mỸ hỌc vỀ cÁi ĐẸp - vỀ nghỆ thuẬt - vỀ con...
TRANSCRIPT
MỸ HỌC VỀ CÁI ĐẸP - VỀ NGHỆ THUẬT - VỀ CON NGƯỜI
MỸ HỌCVỀ CÁI ĐẸP - VỀ NGHỆ THUẬT - VỀ CON NGƯỜI
Tác giả: LÂM VINH
CÙNG BẠN ĐỌC
Cùng các bạn sinh viên đang học môn Mỹ học,
Đây chưa phải là giáo trình chính thức về bộ môn Mỹ học, nhưng là
những bài viết, đã được xuất bản trong các tài liệu khác nhau, thu góp lại
thành một hệ thống phù hợp với chương trình Mỹ học thuộc giai đoạn 1 (Đại
học đại cương) các bạn đang học.
Để giúp các bạn nắm vững các luận điểm được viết trong các kiểu bài
khác nhau của tập này, chúng tôi có phần tóm lược ở cuối sách.
Xin chúc các bạn thành công và hài lòng trong bước đầu làm quen với
bộ môn khoa học triết học về cái đẹp và nghệ thuật, tuy khó nhưng đầy lý thú
này.
Tác giả
Phần 1. MỸ HỌC VÀ CÁI ĐẸP
Bài 1. MỸ HỌC – KHOA HỌC LÀM ĐẸP CUỘC SỐNG
Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, đẹp và xấu luôn luôn gắn bó một cách
hữu cơ, ngay trong những ngày ta đang sống. Mỹ học không thể làm cho cái
xấu trở thành cái đẹp, cũng như đạo đức học không thể làm cho cái thiện
thắng cái ác, nhưng có thể góp phần tham mưu cho các cuộc đấu tranh đó,
và “mỹ học sẽ là đạo đức học trong tương lai”.
Sự phát triển thường diễn ra từ những nghịch lý. Khi cuộc sống con
người càng có nhiều tai ương thốông khổ, càng có nhiều khó khăn phức tạp,
thì cái đẹp càng được nhắc đến, cuộc hành hương đi tìm cái đẹp càng phải
nhanh chân bước gấp. Dân gian ta khi ở cạnh bùn thì ca ngợi bông sen, khi
đói, rách, thì giữ lấy sự sạch, thơm. Tuổi trẻ ta, như anh Trọng, chị Sáu trước
khi ra pháp trường đã tìm đến Truyện Kiều và cất cao tiếng hát. Nhiều nhà
cách mạng giữa cảnh ngục tù đã tìm đến thơ: Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Chí Minh...
Cho nên, một trong những văn hào vĩ đại nhất là Đôstôievski đã nói:
“Cái đẹp cứu rỗi thế giới”.
Hàng nghìn năm nay, loài người không dứt mở cuộc hành hương tìm
cái đẹp. Không ai không biết cái đẹp, không ai không cần cái đẹp. Không ai
không có cái đẹp. Nhưng cái đẹp là gì, đẹp ở đâu, tìm đẹp như thế nào ít ai
bàn tới. Vì lúc đó đẹp trở thành khái niệm khô khan, trừu tượng. Mỹ học, vì
thế, trở thành một môn toán ít người làm, ít người ham. Cái đẹp luôn luôn là
một ẩn số.
Đất nước ta đang đi vào thời kỳ đổi mới. Tất cả những mục tiêu kinh tế,
xã hội và văn hóa rốt cuộc cũng đều nhằm làm cho đời sống tốt đẹp hơn, văn
học nghệ thuật phong phú hơn, tiến bộ hơn. Trong sự đa dạng và phức tạp
của quá trình phát triển theo chính sách mở cửa, kinh tế thị trường, nhằm đạt
tới mục đích nói trên, đòi hỏi phải có sự định hướng. Sự định hướng cần có
cơ sở khoa học, trong đó, vai trò của các khoa học xã hội, khoa học nhân văn
có ý nghĩa rất quan trọng. Mỹ học (esthétique) - khoa học về cái đẹp, cần có
chỗ đứng trong hệ thống đó.
Những tư tưởng, những quan niệm mỹ học xuất hiện rất sớm trong đời
sống của các dân tộc, cùng với những quan niệm về vũ trụ và nhân sinh trong
hệ thống triết học. Nhưng phải chờ đến khi xã hội phát triển, mỹ học mới ra
đời với tính cách là một khoa học. Ở châu Âu, những tác phẩm viết dưới hình
thức đối thoại của Platon (như bài “Hippiat lớn”) là sự tranh cãi về quan niệm
đẹp và không đẹp.
Từ những trung tâm văn minh cổ đại ở châu Phi, châu Á, đặc biệt ở Hy
Lạp (châu Âu), những lý thuyết về mỹ học đã ra đời, nhưng mãi đến hàng vài
chục thế kỷ sau, khoa học này mới chính thức có cái tên, khi nhà triết học
Đức Baumgacten cho xuất bản cuốn sách của mình: Mỹ học (Esíhétique), vào
năm 1750. Sự ngẫu nhiên đó cũng có tính quy luật: vì cho đến bây giờ (thế kỷ
XVIII) ngành khoa học này mới thực sự phát triển, và cần đến một cái tên.
Thoạt đầu, mỹ học cũng như các lý thuyết khoa học xã hội, khoa học
nhân văn khác, chỉ xuất hiện bằng những luận điểm lẻ tẻ, xen lẫn với những
hệ thống tri thức khác, có khi ngoài lĩnh vực khoa học. Dù ít nhiều chúng ta ai
cũng đã từng tiếp xúc với tri thức mỹ học, tư tưởng mỹ học, nhưng lại ít nghe
nói đến môn khoa học này. Trước hết mỹ học đi với triết học. Trong khi giải
thích bản chất của thế giới, của tư duy, các nhà triết học đồng thời giải thích
bản chất của cái đẹp, của ý thức thẩm mỹ. Vì vậy, những nhà triết học tiêu
biểu trong lịch sử đồng thời cũng là những nhà mỹ học. Ngoài ra, tư tưởng
mỹ học còn tồn tại trong các cương lĩnh, tuyên ngôn, những giáo huấn của
các nhà chính trị, các nhà tư tưởng khi cần đề cập đến những vấn đề chức
năng, bản chất của văn hóa, văn nghệ. Người ta còn nghiên cứu những tư
tưởng mỹ học trong công trình nghiên cứu lý luận, lịch sử và phê bình nghệ
thuật của các ngành nghệ thuật (Biêlinski đã từng cho phê bình nghệ thuật là
“mỹ học vận động”). Còn có thể nghiên cứu trong các lời tựa, lời bạt, văn bia,
các bút ký tự thuật của các nghệ sỹ, và sau cùng, dù ở nơi không có một
công trình lý thuyết nào về mỹ học, thì tư tưởng mỹ học vẫn tồn tại: người ta
tìm thấy nó ngay trong những văn bản nghệ thuật, trong sáng tạo nghệ thuật
và trong hoạt động thẩm mỹ của nghệ sĩ và quần chúng nhân dân.
Trong câu ca dao:
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen
ngoài tính chất thẩm mỹ của một phong cách thơ trữ tình dân gian, còn có
một quan niệm về con người đẹp, có nụ cười đẹp. Nhưng cũng có một quan
niệm khác hẳn, về nụ cười đẹp:
Trăm quan mua lấy miệng cười
Nghìn quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen
Trong rất nhiều câu tục ngữ như “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Cái nết
đánh chết cái đẹp”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”, “Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng”... không phải chỉ có nội dung luân lý, mà còn có nội dung thẩm mỹ
nữa. Vẽ tranh con gà, con lợn béo mập, cậu bé tươi hồng, tạc tượng La hán
"Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt”, viết truyện về nàng Kiều, về Ngọc Hoa
bằng văn vần lục bát và chữ nôm, miêu tả cuộc đời người nông dân Chí
Phèo, chị Dậu, hay những đề tài về tình và mộng, nhất nhất đều có những
động cơ mỹ học khác nhau.
Nhưng tất cả những dạng tồn tại trên đều không thể thay thế được vai
trò của mỹ học với tư cách là một ngành khoa học. Ngành khoa học đó đã
phát triển ngày càng rộng khắp, khi nền sản xuất xã hội phát triển, những điều
kiện hoạt động thẩm mỹ và nghệ thuật phong phú hơn, nhu cầu thẩm mỹ của
con người cần được đáp ứng nhiều hơn.
Trên thế giới, khoa mỹ học chỉ phát triển mạnh ở các nước có nền văn
hóa nghệ thuật phát triển.
Tại Việt Nam, trong kho tàng văn hoá dân gian, trong các đi tích văn
hóa, các tác phẩm văn học nghệ thuật của cha ông ta để lại vốn chứa đựng
nhiều tư tưởng và quan niệm mỹ học sâu sắc và độc đáo, nhưng khoa mỹ
học thì chưa ra đời. Đầu thế kỷ, ông Phạm Quỳnh lần đầu tiên giới thiệu
ngành mỹ học và bàn về cái đẹp, kết hợp quan niệm tây phương và đông
phương! (tạp chí Nam Phong, 1917). Đó là một dấu hiệu rất sớm về thông tin
của khoa học thẩm mỹ hiện đại. Vì, như chúng ta biết, dù ở châu Âu mỹ học
ra đời từ giữa thế kỷ XVIII, nhưng mãi đến năm 1920 Đại học Sorbonne mới
chính thức có môn mỹ học (do Victor Basch sáng lập), ở Nhật Bản môn mỹ
học được giảng tại đại học Tokyo từ năm 1921. Cách quãng đến 40 năm, vào
những năm 60, ở Hà Nội và Sài Gòn mới có nghiên cứu và giảng dạy khoa
mỹ học. Nhưng mỗi trung tâm này chỉ nghiên cứu thuần một loại khuynh
hướng mỹ học mà mình được phép thông tin, do đó, dễ rơi vào chủ quan
phiến diện trong khoa học. Hiện nay, mỹ học đã được dạy rải rác ở một số
trường từ trung cấp đến đại học, nhưng chưa bao giờ là một ngành học chính
thức của quốc gia, vì chưa có hội đồng bộ môn, chưa có chương trình giáo
trình thống nhất và thực sự nghiêm chỉnh, nhất là chưa có chuyên môn hóa
ngành học (còn ghép chung với môn khác), chưa có chuyên nghiệp hóa
người nghiên cứu (đa số là nghiên cứu và giảng dạy kiêm nhiệm).
Mỹ học là một khoa học triết học (science philosophique) nghiên cứu
bản chất và những quy luật của cái thẩm mỹ, cái đẹp trong đời sống, trong
nghệ thuật, nghiên cứu những đặc điểm của sự sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo
nghệ thuật và cả đặc điểm của sự cảm thụ những đối tượng đó. Là một khoa
học triết học, nên bộ phận cơ bản của mỹ học là một hệ thống tri thức mang
tính khái quát, tổng hợp cao, tạm gọi là mỹ học tổng quát (esthétique
general). Ngoài ra, còn có cấp độ cụ thể hơn, là những tri thức lý luận chuyên
ngành của từng loại hình nghệ thuật, tạm gọi là mỹ học văn chương
(esthétique litéraire), mỹ học âm nhạc (esthétique musical), mỹ học tạo hình
(esthétique plastique)...Một bộ phận quan trọng của mỹ học chuyên ngành
hướng vào việc đưa cái đẹp vào sản xuất, đó là mỹ học công nghiệp
(esthétique industrielle). Qua đó, ta thấy đối tượng nghiên cứu của mỹ học
dường như ở mọi lĩnh vực, từ thiên nhiên đến cuộc sống con người đến nghệ
thuật. Nhưng thực ra mỹ học trước sau vẫn là một khoa học triết học, chỉ
nghiên cứu, phát hiện những vấn đề mang tính quy luật, những yếu tố cốt lõi,
để xác lập hệ thống tư tưởng và quan niệm về cái đẹp và nghệ thuật.
Qua nhiều thời kỳ phát triển, ngành mỹ học luôn tự điều chỉnh để chọn
đối tượng thích hợp. Phạm vi rộng hẹp của đối tượng tùy thuộc vào từng
trường phái, cũng có khi tùy thuộc từng tác giả. Xu hướng xem mỹ học là
khoa học về cái đẹp trong nghệ thuật (như Hégel) là xu hướng khá phổ biến
trước đây, cũng như xu hướng xem mỹ học chỉ là khoa học về ý thức thẩm
mỹ, nói chung đều không thích hợp với những nhiệm vụ hiện đại của mỹ học.
Do đó, đối tượng của mỹ học hiện đại được xác định một cách rộng rãi, bao
gồm toàn bộ những mối quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, và sự
thể hiện tập trung nhất của mối quan hệ đó, là nghệ thuật. Đó là mối quan hệ
thẩm mỹ của con người với thiên nhiên, với cuộc sống xã hội trên mọi bình
điện của hoạt động vật chất và tinh thần. Đó là những quy luật của sáng tạo
nghệ thuật và cảm thụ tác phẩm nghệ thuật, đặc trưng bản chất của nghệ
thuật nói chung và của mỗi loại hình nghệ thuật nói riêng. Và, một nội dung
không thể thiếu mà mỹ học hiện đại phải quan tâm, đó là những vấn đề giáo
đục thẩm mỹ.
Phạm vi đối tượng của mỹ học như vậy là rất rộng rãi, do đó, trong quá
trình nghiên cứu, mỹ học phải có một hệ thống phương pháp: phương pháp
luận triết học tổng quát và phương pháp cụ thể do liên kết với các ngành khoa
học liên quan: tâm lý học, xã hội học, ký hiệu học... và các ngành nghệ thuật
học (lý thuyết và lịch sử của các nghệ thuật).
Đời sống thẩm mỹ muôn mặt của xã hội đang cần có sự định hướng
của khoa học thẩm mỹ, từ nghiên cứu đến sáng tác, biểu diễn, từ giảng dạy
giáo dục đến công tác quản lý lãnh đạo. Việc phổ biến tri thức và bồi dưỡng
quan điểm thẩm mỹ, nâng cao dân trí về phương diện thẩm mỹ là công việc
của ngành mỹ học. Chưa nói đến vai trò của mỹ học đời sống, mỹ học sản
xuất mà hiện nay hầu như chưa có mặt một cách chính thức, có ảnh hưởng
trực tiếp đến năng suất và sảm phẩm lao động, đến giá trị hang xuất khẩu.
Nhưng vấn đề cấp bách nhất, nóng bỏng nhất hiện nay vẫn là bảo vệ, giáo
dục truyền thống dân tộc về văn hóa, thẩm mỹ, đạo đức, xây dựng tâm hồn
và lối sống Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam trong sự giao lưu và hòa nhập vào
thế giới hiện đại. Chân, thiện và mỹ là ba nguồn sáng vĩnh hằng của mọi thời
đại, mọi dân tộc, trong đó cái mỹ hàm chứa cả giá trị của cái chân và cái
thiện. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, đẹp và xấu luôn luôn gắn bó một cách
hữu cơ, ngay trong những ngày ta đang sống. Mỹ học không thể làm cho cái
xấu trở thành cái đẹp, cũng như đạo đức học không thể làm cho cái thiện
thắng cái ác, nhưng có thể góp phần tham mưu cho các cuộc đấu tranh đó,
và “mỹ học sẽ là đạo đức học trong tương lai” (Gorky).
Bài 2. KHÚC DẠO ĐẦU
Mùa xuân
Cái đẹp
Cái hài hòa
Chưa ai định nghĩa mùa xuân là gì. Nhưng ai cũng hiểu như nhau về ý
nghĩa của mùa xuân, kể cả những người, vào lúc này hay lúc khác, không
được hưởng trọn vẹn những phúc lộc do mùa xuân đem lại. Mong đợi mùa
xuân, dành cho mùa xuân những gì quý nhất, đẹp nhất, từ hạt gạo thơm,
chiếc áo lành, cành hoa đẹp, căn nhà ngăn nắp, và những tình cảm, lời chào
tốt lành nhất, đối với cả người thân và người không thân. Phảil cho ngày xuân
khác ngày thường, cho dù không khác được, thì đó cũng là một niềm mong
ước.
Vậy mùa xuân là gì? Phải chăng đó là điểm tụ không gian - thời gian
của cái hài hòa, cái đẹp. Hài hòa và đẹp của phong cảnh mùa xuân, của niềm
vui cuộc sống, của ấm no, hạnh phúc, của tình cảm, quan hệ con người.
Nhân ngày xuân tới, ta thử bàn về các phẩm chất của mùa xuân, và cũng là
một nhu cầu lý tưởng của cuộc sống con ngtíời, đó là cái hài hòa, cái đẹp.
Dân tộc nào cũng có một mùa xuân để chào mừng, để ca ngợi.
Tùy theo những vùng khí hậu khác nhau, mỗi năm mùa xuân có thể
đến sớm hay muộn với những đất nước khác nhau. Nhưng khái niệm về mùa
xuân, ý nghĩa của mùa xuân, thì cả loài người đều hiểu như nhau. Chữ xuân
quả không cần phiên dịch: đây là chỗ khởi đầu đẹp nhất, là cái bản lề của
cánh cửa thời gian. Đây là một lời nhắc nhở thời gian đã đi qua, lời nhắc nhở
nhẹ nhàng, đẹp đẽ nhưng cũng thật khắc nghiệt. Ví như chiếc đồng hồ, mở
đầu bằng một khúc nhạc du dương, rồi bỗng nhiên im bặt, để rồi buông ra
một hồi những tiếng gõ báo giờ. Vì vậy mà, khi đón xuân, có người vui và
cũng có người buồn. Hoặc buồn vui ở ngay trong một người.
Mùa xuân như cái vạch nhịp trong ký âm của âm nhạc, để chuyển từ
một kỳ yếu của nhịp trước sang kỳ mạnh của nhịp sau...
Nếu mùa xuân chỉ là hiện tượng chuyển mình của thời tiết: nắng ấm,
băng tan, cỏ cây đâm chồi nảy lộc, thì quả nó sinh ra từ khi có trời đất, từ khi
trên hành tinh này chưa có vết chân người. Nhưng đó là xuân của đất trời,
đâu phải xuân của người. Từ đây có một câu hỏi: Mùa xuân của con người có
tự bao giờ?
Ngoài những hiện tượng thiên văn địa lý thông thường, mùa xuân còn
phẳi gắn liền với niềm ước mong của con người về tình yêu, hạnh phúc, về
cái đẹp, cái hài hòa. Vậy có thể trả lời câu hỏi trên, bằng việc chứng minh sự
ra đời của cái đẹp, cái hài hòa, sự ra đời của tình yêu và hạnh phúc. Mùa
xuân ra đời từ khi con người nhận ra hạnh phúc và tình yêu, nhận ra cái đẹp
của hạnh phúc và tình yêu.
Nhớ buổi rừng sâu còn tuổi vượn
Chửa biết Thơ, chưa được nên người...
(Chế Lan Viên)
Thế là phải qua hàng triệu năm, con người mới biết Thơ, biết cái đẹp,
biết mùa xuân, mới được nên người.
Không phải ngẫu nhiên khi nói đến mùa xuân, bao giờ người ta cũng
gắn với cái đẹp, khi nói đến những thuộc tính của mùa xuân, thì người ra
đồng thời nhắc đến thuộc tính của cái đẹp. Đó là niềm vui, niềm tự hào, sự
ấm áp; đó là sự sống, là sức sống, là sự hài hòa, sự viên mãn. Ánh sáng,
màu sắc, âm thanh đẹp đẽ, là phẩm chất của cái đẹp, đồng thời cũng là phẩm
chất của mùa xuân. Trái lại, cái chết chóc, sự úa tàn, màu tang chế, vàng vọt,
màu đen về bóng tối, sự cô đơn lạnh lẽo... là biểu hiện của cảnh thu muộn,
đông tàn, của điềm xấu, của sự hy sinh cái đẹp, của cái bi.
Cho nên, có thể nói, mùa xuân và cái đẹp chính là hai chị em sinh đôi
thuở bán khai nhân loại:
Đầu lòng hai ả tố nga...
Ta liên tưởng đến hình ảnh Nàng xuân trong bức tranh Mùa xuân của
danh họa Ý thời phục hưng Bôtixenli, và các nàng xuân thướt tha dịu dàng
trong bức tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Trong
bức tranh phục hưng, Nàng xuân như kẻ dẫn đường kiều diễm, bước những
bước nhẹ nhàng rắc hoa trên lối đi của nàng Vê-nuýt, nữ thần Tình yêu và
sắc đẹp, xung quanh là các thần bè bạn, cả trai và gái, của Vê-nuýt, như nữ
thần Hoa, vừa đi vừa cười làm bay ra những cánh hoa...Tất cả những con
người đẹp đẽ ấy xuất hiện trên một nền vườn cây xanh thẫm, cành lá như
thêu như dệt, chi chít những quả màu vàng kim ửng hồng. Khác với bút pháp
trên, bức tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí không có đường nét tinh vi, sắc
màu rực rỡ, mà các nàng xuân như ẩn hiện mơ hồ sau những khóm cây, trên
nền sơn đỏ nhạt là những đốm trắng xiêm y múa lượn như theo khúc nhạc tỳ
bà đang lan tỏa trong cả vườn xuân.
Những hình ảnh trong tranh gợi lên ý tưởng về miềm vui vĩnh cửu, về
sự toàn mỹ, về cái hài hòa. Xem tranh, làm ta liên tưởng đến nhạc và thơ tả
cảnh mùa xuân, liên tưởng đến nhạc Văn Cao, vườn xuân ở chốn Thiên thai:
Thiên Thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian...Khúc Nghê
thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn...
liên tưởng đến thơ Nguyễn Du: hài hòa một cảnh sắc mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
hài hòa một ngày hội mùa xuân:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nen
và những con người đẹp bên nhau trong vườn xuân:
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Vươn tới mùa xuân, vươn tới cái đẹp, cái hài hòa, đó là khát vọng
nghìn năm của con người. Nhưng đó là mục tiêu, là lý tưởng. Trong hiện thực
cuộc sống, con người phải hàng ngày lao động và đấu tranh để phân biệt
trắng đen, thực giả, gạn đục, khơi trong, giành giật từng phút giây giữa vui và
buồn, ngày và đêm, hạnh phúc và bất hạnh... Đó cũng là sự xua đuổi mùa
thu, mùa đông ngay trong lòng mùa xuân, xua cái bi đang rập rình trong lòng
cái đẹp. Trước đây có những nhà thơ cứ đến ngày xuân là làm thơ sầu muộn:
Đông phong bất vị suy sầu khú
Xuân nhật thiên năng nhạ hận trường
(Gió đông không vì ta mà thôi bạt cơn sầu
Ngày xuân lại càng gợi dài thêm mối hận)
(Giả Chí)
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
...Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với của hoa tươi muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang
(Chế Lan Viên)
Bài thơ buồn nhất của Nguyễn Khuyến là Ngày xuân dặn các con:
Xuân về ngày loạn còn lơ láo
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ...
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Vđi những tâm trạng bi kịch, thì mùa xuân đến chỉ là báo hiệu sự già
nua và tháng ngày đã mất, chỉ giục cho đôi mái tóc thêm những đốm bạc
(Hoa phát xuân duy lưỡng mấn sinh - Thơ Thôi Đồ)
Còn bao nhiêu những bài Xuân oán như của Kim Xương Tự, Lưu
Phương Bình... cũng với điệu buồn như vậy. Nhưng vượt được cái bi tâm
trạng, tìm được hướng đi và lấy niềm lự tin, lạc quan để sống và hoạt động,
con người vẫn tìm thấy được cái đẹp ngay trong cái bi, mùa xuân trong mùa
đông, tin vào sự chuyển vận như luật của đất trời:
Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện
Sử ngã tinh thần cánh kiện cường
(Ví không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng)
Hồ Chí Minh
(Nhật ký trong tù)
Nàng xuân rắc hoa trên đường đi của nàng Vê-nuýt,
Đầu lòng hai ả tố nga,
Đó là khúc dạo đầu của cuốn sách về cái đẹp, về cuộc sống, được phát
hành từ mùa xuân này...
Từ Xuân 1980 đến xuân 1994
Bài 3. BA NGUỒN SÁNG VĨNH HẰNG
Đó là chùm sao CHÂN - THIỆN - MỸ. Nguồn sáng nào có trước. Chúng
có quan hệ gì với nhau. Phải chăng cái MỸ là tập đại thành của ba loại giá trị,
khi cái MỸ được hiểu theo một ý nghĩa đầy đủ nhất.
Chàng khổng lồ Prômêtê đánh cắp lửa của thần Dớt đem ban phát cho
loài người, bị Dớt trừng phạt đóng xiềng vào núi đá.
Thần Apôlông tuấn tú tay cầm đàn, cai quản các nữ thần nghệ thuật,
gieo ánh sáng trí tuệ và niềm vui thẩm mỹ trong nhân gian.
Những thần thoại loại ấy, dân tộc nào cũng có, để giải thích do lai của
những giá trị đã làm tôn vinh con người.
Lửa là giá trị vật chất. Tri thức, nghệ thuật là những giá trị tinh thần. Giá
trị là tài sản của con người, do người tạo ra, để phục vụ con người. Nó là số
thành, là con đẻ của cuộc gặp gỡ, tương tác, giữa người - chủ thể, và đối
tượng của người - khách thể. Nó là thước đo khoảng cách giữa người và vật.
Giá trị dương (tích cực) làm cự ly ấy dài ra, giá trị âm (tiêu cực) làm cho
khoảng cách ấy ngắn lại.
Khó tách biệt giá trị vật chất và giá trị tinh thần, cũng như văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần. Vì không có một thứ giá trị vật chất nào, văn hóa
vật chất nào, được sản sinh ra không xuất phát từ bộ óc của con người.
Nhưng trong hành xử, đôi khi cũng cần phân tích, để tiện làm rõ chức năng
của từng loại giá trị. Giá trị vật chất chủ yếu thể hiện ở mức sống, trình độ văn
minh. Giá trị tinh thần chủ yếu thể hiện ở lối sống, trình độ văn hóa. Từ ngàn
xưa, những giá trị tinh thần được con người đãi cát tìm vàng, gạn đục khơi
trong, năng nhặt chặt bị, tích tụ vào ba kho báu, và từ ba kho báu đó, phát ra
ba nguồn sáng, soi đường cho các thế hệ đi lên trong trường kỳ lịch sử, đó là
ba nguồn sáng vĩnh hằng: Chân - Thiện - Mỹ. Qua mỗi thời đại, nhờ có lao
động và đấu tranh, ba nguồn sáng không ngừng được bổ sung, càng ngày
càng sáng.
Mỗi một dân tộc, mỗi một cộng đồng người, đi vào lịch sử bằng những
con đường khác nhau, nhưng không có nơi nào không nương tựa vào ba
nguồn sáng đó. Chân Thiện Mỹ là nguồn ánh sáng, là nguồn năng lượng do
con người tự tạo ra cho mình, đảm bảo cho con người tồn tại và phát triển,
không khác gì ánh mặt trời.
Dù có ba nguồn sáng, nhưng trong cuộc sống, người ta ít khi tách
riêng, vì nó vốn sinh ra và vận hành trong một thể thống nhất, và con người
cần đến một lúc cả bộ ba giá trị đó. Đó cũng là hình ảnh “tam vị nhất thể”,
hình ảnh ba ông táo, để đảm bảo cho con người có cuộc sống cân bằng, hài
hòa.
Chân Thiện Mỹ là ba loại giá trị, là sự ngưng tụ những tinh chất tinh anh
của đời sống con người, là thành quả mồ hôi nước mắt và máu xương của
hàng chục vạn năm lịch sử nhân loại, làm nguồn sáng bất diệt cho mọi học
thuyết, mọi tôn giáo, mọi quan hệ tinh thần. Ba nguồn sáng ấy tạo thành một
chùm sáng, như ba ngôi sao tạo thành một chùm sao, cùng quan trọng, cùng
cần thiết như nhau, không thể thiếu một, không thể tách rời. Cái thật, cái đúng
(chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ), thường được xem như ba phẩm chất của
một sự việc, một sản phẩm, một con người.
Tuy không thể tách rời, nhưng trong thực tế, ở những hoàn cảnh và
trường hợp ứng dụng, ứng xử khác nhau, người ta vẫn tìm kiếm những đặc
điểm riêng, những chức năng riêng, những vận hành riêng của mỗi loại hình
giá trị đó. Sự tìm kiếm phân biệt ấy không phải không có những điều bổ ích,
thú vị. Như là:
- Loại giá trị nào có trước, có sau, cần trước, cần sau đối với con
người.
- Sự liên hệ lẫn nhau, sự xâm nhập và chi phối lẫn nhau giữa ba loại
giá trị, có phân biệt ngôi thứ giữa ba loại giá trị không.
- Mỗi loại giá trị được thực hành chủ yếu ở lĩnh vực hoạt động nào
trong cuộc sống, ở phần năng lực nào của con người.
- Và điều dễ tranh cãi: không có giá trị chân thiện mỹ duy nhất của
chung của nhân loại, mà chỉ có giá trị chân thiện mỹ của mỗi giai cấp, mỗi dân
tộc, thậm chí mỗi con người.
Lịch sử sinh thành những loại giá trị là tùy thuộc vào lịch sử nảy sinh
các nhu cầu của con người. Lịch sử nhu cầu lại lệ thuộc vào lịch sử những
điều kiện sống, mức sống. Quy luật này đúng với cả cách nhìn lịch đại (theo
quá trình lịch sử) và cách nhìn đồng đại (trong cùng một thời điểm), Theo lịch
đại, thì người nguyên thủy sống cực kỳ chật vật, nhu cầu giải quyết miếng ăn,
chống lạnh, chống bệnh cũng khó đáp ứng được. Người ta cần trước hết là tri
thức để sản sinh ra miếng ăn, tức cần cái đúng. Để cộng đồng và nòi giống
khỏi bị tiêu diệt, cần có những quy tắc ứng xử, nên cái thiện nảy sinh. Tiếng
hò tiếng hô và nhịp điệu khi lao động, tế lễ, trang điểm bằng xương thú, vỏ ốc
hay xăm mình, cũng chỉ là nhu cầu lao động và tín ngưỡng, chưa phải là nhu
cầu về cái đẹp. Phải đến lúc điều kiện sống khá hơn, có giờ rỗi, con người
mới có nhu cầu giải trí, nhu cầu hưởng thụ cái đẹp. Do đó khi tìm ra các văn
tự cổ, ngành khảo cổ tìm thấy những dấu vết của chữ “đúng”, “sai”, “tốt”,
“không tốt”, ở những tầng sâu hơn rồi mới tìm thấy chữ “đẹp”, ở tầng nông
hơn. Vậy, cái mỹ với tính cách là một loại giá trị độc lập phải xuất hiện sau cái
chân và cái thiện. Cứ theo cách nhìn lịch đại đó, thì quy luật về nhu cầu và sự
sản sinh cái mỹ cũng đúng như vậy khi xem xét đời sống theo con mắt đông
đại: con người tất bật kiếm sống, tất nhiên lơ là việc coi hát, xem phim; chưa
lo được bụng đói, làm sao lo được mái tóc đẹp. Một nhà lý luận nói rất đúng:
“Người ta sinh ra lo ăn, mặc, ở trước, rồi sau mới múa, hát, vẽ, viết sau.”
Ba loại giá trị có liên hệ mật thiết với nhau, bằng mối quan hệ bổ sung,
tương hỗ, và quan hệ nhân quả. Sự hiểu biết (cái chân) càng tăng, thì cái ác
càng giảm, cái thiện càng bền; và khi cái đẹp không hàm chứa cái thật và cái
tốt thì cái đẹp chỉ được mặt hình thức, thiếu nội dung, thậm chí làm vỏ bọc
cho điều xấu và điều ác. Xét về tuổi thì cái đẹp ra đời sau, là em út. Nhưng
cũng đúng với quy luật “hậu sinh khả úy”, nó thừa hưởng thành quả của cái
chân và cái thiện. Cái đẹp, hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất, là một sự hoàn mỹ về
hình thức, sự toàn thiện, sự chân thực về nội dung. Vậy cái mỹ là tập đại
thành của ba giá trị. Nhưng nếu xét về vai trò định hướng, phải nhường cho
cái thiện. Tri thức khoa học và những hình thức, phương tiện nghệ thuật
(thuộc cái chân, cái mỹ), rất dễ trở thành con dao hai lưỡi. Người ra tìm ra
nguyên tử để phục vụ đời sống, thì đi đến thảm họa Hyroshima; tìm ra kỹ
thuật hình ảnh để sinh hoạt nghệ thuật phong phú hơn, thì trẻ em bị đầu độc
bằng phim bạo lực và kích đâm. Những chủ nhân của các phương tiện tối tân
nhất về kỹ thuật và nghệ thuật lại có cả bọn người bất lương, bọn maphia. Do
đó, cái thiện phải là động lực, là kẻ hướng đạo của cái chân và cái mỹ.
Trong ứng dụng, đã hình thành sự phân công xã hội để thực hiện chủ
yếu loại giá trị nào đó: khoa học - kỹ thuật chăm lo cái chân, các tổ chức xã
hội, các tôn giáo chăm lo cái thiện, văn học nghệ thuật chăm lo cái mỹ, Không
thể hình dung trong đời sống xã hội có thể thiếu một trong ba nguồn sáng, do
đó cũng không thể hình dung trong một cơ chế xã hội lại thiếu các thành phần
trên. Tất nhiên sự “phân công” chỉ hình thành một cách tự nhiên, và cũng như
trên đã nói, không có một ranh giới rạch ròi giữa ba loại giá trị trong hoạt động
của những ngành nghề đó; ở đây chỉ là một sự nhấn mạnh cái chủ yếu. Trong
trường học, trí đức thể mỹ là bốn nội dung giáo dục toàn diện, có khi nêu
khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn”, nhưng nhà trường vẫn là nơi dạy chữ,
làm nhiệm vụ trí dục. Đức dục và mỹ dục cũng lồng vào trí dục. Ba loại giá trị
được đưa vào việc giáo dục rèn luyện con người, phải là công của gia đình,
có cả vấn đề di truyền và vấn đề nền nếp giáo dục. Nếu khoa học cho biết,
phía não trái của người tập trung chức năng lý trí - khoa học, bên phải tập
trung chức năng tình cảm - nghệ thuật, thì khả năng trở thành nhà khoa học,
phát triển tư duy khoa học, hoặc khả năng trở thành nghệ sĩ, phát triển tư duy
hình tượng, cũng đã có từ trong di truyền, và di truyền là một hiện tượng
phức tạp, không đơn giản chỉ là cha truyền con nối. Tuy nhiên, sự hình thành
năng lực và nhân cách con người trong quá trình tiếp nhận chân thiện mỹ là
do tác dụng tổng hợp của rất nhiều nhân tố, trong đó sự tự rèn luyện của chủ
thể vẫn là quyết định.
Hơn ở đâu hết, ba nguồn sáng ấy được tập trung rọi chiếu một cách có
ý thức, có chương trình kế hoạch, đó là khu vực nhà trường, với nội dung ghi
rõ thành ba trong bốn phạm trù: trí, đức, thể, mỹ. Chưa rõ từ bao giờ, nền
giáo dục biết kiến tạo nên một hệ thống giá trị hoàn chỉnh như vậy. Có lúc, có
nơi, người ta tuy thực hiện không xuể cả bốn nội dung đó, nhưng vẫn ôm
đồm thêm, vì phát hiện ra những “nội dung mới”, đã tìm cách đưa nội dung
thứ năm thứ sáu vào như “giáo dục kỹ thuật tổng hợp”, như “giáo dục lao
động”, nhưng rốt cuộc cũng không thêm được gì, không được thừa nhận, nên
bị bật ra. Vì sao? Chùm sao ba ngôi chân thiện mỹ đã chứa đủ cả các thứ giá
trị đó, chỉ vì đặc điểm của đối tượng trẻ tuổi, nội dung thể dục cần đưa vào
một phạm trù riêng. Ý thức và thói quen lao động, các khả năng kỹ thuật tổng
hợp, cũng chỉ là một bộ phận của đức dục và trí dục. Điều cần nói ở đây là có
nhiều sự ngộ nhận và lúng túng trong cách hiểu bốn phạm trù và vận dụng
vào thực tế giáo dục. Trí dục được đưa lên hàng đầu, đó là phù hợp với chức
năng của nhà trường phổ thông. Tiên học lễ, hậu học văn cũng chỉ là một
cách nói nhấn mạnh: bất kỳ lúc nào cũng phải xem đạo làm người là hệ trọng
nhất. Trong nội dung và cách tiến hành trí dục, trong từng trang chữ, từng con
toán, từng điều nhỏ của nội quy, và cuối cùng là trong tác phong cung cách
lên lớp của người thầy, đều hàm chứa cả ba nội dung giáo đục,
Hoạt động trí dục là hoạt động chủ yếu, thể hiện cả ba nguồn sáng
chân thiện mỹ. Mỗi loại giá trị có vai trò của mình trong cả hệ thống: trí dục có
ưu thế về trang tri thức và tiềm năng trí tuệ, đức dục định hướng về mục tiêu
bọc tập rèn luyện trí lực, trau dồi đạo đức, mỹ dục vừa làm phong phú tâm
hồn tình cảm và có độ bám vững bền. Tuy có những môn học như giành riêng
cho một loại giá trị, nhưng môn học không thay thế được toàn bộ nội dung
của loại giá trị đó: Đạo đức và Giáo dục công dân không bao hàm được nội
dung đức dục, Nhạc và Vẽ không bao hàm được nội dung mỹ dục, tuy nhiên
nếu không có những môn này thì không thể hoàn thành được chức năng của
nhà trường được gọi là nhà trường phổ thông.
Nhạc họa chưa phải là tất cả nội dung của mỹ dục, nhưng là nội dung
cần thiết ban đầu hình thành vẻ đẹp tâm hồn cho tuổi nhỏ, nhưng hai môn
này cho đến giữa thập kỷ 90 vẫn chưa thành môn học phổ biến và bắt buộc
trong bậc học phổ thông cơ sở. Ở nền giáo dục của nhiều nước, và ngay trên
đất nước ta, có thời kỳ đã chăm lo đến việc này tốt hơn. Văn chương trong
trường học cũng trở thành một môn học thuần lý trí, một trong những nguyên
nhân quan trọng là trong nội dung chương trình, giáo khoa và cả trong lối dạy,
không coi trọng phương diện mỹ cảm và mỹ dục, một đặc tính của văn
chương nói chung, của văn chương trong nhà trường nói riêng.
Nếu cái mỹ là tập đại thành của chân thiện mỹ, thì mỹ dục có mục tiêu
và hiệu quả vượt lên trên cách hiểu thông thường, nó chính là sự hình thành
nhân cách hài hòa toàn diện đối với người được giáo dục.
Trong những ngày này, khi khuynh hướng văn nghệ thương mại theo
chân kinh tế thị trường thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống thẩm mỹ,
càng là nỗi lo nhức nhối đối với những ai có quan tâm đến thế hệ đang lớn
lên.
Có thể nói, không có mỹ dục, không thể đào tạo được một thế hệ làm
chủ đất nước với phẩm chất hài hòa trong đó có vẻ đẹp truyền thống mang
bản sắc dân tộc, và vẻ đẹp của con người thời đại. Càng lo phát triển khoa
học và công nghệ, nâng cao mức sống vật chất, không quan tâm đến mỹ dục
- giáo dục tâm hồn và nhân cách, ta sẽ luôn luôn phải “làm lại từ đầu”. Ngay
từ nửa đầu thế kỷ XVI, Rabelais, tác giả Pantagruel, đã viết: “Khoa học mà
không có lương tâm chỉ làm bại hoại tâm hồn”.
Cha ông ta xưa rất có ý thức về điều này, đã lấy Nhạc để tạo ra nền
nếp kỷ cương và lễ nghĩa, và ngược lại cũng hủy bỏ một loại nhạc nào đó đã
làm phong hóa suy đồi; khi cần dạy chữ Hiếu thì lấy thơ Nhị thập tứ hiếu để
nêu gương...(về sau này, Bác Hồ cũng quan tâm cho viết loại sách “Người tốt
việc tốt” - một loại Nhị thập tứ hiếu của thời đại mới. Nhưng tiếc là không
được tiếp tục). Hiện nay, ở những nước phát triển đang có sự tỉnh ngộ về vai
trò làm băng hoại đạo đức của những sự lạm dụng các phương tiện nghe
nhìn thẩm mỹ, và một số nước đang phát triển ở phương Đông thì tìm cách
cấm cửa những thứ đó từ phương tây tràn vào, kể cả những thần tượng,
những siêu sao gắn liền với những phương tiện đó. Sự gắn bó và tác động
tương hỗ giữa ba nguồn sáng trong ba nội dung trí - đức - mỹ - dục, kể cả
ngoài xã hội và trong nhà trường phổ ihồng quả có một tầm quan trọng đặc
biệt.
Vân đề thường được tranh cãi: chân thiện mỹ là những giá trị thuộc về
nhân loại hay thuộc về mỗi giai cấp. Cái thật và không thật, thiện và ác, đẹp
và xấu, đều do con người, mà con người bao giờ cũng là một sản phẩm xã
hội và lịch sử, do đó những giá trị được tạo ra bao giờ cũng vì lợi ích của một
cộng đồng hẹp mà họ đại diện, nhưng đồng thời còn có giá trị đối với toàn thể
loài người, nếu lợi ích của tập đoàn không trái với lợi ích chung của toàn thể
loài người. Những phát minh khoa học - kỹ thuật, những công trình kiến trúc,
những tác phẩm văn học nghệ thuật được ngưỡng mộ, vượt qua biên giới
các quốc gia và những thành kiến dân tộc, giai cấp, đó là những giá trị toàn
nhân loại. Vấn đề chủ nghĩa nhân đạo, vấn đề nhân quyền, thuộc đạo đức
học, nhân danh cái thiện, là giá trị được hình thành trong xã hội tư bản, thuộc
giai cấp tư sản, đã trở thành những giá trị toàn nhân loại. Nhưng cũng như
chữ “nhân” của Khổng Tử, chữ nhân quyền có khi được vận dụng vì lợi ích
của một tầng lớp, một phân số nào đó, vẫn không thể làm mất đi ý nghĩa toàn
nhân loại của nó. Chính nhờ có tính chất toàn nhân loại của những giá trị
chân thiện mỹ, mà trong rất nhiều lĩnh vực, nhiều hoạt động, trong cuộc sống
chung trên hành tinh, loài người không ngừng mở rộng hợp tác, tiếp xúc, giao
lưu, từ thời đại này đến thời đại khác, mới có cuộc sống văn minh tiến bộ như
ngày nay. Xu thế cái thật, cái đúng thắng cái giả, cái sai, cái thiện thắng cái
ác, cái đẹp thắng cái xấu vẫn là xu thế cơ bản của lịch sử loài người.
Ba nguồn sáng vĩnh hằng vẫn hàng ngày soi từng bước đi của mỗi con
người, mỗi dân tộc, và của cả loài người, trong đó cái mỹ là một nguồn sáng
tổng hòa đặc biệt của nhiều nguồn sáng, cho hiện tại và hướng tới tương lai.
Cũng từ đó, văn hào M.Gorki đã từng nói: “Mỹ học là đạo đức học của tương
lai.”
Dù cho vật đổi sao dời, chùm sao ba ngôi ấy vẫn còn sáng mãi, trong
đó một thứ ánh sáng đặc biệt bí ẩn không dễ nhận ra, không ngừng được
khám phá, là vầng sáng của Cái đẹp.
Chú thích
- Chân (Le Vrai), rất khó dịch vì khó tìm được một từ tương ứng. Có nơi
dịch là Đúng, có nơi dịch là Thật. Để cho tạm đủ nghĩa có khi chúng tôi dùng
cả hai: cái đúng, cái thật, Thiện (Le Bien) cái Tốt, với khái niệm đối lập là cái
xấu, không đủ nghĩa bằng cặp từ Thiện và Ác, chưa nói từ Xấu lại đồng âm
với từ Xấu trong cặp từ đối lập Đẹp và Xấu, rất dễ bị ngộ nhận, nhầm lẫn, Mỹ
(Le Beau) trước nay vẫn dịch là Đẹp, trong khi đó. “mỹ” vẫn được dùng trong
từ thẩm mỹ với nhiều cấp nghĩa khác nhau, từ trong đời thuờng đến khoa mỹ
học, khi phân biệt cái đẹp với cái thẩm mỹ.
- Trong mối quan hệ chân thiện mỹ, còn có các nhận xét như: “Cái Đẹp,
ấy là cái vẻ rực rỡ của cái Thật” (Platon); “Cái Đẹp là ánh rực rỡ của cái Chân
và cái Thiện” (Le Beau est la splendeur du Vrai et du Bien - Boileau)
- Prômêtê (Promethée): Chàng khổng lồ trong thần thoại Hy Lạp, đầu
tiên tìm ra lửa cho con người bằng cách ăn cắp lửa từ lò rèn nhà trời - thần
Dớt, lấy đất nặn ra con người, dạy con người làm các nghề chăn nuôi, luyện
kim, hàng hải, và cả học hành...Cuối cùng thần Dớt (Zeus) trừng trị, cho xiềng
vào núi đá cho đến chết.
- Apôlông (Apollon): Thần ánh sáng, thần bảo trợ nghệ thuật. Trong
thần thoại Hy Lạp, đây là vị nam thần dũng cảm và đẹp trai nhất, hình ảnh lý
tưởng của thanh niên Hy Lạp.
- Sự phát hiện ra lửa cho con người, đem trí thức và nghệ thuật đến
cho loài người của các vị thần chứng minh cho sự thiết tha đối với những nhu
cầu vật chất và tinh thần của con người cổ đại.
- Các từ mang nội dung khái niệm và phạm trù, như thẩm mỹ, đẹp, cần
được hiểu theo các cấp nghĩa khác nhau, rộng hay hẹp, nghĩa trong khoa học
và nghĩa trong đời thường. Thẩm mỹ, đẹp có khi chỉ nói về hình thức (“Giải
phẫu thẩm mỹ”, “Cái nết đánh chết cái đẹp”...). Trong mỹ học, thẩm mỹ và
đẹp là những phạm trù triết học có nội dung hoàn chỉnh, bao gồm cả nội dung
và hình thức. Nhưng cũng có khi sử dụng linh hoạt theo cấp nghĩa hẹp hơn
(“nội dung chính trị - đạo đức, hình thức thẩm mỹ”).
Bài 4. VỀ MỘT CUỘC HÀNH HƯƠNG KHÔNG BIẾT MỎI
Đốtxtôiépski, văn hào Nga vĩ đại, đã từng nói: “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới"
và ông còn nói: “Nhu cầu về cái đẹp và sự sáng tạo thể hiện cái đẹp đó gắn
bó keo sơn với con người và nếu không có nó, con người sẽ không còn muốn
sống trên đời này".
Có người cho rằng đi tìm Cái đẹp cũng là đi tìm hạnh phúc. Và thật là
khó khăn, khi con người có được một hạnh phúc thực sự. Như ngày và đêm,
như sáng và tối, hạnh phúc thường đi liền với bất hạnh. Nàng Mỵ Nương mê
giọng ca đẹp của chàng Trương Chi, đến ốm tương tư, nhưng khi được gặp
thì thấy mặt chàng xấu xí, hạnh phúc chưa cầm đã chạm ngay nỗi bất hạnh,
cho đến suốt cả cuộc đời. Ngắn ngủi thay, những phút con người tìm thấy sự
toàn thiện toàn mỹ: Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao, những con người
đẹp vừa hiện ra là một đàn ruồi xanh bay tới, thay cho những khuôn trăng đầy
đặn, những làn thu thủy, nét xuân sơn, là những màu da lờn lợt, đen sì,
những bộ mặt khỉ nhăn mày rơi châu. Nhưng con người vẫn không hề nản,
vẫn mải miết đi tìm đẹp như là đi tìm hạnh phúc, lánh xa cái xấu như lánh xa
nỗi bất hạnh.
Có người cũng cho rằng đi tìm Cái đẹp cũng như đi tìm tình yêu. Quả
thực, khi người ta yêu nhau dường như mọi cái đều trở nên đẹp đẽ: từ nét
cười, giọng nói, đến cả lối ăn mặc, cả nơi đứng ngồi. Tình yêu bao giờ cũng
cực đoan, đến nỗi xấu bao nhiêu cũng thành đẹp, phải chịu sự chế riễu thô
tục:
Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng thương chồng bảo tơ hồng trời cho
(Ca dao)
Sự trùng hợp giữa hạnh phúc, tình yêu và Cái đẹp là có thật, vì khi tìm
thấy Cái đẹp, con người như bắt gặp người yêu, như tìm ra hạnh phúc.
Nhưng đó chỉ là sự trùng hợp, không phải sự đồng nhất, càng không phải là
đồng nghĩa.
Có người cho rằng Cái đẹp chính là cái thật. Tác phẩm văn chương ấy
đẹp trước hết vì nó miêu tả chân thật cuộc sống. Một con người đẹp trước hết
vì người đó có đức tính trung thực.
Có người cho rằng cái gì tốt là cái ấy đẹp. Đồ đùng tốt, con người tốt,
ấy chính là đồ dùng đẹp, con người đẹp.
Những điều trên hình như khó phản bác. Nhưng ta nhớ rằng, từ thuở
loài người mới bước chân vào ngưỡng cửa văn minh, đi đôi với việc chế tạo
công cụ lao động, tìm ra lửa, về mặt vật chất, thì đồng thời, về mặt tinh thần,
để tự tách mình phân biệt với loài thú, người ta phát hiện ra các giá trị, mà từ
xưa tới nay chưa có gì thay thế được, chỉ có chứng minh thêm sự bền vững,
sự cần thiết của nó, đó là bộ ba giá trị CHÂN, THIỆN, MỸ. Nói nôm na, cái
chân, chính là cái thật nói trên, cái thiện, chính là cái tốt nói trên, nhưng còn
cái mỹ? Cái đẹp, cái mỹ ắt phải là một cái khác, chứ không phải là cái thật và
cái tốt. Và cái khác đó lại đặt ở vị trí thứ ba, vì sao vậy? Nó là em út, là chàng
Vương Quan “con thứ rốt lòng” chăng? Nghĩa là cứ theo trình tự ấy, thì cái mỹ
không quan trọng bằng cái thiện, cái thiện không quan trọng bằng cái chân
hay sao? Trong đời sống, có khi cũng phải tuân theo tôn ty đó. Phải biết phân
biệt đúng sai, phải hiểu phép tắc cư xử (chân), rồi mới đến thực hành đúng
đạo đức (thiện) và cuối cùng mới thể hiện thành hành vi cử chỉ đẹp, phong
thái đẹp (cái mỹ). Trong trường học, người ta lo dạy chữ, giáo dục đạo đức
ổn rồi mới nói đến việc dạy nhạc, dạy vẽ, trang trí lớp học và trồng hoa. Dân
gian đã chẳng nói thế này là gì: Cái nết đánh chết cái đẹp, Tốt gỗ hơn tốt
nước sơn. Về mặt lịch sử, sự sinh thành, người ta cũng thấy chữ đẹp xuất
hiện sau chữ thật và chữ tốt, do những giá trị trên có ảnh hưởng đến sự tồn
vong của loài người trước tiên, còn cái đẹp là sự bổ sung, điểm xuyết sau
cùng (theo khảo cổ học, cổ tự học).
Thế nhưng, cứ hình dung đời sống con người thiếu vắng Cái đẹp, dù
chỉ một ngày thôi, liệu con người có còn là Người nữa không, chữ Người với
chữ N hoa? Câu nói ấy cần, để xem xét lịch sử tiến hoá và phát triển những
thời kỳ trước đây, mà càng cần cả cho thế giới hiện đại, khi khoa học kỹ thuật
tiến vọt, nhiều nơi con người sống không thiếu thứ gì. Con người hoàn toàn
thỏa mãn những nhu cầu vật chất, nhưng tâm hồn nghèo nàn, trống rỗng,
không còn cảm xúc trước cái đẹp, không biết nghệ thuật và thơ ca, thì còn
đáng được gọi là cuộc sống con người nữa không? Vì thế con người đã
không ngừng tự điều chỉnh, tự bổ sung cho ngày một hoàn chỉnh, toàn vẹn
các giá trị: tốt gỗ rồi phải tốt cả nước sơn, đẹp nết nhưng còn phải đẹp người
nữa, mới là đẹp. Tác phẩm văn chương không phải chỉ cần nói được sự thật,
mà còn phải nói cho hay, ngôn từ phải đẹp. Con người không chỉ cần có đức
tính tốt, mà còn cần cả vẻ đẹp về thể chất và tâm hồn, cho đến cả mặt mũi,
quần áo, như văn hào Sêkhốp đã nói. Quá trình tự điều chỉnh đó là một quá
trình gian khổ tranh đấu, khám phá và sáng tạo, trong nhận thức và trong
hành động thực tế: Quá trình đó được gọi là cuộc hành hương đi tìm Cái đẹp.
Cũng như đi tìm chân lý, cuộc hành trình từng chặng tuy đạt tới đích, nhưng
chưa thỏa mãn, lại phải cất bước ra đi, đi mãi... Trong cuộc sống còn nhiều
bóng đen, gai góc, chân lý càng khó tìm, Cái đẹp tìm được thật mong manh,
thưa thớt, mục tiêu kia rồi nhưng đi mãi có khi không gặp, như ảo ảnh vườn
chà là của đoàn người trên sa mạc. Do đó mà những tâm hồn vươn tới Cái
đẹp thường gặp nỗi cô đơn, rơi vào bi kịch.
Nhưng mục tiêu khó tìm trên đây là mục tiêu lý tưởng, Cái đẹp lý tưởng,
là sự toàn mỹ, cũng như cuộc đấu tranh cho cái toàn thiện vậy. Trong thực tế,
ta vẫn gặp gỡ tiếp xúc với nhiều dạng vẻ, nhiều mức độ của các hiện tượng
đẹp, từ đơn giản, phổ biến, từ rất cụ thể, gần gũi đến phức tạp, tinh tế, thậm
chí trừu tượng bí ẩn. Cũng hệt như tình yêu vậy thôi, từ những cảm giác,
những cảnh vật rất thông thường:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu
(Xuân Diệu)
Điều kiện đầu tiên để có Cái đẹp chính cũng như vậy: màu sắc, hình
dáng, âm thanh, nhịp điệu, cử chỉ... những gì tác động vào giác quan, gợi nên
xúc cảm, một thứ xúc cảm nhẹ nhàng, khoan khoái, vô tư, một thứ tình yêu.
Khi người ta tìm màu sắc cho một tấm áo, tìm dáng hình cho một chiếc túi
xách, khi người ta trang điểm phấn son cho khuôn mặt, là tìm tới Cái đẹp.
Nhưng không ai dừng ở đó. Người ta phải tiếp tục đi vào đời sống bên
trong: làm cho tâm hồn phong phú, nhuần nhị, làm cho tấm lòng mình trong
sáng, vị tha, nhân hậu... Cho nên tìm đến Cái đẹp chính là tìm đến sự hài
hòa. Nghĩa thường gặp, hài hòa là cân đối, cân xứng, nghĩa thật đầy đủ, hài
hòa là sự thống nhất những mặt khác nhau, đối lập với nhau, tạo nên sự toàn
diện, hoàn chỉnh, sự toàn vẹn. Vì vậy, cũng như Cái đẹp, sự hài hòa cũng
nhiều mức nhiều bậc, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng. Ví
như, từ sự cân xứng của những cánh hoa sen, của đôi cánh bướm, đến sự
cân xứng của một thân hình con người, từ sự cân xứng của nhịp thơ đến bố
cục bài hát, từ sự hòa điệu âm thanh bản nhạc đến sự hòa điệu sắc màu bức
tranh... Trong cuộc sống, đó là sự hài hòa của phẩm chất một con người,
giữa thể chất và tâm hồn, giữa đời công và đời tư, giữa lời nói và việc làm,
giữa đức và tài, giữa năng khiếu khoa học và năng khiếu văn nghệ... Một xã
hội phát triển hài hòa, ta chưa tìm thấy, đó là mức sống cao về vật chất, với
một quan hệ dân chủ tự do thật sự, đời sống văn hóa cao.
Cho nên cuộc hành hương vẫn không ngừng, không nghỉ - cuộc hành
hương của từng con người và của cả xã hội đi tìm Cái đẹp. Trên đường đi, ta
không bao giờ gặp Cái đẹp thuần túy, vì chân thiện và mỹ luôn luôn gắn với
nhau, nương vào nhau, thâm nhập vào nhau để cùng tồn tại. Một pho tượng
khỏa thân cổ Hy Lạp, đó là Cái đẹp thuần túy ư? Không, vẻ đẹp của thân thể
con người, đó là đóa hoa thiên nhiên tuyệt vời nhất nhưng không tự dưng mà
có, mà phải qua hàng chục vạn năm được hun đúc, được tạo nên bởi công
cuộc lao động kiên trì từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nghĩa là trong vẻ đẹp
ấy, chứa đựng cả đạo đức và tâm hồn mà người nghệ sĩ muốn biểu dương.
Điều đó hoàn toàn khác với việc đơn thuần trình bày, khêu gợi nhục thể. Ngay
khi làm một bài toán, vẽ một bản đồ án, người ta cũng cần có niềm cảm xúc
say mê về những yếu tố hài hòa trong logich của chúng và nhất là tìm ra hiệu
quả sáng tạo trong đó, nghĩa là trong khoa học tự nhiên, trong kỹ thuật cũng
có nhân tố đẹp.
Con người khi đã có hướng đi, có lý tưởng tốt đẹp, có một tâm hồn
nhân hậu, nhạy cảm, có ước mơ sáng tạo, thì bao giờ, ở đâu trong cuộc hành
hương vạn dặm của mình, cũng có thể tìm thấy Cái đẹp.
Bài 5. NHỮNG NẺO ĐƯỜNG TÌM ĐẸP
Đẹp là chuyện thường ngày, không có gì xa lạ. Nhưng chân lý cái đẹp
là cả một cuộc hành hương triết học đã mất hơn hai nghìn năm: Đẹp từ đâu
mà có? Từ thiên đình hay từ mặt đất. Từ chủ quan hay từ khách quan, vô tư
hay có mục đích. Cái đẹp và cái có ích phải chăng là một. Khi nào cái đẹp bị
hủy hoại,..
Chuyện đời vẫn xảy ra những tình huống như vậy. Trước một sự việc,
đứng phía này thấy đơn giản, bình thường, đứng phía khác bỗng hóa ra phức
tạp, cao siêu. Như câu chuyện cái đẹp, được bắt đầu từ đây.
...Tôi là một người mẹ trẻ. Tôi thích hoa hồng. Mỗi sáng tôi đều có vài
bông hoa cắm vào chiếc bình nhỏ cạnh đầu giường của hai mẹ con. Có lần
bé hỏi tôi:
- Mẹ ơi, sao mẹ thích hoa hồng, sáng nào mẹ cũng cắm hoa hồng?
- Vì hoa hồng làm cho mẹ vui.
- Vì sao hoa hồng làm mẹ vui?
- Vì hoa hồng đẹp.
- Nhưng vì sao hoa hồng đẹp?
Tôi bắt đầu lúng túng, nói sang chuyện khác, bé cứ vì sao như vậy
cuộc đối thoại sẽ kéo dài vô tận. Từ câu hỏi vì sao hoa hồng đẹp, bé sẽ hỏi
sang búp bê, chú mèo tam thể,...cho đến tận ông trăng tròn, tôi làm sao giải
thích nổi vì sao những thứ ấy đẹp, dù là nói với trẻ thơ.
...Tôi là một nữ sinh viên. Trước khi đến trường, tôi chải lại tóc, điểm
trang chút ít, lựa chiếc áo để mặc cho thích hợp. Đó là vài động tác đơn giản
tôi tự làm đẹp. Nhưng có người kỹ hơn, như cô hàng xóm của tôi hôm rồi phải
đến một “mỹ viện mini” nào đó, để nhờ người ta làm đẹp. Tại lớp học, bọn con
trai ít bàn chuyện kiểu áo quần hay đầu tóc, mà tranh cãi về phim Mỹ và phim
Hồng Kông, nhất là phim võ hiệp, của ai đẹp hơn, rồi khoe nhau những cuộn
băng nhạc mới thu, so sánh giọng ca của các siêu sao nhạc “rốc”. Trong khi
đó, cũng có anh bạn khá thờ ơ với những đề tài đó, khi lớp yêu cầu hát, bạn
chỉ hát điệu hò điệu lý của quê hương. Các bạn kia chỉ có một nhận xét: “Có
lẽ hắn đang nhớ nhà.”
Hàng ngày, cái đẹp thường xuất hiện trên ba bình diện, như ba thí dụ
nhỏ trên đây: thiên nhiên (bông hoa hồng), đời sống con người (mái tóc, bộ y
phục), nghệ thuật (âm nhạc, phim ảnh). Người ta đến với cái đẹp một cách tự
nhiên, có khi tranh luận ít nhiều về mức độ đẹp xấu, nhưng ít ai quan tâm đến
lý luận phức tạp.
Đẹp là một thứ nhu cầu, như cơm ăn nước uống. Khác chăng, ở sự
nhạy cảm của mỗi người, khác chăng, ở điều kiện, giữa người nhiều tiền và
người ít tiền, và khác chăng ở trình độ, của người hiểu biết ít và người hiểu
biết nhiều. Đúng như M.Gorky, văn hào Nga đã nói: “Con người bẩm sinh là
nghệ sĩ, dù ở đâu, bằng cách này hay cách khác, đều muốn đưa cái đẹp vào
cuộc sống của mình”.
Nhưng chuyện không dừng ở đó. Cũng những sinh viên nọ, một hôm
lên lớp giờ mỹ học, thầy đặt câu hỏi: Cái đẹp là gì, thì cả lớp lặng thinh. Một
hồi lâu, thầy gợi ý, động viên, có mấy bạn phát biểu: Cái đẹp là cái đáng yêu,
là cái người ta thích thú, là cái hấp dẫn, lôi cuốn v.v...Nghĩa là trả lời theo
cách phải giải thích luôn cả câu trả lời: thế nào là đáng yêu, là hấp dẫn.
Chuyện đã bắt đầu không đơn giản, như lựa một kiểu áo, hay bình một giọng
ca. Khi ra chơi, bạn bè tiếp tục trao đổi ở hành lang:
- Giá như thầy hỏi: Thế nào là người đẹp, thế nào là cảnh đẹp, nhà
đẹp, tranh đẹp thì còn dễ nói, còn cái đẹp, chẳng là cái gì cả, chẳng gắn vào
đâu, làm sao giải thích được.
Một bạn khác, được mệnh danh là nhà ngôn ngữ học, như phát hiện
điều gì, liền nói:
- Các cậu biết không, khi đẹp là tính từ thì dễ (như người đẹp, nhà
đẹp), nhưng khi đẹp biến thành danh từ, thì thật là khó.
Quả vậy, tính từ “đẹp” thường gắn với một cái gì cụ thể. Còn danh từ
“đẹp”, đó là một từ trừu tượng, có ý nghĩa khái quát. Cái đẹp mà thầy hỏi đã
trở thành một thuật ngữ khoa học, không còn là chuyện đơn giản.
Khi tính từ biến thành danh từ, như một câu đố khó giải, cái đẹp trở
thành một ẩn số trong bài toán mỹ học.
Vớì những danh từ có tầm cỡ như Cái đẹp, các nhà triết học gọi là
phạm trù (catégorie). Để giải thích nó, định nghĩa nó, sao cho phù hợp với
toàn bộ thực tiễn của đời sống thẩm mỹ của con người, vốn vô cùng đa dạng
và phức tạp, qua bao thời đại, bao thế hệ, thuộc bao châu lục và bao dân tộc
khác nhau, do đó mà có cuộc hành hương triết học. Vậy hãy tạm gác chuyện
đời thường, đến với các triết gia.
Từ thiên đình, hay từ mặt đất
Trên bức tường lớn trong cung điện Vaticăng, có một bức tranh do họa
sĩ Raphaen (1) vẽ cách đây hơn bốn thế kỷ. Tên gọi của bức tranh là “Trường
phái Aten”. Bức tranh diễn tả một cuộc họp như là viện hàn lâm của các nhà
tư tưởng, các nhà bác học cổ Hy Lạp. Trung tâm là hình hai nhân vật - hai
nhà triết học tiêu biểu nhất thời cổ đại: Platông (2) và Aritxtốt (3), sóng vai
bước ra giữa những đồ đệ và thính giả đang ngóng chờ, mỗi người một dáng
điệu, đầy vẻ kính trọng. Platông đang chỉ tay lên trời, còn Arítxtốt đang chỉ tay
xuống đất.
Câu chuyện của chúng ta, và có lẽ cũng là của hàng chục thế kỷ tư
tưởng mỹ học châu Âu, bắt đầu từ hai ngón tay chỉ của hai ông tổ này, một
hình tượng chi tiết nhưng có tính khái quát rất lớn do tài sáng tạo của danh
họa Raphaen.
Bức tranh tường lặng lẽ này đã gợi lại những cuộc tranh luận sôi nổi
của những nhà tư tưởng đầu tiên của nhân loại, về nguyên lai của thế giới,
của con người, và của cái đẹp. Không phải chỉ có Hy Lạp cổ đại, mà ở các
trung tâm văn minh khác, như Babilon, Tiểu Á, Ấn Độ, Trung Hoa, Ai
Cập...cũng đều có những nhà triết học và những cuộc tranh luận như vậy,
nhưng người ta hay nói đến Hy Lạp với trường phái Aten vì là nơi nền văn
hóa và triết học thể hiện một cách hoàn bị và tiêu biểu nhất trong các quốc gia
cổ đại. Cũng không thể khẳng định Arítxtốt là một nhà duy vật hoàn toàn,
nhưng khi đứng trước những học thuyết duy tâm của Platông, thì Arítxtốt,
“nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại” đã đối lập lại ông thầy của mình. Người
ta vẫn cho rằng đây là hai ông tổ của khoa học thẩm mỹ. Khi hỏi cái đẹp ở
đâu ra, thì Pla-tông “chỉ tay lên trời”, bảo ta hãy đi theo thần Duypite. Còn
Arítxtốt thì “chỉ tay xuống đất” và bảo cứ tìm ở đây, trong những kích thước,
những trật tự hợp lý của sự vật quanh ta. Arítxtốt đã tranh luận gay gắt để bác
bỏ học thuyết của Platông. Platông cũng bảo vệ mạnh mẽ quan điểm của
mình. Những tác phẩm viết dưới hình thức đối thoại của Platông (như bài
“Hippiat lớn”) là sự tranh cãi về quan niệm “đẹp” và “không đẹp”. Những cuộc
tranh luận về cái đẹp ở thời cổ đại đã đặt nền móng đầu tiên cho khoa học
thẩm mỹ.
Theo Platông, thế giới chúng ta đang sống chỉ là cái bóng thô thiển của
một thế giới khác hoàn mỹ hơn, thế giới ấy hư ảo không thể nhìn thấy được,
ông cho đó là thế giới của “ý niệm vĩnh cửu”, do Thượng Đế tạo ra. Ta muốn
tìm cái đẹp lý tưởng phải đi tìm nơi đó, một cái đẹp thần thánh, vĩnh viễn
không bao giờ phai nhạt, hoàn toàn không thể tìm thấy trong cuộc đời tầm
thường mà ta đang sống. Ông nói:
“Cái đẹp sẽ hiện ra với tất cả sự lộng lẫy của nó khi chúng ta bước sau
thần Duypite cũng như những người khác bước sau những vị thần khác,
trong tiếng nhạc hòa tấu của thiên đình, khi đứng trước một quang cảnh huy
hoàng, chúng ta như cảm thấy được những bí mật mà người ta có thể gọi là
bí mật của những người sung sướng, những bí mật mà chúng ta say sưa,
lòng không có những đau khổ và thiếu thốn đang đợi ta sau đó, khi chúng ta
đạt tới đỉnh cao nhất của sự nhập định, chúng ta ngắm những sự vật toàn
thiện, đơn giản đầy yên tĩnh và sung mãn đó, chúng ta ngắm trong một ánh
sáng tinh khôi, ngay cả chúng ta cũng tinh khôi vì đã rũ sạch cái thể xác nó đã
giam hãm chúng ta như những vỏ sò. Còn cái đẹp thì rực lên giữa những
thực thể”. (4)
Còn Arítxtốt, trong tác phẩm mở đầu rất quan trọng về lý thuyết mỹ học
và nghệ thuật, cuốn Nghệ thuật thơ ca (La poétique), đã khẳng định:
“Cái đẹp - kể cả động vật hay bất kỳ đồ vật gì - gồm những thành phần
nhất định hợp thành, nó không những cần có sự sắp xếp, mà còn phải có một
kích thước nhất định: cái đẹp ở trong kích thước và trật tự”.
Về sự ra đời của nghệ thuật, ông nói:
“Vì thiên tính bắt chước vốn có trong chúng ta, giai điệu và tiết tấu cũng
vậy, cho nên, từ thời cổ đại xa xưa, đã có người được thiên nhiên phú bảo
cho những tài năng đặc biệt này, chúng phát triển dần lên và từ chỗ ngẫu
hứng họ đã làm nảy sinh ra thơ ca”. (5)
Hai nhà tư tưởng cổ đại đã chỉ ra hai hướng khác nhau:
Cái đẹp là ở bên trên, bên ngoài đời sống hiện thực, con người chỉ có
thể chiêm ngưỡng và mô phỏng theo cái bóng của nó mà thôi.
Cái đẹp là hiện tượng của đời sống, thể hiện trong trật tự và kích
thước, trong giai điệu và tiết tấu của sự vật mà con người có thể cảm nhận
được.
Mượn hình ảnh tượng trưng là hai ngón tay chỉ về hai hướng lên trời và
xuống đất, do Raphaen thể hiện, ở hai nhà triết học tiêu biểu thời cổ đại, ta có
thể suy ra nhiều trào lưu tư tưởng mỹ học đã từng xuất hiện trong lịch sử. Dù
đa dạng phức tạp tới đâu, mỹ học và nghệ thuật trước nay cũng đi về hai
chiều hướng hoặc duy tâm hoặc duy vật, biện chứng hay siêu hình, về triết
học; hoặc siêu thoát, tách biệt khỏi hiện thực sống của con người, hoặc gần
gũi gắn bó với hiện thực đó, về nghệ thuật.
Về ý tưởng gắn với hiện thực, xin đọc một câu định nghĩa cái đẹp của
nhà mỹ học Nga thế kỷ XIX là Secnưsepxky:
“Chúng ta yêu mến cái đẹp một cách vô tư, chúng ta thưởng thức nó;
chúng ta hoan hỉ khi thấy nó cũng như là hoan hỉ khi thấy người thân yêu của
chúng ta. Do đó có thể kết luận rằng, trong cái đẹp có cái gì là đáng yêu, là
thân thiết đối với trái tim của chúng ta.
...Nhưng “cái gì” đó phải là một cái hết sức rộng rãi, một cái có thể
khoác những hình thù hết sức khác nhau, một cái hết sức con người, cái thân
yêu nhất trên đời đối với con người là cuộc sống, trước hết là cuộc sống mà
người ta mong muốn, yêu thích, rồi đến bất cứ cuộc sống nào, vì rằng dù sao
đi nữa thì sống cũng hơn là không sống; tất cả cái gì đang sống, bản tính đều
rất sợ chết, sợ hư vô và yêu cuộc sống. Và có thể định nghĩa cái đẹp như
sau: “Cái đẹp là cuộc sống”. (6)
Đó là câu định nghĩa nổi tiếng, là đỉnh cao của tư tưởng mỹ học thế kỷ
XIX. Nhưng con đường tìm đẹp vẫn còn phải tiếp tục, chưa thể kết thúc ở đó.
Học thuyết Mác đã góp phần bổ sung, làm cho hoàn chỉnh và vững chắc hơn
những định nghĩa về cái đẹp. Đó là sự giải thích nguồn gốc của cái đẹp, của
những giá trị chân thiện mỹ nói chung, không xuất phát từ thần linh, từ ý niệm
tuyệt đối, mà từ lao động và đấu tranh sinh tồn, con người tự hoàn thiện mình
từng bước về thể chất và tinh thần, và những giác quan, những cảm quan về
cái đẹp được nảy sinh và phát triển trong quá trình đó:
“Toàn bộ cái gọi là lịch sử thế giới không có gì khác hơn là sự sản sinh
ra con người bằng lao động của con người” (7).
Lao động có mục đích, có sáng tạo của con người đã gắn liền với quy
luật của cái đẹp. Lao động và hoạt động thực tiễn làm cho đời sống, nhu cầu
tinh thần phong phú thêm, trong đó có nhu cầu sáng tạo nghệ thuật. Cũng vì
vậy, cái đẹp và nghệ thuật từ hiện thực đó ra đi, lại có nhu cầu quay trở về
gắn bó phục vụ cho đời sống đó của con người. Khi có áp bức, bóc lột đối với
lao động vật chất và lao động tinh thần, nảy sinh sự mất mát, tha hóa bản
chất người, cũng là sự tha hóa của cái đẹp và nghệ thuật. Con người được tự
do về kinh tế, về chính trị, mới có thể có tự do về sáng tạo và hưởng thụ cái
đẹp và nghệ thuật. Từ đó, có thể hiểu được rằng, con người đã sáng tạo ra
bản thân mình, sáng tạo ra cuộc sống của mình, hoàn thiện nó bằng cái đúng,
cái tốt, cái đẹp. Và, có thể làm rõ hơn: “Cái đẹp là cuộc sống”, một cuộc sống
do con người, vì con người, luôn phát triển, luôn tiến hóa, qua lao động và
hoạt động thực tiễn.
Cứ như thế, từ cổ đại đến trung đại, cận đại, và hiện đại, mỗi thời đại
có một số khuynh hướng triết - mỹ học tiêu biểu, với đại diện là một hai nhà lý
luận tiêu biểu. Họ vạch ra những cách suy nghĩ, cảm thụ, sáng tạo cái đẹp và
nghệ thuật, những nẻo đường đi tìm cái đẹp. Mỗi nhà lý luận, để có được
những ý tưởng này khác, đã phải trải qua bao nhiêu suy tư nghiền ngẫm,
chiêm nghiệm, khắc khổ vì một chân lý. Cho nên tất cả những ý tưởng của họ
đều đáng trân trọng, dù trong đó có hàm chứa những gì không xác thực, thiên
lệch, cực đoan, chưa phù hợp với thực tế đời sống... Nhưng với những đầu
óc lớn, thì trong toàn bộ hệ thống của họ, bao giờ cũng có những tia sáng của
trí tuệ, những hạt nhân hợp lý, ngay cả những luận đề gần như phi lý. Ngược
lại, kể cả những nhà học giả được tôn sùng, không phải trong hệ thống quan
điểm của họ là hoàn hảo, vì “mặt trời còn có vết”. Platông đưa cái đẹp vào cõi
hư vô, tuyệt đối, cách biệt với thế giới nhân sinh, nhưng lại làm cho nó được
tôn vinh, trân trọng, không bị thô thiển, tầm thường. Và trong sáng tác nghệ
thuật, ông thần linh hóa cảm hứng nhưng làm ta lưu ý về tầm quan trọng của
cái vô thức trong nghệ thuật. Ông còn nêu ra những tác dụng giáo dục của cái
đẹp và nghệ thuật trong việc xây dựng nhân cách con người. Căng (8) là nhà
triết - mỹ học đề xướng tính chủ quan tuyệt đối trong cảm thụ cái đẹp, tính phi
mục đích của những hoạt động thẩm mỹ, đề cao giá trị độc tôn của hình thức,
nhưng chính từ những quan niệm cực đoan này, giúp người ta đi sâu vào tính
phong phú phức tạp của chủ thể thẩm mỹ, tính tự do và vô tư phi thực dụng
của cái thẩm mỹ, và vai trò lớn lao của hình thức trong lĩnh vực của sáng tạo
nghệ thuật. Và Hêghen, là nhà duy tâm khách quan, nhưng đồng thời cũng là
nhà biện chứng vĩ đại, nhà mỹ học - triết học nghệ thuật vĩ đại. (9)
Từ giã bức tranh của Raphaen và thế giới của những triết gia, ta trở lại
với những nẻo đời thường của cuộc sống thẩm mỹ. Đó là những khúc quanh,
những nghịch lý, cũng là những điều thú vị trên đường đi tìm đẹp.
Những nghịch lý - những khúc quanh: hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, sự vô tư có mục đích, cái có ích không đẹp, cái đẹp không có
ích...
Chủ quan và khách quan:
Đẹp bởi tôi ưa, hay đẹp do nó đẹp?
Trong các buổi giao lưu về mỹ học tại khoa Văn của trường Đại học Sư
phạm, cặp phạm trù chủ quan và khách quan thường được bàn luận sôi nổi.
Những mẩu đối thoại ghi được như sau:
- Bạn có nhớ không, khi mình đọc Truyện Kiều, cô giáo cho phân tích
câu thơ:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Tâm trạng mình không vui, thì cảnh làm sao vui được. Cái đẹp cũng
vậy thôi. Tôi thích, tôi cho là đẹp, thì nó đẹp, và ngược lại, khi tôi không thích,
thì đẹp cũng thành xấu.
- Không đúng. Câu thơ Kiều chỉ nói riêng tâm trạng của một người,
không thể biến thành quy luật chung được. Nếu giữa một ngày lễ hội vui vẻ
nào đó, bạn gặp phải chuyện buồn, thì ngày lễ hội mà cả trăm ngàn người
đang hào hứng tham gia, cũng buồn theo bạn sao? Cái đẹp là một giá trị
khách quan, không lệ thuộc vào thị hiếu của từng người. Câu thơ trên chỉ
đúng khi nói đến tâm trạng riêng tư của một chủ thể, không thể dùng để nói
về giá trị chung, chân lý chung của khách thể. Cái đẹp luôn có giá trị khách
quan của nó, không lệ thuộc vào sự tùy hứng của người này hay người khác.
Tục ngữ có câu: “Thương thì quả ấu cũng tròn, ghét thì bồ hòn cũng
méo”. Dân gian đã từng phê phán cái bệnh chủ quan cực đoan đến móp méo
vo tròn cả chân lý là vậy.
- Tôi cho rằng trong tình cảm, cũng như trong nhận thức cái đẹp mà
tình cảm vẫn là chính, thì không nên bàn đến cái chân lý chung, như vậy là
tiêu diệt cá tính con người. Tôi còn nhớ, ngay trong mỹ học, một câu nói, hình
như của Căng, "Đẹp ở con mắt kẻ si tình, không phải ở má hồng thiếu nữ”.
- Thế là chỉ có người yêu mà không có người đẹp. Nhưng thực tế vẫn
có các người đẹp, thậm chí người ta cho điểm, định lượng hẳn hoi. Cụ Căng
của bạn mà sống lại thì sẽ không cho thi hoa hậu, và trước hết là giải tán các
hội đồng chấm thi, vì hội đồng chọn hoa hậu vẫn có sự thống nhất tương đối
về một chân lý chung nào đó.
- Thế thì trong lĩnh vực cái đẹp, chủ quan và khách quan luôn luôn mâu
thuẫn, đối lập, không thể điều hòa. Nghịch lý đó giải quyết bằng cách nào?
- Theo bạn thì cái chủ quan quyết định khi đánh giá cái đẹp. Nhưng
cũng có người nói ngược lại. Ở nước Nga, có một khuynh hướng được gọi là
khuynh hướng “vị thiên nhiên”. Các nhà mỹ học ở đây cho rằng nhiều hiện
tượng thiên nhiên vốn có cái đẹp từ bản thể của nó, như mặt trăng, mặt trời,
rừng cây, sông biển... Đó là cái đẹp hoàn toàn khách quan, không liên quan
đến sự đánh giá của con người, không có cái chủ quan nào ở đây.
- Thế là có hai đối cực của nhận định về cái đẹp: hoàn toàn chủ quan,
hoặc hoàn toàn khách quan, không thể dung hòa.
Cuộc đối thoại còn nữa, nhưng cũng không ra ngoài hai cái đối cực đó.
Thầy giáo phải gợi ý để các bạn suy nghĩ thêm như sau: Để xác định giá trị là
đẹp hay không đẹp, phải có người đánh giá, gọi là chủ thể, đối tượng được
đánh giá, gọi là khách thể. Khi một vật được gọi là đẹp, chính là do mối quan
hệ tương tác giữa hai yếu tố đó, không thể thiếu một. Mặt trăng hay biển cả là
những khách thể hoàn toàn độc lập với con người. Nhưng khi nói trăng đẹp,
biển đẹp, là đã có sự định giá của con người, trăng và biển không còn “độc
lập” nữa. Trăng đẹp, biển đẹp, đó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan” (Đây là công thức nổi tiếng của Lênin, nói về mối quan hệ biện chứng
giữa chủ quan và khách quan trong sự nhận thức của con người). Coi trọng
cái chủ quan, coi trọng chủ thể nhận thức là đúng, vì thế giới khách quan một
khi đã lọt vào vòng nhận thức của con người, đều biến thành “hình ảnh chủ
quan”. Nhưng hình ảnh chủ quan ấy đã là chân lý chưa, đó lại là việc khác.
Chủ thể thẩm mỹ có thể là một cá thể, có thể là một cộng đồng. Một bài thơ
nhỏ là của một cá thể (Thí dụ: Bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư), một công
trình kiến trúc là của một cộng đồng (Thí dụ: công trình kiến trúc và điêu khắc
chùa Tây phương). Chủ thể, còn có thể có tầm vĩ mô, như trăng đẹp, biển
đẹp, là sự khẳng định của chủ thể toàn nhân loại. Trong quan hệ thẩm mỹ,
khác với các quan hệ khác, đặc biệt là khác với quan hệ đạo đức, người ta
không chia “đẳng cấp”, định giá trị khác nhau giữa các tầm cỡ của chủ thể,
không có chuyện đa số thiểu số, “số đông thống trị số ít” (Lênin). Trong lĩnh
vực này, chân lý không thuộc kẻ mạnh, không thuộc số đông, vậy thuộc cái
gì? Thuộc về chủ quan, hay thuộc về khách quan? Cũng không. Chân lý cái
đẹp thuộc về một tọa độ mà nó đạt được, gồm hai trục: Chủ thể - Khách thể,
và Thời gian - Không gian, cần có sự kết hợp hài hòa Chủ thể và Khách thể,
cũng như sự hòa hợp âm dương vậy. Nhưng từ đó, phải được đưa vào trục
Thời gian và Không gian để thử thách. Giá trị thẩm mỹ của một đối tượng,
một sản phẩm, lệ thuộc vào sức sống lâu bền của nó (về thời gian) và sức lan
tỏa, tác động của nó vượt qua mọi ngăn cách về biên cương, lãnh thổ, cũng
như giai cấp, dân tộc (về không gian). Sẽ gặp một mâu thuẫn: các trường
phái nghệ thuật chỉ xuất hiện trong thời gian rất ngắn rồi thôi, nhưng vẫn có
tác phẩm lớn. Các loại mốt trong sinh hoạt lại càng ngắn ngủi hơn. Ở đây
hiểu chân lý theo quan điểm lịch sử, chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối.
Có những tác phẩm nghệ thuật, những kiểu phục trang chỉ nổi tiếng một thời,
trong một phạm vi lãnh thổ nào đó, nhưng cũng có những tác phẩm, những
kiểu ăn mặc được ưa chuộng suốt hàng trăm, nghìn năm, không chỉ trong
phạm vi dân tộc, mà cả toàn nhân loại. Vậy chân lý cái đẹp là có thật, là có
thể xác định được, cái đẹp tồn tại khách quan là như vậy, không phải như câu
cửa miệng nào đó từ tiếng La-tinh: Degustibus non disputanđum (Không nên
tranh cãi về thị hiếu). Thị hiếu có thể tranh cãi, nhưng không nên áp đặt. Chân
lý cái đẹp dù là của một chủ thể - cộng đồng, cũng không thể áp đặt cho một
chủ thể - cá thể, trừ khi đẹp chỉ là cái cớ để thực hiện những mục đích khác
của cộng đồng.
Vậy, với nghịch lý thứ nhất, cái khúc quanh chủ và khách, đẹp bởi tôi
ưa hay đẹp do nó đẹp, ta tạm thời nghỉ chân trên cái tọa độ đó, để qua một
khúc quanh khác: vô tư, phải chăng cũng là vô mục đích?
Sự vô tư có mục đích
Một trong những phẩm chất đẹp nhất, thường được nhắc tới, của cái
đẹp chủ thể, là tính vô tư - không vị lợi.
Platông đã từng so sánh cái đẹp lý tưởng cũng như tình yêu lý tưởng.
Khi chiêm ngưỡng cái đẹp, con người thoát ra khỏi những nhu cầu vật chất,
cũng như khi đến với tình yêu, con người phải có tâm hồn không vẩn đục.
Đứng trước một đối tượng đẹp, nếu có mỹ cảm thực sự, người ta có
những cảm xúc hoàn toàn trong sáng, vô tư, không kèm theo những dục vọng
thấp kém, những ý đồ vụ lợi, hoặc sự tính toán vật chất thông thường. Trạng
thái đó của chủ thể thẩm mỹ khác với chủ thể thuộc các hoạt động thực tiễn
khác: hoạt động sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật... nhằm khai thác,
định giá về lời lãi, chinh phục và chiếm lĩnh, theo yêu cầu nghề nghiệp. Đó là
không kể những việc làm, những hành vi xuất phát từ những động cơ xấu, vị
kỷ, trước những đối tượng của cái đẹp. Tính vô tư - không vị lợi này xuất phát
từ nguồn gốc phát sinh cái đẹp và lịch sử của cái đẹp và nghệ thuật, trong đời
sống tinh thần của nhân loại.
Nhưng vô tư - không vị lợi không có nghĩa là vô lợi ích, phi mục đích.
Từ chỗ đồng nhất cái đẹp, nghệ thuật với trò chơi, với những thú vui giải trí
của trẻ em không cần mục tiêu vị lợi nào, hoàn toàn hồn nhiên và vô tư,
người ta cho cái đẹp và nghệ thuật cũng vì chính nó, không vì mục đích nào
khác. Từ quan niệm này, dễ nảy sinh quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”,
“chủ nghĩa duy mỹ” trong nghệ thuật.
Thưởng ngoạn cái đẹp không bao giờ nhằm tới những nhu cầu vật
chất, không có sự vị lợi, nhưng vẫn vì một loại nhu cầu đặc hiệt: làm phong
phú thêm, nâng cao thêm thế giới tâm hồn, tình cảm của con người. Đó cũng
là mục tiêu, là chức năng chủ yếu của cái đẹp và nghệ thuật. Những nhà hoạt
động nghệ thuật hiểu điều đó hơn ai hết, nhưng có khi nêu phương châm
“nghệ thuật vị nghệ thuật” để nhằm đối phó lại những xu hướng thực dụng
muốn biến cái đẹp và nghệ thuật thành thương phẩm đơn thuần hay thành
những công cụ thô thiển.
Tính vô tư, về mặt triết học, nhằm chỉ ra một đặc trưng của sự sáng tạo
cái đẹp và nghệ thuật, sự sáng tạo tự do. Đó cũng là mơ ước, là khát vọng
của con người nói chung. Mặt khác, mặt đạo đức học, tính vô tư cũng là định
hướng đối với hoạt động sáng tác, không để rơi vào những mục tiêu vị lợi nhỏ
hẹp, thấp kém; hoạt động thưởng thức không để sa vào những thị hiếu xấu,
mang tính bản năng, dung tục. Sự phổ biến những sản phẩm văn hóa khiêu
dâm và bạo lực là chống lại quan điểm vô tư, là phản bội cái đep. Sự phổ biến
những sản phẩm nghệ thuật kém giá trị nghệ thuật, nặng mục đích thực dụng,
cũng là sự phản bội nhu cầu tự do thưởng ngoạn cái đẹp.
Cái có ích không đẹp,
Cái đẹp không có ích.
Một bạn sinh viên mở đầu cuộc tranh luận về cái có ích và cái đẹp bằng
một ví dụ, tương truyền là của nhà triết học cổ đại Xôcơrát (10): cái sọt đựng
phân cũng đẹp vì nó có ích, còn cái khiên dù có vẽ vời chạm trổ cũng không
thể gọi là đẹp nếu nó chỉ là vật mỏng manh không dùng được khi giáp trận.
Bạn sinh viên nói:
- Tôi cho lập luận này căn bản đúng, vì đã là cái đẹp phải có ích, không
thể có cái đẹp vu vơ. Nhưng mình cũng băn khoăn, vì thấy có cái gì không
thỏa đáng khi xem những thứ như cái sọt phân cũng cho là đẹp.
- Quả vậy, suy luận kiểu đó thì cái có ích chính là cái đẹp, không còn
ranh giới, và cũng có nghĩa là không cần đến cái đẹp nữa.
Một bạn khác đưa thí dụ mới:
- Đối với con người, cái tốt, cái lành cũng chính là cái có ích. Vậy
những con người tốt nhưng hình thù dị dạng, như Quadimôđô - thằng gù
trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà của Huygô - có đẹp không? Đó là một kẻ
hào hiệp, có trái tim biết yêu say đắm, và độc giả cũng thích nhân vật này.
- Nhưng người ta chỉ thích, chỉ có cảm tình thôi, chứ có ai khen đó là
con người đẹp? Cũng như cái sọt phân, người ta cần nó, xem nó là có ích đối
với việc trồng trọt, nhưng có ai đem nó ra để ngắm nghía chiêm ngưỡng như
một chiếc bình cổ Hy Lạp đâu? Vậy trong cái đẹp, ngoài điều kiện tốt và có
ích, nó còn phải có một điều kiện khác nữa.
Trao đổi tới đó, các bạn thử đưa ra hàng loạt hiện tượng từ bông hoa,
cây kiểng, đến một gương mặt thiếu nữ, và tác phẩm âm nhạc hội họa, sau
cùng phát hiện ra một điều, như có bạn nói theo kiểu toán học - một yếu tố
cần và đủ - đó là tính gợi cảm, sự truyền cảm, cái làm người ta ham thích,
say mê, như nhà mỹ học Nga Trec-nư-sep-xky đã nói: “Cái đẹp tạo ra cho
người ta một cảm giác hoan hỉ trong sáng, giống như cảm giác khi ta gặp mặt
người yêu”. (6)
Thế là có những cái tốt, cái có ích, nhưng chưa hẳn là cái đẹp. Và, có
bạn đã đưa ra một hiện tượng ngược lại: có những cái đẹp lại không tốt và
không có ích. Như cô gái đẹp sắc nước hương trời là Mêlađi trong truyện Ba
chàng ngự lâm pháo thủ của Đuyma, nàng Hêlen đầy quyến rũ trong Chiến
tranh và hòa bình của Tônxtôi, đều có cái đẹp nhưng không có cái nết, và họ
đã bị cái nết đánh chết cái đẹp. Trong đời sống, ta đã gặp bao nhiêu hiện
tượng: hàng hóa có mẫu mã bao bì đẹp, nhưng chất lượng kém, thậm chí là
hàng giả. Trong thiên nhiên, có nhiều giống vật mang màu sắc rất đẹp, nhưng
đó lại là loài thú dữ nay loài sâu rầy có hại, không khen chúng đẹp. Dân gian
có câu “thà tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Vừa phải có ích, vừa chải đẹp. Ở đây
cái có ích, cái tốt, là nội dung, cái đẹp là hình thức. Phải có cả hai yếu tố: hình
thức gợi cảm và nội dung nhân sinh tích cực. Cuối cùng vẫn phải có sự hài
hòa về nội dung và hình thức, mới là cái đẹp.
Khi cái có ích đồng nghĩa với cái thực dụng, cái đẹp trở thành vô ích và
có khi bị hủy hoại.
...Những mẩu đối thoại sau đây vẫn thường xảy ra ở một vài ngôi
trường làng:
Hai thầy giáo đang đứng trước mảnh đất nhỏ cạnh lớp học:
- Theo tôi, nên vỡ mảnh đất này trồng rau muống, hay trồng lúa cũng
được.
- Nhưng trường ta chưa có cây hoa nào. Theo tôi nên làm một mảnh
vườn hoa.
- Ta đang cần rau, cần lúa và cần giáo dục lao động cho học sinh. Còn
hoa chỉ để cho đẹp thôi, chưa cần vội.
- Nếu nói cần giáo dục lao động, tôi đồng ý, còn cần rau và cần lúa thì
mảnh đất này chẳng đi đến đâu. Hiện nay, cũng không phải là thời kỳ đói kém
hay chiến tranh...
- Nhưng lúa và rau cần hơn hoa, có thực mới vực được đạo.
- Tôi thấy con em chúng ta ở nông thôn, hàng ngày ở nhà đã biết việc
trồng lúa và rau là gì rồi, đời sống văn hóa của công việc trồng hoa, chăm sóc
hoa, ta làm cho tâm hồn các em thêm phong phú.
- Phú quý mới sinh lễ nghĩa, ta còn nghèo, hoa hòe hoa sói làm gì.
- Thế sao ông cụ anh nghèo thế, khi qua đời vẫn để lại cho anh một gốc
mai vàng ở sân. Cái nghèo có kiêng cái đẹp đâu. Anh ạ, ta cần trước tiên
bông lúa, cọng rau, nhưng đừng xem thường những bông hoa.
...Một cán bộ văn hóa phường đã có lần tự hỏi: “Mình đúng, hay ông ta
đúng”. Câu chuyện như sau: Ghé thăm một ông cán bộ mới dọn đến ở tại
phường anh, thấy ông đang chuẩn bị tháo gỡ những bức tranh đẹp, dẹp bớt
những chậu kiểng, anh góp ý là không nên, ông luôn miệng nói “Vô ích! vô
ích!” về sau mới biết ông là người rất nhất quán, có đầu óc thiết thực, ở nhà
và cả ở cơ quan cũng vậy.
Gia đình ông được cấp không một toà nhà to, quá thừa tiện nghi, nên
ông đã làm gọn lại. Trước hết là bán quách cái pi-a-nô, vì được giá lắm. Ông
mua cái tủ buýp- phê, bày đúng chỗ ấy, dồn các cốc tách và búp bê vào. Hạ
mấy cái tranh có khung to xuống vì bụi bặm mất công quét, hơn nữa có tay
họa sĩ gạ gẫm đòi mua. Ông chỉ cần một tờ họa báo cắt ra, là đủ các thứ hình
để dán lên tường, lại có đủ cảnh nhà máy đồng quê, sản vật đất nước, có lợi
cho việc giáo dục các con hơn mấy cái tranh vẽ toàn chuối và dưa hấu kia. Kể
cả cái tranh La Giôcông mà thằng con ông thích, cũng hạ xuống luôn, vì nó là
người ngoại quốc, chẳng quen biết gì cả. Nhưng ông lại thay vào đó tấm lịch
tuần Hồng Kông do ông bạn tặng. Thứ này hiếm, cứ mỗi trang là một cô gái
Tàu cười duyên, mà mỗi cô một kiểu áo khác nhau, tuy cũng là ngoại quốc
nhưng nó là Á châu, gần với ta hơn. Ngoài đầu hồi ở góc sân có bày nhiều
chậu cảnh và bể non bộ, ông cho chậu ra mặt tiền, để chỗ đó che mái làm
chuồng gà, còn cái bể cho xuống dưới nhà để đựng cám heo. Thế là đã cải
tạo được về căn bản ngôi nhà để phục vụ tốt hơn cho đời sống và sản xuất
của gia đình ông, cũng như ông đã làm những việc tương tự ở mấy cái xí
nghiệp dưới quyền ông...
Mỗi người một lối sống, một thói quen như trên qua vài mẩu chuyện
nhỏ về tính thực dụng, kể ra họ cũng chẳng hại ai. Nhưng nội dung vấn đề,
nếu suy ra, lại có ý nghĩa triết học sâu xa: nên quan niệm như thế nào về
chức năng, vị trí của cái đẹp trong cuộc sống con người? Từ chuyện ở một
làng quê, góc phố, ta liên tưởng đến câu chuyện của thế giới hiện đại. Có một
dạo khi Gagarin mở đầu kỷ nguyên con người bay vào vũ trụ, ở Liên Xô và ở
nhiều nước đã nổ ra cuộc tranh luận: cái đẹp và nghệ thuật còn cần nữa
không, khi con người đã có những cái hấp dẫn hơn, lý thú hơn, đó là khoa
học kỹ thuật, là bí mật của vũ trụ được khám phá. Cuối cùng người ta thấy
rằng, dù mai sau đời muôn vạn lần hơn, thì vẫn không thể thiếu cái đẹp và
nghệ thuật. Trên vũ trụ vẫn cần một cành hoa li-la chứ! Câu nói ngộ nghĩnh
này đã trở thành ý kiến thuyết phục.
Thật vậy, cái đẹp bao giờ cũng có ích, nhưhg không phải có ích nào
cũng đẹp, cũng thay thế được cái đẹp, nếu không thì ta đồng tình với ông Xô-
cơ-rát về câu chuyện chiếc sọt mất!
Và những chuyện như trên vẫn đang diễn ra hàng ngày, nhất là khi viện
cớ cải thiện đời sống, người ta phá tường, chặt cây, dựng các quầy nọ quầy
kia, buôn bán tạp hóa đồ nhậu quanh những ngôi trường yên tĩnh, cần cải
thiện ở mức “vĩ mô” hơn, người ta phá rừng, bạt đồi, những cảnh trong lành
của bao thế hệ, để làm khách sạn, sân gôn. Một mức khác nữa, người ta biến
cổ vật và đồ trang sức trong các đền chùa và ở hoàng cung thành vàng, đồng
nghĩa với tiền, cũng như đánh đổ nàng Tô Thị và những vách đá cẩm thạch ở
Ngũ Hành Sơn, chỉ vì chút lợi nhuận thấp kém, Khi cái thực dụng nhân danh
lợi ích, thì cũng là lúc báo động về sự băng hoại đạo đức và kéo theo sự hủy
hoại cái đẹp.
Không ai dám coi thường miếng cơm manh áo, coi thường sự nâng cao
mức sống vật chất của con người, nhưng con người còn có tâm hồn và trái
tim của mình, nó vốn nằm phía bên trên bao tử, cũng cần được săn sóc
không kém dạ dày và bắp thịt. Vì vậy mà bà con theo đạo Hồi ở vùng Ả rập
thỉnh thoảng lại nhắc nhở những nhà trọc phú dầu hỏa ở xứ giàu nhanh của
họ, hãy nhớ lời của ngài Môhamét, chúa của đạo Hồi, lúc sinh thời: “Khi tôi có
hai ổ bánh mì, thì tôi sẽ bán đi một ổ để lấy tiền mua hoa...”
Câu chuyện sẽ không bao giờ dứt, vì cuộc sống ngày càng phát triển,
thế giới hiện đại của khoa học kỹ thuật, của cái đẹp và nghệ thuật ngày càng
phong phú muôn màu sắc; khoa học nhân văn về cái đẹp, chân lý về cái đẹp
vẫn còn là đề tài bỏ ngõ, đến với cái đẹp vẫn là đường đi muôn nẻo...
“Chân lý không thể giống những bông hoa có thể dễ dàng hái ở dọc
đường... Nó là một mục đích xa vời trên con đường gian khổ.” (Hêraclitơ) Và
“chân lý là một quá trình” (Lênin).
Chú thích
1. Raphaen (Raffaello Santi - 1483 - 1520) Họa sĩ thiên tài, kiến trúc sư
nước Ý thời Phục Hưng.
2. Platông (Platon - 327-347 TCN) Triết gia Hy Lạp, người thành lập
Viện Hàn lâm Aten, cũng là Viện Hàn lâm đầu tiên của thế giới.
3. Arítxtốt (Aristote - 384 - 322 TCN) Triết gia cổ Hy Lạp, học Irò của
Pla-tông.
4. Platông: (Phe-đơ-rơ (Phèdre) Chuyển dẫn theo Jean Freville: Mác,
Ăngghen, Lênin và văn học nghệ thuật. Nxb Sự thật, Hà Nội.
5. Arítxtốt: Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa. Hà Nội.
6. Secnưsepxky (Tsernisepski - 1828-1889): Quan hệ thẩm mỹ giữa
nghệ thuật đối với hiện thực, Nxb Văn hóa, Hà Nội,
7. C. Mác: Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Căng (Immanuel Kant - 1724-1804), nhà triết học, nhà mỹ học Đức.
9. Hêghen (G. w. F. Hegel - 1770-1831), nhà triết học, nhà mỹ học Đức.
10. Xôcơrát (Socrates - 469-399 TCN), Triết gia cổ Hy Lạp, thầy của
Pla-tông
Phần 2. MỸ HỌC VÀ NGHỆ THUẬT
Bài 6. TỪ CÁI ĐẸP ĐẾN NGHỆ THUẬT
Ba chặng đường mỹ hóa và hai hệ thống nghệ thuật
Lỗ Tấn: “Mỹ thuật là mỹ hóa vật tự nhiên” (mỹ thuật ở đây là nghệ thuật
nói chung). Căn cứ vào quan niệm của Mác “đời sống xã hội về bản chất là có
tính chất thực tiễn” (Luận cương về Phơbach) và các nhà mỹ học khai sáng
thế kỷ XVIII (Hecđe, Kruc): con người sáng tạo theo quy luật của cái đẹp; căn
cứ vào lịch sử ra đời phát triển của VHNT (xem xét lịch đại), cả sự phát sinh
cái đẹp và nghệ thuật trong đời sống hàng ngày (xem xét đồng đại), có thể
chia toàn bộ sự phát triển của đời sống thẩm mỹ - nghệ thuật thành ba bậc
thang, ba hình thái mỹ hóa:
1. Cái đẹp - phi nghệ thuật: cái đẹp xuất hiện như một hiện tượng, một
quy luật phổ biến trong mọi hoạt động của con người, có tính phổ cập nhưng
chưa phải là nghệ thuật. (Những hình nét, kiểu dáng, màu sắc, âm thanh,
nhịp điệu... có tính tạo hình và tính nhạc; những lời nói biểu cảm được trau
chuốt nhờ âm thanh, tu từ, thành ngữ có chất văn, thơ).
2. Cái đẹp - nghệ thuật lưỡng tính: sự phát triển và định hình của
những yếu tố thẩm mỹ tạo nên một thực thể, có cấu trúc bền vững, có một ý
tưởng nhất định là những tác phẩm nghệ thuật đầu tiên, về lịch đại, đó là
nghệ thuật dân gian - nguyên hợp về đồng đại, đó là nghệ thuật phục vụ các
nhu cầu thực tế của xã hội: khoa học, thông tin, tuyên truyền, giáo huấn,
quảng cáo... Từ đó phát sinh các loại hình, loại thể VHNT lưỡng tính, hai tính
năng: tính năng ích dụng (utilité) tính năng thẩm mỹ - nghệ thuật (nhạc lễ,
nhạc binh, nhạc tôn giáo; đồ họa, hội họa ứng dụng và thủ công mỹ nghệ, đặc
biệt là kiến trúc - trong văn học: ca dao, tục ngữ, truyện ngụ ngôn, các thể văn
cổ như chiếu, chế, biểu, bia, hịch, cáo, văn tế... đến các thể ký văn học, chính
luận nghệ thuật trong văn học hiện đại).
3. Cái đẹp - nghệ thuật đơn tính: (đây là trường hợp Hêgel xem là đối
tượng cơ bản trong giáo trình mỹ học của ông - “vương quốc bao la của cái
đẹp”.) Sự phát triển của cái đẹp đến trình độ đơn tính của nghệ thuật là sự
phát triển tập trung, hòa hợp mọi yếu tố cảm tính, của chủ thể và khách thể,
mục đích và phương tiện, TPNT là một thực thể - sống, theo định hướng của
lý tưởng đẹp, đáp ứng nhu cầu sống, nhu cầu tình cảm - tư tưởng của con
người, mang tính tổng hợp, toàn vẹn, không lệ thuộc vào một mục đích cụ thể
của một loại hoạt động xã hội hoặc một hình thái ý thức nào. Đó là âm nhạc
ĐT, hội họa ĐT, thơ ca ĐT...
Hêgel có phân biệt cấp độ của khái niệm nghệ thuật: với NTLT, khái
niệm nghệ thuật chỉ hiểu là “nghệ thuật theo nghĩa hẹp” (những yếu tố hình
thức là chủ yếu); với NTĐT đó là “nghệ thuật thực sự” (một chỉnh thể nội
dung/hình thức không thể phân chia).
Nghệ thuật “theo nghĩa hẹp" là khái niệm khá nhất quán, phù hợp với
khái niệm “tiền nghệ thuật”, “nửa nghệ thuật”, đặt ở bậc thang thứ hai của quá
trình mỹ hóa.
Sơ đồ 1: Những vùng chuyển hóa đồng tâm từ phi nghệ thuật đến nghệ
thuật thần túy.
1. Hoạt động thực tiễn - thẩm mỹ - phi nghệ thuật
2. Hoạt động thực tiễn - thẩm mỹ - tiền nghệ thuật, nửa nghệ thuật.
3. Hoạt động thực tiễn - thẩm mỹ - nghệ thuật thuần túy
Sơ đồ 2: Các tầng hoạt động theo quy luật của cái đẹp.
Sơ đồ 2 thực chất là một cách diễn đạt khác của sơ đồ 1, theo dạng
tháp; nhằm nhấn mạnh cơ sở, nền tảng của cái đẹp và nghệ thuật, sự phát
triển từ thấp đến cao và sự tập trung hội tụ những yếu tố thẩm mỹ - nghệ
thuật từ cơ sở “hạ tầng” lên dần đỉnh tháp
Từ vòng tròn thứ hai, hoạt động theo quy luật của cái đẹp đạt đến một
trình độ tập trung hơn, cao hơn, đó là bắt đầu của thế giới nghệ thuật theo
nghĩa rộng nhất của nghệ thuật. Vòng tròn thứ ba, trong cùng, là hoạt động
nghệ thuật thuần nhất. Vậy cần có hai định nghĩa, theo hai vòng tròn bên
trong, một định nghĩa chung, và một định nghĩa chỉ dành cho hoạt động nghệ
thuật thuần nhất. Cũng nên nói trước, định nghĩa là một thao tác khoa học rất
khó, nhất là những phạm trù thuộc khoa học xã hội, vì định nghĩa là đem nhốt
cả sự sống phong phú vào một công thức, dễ chủ quan phiến diện. Nhưng
làm lý luận không thể trốn tránh việc định nghĩa. Với nghệ thuật, ngay trong
vấn đề đang trình bày, định nghĩa nhằm định hướng cho phân loại, và phân
loại chứng minh cho định nghĩa. Chẳng hạn, có thể định nghĩa để xếp chung
xiếc và nghệ thuật sân khấu kịch vào một loại, nhưng cũng có thể định nghĩa
để xếp chúng ở hai loại hoàn toàn khác nhau. Trong lúc đó, có thể định nghĩa
để xếp hai nghệ thuật tưởng chừng rất khác nhau vào cùng một loại đó là mỹ
nghệ và xiếc, kiến trúc và thể thao nghệ thuật.
Vậy, theo nghĩa rộng rãi nhất, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội,
là một loại hoạt động tinh thần — thực tiễn của con người, đi theo quy luật
của cái đẹp ở trình độ phát triển cao, nhằm phục vụ cho con người một đời
sống tinh thần phong phú, đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của con
người vươn tới những giá trị chân — thiện — mỹ.
Cùng mang tất cả những đặc điểm chung đó, loại nghệ thuật thuần nhất
là hình thức sáng tạo đặc biệt, được tạo nên bởi người nghệ sĩ có cá tính độc
đáo, có tâm hồn giàu cảm xúc, có tài năng sáng tạo. Nghệ thuật ở đây là tiếng
nói tình cảm — tư tưởng của con người gửi đến con người, nhằm biểu đồng
tình, kêu gọi, tác động; định hướng cho con người đi vào chiêm ngưỡng,
chọn lựa những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm tình cảm, thông qua cái
cấu trúc cảm tính sinh động đơn nghĩa và đa nghĩa, tả thực và ước lệ, miêu tả
và biểu hiện, tạo nên bởi tưởng tượng và hư cấu, đó là hình tượng.
Vương quốc của các nữ thần nghệ thuật hay bảng phân chia loại hình
nghệ thuật
Để tiến tới một bảng danh mục nghệ thuật với sự phân loại cụ thể, xuất
phát từ định nghĩa trên, tìm các tiêu chí, các bình diện để phân loại, xếp loại,
đó là công việc của khoa hình thái học nghệ thuật (morpbologie de Part). Tư
tưởng hình thái học có rất sớm từ trong mỹ học cổ đại, và trước đó nữa, là
trong tư duy thần thoại. Người Hy Lạp xưa có cả một gia hệ các nữ thần
(muses) tập hợp dưới trướng của Apollon, thần mặt trời, thần trí tuệ và thần
nghệ thuật. Tất cả có 9 nữ thần nghệ thuật tượng trưng cho 9 loại hình hoạt
động, như sau: Clio (lịch sử), Euterpe (âm nhạc), Thalie (hài kịch và thơ điền
viên) Melpomene (bi kịch), Terpsichore (múa), Erato (oán thi), Polymnie (thơ
trứ tình), Uranie (thiên văn và hình học), Calliope (hùng biện và anh hùng ca).
Trong gia hệ các nữ thần này, con người cổ đại đã có ý thức kén chọn những
tinh hoa thuộc về đời sống trí tuệ và tâm hồn, và coi trọng sự nhận thức của
con người cả về khoa học và nghệ thuật, chưa tách biệt nghệ thuật ra khỏi
khoa học, vấn là một khối nguyên hợp những sáng tạo tinh thần. Tuy không
có mặt trong gia hệ này, nhưng kiến trúc và thủ công mỹ nghệ vẫn có những
vị thần bảo trợ khác, đó là vị thần lửa, cũng là thần luyện kim Hephaistos,
chuyên lo xây dựng cung điện và rèn vũ khí cho các thần, dạy cho thế gian
làm các lò rèn. Nữ thần Athéna con gái của Zeus cũng là một nữ thần khoa
học và nghệ thuật, chăm lo nghề kim chỉ thêu thùa và cả âm nhạc dụng cụ.
Căn cứ trên tư duy thần thoại đó, các nhà mỹ học về sau đã dựng nên hai hệ
thống nghệ thuật dưới sự "chỉ đạo" của hai vị thần: hệ thống Apollon (các
nghệ thuật tinh thần) và hệ thống Hephaistos (các nghệ thuật vật chất).
Thâu tóm những quan niệm phân loại - những tư tưởng hình thái học
qua các thời đại, có thể rút ra các cặp tiêu chí phân loại sau đây:
a. Tiêu chí bản thể (onthologie): NT không gian/ NT thời gian hoặc: tĩnh/
động.
Xác định điều kiện tồn tại của tác phẩm nghệ thuật, từ đó nảy sinh
những đặc trưng về phương thức sáng tác, thể hiện.
b. Tiêu chí tâm lý: NT thính giác/ NT thị giác.
Thính giác gắn liền với tiêu chí NT thời gian; thị giác gắn liền với NT
không gian. Cặp tiêu chí này phân chia nghệ thuật thành hai loại bị chi phối
bởi đặc trưng tâm - sinh lý sáng tác và cảm thụ là nghe và nhìn.
c. Tiêu chí ký hiệu (sémiologie): miêu tả/ không miêu tả.
Còn gọi miêu tả (description) hay tạo hình (figuratif) / biểu hiện
(expressif).
Do đặc điểm trực tiếp bộc lộ thái độ của chủ thể hay gián tiếp bộc lộ
chủ thể thông qua những hình ảnh tái tạo hiện thực nghệ thuật sẽ có hai loại
tác phẩm khác nhau, là thiên về chủ quan hay thiên về khách quan.
d. Tiêu chí tính năng: NT đơn tính (một tính năng)/ NT lưỡng tính (hai
tính năng).
Hoặc: NT thuần nhất / NT ứng dụng.
Đây là tiêu chí quan trọng nhất nhằm phân biệt hai hệ thống nghệ thuật
khác biệt nhau: hệ thống NT thuần nhất chỉ mang một tính năng - tính năng
thẩm mỹ; hệ thống nghệ thuật ứng dụng mang hai tính năng - tính năng ích
dụng và tính năng thẩm mỹ, trong đó tính năng ích dụng là cơ bản, tính năng
thẩm mỹ là thứ yếu.
Mỗi một loại hình nghệ thuật thường mang mấy đặc điểm phù hợp với
mấy tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn, âm nhạc: NT thời gian, thính giác, không
miêu tả, một tính năng (hoặc hai tính năng, nếu là nhạc ứng dụng); hội họa:
NT không gian, thị giác, miêu tả (trừ thể loại trừu tượng), một tính năng (hoặc
hai tính năng, nếu là hội họa ứng dụng).
Cuối cùng, có những loại hình mang đặc trưng của nhiều nghệ thuật vì
sử dụng phương tiện của tất cả các nghệ thuật đó, gọi là nghệ thuật tổng hợp
(như sân khấu, điện ảnh, kiến trúc...) do đó có thể thêm một cặp tiêu chí thứ
5:
e. NT độc lập / NT tổng hợp, hoặc: NT độc lập/ NT liên kết: chỉ có hai
yếu tố như văn học với âm nhạc (ca khúc) múa và nhạc (múa).
Ngoài ra, người ta có thể kể các cặp tiêu chí khác, như trình diễn/
không trình diễn, ngôn ngữ/ phi ngôn ngữ...
Sau đây, xin giới thiệu ba bảng danh mục:
- Bảng danh mục tổng quát bao gồm tất cả các loại hình.
- Bảng danh mục nghệ thuật đơn tính - NT thuần nhất.
- Bảng danh mục nghệ thuật lưỡng tính - NT ứng dụng.
Bảng 1. DANH MỤC TỔNG QUÁT VỀ CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
Hệ thống 1: NT đơn tính Hệ thống 2: NT lưỡng tính
1. Điêu khắc.
2. Hội họa – đồ họa
3. Văn chương
4. Âm nhạc
5. Múa
6. Sân khấu
7. Phim (trong điện ảnh và truyền
hình)
1. Kiến trúc
2. Đồ dùng - công cụ
3. Trang trí
4. Hoa văn
5. Điêu khắc ứng dụng
6. Hội họa – đồ họa ứng dụng
7. Nhiếp ảnh
8. Văn chương ứng dụng
9. Âm nhạc ứng dụng
10. Múa ứng dụng
11. Sân khấu ứng dụng
12. Màn ảnh ứng dụng
13. Xiếc
14. Thể thao nghệ thuật.
CT: Trình tự sắp xếp các nghệ thuật là theo quan điểm lịch sử logich,
các nghệ thuật có tính vật chất gắn với lao động sản xuất và xuất hiện sớm
hơn trong lịch sử thì xếp trước (nghệ thuật ứng dụng, kiến trúc, điêu khắc) và
xếp các nghệ thuật độc lập (hội họa, âm nhạc) trước các nghệ thuật tổng hợp
(sân khấu, màn ảnh).
Bảng II. NGHỆ THUẬT MỘT TÍNH NĂNG
(Nhóm loại hình - Loại hình - Loại thể)
Sáng tạo nghệ thuật – thuần nhất (hệ thống NT I) NGHỆ
THUẬT MỘT TÍNH NĂNG
Nhóm không
gian
Nhóm miêu tả Nhóm không miêu tả
1. ĐIÊU KHẮC
- Điêu khác tròn - đắp nổi
- Tượng nhỏ.
- Tượng đài
- Tượng hoành tráng
2. HỘI HỌA - ĐỒ HỌA
- Tranh trên giá
- Tranh hoành tráng
- Tranh chân dung, phong cảnh,
"bố cục", tĩnh vật.
- Điêu khắc không biểu
hình
- Hội họa không biểu
hình
Nhóm thời gian 3. VĂN CHƯƠNG
- Tự sự: truyện ngắn, truyện vừa,
tiểu thuyết.
- Trữ tình: thơ trữ tình, tùy bút.
- Kịch: kịch bản.
4. ÂM NHẠC
- Thanh nhạc: ca khúc,
tổ khúc, opéra.
- Khí nhạc: hòa tấu,
étude, sonata, concerto,
symphonie (giao hưởng)
Nhóm không
gian - thời gian
(NT tổng hợp
và liên kết)
6. SÂN KHẤU KỊCH
- Kịch nói, kịch hát, kịch rối
7. PHIM NGHỆ THUẬT (trong
điện ảnh và truyền hình)
- Phim truyện
- Phim tài liệu nghệ thuât
5. MÚA
- Múa biểu hiện
- Múa giao tế
- Kịch múa.
Bảng III. NGHỆ THUẬT HAI TÍNH NĂNG
(Nhóm loại hình - Loại hình - Loại thể)
Sáng tạo thẩm mỹ - ứng dụng (hệ thống NT II) NGHỆ
THUẬT HAI TÍNH NĂNG
Nhóm miêu tả Nhóm không miêu tả
5. ĐIÊU KHẮC ỨNG DỤNG
- Tượng thờ
- Tượng giáo khoa
- Tượng đồ chơi (búp bê)...
6. HỘI HỌA ỨNG DỤNG -
ĐỒ HỌA ỨNG DỤNG
- Tranh thờ - tranh thánh
- Tranh tuyên truyền - áp
phích
- Quảng cáo
- Đồ họa thương nghiệp,
tiền tem,...
- Minh họa sách báo...
7. NHIẾP ẢNH
1. KIẾN TRÚC (KT)
- KT dân dụng - KT công
cộng.
- KT tôn giáo
- Công viên
2. ĐỒ DÙNG – CÔNG CỤ
- Thủ công
- Mỹ nghệ
- Mỹ thuật công nghiệp.
3. TRANG TRÍ
Trang trí kiến trúc – đồ dùng,
trang trí lễ...
4. HOA VĂN
Kỹ hà - hoa chim...
- Ảnh căn cước, ảnh kỷ
niệm
Nhóm thời gian 8. VĂN CHƯƠNG ỨNG
DỤNG
- Văn tuyên truyền - chính
luận - thông tấn báo chí
- Văn chương minh họa
(chính trị, tôn giáo, đạo đức,
khoa học).
9. ÂM NHẠC ỨNG DỤNG
- Nhạc môi trường,
- Nhạc tôn giáo,
- Nhạc lễ, binh, nhạc trị liệu.
11. SÂN KHẤU ỨNG DỤNG
Hoạt cảnh - diễu hành có
hóa trang
12. MÀN ẢNH ỨNG DỤNG
(Trong điện ảnh và truyền
hình)
- Phim thời sự
- Phim tài liệu (giáo khoa,
khoa học)
10. MÚA ỨNG DỤNG
Múa tôn giáo - múa thể thao
(ba lê trên băng, thể dục nhịp
điệu) - múa kiếm - múa lân
13. XIẾC
14. THỂ THAO NGHỆ
THUẬT.
Tính thẩm mỹ đặc thù của các nhóm nghệ thuật đơn tính
1) Nhóm nghệ thuật thời gian không miêu tả: âm nhạc và múa. (Xem xét dạng nghệ thuật thuần nhất - một tính năng)
* Đặc điểm chung: Là nghệ thuật thời gian, âm nhạc và múa có chung
sở trường là diễn đạt được sự biến đổi và phát triển, diễn đạt được tính quá
trình của tâm trạng và hành động. Từ phương thức xây dựng hình tượng đến
cấu trúc của thể loại và tác phẩm, kể cả ngôn ngữ, đều tuân thủ và khai thác
tối đa quy luật thời gian, đều mang tính chất quá trình, tính phát triển.
Nhưng cũng vì mang tính thời gian, sở trường lại đi liền với sở đoản:
thiếu sự đứng yên, sự tĩnh tại trong không gian, phải khắc phục bằng cách tạo
ra các yếu tố kỹ thuật, tạo ảo giác về không gian, về sự tĩnh tại. Đó là lối xây
dựng hình tượng kiểu nhắc lại, trùng lặp theo hình trôn ốc, và dùng ngôn ngữ
đa thanh.
* Đặc điểm ngôn ngữ: Âm nhạc và múa có chung yếu tố ngôn ngữ là
nhịp điệu. Để đắp vào bộ khung nhịp điệu đó, âm nhạc có yếu tố giai điệu,
múa có yếu tố động tác. Do đặc trưng là nghệ thuật biểu hiện, không miêu tả,
nên ngôn ngữ của nhạc và múa đều mang tính ước lệ, không mô phỏng theo
âm thanh hay động tác có thật trong đời sống. Người cảm thụ cần phải hiểu
biết về ngôn ngữ, như trình thức của múa, giai điệu của âm nhạc (trong đó
bao gồm cấu tạo âm giai, điệu thức, hòa thanh, phức điệu), đồng thời cần
hiểu các thể loại và phương tiện nhạc khí có tính năng gì.
Thể loại âm nhạc; có hai nhóm thể loại: nhạc hát (thanh nhạc) nhạc đàn
(khí nhạc). Trong mỗi nhóm, kể từ thể loại nhỏ đến lớn có:
Thanh nhạc: làn điệu, ca khúc, nhạc kịch (ôpêra).
Khí nhạc: khúc luyện, sonat, tổ khúc, concerto, symphonie.
Ngoài cách phân biệt trên đây còn có cách phân biệt theo quy mô dàn
nhạc như độc tấu, hòa tấu, giao hưởng. Tính thời gian phản ánh trong cấu tạo
thể loại ở độ dài ngắn và sự biến đổi, sự luân chuyển các chương, đoạn có
tính chất khác nhau.
* Nhận xét chung về lịch sử: Âm nhạc và múa là hai loại nghệ thuật có
rất sớm trong lịch sử loài người, là những nghệ thuật mang tính dân tộc rõ rệt
nhất. Về lý luận, có thể tìm thấy trong nhạc và múa khá nhiều các đặc trưng
tiêu biểu của nghệ thuật. Sự phát triển của âm nhạc và múa lệ thuộc vào điều
kiện vật chất, mức sống, nhu cầu giao lưu về tinh thần... Ở các xã hội tiền
công nghiệp có hai hình thức phổ biến là sinh hoạt vũ nhạc dân gian và quý
phái, cung đình. Trong các xã hội công nghiệp cận hiện đại, vũ, nhạc phát
triển mạnh mẽ cả về các thể loại, hình thức và phương tiện biểu diễn. Về cơ
bản ở Việt Nam phổ biến nhất vẫn là các hình thức âm nhạc tiền công nghiệp
(dân ca, ca khúc, kịch hát). Các hình thức của âm nhạc thời đại công nghiệp
(như giao hưởng, nhạc kịch...) chỉ mới xuất hiện gần đây. Về múa, tùy thuộc
vào hoàn cảnh sinh hoạt tinh thần, phong tục, địa lý, mỗi dân tộc có những
hình thức múa khác nhau. Những hình thức, thể loại múa cũng gắn liền với
nhạc: múa dân gian, múa cung đình (thời tiền công nghiệp) múa giao tế, múa
biểu hiện, vũ kịch (như balê).
2) Nhóm nghệ thuật không gian - miêu tả và không miêu tả: Hội họa, đồ họa, điêu khắc (xem xét dạng nghệ thuật thuần nhất - một tính năng).
* Đặc điểm chung: Là nghê thuật không gian, nghệ thuật tĩnh, hay nghệ
thuật tạo hình, hội họa, điêu khắc có sở trường diễn đạt sự vật một cách cụ
thể - theo nghĩa nhìn thấy được trước mắt - và đứng yên. Khả năng này giúp
con người tạo nên môi trường không gian đẹp quanh mình, giúp cho người
thưởng ngoạn có điều kiện chiêm ngưỡng tác phẩm và hình tượng trong sự
tĩnh tại, giúp cho sự lắng đọng cảm xúc. Ở đây, hình tượng được xây dựng
theo ấn tượng thị giác, phù hợp với cảm thụ thị giác, hấp đẫn về mặt thị giác.
Các hình thức thể loại cũng căn cứ vào những điều kiện không gian (về quy
mô, tầm cỡ) hay các loại đối tượng không gian (nhân vật, phong cảnh).
Nhưng tính không gian - tĩnh lại hạn chế sự thể hiện tính phát triển, tính
quá trình, sự hoạt động, nên để khắc phục điều đó các nghệ thuật này phải
tìm mọi cách tạo nên ảo giác chuvển động trong hình thái đứng yên. Hội họa
là hình thức không gian phẳng, phải tìm cách tạo ảo giác về chiều sâu, về
không gian ba chiều, dựa vào thấu thị học và sắc độ...
* Đặc điểm ngôn ngữ: Ngoài các sự phân biệt cơ bản như không có
phiên bản hay có phiên bản, hội họa và đồ họa phần lớn còn khác nhau do
cách sử dụng ngôn ngữ nói riêng, cũng như sự sử dụng chất liệu nói chung.
Hội họa thường kén chọn chất liệu hơn vì phải tạo ra một bản duy nhất, giữ
lâu; trong khi đó, chất liệu của đồ họa giản dị hơn vì có thể được nhân bản
với số lượng lớn. Một số tác phẩm đồ họa nhằm chuẩn bị cho việc dựng tác
phẩm hội họa (ký họa, vẽ nghiên cứu). Đồ họa thường sử dụng ngôn ngữ,
màu sắc có tính chất đại chúng vì phải đáp ứng nhu cầu phổ biến rộng rãi. Ở
đây màu sắc mang nhiều tính ước lệ, tính trang trí. Màu sắc trong hội họa
mang đậm cá tính và gợi cảm xúc. Hội họa thiên về màu sắc, còn đồ họa
thiên về đường nét.
* Các yếu tố ngôn ngữ của hội họa và đồ họa:
- Dựng hình:
Hình ảnh sự vật được tái tạo trong tranh dựa trên cơ sở cơ thể học,
thấu thị học. Nhưng hội họa khác chụp hình, ở chỗ nó không chỉ đòi hỏi giống
như thực, mà phải diễn tả được cảm xúc của họa sĩ. Từ việc nắm vững yêu
cầu và nguyên tắc dựng hình cơ bản, họa sĩ đi vào sáng tạo lối ngôn ngữ
dựng hình của mình. Nhưng từ đâu thế kỷ XX trong hội họa xuất hiện các
trường phái không theo lối dựng hình cổ điển, gọi là hội họa phi biểu hình
(trước đây hội họa biểu hình). Từ đó HHBH và HHPBH phát triển song song,
HHBH xem như hội họa miêu tả, HHPBH xem như hội họa không miêu tả.
- Đường nét:
Là phương tiện cơ bản đầu tiên để tạo hình và biểu cảm. Chưa có màu,
dường nét vẫn có đủ khả năng miêu tả và biểu hiện, và ngay khi hội họa dùng
màu sắc làm phương tiện cơ bản, thì ở đó yếu tố đường nét vốn quan trọng vì
nó vừa là đường viền, vừa là yếu tố tạo hình, dựng hình đi với màu sắc.
Đường nét được dùng thường xuyên hơn trong đồ họa. Có những thể loại đồ
họa chỉ sử dụng đường nét là chính (như một số minh họa sách báo, tranh
bút sắt...).
- Màu sắc:
Còn gọi là hòa sắc (sự kết hợp các màu). Màu sắc là yếu tố ngôn ngữ
cực kỳ phong phú của hội họa. Sự biến hóa của màu trong họa không có đủ
từ ngữ để miêu tả, vì vốn từ của con người để gọi tên màu sắc là có hạn, còn
sự phong phú của màu là vô hạn. Đầu tiên, màu lệ thuộc vào chất liệu để chế
màu và chất liệu mặt bằng của tranh: sơn dầu, bột màu, thuốc nước, phấn
màu, sơn mài, mực tàu... được vẽ trên vải, trên lụa, mặt giấy, mặt gỗ, mặt
tường... Trên cơ sở những chất liệu đó, tùy theo sở trường, sở thích và đề tài,
họa sĩ sẽ khai thác tính độc đáo và sức mạnh của màu thuộc về một chất liệu
nhất định.
Màu sắc là đặc trưng ngôn ngữ của một trường phái, một cá tính, và có
khi một dân tộc. Từ sự lựa chọn một màu thích hợp, đến chỗ kết hợp các
màu thành hòa sắc cho bức tranh (cũng như thao tác lựa chọn và kết hợp từ
ngữ âm thanh trong thơ ca, âm nhạc) là cả một sự sáng tạo, Trên bảng màu
(palette) của mình, họa sĩ sẽ chọn pha màu theo những hòa sắc, sắc độ khác
nhau, nhằm thể hiện cảm xúc của mình. Cũng như trong nhạc có giọng
trưởng, giọng thứ, có âm chủ, âm át; ở đây củng có các gam màu nóng, màu
lạnh, có màu sắc chủ đạo của tác phẩm. Trong hội họa biểu hình, màu sắc
vừa để miêu tả đối tượng vừa để thể hiện chủ đề; nhưng trong hội họa phi
biểu hình, màu sắc chủ yếu nhằm biểu hiện cảm xúc của họa sĩ. Ở đây màu
giữ một vai trò quan trọng như một yếu tố nội dung.
- Bố cục:
Bố cục trong hội họa bị chi phối bởi đặc điểm về thị giác, về điểm nhìn
khi xem tranh, tức là lệ thuộc vào các yêu cầu có tính chất tâm – sinh lý.
Những sự sắp xếp hình và màu, sắc độ trên mặt khung tranh nhằm làm rõ
nhân vật và sự kiện chính phụ, nhấn mạnh trọng điểm và làm lu mờ điểm phụ.
Đó là các quy tắc thông thường trong bố cục của hội họa. Tuy nhiên từng thời
kỳ lịch sử, từng trường phái và từng nghệ sĩ lại vẫn có lối bố cục riêng như
một thứ ngôn ngữ riêng, chẳng hạn phép bố cục cân xứng hài hòa là của hội
họa Phục Hưng, lối tả thực chính xác theo thấu thị học là của hội họa hiện
thực, chủ nghĩa cổ điển. Sự đảo lộn những trật tự bố cục truyền thống, đi vào
biểu hiện chủ quan là của trào lưu hội họa hiện đại. Khác với phương Tây,
các nước phương Đông (Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam...) có lối bố cục
khác hẳn.
- Thể loại và ngôn ngữ của điêu khắc:
Tượng là không gian khối, được chia thành hai loại chính: tượng toàn
khối là tượng tròn, tượng nửa khối gắn nổi lên mặt phẳng gọi là tượng đắp
nổi (phù điêu). Loại tượng tròn có nhiều nhân vật gọi là nhóm tượng. Ngoài ra
còn có cách gọi theo chức năng và quy mô như tượng đài, tượng trang trí (do
đặt nơi rộng rãi, ngoài trời, hay đặt trong nội thất). Chất liệu có ý nghĩa rất
quan trọng trong ngôn ngữ của điêu khắc. Câu "Tượng đồng bia đá” nói lên
tính chất vững bền của các chất liệu được dùng trong điêu khắc. Do đó, khi
không có đủ chất liệu chính thức, người ta dùng màu sơn để giả màu đồng,
đất, hay cẩm thạch. Các trường phái dân gian và cổ đại từ Tây sang Đông
đều ưa tô màu giống thật, nhất là tượng tôn giáo. Nhưng theo thị hiếu hiện
đại, tượng chỉ một màu, đó là màu chất liệu. Mặt da tượng trơn mịn hay gân
guốc, sần sùi cũng là một hình thức biểu cảm. Khác hội họa, đề tài của điêu
khắc hẹp hơn, thường tập trung vào việc xây dựng hình tượng về các nhân
vật, nhất là nhân vật tích cực, lý tưởng hóa vẻ đẹp cơ thể và ngoại hình của
con người. Hình tượng điêu khắc thường thể hiện ở việc xây dựng tư thế
động tác điển hình có liên quan tới đặc trưng tính cách nhân vật.
- Hội họa và điêu khắc phi biểu hình:
Do những biến đổi và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội nói chung,
do những quan niệm về triết học, và nhất là do nhu cầu đi tìm những hình
thức mới thúc đẩy sự chuyển biến trong sáng tạo nghệ thuật, các trường phái
hội họa và điêu khắc phi biểu hình đã ra đời và cho đến nay, vẫn phát triển
song song với nền hội họa biểu hình truyền thống. Khởi đầu từ trong trường
phái ấn tượng, dã thú, khuynh hướng xóa bỏ hình tả thực cổ điển phát triển
trong chủ nghĩa tập thể và tiếp tục mở rộng với các trường phái vị lai, biểu
tượng, đa đa, siêu thực, trừu tượng. Nói chung, hội họa phi biểu hình bác bỏ
lối vẽ mô phỏng hình ảnh của hiện thực, mà chủ yếu vẽ những hình tưởng
tượng chủ quan của họa sĩ. Điêu khắc phi biểu hình cũng không đi vào nhân
vật như trước, mà dùng những khối bất kỳ nào có thể xem là hình tượng, để
thể hiện tư tưởng của nhà điêu khắc.
Trên đây là nói về hội họa và điêu khắc nghệ thuật - một tính năng, còn
đối với hội họa và điêu khắc ứng dụng - hai tính năng chúng tôi sẽ trình bày
khi đề cập đến phần nghệ thuật ứng dụng ở mục sau.
3) Nhóm nghệ thuật tổng hợp: sân khấu, điện ảnh (xem xét dạng nghệ thuật thuần nhất - một tính năng).
Nghệ thuật tổng hợp vận dụng tất cả các phương thức và phương tiện,
thể hiện của các nghệ thuật độc lập: văn học, âm nhạc, múa, hội họa, trang
trí, kiến trúc... Trong điện ảnh còn có quay phim, nhiếp ảnh.
Sân khấu kịch và phim truyện đều phải có cơ sở kịch bản văn học.
Nhân tố kịch hay kịch tính là nội dung thẩm mỹ quan trọng nhất của nghệ
thuật tổng hợp (NTTH). Đó cũng là chỗ phân biệt giữa nghệ thuật 1 tính năng
và 2 tính năng trong sân khấu và điện ảnh. Kịch tính là những mâu thuẫn,
xung đột giữa các tính cách, được kết thúc bằng sự thắng bại của bên này
hoặc bên kia, nhưng điều quan trọng là những va chạm xung đột ấy, dù bi
thảm hay trào lộng, cũng đều phải mang lại bài học tình cảm, nhân sinh đối
với con người (catharsis). Tính kịch là hạt nhân phân biệt nghệ thuật sân
khấu và phim truyện với các loại sân khấu và điện ảnh ứng dụng - hai tính
năng (như sân khấu hoạt cảnh, hóa trang, xiếc, phim tài liệu nhân vật, phim
phóng sự...).
Phương tiện ngôn ngữ của sân khấu là hành động (hành động hình thể,
hành động tâm lý, hành động ngôn ngữ), thông qua diễn xuất của diễn viên.
Hành động sân khấu là hành động kịch, hành động - xung đột, nhằm biểu
hiện tư tưởng của kịch chứ không phải bất kỳ hành động ngẫu nhiên nào. Do
các hành động trong kịch phải nhất quán nhằm biểu hiện một tư tưởng nhất
định, nên lý luận kịch gọi hành động này là "hành động thống nhất", "hành
động xuyên"... Ngoài nhân tố cơ bản là hành động kịch, nghệ thuật sân khấu
còn có những phương tiện âm nhạc, múa, trang trí, đạo cụ... hỗ trợ cho diễn
xuất. Ở đây vai trò của diễn viên vô cùng quan trọng.
Phương tiện ngôn ngữ của điện ảnh có khác sân khấu. Ở đây hành
động nhân vật vẫn là yếu tố hạt nhân, nhưng đồng thời nghệ thuật quay phim,
dựng phim cũng có một ý nghĩa quyết định: hình ảnh phim là hình ảnh được
đạo diễn và nghệ sĩ quay phim biến đổi liên tục theo những góc độ, tầm cỡ,
cự ly khác nhau để biểu đạt tư tưởng, tính cách nhân vật. Cấu trúc của tác
phẩm lệ thuộc vào nghệ thuật dựng phim. Từ kịch bản văn học chuyển thành
kịch bản điện ảnh, kịch bản phân cảnh, đến dựng phim đó là cả một quá trình
sáng tạo thể hiện ý đồ của đạo diễn trong việc tạo ra tác phẩm điện ảnh, các
yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật khác có vai trò hỗ trợ quan trọng: âm nhạc và
âm thanh nói chung, ánh sáng, hội họa, trang trí thiết kế nhân vật và bối
cảnh...
Thể loại sân khấu: kịch nói, kịch hát (hay ca kịch, tuồng, chèo, cải
lương, kịch dân ca) nhạc kịch, kịch rối, kịch truyền thanh, kịch câm...
Thể loại điện ảnh nghệ thuật: phim truyện, phim tài liệu nghệ thuật.
Bài 7. ĐI VÀO BẢN CHẤT CỦA NGHỆ THUẬT ĐƠN TÍNH
Bản chất xã hội hay vị trí và chức năng xã hội của nghệ thuật
Trong cuộc sống của con người, nghệ thuật luôn luôn gần gũi gắn bó
không rời, như một người bạn đời thân thiết thủy chung. Từ tiếng hát ru êm ái
thuở sơ sinh đến những câu chuyện cổ tích, những câu ca dao đậm đà phong
vị quê hương, những bài thơ, cuốn truyện, bộ phim, những buổi diễn sân
khấu đầy xúc động... đã làm cho con người được sống một cuộc sống tinh
thần phong phú, đến mức ta không thể hình dung được là con người có thể
sống mà không cần đến nghệ thuật.
Nhưng về phương diện lý luận, nghệ thuật là gì, cho đến nay vẫn chưa
có lời định nghĩa nào thật trọn vẹn, vì nghệ thuật là một hiện tượng vô cùng
phong phú và phức tạp, những định nghĩa sơ lược thường chỉ nói lên được
một trong những đặc trưng nào đó của nghệ thuật mà thôi. Ngay trong khi vận
dụng quan điểm Mácxít, nếu không có tinh thần biện chứng triệt để, cũng dễ
rơi vào lối giải thích siêu hình, dễ có cái nhìn thiên lệch về bản chất của nghệ
thuật. Hậu quả của sự giải thích thiên lệch về nghệ thuật là làm cho con
người hiểu sai và vận dụng sai lầm chức năng của nghệ thuật, kể cả về
phương diện sáng tác cũng như phương diện tiếp nhận và phổ biến nghệ
thuật.
Vai trò – vị trí xã hội của nghệ thuật
Trước hết, nếu xem nghệ thuật là một loại hoạt động trong nhiều hoạt
động khác của con người, thì ta phải làm hai việc: một là, xét vị trí, chức
năng, hai là, xét đặc điểm cấu trúc nội tại của nó. Hai mặt này có liên quan với
nhau, vì vị trí chức năng của một sự vật chỉ có lý do tồn tại khi nó có một đặc
trưng cấu tạo độc đáo khác với các sự vật khác. Nói một cách khác, cần xem
xét mặt bản chất xã hội của nghệ thuật, để thấy vị trí chức năng của nghệ
thuật trong xã hội, trong mối tương quan với các hoạt động khác; xem xét mặt
bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật, để thấy những đặc trưng riêng của nghệ
thuật không giống với các hoạt động xã hội khác.
Nghệ thuật là một loại hoạt động, nhưng là một hoạt động tinh thần -
thực tiễn, không phải đơn thuần là hoạt động tinh thần, về mặt nào đó, người
nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn cũng như người sản xuất và đánh giặc, người
làm khoa học và người thầy thuốc, cũng tham gia một hoạt động thực tiễn,
tức là một loại hoạt động định hướng nhằm chinh phục và cải biến đối tượng.
Trong lịch sử, nghệ thuật cũng là một loại nghề nghiệp đã từng tham gia vào
quá trình phân công lao động như những nghề nghiệp khác. Xem nghệ thuật
là một loại hoạt động tinh thần - thực tiễn, các nhà mỹ học đã xây dựng một
cấu trúc của hoạt động nghệ thuật. Đó là một mô hình đa diện phản ánh toàn
bộ những hình thái hoạt động quan trọng nhất của con người: thực tiễn, giao
tiếp, nhận thức và giá trị. Nghệ thuật thực hiện mô hình hóa toàn diện cuộc
sống của con người nhằm tái hiện một cách toàn diện những kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm tình cảm của con người. Vì vậy mà bất cứ ai làm nghề
nghiệp nào cũng có thể tìm thấy trong kho tàng văn học nghệ thuật một bài
học, một kinh nghiệm cho chính mình.
Tuy hoạt động nghệ thuật là một loại hoạt động tinh thần - thực tiễn
nhưng về cơ bản, nó phục vụ cho đời sống tinh thần. Một công trình kiến trúc,
mặt tiện nghi là thuộc về nhu cầu vật chất, đó là nhiệm vụ của kỹ thuật, còn vẻ
đẹp của nó là thuộc về nhu cầu tinh thần, đó là nhiệm vụ của nghệ thuật, nếu
tạm thời tách hai mặt đó để dễ nhận xét. Và nói đến hoạt động tinh thần, là
nói đến vấn đề nhận thức và phản ánh, thuộc phạm vi ý thức. Vậy ta cần làm
rõ bản chất xã hội đó của nghệ thuật: nghệ thuật là một hình thái ý thức xã
hội.
“Người ta sinh ra ăn, mặc, ở trước rồi mới hát, múa, vẽ, viết, bàn triết lý
sau. Kinh tế là nền tảng cửa một xã hội, là cơ sở hạ tầng. Chính trị, pháp luật,
văn hóa là những cái xây dựng lên trên cơ sở ấy, là kiến trúc thượng tầng của
xã hội.” (Trường Chinh). Từ lập luận giản dị đó, tiếp tục miêu tả một cấu trúc
xã hội, ta thấy được vị trí xã hội của nghệ thuật. Trước hết nghệ thuật là ý
thức, là sự phản ánh tất yếu những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội,
Phản ánh hiện thực là một quy luật của nghệ thuật, chỉ có khác nhau là phản
ánh như thế nào. Thứ hai, kinh tế là yếu tố quyết định cuối cùng, nhưng yếu
tố quyết định trực tiếp đối với nghệ thuật là chính trị. Nghệ thuật bao giờ cũng
chịu sự chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp, tự giác hoặc không tự giác của một
quyền lực chính trị, một xu hướng chính trị nhất định. Thứ ba, trong cùng một
thượng tầng kiến trúc, nghệ thuật chịu sự ảnh hưởng và tác động của các
hình thái ý thức khác như triết học, đạo đức, tôn giáo v.v... Thứ tư, nghệ thuật
không phải chỉ đóng vai trò thụ động đối với kinh tế và chính trị mà có sức
mạnh riêng của nó, có thể có tác dụng trở lại đối với cơ sở xã hội, góp phần
làm cho vững mạnh hoặc suy thoái thêm. Thứ năm, nghệ thuật là một hình
thái ý thức thuộc kiến trúc thượng tầng, cho nên nghệ thuật phải có sự vận
động theo hạ tầng cơ sở, có thể nhanh hơn, có thể chậm hơn, và đôi khi, do
quy luật riêng của nó, nghệ thuật vận động không phù hợp với hạ tầng cơ sở.
Thứ sáu, đây là hệ quả của cả năm quy luật trên, ý thức nghệ thuật quyết
định sự sáng tạo nghệ thuật và tiếp nhận nghệ thuật, về mặt này, thế giới
quan đóng vai trò quyết định. Đây là điều cần nói nhất trong tất cả những gì
thuộc về bản chất xã hội của nghệ thuật.
Từ mệnh đề nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, ta đã xác định vị
trí xã hội của nghệ thuật. Để đi sâu hơn vào bản chất xã hội, ta cần tìm hiểu
thêm xã hội đã tạo nên những tính chất gì trong hoạt động nghệ thuật và ý
thức nghệ thuật. Ở đây ta có hai hệ thống các tính chất xã hội: các tính chất
mang hai cấp độ vừa là thuộc tính vừa là phẩm chất: tính cá nhân, tính giai
cấp, tính dân tộc, tính toàn nhân loại. Các tính chất chỉ dùng ở một cấp độ, để
chỉ phẩm chất tiên tiến của nghệ thuật: tính nhân dân. Gọi là thuộc tính, vì bất
cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng mang tính chất đó, nó thể hiện tính quy
luật của sự phản ánh nghệ thuật. Mỗi một sáng tác nghệ thuật đều mang
trong mình bốn thuộc tính đó, nó vừa là tiếng nói của một con người cá biệt,
vừa là tiếng nói có tính toàn nhân loại. Do đó mà các tính chất này bao giờ
cũng được xem xét chủ yếu ở mặt phẩm chât: tính cá nhân tiên tiến, tính dân
tộc tiên tiến, hay tính chất toàn nhân loại tiên tiến. Tuy nhiên, để tránh khuynh
hướng xã hội học tầm thường, các tính chất nói trên, đặc biệt là tính giai cấp,
không được căn cứ trực tiếp vào lý lịch, thành phần bản thân nghệ sĩ hay
những quan hệ, những định kiến xã hội của họ, mà phải căn cứ vào sản
phẩm nghệ thuật, ở đây thể hiện tất cả sự đồng hóa của người nghệ sĩ, qua
tư duy nghệ thuật của họ, tất cả những gì thuộc về giai cấp, dân tộc, và cả
nhân loại. Các tính chất nói trên, xét về phẩm chất tiến bộ, được tập trung thể
hiện ở một phạm trù phẩm chất là tính nhân dân. Phương pháp hợp lý để
phân tích các tính chất trên thể hiện trong nghệ thuật là phải quan tâm đến
tính cụ thể lịch sử của hiện tượng nghệ thuật và phải xét trên toàn bộ cấu trúc
nghệ thuật, trong đó ưu tiên nghiên cứu những nhân tố nội dung (tinh thần,
tâm lý, tình cảm). Ví dụ, khi đánh giá về L. Tônxtôi, Lênin đã phân tích từ tác
phẩm đến con người nhà văn, thời đại của nhà văn, đã chỉ ra những mâu
thuẫn phức tạp trong thế giới quan của nhà văn này: vừa là một địa chủ tin
vào chúa cơ đốc, vừa là người thể hiện tâm trạng và nguyện vọng của nông
dân. Khi xem xét về tính nhân dân và tính dân tộc, cần xét toàn bộ cấu trúc
nội dung và hình thức: từ hiện thực dân tộc đến cách nhìn, cách nghi phù hợp
với tập quán dân tộc, và sự vận dụng hình thức, thể loại, bút pháp ngôn ngữ
mà nhân dân và dân tộc ưa chuộng. Nhưng trong toàn bộ cấu trúc đó, cần ưu
tiên xem xét mặt nội dung hiện thực, nhất là hiện thực tâm lý, tình cảm dân
tộc. Đúng như nhà văn Gôgôn đã nói: “Tính dân tộc chân chính không phải là
ở việc miêu tả chiếc áo xaraphan, mà ở chính ngay tinh thần của nhân dân”.
Một vân đề nữa thuộc về phương pháp, là tính nhân dân, tính dân tộc bao giờ
cũng gắn liền với tính lịch sử. Tính dân tộc không đồng nghĩa với tính cổ
truyền, tính truyền thống. Tính dân tộc của thời quá khứ khác với tính dân tộc
hiện đại.
Chức năng xã hội của nghệ thuật
Một vấn đề cơ bản về bản chất xã hội của nghệ thuật là vấn đề chức
năng xã hội của nghệ thuật, cần phân biệt chức năng vốn có và chức năng
cần phải có. Trong sinh hoạt lý luận thường có sự lẫn lộn này. Nay ta chủ yếu
bàn về những chức năng vốn có của nghệ thuật, bất luận là nghệ thuật thuộc
khuynh hướng nào. Gần đây, các nhà mỹ học có nêu hàng loạt các chức
năng của nghệ thuật, ý kiến phong phú nhiều vẻ, nhưng nói chung chưa có ý
kiến xác định, là nghệ thuật có bao nhiêu chức năng. Nay chỉ xin nêu một số
chức năng cơ bản, dựa vào sự tập hợp những ý kiến khác nhau:
- Chức năng giáo dục - tổ chức xã hội: Nghệ thuật giáo dục lý tưởng xã
hội, lý tưởng đạo đức, bằng cách nêu gương, tạo ra những mẫu mực, những
cách sống, những kinh nghiệm hành động và ứng xử. Mặt khác, nó còn đóng
vai trò quan trọng khi đóng góp vào việc cổ vũ, tập hợp quần chúng chung
quanh một ngọn cờ chính trị hoặc tạo ra bề thế cho những tổ chức xã hội -
nhà nước (tiếng hát của những đoàn biểu tình, tiếng kèn xông trận, tiếng quốc
thiều, những trang hoàng lộng lẫy ngày quốc lễ, ngày hội...)
- Chức năng nhận thức, cung ứng những tri thức mới về mọi mặt như
một sự khai sáng cho con người; phát hiện cho con người những cách suy
nghĩ, cách làm việc, xử thế hay đấu tranh như là những kinh nghiệm có tính
chấí phương pháp luận; hướng dẫn con người hướng về con đường phát
triển tương lai bằng những dự cảm và dự báo.
- Chức năng thẩm mỹ: Có thể nói mọi chức năng của nghệ thuật đều là
chức năng thẩm mỹ vì bản thân nghệ thuật là một hoạt động thẩm mỹ nhưng
cũng cần phân tích riêng một vài khía cạnh đặc biệt về mặt thẩm mỹ: đó là
giáo dục thẩm mỹ cho con người bao gồm giáo dục ý thức (lý tưởng, tình
cảm, thị hiếu, thẩm mỹ) gọi chung là mỹ cảm, và giáo dục hoạt động sáng tạo
thẩm mỹ (kỹ năng, kỹ xảo về sáng tạo cái đẹp và nghệ thuật).
- Chức năng thông tin - giao tiếp: Tất cả các chức năng khác đều phải
thông qua chức năng này để phát huy tác dụng, vì sự sáng tạo nghệ thuật
bao giờ cũng là quan hệ tương ứng giữa thông báo và tiếp nhận. Nhờ có
chức năng thông tin này, nghệ thuật thực hiện mục tiêu giáo dục, nhận thức
và thẩm mỹ, thực hiện một sự giao tiếp giữa những cá nhân, giữa các cộng
đồng xã hội. Đây chính là điều kiện tạo ra sự tri âm mà văn học phương đông
thường đề cập tới.
- Chức năng giải trí: Giải trí là một nhu cầu tất yếu vừa mang tính sinh
lý vừa mang tính tâm lý. Nghệ thuật là một trong những phương tiện giải trí
chủ yếu. Khi cuộc sống bận rộn căng thẳng và đơn điệu, con người cần đến
giải trí, và nghệ thuật là hình thức giải trí cao cấp và phong phú nhất.
Các chức năng trên có liên quan chặt chẽ với nhau và hợp thành một
tổng lực tạo nên sức mạnh của nghệ thuật, nó phản ánh tính đa diện của cơ
cấu nghệ thuật, tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Những chức năng
trên quy tụ lại sẽ thực hiện nhiệm vụ tổng hợp của nghệ thuật đã từng nêu ra
từ đầu: Nghệ thuật thực hiện mô hình hóa toàn diện cuộc sống của con người
nhằm tái hiện một cách toàn diện những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm tình
cảm của con người.
Bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật hay tư duy sáng tạo nghệ thuật, hình
tượng và tác phẩm nghệ thuật.
Sau khi tìm hiểu bản chất của nghệ thuật xét về mặt hướng ngoại, tức
trong mốì quan hệ xã hội của nó, nay quay về với cấu trúc nội tại, xét bản
chất hướng nội của nó, tức đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật. Trước hết,
nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, như ta đã từng lý giải, nhưng đồng
thời nó là ý thức thẩm mỹ. Đây là mặt bản chất thứ hai, chỗ phân biệt nghệ
thuật với các hình thái ý thức khác, cũng là lý do tồn tại của nó, là điều kiện
để nó thực hiện những chức năng xã hội nói trên. Để nghiên cứu đặc trưng
thẩm mỹ của nghệ thuật, cần xét từ hai bình diện: bình diện nhận thức luận và
bình diện bản thể luận. Cụ thể là nghiên cứu về những biểu hiện đặc thù của
phương thức tư duy nghệ thuật và cấu trúc của tác phẩm nghệ thuật với
những đặc điểm loại hình, loại thể của nó.
Hình tượng nghệ thuật
Ý thức nghệ thuật khác với các hình thái ý thức khác ở đặc trưng cảm
tính - cụ thể, đặc trưng tình cảm, thể hiện tập trung ở phạm trù hình tượng.
Phạm trù hình tượng là phạm trù trung tâm của hệ thống các khái niệm, phạm
trù về đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật, vì tất cả sự lý giải từ đây về sau đều
xuất phát từ vấn đề hình tượng, ở hình tượng, nơi cái tế bào cơ bản này tất
cả những mâu thuẫn, những bí ẩn và sự phong phú của nghệ thuật đều tích
tụ lại đây. Vì vậy, có thể nói tư duy nghệ thuật là tư duy hình tượng, và cũng
có thể định nghĩa nghệ thuật là một hệ thống những hình tượng.
Không thể hiểu một cách đơn giản hình tượng là hình ảnh, sự kiện, chi
tiết; hình tượng cũng chưa phải là tác phẩm. Cần xem xét hình tượng ở ý
nghĩa triết học - mỹ học của nó. Đó là một hình thức tư duy, là một hoạt động
tâm lý, và cũng là một cơ cấu vật chất. Định nghĩa hình tượng làm thế nào
tránh được sự thiên lệch theo văn học thậm chí theo các thể sử thi của văn
học, đó không phải là định nghĩa theo phương pháp mỹ học, vì mỹ học là
khoa học bao quát trong tầm mắt của nó hàng chục loại hình nghệ thuật khác
nhau. Lý luận về hình tượng được giải quyết đến nơi đến chốn sẽ tạo tiền đề
cơ bản cho những vấn đề khác, trước hết là vấn đề phương pháp và phong
cách, vấn đề quá trình sáng tác và tiếp nhận nghệ thuật, thuộc bình điện nhận
thức luận - sao đó là vấn đề cơ cấu vật chất của tác phẩm và ngôn ngữ, vấn
đề phân chia loại hình loại thể thuộc bình diện bản thể luận.
Tất cả mọi định nghĩa đều không quán triệt nổi ý nghĩa của phạm trù,
nhất là một phạm trù như phạm trù hình tượng. Nhưng cũng cần có một sự
miêu tả tóm tắt về nó như sau:
Hình tượng là hình thức của tư duy nghệ thuật, là sự phản ánh hiện
thực theo quy luật của cái đẹp, là một loại mô hình đặc biệt nhằm tái hiện và
tái tạo một cách toàn vẹn và sinh động cuộc sống, nhu cầu và khát vọng của
con người.
Hình tượng là cơ cấu hài hòa của những yếu tố chủ quan - khách quan,
cảm tính - lý tính, cụ thể - khái quát, cá biệt - phổ biến... nhưng được trình bày
bằng con đường xuyên qua cái thứ nhất để phát hiện cái thứ hai.
Hình tượng là một cơ cấu hài hòa tinh tbần - vật chất, trong đó nội dung
cuộc sống được trình bày theo những biện pháp và phương tiện trực quan và
gợi cảm, ẩn dụ và đa nghĩa... của quá trình hư cấu nghệ thuật, nhằm đạt hiệu
quả miêu tả và biểu hiện.
Những mệnh đề trên bổ sung lẫn nhau để làm rõ được bản chất của
hình tượng nghệ thuật. Nhưng cũng có thể tìm đến một mô hình đơn giản
hơn, như là một sự thu gọn tối thiểu, ta có thể sử dụng cặp phạm trù miêu tả
và biểu hiện. Đây là hai thao tác quen thuộc của sáng tác nghệ thuật nhưng
nó có ý nghĩa rất lớn, tiêu biểu cho đặc trưng hình tượng của nghệ thuật, và ý
nghĩa này chưa được khai thác một cách đầy đủ. Có thể xem đây là một cặp
phạm trù mỹ học, là biến dạng của cặp phạm trù triết học khách thể - chủ thể.
Không có một loại hoạt động nào ngoài hoạt động nghệ thuật lại có sự kết
hợp chặt chẽ việc phản ánh đối tượng khách quan (miêu tả) với việc phản
ánh tư tưởng tình cảm chủ quan của con người sáng tạo (biểu hiện) như
nghệ thuật, nhất là ở thành phẩm cuối cùng của nó. Trong tác phẩm nghệ
thuật, hai nhân tố miêu tả và biểu hiện bắt buộc phải cùng hiện diện, nếu
không sẽ không thành nghệ thuật, điều đó hoàn toàn không bắt buộc đối với
tác phẩm khoa học và các sản phẩm khác do con người sáng tạo. Một bức
tranh, một bức tượng, một bài hát, bài thơ, một bài chính luận nghệ thuật,...
nếu thiếu yếu tố biểu hiện thì sẽ là một thành phẩm phi nghệ thuật, nhằm
phục vụ cho những nhu cầu thực tiễn khác. Nói cách khác, nếu là tư duy hình
tượng, thì bao giờ cũng có phản ánh và tự phản ánh, miêu tả và biểu hiện, hai
mặt đó gắn liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy. (Cần hiểu miêu tả theo
nghĩa rộng, là sự thể hiện một hình ảnh trực quan nào đó, trong tất cả các
nghệ thuật, còn biểu hiện là thái độ tư tưởng tình cảm của tác giả khi thể hiện
hình ảnh trực quan đó).
Trong tất cả các yếu tố tạo thành hình tượng nghệ thuật nói trên, yếu tố
cảm xúc - cá biệt của chủ thể sáng tạo là quan trọng nhất, đó là cái tế bào
đầu tiên để tạo nên hình tượng. Khi một hoạt động nào đó, một sản phẩm
thuộc lĩnh vực phi nghệ thuật nào đó, được “pha” cái chất này vào, sẽ có khả
năng biến thành tác phẩm nghệ thuật. Hãy lấy sự thể nghiệm từ những bài
văn chính luận nghệ thuật, phân biệt với các bài chính luận thông thường
khác, hay lấy những sản phẩm nghệ thuật phân biệt với các sản phẩm thông
thường khác.
Kiểu sáng tác
Hình tượng là đặc tính, là hình thức cơ bản của tư duy nghệ thuật,
nhưng được thể hiện cụ thể trong những kiểu, những dạng rất khác nhau, và
trong quá trình sáng tạo, do trình độ, năng lực, thế giới quan, nhân sinh quan
của người nghệ sĩ, sẽ xuất hiện những phẩm chất hình tượng khác nhau.
Trước khi nói đến những hiện tượng mang tính lịch sử (các phương pháp
sáng tác), hãy nói về những kiểu, những dạng mang tính phổ biến.
Trong suốt quá trình lịch sử nghệ thuật, thuộc về tất cả các loại hình,
các thành phần dân gian hay bác học, thuộc bất kỳ khuynh hướng sáng tác
nào, các tác phẩm nghệ thuật cũng đều nằm trong hai kiểu, hai dạng phổ biến
là mô phỏng hiện thực hoặc lý tưởng hóa hiện thực (kiểu thứ nhất còn gọi là
kiểu hiện thực, khách quan hóa, kiểu thứ hai còn gọi là kiểu lãng mạn, chủ
quan hóa), ứng với kiểu thứ nhất là các biện pháp mô phỏng, tả thực, phản
ánh hiện thực dưới hình thức của bản thân cuộc sống, như các tác phẩm văn
học, hội họa, điêu khắc... thiên về khuynh hướng hiện thực, ứng với kiểu thứ
hai là các biện pháp tưởng tượng, ước lệ, tượng trưng, phản ánh hiện thực
cần có, như là mong ước. Từ các truyện thần thoại, một phần các cổ tích đến
các tác phẩm lãng mạn, khoa học viễn tưởng, các loại hội họa biểu hiện,
trang trí, âm nhạc, thuộc về kiểu này.
Thuộc về phẩm chất của tư duy hình tượng, có thể nói đến tính chuẩn
mực của các hình tượng đã đạt được đến sự hài hòa về nhiều phương điện,
nội dung và hình thức, hiện thực và lý tưởng... Ngược lại, có hai hiện tượng
phổ biến như là hai khuyết tật của tư duy nghệ thuật, những trường hợp riêng
lẻ hay ở cả một khuynh hướng nghệ thuật, đó là chủ nghĩa hình thức và chủ
nghĩa tự nhiên. Hiện tượng thứ nhất là lấy hình thức làm cứu cánh, làm mục
đích, thay thế nội dung, bất chấp những sự dư thừa, cầu kỳ, kiểu cách... sùng
bái các thủ pháp, các phương tiện và chất liệu. Lối chơi chữ, chơi màu, lối
phô trương hình thức trong sáng tác là thuộc loại này. Hiện tượng thứ hai thể
hiện ở hai dạng khác nhau: sự sao chép máy móc, bắt chước sao cho giống
hệt tự nhiên, theo lối chụp ảnh, và sự miêu tả những khía cạnh xấu xí, bệnh
hoạn, những sinh hoạt có tính chất bản năng của con người. Chủ nghĩa hình
thức và chủ nghĩa tự nhiên thường xuất hiện trong những thời kỳ quá ấu trĩ
hay thời kỳ suy đồi của nghệ thuật, và cũng có thể thể hiện từng lúc trong
sáng tác của một nghệ sĩ, có khi đó là tỳ vết trong cả tác phẩm của những
nghệ sĩ lớn. Chống chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên là nhiệm vụ
thường xuyên của bất cứ nền nghệ thuật chân chính nào.
Phương pháp – trào lưu sáng tác
Ngoài những biểu hiện có tính phổ biến của tư duy hình tượng nói trên,
cần phải nói đến ý nghĩa quan trọng của các phương pháp sáng tác, là hiện
tượng mang tính lịch sử. Đó là những nguyên tắc phản ánh và những nguyên
tắc sáng tạo nghệ thuật trong một giai đoạn lịch sử, được quyết định bởi
những điều kiện của xã hội và của thế giới quan nghệ sĩ. Từ xưa, con người
vẫn có hai kiểu sáng tác như đã nói trên, phải chờ đến khi nào nghệ thuật trở
thành một hình thức hoạt động độc lập, lớn mạnh thì mới hình thành các
phương pháp sáng tác, đó là khi nghệ thuật thực sự trở thành một hoạt động
tự giác, những nghệ sĩ cùng sáng tạo trong một trào lưu khuynh hướng nhất
định. Lịch sử nghệ thuật châu Âu với các phương pháp sáng tác nối tiếp nhau
ra đời, tiêu biểu như chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện
thực phê phán, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, và các khuynh hướng
hiện đại chủ nghĩa. Khi nghiên cứu về một phương pháp sáng tác, có thể đi
vào ba phương diện sau đây: cơ sở hình thành phương pháp sáng tác (hoàn
cảnh xã hội lịch sử, thế giới quan, nhân sinh quan), những đặc điểm của nội
dung phản ánh (kiểu tư duy, thái độ nhiệt tình, đối tượng, cách lý giải hiện
thực và biện pháp điển hình hóa) những đặc điểm về nghệ thuật phản ánh
(theo truyền thống, thể loại, bút pháp, ngôn ngữ như thế nào).
Theo các tiêu chí trên, ta sẽ thấy rõ mỗi phương pháp sáng tác là một
sản phẩm của thời đại, là một cống hiến mới cho tư duy nghệ thuật, và
phương pháp sáng tác sau bao giờ cũng được kế thừa những thành tựu của
phương pháp trước. Chủ nghĩa cổ điển là sản phẩm của thời đại nền quân
chủ tập quyền vững mạnh, dựa trên thế bình quân chính trị quý tộc - tư sản,
là tiếng nói khẳng định những giá trị đạo đức trung quân ái quốc, những hành
động anh hùng, những hành vi hợp lý trí, là tiếng nói nghệ thuật mực thước
trong sáng noi theo tấm gương cổ đại... Chủ nghĩa lãng mạn là sản phẩm của
thời đại khủng hoảng, của buổi giao thời giữa cái cũ đã sụp đổ (phong kiến)
cái hiện tại xấu xa (tư sản), và cái tương lai chưa sáng rõ (chủ nghĩa xã hội),
là một cuộc hành hương đi vào mộng tưởng, tiêu cực, hay một cuộc nổi loạn,
phá phách, tìm tới những khát vọng giải phóng, những ước mơ không tưởng,
cùng với sự khám phá những khuôn khổ, những bút pháp và ngôn ngữ hết
sức mới mẻ, phong phú, đặc biệt trong thơ ca và âm nhạc. Chủ nghĩa hiện
thực phê phán là sản phẩm của thời đại đầy mâu thuẫn của những quan hệ
tư sản và lối sống tư sản mà động lực vạn năng là đồng tiền, là sự lên án
vạch mặt chế độ tư bản thối nát đồng thời phát hiện vai trò nhân dân, là một
bước tiến quan trọng của tư duy nghệ thuật của nhân loại về tính chân thực
của sự phản ảnh hiện thực, về phương pháp điển hình hóa, về việc khai thác
sức mạnh của thể loại tự sự lớn trong văn học và thể loại tranh bố cục của hội
họa, về loại hình sân khấu và điện ảnh...
Trong sáng tạo nghệ thuật, phương pháp chỉ là một trong những điều
kiện, không phải là điều kiện quyết định, vì không có phương pháp nào thay
thế được sự tự tu dưỡng về nghệ thuật và tài năng của người nghệ sĩ. Mục
đích nghệ thuật cao cả và hành động sáng tạo nghiêm túc cùng với tài năng
sẽ giúp người nghệ sĩ tìm được phương pháp thích hợp.
Phong cách
Phong cách nghệ thuật của một nghệ sĩ là những đặc điểm về tư tưởng
nghệ thuật, về đề tài, chủ đề, về sự vận dụng thể loại, ngôn ngữ và bút pháp
được lặp đi lặp lại nhiều lần tạo thành hệ thống riêng biệt độc đáo của sự
sáng tạo của nghệ sĩ. Nói đến phong cách là nói đến bản lĩnh, sự trưởng
thành trong sáng tạo, và đưa đến những đóng góp thực sự cho phong cách
nghệ thuật chung của dân tộc và thời đại. Do đó, phạm trù phong cách có thể
được hiểu theo những mức độ khác nhau, nhưng không nên xem phong cách
là thuộc tính, mà phải là phẩm chất của sáng tạo, một phẩm chất không thể
dễ dàng có được.
Tác phẩm nghệ thuật
Hình tượng, phương pháp, phong cách chỉ trở thành hiện thực nơi bản
thể của nghệ thuật, là tác phẩm. Tác phẩm là đơn vị cơ bản, là trung tâm của
quá trình nghệ thuật. Nói đến một tác gia, một thời đại của nghệ thuật, đều
phải căn cứ vào tác phẩm.
Tác phẩm gồm những yếu tố nội dung - tinh thần và hình thức - vật
chất, gắn bó hữu cơ thành một chỉnh thể, trong đó hình thức tồn tại vì nội
dung và nội dung tồn tại nhờ hình thức. Nội dung và hình thức chỉ là những từ
ngữ dùng để phân tích, vì mỗi tác phẩm đích thực là một chỉnh thể, hơn nữa,
là một sinh thể, không thể phân chia.
Những yếu tố thuần nội dung là tư tưởng, chủ đề. Những yếu tố thuần
hình thức là kết cấu bề mặt và ngôn ngữ. Những yếu tố vừa là nội dung, vừa
là hình thức là sự kiện, nhân vật, hình ảnh, chi tiết... Tư tưởng, chủ đề thường
làm nhiệm vụ biểu hiện, sự kiện, nhân vật, hình ảnh, làm nhiệm vụ miêu tả.
Sau đây đi vào xem xét đặc điểm chức năng của từng yếu tố nói trên.
Trong hệ thống các yếu tố cấu thành tác phẩm, tư tưởng là yếu tố
quyết định, là động cơ và mục đích để sáng tạo, là ý nghĩa để tác phẩm tồn
tại. Tư tưởng là ý tưởng - tình cảm - cảm xúc cơ bản của tác phẩm, là cách
giải quyết vấn đề, nhiệt tình, thái độ khẳng định hoặc phủ định của tác giả. Tư
tưởng được gởi vào, được thực hiện qua hành động của chủ đề. Chủ đề là
vấn đề cơ bản được tác giả đặt ra để đánh giá và giải quyết. Trong Giao
hưởng số 5 của Béttôven, tư tưởng là ý chí con người chiến thắng định
mệnh, chủ đề là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa bóng đen định mệnh và niềm
tin yêu cuộc sống của con người, được thể hiện bằng hình ảnh âm nhạc. Chủ
đề hoặc tư tưởng chỉ có thể thông qua hệ thống sự kiện và tính cách, thông
qua hệ thống cảm xúc mới thể hiện được. Một tác phẩm có thể có một hay
một số tư tưởng và chủ đề, nhưng có tư tưởng và chủ đề chính hoặc phụ.
Kết cấu là phương diện hình thức, nhưng là toàn bộ tổ chức hình thức
của tác phẩm, là tất cả mọi yếu tố cấu thành tác phẩm và mối quan hệ giữa
các yếu tố đó với nhau. Kết cấu bề mặt của tác phẩm là những yếu tố, những
quan hệ có thể nhìn thấy, có thể định lượng được bằng quan sát trực tiếp,
như đoạn mạch, bố cục... Kết cấu bề sâu là tổ chức phức tạp của mọi yếu tố
trong mối quan hệ của chúng với tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Việc phân
tích kết cấu bề sâu là sự kết hợp giữa định tính và định lượng, giữa phân tích
và tổng hợp, nhưng là giai đoạn cao của phân tích, vì đã trải qua sự nghiên
cứu kỹ lưỡng, thông hiểu tác phẩm, đã nắm được tư tưởng của tác phẩm. Để
phân tích được kết cấu tác phẩm, cần có năng lực quan sát hệ thống, vận
dụng quan điểm hệ thống.
Ngôn ngữ là “yếu tố thứ nhất” của sáng tác nghệ thuật, là phương tiện
vật chất quyết định của nghệ thuật, là dấu hiệu đầu tiên và sự thử nghiệm
cuối cùng năng khiếu nghệ thuật và trình độ nghề nghiệp của người nghệ sĩ
cần có sự phân biệt trước tiên giữa ngôn ngữ ở dạng chất liệu - và ngôn ngữ
nghệ thuật. Nếu cho rằng màu sắc là ngôn ngữ của hội họa, âm thanh là ngôn
ngữ của âm nhạc, động tác là ngôn ngữ của múa v.v... thật chưa thỏa đáng.
Vì màu sắc là phương tiện của người họa sĩ và của cả người thợ sơn, thợ
nhuộm; âm thanh là phương tiện của nhạc sĩ và cả người thợ săn, người rao
hàng; động tác nhịp nhàng là phương tiện của cả vũ đạo và thể thao... Vậy
cần xác định tính loại biệt của ngôn ngữ nghệ thuật: đặc điểm bao trùm nhất
của ngôn ngữ nghệ thuật là tính hình tượng, nó là phương tiện để xây dựng
hình tượng thực hiện ý đồ nghệ thuật của người nghệ sĩ, mà đặc trưng rõ
nhất là nó thực hiện một lúc hai chức năng thông tin, vừa miêu tả vừa biểu
hiện, vừa phản ánh vừa tự phản ánh. Từ tính hình tượng này ngôn ngữ nghệ
thuật phải có những biện pháp chuyên nghĩa và đa nghĩa hàm súc và gợi cảm
để thực hiện hai chức năng trên. Đặc điểm thứ hai của ngôn ngữ nghệ thuật
là tính điêu luyện, điều mà M. Goócki so sánh giữa quặng và nguyên liệu qua
bàn tay thợ nhào nặn. Nếu muốn tìm đến một thí dụ nào đó về ngôn ngữ
nghệ thuật, thì không thể tìm được bên ngoài tác phẩm nghệ thuật, vì với bàn
tay nghệ sĩ, với khả năng phản ánh của hình tượng, một loại chất liệu thô sơ
bỗng chốc có thể trở thành ngôn ngữ nghệ thuật. Điều này được chứng minh
rất rõ trong nghệ thuật tạo hình hiện đại.
Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều mang một tính chất loại hình, loại thể nhất
định, không có một tác phẩm nào nằm bên ngoài khuôn khổ loại hình loại thể,
hoặc là tác phẩm thơ trữ tình, hay truyện ngắn, hoặc là ca khúc hay nhạc
kịch, hoặc là tranh tĩnh vật hay tranh bố cục... chứ không có tác phẩm văn
học, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm hội họa chung chung. Do đó, toàn bộ cấu
trúc của một tác phẩm và mỗi thành tố của một tác phẩm, đều thấm nhuần
những đặc điểm loại hình loại thể riêng biệt, những đặc điểm đó chi phối quá
trình sáng tác và cũng đòi hỏi người cảm thụ cần phải biết đến. Chẳng hạn,
thơ trữ tình là một thể loại văn học, (đó là yếu tố thời gian và sử dụng ngôn
ngữ con người làm chất liệu) đồng thời, về mặt loại thể, thơ trữ tình khác các
thể tự sự ở chỗ không có những hệ thống sự kiện và tính cách hoàn chỉnh,
mà chỉ có những hệ thống cảm xúc gắn với hình ảnh và một mặt nào đó của
tính cách, điều khác nữa là tình huống của sáng tác - cường độ của tình cảm,
nhu cầu biểu hiện trực tiếp v.v... tất cả những điều đó làm cho cấu trúc và
ngôn ngữ của tác phẩm thơ trữ tình và tự sự có sự khác biệt nhau. Do đó, khi
tìm hiểu bản thể nghệ thuật, phải gắn đặc trưng loại hình, loại thể vào tác
phẩm.
Bài 8. THIÊN NHIÊN THỨ HAI VÀ NHỮNG TÍN HIỆU NGÔN NGỮ CỦA CÁC NGHỆ THUẬT LƯỠNG TÍNH
Biểu dương con người
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.
Bao giờ anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây,
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Bài ca dao đã biểu dương và nối liền một lúc cả ba vẻ đẹp: vẻ đẹp của
thiên nhiên thứ nhất, vẻ đẹp của thiên nhiên thứ hai và vẻ đẹp của thân thể
con người, “tòa thiên nhiên” cao quý nhất.
Từ khi biết mài hòn đá để làm chiếc búa, chiếc rìu đầu tiên, biết vót
nhọn một thân cây, để làm ngọn giáo, ngọn mác đầu tiên, biết xếp tảng đá,
xếp những tàu lá che mái nhà đầu tiên..., ở thời xa xưa ấy, con người đã tạo
lập ra một vũ trụ mới, một thế giới mới, mà hai trăm năm trước nhà triết học -
mỹ học Êmanuyen Căng đặt tên là thiên nhiên thứ hai, ngày nay người ta còn
gọi là kỹ quyển. Từ bấy đến nay, dù đi tới đâu, miễn là có vết chân con người,
trong tầm tay, tầm mắt, tầm nghĩ của con người, dù trên đỉnh cao Hymalaia
hay trong lòng biển sâu Thái Bình Dương, dù giữa sa mạc Xahara hay tận
miền băng dày Nam cực, và vượt ra ngoài trái đất, dù ở tận cung trăng hay
sao Kim sa vời vợi - những miền mới vừa qua còn nằm trong tưởng tượng và
ước mơ - con người cũng đã cắm ngọn cờ chinh phục của mình - Sứ mệnh
đầu tiên của con người, từ khi con người xuất hiện với chữ “N” hoa, là chinh
phục thiên nhiên thứ nhất, đồng thời tạo lập nên thiên nhiên thứ hai. Vì vậy,
bao quanh chúng ta, bao giờ cũng có thiên nhiên thuần túy và thiên nhiên do
con người tái tạo và sáng tạo “theo quy luật của cái đẹp”.
Từ khi thiên nhiên thứ hai ra đời, liền phát sinh một mối quan hệ, quan
hệ giữa thiên nhiên thứ hai và thiên nhiên thứ nhất, thực chất cũng là quan hệ
giữa con người và thiên nhiên. Có hai tình huống diễn ra, hoặc lúc này hoặc
lúc khác, trong mối quan hệ này: một là sự kết hợp hài hòa, cái này làm tôn
vẻ đẹp của cái kia. Giữa vùng rừng núi hoang vu trùng điệp, một nhà máy
thủy điện Sông Đà hay Trị An sẽ mọc lên. Có thêm một mặt hồ rộng, những
cánh buồm lạ, thêm một dãy phố dựa lưng vào vách núi, khúc sông như có
sức sống mới sinh động, duyên dáng hơn xưa. Hòa trong tiếng gió, tiếng thác
nước đổ, còn có tiếng cười vui của con người và tiếng nhạc, đặc biệt về đêm,
ánh điện sáng bừng lên giữa rừng như trong truyện cổ tích. Ai cũng biết trên
đất nước ta, từ những vùng kênh rạch chằng chịt, những bãi sình lầy hoang
vu, đầy cá sấu, cọp và rắn rết, đã mọc lên một khu Bến Nghé, một thành Gia
Định, và một Sài Gòn hiện đại. Từ những ao bùn, bãi rác đã biến thành một
trong những công viên đẹp nhất giữa lòng thủ đô Hà Nội,...
Nhưng không phải lúc nào sự xuất hiện của thiên nhiên thứ hai cũng
làm đẹp cho thiên nhiên thứ nhất và đưa đến niềm tự hào cho người thưởng
ngoạn. Biết bao công trình xây dựng, khai thác, sản xuất... đã lấn chiếm và
tàn phá vẻ cổ sơ, sự đa dạng và đẹp đẽ của thiên nhiên thứ nhất: các rừng
cây nguyên thủy bị tàn phá, hủy diệt, và điều khó tránh khỏi là bầu không khí
không còn trong lành nữa. Cái đẹp của sự chiến thắng thiên nhiên lại trở
thành bi kịch đối với loài người: phải chọn con đường đi tới cái đẹp trọn vẹn!
Hàng vạn năm qua, bằng lao động, trí thông minh, bằng mồ hôi nước
mắt, con người đã làm cho hành tinh này giàu đẹp hẳn lên, để tạo nên những
loại hình khác nhau của hệ thống thiên nhiên thứ hai: 1 - những cánh đồng,
kinh mương, đê đập, nông trường, hầm mỏ... 2 - những kiến trúc nhà cửa,
đền đài, thành quách, đường sá, cầu phà, phi trường, bến cảng... 3 - những
công cụ sản xuất và đồ dùng hàng ngày, phương tiện đi lại, binh khí...
Hàng ngày ta làm việc, sinh hoạt và thưởng ngoạn vẻ đẹp của trăm
nghìn đối tượng thuộc ba loại hình đó. Vẻ đẹp của các đối tượng muôn hình,
muôn vẻ đó đã hình thành một hệ sinh thái thẩm mỹ, nuôi dưỡng và phát triển
những năng khiếu và tình cảm thẩm mỹ cho con người từ thế hệ này sang thế
hệ khác của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, mỗi gia đình. Nó không phải cái
đẹp thuần thiên nhiên mà là cái đẹp có bàn tay con người. Nó không phải cái
đẹp thuần nghệ thuật trong những tác phẩm nghệ thuật. Nó là cái đẹp vừa
mang đặc tính của cái đẹp nghệ thuật, vừa là vật chất, vừa là tinh thần, đặc
biệt mang tính chất phổ biến, có mặt ở khắp mọi nơi, hàng ngày phục vụ con
người, gần gũi gắn bó với con người.
Về mặt nội dung, nó chứng minh cho sức sáng tạo của con người, nó
biểu dương và ca ngợi sức mạnh và sự thông minh tài khéo của con người.
Khi phân biệt lao động của con người và con vật, Các Mác đã chỉ rõ: con
người làm theo mục đích đã định trước, đã tưởng tượng, hình dung trước, và
con người sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Từ những công trình vĩ đại nhất
đến những công trình nhỏ bé tinh vi nhất, cũng đều được sáng tạo theo quy
luật của cái đẹp. Những công trình đó, từ một cánh đồng, một thành phố, một
toà lâu đài đến một chiếc tủ, một bộ đồ trà, một cái gạt tàn thuốc lá, đều là
minh chứng của bộ óc tưởng tượng cùng với bàn tay khéo, đều là hình ảnh
của con người được nhân hóa, đều là sản phẩm của cả mồ hôi và trí tuệ. Mỗi
đối tượng đó đều có cả một lịch sử, một quá trình sáng tạo, từ chưa đẹp đến
đẹp. Mỗi một công trình, một đồ vật đều mang dấu ấn, mang những hình
bóng kỷ niệm về đời sống vật chất và tinh thần, tình cảm của con người trong
một thời đại. Chiếc trống đồng gợi lại hình ảnh cuộc sống con người thời đại
Hùng Vương, gợi lại khí thế hào hùng của quân dân thời Trần khiến sứ nhà
Nguyên phải khiếp đảm: “Nghe tiếng trống đồng, tóc đầu bạc trắng”. Ngôi nhà
sàn bằng gỗ giản dị, cái giá sách nhỏ, chiếc ghế mây... trong khu lưu niệm
Bác Hồ gợi lại hình ảnh Bác thân yêu. Khi chưa có máy móc, con người đã
từng dựng nên những Kim tự tháp cao hàng trăm mét. Với trình độ thủ công
thô sơ con người đã đắp Vạn lý trường thành dài hàng năm nghìn kilômét, đã
đục đẽo cả một hòn núi đá làm thành ngôi đền nguy nga Cailasa. Hàng bao
thế kỷ loài người vẫn truyền tụng về bảy kỳ quan của thế giới với niềm kiêu
hãnh và tự hào, với sự ngạc nhiên và khâm phục. Nhưng con người hiện đại
còn vượt xa tổ tiên mình, nhờ có khoa học, kỹ thuật tiên tiến.
Vì con người
Khác với các tác phẩm nghệ thuật (như tượng, tranh, bản nhạc, tiểu
thuyết), nhằm miêu tả, biểu hiện, qua cốt truyện, nhân vật, tâm trạng..., những
sản phẩm lớn nhỏ kể trên có nội dung phục vụ đời sống và sản xuất một cách
trực tiếp, Cái đẹp nội dung của nó, giá Trị thẩm mỹ của nó, trước hết phải
xem xét ở mức độ tiện nghi, ở hiệu quả phục vụ tối đa nhu cầu của con
người. Hình thức của sản phẩm phải sáng chế theo chức năng phục vụ, cái
đẹp hình thức phải gắn liền với tính có ích của tiện nghi. Một bộ bàn ghế
chạm trổ, đánh bóng đẹp đẽ nhưng chưa dùng đã gãy, xộc xệch thì không thể
gọi là bộ bàn ghế đẹp. Những sản phẩn đó chỉ có thể khen là đẹp mã, vì vậy
tục ngữ có câu “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Thời cổ Hy Lạp, ông Xôcơrát cũng
đã từng nói nhiều về cái đẹp cần phải có ích “Chiếc khiên dù chạm trổ đẹp
nhưng không bền chắc, không che chở được cho người dũng sĩ, thì không
thể gọi là chiếc khiên đẹp”.
Từ đó ta có thể phân biệt cái đẹp chân chính và cái đẹp giả tạo. Một
căn nhà, một khu phố, phải làm cho con người sinh hoạt được thoải mái, tiện
lợi, có vệ sinh... rồi mới nói đến yêu cầu về mỹ thuật trang trí. Do đó, cái đẹp
của thiên nhiên thứ hai cũng là cái đẹp hài hòa, giữa nội dung và hình thức.
Nói đến nội dung phục vụ con người, cũng cần nhấn mạnh yếu tố dân
chủ của những công trình và sản phẩm. Tùy theo khuynh hướng của tầng lớp
thống trị của mỗi chế độ xã hội, có những công trình và sản phẩm được tạo ra
phục vụ một số ít, thậm chí cho một con người, khác với những cái nhằm
phục vụ đông đảo quần chúng. Người ta vẫn so sánh những Kim Tự tháp ở Ai
Cập - nhà mồ của các Pharaông, với những ngôi đền ở Acrôpôn Hy Lạp -
phục vụ đông đảo quần chúng thành Aten. Đó là kiến trúc phản ánh chế độ
độc tài ở Ai Cập cổ và chế độ dân chủ nô lệ Hy Lạp cổ.
Tìm “kiểu” cho dân tộc
Ngoài tính chất phục vụ, tính dân chủ, những công trình và sản phẩm
còn mang tính chất dân tộc, mang tính truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Một
công tình kiến trúc, một đồ dùng, giá trị thẩm mỹ còn thể hiện cái “hồn dân
tộc” trong đó:
Ôi mấy trăm năm người thợ khéo,
Dựng chùa đúc tượng một bên sông,
Bàn tay khắc nổi hồn dân tộc,
Những mái vờn cong, những dáng rồng
Trong một cuộc trưng bày những sản phẩm mỹ nghệ do trường Mỹ
thuật Công nghiệp sản xuất, Hồ Chủ tịch đã đến xem và cầm một chiếc chén
uống trà, nói:
- Đây này, ta chỉ có cái chén mà không có cái tách. Cái chén không có
cái tai. Các cụ uống trà mời nhau thì bưng cái chén bằng hai tay, chứ không
xách cái tai mà giơ ra mời. Có uống cũng nâng chén lên hai tay xoa xoa rồi
mời uống, mà uống rất nóng.
...Không những thế, nó còn tiện lợi. Chén không có cái tai, khi xếp
chồng lại rất gọn, dễ xếp vì không vướng cái tai, lại dễ rửa sạch, vệ sinh, vì
cái bẩn thường cáu lại ở tai tách.
Bác khen những bộ bàn ghế làm bằng tre trúc, vì đó là sản phẩm phổ
biến ở nước ta, nhẹ nhàng, rẻ tiền và đẹp, lại ngồi không nóng, hợp với khí
hậu nước ta.
Bác nói về một vài mẫu đồ mỹ nghệ nước ngoài chạm trổ tinh vi: “Đúng
là khéo, khéo thật, nhưng không đẹp. Ở đây người ta bị vướng cái khéo của
hàng nghìn năm. Tham quá, rườm rà quá nên nó khéo nhưng không đẹp. Ta
phải nhìn cho đúng, học tập cái khéo của người ta, nhưng cái gì chưa tốt thì
phải nhận ra để làm của ta cho tốt, đừng có tự ti... Phải tìm hiểu phong tục,
tập quán, cách dùng của ta mà ra kiểu, đừng bắt bà con dùng cái của người
khác... Đấy là dân tộc đấy”.
Đúng như Bác Hồ đã nói, trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật làm đồ
dùng và công cụ, tính dân tộc thể hiện trước hết ở chỗ phải ánh đúng “phong
tục, tập quán, cách dùng” của dân tộc và điều kiện thiên nhiên, khí hậu,
nguyên liệu... của đất nước mình. Những yếu tố đó kết hợp hài hòa với nhịp
phát triển, với nhu cầu của đời sống hiện đại, để đạt tới tính chất dân tộc -
hiện đại. Vậy tính dân tộc - hiện đại trước hết cũng là vấn đề nội dung: nhu
cầu, tập quán, tâm lý, tình cảm.
Dân tộc ta vốn có một truyền thống văn hóa lâu đời, một nền văn minh
sớm phát triển. Điều đó được chứng minh bằng những hiện vật của nền văn
hóa vật chất. Từ mảnh tước núi Đọ, chiếc trống đồng Ngọc Lũ, mũi tên đồng
cổ Loa, đồ gốm men ngọc thời Lý, “Tứ đại khí” thời Lý - Trần, nghề dệt lụa
thêu hoa, nghề kim hoàn truyền thống ở khắp nơi từ Thăng Long đến Gia
Định, cho đến những hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam dự các hội chợ quốc
tế hiện nay, dân tộc ta xứng đáng là “một dân tộc có bàn tay vàng” như người
nước ngoài khen ngợi. Lịch sử ngàn năm của đất nước đã rèn đúc nên
những tài năng sáng tạo nhiều ngành nghề, ở nhiều nơi:
Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng
Thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã
(Ngạn ngữ Hà Nội)
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gởi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông...
(tố Hữu)
Miền đất mới hơn, đồng bằng sông Cửu Long, cũng là nơi tụ hội của
những tài năng đã từng nổi tiếng lâu đời về các nghề thủ công - mỹ nghệ: lụa
đẹp Phước An (Biên Hòa), nghề dệt lĩnh, sa ở Tân Hiệp, Tân Đức (Tiền
Giang), nghề làm vòng xuyến, hộp trầu, thìa dĩa... bằng đồi mồi ở Phú Quốc...
Một vùng sông nước kênh rạch đòi hỏi phát triển mạnh nghề đóng thuyền. Từ
thế kỷ trước, Cái Bè (Tiền Giang) đã nổi tiếng về nghề đóng thuyền, có hàng
chục loại ghe thuyền ở miền lục tỉnh, ghe hàng bồ, ghe bản lồng, ghe dàn,
ghe cui, ghe lườn...
Mấy chục năm dưới chế độ phong kiến và thuộc địa, dưới sự tác động
của văn hóa ngoại lai; thiên nhiên thứ hai - một bộ phận của nghệ thuật kiến
trúc, trang trí, đồ dùng, ở thành thị và nông thôn đã chịu ảnh hưởng không ít
những yếu tố tiêu cực. Đó là những yếu tố phong kiến thực dân lạc hậu cũ kỹ,
lai căng, vẫn còn tiếp tục tồn tại trong rất nhiều mặt hàng, ngấm sâu vào thị
hiếu người sản xuất và người tiêu dùng.
Trong khi đấu tranh để cải tạo thị hiếu sai lệch về âm nhạc, sân khấu và
văn học, không nên quên trận địa mỹ thuật đời sống, quên môi trường thiên
nhiên thứ hai về phương diện thị giác.
Ngôn ngữ của đồ dùng
Trong môi trường sống nhân tạo, hàng ngày chúng ta nhìn ngắm vẻ
đẹp của những kiến trúc nhà cửa, đền đài, của những đồ dùng và tiện nghi,
nảy sinh những cảm xúc, không chỉ là tự hào và ngưỡng mộ về sức mạnh và
tài năng của con người để chế tác những sản phẩm đó mà còn ưa thích vẻ
đẹp hấp dẫn kỳ diệu nhờ hình thức của chúng. Đó là sự hấp dẫn nhờ có ngôn
ngữ riêng các loại hình này.
Trước hết, ta hãy nhìn bao quát cả hình dáng và đường nét của chúng.
Kim tự tháp đồ sộ là thế, mà chỉ có một dáng hình tam giác, mang tính hình
học khắc nghiệt, dường như biểu lộ một thái độ, một quan niệm thật giản đơn
và bất di bất dịch, của kẻ độc tài vĩnh viễn nằm yên trong đó. Đi đến đâu ta
cũng trông thấy hình tháp nhọn chọc trời, kiểu các nhà thờ gô-tích, như dáng
của những cây tùng bách ở xứ lạnh, Đi về phía Đông Nam Á, là những mái
nhà vờn cong như dáng của những cây có tầu lá cong, về Tây Nguyên ta gặp
những nhà rông mái dốc thẳng vươn cao như vách núi... Trong thế giới đồ
dùng và phương tiện, lịch sử cải tiến kỹ thuật và cách tân nghệ thuật đã hiện
ngay trên sự đổi thay dáng hình và đường nét: chiếc máy bay cánh đôi nặng
nề buổi ban đầu và dáng máy bay phản lực hiện dại có hình thanh tú vươn
dài như thiên nga, hình kỳ dị như diều hâu vỗ cánh... Những chiếc bình cổ Hy
Lạp duyên dáng nổi tiếng, những chiếc trống đồng cổ Việt Nam dáng hình
vững chãi chắc nịch, những lọ hoa, ấm chén, những đồ gỗ, sứ, pha lê... mỗi
dáng vẻ là hình ảnh của một dân tộc, một địa phương với những nhu cầu,
phong thái sinh hoạt rất khác nhau. Dáng hình của thế giới đồ vật có vai trò
rất quan trọng. Nó góp phần tạo nên sự hài hòa của cả hệ thống đồ vật, hài
hòa với thiên nhiên thứ nhất, vì thế loại hình này còn được gọi là nghệ thuật
tạo dáng, “tạo dáng công nghiệp”. (Tất nhiên công việc sáng tạo ra nó không
chỉ là tạo dáng theo nghĩa đen).
Một yếu tố ngôn ngữ nữa của loại nghệ thuật này là tỷ lệ giữa các bộ
phận với nhau và giữa bộ phận với toàn thể. Tỷ lệ cũng góp phần tạo dáng và
tạo nhịp điệu không gian, gợi cảm xúc thẩm mỹ, như nhịp điệu thời gian trong
nghệ thuật âm nhạc và múa. Tỷ lệ lớn giữa chiều cao và cạnh đáy của một
cái tháp khiến nó thành hình nhọn vươn thẳng lên, khác với tỷ lệ ấy của một
cái lô cốt úp sát mặt đất. Tỷ lệ giữa mái đình miền xuôi, mái nhà rông ở miền
núi của ta, so với tường và cột, tạo nên cảm giác bề thế và ấm cúng. Tỷ lệ
của hàng cột đều đặn thẳng tắp với vòm mái nhẹ nhàng thanh thoát kiểu đền
cổ Hy Lạp gợi không khí vui tươi của những ngày hội tấp nập... Ta quan sát
thế giới của kiến trúc và đồ dùng thấy biết bao sự biến hóa của tỷ lệ, từ chỗ
thô thiển lủng củng đến chỗ hài hòa, và không phải ngẫu nhiên mà từ thời cổ
Hy Lạp người ta đã khám phá ra khái niệm “tỷ lệ vàng” để làm chuẩn cho tất
cả các sáng tác tạo hình muốn đạt tới sự hài hòa. Tỷ lệ giữa các hình khối,
giữa những hàng cột, mảng tường, hoa văn trang trí chìm nổi của các tòa
kiến trúc đã tạo nên một nhịp điệu hài hòa, khiến người ta gọi những tòa kiến
trúc là những bản nhạc câm lặng, V. Huygô gọi Nhà thờ Đức Bà Pari là một
“bản nhạc giao hưởng bằng đá.”
Trên các công trình kiến trúc và đồ dùng là hệ thống những hình trang
trí: một loại tín hiệu ngôn ngữ khác. Từ khi người nguyên thủy bắt đầu vạch
những đường ngang dọc trên những đồ đá, đồ đất nung, cho đến khi có
những hình vẽ, khắc, chạm, thêu, tinh vi đẹp đẽ trong các tòa nhà, đồ gỗ,
chén bát, vải vóc và các đồ mỹ nghệ ngày nay. Những họa tiết được lặp đi lặp
lại đều đặn (gọi là hoa văn) thể hiện rõ nét trạng thái tâm hồn, lối sống của
con người trong một hoàn cảnh, một thời đại nhất định. Hoa văn hình chim
lạc, hươu nai, võ sĩ, người chèo thuyền, giã gạo... vô cùng sinh động trên mặt
trống đồng phản ánh không khí sinh hoạt thịnh vượng và niềm tự hào của con
người bộ tộc thời Hùng Vương.
Chất liệu mà con người cố ý khai thác để chế tạo các công trình, sản
phẩm lớn nhỏ cũng là một thứ tín hiệu ngôn ngữ phản ánh sự sáng tạo. Đồ
dùng và tượng bằng đất mộc mạc, bằng đá cẩm thạch quý giá tinh khiết, bằng
đồng đen bền vững, bằng ngà, sừng, vàng, bạc... mỗi thứ chất liệu có tiếng
nói riêng, thích hợp với nội dung chức năng của mặt hàng. Chất liệu, từ khi
còn ở dạng nguyên liệu tự nhiên, trải qua sự chế tác để trở thành sản phẩm -
tác phẩm, là cả một quá trình chịu khuất phục từng bước dưới bàn tay chinh
phục của nghệ nhân. Chất liệu vừa là “bạn” vừa là “kẻ thù”, nó làm vẻ vang
cho người sáng tao, nhưng không ít trường hợp “kháng cự bướng bỉnh” dưới
lưỡi đục, lưỡi dao của người thợ. Chiến thắng chất liệu sẽ đưa lại niềm vui
cho con người sáng tạo tự do. Chất liệu cũng có khi là tiếng nói tố cáo những
hành vi vô nhân đạo trong việc chế tạo đồ dùng để phục vụ cho thú vui ích kỷ
và tàn bạo. Ta từng biết câu chuyện bọn phát xít Đức dùng tóc người do
chúng giết hại để dệt chăn, dệt thảm (!)
Những mớ tóc vàng tươi đóng bó
Dệt thành chăn, rợn bóng oan hồn.
(Tố Hữu)
Câu chuyện tình báo “Chiếc khuy đồng” của tác giả Ôvalốp cũng miêu
tả một chiếc chao đèn kỳ lạ trong nhà một tên sĩ quan phát xít Đức làm bằng
da người. Trong nhà một tên ác ôn Mỹ ngụy, người ta thấy treo cả xâu vành
tai người - tai của những người cộng sản và đồng bào bị chúng sát hại - để
làm kỷ niệm! Người nguyên thủy lấy nanh vuốt của thú dữ bị giết đeo vào
người để trang sức với niềm tự hào về con người, còn bọn người ác ôn hiện
đại này đã lấy tóc, tai và da người làm đồ trang trí, chúng đã tự biến mình
thành loài thú.
“Didai” (Design) là gì?
Trong tất cả những việc làm để tạo ra môi trường thiên nhiên thứ hai,
quan trọng nhất là việc đưa quy luật của cái đẹp vào quá trình sản xuất.
Những đồ dùng, công cụ, tiện nghi đẹp đều từ trong quá trình này mà có
được. Nhưng phải chờ đến lúc nền công nghiệp thực sự phát triển, cái đẹp
trở thành một nhu cầu không thể thiếu được của sản phẩm, vật phẩm, thì việc
nghiên cứu, truyền bá cách làm đẹp sản phẩm mới trở thành một ngành, một
tổ chức. Từ thế kỷ XIX, bắt đầu có những nhà nghiên cứu cho ra những tác
phẩm về mỹ thuật công nghiệp. Các hội, các trường, viện nghiên cứu về mỹ
thuật công nghiệp cũng lần lượt ra đời ở các nước công nghiệp phát triển.
Cho đến giữa thế kỷ này, đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế của mỹ thuật
công nghiệp, hội ICSID ra đời. Ngành mỹ thuật công nghiệp có tên gọi quốc tế
là “thiết kế công nghiệp”, gọi tắt là ngành “đidai”. Trường mỹ thuật công
nghiệp ở nước ta, đã có lịch sử hơn ba mươi năm, đã đào tạo các thế hệ
những nhà mỹ thuật công nghiệp, đóng góp quan trọng vào việc thẩm mỹ hóa
sản xuất và đời sống. Sự xuất hiện của “đidai” bắt nguồn từ nền công nghiệp
hiện đại, không phải đơn thuần vì đem cái đẹp đến cho sản xuất, cho đời
sống, mà vì do nhu cầu của bản thân quá trình tổ chức lao động, nhằm “thiết
lập một môi trường đồ vật hài hòa thỏa mãn một cách đầy đủ nhất các nhu
cầu vật chất và tinh thần của con người”.
Từ nay khi nói đến “đidai”, ta không quên trong đó có bao hàm ngành
thủ công, mỹ nghệ cổ truyền. Yêu cầu thẩm mỹ hóa hoạt động sản xuất bao
gồm ba mặt chính là thẩm mỹ hóa môi trường lao động, thẩm mỹ hóa sản
phẩm lao động, thẩm mỹ hóa bản thân người lao động.
Việc làm đẹp môi trường lao động là tạo ra một khung cảnh hài hòa,
nhằm tạo ra không khí làm việc thuận tiện, thoải mái nhất cho người lao động.
Đó là đối tượng nghiên cứu của ngành “đidai” kết hợp với ngành lao động học
(ergonomie). Từ những phương tiện lao động (hình dáng, kích thước, sự sắp
đặt các máy móc, dụng cụ, vật liệu) đến những điều kiện lao động (việc bảo
đảm tư thế đứng ngồi, động tác thoải mái, đảm bảo việc bảo vệ lao động),
đến toàn bộ không gian (gồm không khí, ánh sáng, màu sắc, âm thanh).
Việc chuẩn bị tốt những phương tiện lao động bao gồm những công
việc chế tạo những cỗ máy, những công cụ cầm tay, chuẩn bị nơi đặt máy...
cho vừa với tầm vóc, sức khỏe trung bình của người sản xuất, đảm bảo tối đa
sự thoải mái, nhẹ nhàng trong khi lao động. Việc nhập các loại máy móc,
công cụ chuyên dùng cho người nước ngoài cũng không tránh khỏi tình trạng
mất cân xứng, hài hòa giữa con người và phương tiện lao động của người
trong nước, về những điều kiện lao động, trước hết cần chú ý vệ sinh công
nghiệp, về tổ chức bảo hộ lao động... Dù khó khăn đến đâu cũng không thể
coi thường mặt vệ sinh an toàn, vì đó chính là quan điểm nhân đạo đối với
con người lao động, vốn quý nhất trong mọi thứ vốn. Ông cha ta cũng nhắc
nhở nhiều về điều này: Nhà sạch ở mát, bát sạch ngon cơm; đói cho sạch,
rách cho thơm...
Tạo ra “bầu không khí ánh sáng, màu sắc” và “bầu không khí âm thanh”
- cách nói của các nhà thẩm mỹ công nghiệp - là một yêu cầu cấp bách trong
tổ chức môi trường. Trước tiên là ánh sáng, cần làm cho nơi lao động có độ
sáng điều hòa. Độ sáng ảnh hưởng đến năng suất và sức khỏe. Nếu đọc
sách, làm việc với những chi tiết máy tinh vi, lại không đủ độ ánh sáng trung
bình 30 lux thì thị giác và trí nhớ giảm sút rõ rệt. Màu sắc có vai trò quan trọng
đối với đời sống và tình cảm nói chung, đối với người sản xuất nói riêng. Cảm
thụ màu sắc là một trong những biểu hiện đầu tiên về cảm giác thẩm mỹ của
con người. Một em bé còn nằm trong nôi đã biết nô cười với quả bóng nhựa,
con búp bê bằng len có màu sắc vui mắt. Giáo dục thẩm mỹ đối với trẻ em, đi
đôi với việc dạy vẽ, cần tiến hành việc giáo đục đặc biệt về màu sắc. Từ thế
kỷ trước, đại văn hào Gớt đã có công trình nghiên cứu về màu sắc, ông cho
rằng mỗi màu sắc gợi lên một trạng thái tâm hồn khác nhau: màu vàng gợi
nên niềm vui, màu xanh lam gợi lên nỗi buồn màu xanh lục gợi lên tâm trạng
yên tĩnh. Nhà nghiên cứu M. Đêribêri đã xác định được tính chất kích động,
làm tăng sức căng của bắp thịt lẫn nhịp thở, huyết áp của màu đỏ, tính chất
khích lệ hăng say của màu da cam, tính chất vui tươi, sảng khoái do màu
sáng nhất của quang phổ là màu vàng gây nên, v.v... Do đó, thẩm mỹ công
nghiệp đang chú trọng đến màu sắc, những nơi nóng bức, những gian xưởng
xả ra nhiều nhiệt, người ta sơn tường và đồ dùng màu “lạnh” (xanh lá cây
nhạt, lơ nhạt). Ngược lại ở nơi “lạnh” nhiệt độ thấp thì sơn màu “nóng” (nâu
nhạt, vàng đất), cần chú ý cả độ sáng. Nơi chiếu sáng kém phải dùng màu
sáng, dùng màu trắng để tăng thêm độ sáng, đỡ làm mỏi mắt. Nói chung, với
công việc lao động chân tay và trí óc căng thẳng, dùng màu xanh dịu là thích
hợp nhất. Ngược lại, đối với loại máy móc dụng cụ cần đặc biệt chú ý như các
nút bấm, nút hãm, báo động nên dùng màu đỏ hay các màu chói. Người ta đã
thí nghiệm cho công nhân mang vác những hộp có khối lượng hoàn toàn
giống nhau, nhưng khi vác hộp sơn màu đen, công nhân thấy nặng hơn hộp
màu trắng. Trong một phân xưởng là ủi áo quần, nữ công nhân kêu nóng
bức, sau khi sơn tường và bàn ghế màu xanh dịu thì chị em thấy mát mẻ và
dễ chịu hẳn. Nhiều thí nghiệm thấy rằng chọn màu trang trí thích hợp cho
khung cảnh lao động, năng suất có thể tăng lên được 20%. Ngoài việc chú ý
trong nội thất, cần chú ý cả khung cảnh rộng bên ngoài, cần làm xanh tươi cả
khu vực lao động và nghỉ ngơi bằng cây xanh và công viên. Công việc thẩm
mỹ hóa như trên phải nhằm cả hai mục đích vì sản xuất và vì con người.
Nhưng có một số doanh nghiệp, sự chú ý này chỉ nhằm chạy theo lợi nhuận,
chỉ xem là phương tiện, dễ làm khó bỏ, hoặc có khi làm ngược lại, làm hại
đến cả năng suất lao động. Người ta có nêu một số chủ xưởng nọ ở Anh vì
sợ tường bị dây bẩn, đã cho sơn tường một màu đen xám, thế là gây ra cả
một bệnh dịch thần kinh cho công nhân.
Đi đôi với “bầu không khí ánh sáng, màu sắc”, cần tạo ra “bầu không
khí âm thanh” trong môi trường lao động. Âm thanh bao gồm tiếng ồn, tiếng
động, âm thanh không có tính nhạc, âm thanh có tính nhạc, và cả âm nhạc.
Âm thanh là một cơ cấu gồm độ cao thấp, độ mạnh, độ ồn, tiết tấu, nhịp điệu
và cả âm sắc nữa.
Điều đầu tiên nên nói là mức độ của tiếng ồn. Người ta thấy dễ chịu khi
được yên tĩnh, nhưng cũng dễ chịu khi làm việc trong âm thanh chỉ ở mức 30
đềxiben, hoặc nếu không thể tránh được, thì tiếng ồn của nhà máy cũng
không nên quá 80 đềxiben. Bản quy tắc trật tự của các thành phố hiện đại ghi
rõ các quy định “không được ồn ào, gây tiếng động lớn, không hò hét kêu la,
đùa nghịch, đập gõ, rú ga, bóp còi, thử phanh ô tô, chơi nhạc, hát ầm ĩ, mở to
máy thu thanh, phóng thanh”, nhất là về đêm và buổi trưa, về bảo vệ môi sinh
trong xã hội hiện nay, ngoài việc giữ gìn không khí trong sạch còn phải giữ
trong sạch cả “bầu không khí âm thanh” nữa. Bác sĩ RôbeCốc cho rằng loài
người ngày nay phải xua đuổi tiếng ồn như xưa kia người ta đã từng xua đuổi
bệnh dịch hạch vậy. Cơ quan y tế thế giới (OMS) cho biết dân số thế giới bị
nặng tai trong đó một nửa là do chịu đựng tiếng ồn. Tiếng ồn đã gây ra 11%
tai nạn ở Pháp, làm giảm năng suất lao động, thiệt hại tỷ đồng hàng năm ở
Anh, và ở Mỹ mỗi năm tiếng ồn đang thêm 1 đềxiben.
Tiếng ồn quá mức ai cũng thấy ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, gây đau
đầu, chóng mặt, rối loạn thần kinh, ảnh hưởng đến tim mạch, làm cho các
chất như vitamin B1 bị thải ra ngoài cơ thể. Người ta tưởng tiếng ồn chỉ đi vào
tai, nó còn tràn cả qua da, qua cơ, qua xương, qua khớp để ngấm vào cơ thể.
Người ta thí nghiệm thây rằng với 100 đềxiben, chuột sẽ phát điên mà ăn cả
con của nó.
Ở thành phố lớn như Sài Gòn, từ hai ba giờ sáng đến nửa đêm ở các
trục đường chính, bến xe, bến tàu... tiếng xe cộ thả ga rú máy inh tai nhức óc.
Các nhà hát và câu lạc bộ có khi cũng chõ loa ra đường mở nhạc quá lớn gây
ồn ào cả một đoạn đường phố. Có một số quán cà phê, có khi mở nhạc mạnh
tới trên 130 đềxiben (!). Đó không còn là âm nhạc mà chính là một thứ chất
độc bằng âm thanh. Thực tế ở những người thường nghe nhạc kích động,
khả năng thính giác đã suy giảm rõ rệt.
Yên tĩnh và trật tự là một nếp sinh hoạt rất hệ trọng, riêng về văn hóa
thẩm mỹ nó là nét hài hòa, là vẻ đẹp của thành phố và môi trường lao động,
nhưng việc này vẫn chưa được coi trọng đúng mức ở cả ba mặt: an ninh, y tế
và văn hóa. Cũng như màu sắc, âm thanh sử dụng đúng mức, nhất là âm
nhạc sẽ làm đẹp thêm, khỏe thêm tình cảm và tâm hồn của con người. Nhờ
biết khai thác tác dụng của âm nhạc, y học đã có âm nhạc trị liệu, chữa tâm
thần và các bệnh khác. Ngoài ra âm nhạc còn được sử dụng trong chăn nuôi,
săn bắt, trồng trọt...
Từ vai trò, tính chất của âm thanh và âm nhạc, ngành thẩm mỹ công
nghiệp đã nghiên cứu để tạo ra “bầu không khí âm thanh” cho môi trường lao
động. Ngoài việc làm giảm tiếng ồn bằng mọi cách, người ta còn bố trí một
chương trình âm nhạc để phục vụ sản xuất. Phêrô đã nghiên cứu và thấy
rằng các hợp âm chói tai và hợp âm êm tai, các gam trưởng và gam thứ,
thậm chí một vài nốt nhạc nào đó trong đoạn nhạc - như fa thăng chẳng hạn -
có tác dụng rất khác nhau đối với tâm trạng và động tác người lao động. Mỗi
ca làm việc, người công nhân có thể nghe từ hai đến ba lần âm nhạc. Đó là
điệu nhạc chào mừng, thúc dục khi bắt tay vào việc, nhằm gây tinh thần phấn
khởi, hăng hái. Đến lúc người công nhân bắt đầu mệt mỏi, sắp nghỉ giữa ca,
có thể mở điệu nhạc nhẹ, êm dịu để tinh thần được thư thái, tĩnh dưỡng trước
khi vào đợt làm việc mới. Cuối buổi làm việc nhạc hùng tráng, hành khúc lại
có thể nổi lên để cho người lao động vui tươi hào hứng ra về. Mỗi lần như vậy
chỉ sử dụng liều lượng nhạc thích hợp không quá số thời gian cần thiết
thường không quá nửa giờ), và chỉ dùng loại nhạc không chủ đề, không mang
nội dung cụ thể để khỏi thu hút sự chú ý của người lao động, gọi là “nhạc môi
trường”, tương tự những bài nhạc dùng trong thể thao. Qua thí nghiệm, thấy
rằng âm nhạc đã góp phần tăng năng suất lao động từ 5 đến 10% và tất nhiên
điều quan trọng hơn, là con người lao động được tăng cường hơn về sức
khỏe và phong phú hơn về tâm hồn.
Người lao động có thể chất và tinh thần hài hòa, đứng trong một môi
trường sản xuất được tổ chức hài hòa bởi màu sắc, ánh sáng, âm thanh,
công cụ, kiến trúc, cả sản phẩm lao động cũng đạt được phẩm chất hài hòa,
đó là cái đẹp của nền sản xuất mà chúng ta hằng mong ước và phấn đấu để
thực hiện.
Trong việc giáo dục con người mới có trình độ văn hóa - thẩm mỹ tiên
tiến và thị hiếu trong sáng, lành mạnh, việc chăm lo cải tạo và xây dựng môi
trường thiên nhiên thứ hai là công việc hết sức quan trọng. Vì con người mới,
nhất là thế hệ trẻ, hàng ngày đang sống, đang được nuôi dưỡng, học hành
giữa môi trường này, đặc biệt là ở thành thị. Làm cho mỗi xóm thôn, nhà máy,
cơ quan, trường học, đường phố, công viên, câu lạc bộ... làm cho mỗi gia
đình, từ một cấu trúc lớn đến một vật dụng nhỏ trở thành những cái đẹp, cái
hài hòa, theo quan niệm tiên tiến, dân tộc, hiện đại, là cả một sự nghiệp phấn
đấu hết sức lớn lao, gian khổ, kiên trì, nhưng cũng thật vẻ vang.
CÁC NGHỆ THUẬT LƯỠNG TÍNH
Nhóm các nghệ thuật ứng dụng: Kiến trúc, mỹ thuật ứng dụng, trang trí,
hoa văn, ảnh nghệ thuật
1. Khái niệm "ứng dụng” (còn được gọi là thực hành; từ chữ appiiqué,
tiếng Pháp, có nghĩa là thực hành, ứng dụng). Đây có nghĩa là đưa những
phương thức và phương tiện thẩm mỹ vào thực tế đời sống. Khái niệm thực
hành, ứng dụng ở đây liên quan với vấn đề tính lợi ích như một khái niệm mỹ
học. Cái đẹp và cái ích dụng là hai khái niệm vừa đối lập vừa thống nhất, tùy
cách hiểu khái niệm ích dụng theo nghĩa hẹp (có ích về nhu cầu vật chất, nhu
cầu lý tính) hoặc theo nghĩa rộng (ngoài các nhu cầu trên, còn có nhu cầu về
đời sống tâm hồn, tình cảm). Cái đẹp về hình thức kết hợp với cái ích dụng
vật chất - lý tính, sản sinh ra các nghệ thuật ứng dụng, trong đó có cả văn học
ứng dụng.
- Đặc điểm chung: Trong hai tính năng phục vụ lợi ích và thẩm mỹ, thì
tính năng phục vụ có ý nghĩa nội dung, mang tính mục đích, tính năng thẩm
mỹ mang ý nghĩa hình thức, mang tính phương tiện, do đó cái thứ nhất là
quyết định, chi phối cái thứ hai. Một thí dụ đơn giản, cái nhà trước hết để ở,
cái chén trước hết để ăn cơm, còn đẹp như thế nào là nhu cầu đi sau. Con
người sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, mỗi con người "là một nghệ sĩ".
Con người tạo nên thế giới đẹp nhân tạo, hay gọi là "thiên nhiên thứ hai".
Nhưng để cho phạm trù nghệ thuật có một ý nghĩa hạn định, không mở rộng
đến vô tận, xem nghệ thuật và mọi công việc, mọi sản phẩm lao động thô sơ
đồng nghĩa với nhau, cần quan niệm rằng sản phẩm lao động đạt đến trình độ
thẩm mỹ cao mới được coi là nghệ thuật ứng dụng: một cái nhà đẹp mới là
sản phẩm của nghệ thuật kiến trúc, một cái chén đẹp mới là sản phẩm của
mỹ thuật ứng dụng. Nghệ thuật ứng dụng lệ thuộc rất nhiều vào sự phát triển
kinh tế, vào mức sống, và trực tiếp là trình độ kỹ thuật.
- Đặc điểm ngôn ngữ: cũng tương tự như mỹ thuật - nghệ thuật, kiến
trúc và mỹ thuật - ứng dụng tác động, gợi ý nghĩa bằng đặc tính chất liệu của
nó: từ đất, đá, gỗ, tranh, tre, nứa lá, đất nung, gốm, gốm men, sứ, đến pha lê,
vàng, bạc, ngọc, ngà, sừng, xà cừ... Mỗi chất liệu đều có nội dung ý nghĩa
hay tính chất riêng: giản dị mộc mạc hay sang trọng cao nhã, sự vững chãi
lâu bền hay vẻ mềm mại yếu ớt, sự rắn rỏi cương nghị hay tính chất lãng
mạn, hồn nhiên... Giữa kiến trúc và mỹ thuật thực dụng có các yếu tố ngôn
ngữ chung, vì vậy, người ta gọi các nghệ thuật này có kiến trúc tính: đó là tính
tạo hình kiểu kiến trúc, bao gồm các yếu tố tỷ lệ, nhịp điệu và kiểu dáng, tỷ lệ
giữa chiều cao và chiều ngang, bộ phận và toàn thể, nhịp mau hay thưa,
khoan thai hay gấp gáp... Ngôn ngữ kiến trúc và mỹ thuật ứng dụng chịu ảnh
hưởng sâu sắc của các nhân tố đời sống vật chất, thiên nhiên, đời sống tinh
thần của mỗi dân tộc, nó thể hiện rất rõ bản sắc dân tộc và sắc thái địa
phương. Trên thế giới có nhiều trường phái khác nhau, bổ sung, kế thừa,
cạnh tranh, thay thế nhau trong lịch sử (như kiến trúc rômăng, gôtích, kiến
trúc Phật giáo và Bàlamôn giáo ở phương Tây và phương Đông).
- Thể loại: Kiến trúc thường được phân loại theo chức năng của công
trình: dân dụng, tôn giáo hoặc theo phương thức chế tác (đối với mỹ thuật
ứng dụng: thủ công, mỹ nghê, mỹ thuật công nghiệp), theo chất liệu (gỗ, sơn
mài, nhôm, sắt tráng men, nhựa, mây tre...).
Trang trí kiến trúc, trang trí nội thất và tạo dáng, tạo mẫu mã hàng hóa
nói chung, thuộc về mỹ thuật công nghiệp, có tên gọi quốc tế hiện nay là
ngành DESIGN. Trong xã hội hiện đại, Design ngày càng có vai trò quan
trọng trong việc làm đẹp thế giới đồ vật, làm đẹp môi trường sống của con
người.
Nói chung, nội dung của các loại nghệ thuật một tính năng thiên về
phản ánh mối quan hệ giữa người và người, đặc biệt là quan hệ tình cảm, nó
phân biệt với các loại nghệ thuật hai tính năng thiên về việc chứng minh, biểu
dương khả năng chinh phục, chế ngự của con người đối với những lực lượng
thiên nhiên, những quy luật của thiên nhiên. Với nội dung thứ hai này, kiến
trúc và xiếc là tiêu biểu nhất.
Phần 3. MỸ HỌC VÀ CON NGƯỜI
Bài 9. CON NGƯỜI ĐẸP LỐI SỐNG ĐẸP
Đẹp như tiên
“Đẹp như tiên” là lời khen cao nhất, nhưng nào ai biết tiên là gì, và tiên
đẹp như thế nào? Thế mà bao đời nay trong tưởng tượng của người quê ta,
tiên là đẹp nhất.
Ở các nước, đẹp nhất cũng là các vị thần, như nữ thần Damunna của
Ấn Độ, nữ thần Idanami của Nhật Bản, hay nữ thần Aphơrôđíttơ, còn gọi là
Vệ nữ, ở Hy Lạp. Khi vẽ tranh, tạc tượng người đẹp cũng thường có tranh
tượng của các thần. Những bức tranh vẽ nữ thần Idanami tuyệt đẹp, những
tượng Damunna hay tượng Vệ nữ, tượng nam thần Apôlông... đều là hình
ảnh những con người đẹp lý tưởng không thể có trong thế giới trần tục. Đó là
cái đẹp để ngưỡng mộ, con người chẳng bao giờ với tới được.
Còn con người đẹp ở trần gian, nếu có chăng theo quan niệm xưa thì
một là phải nhờ trời sinh, hai là phải thuộc về giới “con trời” - phải là dòng dõi
quí tộc. Ngọc Hoàng thượng đế tạo ra muôn vật, đã gạn lấy chất trong suốt,
tinh túy nhất để nặn ra con người (Truyện thần thoại Việt Nam). Còn Chúa
trời thì lấy bụi để nặn thành người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thành người đàn
ông đầu tiên là Ađam, rồi lấy xương sườn Ađam nặn thành hình là Êva, người
đàn bà đầu tiên (Kinh Thánh). Những con người ấy sống vô cùng vất vả, chỉ
khi nào không còn vất vả nữa mới thành người đẹp, nghĩa là phải nhập vào
hàng thượng lưu, quyền quý. Chàng Thạch Sanh trở thành phò mã, cô Tấm
phải trở thành Hoàng hậu. Muốn trút bỏ cái lốt lam lũ của mình thì phải cầu
viện thần linh: phải có lọ nước thần thì mới trắng đẹp như tiên, phải có lọ
quần áo của Bụt hóa phép cho thì mới thành người đẹp để di xem hội...
Để tìm một cách nghĩ khác về nguồn gốc con người đẹp, không phải do
ý muốn thần linh, thật không phải dễ. Trong xã hội cũ, do cuộc sống khổ cực
và bế tắc, con người muốn trốn vào mơ ước hoang đường. Quan trọng hơn là
do sự áp bức, nô dịch của tầng lớp thống trị, chúng lừa phỉnh quần chúng và
giành hưởng thụ mọi cái đẹp cho riêng mình. Vì vậy, con người, nhất là người
lao động nghèo khổ, phải tự mình đấu tranh để đem lại chân giá trị cho mình,
từ những chân dung tự họa của chính mình, với vẻ đẹp cũng do bản thân
mình làm nên.
Người ta là hoa đất
Dân tộc nào cũng có một ngày hội cổ truyền lớn nhất trong năm. Đó là
ngày hội của những ngày hội, ngày vui của những ngày vui. Tết nguyên đán
Việt Nam là một ngày như vậy. Chữ “hội” phát huy hết ý nghĩa từ nguyên của
nó khi mọi niềm tin yêu và hy vọng, mọi nguồn vui, vẻ đẹp của con người và
của thiên nhiên được tụ họp về đây. Vì vậy mà có ngày hội của trăm hoa. Đến
đây, không những ta được thưởng thức bao màu sắc, hương thơm kỳ thú,
thanh khiết của hoa đẹp mọi miền, mà còn được gặp gỡ vẻ đẹp, lắng nghe
âm thanh của con người. Hoa và người. Trong một gian hàng hoa, có treo
tranh làng Hồ, tranh hàng Trống. Một bức tranh vốn là tranh thờ, nhưng rất
gần thế tục, có những người đẹp cổ xưa: bức tranh Bà chúa thượng ngàn
(tức bà chúa rừng). Bà chúa xinh đẹp hiền từ tươi vui ngồi giữa, có mười hai
thị nữ hầu hai bên, xung quanh là những giống thú gần gũi ở trên ngàn dưới
suối. Mười hai cô gái ấy tức là hiện thân của mười hai loài hoa quý trên rừng.
Nhìn những hoa người trong tranh, nhìn người và hoa trong ngày hội, ai cũng
có thể liên tưởng đến cái đẹp, cái cao quý của con người. Trước nay con
người tự ví mình với hoa, lấy người nói về hoa và lấy hoa nói về người, chưa
có câu nào hay hơn câu tục ngữ này: Người ta là hoa đất. Trong câu đó có đủ
cái mộc mạc dân dã và cái uyên thâm triết học.
Hãy nói đôi điều về hoa đất, về cái đẹp của con người, trung tâm của
mọi cái đẹp của thế giới. Trước nay, trong văn chương, hoa chỉ để nói về
người phụ nữ là chủ yếu (Vẻ phù dung một đóa khoe tươi, rộng thương cỏ
nội, hoa hèn), nhưng ở câu tục ngữ trên, hoa để chỉ con người nói chung.
Trước đây “người đẹp” - giai nhân, có môt nghĩa khác, đối lập với nam giới,
với tài tử. Nhưng nay, từ câu Người ta là hoa của đất, ta cũng tìm cách mở
rộng luôn khái niệm người đẹp.
Vào thời người ta làm ra những pho tượng tuyệt tác nói về vẻ đẹp của
của những vị thần người (như Atêna, Apôlông, và những tượng thần Vệ nữ)
ở Hy Lạp, có một nhà triết học muốn giải thích về sự hình thành nên con
người cân đối hài hòa bằng một quan niệm tiến hóa luận mang màu sắc duy
vật, đó là Empêđôcơlơ. Ông cho rằng trước khi có con người thân hình đẹp
đẽ cân xứng như hiện nay, con người đã phải trải qua bao chặng đường để
cho những bộ phận cơ thể rời rạc, méo mó được hoàn chỉnh dần. Cái đầu,
cái mình, cặp mắt, cánh tay đi lang thang và lắp ghép dần thành những hình
hài kỳ quái, đến gian đoạn sau cùng mới thành người như ngày nay. Sự giải
thích đó tuy ngây thơ nhưng nói lên một cách nhìn duy vật về sự phát triển
của con người, từ chỗ đơn giản thấp kém đến chỗ hoàn thiện dần, ở trình độ
ngày một cao hơn. Cái đẹp cũng đã phát sinh và phát triển như vậy.
Trước mắt người học mở đầu những bài triết học mácxít, là bộ tranh
của nhà xuất bản giáo khoa Mác-Lênin, bộ tranh liên hoàn về quá trình
chuyển biến từ vượn lên người. Làm gì có cái đẹp của những con vượn
người cách đây mấy triệu năm, với thân hình lông lá và đôi tay dài tới gối.
Cũng chưa thể nói cái đẹp của những người vượn của bảy tám chục vạn năm
trước, khi họ chưa biết chế tác công cụ và còn ăn thịt sống... Phải để cho
người tiền sử gian khổ rèn luyện hàng vạn, hàng vạn năm trong lao động mới
dần dần hình thành được con người, giống như thần Apôlông, thân hình khỏe
đẹp, vai mang cung bạc, ngồi trên xe tứ mã phóng từ đại dương lên mặt trời...
Con người đã tự vẽ lên chân dung của mình bằng lao động, và cũng bằng lao
động và đấu tranh, con người không ngừng hoàn thiện bức tranh đó. Ănghen
đã viết: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt của loài
người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải
nói: lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người"! Dù con người dành
cái đẹp cho thần tiên, nhưng những hình ảnh “thần tiên” ấy chẳng qua cũng
chỉ là hình ảnh mô phỏng của con người trần gian mà thôi. Tượng Apôlông là
hình ảnh một người võ sĩ chiến thắng trên các đấu trường của xứ Aten
thượng võ và khuôn mặt dịu hiền của tượng Phật nghìn mắt nghìn tay chỉ là
hình ảnh đã nhìn thấy đâu đó trong những ngày hội Lim, trong những tín nữ đi
lễ chùa ở nông thôn Bắc Bộ. Từ cơ thể đến dung nhan, từ vẻ đẹp thể chất
đến vẻ đẹp tâm hồn của con người đều là do thành quả của sự rèn luyện lâu
dài qua lao động và đấu tranh của nhiều thế hệ, như Ănghen đã viết trong
Biện chứng của tự nhiên:
“Bàn tay không những là khí quan của lao động mà cũng là sản phẩm
của lao động. Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng với những động tác luôn
luôn mới nhờ sự phát triển đặc biệt đã đạt được như thế đó của bắp thịt, của
gân, và trải qua những thời gian lâu dài hơn của chính xương cốt, di truyền
lại, và sau hết nhờ việc áp dụng nhiều lần và liên tục sự tinh luyện di truyền
đó vào những động tác mới, ngày càng phức tạp hơn, cho nên bàn tay con
người mới đạt được trình độ hoàn thiện rất cao đó, có thể sáng tạo ra cái
tuyệt diệu trong những bức tranh của Raphaen, những pho tượng của
Thôvanxen (1), những điệu nhạc của Paganini(2)”.
Như thế con người tự vẽ lên dung nhan của mình, từ những con người
đẹp đầu tiên của thời đồ đá đến những con người của thời đại đồ đồng, đồ
sắt, máy hơi nước... và thời đại của tự động hóa, của du hành vũ trụ. Trong
quá trình hàng vạn năm đó, trên bức tranh hoành tráng liên hoàn, con người
đã tự vẽ mình, lúc thì hiện thân như một Sơn Tinh, Mỵ nương, nàng Tiên
Dung, lúc thì như nàng Kiều, Từ Hải, như Thiếu nữ bên hoa huệ, chị Dậu làng
Đông Xá, cho đến ngày nay, chúng ta có hình ảnh đẹp của con người đang
xây dựng cuộc sống mới.
Họa sĩ với hai bức tranh thiếu nữ
Nếu bạn xem đôi mắt người nghệ sĩ là đại diện, nhìn thay cho đôi mắt
của người đời, thì ta thử đi vào những phòng tranh của họ để tìm xem họ đã
chọn chân dung người đẹp như thế nào.
Xin phép người họa sĩ thân yêu đã thành liệt sĩ - họa sĩ Tô Ngọc Vân,
để được xem đôi bức tranh của anh. Trước Cách mạng Tháng Tám, anh
chọn vẽ “người đẹp” theo nghĩa hẹp của từ này: Thiếu nữ bên hoa huệ
(1943), Hai thiếu phụ và em bé (1944), Thiếu nữ và hoa sen (1945). Đến nay,
những tranh sơn dầu ấy vẫn có giá trị. Nhưng chủ yếu ở đây chúng ta muốn
xem họa sĩ đã để cho ai, hạng người nào lọt vào mắt xanh của mình. Tất
nhiên đó không phải là người lao động, mà là những tiểu thư thành thị. Những
cô gái mới ấy cũng từng được ngự trị trong thơ mới và trong tiểu thuyết Tự
Lực văn đoàn. Nếu mượn một số câu thơ mới đặt cạnh những bức tranh kia
thì tưởng như cùng một tác giả, tự vẽ và tự đề thơ. Không thể nói rằng không
cần đến cái đẹp thướt tha kiều diễm, nhưng ở đây sự lựa chọn thiên về cái
đẹp thuần túy, được trao chuốt trong một cuộc sống phong lưu. Cùng thời với
họa sĩ không phải không có người đã phát hiện ra những con người đẹp hoàn
toàn khác, bắt nguồn từ cuộc sống lao động lành mạnh, như chị Dậu trong
tiểu thuyết của Ngô Tất tố. Đó là người phụ nữ có vẻ đẹp của những cô gái
cầu Lim, đình Cẩm, tâm hồn đẹp đẽ, tấm lòng kiên trinh, bất khuất. “Ngô Tất
Tố đã đưa ra, đã dám đưa ra (trong bối cảnh xã hội và nghệ thuật những năm
ba mươi - LV) một nhân vật đàn bà nông thôn khỏe khoắn lành mạnh như chị
Dậu. Tôi cho đó là một bằng chứng có giá trị mà Ngô Tất Tố đã góp được vào
viện bảo tàng con người Việt Nam” (Nguyễn Tuân - tựa Tắt đèn). Điều mà
nhà văn làm được thì mãi đến nhiều năm sau Cách mạng tháng Tám họa sĩ
của chúng ta mới làm được. Anh luôn luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh người đẹp
thân thuộc đó. Nên ngay những năm đầu sau cách mạng anh đưa họ vào
tranh đi tham gia kháng chiến, nhưng chỉ thay cho họ đôi dáng điệu bên
ngoài, và vẫn giữ gìn họ đầy trìu mến trong khung tranh, tức trong mắt xanh
của mình, chưa chịu nhường chỗ cho ai. Nhà văn cùng thế hệ với anh là Nam
Cao đã từng phê phán và tự phê phán cách nhìn đó trong truyện ngắn Đôi
mắt. Trong bức tranh Hà Nội vùng lên (1918), anh cho cô gái bên hoa huệ ấy
xõa tóc, uốn mình vung gươm bay lên trên nền trời thành phố đỏ rực ánh lửa,
và cũng những cô gái ấy, lại khỏa thân hiện lại trong tranh Chạy giặc trong
làng và Khi giặc đã qua (1949). Nhưng chỉ bốn năm sau, qua những ngày
đêm đi vào nông thôn, hành quân cùng người chiến sĩ vệ quốc, anh nhận ra
được những chân dung mới. Thế là anh vẽ hào hứng và xúc động những con
người mới đang chiến đấu và sản xuất. Tuy chỉ mới phác qua bằng ký họa,
nhưng biết bao trân trọng. Hai thanh niên nam nữ, tiêu biểu cho lớp trẻ ở
nông thôn, đứng cạnh nhau cùng đọc một trang sách dưới đèn dầu, nét mặt
họ nghiêm trang, trong sáng như tâm hồn họ (Đi học đêm, ký họa màu nước
năm 1954), và những khuôn mặt tương tự mỗi người một vẻ liên tiếp hiện lên
trang ký họa nóng hổi hơi thở của cuộc đời mới: Chị cán bộ, Nữ giáo viên dân
tộc Thái, Chiến sĩ hành quân qua suối... Điều quan trọng không phải là sự lựa
chọn đối tượng con người đẹp trong những người lao động, mà ở thái độ và
tình cảm đối tượng đó. Tô Ngọc Vân đã đến với cái đẹp mới, người đẹp mới,
dấn thân nồng nhiệt và oanh liệt hy sinh, thế là không phải chỉ đôi mắt, quan
điểm lý trí, mà còn với cả trái tim chiến sĩ - nghệ sĩ của mình.
Hình ảnh con người đẹp về vóc dáng và tâm hồn, dung nhan và hành
động, trong môi trường lao động và chiến đấu như Tô Ngọc Vân đã thể hiện,
đã được ghi lại trong hội họa và văn thơ của các thời đại. Tuy nhiên cái đẹp
không hẹp hòi đóng khung trong các môi trường đó, vì nó là giá trị có ý nghĩa
nhân bản nhất ở mọi thời đại, mọi hoàn cảnh sinh hoạt của con người.
Do đó, vẻ đẹp của “Thiếu nữ bên hoa hụê”, hay vẻ đẹp của một nàng
Tây Thi, một nàng Kiều khuê các, một nàng Bạch Tuyết trong huyền thoại,
một cô Tấm... vẫn còn mãi là vẻ đẹp lý tưởng trong ký ức của nhân loại.
Nêu lên những đề tài bổ sung và chuyển biến trong tác phẩm của Tô
Ngọc Vân chỉ cốt để khẳng định sự mở rộng nhãn quang của nghệ sĩ trước
sự phong phú thẩm mỹ của đời sống hiện thực.
Tòa thiên nhiên cao quý và con mắt tinh đời
“ Tất cả mọi cái đẹp trong con người đều phải đẹp, từ mặt mũi áo quần,
đến tâm hồn tư tưởng”. Một câu nói như vậy đối với ngày nay không có gì đặc
biệt, nhưng nó lại được văn hào nổi tiếng A. Sêkhôp viết ra cách đây hàng thế
kỷ, dưới thời Sa hoàng.
Về quan niệm, người ta thấy không có gì đáng phản đối ý kiến đó,
nhưng trên thực tế thường mỗi ngươi một vẻ, chỉ muốn thực hiện hay chỉ có
khả năng thực hiện được một vế nào đó của câu này. Nếu cần lập một mô
hình về con người đẹp, con người phát triển hài hòa ngay cả trong xã hội mới
của chúng ta, cũng không ngoài cái công thức khá đầy đủ, chặt chẽ đó. Vì
trước hết, không thể không cần dung nhan, cơ thể, trang phục, và đặc biệt
lưu ý hai nhân tố tinh thần: tâm hồn và tư tưởng.
Trong truyện cổ tích Lọ nước thần, khi chị vợ nhờ lọ nước thần mà trở
nên sắc nước hương trời, anh chồng lực điền say đắm, muốn ngồi nhà ngắm
vợ mà không được, vì sợ lỡ vụ cày, bèn vẽ hình vợ mang theo dựng bên bờ
ruộng để vừa cày vừa ngắm cho thỏa. Lại một chuyện nữa. Sau cuộc kỳ ngộ
và lưu luyến chia tay với Vân Tiên, Nguyệt Nga về nhà tưởng nhớ không
nguôi bèn lây giấy bút tưởng tượng vẽ một bức “tượng hình Vân Tiên”. Từ đó
dù lưu lạc đi đâu nàng cũng mang theo bức hình đó. Người con gái bình dân
thì không được ngồi trong buồng the để vẽ, mà phải.
Lên non bẻ lá họa hình
Họa cho thấy mặt kẻo tình nhớ thương
Nhưng cả ba trường hợp đều giống nhau: vẽ hình người yêu bằng tấm
lòng, bằng tưởng tượng.
Những câu chuyện trên là hư cấu, nhưng đều nói đến vai trò tình cảm,
ký ức của người vẽ chân dung. Mượn câu chuyện trên là để nói về điều này:
Ở con người, cái đẹp bên trong và bên ngoài thường là thống nhất, và cái đẹp
bên trong thường chi phối tất cả vẻ đẹp của con người. Vì vậy, anh thợ cày
và nàng Nguyệt Nga khi vẽ hình người thân yêu nhất của mình chắc không
câu nệ là phải giống hệt diện mạo bên ngoài.
Người ta vẫn giải thích cái đẹp thông qua cái hài hòa, và trước hết đó là
hài hòa giữa nội dung và hình thức. Ở con người đẹp, sự hài hòa này càng
đạt tới trình độ cao hơn. Trước nay, tuy có sự khác nhau, do những lý tưởng
thẩm mỹ, những thiên kiến xã hội khác nhau khi lựa chọn con người đẹp,
những người ta vẫn có yêu cầu giống nhau khi đánh giá con người đẹp, đó là
cái đẹp bao gồm cả hai mặt hình thức và nội dung. Cặp phạm trù này có thể
suy ra thành những cặp phạm trù khác nói về con người: thể chất và tinh
thần, nhận thức và hành động, lời nói và việc làm, đời công và đời tư, tư
tưởng và tình cảm, lý tính và cảm tính, trí tuệ và tâm hồn... Một trong hai vế
tùy theo sự biểu hiện, sẽ tạo ra tương quan nội dung và hình thức, hoặc cân
bằng hài hòa, hoặc không cân bằng, bất hài hòa; đẹp hay xấu từ đó mà ra.
Sự phát triển hài hòa giữa thể chất và tinh thần là ước mơ lâu đời của
con người. Khi tự vẽ chân dung của mình, con người đã phác họa xong nét
vẽ thứ nhất cách đây hàng chục vạn năm, nhưng nét vẽ sau cùng vẫn chưa
được hoàn thành, tuy mỗi thời đại đi qua là có thêm một nét vẽ mới để có thể
tiếp cận với nét sau cùng. Nghĩa là một cơ thể phát triển cân đối hài hòa, một
thể chất lành mạnh cường tráng, con người đã đạt được từ lâu. Nhưng sự
phát triển phong phú, hoàn thiện về mặt tinh thần thì cho đến nay, con người
vẫn còn phải cố gắng rất nhiều. Người Hy Lạp cổ đã có câu châm ngôn: “Một
linh hồn trong sáng trong một thân thể tráng kiện”. Người quê ta nói thiết thực
hơn về hạnh phúc khi có sức khỏe: “Ăn được, ngủ được là tiên". Chỉ có một
bộ phận tầng lớp thống trị thời trung cổ mới tìm cách hủy diệt nhu cầu thưởng
thức vẻ đẹp thân thể. Và một thế lực khác, thời hiện đại, lại tôn sùng “cái đẹp”
thể xác như một thứ tôn giáo. Biểu hiện ở cực thứ nhất là lối phục sức vùi lấp
cơ thể con người dưới những tầng vải vóc, khăn trùm đầu và mạng che mặt,
có nơi còn cấm không được lấy hình ảnh con người đưa vào các họa tiết
trang trí. Biểu hiện ở cực thứ hai là sự phô bày cơ thể trần trụi còn tệ hơn cả
thời tiền sử, vì con người tiền sử còn cố tìm một mảnh vỏ cây để che thân.
Sinh hoạt giao tế và nghệ thuật suy đồi của xã hội hiện đại, đã phát huy cao
độ xu hướng này. Ta thường nghe những vua Kiệt, Trụ thời cổ đại Trung
Quốc bắt hàng ngàn trai gái trần truồng nô giỡn, làm trò dâm loạn cho vua
xem. Hình ảnh này cũng diễn ra trong thời Lê - Trịnh ở nước ta, và được tái
diễn cuồng loạn trong các hang ổ ăn chơi trác táng của các thời kỳ sau này.
Ngược hẳn với xu hướng suy đồi đó, loài người chân chính luôn luôn
bảo vệ và ca ngợi vẻ đẹp thân thể, xem như thành quả cao quý nhất của con
người trong tự nhiên và là bông hoa đẹp nhất của các loài hoa. Những nghệ
sĩ nhân đạo chủ nghĩa của các thời đại đã giới thiệu vẻ đẹp này trong thuần
phong mỹ tục, trong thời trang, trong sinh hoạt văn hóa, thể thao và trong
nghệ thuật. Ngay trong thời kỳ cả xã hội còn bị đè nặng những giáo điều
phong kiến, Nguyễn Du thiên tài vẫn không ngần ngại miêu tả vẻ đẹp của
Kiều bằng ngôn ngữ tuyệt diệu:
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
Chữ “tòa” thường để tỏ thái độ trân trọng, là loại từ chỉ những sự vật có
cấu trúc hoàn mỹ: tòa lâu đài, tòa sen,... và tòa thiên nhiên! Ở đây Nguyễn Du
đã gặp gỡ và tri âm với những bậc thầy trên thế giới khi nói đến vẻ đẹp cơ thể
của con người.
Ai cũng biết pho tượng nổi tiếng “Vênuýt ở Miiô” hiện đang đặt ở bảo
tàng Luvơrơ (Pari), pho tượng gần như khỏa thân, bằng cẩm thạch, tạc hình
nữ thần Tình yêu và sắc đẹp Aphơrôđítơ. Biết bao câu chuyện kỳ thú và cảm
động xung quanh lai lịch và sức hấp dẫn của pho tượng này. Trong một
truyện ngắn nhan đề uốn thẳng, nhà văn Nga nổi tiếng Gơlép Uxpenxki nói về
một ông giáo khổ sống mòn rỉ ở một tỉnh lẻ nước Nga, khi đến Pari bất chợt
nhìn thấy pho tượng, toàn thân ông và tâm hồn, trí tuệ của ông bỗng nhiên
đổi mới, như có thêm sức mạnh. Vì cái đẹp hoàn mỹ của con người đã có
sức cảm hóa mạnh mẽ, đã “uốn thẳng” lại cả cuộc đời của ông.
Đó là chuyện hư cấu. Đây mới là chuyện thật:
Mùa xuân năm 1848, trước lúc qua đời, nhà thơ H.Hainơ nước Đức đã
gượng đi dạo một lần trên đường phố Pari. Ông đã đứng hồi lâu trước tượng
thần Vênuýt trong Bảo tàng Luvơrơ, như để đối thoại với người đẹp, với cái
đẹp. Trước khi vĩnh biệt cuộc sống, nhà thơ đã đến với bảo tàng nghệ thuật.
Đối với ông, từ biệt cuộc sống có nghĩa là từ biệt cái đẹp.
Vẻ đẹp của thân thể con người trong sự hài hòa tinh thần - thể chất,
vốn có sức hấp dẫn gợi cảm, nâng cao tâm hồn. Một người có thị hiếu lành
mạnh cao thượng sẽ nhìn ngắm thưởng ngoạn vẻ đẹp đó như ngắm một
bông hoa, một ánh trăng, một dòng suối đẹp... Trong lúc đó, lối sống thác
loạn, văn hoá thương mại, đồi trụy khai thác vẻ đẹp thiên nhiên của con
người để làm nhục con người.
Thị hiếu thẩm mỹ chân chính bao giờ cũng ưa chuộng cái đẹp bên
ngoài gắn bó với nội dung bên trong. Tượng Vênuýt ở Milô không phải chỉ có
vẻ đẹp bên ngoài. Nó là chân dung của thần Tình yêu và sắc đẹp, là vị thần
giàu lòng thương yêu, luôn đóng vai hòa giải những tranh chấp giữa các thần,
lấy tình thương để cảm hóa con người. Hình thức và nội dung ở mỗi con
người vẫn thường có sự thống nhất Một con người nếu có tâm hồn đẹp, dù
diện mạo hay thân thể không thật hấp dẫn, thì vẫn có những nét đẹp nào đó
biểu lộ ra bên ngoài. Và ngược lại, có người mới thoạt nhìn có nhiều hấp dẫn,
nhưng nhân cách thấp kém, thì cũng sẽ lộ ra những nét xấu, bất hài hòa trong
cử chỉ, và ngay cả trên nét mặt, ở khóe mắt và lời nói của họ. Các nhà văn
như L. Tônxtôi với nhân vật Hêlen (Chiến tranh và hòa bình), A. Đuyma với
nhân vật Mêlađi (Ba chàng ngự lâm pháo thủ) đã miêu tả những “người đẹp”
kiểu đó. Ở đây quả thật cái nết đánh chết cái đẹp. Trong khi đó cổ tích “Sọ
dừa”, “Lấy vợ cóc” của nhân dân ta lại muốn nhắc nhở con người về sự ngộ
nhận chê bai vội vàng khi mới gặp những hình thức xấu bên ngoài. Ông cha
ta có ý thức rõ rệt về điều này, đã dè dặt khi khen cái đẹp bên ngoài, và đã có
một từ khá hay để nói về cái đẹp bên trong được biểu lộ ra bên ngoài, tạo nên
sự hấp dẫn thẩm mỹ của con người, đó là “cái duyên”: Còn duyên kẻ đón
người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình; Hữu duyên thiên lý năng
tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng. Nhà mỹ học Nga
Sécmrisépxki đã nói về vai trò của nét mặt, đôi mắt, khóe mắt, trong sự thể
hiện vẻ đẹp bên trong của con người như sau: Bất cứ người có học thức
chân chính nào cũng cảm thấy rằng đời sống của trí tuệ và tâm hồn mới là
đời sống chân chính. Đời sống đó thể hiện trên nét mặt nhất là trong khóe
mắt, cho nên nét mặt tuy rất ít được nói đến trong các bài dân ca, nhưng lại
có ý nghĩa to lớn trong những khái niệm về sắc đẹp đang thịnh hành giữa
những người có học thức, và thường khi có người được ta cho là đẹp chỉ vì
họ có đôi mắt đẹp và truyền cảm”.
Ca dao ta cũng có câu rất hay về đôi mắt:
Trời xanh con mắt là gương
Người ghét ít ngó, người thương ngó hoài.
Con mắt phát tín hiệu bằng thứ ngôn ngữ yên lặng nhưng rất dễ hiểu, nó là
hiện thân của sự thống nhất của vẻ đẹp bên trong và bên ngoài của con
người.
Người ta không dễ gì nhận ra ngay một người đẹp... Tục ngữ khuyên
đừng vội “Xem mặt mà bắt hình dong”. Câu đó cũng có thể hiểu thêm một
nghĩa nữa là xem mặt không phải chỉ để xem mặt, là để bắt hình dong, để
hiểu con người. Dù chàng họ Mã xưng là Giám sinh, áo quần bảnh bao, mày
râu nhẵn nhụi, nhưng mới nhìn qua cách ăn nói, đi đứng, Kiều đã nhận xét:
Khác màu kẻ quý người thanh, Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn. Với Sở
Khanh, cũng hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng, nhưng nghe qua những
lời rỗng tuếch huyênh hoang của hắn, Kiều đã sinh nghi và đã nghi đúng. Do
đó mà Từ Hải khen Kiều có “con mắt tinh đời”. Vậy, muốn nhận ra vẻ đẹp thật
sự, cái duyên thật sự của một con người, phải có con mắt tinh đời.
Trong cái đẹp, nội dung và hình thức, tinh thần và thể chất gắn bó
không tách rời nhưng cũng có khi yếu tố này có vị trí độc lập tương đối, cái
này không ăn khớp với cái kia, ở đó hình thức bề ngoài tương phản với thực
chất bên trong. Nghịch lý đó làm nảy sinh cái hài, không còn trong phạm trù
của cái đẹp.
Là góc con người
Ai cũng nhớ chiến công vang dội của Quang Trung năm Kỷ Dậu (1789)
đại phá quân Thanh, với những lời hịch rất thơ được đọc vang trên đèo Ba
Dội, để phát lệnh tiến quân:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để răng đen
Đánh cho nó chích luân bất phán
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng tri hữu chủ...
Thế là cái răng, cái tóc, không chỉ là “góc con người” mà còn là biểu
tượng của phong hóa dân tộc. Bọn xâm lược phương Bắc muốn đồng hóa
dân tộc ta bằng mọi cách, trong đó có cả chính sách bắt ăn mặc, để tóc theo
kiểu Tầu. Thời Nguyễn Huệ về trước, để tóc dài búi tó và răng nhuộm đen là
tập quán cổ truyền của dân tộc đến phải dùng gươm để bảo vệ.
Nhưng đầu thế kỷ này, trong phong trào chống Pháp, trong phong trào
Duy Tân và Đông Du do các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đề xướng,
việc cắt tóc ngắn và để răng trắng lại là biểu hiện của tiến bộ, đối lập với nếp
sống phong kiến bảo thủ, được xem như một hành động yêu nước. Trong
phong trào cắt tóc ngắn, có những thanh niên tay cầm kéo vào từng nhà vận
động đàn ông cắt búi tóc cổ lỗ, vừa cắt vừa hát:
...Cúp hề! Cúp hề!
Mọi người cùng cúp
Cho sạch đầu tóc
Cho đẹp con người
Ai nấy thảnh thơi
Xóm làng trông cậy
Cúp hề! Cúp hề!
Nhiều người hưởng ứng, nhưng cũng có kẻ bảo thủ phản đối:
Mồ mả cha mẹ anh đâu,
Còn vua, còn chúa hỏi anh cúp đầu thờ ai.
Quả “cái góc con người” này cũng biến đổi theo thời cuộc. Ở nước
Pháp còn có câu chuyện ông bộ trưởng Cônbe thời Lui XIV phản đối việc để
tóc dài của giới thượng lưu do nhập tóc giả quá tốn kém ngân khố, đã ra lệnh
cho mở các hiệu cắt tóc ngắn, và Cônbe được xem như người khai sinh cho
bộ tóc ngắn từ thế kỷ XVII ở Pháp và châu Âu.
Nhắc lại những chuyện xưa để thấy việc trang điểm, trang phục không
phải là việc riêng của một người mà có khi cũng có liên quan đến xã hội. Mặt
khác, các kiểu, các cách ăn mặc và đầu tóc không bao giờ chịu đứng yên,
cách ăn mặc và đầu tóc thường phản ánh bộ mặt xã hội của một thời nào đó,
như câu ngạn ngữ nước ngoài: “Hãy cho xem bộ tóc, tôi sẽ cho anh biết là
người của thời nào”.
Phong thái dung nhan của mỗi người được thể hiện một phần quan
trọng ở mái tóc. Con mắt là “cửa sổ của tâm hồn”, mái tóc là “cái góc con
người”. Nó là tín hiệu đầu tiên của mỗi người đối với “mốt” mới, cũng là sự
bộc lộ tình cảm, thái độ có khi cả tính tình và chí hướng trước cuộc đời. Nó
biểu hiện sự đa dạng khác biệt giữa người này với người khác. Người ta
cường điệu cho rằng khi ai đó quá giận dữ hay sợ hãi, lo âu thì râu tóc dựng
ngược, hay sau một đêm mái tóc bạc trắng hết. Trong thực tế vẫn có dấu hiệu
“đầu bù tóc rối” vì lười biếng, buồn khổ, xõa tóc rũ rượi khi có tang, khi bị điên
dại, cảnh con đàn bận rộn:
Năm con tóc rối tổ cu
Sáu con yếm trụt, váy dù vặn ngang
(Ca dao)
Trong văn chương, khi miêu tả nhân vật, nhà văn, nhà thơ rất chăm tả
mái tóc (mái tóc của Thúy Vân trong truyện Kiều, mái tóc của Bơ Lao, Hơ Nhí
trong “Trường ca Tây Nguyên”, mái tóc của “người con gái Việt Nam”, trong
thơ Tố Hữu, của chị Sứ trong “Hòn Đất” của Anh Đức). Cũng như mọi bộ
phận khác của cơ thể, mái tóc cũng tham dự vào sự hài hòa của cái đẹp toàn
diện của con người. Khi để một kiểu tóc nào đó, nên tự đặt một số câu hỏi để
tìm tới sự hài hòa đó. Trước hết là câu hỏi từ yêu cầu của nội dung: tính chất
nghề nghiệp và năng suất lao động. Mái tóc ngắn gọn thích hợp với các nghề
hoạt động nhiều, với công việc hay tiếp xúc với máy móc, với thể dục thể
thao... Mái tóc dài của người phụ nữ Việt Nam mang vẻ đẹp hiền dịu, tha
thướt, trái lại, mái tóc ngắn mang vẻ tươi trẻ, linh hoạt. Thanh niên để tóc phủ
tai, phủ gáy, thậm chí chấm vai như phụ nữ thường làm mất đi tính khỏe
mạnh, trong sáng.
Để tóc dài cũng nên tính toán, phải mất bao nhiêu thì giờ để gội để sửa
sang, phải tốn bao nhiêu tiền để sửa tóc và may mặc áo quần tương xứng với
tóc. Thêm vào đó, điều kiện thời tiết nóng bức của khí hậu nước ta, bộ tóc dài
có làm cho ta khó chịu thêm không, có giúp ta giữ vệ sinh cơ thể không. Ngay
thời của phong trào Duy Tân, đã có câu vè về đàn ông để tóc đài:
Còn như một nỗi tóc dài,
Tính ra cho kỹ được tài chi chi
Gác tay lẽn trán mà suy,
Bùi nhùi giữa óc, loạn xì trên côi
Chẳng chi nực nội mà thôi
Đã thêm chí cắn lại bồi bụi nhơ.
Đó là câu hỏi về thì giờ, túi tiền và vệ sinh. Nhưng câu hỏi thiết thực
nhất là để tóc có hợp với tạng người và khuôn mặt hay không, cái hợp đó
chính là cái hài hòa. Với tạng người, kiểu tóc có thể làm cho người cao cao
thêm, người lùn lùn hơn. Kiểu tóc có thể làm cho khuôn mặt già trước tuổi hay
trẻ thêm ra, hiền hậu, nghiêm trang, hay láu lỉnh, ngỗ ngược. Nam hay nữ đều
có những khuôn mặt tròn, chữ điền, trái soan, lưỡi cày... cùng với bộ phận
trán, tai, mắt, mũi, miệng, đều cần tương ứng với một kiểu tóc nhất định,
Người thợ khéo và người hiểu biết cách trang phục có thể làm cho một khuôn
mặt sáng đẹp hơn nhờ ở bộ tóc.
Việc làm đẹp con người, ngoài mái tóc, còn có gương mặt được trang
điểm, nước da được gìn giữ và toàn thân được tập luyện cho cân đối. Mỗi
một yếu tố đều góp phần vào vẻ đẹp toàn vẹn, hài hòa của con người. Đây là
cả một pho kiến thức và kinh nghiệm, cũng được nhiều người viết thành sách,
nhất là đối với bạn nữ. Ở đây ta chỉ bàn về quan niệm, không bàn về kỹ thuật.
Có lẽ không ai phủ định con người cần vẻ đẹp hình thức, nhất là vẻ đẹp
của người phụ nữ. Đối với mỗi người, có được vẻ đẹp thân thể, có được một
gương mặt đẹp, đó là niềm vinh dự và hạnh phúc chính đáng. Một mái tóc
đẹp, một làn da được gìn giữ săn sóc, một gương mặt biết điểm trang, một
thân thể được rèn luyện... đó chính là biểu hiện của văn hóa. Nhưng nếu chỉ
lo quá nhiều cho vẻ đẹp bên ngoài, coi nhẹ cái đẹp bên trong, cái đẹp sẽ
thành giả tạo, đó là cái không hài hòa giữa nội dung và hình thức của con
người. Ngược lại, nếu coi thường vẻ đẹp bên ngoài cũng là một biểu hiện
thiếu văn hóa. Chạy theo cái đẹp bên ngoài đến mức quá đáng sẽ trở thành bi
hài kịch, như câu chuyện của sau, do Gơrengơ (Grengor) chuyên gia về xã
hội học của Viện giải phẫu thẩm mỹ Niuoóc kể: Cô G. 30 tuổi có cái mũi hơi
rộng, đi làm giải phẫu lần thứ tư, và sau lần đó, cô vào bệnh viện tâm thần,
bắt đầu đập phá và dọa tự tử. Hỏi ra, cô G. từ bé đã có mặc cảm nhiều về
những nhược điểm hình thức và đã nhiều lần sửa sang nhưng cũng không
vừa ý... Sự thất vọng cuối cùng đã dẫn cô tới bệnh viện tâm thần.
Câu chuyện lưu ý nhắc nhở những ai quan tâm quá đáng đến dung
nhan, và cũng nhắc nhở khả năng có hạn của các thẩm mỹ viện. Sửa mũi,
sửa mi, mài da, lột da mặt, độn ngực... là những biện pháp của thẩm mỹ viện
có khi cũng cần thiết, nhưng không thay thế được sự săn sóc cơ thể theo một
nếp sống vệ sinh, khoa học, và luyện tập hàng ngày.
Người đẹp vì lụa
Câu tục ngữ “Người đẹp vì lụa” đã nói đúng vị trí của việc ăn mặc đối
với cái đẹp của con người. Nhưng trong xã hội còn chia cảnh giàu nghèo, ta
còn nghe những câu chua chát:
Hơn nhau tấm áo manh quần
Thả ra mình trần ai cũng như ai
Hơn, nhưng kỳ thực không hơn, vì áo quần dù đẹp đến đâu mà con
người, dung nhan không đẹp cũng không thay đổi được bản chất. Do đó còn
có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Cổ tích Tấm Cám có kể mấy lần về
chuyện ăn mặc: Hai mẹ con Cám xấu người, xấu nết lại mặc đẹp hơn Tấm,
nhưng cuối cùng cái xấu vẫn lộ ra. Cái cảnh giữa ngày hội, mẹ con Cám cố
xỏ đôi chân thô kệch để đi cho vừa chiếc giày đẹp của Tấm đánh rơi, trông
thảm hại. Trong khi đó dù chưa được mặc đẹp, với bộ quần áo rách rưới,
Tấm vẫn là con người đẹp.
Nhưng dù sao vẫn không thể coi thường ăn mặc, vì mặc cũng là một
cái “góc” khác của con người. Không thể không thừa nhận rằng: có quần áo
đẹp, thích hợp, con người có khi đẹp hẳn lên, đúng như câu nói “người đẹp vì
lụa”. Ăn mặc là tự biểu hiện mình trước cộng đồng xã hội, trong đó có việc tự
biểu hiện quan điểm thẩm mỹ. Vì vậy mới có các loại, các kiểu đồng phục, lễ
phục cho dân tộc, cho đẳng cấp, tôn giáo, cho một đoàn thể. Vì vậy mới có
người, khi cuộc sống đổi thay, như bắt đầu có người yêu hay sắp cưới, phải
lo may mặc cho thật đẹp đẽ. Ngược lại cũng có người cố lấy việc ăn mặc tồi
tàn tiều tụy để biểu hiện một tâm trạng chán chường hay một thái độ bất bình.
Đối với xã hội, toàn bộ việc ăn mặc của người dân cũng phản ánh trình độ
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của xã hội đó.
Trong ăn mặc, cái hài hòa cũng thể hiện sự phù hợp giữa hình thức và
nội dung. Hình thức y phục phải phù hợp với nội dung chức năng của y phục.
Đi lao động không ai ăn mặc áo quần như làm việc ở văn phòng, đến nơi
công cộng không mặc áo quần như đang lau máy, như ở trong nhà, hay áo
quần khi tập thể thao và đi tắm, trừ những lý do bắt buộc. Trong việc cải tiến
và sử dụng các “mốt”, sự không phù hợp chức năng thường diễn ra ở đây:
ống quần quá chật, bó sát chỉ đáng dùng trong thể thao và trong phòng ngủ ở
xứ lạnh, lại biến thành y phục chính thức, những ống tay áo, thân áo xòa như
cánh chim cánh bướm, những trang trí hoa lá quá sặc sỡ, chỉ đáng dùng trên
sân khấu hay trong hội hè, lại trở thành thường phục, những áo váy quá hở
hang vẫn dùng được trong phòng riêng hay trên bãi biển nhưng lại dùng trên
đường phố... Vì vậy, khi nhận xét, phê phán những “mốt" áo quần, chỉ lên án
là ăn mặc “diêm dúa”, “hở hang” đơn thuần như vậy chưa thỏa đáng, mà phải
nói ăn mặc như thế không đúng lúc đúng chỗ, không dùng đúng chức năng
của những kiểu quần áo, hình thức không phù hợp với nội dung, cho nên
không đẹp.
Tiêu biểu nhất đối với bạn trai là bắt chước mốt quần Âu quá rập khuôn
theo kiểu Âu. Người thanh niên Âu thường có tầm vóc tương đối lớn, lưng có
phần ngắn so với chân về tỷ lệ, mông lại to nên có kiểu quần bó sát, căng
mông, cạp trễ cho lưng dài cân xứng với chân. Thanh niên ta mông lép, mặc
quần áo sát trông càng bé phần dưới, chân ngắn lưng hơi dài lại mặc quần
trễ, trông phần dưới như đi mượn quần của người nhỏ bé hơn. Các bạn nữ
của ta vóc người nhỏ nhắn so với người Âu, lại mặc áo thân rộng, ống tay
rộng nửa chừng, trong càng gầy yếu. Trái lại, có bạn quá chuộng áo thụng, đã
gầy trông càng gầy thêm...
Vì vậy, chạy theo “mốt” may sắm nhiều, chưa dùng kiểu này đã xoay
sang kiểu khác, lắm khi trở thành “nô lệ” của “mốt”, thành một cái
“manơcanh”, do không biết chọn “mốt” chọn kiểu thích hợp với mình.
Trong ăn mặc, đầu tóc, cái hài hòa thường đố kỵ với chủ nghĩa hình
thức (chạy theo hình thức, nô lệ các mốt mới, kiểu cách trang trí dư thừa). Cái
hài hòa còn đố kỵ với thái độ bất chấp hoàn cảnh môi trường, ăn diện quá
sang trọng hoặc ăn mặc quá lôi thôi. Trong hoàn cảnh kinh tế, nhất là vùng
nông thôn nước ta hiện nay, cái đẹp của sự “ăn chắc mặc bền”, cái đẹp cửa
sự khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm là rất cần thiết.
Sau cùng, về mặc cũng như mọi cái đẹp khác, cần chú ý đến tính chất
dân tộc, tìm hiểu thẩm mỹ truyền thống của dân tộc để biết kết hợp vẻ đẹp
của dân tộc với vẻ đẹp mới tiếp nhận được từ bên ngoài. Biết kết hợp hai yếu
tố đó cũng là ý thức cao về sự hài hòa. Nói chung, dân tộc ta ăn mặc giản dị,
kín đáo, ưa những màu sắc trang nhã. Ngay việc tiếp thu những lối phục sức
của Trung Hoa xưa kia hay của châu Âu từ thế kỷ này, cũng đã chọn lọc cải
biến cho phù hợp với những tiêu chuẩn đó. Và mọi sự thái quá và bắt chước
nước ngoài một cách lai căng, nô lệ, đến mức in chữ nước ngoài vào áo mặc
đi khắp nơi mà không biết là chữ gì, mặc quần ống loe, chân voi (patte
d’éléphant) như người lùn rạp xiếc, người lớn mặc áo váy cũn cỡn như búp
bê... đều tỏ ra xa lạ với dân tộc, cũng như xa lạ với văn hóa thẩm mỹ.
Lễ và đẹp
Cái đẹp của con người bao gồm các mặt: vẻ đẹp dung nhan, thể chất
và vẻ đẹp tinh thần, đạo đức, tình cảm. Đạo đức tình cảm tốt đẹp sẽ được
bộc lộ ra bằng hành động cử chỉ, lời nói, gọi chung là cách cư xử trong gia
đình, trong tập thể, ở nơi công cộng. Cái đẹp thể hiện bằng lối xã giao lịch
thiệp, văn minh, đẹp phải gắn với lễ.
Tất nhiên ta không bao giờ chấp nhận lối xã giao chỉ vì hình thức bề
ngoài. Phép tắc xử thế, chữ “lễ”, cần có cái động lực chân thành bên trong,
cần có chữ “nhân”, đó là sự hài hòa giữa nội dung và hình thức.
Nhưng khi xem cách đối xử là hình thức, ta vẫn không làm giảm vai trò
của nó, vì thiếu hình thức thì cũng không thể có nội dung, thiếu những biểu
hiện về cử chỉ hành động đẹp thì những quan điểm đạo đức cũng không sao
thực hành được trong thực tế. Vậy mối quan hệ giữa đạo đức và thẩm mỹ
chính là ở đó: đạo đức được thực hành bằng hành động cư xử, đó là thẩm
mỹ, hành động cư xử đẹp, đó là biểu hiện của đạo đức.
Trong cách cư xử, lời ăn tiếng nói được coi trọng. Người phụ nữ ngày
xưa được nhắc nhở bằng chữ “ngôn” trong bốn chữ: công, dung, ngôn, hạnh.
Tục ngữ cũng nhắc nhở phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”.
Lời nói, không chỉ là góc con người, mà chính là bản chất con người.
Con người hóa thân vào lời nói, cũng như câu: “văn tức là người”. Trước hết
cái đẹp của lời nói phải gắn chặt với cái thật, lời nói phải chân thật, gắn chặt
với hành động. Lời nói có giá trị lớn, đem lại niềm tin và hạnh phúc: “lời nói
đọi vàng”. Lời nói có thể có giá trị sinh tử: “lời nói đọi máu”. Lời căn dặn đầu
tiên đối với con người là phải cẩn thận trước khi nói, vì “lời nói không mất tiền
mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, “miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ
đời”, “một lời trót đã nói ra, dù rằng bốn ngựa khó mà đuổi theo”. Cho nên con
người đẹp, bao giờ cũng phải có lời nói đẹp, và ngược lại lời nói không đẹp
sẽ làm mất hết mọi vẻ đẹp khác của con người. Ca dao có câu:
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
Đất tốt trồng cây rườm rà,
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng.
Kim vàng ai nỡ uốn câu,
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
Người đẹp trong các truyện xưa cũng được miêu tả từ lời nói, nụ cười:
... Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
... Lời lời nhả ngọc phun châu
Chàng Kim Trọng đẹp người, đẹp tâm hồn, đẹp cả giọng nói nhẹ nhàng
khiến ngay từ phút đầu, Kiều đã phải xúc động:
Lặng nghe lời nói như ru
Chiều thu dễ khiến nét thu ngại ngùng
Với riêng những nét chấm phá về lời đối đáp giữa các nhân vật truyện
Kiều cũng đủ làm một cuốn sách luân lý và thẩm mỹ về cách nói năng.
Trong xã giao, lời nói đẹp là một mặt của thuần phong mỹ tục, trước hết
đó là tiếng chào nhau: “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Đó là những lời “cám
ơn, xin lỗi, xin phép” thật cần thiết đúng lúc. Đó là những lời thanh khi cần nói
điều tục. Đó là việc loại bỏ lối nói thô tục, cục cằn, chửi thề trong tiếp xúc
thường ngày. Một hai thanh niên nam nữ ăn mặc lịch sự đang đứng trò
chuyện, thoạt nhìn
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao
nhưng bỗng nhiên ở đấy phát lên những tiếng nói cưỡi sàm sỡ, lại thêm mấy
tiếng văng tục... thì cây quỳnh cành dao liền biến thành cây dị dạng:
Đất rắn trồng cây nghẳng nghiu
Những người thô tục nói điều phàm phu.
Ngôn ngữ, tiếng nói là một trong những tiêu chuẩn để phân biệt giữa
con người và động vật. Có ngôn ngữ đẹp, có lời nói đẹp, lại là tiêu chuẩn
phân biệt giữa những con người với nhau, người có văn hóa và người không
có văn hóa.
Trong khi nhắc nhở phải học ăn, học nói, ông bà ta còn nói “ăn trông
nồi, ngồi trông hướng”, hay “nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc". Đây là lời
khuyên về cử chỉ, hành động sao cho lịch sự, hài hòa, phù hợp với hoàn cảnh
ứng xử. Ăn nói, đứng, ngồi là những cử chỉ, động tác đi liền nhau trong giao
tiếp gia đình - xã hội, nó như những đèn màu trong một chuỗi đèn hài hòa
màu sắc, nếu tắt đi một bóng thì có một khoảng tối, trở thành không đẹp.
Trước hết, đó là sự giao tiếp trong cái “tế bào” của xã hội - gia đình.
Những biến động xã hội lớn lao và sự lôi cuốn con người vào hoạt động xã
hội mấy mươi năm, đã làm cho một số nề nếp luân lý gia đình, những điều có
vẻ nhỏ nhặt, không được coi trọng. Đó là cách cư xử, ăn nói, thưa gửi, chăm
sóc lẫn nhau giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái... Cái đẹp trong cử chỉ xã giao
của thanh thiếu niên ở nơi công cộng, cũng không được dạy học, bày vẽ
đúng mức và có hệ thống. Nhất là những sự ấu trĩ trong quan niệm về “dân
chủ” và “bình đẳng”, làm xóa nhoà ranh giới tự nhiên về giới tính và tuổi tác -
những ranh giới mang tính chất nhân bản và nhân đạo.
Ngày xưa chữ “lễ” trong gia đình được quy định bởi những nguyên tắc
đạo đức phong kiến, nay được quy định bởi chủ nghĩa nhân đạo mới, đó là
sự tôn trọng lẫn nhau, bao gồm sự tôn kính, nhường nhịn, vị tha, yêu thương
giúp đỡ lẫn nhau, giữa những thành viên thuộc các lớp tuổi trong gia đình.
Mặt khác, mỗi gia đình luôn có khách tới hoặc mỗi người tự đi làm
khách nhà khác. Tiếp khách như thế nào, và đóng vai khách như thế nào là
hay, là lịch thiệp, cũng sẽ tạo nên những hình ảnh xã giao đẹp. Con người khi
gặp nhau, làm khách của nhau, như là một nhu cầu tha thiết của tình người,
của hạnh phúc, nên nhà văn Pháp Xanh Êchxuypêri đã nói: “Sự giàu có lớn
nhất của con người là niềm vui tiếp xúc”.
Cách xử sự trong gia đình mở rộng ra thành quan hệ giao tiếp xã hội:
trong chung cư, khu tập thể, ký túc xá, khu phố, ra nơi công cộng lớn: bến xe,
bến tàu, rạp hát, sân vận động, quảng trường... ở đâu mỗi người cũng cần tỏ
ra lịch thiệp, khiêm nhường tôn trọng lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời
biết tự giác, tự kiềm chế, giữ gìn nội quy, luật pháp... Có thế mới tạo ra được
một khung cảnh xã hội hài hòa, một nếp sống văn minh do những con người
hài hòa tạo nên. Hiện nay, những cử chỉ xã giao văn minh lịch sự tối thiểu
đang bị vi phạm nghiêm trọng. Trong một số chung cư, nhà ở, tập thể, đang
diễn ra hàng ngày những hành vi thiếu văn minh, như từ lầu cao vứt rác, đổ
nước xuống, áo quần đồ đạc giăng phơi đầy hành lang và các hàng kiên
trông ra đường; tháo gỡ, di chuyển, phá và xây thêm một cách tùy tiện các
tiện nghi và phòng ốc, làm cho các tòa nhà vốn lành lặn và đẹp đẽ, trở nên
chắp vá méo mó, thậm chí không còn nhận ra hình dạng xưa kia của nó nữa.
Ở các rạp hát có nhiều người đến xem có những cử chỉ rất không văn hóa:
ghếch chân lên tựa ghế trước, hút thuốc, ăn quà, nói chuyện thô lỗ. Lên xe,
lên tàu, trẻ không nhường già, nam không nhường nữ, trên đường phố thì
phóng xe bạt tử, nói cười chọc ghẹo tục tĩu... Có những nề nếp sinh hoạt văn
minh đẹp đẽ trước đây, một số người đã lấy cớ đời sống khó khăn để vi
phạm. Ngoài ra, còn có một số người chưa có thói quen, chưa biết cách sinh
hoạt ở thành phố hiện đại, đã mang nếp sống luộm thuộm, tùy tiện đến mức
không chịu thay đổi cho phù hợp với nơi ở mới. Ngạn ngữ Anh có câu:
“Người lịch sự là người biết bỏ thói quen ở nhà”.
Trong sinh hoạt tập thể, sinh hoạt công cộng có những ngày hội, ngày
lễ được tổ chức theo phong tục của dân tộc, địa phương, và những sinh hoạt
hôn nhân (lễ hỏi, lễ cưới...), tang tế (lễ tang, đưa ma, giỗ chạp...), những sinh
hoạt lễ bái của các tôn giáo... tất cả đều có thể tạo nên không khí, khung cảnh
sinh hoạt phong phú, tốt đẹp, nếu tránh được lối phô trương lãng phí, tránh
được các thủ tục và mê tín dị đoan. Cái hài hòa ở đây là sự phù hợp giữa
hình thức và nội dung, hình thức không phô trương xa xỉ, nội dung cũng
không chứa đựng những gì phản tiến bộ, phản khoa học, phản lại cái đẹp.
Con người mới, con người hiện đại phải là con người đẹp
Vẻ đẹp thân thể là sự hài hòa do thiên nhiên và do sự rèn luyện lâu dài
qua lao động mà con người đã đạt được. Nhưng điều phải quan tâm hơn vẫn
là vẻ đẹp tinh thần. Cái thứ nhất thì ở thời nào, nơi nào cũng có thể có được,
nhưng cái thứ hai thì chỉ có thể có ở nơi nào làm tốt công cuộc cải tạo xã hội,
giáo dục con người.
Lý tưởng thẩm mỹ ở các thời đại có khác nhau, nhưng ước vọng về
một con người phát triển hài hòa là chung của mọi thời đại, tất nhiên là nội
dung tiêu chuẩn ở mỗi giai cấp, mỗi thời kỳ lịch sử cũng có khác nhau. Cặp
tiêu chuẩn phổ biến nhất là sự hài hòa giữa đức và tài. Từ những anh hùng
trong truyện dân gian, như Sơn Tinh, Thánh Gióng, Thạch Sanh, cho đến
những anh hùng trong lịch sử như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang
Trung... đều là những tấm gương về tài năng và đức tính vì dân, vì chính
nghĩa. Đối với xã hội mới, cặp tiêu chuẩn này cũng ở vị trí hàng đầu, như Bác
Hồ đã dạy: “Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hả hóa có hại
cho nước. Có đức không có tài như ông bụt trong chùa, không giúp được gì
cho ai”.
Trong xã hội hiện đại, thế lực chi phối ghê gớm của đồng tiền đã trở
thành kẻ thù của cái hài hòa. Con người dễ bị phát triển què quặt trong sản
xuất, cảm hứng và trí tuệ sáng tạo cũng như mọi giá trị khác đều có nguy cơ
biến thành hàng hóa. Trong một xã hội như vậy, con người bị cuốn theo chiều
hướng hưởng thụ vật chất, sẽ khó có được cuộc sống hoàn thiện và con
người hoàn thiện. Người ta hy vọng ở sự tiến bộ kỹ thuật, nó sẽ làm cho cuộc
sống của con người phái triển hài hòa. Nhưng trong xã hội như vậy phát minh
về kỹ thuật đã không được đền bù bằng những phúc lợi mới, mà bằng những
điều bất hạnh mới cho con người. Thời trung cổ có một tu sĩ đã phát minh ra
thuốc nổ để đốt pháo hoa. Song cái được sáng tạo ra để thưởng ngoạn thì lại
biến thành một tai họa. Thuốc súng đã biến thành phương tiện phá hoại và
giết chóc. Hirôsima và Nagazaki là hậu quả của tiến bộ kỹ thuật. Nó là cha
của chúng. Còn mẹ của chúng là đạo lý suy đồi trong xã hội hiện đại. Những
quái thai luôn luôn sinh ra từ sự chung chạ giữa kỹ thuật và thói vô đạo đức.
Hơn ai hết, người Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ - một cuộc thí nghiệm kỹ thuật giết người lớn nhất - càng thấm thía
điều đó.
Người ta cũng đặt hy vọng vào sự giáo hóa của nghệ thuật. Đốttôiépxki
đã từng tuyên bố: “Cái đẹp cứu vãn thế giới”. Nhưng từ bao thế kỷ nay,
những kiệt tác của nghệ thuật, của cái đẹp, với nội dung tích cực đã ra đời
nhưng cái xấu cái ác trong xã hội vẫn không hề giảm. Ông giáo khổ trong
truyện của Uxpenxki đã được uốn thẳng nhờ sự cảm hóa của pho tượng
Vênuýt ở Milô, nhưng cũng còn biết bao người còn tiếp tục bị cuộc sống đè
nặng và uốn cong, ngay cả trên quê hương của những tác phẩm nghệ thuật
nổi tiếng đó.
Những năm gần đây do thành công lớn lao của cách mạng khoa học kỹ
thuật, lối sống và mức sống ở một số nước biến đổi nhanh chóng, trở thành
lực hút mạnh mẽ đối với một số người ở những nước khác. Đó là những
thành phố hiện đại, giàu tiện nghi, đầy ắp hàng hóa. Sự phồn vinh đó có đồng
nghĩa với sự hài hòa, sự hoàn thiện được chăng? Trên màn ảnh Sài Gòn cũ
đã có chiếu những bộ phim như Ảo ảnh cuộc đời (phim Mỹ) nói về sự tan vỡ
của những giấc mộng sơ đẳng nhất của đời người. Cuộc sống ngọt ngào
(phim Ý) nói về niềm tin và hạnh phúc không còn dù một cuộc sống vật chất
thừa thãi, vì không có sự thừa thãi nào bù lại được sự trống rỗng thiếu lý
tưởng. Ta đã từng nhận xét là những con người vượn sống chưa ra người vì
trí tuệ và đời sống còn quá thấp kém, chưa thể biết đến cái đẹp. Nhưng đến
khi con người có đời sống vật chất quá cao thì lại để đánh mất cái đẹp, mất đi
con người hài hòa. Điều đó nghe chừng mâu thuẫn nhưng lại rất thống nhất,
vì cả hai trường hợp đều thiếu một nội dung Người, với chữ N viết hoa...
Hàng ngàn năm qua, con người chưa lúc nào ngừng đấu tranh, và
cũng chưa lúc nào ngừng ước mơ hoặc cầu mong một cuộc sống hoàn thiện.
Đấu tranh bằng khởi nghĩa nô lệ, khởi nghĩa nông dân, cách mạng tư sản.
Ước mơ những chuyện không thể có, trên mặt đất như chuyện Lưu Nguyễn,
Từ Thức lạc vào cảnh tiên, chuyện con người đi tìm hạnh phúc nơi thiên đình
hay dưới thủy cung, nơi cung trăng và những xứ sở xa lạ.
Con người còn phải hành động rất nhiều để có được những thiên
đường trên mặt đất.
Nếu con người sáng tạo vật chất theo quy luật của cái đẹp như Các
Mác đã nói, thì về mặt tinh thần con người cũng phấn đấu đi lên theo quy luật
của cái thiện thắng cái ác, cái chính thắng cái tà, và nếu hài hòa là cuộc sống,
thì cuộc sống con người bao giờ cũng vươn tới cái hài hòa.
M.Gorki nói: “Mỹ học là đạo đức học của tương lai”
Tại sao mỹ học chưa phải là đạo đức học của hiện tại, mà là của xã hội
tương lai. Vì trong xã hội, những biểu hiện của đạo đức tốt đẹp khó trở thành
phổ biến, cái xấu còn ngự trị nặng nề, đạo đức học phải nói nhiều về cái
không đẹp, trong khi mỹ học luôn phải nói về cái đẹp.
Sự thoái hóa về đạo đức, bộ mặt của bọn quan liêu cơ hội và bọn tham
nhũng có làm hoen ố bức tranh xã hội, nhưng cái đẹp vẫn luôn bám rễ trong
nền văn hóa lâu đời của dân tộc để phát triển, đúng như G. Phuxích, nhà văn
và anh hùng Tiệp Khắc đã nói: “Những cá nhân riêng biệt thì có thể suy đồi về
đạo đức nhưng nhân dân thì không bao giờ".
Bài 10. VỊ TRÍ – MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ
THỊ HIẾU THẨM MỸ VÀ SỰ RÈN LUYỆN MỘT THỊ HIẾU PHÁT TRIỂN
Giáo dục thẩm mỹ là một trong ba nội dung cơ bản của sự nghiệp giáo
dục con người: giáo dục trí tuệ (chân), giáo dục đạo đức (thiện), giáo dục
thẩm mỹ (mỹ), quyết không phải là một ngành "ăn theo”, mà là một tất yếu
của sự phát triển. Bao giờ người ta cũng phải trả giá đắt khi không ý thức
được tính quy luật đó.
Từ khi người ta ý thức được vai trò và tác dụng của nghệ thuật đối với
đời sống con người, thì cũng đồng thời hình thành khái niệm giáo dục thẩm
mỹ. Cũng như mọi hoạt động thông tin, truyền bá và giáo dục khác, giáo dục
thẩm mỹ cũng được tiến hành bằng nhiều hình thức, vừa tự phát vừa có tổ
chức, ở mọi địa bàn và đối tượng khác nhau, vừa có thể do Nhà nước hay
các tổ chức xã hội đảm trách vừa do mỗi gia đình tự làm lấy.
Con người được hưởng thụ cái đẹp ngay từ khi còn nằm trong lòng mẹ,
khi chào đời đã được vỗ về bằng tiếng hát ru của mẹ và đến khi vĩnh biệt
cuộc đời con người được đưa tiễn bằng những khúc nhạc tang. Trong suốt cả
cuộc đời, mỗi người ít nhiều đều được hưởng thụ một nền văn hóa thẩm mỹ
bên cạnh hai nền văn hóa trí tuệ và văn hóa đạo đức. Ba nền văn hóa ấy
được vun đắp từ ba nguồn chất liệu mà các thế hệ tích lũy qua hàng ngàn
năm, đó là những giá trị CHÂN, THIỆN, MỸ. Nhân cách con người được hình
thành và phát triển bằng cả ba loại giá trị văn hóa đó. Như một thứ quy luật:
nơi nào giáo dục bị mất cân đối, nhân cách con người bị méo mó, thì khi đó
phải truy về sự thiếu hụt của một trong ba nguồn giá trị kia. Vậy giáo dục thẩm
mỹ không phải là một việc làm thêm, một ngành "ăn theo", mà là một tất yếu
của sự phát triển xã hội, là một trong ba chân kiềng của hệ thống giáo dục xã
hội. Bao giờ người ta cũng phải trả giá đắt khi không ý thức được tính quy
luật đó.
Nhưng việc con người sống, ăn mặc, ở, đi lại, lao động và giải trí trong
môi trường thẩm mỹ, được hưởng thụ một nền văn hóa thẩm mỹ về vật chất
cũng như tinh thần, từ nhà cửa, đồ dùng, y phục, xe cộ đến bài ca, điệu múa
bộ phim v.v..., một cách ngẫu nhiên và thụ động, khác với vấn đề đang được
đề cập ở đây tức là giáo dục thẩm mỹ với tư cách là một hệ thống Lý thuyết
về giáo dục cái đẹp và nghệ thuật, một loại hình hoạt động có tổ chức, có quy
trình nhất định. Hình thức giáo dục ngẫu nhiên, tự phát đã có từ xưa, nhưng
hình thức giáo dục đạt đến trình độ lý luận và tổ chức có hệ thống thì xuất
hiện trễ hơn.
Để xây dựng hệ thống lý thuyết về giáo dục thẩm mỹ cần giải quyết
trước hết nhứng vấn đề về quan niệm, sau đó là những vấn đề nội dung và
phương pháp. Quan niệm: về vai trò, vị trí, về tính tất yếu của giáo dục thẩm
mỹ, và đặc biệt quan trọng là vấn đề mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ. Nội
dung, bao gồm những vấn đề kiến thức cơ bản về cái đẹp trong thiên nhiên,
trong xã hội, trong con người, trong nghệ thuật – những kiến thức mỹ học
nhằm hình thành phương diện lý tính trong phẩm chất thẩm mỹ của con
người. Về phương pháp, đó là nhứng con đường để đưa toàn bộ những gì
thuộc về cái đẹp và nghệ thuật đến với từng loại đối tượng khác nhau, để
đồng hóa kiến thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nhằm đạt được mục tiêu của
giáo dục thẩm mỹ.
Trước hết cần xác định giáo dục thẩm mỹ là một trong ba loại hình giáo
dục cơ bản, của bất kỳ thời đại nào và xã hội nào, đó là giáo dục trí tuệ, giáo
dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ. Đó là ba phương thức truyền thụ, bồi
dưỡng ba loại giá trị cơ bản. Vậy giáo dục thẩm mỹ không phải là một ngành
trong cơ chế nhà nước, như ngành văn hóa, ngành giáo dục, ngành du lịch...
Cũng không phải là một bộ môn giảng dạy tri thức và kỹ thuật như âm nhạc,
hội họa... (Nếu là lý thuyết đơn thuần, nó là một môn, hay phân môn của giáo
dục học, hay một phần trong lý thuyết mỹ học). Vì vậy mục tiêu của giáo dục
thẩm mỹ được đặt ra ở bất cứ nơi nào có tiến hành loại hình hoạt động giáo
dục này: nhà trường, gia đình, các tổ chức và đoàn thể xã hội. Ngay cả các
ngành văn hóa, văn nghệ, các trường nghệ thuật như âm nhạc, mỹ thuật, sân
khấu... cũng phải đặt ra mục tiêu này, vì có kiến thức và kỹ năng về hoạt động
nghệ thuật chưa phải là mục tiêu cuối cùng của giáo dục thẩm mỹ. Cũng như
trường hợp một người có học thức chưa hẳn là một người có văn hóa. Tất
nhiên những kiến thức và kỹ năng là những điều kiện không thể thiếu đối với
một người có trình độ văn hóa, trình độ thẩm mỹ.
Những nhận xét và so sánh trên đây đã xuất phát từ quan điểm mỹ học
- lý luận về cái thẩm mỹ và cái đẹp. Trong bộ ba phạm trù CHÂN, THIỆN, MỸ,
thì cái MỸ hàm chứa cả nội dung hai cái kia. Một thí dụ đơn giản: một tác
phẩm nghệ thuật được gọi là kiệt tác, tất yếu phải có trình độ nghệ thuật cao,
nhưng đồng thời phải có giá trị nhân văn (cái thiện) và phải là một biểu hiện
chân thực về chủ thể và về xã hội (cái chân). Cũng với lôgic đó, người ta có
thể xem xét về một con người, một cuộc đời, một sản phẩm, một hoạt động.
Vậy mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ là đem lại cho con người những giá
trị thẩm mỹ chân chính trên nền tảng của sự phát triển về mặt trí tuệ và đạo
đức, làm cho con người đồng hóa được những giá trị đó để có được một trình
độ văn hóa cao, một nhân cách hài hòa.
Khi đạt được mục tiêu đó, theo một quan niệm tương đối, và trong một
hoàn cảnh lịch sử nhất định, một con người có thể biết ứng xử đẹp trong mọi
tình huống, biết giữ gìn và sáng tạo nên cái đẹp trong đời sống của bản thân
và của cộng đồng, của thiên nhiên, của môi trường xã hội, và đặc biệt là của
nghệ thuật.
Với một mục tiêu như vậy, bất cứ người nào có nhu cầu cũng có khả
năng vươn tới được.
GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ - MỤC TIÊU TRỰC TIẾP VÀ NĂNG ĐỘNG NHẤT
1) Tình cảm và lý trí.
Người ta sinh ra không ai giống ai. Mỗi người có một nhu cầu, một sở
thích riêng. Trong một bữa cơm gia đình, có bao nhiêu người là bấy nhiêu
khẩu vị. Nhìn vào một phiên chợ, một cửa hàng bách hóa, có bao nhiêu
người là bấy nhiêu nhu cầu, bấy nhiêu sự ham thích lựa chọn. Trong hoạt
động tinh thần cũng vậy. Có người thích làm khoa học, có người thích làm
nghệ thuật. Riêng trong lĩnh vực thẩm mỹ và nghệ thuật, cứ đặt ra câu hỏi sẽ
tìm thấy trăm nghìn câu trả lời không giống nhau. Bạn thích loại hoa nào? Bạn
thích màu vải nào? Bạn thích kiểu áo nào? Bạn thích bộ ấm chén nào? Bạn
thích để tóc như thế nào? Và trong các nhà thơ bạn thích ai nhất? Bạn thích
loại sân khấu nào hơn cả? Bạn thích loại nhạc nào? Loại tranh nào? v.v... Tất
cả, ta sẽ nghe câu trả lời bắt đầu bằng hai tiếng “tôi thích", hoặc "tôi không
thích". Những sở thích riêng đó, trong lĩnh vực thẩm mỹ, gọi là thị hiếu thẩm
mỹ.
Hai tiếng "tôi thích" hàm hai ý nghĩa: đây là chuyện riêng và đây là vấn
đề tình cảm. Từ đó mà có người cho rằng lĩnh vực thị hiếu là không nên bàn
cãi.
Trước hết, cần phân biệt những sự ham thích đối với các món ăn (tức
khẩu vị) và những sự ham thích đối với cái đẹp trong sinh hoạt, trong nghệ
thuật. Những món ăn chủ yếu đáp ứng nhu cầu của cơ thể, nhu cầu sinh học.
Còn cái đẹp nghệ thuật đáp ứng nhu cầu về tâm lý, tình cảm của con người,
nó là một vấn đề xã hội. Vì vậy khi bạn thích ăn ớt, ăn tỏi hay không thích,
điều này chẳng ai quan tâm. Nhưng khi bạn say sưa suốt ngày với những sản
phẩm văn hóa đồi trụy thì người khác sẽ có quyền bàn với bạn.
Thị hiếu rất không giống nhau, mỗi người biểu lộ một vẻ, cũng như
khuôn mặt tính tình của một con người, chẳng có ai hoàn toàn giống ai. Đó có
phải là thiên tính, bẩm sinh hay nó là sự xuất hiện ngẫu nhiên, vào một thời
điểm nào đó trong mỗi con người? Không, thị hiếu thẩm mỹ, cũng như mọi
biểu hiện khác của những nhu cầu của con người, cũng như tính tình của con
người, đều có nguồn gốc sinh thành và quá trình phát triển của nó. Bác Hồ đã
viết trong Nhật ký trong tù:
... Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.
Thị hiếu cũng vậy, nó được sinh ra trong điều kiện giáo dục nào đó,
được nuôi dưỡng trong một hoàn cảnh thích hợp nào đó, vừa do tác động
khách quan của hoàn cảnh, của giáo dục, vừa do điều kiện chủ quan của mỗi
người.
Trong tâm lý con người, mối quan hệ tình cảm và lý trí là mối quan hệ
phức tạp. Có những lúc lý trí và tình cảm gắn bó phù hợp với nhau, nhưng
cũng có lúc không ăn khớp. Có lúc lý trí làm sáng lên tình cảrn đẹp, nhưng
cũng có lúc tình cảm không đẹp kéo theo cả lý trí. Trong sinh hoạt thẩm mỹ
cũng thường có hiện tượng phức tạp đó.
Tình cảm bao giờ cũng gắn với hành động, là khâu tâm lý cuối cùng
được chuyển thành hành động. Tình cảm thường bộc lộ thành hành động,
ngược lại hành động bao giờ cũng do một động cơ tình cảm thúc đẩy. Vì vậy,
khi nói đến thị hiếu là nói đến hành động lựa chọn: lựa chọn một kiểu áo, một
cuốn sách, một tác phẩm âm nhạc... và mọi tình cảm, mọi hành động của con
người đều dựa trên cơ sở của lý trí nhất định. Sự yêu thích, sự lựa chọn cái
đẹp của một người bao giờ cũng xuất phát từ những tiêu chuẩn do người đó
đặt ra, xuất phát từ lý lẽ của người đó. Đó chính là lý trí. Vậy khi nói thị hiếu là
vấn đề tình cảm ta không quên cái lõi lý trí ở bên trong.
Trong sinh hoạt thẩm mỹ, nhiều trường hợp lý trí và tình cảm phù hợp
với nhau. Nhưng trong thực tiễn đời sống, trong sinh hoạt thẩm mỹ cũng có
khi ta thấy hiện tượng lý trí và tình cảm hoàn toàn không phù hợp. Có khi con
người có ít nhiều tình cảm tốt nhưng chưa có ánh sáng của tri thức, của tư
tưởng lý luận đúng đắn, nên tình cảm cũng trở thành bế tắc. Nhiều anh chị
em thanh niên tốt, nhưng ít được học hỏi, có khi không phân biệt được cái
đẹp cái xấu. Họ chạy theo những "mốt" sinh hoạt, những kiểu ăn mặc kệch
cỡm mà cứ tưởng là đẹp. Có khi đọc sách, nghe nhạc loại tầm thường thấp
kém một cách tự nhiên mà không biết. Đối với những anh chị em này nếu tập
thể kịp thời uốn nắn, bồi dưỡng cho họ tri thức thẩm mỹ mới thì họ sẽ thay đổi
thị hiếu không khó khăn lắm. Một bản chất tình cảm tốt, một bản chất tâm hồn
đẹp là yếu tố quan trọng, quyết định việc tiếp nhận những quan điểm thẩm mỹ
tiên tiến. Nó như mảnh đất tốt, khi những hạt chân lý gieo vào thì sẽ mọc
mầm xanh tươi nhanh chóng.
Trên đây là những biểu hiện khác nhau của mối quan hệ lý trí và tình
cảm trong thị hiếu thẩm mỹ. Những nhận xét đó đưa đến kết luận thực tiễn
trong công cuộc giáo dục thẩm mỹ của chúng ta: cần phải quan tâm nhiều
đến việc giáo dục tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh đi đôi với việc phổ
biến nâng cao tri thức về thẩm mỹ và nghệ thuật. Cần xây dựng cái nền tản lý
trí cho thật vững để làm chỗ dựa chắc cho tình cảm thẩm mỹ. Ngược lại, cần
phát huy những nhân tố tích cực lành mạnh của tâm hồn, tình cảm để làm
mảnh đất tốt cho việc gieo những hạt giống tri thức thẩm mỹ mới. Nghĩa là
làm sao để có lý trí cao phù hợp với tình cảm đẹp, như có nhà thơ đã nói:
"sáng mắt, sáng lòng".
2) Cá nhân và xã hội.
Khi bàn đến những đặc điểm xã hội của thị hiếu, ta có thể nói về tính
giai cấp, tính dân tộc. Đó là những đặc điểm chung có tính chất phổ biến: Bất
kỳ một sự ưa thích, một sự lựa chọn nào trong lĩnh vực thẩm mỹ cũng mang
dấu vết xã hội.
Tuy nhiên, khi nói đến yếu tố xã hội, không thể không nói đến yếu tố cá
nhân. Nhất là trong lĩnh vực thẩm mỹ và nghệ thuật, vai trò của cá tính cũng
rất quan trọng. Ở đây, cần làm rõ hơn nội dung xã hội và nội dung cá nhân
mà ta đang đề cập đến. Thực ra trong mọi hiện tượng tình cảm hay thị hiếu
thẩm mỹ, tính chất cá nhân và tính chất xã hội không thể tách rời được. Một
người thích hay không thích để tóc dài, tóc ngắn, vừa là hiện tượng có tính xã
hội vừa là hiện tượng có tính cá nhân. Trong một hoàn cảnh xã hội nào đó, từ
một lối sống xã hội như thế nào đó, mới xuất hiện những "mốt" đó. Đồng thời
cũng do điều kiên giáo dục, điều kiện nghề nghiệp, tâm lý riêng nên người
này mới thích cái mốt này mà người khác cũng vì điều kiện riêng nên không
thích, không theo. Vì vậy, mỗi một biểu hiện của thị hiếu vừa có tính chất cá
nhân, vừa có tính chất xã hội,
Nhưng nội dung xã hội và cá nhân ta muốn đề cập ở đây chủ yếu là:
xét xem trong hiện tượng thị hiếu, yếu tố nào có quan hệ đến những vấn đề
xã hội, có ảnh hưởng đến xã hội, còn yếu tố nào không quan hệ, không có
ảnh hưởng đến xã hội (xét về mặt chính trị, về đạo đức xã hội). Hay nói cách
khác, yếu tố nào thuộc phạm vi xã hội, và yếu tố nào thuộc phạm vi cá nhân.
Đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn trong việc giáo dục thị hiếu của xã hội và
sự tu dưỡng rèn luyện thị hiếu của bản thân mỗi người.
Khi nhận xét về thị hiếu thẩm mỹ ở một người, ta nên phát hiện yếu tố
xã hội chủ yếu ở mặt nội dung và yếu tố cá nhân chủ yếu ở mặt hình thức.
Thực chất là nội dung không tách rời hình thức, nhưng trong vận dụng thực
tiễn cũng có khi cần phân biệt.
Trong một hiện tượng thị hiếu, yếu tố nội dung thường thể hiện ở quan
điểm, lập trường tư tưởng trong khi lựa chọn cái đẹp và nghệ thuật, thể hiện
ở ý nghĩa, tác dụng của đối tượng ta yêu thích đối với đời sống xã hội, đối với
đạo đức, chính trị, thuần phong mỹ tục.
Biểu hiện về phương diện hình thức của thị hiếu thường là sự ham
thích loại hình, loại thể, nghệ thuật và phong cách, bút pháp, ngôn ngữ, chất
liệu. Thơ hay truyện, âm nhạc hay hội họa, nhạc hát hay nhạc đàn, tranh
phong cảnh hay tranh sinh hoạt, phong cách, bút pháp của nhà thơ, nhà văn
nào, màu sắc nào, v.v... Những biểu hiện hình thức này của thị hiếu thường ít
liên quan với những vấn đề xã hội, cho nên có thể xem là thuộc phạm vi tự do
sáng tạo, lựa chọn của cá nhân.
Những vấn đề nội dung ý nghĩa thường xuất phát từ nhân sinh quan,
đạo đức, lối sống của con người. Những vấn đề hình thức bút pháp thường
do đặc điểm riêng về năng lực, điều kiện giáo dục riêng, kinh nghiêm và cá
tính. Ý thích của mỗi người thường được hình thành trên những cơ sở kinh
nghiêm, những kỷ niệm riêng. Ngay cả mặt sinh lý, mặt di truyền cũng tạo ra
cái độc đáo cá nhân của thị hiếu. Do sức khỏe vốn ốm yếu, có thể có bạn ưa
những màu sắc nhẹ nhàng, không chói mắt hay những loại nhạc êm nhẹ,
những nhạc cụ ít tiếng vang, điều đó chẳng ai trách. Nhưng nếu chỉ chọn
những sản phẩm có nội dung tiêu cực, bệnh hoạn để phù hợp với cái tạng
gầy yếu của bạn thì lại là vấn đề khác. Những ý thích riêng do tâm sinh lý, do
điều kiện sống riêng tạo nên, cũng rất tương đối, vẫn có thể thay đổi trong
những hoàn cảnh và với biện pháp giáo dục nào đó. Nhu cầu và ý thích riêng
cũng có thể đi từ tiêu cực đến tích cực, hay ngược lại, từ tích cực trở thành
tiêu cực. Có người từ chỗ thích phim truyện khiêu dâm, bạo lực đến chỗ ghét
các loại đó, Nhưng cũng có người trước chưa đọc, chưa xem khi tình cờ tiếp
xúc với nó, đâm ra ham, tập thêm cho mình một thói quen xấu. Trong giáo
dục thẩm mỹ, cần chú ý khuyến khích sự phát triển nhu cầu, ý thích của cá
nhân đi theo hướng ngày càng tích cực và luôn đề phòng uốn nắn sự đi
ngược chiều. Mặt khác, luôn tìm cách bồi bổ, nâng cao trình độ hiểu biết của
mọi người để những sự ham thích không bị thành kiến, thiên lệch, phiến diện.
Thích nghệ thuật này, không thích nghệ thuật khác, nhiều khi chỉ vì sự hiểu
biết ít ỏi, phiến diện do thói quen và do thành kiến, chưa hẳn đã là một bản
lĩnh độc đáo, sâu sắc.
Tóm lại trong việc giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, ngoài việc bồi dưỡng lý
tưởng thẩm mỹ cho xã hội, cần chú ý cả sự ổn định và phát triển của cá nhân.
Cần hướng dẫn thị hiếu cho mọi người mang nội dung xã hội tích cực, tiến bộ
theo một lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến, nhưng mặt khác cũng cần chú ý đến đặc
điểm riêng của từng người, làm cho mỗi người có một cá tính đặc sắc trong
sự am hiểu, trong sự sáng tạo và thưởng thức cái đẹp. Đó là công việc khó
khăn của giáo dục và rèn luyện thị hiếu, nhằm xây dựng một vườn hoa rộng
lớn trăm hồng ngàn tía, trong đó mỗi một bông hoa đều có vẻ đẹp và hương
thơm riêng.
3) Hai khuyết tật cần ngăn ngừa.
Thị hiếu thẩm mỹ là sự ưa chuộng, sự ham thích đối tượng có mang
tính thẩm mỹ. Nó là vấn đề ý thức được cụ thể hóa bằng hành động, bằng vật
phẩm. Nó in dấu vết trên hầu khắp những gì do con người tạo ra trong môi
trường sống.
Những biểu hiện tiêu cực về mặt thị hiếu rất phức tạp và đa dạng, như
trạng thái bệnh tật của cơ thể con người, không thể bắt mạch kê đơn chính
xác ngay từ đầu, mà cần phải qua một quá trình nghiên cứu phân tích dựa
vào lý luận khoa học và kinh nghiệm. Nhưng bước đầu ta có thể lần ra được
từ trong cái phức tạp đa dạng kia những quy luật chung, những bệnh trạng có
tính chất phổ biến. Trong việc sáng tạo thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật,
trong nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ, những biểu hiện xấu thường qui vào hai
hiên tượng sau đây: chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên.
Hai khái niệm chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên ở đây hiểu
theo nghĩa rộng, nó chỉ là hai loại bệnh trong sinh hoạt thẩm mỹ, chứ không
phải tên gọi của một trường phái hay một xu hướng nghệ thuật. Đó là hai
chứng bệnh chung thể hiện cả trong sáng tác nghệ thuật và trong sinh hoạt
thẩm mỹ trong đời sống hàng ngày. Nó có thể có những mức độ biểu hiện
khác nhau hoặc xuất phát từ những cơ sở triết học sâu xa, nhưng nó cũng có
thể là sự biểu hiện hoàn toàn của cảm tính, tự phát theo thói quen của những
người bình thường, không làm văn học nghệ thuật và không am hiểu mấy về
văn hóa, văn nghệ. Tóm lại, mỗi một biểu hiện xấu nào đó về mặt thị hiếu
thẩm mỹ, dù có ý thức hay không có ý thức rõ ràng đều có thể rơi vào một
trong hai cái bệnh chung đó.
Trong đời sống hàng ngày, những biểu hiện hình thức và tự nhiên trong
nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ thường phát sinh từ lối sống. Nhưng cũng có khi
vì ít học hỏi, ít, hiểu biết, ham chạy theo cái mới cái lạ mà bắt chước các xu
hướng tiêu cực một cách mù quáng. Vì vậy, bất cứ ai cũng có thể mắc phải
những thứ bệnh hình thức hay tự nhiên nếu không có sự tu dưỡng rèn luyện
một thị hiếu thẩm mỹ tiên tiến. Hàng ngày đi trên đường phố hay về các làng
mạc, vào một cơ quan hay một phòng ở của tư nhân, ta đều có thể nhận thấy
những biểu hiện khác nhau của thị hiếu thẩm mỹ: từ kiến trúc của những khu
phố, những cửa hàng, trang trí trong môi trường hay bày biện trong nhà ở,
những biển quảng cáo, những khẩu hiệu, đến những mẫu hàng hóa, những
bìa sách, từ lối ăn mặc, đi đứng đến lời ăn tiếng nói, đến câu văn chữ viết
v.v... đều thể hiện rõ đặc tính về thị hiếu thẩm mỹ của con người. Ở tất cả các
hiện tượng đó, chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên đều có thể len lỏi
vào, nó không từ một khu vực nào, công cộng hay tư nhân, không từ một qui
mô nào, một tòa nhà hay một nét chữ trên vở học trò. Vì vậy, khi nói đến việc
tu dưỡng rèn luyện thị hiếu thẩm mỹ tiên tiến, cũng có nghĩa là luôn luôn đi
đôi với việc phê phán và tránh chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên, hai
thái cực của loại thị hiếu xấu.
Trước hết chúng ta hãy bàn về loại thị hiếu hình thức chủ nghĩa:
Quan điểm đúng đắn bao giờ cũng xem nội dung là yếu tố quan trọng
nhất, là mặt bản chất nhất. Hình thức tuy gắn bó với nôi dung, không có hình
thức thì không có nội dung, nhưng hình thức vẫn là mặt thứ hai, phục tùng sự
chỉ đạo của nội dung.
Thí dụ: Tổ chức một buổi dạ hội mừng công cuối năm, trong đó nội
dung mừng công là có ý nghĩa quyết định, nhưng phải có treo đèn kết hoa, có
ca nhạc, nghĩa là có cả hình thức thì mới thành buổi dạ hội. Tuy nhiên nếu tổ
chức hình thức quá linh đình, tiệc tùng phung phí, trống dong cờ mở... sẽ trở
thành phản tác dụng mất ý nghĩa đúng đắn của nội dung. Qua đó ta thấy vấn
đề hình thức là vấn đề mức độ. Tính mực thước là một yêu cầu hết sức quan
trọng trong việc xử lý hình thức, ở đó sẽ có sự coi nhẹ hoặc phủ định nội
dung. Mực thước ở đây là đảm bảo tính cân đối, hài hòa trong mối quan hệ
giữa hình thức và nội dung.
Đứng về bản chất xã hội mà nói, chủ nghĩa hình thức cực đoan bộc lộ
khi giai cấp thống trị cố tình lấy cái vỏ bên ngoài, lấy việc tô son trát phấn cho
bộ mặt để che đậy sự mục nát ở bên trong. Ngoài ra, ở những xã hội mà kinh
tế thương mại hoành hành, việc rao hàng, quảng cáo trở thành cứu cánh, thì
những hình thức phô trương cũng được phát triển cao độ. Người ta luôn luôn
phải căng óc để phân biệt cái thật, cái giả, phải vận dụng bao nhiêu năng lực
của trí tuệ mới nhìn thấy giá trị thật của hàng hóa, của cái đẹp, của con
người,
Trong sáng tạo nghệ thuật, tuy ở mức độ và qui mô khác nhau, nhưng
chủ nghĩa hình thức có khi là quan niệm nghệ thuật nhưng cũng có khi là sự
khủng hoảng về tư tưởng. Nó thể hiện lẻ tẻ ở một vài người, nhưng cũng có
khi ở cả một trường phái. Trong xã hội ta xu hướng vọng ngoại lai căng hình
thức vẫn còn thấy đó đây.
Trong sinh hoạt thẩm mỹ của con người, những biểu hiện không lành
mạnh thường hay xuất hiện đồng thời, hiện tượng nọ liên quan với hiện
tượng kia. Khi chủ nghĩa hình thức xuất hiện, thì chủ nghĩa tự nhiên cũng có
mặt. Chủ nghĩa hình thức biểu hiện ở mặt xử lý, vận dụng hình thức một cách
quá mức, phô trương giả tạo, biểu hiện sự cực đoan của hình thức đi đến che
lấp nội dung và phủ định, xóa bỏ nội dung. Còn chủ nghĩa tự nhiên đi về một
hướng khác, biểu hiện sự cực đoan trong việc đề cao yếu tố tự nhiên, từ sao
chép máy móc thô thiển đến chỗ lặp lại và tô đậm những yếu tố bản năng của
con người.
Chủ nghĩa tự nhiên là một thứ bệnh khá phổ biến trong sinh hoạt văn
hóa thẩm mỹ, nhất là trong hoàn cảnh suy đồi về đạo đức và hoàn cảnh đời
sống vật chất và văn hóa còn thấp kém. Nó không chỉ thể hiện trong văn
chương nghệ thuật, từ người sáng tác đến người thưởng thức, mà còn thể
hiện trong các lĩnh vực khác của đời sống, từ việc sản xuất hàng hóa, từ
phong tục, nếp sống đến sinh hoạt giao tế và thời trang.
Tính chất tự nhiên sao chép ấu trĩ vẫn thường gặp trong những trường
hợp thị hiếu thẩm mỹ của con người chưa phát triển. Người ta ưa sáng tác và
thưởng thức lặp lại những chi tiết y hệt tự nhiên, và người ta cho sự giống y
hệt đó là cái đẹp. (Ở đây cũng cần phân biệt thứ thị hiếu tầm thường đó với
yêu cầu nghiêm túc của sự tu dưỡng nghệ thuật, là phải biết quan sát tỉ mỉ và
thể hiện chính xác các hiện tượng của đời sống một cách chọn lọc). Những
đồ sừng, đồ sơn mài, những tranh vẽ trên bìa, trên kính, những tranh khắc,
những đồ có chạm trổ, những bưu ảnh bưu phiếu với những phong cảnh
chim hoa tùng hạc tỉa tót từng cái lông cái vảy, từng gân lá nụ hoa, những
tranh đàn bà Nhật, đàn bà Tàu tô vẽ từng sợi tóc, lông mi, nước da hồng, môi
son má phấn cố sao cho giống như thật tràn ra khắp thành thị và nông thôn,
gieo rắc thị hiếu tầm thường trong quần chúng. Nhưng hiện tượng trên đây
chỉ là việc của những người làm thủ công mỹ nghệ và mang tính chất thương
mại. Đáng buồn hơn nữa là những người tự xưng là nghệ sĩ, làm công việc
của nhà văn hóa, vì mục đích gọi là "sáng tạo nghệ thuật" hiện nay thịnh hành
ở Âu Mỹ. Nhân danh nghệ thuật "mô-đéo-nít", họ mang cả giẻ rách, ống bơ rỉ,
mang cả cuốc xẻng và cả những đống đất, hay dắt cả một đàn ngựa bày vào
phòng triển lãm. Thậm chí có những người như họa sĩ Ben người Pháp, trình
bày cả bản thân con người ông ta, bằng cách ngồi chễm chệ trên chiếc ghế
và mang trước ngực tấm biển đề: "Hãy nhìn tôi thế là đủ". Trong âm nhạc và
múa, những người theo xu hướng tự nhiên chủ nghĩa cũng khai thác triệt để
những tiết tấu, màu sắc, động tác kích thích bản năng, hoặc dùng những
tiếng động tự nhiên thay cho giai điệu âm nhạc. Đó là chưa kể những dàn
nhạc của trường phái "âm nhạc cụ thể", đã lấy những đồ vật tự nhiên như nồi
niêu soong chảo đem hòa tấu thành những "nhạc khúc" kỳ dị.
Những biểu hiện của chủ nghĩa tự nhiên ở hình thái trên đây cũng mới
chỉ làm méo mó thị hiếu, thẩm mỹ của quần chúng, kỳ thực nó chưa có tác hại
bằng thứ chủ nghĩa tự nhiên bản năng và đồi trụy.
Sau nhiều thế kỷ bị đè nén dưới ách phong kiến và thần quyền, con
người bị bưng bít và bị nô dịch bởi những thứ triết lý phản tự nhiên, bị kềm
hãm trong vòng u tối, không biết nhìn và không dám nhìn vào tự nhiên đầy
sức sống đang phát triển. Nhưng khi được giải phóng ra khỏi sự kềm kẹp
phong kiến u tối đó, thì một xu hướng khác trong xã hội tư bản lại đẩy con
người vào vòng u tối khác, chỉ nhìn thấy cái bản năng tự nhiên mà không thấy
những giá trị xã hội, giá trị tinh thần cao quí khác.
Xuất phát từ quan điểm gọi là "khách quan", "phi chính trị", môt số nhà
văn tự trao cho mình nhiệm vụ nhà khoa học trong phòng thí nghiệm, viết văn
như làm thực nghiệm khoa học, chủ trương miêu tả không cần chọn lọc,
không cần hư cấu, như làm công việc chụp ảnh. Trong thời kỳ đầu, trường
phái tự nhiên có ít nhiều tác dụng trong việc chống lại những quan điểm duy
tâm tôn giáo. Nhưng thái độ làm thực nghiêm khoa học của những nhà văn
này chỉ chú trọng khai thác những biểu hiện tiêu cực bệnh hoạn về thể chất
và tinh thần của con người đã mở đầu cho xu hướng nghệ thuật đồi trụy. Từ
những trang sách, băng nhạc, từ những bộ phim độc hại này, con người hiện
ra với bộ mặt xấu xa thảm hại, mang rõ hai đặc tính dâm dật và tàn bạo.
Chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên là hai thái cực của những
loại thị hiếu xấu. Hai thứ bệnh này có khả năng xâm nhập và lan tràn ở mọi
nơi mọi lúc, xoắn vào nhau trong một sản phẩm, một hiên tượng, cho đến
phong cách thị hiếu của một con người và rộng ra là của xã hội.
Để bồi dưỡng thị hiếu tốt, không thể không chú ý gạn lọc ra khỏi đời
sống thẩm mỹ những nhân tố hình thức và tự nhiên chủ nghĩa và phải luôn
chú ý ngăn ngừa sự thâm nhập của hai khuyết tật đó.
4) Vài quy luật của thị hiếu.
Thị hiếu thẩm mỹ cũng như mọi hiện tượng khác đều mang tính chất
quy luật. Có nhiều loại quy luật chi phối, nhưng có ba loại thường xuyên tác
động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu. Đó là quy luật xã hội học,
quy luật tâm lý học và quy luật thẩm mỹ học. Quy luật xã hội học và quy luật
tâm lý học có liên quan chặt chẽ với nhau, nhiều khi cũng khó phân biệt. Còn
quy luật thẩm mỹ học gần như là sự tổng hòa các quy luật kia về nội dung.
Việc phân tích quy luật của thị hiếu là nhằm đi sâu thêm một bước, tìm
hiểu các yếu tố đã tạo nên sự đa dạng phong phú của thị hiếu, và từ đó tìm
cách giáo dục, tổ chức cho mọi người có thể phát triển những biểu hiện của
thị hiếu tốt và hạn chế, xóa bỏ các biểu hiện của thị hiếu xấu.
Đối với các mốt, thời trang, có một quy luật xã hội là quy luật đổi mới
không ngừng. Hiểu được điều đó ta không xóa bỏ; tiêu diệt sự đổi mới mà tìm
cách không chế sự phát triển của các mốt xấu, và lợi dụng quy luật đổi mới
để khuyến khích sáng tạo và hưởng ứng các "mốt" tốt, lành mạnh. Hoặc như
sự ưa thích những tình huống hồi hộp trong thưởng thức nghệ thuật, là một
quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ. Hiểu được điều đó, ta không xóa bỏ,
không tiêu diệt những tình huống hồi hộp, vì làm như thế nghệ thuật sẽ không
còn hấp dẫn nữa. Ta tìm cách hạn chế tình trạng gây hồi hộp một cách vô
nghĩa, rẻ tiền, thậm chí có hại, trong các tác phẩm nghệ thuật. Nhất là loại
truyện, phim khuếch trương bạo lực. Trái lại, ta khuyến khích việc sáng tạo
những tình huống hồi hộp để thu hút người xem vào những sự tích giáo dục
lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm.
Quy luật xã hội học của thị hiếu là quy luật của sự phát sinh, phát triển
và tiêu vong của các loại thị hiếu, của các loại "mốt".
Thị hiếu là sản phẩm tinh thần của một xã hội nhất định, xã hội thay đổi
thì thị hiếu cũng thay đổi. Mảnh đất sinh trưởng trực tiếp của thị hiếu là lẽ
sống, lối sống của con người. Đồng thời khi lối sống thay đổi thì thị hiếu cũng
sẽ bị tiêu vong. Người say mê lẽ sống, lối sống lành mạnh, tích cực thì cũng
có nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ trong sáng cao đẹp. Người ham lối sống lười
biếng, lười học hỏi và lao động thì sẽ nảy sinh những nhu cầu thẩm mỹ thấp
kém. Do đó, khi hiểu quy luật xã hội, trước hết là quy luật hình thành và tiêu
vong của thị hiếu, ta có thể biết được rằng muốn làm nảy nở hay tiêu diệt một
loại thị hiếu, một loại mốt nào đó, ta phải theo đúng quy luật, là đi từ gốc rễ,
phải cải tạo xã hội và lối sống, hay ít ra cũng phải lấy việc giáo dục cải tạo thị
hiếu. Không thể chỉ làm công việc phê phán thị hiếu đơn thuần, tách rời sự cải
tạo xã hội và lối sống, càng không thể chỉ làm biện pháp hành chính để tiêu
diệt thị hiếu xấu, làm như thế chẳng khác gì làm cỏ mà chỉ ngắt lá và ngọn cỏ.
Tóm lại, có thể thấy rằng, sự sinh thành, phát triển và tiêu vong của thị hiếu
nói cho cùng có quan hệ với lẽ sống và lối sống của con người.
Bên cạnh quy luật cơ bản đó, ta cần quan tâm đến những quy luật đặc
biêt như quy luật đổi mới không ngừng và quy luật lây lan của thị hiếu.
Xung quanh ta, thiên nhiên biến đổi không ngừng, màu sắc và ánh
sáng đổi thay theo mặt trời, theo mùa, sự đổi thay của thời tiết khí hậu, của
đời sống động vật và thực vật, của sự sinh nở và héo tàn. Con người sống và
hoạt động trong bối cảnh thiên nhiên và xã hội đó, tất nhiên cũng có nhu cầu
đổi mới không ngừng đời sống của mình, trong đó có nhu cầu về thưởng thức
cái đẹp, nhu cầu tô điểm làm đẹp cuộc sống. Sự đổi mới thường xuyên của
các "mốt" trong sinh hoạt thẩm mỹ là biểu hiện của tình hình đó. Nó là một
quy luật khách quan, con người chỉ có thể lợi dụng nó để hướng dẫn, uốn nắn
sự đổi mới chứ không thể ngăn chặn sự đổi mới. Một bài hát dù hay đến đâu
cũng không thể hát mãi ngày nọ sang ngày kia. Từ chiếc áo, đôi dép, đôi giày,
đến hình dáng chiếc ô tô... đều luôn luôn phải được cải tiến, đổi mới.
Một quy luật xã hội có tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ nữa là quy
luật về sự lây lan. Các mốt mới được sinh ra nhanh chóng là nhờ quy luật của
sự đổi mới, nhưng được truyền đi nhanh chóng là nhờ quy luật của sự lây
lan. Trên dãy Trường Sơn có thứ cây được đặt tên "cây cải bay”, loại rau
rừng có thể ăn được, có mùi thơm như mùi cải cúc. Gọi là "cải bay" vì hoa và
hạt của nó bay di rất nhanh. Nơi nào có một vài cây, lập tức mấy hôm sau cả
vùng đất trở thành một bãi mọc đầy "cải bay". Ta có thể hình dung sự lan
truyền của các "mốt" cũng như vậy. Đàn ông để tóc dài, quần ống loe, những
bản nhạc pha tiết tấu và âm sắc của người da đen, da đỏ vừa mới thịnh hành
ở một vài trung tâm Âu Mỹ, một vài năm sau dã lây lan khắp thế giới. Các
"mốt" cũng đi tìm bạn, tìm sự đồng điệu. "Mốt" Âu Mỹ lan rộng khắp mảnh đất
Âu Mỹ và đến các nước phụ thuộc một cách dễ dàng như đi vào nhà mình,
không cần hộ chiếu, thông hành gì hết.
Trong quy luật lây lan của "mốt", một hiện tượng dễ thấy là những "mốt”
không lành mạnh, không đẹp thường lan nhanh ở nơi nào con người thiếu đời
sống phong phú bên trong, thiếu óc thẩm mỹ đúng đắn. Khi đời sống bên
trong nghèo nàn, trống rỗng thì người ta tự làm phong phú mình bằng cái bên
ngoài.
Trong những điều kiện tạo nên sự lây lan của "mốt" có điều kiện lứa
tuổi, nghề nghiệp. Tuổi trẻ là lứa tuổi nhạy bén và vồ vập với cái mới nhiều
hơn lứa tuổi già. Những nghề nghiệp ít lam lũ có điều kiện tiếp thu "mốt"
chóng hơn.
Một biểu hiện có vẻ mâu thuẫn nhưng rất biện chứng của quy luật lây
lan là các "mốt" xấu thường xuất hiện ở những trung tâm "văn minh". Hiện
tượng đó nói lên rằng, các trung tâm gọi là văn minh, thường là nơi tập trung
nhiều mâu thuẫn đối lập của nền văn hóa, nơi tập trung của các đầu mối
thông tin liên lạc và giao tiếp, nơi trung tâm lan tỏa những gì tốt nhất và cả
những gì xấu nhất.
Sự lây lan không phải chỉ biểu hiện ở những loại thị hiếu xấu, các "mốt"
xấu. Sự ảnh hưởng lây lan của các "mốt" mới với vẻ đẹp trong sáng giản dị,
hài hòa, lành mạnh vẫn được phát triển trong lớp người mới, trong những con
người có cuộc sống lao động chân chính và lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp.
Những năm gần đây, tâm lý học đã đi sâu nghiên cứu những hiện
tượng tâm lý biểu hiện trong những mặt hoạt động khác nhau của con người,
trong đó có tâm lý thẩm mỹ, tâm lý nghệ thuật. Thị hiếu thẩm mỹ là một mục
tiêu nghiên cứu của tâm lý học thẩm mỹ và tâm lý học nghệ thuật. Những
thành tựu mới nhất của các khoa học này về mặt thực nghiệm là những thành
tựu nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Ở đây, ta thử đi vào những khía cạnh
tâm lý, biểu hiện thành những quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ.
Tâm lý con người cũng như bộ máy ra-đa phức tạp và bao giờ cũng
hoạt đông định hướng. Sự định hướng về tâm lý là do nhu cầu bên trong của
con người muốn phản ánh hay tác động đến đối tượng bên ngoài. Nếu bắt
gặp đối tượng phù hợp với nhu cầu đó, lập tức "bộ máy ra-đa" đó hoạt động
mạnh mẽ để thu hút hình ảnh đối tượng vào mình. Quy luật tâm lý chính là
quy luật thích ứng giữa nhu cầu, tình cảm của con người và đối tượng bên
ngoài. Nói cụ thể hơn, về phương diện thẩm mỹ, đó là sở thích của con người
về cái đẹp, về tác phẩm nghệ thuật và những cái đẹp, những tác phẩm nghệ
thuật đó đã đáp ứng đúng theo sở thích của con người. Sở thích và đối tượng
hoàn toàn phù hợp, nhu cầu tình cảm được thỏa mãn, đó là quy luật tâm lý
đang hoạt động thuận chiều. Nắm bắt và khai thác các quy luật tâm lý của con
người trong thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật là việc làm của con người
sáng tác, người tổ chức chỉ đạo công tác văn hóa nghệ thuật. Ngay cả những
người làm công việc kinh doanh những hàng hóa có liên quan đến thẩm mỹ
cũng khai thác những quy luật tâm lý này. Một cuốn sách in hàng vạn bản,
mới ra đã bán hết, nhưng cũng có cuốn sách in rất ít nhưng bày trong tủ kính
hàng năm trời vẫn không ai hỏi đến. Có bộ phim người chen đầy cửa rạp để
mua vé, nhưng cũng có bộ phim khán giả chỉ ngồi xem trên năm ba hàng ghế.
Ta thấy quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ cũng gần giống như thứ quy luật
cung cầu trên thị trường: cũng có sự hâm mộ, đắt hàng, hay sự lạnh nhạt, ế
ẩm. Và đã nói là quy luật thì ta không thể xử lý một cách chủ quan, bằng biện
pháp áp đặt.
Trong khi chọn món ăn hoặc tiêu dùng hàng hóa, con người ta có
những ý thích, những nhu cầu khác nhau. Trong thưởng thức cái đẹp và nghệ
thuật cũng có nhu cầu như vậy. Trong con người, các nhu cầu về tình cảm rất
phức tạp, nó là hiện tượng xã hội, gắn bó với đạo đức, với quan điểm chính
trị xã hội, và nó chia ra hai chiều hướng rõ rệt: nhu cầu - tình cảm cao thượng
và nhu cầu - tình cảm thấp kém. Do đó, khi nói đến sự vận dụng quy luật tâm
lý của thị hiếu thẩm mỹ, cần luôn luôn chú ý đến hai chiều hướng khác nhau
đó.
Một quy luật tâm lý phổ biến khác là sự say mê cái đẹp và nghệ thuật.
Những trang tiểu thuyết, những vở tuồng, những bộ phim, bài ca, bản nhạc,
cho đến những vẻ đẹp hình thức của con người và của mọi vật xung quanh
bao giờ cũng thu hút niềm say mê của con người. Niềm say mê đó là một quy
luật tâm lý. Quy luật say mê nghệ thuật trong tâm lý con người cũng là một
thực tế cần phải biết lợi dụng sức mạnh của nó theo chiều hướng có lợi. Từ
việc chăm lo đến vẻ đẹp hình thức của trang phục, nơi ăn chốn ở đến việc
sáng tác những tác phẩm nghệ thuật, đều thể hiện năng lực sáng tạo và nhu
cầu đó của con người. Vận dụng quy luật này, ta cần phải biết coi trọng hình
thức. Trong khi chủ trương nội dung là yếu tố cơ bản, ta vẫn không quên
chăm lo yếu tố hình thức. Không nên phân liều lượng dành công sức nặng
hay nhẹ cho nội dung hay hình thức, mà phải xem trọng việc chăm lo cả hai
mặt đó mới mong đạt tới sự hấp dẫn của nghệ thuật, mới thực hiện được
chức năng xã hội của nghệ thuật. Đó là nói về sự đáp ứng quy luật tâm lý ưa
chuộng hình thức đẹp, không phải chỉ trong nghệ thuật mà trong tất cả lĩnh
vực sinh hoạt thẩm mỹ, trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, chiều hướng
thứ hai, chiều hướng tiêu cực của loại quy luật tâm lý này, cũng cần phải thấy
rõ để tìm cách hạn chế. Đó là xu hướng sinh hình thức, cầu kỳ hoặc rối rắm,
phô trương, rơi vào chủ nghĩa hình thức.
Một loại quy luật tâm lý khác trong thị hiếu thẩm mỹ của con người là
sự ham thích những tình huống xung đột gay cấn trong nghệ thuật. Khi xem
truyện, xem kịch, xem phim hay cả trong khi xem xiếc, xem thể thao, người ta
thường muốn chứng kiến những phút giây hồi hộp căng thẳng của trạng thái
xung đột. Từ xưa tới nay, các loại nghệ thuật đã thường xuyên thay đổi các
yếu tố xung đột này để đáp ứng yêu cầu tâm lý đó. Tuy nhiên, quy luật này
cũng có hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Khi muốn vận dụng theo chiều
hướng tích cực, ta khai thác những xung đột kịch tính trong đời sống để đưa
vào tác phẩm nghệ thuật, nhưng cần lựa chọn những xung đột có ý nghĩa, có
tác dụng giáo dục tốt, như xung đột giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện
và ác... nhằm khẳng định ca ngợi cái chính nghĩa, cái thiện. Trong điện ảnh
thương mại người ta thường lạm dụng, khai thác những "pha” gây hồi hộp
căng thẳng bằng những vụ tống tiền, cướp của, giết người... Những phim,
truyện lạm dụng yếu tố bạo lực thường thu hút rất đông người xem, chính vì
nó đã khai thác tối đa quy luật tâm lý trên. Bằng mọi giá, mọi thủ đoạn rẻ tiền,
những kẻ viết sách dựng phim và cho lưu hành loại này chỉ vì mục đích
thương mại đơn thuần nhờ lợi dụng yếu tố trong tâm lý cảm thụ thẩm mỹ của
công chúng. Trong ngành xiếc và võ thuật cũng vậy. Nếu chỉ vì mục đích hấp
dẫn để thu hút nhiều tiền, người ta tìm cách khai thác những thao tác đầy tính
chất mạo hiểm, lại không có bảo hiểm tương xứng, coi nhẹ tính mạng người
diễn viên, tạo ra sự hồi hộp kèm theo nỗi khiếp sợ có hại cho tâm lý người
xem. Nếu khai thác quy luật này theo chiều hướng tích cực, lành mạnh, người
ta sẽ biết tạo ra những thao tác gợi hứng thú về những hành động dũng cảm
gan dạ, gợi tình cảm khâm phục và quý trọng đối với diễn viên.
Ta có thể dẫn chứng thêm một loại quy luật tâm lý nữa là sự rung động
trước những câu chuyên tình yêu. Thật khó tưởng tượng một tác phẩm nghệ
thuật không có tình người: đó là tình yêu cha mẹ, anh em, tình yêu bè bạn,
tình yêu nam nữ, trong đó tình yêu nam nữ là một loại đề tài muôn thuở. Tình
yêu nói chung, tình yêu nam nữ nói riêng, là nhu cầu, là quy luật tất yếu trong
thẩm mỹ và nghệ thuật. Hình ảnh người phụ nữ và những câu chuyện yêu
đương đã được các nghệ sĩ tìm cách miêu tả với nhiều xúc động say mê.
Người đọc, người xem cũng hưởng ứng với những xúc động, say mê như
vậy. Và ở đây cũng diễn ra hai chiều hướng khác nhau. Có loại nghệ thuật
phản ánh những tình yêu đẹp, giàu chất nhân bản. Có loại nghệ thuật miêu tả
những thứ tình ái vô luân sa đọa, không nhằm phê phán. Loại văn hóa phẩm
thương mại thường khai thác những chuyện tình rẻ tiền và những hình ảnh
khiêu gợi nhục cảm, hủy diệt mỹ cảm của con người
Ngoài những quy luật xã hội học và tâm lý học, còn cần chú ý đến
những quy luật thẩm mỹ học. Như trên đã nói, quy luật thẩm mỹ vận động
trên cơ sở xã hội và tâm lý. Vậy có thể xem đây là sự tổng hòa những quy
luật xã hội học và tâm lý học. Việc phát triển hình thức ca khúc tuổi trẻ ở
nhiều nước trong những năm gần đây vừa là do tính năng động của hình thức
sinh hoạt văn hóa trong xã hội hiện đại, trong những thành phố công nghiệp,
vừa là đáp ứng một nhu cầu tâm lý của công chúng, nhất là tuổi trẻ mong có
một loại thể nghệ thuật phản ánh nhanh và nhạy nhất tình cảm của con
người. Tuy nhiên, khi nói đến những quy luật thẩm mỹ, cần nhấn mạnh tính
đặc thù của nó, so với những quy luật tâm lý và xã hội.
Một quy luật thẩm mỹ đáng lưu ý đầu tiên là quy luật của cái hài hòa.
Trong lịch sử của cái đẹp và lịch sử nghệ thuật, sự phát triển của cái hài hòa
thường đi từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ
thể đến trừu tượng. Mặt khác, cái hài hòa luôn được điều chỉnh theo chiều
hướng tiến bộ, xét về mặt khoa học và lịch sử. Ở đây cũng có quy luật của sự
đào thải, như quy luật đào thải trong tự nhiên: cái gì không hài hòa trước sau
cũng bị hủy diệt. Nhìn vào lịch sử nghệ thuật tạo hình và lịch sử âm nhạc, ta
thấy rất rõ sự phát triển và biến đổi không ngừng của thị hiếu nghệ thuật -
cũng là sự biến đổi của cái hài hòa. Không thể lấy thị hiếu khi xem những pho
tượng Hy Lạp, xem tranh thời Phục hưng, nghe nhạc của trường phái cổ điển
thế kỷ XVIII để làm mẫu mực cho thị hiếu của con người hiện đại. Biết khai
thác quy luật phát triển hài hòa từ cụ thể đến trừu tượng, người sáng tác sẽ
biết nâng trình độ của tác phẩm nghệ thuật lên ngày càng cao đáp ứng được
nhu cầu của thị hiếu ngày một phát triển của con người. Nhưng cái hài hòa,
cái đẹp chỉ còn hài hòa nếu không xa rời cuộc sống. Nếu phát triển bằng con
đường xa rời cuộc sống, nghệ thuật sẽ khô cứng và trừu tượng. Cũng như
vậy, cần giải thích cho được cái hài hòa của những "mốt", những tiện nghi mà
thoạt nhìn chỉ thấy vẻ kỳ cục của nó. Ở đây cần có sự nhạy cảm và minh mẫn
về cái hài hòa để khỏi lẫn lộn vàng thau.
Về mặt thẩm mỹ, cũng cần chú ý đến quy luật chi phối, tác động lẫn
nhau giữa nội dung và hình thức. Vai trò chủ đạo của nội dung là điều tất yếu,
nhưng hình thức cũng có sức mạnh tự thân của nó, nếu không thì cần gì đến
hoạt động của mốt, cần gì những đội quân nhạc, cần gì những tấm huân
chương, hay những quân phục chính quy... Không thể hiểu máy móc thô thiển
theo lối: tóc tai quần áo là hình thức, đạo đức tư cách là nội dung, từ đó lấy
tóc tai để quy ra tư tưởng, đạo đức. Kinh nghiệm công tác văn hóa giáo dục ở
nước ta và nước ngoài cho thấy lối suy luận này đã đưa đến nhiều sự nhầm
lẫn đáng tiếc. Nhiều trường hợp, sự suy đồi về đạo đức lại không bắt đầu từ
tóc dài tóc rối mà lại bắt đầu từ bộ tóc ngắn gọn gàng nghiêm chỉnh. Khi ta
nhấn mạnh vai trò quyết định của nội dung, thì lại quên mất vai trò độc lập
tương đối của hình thức, nghĩa là không phải lúc nào hình thức cũng chịu
thuần phục nội dung, có nhiều khi nó có ngôn ngữ riêng, không dễ dàng nhận
ngay ra được. Khi ta sử dụng bộ lông con hổ, đâu phải vì ta có tính ác.
Qua một số điều phân tích trên, ta thấy thứ quy luật nào của thị hiếu
thẩm mỹ cũng có hai mặt, hai chiều hướng tích cực và tiêu cực và sức mạnh
của hai chiều hướng đó đều rất lớn. Mỗi một cộng đồng, một phe nhóm, do
mục đích riêng của mình, đều khai thác một trong hai chiều hướng đó. Trong
việc xây dựng tư tưởng của tình cảm mới cho con người, chúng ta cần
nghiên cứu những quy luật trên trong sinh hoạt thẩm mỹ để khai thác sức
mạnh của nó theo chiều hướng tích cực.
5) Để có một thị hiếu tốt.
Tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ là nét biểu hiện độc đáo của bản
chất con người. Ngoài khả năng lao động sáng tạo, ngoài những năng lực,
những phẩm chất về đạo đức, thì tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ đã làm cho
bản chất con người phong phú thêm rất nhiều. Nhưng tình cảm và thị hiếu
thẩm mỹ không phải là cái bẩm sinh, cũng như mọi điều hiền dữ, xấu đẹp ở
con người đều phải kinh qua giáo dục và rèn luyện. Người ta vẫn thường nêu
ba yếu tố hình thành các phẩm chất của con người, đó là di truyền, giáo dục
và tự rèn luyện. Có người nhấn mạnh mặt này, coi nhẹ mặt khác. Thực ra, cả
ba yếu tố này đều quan trọng, trong đó yếu tố tự rèn luyện có tầm quan trọng
đặc biệt.
Yếu tố di truyền có vai trò nhất định trong việc hình thành và phát triển
thị hiếu thẩm mỹ. Nền tảng văn hóa chung, sự nhạy cảm trong thưởng thức
cái đẹp và nghệ thuật năng khiếu âm nhạc, hội họa... của cha mẹ, của nhiều
đời kế tiếp trong gia đình, có ảnh hưởng rõ rệt đến thế hệ sau. Tuy vậy, yếu
tố di truyền chỉ là một tiền đề, một điều kiện đầu tiên, chưa đưa đến sự quyết
định tạo ra một năng lực thẩm mỹ. Cần phải có yếu tố giáo dục của xã hội,
của nhà trường và gia đình, thì những yếu tố di truyền, như những cái mầm
non đó mới lớn lên được. Giáo dục có vai trò rất lớn. Có khi cái mầm ấy về
năng lực đã có rồi nhưng không gặp được hoàn cảnh giáo dục tốt, cái mầm
đó bị thui chột, tàn lụi hoặc lớn lên theo chiều hướng xấu. Có những trẻ em từ
nhỏ khả năng nghệ thuật đã chớm nở nhưng do thiếu điều kiện để phát triển
nên cuối cùng lớn lên không còn khả năng đó nữa, hoặc bị ảnh hưởng của
hoàn cảnh xấu, phát triển những thị hiếu xấu, méo mó lệch lạc. Yếu tố giáo
dục, vì thế đã trở thành yếu tố chủ đạo đối với sự phát triển của con người.
Nhưng dù có di truyền hay giáo dục mà bản thân con người không nỗ lực,
không tự tu dưỡng thì cũng không thể phát triển năng lực thẩm mỹ. Những
bậc thiên tài về khoa học hay nghệ thuật đã trải qua biết bao sự nỗ lực rèn
luyện gian khổ và đã từng khẳng định thiên tài chỉ là kết quả của lao động.
Vậy đối với thị hiếu thẩm mỹ, nên chú ý giáo dục và rèn luyện như thế
nào?
Trước hết, nên hình dung cụ thể cấu tạo của thị hiếu thẩm mỹ có ba
chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Chiều cao của tư tưởng, chiều
rộng của sự hiểu biết nhiều mặt và chiều sâu của nhận thức, cảm xúc. Một thị
hiếu được phát triển đầy đủ bao giờ cũng phát triển cân đối cả ba phương
diện đó. Ngược lại một thị hiếu hình thành không cân đối sẽ là thị hiếu nghèo
nàn lệch lạc, méo mó.
Trong lúc giáo dục và rèn luyện thị hiếu thẩm mỹ, cũng như trong giáo
dục con người nói chung, yêu cầu đầu tiên là giáo dục lý tưởng thẩm mỹ tiến
bộ, đó là chiều cao của thị hiếu. Việc rèn luyện lý tưởng thẩm mỹ tất nhiên lệ
thuộc vào sự rèn luyện con người. Tất cả những nghệ sĩ sáng tác hay những
công chúng thưởng thức nghệ thuật với lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp, đã tạo ra
một lối sống đẹp, một nền nghệ thuật tiên tiến. Sự trùng hợp về lý tưởng xã
hội, đưa đến sự tri âm, tri kỷ trong lý tưởng thẩm mỹ. Tầm cao của lý tưởng
thẩm mỹ sẽ giúp người ta sáng mắt sáng lòng, biết lựa chọn, biết hướng cảm
tình về phía những cái đẹp chân chính, những tác phẩm có giá trị nhân đạo
của quá khứ cũng như hiện tại, những tinh hoa văn hóa văn nghệ của dân tộc
và của nhân loại.
Nói đến một thị hiếu thẩm mỹ có chiều rộng, là nói đến sự hiểu biết
nhiều mặt, phong phú về đời sống, về văn hóa khoa học, về nghệ thuật, để
làm nền tảng cho nhận thức thẩm mỹ.
Chỉ xem việc tổ chức nơi ăn chốn ở cũng đủ đánh giá được trình độ
văn hóa thẩm mỹ và hiểu được tính cách của một con người. Đọc sách của
Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, như trong Tắt đèn và Bước đường cùng,
ta thấy các nhà văn này đã miêu tả căn nhà của hai địa chủ Nghị Quế và Nghị
Lại. Những sự bày biện, những đồ dùng và tranh ảnh trong nhà bộc lộ rõ tính
cách "trưởng giả học làm sang", ngu dốt nhưng lại rất hợm hĩnh của những
tay trọc phú này.
Trong vốn tri thức cần thiết giúp cho sự hiểu biết rộng, thì tri thức về
nghệ thuật có ý nghĩa trực tiếp nhất trong việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ.
Trước hết là học tập các môn nghệ thuật, kiên trì rèn luyện các giác quan và
trau dồi năng khiếu, rèn luyện sự nhạy cảm trong khi tiếp xúc với cái đẹp và
nghệ thuật. K. Marx đã từng nói: "Muốn thưởng thức nghệ thuật thì phải được
giáo dục về mặt nghệ thuật", "khiếu âm nhạc của con người chỉ do âm nhạc
thức tỉnh, bản nhạc hay nhất cũng không có ý nghĩa gì đối với cái tai không
hiểu âm nhạc". Có nghĩa là khả năng thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật
không phải chỉ do trời phú cho, mà còn phải kinh qua học hỏi rèn luyện.
Sự hiểu biết hạn chế về nghệ thuật cản trở rất nhiều trong việc tiếp thu
toàn bộ những biểu hiện khác nhau của cái đẹp cũng như kho tàng phong
phú của văn hóa nghệ thuật trong và ngoài nước. Nhất là đối với những thể
loại nghệ thuật như tiểu thuyết, nhạc không lời, kịch hiện đại V.V.... cần có
trình độ văn hóa và nghệ thuật ở mức độ nhất định mới hiểu hết nội dung của
nó. Cần phải biết đặc điểm của từng loại hình nghệ thuật, ngôn ngữ riêng của
từng loại nghệ thuật và nhất là lịch sử của các trào lưu, trường phái nghệ
thuật khác nhau, của các tác giả khác nhau. Muốn có được những hiểu biết
đó về nghệ thuật, điều trước tiên phải học văn hóa, phải xóa nạn mù chữ,
phải nâng cao trình độ văn hóa phổ thông.
Bài 11. CUỘC TRANH CHẤP THẦM LẶNG CỦA BA VÙNG VĂN HÓA THẨM MỸ
Đời sống thẩm mỹ luôn có ba vùng tranh chấp, thôn tính lẫn nhau: vùng
tiên tiến, vùng trung bình và vùng thấp kém. Mỗi một người luôn bị lôi cuốn
vào một trong ba vùng đó. Vai trò của lực điều hành định hướng là cực kỳ
quan trọng.
Sinh hoạt thẩm mỹ thật muôn màu muôn vẻ, nhưng ở nơi đâu và thời
nào cũng quy tụ trong ba vùng chủ yếu. Giữa ba vùng đó thường xuyên có
những cuộc tranh chấp thầm lặng nhưng không kém phần gay gắt nhầm lẫn
đất của nhau, giành quyền bá chủ. Hàng nghìn năm qua, hiện nay, và trong
tương lai, chưa biết đến bao giờ cuộc tranh chấp này mới kết thúc. Ngay cả
khi loài người cùng nhau xóa bỏ những cuộc tranh chấp vũ trang (tức xóa bỏ
chiến tranh) thì có thể cuộc tranh chấp trong lĩnh vực đời sống tinh thần này
vẫn còn dai dẳng. Vì nó thuộc về thị hiếu, mà thị hiếu là tình cảm cá nhân của
con người, từ xưa đã có câu: "Không nên tranh cãi về thị hiếu" (Degustibus
non disputandum - tiếng La tinh). Ba vùng đó là gì, nằm ở đâu? Đó là ba vùng
hoạt động của ba loại nhu cầu thẩm mỹ, ba dạng thị hiếu thẩm mỹ, ba trình độ
sáng tạo và thưởng thức thẩm mỹ. Nó là một hộ phận của thế trận tranh chấp
giữa thiện và ác, chân và giả, đẹp và xấu, đồng thời là hệ quả của những
cuộc tranh chấp đó. Phạm vi, ranh giới giữa ba vùng không ổn định, không
phân chia rõ rệt, nên nó có thể đồng thời xuất hiện ở bất cứ đâu, trong một
quốc gia, một tập thể, một gia đình, và ngay trong mỗi con người, thậm chí
ngay trong một tác phẩm, một sản phẩm. Và trong hoạt động thẩm mỹ, bao
gồm ba khâu sản xuất, sản phẩm, tiêu thụ (trong nghệ thuật gọi là sáng tác,
tác phẩm, tiếp nhận), mỗi khâu đều có cả ba vùng tranh chấp. Tạm gọi như
sau:
Thứ nhất, vùng thẩm mỹ phát triển (vùng A).
Thứ hai, vùng thẩm mỹ trung bình (vùng B).
Thứ ba, vùng thẩm mỹ thấp kém (vùng C).
Hình như cái thang ba bậc này là sơ đồ chung của sự phát triển, của
cuộc tiến hóa của loài người, càng xuống thấp thì con người sẽ lùi về thời thái
cổ, trở về với trạng thái bản năng, càng lên cao thì con người được viết tên
mình bằng chữ N hoa. Sự mở rộng hay thu hẹp mỗi vùng sẽ phản ánh trình
độ phát triển, trình độ tiến hóa của một xã hội, một con người. Nhưng nhìn
chung ở thời nào vùng giữa cũng rộng hơn, vì cái "trung bình” thời nào cũng
chiếm ưu thế. Sự phấn đấu của con người qua các thời đại lịch sử, về
phương diện thẩm mỹ, là mở rộng vùng A, và khống chế, tiêu diệt vùng C. Xét
về trường kỳ lịch sử, thì sự mở rộng hay thu hẹp các vùng là do tiến độ phát
triển của văn hóa và văn minh. Nhưng xét theo từng thời kỳ, từng giai đoạn,
thì sự mở rộng hay thu hẹp này chủ yếu do những lực điều hành cơ chế vật
chất và tinh thần của xã hội.
Vậy bản đồ ba vùng ở xã hội ta hiện nay là thế nào?
Vùng C bao giờ cũng trong bóng tối, hành động bất hợp pháp (ngay cả
ở phương Tây nó cũng bị lên án). Dạng hoạt động này chỉ nhằm mục đích
làm tiền bẩn thỉu, cho lưu hành những sản phẩm văn hóa thấp kém nhằm kêu
gợi thú tính và nhục cảm, kích động những hình vi vô đạo đức.
Vùng A. Cả thập niên long đong và xuống cấp. Báo chí đã nói rất nhiều,
thậm chí cả chữ "SOS”, "kêu cứu". Vì sao? Sân khấu kịch tuồng, balê, nhạc
cổ điển, nhạc thính phòng quốc tế và dân tộc, hội họa, điêu khắc phi thương
mại, phim ảnh băng từ và các loại tác phẩm có liên quan đến chủ đề xã hội -
lịch sử v.v... đều bị lạnh nhạt, ế ẩm, trừ trường hợp rất đặc biệt. Nghệ sĩ có tài
và qua đào tạo kỷ, nay làm nghề phụ hoặc "vô nghệ". Do đâu? Do không có
bảo trợ, không có bảo hiểm, ở quốc gia nào, nếu muốn có một nền văn hóa
đích thực, đều có quỹ bao cấp và bù lỗ cho vùng này, không kể giá (Gần đây
tình hình đã được cải thiện khá hơn).
Do đó, vùng B đang bao chiếm hầu hết lãnh thổ. Đây là loại văn hóa
trung bình, vô thưởng vô phạt. Những sách truyện, phim ảnh băng từ và một
số vở diễn theo đề tài tình yêu, tâm lý xã hội, vỗ hiệp, dã sử, kinh dị, hình
sự... Âm nhạc nơi một số băng từ, nơi sàn diễn công viên nhà hàng, và trong
các gia đình. Sự sinh sôi của dạng văn hóa nghệ thuật này càng như nấm
gặp cơn mưa của kinh tế thị trường, lại rất phù hợp với tình hình đời sống,
mức sống khó khăn, trình độ dân trí còn thấp. Nhưng nó cũng là một tất yếu
của sự phát triển văn hóa tinh thần của xã hội, vì từ trong mớ hỗn độn này,
những tính chất sẽ được gạn lọc ra, khi công chúng mỗi ngày tự nâng mình
lên. Cần thận trọng, không nên lẫn lộn và không nên dùng những từ "đen",
"xấu", "độc" cho vùng này, những từ đó để dùng cho vùng C. Đây trước hết là
tình trạng chung, bình thường của mọi xã hội, vì trình độ văn hóa trung bình
bao giờ cũng chiếm đa số quần chúng. Người ta coi nghệ thuật là phương
tiện giải trí, đó là chuyện thường tình. Những sản phẩm vùng B nói chung đáp
ứng cho nhu cầu đó. Nó cần cho con người cũng như lương thực, ngũ cốc.
Chỉ ăn ngũ cốc, cũng duy trì được cuộc sống, nhưng vì thiếu chất, nên dễ còi
cọc, thậm chí chậm tiến, cả về thể chất và trí tuệ. Do đó mà thiếu khả năng đề
kháng, có thể bị bệnh tật xâm nhập. Nên vùng B dễ bị vùng C lấn chiếm.
Nhưng cần lưu ý một điều: Người ta tiếp thu những sản phẩm loại B không
chỉ do nhu cầu giải trí hoặc do trình độ văn hóa thẩm mỹ, mà còn do sự mệt
mỏi, an phận về mặt tâm lý xã hội, từ đó chỉ mong tìm đến những món ăn tinh
thần dễ dãi khỏi mệt óc bận tâm, cũng như giải khuây bằng tuần trà chén
rượu vậy. Cho nên sự mở mang quá mức vùng B cũng là không bình thường,
là nên báo động. Tóm lại cuộc tranh chấp thầm lặng đang diễn ra là:
Vùng C đang đà tiến công, có khi đắc thắng, thừa cơ kinh tế thị trường
phát triển, chính sách mở cửa, đục nước béo cò. (Phải cảnh giác, khi mở cửa
thì cả ruồi muỗi cũng bay vào).
Vùng A đang kêu cứu, cần trước hết vai trò Mạnh thường quân của
Nhà nước, sau đó là của tất cả những người yêu cái đẹp và nghệ thuật muốn
vươn tới những đỉnh cao của văn hóa tinh thần.
Vùng B đang tồn tại thoải mái, nhưng nếu quan tâm đến tương lai văn
hóa dân tộc, muốn hãnh diện trước thế giới, thì nên nhường bớt đất cho vùng
A. Vùng B này đang "làm ăn" được nhưng vì lẽ trên mà nên tiết chế bớt lại, kế
cả người xin phép và người cho phép.
Bài 12. GIÁO DỤC Ý THỨC VÀ TÌNH CẢM THẨM MỸ DÂN TỘC TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Làm thế nào trong dòng người đi vào thế kỷ 21, vẫn nhận ra một chân
dung con người Việt Nam, nhận ra được những bước đi dáng đứng của con
người Việt Nam. Để không bị xóa nhòa, bị mất hút trong dòng nguời hiện đại,
phải làm cho lớp trẻ thấm nhuần những tinh hoa văn hóa dân gian, văn hóa
dân tộc.
Trong những ngày này, đất nước, con người Việt Nam đang chuyển
mình mạnh mẽ để hòa nhập vào thế giới hiện đại. Điều hấp dẫn nhất hiện nay
là nhịp độ tăng trưởng kinh tế, là giấc mơ hóa rồng. Chủ nhân của một xứ sở
hóa rồng chắc hẳn hiện đại - hiện đại về mức sống tính bằng đô la, hiện đại
về trình độ văn hóa - khoa học, về lối sống v.v... Đó là nhứng yếu tố cần,
nhưng chưa đủ, để có thể hòa nhập, để có thể không bị xóa nhòa, không bị
mất hút trong dòng người hiện đại. Ngay tính toán để hóa rồng, cũng phải
hình dung là rồng Việt Nam, không thể giống những con rồng khác. Chắc là
các nhà chiến lược đã tính đến rồi, nhưng nói thêm vẫn không thừa. Ai cũng
biết, riêng hình ảnh con rồng, thời xưa cha ông ta đã không chịu bắt chước ai,
đã vẽ và chạm khắc con rồng Việt Nam. Thế mà nay, mới gõ cửa để bước
vào nhà họ rồng, đã bắt chước đủ kiểu: xây dựng nhà cửa, ăn mặc, hát hò,
giống hệt người ta, và trên đường phố giăng tầng tầng lớp lớp những quảng
cáo bằng tiếng nước ngoài. Thật tội nghiệp cho lớp tuổi nhỏ hiện nay của dân
tộc đang bị sống trong sự ô nhiễm đó. Làm thế nào trong dòng người đi vào
thế kỷ 21, vẫn nhận ra một chân dung con người Việt Nam, nhận ra được
những bước đi dáng đứng của con người Việt Nam. Muốn được như vậy cần
phải có một chương trình giáo dục những tinh hoa văn hóa dân tộc, văn hóa
dân gian, ngay từ bây giờ, cho mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, và tất nhiên trọng
tâm là lứa tuổi thanh thiếu niên, nhi đồng. Nếu thực sự có mối lo sẽ bị xóa
nhòa, bị mất hút, thì mới có sự quan tâm đầy đủ và đúng mức đến một
chương trình như vậy, không thua kém mức độ quan tâm về các kế hoạch
đầu tư, các chỉ tiêu kinh tế lớn.
Văn hóa dân gian không đồng nghĩa với văn hóa dân tộc, đó là hai
phạm trù có quan hệ gắn bó như hai vòng đồng tâm. Nếu văn hóa dân tộc là
cái gốc của văn hóa, thì văn hóa dân gian là cội rễ của cái gốc đó, nói cách
khác, văn hóa dân gian là cái gốc của cái gốc.
Một hình ảnh giản đơn, một chân lý giản dị, là ngay trong liên hiệp các
Hội văn học nghệ thuật, có bao nhiêu Hội chuyên ngành nghệ thuật là có bấy
nhiêu cái cội rễ dân gian, và mỗi nghệ sĩ thực thụ, đều đã được dưỡng dục từ
những mạch nước hút từ cái cội rễ đó. Nếu không phải thế mới là điều lạ, và
phải ngờ vực về cái danh xưng nghệ sĩ. Nếu chân lý giản dị đó được xem là
quan trọng, thì mọi công việc về văn hóa và văn nghệ phải được xem xét,
hoạch định từ rễ đến gốc, từ gốc đến ngọn. Có một hồi nào lo cho dân chủ bị
coi thường, ta nêu ra khẩu hiệu lấy dân làm gốc". Thì nay nếu thấy văn hóa
văn nghệ đang bị xuống cấp, đang bị xâm lăng, đang bị thương mại hóa thì
phải nêu khẩu hiệu "lây văn hóa dân tộc - văn hóa dân gian làm gốc". Và khẩu
hiệu không nên chỉ để hô hào suông.
Nhưng khi đã xem là cái gốc cái rễ, là rất cần thiết và rất quan trọng,
liền có câu hỏi tiếp theo về nội dung. Cần đem những gì để truyền bá, phổ
cập, để giáo dục cho những thế hệ đang sống và thế hệ mai sau, trong cái
kho tàng văn hóa dân gian cổ truyền kết hợp với những sáng tạo văn hóa dân
gian hiện đại? Những gì được gọi là tinh hoa đáng được bảo tồn, nhân lên, và
kế thừa, kể cả những tinh hoa đã bị mai một, bị tàn phá hủy hoại, phải được
khôi phục cho hồi sinh?
Không thể dừng lại ở mức giản đơn, hình thức, như cho mặc đồng
phục áo dài, cho học lại những bài dân ca, những truyện cổ tích, cho phục hồi
những lễ hội.... Điều đó thật cần thiết, nhưng không phải là cơ bản. Cần rút ra
từ kho tàng đồ sộ và phong phú phức tạp của văn hóa dân gian - dân tộc
những tinh hoa, tinh chất của nó, từ trong chiều sâu triết lý đến các phương
thức, phong cách hành xử, ứng xử, trong mọi mặt hoạt động của đời sống.
Nói cụ thể hơn, cần nghiên cứu những nguồn gốc quan niệm nhân sinh vũ trụ
của con người Việt Nam, để xuất phát từ đó người ta ứng xử theo phong
cách riêng, theo một lối riêng, trong thuần phong mỹ tục, trong sáng tác và
biểu diễn, trong xây dựng, kiến tạo môi trường sống một cách văn hóa và
thẩm mỹ. Nếu trong việc nghiên cứu văn hóa dân gian và dân tộc học, nghiên
cứu lịch sử nghệ thuật tạo hình và âm nhạc mấy chục năm qua ta đã từng
làm đã có thành tựu, thì đây chỉ là việc tiếp tục và tìm tòi những đáp số, không
phải là việc làm từ đầu. Từ những đáp số đó, đứng trên góc độ giáo dục, phải
qua một thời kỳ, như các nhà hóa học, phải tinh chế thành những nội dung
hiện đại cho phù hợp với nhu cầu tâm lý của con người hiện nay. Cho ăn chất
liệu sống chỉ là phụ, mà phải qua những chất liệu đã được tinh chế, tạo ra sản
phẩm mới.
Điều này đòi hỏi nhiều sự đầu tư về chiều sâu, về cả trí tuệ và tiền bạc,
nhưng không phải không làm được, và ta đã từng làm, đã thành công, đã
từng rút ra những phương châm: lấy ngoài phục vụ trong, lấy xưa phục vụ
nay. Tấm gương của cha ông, từ triết lý tam giáo trong đời sống nhân dân, từ
sáng tạo của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, của các trường phái thơ, nhạc,
họa thời kỳ trước 1945, những đỉnh cao đáng tự hào của văn hóa văn nghệ
dân tộc đều có tính chất dân gian, dân tộc qua tinh chế, hòa hợp bao dung
một cách tuyệt vời với những yếu tố văn hóa từ bên ngoài. Phương pháp và
biện pháp cũng từ những thành tựu đó mà ra, không có gì mới. Chỉ có điều
kiện để thực thi là luôn luôn mới, là phải bàn.
Những năm gần đây, nhiều nơi đã tổ chức lại các hình thức lễ hội, lập
các cơ sở nghiên cứu, đào tạo những ngành nghề truyền thống, tổ chức các
lớp học và hội thi dân ca dân nhạc, hát ru... Nếu không kể một số khía cạnh
nệ cổ hay xu hướng phục cổ không tránh được, còn nói chung đã có tác dụng
nhất định, nhằm gợi nhớ, lưu ý, như những tiếng chuông đánh thức những
giá trị đang tiềm ẩn trong tầng sâu của lịch sử tâm hồn dân tộc. Nhưng những
cố gắng ấy thật là ít ỏi, thưa thớt, thậm chí còn mang tính hình thức, tính
nghĩa vụ, hơn là một loại hoạt động tất yếu có bài bản nằm trong một hệ
thống chương trình. Cũng vì sự xuất hiện mang tính ngẫu nhiên, do tình cảm,
do thiện ý của một số nhà hoạt động văn hóa văn nghệ hay một số cơ quan,
nên những việc làm này không được nuôi dưỡng liên tục, không được nối
tiếp, và những kinh nghiệm quý, những thành tích thu được lại bị rơi vào quên
lãng. Tại thành phố Hồ Chí Minh, lần đầu tiên tổ chức thí nghiệm đưa việc dạy
nhạc dân tộc vào các lớp mẫu giáo và cấp I, nhưng cuộc thí nghiệm này đã
kết thúc cách đây gần chục năm, chỉ còn để lại một kỷ niệm. Vượt ra ngoài
tầm tay của Hội Văn nghệ dân gian, cả chục năm qua các cơ quan nghiên
cứu và quản lý văn hóa nghệ thuật, các đoàn thể quần chúng nhất là Đoàn
Thanh niên, ở thành phố Hồ Chí Minh đã làm được khá nhiều việc, nhưng
những cố gắng này chưa nhải là một chiến lược, càng chưa phải là một kế
hoạch tổng thể của nhà nước.
Trong mấy nghìn năm lịch sử, trên một lãnh thổ rộng lớn, với hàng trăm
sắc tộc, di sản văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong bề dày thời gian và
bề rộng không gian ấy, khai thác và gạn lọc những gì để giáo dục và phổ biến
cho thích hợp và có hiệu quả. Vì không phải cái gì thuộc về truyền thống, dù
thật sự tốt đẹp, cũng có thể tiếp nhận được với con người hiện đại, lối sống
hiện đại. Lĩnh vực của bảo tồn bảo tàng và lĩnh vực của giáo dục chỉ có quan
hệ tương hỗ, còn nội dung là hoàn toàn khác. Nhất là trong hoàn cảnh hiện
nay, sự giao lưu quốc tế nhanh chóng tiện lợi, tới mức muốn xem một cuộc
diễn nhạc rock từ bên kia đại dương còn dễ dàng hơn bà con ta ngày xưa
vượt sông để xem hát chèo ở làng bên cạnh. Từng ngày từng giờ; trong môi
trường văn hóa của ta, có bao nhiêu mũi tên bắn vào, lành có, độc có, nhưng
chắc chắn là ngoại lai, là rất nhiều, ngày càng nhiều, như một cơn mưa rào.
Thanh thiếu niên lứa tuổi mười sáu đôi mươi ở các đô thị hiện nay ưa thích
ca nhạc của nước ngoài và ca nhạc của Việt Nam ở nước ngoài nhiều hơn,
thích phim ảnh của nước ngoài hơn, nếu tìm được một số đối tượng ở lứa
tuổi này say mê tìm đến nghệ thuật dân gian và dân tộc, là một điều hiếm quý,
nếu không là một điều lạ. Không thể quy lỗi cho đối tượng, càng không thể lên
án phía nước ngoài đang làm ăn về văn hóa, mà phải tìm nguyên nhân ở phía
chủ thể quản lý văn hóa giáo dục. Vốn văn hóa văn nghệ dân gian và dân tộc
của ta có lẽ là không thua ai, kể cả về tài năng sáng tạo của lớp nghệ sĩ và
nghệ nhân của ta hiện nay, nhưng vì sao ta luôn bị hẩm hiu, luôn bị thua trận
trong cuộc chiến văn hóa này? Đây là chưa nói có những trường hợp người
ta nhắm mắt ký những hợp đồng cho nhập vào hay ký những giấy phép cho
lưu hành văn hóa phẩm xấu hoặc tầm thường, rẻ tiền, và những sản phẩm đó
đang ngày đêm gặm nhấm tâm hồn của tuổi trẻ.
Sau những cảm nghĩ và nhận xét bước đầu trên đây, chúng tôi xin có
mấy kiến nghị như sau:
1. Có một chiến lược quốc gia về văn hóa, trọng tâm là văn hóa dân
tộc, được cụ thể hóa bằng luật lệ, bằng đường lối chính sách, và đặc biệt là
về ngân sách.
2. Nhà nước hóa tất cả những chương trình giáo dục văn hóa dân tộc,
trước hết là có một chương trình giáo dục trong và ngoài nhà trường nằm
trong chiến lược quốc gia nói trên. Chương trình này do Bộ Giáo dục và Đào
tạo và Bộ Văn hóa Thông tin hoạch định soạn thảo với sự tham mưu của Hội
Văn hóa văn nghệ dân gian và các Hội khác.
3. Tạo mọi điều kiện về phía nhà nước cho Hội Văn hóa văn nghệ dân
gian ở trung ương và địa phương làm nòng cốt tham mưu và thúc đẩy việc
thực hiện chiến lược này: mở đầu là các công cuộc nghiên cứu toàn diện,
điều tra thống kê cơ bản, tiếp theo là nghiên cứu khoa học về kho dữ liệu để
làm công việc tinh lọc tinh chế, đưa vào hệ thống bảo tồn bảo tàng và hệ
thống giáo dục.
Nếu làm được như vậy ta sẽ không bị xóa nhòa, bị mất hút trên đường
phát triển.
TÓM LƯỢC
1. Mỹ học - khoa học làm đẹp cuộc sống
(Giới thiệu Khoa mỹ học)
Mỹ học [Thẩm mỹ học - Esthétique (P), Aesthetics (A)] là một khoa học
triết học, một khoa học giá trị, về cái đẹp và nghệ thuật.
- Mỹ học nghiên cứu bản chất của cái đẹp và những biến thái của nó
(bi, hài...) thể hiện trong ý thức và hoạt động thẩm mỹ.
- Mỹ học nghiên cứu vai trò vị trí xã hội của nghệ thuật, những quy luật
của tư duy sáng tạo nghệ thuật, tiếp nhận nghệ thuật, và nghiên cứu về cấu
trúc nghệ thuật.
Thời đại nào, dân tộc nào cũng có những quan niệm, những tư tưởng
mỹ học. Nhưng mỹ học khoa học chỉ ra đời và phát triển khi có những điều
kiện phát triển của văn hóa thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật, đồng thời có sự
phát triển của triết học và các khoa học nhân văn khác (Châu Âu: bắt đầu
giữa thế kỷ XVIII, phát triển từ thế kỷ XIX. Việt Nam: bắt đầu từ những năm
60).
2. Khúc dạo đầu
Cái đẹp (Le beau - The beautiful) là một mục tiêu lý tưởng của con
người.
Con người sống cầu mong được hưởng hạnh phúc và tình yêu trọn
vẹn: Niềm khát khao cái đẹp cũng tương tự như khát khao hạnh phúc và tình
yêu.
Cuộc sống thực tế luôn có cái xấu, cái ác, cái khó, ngăn trở con người
thực hiện cái đẹp. Nghệ sĩ là người đầu tiên hướng tới cái đẹp, thường bi
quan về sự sống mỏng manh của cái đẹp. Nhưng niềm tin và nghị lực đã giúp
con người chiến thắng cái xấu, cái ác, bảo tồn và phát triển cái đẹp.
Câu chuyện về cái đẹp, cái hài hòa phù hợp với khung cảnh mùa xuân,
ngày hội đón xuân, vì mùa xuân là thời điểm hội tụ của cái đẹp, cái hài hòa.
3. Ba nguồn sáng vĩnh hằng
(Vai trò cái đẹp trong bộ ba giá trị cơ bản của con người: Chân - Thiện -
Mỹ)
Cái chân (Le vrai - The genuine): cái đúng, cái thật.
Cái thiện (Le bien - The good): cái tốt.
Cái mỹ (Le beau - The beautiful): cái đẹp.
Đó là ba loại giá trị cơ bản nhất của cuộc sống con người, là tinh
hoa của văn hóa và văn minh trong mỗi cộng đồng người.
Giá trị được sinh ra bởi sự đánh giá của chủ thể đối với khách thể. Do
đó, Chân Thiện Mỹ luôn biến đổi qua không gian - thời gian bởi sự biến đổi
của mối quan hệ tương tác chủ thể - khách thể (S <=>O Subject / Object).
Chân Thiện Mỹ được thể hiện qua các hình thái hoạt động văn hóa và
xã hội như sau:
- Chân: văn hóa trí tuệ - hoạt động khoa học kỹ thuật.
- Thiện: văn hóa đạo đức - hoạt động giáo dục xã hội, hoạt động tôn
giáo.
- Mỹ: văn hóa thẩm mỹ - hoạt động văn học nghệ thuật.
Mỗi loại giá trị được vận dụng và phát huy chủ yếu ở một hình thái trên,
nhưng phải có sự liên kết, hỗ trợ của hai loại giá trị khác. Cái đẹp trong tác
phẩm nghệ thuật không thể thiếu cái chân, cái thiện. Cái thiện được truyền bá
thông qua thơ ca, hình vẽ - cái mỹ. Vậy, nghiên cứu cái mỹ (cái đẹp) phải gắn
liền với cái chân, cái thiện.
Cái chân (khoa học - kỹ thuật...) thiếu sự định hướng tích cực của cái
thiện, cái mỹ, sẽ trở thành công cụ có hại. Cái mỹ (văn hóa, nghệ thuật) thiếu
sự định hướng của cái thiện, thiếu cái chân, sẽ thành cái xấu (văn hóa, nghệ
thuật đồi trụy).
Cái mỹ khi mang cấu trúc toàn vẹn, đầy đủ nhất (cái toàn mỹ: các kiệt
tác nghệ thuật) hàm chứa cả ba loại giá trị. Vậy cái toàn mỹ là tập đại thành
của ba giá trị, là giá trị cao nhất.
4. Về một cuộc hành hương không biết mỏi
(Cái đẹp là mục tiêu lý tưởng, con người cần tìm đến)
Cái đẹp là hạnh phúc, ước mơ của con người. Nhưng số phận cái đẹp
lại mỏng manh, vì cái xấu, cái ác thường mạnh hơn. Nhưng con người vẫn
không hề mệt mỏi đi tìm cái đẹp.
Có sự gần gũi giữa hạnh phúc, tình yêu và cái đẹp, nhưng không phải
là sự đồng nhất. Cũng như chân, thiện, mỹ chỉ gần gũi nhưng không đồng
nhất. Vậy giá trị cái đẹp khác các giá trị khác ở chỗ nào. Cần phân biệt tìm cái
đẹp trong thực hành, bằng hành động làm đẹp, sáng tạo cái đẹp, và tìm cái
đẹp về mặt lý thuyết: nhận thức thế nào là bản chất cái đẹp. Bài này và bài
tiếp theo đề cập đến sự nhận thức bản chất cái đẹp, tìm định nghĩa cái đẹp là
gì.
5. Những nẻo đường tìm đẹp
(Sự giải thích khác nhau về bản chất cái đẹp)
Khi “đẹp” là tính từ (bông hoa đẹp, bức tranh đẹp), tương đối dễ giải
thích, vì nó cụ thể, nó gắn với một vật cụ thể. Nhưng khi “đẹp” là danh từ (“cái
đẹp”), trở thành khó hiểu, nó là một phạm trù trừu tượng. Hàng nghìn năm
qua người ta đã tìm mọi cách giải thích, định nghĩa “cái đẹp là gì”. Ta hãy xem
xét qua bốn cánh cửa sinh thành, cấu trúc, chức năng, sự vận động, để thấy
sự khác nhau, sự phong phú đa dạng của những cách nhìn cái đẹp:
5.1 Về nguồn gốc - sinh thành: Cái đẹp sản sinh ở đâu, sinh ra như thế nào?
- Quan niệm tôn giáo: Cái đẹp do Chúa ban phát cho con người. Cảm
thụ thẩm mỹ không được gắn với cảm xúc trần tục.
- Quan niệm dân gian: Cuộc sống trần thế đầy gian nan, vất vả, không
thể sản sinh cái đẹp. Cái đẹp chỉ có nơi thiên đình, chốn thiên thai, ở các vị
thần, các nàng tiên. Con người trần thế nếu muốn đẹp, cũng phải nhờ có thần
phật - ông bụt hóa phép cho (“Lọ nước thần”, “Tấm Cám”). Tóm lại, cái đẹp
chỉ là mơ ước.
- Quan niệm của các nghệ sĩ: Cái đẹp được phát hiện và miêu tả rất
khác nhau theo từng nghệ sĩ, từng khuynh hướng nghệ thuật. Có nghệ sĩ chỉ
chuyên về ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống cung đình, quí tộc, trưởng giả; hoặc
chỉ ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống phong lưu, nhàn hạ; hoặc chỉ ca ngợi vẻ
đẹp của những người lao động nghèo khổ; hoặc phủ ịnh vẻ đẹp của cuộc
sống thực tại, hoài niệm cái đẹp của thời đã qua, ngợi ca cái đẹp trong mộng
tưởng... Đóng khung, khoanh vùng sự tồn tại của cái đẹp trong phạm vi cảm
nhận của riêng mình, là do khuynh hướng tư tưởng, đồng thời do kinh nghiệm
sống của mỗi người nghệ sĩ.
- Quan niệm triết học: Khuynh hướng duy tâm khách quan cho cái đẹp
không có trong thế giới hiện thực, chỉ có trong thế giới siêu nhiên, thế giới của
“ý niệm” (Platông, Hêgel). Khuynh hướng duy tâm chủ quan cho cái đẹp
không tồn tại khách quan, chỉ xuất hiện trong quan niệm của con người
(Căng). Khuynh hướng duy vật máy móc cho cái đẹp có sẵn trong thiên
nhiên, trong thế giới vật chất, không liên can đến sự hiện diện của con người
(Phái “vị thiên nhiên” - Nga). Khuynh hướng duy vật dân chủ tiến bộ cho cái
đẹp là có thật trong đời sống hiện thực, từ kích thước, trật tự của sự vật
(Aritxtôt) đến toàn bộ những gì trong cuộc sống mà con người yêu thích, gắn
bó (Secnưsepxki). Khuynh hướng duy vật biện chứng nhấn mạnh ý nghĩa của
lao động và hoạt động thực tiễn đối với sự sản sinh cái đẹp (sản sinh chủ thể
sáng tạo và thưởng thức thẩm mỹ, sản sinh đối tượng - khách thể thẩm mỹ).
5.2 Về cấu trúc (Những nhân tố tạo thành cái đẹp: nội dung và hình thức)
Sự vật hiện tượng nào cũng có thể được cấu tạo bởi hai thành tố cơ
bản: nội dung và hình thức. Hiện tượng thẩm mỹ cũng như vậy. Những ý kiến
khác nhau về bản chất cái đẹp cũng thường xảy ra trong cuộc “tranh chấp”
nội dung - hình thức, phần nào là chủ yếu, là quyết định giá trị cái đẹp.
- Xu hướng thiên về nội dung: cái gì có ích là cái ấy đẹp, cái tốt chính là
cái đẹp, cái sự thật là cái đẹp, “cái nết đánh chết cái đẹp”. Đây đã đồng nhất
ba giá trị chân thiện mỹ.
- Xu hướng thiên về hình thức; các phương tiện, chất liệu, các cấu trúc
vật chất làm vui mắt vui tai... đã là cái đẹp (“màu đỏ là đẹp”, “đường cong là
đẹp”, “hình lập phương là đẹp”...).
Cả hai xu hướng đều có lý, đều nói về một phương diện của cái đẹp.
Nói cách khác, đó là cái đẹp nội dung, là cái đẹp hình thức. Và chỉ đến đấy.
Cần tiến tới một cách hiểu đầy đủ về cái đẹp. Đó là cái đẹp hoàn thiện, còn
gọi là cái hoàn mỹ, cái toàn mỹ, phải bao gồm cả hai mặt nội dung và hình
thức, lấy nội dung làm yếu tố chủ đạo.
- Xu hướng toàn diện, hài hòa: một sự vật đẹp phải bao gồm nội dung -
tinh thần (cái thật, cái tốt) và hình thức - vật chất (cái gợi cảm, gây hứng thú).
Hai mặt đó phải được kết hợp một cách nhuần nhị, phải có quan hệ hài hòa.
Ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân sinh tích cực thấm nhuần trong các hình tượng,
hình ảnh gợi cảm, hấp dẫn, đó là cấu trúc mang tính hài hòa của cái đẹp. Vậy
hài hòa chính là thước đo cấu trúc cúa cái đẹp.
Cái toàn mỹ là cấu trúc toàn vẹn cả ba giá trị chân thiện mỹ.
5.3 Về chức năng (Vai trò, tác dụng của cái đẹp đối với đời sống con người)
- Tác dụng tâm lý: Cái đẹp đem đến nhiều cảm xúc, như niềm vui, sự
hứng thú, sự hài lòng, thỏa mãn về tâm hồn, đó là cái đẹp tích cực, “cái đẹp
vui”. Có khi đem đến nỗi buồn, niềm căm giận, đó là cái đẹp tiêu cực, “cái đẹp
buồn”. Trường hợp thứ nhất, thí dụ, một người đẹp, một bông hoa đẹp.
Trường hợp thứ hai, thí dụ, một con người đẹp bị bạc đãi, một cánh hoa đẹp
bị xéo nát... Hiệu quả, dù tiêu cực hay tích cực, cái đẹp vẫn làm tâm hồn cao
thượng hơn, trong sáng hơn, một sự “gạn đục khơi trong”, từ mỹ học gọi là
“catácxít” (Aritxtôt).
- Tác dụng xã hội: Cái chân tạo nên trình độ dân trí, mặt bằng tri tuệ,
cái thiện xây dựng nền tảng đạo lý cho toàn xã hội, cái mỹ đem đến thuần
phong mỹ tục, tạo nên bộ mặt văn hóa, cuộc sống hài hòa của cả cộng đồng
dân tộc.
5.4 Về sự vận động (Sự tồn tại và phát triển của cái đẹp trong tọa độ không gian - thời gian)
- Mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi cộng đồng cư dân ở từng vùng từng miền
đều có những tập quán thẩm mỹ khác nhau, từ nhà cửa, đồ dùng, trang phục,
đến lời ca giọng hát. Mỗi con người cũng có thị hiếu thẩm mỹ của riêng mình,
lựa chọn, sáng tạo, thưởng ngoạn cái đẹp theo một lối riêng. Đó là sự thể
hiện trên trục không gian. Những sinh hoạt thẩm mỹ lại diễn ra theo thời gian,
đổi thay theo thị hiếu của từng thời đại. Đó là sự thể hiện trên trục thời gian.
Thí dụ: lối trang phục khác nhau của một dân tộc, trang phục dân tộc lại khác
nhau qua mỗi thời đại.
Không ngừng phát triển, biến đổi, mỗi hiện tượng thẩm mỹ chịu sự chi
phối của cả hai trục không gian - thời gian, đó là sự vận động biện chứng của
cái đẹp.
Qua các nẻo đường tìm đẹp, thu nhận những ý kiến khác nhau, có thể
định nghĩa cái đẹp như sau:
Cái đẹp là một phạm trù mỹ học trung tâm, dùng để chỉ loại giá trị tích
cực nhất về mặt thẩm mỹ, trong thiên nhiên, trong cuộc sống con người và
trong nghệ thuật. Phạm trù đẹp có những cấp độ ý nghĩa khác nhau: Ở cấp
độ chưa hoàn chỉnh, đó là những yếu tố cụ thể - cảm tính, có tác dụng tạo
nên một sự hứng thú nào đó. Ở cấp độ hoàn chỉnh - được xem như sự hoàn
mỹ, đó là những thực thể, có nội dung - tinh thần mang ý nghĩa xã hội - nhân
sinh tích cực, có hình thức - vật chất gợi cảm, được cấu trúc một cách hài
hòa, tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn, đem lại niềm vui sống cho con người.
Cái đẹp là giá trị có tính tâm lý - xã hội - lịch sử, luôn biến đổi, phát triển
trong không gian và thời gian (dân tộc - thời đại).
Sự biến thái của cái đẹp sẽ là cái kỳ vĩ, cái bi, cái hài. Cái kỳ vĩ (Le
sublime) là cái đẹp có ý nghĩa phi thường, huyền diệu, về quy mô cũng như
tác dụng tâm lý. Cái bi (Le tragique) là cái đẹp lâm vào tình thế xung đột gay
gắt và phải chịu thất bại trước cái xấu, cái ác. Cái hài (Le comique) là sự lợi
dụng cái đẹp, đội lốt cái đẹp để che đậy cái xấu, cái ác, cái phi lý hoặc cái yếu
đuối,
Toàn bộ hệ thống các phạm trù nói trên (cái đẹp, cái kỳ vĩ, cái bi, cái
hài) cùng với các yếu tố đối lập (cái xấu, cái nhỏ hẹp...) hợp thành siêu phạm
trù cái thẩm mỹ (L’esthetique).
6. Từ cái đẹp đến nghệ thuật
Trên mảnh đất của đời sống thực tiễn, cái đẹp đua nở trăm hoa, trong
thiên nhiên và trong đời sống con người. Cái đẹp kể cả cái đẹp trong thiên
nhiên như một giá trị xuất hiện cùng với con người. Nhưng nghệ thuật ra đời
muộn hơn.
Nghệ thuật chỉ là thành quả, là giá trị sáng tạo của con người, không có
trong thế giới tự nhiên.
Nghệ thuật chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển, đó là giao thời giữa xã hội
thị tộc và xã hội có nhà nước nô lệ. Bấy giờ con người đã phát triển về thể
chất và tinh thần để có thể trở thành người nghệ sĩ - chủ thể sáng tạo nghệ
thuật và nghệ thuật cũng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa trong sự phân
công lao động.
Ban đầu những yếu tố của nghệ thuật (nhạc điệu, màu sắc, vần thơ..,)
làm phương tiện truyền cảm để chuyên chở nội dung tư tưởng triết lý, đạo
đức, những tri thức khoa học và lịch sử, những tín điều tôn giáo... Đó là sự
liên kết tay đôi giữa nghệ thuật với các hình thái ý thức khác, gọi là nghệ thuật
ứng dụng - lưỡng tính (tiêu biểu nhất là nghệ thuật dân gian). Ở đây nghệ
thuật chỉ là một trong hai tính năng: tính năng nghệ thuật và tính năng ích
dụng (Đó là kiến trúc, mỹ nghệ, đồ họa, tượng thờ, văn ký sự...).
Nhưng khi đời sống nội tâm và hành vi ứng xử, gọi chung là hành động
- sống của con người đã trở thành một nội dung riêng biệt của nghệ thuật, thì
nghệ thuật thuần nhất - đơn tính ra đời. Nghệ thuật không còn là phương tiện
truyền cảm để phục vụ cho các hình thái ý thức khác, mà tự mình là một hình
thái độc lập, gọi là nghệ thuật thuần nhất (hay thuần túy) - đơn tính (chỉ có
một tính năng thẩm mỹ - nghệ thuật, không mang tính sử dụng, tính ích
dụng). Khi cần, nó sẽ thể hiện nội dung của các hình thái ý thức khác, nhưng
chỉ vì mục tiêu trên của nó, không nhằm minh họa, phục vụ riêng cho việc
truyền bá các hình thái Ý thức đó. Thí dụ: tinh thần dân tộc, lòng yêu nước
thuộc ý thức chính trị (Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi), ý thức đạo
đức trung, hiếu, tiết, nghĩa... (Lục Vân Tiên của Nguvễn Đình Chiểu), triết lý
định mệnh (Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Vậy xem xét lịch đại (theo quá trình lịch sử) hoặc đồng đại (diễn ra ngay
hiện tại), thường phải trải qua ba bậc thang, từ cái đẹp phổ cập đến cái đẹp
của nghệ thuật đơn tính:
1. Cái đẹp - phi nghệ thuật.
2. Cái đẹp - nghệ thuật ứng dụng - lưỡng tính.
3. Cái đẹp - nghệ thuật thuần nhất - đơn tính.
Trên ba bậc thang đó, có hai hệ thống nghệ thuật, tạm kể ra thành hai
bảng phân loại: Bảng I: Nghệ thuật thuần nhất, đơn tính gồm 7 loại hình.
Bảng II: Nghệ thuật ứng dụng, lưỡng tính gồm 14 loại hình (Sách).
Từ ba hình thái thẩm mỹ, rút ra ba định nghĩa: định nghĩa về cái đẹp,
định nghĩa về nghệ thuật nói chung và định nghĩa về nghệ thuật đơn tính
(Sách).
7. Đi vào bản chất của nghệ thuật đơn tính
Nơi tất cả phẩm hạnh của cái đẹp hội tụ lại, nơi sự sống con người hóa
thân, đó là nghệ thuật đơn tính. Đây là giai đoạn cao của sự phát triển của đời
sống thẩm mỹ nói chung, của trình độ sáng tạo và phát huy cá tính con người
nghệ sĩ nói riêng.
Tạm chia hai bình diện để dễ nhận xét: bản chất xã hội (nghiên cứu hệ
thống lớn: hướng ngoại) và bản chất thẩm mỹ (nghiên cứu hệ thống nhỏ:
hướng nội).
- Bản chất xã hội: Vị trí, vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội,
trong tương quan với các hình thái ý thức khác (chính trị, triết học, đạo đức,
khoa học, tôn giáo...). Căn cứ vào phát minh của Mác về hình thái kinh tế - xã
hội (hạ tầng cơ sở - thượng tầng kiến trúc): suy cho cùng, kinh tế là nền tảng
quyết định sự hình thành và phát triển của nghệ thuật, nhưng các yếu tố trung
gian thường quyết định trực tiếp, đặc biệt là chính trị, sau đó là tôn giáo và
đạo đức. Bản chất xã hội thường thể hiện các tính chất của nghệ thuật, gọi
chung là tính khuynh hướng, tính giai cấp, tính đảng, tính nhân dân, chủ
nghĩa nhân đạo...
- Bản chất thẩm mỹ: Các đặc điểm thuộc cấu trúc bên trong của nghệ
thuật, nhằm phân biệt nghệ thuật với các loại ý thức và hoạt động khác (phân
biệt với ý thức chính trị, tôn giáo; các hoạt động thực tiễn như sản xuất, chiến
đấu, nghiên cứu khoa học, tuyên truyền, thông tấn...). Có những cách nhìn
hướng nội, tùy theo góc nhìn:
- Góc nhìn từ đặc trưng tâm lý - ý thức sáng tạo có cấu trúc từ nhỏ đến
lớn như sau: cảm xúc nghệ thuật hình tượng nghệ thuật-> Tác phẩm nghệ
thuật -> Tác gia nghệ thuật —> Trường phái, trào lưu nghệ thuật ->
Nền nghệ thuật (dân tộc - thời đại). Hệ thống này sinh ra từ cái phôi đầu tiên
là cảm xúc nghệ thuật, hình thành rõ nét là hình tượng nghệ thuật, một nhân
tố cơ bản của nghệ thuật, từ đó ta sẽ có đơn vị hoàn chỉnh, thực thể của nghệ
thuật là tác phẩm nghệ thuật.
- Góc nhìn từ đặc trưng cấu tạo của cả thế giới nghệ thuật (còn gọi là
hình thái học nghệ thuật):
Quy mô lớn nhất: nền văn hóa nghệ thuật.
Quy mô nhỏ nhất: thể tài.
Các nhân tố khác: thể tài, thể loại, loại thể, loại hình, nhóm loại hình,.,
nền văn hóa nghệ thuật.
Từ hai hệ thống trên, có thể rút ra hai hệ thống nhỏ trong đó là: tác
phẩm (các yếu tố tạo thành tác phẩm) và loại hình (các loại hình nghệ thuật).
Về bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật, đáng lưu ý nhất là cách lý giải
đặc điểm của cảm xúc nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật và cách hiểu về nội
dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật, từ đó tìm hiểu về thi pháp sáng
tạo.
8. Thiên nhiên thứ hai và những tín hiệu ngôn ngữ của các nghệ thuật lưỡng tính.
“Thiên nhiên thứ hai” là cách nói của Căng, về sau Gorki có nhắc lại,
nhằm chỉ tất cả những công trình sáng tạo trên mặt đất do bàn tay con người,
sánh với thiên nhiên thứ nhất. Quy luật của cái đẹp là một trong những quy
luật sáng tạo, thể hiện khắp nơi trong thiên nhiên thứ hai. Nghệ thuật chỉ là
hai bộ phận trong thiên nhiên thứ hai, trong thế giới cái đẹp rộng lớn, gồm
nghệ thuật lưỡng tính và nghệ thuật đơn tính.
Nghệ thuật lưỡng tính phát sinh trực tiếp từ sự sáng tạo các công trình,
sản phẩm phục vụ đời sống (nhà cửa, đồ dùng) và từ những hoạt động thực
tiễn như sản xuất, chiến đấu, nghiên cứu, truyền bá khoa học, thông tin -
tuyên truyền... Vượt qua giai đoạn của cái đẹp phổ cập, khi những yếu tố của
cái đẹp được tổ chức lại một cách hoàn thiện, có một trình độ kỹ thuật cao, có
một phong cách độc đáo, một ý tưởng rõ rệt, sản phẩm ấy từ cái đẹp trở
thành tác phẩm nghệ thuật (lưỡng tính).
Nội dung của tác phẩm nghệ thuật lưỡng tính là mục tiêu, chức năng
phục vụ của nó, là giá trị sử dụng trong các sinh hoạt của con người (ăn, mặc,
ở, đi lại, nghiên cứu - học tập, đánh giặc, tuyên truyền chính trị, truyền
giáo...). Nội dung đó quy định cấu tạo hình thức sao cho tiện lợi, sử dụng đạt
năng suất và hiệu quả cao nhất. (Hình thức của máy bay, xe cộ phải tuân
theo luật khí động học, hình thức của nhà cửa phải tùy yêu cầu để ở, để làm
nhà thờ, hay nơi bán hàng, khách sạn...) (Sách).
Hình thức tuy phục tùng nội dung sử dụng, tiện nghi, nhưng vẫn có khả
năng tạo ra nhiều yêu tố đẹp, hấp dẫn, gợi cảm giác ưa thích.
Các yếu tố tạo thành hình thức của tác phẩm nghệ thuật lưỡng tính
được sử dụng thường xuyên trở thành một thứ ngôn ngữ - “ngôn ngữ của đồ
dùng” (Sách).
9. Con người đẹp, lối sống đẹp
Thế nào là con người đẹp?
Trong dân gian và trong quan niệm tôn giáo, con người đẹp phải từ thế
giới thần tiên, do thượng đế tạo ra. Nhưng cũng có quan niệm dân gian: cuộc
sống lao động nảy sinh con người đẹp, “người ta là hoa đất”. Quan điểm tiến
hóa và quan điểm duy vật lịch sử cho rằng con người đẹp, vẻ đẹp tuyệt mỹ
của con người ngày nay với sự phát triển hài hòa, phong phú những khí quan
của con người, có lịch sử di truyền của hàng vạn năm, trước hết là nhờ rèn
luyện qua lao động của nhiều thế hệ.
Người nghệ sĩ, do kinh nghiệm riêng của bản thân, thường thể hiện con
người đẹp thuộc một tầng lớp nào đó, nhưng khi mở rộng nhãn quan, có thể
thấy ở tầng lớp nào cũng có thể có con người đẹp. Nhưng con người đẹp -
con người toàn mỹ - phải gồm đủ các phương diện: một thể hình cân xứng
toàn vẹn, một dung nhan, một phong cách ăn mặc nói năng và ứng xử...
Quan điểm “con người toàn diện” mỗi thời một khác, nhưng nói chung, thời
nào cũng có đòi hỏi sự hoàn thiện, hoàn mỹ, có hình mẫu lý tưởng về con
người đẹp của thời đại mình.
Trong tất cả những hiện tượng, những thực thể được gọi là đẹp, cái
đẹp cao quý nhất thuộc về con người đẹp. Người đẹp vừa là sáng tạo của
thiên nhiên, vừa là sáng tạo của con người. Cái đẹp con người vừa mang tính
tự nhiên, vừa mang tính xã hội, kể cả cái đẹp hình thể.
Giá trị cái đẹp ở con người, trước hết phải nói về hình thức (dung nhan
- hình thể). Đến khi những quan niệm về sự toàn thiện, toàn mỹ, giá trị đó
được xem như một sự hài hòa giữa hình thức và nội dung (dung nhan, hình
thể, và nhân cách, tâm hồn). Khi nói về con người đẹp, có thể hiểu cả hai khái
niệm trên (cái đẹp hình thức và cái đẹp toàn vẹn nội dung - hình thức).
Thế nào là lối sống đẹp?
Đạo đức truyền thống có 5 phạm trù (“ngũ thường”): nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín. Chữ “lễ” là phép tắc, hành vi ứng xử đẹp nhằm thể hiện 4 đức tính kia,
đặc biệt là chữ nhân. Lễ là hình thức, bộc lộ những nội dung nhân, nghĩa. Sự
ứng xử, giao tiếp văn minh, lịch sự, có văn hóa của những con người đẹp tạo
nên lối sống đẹp của mỗi cá thể và của cả cộng đồng.
Trong việc rèn luyện nhân cách, tâm hồn để tạo nên vẻ đẹp nội dung
của con người, quan niệm về lối sống, phong cách, thái độ sống của con
người rất quan trọng (Sách).
10. Vị trí - Mục tiêu giáo dục của thẩm mỹ
Sự phát triển của một xã hội, một con người được thể hiện ở sự phát
triển toàn diện, cân bằng cả ba loại giá trị chân, thiện, mỹ. Cái mỹ, giáo dục
thẩm mỹ là sự hội tụ của ba hình thái giá trị đó. Cái đẹp của một xã hội, một
con người được xem xét ở sự phát triển hài hòa cả ba, nhưng cũng chính là
cái cuối cùng: cái mỹ. Mục tiêu cuối cùng của giáo dục thẩm mỹ không phải là
mục tiêu giáo dục nghệ thuật, mà là giáo dục sự toàn vẹn về nhân cách cho
con người
Giáo dục thẩm mỹ là một trong ba nội dung cơ bản của hệ thống giáo
dục toàn xã hội (trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ) đảm bảo sự phát triển cân đối nhịp
nhàng của người và của xã hội. Mục tiêu cuối cùng của giáo dục thẩm mỹ là
đem đến cho con người một trình độ văn hóa cao, một nhân cách hài hòa.
11. Thị hiếu thẩm mỹ và sự rèn luyện một thị hiếu phát triển
Thị hiếu thẩm mỹ là một thành tố cấu tạo nên ý thức thẩm mỹ của con
người (bao gồm cảm giác thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, nhu
cầu thẩm mỹ, phán đoán thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, và thị hiếu thẩm mỹ).
Thị hiếu là yếu tố cụ thể, năng động nhất trong số các yếu tố trên, có
những đặc tính, những diễn biến tích cực hoặc tiêu cực
Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là mục tiêu trực tiếp, năng động nhất của
giáo dục thẩm mỹ. Một thị hiếu thẩm mỹ tiên tiến phải đảm bảo sự cân bằng
giữa tình cảm và lý trí, cá nhân và xã hội, phải khắc phục những khuyết tật
của chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên. Giáo dục phải hiểu được
những quy luật của thị hiếu để phát huy mặt tích cực, khống chế mặt tiêu cực.
Chiều cao của lý tưởng thẩm mỹ, chiều rộng của tri thức thẩm mỹ,
chiều sâu của tình cảm cảm xúc thẩm mỹ, đó là ba chiều của một thị hiếu
phát triển.
12. Cuộc tranh chấp thầm lặng của ba vùng văn hóa thẩm mỹ
- Vùng văn hóa thẩm mỹ cao (A).
- Vùng văn hóa thẩm mỹ trung bình (B).
- Vùng văn hóa thẩm mỹ thấp kém (C).
Trong một xã hội, một con người, các giá trị văn hóa thẩm mỹ được tích
tụ ở ba vùng, ba trình độ, luôn luôn tranh chấp lấn sân của nhau. Sự thoái
hóa hay phát triển về trình độ văn hóa thẩm mỹ tùy thuộc vào sự phát triển
toàn diện của xã hội (kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật...), nhưng chủ yếu
vẫn do lực điều hành nền văn hóa xã hội, do sự định hướng để điều khiển
hoạt động của ba vùng thẩm mỹ nói trên.
13. Giáo dục ý thức và tình cảm thẩm mỹ dân tộc trong thời kỳ đổi mới
Văn hóa dân tộc là cội nguồn, văn hóa dân gian là cội nguồn của cái cội
nguồn đó (cái gốc của cái gốc). Văn hóa hiện đại quy mô toàn cầu đang
nhanh chóng cuốn hút con người vào những lãnh vực mạnh nhất (do sự
quảng bá, truyền thông, hình thức, phương tiện vật chất hiện đại) do đó dễ
làm tuổi trẻ quên mất văn hóa cội nguồn. Giáo dục văn hóa dân gian - dân tộc
một cách đúng mức, khoa học, là chiến lược hàng đầu hiện nay.
MỤC LỤC
PHẦN IMỸ HỌC VÀ CÁI ĐẸP
Bài 1. Mỹ học - khoa học làm đẹp cuộc sống (Giới thiệu Khoa mỹ học).
Bài 2. Khúc dạo đầu (Cái đẹp - đối tượng của mỹ học).
Bài 3. Ba nguồn sáng vĩnh hằng (Cái đẹp trong hệ thống ba giá trị:
chân, thiện, mỹ).
Bài 4. Về một cuộc hành hương không biết mỏi (Đi tìm đẹp, tìm một
định nghĩa về cái đẹp).
Bài 5. Những nẻo đường tìm đẹp (Những quan niệm khác nhau khi tìm
đẹp - Một định nghĩa về cái đẹp)
PHẦN IIMỸ HỌC VÀ NGHỆ THUẬT
Bài 6. Từ cái đẹp đến nghệ thuật (Ba chặng đường mỹ hóa và hai hệ
thống nghệ thuật).
Bài 7. Đi vào bản chất của nghệ thuật đơn tính (Bản chất xã hội và
thẩm mỹ của nghệ thuật đơn tính).
Bài 8. Thiên nhiên thứ hai và những tín hiệu ngôn ngữ của các nghệ
thuật lưỡng tính (Biểu dương con người - Vì con người - Tìm kiểu cho dân
tộc - Ngôn ngữ của đồ dùng - Đidai là gì).
PHẦN IIIMỸ HỌC VÀ CON NGƯỜỈ
Bài 9. Con người đẹp - Lối sống đẹp
Bài 10. Vị trí - mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ - Thị hiếu thẩm mỹ và sự
rèn luyện một thị hiếu phát triển
Bài 11. Cuộc tranh chấp thầm lặng của ba vùng văn hóa thẩm mỹ
Bài 12. Giáo dục ý thức và tình cảm thẩm mỹ dân tộc trong thời kỳ đổi
mới
Tóm lược
---//---
MỸ HỌCVỀ CÁI ĐẸP - VỀ NGHỆ THUẬT - VỀ CON NGƯỜI
Tác giả: LÂM VINH
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TÀI LIỆU THAM KHẢO LƯU HÀNH NỘI BỘ
của Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Quốc gia Tp.HCM, đăng ký phát
hành nội bộ năm 1997. Ban Ấn Bản Phát hành nội bộ ĐHSP sao chụp 400
cuốn khổ 14,5 x 20,5cm. In xong và đóng tập ngày 07 tháng 06 năm 1997.