà thế nào?
Nội dung tuyên truyền: Rất
tốt Tốt
Bình
thường Chưa tốt
Khó
đánh
giá
1. Đường lối, quan điểm của Đảng 26,6 48,6 18,0 2,4 1,2
2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước 21,8 45,8 22,8 4,2 0,6
3. Đại đoàn kết dân tộc 15,4 41,8 28,6 4,0 1,8
4. Đường lối đối ngoại 9,6 36,0 34,4 5,0 3,0
5. Vai trò của trí thức Việt Nam 13,8 38,8 29,8 5,8 2,2
6. Vận động trí thức vào Đảng 11,4 29,8 34,0 10,0 1,2
7. Vai trò của liên minh công nhân-nông dân-
trí thức 10,8 30,0 30,8 12,2 5,2
8. Khác 1,0 5,6 13,2 1,6 1,8
170
Câu 6. Theo Ông/Bà, mức độ thực hiện các chính sách khuyến khích trí thức của nhà
nước hiện nay thế nào?
Rất
tốt Tốt
Bình
thường
Chưa
tốt
Khó
đánh
giá
1. Đảm bảo các điều kiện làm việc
+ Phòng làm việc 6,4 20,0 51,2 17,2 1,2
+ Trang thiết bị 5,8 17,6 50,4 18,8 1,4
+ Cơ chế/ chính sách 2,8 14,4 38,4 33,0 3,8
2. Đảm bảo điều kiện sống
+ Nhà ở 2,2 3,6 40,8 42,0 5,0
+ Lương 1,2 3,6 36,8 50,8 2,8
+ Tiền thưởng/phụ cấp 1,0 4,2 32,2 49,0 4,2
+ Điều kiện đi lại 1,2 4,8 39,0 41,0 4,0
+ Khác 1,0 2,8 18,8 7,2 4,6
3. Giáo dục, đào tạo
+ Đào tạo chính thức 4,8 31,2 43,4 10,4 3,4
+ Đào tạo phi chính thức 3,0 13,8 46,0 21,8 5,0
+ Đào tạo lại 1,8 11,8 40,6 27,2 5,2
4. Động viên về tinh thần
+ Vinh danh trí thức giỏi 6,6 28,8 44,0 13,6 1,6
+ Tôn trọng trí thức 4,8 24,0 40,8 21,8 1,6
+ Lãnh đạo Đảng/Nhà nước thăm hỏi, động viên 4,4 18,6 43,2 20,4 6,0
+ Khác 0,8 2,8 17,6 4,6 4,2
5. Có chính sách quản lý, sử dụng trí thức phù hợp
+ Chính sách tự do sáng tạo 4,0 18,4 46,8 22,2 3,6
+ Phát huy quyền dân chủ 4,2 19,6 43,6 24,8 3,0
+ Kết hợp 4 nhà (nhà khoa học, nhà quản lý, nhà sản
xuất và người lao động...) 3,2 11,0 40,0 35,0 3,6
171
Câu 7. Theo ông/bà, trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu hóa hiện
nay, Đảng và Nhà nước cần thiết phải đổi mới chính sách với trí thức ở mức độ nào?
Mức độ cần đổi mới chính sách đối
với trí thức Tỷ lệ
Rất cần thiết 84,8
Cần thiết 13,6
Bình thường 0,4
Chưa cần thiết 0,0
Câu 8. Theo Ông/Bà nếu rất cần thiết và cần thiết phải đổi mới chính sách với trí
thức thì đổi mới như thế nào?
8. 1. Coi trí thức là nhóm xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển
đất nước
86,4
8.2. Đưa thêm trí thức vào Đảng 44,0
8.3. Tranh thủ ý kiến của trí thức trong hoạch định đường lối chính sách 70,4
8.4. Đưa trí thức vào các cương vị lãnh đạo hệ thống chính trị 51,0
8.5. Gắn trí thức với quá trình phát triển kinh tế-xã hội thống qua cơ chế liên
kết 4 nhà.
59,8
8.6. Tạo điều kiện cho trí thức học tập, nâng cao trình độ ở các cơ sở giáo dục
trong và ngoài nước
64,6
8.7. Chống tiêu cực trong sử dụng, cất nhắc, đề bạt trí thức 63,4
172
Phụ lục 3
Biểu 1. ĐỘI NGŨ TRI THỨC ĐANG LÀM VIỆC TRONG NỀN KINH TẾ
(2002-2012)
(Chỉ tính những cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên)
Số người đang làm việc 2002 2007 2012
A B C 1 2 3
1 Cả nước Tổng số ( CĐ, ĐH, trên ĐH) 1.843.485 3.197.633 6.107.301
Chia ra:
- Cao đẳng 415.045 700.828 1.112.482
- Đại học 1.032.983 1.848.143 4.063.967
- Trên Đại học 395.457 648.662 930.852
Trong đó:
+ Thạc sĩ 30.078 78.425 101.284
+ Tiến sĩ 13.178 17.996 24.341
CƠ CẤU (%)
Tổng số ( CĐ, ĐH, trên ĐH) 100 100 100
- Cao đẳng 22,51 21,92 18,22
- Đại học 56,03 57,80 66,54
- Trên Đại học 21,45 20,29 15,24
Trong đó:
+ Thạc sĩ 1,63 2,45 1,66
+ Tiến sĩ 0,71 0,56 0,40
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
173
Biểu 2. ĐỘI NGŨ TRI THỨC ĐANG LÀM VIỆC PHÂN THEO VÙNG KINH TẾ
(Chỉ tính những cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên)
Số người đang làm việc 2002 2007 2012
A B C 1 2 3
2 Cả nước Tổng số 1.843.485 3.197.633 6.107.301
Chia ra:
Đồng bằng Sông Hồng 579.393 1.006.280 2.102.129
Miền núi và Trung du phía Bắc 211.571 350.981 583.862
Bắc Trung bộ và Duyên hải miền
Trung 312.2 86 526.149 986.344
Tây Nguyên 71.196 123.632 233.938
Đông Nam Bộ 34.823 759.017 1.410.912
Đồng bằng Sông Cửu Long 174.806 307.302 643.858
Không phân vùng 458.410 124.2 72 146.258
Cơ cấu (%)
Cả nước 100 100 100
Đồng bằng Sông Hồng 31,43 31,47 34,42
Miền núi và Trung du phía Bắc 11,48 10,98 9,56
Bắc Trung bộ và Duyên hải miền
Trung 16,99 16,45 16,15
Tây Nguyên 3,86 3,87 3,83
Đông Nam Bộ 1,89 23,74 23,10
Đồng bằng Sông Cửu Long 9,48 9,61 10,54
Không phân vùng 24,87 3,89 2,39
Nguồn: Tổng cục Thống kê
174
Biểu 3. ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC ĐANG LÀM VIỆC PHÂN THEO LOẠI HÌNH ĐƠN VỊ
Đơn vị: Người
Số người đang làm việc 2002 2007 2012
A B C 1 2 3
26 Cả nước Tổng số (CĐ, ĐH, trên ĐH) 1.843.485 3.197.633 6.107.301
Chia ra:
1. Đơn vị kinh tế
Tổng số 571.114 1.267.479 3.031.546
Chia ra
- Cao đẳng 83.952 273.623 904.021
- Đại học 467.397 938.630 2.032.604
- Trên Đại học 19.765 55.226 94.921
Trong đó:
+ Thạc sĩ 6.829 20.839 29.105
+ Tiến sĩ 2.545 3.082 3.354
2. Đơn vị hành chính sự nghiệp
Tổng số 1.272.371 1.920.073 3.052.890
Chia ra
- Cao đẳng 331.093 424.320 194.430
- Đại học 565.586 903.419 2.080.741
- Trên Đại học 375.692 592.334 777.719
Trong đó:
+ Thạc sĩ 22.2 49 57.370 71.602
+ Tiến sĩ 10.633 14.834 20.772
3. Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng
Tổng số 10.081 22.865
Chia ra
- Cao đẳng - 2.885 14.031
- Đại học - 6.094 2.598
- Trên Đại học - 1.102 6.236
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ GD&ĐT.
175
Biểu 4. ĐỘI NGŨ TRI THỨC PHÂN THEO LOẠI HÌNH ĐƠN VỊ
Đơn vị: %
Số người đang làm việc 2002 2007 2012
A B C 1 2 3
27 Cả nước Tổng số (CĐ, ĐH, trên ĐH)* 100 100 100
Chia ra:
1. Đơn vị kinh tế 571.114 1.267.479
3.031.546
2. Đơn vị hành chính sự nghiệp 1.272.371 1.920.073
3.052.890
3. Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng - 10.081 22.865
Cơ cấu(%)
1. Đơn vị kinh tế 30,98 39,64 49,64
2. Đơn vị hành chính sự nghiệp 69,02 60,05 49,99
3. Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng - 0,32 0,37
* Năm 2007 không bao gồm cơ sở tôn giáo tính ngưỡng
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
176
Biểu 6
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGHIÊN CỨU PHÂN THEO LĨNH VỰC
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
(Không bao gồm số cán bộ nghiên cứu làm việc trong các doanh nghiệp. Số liệu năm 2011)
Đơn vị: Người
Khu vực hoạt động
Lĩnh vực chuyên môn Tổng số Viện ,
Trung tâm
Trường
Đại học
Cơ quan
hành
chính
Đơn vị
sự
nghiệp
Ngoài
Nhà
nước
A 1 2 3 4 5 6
Cán bộ nghiên cứu 90.240 15.942 52.997 9.941 10.165 1.195
Chia ra:
Khoa học tự nhiên 12.257 2.2 08 7.933 558 396 162
Khoa học kỹ thuật và công nghệ 23.1 09 5.000 14.460 3.191 1.121 337
Khoa học y, dược 11.598 1.569 3.628 451 5.822 128
Khoa học nông nghiệp 11.633 3.731 3.865 2.035 1.860 142
Khoa học xã hội 24.613 2.133 18.114 2.2 34 834 298
Khoa học nhân văn 6.030 301 4.997 472 132 128
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
177
Phụ lục 5
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN VÀ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG TRUNG CẤP,
CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC NĂM HỌC 2012 - 2013
Các chỉ tiêu
Tổng số
Số giảng
viên có
học hàm
GS-PGS
Số giảng
viên có
trình độ
TSKH-TS
Số giảng
viên có
trình độ
Thạc sĩ
Số giảng
viên có
trình độ Đại
học và khác
Cộng cả nước 105.459
1. Trung cấp
chuyên nghiệp
18.299 0 393 4.010 13.896
Tỷ lệ % so với
tổng số giáoviên
TCCN
0% 2.15% 21.9% 75.9%
2. Cao đẳng 25.874 129 678 9.573 15.494
Tỷ lệ % so với
tổng số giáoviên
CĐ
0.5% 2.62% 37% 59.9%
3. Đại học 61.286 3.800 9.193 38.610 8.683
Tỷ lệ % so với
tổng số giáoviên
ĐH
6.2% 15% 63% 15.8%
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ GD&ĐT.
178
Phụ lục 6
SỐ LIỆU ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CẢ NƯỚC 31/12/2000
VÀ ĐẾN HẾT 31/1/2/2013
Số trí thức đang làm
việc 2000 2013 Tỷ lệ tăng(%)
Tổng số (CĐ, ĐH,
trên ĐH) 1.322.691 6.550.234
4.95
Chia ra:
- Cao đẳng 381.482 1.289.399 3.37
- Đại học 918.518 4.312.258 4.49
- Trên Đại học 22.691 948.577 41.80
Trong đó:
+ Thạc sĩ 10.000 118.653 11.86
+ Tiến sĩ 12,691 24.667 1.94
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Phụ lục 7
SỐ LƯỢNG SINH VIÊN ĐÀO TẠO Ở NƯỚC NGOÀI TỪ NĂM 2000
ĐẾN NĂM 2010
Trình độ
đào tạo
Số lượng
chương
trình
Số học viên
đã tuyển
Số học viên
đang theo
học
Số học viên
đã tốt
nghiệp
Số học
viên thôi
học
Đại học 221 27.651 13.963 9.877 3.811
Thạc sĩ 130 24.477 9.146 12.285 3.046
Tiến sĩ 13 321 284 32 5
Tổng cộng 364 52.449 23.393 22.194 6.862
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo.
179
Phụ lục 8
CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TRONG TOÀN QUỐC NĂM 2013, PHÂN THEO CẤP ĐỘ ĐÀO TẠO
Cấp hành chính
TT
Trình độ
chuyên môn Cấp Bộ Cấp cơ sở
của Bộ Cấp tỉnh Cấp huyện
Tổng số
Tổng cộng 15.423 66.872 61.988 51.139 195.422
1 Sơ cấp 831 3.580 3.771 2.582 10.764
2 Trung cấp 853 26.222 10.823 12.135 50.033
3 Cao đẳng 341 3.054 2.266 2.949 8.610
4 Đại học 10.405 33.685 43.006 33.044 120.140
5 Thạc sĩ 2.167 301 1.897 410 4.775
6 Tiến sĩ 792 26 210 16 1.044
7 Tiến sĩ khoa học 34 4 15 3 56
Nguồn: Bộ Nội vụ