Định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông trên Địa bàn thành...
DESCRIPTION
Định Hướng Nghề Nghiệp Của Học Sinh Trung Học Phổ Thông Trên Địa Bàn Thành Phố Hải PhòngTRANSCRIPT
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------
ĐỖ THỊ NGỌC CHI
ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG
(Nghiên cứu trường hợp tại trường trung học phổ thông Mạc Đĩnh Chi,
thành phố Hải Phòng)
LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
Hà Nội – 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------
ĐỖ THỊ NGỌC CHI
ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG
(Nghiên cứu trường hợp tại trường trung học phổ thông Mạc Đĩnh Chi,
thành phố Hải Phòng)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xã hội học
Mã số: 60 31 30
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hồi Loan
Hà Nội - 2013
3
MỤC LỤC
MỤC LỤC ........................................................................................................ 1
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ 7
DANH MỤC BIỂU .......................................................................................... 6
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 7
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ................................................................... 10
2.1 Ý nghĩa lý luận ................................................................................... 10
2.2 Ý nghĩa thực tiễn ............................................................................... 10
3. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................. 10
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 11
4.1 Mục đích nghiên cứu......................................................................... 11
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 11
5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu .......................................... 11
5.1 Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 11
5.2 Khách thể nghiên cứu ....................................................................... 12
5.3 Phạm vi nghiên cứu........................................................................... 12
6. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................ 12
7. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 12
7.1 Phương pháp luận ............................................................................. 12
7.2 Phương pháp phân tích tài liệu ........................................................... 13
7.3 Phương pháp trưng cầu ý kiến ............................................................ 14
7.4 Phương pháp phỏng vấn sâu ............................................................ 14
7.5 Phương pháp quan sát ......................................................................... 15
7.6 Phương pháp thực nghiệm ................................................................... 15
8. Khung lý thuyết ....................................................................................... 16
9. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 16
NỘI DUNG CHÍNH ...................................................................................... 17
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ............... 17
4
1.1 Những khái niệm công cụ.................................................................... 17
1.1.1 Khái niệm định hướng ....................................................................... 17
1.1.2 Nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp ........................................ 17
1.1.3 Hướng nghiệp .................................................................................... 18
1.2 Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu đề tài ............................... 19
1.2.1 Lý thuyết xã hội hóa .......................................................................... 19
1.2.2 Lý thuyết sự lựa chọn duy lý (Thuyết lựa chọn hợp lý) ................... 23
1.2.3 Lý thuyết về hành động xã hội .......................................................... 25
1.3 Tổng quan về đề tài nghiên cứu ......................................................... 26
1.3.1 Nghiên cứu trên thế giới ................................................................... 26
1.3.2 Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam ............................................ 27
1.4 Cơ sở tâm lý học đối với việc định hƣớng nghề nghiệp của học sinh
trung học phổ thông. ..................................................................................... 31
1.4.1 Những đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của học sinh Trung học phổ
thông ............................................................................................................ 31
1.4.2 Những nhu cầu, hứng thú, năng lực của học sinh Trung học phổ
thông ............................................................................................................ 34
1.5 Một số nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh Trung học phổ thông .............................................................. 36
Chƣơng 2: HỌC SINH TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG MẠC ĐĨNH
CHI VỚI SỰ ĐỊNH HƢỚNG NGHỀ NGHIỆP SAU KHI TỐT NGHIỆP. ... 39
2.1 Vài nét về khách thể điều tra ................................................................. 39
2.2 Thực trạng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh trƣờng trung học
phổ thông Mạc Đĩnh Chi. ............................................................................. 41
2.2.1 Mức độ quan tâm đến nghề nghiệp tương lai của học sinh trung học
phổ thông ..................................................................................................... 41
2.2.2 Dự định về nghề nghiệp tương lai của học sinh trung học phổ thông
...................................................................................................................... 45
2.2.3 Sự lựa chọn ngành nghề của học sinh trung học phổ thông .......... 47
2.2.4 Những lí do chọn nghề của học sinh trung học phổ thông ............. 51
5
2.2.5 Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề
tương lai của học sinh Trung học phổ thông. ........................................... 55
2.2.6. Những vấn đề học sinh Trung học phổ thông quan tâm khi lựa
chọn nghề nghiệp ........................................................................................ 58
2.2.7 Những khó khăn mà học sinh gặp phải khi lựa chọn nghề là: ...... 60
2.2.8 Các nguồn tìm kiếm thông tin về việc làm của học sinh Trung học
phổ thông ..................................................................................................... 64
2.3.1 Mục đích ............................................................................................. 67
2.3.2 Cơ sở để xây dựng chương trình tác động. ....................................... 67
2.3.3 Nội dung thực nghiệm ....................................................................... 68
2.3.4 Kết quả thực nghiệm .......................................................................... 68
Chƣơng 3: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỊNH HƢỚNG NGHỀ
NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ....................... 76
3.1. Nhân tố chủ quan ................................................................................... 76
3.1.1 Yếu tố nhu cầu, động cơ nghề nghiệp............................................... 76
3.1.2 Hứng thú nghề nghiệp của học sinh ................................................ 77
3.1.3 Năng lực nghề nghiệp ........................................................................ 78
3.1.4 Bản thân ............................................................................................. 78
3.1.5 Sức khỏe ............................................................................................. 79
3.2 Nhân tố khách quan ................................................................................ 79
3.2.1 Gia đình .............................................................................................. 79
3.2.2 Nhà trường ......................................................................................... 82
3.2.3 Bạn bè ................................................................................................. 85
3.2.4 Truyền thông đại chúng .................................................................... 87
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 88
1. Kết luận .................................................................................................... 88
2. Khuyến nghị ............................................................................................ 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96
6
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CĐ : CAO ĐẲNG
ĐH : ĐẠI HỌC
ĐHNN : ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
THCN : TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP
THPT : TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TTĐC : TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
7
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Sự lựa chọn ngành nghề (nhóm nghề) của học sinh THPT ............. 47
Bảng 2.2 Lý do lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT ............................ 52
Bảng 2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề của học sinh 55
Bảng 2.4 Những khó khăn mà học sinh THPT gặp phải khi lựa chọn nghề. . 61
Bảng 3.1 Ảnh hưởng của gia đình đến sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh
trung học phổ thông. ...................................................................... 80
Bảng 3.2 Tương quan giữa nghề nghiệp của bố mẹ và sự tham gia của gia
đình vào việc định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT. ......... 81
Bảng 3.3 Nhận thức của học sinh về mục đích của hoạt động hướng nghiệp. 84
Bảng 3.4 Thái độ của học sinh đối với các giờ ngoại khóa, giờ sinh hoạt
hướng nghiệp. ................................................................................. 84
6
DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 2.1. Mức độ quan tâm của học sinh THPT đối với nghề nghiệp tương
lai. ................................................................................................ 42
Biểu đồ 2.2 Dự định nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp của học sinh THPT ..... 45
Biểu đồ 2.3 Những vấn đề học sinh THPT quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp
..................................................................................................... 59
Biểu đồ 2.4 Các nguồn tìm kiếm thông tin của học sinh THPT ..................... 65
Biểu đồ 3.1 Nhận thức của học sinh THPT về tầm quan trọng của công tác
hướng nghiệp trong nhà trường . ................................................ 83
Biểu đồ 3.2 Sự trao đổi với bạn bè về định hướng nghề nghiệp..................... 86
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người là vốn quý nhất, việc chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu
phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Đảng và nhà nước luôn coi việc nâng cao dân
trí bồi dưỡng nhân tài, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định đến thắng lợi của công cuộc CNH-HĐH đất nước. Điều đó có
nghĩa là con người chính là yếu tố quyết định của sự phát triển và của sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước. Việt Nam là một quốc gia trẻ đang từng bước hòa nhập
vào dòng chảy của quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa. Sự thay đổi trên nhiều
mặt, nhiều phương diện của đời sống từ kinh tế, văn hóa, tôn giáo… là hoàn toàn
rõ nét. Đặc biệt phải nhấn mạnh hơn đến yếu tố kinh tế hiện nay, nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem đến cho đất nước ta một diện
mạo mới năng động, trẻ trung và hết sức sôi động. Kinh tế đổi thay, sự năng
động và liên kết toàn cầu đã đem lại cho nước ta nhiều cơ hội to lớn trong đó có
cơ hội về lao động việc làm. Cầu lao động là thế nhưng cung lại gặp nhiều vấn
đề khó khăn mà nguyên nhân của nó là do thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
chưa đáp ứng kịp được với sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Lao động nước ta phần đông là lao động phổ thông, có trình độ thấp,
không được đào tạo bài bản. Tâm lý xã hội cho thấy ở Việt Nam, con người xem
trọng đến học vị, đến chức “thầy”- người quản lý, văn phòng (White collar) hơn
là cấp thợ - người công nhân (blue collar). Do đó ở Việt Nam hiện tượng thừa
thầy thiếu thợ là hoàn toàn dễ hiểu và trong chính cơ cấu giáo dục của chúng ta
cũng chủ yếu đào tạo lên những người thầy là chủ yếu. Đất nước ta chưa quan
tâm nhiều đến công tác dạy nghề tháng 2/1987 Tổng cục dạy nghề được sát nhập
vào Bộ đại học, trung học chuyên nghiệp và đến năm 1990 thì tiếp tục sát nhập
vào Bộ Giáo dục thành Bộ Giáo dục đào tạo, theo đó dạy nghề sát nhập với trung
học chuyên nghiệp thành Vụ Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề…Sau này
trước những nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và phát triển nguồn nhân lực cho
8
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước chính phủ đã có quyết định số 67/1998/QĐ- TTg
về việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về đào tạo ngề từ Bộ giáo dục
đào tạo sang Bộ LĐTBXH, tiếp sau đó Chính phủ có Nghị định số 33/1998 tái
thành lập lại Tổng cục dạy nghề… Có thể thấy rằng thực trạng thừa thầy thiếu
thợ diễn ra nhiều năm nay, mỗi năm Việt Nam có khoảng hai triệu học sinh tốt
nghiệp THPT. Theo điều tra xã hội học của trung tâm hướng nghiệp giáo dục thì
không có một học sinh THPT nào lựa chọn con đường học nghề, nguyện vọng
của các em đều là tiếp tục học lên các trường ĐH, CĐ. Sự mất cân đối trong thực
trạng nguồn nhân lực Việt Nam là điều dễ thấy và đã có rất nhiều chương trình
hay hội thảo bàn về chiến lược giáo dục để đưa ra những quyết sách đúng đắn
giải quyết thực trạng trên. Gần đây trong dự thảo chiến lược giáo dục Việt Nam
2009-2010 cũng đã chỉ rõ: giáo dục nghề nghiệp chưa được quan tâm đúng mức,
cách tổ chức phân luồng trong hệ thống giáo dục còn thể hiện sự lúng túng, mất
cân đối giữa cơ cấu trình độ và cơ cấu ngành nghề. Dự thảo cũng đã xác định
mục tiêu đó là tạo đột phá trong giáo dục nghề nghiệp, tăng mạnh tỷ lệ lao động
qua đào tạo, cân đối tình trạng thừa thầy thiếu thợ, hệ thống giáo dục được tái
cấu trúc, đảm bảo phân luồng sau trung học cơ sở… Để mục tiêu đề ra không chỉ
tồn tại trên lý thuyết, thì ngay từ bây giờ chúng ta phải quan tâm đến công tác
định hướng nghề nghiệp cho các em học sinh THPT.
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông giữ một vị
trí, vai trò và nhiệm vụ rất quan trọng. Giáo dục hướng nghiệp nhằm mục đích
giúp cho học sinh phổ thông có được sự hiểu biết cơ bản về các ngành nghề
trong xã hội, từ đó hình thành hứng thú, năng lực nghề. Và từ đó các em sẽ lựa
chọn cho mình một nghề nghiệp cụ thể trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng phù hợp với
nhu cầu, sở thích, khả năng, năng lực, sức khỏe, điều kiện kinh tế gia đình.
Trong nhà trường THPT hiện nay giáo dục hướng nghiệp còn rất sơ sài, rất ít có
những giờ hướng nghiệp mà hướng nghiệp cho học sinh THPT chủ yếu dựa trên
sự lồng ghép vào các môn học vào các giờ sinh hoạt, giờ ngoại khóa vì vậy thời
9
gian để các thầy và trò ngồi bàn về công tác hướng nghiệp là không có nhiều.
Công tác giáo dục hướng nghiệp hiện nay chưa được quan tâm đúng mức nên
dẫn đến việc học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác hướng
nghiệp. Bởi chưa có một định hướng rõ rệt, thông tin nghề nghiệp còn mơ hồ
cho nên nhiều em khi nộp hồ sơ thi vào các trường ĐH, CĐ vẫn chưa đánh giá
được đúng năng lực, hứng thú, sở thích với nghề nghiệp mà mình đang chọn. Và
cũng bởi nguyên nhân trên mà rất nhiều em học sinh khi ngồi trên giảng đường
đại học, trường chuyên nghiệp mới nhận ra rằng nghề mình chọn không phù hợp
bản thân. Và khi ấy các em sẽ bỏ học để quyết định lại nghề nghiệp của bản
thân, như vậy là một sự lãng phí rất lớn đối với bản thân các em, với gia đình và
cả xã hội. Bởi thời gian, công sức, tiền của mà các em đã đầu tư cho nó. Có thể
khẳng định vai trò, vị trí của công tác hướng nghiệp trong nhà trường chính là
nền tảng để các em học sinh phổ thông có thể lựa chọn cho mình một ngành
nghề đúng đắn, phù hợp.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Định hƣớng nghề
nghiệp của học sinh THPT trên địa bàn thành phố Hải phòng”. (Nghiên cứu
trường hợp tại trường THPT Mạc Đĩnh Chi, thành phố Hải Phòng). Đã đến lúc
chúng ta phải có sự nhìn nhận đúng đắn hơn, sát thực hơn trong việc định hướng
nghề nghiệp của học sinh THPT hiện nay. Học đại học sẽ là hướng đi đúng với
những ai thực sự có khả năng, có nhận thức sâu sắc về nghề nghiệp. Và trên thực
tế thì đại học cũng chỉ là nơi để đào tạo nghề. Có rất nhiều con đường để cho học
sinh THPT lựa chọn để đi tiếp, con đường đi như thế nào là phụ thuộc hoàn toàn
và sự định hướng nghề nghiệp của các em. Bên cạnh đó là công tác hướng
nghiệp trong nhà trường cũng là một yếu tố tác động trực tiếp đến sự định hướng
nghề nghiệp của học sinh THPT.
10
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
2.1 Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu đã vận dụng một số lý thuyết xã hội học vào việc làm rõ
một vấn đề xã hội đáng quan tâm hiện nay đó là định hướng việc làm của học
sinh THPT. Những kết quả thu thập được của đề tài sẽ góp phần làm sang tỏ một
số khái niệm, quan điểm, lý thuyết xã hội học liên quan đến vấn đề lao động,
nghề nghiệp và việc làm.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Việc tìm hiểu thực trạng định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT sẽ
giúp cho tác giả đánh giá đúng thực trạng cũng như những nhân tố chủ quan,
khách quan tác động đến sự định hướng nghề nghiệp của các em học sinh THPT.
Đề tài sẽ cung cấp các số liệu thực tế xác thực cho các nhà quản lý, nhà giáo dục
hướng nghiệp để họ xây dựng các chương trình, chính sách phù hợp giúp các em
học sinh THPT có những nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp. Hiện nay học sinh
THPT đang đứng trước nhiều lựa chọn cho tương lai: học tiếp lên Đại học, học
nghề, đi du học, cũng có thể là đi làm luôn. Vậy sự lựa chọn của các em có thực
sự đúng đắn, có phù hợp với năng lực của bản thân với xu thế hội nhập và có đáp
ứng được đòi hỏi của xã hội hay không? Điều này phụ thuộc phần lớn vào bản
thân các em. Nhưng bên cạnh đó thì sự quan tâm định hướng của nhà trường,
của cha mẹ của các cấp lãnh đạo, nhà hướng nghiệp cũng là một yếu tố tác động
rất lớn đến quá trình định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT.
Bên cạnh đó thì kết quả của luận văn còn có giá trị tham khảo đối với các
nhà nghiên cứu, sinh viên, đối với những người quan tâm đến khía cạnh này.
Từ thực trạng tác giả sẽ rút ra kết luận và đưa ra một số khuyến nghị đối với
nhà trường, cha mẹ và những ban ngành có liên quan trực tiếp đến vấn đề này.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Định hướng nghề nghiệp của học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ
thông là như thế nào?
11
- Những nhân tố nào đã tác động đến sự định hướng việc làm sau khi tốt
nghiệp của học sinh THPT?
- Công tác hướng nghiệp trong nhà trường THPT hiện nay là như thế nào?
- Học sinh THPT có thiếu thông tin về nghề nghiệp không? Học sinh
THPT gặp phải những khó khăn gì trong quá trình định hướng nghề
nghiệp?
- Cha mẹ học sinh THPT có quan tâm đến việc định hướng nghề nghiệp
của con em mình hay không?
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu và làm sáng tỏ định hướng nghề nghiệp sau khi tốt
nghiệp của học sinh THPT và tìm hiểu, phân tích các nhân tố chủ quan, khách
quan tác động tới định hướng về nghề nghiệp của các em. Từ đó xây dựng các
biện pháp tổ chức hoạt động GDHN phù hợp với học sinh, nhằm góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả của GDHN trong nhà trường THPT hiện nay.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về định hướng nghề nghiệp của học sinh
THPT trong giai đoạn hiện nay.
- Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá về thực trạng định hướng nghề nghiệp
của học sinh THPT.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự định hướng nghề nghiệp của
học sinh THPT sau khi tốt nghiệp.
- Đề xuất các biện pháp hỗ trợ cho công tác giáo dục hướng nghiệp
trong nhà trường phổ thông hiện nay nhằm giúp cho học sinh THPT
lựa chọn được một nghề nghiệp phù hợp.
5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Định hướng nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp của học sinh THPT.
12
5.2 Khách thể nghiên cứu
Học sinh trường trung học phổ thông.
Khách thể khảo sát: Học sinh khối 10, 11, 12 của trường THPT Mạc Đĩnh Chi.
5.3 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Tiến hành khảo sát tại trường THPT Mạc Đĩnh Chi, thành
phố Hải Phòng.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 2 năm 2013 đến tháng 4 năm 2013
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Học sinh THPT đang rất thiếu thông tin về nghề nghiệp.
- Học sinh THPT rất tích cực trong việc tìm hiểu thông tin về nghề
nghiệp.
- Học sinh THPT có nhiều dự định sau khi tốt nghiệp, song hầu hết sự lựa
chọn của các em là thi vào các trường ĐH, CĐ.
- Học sinh THPT không quan tâm đến các trường dạy nghề, các trường
trung cấp chuyên nghiệp vì cơ hội việc làm thấp, lương thấp…
- Học sinh THPT hiện nay đều lựa chọn khối thi là khối A. Khối C hầu
hết là các em không lựa chọn.
- Các em học sinh THPT đều rất quan tâm đến nghề nghiệp tương lai của
mình vì vậy dẫn đến sự định hướng nghề nghiệp từ rất sớm.
- Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông hiện nay rất sơ sài
và chưa đạt được hiệu quả cao.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1 Phƣơng pháp luận
Nghiên cứu đề tài dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Khi áp dụng lý luận này vào quá trình
nghiên cứu tác giả muốn tìm hiểu, muốn phân tích và giải thích sự tác động của
xã hội đến sự hiểu biết và hành vi lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT.
13
Đề tài lấy phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng mà cụ
thể là quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử với những nguyên tắc lịch sử khách quan, toàn diện
giúp cho tác giả có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề nghiên cứu và cho phép
chúng ta đặt vấn đề nghiên cứu trong hoàn cảnh cụ thể của quá trình nghiên cứu.
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin với quan điểm duy vật biện
chứng yêu cầu không được xem xét các hiện tượng xã hội một cách siêu hình mà
phải xem xét chúng một cách biện chứng. Nghĩa là khi xem xét các hiện tượng,
sự kiện xã hội không được xem xét chúng trong sự tách biệt, rời rạc mà phải xem
xét chúng trong mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau một cách có quy luật và
phụ thuộc lẫn nhau. Đồng thời, các sự vật, hiện tượng cũng không chỉ đứng yên
mà luôn vận động, phát triển không ngừng. Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu đề tài, tác giả nhằm để tìm
hiểu, phân tích và giải thích sự tác động của xã hội đến hành vi lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh THPT. Sự tác động của xã hội sẽ là nhân tố ảnh hưởng tới
nhận thức và sự định hướng việc làm của học sinh THPT. Môi trường xã hội cơ
bản mà mỗi cá nhân đều có quan hệ xã hội gắn bó đó là môi trường kinh tế, văn
hóa, xã hội, nhà trường, gia đình, bạn bè. Đồng thời tác giả cũng xem xét những
thay đổi hành vi lựa chọn nghề nghiệp của học sinh theo giới tính, theo khối,
theo độ tuổi, theo nguồn gốc xuất thân… Như vậy chủ nghĩa Mác-Lênin chính là
cơ sở lý luận quan trọng để tác giả nghiên cứu đề tài này.
7.2 Phƣơng pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu theo quan điểm xã hội học thực chất đó là
việc ta xem xét các thông tin có sẵn trong các tài liệu để rút ra những thông tin
cần thiết nhằm đáp ứng những mục tiêu nghiên cứu của một đề tài nhất định.
Trong quá trình sử dụng tài liệu tham khảo ta luôn phải đặt ra câu hỏi đó là tài
liệu đó có được cho là cần thiết trong quá trình nghiên cứu hay không? Và nguồn
thông tin trong tài liệu có độ tin tưởng là bao nhiêu. Đề tài nghiên cứu này tác
14
giả đã sử dụng một số tài liệu, sách, báo, công trình nghiên cứu có nội dung liên
quan đến đề tài để có thể đưa ra được những so sánh giữa các nghiên cứu trước
đây với kết quả nghiên cứu của luận văn.
7.3 Phƣơng pháp trƣng cầu ý kiến
Cuộc nghiên cứu được tiến hành chọn mẫu với số lượng là 240 em học sinh
thuộc ba khối 10, 11, 12 của trường THPT Mạc Đĩnh Chi, thành phố Hải Phòng.
Trong đó chú ý có sự cân bằng về mặt giới tính và số lượng học sinh của mỗi khối.
Nội dung tiến hành trưng cầu ý kiến bao gồm thông tin về định hướng
việc làm, sự chuẩn bị cho tìm kiếm việc làm và một số thông tin cá nhân. Số
phiếu thu về sẽ được xử lý trên phần mềm SPSS 16.0
Cơ cấu mẫu khảo sát
STT Tiêu chí Số lƣợng Tỷ lệ %
1 Giới tính 240 100
1.1 Nam 117 48,8
1.2 Nữ 123 51,2
2 Lớp 240 100%
2.1 Lớp 10 80 33.3
2.2 Lớp 11 80 33,3
2.3 Lớp 12 80 33,3
7.4 Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
- Mục đích phỏng vấn là tìm kiếm thêm những thông tin định tính liên
quan đến định hướng nghề nghiệp của học sinh và các nhân tố tác động tới định
hướng nghề nghiệp đó mà bảng hỏi chưa trả lời được.
- Đối tượng phỏng vấn: Học sinh thuộc 3 khối 10, 11, 12. (cả nam và nữ),
phỏng vấn cha mẹ học sinh, phỏng vấn giáo viên trực tiếp tham gia vào công tác
giảng dạy, công tác hướng nghiệp.
- Nội dung phỏng vấn liên quan đến các vấn đề định hướng nghề, các
nhân tố tác động tới định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT.
15
- Số lượng phỏng vấn:
9 Phỏng vấn sâu cho các em học sinh thuộc 3 khối THPT
3 Phỏng vấn sâu cha mẹ học sinh
3 Phỏng vấn giáo viên giảng dạy
7.5 Phƣơng pháp quan sát
Phương pháp quan sát được áp dụng trong suốt quá trình nghiên cứu với
phương pháp này tác giả có thể nắm bắt được một số thông tin sơ bộ tại địa bàn
nghiên cứu. Thông qua quá trình tri giác trực tiếp để thu thập thông tin cần thiết
liên quan đến đề tài, những hành động, biểu hiện bên ngoài của học sinh, thái độ
học sinh trong quá trình định hướng nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp.
7.6 Phƣơng pháp thực nghiệm
Đề tài đã tiến hành thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm nhỏ kéo dài 2
tháng với 8 buổi sinh hoạt vào các giờ ngoại khóa (ngoài giờ học chính thức)
nhằm tác động vào đối tượng là học sinh THPT (bao gồm 4 em thuộc các lớp 10,
11, 12). Trong các buổi sinh hoạt này tác giả đã tìm hiểu về những dự định nghề
nghiệp của học sinh THPT, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tìm
kiếm nghề nghiệp của các em, các em tìm kiếm thông tin về nghề nghiệp qua các
nguồn nào… Qua việc trao đổi và tìm hiểu này, tác giả đã nắm bắt và hiểu được
nguyện vọng cũng như các khó khăn cần tháo gỡ của từng em, để xây dựng biện
pháp can thiệp. Đầu tiên là giải thích cho các em hiểu về giá trị của nghề nghiệp,
tiếp đến là cung cấp cho các em mộ số thông tin về ngành nghề mà các em dự
định chọn. Tác giả cũng khuyến khích các em tích cực và năng động để tìm kiếm
các thông tin về nghề nghiệp…
Kết thúc 8 buổi sinh hoạt tác giả sẽ tổng hợp lại những thay đổi về quan
điểm, nhận thức cũng như sự lựa chọn nghề nghiệp của các em.
16
8. Khung lý thuyết
9. Cấu trúc của luận văn
Nội dung cơ bản của luận văn được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
- Chương 2: Thực trạng định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT trên
địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Chương 3: Các nhân tố tác động đến quá trình định hướng việc làm của
học sinh THPT.
Bối cảnh Kinh tế, văn hóa, xã hội
Nhà trường Gia đình Bạn bè Phương tiện truyền thông đại chúng
Học sinh THPT
Định hướng nghề nghiệp sau tốt
nghiệp của học sinh THPT
Khuyến nghị và giải pháp
Mức độ
quan
tâm đến
nghề
nghiệp
Dự định
về nghề
nghiệp
tương
lai
Sự lựa
chọn
ngành
nghề
Những
lí do
chọn
nghề
Các yếu
tố quan
trọng
ảnh
hưởng
Những
vấn đề
học sinh
quan
tâm
Những
khó
khăn mà
học sinh
gặp phải
Các
nguồn
tìm
kiếm
thông
tin
17
NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Những khái niệm công cụ
1.1.1 Khái niệm định hướng
Định hướng là xác định phương hướng là việc chủ thể hành động đưa ra
một hướng đi cho hoạt động nào đó trên cơ sở cân nhắc kỹ khả năng, tài chính
của từng đối tượng. Mục đích cuối cùng của định hướng là có được một hướng
đi phù hợp với mọi điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan của chủ thể.
[2, tr. 24].
Trong nghiên cứu này, tác giả quan tâm đến việc những học sinh THPT
dựa trên cơ sở, điều kiện, năng lực sẵn có của bản thân như thế nào để chọn cho
mình một ngành nghề tốt nhất cho bản thân.
1.1.2 Nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp
Nghề hay nghiệp, đại từ tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB văn
hóa thông tin - 1998) định nghĩa: “Nghề” là công việc chuyên làm theo sự phân
công của xã hội. Còn nghề nghiệp là nghề nói chung. Nghề nghiệp trong xã hội
không phải là cái gì cố định cứng nhắc mà phải coi nghề nghiệp như một cơ thể
sống có sự hình thành, phát triển và thay đổi. Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao
động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những
kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó.
Theo GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ “Nghề nghiệp như một dạng lao động
vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản
thân)”. Trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn
những nhu cầu nhất định của xã hội và của cá nhân.
Nghề nghiệp của con người có thể do được đào tạo chính thức về nghề đó
vì nghề đòi hỏi một trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Cũng có nghề
được hình thành tự phát do tích lũy kinh nghiệm xã hội hoặc do truyền và học
nghề theo cách kèm cặp giữa người biết nghề và chưa biết nghề. Các nghề này
18
chưa có quá trình đào tạo rõ rệt. Nghề được đào tạo có đặc trưng là người làm
nghề phải được cung cấp trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, làm ra sản phẩm để
trao đổi trên thị trường và thu nhập của người lao động chính là nguồn sống của
họ. Chính vì vậy mà họ trở thành đối tượng hoạt động cơ bản, lâu dài của lý
tưởng nghề nghiệp từ đó hình thành nhân cách nghề nghiệp. Nghề được đào tạo
đòi hỏi người học nghề phải có trình độ học vấn, sức khỏe, yêu cầu tâm lý phù
hợp với nghề. Sau quá trình đào tạo, người đó phải đạt được tiêu chuẩn cơ bản
về kiến thức, kĩ năng, kỹ xảo, tay nghề theo mục tiêu xã hội đòi hỏi, được cấp
bằng hay chứng chỉ về nghề.
1.1.3 Hướng nghiệp
Theo các nhà tâm lý học thì hướng nghiệp được hiểu là hệ thống các biện
pháp sư phạm, y học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã
hội và năng lực của bản thân. Các nhà kinh tế học thì cho rằng đó là những mối
quan hệ kinh tế giúp cho mỗi thành viên trong xã hội phát triển năng lực đối với
lao động và đưa họ vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể, phù hợp với việc phân
tích lao động xã hội.
Nhà tâm lý học K. Platônôp cho rằng: “Hướng nghiệp đó là hệ thống các
biện pháp tâm lý, giáo dục, y học nhằm giúp cho con người đi vào cuộc sống
thông qua việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu xã hội
vừa phù hợp với hứng thú, năng lực của bản thân. Những biện pháp này sẽ tạo
nên sự thống nhất giữa quyền lợi của xã hội và quyền lợi của cá nhân”.
Theo GS.TS Phạm Tất Dong thì khái niệm hướng nghiệp được hiểu trên
hai bình diện:
- Về bình diện xã hội: hướng nghiệp là một hệ thống tác động của xã hội
về giáo dục, y học, xã hội học, kinh tế học giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề
vừa phù hợp với năng lực, nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng và vừa phải đáp ứng
được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
19
- Về bình diện trường phổ thông: Thì hướng nghiệp được coi là công
việc tập thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục học sinh trong việc
lựa chọn nghề, giúp cho các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở
phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của
xã hội.
Hội nghị lần thứ XI bao gồm những người đứng đầu cơ quan giáo dục
nghề nghiệp của các nước XHCN họp tại Cuba đã thống nhất về khái niệm
hướng nghiệp như sau: “Hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp dựa trên cơ
sở tâm lý học, sinh lý học, y học và nhiều khoa học khác để học sinh chọn nghề
phù hợp với nhu cầu của xã hội. Đồng thời thỏa mãn tối đa nguyện vọng, thích
hợp với những năng lực, sở trường và tâm sinh lý của cá nhân, nhằm mục đích
phân bổ và sử dụng hợp lý có hiệu quả lực lượng lao động dự trữ có sẵn của đất
nước.”
1.2 Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu đề tài
1.2.1 Lý thuyết xã hội hóa
Theo G.Andreeva thì “Xã hội hóa là quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân
tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội vào hệ
thống các quan hệ xã hội. Mặt khác cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ
thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt
động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội” [6, tr. 258]. Theo nhà xã hội học
người Pháp Sabran: “Xã hội hóa như một con tàu, cá nhân phải bước lên con tàu
xã hội mới trở thành con người xã hội, nếu không cứ phải đứng ở bên tàu”.
Theo quan điểm của nhà xã hội học người Mỹ Neil Smelser: “Xã hội hóa
là quá trình mà trong đó cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò
của mình để phục vụ tốt cho việc thực hiện các mô hình hành vi tương ứng với
hệ thống vai trò của mình để phục vụ tốt cho việc thực hiện các mô hình hành vi
tương ứng với hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình”.
Theo định nghĩa này, vai trò của cá nhân trong xã hội hóa chỉ giới hạn trong việc
20
tiếp nhận các kinh nghiệm, các giá trị, chuẩn mực, chứ chưa đề cập tới khả năng
cá nhân có thể tạo ra những giá trị, kinh nghiệm, chuẩn mực. Như vậy, cá nhân
trong quá trình xã hội hóa không đơn thuần thu nhận kinh nghiệm xã hội, mà còn
chuyển hóa nó thành những giá trị, tâm thế, xu hướng của cá nhân để tham gia
tái tạo, “tái sản xuất” chúng trong xã hội. Mặt thứ nhất của quá trình xã hội hóa
là sự thu nhận kinh nghiệm xã hội thể hiện sự tương tác của con người trở lại
môi trường thông qua hoạt động của mình. Như vậy, một cá nhân không thể
trưởng thành, không có nhân cách hoàn thiện nếu không thu nhận được hệ thống
các quan hệ, liên kết xã hội, nếu không thâm nhập vào xã hội.
Quá trình xã hội hóa diễn ra trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Có 4
nhân tố chính tác động đến quá trình xã hội hóa của cá nhân đó là gia đình, nhà
trường, bạn bè và các phương tiện truyền thông đại chúng. Ngoài các yếu tố cơ
bản ở trên thì còn có rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình xã hội hóa của cá
nhân như: các chính sách của Đảng và nhà nước, dư luận xã hội, tôn giáo...
Trong phạm vi đề tài này tác giả chỉ xem xét đến khía cạnh là 4 nhân tố
tác động chính lên đối tượng nghiên cứu đó là gia đình, nhà trường, bạn bè,
truyền thông.
+ Gia đình
Gia đình là tác nhân xã hội hóa đầu tiên và quan trọng đối với cá nhân.
Đối với hầu hết các cá nhân thì gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của cá
nhân, đó là dạy cho trẻ những kinh nghiệm xã hội, các giá trị, tiêu chuẩn văn hóa
và dần dần trẻ em sẽ đưa nó vào sâu trong ý thức của cá nhân. Thông qua quá
trình đó gia đình không chỉ đưa trẻ em đến với thế giới hữu hình mà còn đặt
chúng vào trong xã hội.
Mỗi gia đình là một mô hình văn hóa thu nhỏ với những giá trị truyền
thống riêng, lối sống riêng. Trong gia đình các cá nhân sẽ lựa chọn để tiếp nhận
những giá trị, cách xử sự, hành vi ứng xử của ông bà, cha mẹ. Và gia đình cũng
là nơi đầu tiên truyền cho những thành viên mới sinh ra của xã hội những ý niệm
21
về giới tính và trong gia đình trong hầu hết các nền văn hóa trẻ nhỏ được dạy
rằng con trai cần phải mạnh mẽ, bản lĩnh còn con gái sẽ phải nhỏ nhẹ, dịu dàng.
Như vậy có thể khẳng định vai trò của gia đình là rất lớn trong quá trình xã hội
hóa của con người.
+ Nhà trƣờng
Nhà trường là nơi con người bắt đầu được tiếp xúc với tính đa dạng xã hội
tương tác với những thành viên không phải trong tập thể cơ bản là gia đình mình.
Nhà trường sẽ cung cấp cho trẻ những kiến thức từ tự nhiên, văn hóa và xã hội.
Những kiến thức này sẽ là nền tảng cho những chặng đường sau này của trẻ. Và
ở nhà trường trẻ sẽ có nhiều tương tác với các cá nhân khác, điều này sẽ giúp trẻ
nhận biết thêm những khía cạnh mới như chủng tộc, giới tính... Nhà trường sẽ có
những quy định nội quy mà trẻ cần phải tuân thủ, điều này sẽ hình thành dần
trong trẻ ý thức về quy tắc, chuẩn mực. Tính đa dạng xã hội của nhà trường
thường tạo ra nhận thức rõ ràng hơn về vị trí của mình trong cấu trúc xã hội đã
hình thành trong quá trình xã hội hóa ở gia đình. Nhà trường cũng giúp cho các
cá nhân định hướng lại những tác động từ nhóm bạn bè hay những ảnh hưởng
khác từ các quá trình học hỏi phi chính thức.
Trường học không chỉ là một thiết chế xã hội hóa hay một thiết chế giáo
dục mà còn là một cơ chế sàng lọc, lựa chọn và định hướng cá nhân phát triển
theo những con đường phù hợp với khả năng và những điều kiện năng lực sẵn có
của bản thân. Ngày nay các trường nghề, các cơ sở đào tạo nghề cũng là một
thiết chế xã hội hóa chính và ngày càng trở lên quan trọng trong xã hội học hiện
đại. Khi học nghề các học sinh sẽ được giảng viên truyền đạt những kiến thức và
người học sẽ có sự chọn lọc tiếp nhận những thông tin cần thiết tư đó hình thành
những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm cho công việc tương lai của
mình. Mỗi cá nhân sẽ tiếp nhận và phát triển những kỹ năng, thái độ hay phong
cách sống mà họ tin rằng sẽ phù hợp với mục đích nghề nghiệp của họ và do đó
hình thành nên những thói quen hành động, thậm chí tính cách mới phù hợp với
22
những công việc nhất định mà họ đảm nhận. Và đây là một khía cạnh vô cùng
quan trọng trong đặc điểm tính cách của cá nhân.
+ Bạn bè
Theo George Hebert Mead nhóm bạn bè cùng lứa tuổi là những người khá
quan trọng. Hầu hết trẻ đều có nhóm bạn, thường là những người cùng lứa tuổi
cùng sở thích cùng quan điểm ở trường học hay gần nơi cư trú. Trong nhóm bạn,
vai trò độc lập của cá nhân góp phần hình thành các kinh nghiệm trọng quan hệ
xã hội cũng như ý thức về bản thân khác với những gì có trong gia đình. Nhóm
bạn cũng tạo ra cơ hội cho các thành viên chia sẻ thảo luận về các mối quan tâm
chung mà trong đó có những cái thường không làm được tương tự đối với cha
mẹ hay thầy cô. Vai trò của nhóm bạn có vai trò rất quan trọng ở tuổi thanh thiếu
niên. Vì ở lứa tuổi này trẻ thường rất nhạy cảm, dễ bị tổn thương, cảm xúc thất
thường. Và ở lứa tuổi này trẻ rất để ý đến bản thân, luôn muốn chứng tỏ mình,
muốn khẳng định rằng mình đã lớn và cần được tôn trọng. Nhóm bạn có rất
nhiều ý nghĩa đối với cá nhân. Nhưng bên cạnh đó thì nhóm bạn cũng có khi sẽ
tạo ra các tác động tiêu cực đến cá nhân.
+ Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thông tin
cho nên trẻ em sẽ tiếp xúc với truyền hình và các phương tiện truyền thông trước
khi được đi học. Vai trò của truyền thông là rất lớn nó cung cấp những kinh
nghiệm xã hội, những mẫu văn hóa mang tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn phổ
biến. Truyền thông cũng làm cho các cá nhân gắn kết với nhau chặt chẽ hơn
thông qua các mối quan tâm chung, những giá trị chung đặc biệt là khi có những
sự kiện nổi bật như thảm họa sóng thần, động đất hay một vụ khủng bố đẫm máu
khiến nhiều người bị thương vong.
Các nhà xã hội học khi nghiên cứu về các giai đoạn của quá trình xã hội
hóa đã chỉ ra rằng, xã hội hóa ở lứa tuổi thanh thiếu niên là giai đoạn vô cùng
quan trọng vì lứa tuổi này là lúc tốt nhất để kiểm nghiệm những tri thức thu nhận
23
thụ động qua hoạt động thực tiễn. Những kinh nghiệm xã hội cũng được bổ sung
qua quá trình lao động. Cá nhân lúc này đã có thể phán xét, đánh giá về các giá
trị chuẩn mực mà họ phải tuân thủ cân nhắc xem lựa chọn như thế nào là có lợi
nhất, dễ đạt hiệu quả cao nhất. Sự định hướng nghề nghiệp của người học sinh
cũng tuân thủ theo những quy luật đó.
Quá trình xã hội hóa sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp cho
mỗi học sinh định hướng nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp. Sự định hướng của các
cá nhân sẽ có sự khác nhau bởi các nguyên nhân như thành phần gia đình, hoàn
cảnh kinh tế gia đình, mức sống, trìn độ học vấn của cha mẹ... Ngoài ra thì sự
tiếp xúc của các cá nhân với các kênh thông tin khác nhau, sự hình thành các
nhóm bạn khác nhau cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự định hướng khác nhau
của học sinh. Liên hệ vào đề tài nghiên cứu tác giả sẽ tìm hiểu và giải thích
những lý do tại sao học sinh THPT lại chạy đua vào các trường ĐH, CĐ thay vì
lựa chọn học nghề, học trung cấp chuyên nghiệp.
1.2.2 Lý thuyết sự lựa chọn duy lý (Thuyết lựa chọn hợp lý)
Thuyết lựa chọn duy lý còn gọi là thuyết lựa chọn hợp lý trong xã hội học
có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ 18, 19. Một số nhà
triết học đã cho rằng bản chất của con người là vị kỷ, luôn tìm đến sự hài lòng,
sự thỏa mãn và lảng tránh nỗi khổ đau. Một số nhà kinh tế học cổ điển thì từng
nhấn mạnh vai trò động lực cơ bản của các động cơ kinh tế, lợi nhuận khi con
người phải đưa ra quyết định lựa chọn hành động. Đặc trưng thứ nhất có tính
chất xuất phát điểm của sự lựa chọn duy lý chính là các cá nhân lựa chọn hành
động.
Thuyết lựa chọn duy lý dựa trên tiền đề cho rằng con người luôn hành
động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực
hợp lý nhằm đạt được kết quả tối ưu nhất với chi phí tối thiểu. Thuật ngữ “lựa
chọn” được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc tính toán để quyết định sử
dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số những điều kiện hay cách
24
thức hiện có để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm nguồn nhân lực.
Mục đích ở đây không chỉ hiểu đơn thuần là (lãi, lợi nhuận, thu nhập) mà còn
bao hàm cả những lợi ích về tinh thần và xã hội.
Thuyết sự lựa chọn duy lý gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học tiêu
biểu như George Homans, Peter Blau, James Coleman... Theo Homans khi lựa
chọn trong số các hành động có thể có, cá nhân sẽ chọn cách nào mà họ cho là
tích của xác suất thành công của hành động đó với giá trị mà phần thưởng của
hành động đó là lớn nhất. Như vậy Homans đã nhấn mạnh đến đặc trưng thứ hai
của sự lựa chọn hợp lý là quá trình tối ưu hóa.
Thuyết lựa chọn duy lý đòi hỏi phải phân tích hành động lựa chọn của cá
nhân trong mối liên hệ với cả hệ thống xã hội của nó bao gồm các cá nhân khác
với những nhu cầu và sự mong đợi của họ, các khả năng lựa chọn và các sản
phẩm đầu ra của từng lựa chọn cùng các đặc điểm khác. Thuyết lựa chọn duy lý
không chỉ để giải thích hành động xã hội trên cấp độ vi mô-hành động cá nhân,
mặc dù nó còn có tên gọi khác là thuyết hành động lựa chọn duy lý. Thuyết này
được xây dựng, phát triển để xem xét hoạt động chức năng của các hệ thống và
thiết chế kinh tế, xã hội tức là trên cấp độ vĩ mô. Nó được dùng làm phương
pháp để tiếp cận hành động của cá nhân, của nhóm và của cả hệ thống.
Vận dụng thuyết lựa chọn hợp lý vào đề tài nghiên cứu tác giả muốn tìm
hiểu những điều kiện, nguồn lực mà học sinh có và việc các em sử dụng những
nguồn lực ấy vào quá trình định hướng nghề nghiệp của mình như thế nào. Các
em học sinh THPT đang ở lứa tuổi đẹp nhất của đời người, ở các em luôn có một
sức sống hết sức mạnh mẽ, và một sức trẻ sôi động. Các em luôn muốn được
khẳng định mình, được chứng tỏ cái tôi của bản thân. Quá trình định hướng nghề
nghiệp của các em cũng là một yếu tố để chứng minh là các em đang trưởng
thành, đang tự lập, đang cố gắng tìm kiếm thông tin để có được một quyết định
đúng đắn.
25
Thuyết lựa chọn duy lý sẽ giúp cho tác giả tìm hiểu nhiều khía cạnh trong
quá trình định hướng nghề nghiệp của các em. Đứng trước những thuận lợi, khó
khăn, những điều kiện sẵn có các em sẽ phải suy nghĩ và tính toán sao cho sự lựa
chọn của mình phải là tốt nhất, phù hợp nhất với năng lực và nguyện vọng của
bản thân.
1.2.3 Lý thuyết về hành động xã hội
Lý thuyết hành động xã hội bắt nguồn từ V. Pareto, M. Weber, Znaniecki,
G. Mead, T. Parsons… Các tác giả này đều cho rằng hành động xã hội là cốt lõi của mối
quan hệ giữa con người và xã hội, là cơ sở của đời sống xã hội của con người.
Hành động xã hội được M.Weber định nghĩa một cách tổng quát là:
“Hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành động
có tính đến hành vi của người khác, và vì vậy được định hướng tới người khác,
trong đường lối, quá trình của nó”. Như vậy, bất kỳ hành động xã hội nào cũng
có sự tham gia của yếu tố ý thức với các mức độ khác nhau. Đây là cái mà M.
Weber gọi là ý nghĩa chủ quan và sự định hướng mục đích còn G. Mead gọi là
tâm thế xã hội của các cá nhân.
Hành động xã hội luôn gắn với tính tích cực của cá nhân. Tính tích cực
này bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như: nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị
của chủ thể hành động.
Hành động xã hội được cấu trúc nên bởi nhiều thành tố khác nhau, giữa
các thành tố này có mối liên quan hữu cơ với nhau. Khởi đầu của nó bao giờ
cũng là nhu cầu, lợi ích của cá nhân, đây là động cơ thúc đẩy hành động. Động
cơ tạo ra tính tích cực của chủ thể, tham gia định hướng hành động và quy định
mục đích của hành động. Bất kỳ hành động nào cũng cần có chủ thể. Chủ thể
hành động có thể là cá nhân, nhóm, cộng đồng hay toàn thể xã hội. Ngoài ra, để
tạo nên hành động cũng cần có môi trường. Đó chính là điều kiện mà ở trong nó
hành động được diễn ra. Tuỳ theo từng hoàn cảnh khác nhau mà các chủ thể sẽ
tạo ra hành động phù hợp nhất với hoàn cảnh đó.
26
Áp dụng vào đề tài này, chúng ta có thể thấy rằng, tuỳ theo hoàn cảnh của
mỗi học sinh như: năng lực bản thân, ngành học, giới tính, vốn xã hội, điều kiện
kinh tế… cũng như những nhu cầu khác nhau về môi trường làm việc, thu
nhập… mà mỗi học sinh có những dự định, định hướng cũng như những cách
thức tiếp cận nguồn thông tin hay tìm kiếm sự hỗ trợ về việc làm khác nhau. Sự
định hướng về nghề nghiệp hay cách thức tiếp cận thông tin về nghề nghiệp cũng
như tìm kiếm sự hỗ trợ về nghề nghiệp được mỗi cá nhân tính toán, lựa chọn để
có thể có được hành động tốt nhất, phù hợp nhất với khả năng của bản thân.
1.3 Tổng quan về đề tài nghiên cứu
1.3.1 Nghiên cứu trên thế giới
Các nhà tâm lý học là những người đầu tiên đề xuất các cơ sở lý luận cũng
như phương pháp tiếp cận trong lĩnh vực hướng nghiệp. Nhưng sự kiện nổi bật
đánh dấu sự phát triển của lĩnh vực hướng nghiệp phải đợi đến năm 1908. Đó là
khi F. Parsons lập hội đồng hướng nghiệp ở Boston và sau đó là tại New York
cũng thành lập một hội đồng tương tự. Nhiệm vụ của hội đồng này là:
- Nghiên cứu các yêu cầu của nghề đối với con người
- Tìm hiểu một cách chi tiết về năng lực của học sinh để giúp học sinh lựa
chọn cho mình một nghề phù hợp
- Các phương pháp thực hiện là sử dụng các test và anket
- Cung cấp các thông tin liên quan đến việc lựa chọn nghề trước khi học
sinh bước vào nghề, hoặc khi chuyển nghề
- Nghiên cứu đặc điểm tâm lý, phẩm chất nhân cách, năng lực của học
sinh giúp học sinh có cơ sở lựa chọn nghề phù hợp với bản thân
- Giới thiệu việc làm
Có thể khẳng định tư tưởng về định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã
có từ thời cổ đại tuy nhiên phải đợi đến thế kỷ XIX khi mà nền sản xuất xã hội
phát triển cùng với những tư tưởng tích cực về giải phóng con người trên khắp
thế giới thì khoa học hướng nghiệp mới thực sự trở thành một khoa học độc lập.
27
Cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” xuất bản năm 1948 ở Pháp được xem là cuốn
sách đầu tiên nói về hướng nghiệp. Nội dung của cuốn sách đề cập đến sự phát
triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp
từ đó rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan trọng
không thể thiếu khi xã hội loài người càng ngày có những bước tiến vượt bậc.
Vào những năm 1940 nhà tâm lý học Mỹ J. L Hollan đã nghiên cứu và thừa nhận
sự tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp tác giả đã chỉ ra tương
ứng với mỗi kiểu nhân cách nghề nghiệp đó là một số những nghề nghiệp mà cá
nhân có thể chọn để có được kết quả làm việc cao nhất.
Ở Liên Xô (cũ) vào những năm 1929, 1930 của thế kỷ XX vấn đề hướng
nghiệp cho học sinh được các nhà lãnh đạo chính quyền Xô Viết hết sức quan
tâm. V.I Lênin đã ra chỉ thị yêu cầu phải cho học sinh làm quen với khoa học kỹ
thuật, làm quen với cơ sở của nền sản xuất hiện đại. N.K Crupxkaia, nhà giáo
dục học lỗi lạc đã từng nêu lên luận điểm “tự do chọn nghề” cho mỗi thành niên,
thiếu niên. Theo bà thông qua hướng nghiệp mỗi trẻ em sẽ nhận thức được một
cách sâu sắc hướng phát triển kinh tế của đất nước, những đòi hỏi của nền sản
xuất… Mặt khác theo bà hướng nghiệp sẽ giúp cho các em phát triển hứng thú
nghề nghiệp, năng lực nghề nghiệp, giáo dục cho các em thái độ đúng đắn và
động cơ chọn nghề phù hợp. Từ đó trẻ sẽ có thái độ tích cực, tự giác trong việc
lựa chọn nghề nghiệp.
1.3.2 Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh có lẽ là người đầu tiên quan tâm đến công tác
hướng nghiệp cho học sinh. Trong bài viết “Học sinh và lao động”, bác viết “Thi
đỗ tiểu học rồi thì muốn lên trung học, đỗ trung học rồi lại muốn lên đại học.
Riêng về mỗi cá nhân của người học sinh thì ý muốn ấy không có gì lạ. Những
chung đối với nhà nước thì thì ý muốn ấy thành vô lý. Vì bất kỳ nước nào số
trường trung học cũng ít hơn trường tiểu học, trường đại học càng ít hơn trường
trung học. Thế thì người học trò tiểu học và trung học không được chuyển cấp sẽ
28
làm gì?”. Bác đã gạch chân câu trả lời là “họ sẽ lao động”. Như vậy câu trả lời
của bác đã khẳng định con đường lao động là con đường đúng đắn nhất để các
em tiếp tục phấn đấu vươn lên chứ không nhất thiết phải vào trường đại học.
Đảng và nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác hướng nghiệp cho học
sinh. Qua các chỉ thị, nghị quyết, văn kiện ta có thể thấy rõ điều đó. Trong văn
kiện ĐH Đảng lần thứ IX đã ghi rõ: “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân
luồng cho học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động
nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và của từng
địa phương”[ 9 ]. Luật giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Giáo dục THPT nhằm
giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học
vấn để tiếp tục học đại học, cao đẳng, học nghề và đi vào cuộc sống lao động”.
Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001-2010 đã xác định rõ: “Thực hiện chương
trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản
theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của
mỗi học sinh, giúp cho học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng
nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau THPT, để học sinh vào
đời hoặc chọn ngành nghề học thuận lợi cho việc phân luồng sau THPT, để học
sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp”[34].
Về mặt nghiên cứu hướng nghiệp ở Việt Nam, theo các chuyên gia thì
ngành hướng nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ vào những
năm 1970, 1980. Những nhà khoa học xã hội đi tiên phong trong lĩnh vực này
phải kể đến GS. Phạm Tất Dong, GS Phạm Huy Thụ, PGS Đặng Danh Ánh, GS
Nguyễn Văn Hộ.
Giáo sư Phạm Tất Dong là người có những đóng góp rất lớn cho giáo dục
hướng nghiệp ở Việt Nam. Ông nghiên cứu hướng nghiệp trên cả hai mặt lý luận
và thực tiễn nhằm tìm hiểu mục đích, ý nghĩa, vai trò của công tác hướng nghiệp
cũng như các hệ thống quan điểm, nguyên tắc hướng nghiệp, các nội dung,
phương pháp, biện pháp giáo dục hướng nghiệp... Điều này thể hiện rất rõ qua
29
rất nhiều công trình nghiên cứu của ông như: “Vấn đề hứng thú trong công tác
hướng nghiệp” - Nghiên cứu khoa học giáo dục số 18/1974 hay “Hướng nghiệp
trong nhà trường phổ thông” – Tạp chí Đại học và trung học chuyên nghiệp số
6/1982, “ Giáo trình công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông”- Nhà xuất
bản Hà Nội năm 1987. Trong một công trình gần đây ông đã chỉ ra rằng: “ Công
tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc chọn nghề của thanh niên theo hướng
chuyển đổi cơ cấu kinh tế”. Theo tác giả đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và theo đó sẽ là sự giảm của tỷ trọng ngành
nông nghiệp tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy xu hướng chọn
nghề của thanh niên cũng phải phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội của
đất nước, của địa phương.
Giáo sư Nguyễn Văn Hộ cũng là một người nghiên cứu chuyên sâu và
cũng có rất nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục hướng nghiệp. Trong luận án
tiến sỹ của mình ông đã nêu lên một vấn đề đó là “Thiết lập và phát triển hệ
thống hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam”. Năm 2006 ông đã xuất bản cuốn
sách: “Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và giảng dạy kĩ thuật trong trường
THPT”. Cuốn sách đã trình bày một cách có hệ thống về cơ sở lý luận của giáo
dục hướng nghiệp, vấn đề tổ chức giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT và
giảng dạy kỹ thuật ở nhà trường THPT trong điều kiện kinh tế thị trường và sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước ngày nay.
Trong thời gian gần đây giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam đang là chủ
đề rất được quan tâm. Có rất nhiều các công trình nghiên cứu về hướng nghiệp
với các cách tiếp cận khác nhau. Điều đó đã tạo nên một giai đoạn mới với sự đa
dạng trong nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở Việt Nam. Có thể kể đến luận
án phó tiến sỹ của Nguyễn Ngọc Bích với đề tài “Động cơ chọn nghề của thanh
thiếu niên”. Đề tài đã đưa ra nhận xét như sau: Ở thanh niên học sinh động cơ
bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài. Nam thanh niên quan tâm đến khả
năng thực hiện được công việc là động cơ đầu tiên cho việc lựa chọn nghề, thứ
30
hai là tính chất quan trọng của nghề, thứ ba là hoạt động hứng thú. Ở nữ thanh
niên thì yếu tố đầu tiên chi phối đến sự lựa chọn nghề nghiệp là yêu cầu của nhà
nước, thứ hai là vị trí xã hội của nghề, thứ ba mới là khả năng thực hiện của bản
thân mình. Theo tác giả thì việc định hướng nghề nghiệp của nam thanh niên và
nữ thanh niên là rất khác nhau. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Bích chủ
yếu đưa ra các động cơ tiêu biểu có liên quan đến sự lựa chọn nghề của học sinh,
sinh viên và đánh giá những động cơ nào là quan trọng đối với họ...
Ngoài ra còn có các bài viết với các cách tiếp cận khác nhau như:
- Trần Quốc Thành có bài “Định hướng giá trị nghề nghiệp của học sinh
lớp 12 THPT một số tỉnh miền núi phía Bắc”, Tạp chí tâm lý học (2002).
- Phạm Thị Đức với bài “Những nguyên nhân ảnh hưởng tới sự định
hướng trong việc học tập, chọn nghề ở học sinh THPT”, Tạp chí giáo dục
(2002).
- Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền có bài viết “Để nâng cao chất lượng
giáo dục hướng nghiệp trong tình hình mới”, Tạp chí giáo dục (2004).
Các tác giả trên đã có những nghiên cứu thực tiễn về xu hướng, động cơ
lựa chọn nghề của lớp thanh thiếu niên hiện nay, và nghiên cứu cũng chỉ ra
nguyên nhân dẫn đến xu hướng, động cơ chọn nghề và định hướng giá trị đồng
thời nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục hướng nghiệp và vấn đề phát triển
nguồn nhân lực của đất nước trong thời kì hội nhập.
Những đề tài, tài liệu có tính chất lý luận về công tác hướng nghiệp ở trên
đã được tôi lấy làm cơ sở để tiến hành nghiên cứu đề tài. Như vậy có thể khẳng
định việc định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT là vô cùng quan trọng và
đang được cả xã hội quan tâm. Hàng năm ở nước ta có hàng triệu học sinh tốt
nghiệp THPT, những học sinh này chính là nguồn nhân lực quan trọng cho sự
phát triển đất nước. Việc định hướng, giáo dục hướng nghiệp sẽ giúp cho các em
hình thành những kiến thức và những hiểu biết về ngành nghề là một công việc
có ý nghĩa thiết thực đối với học sinh THPT hiện nay.
31
1.4 Cơ sở tâm lý học đối với việc định hƣớng nghề nghiệp của học sinh
trung học phổ thông.
1.4.1 Những đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của học sinh THPT
Lứa tuổi học sinh THPT là những em học sinh đang học trung học phổ
thông có độ tuổi từ 13- 15 tuổi. Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt quan trọng bởi
đang là giai đoạn phát triển và dần hoàn thiện các cấu trúc tâm lý, các phẩm chất
nhân cách và thể chất chuẩn bị cho các em bước vào cuộc sống xã hội với tư
cách là một người trưởng thành. Và lựa chọn cho mình một nghề nghiệp cũng là
một bước chuẩn bị quan trọng cho tương lai sau này của các em.
Đặc điểm về sự phát triển thể chất
Tuổi học sinh trung học phổ thông là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về
mặt cơ thể. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kỳ phát triển bình thường, hài
hòa, cân đối. Ở tuổi đầu thanh niên, học sinh THPT vẫn còn tính dễ bị kích thích
và sự biểu hiện giống như ở lứa tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích ở
tuổi thanh niên không phải chỉ do nguyên nhân sinh lý như lứa tuổi thiếu niên
mà nó còn do cách sống của cá nhân ở độ tuổi này như: hút thuốc lá, không cân
bằng giữa học tập, lao động, vui chơi giải trí. Nhìn chung lứa tuổi học sinh
THPT có sức khỏe và sức chịu đựng rất tốt. Sự phát triển của thể chất ở lứa tuổi
này sẽ có ảnh hưởng nhất định đến tâm lý và nhân cách cũng như ảnh hưởng tới
những lựa chọn khác trong cuộc sống như sự định hướng việc làm của các em
sau này.
Đặc điểm học tập
Các em học sinh THPT đã ý thức được tầm quan trọng của giai đoạn này.
Đó là giai đoạn mà các em phải đứng trước nhiều cơ hội, nhiều thách thức và
việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp tương lai cũng là một thách thức lớn
trên con đường cuộc đời lâu dài phía trước của các em. Do đã ý thức được tầm
quan trọng này nên các em học sinh THPT có ý thức học tập cao hơn đối với các
môn học. Ở các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh
32
hướng nghề nghiệp. Cuối bậc THPT (lớp 12) thì hầu hết các em học sinh THPT
đã xác định cho mình một hứng thú ổn định với một môn học nào đó. Và hứng
thú này có liên quan mật thiết đối với việc lựa chọn ngành nghề của các em. Học
sinh PTTH rất quan tâm đến động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn) của môn học
đối với cá nhân các em và nó sẽ liên quan đến ngành nghề mà các em sẽ chọn.
Sau đó là động cơ nhận thức, là ý nghĩa xã hội của môn học rồi mới đến các cơ
cụ thể khác...
Tuy nhiên trong giai đoạn này học sinh THPT thường có một nhược điểm
đó là các em sẽ rất tích cực đầu tư vào các môn học mà các em cho là quan trọng
đối với ngành nghề mình đã chọn. Còn các môn khác các em sẽ ít đầu tư thời
gian hơn, việc học các môn phụ, các môn mà các em sẽ không phải thi tốt
nghiệp, thi đại học thì việc học sẽ trở lên chểnh mảng, lơ là, học qua loa đại khái
để trả bài trên lớp. Chính tâm lý này của các em đã dẫn đến việc học lệch, học tủ,
học chỉ vì mục đích thi cử.
Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ
Do cấu trúc và chức năng của não bộ phát triển cùng với sự phát triển của
các quá trình nhận thức và hoạt động học tập mà hoạt động tư duy của các em có
sự thay đổi quan trọng. Các em học sinh THPT có khả năng tư duy logic, tư duy
lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo. Những đặc điểm trên sẽ
tạo điều kiện để các em thực hiện các phép toán học phức tạp, phân tích nội dung
cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm bắt được mối quan hệ nhân quả trong tự
nhiên và xã hội. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan. Năng lực là vậy nhưng
không phải học sinh nào cũng phát huy được hết năng lực độc lập suy nghĩ của
bản thân. Vì vậy dẫn đến nhiều quyết định mơ hồ, theo cảm tính. Điều này sẽ
dẫn đến nhiều quyết định sai lầm khi lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Tuy
nhiên nếu có một sự tác động khoa học, một sự định hướng đúng đắn của gia
đình, nhà trường, các nhà hướng nghiệp thì các em sẽ trở về đúng quỹ đạo và sẽ
lựa chọn cho mình một nghề nghiệp phù hợp.
33
Sự hình thành thế giới quan
Lứa tuổi học sinh THPT cũng là lứa tuổi quyết định sự hình thành thế giới
quan. Đó là hệ thống các quan điểm về xã hội, về tự nhiên, các nguyên tắc và
quy tắc về ứng xử... Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan đó là sự phát
triển của hứng thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất
của vũ trụ, những quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và sự tồn tại của loài
người. Các em sẽ phải xây dựng các quan điểm riêng trong các lĩnh vực khoa
học, đối với các vấn đề xã hội, với các tư tưởng về chính trị, đạo đức, văn hóa...
Và có thể khẳng định chính nội dung của các môn học ở THPT sẽ giúp các em
xây dựng được thế giới quan tích cực về tự nhiên và xã hội.
Và cũng chính ở giai đoạn này học sinh THPT sẽ dành nhiều sự quan tâm
đến các vấn đề liên quan đến con người, vai trò của con người trong lịch sử,
quan hệ giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội, vấn đề giữa vai trò và
quyền lợi, quyền lợi nghĩa vụ và tình cảm... Tất cả những điều ấy chiếm một vị
trí trung tâm trong suy nghĩ của học sinh THPT. Ở phần lớn học sinh trung học
phổ thông là như vậy tuy nhiên cũng có một bộ phận học sinh do bị ảnh hưởng
xấu, bị tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, của cơ chế hội
nhập giao thoa về văn hóa... cho nên các em sẽ có lối sống không lành mạnh, ăn
chơi, lêu lổng, thích hưởng thụ, sống dễ dãi buông thả bản thân. Đây là những
em học sinh chưa hình thành cho mình một thế giới quan khoa học và đúng đắn.
Đời sống tình cảm
Đời sống tình cảm của học sinh trung học phổ thông rất phong phú và
muôn màu. Ở lứa tuổi này nhu cầu tình bạn tăng lên rõ rệt và sâu sắc hơn ở giai
đoạn trước. Các em có những yêu cầu cao hơn trong tình bạn như phải chân
thành, đáng tin, là người dễ cảm thông và biết lắng nghe chia sẻ. Tình bạn của
học sinh trung học phổ thông là rất đẹp, rất trong sáng và bền vững. Tình bạn
này có thể kéo dài trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Ở lứa tuổi 15, 16 các
em cả nam và nữ đều coi tình bạn là mối quan hệ quan trọng nhất của con người.
34
Bên cạnh tính bền vững thì tình bạn của các em còn mang tính xúc cảm cao.
Thanh niên thường lý tưởng hóa tình bạn, các em nghĩ về bạn thường với điều
mình mong muốn ở bạn bè hơn là thực tế. Sự quyến luyến mạnh mẽ về mặt cảm
xúc khiến cho các em ít nhận thấy những đặc điểm thực tế ở bạn. Một điều cũng
cần chú ý đó là ở thanh niên mới lớn, quan hệ giữa thanh niên nam nữ tích cực
hóa một cách rõ rệt. Phạm vi quan hệ được mở rộng. Bên cạnh các nhóm thuần
nhất có khá nhiều nhóm pha trộn (cả nam và nữ). Và ở giai đoạn này các em đã
để ý hơn đến bản thân, đã bắt đầu chăm chút đến vẻ bề ngoài để cho mình thật
thu hút, thật nổi bật. Do vậy nhu cầu về tình bạn khác giới được tăng cường. Và
ở một số em đã xuất hiện những lôi cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ. Xuất hiện nhu
cầu chân chính về tình yêu. Tình yêu nam nữ là một loại tình cảm rất tự nhiên và
bắt đầu xuất hiện ở độ tuổi này.
1.4.2 Những nhu cầu, hứng thú, năng lực của học sinh THPT
Nhu cầu
Nhu cầu là một trạng thái tâm lý đòi hỏi con người cần được thỏa mãn,
nếu không thì bản thân sẽ khó chịu, bức bối, căng thẳng. Thường thì sẽ chia ra
thành hai loại đó là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu tinh thần là
cơ sở của xu hướng nghề nghiệp của nhân cách. Sự thỏa mãn nhu cầu tinh thần
là cơ sở của xu hướng nghề nghiệp của nhân cách. Sự thỏa mãn nhu cầu tinh
thần như nhu cầu tự quyết định nghề nghiệp và tự khẳng định nghề được diễn ra
trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người.
Nhờ được lĩnh hội các thông tin đa dạng về nghề nghiệp cho nên học sinh
THPT mới nảy sinh những mối quan tâm đến các giá trị của hoạt động nghề
nghiệp. Sự quan tâm đó được nuôi dưỡng, phát triển thành những hứng thú của
nhân cách, thúc đẩy sự hình thành và phát triển xu hướng nghề nghiệp của nhân
cách. Như vậy sự đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân cách có tác dụng nâng cao
tính tích cực của nhân cách trong quá trình tự xác định nghề nghiệp.
35
Hứng thú
Là thái độ lựa chọn, mang màu sắc cảm xúc của nhân cách đối với các sự
vật, hiện tượng diễn ra kèm theo với mong muốn hiểu rõ và chiếm lĩnh chúng.
Hứng thú nghề nghiệp được xem là hứng thú đối với dạng hoạt động lao động nghề
nghiệp được ưa thích hơn. Hứng thú học tập nhất là hứng thú với môn học thường
có mối liên hệ chặt chẽ đối với việc lựa chọn nghề. Thông thường những em học
sinh yêu môn Toán học, Vật lý, Hóa học sẽ lựa chọn cho mình những nghề về kinh
tế, kỹ thuật. Còn những em yêu thích môn Văn, Sử, Địa sẽ theo những ngành về sư
phạm, về xã hội. Vì vậy khi chọn nghề học sinh cần phải suy nghĩ thật kỹ xem nghề
đó có liên quan gì đến hứng thú học tập của bản thân không?
Năng lực
Năng lực là một tập hợp các đặc điểm tâm sinh lý của nhân cách cần thiết
để thực hiện thành công một hoạt động nào đó. Đồng thời đó là những đặc điểm
tâm lý mà sự tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo phụ thuộc vào năng lực cũng
như năng lực còn được biểu hiện ở độ nhanh, độ sâu sắc và độ chắc chắn của
việc nắm giữ các biện pháp và cách thức hoạt động.
Năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những đặc điểm tâm lý và
sinh lý của con người với những yêu cầu do nghề đặt ra. Năng lực nghề nghiệp
không phải là cái có sẵn, không phải là bẩm sinh. Vì nó được hình thành và phát
triển qua hoạt động thực tiễn con người học tập và lao động.
Năng lực có thể chia thành hai loại: Năng lực chung và năng lực chuyên biệt.
Năng lực chung: là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động
khác nhau, chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, trí lực (quan sát, trí nhớ, tư
duy, ngôn ngữ...) là những điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt
động có hiệu quả.
Năng lực chuyên biệt: Là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt
có tính chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên
biệt với kết quả cao.
36
1.5 Một số nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh THPT
Học sinh THPT là lứa tuổi bắt đầu bước vào ngưỡng cửa của cuộc đời,
khác với học sinh THCS ở chỗ học sinh THPT đã có sự chuẩn bị về tâm thế nên
các em sẽ chín chắn hơn trong việc lựa chọn cho mình con đường đi phía trước.
Tuy nhiên trên thực tế việc lựa chọn nghề không hề dễ dàng bởi nghề nghiệp
trong xã hội rất phong phú, nghề nào cũng có vai trò và ý nghĩa nghề nghiệp
nhất định. Hơn nữa mỗi nghề nghiệp sẽ có những đặc điểm và tính chất đặc thù
riêng mà không phải người nào cũng đáp ứng được. Bên cạnh đó học sinh THPT
còn bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan đến việc lựa chọn
nghề của các em. Vì vậy câu hỏi luôn đặt ra với các em đó là tôi sẽ phải làm gì
sau khi tốt nghiệp THPT? Tôi phải chọn nghề gì? Nghề nghiệp nào sẽ phù hợp
với tôi? Đây là những câu hỏi xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và nó rất thiết thực
đối với học sinh THPT.
Theo E. A Klimốp thì có 2 nguyên nhân chính dẫn đến sự lựa chọn nghề
nghiệp không phù hợp của học sinh THPT.
- Thứ nhất: Do cá nhân học sinh có thái độ không đúng đắn với các tình
huống khác nhau của việc lựa chọn nghề. Những thành kiến và tiếng tăm nghề
nghiệp do sự ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của những người khuyên bảo, sự
yêu thích nghề... mới chỉ là vẻ bề ngoài, cảm tính. Cá nhân chưa thực sự hiểu
nghề đó.
- Thứ hai: Cá nhân thiếu tri thức, kinh nghiệm về những tình huống đó có
thể do sự bất đồng môn học nghề, không thể hiểu được hết năng lực của bản
thân, không biết hoặc không đánh giá đầy đủ những đặc điểm phẩm chất cá
nhân, không hiểu được đặc điểm và yêu cầu của nghề đòi hỏi với người lao
động, thao tác và trình tự của chúng khi giải quyết vấn đề lựa chọn nghề.[23].
Theo GS.TS Phạm Tất Dong thì có hai loại nguyên nhân dẫn đến việc
chọn nghề (không tính đến những dấu hiệu sự sự phù hợp nghề). Loại nguyên
37
nhân thứ nhất thuộc về thái độ không đúng đắn và loại thứ hai đó là thiếu hiểu
biết về nghề. Tác giả cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân cụ thể như:
- Cho rằng nghề thợ thì thấp kém hơn kỹ sư, giáo viên mầm non, tiểu học
thì thua kém giáo viên THPT. Ở một số học sinh đã coi nhẹ công việc của người
thợ, của thầy cô cấp I, của người y tá mà chỉ coi trọng đến công việc của kỹ sư,
của thầy cô ở bậc THPT, của bác sỹ... Vì thế mà chỉ định hướng vào những nghề
mà bản thân thấy nó có giá trị và vị thế xã hội cao. Bên cạnh đó thì sự thành kiến
của học sinh như coi lao động tay chân là nghề thấp kém, những quan niệm sai
lầm của các em về giá trị nghề nghiệp đã dẫn đến những thái độ không đúng
trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Có thể khẳng định nghề đã được xã hội thừa
nhận thì không thể nói đó là nghề cao sang hay thấp hèn được, mà mỗi nghề đều
đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, và bởi vậy nó có giá trị
và ý nghĩa nghề nghiệp riêng.
- Dựa dẫm vào ý kiến của người khác (theo ý kiến của cha mẹ, thầy cô, bạn
bè, của số đông...) không độc lập trong suy nghĩ, không có chủ kiến riêng về ngành
nghề. Và những em học sinh này rất dễ chán nghề vì không phù hợp với nghề.
- Bị hấp dẫn bởi vẻ bề ngoài của nghề, thiếu hiểu biết nội dung lao động
của nghề. Ví dụ: Nhiều em học sinh bị hấp dẫn bởi sự phưu lưu của nghề hàng
hải, được đi nhiều nơi, thu nhập lại rất cao nên lựa chọn nghề tàu biển. Nhưng
khi thực tế làm nghề, thì công việc quanh năm gắn bó với biển, phải xa đất liền,
ít tiếp xúc với cuộc sống gia đình nên nhiều người đã phải bỏ nghề vì chán nghề.
- Quan niệm cho rằng việc đạt thành tích cao trong việc học tập một môn
văn hóa nào đó là làm được nghề cần đến tri thức của môn học đó. Ví dụ em có
năng khiếu môn văn, đạt được rất nhiều thành tích cao trong môn học đó và em
nghĩ mình sẽ thích hợp với nghề báo, làm phóng viên. Công việc này sẽ phát huy
sở trường viết lách của bản thân. Nhưng trên thực tế, sự đòi hỏi của ngành nghề
là nhiều hơn thế rất nhiều. Ngoài khả năng viết lách tốt ra các em cần có một số
yếu tố khác nữa như sự nhanh nhẹn, tháo vát, năng động, xông xáo và hòa
38
đồng... Và sai lầm của các em ở đây đó là năng lực đối với môn học chỉ là điều
kiện cần chứ chưa là điều kiện đủ để các em theo đuổi nghề mình thích.
- Không đánh giá đúng về năng lực bản thân nên lúng túng trong việc
chọn nghề. Do đó có 2 tình trạng thường gặp đó là một là đánh giá quá cao năng
lực của bản thân và hai là đánh giá không đúng mức (thấp hơn) về năng lực của
bản thân. Việc đánh giá quá cao năng lực của bản thân sẽ dẫn đến sự chủ quan
ban đầu thất vọng lúc cuối, còn nếu đánh giá quá thấp về năng lực bản thân thì
chúng ta sẽ bỏ qua những nghề mà đáng ra phải nên chọn.
- Thiếu sự hiểu biết về thể lực và sức khỏe của bản thân lại không có đầy
đủ thông tin về những chống chỉ định y học trong các nghề. Điều này càng dễ
gây lên những tác hại lớn. Người yếu tim lại chọn nghề làm bác sỹ, y tá, người
hay viêm họng, viêm phổi lại chọn nghề dạy học...
- Quan niệm “tĩnh” về tính chất, nội dung lao động nghề nghiệp trong các
lĩnh vực sản xuất. Thực ra, nghề nghiệp lao động luôn thay đổi nội dung, phương
pháp, tính chất cũng như đặc điểm lao động của nó. Vì vậy người lao động trong
quá trình làm việc phải luôn học hỏi, trau dồi năng lực thì mới có thể đáp ứng
yêu cầu về năng suất và chất lượng lao động.
39
Chƣơng 2: HỌC SINH TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG MẠC ĐĨNH
CHI VỚI SỰ ĐỊNH HƢỚNG NGHỀ NGHIỆP SAU KHI TỐT NGHIỆP.
2.1 Vài nét về khách thể điều tra
Hải Phòng, còn được gọi là Thành phố Hoa phƣợng đỏ, là một thành
phố cảng lớn nhất phía Bắc (Cảng Hải Phòng) và công nghiệp ở miền Bắc Việt
Nam nằm trong Vùng duyên hải Bắc Bộ. Hải Phòng là thành phố lớn thứ
3 của Việt Nam sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Hải Phòng còn là 1
trong 5 thành phố trực thuộc trung ương, đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia,
cùng với Đà Nẵng và Cần Thơ. Tính đến tháng 12/2011, dân số Hải Phòng là
1.907.705 người, trong đó dân cư thành thị chiếm 46,1% và dân cư nông thôn
chiếm 53,9%, là thành phố đông dân thứ 3 ở Việt Nam.
Đây là nơi có vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin và
an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước, trên hai hành lang - một vành
đai hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Hải Phòng là đầu mối giao thông
đường biển phía Bắc. Với lợi thế cảng nước sâu nên vận tải biển rất phát triển,
đồng thời là một trong những động lực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ. Là Trung tâm kinh tế - khoa học - kĩ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải
Bắc Bộ và là một trong 2 trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ. Hải Phòng có nhiều khu công nghiệp, thương mại lớn và trung tâm dịch
vụ, du lịch, giáo dục, y tế và thủy sản của vùng duyên hải Bắc Bộ Việt Nam. Hải
Phòng là một cực tăng trưởng của tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà
Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh, nằm ngoài Quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Hải
Phòng còn giữ vị trí tiền trạm của miền Bắc, nơi đặt trụ sở của bộ tư lệnh quân
khu 3 và Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam.
Trong những năm vừa qua với sự phát triển chung của cả nước, Hải
Phòng cũng đã vươn lên mạnh mẽ với sự phát triển toàn diện trên nhiều lĩnh vực
của đời sống đặc biệt là ở lĩnh vực giáo dục đào tạo. Trên địa bàn Hải Phòng có
40
rất nhiều trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp trường nghề… thu
hút đông đảo học sinh tại thành phố cũng như ở nhiều địa phương khác đến học
tập. Có thể điểm qua các trường như Đại học Hàng hải, Đại học Hải Phòng, Đại
học Y, Đại học Dân lập Hải Phòng… Các trường Đại học, Cao đẳng hàng năm
đã đào tạo ra hàng nghìn cử nhân giỏi, đây có thể xem là một nguồn nhân lực
góp phần vào sự phát triển chung của thành phố. Hàng năm Hải Phòng luôn xây
dựng các chính sách về công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Và công
tác hướng nghiệp cho học sinh THPT là một trong những chính sách của thành
phố nhằm phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước.
Đề tài nghiên cứu đã lựa chọn khách thể là học sinh lớp 10, 11, 12 của
trường THPT Mạc Đĩnh Chi, thành phố Hải Phòng. Và tác giả tập trung vào
nghiên cứu, tìm hiểu sự định hướng nghề nghiệp tương lai của các em học sinh.
Giai đoạn này các em học sinh đã có những quan tâm nhất định về ngành nghề
của mình. Sự định hướng của các em sẽ chịu tác động của rất nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan, nhưng quyết định cuối cùng vẫn là ở chính các em. Sự quan
tâm của các cấp quản lý, các nhà hướng nghiệp, của gia đình, nhà trường sẽ là
một yếu tố rất quan trọng cho quá trình định hướng của các em. Tác giả lựa chọn
duy nhất một trường THPT để tiến hành khảo sát, với việc lựa chọn ngẫu nhiên
240 em học sinh ở 3 khối 10, 11,12 (chia đều cho nam và nữ. Và mỗi lớp lấy
ngẫu nhiên 80 em). Trường THPT Mạc Đĩnh Chi là trường cấp ba công lập duy
nhất nằm trên địa bàn của quân Dương Kinh, một quận mới thành lập của thành
phố Hải Phòng. Quận Dương Kinh mới được tách ra khỏi địa Huyện Kiến Thụy
từ năm 2007. Là một quận mới thành lập lại nằm trên con đường du lịch của
thành phố nên quận được hưởng rất nhiều sự quan tâm của thành phố đặc biệt là
lĩnh vực kinh tế và giáo dục đào tạo. Với các chính sách quy hoạch của thành
phố đã khiến cho diện mạo của quận có những bước thay đổi đáng kể, nhiều khu
công nghiệp mọc lên, các khu nhà ở đẹp và khang trang nằm dọc hai bên con
41
đường du lịch Đồ Sơn. Tuy đã lên quận nhưng số đông dân cư ở đây vẫn làm
nghề nông nghiệp, chăn nuôi thủy sản. Những năm gần đây do sự đẩy nhanh của
quá trình CNH - HĐH nên diện tích đất canh tác nông nghiệp trên địa bàn quận
đã giảm đi rất nhiều. Ruộng canh tác, đầm nuôi thủy sản bị lấy để xây dựng các
khu nhà ở, các nhà đa năng, khu công nghiệp… Và chính vì nguyên nhân này
cho nên nhân dân lao động trên địa bàn quận đang có một sự chuyển đổi lớn
trong cơ cấu nghề nghiệp. Đó là sự chuyển đổi từ cơ cấu nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ. Học sinh trường THPT Mạc Đĩnh Chi chủ yếu là con em của
các gia đình nông nghiệp, vì vậy sự định hướng nghề nghiệp của các em sẽ chịu
tác động rất lớn từ những sự thay đổi này.
2.2 Thực trạng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh trƣờng trung học
phổ thông Mạc Đĩnh Chi.
Tác giả đã tiến hành điều tra bằng bảng hỏi ankét đối với học sinh của các
lớp thuộc khối 10, 11, 12 của trường. Với việc chọn ngẫu nhiên 240 em học sinh
chia đều cho ba khối, tác giả sẽ có thể đánh giá đúng thực trạng của việc định
hướng nghề nghiệp của các em học sinh phổ thông hiện nay. Bên cạnh đó tác giả
cũng tiến hành phỏng vấn các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy, phỏng vấn cha
mẹ các em học sinh THPT để tìm hiểu về công tác hướng nghiệp trong gia đình,
nhà trường là như thế nào? Và kết quả mà tác giả đã thu được như sau:
2.2.1 Mức độ quan tâm đến nghề nghiệp tương lai của học sinh trung học phổ
thông
Tương lai của con người phụ thuộc rất lớn vào yếu tố nghề nghiệp. Điều
quan trọng không nằm ở nghề gì, kiếm được nhiều tiền hay ít tiền, nghề có vị thế
cao hay thấp trong xã hội mà chính là nghề nghiệp đó có phù hợp với bản thân
của mình hay không?
Có thể khẳng định học sinh THPT hiện nay rất quan tâm đến yếu tố nghề
nghiệp điều đó thể hiện rõ nét qua số liệu mà tác giả thu được qua xử lý số liệu
điều tra. Có 67,5% học sinh THPT tỏ rõ thái độ rất quan tâm đến nghề nghiệp;
42
27,1% học sinh có quan tâm đến yếu tố nghề nghiệp và chỉ có 5,4% học sinh
chưa quan tâm đến nghề nghiệp. Và mức độ quan tâm đến yếu tố nghề nghiệp
của các em thuộc các khối cũng rất khác nhau.
Biểu đồ 2.1. Mức độ quan tâm của học sinh THPT đối với nghề nghiệp
tƣơng lai. (Đơn vị: %)
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
Lớp 10 lớp 11 Lớp 12
Rất quan tâm
Quan tâm
Chưa quan tâm
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Bản đồ trên cho ta thấy sự quan tâm đến yếu tố nghề nghiệp của các em
học sinh THPT là rất lớn. Trong đó sự quan tâm nhiều nhất thuộc về các em lớp
12 chiếm tỷ lệ rất cao là 77,5%; tiếp đến là học sinh lớp 11 chiếm 72,5%; ở học
sinh lớp 10 là 52,5%. Sự quan tâm của các em học sinh về nghề nghiệp đặc biệt
là các em học sinh lớp 11, 12 là xu thế tất yếu. Bởi các em đang đứng trước
nhiều sự lựa chọn cho nghề nghiệp tương lai của mình. Lựa chọn một nghề
nghiệp đúng đắn phù hợp với năng lực với nhu cầu hứng thú của bản thân đang
là một thách thức rất lớn đối với các em. Ở giai đoạn học THPT học sinh đã bộc
lộ những nhu cầu, hứng thú đối với ngành nghề mà các em đã chọn. Khi học sinh
quan tâm đến nghề nghiệp thì sẽ dẫn đến sự tìm hiểu thông tin và ý nghĩa về
nghề. Và xem xét xem nghề đó có phù hợp với bản thân của mình hay không?
Nghề đó có những đặc trưng gì? Cơ hội việc làm ra sao? Có được xã hội đánh
43
giá cao hay không... Có thể nói việc định hướng nghề sớm sẽ giúp cho các em có
thời gian cân nhắc, đánh giá, lựa chọn và cũng có thể là thay đổi quyết định nếu
không phù hợp. Cũng theo bảng số liệu đã phân tích ở trên thì chỉ có học sinh
khối 10 chiếm 13,8% là chưa quan tâm đến yếu tố nghề nghiệp. Các em khối 10
vừa trong quá trình chuyển khối từ học sinh THCS lên học sinh THPT nên nhiều
em chưa có thời gian dành cho vấn đề này, và các em nghĩ rằng còn rất nhiều
thời gian để định hướng nghề nghiệp trong quá trình học THPT.
Khi lựa chọn nghề nghiệp học sinh sẽ phải đánh giá được năng lực của
bản thân với nghề, việc đánh giá này sẽ giúp cho các em nhận biết được bản thân
có phù hợp với nghề hay không. Và các em phải nhận thức được rằng không
phải nghề mình thích là mình có thể làm được. Trên thực tế, có rất nhiều công
việc đòi hỏi năng lực rất lớn từ yếu tố sức khỏe như phi công, tiếp viên hàng
không, nghề hàng hải và cũng có những công việc đòi hỏi tư duy nhanh nhạy
như điện tử viễn thông, công nghệ thông tin… Mỗi nghề nghiệp sẽ có những đặc
trưng, những đòi hỏi đặc thù của nghề. Và việc các em học sinh THPT thể hiện
sự quan tâm đến yếu tố nghề nghiệp là bước đầu tiên dẫn các em đến với các giai
đoạn tiếp theo đó là tìm hiểu về nghề, quan tâm đến nghề.
Ở khía cạnh chỉ mức độ quan tâm của học sinh đến nghề nghiệp tác giả
còn tìm hiểu tới một khía cạnh nữa đó là thời điểm xuất hiện nhu cầu lựa chọn
nghề nghiệp của học sinh THPT. Qua điều tra thì có 39,2% học sinh THPT lựa
chọn là có nhu cầu và suy nghĩ về nghề nghiệp từ trước khi vào học lớp 10; có
46,7% số học sinh có nhu cầu lựa chọn nghề nghiệp trong quá trình học THPT
và có 8,8% học sinh lựa chọn nghề khi bắt đầu làm hồ sơ dự thi vào các trường
ĐH, CĐ; còn lại 5,4% là học sinh chưa có dự định gì về nghề. Có thể thấy rằng
tỷ lệ học sinh THPT có nhu cầu và quan tâm đến nghề nghiệp từ trước khi vào
học lớp 10 là tương đối cao chiếm 39,2 %. Qua trao đổi với các em, tác giả nhận
thấy rằng có rất nhiều học sinh thể hiện sự quan tâm đến yếu tố nghề nghiệp từ
rất sớm. Đã có nhiều em học sinh đánh giá được vị trí, vai trò, tầm quan trọng
44
của yếu tố nghề nghiệp đối với tương lai. Song hầu hết sự lựa chọn này mang
yếu tố cảm tính vì các em chưa có đủ thông tin về nghề và cũng chưa xác định
được mình có phù hợp với nghề hay không?
“Em thích làm bác sỹ để chữa bệnh cho mọi người. Nhưng nghe nói thi
vào trường Y khó lắm, em không biết mình có thi được không vì học lực của em
chỉ đạt trung bình thôi, mà nghe các anh chị khóa trên nói thi vào đó lấy tận 25,
26 điểm.”
( PVS, Nữ, học sinh lớp 10).
Những em học sinh chưa có dự định gì về nghề tập trung chủ yếu ở học
sinh khối 10, những em này cho rằng còn quá sớm để tính đến nghề nghiệp khi
phía trước các em còn là một thời gian dài để lựa chọn. Việc vượt qua cửa ải vào
THPT đã chiếm hết thời gian và tâm sức của các em, đối với các em thì cứ học
rồi sẽ tìm nghề sau.
Thông qua việc xem xét về thời điểm mà các em học sinh quan tâm đến
yếu tố học nghề, tác giả nhận thấy rằng công tác hướng nghiệp ở bậc THCS chưa
thực sự được chú trọng, chưa phát huy được vai trò phân luồng học sinh sau khi
học THCS, và hầu hết các em học sinh được hỏi đều nói là mình thiếu thông tin
về nghề, chưa hiểu nghề, và không biết bản thân có phù hợp với nghề không. Tỷ
lệ học sinh quan tâm đến nghề nghiệp trong khi học THPT là 46,7%, con số này
phần nào đã phản ánh đúng mục tiêu giáo dục bậc THPT. Vì trong quá trình học
tập các em được tiếp xúc với môi trường lao động sản xuất rộng lớn hơn, các
môn học với nội dung có tình hướng nghiệp cũng trở nên rõ ràng hơn, bên cạnh
đó là sự hoàn thiện về nhân cách, về mặt xã hội của bản thân các em điều đó đã
thúc đẩy các em có nhu cầu lựa chọn nghề nghiệp tương laic ho bản thân. Con số
này cũng đã chứng tỏ sự chủ động, độc lập của các em trong lựa chọn ngành
nghề là từ khá sớm.
45
2.2.2 Dự định về nghề nghiệp tương lai của học sinh trung học phổ thông
Những dự định nghề nghiệp của học sinh THPT chỉ có thể được thực hiện
sau khi tốt nghiệp THPT. Một trong những biểu hiện tập trung nhất của xu
hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT đó chính là việc thực hiện
những dự định nghề sau khi tốt nghiệp THPT. Để khảo sát về những dự định của
học sinh THPT sau khi tốt nghiệp THPT, tôi đã sử dụng câu hỏi số 3 trong bảng
hỏi anket và đã thu được kết quả như sau:
Biểu đồ 2.2 Dự định nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp của học sinh THPT
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Những số liệu ở biểu đồ 2.2 cho thấy: Sau khi tốt nghiệp THPT số học
sinh lựa chọn thi đại học nếu không đỗ vẫn tiếp tục ôn để thi tiếp chiếm tỷ lệ cao
nhất 48,3%; tiếp đến là là số học sinh lựa chọn sẽ thi đại học, cao đẳng nếu
không đỗ thì sẽ xem xét đến lựa chọn TCCN hoặc học nghề chiếm 44,2%. Như
vậy học sinh có nguyện vọng thi vào đại học ngay sau tốt nghiệp chiếm một tỷ lệ
vô cùng cao, nếu cộng hai tỷ lệ trên thì con số sẽ lên tới là 92,5%. Từ số liệu trên
tác giả có thể nhận định rằng đa số học sinh THPT đều dự định và có nhu cầu thi
vào các trường cao đẳng, đại học. Qua trò chuyện với các em tôi nhận thấy rằng
46
có nhiều em có học lực trung bình nhưng vẫn cố gắng để thi vào đại học, các em
đã đánh giá được về năng lực của bản thân, thấy được sự khó khăn cho việc thi
đại học… nói chung là đã nhận thức được rằng mình rất khó để đỗ vào đại học.
Nhưng các em vẫn cứ nộp hồ sơ và tìm kiếm sự may rủi cho việc thi cử. Điều
này gây ra một sự lãng phí rất lớn cho bản thân các em, cho gia đình và cả xã hội
đồng thời cũng gây khó khăn cho công tác tuyển sinh vào các trường đại học,
cao đẳng…
Chỉ có 2,5% học sinh dự định học TCCN hay học nghề và 1,7% học sinh
có dự định đi làm luôn. Đây là một con số hết sức báo động khi mà đa số học
sinh THPT chỉ muốn làm “thầy” mà không muốn làm “thợ”, trong khi đất nước
ta lại đang trong quá trình CNH - HĐH, bên cạnh việc cần những người kỹ sư
giỏi thì cũng đang rất cần một lực lượng lao động là công nhân kĩ thuật cao có
trình độ và tay nghề cao. Thực tế của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đang đòi hỏi rất lớn ở đội ngũ lao động lành nghề, có chuyên môn vững và cơ
hội việc làm của đội ngũ lao động này cũng rất cao được trả lương xứng đáng.
Tuy nhiên, thái độ của học sinh THPT lại rất không mặn mà với các trường trung
cấp chuyên nghiệp và dạy nghề nếu không muốn nói là coi thường. Hiện nay
trên địa bàn cả nước thì các cơ sở đào tạo nghề là rất lớn chỉ cần học hết THCS,
THPT là có thể học nghề, và học sinh được quyền lựa chọn bất cứ ngành nghề
nào để theo học. Và các trường nghề thì có rất nhiều chính sách để thu hút học
viên, thậm chí nhiều trường còn cử giảng viên về từng địa phương để chiêu sinh.
Tuy nhiên các trường nghề hiện nay vẫn rơi vào tình trạng “ế ẩm”, không có
người theo học. Tìm hiểu lý do thì thường các em chỉ ra là cha mẹ chỉ mong con
thi vào đại học, học đại học mới có tương lai, làm lao đông tay chân thì thu nhập
thấp lại không có cơ hội thăng tiến, bị xã hội coi thường… Đây là những nhận
thức hoàn toàn sai lệch của học sinh THPT, và tôi thiết nghĩ các nhà quản lý, nhà
hướng nghiệp, nhà trường, gia đình và xã hội là những người phải chịu trách
nhiệm chính vì sự sai lầm trong quan điểm về giá trị nghề nghiệp của các em.
47
Cũng trong điều tra này tôi cũng nhận thấy có 3,3% học sinh có ý kiến
khác về dự định nghề nghiệp, trong đó chủ yếu là các em học sinh chưa có dự
định về nghề nghiệp, các em còn đang rất băn khoăn trong quyết định đi học hay
đi làm, học gì và làm gì? Con số này tuy không lớn nhưng cũng nói nên một thực
trạng là nhiều học sinh THPT còn lúng túng và chưa có dự định về nghề nghiệp
trong tương lai.
2.2.3 Sự lựa chọn ngành nghề của học sinh trung học phổ thông
Đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, với rất nhiều cơ hội và sự lựa chọn.
Học sinh THPT đã gặp phải nhiều phân vân, cân nhắc để chọn cho mình một
ngành nghề phù hợp. Và học sinh THPT sẽ phải lựa chọn cho mình một ngành
nghề mà các em cho là yêu thích hơn cả và có khả năng, năng lực để đáp ứng với
những đòi hỏi của ngành nghề ấy. Để tìm hiểu về sự lựa chọn này tôi đã đưa ra
10 ngành nghề (hoặc nhóm nghề) và yêu cầu học sinh lựa chọn.
Bảng 2.1 Sự lựa chọn ngành nghề (nhóm nghề) của học sinh THPT
Ngành nghề Số lượng
lựa chọn % Xếp hạng
Sư phạm 14 5,8 8
Y, Dược 19 7,9 5
Tài chính ngân hàng, quản trị kinh doanh 52 21,7 1
Xây dựng, kiến trúc, giao thông 17 7,1 6
Văn hóa nghệ thuật, giải trí 5 2,1 12
CNTT, ngoại ngữ, điên tử viễn thông 29 12,1 4
Công an, quân đội 15 6,2 7
Hàng hải 32 13,3 3
Kinh tế, luật, đối ngoại 33 13,8 2
Ngành xã hội 6 2,5 10
Ngành khác 6 2,5 10
Chưa có sự lựa chọn 12 5 9
Tổng 240 100% 100%
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
48
Nhìn vào tỷ lệ ở trên có thể thấy rằng việc lựa chọn hiện nay của học sinh
THPT đang có sự tập trung vào các nghề đó là tài chính ngân hàng, quản trị kinh
doanh (21,7%); kinh tế, luật, đối ngoại (13,8%), hàng hải (13,3%) và công nghệ
thông tin , ngoại ngữ, điện tử viễn thông( 12,1%). (Các ngành này xếp ở các vị trí
thứ 1, 2, 4 của bảng xếp hạng mà học sinh THPT lựa chọn). Học sinh lựa chọn
chủ yếu vẫn là bên khối ngành kinh tế, và theo đánh giá của các em thì thi vào
những ngành này sẽ dễ xin việc và đem lại thu nhập cao. Có thể nói các khối
ngành kinh tế đã có độ nóng từ rất lâu, cho đến tận thời điểm này khi mà nền kinh
tế gặp suy thoái, kinh tế đất nước phát triển khó khăn thì vẫn không ảnh hưởng
nhiều đến sự lựa chọn ngành nghề của các em.
Ngành hàng hải chiếm vị trí thứ 3. Có thể nói sự lựa chọn này chịu tác
động ảnh hưởng rất lớn từ sự phát triển kinh tế, cũng như thế mạnh của địa
phương. Hải Phòng là thành phố cảng biển, với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế
biển. Ở Hải Phòng có Cảng biển Hải Phòng là cảng biển lớn nhất của phía bắc và
được xem là cửa ngõ ra biển kết nối với thế giới của cả miền bắc. Cảng Hải
Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, nằm trên tuyến đường gia
thông trên biển kết nối Singapore vơi Hồng Kông và các cảng của Đông Á và
Đông Bắc. Với những vị thế như vậy nên ngành hàng hải luôn là sự quan tâm rất
lớn của người dân địa phương. Trước đây Hải Phòng được người Pháp xây dựng
cảng biển hàng đầu của khu vực Thái Bình Dương, và từ đấy ngành hàng hải đã
gắn liền với sự phát triển kinh tế của địa phương. Dù hiện nay sự sụp đổ của
Vinashin đã dẫn đến nhiều sự hoài nghi về sự bất ổn của ngành nhưng nhìn vào
sự lựa chọn ở trên ta vẫn nhận thấy sức hút của ngành hàng hải là rất lớn. Và sự
lựa chọn của học sinh THPT trên địa bàn thành phố Hải Phòng vẫn rất quan tâm
đến ngành hàng hải và tin tưởng vào sự trỗi dậy của Vinashin, Vinalines.
“Em dự định thi vào trường Đại học Hàng Hải khoa lái tàu. Vì ngành đó
dễ xin việc, lương lại cao, đặc biệt được đi nhiều nơi, rất thú vị. Anh trai em
cũng học ngành hàng hải giờ đã đi làm rồi. Anh ấy cũng đi tàu, bây giờ đang
49
chở hàng sang Malaysia. Em thấy ở Hải Phòng con trai đi tàu nhiều lắm. Cả
nước mình có mỗi ở Hải Phòng là đào tạo ngành hàng hải được quốc tế công
nhận. Địa phương đào tạo thì không phải đi đâu xa, tội gì không học chứ”.
( PVS Nam, học sinh lớp 12).
Các vị trí tiếp theo là ngành y, dược; công an, quân đội và ngành sư phạm.
Đây là những ngành nghề được học sinh đánh giá là ổn định, được xã hội đánh
giá cao và là những ngành nghề có nhiều ý nghĩa về mặt xã hội. Nghành y, dược
là một ngành đòi hỏi một sự yêu nghề rất lớn bên cạnh đó năng lực để làm nghề
cũng không hề đơn giản. Vì vậy những học sinh khi lựa chọn ngành này phải
đánh giá thật kỹ về năng lực của bản thân và cũng phải quan tâm đến đầu vào.
Bởi hầu hết các trường y, dược đều lấy điểm đầu vào rất cao so với các trường
thuộc các khối ngành khác. Và điểm đầu vào của các trường y, dược luôn xấp xỉ
là 25 điểm trên tổng cộng ba môn. Các khối ngành như công an, quân đội, sư
phạm cũng là những trường lấy điểm đầu vào rất cao. Những trường này cũng
được nhiều bạn học sinh quan tâm và lựa chọn. Bởi một lợi thế lớn của các
ngành này đó là các em sẽ không phải đóng học phí khi học. Đó là cơ hội lớn
cho những bạn có hoàn cảnh khó khăn mà học giỏi. Bởi nếu thi đỗ vào thì không
phải lo đến vấn đề học phí, không phải lo đến chỗ ở. Ngoài ra các em còn được
trợ cấp, được nhận học bổng nếu có thành tích học tập tốt. Bên cạnh những thuận
lợi đó nhiều em học sinh thích ngành nhưng lại không dám lựa chọn ngành do
nhiều nguyên nhân. Nếu là ngành công an, quân đội các em lo đến chỉ tiêu, vì
chỉ tiêu của ngành là rất ít trong đó ngành lại có sự ưu tiên cộng điểm cho con
em của những người trong ngành nên chỉ tiêu lại càng ít đi, cơ hội cho bản thân
các em lại càng khó hơn. Ngành sư phạm thì các em lại lo đến yếu tố xin việc.
Bởi biên chế dành cho ngành giáo dục những năm gần đây bị thu hẹp rất nhiều.
Các em học sư phạm sẽ phải làm gì nếu không đi dạy, đây cũng là một băn
khoăn làm cho nhiều em dao động khi lựa chọn ngành sư phạm.
50
Hầu hết học sinh THPT đều có những suy nghĩ của mình về vấn đề nghề
nghiệp của bản thân. Tuy nhiên cũng có nhiều em học sinh chưa thực sự quan
tâm đến yếu tố nghề nghiệp và nhiều em học sinh thì lại chọn một lúc nhiều
ngành. Do chưa xác định cho mình một trọng tâm để dồn sự quan tâm vào nó
nên các em rất băn khoăn mơ hồ. Những em học sinh chưa lựa chọn được nghề
nghiệp chiếm tỷ lệ 5%, con số này không phải quá lớn, nhưng nó cũng là vấn đề
mà giáo dục hướng nghiệp cần phải lưu ý, để có những biện pháp giúp các em có
được một định hướng đúng đắn về nghề nghiệp.
Và những % nhỏ nhất trong sự lựa chọn của học sinh THPT thuộc về các
khối ngành xã hội và văn hóa nghệ thuật, giải trí.
Các ngành xã hội là rất rộng, có rất nhiều ngành xã hội và cũng có rất
nhiều trường đại học đào tạo ngành này. Tuy nhiên khối ngành khoa học xã hội
đang ngày càng giảm. Năm 2011 tình trạng này đã đến mức báo động khi tỷ lệ
học sinh đăng ký vào đại học khối C chỉ còn là 4,44% và ở cấp THPT thì có
không ít trường trống ban Khoa học xã hội. Trường ĐHKHXHNV là một trường
đứng đầu trong số các trường về khối ngành xã hội và cũng là trường khá dễ
dàng trong công tác tuyển sinh, điểm đầu vào của trường luôn thuộc vào nhóm
cao. Nhưng vài năm trở lại đây, bình quân mỗi năm thí sinh thi khối C của
trường cũng giảm 10%. Và có nhiều ngành phải lấy cận điểm sàn mới đủ sinh
viên. Ở các trường ĐH, CĐ khác thì tình trạng này còn thê thảm hơn, nhiều
trường phải chấp nhận lấy bằng điểm sàn để đủ chỉ tiêu, và cũng có rất nhiều
ngành, nhiều trường phải đóng ngành, dừng tuyển sinh lại vì không có học sinh
đăng kí dự thi. Tỷ lệ các em học khối C giảm đồng nghĩa với việc các em đang
quay lưng với ngành xã hội. Theo kết quả xử lý điều tra thì chỉ có 2,9% học sinh
THPT chọn khối C là khối thi vào các trường ĐH, CĐ. Tìm hiểu nguyên nhân
của thực trạng trên đa số các em học sinh đều cho rằng khối C rất khó xin việc,
lương thấp bên cạnh đó phương pháp giảng dạy, nội dung giảng dạy cũng rất khô
51
khan, cứng nhắc nên các em không có hứng thú. Theo PGS.TS. Nguyễn Kim
Sơn (Phó Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn): “Học sinh
ngày nay chú ý và theo đuổi các ngành như công nghệ, kỹ thuật, kinh tế, tài
chính, ngân hàng… nhiều hơn bởi cơ hội việc làm lớn hơn, thu nhập cao hơn.
Cũng có nghĩa là người Việt bây giờ đặc biệt là giới trẻ đặt vấn đề lợi ích lên cao
hơn, thực dụng hơn…”
Nhìn chung, sự ưu tiên lựa chọn ngành nghề của học sinh trung học phổ
thông vẫn là ở bên khối ngành kinh tế. Và những ngành xã hội các em dường
như không lựa chọn. Điều này phản ánh công tác hướng nghiệp trong nhà trường
là không hiệu quả. Bởi công tác này chưa giúp các em nhìn nhận đúng về các
ngành nghề hiện nay, và chưa cung cấp cho các em đầy đủ thông tin về nghề.
Khiến các em lựa họn nghề nghiệp vẫn mang tính bị động, bị phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khách quan của nghề như có thu nhập cao, ổn định, dễ xin việc, và
được xã hội đánh giá cao…. chứ các em chưa thật sự căn cứ vào yếu tố chủ quan
như năng lực, sở trường, cũng như nhu cầu của xã hội.
2.2.4 Những lí do chọn nghề của học sinh trung học phổ thông
Chọn nghề là một công việc lâu dài, khó khăn và không hề đơn giản. Nó
đòi hỏi mỗi cá nhân phải dành nhiều thời gian, tâm sức để tìm hiểu và lựa chọn
ra một lĩnh vực nghề nghiệp mà bản thân có nhiều cơ hội để theo đuổi và mang
lại cho mình nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc trong cuộc sống. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc chọn nghề của các bạn học sinh THPT hiện nay lại mang nặng tính
thực dụng như: nghề dễ xin việc, có thu nhập cao, ổn định, được xã hội đề cao…
chứ các bạn chưa chú ý nhiều tới ý nghĩa xã hội, giá trị của nghề nghiệp cũng
như sự phù hợp của nghề đối với năng lực và nguyện vọng của bản thân.
Để tìm hiểu lí do lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT tác giả đã xử
dụng câu hỏi số 5 trong bảng hỏi để tính tỷ lệ % học sinh THPT lựa chọn. Và tác
giả đã thu thập được số liệu như sau:
52
Bảng 2.2 Lý do lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT
Lý do chọn nghề Số lƣợng %
1. Phù hợp với năng lực, sở trường, hứng thú, nhu cầu
của bản thân. 202 84,2
2. Thấy bạn bè và nhiều người chọn thì làm theo 4 1,7
3. Có thu nhập cao và có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm 104 43,3
4. Do gia đình định hướng. 61 25,4
5. Thấy được ý nghĩa của nghề. 96 40
6. Nghề có chi phí học tập thấp. 24 10
7. Nghề có thời gian học tập ngắn 9 3,8
8. Nghề có nhiều người theo học, theo xu hướng của
xã hội. 22 9,2
9. Nghề được xã hội đề cao. 55 22,9
10. Nhằm thoát ly nông thôn. 162 67,5
11. Ý kiến khác 6 2,5
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra)
Nhìn vào bảng 2.2 ta thấy có tới 202/ 240 (chiếm tỷ lệ 84,2%) các bạn học
sinh THPT lựa chọn nghề xuất phát vì lí do là phù hợp với năng lực, sở trường,
hứng thú và nhu cầu bản thân. Đây là một tỷ lệ rất cao và nó thể hiện sự chủ
động, tích cực trong việc lựa chọn nghề của học sinh phổ thông. Khi học sinh lựa
chọn ngành nghề thì các yếu tố như thích, hứng thú, say mê là vô cùng cần thiết,
bởi chỉ khi còn người ta thích thì mới có thể chăm chỉ, cố gắng và kiên trì theo
đuổi. Các chỉ số để đánh giá sự hứng thú đó là: hào hứng khi có dịp tiếp xúc với
nghề, thích học và học tốt những môn có liên quan đến nghề mình thích, đọc
hoặc sưu tầm những tài liệu nói về nghề định chọn, thể hiện cụ thể sự lựa chọn
nghề của mình như đánh giá cao về nghề, tự viết đơn xin học nghề... Học sinh
dựa trên những tiêu chí ở trên để đánh giá sự hứng thú, yêu thích với ngành nghề
là một việc làm rất quan trọng và nó là yếu tố đầu tiên dẫn dắt học sinh đi vào
53
con đường đúng đắn cho việc lựa chọn ngành nghề. Sau khi xác định được nhu
cầu học sinh sẽ đến bước tiếp theo đó là xác định được năng lực cũng như thế
mạnh của bản thân. Năng lực ở đây được hiểu là bản thân có thể đáp ứng được
yêu cầu của nghề nghiệp. Ví dụ: Nếu học sinh lựa chọn nghề sư phạm thì phải có
những yếu tố về năng lực như là: học tập phải tốt, có tính chăm chỉ, cẩn thận và
đặc biệt là khả năng truyền đạt thông tin phải tốt… Bên cạnh có nhu cầu và thích
một nghề nghiệp nào đó học sinh cũng phải xác định được đúng năng lực thực tế
của bản thân. Đừng tự tin quá vì dẫn dễ dẫn đến tâm lý chủ quan, còn nếu thiếu
tự tin thì có thể bạn sẽ bỏ qua một số ngành nghề hấp dẫn mà bản thân có thể
làm được nhưng lại không dám làm.
Học sinh THPT hiện nay được sự hậu thuẫn rất lớn từ phía gia đình, tỷ lệ
25,4% học sinh lựa chọn lý do là do sự định hướng của gia đình đã nói lên điều
đó. Cha mẹ là những người luôn quan tâm đến con cái, vì vậy đối với một sự lựa
chọn mang tính quyết định như thế này thì cha mẹ không thể đứng ngoài lề. Cha
mẹ là những người hiểu con mình hơn ai hết, và cũng là người có nhiều kinh
nghiệm sống cũng như vốn hiểu biết. Tuy nhiên cha mẹ chỉ nên định hướng,
giúp con em mình có một sự lựa chọn đúng đắn, chứ không nên áp đặt, quyết
định thay cho con cái mình. Bởi nếu áp đặt thái quá mang tính chủ quan thì cha
mẹ sẽ gây áp lực cho con cái, nặng nề hơn đó là khiến con cái mình chọn nghề
sai, chọn nghề không phù hợp. Bản thân các em sẽ là người quyết định tương lai
của các em, bởi vậy mọi sự quyết định dù lớn hay nhỏ hãy để bản thân học sinh
tự xem xét và quyết định.
Một lý do nữa cũng được học sinh THPT lựa chọn rất cao đó là yếu tố thu
nhập và nhiều cơ hội việc làm. Trước những suy thoái của nền kinh tế như hiện
nay, thì việc học sinh THPT quan tâm đến yếu tố dễ xin việc là điều dễ lý giải
được. Việc lựa chọn một ngành nghề và ngành nghề đó được xã hội đánh giá
cao, nhiều nơi tuyển dụng hay không đang là một vấn đề mà học sinh rất quan
tâm. Bởi hiện nay có rất nhiều sinh viên khi ra trường phải làm những công việc
54
không đúng chuyên ngành đào tạo. Đây là một sự lãng phí rất lớn về cả công
sức, thời gian và tiền của. Tuy nhiên nếu học sinh quá coi trọng lí do về vật chất,
đặt nặng giá trị về kinh tế thì cũng là một sai lầm trong việc lựa chọn nghề. Bởi
đây chỉ là một lí do cần quan tâm chứ không phải là do quyết định bao trùm nên
các lí do khác cho việc định hướng nghề nghiệp của các em.
Có 40% học sinh THPT lựa chọn lí do đó là thấy được ý nghĩa của nghề
và có 22,9% học sinh lựa chọn là vì nghề được xã hội đánh giá cao. Những con
số này biểu hiện mức độ quan tâm của học sinh đối với ngành nghề mình đã
chọn. Bởi chỉ khi quan tâm thì các em mới tìm hiểu đến ý nghĩa của nghề, tìm
hiểu giá trị của nghề, và quan tâm đến sự nhìn nhận, đánh giá của xã hội đối với
nghề. Điều này là hết sức cần thiết. Bởi khi các em hiểu về bản chất, đặc điểm
của nghề các em sẽ có sự gắn bó chặt chẽ với nghề, nhất là những nghề có nhiều
ý nghĩa về mặt xã hội. Hiện nay có rất nhiều em quan tâm đến các khối ngành
như: công an, quân đội, sư phạm, y dược. Và các em đều đưa ra lý do bởi nghề
có có nhiều ý nghĩa và được xã hội đánh giá rất cao.
“ Em thích nghề nhà giáo, nghề giáo viên là một nghề vô cùng cao quý.
Đó là nghề đào tạo ra rất nhiều người có tài có đức cho xã hội. Và nghề nhà
giáo cũng được xã hội rất coi trọng, gia đình em cũng rất thích em theo nghề ấy.
Là con gái mà học sư phạm là rất có giá.”
(PVS, nữ, học sinh lớp 12).
Bên cạnh các lí do đã kể trên thì tác giả đặc biệt quan tâm đến một lí do
đó là nhằm thoát ly nông thôn chiếm một tỷ lệ rất cao là 76,5 % học sinh THPT
lựa chọn. Khi tìm hiểu về hoàn cảnh của học sinh THPT tác giả nhận thấy hầu
hết cha mẹ của các em đều làm nông nghiệp, kinh tế trung bình, chỉ đủ ăn. Và
đây cũng là lí do quyết định khiến học sinh lựa chọn nghề nghiệp, bởi tâm lý
muốn thoát khỏi nghề nông nghiệp đầy vất vả mà thu nhập lại thấp. Bên cạnh đó
những ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa cũng khiến cho địa phương có những
sự thay đổi lớn. Đất đất đai thuộc ngành nông nghiệp bị thu hẹp khi địa phương
55
được công nhận lên quận năm 2007. Những khu trước đây là ruộng lúa, đất nuôi
trồng thủy sản này đã được san lấp được quy hoạch thành các khu chung cư, các
khu công nghiệp. Bởi vậy cơ cấu ngành của địa phương cũng đang có những
bước chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Theo đó ta có thể
hiểu được sự lựa chọn nghề nghiệp theo hướng thoát luy nông thôn của học sinh
trên địa bàn của quận là một sự lựa chọn hợp lý.
Ngoài các lí do mà tác giả đã phân tích ở trên thì còn có một vài lý do
khác nữa cũng được học sinh THPT lựa chọn đó là: thấy bạn bè chọn thì chọn
theo, chi phí học tập tập thấp, thời gian học tập ngắn, nghề có nhiều người theo
học. Tuy nhiên những sự lựa chọn này là không cao. Điều này phản ánh sự tự
lập, độc lập suy nghĩ của học sinh. Học sinh không bị chi phối nhiều bởi các yếu
tố khách quan kể trên.
2.2.5 Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề tương
lai của học sinh THPT.
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan
tác động đến nghề nghiệp của học sinh THPT. Tôi sử dụng câu hỏi số 6 trong
bảng hỏi điều tra và đã thu được những kết quả như sau:
Bảng 2.3 Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc lựa chọn ngành nghề của học sinh
STT Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn
của học sinh Số lượng %
1 Gia đình 102 42,5
2 Bạn bè 17 7,1
3 Hoạt động hướng nghiệp 9 3,8
4 Các phương tiện TTĐC 23 9,6
5 Hiểu biết của bản thân về nghề 114 47,5
6 Thấy thực sự yêu thích và hứng thú 188 78,3
7 Tấm gương của thầy cô 14 5,8
8 Lý do khác 7 2,9
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
56
Qua bảng số liệu 2.3 có thể thấy việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh
THPT chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố với các mức độ cũng rất khác nhau.
Nếu xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp thì học sinh chọn nghề bị ảnh hưởng
nhiều nhất bởi yếu tố chủ quan chiếm tỷ lệ rất cao. Có 78,3% học sinh THPT lựa
chọn yếu tố là thấy thực sự hứng thú, yêu thích ngành nghề đó; và có 47,5% học
sinh lựa chọn yếu tố đó là sự hiểu biết về ngành nghề đã chọn. Thứ hai là sự ảnh
hưởng của gia đình. Thứ ba, thứ tư, thứ năm lần lượt là các yếu tố phương tiện
truyền thông đại chúng, bạn bè, các tấm gương của thầy cô giáo, cuối cùng là sự
hướng nghiệp trong nhà trường.
Trước hết ta cần phải hiểu rằng giữa các lý do chọn nghề và các yếu tố
ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh THPT có mối quan hệ với nhau
nhưng chúng không phải là đồng nhất. Lí do chọn nghề của học sinh THPT chịu
sự tác động, ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, nhưng các yếu tố ảnh hưởng không
hẳn hoặc có thể là không phải là lí do lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT.
Có thể so sánh số liệu giữa bảng 2.2 và bảng 2.3 cho thấy lí do chọn nghề do gia
đình định hướng chiếm 25,4% tuy nhiên sự ảnh hưởng của gia đình lại có tỷ lệ
rất cao 42,5%. Qua đây có thể khẳng định rằng yếu tố ảnh hưởng có tác động rất
lớn đến lí do (hành vi) lựa chọn nghề của học sinh THPT. Một câu hỏi được đặt
ra ở đây là tại sao gia đình lại có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn của học sinh
THPT như vậy? Qua trao đổi với các em học sinh, tác giả có thể rút ra một kết
luận đó là dù các em có lựa chọn ngành nào, lí do như thế nào, thì các em vẫn rất
cần hỏi ý kiến của cha mẹ, của anh chị. Những người thân trong gia đình là
những người có nhiều vốn hiểu biết về xã hội, về các ngành nghề trong xã hội.
Và cha mẹ cũng sẽ là những người trực tiếp lo lắng và gây dựng tương lai cho
con cái. Hơn ai hết cha mẹ là người hiểu tính cách của con, biết được khả năng
của con mình. Vì vậy cha mẹ có thể đưa ra những lời khuyên đúng đắn để con
mình lựa chọn. Chính bởi tin tưởng vào cha mẹ nên con cái sẵn sàng chia sẻ, tâm
sự để tìm lời khuyên của bố mẹ về dự định nghề nghiệp trong tương lai. Sự định
57
hướng của bố mẹ là vô cùng cần thiết, tuy nhiên nếu sự định hướng này là sự áp
đặt, ép buộc con cái phải chọn nghề nghiệp theo sự định hướng của cha mẹ vì
những ý nghĩ chủ quan mà không quan tâm đến nguyện vọng đến sở thích đến
khả năng của con thì khi ấy cha mẹ sẽ là nhân tố cản trở trên con đường lựa chọn
nghề nghiệp của các em.
Trong các nhân tố ảnh hưởng thì gia đình chiếm một vị trí rất cao, nhưng
không phải là cao nhất. Yếu tố ảnh hưởng cao nhất đến sự lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh THPT chính là nhu cầu, hứng thú và sự hiểu biết về nghề nghiệp.
Sự hiểu biết chắc chắn, cụ thể về lĩnh vực nghề nghiệp mà các em dự định lựa
chọn cộng với nhu cầu, hứng thú với nghề nghiệp đó rất dễ trở thành một lí do
cơ bản để học sinh chọn nghề. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin, thì học sinh sẽ được tiếp cận sớm với nhiều nguồn thông tin khác
nhau từ các phương tiện thông tin đại chúng. Chỉ cần một cái click chuột đơn
giản thì các em có thể tra cứu thông tin mà mình muốn biết. Có thể nói truyền
thông đại chúng là con đường lí tưởng nhưng cũng rất tự nhiên giúp cho học sinh
phổ thông có được một sự hiểu biết về các lĩnh vực nghề nghiệp trong xã hội
một cách sinh động và chính sự hiểu biết này đã làm thay đổi động cơ hành vi
chọn nghề của học sinh.
“ Em thích làm nghề nhà báo, nhưng em rất băn khoăn vì mình có đủ
khả năng theo đuổi nghề không. Nghề đó tạo cho em một cảm giác năng
động, cũng có gì đó hơi phưu lưu một tý. Em cũng học rất khá môn văn, và
qua internet em được biết trường học viện báo chí là trường đào tạo rất bài
bản về nghề này. Trường đã đào tạo ra rất nhiều nhà báo giỏi… Do biết
được những thông tin về nghề này, nên em càng vững tin vào sự lựa chọn
nghề nghiệp tương lai của mình”.
(PVS, Nữ, Học sinh lớp 12)
58
Yếu tố bạn bè, tấm gương của các thầy cô giáo chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ
trong sự lựa chọn của học sinh. Yếu tố bạn bè là 7,1%; đây là một tỷ lệ không lớn.
Điều này chứng tỏ học sinh THPT chọn nghề không chạy theo số đông, không a
rua bạn bè, mà học sinh đã lựa chọn theo chính kiến riêng của bản thân. Và điều
đáng mừng đó là các em học sinh đã nhận biết được rằng mỗi người có những
năng lực cũng như điều kiện về bản thân khác nhau, bởi vậy không nên bắt chước
nhau đặc biệt là ở trong một lĩnh vực rất quan trọng đó là lựa chọn nghề nghiệp
tương lai này. Tấm gương của thầy cô cũng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong sự lựa
chọn của các em. Trong 240 em được hỏi thì chỉ có 14 em lựa chọn nghề nghiệp
một phần dựa trên sự ảnh hưởng từ các tấm gương của các thầy cô giáo.
Một điều đáng chú ý ở đây là yếu tố hoạt động hướng nghiệp của nhà
trường không có ảnh hưởng nhiều, không nói là quá ít đến việc lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh THPT (chỉ với 3,8%). Điều này chứng tỏ công tác hướng
nghiệp ở nhà trường có hiệu quả rất thấp. Các em cho biết rằng, không có các
giờ học hướng nghiệp riêng mà chỉ có sự lồng ghép vào các buổi sinh hoạt, buổi
ngoại khóa mà thôi. Các thầy cô cũng không cung cấp nhiều kiến thức về các
ngành nghề, các em thì ngại hỏi thầy cô. Vì vậy có nhiều em còn rất băn khoăn
về vấn đề hướng nghiệp và cũng có rất nhiều em có ý kiến về việc cần phải chú
trọng hơn đến công tác hướng nghiệp để các em lựa chọn nghề nghiệp một cách
có định hướng rõ ràng hơn.
2.2.6. Những vấn đề học sinh THPT quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp
Lựa chọn nghề nghiệp là một quá trình phức tạp và nó là một quá trình
phức tạp có mối quan hệ tác động qua lại của rất nhiều yếu tố. Chính vì vậy
trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp học sinh THPT cần phải suy nghĩ, cân nhắc
rất nhiều trước khi đưa ra quyết định. Có thể nói đây là một quá trình đấu tranh
động cơ khá quyết liệt của mỗi cá nhân. Và đối với các em thì sự cân nhắc giữa
các yếu tố, các vấn đề của nghề nghiệp cụ thể sẽ dẫn các em đi đến quyết định
cuối cùng đó là lựa chọn cho mình một nghề phù hợp nhất.
59
Biểu đồ 2.3 Những vấn đề học sinh THPT quan tâm khi lựa
chọn nghề nghiệp (%)
( Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Nhìn trên biểu đồ ta thấy những vấn đề được học sinh THPT quan tâm
trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp nếu xếp theo mức độ từ cao xuống thấp ta
có thứ tự như sau:
Nhìn vào kết quả đã xử lý ở trên ta có thể nhận thấy một cách dễ dàng là
học sinh THPT hiện nay quan tâm đến rất nhiều yếu tố khi lựa chọn nghề
nghiệp. Tuy nhiên có thể chia thành 3 mức độ quan tâm của các em về các vấn
đề đó là: sự quan tâm nhiều nhất đó là vấn đề nhu cầu, sở thích và hứng thú của
bản thân đối với nghề (76,7%) và cơ hội việc làm sau khi ra trường (71,7%). Có
thể thấy các vấn đề học sinh quan tâm nhất ở đây vẫn là yếu tố này. Ở bảng 2.2
(Lý do chọn nghề của học sinh) và bảng 2.3 (Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa
chọn nghề nghiệp của học sinh THPT) thì yếu tố phù hợp với năng lực, hứng
thú, và sở trường luôn chiếm ở vị trí cao nhất trong sự lựa chọn của các em. Và
một lần nữa, tác giả lại nhấn mạnh lại yếu tố quan trọng và cũng là yếu tố chi
phối nhiều nhất đến sự lựa chọn của các em đó là nhu cầu, sở thích, hứng thú của
bản thân với nghề. Qua điều tra tôi nhận thấy các em học sinh tỏ rõ sự quan tâm
đến vấn đề này. Và theo các em, trong tương lai một nghề nghiệp lí tưởng phải là
60
nơi phát huy được tối đa năng lực của cá nhân, ở đó cá nhân được khẳng định
mình, được tôn trọng và đó cũng là công việc mà cá nhân yêu thích, hứng thú
dành sự quan tâm đến nó. Bên canh đó thì học sinh cũng rất quan tâm đến yếu tố
việc làm sau khi ra trường. Có thể hiểu được một phần lí do bởi các em học sinh
trường THPT Mạc Đĩnh Chi chủ yếu là con em của các gia đình làm nghề nông
nghiệp, cho nên sự hỗ trợ của gia đình trong vấn đề xin việc là rất hạn chế.
Tiếp đó, học sinh trung học phổ thông quan tâm đến các vấn đề xã hội
như sự ủng hộ của gia đình, thu nhập, sự đánh giá của xã hội về nghề, vị thế của
nghề, khả năng thăng tiến của nghề. Những vấn đề này cũng nhận được sự quan
tâm của học sinh THPT, tuy nhiên những vấn đề này chỉ ở mức độ thứ yếu bởi lẽ
việc chọn nghề hiện nay phần lớn vẫn là do chính bản thân các em quyết định.
Hơn nữa việc thăng tiến nghề hay không, có vị thế cao hay thấp thiết nghĩ là
hoàn toàn phụ thuộc vào chính các em trong nghề. Việc chọn nghề theo số đông
cũng không còn phù hợp nữa. Và sự ủng hộ của gia đình dần trở thành sự hỗ trợ
về mặt tinh thần, chứ không còn là yếu tố quyết định đến việc lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh nữa.
Và một điều cũng rất đáng để cho chúng ta phải quan tâm nữa đó là học
sinh đã có những suy nghĩ rất cởi mở, tiến bộ và đúng đắn về nghề nghiệp. Các
yếu tố như sự đánh giá xã hội về nghề, vị thế của nghề, khả năng thăng tiến đã
không được sự quan tâm nhiều của học sinh, mức độ quan tâm đến các vấn đề
này là thấp nhất. Nguyên nhân của thực trạng này đó chính là do nhận thức đúng
đắn của các em về yếu tố nghề nghiệp đó là các nghề đã được xã hội công nhận
thì không còn khái niệm nghề tốt hay xấu, nghề có vị trí cao, thấp. Mà quan
trọng ở đây là mình có phù hợp với nghề, có yêu thích và gắn bó lâu dài với nó
hay không?
2.2.7 Những khó khăn mà học sinh gặp phải khi lựa chọn nghề là:
Trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp của mình, học sinh sẽ gặp phải
không ít những khó khăn, những khó khăn này có thể là những yếu tố chủ quan
61
hay khách quan gây cản trở cho các em khi các em lựa chọn nghề nghiệp, những
sự cản trở này tùy vào mức độ đã làm cho học sinh chọn nghề không phù hợp
với bản thân. Để tìm hiểu vấn đề này tôi sử dụng câu hỏi số 11 trong phiếu điều
tra. Tôi đưa ra 9 khó khăn mà học sinh thường gặp phải trong quá trình lựa chọn
nghề nghiệp. Các em học sinh có thể lựa chọn cho mình nhiều đáp án, bởi với
nhiều em thì không chỉ có một khó khăn mà còn có rất nhiều khó khăn các em sẽ
gặp phải trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp.
Bảng 2.4 Những khó khăn mà học sinh THPT gặp phải khi lựa chọn nghề.
( Đơn vị %)
Những
khó khăn
Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Tổng 3 lớp
% SL % SL % SL %
1 20 25,0 25 31,2 19 23,8 26,7
2 7 8,8 14 17,5 13 16,2 14,2
3 39 48,8 57 71,2 59 73,8 64,6
4 42 52,5 38 47,5 24 30,0 43,3
5 28 35,0 3 3,8 13 16,2 18,3
6 18 22,5 8 10,0 10 12,5 15,0
7 7 8,8 2 2,5 3 3,8 5,0
8 28 35,0 10 12,5 13 16,2 21,2
9 16 20,0 24 30,0 29 36,2 28,8
10 1 1,2 1 1,2 1 1,2 1,2
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Chú thích về những khó khăn khi lựa chọn nghề
1. Không được tư vấn nghề
2. Công tác hướng nghiệp không hiệu quả
3. Không biết thông tin đầy đủ về nghề
4. Thích một lúc nhiều nghề
5. Chưa xác định được hứng thú với nghề
6. Gia đình không ủng hộ
7. Sức khỏe không phù hợp với nghề
8. Năng lực không phù hợp với nghề
9. Kinh tế gia đình gặp khó khăn
10. Ý kiến khác
62
Nhìn vào bảng 2.4 có thể thấy, trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh THPT gặp phải rất nhiều khó khăn với các mức độ khác nhau. Theo sự
nhận định và đánh giá của các em thì khó khăn nhất mà các em gặp phải trong
quá trình lựa chọn nghề nghiệp là không biết thông tin đầy đủ về nghề có 155/
240 em học sinh đã lựa chọn, chiếm tỷ lệ là 64,6%; khó khăn thứ hai là thích một
lúc nhiều nghề (43,3%); khó khăn thứ ba là kinh tế gia đình gặp khó khăn
(28,8%), khó khăn thứ tư là không được tư vấn nghề (26,7%); thứ năm đó là
năng lực không phù hợp với nghề (21,2%); thứ sáu là chưa xác định được hứng
thú với nghề (18,3%), thứ bảy gia đình không ủng hộ sự lựa chọn (15%); đứng
thứ tám là công tác hướng nghiệp không hiệu quả (14,2%); thứ chín là yếu tố sức
khỏe không phù hợp với nghề (5%), ý kiến khác là 1,2%.
Khi tác giả tiến hành điều tra về những khó khăn mà học sinh gặp phải thì có
rất nhiều em lựa chọn nhiều khó khăn trong cùng một lúc. Tuy nhiên cũng có khó
khăn tác động nhiều và cũng có những khó khăn tác động không đáng kể đối với sự
lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT. Học sinh cần phải xác định những khó
khăn chính và quan trọng để tập trung giải quyết. Có thể nói những khó khăn này là
không đơn giản, và việc giải quyết, khắc phục những khó khăn này thì việc chọn
nghề mới có thể thành công. Qua bảng số liệu ở trên, ta có thể thấy học sinh lựa
chọn khó khăn nhiều nhất đó là học sinh thiếu các thông tin đầy đủ về nghề đặc biệt
là đối với nghề mình quan tâm đã làm cho các em gặp khó khăn nhất khi lựa chọn
nghề nghiệp. Bởi vì thiếu thông tin các em sẽ không hiểu nghề và nếu lựa chọn một
cách cảm tính thì các em sẽ để lại những hệ quả xấu về sau. Bên cạnh đó thì học
sinh còn gặp phải những khó khăn như là thích một lúc nhiều nghề, chưa xác định
được hứng thú với nghề nào. Những khó khăn này rơi chủ yếu vào học sinh lớp 10,
các em mới bước chân vào môi trường phổ thông, vốn hiểu biết về nghề nghiệp là
chưa có nhiều. Vì vậy có rất nhiều em học tính lớp 10 tỏ ra khá lúng túng khi được
hỏi về nghề nghiệp. Vì nhiều em còn chưa xác định được nghề nghiệp cho mình.
63
Có 52,5% học sinh lớp 10 gặp phải khó khăn khi thích một lúc nhiều nghề tỷ lệ này
ngày một giảm dần khi các em học ở những lớp cao hơn như học sinh lớp 11 chỉ
chiếm 45,7%, học sinh lớp 12 chỉ chiếm 30%. Thích một lúc nhiều nghề cũng là
một vấn đề đáng quan tâm. Vì nếu học sinh thích nhiều nghề sẽ bị phân tâm và
không dồn sự tìm hiểu quan tâm đến một nghề nghiệp nhất định. Điều này sẽ khiến
cho các em trở nên hoang mang, lo lắng cho sự lựa chọn nghề của mình. Và cũng ở
lớp 10 thì số học sinh chưa xác định được hứng thú đối với nghề nghiệp cũng chiếm
một tỷ lệ khá cao là 35%. Điều này phản ánh một thực trạng đó là công tác hướng
nghiệp ở bậc trung học cơ sở là hiệu quả thấp. Bởi hướng nghiệp ở cấp hai chưa
cung cấp cho các em các giá trị về nghề nghiệp. Nhiều em còn chưa hiểu ý nghĩa
cũng như tầm quan trọng của yếu tố nghề nghiệp đối với bản thân.
Bên cạnh đó các yếu tố khó khăn về công tác hướng nghiệp không hiệu
quả, không được tư vấn nghề cũng là một vấn đề khiến chúng ta phải quan tâm.
Một lần nữa các em học sinh lại nhấn mạnh đến công tác hướng nghiệp trong nhà
trường không đem lại những hiệu quả như mong muốn. Các em học sinh bày tỏ sự
mong muốn công tác hướng nghiệp sẽ giúp cho các em giải quyết những khó khăn
về thiếu thông tin, giúp các em chọn đúng nghề phù hợp với năng lực, nhu cầu và
sở thích; và cung cấp cho các em những thông tin về một số ngành nghề của các
trường ĐH, CĐ… Đây là những nhu cầu rất chính đáng của học sinh THPT. Nhu
cầu, nguyện vọng này của các em cần được các nhà hướng nghiệp, nhà quản lý,
nhà trường, gia đình và cả xã hội phải quan tâm và chung tay giải quyết.
Với các khó khăn khác như: gia đình không ủng hộ, yếu tố về năng lực
sức khỏe, kinh tế gia đình gặp khó khăn. Cũng là nguyên nhân khiến các em lo
lắng khi lựa chọn nghề nghiệp. Thiết nghĩ những khó khăn này các em học sinh
có thể khắc phục được, và nó sẽ không ảnh hưởng quá nhiều đến sự lựa chọn
nghề nghiệp của các em. Vì phần lớn học sinh THPT Mạc Đĩnh Chi đều là con
em của các gia đình làm nông nghiệp, vì vậy rất nhiều em gia đình có kinh tế rất
64
khó khăn. Tuy nhiên các khó khăn này sẽ được giải quyết nếu các em lựa chọn
những ngành đào tạo được nhà nước miễn học phí, ngoài ra các em học sinh có
hoàn cảng khó khăn còn được vay vốn và đến khi các em học xong ra trường
mới phải trả lại. Đây là một chính sách vô cùng nhân văn của Đảng, nhà nước,
và chính sách này đã góp phần cho con em của các gia đình nông thôn, gia đình
có hoàn cảnh khó khăn có cơ hội được học tập như biết bao học sinh khác. Còn
với những khó khăn như không biết về trường, về ngành mình chọn, không có
năng lực, không thấy hứng thú với nghề thì đây thuộc về lỗi chủ quan. Những
học sinh này theo tác giả cần phải chủ động hơn nữa để tìm kiếm những thông
tin về ngành nghề mà mình đã chọn, có thể tìm kiếm trên báo đài, hay từ bạn bè,
gia đình, thầy cô, những người quen… Tuy nhiên, cũng có những nguyên nhân
khách quan như gia đình không đồng ý, kinh tế khó khăn … điều này rất cần đến
sự quan tâm của cha mẹ và toàn xã hội.
2.2.8 Các nguồn tìm kiếm thông tin về việc làm của học sinh THPT
Để có được một nghề nghiệp theo mong muốn thì học sinh THPT cần
phải chủ động và tích cực trong quá trình tìm kiếm thông tin về nghề nghiệp. Rất
nhiều em học sinh phổ thông quan tâm đến thông tin về nghề nghiệp, và khi có
đầy đủ thông tin, hiểu biết về nghề thì các em mới có thể lựa chọn cho mình
những cơ hội tốt nhất về nghề nghiệp sau này. Ngày nay với sự phát triển của
các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là internet, sự quan tâm của gia
đình, họ hàng, bạn bè, thầy cô, những người đã thành đạt chính là các kênh
thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tiếp cận với yếu tố nghề nghiệp mà
các em đang dự định lựa chọn… Và học sinh THPT cũng có những cách tiếp cận
thông tin khác nhau và nguồn thông tin mà học sinh nhận được cũng đến từ rất
nhiều con đường khác nhau. Nhưng tùy thuộc vào điều kiện và tùy từng cá nhân
mà mức độ sử dụng thông tin từ những nguồn đó có sự khác nhau. Vậy học sinh
THPT Mạc Đĩnh Chi tiếp cận thông tin qua các nguồn nào?
65
Biểu đồ 2.4 Các nguồn tìm kiếm thông tin của học sinh THPT (%)
(Nguồn kết quả xử lý phiếu điều tra)
Chúng ta có thể thấy rõ một điều rằng nguồn thông tin mà các em có thể
tìm kiếm là rất phong phú và đa dạng. Nhưng mức độ sử dụng và tiếp cận thông
tin của các em là rất khác nhau.Với sự phát triển của công nghệ thông tin và đặc
biệt là mạng internet đã giúp cho học sinh giải quyết được rất nhiều khó khăn
cho việc thiếu thông tin về nghề nghiệp mà bản thân các em đang dự định chọn..
Số học sinh tiếp cận với truyền thông chiếm một tỷ lệ rất cao 90% đã phần nào
nói lên sự quan trọng của công nghệ thông tin đối với con người trong giai đoạn
hiện nay. Ngày nay chỉ với một cái máy tính được kết nối mạng thì dù ở đâu bạn
cũng có những thông tin về mọi lĩnh vực, và công nghệ này cũng giúp cho học
sinh có cái nhìn đa chiều hơn về nghề nghiệp và thông tin mà các em thu thập sẽ
là rất lớn. Tuy nhiên việc chọn lọc thông tin cũng là điều khiến các em học sinh
phải quan tâm. Các em nên dồn sự trọng tâm tìm hiểu vào một vài ngành nghề
nhất định. Không nên ôm đồm quá nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nó sẽ trở lên
phản tác dụng vì sẽ làm cho các em phân vân lo lắng, và càng khó lựa chọn hơn.
“Tìm kiếm thông tin trên internet là vô cùng đơn giản. Chỉ cần một cái
click chuột là mình có thể tìm kiếm được rất nhiều thông tin. Bây giờ hầu như
66
nhà nào cũng có máy tính. Vì vậy mà bọn em có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin
về nghề nghiệp. Tuy nhiên em thấy nghề nào cũng hay, cũng hấp dẫn nên phân
vân quá”
(PVS, Nam. Học sinh lớp 11)
Nguồn tìm kiếm thông tin thứ hai được học sinh quan tâm là bố mẹ, anh
chị em, họ hàng chiếm 59,2%. Con số này nói lên sự quan trọng của gia đình đối
với việc định hướng nghề nghiệp cho con em mình là rất lớn. Các em khi quan
tâm, muốn tìm hiểu về một nghề nghiệp nào đó thì các em sẽ hỏi những người
thân của mình, trao đổi với họ. Vì là người thân nên các em có thể dễ dàng bộc
bạch, tâm sự và tìm kiếm thông tin.
Bạn bè cùng trường chiếm tỷ lệ cũng khá cao 56,7 %. Trong môi trường
học tập hằng ngày, học sinh sẽ thường xuyên tiếp xúc với nhau bên cạnh đó là
cũng một lứa tuổi nên những nhu cầu về tâm sinh lý của các em cũng khá là
tương đồng. Các em có thể dễ dàng, tâm sự, chia xẻ và tìm lời khuyên từ bạn bè.
Tiếp đến là nguồn thông tin các em tìm kiếm từ thầy cô chiếm tỷ lệ 42,5%. Thầy
cô là những người trực tiếp làm công tác giảng dạy và là những người có nhiều
vốn hiểu biết về xã hội về ngành nghề, cho nên việc tham khảo ý kiến của các
thầy cô là một việc làm cần thiết và quan trọng. Cuối cùng trong sự lựa chọn của
các em đó là tìm kiếm thông tin qua những người thành đạt chiếm tỷ lệ 27.5% và
nguồn thông tin khác chiếm tỷ lệ 13,8%. Việc tìm kiếm thông tin qua những
người thành đạt là việc không hề đơn giản và không phải bạn học sinh nào cũng
tiếp cận hay chia xẻ được thông tin từ những người ấy.
Có thể thấy rằng học sinh THPT hiện nay rất năng động, việc tiếp cận
thông tin qua các nguồn khác nhau thể hiện rằng học sinh phổ thông rất chủ
động và tích cực trong việc tìm kiếm các nguồn thông tin về nghề nghiệp. Có rất
nhiều cách tiếp cận và cách xử lý thông tin của các em học sinh là rất khác nhau.
Và với kết quả khảo sát ở trên thì truyền thông đại chúng, gia đình và bạn bè là
ba kênh chính mà học sinh tìm kiếm thông tin về nghề nghiệp.
67
2.3 Thực nghiệm tác động
2.3.1 Mục đích
Thông qua các buổi sinh hoạt tập huấn tại trường THPT Mạc Đĩnh Chi về
chủ đề định hướng nghề nghiệp cho các em học sinh THPT, nhằm nâng cao nhận
thức của các em về nghề nghiệp, cung cấp cho các em các thông tin về nghề nghiệp
và giúp cho các em đánh giá về năng lực của bản thân…. Từ đó sẽ giúp cho các em
học sinh tìm cho mình một nghề nghiệp phù hợp với năng lực, nhu cầu, sở thích và
cũng phù hợp với hoàn cảnh gia đình, với nhu cầu nhân lực của xã hội.
2.3.2 Cơ sở để xây dựng chương trình tác động.
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng định hướng nghề nghiệp của học sinh
THPT đã cho tác giả thấy rằng:
- Công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường hiện nay còn rất sơ
sài, và có rất ít các buổi sinh hoạt hướng nghiệp để cho học sinh có thể tìm kiếm
những nguồn thông tin về việc làm. Các em cho biết, ở trường không có các giờ
học hướng nghiệp mà chỉ thỉnh thoảng có sự lồng ghép hướng nghiệp vào các
chương trình học mà thôi.
- Và hầu hết các em học sinh THPT đều cho rằng mình thiếu thông tin về
nghề nghiệp. Chiếm đến tỷ lệ 64,6% (bảng 2.4) – kết quả xử lý số liệu điều tra,
đây là một khó khăn lớn mà các em học sinh gặp phải trên bước đường tìm kiếm
nghề nghiệp của bản thân.
- Học sinh THPT đặc biệt là học sinh khối lớp 10 đang rất lúng túng
trong quá trình định hướng nghề nghiệp. Có 35% học sinh khối 10 chưa xác định
được hứng thú đối với một nghề nghiệp và có 52,5% học sinh khối 10 thích một
lúc nhiều nghề. Có 48,8% học sinh lớp 10 thiếu thông tin về yếu tố nghề nghiêp.
Những số liệu tác giả đã xử lý phiếu điều tra cho chúng ta biết một thực trạng rất
đáng quan tâm ở đây đó là sự lúng túng, bị động cũng như những khó khăn mà
học sinh lớp 10 gặp phải trong quá trình định hướng nghề nghiệp… Và cũng ở
học sinh lớp 10, nhiều em học sinh còn lựa chọn nghề dựa trên cảm tính chứ
68
chưa thực sự hiểu về ngành nghề của mình đã chọn. Và cha mẹ thầy cô cũng ít
quan tâm đến các em, vì nghĩ mới vào lớp 10 còn nhiều thời gian để các em lựa
chọn trong quá trình học phổ thông.
Từ những thực tế trên tôi đã tiến hành xây dựng và tổ chức chương trình
thực nghiệm bằng việc xây dựng chương trình tập huấn này tác giả muốn nâng
cao nhận thức của các em về công tác hướng nghiệp trong nhà trường và cùng
với đó là giúp các em có thể lựa chọn cho mình một ngành nghề phù hợp với bản
thân và cũng là để đáp ứng yêu cầu của xã hội.
2.3.3 Nội dung thực nghiệm
Bằng phương pháp thực nghiệm nhỏ được tiến hành với 4 em học sinh
THPT (cả 3 khối) trong khoảng thời gian ngắn (trong vòng 2 tháng từ tháng 2 đến
tháng 4 năm 2013). Với 8 buổi sinh hoạt, trao đổi thông tin, ý kiến, quan điểm và
kiến thức về nghề nghiệp của học sinh THPT. Với buổi sinh hoạt đầu tiên tác giả sẽ
ghi chép và đánh giá về thực trạng ban đầu của các em về dự định nghề nghiệp, về
những kiến thức, sự hiểu biết cũng như các thuận lợi và khó khăn của các em trong
quá trình định hướng nghề nghiệp. Tác giả cũng đã tìm hiểu về yếu tố năng lực
khác như (sức khỏe, học lực, khả năng giao tiếp…). Và có thể khẳng định đây là
bước làm đầu tiên và rất quan trọng trong quá trình thực nghiệm. Bởi từ tìm hiểu
như thế này sẽ cho tác giả những nguồn thông tin cơ bản về các em, giúp tác giả
hiểu và đánh giá về bản thân của từng em… Sau các buổi sinh hoạt, vào buổi cuối
tác giả sẽ lại đo lường lại thực trạng định hướng nghề nghiệp của các em và sẽ đưa
ra kết luận và đánh giá chung về quá trình thực nghiệm. Việc so sánh giữa buổi sinh
hoạt đầu tiên với buổi cuối cùng sẽ giúp cho tác giả thu được kết quả đó là học sinh
THPT đã có sự thay đổi như thế nào trong hành vi, nhận thức cũng như trong hành
động về nghề nghiệp là như thế nào?
2.3.4 Kết quả thực nghiệm
- Trước thực nghiệm
Với 4 em học sinh thuộc 3 khối 10, 11, 12 khi tham gia vào buổi tập huấn.
69
Có 1 em học sinh coi công tác hướng nghiệp là rất quan trọng, có 2 em coi công
tác này là quan trọng, cần thiết, có một em thì cho rằng công tác hướng nghiệp là
không cần thiết đối với em.
“Em thấy công tác hướng nghiệp trong nhà trường là rất quan trọng. Vì nó
sẽ giúp cho chúng em lựa chọn cho mình một nghề nghiệp với năng lực, nhu cầu sở
thích của bản thân. Đồng thời còn giúp em biết được các thông tin về nghề nghiệp
cung như cung cấp thông tin về một số ngành nghề của các trường ĐH, CĐ.
(Học sinh nữ, lớp 12)
“Hướng nghiệp trong nhà trường là cần thiết, tuy nhiên ở trường em công tác
hướng nghiệp còn rất qua loa đại khái, có rất ít buổi sinh hoạt ngoại khóa về công
tác hướng nghiệp do thầy cô và nhà trường tổ chức. Cũng có một số trường ĐH, CĐ
về tư vấn tuyển sinh hướng nghiệp như trường ĐH dân lập Hải Phòng, Đại học hàng
hải, Cao đẳng Bách Nghệ… Tuy nhiên học chủ yếu là giới thiệu về trường với các
ngành nghề đào tạo để học sinh lựa chọn. Điều này cũng giúp các bạn nào có
nguyện vọng vào các trường này giải quyết được các thắc mắc, băn khoăn”.
(Học sinh nam, lớp 12)
“ Em thấy hướng nghiệp trong nhà trường là quan trong, và cần thiết.
Tuy nhiên em thấy hướng nghiệp ở trưởng em không đạt hiệu quả cao, do các
thầy cô xây dựng bài giảng một cách khô khan và thông tin về nghề nghiệp lại ít.
Nhiều vấn đề em thắc mắc nhưng chưa hỏi được vì nhiều bạn hỏi quá mà thời
gian dành cho công tác này lại ít quá”
( Học sinh nam lớp 11)
“ Em thấy công tác hướng nghiệp trong nhà trường là không cần thiết. Vì
em thấy ở trường em có hướng nghiệp gì đâu. Các thầy cô chỉ giảng dạy về văn
hóa chứ ít ai để ý đến hướng nghiệp. Bây giờ mạng internet là phát triển như
vậy. Bạn nào chả có máy tính. Chỉ cần nên mạng tìm hiểu là thông tin nào cũng
có, nên em thấy công tác hướng nghiệp là không quan trọng.
(Học sinh nữ, lớp 10)
70
Qua trao đổi với các em tác giả cũng nắm bắt được ý kiến, suy nghĩ của
các em về vai trò, vị trí của công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông
hiện nay là như thế nào? Hầu hết các em được hỏi đều thấy rằng công tác hướng
nghiệp ở nhà trường là không hiểu quả, còn rất qua loa, đại khái. Các thầy cô chỉ
quan tâm đến các môn học văn hóa còn lại thông tin về nghề nghiệp học sinh
phải tự đi tìm hiểu.
- Cả bốn em học sinh tham gia thảo luận đều dự định sẽ dự thi vào các
trường ĐH, CĐ sau khi tốt nghiệp THPT. Các em đều bộc lộ mong muốn được học
lên cao. Đây là nguyện vọng rất chính đáng của các em. Và các em cho rằng chỉ học
ĐH thì các em mới có được những ngành nghề ổn định, thu nhập cao và có vị thế
cao trong xã hội. Có em học sinh nhận thức được về năng lực của bản thân, và
những khó khăn cho việc học đại học… nói chung là nhận thức được khả năng là
mình khó có thể thi đỗ đại học. Nhưng em học sinh đó vẫn chọn đại học, và coi đại
học là con đường duy nhất giúp cho tương lai của em có một chỗ đứng tốt.
“ Em dự định thi vào trường đại học kinh tế quốc dân, học lực của em thì
chỉ đạt loại khá thôi. Nghe nói trường đó mội năm lấy cao lắm. Toàn trên 25
điểm thôi. Nên bây giờ em đang rất lo lắng. Vì em chỉ thích mỗi ngành kinh tế
thôi, vừa là công việc năng động, giao thiệp lại rộng, lương cũng cao và dễ xin
việc hơn nữa. Bố mẹ em rất ủng hộ em, vì ngành kinh tế mà em yêu thích cũng
được bố mẹ thích, và khuyến khích em lựa chọn”
(Học sinh nữ, lớp 12)
“ Em thích nhiều nghề lắm. Làm bác sỹ, công an, luật sư em đều thích cả.
Tuy nhiên gia đình em không có điều kiện, bố mẹ em đều làm nông dân mà tuổi
tác cũng cao rồi nên khả năng lao động bây giờ rất hạn chế. Cho nên nếu em mà
vào đại học thì kinh tế gia đình em sẽ gặp phải nhiều khó khăn hơn nữa. Em
đang rất lo lắng và muốn tìm lời khuyên vì cũng sắp thi ĐH rồi mà nhà em
nghèo quá, em muốn thoát ly khỏi nông thôn để có tương lại. Học lực của em rất
tốt. Năm nào em cũng đạt học sinh giỏi. Với em việc thi vào một trường dại học
71
là không phải khó. Bố mẹ em là nông dân, trình độ thấp nên không biết gì mà tư
vấn, em phải tự tìm hiểu và lựa chọn thôi”
(Học sinh nam, lớp 12)
“ Em muốn thi vào đại học nhưng học lực của em chỉ đạt loại trung bình.
Em thì chắc cũng chả đỗ đâu. Nhưng không thi vào đại học em cũng chả biết
làm gì. Em sẽ tìm xem những trường nào năm ngoái lấy điểm thấp để chọn một
trường nào đó. Gia đình em để em tự quyết định, bố mẹ chỉ tham khảo thôi”
(Học sinh nam, lớp 11)
“ Em chưa biết phải thi trường nào, em thích rất nhiều ngành như giáo
viên, báo chí, công an. Em học tốt môn văn, nên em muốn thi vào ngành nào em
có thể phát huy được sở trường này. Bây giờ em mới học lớp 10 nên em còn thời
gian nhiều để lựa chọn. Bố mẹ em chưa quan tâm đâu, vì em còn nhỏ mà. Chắc
đến lớp 11 bố mẹ sẽ để ý đến sự lựa chọn của em”.
(Học sinh nữ, lớp 10)
- Buổi sinh hoạt trao đổi về nguồn thông tin mà các em tiếp cận:
Các em đều lựa chọn đó là tìm kiếm thông tin qua các phương tiện thông
tin đại chúng như tivi, sách báo, đặc biệt là internet. Trong đó internet là một
kênh thông tin chính của các em. Chỉ cần một cái máy tính có kết nối mạng là
em có thể truy cập được các nguồn thông tin khác nhau về các ngành nghề, về
các trường đào lớp đào tạo… Thật đơn giản và vô cùng nhanh chóng. Với các
em đã có sự định hướng chắc chắn về nghề nghiệp thì các em sẽ tìm kiếm cho
mình những thông tin sâu hơn, rộng hơn và ý nghĩa của ngành nghề mình đang
chọn. Còn với những em mà đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có dự định về nghề
như em học sinh lớp 10 ở trên thì các kênh này sẽ giúp em tìm hiểu được các
ngành nghề trong xã hội. Tuy nhiên chúng ta cũng phải xem xét kênh thông tin
này trên hai mặt, bởi nếu chúng ta tiếp cận nó không có định hướng, truy cập
thông tin một cách tràn nan cũng là không tốt. Bởi nó sẽ khiến cho các em bị dao
động, phân vân và không biết quyết định như thế nào vì ngành nào cũng thấy là
72
tốt là hay cả. Bởi vậy các em nên chú ý đến việc chọn lọc thông tin, để có thể tìm
kiếm cho mình những thông tin có độ tin cậy cao.
Bên cạnh các phương tiện thông tin đại chúng chiếm 90% khi tôi tiến hành
điều tra học sinh của trường về nguồn tiếp cận thông tin thì các em còn tìm kiếm
thông tin từ gia đình. Qua gia đình các em có thể có được những lời khuyên từ bố mẹ,
anh chị em, họ hàng… đặc biệt là những người đang làm công việc liên quan đến
nghề của em dự định lựa chọn. Việc trao đổi với gia đình là cần thiết, ngoài cung cấp
thông tin, vốn hiểu biết về các ngành ngành nghề trong xã hội thì sự hậu thuẫn của
gia đình cũng là một động lực rất lớn trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp của các
em. Ngoài ra còn có các kênh thông tin khác như thầy cô, bạn bè. Với các em thì thời
gian sinh hoạt chính của các em là ở nhà trường, vì vậy các em có cơ hội gần gũi tiếp
xúc và trao đổi ý kiến với thầy cô, bạn bè.
Kết quả sau thực nghiệm tác động.
Qua buổi thảo luận với các em tác giả nhận thấy các em học sinh (cả ba
khối) đều muốn dự thi vào các trường đại học. Không có em nào dự định thi vào
các trường TCCN, trường nghề. Có em học sinh nam lớp 11, học lực chỉ đạt loại
trung bình nhưng vẫn cố gắng chọn một trường đại học thấp điểm nào đó để dự
thi. Với trường hợp của em tác giả đã phân tích cho em hiểu việc em vẫn chưa
lựa chọn cho mình một ngành nghề nhất định mà chỉ cố xem trường nào lấy
điểm thấp thì thi. Điều này sẽ là hết sức sai lầm. Vì nếu học ngành mà em cố thì
vào như thế này khi em chưa xác định được hứng thú, nhu cầu và năng lực của
bản thân sẽ dẫn dễ khiến các em chán nghề, và không gắn bó lâu dài với nghề.
Tác giả cũng giúp em hiểu học đại học đại học không phải là con đường duy
nhất, mà cơ hội cho em còn rất nhiều và rộng mở ở phía trước. Ngày nay xã hội
đang rất tôn vinh những người công nhân kĩ thuật, người có tay nghề, và cơ hội
việc làm của học cũng rất lớn, được trả lương xứng đáng. Nước ta đang trong
thời kì CNH- HĐH, và Hải Phòng cũng là thành phố đi tiên phong trên con
đường này. Ở địa phương bạn có rất nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất vì vậy
73
bạn có thể dễ dàng tìm được việc làm ở những nơi như thế này. Tác giả cũng đã
giới thiệu cho em về một số ngành nghề, trường nghề, trường TCCN để em có
thể suy nghĩ và cân nhắc lại trong việc lựa chọn nghề.
Với em học sinh nam lớp 12. Tác giả muốn em xác định kĩ nhu cầu, sở thích
của bản thân một lần nữa. Việc thích nhiều nghề sẽ khiến em hoang mang, bị chi phối
và không tập trung được vào một ngành nghề cụ thể. Tuy nhiên yếu tố gia đình của
em cũng cần phải tính tới, với hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ là nông dân tuổi
cũng đã cao, khả năng lao động là hạn chế. Thì việc lựa chọn của em cũng phải cân
nhắc đến vấn đề kinh tế. Trong các trường mà em chọn là rất thích thì thật may mắn
là có trường công an, trường quân đội là được nhà nước miễn học phí. Tác giả
khuyến khích em tìm hiểu về khối ngành này, vì đây là những ngành em yêu thích và
nếu học ở đây các em sẽ không làm gánh nặng cho gia đình. Bởi học phí, chỗ ăn ở đã
được nhà nước chu cấp. Và học lực của em rất tốt vì vậy em cũng không phải lo lắng
nhiều nếu lựa chọn thi vào các ngành này.
Với trường hợp của em học sinh nữ lớp 12, em muốn thi vào khối ngành
kinh tế. Vì đó là sở thích của em, và em cũng nhận được sự hậu thuẫn rất lớn từ
bố mẹ. Đây là một thuận lợi và cũng là động lực để em theo đuổi ngành. Tuy
nhiên tác giả cũng muốn em xem xét và cân nhắc. Bởi ngành kinh tế thì có rất
nhiều trường đào tạo. Không phải đi đâu xa, ở ngay địa phương của em cũng có
các trường đào tạo khối ngành kinh tế này như đại học dân lập Hải Phòng, đại
học Hải Phòng. Và các ngành kinh tế ở các trường này cũng không lấy điểm quá
cao. Còn ở trường kinh tế cũng là ngành kinh tế mà em thích thì luôn lấy điểm
đầu vào rất cao. Em sẽ đứng trước nguy cơ giữa đỗ và trượt, một gianh giới rất
mong manh.
Trường hợp cuối cũng đó là em học sinh nữ lớp 10, tác giả muốn em hiểu
lớp 10 không phải là quá sớm để suy nghĩ và lựa chọn cho mình nghề nghiệp. Vì ý
nghĩa, vai trò to lớn của nó nên chúng ta cần có một quá trình, một thời gian dài để
phân tích và lựa chọn giữa các yếu tố như năng lực, nhu cầu, sở thích. Trước mặt
74
em phải xác định được các em muốn làm nghề gì? Nghề nào trong xã hội hiện nay
được các em quan tâm. Trả lời được câu hỏi này, tôi sẽ giúp em tìm hiểu được
mình có phù hợp với nghề đó không, nghề đó có đặc trưng như thế nào… Thông
qua các buổi học, trao đổi tác giả cung cấp cho em một số ngành nghề trong xã hội
và một số cơ sở đào tạo ngành nghề ấy như các trường ĐH, CĐ, TCCN, trường
nghề. Để cho em có nhiều cơ hội trong sự lựa chọn nghề nghiệp.
- Về các nguồn thông tin giúp các em trong quá trình định hướng nghề.
Việc tìm hiểu này đã giúp tác giả nhận thấy rằng học sinh trung học phổ thông
ngày nay rất năng động và tích cực trong việc tìm kiếm thông tin về nghề
nghiệp. Thông qua các kênh thông tin các em sẽ có nhiều hiểu biết hơn, sẽ giải
quyết được các thắc mắc, khó khăn trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Ngoài ra
tác giả cũng khuyến khích các em tự tin và năng động hơn nữa trong việc tìm
kiếm thông tin. Bởi còn có rất nhiều kênh thông tin khác ngoài xã hội có thể giải
đáp các thắc mắc của các em như: các chuyên gia hướng nghiệp, những người đã
thành đạt trong ngành nghề mà em dự định sẽ chọn…
Kết luận
Trải qua 8 buổi tập huấn, sinh hoạt cùng các em. Từ những buổi đầu tiên
khi các em còn e ngại khi trao đổi thông tin. Đến buổi cuối cũng chúng ta đã đạt
được những kết quả đó là sự thoải mái, vui vẻ, và cởi mở trong trò truyện, các
em đã bộc lộ những quan điểm, chính kiến của mình về nghề nghiệp. Ban đầu
của buổi tập huấn nhiều em học sinh còn băn khoăn và lúng túng trong quá trình
lựa chọn nghề, đặc biệt là những khó khăn trong quá trình chọn nghề. Thông qua
các buổi sinh hoạt tìm hiểu về năng lực, sở thích, sự lựa chọn nghề nghiệp của
các em, tác giả đã thu được các kết quả có giá trị như sau:
- Trường hợp của em học sinh nữ lớp 12. Em này muốn học ngành kinh tế
và vẫn quyết tâm theo đuổi ngành nghề này đến cùng. Nhưng bây giờ em không
lựa chọn thi vào trường đại học kinh tế quốc dân nữa. Vì em nghĩ khả năng đỗ
với trượt là rất mong manh. Vì vậy em quyết định chọn thi ngành kinh tế của
trường đại học hàng hải. Vừa gần nhà, mà cũng đúng là ngành em yêu thích, và
75
trường này cũng lấy điểm không quá cao, vừa sức với khả năng của em. Và em
nói: “ bố mẹ rất ủng hộ sự lựa chọn của em vì con gái học gần nhà nên bố mẹ
cũng yên tâm hơn.”
- Trường hợp thứ hai là em học sinh nam lớp 12. Em có học lực rất tốt,
tuy nhiên gia đình em này lại rất khó khăn, bên cạnh đó em cũng băn khoăn vì
thích một lúc mấy ngành. Kết thúc buổi tập huấn em học sinh này đã các định
cho mình ngành thi, trường thi đó là học viện kĩ thuật quân sự. Học trường này
em không phải quan tâm đến vấn đề học phí, chỗ ăn ở nữa. Và em cũng đã tìm
kiếm thông tin nhiều nguồn để biết được các thông tin tuyển sinh của trường
trong năm nay.
- Trường hợp thứ ba là em học sinh nam lớp 11 học lực trung bình nhưng
vẫn cố thi vào đại học. Tác giả đã giúp em cân nhắc về sự lựa chọn để giúp em
đánh giá được năng lực của bản thân. Và em học sinh này là một sự chuyển biến
rõ ràng và tích cực nhất trong phương pháp thực nghiệm tác động này của tác
giả. Em học sinh này đã quyết định không thi đại học nữa mà đi học cao đẳng
nghề Bách nghệ Hải Phòng. Một trường nghề có sự đào tạo rất tốt với chất lượng
giảng viên có trình độ thạc sỹ và tiến sỹ chiếm trên 80%. Và trường này cũng có
rất nhiều ngành đào tạo, em học sinh nam đã quyết định học khoa công nghệ
thông tin, một ngành đang rất hấp dẫn giới trẻ hiện nay.
- Trường hợp cuối cùng là em học sinh nữ lớp 10 chưa có dự định gì về
nghiệp vì cho rằng còn quá sớm. Tác giả đã phân tích và cung cấp cho em về vai
trò, vị trí của nghề nghiệp là quan trọng như thế nào. Và việc định hướng nghề
nghiệp là một việc làm cần thiết và là một quá trình lâu dài. Từ việc lựa chọn
nghề rồi đến việc xác định năng lực có phù hợp với nghề hay không… Em học
sinh này sau các buổi thảo luận, lắng nghe sự trao đổi của các anh chị khóa trên
đã nhận thấy tầm quan trọng của nghề nghiệp và em học sinh này đang rất tích
cực tìm kiếm thông tin để lựa chọn cho mình một ngành nghề yêu thích và phù
hợp với khả năng của em.
76
Chƣơng 3: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỊNH HƢỚNG
NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
3.1. Nhân tố chủ quan
Chọn cho mình một ngành nghề phù hợp là đã tạo nền tảng cho sự thành
công trong tương lai. Và trong cuộc sống có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình định hướng hay chọn nghề của bất kỳ một học sinh. Yếu tố chủ quan ở đây
được hiểu là yếu tố của chính bản thân học sinh THPT như: hứng thú, nhu cầu,
nguyện vọng, động cơ, năng lực…
3.1.1 Yếu tố nhu cầu, động cơ nghề nghiệp
- Nhu cầu và động cơ nghề nghiệp: có thể khẳng định mọi sự lựa chọn
nghề đều xuất phát điểm từ nhu cầu của cá nhân của học sinh THPT.
Khi học sinh thấy rằng trong tình trạng hiện tại của bản thân còn có một
khoảng trống: đó là chưa định hướng được nghề nghiệp, chưa có được những
điều kiện vật chất để thực hiện hoài bão, muốn có được một chỗ đứng trong xã
hội, một công việc có thu nhập cao… Tất cả những nhu cầu này là hoàn toàn
chính đáng và nhu cầu này sẽ tạo nên động cơ, đó là những yếu tố nội tại đưa
học sinh tới những hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Tuy nhiên
cũng cần phân biệt giữa nhu cầu và ước muốn nghề nghiệp. Ước muốn nghề
nghiệp là sự lựa chọn tổng quát để thảo mãn một nhu cầu nghề nghiệp cụ thể.
Nhu cầu là một khái niệm vượt ra ngoài giá trị vật chất của nghề nghiệp,
và đó là một yếu tố quan trọng mà những người làm công tác hướng nghiệp cần
phải hiểu rõ để tác động đúng. Động cơ thúc đẩy việc lựa chọn nghề thường
phản ánh nhu cầu chọn nghề hơn là phản ánh các giá trị do nghề đó đem lại. Sự
lựa chọn nghề nghiệp của học sinh bao giờ cũng bị chi phối bởi một hệ thống các
động cơ nhất định. Những động cơ này thường bắt nguồn từ những nhu cầu,
hứng thú sở thích riêng của mỗi cá nhân học sinh. Và nó được hình thành dưới
sự tác động của các động cơ bên trong và bên ngoài. Động cơ bên trong có vai
77
trò quan trọng thúc đẩy con người đạt tới những mục tiêu nhất định trong quá
trình tiến tới mục đích nghề được lựa chọn. Và nó là tiền đề nội lực cơ bản cho
sự lựa chọn và hoạt động nghề nghiệp sau này của học sinh, nó giúp cho cá nhân
học sinh sử dụng có hiệu quả những tư chất, năng lực, kinh nghiệm của mình để
trước hết là chọn được một nghề theo ý nguyện của bản thân và sau đó là để thực
hiện tốt những yêu cầu đặt ra cho hoạt động nghề nghiệp. Còn động cơ bên trong
ở đây là các yếu tố về hứng thú, nguyện vọng, năng lực, sở trường, sự hiểu biết
của bản thân đối với nghề.
3.1.2 Hứng thú nghề nghiệp của học sinh
Hứng thú nghề nghiệp của học sinh THPT được hiểu là sự biểu hiện quan
tâm, sự say mê của học sinh đối với lĩnh vực nghề nghiệp hay một nghề nào đó
cụ thể. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó sẽ là động cơ thúc
đẩy cá nhân tìm hiểu kĩ lưỡng về nghề và làm cơ sở cho việc thực hiện nguyện
vọng nghề nghiệp. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con
người sẽ có cảm giác dễ chịu và nó sẽ khiến cho cá nhân tích cực và sáng tạo
hơn. Một khi học sinh ý thức được về giá trị nghề nghiệp đối với bản thân mình
và có những cảm xúc hay sự say mê tích cực tìm kiếm thông tin về nghề nghiệp
thì khi đó ở học sinh đã hình thành hứng thú đối với nghề nghiệp. Theo N.c
Crupxkaia thì: “Chỉ đối với việc mà họ đang làm, bị cuốn hút vào công việc, chỉ
khi đó con người mới nâng cao tối đa xu hướng hoạt động của mình không kể
đến mệt mỏi”.
Học sinh trong quá trình định hướng nghề nghiệp luôn đặt cho mình câu
hỏi: “Tôi thích làm nghề gì?”. Và “Tôi có thể làm được nghề gì?” Đó là những
câu hỏi rất nghiêm túc phản ánh tinh thần trách nhiệm của học sinh trước những
đòi hỏi của cuộc sống đang đặt ra đối với bản thân. Các hình thức giáo dục
hướng nghiệp ở nhà trường phổ thông sẽ góp phần tích cực vào việc giúp các em
học sinh phổ thông trả lời chính xác các câu hỏi này. Đồng thời qua đó làm cho
hứng thú nghề nghiệp của học sinh dần được ổn định. Điều này là đặc biệt quan
78
trọng vì chính hứng thú nghề nghiệp sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc lựa
chọn nghề nghiệp của các em học sinh THPT.
3.1.3 Năng lực nghề nghiệp
Các chỉ số IQ, EQ… giúp các bạn xác định được năng lực và khả năng
của mình tới đâu. Nếu IQ của bạn dưới 100 thì hãy cân nhắc kỹ trước khi đăng
ký ngành công nghệ thông tin. Trường hợp bạn không có điều kiện để thực hiện
các bài test về chỉ số thông minh, cảm xúc thì hãy xem mình có thể hợp với công
việc gì, khả năng của mình được thể hiện tốt nhất khi nào.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học thì năng lực của một cá nhân là tổ
hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân đó phù hợp với những yêu cầu của một
hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt. Vận dụng quan
điểm trên để xem xét năng lực nghề nghiệp có thể thấy năng lực nghề nghiệp là
một tập hợp các thuộc tính nhân cách tương đối bền vững, được hình thành và
phát triển trong quá trình hoạt động có liên quan tới nghề nghiệp.
Theo K. Platônôp thì “Năng lực đối với một ngành nghề nhất định nào đó
được xác định bởi những yêu cầu mà ngành nghề đó đặt ra cho các nhân nào tiếp
thu nó.”
Theo GS. TS Phạm Tất Dong thì năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng
giữa những đặc điểm tâm lý và sinh lý của con người với những yêu cầu do nghề
đặt ra. Không có sự tương ứng này thì con người không thể theo đuổi nghề được.
Năng lực nghề nghiệp vốn không phải là cái có sẵn trong con người,
không phải là những bẩm chất bẩm sinh. Mà nó hình thành và phát triển qua hoạt
động học tập và hoạt đông học tập của con người.
3.1.4 Bản thân
Điều tệ nhất bạn có thể làm là chọn nghề nghiệp cho mình chỉ để làm hài
lòng ai đó. Không ai hiểu rõ bản thân bạn hơn chính bạn, trước khi quyết định chọn
một hướng đi cho riêng mình, bạn hãy dành ít phút nhìn lại bản thân xem chúng ta
có những gì, những yếu tố đó có phù hợp với nghề mình chọn hay không.
79
3.1.5 Sức khỏe
Đây là yếu tố ảnh hưởng đầu tiên khi bạn muốn chọn cho mình bất kể nghề
gì. Nếu không biết tự lượng sức mình thì cho dù bạn có đi hết con đường học sau
này cũng không giúp bạn bám trụ lâu với nghề. Có những ngành nghề đòi hỏi cao
về sức khoẻ, đơn cử nếu bạn muốn làm phi công, thuyền trưởng thì nhất thiết bạn
không được mắc các bệnh về tim mạch… muốn đi vào nghề hội họa, lái xe, nhuộm
vải thì tối kỵ bệnh mù màu (không phân biệt được các màu sắc). Theo kết quả xử lý
phiếu điều tra thì có 97,9% học sinh có sức khỏe tốt; có 2,1% học sinh có sức khỏe
là không tốt. Với các em học sinh có sức khỏe tốt sẽ giúp các em dễ dàng tìm kiếm
nhiều công việc với nhiều lĩnh vực khác nhau. Còn phần trăm nhỏ các em có sức
khỏe không tốt các em sẽ phải lựa chọn và tìm hiểu nghề nghiệp thật kỹ lưỡng, để
xem bản thân mình có thể đáp ứng được với đòi hỏi của nghề đó không?
3.2 Nhân tố khách quan
Chọn cho mình một ngành nghề phù hợp là đã tạo nền tảng cho thành
công trong tương lai. Và trong cuộc sống có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình định hướng hay chọn nghề của bất kỳ một học sinh nào. Những yếu tố đó
có thể liệt kê như sau:
3.2.1 Gia đình
Gia đình là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển về mọi mặt của học sinh
trong đó có cả vấn đề định hướng, lựa chọn nghề của các em. Trong gia đình cha
mẹ là những người luôn luôn gần gũi đối với con, chính vì vậy cha mẹ sẽ biết về
hứng thú khả năng, sở trường của con. Và cha mẹ cũng là những người có vốn
hiểu biết sâu rộng về xã hội, về nghề nghiệp hơn các em. Vì vậy các em luôn tìm
đến cha mẹ để tìm hiểu thông tin, để cha mẹ chia xẻ dự định của bản thân. Hơn
nữa sự lựa chọn nghề nghiệp của các em cũng chịu ảnh hưởng của gia đình. Nhiều
em có hoàn cảnh gia đình khó khăn thì cũng phải cân nhắc giữa việc chọn trường
để giảm chi phí cho việc học tập, đi lại… Sự quan tâm, định hướng của gia đình là
vô cùng cần thiết và quan trọng đối với các em. Nếu cha mẹ hiểu về nhu cầu,
80
nguyện vọng cũng như năng lực của con mình thì có thể cho con mình những lời
khuyên, những kiến thức về ngành nghề mà con mình lựa chọn. Tuy nhiên nếu sự
định hướng của gia đình mang tính áp đặt thì lại tác động không tốt đến sự lựa
chọn nghề của học sinh THPT. Bởi một khi gia đình quyết định và lựa chọn nghề
nghiệp cho con cái mình thì rất dễ dẫn đến sự sai lầm trong việc lựa chọn nghề của
học sinh. Và cũng hình thành ở các em tính thụ động, ỷ lại vào cha mẹ mà không
có sự độc lập, quyết đoán trong suy nghĩ và lựa chọn.
Bảng 3.1 Ảnh hƣởng của gia đình đến sự lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh trung học phổ thông. (Đơn vị %)
Ảnh hƣởng của gia đình Số lƣợng %
Tư vấn, góp ý, trao đổi thông tin để bạn tự lựa chọn 115 47,9
Cha mẹ lựa chọn nghề nghiệp của bạn 20 8,3
Bạn và các thành viên trong gia đình cũng bàn bạc và
đưa ra quyết định 34 14,2
Gia đình bạn để bạn tự tìm hiểu và lựa chọn 71 29,6
Tổng 240 100
(Nguồn kết quả xử lý phiếu điều tra)
Sau khi thu thập ý kiến từ học sinh THPT tôi thu được kết quả như sau:
Học sinh lựa chọn gia đình tư vấn và góp ý trao đổi thông tin để các em tự lựa
chọn chiếm tỷ lệ cao nhất là 47,9%; gia đình để tự học sinh lựa chọn và tìm hiểu
chiếm tỷ lệ 29,6%; gia đình cùng học sinh bàn bạc và ra quyết định là 14,2%. Gia
đình chọn nghề nghiệp cho học sinh là 8,3%. Có thể khẳng định yếu tố của gia
đình sẽ ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hành vi lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh. Học sinh lựa chọn gia đình là nơi tư vấn, trao đổi thông tin để cho học
sinh tự lựa chọn chiếm tỷ lệ cao nhất. Đây là kết quả thể hiện sự quan tâm của gia
đình đến sự lựa chọn của con cái. Và cha mẹ cung cấp thông tin, tư vấn để cho học
sinh có được những hiểu biết về nghề. Và từ sự hiểu biết đó học sinh sẽ tự lập
trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Việc để cho con cái tự quyết định nghề nghiệp
dựa trên những vốn hiểu biết về nghề là một việc làm đúng đắn của cha mẹ. Nghề
81
nghiệp là tương lai của các em, nó sẽ là yếu tố ảnh hưởng đến cuộc đời lâu dài của
con người. Vì vậy hãy tự tự các em cân nhắc và lựa chọn tương lai cho bản thân.
Tiếp đến là sự lựa chọn gia đình để học sinh tự tìm hiểu và lựa chọn
chiếm tỷ lệ 29,6%. Có thể hiểu được lý do này đó là hầu hết các em học sinh
THPT mà tác giả khảo sát đều thuộc các gia đình nông nghiệp, cha mẹ có trình
độ thấp nên sự hiểu biết của gia đình đối với các vấn đề nghề nghiệp là không có
nhiều. Nhiều bố mẹ có trình độ còn thấp hơn cả con cái mình, nên thật khó để
cho con cái mình những lời khuyên, sự tư vấn hợp lý.
Một điều cũng khiến chúng ta phải quan tâm đó là tỷ lệ học sinh lựa chọn
gia đình là những người tự lựa chọn nghề nghiệp cho mình chiếm tỷ lệ 8,3%.
Hầu hết những gia đình tự lựa chọn nghề nghiệp cho học sinh đều xuất phát từ
những nguyên nhân chủ quan đó là dễ xin việc, thu nhập cao, có người quen
trong nghề… Tuy nhiên sự lựa chọn này sẽ mang đến cho học sinh một sự bị
động, thiếu tính quyết đoán. Và tệ hại hơn là sự lựa chọn này không phù hợp với
nhu cầu, nguyện vọng của các em. Điều này sẽ dẫn đến tâm lý chán nghề, không
có hứng thú với nghề.
Bảng 3.2 Tƣơng quan giữa nghề nghiệp của bố mẹ và sự tham gia của gia
đình vào việc định hƣớng nghề nghiệp của học sinh THPT. (Đơn vị %)
Sự tham gia của gia đình vào
việc lựa chọn nghề
Công
chức
Kinh
doanh
Nông
dân
Công
nhân
Nghề
khác
Tư vấn, trao đổi thông tin để
bạn tự lựa chọn 56,5 41,9 40,3 45,2 47,9
Cha mẹ lựa chọn nghề nghiệp
của bạn 4,3 19,4 7,8 4,3 8,3
Bạn và các thành viên trong gia
đình cũng bàn bạc và đưa ra
quyết định
17,4 12,9 15,5 28,7 14,2
Gia đình bạn để bạn tự tìm hiểu
và lựa chọn 21,7 25,8 36,4 21,7 29,6
Tổng % 100 100 100 100 100
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
82
Trong bảng hỏi tôi đã liệt kê ra một số nghề nghiệp chính của xã hội hiện
nay cụ thể như: Công chức, công nhân, nông dân, kinh doanh, và nghề khác.
Nghề khác ở đây được hiểu theo nghĩa rất rộng bao gồm rất nhiều ngành nghề
như thợ thủ công, nhiếp ảnh, …
Qua kết quả khảo sát điều tra 240 em học sinh THPT ta có thể dễ dàng
nhận thấy rằng có sự khác biệt rõ ràng trong mối quan hệ tương quan giữa nghề
nghiệp của bố mẹ với việc gia đình tham gia vào định hướng việc làm. Có một tỷ
lệ rất lớn lên tới 56,5% số lượng học sinh được bố mẹ làm cán bộ công chức nhà
nước tham gia tư vấn lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Do cha mẹ các em là
những người có trình độ hiểu biết cao, tri thức nhiều, đặc biệt là nhiều vốn hiểu
biết về xã hội và ngành nghề nên cha mẹ có thể dễ dàng tư vấn và cung cấp cho
con em mình thông tin về nghề nghiệp. Ngoài ra bố mẹ tham gia vào tư vấn chọn
nghề cho con em mình ở các ngành nghề khác như công nhân, nông dân, kinh
doanh cũng chiếm một tỷ lệ tương đối cao đều trên 40%. Điều này chứng tỏ hầu
hết các bậc phụ huynh hiện nay đều muốn tư vấn cho con cái về nghề nghiệp, và
mong muốn con cái mình có được những quyết định đúng đắn và hợp lý nhất.
Có rất ít phụ huynh tự quyết định lựa chọn nghề nghiệp cho con mình. Đây là
một thực trạng đáng mừng, bởi cha mẹ ngày nay đã có những tư tưởng tiến bộ
không áp đặt suy nghĩ nên con cái, và đã để con cái độc lập trong việc lựa chọn
nghề nghiệp tương lai của mình.
3.2.2 Nhà trường
Nhà trường có vai trò lớn trong việc giúp cho học sinh có cơ hội tìm hiểu
và định hướng nghề nghiệp của bản thân. Định hướng nghề nghiệp trong nhà
trường phải là một quá trình liên tục từ bậc THCS đến THPT và kéo dài cho đến
tận những năm cuối của ĐH, CĐ, TCCN. Nhà trường chính là môi trường xã hội
hóa cung cấp những thông tin mang tính “chính quy”, là nền tảng giúp cho học
sinh có sự hiểu biết liên quan đến kiến thức, văn hóa, kinh nghiệm…
- Nhận thức về tầm quan trọng của công tác hướng nghiệp trong nhà
trường phổ thông hiện nay.
83
Biểu đồ 3.1 Nhận thức của học sinh THPT về tầm quan trọng
của công tác hƣớng nghiệp trong nhà trƣờng (%).
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Có tới 56,2% số học sinh cho rằng việc định hướng nghề nghiệp cho học
sinh THPT là rất quan trọng và cần thiết, 40% số học sinh cho rằng hướng nghiệp
là cần thiết, chỉ có rất ít là 3,8% học sinh phổ thông coi là không cần thiết. Những
số liệu này phần nào chứng tỏ học sinh phổ thông hiện nay đã thực sự có ý thức và
có nhu cầu được hướng nghiệp một cách nghiêm túc trong nhà trường.
Tuy nhiên học sinh lại đánh giá công tác hướng nghiệp trong nhà trường
hiện nay còn sơ sài và qua loa đại khái, có 51,2% học sinh đánh giá như vậy.
Không có nhiều các giờ học hướng nghiệp. Nếu có cũng chỉ là sự lồng ghép.
Học sinh đang rất cần sự bài bản và quy mô về công tác hướng nghiệp trong nhà
trường nhiều hơn nữa.
- Nhận thức về mục đích, ý nghĩa của công tác hướng nghiệp trong nhà
trường hiện nay.
84
Bảng 3.3 Nhận thức của học sinh về mục đích của hoạt động hƣớng nghiệp.
(Đơn vị %)
Mục đích của hoạt động hƣớng nghiệp Số lƣợng %
Giúp cho học sinh chọn đúng nghề dựa trên năng
lực, nhu cầu, sở thích… 228 95
Cung cấp cho học sinh thông tin về nghề 164 68,3
Cung cấp thông tin cho học sinh một số ngành nghề
cầu các trường CĐ, ĐH, TCCN 139 57,9
Ý kiến khác 10 4,2
(Nguồn kết quả xử lý phiếu điều tra)
Qua bảng 3.3 tôi nhận thấy, đa số học sinh nhận thức đúng về công tác hướng
nghiệp, học sinh đã hiểu về mục đích và ý nghĩa của giáo dục hướng nghiệp thông qua
các Internet, tài liệu, sách giáo khoa và bài giảng của giáo viên. Tuy nhiên các em học
sinh cũng bày tỏ quan điểm rằng giữa hiểu về ý nghĩa của công tác hướng nghiệp với
thực tế hướng nghiệp trong nhà trường hiện nay là khác xa nhau. Và công tác hướng
nghiệp còn chưa thu hút được sự tham gia và quan tâm của học sinh THPT. Điều này
rút ta đưa kết luận về sự không hiệu quả về nội dung và phươg pháp hướng nghiệp
trong nhà trường hiện nay. Bởi có đến 64.6% học sinh tham gia trả lời là rất khó khăn
trong quá trình định hướng nghề nghiệp do thiếu thông tin về nghề (bảng 2.7).
- Thái độ của học sinh khi tham gia vào các giờ học hướng nghiệp.
Bảng 3.4 Thái độ của học sinh đối với các giờ ngoại khóa, giờ sinh hoạt
hƣớng nghiệp. (Đơn vị %)
Thái độ của học sinh Số lƣợng %
Thực sự chú ý, trao đổi với thầy cô về ĐHNG 136 56,7
Có quan tâm nhưng ít trao đổi thông tin 90 37,5
Không quan tâm 14 5,8
Tổng 40 100
(Nguồn kết quả xử lý phiếu điều tra)
85
Những số liệu ở trên đã cho thấy những biểu hiện về thái độ và hành vi
của học sinh THPT khi tham gia vào các hoạt động hướng nghiệp là khá rõ ràng.
Có tới 56,7% học sinh thể hiện sự quan tâm và thường xuyên trao đổi với các
thầy cô về định hướng nghề nghiệp của bản thân. Điều này thể hiện sự quan tâm
của các em về định hướng nghề nghiệp. Các em rất quan tâm và mong muốn các
thầy cô giải đáp các thắc mắc về nghề nghiệp. Có 37,5% học sinh có quan tâm
nhưng ít trao đổi ý kiến, một phần vì các em cảm thấy ngại khi hỏi các thầy cô,
phần khác là do thời gian dành cho hướng nghiệp là rất ít nên các em chưa có
thời gian nhiều trong việc trao đổi. Có thể nói việc tham gia vào các giờ học
hướng nghiệp của các em là hoàn toàn tự nguyện vì đây là công tác ngoài giờ
học chính khóa nên học sinh có thể tham gia hoặc không tham gia. Và trong tổng
số 240 em được hỏi thì chỉ có 5,8% là học sinh không quan tâm, không hứng thú
đối với công tác hướng nghiệp, các em này đánh giá là công tác hướng nghiệp
không hiệu quả, khô khan và không đem lại cho các em điều gì cả.
3.2.3 Bạn bè
Lý thuyết xã hội hóa đã khẳng định bạn bè là một thiết chế quan trọng. Và
trong quá trình học tập học sinh tham gia vào các nhóm bạn bè học sinh có thể
chia sẻ mọi sở thích, quan điểm trong cuộc sống. Dự định nghề nghiệp cũng
được các bạn học sinh đưa ra để trao đổi và tìm những lời khuyên dành cho
nhau. Bởi cùng lứa tuổi nên học sinh khá thoải mái trong việc trao đổi thông tin
với bạn bè. Có thể khẳng định trong dự định nghề nghiệp của học sinh có sự
tham khảo ý kiến rất lớn từ bạn bè, bạn bè chính là một kênh thông tin hữu ích
cho sựu lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT.
Có một tỷ lệ rất nhỏ học sinh lựa chọn nghề nghiệp theo ý kiến, sự lôi
cuốn của bạn bè chiếm 1,7% (bảng 2.2). Tức là các em lựa chọn nghề nào đó khi
thấy bạn bè lựa chọn nhiều mà không cần biết trường đó có có phù hợp với mình
không? Mình có phù hợp với nghề đó không? Có 7,1% học sinh coi bạn bè là
86
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp của mình (bảng
2.3). Và có 56,7% em học sinh được hỏi sử dụng nguồn thông tin từ bạn bè. Và
theo các em bạn bè sẽ cung cấp cho học sinh những thông tin cần thiết và giúp
học sinh có được một lựa chọn phù hợp.
Biểu đồ 3.2 Sự trao đổi với bạn bè về định hƣớng nghề nghiệp (%).
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Kết quả điều tra cho thấy có tới 56% học sinh thường trao đổi với bạn bè
về định hướng nghề nghiệp của bản thân, 39% là thỉnh thoảng trao đổi với bạn
bè và chỉ có 5% học sinh chưa bao giơ trao đổi với bạn bè về định hướng nghề
nghiệp. Qua điều tra tác giả nhận thấy hầu hết mỗi học sinh THPT đều có một
người bạn hoặc một nhóm bạn thân. Những người bạn này là nơi mà học sinh
tìm kiếm sự đồng cảm, sự chia xẻ về tinh thần là chủ yếu.
“ Bạn bè rất quan trọng với em. Em có người bạn thân rất hiểu em, người
mà em có thể chia xẻ mọi thứ, người luôn tin tưởng và đồng cảm sâu sắc với em.
Em thường xuyên trao đổi với bạn ấy về định hướng việc làm sau khi tốt nghiệp, về
sự lựa chọn trường, ngành thi để phù hợp với khả năng và sở thích của bản thân”.
(PVS, học sinh nữ lớp 12)
87
3.2.4 Truyền thông đại chúng
Một yếu tố quan trọng nữa có một sự ảnh hưởng lớn đến định hướng
nghề nghiệp của học sinh THPT đó là các phương tiện truyền thông đại chúng.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì báo chí, tivi, internet là những
nguồn thông tin vô cùng phong phú và được các bạn học sinh cập nhật thường
xuyên. Học sinh THPT là nhóm đối tượng tiếp xúc rất nhiều với mạng internet
như ở phần tìm kiếm thông tin về nghề nghiệp ở bảng 2.4 có tỷ lệ lên tới 90%
học sinh thường xuyên tiếp cận với kênh thông tin này để tìm kiếm thông tin về
nghề nghiệp. Và việc tìm kiếm thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng
hiện nay cũng rất dễ dạng, bởi sự có mặt ở khắp nơi của mạng internet, chỉ cần
học sinh vào mạng là có thể tìm kiếm bất cứ một nguồn thông tin nào. Nên hình
thức tìm kiếm thông tin qua mạng internet được các bạn học sinh phổ thông sử
dụng là nhiều nhất bởi tính chất đơn giản và khả năng tiếp cận rất dễ dàng và
nhanh chóng của nó.
“Em thường xuyên sử dụng mạng internet, bây giờ nhà nào cũng có máy
tính kết nối mạng cả. Em có thể tìm kiếm mọi nguồn thông tin qua đó. Đặc biệt
là thông tin về nghề nghiệp, vấn đề mà bọn em đặc biệt quan tâm hiện nay. Có
nhiểu thông tin mà em không hỏi được qua bố mẹ, thầy cô nên em lại lên mạng
để truy cập và tìm hiểu.”
(PVS, học sinh nam, lớp 11)
88
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đề tài “Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT trên địa bàn thành
phố Hải Phòng”. Tuy được tiến hành trên quy mô không phải là lớn nhưng đã
thu được những kết quả hết sức khả quan, và đã đáp ứng được mục tiêu nghiên
cứu ban đầu tác giả đã đề ra.
Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết như lý thuyết xã hội hóa, lý thuyết sự
lựa chọn duy lý, lý thuyết hàng động xã hội làm cơ sở phương pháp luận, luận
văn đã góp phần tạo nên một cái nhìn sâu sắc hơn về định hướng nghề nghiệp
của học sinh THPT.
- Định hƣớng nghề nghiệp của học sinh THPT
Có thể khẳng định việc định hướng nghề của học sinh là một hiện tượng
rất phức tạp, nó được hình thành trong một quá trình lâu dài. Và nó chịu sự tác
động của rất nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, giáo dục, dư luận xã hội…
Qua khảo sát và nghiên cứu thực trạng định hướng nghề nghiệp của học
sinh THPT tác giả rút ra kết luận: đa số học sinh THPT đều rất quan tâm đến yếu
tố nghề nghiệp của bản thân và các em đều có dự định nghề nghiệp từ khi còn
học THCS và trong quá trình học trung học phổ thông. Học sinh THPT chủ yếu
có xu hướng thi vào các trường đại học, cao đẳng và lựa chọn những ngành nghề
đang được xã hội quan tâm, đánh giá cao, những nghề có thu nhập cao và dễ tìm
việc. Học sinh THPT hiện nay đã xác định được vai trò quan trọng của yếu tố
nghề nghiệp và đã có một sự quan tâm rất lớn đến yếu tố này.Việc lựa chọn nghề
của học sinh phổ thông đã được học sinh dựa trên yếu tố chính là nhu cầu, sở
thích, sở trường, năng lực và hứng thú của bản thân các em. Bên cạnh đó thì học
sinh cũng chịu sự tác động ảnh hưởng từ sự định hướng của nhà trường, sự tác
động của cha mẹ, bạn bè. Cha mẹ của học sinh THPT cũng bày tỏ sự quan tâm
đến sự định hướng nghề nghiệp của các em. Bởi biết tầm quan trọng của sự lựa
chọn này là yếu tố quyết định đến tương lai của các em nên gia đình đã thường
89
xuyên tìm hiểu, tư vấn và cung cấp thông tin để các em dựa trên những cơ sở đó
có thể quyết định được nghề nghiệp cho mình. Và trong nghiên cứu tác giả cũng
nhận thấy sự năng động, chủ động của các em qua việc các em tiếp cận với các
kênh thông tin về nghề nghiệp. Với các cách tiếp cận khác nhau học sinh có
được những luồng thông tin bổ ích để phục vụ sự lựa chọn của mình. Trong các
kênh thông tin mà học sinh tìm hiểu thì các phương tiện thông tin đại chúng đặc
biệt là mạng internet là một kênh thông tin được các bạn học sinh THPT thường
xuyên sử dụng bởi sự dễ dàng trong truy cập và nguồn thông tin khổng lồ mà nó
đem lại cho các em.
Trong quá trình lựa chọn nghề học sinh gặp phải không ít khó khăn như
thiếu thông tin về nghề nghiệp, kinh tế gia đình khó khăn, thích một lúc nhiều
nghề… Nhưng khó khăn nhất bao trùm nên các em vẫn là sự thiếu hiểu biết,
thiếu thông tin về nghề nghiệp. Điều này phản ánh sự thiếu hiệu quả của công
tác hướng nghiệp trong nhà trường hiện nay. Sự thiếu nghiêm trọng đội ngũ cán
bộ, giáo viên chuyên trách làm công tác hướng nghiệp, vì vậy không thể tạo ra
được một môi trường hướng nghiệp mang tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong
nhà trường THPT hiện nay.
- Các nhân tố chủ quan và khách quan tác động nên sự định hƣớng
nghề nghiệp của học sinh THPT.
Nhân tố chủ quan: Những nhân tố về động cơ, nhu cầu, hứng thú, năng
lực của các em đối với nghề nghiệp là yếu tố quan trọng có vai trò quyết định
đến việc đinh hướng nghề nghiệp của học sinh THPT. Dựa trên kết quả khảo sát
ở trên thì có 84,2% học sinh THPT được hỏi là chọn nghề dựa trên lý do đó là
phù hợp với năng lực, sở trường, hứng thú và nhu cầu của bản thân. Kết quả ở
trên đã cho thấy sự nhìn nhận đúng đắn của các em đối với vấn đề nghề nghiệp.
Nghề nghiệp sẽ là yếu tố đi theo chúng ta trên suốt chặng đường đi sau này, nếu
nghề nghiệp đó không được học sinh yêu thích, say mê. Thì sao các em có thể
yêu nghề và gắn bó lâu dài với nghề. Và trong nhân tố chủ quan này còn phải nói
90
đến yếu tố năng lực, khả năng của bản thân đối với nghề. Học sinh cũng không
thể chọn những ngành nghề mà mình không có khả năng làm được. Ví dụ người
không có sức khỏe tốt thì không thể học ngành phi công, ngành tàu biển. Người
bị bệnh hô hấp, thanh quản, hay nói lắp thì không thể chọn ngành giáo viên…
Mỗi một nghề sẽ có những đặc trưng nhất định, bởi vậy học sinh luôn cân nhắc
và đưa ra câu hỏi là mình có làm được nghề đó không? Nếu học sinh trả lời được
những câu hỏi như: Tôi muốn làm nghề gì? Nghề đó tôi có thể làm được hay
không? Nghề đó có phù hợp với tôi hay không? thì học sinh đã đi được trên một
con đường đúng đắn trong việc định hướng nghề nghiệp.
Nhân tố khách quan: Đó là sự tác động và ảnh hưởng của gia đình, bạn
bè, nhà trường và các kênh truyền thông. Ngoài ra còn có rất nhiều yếu tố khác,
nhưng trong phạm vi đề tài của mình tác giả chỉ xem xét đến 4 nhân tố chính kể
trên. Có thể nói các yếu tố khách quan sẽ chi phối và có sự ảnh hưởng rất lớn đối
với học sinh THPT.
Ở nhân tố gia đình, qua nghiên cứu tác giả có thể thấy vai trò của gia đình
là rất lớn đối với sự định hướng của các em học sinh phổ thông. Sự định hướng
của gia đình sẽ là động lực thúc đẩy để các em lựa chọn cho mình một con
đường phù hợp. Có thể nói kinh nghiệm và sự định hướng của gia đình sẽ giúp
các em hiểu rõ và nắm bắt tốt hơn về các yếu tố nghề nghiệp.
Nhà trường: là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến định hướng nghề
nghiệp của học sinh. Qua các thầy cô trực tiếp làm công tác giảng dạy học sinh
có thể tìm hiểu các thông tin về nghề có thể xin các ý kiến, góp ý của thầy cô về
ngành nghề các em đang có dự định chọn. Tuy công tác giáo dục trong nhà
trường không đạt được những hiệu quả như mong muốn của đa số học sinh phổ
thông. Nhưng cũng không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của yếu tố này đối với các
em là vô cùng lớn.
Bàn bè: Bạn bè là những người cùng tâm sinh lý, cùng một lứa tuổi đối
với các em. Việc các em chơi với bạn sẽ giải quyết được các nhu cầu về tình cảm
91
và các em sẽ nhận được nhiều sự chia xẻ, đồng cảm về các vấn đề trong cuộc
sống. Hầu hết các em học sinh THPT đều thường xuyên trao đổi, lắng nghe ý
kiến của bạn bè trong dự định lựa cọn nghề nghiệp.
Yếu tố truyền thông: bao gồm rất nhiều nguồn thông tin từ các nguồn như
tivi, sách báo, internet… Trong đó internet là kênh thông tin được học sinh quan
tâm nhiều nhất có 90% học sinh THPT tiếp cận thường xuyên với internet để tìm
kiếm thông tin về nghề nghiệp.
2. Khuyến nghị
Hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp tác động của gia đình, nhà
trường và xã hội nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao
động ở các ngành nghề, tại những nơi mà xã hội đang cần phát triển, đồng thời
lại phù hợp với hứng thú, năng lực của bản thân… Trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá
về định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT, tác giả xin được đưa ra một số
khuyến nghị như sau:
Đối với bản thân học sinh trung học phổ thông:
Chọn nghề trước rùi hãy chọn trường sau. Đầu tiên học sinh THPT cần
phải xác định được đúng sở thích, nhu cầu và năng lực của bản thân. Muốn tìm
được trường phù hợp, trước hết học sinh cần phải trả lời được câu hỏi “Tôi muốn
làm nghề gì”. Nhiều bạn đăng kí dự thi vào các trường CĐ, ĐH đã không xét đến
những yếu tố nghề nghiệp của bản thân. Có bạn chọn trường chỉ vì điểm chuẩn
của năm trước thấp nên cơ hội đỗ sẽ cao, có bạn chọn trường vì trường đó nổi
tiếng và danh giá, một vài bạn khác thì lựa chọn trường theo bạn bè, người thân.
Những sự lựa chọn này sẽ là sai lầm nếu học sinh không yêu thích, không có
hứng thú mà chỉ vì những lí do khách quan tác động mà lựa chọn theo. Vấn đề
đặt ra ở đây là học sinh cần phải chọn nghề như thế nào để phù hợp? Theo tác
giả học sinh cần phải vượt qua những quan điểm, tư tưởng không đúng đắn trong
việc lựa chọn nghề nghiệp như:
- Chọn nghề theo sự áp đặt của người khác (gia đình, bạn bè…)
92
- Chọn nghề theo số đông, thấy bạn bè chọn thì chọn theo.
- Chọn nghề chỉ ở bậc đại học vì nghĩ bậc đại học có giá trị cao hơn học nghề,
học trung cấp chuyên nghiệp. (Hiểu không đúng về giá trị của nghề nghiệp).
- Chọn nghề dễ xin việc, dễ kiếm tiền.
- Chọn nghề theo ý thích chớp nhoáng mà không có sự tìm hiểu kĩ lưỡng.
- Chọn nghề không nghĩ đến nhu cầu tuyển dụng của địa phương của xã hội.
- Chọn nghề không nghĩ đến các điều kiện như: thời gian học nghề, hoàn
cảnh gia đình, đầu ra của nghề…
Muốn chọn nghề phù hợp, học sinh không thể ngồi chơi và chờ đợi ai đó sẽ
lựa chọn cho mình, mà các em cần phải tự thực hiện sự hướng nghiệp cho chính
mình bẳng những sự nỗ lực của bản thân như tìm hiểu thông tin về nghề nghiệp
qua thầy cô, bạn bè, cha mẹ, qua các phương tiện thông tin đại chúng…
Học sinh cần phải hiểu về chính bản thân mình thì mới có thể chọn được
nghề phù hợp. Tôi muốn làm nghề gì? Nghề nào là phù hợp với tôi? Khả năng
của tôi đến đâu?... Tất cả những câu hỏi này phải được thực hiện một cách
nghiêm túc nhằm định hướng cho việc tìm hiểu bản thân các em, và giúp các em
biết được bản thân mình thật sự muốn gì, cần gì?
Chọn nghề phải phù hợp với tính cách, phù hợp với năng lực và trí tuệ của
bản thân. Những bạn có tâm hồn yêu thiên nhiên có thể chọn các ngành liên
quan đến du lịch, môi trường. Các bạn giàu trí tưởng tượng, thẩm mỹ tốt, phong
phú về ý tưởng có thể nghĩ đến các nghề về thiết kế, nhà văn, thời trang… Và
việc lựa chọn nghề cũng rất cần học sinh phải đánh giá được đúng năng lực của
bản thân.
Đối với gia đình học sinh: qua nghiên cứu về thực trạng định hướng nghề
nghiệp của các em học sinh THPT, tác giả nhận thấy gia đình có một sức ảnh
hưởng rất lớn đối với sự lựa chọn của các em. Vì vậy gia đình cần phải có một
93
quan niệm, cách nhìn nhận đúng đắn về giá trị nghề nghiệp trong xã hội hiện
nay. Trong xã hội thì nghề nào cũng được xã hội đánh giá cao, lao động chân tay
và trí óc đều là các dạng lao động làm ra sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã
hội. Và khi ra đình đánh giá được đúng bản chất của nghề nghiệp thì việc cần
quan tâm tiếp theo là gia đình phải tìm hiểu về những nhu cầu, sở thích, nguyện
vọng bên cạnh đó là không quên đánh giá khả năng, thế mạnh, năng lực của con
mình... Và trên các cơ sở hiểu biết đó gia đình sẽ tư vấn, trao đổi, góp ý cho con
cái để làm sao con có được một sự lựa chọn đúng đắn nhất.
Bên cạnh đó gia đình cũng nên tìm hiểu xem nghề nghiệp mà con mình
chọn lựa có phù hợp với xu hướng và sự đòi hỏi về nguồn nhân lực của xã hội
hay không. Và nhất định là không được áp đặt và lựa chọn nghề nghiệp cho con
cái. Không gây áp lực cho con cái về việc thi đại học hay học nghề. Tạo tâm lý
thoải mái, cởi mở ở gia đình để cho con cái sẵn sàng chia xẻ va giải quyết các
thắc mắc về nghề nghiệp.
Nhà trƣờng: Ngay từ cấp THCS thì công tác hướng nghiệp đã phải được
chú trọng và quan tâm. Để giúp các em học sinh có được những hiểu biết đúng
đắn về giá trị nghề nghiệp. Và trên cơ sở đó hình thành nên sự yêu thích và hứng
thú đối với một ngành nghề nào đó ở học sinh.
- Nhà trường THPT cần tăng cường công tác hướng nghiệp và chú trọng
nhiều hơn nữa đến việc cung cấp thông tin, trao đổi với các em về yếu tố nghề
nghiệp. Trong các bài học trên lớp cần nên đan xen yếu tố nghề nghiệp vào nếu
bài học đó gần gũi và liên quan đến một ngành nghề cụ thể.
- Cần giáo dục cho học sinh hiểu học đại học không phải là con đường
duy nhất để thành công.
- Cần phải cung cấp cho các em học sinh vốn hiểu biết sâu hơn về nghề
nghiệp. Và hướng học sinh nhiều hơn đến các trường nghề, trường trung cấp
chuyên nghiệp. Vì nước ta đội ngũ này còn rất thiếu và đang cần được đào tạo để
đáp ứng đòi hỏi của xã hội về nguồn nhân lực chất lượng cao này.
94
- Cần đổi mới công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường bằng cách
hoạch định lại chương trình, bài giảng, nội dung và phương pháp giáo dục để học
sinh có sự quan tâm hứng thú hơn đối với công tác hướng nghiệp ở nhà trường.
- Xây dựng nội dung hướng nghiệp vừa mang tính cơ bản, đơn giản, thiết
thực. Và phải đủ mềm dẻo và linh động, có sự phân hóa phù hợp với năng lực,
sở trường của các đối tượng học sinh khác nhau.
- Nhà trường cũng cần quan tâm đến sự định hướng của học sinh để có
những biện pháp khắc phục nếu các em mắc phải những sai lầm trong việc lựa
chọn như chọn nghề theo suy nghĩ chủ quan không căn cứ năng lực, sở trường
của bản thân vào nhu cầu lao động của địa phương và xã hội.
- Tăng cường công tác tư vấn chọn nghề trong nhà trường phổ thông. Để
tư vấn có hiểu quả các thầy cô cần làm các phép đo các chỉ số tâm sinh lý hoặc
gián tiếp liên quan đến các nghề học sinh định chọn như: cảm giác, tri giác, trí
nhớ, tư duy.
- Giúp cho học sinh xây dựng nên các kĩ năng về nghề nghiệp cơ bản và
nắm bắt được những hiểu biết chi tiết về một số ngành nghề mà các em đặc biết
hứng thú.
- Cần phải có sự liên hệ chặt chẽ với gia đình, để chung tay cung cấp
thông tin, tăng cường sự hiểu biết của các em vào yếu tố nghề nghiệp.
Truyền thông
Truyền thông là một kênh tác động rất lớn đối với học sinh THPT. Vì vậy
cần phải xây dựng các chương trình hướng nghiệp nhiều hơn trên các kênh thông
tin như tivi, internet...
- Truyền thông cần thường xuyên nhấn mạnh đến vai trò của các yếu tố
nghề nghiệp, giá trị của nghề nghiệp. Để cho học sinh hiểu rằng xã hội đang rất
quan tâm đến công tác hướng nghiệp, phân luồng cho học sinh THPT.
- Và các kênh truyền thông nên xây dựng các buổi trò truyện trao đổi giữa
các nhà hướng nghiệp và các trường trung học phổ thông.
95
- Cần phải giúp học sinh hiểu trong xã hội nghề nghiệp nào cũng có vai
trò và vị thế cao trong xã hội. Và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đang
thiếu đội ngũ lao động có chất lượng cao, được đào tạo bài bản.
- Truyền thông ở địa phương cũng cần quan tâm và hướng các em vào
những ngành nghề mà địa phương đang có nhu cầu tuyển dụng.
- Các trường ĐH, CĐ (đặc biệt là các trường ở địa phương) cũng cần phải
xây dựng các buổi tư vấn, hướng nghiệp ở trong các nhà trường phổ thông. Để
cung cấp các em những hiểu biết về trường, về các ngành đào tạo về. Giúp các
em có được sự hiểu biết nhất định về ngành và trường mình dự định đăng kí học.
96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Bích, (1979), Nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh niên,
Luận án tiến sỹ tâm lý học.
2. Phạm Huy Cường (2009), Các yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp của
sinh viên năm cuối các ngành khoa học xã hội, Luận văn Thạc sĩ Xã hội học,
Trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
3. Đỗ Minh Chương (2001), “Một số ý kiến đổi mới sự nghiệp đào tạo để đáp ứng
yêu cầu của thị trường lao động”, Tạp chí Giáo dục và Thời đại, số 25/2001, tr 35.
4. TS. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp
cho thanh niên, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
5. Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng (2005), Lịch sử Xã hội học, NXB Lý luận
Chính trị, Hà Nội.
6. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học đại cương, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh, Nguyễn Thế Trường, Trần Minh Thu,
Nguyễn Dục Quang, (2004), Hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 12, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
8. Phạm Tất Dong, Nguyễn Như Ất, (2000), Sự lựa chọn cho tương lai (tư vấn
hướng nghiệp.
9. Đảng Cộng Sản Việt Nam, (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng Sản Việt Nam, (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Trần Thị Minh Đức (1996), Tâm lý học đại cương, NXB Giáo dục Hà Nội, Hà Nội.
12. Trần Thị Đức (2002), Những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự định hướng trong
việc học tập, chọn nghề ở học sinh THPT, tạp chí giáo dục, Hà Nội.
13. Phạm Minh Hạc (2002a), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng của thế kỷ XXI,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
97
14. Phạm Minh Hạc, (2001), Về phát triển con người toàn diện thời kì CNH- HĐH,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
15. Nguyễn Thị Vân Hạnh (2008), Hoạt động đào tạo nghề cho thanh niên trong
điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Luận án Tiến sĩ Xã hội học,
Trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Hộ,(1998), Cở sở phát triển công tác hướng nghiệp trong trường
phổ thông, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thăng, (1997), Tâm lý học lứa tuổi và
tâm lý học sư phạm, NXB Giáo dục, Hà Nội
18. Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê, (2004), Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
THPT với việc phát triển nguồn nhân lực, tạp chí phát triển giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Hùng (2008), Sổ tay tư vấn hướng nghiệp và chọn nghề, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
20. Lê Ngọc Hùng (2001), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Thanh Huyền, (2006), Thực trạng thực hiện công tác giáo dục
hướng nghiệp trong trường THPT khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, Đề tài
khoa học cấp bộ, Thái Nguyên.
22. L.A Iôvaisa, (1983), Những vấn đề hướng nghiệp cho học sinh, NXB giáo dục
Liên Xô.
23. E.A Klimốp,(1975), Lựa chọn nghề như thế nào, NXB giáo dục Liên Xô.
24. Phạm Nguyệt Lãng, (1991), Tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh trung học
phổ thông, Nghiên cứu giáo dục số 5/1991.
25. Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Bùi Văn Xuân (2004), Một số vấn đề về giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, NXB, Hà Nội
26. PGS.TS Nguyễn Hồi Loan(2010), “Giáo dục hướng nghiệp cho sinh viên đại
học quốc gia Hà Nội”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
27. Nguyễn Minh Ngọc (2008), Nhận thức nghề và lựa chọn nghề của học sinh
THPT Dân tộc nội trú tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Trường
Đại học KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
98
28. Hoàng Phê (chủ biên), (1994), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
29. Triệu Thị Phương (1991), Một số đặc điểm hứng thú và định hướng nghề
nghiệp của học sinh phổ thông cơ sở, Nghiên cứu giáo dục số 5/1991
30. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Phạm Tất Thắng (2007), Xu hướng lựa chọn công việc của sinh viên sau tốt
nghiệp, Tạp chí Xã hội học, số 2 (98), tr. 63- 68.
32. Trần Quốc Thành, (2002), Định hướng giá trị nghề nghiệp của học sinh lớp 12
THPT một số tỉnh miền núi phía Bắc, Tạp chí tâm lý học, Hà Nội.
33. Trần Hữu Thực, (1997), Cẩm nang hướng dẫn tìm nghề, tìm việc, NXB Thống
kê, Hà Nội
34. Đinh Thị Mai Trâm (2012), Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên
khảo sát trên địa bàn thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 2005-
2011), Luận văn Thạc sĩ Xã hội học, Trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG Hà
Nội), Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Thơm (2006), Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải
pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Nguyễn Vũ (2004), Doanh nghiệp dễ phá sản vì thiếu thợ lành nghề, Báo Phụ
nữ Thủ đô, số 33/2004, tr. 4.
37. Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010, ban hành kèm Quyết định
201/2001/QĐ- TTg ngày 28/12/ 2001 của Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam.
38. Tony Bilton và những người khác (1993), Nhập môn xã hội học, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
39. Tổng cục Dạy nghề (2004), Định hướng nghề nghiệp và việc làm, NXB Lao
động Xã hội, Hà Nội.
40. Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, (1998), Đại từ điển kinh tế thị
trường, Hà Nội.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
1. Phiếu trƣng cầu ý kiến
PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
Chọn cho mình một “nghề” là chọn cho mình một tương lai. Vì vậy việc
chọn nghề là vô cùng cần thiết và ảnh hưởng tới cuộc đời của mỗi con người.
Để giúp các bạn học sinh phổ thông trung học lựa chọn được nghề nghiệp phù
hợp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường.
Xin bạn vui lòng cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau đây.
Bạn lựa chọn phương án nào hãy đánh dấu (X) vào ô bạn lựa chọn.
Những ý kiến của bạn sẽ là nguồn thông tin quý giá đối với chúng tôi. Chúng
tôi xin đảm bảo thông tin của các bạn cung cấp chỉ sử dụng cho mục đích
nghiên cứu.
Rất mong nhận được sự hợp tác của bạn!
Câu 1: Bạn có quan tâm đến nghề nghiệp trong tƣơng lai của bản
thân mình không? (Lựa chọn một đáp án trả lời)
Rất quan tâm
Quan tâm
Chưa quan tâm
Không quan tâm
Câu 2: Bạn thực sự có nhu cầu và luôn suy nghĩ về việc lựa chọn
nghề nghiệp cho mình từ khi nào ? (Lựa chọn một đáp án trả lời)
Trước khi vào lớp 10 (từ hồi học THCS)
Trong quá trình học PTTH (Từ lớp 10 đến lớp 12)
Khi làm hồ sơ thi Đại học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
Chưa có dự định gì về nghề.
Câu 3 : Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học bạn sẽ: (Lựa chọn
một đáp án trả lời)
Thi Đại học, Cao đẳng nếu không đỗ năm sau sẽ thi lại.
Thi Đại học, Cao đẳng nếu không đỗ sẽ đi học trung cấp chuyên
nghiệp hoặc học trường nghề.
Thi trung cấp chuyên nghiệp hoặc học nghề.
Đi làm luôn
Ý kiến khác
Câu 4 : Trong các ngành nghề dƣới đây, nếu đƣợc chọn bạn sẽ ƣu
tiên lựa chọn ngành nghề nào? (Lựa chọn một đáp án trả lời)
STT Ngành nghề Sự lựa chọn
1 Sư phạm
2 Y, Dược
3 Tài chính ngân hàng, quản trị kinh doanh,
4 Xây dựng, kiến trúc, giao thông
5 Văn hóa nghệ thuật, giải trí
6 Công nghệ thông tin, ngoại ngữ, điện tử viễn thông
7 Công an, quân đội
8 Hàng hải
9 Kinh tế, luật, đối ngoại
10 Ngành xã hội
11 Ngành khác:
12 Chưa lựa chọn được ngành
Câu 5: Lý do mà bạn chọn ngành nghề của mình là ( Có thể lựa
chọn nhiều đáp án).
Phù hợp với năng lực, sở trường, hứng thú, nhu cầu của bản thân
Thấy bạn bè và nhiều người chọn thì làm theo.
Có thu nhập cao và có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm.
Do gia đình định hướng
Thấy được ý nghĩa của nghề.
Nghề có chi phí học tập thấp
Nghề có thời gian học tập ngắn.
Nghề có nhiều người theo học, theo xu hướng của xã hội
Nghề được xã hội đề cao
Nhằm thoát ly nông thôn
Ý kiến khác(ghi rõ):……………………………………………….
Câu 6: Yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến việc lựa chọn ngành nghề
tƣơng lai của bạn đó là: ( Có thể lựa chọn nhiều đáp án)
Gia đình
Bạn bè
Hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường
Các phương tiện thông tin đại chúng
Hiểu biết của bản thân về ngành nghề đã chọn
Thấy thực sự hứng thú, yêu thích ngành nghề đó.
Tấm gương của các thầy cô giáo
Lý do khác(ghi rõ)…………………………………………………
Câu 7: Khi lựa chọn nghề bạn quan tâm đến những vấn đề gì sau
đây (Có thể lựa chọn nhiều đáp án)
1. Nhu cầu, sở thích, hứng thú của bản thân với nghề
2. Thu nhập
3. Khả năng thăng tiến của nghề
4. Cơ hội việc làm sau khi ra trường
5. Sự ủng hộ, đồng tình của gia đình
6. Sự đánh giá của xã hội về nghề đó
7. Vị thế xã hội của nghề
Câu 8: Bạn thƣờng trao đổi, tâm sự và hỏi ý kiến của ai khi lựa
chọn nghề nghiệp cho mình (Có thể lựa chọn nhiều đáp án)
Gia đình
Bạn bè
Thầy cô giảng dạy những người làm công tác hướng nghiệp
Trung tâm tư vấn hướng nghiệp
Không cần hỏi ý kiến của ai, tự quyết định
Câu 9: Bạn có hay trao đổi với bạn bè về định hƣớng nghề nghiệp
sau khi tốt nghiệp THPT không? (Lựa chọn một đáp án)
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
Câu 10: Theo bạn để có một nghề nghiệp ổn định, có thu nhập cao
thì vai trò của yếu tố sau là nhƣ thế nào? (Có thể lựa chọn nhiều đáp án)
STT Các yếu tố Lựa chọn
1 Học giỏi, có năng lực
2 Gia đình có điều kiện, cha mẹ có chức quyền
3 May mắn
4 Có quan hệ xã hội tốt
5 Sự nỗ lực và chăm chỉ của bản thân
6 Bằng cấp, được đào tạo chính quy, bài bản
7 Yếu tố khác:
Câu 11: Những khó khăn bạn gặp phải khi lựa chọn nghề nghiệp
đó là: (Có thể lựa chọn nhiều đáp án)
Không được tư vấn nghề
Công tác hướng nghiệp không hiệu quả
Không biết thông tin đầy đủ về nghề
Thích một lúc nhiều nghề
Chưa xác định được hứng thú với nghề nào
Gia đình không ủng hộ sự lựa chọn nghề nghiệp của bạn
Sức khỏe của bạn không phù hợp với nghề
Năng lực không phù hợp với nghề
Kinh tế gia đình khó khăn
Ý kiến khác:……………………………...............................................
…………………………………………………………………………
Câu 12: Gia đình có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến sự lựa chọn nghề
nghiệp của bạn? (Lựa chọn một đáp án)
Tư vấn, góp ý, trao đổi thông tin để bạn tự lựa chọn
Cha mẹ lựa chọn nghề nghiệp cho bạn
Bạn và các thành viên trong gia đình cùng bàn bạc và đưa ra quyết định
Gia đình bạn để tự bạn tìm hiểu và lựa chọn
Ý kiến khác:……………………………………………………………………
Câu 13: Bạn tìm kiếm thông tin về nghề nghiệp qua các nguồn
nào?( Có thể lựa chọn nhiều đáp án)
Bố mẹ, anh chị, họ hàng
Thầy cô
Bạn bè cùng trường
Những người đã thành đạt
Truyền thông đại chúng( báo chí, tivi, internet, sách báo…)
Nguồn thông tin khác:
Câu 14: Đối với bạn công tác hƣớng nghiệp trong nhà trƣờng có ý
nghĩa nhƣ thế nào? (Lựa chọn một đáp án)
Rất quan trọng và cần thiết
Cần thiết
Không quan trọng
Câu 15: Bạn đánh giá nhƣ thế nào về công tác hƣớng nghiệp trong
nhà trƣờng hiện nay? (Lựa chọn một đáp án)
Được quan tâm, tổ chức tốt, có hiệu quả
Ít được quan tâm, tổ chức một cách qua loa đại khái
Không thực hiện không quan tâm
Câu 16: Bạn mong muốn công tác hƣớng nghiệp sẽ giúp bạn? (Lựa
chọn một đáp án)
Nhận thức đầy đủ thông tin về nghề
Biết được năng lực của bản thân để có một sự lựa chọn phù hợp
Giúp bạn xác định được sự quan tâm hứng thú đối với một ngành nghề
nào đó
Câu 17: Theo bạn hoạt đông hƣớng nghiệp trong trƣờng PTTH
nhằm: (Có thể chọn nhiều đáp án)
Giúp cho học sinh chọn đúng nghề trên cơ sở của sự phù hợp giữa
năng lực, nhu cầu, sở thích với nhu cầu tuyển dụng lao động của xã hội
Cung cấp cho học sinh những thông tin về nghề
Cung cấp thông tin cho học sinh một số ngành nghề của các trường
ĐH, CĐ, THCN
Ý kiến khác:
Câu 18: Trong các giờ học, giờ ngoại khóa, sinh hoạt bàn về công
tác hƣớng nghiệp bạn đã: (Lựa chọn một đáp án)
Thực sự chú ý nghe và trao đổi ý kiến với thầy cô về định hướng
nghề nghiệp của bản thân
Có quan tâm, nhưng ít trao đổi thông tin
Không quan tâm vì thấy không thực sự cần thiết
Câu19: Khi bạn lựa chọn nghề nghiệp, bạn có quan tâm đến nhu
cầu tuyển dụng của địa phƣơng không?
Có Không
Câu 20: Địa phƣơng của bạn có quan tâm đến công tác hƣớng
nghiệp cho học sinh THPT không?
Có Không
Câu 21: Hoàn cảnh gia đình có tác động đến sự lựa chọn nghề
nghiệp của bạn không:
Có
Không
Câu 22: Kinh tế gia đình bạn thuộc mức độ nào sau đây:
Giàu có
Khá giả
Trung bình
Hộ nghèo, khó khăn
Xin bạn cho biết một số thông tin cá nhân:
Họ và tên:……………………. Nam/ Nữ……………………………………
Học lớp:……………………… Trường PTTH:………………………………
Học lực của bạn thuộc loại nào:……………………………………………
Sức khỏe hiện nay của bạn có tốt không?.................................................
Khối thi, ngành thi mà bạn lựa chọn:………………………………………
Nếu bạn lựa chọn học nghề thì bạn sẽ chọn nghề gì? Tại sao…………...
……………………………………………………………………………………
Nghề nghiệp của bố bạn?..........................................................................
Nghề nghiệp của mẹ bạn?.........................................................................
Trình độ học vấn của bố bạn?...................................................................
Trình độ học vấn của mẹ bạn?..................................................................
Bố mẹ có đồng ý với sự lựa chọn của bạn không?
PHỤ LỤC 2
1. Hƣớng dẫn phỏng vấn sâu
1.1 Phỏng vấn học sinh PTTH
Giới tính của bạn là nam/ nữ?
Học lực hiện tại của bạn? Sức khỏe của bạn?
Bạn tự đánh giá mình thuộc tuýp người năng động, cởi mở hay thuộc tuýp
người khép kín, nội tâm?
Bạn có tham dự vào kì thi ĐH, CĐ khi tốt nghiệp PTTH ko?
Bạn dự định thi vào trường nào? Thuộc khối ngành nào? Vì sao bạn lựa chọn
con đường này?
Nếu không thi ĐH, CĐ bạn có đi học nghề không? Nếu có bạn sẽ học nghề
gi? Nêu rõ lí do?
Bạn có yêu thích, hứng thú với ngành nghề đã chọn không?
Nghề nghiệp của bạn có ý nghĩa xã hội như thế nào?
Gia đình bạn có ủng hộ sự lựa chọn của bạn không? Gia đình bạn có ai đang
làm công việc mà bạn đang lựa chọn không?
Bạn bè của bạn có ai có cùng sự lựa chọn như bạn?
Nghề của bạn chọn có được xã hội, địa phương nơi bạn sinh sống cần tuyển
dụng không?
Bạn gặp phải những khó khăn gì trong quá trìh định hướng nghề nghiệp?
Yếu tố nào chi phối nhiều nhất đến sự lựa chọn của bạn?
Bạn định hướng nghề nghiệp của mình từ khi nào? Từ khi bắt đầu định
hướng nghề cho đến thời điểm hiện tại bạn có sự thay đổi nào trong việc lựa chọn
nghề ko?
Bạn đánh giá như thế nào về công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ
thống hiện nay? Bạn thấy công tác hướng nghiệp trong nhà trường hiện nay có thực
sự cần thiết không?
1.2 Phỏng vấn giáo viên
Thầy cô công tác ở trường được bao nhiêu năm? Thầy cô có làm công tác
chủ nhiệm không?
Theo thầy cô thì yếu tố nào là quan trọng nhất đã tác động đến sự lựa chọn
nghề nghiệp của các em?
Theo thầy cô thì sau khi tốt nghiệp PTTH học sinh thường có xu hướng gì? (
Học lên ĐH, CĐ hay đi học nghề, TCCN)
Theo thầy cô hiện nay nghề nào được học sinh ưu tiên lựa chọn?
Thầy cô nhận thấy công tác hướng nghiệp ở nhà trường hiện nay như thế nào?
Thầy cô có thường xuyên tham gia vào công tác hướng nghiệp cho học sinh không?
Những khó khăn mà thầy cô gặp phải khi tham gia công tác hướng nghiệp
cho học sinh?
Theo thầy cô thì công tác hướng nghiệp có thực sự cần thiết với học sinh không?
Các em học sinh tỏ thái độ gì khi được các thầy cô tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp?
Một vài suy nghĩ của thầy cô về định hướng nghề nghiệp của các em học
sinh hiện nay?
1.3 Phỏng vấn sâu cha mẹ học sinh
Trình độ học vấn của ông bà? Ông bà đang làm công việc gì? Mức sống của
gia đình?
Theo ông bà thì việc định hướng nghề nghiệp cho con cái có cần thiết hay
không?
Ông bà có thường xuyên trò truyện, tham mưu, cố vấn cho con cái mình
trong lĩnh vực học tập không? Ông bà có để con cái tự quyết định nghề nghiệp của
mình không?
Sau khi con cái tốt nghiệp PTTH ông bà muốn con tiếp tục học lên ĐH, học
nghề, hay đi làm luôn?
Nếu con ông bà dự thi ĐH không đỗ ông bà có ý định cho con mình học
TCCN hay học nghề không?
Ông bà muốn con mình làm nghề gì? Ông bà có áp đặt mong muốn ấy lên
con mình hay không?
Ông bà có quan tâm đến công tác hướng nghiệp trong nhà trường hiện nay
không? Theo ông bà công tác này có thực sự hiệu quả không?
PHỤ LỤC 3
Một số buổi tập huấn nhằm tìm hiểu và nâng cao hiểu biết của học sinh về
nghề nghiệp.
Bài 1: NGHỀ TƢƠNG LAI CỦA TÔI
I. Mục tiêu
1. Giải thích được cơ sở chọn nghề có sự phù hợp giữa yêu cầu nghề nghiệp với
năng lực bản thân và nhu cầu xã hội.
2. Lập được bản kế hoạch nghề nghiệp tương lai, phù hợp với năng lực và hứng
thú của bản thân.
3. Chủ động tự tin trong việc đề ra kế hoạch và ước mơ của mình.
II. Nội dung cơ bản
Hoạt động hƣớng nghiệp /hs Nội dung cần đạt
Định hướng và phát phiếu
điều tra cho học sinh thực
hiện.
1 Dự định nghề nghiệp tương lai của học sinh
phổ thông
( Học sinh thực hiện các phiếu điều tra xu hướng
nghề nghiệp)
2. Những đặc điểm của hứng thú nghề nghiệp
học sinh
Họ tên...................................
PHIẾU ĐIỀU TRA XU HƢỚNG NGHỀ CỦA HỌC SINH
Em hãy đọc, suy nghĩ và trả lời câu hỏi
1. Hãy kể tên những nghề mà em biết
1 6
2 7
3 8
4 9
5 10
2. Trong những nghề đó em thích nhất nghề nào? Tại sao?
Vì:.............................................................................................................................
..................................................................................................................................
3. Sau khi tốt nghiệp phổ thông em chọn cho mình những hướng đi nào trong các
hướng sau
* Thi vào đại học.........................................
* Học nghề.................................................
* Vừa học, vừa làm......................................
* Đi làm ngay để giúp gia đình.........................
4. Nếu phải xin ý kiến về nghề tương lai em sẽ hỏi ai trong số những người
sau?
* Cha , mẹ..................................................... * Giáo viên chủ nhiệm...................
* Bạn thân.................................................... * Anh, chị ....................................
5. Trong học kì vừa qua học lực của em được xếp loại nào? (Giỏi , khá, TB ,
Yếu)
………………………………………………………………………………….
6. Trong các môn họ ở trường em thích học môn nào nhất ? (Kể tên 3 môn)
(1).................................................... (2) ..........................................................
(3) ................................................
7. Ngoài thời gian học ở trường em có sở thích
gì?.............................................................................................................................
8. Em hãy tự đánh giá điểm mạnh , yếu của bản thân ( học lực, sức khoẻ, khéo
tay , năng khiếu, hoàn cảnh gia đình, truyền thống gia đình...)
-Điểm mạnh.............................................................................................................
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………..............
-Điểm yếu...............................................................................................................
………………………………………………………………………………………………
Hoàn cảnh gia đình..............................................................................................
...............................................................................................................................
Họ tên:
Lớp:
BẢN KẾ HOẠCH NGHỀ NGHIỆP TƢƠNG LAI
1. Họ và tên..........................................................................Nam( Nữ)...................
2. Ngày sinh............................................................................................................
3. Lớp..................Trường......................................................................................
4. Sau khi tốt nghiệp phổ thông , em dự định sẽ chọn nghề gì? Lí do chọn nghề
đó?
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
5. Em hiểu biết gì về yêu cầu của nghề đó đối với người lao động ?
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
6. Em có kế hoạch gì để đạt được ước mơ của mình?
* Về kết quả học tập:
Lớp Kết quả học tập
Lớp 10
Lớp 11
Lớp 12
* Về rèn luyện sức khoẻ
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
* Về tu dưỡng đạo đức
………………………………………………........................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
Giới thiệu một số ngành nghề trong xã hội
Bài 2: NGHỀ DẠY HỌC
<1> ý nghĩa và tầm quan trọng của nghề dạy học
- Sơ lược lịch sử hình thành nghề dạy học:
+ Nghề dạy học có từ ngàn xưa.
+ Con người truyền thụ kiến thức cho nhau dưới dạng cha truyền con nối.
+ Xã hội phát triển, việc truyền thụ kiến thức giữa người với người tiến bộ theo.
Đến ngày nay là hình thức trường lớp.
- Ý nghĩa kinh tế:
+ Nhân tài là nguyên khí quốc gia.
+ Phát triển con người chính là nguồn gốc cho phát triển kinh tế bền vững. Đảng
và Nhà nước ta luôn coi: “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu”.
+ Đội ngũ trí thức đóng góp quan trọng cho bước tăng trưởng Tổng sản phẩm
trong nước (GDP), nước ta vài năm trở lại đây luôn ở mức cao (từ 6,5%-
8%/năm).
- ý nghĩa chính trị xã hội:
+ Không có nghề dạy học và người thầy giáo dễ nhận thấy là: xã hội mất
ổn định, kinh tế trì trệ, đất nước tụt hậu.
+ Nước ta có truyền thống “Tôn sư trọng đạo” và “Không thầy đố mày
làm nên”. Vì thế “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”
(Phạm Văn Đồng) và “Dưới ánh sáng mặt trời này không có nghề nào cao quý
bằng nghề dạy học” (Comenxki).
<2> Đặc điểm lao động và yêu cầu của nghề dạy học: nghề dạy học rất phong
phú và đa dạng về chuyên môn: giảng viên đại học, cao đẳng, gíáo viên phổ
thông; chuyên môn khác nhau: Toán, Văn, Sử, Lý, Hóa…
- Đối tượng lao động là con người - đặc biệt.
- Nội dung lao động của nghề dạy học:
+ Trước hết, giáo viên phải thực hiện nghiêm túc kế hoạch giảng dạy và chương
trình môn học do các cơ quan quản lí cấp trên ban hành.
+ Lập đề cương bài giảng và kế hoạch bài giảng.
+ Tiến hành bài giảng và vận dụng các hình thức, phương pháp giảng dạy và
giáo dục trong giờ lên lớp.
+ Tìm hiểu nhân cách học sinh.
- Công cụ (hay phương tiện) lao động: chủ yếu là ngôn ngữ nói, viết và các thiết
bị dạy học.
- Các yêu cầu về tâm- sinh lí của nghề dạy học.
+ Phẩm chất đạo đức của người giáo viên phải được thể hiện trước hết ở
sự giác ngộ lí tưởng cách mạng, có lòng nhân ái, yêu thương con người, yêu
nghề, yêu trẻ.
+ Năng lực sư phạm bao gồm năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng
lực tổ chức.
+ Một số phẩm chất tâm lí khác: trang phục, ngôn ngữ, hành động, năng
khiếu.
- Điều kiện lao động và chống chỉ định y học:
+ Điều kiện lao động - lao động trí óc.
+ Chống chỉ định y học: người dị dạng, khuyết tật, nói ngọng… không nên
vào nghề dạy học.
<3> Vấn đề tuyển sinh vào nghề dạy học
- Giới thiệu các cơ sở đào tạo (một số trường sư phạm). VD như trường ĐH Hải
Phòng.
- Điều kiện tuyển sinh theo tiêu chuẩn tuyển sinh và chỉ tiêu tuyển sinh cho từng
loại trường.
- Triển vọng của nghề dạy học và nơi làm việc. Nước ta có trên 26000 trường
phổ thông các loại.
Bài 3. TÌM HIỂU MỘT SỐ NGHỀ THUỘC NÔNG, LÂM, NGHƢ NGHIỆP
I. Mục tiêu
1. Nêu được ý nghĩa, vị trí, đặc điểm, yêu cầu, nơi đào tạo, triển vọng phát triển
và nhu cầu lao động của ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Mô tả được cách
tìm hiểu thông tin nghề.
2. Tìm được thông tin cơ bản của một nghề thuộc lĩnh vực nông,lâm,ngư nghiệp.
3. Tích cực chủ động tìm hiểu thông tin nghề.
II. Nội dung cơ bản
1. Sơ lƣợc lịch sử phát triển nghề
- Việt Nam là một nước sản xuất nông nhgiệp hàng ngàn năm qua; sản xuất lúa
giữ vai trò trọng yếu.
- Nước ta có bờ biển dài hơn 2000 km, việc đánh bắt hải sản đã có từ lâu đời.
- Rừng chiếm một diện tích lớn nên nước ta cũng phát triển nhiều nghề ; khai
thác gỗ,bào chế dược liệu từ nhiều loại cây trên rừng....
* Trước đây ; phương thức canh tác lạc hậu, trình độ dân trí thấp, cùng với chế
độ bóc lột hà khắc của địa chủ nên nhân dân không được hưởng lời những hoa
màu do mình làm ra.
* Sau CMT8: ruộng đất về tay dân cày; người dân nhanh chóng thoát khỏi đói
nghèo.
* Đại hội Đảng lần thứ XI năm 1986; đã đề xướng chủ chương đường lối “đổi
mới” lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp....làm cho các nghề nÀy phát triển mạnh
mẽ.
- Chuyển đổi nước ta từ một nước nông nghiệp sang một nước có nền công
nghiệp phát triển, hoàn thành vào năm 2020.
2. Sự phát triển các lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp trong gia đoạn 2001-
2005
- Tốc độ tăng trưởng, trị giá toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp đạt bình quân
5,1%, vượt chỉ tiêu kế hoạch 0,3 %.
- Do áp dụng nhiều biện pháp kĩ thuật nên xuất hiện nhiều cánh đồng đạt 50 triệu
/ha.
+ Có nhiều giống lúa mới cho năng xuất cao;
+ Các loại sắn, ngô lai, tương, lạc đậu có năng xuất cao,...
+ Cây công nghiệp: trà đắng, cà fê, mía, keo tai tượng, thông đuôi ngựa,....
+ Chăn nuôi đóng vai trò quan trọng, chiếm 20% tổng giá trị sản phẩm nông
nghiệp.
- Thuỷ sản; thành công trong việc nuôi tôm sú, tôm càng xanh, cá chim trắng, cá
bống tượng....
* Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, đến năm 2005 tỉ
trọng giá trị các nghề này đạt 20,5%
- Đóng góp:
+ Làm cho mức tăng trưởng chung về kinh tế được đảm bảo;
+ Thực hiện an toàn lương thực nước ta, xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội;
+ Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thuỷ sản là chủ lực (gạo đứng thứ
2 trên thế giới về xuất khẩu).
3. Hƣớng phát triển các lĩnh vực nông lâm, ngƣ nghiệp
Đẩy mạnh, nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2010 tỉ trọng giá trị kinh tế của ngành đạt
15- 16% GDP hàng năm.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn trên cơ sở đẩy mạnh công nghệ sinh
học,... phát triển nhiều nghề mới thuộc lĩnh vực này.
Xây dựng cơ cấu ngành nghề hợp lí trên địa bàn nông nghiẹp và nông thôn
như sau
- Phát triển các cây công nghiệp; cà fê cao su, chè, thuốc lá, bông,...
- Hình thành các vùng rau quả có chất lượng cao.
- Nâng cao chất lượng hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm, mở rộng phương
pháp nuôi công nghiệp
- Coi thuỷ sản là một ngành kinh tế mũi nhọn
3. Phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn
- Hình thành các điểm công nghiệp ở nông thôn mở rộng quy mô số lượng gắn
với các mặt hàng xuất khẩu.
- Mức phấn đấu
+ Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 40 triệu tấn /năm
+ Tỉ trọng nông, lâm, ngư nghiệp đạt 15 - 16% trong GDP.
+ Bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên năn độ che phủ của rừng lên 45% năm 2010.
+ Nâng tỉ trọng kinh tế phi nông nghiệp lên 40% năm 2005 và 50% năm 2010.
IV. Đặc điểm lao động và yêu cầu của nghề trong lĩnh vực nông lâm, ngƣ
nghiệp
1. Đối tượng lao động
- Là những cây trồng đa dạng.
- Những loài vật nuôi.
- Các lọai thuỷ hải sản nuôi hoặc đánh bắt.
2. Nội dung lao động
Tận dụng hợp lí đất đai để sản xuất ra mặt hàng nông sản, lâm sản, thuỷ hải
sản...nhằm phục vụ cho nhu cầu dinh dưỡng và tiêu dùng của con người.
3. Công cụ lao động
- Sử dụng công nghiệp hoá,hiện đại hoá các công cụ lao động cơ giới hoá vào
cản xuất nông nghiệp.....
- Áp dụng công nghệ sinh học trong sản xuất, công nghệ gia công và chế biến
sản phẩm...
4. Các yêu cầu của nghề
- Phải có niềm đam mê, yêu thích.
- Phải tính đến năng lực và trình độ kiến thức sinh học.
- Phải có sức khoẻ dẻo dai, bền bỉ trong lao động.
5. Điêù kiện lao động
- Thường xuyên phải làm việc ngoài trời.
- Cần phải có sức chịu đựng cao để chống với thời tiết khắc nghiệt.
6. Những chống chỉ định y học
Những người mắc các bệnh sau không nên:
- Bệnh phổi.
- Bệnh suy thận mãn tính.
- Bệnh thấp khớp.
- Bệnh ngoài da....
V. Giới thiệu một số cơ sở đào tạo
1. Các trường đào tạo công nhân kĩ thuật
- Trường công nhân kĩ thuật cơ khí;
- Trường công nhân kĩ thuật Lâm nghiệp.
- Trường công nhân cơ khí Nông nghiệp.
- Trường công nhân kĩ thuật Thuỷ sản.
- Trường công nhân kĩ thuật Lâm nghiệp.
2. Các trường trung cấp chuyên nghiệp
- Trường trung cấp Kĩ thuật Công nghiệp thực phẩm.
- Trường trung cấp Lâm nghiệp.
- Trường trung cấp nghiệp vụ quản lí lương thực - thực phẩm.
- Trường trung cấp thuỷ sản.
3. Một số trường đại học
- Trường Đại học Nông Nghiệp.
- Trường Đại học Lâm Nghiệp.
- Trường Đại học Nông - Lâm.
- Trường Đại học Nông - Lâm.
- Trường Đại học Nông - Thuỷ sản Nha Trang.
Bài 4. TÌM HIỂU MỘT SỐ NGHỀ THUỘC NGÀNH XÂY DỰNG
I- Mục tiêu
1. Hiểu được vị trí và vai trò của một số nghề thuộc ngành xây dựng.
2. Một số thông tin cơ bản về ngành xây dựng.
3. Hiểu và trình bày được một số nghề thuộc ngành xây dựng.
4. Có ý thức liên hệ với bản thân trong việc chọn nghề.
Nội dung cơ bản
I.Vị trí, nhiệm vụ của ngành xây dựng
* Lịch sử phát triển ngành xây dựng cÓ từ rất lâu đời, hàng ngàn năm trước công
nguyên.
- Con người có nhu cầu: ăn ở, đi lại,... và ngành xây dựng hình thành phục vụ
những nhu cầu đó của con người và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong xã hội.
- Phục vụ nhu cầu giao thông Đi lại của con người.
- Phục vụ nhu cầu của tất cả các ngành nghề trong cuộc sống.
* Các ngành nghề thuộc ngành xây dựng có nhiệm vụ tạo ra cơ sở hạ tầng cho
các hoạt động lao động sản xuất, sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người
II. Các nhóm nghề cơ bản của ngành Xây dựng
* Dựa trên cơ sở mục đích sử dụng của những công trình, có các nhóm nghề cơ
bản sau;
- Xây dựng dân dụng và công nghiệp.
- Xây dựng cầu đường
- Xây dựng công trình đường thuỷ
- Xây dựng công trình biển và dầu khí
- Công nghệ vật liệu xây dựng và cầu kiện xây dựng
- Kĩ thuật môi trường
- Kinh tế xây dựng
- Kiến trúc
- Tin học xây dựng
III. Đặc điểm lao động và yêu cầu của nhóm nghê xây dựng dân dụng và
công nghiệp
1. Đối tượng lao động
- Được xác định theo từng chuyên môn trong nghề xây dựng dân dụng và xây
dựng công nghiệp.
2. Nội dung lao động của nghề
* Giai đoạn chuẩn bị xây dựng:
- Xác định mục đích sử dụng của các công trình;
- Yêu cầu của công trình về công nghệ, khảo sát, thiết kế, kí kết các hợp đồng
chuẩn bị;
* Giai đoạn thi công xây lắp;
- Thực hiện ý đồ xây dựng theo thiết kế đã chuẩn bị cho hoàn chỉnh; gồm các
công đoạn sau :
+ Công đoạn đào, san lấp đất;
+ Công đoạn xây dựng phần công trình ngầm;
+ Công đoạn xây dựng phần thô của công trình;
+ Công đoạn xây dựng hoàn thiện công trình;
3. Công cụ lao động
- Công cụ, cuốc, xẻng, bay.....khoan, máy đàm, máy nén, máy trộn bê tông, cần
cẩu nâng....
- Các nhóm :
+ Nhóm công cụ lao động chính;
+ Nhóm công cụ phụ trợ;
+ Nhóm công cụ chuyên chở;
4. Các yêu cầu của nghề đối với lao động
* Về kiến thức :
- Có kiến thức chung về ngành nghề xây dựng cơ bản;
- Hiểu biết về kĩ thuật và vật liệu xây dựng;
- Hiểu biết về cơ học công trình và chịu lực công trình;
- Hiểu những kiến thức gia công cụ thể về chuyên môn của mình;
- Hiểu biết về an toàn lao động;
* Về kĩ năng nghề nghiệp;
- Đọc được bản vẽ xây dựng
- Có kĩ năng phối hợp lao động theo nhóm;
-Sử dụng thành thạo công cụ lao động;
- Sáng tạo trong lao động;
* Những yêu cầu về tâm sinh lí :
- Đòi hỏi tính kiên trì, linh hoạt và chính xác ;
- Phải có năng khiếu mĩ thuật;
-* Đạo đức nghề nghiệp;
- Có lương tâm, trung thực, có lòng yêu thương người sản xuất và sử dụng công
trình lâu dài;
- Có ý thức an toàn lao động;
* Về sức khoẻ :
- Sức khoẻ phải tốt, thường xuyên có mặt tại công trình bất cứ lúc nào.
5. Điều kiện lao động và chống chỉ định y học
- Các công trình xây dựng chiếm nhiều không gian.
- Môi trường làm việc ngoài trời, trên cao trong mọi điều kiện thời tiết.
- Phải di chuyển địa điểm làm việc thường xuyên.
IV. Triển vọng phát triển của nghề
1. Xu thế phát triển mạnh mẽ của các nghề trong ngành xây dựng
- Xây dựng phát triển do quá trình đô thị hoá diễn ra hàng ngày, ở cả nông thôn.
- Sự hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, đòi hỏi nhu cầu các cơ sở sản
xuất, hạ tầng, nhà ở cho công nhân.
- Sự phát triển của hệ thống giao thông công chính.
2. Những tiến bộ kĩ thuật và công nghệ mới trong ngành xây dựng
- Sự phát triển nhanh về công nghệ xây dựng nhà cao tầng, xây lắp điện, nhà
máy nhiệt điện và thuỷ điện....
- Sự phát triển đội ngũ công nhân,cán bộ của ngành xây dựng.
- Sự phát triển của công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng, vật liệu công nghệ,...
V. Giới thiệu các cơ sở đào tạo và điều kiện tuyển sinh
- Trường Đại học Xây dung.
- Trường Đại học Kiến trúc.
- Trường Đại học Thuỷ lợi.
- Trường Đại học Giao thông.
- Trường Đại học Hàng hải.
Bài 5 TÌM HIỂU HỆ THỐNG CÁC TRƢỜNG TCCN, CĐ, ĐH
VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ CỦA TRUNG ƢƠNG VÀ ĐỊA PHƢƠNG.
I. Mục tiêu
- Giúp học sinh thấy được sự phát triển của hệ thống các trường TCCN và đào
tạo nghề ở nước ta.
- Học sinh thấy được những thông tin cơ bản về hệ thống các trường, hình thức
đào tạo của các trường ở TW và địa phương.
II. Nội dung cơ bản
Hoạt động 1: Hệ thống các trƣờng trung cấp chuyên nghiệp (TCCN)
1. Sơ lược về sự phát triển các trường TCCN ở nước ta.
2. Hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp.
a. Tầm quan trọng và nhiệm vụ của trường TCCN.
Đặt vấn đề: Trường TCCN có tầm quan trọng và nhiệm vụ như thế nào?
- Nhiệm vụ: Đào tạo những cán bộ có trình độ trung cấp, kỹ thuật kinh tế, văn
hoá nghệ thuật, thể thao… Hướng dẫn công nhân thực hiện theo quy trình công
nghệ hoặc thực hiện từng phần, có vai trò quan trọng.
b. Các loại hình trường TCCN.
Đặt vấn đề: Trường TCCN có các loại hình nào?
Có 407 cơ sở đào tạo TCCN với 361 trường và 121 hệ trong các trường ĐHCĐ
- Theo cấp quản lý: Có trường TCCN của địa phương và của trung ương.
- Theo sở hữu: Có trường công lập, dân lập, bán công , tư thục.
- Hiện nay các thành phố có nhiều trường TCCN nhất là: Hà Nội và Thành Phố
Hồ Chí Minh.
- Theo ngành thì có các khối sau:
Nêu vấn đề để HS thảo luận: Theo ngành thì có các khôi trường nào? Kể tên?
- Khối trường công nghiệp – Khối trường xây dựng.
- Khối trường nông- lâm – ngư nghiệp.
- Khối trường giao thông- bưu điện.
- Khối trường kinh tế – dịch vụ.
- Khói trường văn hóa nghệ thuật.
- Khối trường sư phạm .
- Các khôí trường khác.
c. Hình thức đào tạo và và điều kiện tuyển sinh
Theo em hình thức đào tạo các trường TCCN có những hình thức nào?
- Hình thức: Đa dạng, mềm dẻo, liên thông với các bậc ĐH-CĐ.
- Có hai hình thức đào tạo là chính quy và và tại chức:
+ Hình thức đào tạo chính quy: Tập trung tại trường ít nhất 2 năm
Thời gian đào tạo là 2 đén 3 năm.
Môn thi: Toán - Lí, Toán – Hóa, Toán – Sinh, một số trường tuyển theo năng khiếu.
+ Hệ tại chức chuyên tu: Nâng cao nhưng không có điều kiện tập trung tại trường.
Hoạt động 2
Hệ thống các trƣờng nghề và các cơ sở đào tạo nghề
1. Sơ lược về sự phát triển của hệ thống đào tạo nghề của trung ương và địa
phương.
2. Tầm quan trọng và nhiệm vụ của trường dạy nghề và các cơ sở đào tạo nghề.
Các trường đào tạo nghề và các cơ sở đào tạo nghề có hai nhiệm vụ cơ bản:
- Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công nhân và nhân viên kỹ thuật nghiệp vụ
lãnh nghề.
- Phổ cập nghề cho thanh niên.
Hình thức đào tạo và điều kiện tuyển sinh.
- Hình thức đào tạo:
+ Hệ đào tạo dài hạn vàn ngắn hạn, đảm bảo tính mềm dẻo, đa dạng, mềm dẻo,
liên thông với các bậc ĐH-CĐ.
- Hệ dài hạn: Chính quy tập trung từ 1 đến 3 năm, nhìn chung không phải thi.
- Hệ đào tạo ngắn hạn: Theo nhu cầu người học.
- Điều kiện cụ thể là: Mọi công dân Việt Nam không phân bịêt lứa tuổi, giới
tính, trình độ đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp của công nhân.
Bài 6. CÁC NGUỒN THÔNG TIN GIÚP HỌC SINH TÌM HIỂU VỀ NGHỀ
NGHIỆP
1. Mục tiêu
Chỉ ra một số nguồn tìm kiếm thông tin chính để học sinh tiếp cận và lấy
thông tin về nghề nghiệp như :gia đình, thầy cô, bạn bè, truyền thông đại chúng.
2. Nội dung cơ bản.( Tìm hiểu các nguồn thông tin chính)
- Gia đình: Là những người gần gũi các em nhất. Vì vậy tìm kiếm thông tin
nghề nghiệp cũng như chia xẻ các vấn đề các em quan tâm về nghề nghiệp đối
với gia đình là một điều cần thiết. Gia đình bao gồm cha mẹ bao giờ cũng là
người chia xẻ với các em các nguồn thông tin đáng tin cậy và thiết thực. Và gia
đình (cha mẹ) là những người từng trải, có vốn hiểu biết xã hội nhiều. Vì vậy các
em có thể hỏi ý kiến và sẽ nhận được những tư vấn hợp lý từ gia đình.
- Bạn bè: Trong môi trường học tập học sinh sẽ thường xuyên tiếp xúc với
bạn bè. Và bạn bè là những người ở cũng lứa tuổi, cùng chung những đặc điểm
về tâm sinh lý lứa tuổi nên bạn bè dễ dàng cảm thông và chia xẻ với nhau.
- Thầy cô: Là những người làm công tác giảng dạy và thầy cô sẽ là kho kiến
thức khổng lồ để cho các em tham khảo ý kiến, cũng như lấy thông tin về nghề
nghiệp.
- Truyền thông đại chúng: trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì
báo chí, tivi, internet là những nguồn thông tin vô cùng phong phú. Việc tìm
kiếm thông tin qua các kênh phương tiện này cũng rất dễ dàng và thuận lợi.
Để có được một nghề nghiệp phù hợp thì học sinh THPT cần phải chủ động
và tích cực trong quá trình tìm kiếm thông tin. Có rất nhiều nguồn thông tin khác
nhau đến từ các cách tiếp cận khác nhau. Học sinh cần phải cởi mở và trực tiếp
trao đổi, chia xẻ những khúc mắc để có được những câu trả lời xứng đáng từ các
kênh thông tin ở trên.