cuoc doi va so menh - nguyen phuc vinh tung
TRANSCRIPT
Mục Lục sách "Cuộc đời và số mệnh"
Tác giả: NGUYỄN PHÚC VĨNH TÙNG
Đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào ?
Mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung
Mẫu người Thân Cư Phúc Đức
Mẫu người Thân Cư Quan Lộc
Mẫu người Thân Cư Thiên Di
Mẫu người Thân Cư Tài Lộc
Mẫu người Thân Cư Phu Thê
Mẫu người Mệnh Vô Chính Diệu
Mẫu người Tham Vũ Đồng Hành
Mẫu người Nửa Đời Nửa Đạo
Mẫu người Hà Tì Ngọc
Mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm
Mẫu người Thai Phục Vượng Tướng
Mẫu người Khốc Hư
Mẫu người Văn Tinh Ám Củng
Mẫu người Dịch Mã
Mẫu người Đài Các
Mẫu người Đào Hoa
Mẫu người Tài Mệnh Tương Đố
Mẫu người Bạch Thủ Thành Gia
Mẫu người Lưng Trời Gãy Cánh
Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể
Mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt
Mẫu người Cự Cơ Mão Dậu
Mẫu người Đa Tài Đa Năng
1
Như vậy, cải số được không ?
BÀI 1
ĐỜI NGƯỜI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC THÂN CƯ BẾN NÀO ?
Khi nói đến Dịch Lý, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh thì hầu hết
người Á Đông chúng ta ai cũng công nhận đó là những khoa học huyền bí rất
có giá trị của người Trung Hoa từ hơn bốn ngàn năm về trước. Nói là có giá
trị vì những khoa học này tuy gọi là huyền bí nhưng lại rất sát thực với cuộc
sống hiện tại và giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong những sinh hoạt hằng
ngày. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho chúng ta khi đang sống trên đời
biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa đổi cho tốt đẹp hơn căn nhà chúng ta đang ở,
cơ sở thương mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta buông tay từ giã
cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi để yên giấc ngàn thu. Quan niệm này
rất quan trọng đối với người xưa, vì đây không phải cho chính bản thân
chúng ta nữa mà cho con cháu chúng ta sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long
khi còn tại vị, ngài đã đích thân chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi vậy,
những triều vua về sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như vua Gia Long, lại
thêm lịch sử đã có nhiều biến chuyển, nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được
hơn 150 năm. Khoa Tướng Mệnh giúp chúng ta biết người, biết ta trong vấn
đề dùng người, kết bạn hoặc trong những việc giao dịch hằng ngày rất dễ
dàng, chỉ qua một cái bắt tay nhau, đối diện nhau trong vài giây phút hoặc
trao đổi với nhau vài câu chuyện mà có thể tránh được cái ân hận “lầm
người” như chúng ta thường thấy. Còn thâm sâu hơn, như khoa Tử Vi Đẩu
Số cũng giúp cho chúng ta biết mình, biết người một cách tường tận từ
những chi tiết nhỏ nhặt cho đến tổng quát cả một đời người...
Những khoa học huyền bí nêu trên tuy có đối tượng khác nhau, nhưng mục
đích giống nhau, ví dụ, đối tượng của khoa Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc
2
sống là nhà, là cơ sở làm ăn, lúc chết là mộ phần, còn đối tượng của khoa Tử
Vi Đẩu Số là con người, và cuộc đời của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc
chết. Còn điểm tương đồng là những lãnh vực mà các khoa này diễn đạt và
chi phối trong cuộc sống hằng ngày của một đời người. Chẳng hạn, khoa
Phong Thủy chia căn nhà của chúng ta ra làm 8 cung, mỗi cung là biểu tượng
một lãnh vực trong đời sống hằng ngày của chúng ta, đó là các cung Quan
Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo, cung Tài Lộc, cung Địa Vị, cung Tình
Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi cung là mỗi hướng của căn nhà.
Khoa Tử Vi cũng diễn đạt đời người qua 12 cung, cung Mệnh, cung Phụ Mẫu,
cung Phúc Đức, cung Điền Trạch, cung Quan Lộc, cung Nô Bộc, cung Thiên
Di, cung Tật Ách, cung Tài Lộc, cung Tử Tức, Cung Phu Thê, và cung Huynh
Đệ. Trong ba bộ môn, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh, thì Tử Vi là khoa
nặng về thiên mệnh hơn cả. Khi nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta
sẽ thấy rằng, một người sinh ra đời vào giờ nào, tháng nào và năm nào thì
cuộc đời của người này đã được an bài từ giây phút đó.
Bởi vậy, chúng ta có thể nói, đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào
thì cuộc đời của mình sẽ có sắc thái của bến mà thuyền đời mình đã buông
neo.
Khi nói khoa Tử Vi chia cuộc sống của một người thành 12 lãnh vực là chúng
ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh vực này thì lãnh vực nào sẽ nỗi bật nhất
trong cuộc đời của người ấy? Khoa Tử Vi diễn đạt điều này bằng cung thứ
mười ba, đó là cung Thân. Cung Thân không có một vị trí nhất định trong
Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên, mà vị trí của cung Thân tùy
thuộc vào giờ sinh của mỗi người và cung Thân chỉ đóng vào 1 trong 6 cung
chính yếu là cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc, cung
Thiên Di và cung Phu Thê mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh quan
3
hợp lý của xã hội phong kiến: cuộc đời một người lúc sinh ra đã bị chi phối
bởi số mệnh của mình (Thân cư Mệnh hay còn gọi là Thân Mệnh đồng cung),
khi ra đời thì bị chi phối bởi xã hội (Thân cư Thiên Di), bởi công danh sự
nghiệp (Thân cư Quan Lộc hay Thân cư Tài Lộc), bởi vợ chồng (Thân cư Phu
Thê) và bởi phúc đức của chính mình tạo ra hoặc thừa hưởng của ông bà cha
mẹ (Thân cư Phúc Đức), chứ không bị chi phối bởi con cái (Tử Tức), anh chị
em (Huynh Đệ) hoặc bạn bè hay người ăn người làm của mình (Nô Bộc)...
Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho rằng, trong 13 cung của một lá số thì cung
Mệnh và cung Thân là hai cung quan trọng nhất. Cung Mệnh nói lên nét tổng
quát cả cuộc đời của người đó và nhấn mạnh giai đoạn khởi đầu của cuộc
đời gọi là tiền vận, tức là từ lúc sinh ra cho đến đoạn đời trong khoảng 30
đến 36 tuổi và cung Thân là bức tranh của đoạn đời còn lại hay còn gọi là
hậu vận.
Bởi sự quan trọng của cung Thân như vậy, cho nên một nguyên tắc căn bản
của khoa Tử Vi là: “Thân cư cung nào thì cung đó sẽ là lãnh vực sinh hoạt
chính yếu trong cuộc đời của người đó”. Như chúng ta đã nói ở trên, Thân
chỉ ở vào 1 trong 6 cung chính và Thân an theo giờ sinh, cho nên những
người sinh vào giờ Tý hay giờ Ngọ thì Thân đóng ở cung Mệnh, gọi là Thân
cư Mệnh, hay Thân Mệnh đồng cung, những người sinh vào giờ Sửu hay giờ
Mùi thì Thân cư Phúc Đức, những người sinh vào giờ Dần hay giờ Thân thì
Thân cư Quan Lộc, những người sinh vào giờ Mão hay giờ Dậu thì Thân cư
Thiên Di, những người sinh vào giờ Thìn hay giờ Tuất thì Thân cư Tài Lộc và
những người sinh vào giờ Tỵ hay giờ Hợi thì Thân cư Phu Thê.
Từ ý nghĩa căn bản đó của khoa Tử Vi, khi biết một người sinh vào giờ nào,
chúng ta có thể phác họa được một nét tổng quát về cuộc đời của người này
4
sẽ như thế nào, và đó chính là một trong những sự kỳ diệu của khoa Tử Vi
Đẩu Số, một trong những khoa học huyền bí của người Trung Hoa đã có từ
hơn bốn ngàn năm trước. Và kỳ sau, chúng ta sẽ nói về những nét đặc điểm
và ý nghĩa về cuộc đời của những người có số Thân cư Mệnh, hay còn gọi là
mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung, tức là những người sinh vào giờ Tí, giờ
theo đồng hồ là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, hay những người sinh vào giờ
Ngọ, từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều.
BÀI 2
MẪU NGƯỜI “MỆNH THÂN ĐỒNG CUNG”
Nếu khoa Phong Thủy chia căn nhà ra làm 8 cung và mỗi cung là lãnh vực
trong đời sống con người, và cũng là biểu tượng của mỗi thành viên trong
gia đình, thì khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cùng một quan niệm như vậy. Khoa Tử
Vi còn chi tiết hơn chia lá số ra thành 12 cung và mỗi cung cũng là một nét
sinh hoạt, là một khoản thời gian nào đó của một đời người. Như chúng ta
đã nói ở chương trước, 12 cung của khoa Tử Vi theo thứ tự gồm có Mệnh,
Phụ Mẫu, Phúc Đức, Điền Trạch, Quan Lộc, Nô Bộc, Thiên Di, Tật Ách, Tài
Lộc, Tử Tức, Phu Thê, và Huynh Đệ. Nhưng thực tế một lá số không chỉ có 12
cung mà còn có một cung thu 13 gọi là cung Thân. Đặc biệt cung Thân không
đóng riêng rẽ ở một vị trí nào trên lá số mà nó luôn luôn đóng chung với 1
trong sáu cường cung là Mệnh, Tài, Quan, Phúc, Di hoặc Phu Thê.
Trong 13 cung, cung Mệnh và cung Thân là quan trọng nhất. Đầu tiên là cung
Mệnh. Khi nói về chữ “mệnh” chúng ta thấy nó mang nhiều ý nghĩa khác
nhau. Cái ý nghĩa thứ nhất của chữ mệnh đó chính là bản thân của đương
số. Xung quanh cuộc đời của cá nhân đương số còn có cha mẹ (Phụ Mẫu),
5
anh em (Huynh Đệ) vợ chồng (Phu Thê) con cái (Tử Tức) rồi tới bạn bè đồng
nghiệp, thuộc hạ (Nô Bộc) và cả cái xã hội mà đương số phải đương đầu va
chạm hằng ngày (Thiên Di)
Ý nghĩa thứ hai của chữ “mệnh” là Thiên Mệnh, là số trời, là cái quan niệm
mỗi người sinh ra vào giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào thì cuộc đời đã
được an bài sắp đặt sẳn rồi. Bởi vậy Mệnh được xem như nền móng của một
căn nhà. Nếu nền móng không vững chắc, kiên cố thì những gì xây dựng trên
đó cũng không thể nào tồn tại lâu dài được. Đó là trường hợp của những
người có các cung chính như Quan Lộc, Tài Bạch, Diền Trạch v.v….. tốt đẹp,
sáng sủa, nhưng Mệnh yếu thì tiền tài, danh vọng, của cải cũng chỉ như cái
bóng to lớn trên tường mà thôi.
Tuy nhiên, dù là môn khoa học huyền bí nhưng ngoài quan niệm chủ yếu
“Thiên Mệnh” khoa Tử Vi không quên một yếu tố thứ hai sẽ dự phần vào đời
người, đó là quan niện “nhân định” Vì thế Tử Vi Đẩu Số mới có một cung di
động gọi là cung Thân, là cung quan trọng thứ nhì trong một lá số.
Khoa Tử Vi cho rằng cung Mệnh là căn bản của một đời người. Nhưng cung
Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào giai đoạn của một đời người hay gọi là
”tiền vận”. Tiền vận là khoản thời gian từ lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi.
Nhưng có người tính tiền vận theo Cục. Ví dụ:
Thủy Nhị Cục thì tiền vận từ 1 đến 32 tuổi
Mộc Tam Cục thì tiền vận từ 1 đến 33 tuổi
Kim Tứ Cục …..…..…..…..…....1 đến 34 tuổi
Thổ Ngủ Cục…..…..…..…..….. 1 đến 35 tuổi
Hỏa Lục Cục ..…..…..…..…..…..1 đến 36 tuổi
6
Chúng ta thấy quan niệm này của Tử Vi rất hợp lý vì con người từ lúc sinh ra
cho đến khoản 30 tuổi hầu như sống dưới mái ấm của gia đình, bên cạnh
tình thương yêu của cha mẹ, và sự dùm bọc của anh em. Mãi cho đến khi 30
tuổi trở lên là lứa tuổi trung bình cho hầu hết mọi người để tự lập thân,
bước chân vào bương trải với đời. Đó là lúc ứng vào cung Thân của lá số.
Sau tiền vận thì cung Thân ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoản thời gian còn lại
của cuộc đời, nó bao gồm cả trung vận và hậu vận của mỗi người. Bởi vậy
khi nói đến sự quan trọng của cung Mệnh và Thân, chúng ta thấy có hai
quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất chú trọng cung Thân hơn cung
Mệnh và luận cứ của quan điểm này là trong khỏan tiền vận chúng ta
thường sống dưới mái ấm gia đình, trong vòng tay che chở của cha mẹ cho
nên nếu cung Mệnh có tốt thì cũng chưa làm nên cơm cháo gì được. Ngược
lại nếu cung Thân tốt thì sẽ hữu hiệu hơn cho cái tuổi “tam thập nhị lập” tức
là tuổi bắt đầu lăn lộn vào đời lập nghiệp cho nên rất cần có một cung Thân
tốt đẹp.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng, cuộc đời như một cái cây mà Mệnh là gốc
rễ, Thân là những nhánh cây, cành lá. Nếu gốc rễ không vững chắc thì cành
lá cũng khó mà xanh tươi, đơm hoa kết qủa được. Người viết đồng tình với
quan điểm này. Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ ở tiền vận nhưng vẫn luôn là căn
cơ, cốt lỏi là nền tảng của một đời người. Và khi nói về cung Thân, chúng ta
phải nhớ một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là khi cung Thân đóng
chung với cung nào thì những ý nghĩa tốt xấu của cung ấy sẽ là những nét
chính yếu trong cuộc đời của ngưòi ấy. Như vậy thì người có Thân cư Mệnh
là mẫu người như thế nào?
7
Sắc nét đặc biệt đầu tiên của người này là lòng tin vào thiên mệnh rất mạnh.
Vì như chúng ta đã nói ở trên, cái ý nghĩa đầu tiên của chữ Mệnh là ý trời =
mọi việc đều do Trời định, là định mệnh. Mẫu người này ít tin vào quan
niệm “Nhân định thắng thiên” cho nên khi gặp những hoàn cảnh khó khăn,
trắc trở họ thường nhắm mắt buông tay mặt cho số phận xoay vần vì thuyền
đời của họ đã lỡ neo vào bến Mệnh rồi, chỉ còn biết trong nhờ đục chịu mà
thôi.
Một đặc điểm thứ hai đáng kể của người Thân Mệnh đồng cung là không có
những khúc quanh cũng như những biến đổi lớn lao nào trong suốt cuộc đời
của họ. Như đã bàn ở trên, Mệnh ảnh hưởng mạnh vào tiền vận. Thân ảnh
hưởng mạnh vào trung vận và hậu vận. Bởi vậy khi Thân và Mệnh đồng cung
thì Mệnh và Thân đều ảnh hưởng chung vào cả cuộc đời từ lúc sinh ra cho
đến lúc lìa đời. Có nghĩa là nếu đương số giàu có thì suốt đời giàu có, nếu
nghèo thì sẽ nghèo suốt đời chứ không giống như những người khác chẳng
hạn nếu cung Mệnh xấu thì tiền vận có thể cực khổ nhưng cuộc đời về sau
có thể thay đổi khá hơn nếu cung Thân tốt đẹp hơn cung Mệnh. Hay ngược
lại nếu cung Mệnh tốt đẹp thì cuộc đời của đương số có thể sung sướng từ
lúc lọt lòng mẹ cho đến tuổi lập thân. Rồi sau đó có thể đổi đời, trở nên vất
vả, cực khổ nếu cung Thân xấu hơn cung Mệnh.
Và điểm đặc biệt cuối cùng là có người cho rằng nếu Mệnh Thân đồng cung
tại tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và hai cung Tí Ngọ thì đó là những vị trí
không tốt cho người Mệnh Thân đồng cung.
Tóm lại, cuộc đời của những người Thân Mệnh đồng cung là một con đường
tương đối bằng phẳng. Dù đường đời của họ có đầy hoa lá hay chỉ toàn sỏi
đá, chông gai thì cũng không có những khúc quanh đột ngột, hay những biến
8
động lớn làm thay đổi cả cuộc đời.
BÀI 3
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ PHÚC ĐỨC”
Những người sinh vào giờ Sửu (1am đến 3am) và những người sinh vào giờ
Mùi (1pm đến 3pm) đều có số Thân cư Phúc Đức. Trước khi nói đến những
nét đặc biệt của mẫu người này chúng ta hãy bàn qua vài ý nghĩa căn bản
của cung Phúc Đức. Trong những chương trước chúng ta có nhắc đến một
nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung nào thì cung đó
trở thành lãnh vực chính yếu trong cuộc sống của đương số. Bởi vậy, ý nghĩa
đơn giản đầu tiên của cung Phúc Đức là nói về phước đức của đương số có
được là do chính bản thân tạo dựng nên hay là do thụ hưởng từ ông bà, cha
mẹ, hay của giòng họ nói chung. Cho nên, từ quan niệm đó, khoa Tử Vi xem
cung Phúc Đức như nền tảng của một lá số. Nó có thể cứu giải hay làm chiết
giảm đi độ số tốt xấu của cung Mệnh hay của một đại hạn, tiểu hạn
v.v…..Nói một cách khác, cung Phúc Đức cũng như gốc rễ của một cái cây,
nếu gốc rễ tốt thì cho dù một vài nhánh cây hư hỏng thì cây cũng có thể ra
hoa, kết trái. Nếu gốc rễ đã bị úng thối thì cành cây bên trên dù có xanh tươi
thì cũng chẳng được là bao lâu. Cũng có thể đơm hoa kết qủa những cũng
không thể tồn tại lâu dài được.
Từ đó chúng ta có một quan điểm đặc biệt đầu tiên của người Thân cư Phúc
Đức. Cuộc đời của họ sướng hay khổ, thành hay bại không hoàn toàn do
chính khả năng của họ mà phần nào do những trợ lực khác như được người
nâng đở, hay thường gặp những vận hội may mắn nào đó. Điều này dễ nhìn
thấy ở các lá số Thân cư Phúc Đức mà cung Phúc Đức lại được mọi điều tốt
9
đẹp thì cuộc dời của những người này thường gặp được những may mắn kỳ
lạ, giúp họ thành công dễ dàng, hoặc họ có thể vượt qua những hoàn cảnh
khó khăn, tai nạn mà không ai có thể ngờ được. Ngược lại, chúng ta cũng
thấy có những người Thân cư Phúc Đức nhưng cung Phúc Đức lại xấu xa mờ
ám, cho dù các cung chính yếu Mệnh, Tài, Quan…..đều tốt đẹp nhưng chắc
chắn cuộc đời của họ vẫn gặp nhiều cảnh thăng trầm.
Như vậy, phải chăng đối với người Á Đông chúng ta thì Phúc Đức là một yếu
tố siêu hình đã ảnh hưởng phần nào trong cuộc sống của một đời người?
Một quan niệm khác của khoa Tử Vi đối với cung Phúc Đức là cung này biểu
tượng cho cả một giòng họ. Qua cung Phúc Đức mà chúng ta có thể nhìn
thấy một cách đại cương về giòng họ của đương sự. Như vậy, những người
có Thân cư Phúc Đức thì đặc điểm thứ hai chính là sự liên hệ chặc chẽ của cá
nhân đương số với giòng họ của mình. Tùy theo sự tốt hay xấu và ý nghĩa
của cung Phúc Đức. Có người tuy khả năng, tài đức không có gì đáng nói cả
nhưng vẫn có địa vị chức tước hay bổng lộc nhờ vào sự nâng đở của bà con.
Ngược lại, cũng có người được may mắn, có công danh sự nghiệp, giàu sang
phú quý, cũng vì cái tình gia tộc mạnh mẽ, họ phải vươn dài cánh tay đễ cưu
mang cho cả giòng họ. Đó là trường hợp mà ông bà chúng ta thường nói:
“Một người làm quan, cả họ được nhờ.”
Và một điểm đặc biệt sau cùng của mẫu người này là những gì tốt xấu của
cung Phúc Đức sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ sau khoản tiền vận, nghĩa là thời
điểm đương số thực sự lăn lộn vào đời. Cung đối diện Phúc Đức là Tài Lộc,
và đó cũng là cung đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề những sự tốt, xấu của
cung Phúc Đức. Cho nên người Thân cư Phúc Đức sẽ có những thay đổi khá
rõ rệt trong khoản thời gian lập thân. Cuộc sống của họ có thể sung sướng
10
hơn nếu cung Phúc Đức tốt đẹp, hoặc cực khổ hơn nếu cung Phúc xấu, nhất
là trên vấn đề tiền bạc.
Tóm lại, mẫu người Thân cư Phúc Đức là những người có tinh thần gia đình,
gia tộc rất mạnh. Họ thích cuộc sống đại gia đình và giữ được những liên hệ
mật thiết với tất cả bà con trong giòng họ dù gần hay xa. uc1 uc1 uc1Đây là
mẫu người rất nặng tình quê hương. Họ thường lớn lên và sống suốt đời tại
nơi chôn nhau cắt rốn của mình chứ không muốn ly hương hay sống rời xa
giòng họ của mình.
Đi xa hơn, cung Phúc Đức trên một lá số cũng tương tự như lãnh vực âm
trạch của khoa Phong Thủy, tức là chuyên về mộ phần. Qua cung Phúc Đức,
chúng ta có thể nhìn thấy những nét tổng thể về mộ phần của một giòng họ,
như mộ phần của một người nào phát, mộ phần của ngườ nào hư, hoặc có
thể biết được mộ phần của người nào đó trong giòng họ đã kết phát và
đang đặc biệt phò trợ cho đương số.
BÀI 4
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ QUAN LỘC”
Những người sinh vào giờ Dần (3am tới 5am) hoặc vào giờ Thân (3pm tới
5pm) là những người có số Thân cư Quan Lộc. Như chúng ta đã biết, cung
Quan Lộc trong lá số của mỗi người biểu hiện con đường công danh và sự
nghiệp của người đó. Hai chữ “Công Danh” và “Sự Nghiệp” nghe có vẽ rộng
lớn và mơ hồ qúa. Nếu nói một cách gần gũi và rõ ràng hơn thì cung Quan
Lộc diễn tả nghề nghiệp của một người và có thể chỉ rõ một ngành nghề nào
đó như y khoa, điện tử, giáo sư, cảnh sát, quân nhân, ngân hàng, ngoại giao,
11
văn học, nghệ thuật, kinh doanh thương mại v.v….. Cung Quan Lộc cũng nói
lên sự thành bại trong nghề nghiệp của một người.
Như chúng ta đã nói trước đây, Thân cư cung nào thì cung đó sẽ trở thành
lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người ấy. Do đó, người
Thân cư Quan Lộc ngay từ khi còn trong trường học, họ đã có những ý
tưởng rõ ràng về ngành học mà họ chọn lựa vì đó là cửa ngõ đưa họ vào đời,
là nghề nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và thận trọng trong việc
chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn năng khiếu và ưa
thích.
Người Thân Cư Quan Lộc không thích làm những nghề có tính cách tạm bợ.
Cho nên khi họ đã bước vào một ngành nghề nào thì đó sẽ là công việc mà
họ sẽ theo đuổi suốt cả một đời. Mẫu người này cho dù làm công hay làm
chủ cũng không thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì ít khi bị mất việc. Có thể
nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không phải vất vả đi tìm việc
như những người khác.
Thân cư Tài Lộc là mẫu người thừa hành đắc lực nhất. Họ là những nhân
viên, những thuộc cấp và là những người cộng tác rất có tinh thần và trách
nhiệm trong chức vụ của họ. Điều này dễ hiểu vì họ là những người yêu
nghề, thích học hỏi.
Người Thân cư Quan Lộc coi sự làm việc như một lạc thú ở đời chứ không
phải là một nghề để sinh sống. Họ rất hăng say với công việc.
Những đặc điểm nêu trên là mẫu người Thân cư Quan Lộc mà có cung Quan
Lộc tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan Lộc xấu xa thì đó là hình ảnh của một
12
người chậm công danh, lận đận trên đường công danh, và đây cũng là người
sống chết với nghề của mình một cách vất vả, lao đao, hoặc là trường hợp
đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là “sinh nghề, tử nghiệp”
chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh liệt, hay bị tù tội vì nghề nghiệp
nếu có thêm hung sát tinh, bại tinh hội hợp. Như vậy, quan niệm cho rằng
người có Thân cư Quan Lộc sẽ làm Quan là một điều sai lầm. Làm quan hay
làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng phải tùy thuộc vào
cung Quan Lộc tốt hay xấu.
Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi Đẩu Số, sự sắp xếp của 12 cung trên một lá số
rất có ý nghĩa. Cung Quan Lộc nằm đối diện với cung Phu Thê cho nên cung
Quan Lộc có thể xem như cái bóng phản chiếu của cung Phu Thê vậy. Do đó
khoa Tử Vi cho rằng đối với những người có số 2 đời vợ, 2 đời chồng thì
cung Quan Lộc là hình ảnh của người vợ hay người chồng thứ hai của đương
số.
Điều này rất có ý nghĩa đối với những người Thân cư Quan Lộc, cuộc đời còn
lại của họ và cả nghề nghiệp của họ sẽ bị ràng buộc một cách chặt chẽ với
người vợ/chồng thứ hai. Điều này chúng ta sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người
Thân cư Phu Thê.
Riêng đối với nữ Mệnh, các bà có số Thân cư Quan Lộc thì ngoài những nét
đặc biệt đã nêu trên, cung Quan Lộc trong trường hợp này còn có ý nghĩa
như một cung Phu, và một vài trường hợp điển hình mà chúng ta nói đến
như: Một người đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần
hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không khác gì Tuần hay
Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.
13
Trong trường hợp như vừa nêu trên, một quan điểm khác của nhà tướng số
Thiên Đức trong một bài viết về “Tai Nạn Trinh Tiết” ông khẳng định một
cách mạnh mẽ rằng “…..bất cứ là lá số của một người phụ nữ nào khi cung
Quan Lộc hay cung Thân có Tuần hoặc Triệt, bất luận về yếu tố sao, chắc
chắn sẽ không còn là con gái khi về nhà chồng”
Như vậy theo quan điểm này thì bất cứ cung Thân an tại đâu và bất kể cung
Thân hay Quan Lộc cho dù có các sao đoan chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt
thì hai chữ “trinh tiết” của đương số cầm bằng như không có khi bước lên xe
hoa lần đầu trong cuộc đời.
Cũng trong trường hợp nữ Mệnh có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc
bị
Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp nhiều hung tinh hay sát tinh thì đương số nên
lập gia đình muộn hoặc lập gia đình với một người đã trải qua một lần đổ vỡ
trên đường tình thì mới có thể tránh được cảnh cô đơn góa bụa về sau.
Một điểm đặc biệt nữa là đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc
bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh hưởng thì đó cũng là số của những người có
thể gặp những hoàn cảnh hay tai nạn làm mất danh tiết của mình.
Riêng đối với các ông, nếu là những người có quan niệm sống bảo thủ như
ông bà của chúng ta ngày xưa, cho rằng người vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là
người đàn bà ở trong nhà lo việc nhà, săn sóc cho chồng cho con thì mẫu
người đàn bà Thân cư Quan Lộc hoàn toàn không thích hợp với quý ông có
quan niệm “chồng chúa, vợ tôi” Lý do dễ hiểu là những người đàn bà có
Thân cư Quan Lộc có khuynh hướng độc lập rất mạnh. Họ muốn ra đời và
muốn có một nghề nghiệp như đàn ông để suốt đời không bị lệ thuộc vào
14
người chồng.
Cuối cùng, trong ý nghĩa về nghề nghiệp, dù nam hay nữ, khi cung Quan Lộc
bị
Tuần/Triệt thì trong đời của đương số phải thay đổ nghề nghiệp ít nhất 1
lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những ngành nghề gì thì còn tùy thuộc vào
cung Quan Lộc và toàn bộ lá số. Đặc biệt đối với những người Thân cư Quan
Lộc thì nghề nghiệp mà họ thay đổi thường là cùng nghề hay cùng trong một
lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của đương số.
Tóm lại, cung Quan Lộc biểu hiện cho công danh, sự nghiệp, tiền tài và danh
vọng của một người, cho nên những người có số Thân cư Quan Lộc thì
những yếu tố trên là mục đích mà họ sẽ mang hết tâm huyết của họ để đạt
được.
BÀI 5:
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ THIÊN DI”
Nằm ở vị trí đối diện với cung Mệnh trên lá số, cho nên cung Thiên Di có một
tầm quan trọng không kém gì cung Mệnh. Có thể nói cung Thiên Di là cái
bóng của cung Mệnh trong nhiều ý nghĩa. Cung Thiên Di xung chiếu với cung
Mệnh, cho nên những gì xấu tốt của cung này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ vào
cung Mệnh hơn là hai cung Quan Lộc và Tài Lộc, tức hai cung có vị trí hợp
chiếu với cung Mệnh. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều này đối với những người
Mệnh Vô Chính Diệu, tức là cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ, cho nên
phải mượn chính tinh của cung Thiên Di mà nói lên ý nghĩa của cung Mệnh.
15
Đầu tiên, hai chữ Thiên Di không phải chỉ nói lên ý nghĩa của sự dời đổi hay
di chuyển, mà cung Thiên Di còn nói lên cái lãnh vực hay địa bàn sinh hoạt
của mỗi người ngoài đời, ngoài xã hội. Nói một cách khác, nếu cung Mệnh
biểu hiệu con người của mình khi sinh ra đời, thì cung Thiên Di biểu hiệu con
người của mình, vị trí của mình ngoài xã hội nói chung, và trong môi trường
sinh hoạt hằng ngày của mình nói riêng.
Cung Thiên Di còn nói lên nhiều nét đặc biệt khác như nghề nghiệp, sự giao
thiệp, khuynh hướng tôn giáo, sống hay làm ăn xa ở nơi quê người, chết tha
phương hay chết trên quê hương của mình, ra đời được người thương mến
hay không, chẳng hạn những người có số Hoa Cái cư Thiên Di là những
người ra ngoài thường được nhiều người thương mến, hay ngoài đời
thường có được người giúp đỡ hay không, như những người số có cung
Thiên Di giáp Tả Hữu, giáp Nhật Nguyệt hay giáp Quang Quý là số mà người
ta thường nói là được quý nhân phò trợ, hay những người thân phải tự lập
thân, suốt đời chỉ là kẻ độc hành, cũng vì hai sao Cô Quả đóng ở Thiên Di,
hoặc số ra đời là được tiền hô hậu ủng, cũng là vì cung Thiên Di được cách
tiền Cái, hậu Mã vậy. Và một lần nữa, chúng ta thấy sự sắp xếp các cung trên
một lá số của khoa Tử Vi rất có ý nghĩa: cung Thiên Di tam hợp với hai cung
Phúc Đức và Phu Thê, cho nên, sự may mắn hay bất hạnh, sự thành công
hay thất bại của mỗi người ở ngoài đời đều một phần nào do phước đức của
dòng họ cũng như của chính mình tạo nên, và sự hỗ trợ của người bạn đời,
là người chồng hay người vợ, đến từ đằng sau hay bên cạnh mình là những
yếu tố không thể chối bỏ.
Những đặc tính căn bản của cung Thiên Di vừa nói trên sẽ giúp chúng ta dễ
dàng nhìn thấy nét đặc biệt của mẫu người Thân Cư Thiên Di. Thân cư tại
Thiên Di nên cá tính đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy ở mẫu người này là tính
16
thích hoạt động, thích cuộc sống phải có sự thay đổi cũng như thích di
chuyển. Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không phải là mẫu người trong gia
đình, họ là mẫu người ngoài xã hội, là mẫu người như ông bà chúng ta
thường ví là ăn cơm nhà vác ngà voi hay việc nhà thì nhác, việc chú bác thì
siêng.
Từ đó, nếu quý bà mà đức lang quân có số Thân Cư Thiên Di thì đừng mong
cuối tuần các ông sẽ ở nhà dọn dẹp nhà cửa hay cắt cỏ, làm vườn, và cũng
đừng có buồn với những bữa ăn cơm lạnh, canh nguội bởi các ông về trễ vì
phải họp hội đoàn, thăm bạn bệnh, đến chùa hay nhà thờ giúp thầy, giúp
cha v.v...
Và ngược lại, nếu phu nhân của quý ông mà có số Thân Cư Thiên Di, thì
trước khi cưới hỏi, quý ông cũng nên lo học trước cách luộc trứng, nấu cơm
sao cho chín, cũng như học cách pha sữa, thay tả, ru con sao cho con ngủ
v.v..., bởi vì người đàn bà có số Thân Cư Thiên Di cũng là mẫu người ngoài xã
hội, họ thích cuộc sống bên ngoài hơn là cuộc sống trong gia đình, những
sinh hoạt bên ngoài mang đến cho họ nhiều niềm vui và sự thích thú hơn là
những việc của một người đàn bà phải làm cho chính bản thân họ, hoặc cho
chồng con bên trong gia đình.
Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không chịu được cảnh sống lẻ loi đơn chiếc
vì họ là con người của đám đông, của bạn bè, của hội hè đình đám... Người
Thân Cư Thiên Di thích giao thiệp rộng nên thường là những người có năng
khiếu trong lãnh vực ngoại giao và tổ chức.
Trong lãnh vực nghề nghiệp, người Thân Cư Thiên Di thích làm những nghề
có tính cách di động, thường được đi đây, đi đó, tiếp xúc với nhiều người...
17
Chẳng hạn như hoa tiêu hàng không hay hàng hải, tiếp viên hàng không,
chuyển vận đường bộ, hướng dẫn viên du lịch, phóng viên báo chí hay
truyền thanh, truyền hình, đại diện thương mãi, ngoại giao v.v... đều là
những ngành nghề thích hợp với cá tính của mẫu người Thân Cư Thiên Di.
Hầu hết những người có số Thân Cư Thiên Di thường ra đời sớm, vào nghề
và tự lập sớm hơn những người cùng lứa tuổi, điều này có thể vì hoàn cảnh
và cũng có thể vì cá tính như vậy. Người Thân Cư Thiên Di có nhiều cơ hội để
đi đây, đi đó, sống xa nhà, xa quê hương, nhất là trường hợp cung Thiên Di
đóng tại Dần, Thân, Tị, Hợi là những vị trí của Thiên Mã, một sao chỉ về sự di
chuyển và thay đổi, như vậy chắc chắn họ là những người thường có cuộc
sống nơi đất khách quê người, làm ăn, sinh sống và chết cũng tại quê người.
Và một nét đặc biệt nữa của mẫu người Thân Cư Thiên Di là cung Thiên Di
lúc nào cũng đối diện với cung Mệnh, cho nên khi Thân cư vào cung Thiên Di
thì Thân và Mệnh đối diện nhau, do đó, người Thân Cư Thiên Di như có “hai
con người” trong họ, một con người với những bản chất đã có từ lúc sinh ra,
và một con người khác là con người ngoài xã hội, đậm nét nhất là trong môi
trường mà họ sinh hoạt hằng ngày.
Tóm lại, mẫu người Thân Cư Thiên Di là mẫu người có một cuộc sống sôi
động và thích hợp với ngoài xã hội hơn là trong gia đình. Họ sinh ra để làm
việc, để hoạt động và có máu giang hồ, cho nên thường thích ra đời sớm,
thích sống xa nhà, xa quê hương cho thỏa chí tang bồng.
Kỳ sau, chúng ta sẽ nói đến mẫu người Thân Cư Tài Lộc, là những người sinh
vào giờ Thìn, tức là từ 7 giờ sáng đến 9 giờ sáng, hoặc những người sinh vào
giờ Tuất, tức là từ 7 giờ tối đến 9 giờ tối.
18
BÀI 6
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ TÀI LỘC”
Trong một lá số, cung Quan Lộc và Tài Lộc là hai cung có vị trí hợp chiếu với
Mệnh và được xem là hai cung quan trọng. Chữ Tài Lộc cũng nói lên hết ý
nghĩa của cung này. Nếu như cung Quan Lộc diễn đạt con đường công danh,
sự nghiệp và cả một phần nào chuyện vợ chồng, thê thiếp thì cung Tài Lộc
không chỉ đơn thuần nói về vấn đề tiền bạc mà cũng phần nào phản ảnh
lãnh vực nghề nghiệp của mình.
Điều mà chúng ta sẽ thấy trong một vài lá số mà nghề nghiệp của đương sự
được mô tả trong cung Tài Lộc còn rõ ràng hơn cung Quan Lộc nữa. Trường
hợp này thường thấy trong các lá số của người Thân Cư Tài Lộc mà chúng ta
sẽ bàn đến.
Cung Tài Lộc diễn tả vấn đề tiền bạc của một đời người. Có tiền nhiều hay ít,
có tiền bằng cách nào, làm ra tiền sớm hay muộn, kiếm tiền dễ dàng hay khó
khăn, tiền do chính bàn tay mình tạo dựng nên hay được thụ hưởng di sản
của giòng họ. Tiền bạc do lộc của trời như trúng số, hoặc do người khác
mang đến. Có tiền rồi giữ được hay không? Hay dễ bị hao tài? Tiền bạc có
mang lại hạnh phúc cho đương số hay không, hay có tiền thì có tai họa đi
liền theo sau v.v…..
Cung Tài Lộc ở vị trí đối diện với cung Phúc Đức cho nên ông bà chúng ta có
câu: “Có phúc mới có phần” ngụ ý là số giàu cũng do Phúc Đức. Bởi vậy cung
Tài Lộc cũng chỉ rõ người có số được hưởng gia tài, sản nghiệp của ông bà,
19
cha mẹ để lại hoặc tiền tài phải do tự hai bàn tay của mình tạo dựng nên
mới có được. Nói một cách khác, tất cả những tốt xấu của cung Phúc Đức
đều có ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Tài Lộc hơn những cung khác, và đó
cũng là sắp xếp rất có ý nghĩa của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những môn
học huyền bí của người Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng sâu xa triết lý nhà
Phật.
Những người sinh vào giờ Thìn (từ7am tới 9am) hay là những người sinh vào
giờ Tuất (từ 7pm tới 9pm) thì Thân sẽ rơi vào cung Tài Bạch. Có người nghĩ
rằng nếu Thân cư Quan Lộc thì sẽ làm quan, Thân cư Tài Lộc thì sẽ giàu có.
Quan niệm này không chính xác bởi vì tuy là số thân cư Quan Lộc nhưng làm
quan hay làm người bình dân thì cũng còn tùy vào cung Quan Lộc của đương
sự tốt hay xấu. Tương tự, như số Thân cư Tài Lộc, giàu hay nghèo cũng còn
tùy vào cung Tài Lộc tốt xấu ra sao. Tuy nhiên, những người Thân cư Tài Lộc,
họ có những nét đặc biệt khái quát như sau:
Trước tiên, tiền bạc là vấn đề chủ yếu và là mục đích quan trọng trong cuộc
sống của họ. Nói như vậy không có nghĩa là người có Thân cư Tài Lộc quan
niệm sống của họ chỉ có tiền mà họ là những người có khả năng làm ra tiền.
Làm ra tiền nhiều hay ít, dễ dàng hay khó khăn, và bằng cách nào thì cũng
còn tùy vào lá số của mỗi người. Dù nghèo hay giàu, người Thân cư Tài Lộc
thấu hiểu giá trị của đồng tiền và sử dụng đồng tiền ra sao cho xứng đáng
với giá trị của nó. Chuyện đáng xài thì xài, chuyện không đáng thì 1 xu cũng
không bỏ ra. Mẫu người này quan niệm tiền là cái đích tiên quyết phải có,
rồi từ đó xử dụng tiền như một phương tiện để được những mục đích khác
mà họ mong muốn.
Người Thân cư Tài Lộc thường có năng khiếu về thương mại, kinh doanh. họ
20
là những người thích hợp để trở thành chủ nhân của những cơ sở làm ăn
mua bán và thường trở nên giàu có bằng đường kinh doanh nếu cung Tài
Lộc của họ tốt đẹp. Ngược lại, một người có Thân cư Tài Lộc mà cung Tài Lộc
lại không được sáng sủa thì họ sẽ là người suốt đời vất vả vì tiền, hay
thường gặp những tai họa về tiền bạc. Có thể đến một vận hạn nào đó, họ
cũng có cơ hội làm ra tiền nhưng lại không giữ được tiền trong tay.
Cuối cùng, như chúng ta đã nói ở trên, khi Thân cư vào cung Tài Lộc thì Thân
sẽ ở vị trí đối diện với cung Phúc Đức. Có nhiều vị nghiên cứu về khoa Tử Vi
Đẩu Số thì họ cho rằng cung Thân quan trọng hơn Mệnh vì cung Thân biểu
tượng cho trung vận và hậu vận, là khoảng thời gian mà chúng ta bắt đầu rời
khỏi vòng tay của cha mẹ để lăn lộn vào đời tự lập thân. Và như vậy, những
người Thân cư Tài Lộc, cung Thân sẽ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cung
Phúc Đức kể từ khi họ bước chân vào đời. Nói một cách khác, hậu vận của
một người Thân cư Tài Lộc sẽ ra sao cũng là một phần tùy thuộc vào sự tốt
xấu của cung Phúc Đức. Nếu nói theo triết lý của đạo Phật là đương số
hưởng được sự tích đức của ông bà, cha mẹ hay là đương số phải trả nghiệp
cho ông bà, cha mẹ của mình.
BÀI 7
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ PHU/THÊ”
Dù trong thời đại nào, dù phương Đông hay phương Tây thì gia đình vẫn
luôn luôn là nền tảng của xã hội. Trong khoa Tử Vi Đẩu Số gia đình được thể
hiện qua hai cung Phu Thê và Tử Tức. Hai cung này nói lên những vấn đề vợ
chồng, con cái của mỗi người. Chúng ta vẫn thường nghe câu: “Sau lưng một
21
người đàn ông thành công là một người đàn bà đảm đang tài giỏi.” Có phải
vì vậy mà cung Phu Thê của người đàn ông có tầm quan trọng không kém gì
hai cung chính là Quan Lộc và Tài Bạch? Còn đối với phụ nữ thì cung Phu Thê
lại càng quan trọng hơn. Sự đánh giá này rất hợp lý với thời phong kiến xa
xưa. Trong xã hội phong kiến, người đàn bà chỉ là cái bóng mờ, hầu như
không có những sinh hoạt nào ngoài xã hội. Và cuộc đời của họ như thế nào
cũng do cung Phu Thê của họ định đoạt mà thôi. Thật đúng với ý nghĩa “xuất
giá tòng phu”
Ngày nay, người đàn bà đã ra ngoài xã hội, đã có vai trò và vị trí không thua
kém gì người đàn ông. Nhưng dù sao, đối với quan niệm của người Á Đông
chúng ta thì không phải vì vậy mà sự quan trọng của cung Phu Thê bị giảm
đi. Trong thực tế hai chữ “gia đạo” lúc nào cũng là nền tảng của cuộc sống
con người trong bất cứ thời đại nào hay xã hội nào. Điều này chúng ta sẽ
thấy rõ ràng và đậm nét trong mẫu người Thân cư Phu Thê.
Những người sanh vào giờ Tỵ (từ 9am tới 11am) hoặc giờ Hợi (từ 9pm tới 11
pm) thì Thân sẽ nằm vào cung Phu Thê. Người ta cho rằng rằng ông có Thân
cư Phu Thê là số được nhờ vợ và nể vợ. Đàn bà có Thân cư Phu Thê là số
nhờ chồng và nể sợ chồng. Điều này không đúng, chúng ta sẽ bàn đến sau.
Mẫu người Thân cư Phu Thê có nhiều nét đặc biệt, nhất là trên lãnh vực tình
cảm. Người Thân cư Phu Thê thường gặp người chồng/vợ mình trong một
hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ gặp nhau và có tình cảm với nhau như đã quen
biết nhau từ kiếp trước, nay lại gặp nhau để xây tiếp lâu đài tình ái còn đang
dang dở, hoặc trả tiếp cho xong cái duyên nợ chưa tròn, tùy theo lá số của
mỗi người.
22
Từ nét đặc biệt đó mà người Thân cư Phu Thê có một cuộc sống ràng buộc
nhau rất mật thiết. Sự ràng buộc chặt chẽ này có thể do từ tình cảm tốt đẹp
mà họ có được, nhưng cũng có thể là vì hoàn cảnh mà họ phải chịu trói buộc
với nhau. Hình ảnh bị trói buộc với nhau vì hoàn cảnh điển hình nhất mà
chúng ta đã thấy trong thời gian trước đây đó là hình ảnh của cựu Tổng
Thống Bill Clinton. Dù đang gặp một hoàn cảnh đắng cay, hay có thể nói là
“còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi” Nhưng họ vẫn ở bên nhau, xuất hiện
bên nhau trên truyền hình, trước công chúng đễ diễn tiếp cho xong vở
tuồng mà họ phải diễn.
Nói một cách khác, trong lĩnh vực tình cảm, người Thân cư Phu Thê thường
có một cuộc sống khăng khít với nhau, cho dù trong những trường hợp cuộc
sống không được hạnh phúc hay gặp những hoàn cảnh ngang trái, dường
như có một sợi dây vô hình nào đó cứ buộc chặt họ lại với nhau, không chia
ly dễ dàng như những người khác.
Ngoài sự ràng buộc trong vấn đề tình cảm, người Thân cư Phu Thê còn có sự
ràng buộc trong lãnh vực nghề nghiệp. Hầu hết họ và vợ/chồng của họ là
những người làm cùng ngành nghề hay cùng chung một cơ sở thương mại
với nhau. Có thể không cùng nghề nghiệp nhưng công việc của hai người
luôn có sự liên hệ và hợp tác hổ trợ cho nhau.
Ngoài ra, người Thân cư Phu Thê thường có thêm một nghề tay trái nữa.
Nghề tay trái này lúc đầu chỉ như một cái thú tiêu khiển của đương số, hoặc
cũng có thể như một nghiệp mà họ phải theo đuổi. Dần dần có thể trở thành
một lãnh vực sinh hoạt không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày của
họ. Cũng có một số người thành công, thành danh bởi nghề tay trái này hơn
là nghành nghề chính của họ. Bây giờ chúng ta có thể trở lại với hai nghi vấn
23
mà chúng ta đã đề cập lúc mở đầu:
1. Có phải những người Thân cư Phu Thê là có số nhờ chồng/vợ hay
không?
Đối với người Á Đông chúng ta thì chuyện “xuất giá tòng phu” là một quan
niệm bình thường. Do đó, nếu một người đàn bà có số Thân cư Phu Thê mà
cuộc đời phải nương tựa vào chồng của mình thì đó là một điều hợp tình
hợp lý. Nhưng đối với nam giới, nhất là trong xã hội phong kiến trọng nam
khinh nữ, một người đàn ông có Thân cư Phu Thê là bị phán ngay là số nhờ
vợ thì cũng tội nghiệp cho đương số.
Để giải đoán cho phân minh, chúng ta phải cân nhắc giữa cung Phu Thê và
cung Mệnh của đương sự. Chẳng hạn, người có Thân cư Phu Thê, nếu Mệnh
của đương số yếu hơn cung Phu Thê (Mệnh nhược Thê cường) có nghĩa là
người vợ của đương số có khả năng hơn chồng về mọi mặt từ trong nhà cho
đến những giao tiếp ngoài xã hội. Như vậy chúng ta có thể nghĩ rằng những
gì tạo dựng nên trong cuộc sống chung của hai người thì phần lớn đều do
tay của người vợ. Đối với người đàn bà có Thân cư Phu Thê, vì bối cảnh xã
hội ngày nay có khác, hai chữ “tòng phu” không còn nữa cho nên chúng ta
cũng phải cân nhắc như vậy.
Ngược lại nếu cung Mệnh của đương số tốt đẹp, sáng sủa hơn cung Phu Thê
(Mệnh cường, Thê nhược) thì đây không phải là số nhờ chồng/vợ. Trường
hợp này thông thường thì hai người cùng làm chung một ngành nghề hay
cùng chung một cơ sở làm ăn, họ cùng góp sức tạo dựng với nhau trong
cuộc sống chung, dĩ nhiên họ cũng có những sự ràng buộc chặt chẽ với nhau
như đã bàn ở trên.
24
2. Có phải người Thân cư Phu Thê là số nể, sợ vợ/chồng hay không?
Để trả lời vấn đề này, chúng ta cũng phải cân nhắc vấn đề mạnh và yếu giữa
cung Mệnh và cung Phu Thê của đương số. Nếu Mệnh nhược Phu cường thì
phải nể, sợ chồng là điều đương nhiên rồi. Chẳng hạn, lá số của một ông
chồng có bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ Mệnh, là bộ sao tiêu biểu cho
văn cách nhưng cung Phu Thê lại có bộ sao Sát Phá Liêm Tham là biểu tượng
cho võ cách. Trường hợp này việc điều hành từ trong ra ngoài cũng nhu vai
trò chánh yếu trong gia đình đều do người vợ một tay thao túng hết.
Điều này chúng ta cũng thấy rõ những đấng mày râu tuy cung Mệnh không
thua kém gì cung Phu Thê nhưng cung Phu Thê lại có các sao như Thái Âm,
Hóa Quyền tọa thủ hoặc hợp chiếu thì đấy cũng là hội viên cùng hội với Thúc
Sinh rồi.
BÀI 8
MẪU NGƯỜI “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”
Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên 118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh.
Những sao này được phân bố trên 12 cung của một lá số theo các quy tắc đã
định dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người. Chính tinh có
những đặc tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho nên những cung
quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh tọa thủ, nhất là
Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà Mệnh không có chính tinh nào tọa
thủ, hay chúng ta thường gọi là Mệnh Vô Chính Diệu (VCD).
25
Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một
bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh VCD phải mượn chính tinh ở
cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh VCD chỉ
chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở
cung xung chiếu mà thôi.
Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài trước, chúng ta đã
nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoặc ngoài xã hội của mỗi người. Do đó,
khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì đặc tính
đầu tiên của người VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh.
Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người VCD thường
là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu
thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long
đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất khách quê
người, và tuổi đời không được thọ.
Một đặc điểm quan trọng khác mà người VCD phải lưu ý là vì Mệnh của
mình không có chính tinh ví như đoàn quân không có tướng cho nên người
VCD khi ra đời dù là làm công hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là
người đúng đầu trong một đơn vị như chỉ huy trưởng của một quân đội,
giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại. Người VCD
chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau lưng một người khác
để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ
những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn
thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình
hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành.
26
Người VCD tánh tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do
vậy, những công việc như soạn thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư
v.v….. rất thích hợp với họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát
Lượng thời xưa và như Henry Kissinger ngày nay.
Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người VCD. Họ có khả năng dự
thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác, còn đối với
bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà họ dự
tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoản tiền vận của
cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.
Người VCD thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ
trung vận và càng về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc
đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính
đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp
vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận
lợi hơn và nhiều may mắn hơn.
Là mẫu người có tài, có trí họ có thể đạt được những công danh sự nghiệp.
Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải
như ông bà chúng ta thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh” Cho nên người VCD
ít ai có được tuổi thọ cao. Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm
con nuôi của người khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa
nhà, mưu sinh nơi đất khách quê người.
Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người VCD vẫn được
hai cách tốt:
27
1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp
chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi
gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là
một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì sách có nói “hung tinh đắc địa
phát dã như lôi.” Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như sấm
chớp. Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản
chất của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải
hay Hạng Võ mà thôi.
Trường hợp Mệnh VCD gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý
một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không thì cũng bình thường, không có gì
đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi
tốt xấu lẫn lộn cho nên không được tròn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam
không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ ràng giữa các
trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt,
trường hợp nào xấu.
Trường hợp đắc tam không: Mệnh VCD có một sao không thủ Mệnh, hai
sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt nhất. Có câu: “Mệnh VCD đắc
tam Không nhi phú quý khả kỳ” Cách này rất ứng hợp cho những người
Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên đây cũng là
một trong những cách hoạch phát.
Trường hợp kiến tam không: Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG thủ, một sao
KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu
(Thiên Di) Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có
cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù tạo dựng lên
được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ.
28
Trường hợp ngộ tam không: Mệnh VCD có hung tinh hay sát tinh hãm địa
tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung chiếu có có sao KHÔNG tọa thủ hợp
chiếu vào Mệnh. Cách này là “Mệnh VCD ngộ tam không phi yểu tắc bần” có
nghĩa là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam
KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá tán.
2. Mệnh VCD được hai sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp
chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm trời không một áng mây lại được
hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào khiến cho vòm trời ấy trở nên
rực rở. Khoa Tử Vi gọi là “Mênh VCD Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa”
Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa
với hai chữ “Hư Không” Điều đó xét ra không cần thiết lắm. Người đắc cách
này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời
Tam Quốc phân tranh.
Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu.
Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái
Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh.
Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện” Người đắc
cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân
vương mà thôi.
Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua
trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư
tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng
mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ
đúng vị trí của một người có Mệnh VCD, chiu dưới chỉ 1 người mà trên
29
muôn vạn người.
Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò
của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự.
Cho nên đó là một điều không thích hợp với người Mệnh VCD. Phải chăng vì
vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không
kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời, ông đã làm phép cầm
sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không thành.
Đó là đặc tính đáng chú ý của người có Mệnh VCD: Mưu sự cho người thì dễ,
mà cho chính bản thân mình thì khó.
Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa
nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh
Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào
Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của
khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta
cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD?
BÀI 9:
MẪU NGƯỜI “THAM VŨ ĐỒNG HÀNH”
Mẫu người “Tham Vũ Đồng Hành” là những người có cung Mệnh an tại tứ
mộ, tức là bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và có hai sao Tham Lang và Vũ
Khúc tọa thủ đồng cung hoặc xung chiếu với nhau. Nếu cung Mệnh an tại
Thìn và Tuất, thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ xung chiếu với nhau. Nếu cung
Mệnh an tại Sửu và Mùi thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ tọa thủ đồng cung. Sau
30
phần trình bày khái quát về cuộc đời của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành
nói chung, chúng ta sẽ đi vào chi tiết để xem sự khác biệt của mẫu người tuy
là Tham Vũ Đồng Hành, nhưng Tham Vũ đồng cung tọa thủ tại Mệnh có gì
khác biệt với người Tham Lang thủ Mệnh và Vũ Khúc xung chiếu, cũng như
Vũ Khúc thủ Mệnh và Tham Lang xung chiếu?
Trước tiên, chúng ta nói qua về đặc tính của hai sao Tham Lang và Vũ Khúc
là hai chính tinh trong cách Tham Vũ Đồng Hành Cư Tứ Mộ, rồi sau đó mới
nói đến hai sao phụ khác nữa là Linh Tinh và Hỏa Tinh thì mới đủ bộ và đúng
cách. Tham Lang là Bắc Đẩu tinh, hành của Tham Lang có người cho là hành
Thủy, có người cho là hành Hỏa và cũng có người cho là hành Mộc. Theo
thiển ý của người viết thì Tham Lang thuộc hành Mộc, bởi vậy, khi Tham
Lang (đào hoa) tọa thủ tại cung Tí (cung Thủy), khoa Tử Vi gọi đây là cách
Phiếm Thủy Đào Hoa, nghĩa là hoa đào trôi dạt trên dòng nước. Bản tính của
Tham Lang là đặt nặng vấn đề vật chất trong cuộc sống. Thích hội hè đình
đám, những chỗ đông người với những cuộc vui. Tính rất năng động, háo
danh, háo thắng và thích làm những chuyện lớn cho nên có nhiều tham
vọng. Ưu điểm của Tham Lang là có năng khiếu về kinh doanh, có khả năng
tổ chức, nhưng khuyết điểm là mau chán nản và dễ bỏ cuộc nửa chừng. Nếu
Tham Lang ở các vị trí miếu hay vượng địa thì chủ về uy quyền, giàu sang và
sống lâu.
Vũ Khúc cũng là Bắc Đẩu tinh và thuộc hành Kim. Bản chất của Vũ Khúc rất
nghịch với Tham Lang ở điểm Tham Lang thích vui chơi ở chỗ đông người thì
Vũ Khúc lại thích cô đơn, làm việc gì cũng muốn độc hành. Người có Vũ Khúc
thủ Mệnh tính gan dạ, táo bạo, có khả năng tổ chức, có đầu óc kinh doanh,
chủ quyền uy, danh vọng và giàu sang. Chính những điểm tương đồng này
giữa Vũ Khúc với Tham Lang mà bộ Tham Vũ là một bộ sao của những tay
31
kinh doanh có hạng trên thương trường. Có người cho rằng Tham Vũ là hai
sao thuộc về võ cách, tượng trưng cho võ nghiệp thì tại sao lại hợp với lãnh
vực kinh doanh? Để trả lời cho điều này, chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống
của người Hoa Kỳ cũng như cộng đồng người Việt tị nạn, một số những cựu
quân nhân, sau khi giã từ vũ khí, họ đã thành công một cách dễ dàng trên
thương trường. Vậy phải chăng, những đức tính và khả năng cần có của một
người điều binh trên chiến trường cũng cần thiết cho một người lăn lộn trên
thương trường, đúng với câu mà người Trung Hoa vẫn nói: thương trường
như chiến trường.
Được xem là đắc cách Tham Vũ Đồng Hành thì hai sao Tham Lang và Vũ
Khúc phải đóng tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gọi là tứ mộ, bốn cung này
thuộc hành Thổ cho nên đó là bốn vị trí miếu địa, vượng địa của hai sao
Tham Vũ. Một điều kiện quan trọng khác là tại bốn vị trí này, bộ Tham Vũ
phải gặp một hoặc cả hai sao Linh Tinh, Hỏa Tinh. Hai sao Linh Hỏa có thể
đồng cung, xung chiếu hay tam hợp chiếu với hai sao Tham Vũ thì mới đầy
đủ uy lực mà khoa Tử Vi thường gọi là cách Tham Vũ đồng hành cư tứ mộ,
ngộ Linh, Hỏa hào phú gia tư, hầu bá chi quý. Có nghĩa là người Mệnh an tại
bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, có Tham Lang và Vũ Khúc đồng cung hay
xung chiếu, lại thêm có một hoặc hai sao Hỏa Tinh, Linh Tinh chiếu vào là số
giàu sang, phú quý như bậc hầu bá dưới thời phong kiến ngày xưa.
Điều mà chúng ta lưu ý ở đây là sự thành công, phú quý của mẫu người
Tham Vũ Đồng Hành không phải từ quan trường, mà chính là từ thương
trường. Như trên chúng ta đã nói, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành rất gan
dạ, tự tin, nhiều tham vọng, có óc tổ chức và có năng khiếu về thương mãi,
cho nên họ là những tay kinh doanh có tầm vóc chứ không phải chỉ làm ăn
buôn bán lẻ tẻ. Đó phải chăng là do sự ảnh hưởng kỳ diệu của vòng Ngũ
32
Hành tương sinh trong cách này: hành Hỏa của Linh Tinh, Hỏa Tinh một mặt
phù trợ cho hành Thổ của bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi để tương sinh cho
hành Kim của Vũ Khúc, đồng thời cũng đốt cho Kim này thành Thủy để
dưỡng Mộc của Tham Lang, rồi Mộc của Tham Lang lại là củi cho ngọn lửa
Linh, Hỏa cháy bùng lên...
Một đặc điểm khác đáng lưu ý của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là vì ảnh
hưởng của Vũ Khúc, cho nên mẫu người này thường lao đao, lận đận trong
tiền vận, và sớm lắm thì cũng phải qua trung vận, đa số phải đến hậu vận
mới có thể gọi là thành công như ý muốn và lúc đó cơ nghiệp mới có thể bền
vững được.
Hỏa Tinh và Linh Tinh là hai sao Hỏa, cho nên lúc phát thì sẽ giúp cho bộ
Tham Vũ phát rất nhanh, nhưng nếu phát không đúng vào thời vận thì cũng
chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên rồi cũng tắt đi một cách nhanh chóng. Nếu
biết được lý lẽ này, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành chẳng nên bôn ba sớm
trong cuộc đời mà chuốc nhiều phiền não, đắng cay. Điều này rất nhiều
người đã biết, nhưng họ không cam lòng, để cuối cùng cũng nói được một
câu an ủi với chính mình như Nguyễn Du đã nói: càng phong trần danh ấy
càng cao! Đặc điểm này thấy rõ nhất ở những người Tham Vũ Đồng Hành
mà Mệnh an tại hai cung Sửu và Mùi, hai sao Tham Vũ sẽ đồng cung, khắc
chế nhau mạnh mẽ trong tiền vận (khoảng 33 hoặc 36 tuổi) khiến cho đương
số bao lần thấm mệt và sớm ngộ được cái ý nghĩa của câu: có tài mà cậy chi
tài... Phải qua trung vận và bắt đầu vào hậu vận thì sự nghiệp của người
Tham Vũ Đồng Hành có Mệnh an tại Sửu hay Mùi mới được ổn định và bền
vững cho đến cuối cuộc đời.
Nói đến sự thành công của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành nhanh hay
33
chậm, bền vững hay ngắn ngủi thì chúng ta cũng nên lưu ý trường hợp nếu
Mệnh an ở tứ mộ, có Tham Lang tọa thủ đồng cung với Hỏa Tinh, thì đây
còn gọi là cách Tham Hỏa Tương Phùng, nếu gặp Linh Tinh thì gọi là cách
Tham Linh Tịnh Thủ, cũng là những dạng của Tham Vũ Đồng Hành, nhưng
với cách này, khi đến thời, đương số sẽ phát rất nhanh vì ảnh hưởng mạnh
mẽ của Ngũ Hành tương sinh giữa Tham Lang thuộc Mộc và Hỏa Tinh thuộc
Hỏa đồng cung với nhau. Tuy nhiên, công danh sự nghiêp dù có phát rất
nhanh chóng, nhưng cũng chẳng giữ được lâu bền, vì đây cũng chỉ là cách
bạo phát, bạo tàn mà thôi.
Tương tự như vậy, chúng ta xét đến vị trí của hai chính tinh Tham Vũ tại tứ
mộ. Đối với những người Tham Vũ Đồng Hành mà Mệnh an tại hai cung Thìn
và Tuất thì sự khắc chế của hai sao Tham Vũ tương đối nhẹ hơn vì nằm trong
vị trí xung chiếu nhau, vì vậy, sự nghiệp của mẫu người này sẽ thành đạt
sớm hơn, nhưng mức độ của sự thành đạt lại không có kích thước bằng
những người Mệnh an tại Sửu Mùi.
Và một điểm khác biệt nữa là cá tính của mỗi mẫu người Tham Vũ Đồng
Hành sẽ có sự khác biệt tùy theo cung an Mệnh. Khi Mệnh an ở Thìn Tuất thì
nếu chúng ta giao tiếp với những người này, chúng ta sẽ nhận ra họ như có
hai con người khác nhau: một con người vì ảnh hưởng của Vũ Khúc nên
thường sống cô độc, suy nghĩ và quyết định một mình, nhưng khi ra ngoài,
sao Tham Lang lại làm cho họ thành một con người khác, họ biết nói, biết
làm cho vui lòng người khác, mặc dù trong thâm tâm họ không thích như
vậy, và phải chăng đây cũng là một đặc tính giúp họ thành công trong lãnh
vực kinh doanh?
Tóm lại, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là một mẫu người lý thú khi chúng
34
ta quen biết hoặc hợp tác trong vấn đề làm ăn mua bán với nhau. Họ là
những người có cá tính rất mạnh, gan lì, táo bạo và nhiều tham vọng. Địa
bàn giúp họ thành công là thương trường. Và thời điểm mà họ xây dựng
được sự nghiệp như ý là hậu vận của cuộc đời.
BÀI 10
MẪU NGƯỜI “NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO”
Khoa Tử Vi chia và xếp hạng các tinh đẩu ra làm 3 loại: Chính Tinh, trung tinh
và phụ tinh. Sao Tử Vi được xem như chủ tể của các vì sao hay còn gọi là đế
tinh. Vì vậy, Tử Vì cũng tựa như một vị Vua dưới thời phong kiến. Vua cũng
có thể là minh quân, cũng có thể là hôn quân hoặc chỉ là Vua bù nhìn. Bản
chất của sao Tử Vi cũng vậy. Nếu ở những vị trí miếu, vượng thì Tử Vi là một
ông Vua đức độ, được thêm hiền thần (cát tinh) phò trợ thì chắc chắn là một
minh quân. Ngược lại nếu ở vị trí hãm địa hay bị bọn gian, nịnh thần (ám
tinh, hung tinh) vây quanh thì đương nhiên sẽ trở thành một hôn quân.
Nhưng cũng có một vài vị Vua tuy sa cơ thất thế, lạc vào hãm địa nhưng lại
không trở thành xấu xa mà chỉ có khuynh hướng chán mùi trần thế, muốn
bỏ đời tìm đạo. Đó chính là nét đặc thù của mẫu người Tử Tham Mão Dậu.
Hay cũng có thể gọi là mẫu người Nửa Đời Nửa Đạo.
Trước tiên chúng ta thử tìm xem những nguyên nhân nào đã khiến cho bộ
Tử Tham khi cư ở Mão Dậu lại trở thành tốt không tốt hẳn, mà xấu cũng
không xấu hẳn như vậy? Hai cung Mão và Dậu là hai vị trí không tốt cho sao
Tử Vi. Cũng tại hai vị trí này Tử Vi gặp Tham Lang hãm địa. Tuy là đế tinh
nhưng nằm ở nơi bất lợi cho nên Tử Vi mất hết uy lực nên dễ đưa đến
khuynh hướng chán đời., yếm thế, và hay có cái nhìn nghiêng nhiều về lãnh
35
vực tâm linh. Muốn tìm sự yên ổn cho tâm hồn nơi tôn giáo.
Đi xa hơn, chúng ta hiểu rằng khi nói về phương vị trong khoa Tử Vi thì cung
Mão là phương Đông, là hướng của mặt trời mọc, là biểu tượng ban mai.
Cung Dậu là phương Tây, là hướng mặt trời lặn, là biểu tượng của hoàng
hôn. Hai cung Mão và Dậu là hai thời điểm bắt đầu và chấm dứt của một
ngày, cũng là biểu tượng của sự sớm nở tối tàn, sớm nắng chiều mưa, và
chính những biểu tượng này đã góp phần vào khuynh hướng bi quan, yếm
thế cho Tử Vi tại hai cung Mão Dậu.
Ngược lại, bản tánh của Tham Lang là ham vui, thích sự náo nhiệt ồn ào
trong cuộc sống. Khi hãm địa thì sự ham thích danh lợi của Tham Lang lại
càng mạnh mẽ hơn và ba chữ “Tham, Sân, Si” đều có đủ. Chữ “Tham” dẫn
đầu để lôi kéo quyến rũ Tử Vi vào vòng lẩn quẩn của thế tục.
Như vậy, chúng ta có thể nói đây là nét đặc biệt của mẫu người Tử Tham
Mão Dậu. Nhưng chúng ta cũng nên phân biệt 2 mẫu người sau đây:
1. Mẫu người có khuynh hướng về tôn giáo mạnh hơn những người khác khi
còn nhỏ, giống như một bản tính trời sinh. Đó là trường hợp chúng ta thấy
những đứa bé lúc nhỏ theo cha mẹ đến chùa, nhà thờ, hoặc tham dự những
lễ lạt, thờ cúng, v.v…..Có những em bé làm theo như bổn phận, nhưng cũng
có những đứa bé lại có ý thích thú, tự ý học thuộc kinh sách, tự ý đến chùa,
đến nhà thờ để tham dự những sinh hoạt một cách tích cực….. Và dần dần
cái ý tưởng về tôn giáo ngày càng rõ ràng hơn những đứa bé khác cùng
trang lứa... Khi lớn lên, tùy theo mỗi hoàn cảnh trải qua trong cuộc sống, nội
tâm của họ phải chịu sự giằng co giữa đời và đạo khiến cho họ nhìn đời mà ít
khi thấy màu hồng.
36
Và tùy theo mức độ hướng về đời hay đạo, bên nào mạnh hơn, có nghĩa là
còn tùy theo sự ảnh hưởng của các sao đi cùng với chính tinh Tử Tham. Có
người thể hiện khuynh hướng tôn giáo một cách tiêu cực như thích làm việc
xã hội, bỏ công bỏ của ra làm việc từ thiện, hoặc tích cực hơn thì đó là
những người tu tại gia, và hơn thế nữa thì theo con đường tu hành ngay từ
khi còn bé.
Những biến chuyển này đều do tính trung hậu, phúc đức của Tử Vi mà ra.
Nhưng ở Mão và Dậu, oái ăm thay Tử Vi lại ngồi chung với Tham Lang hãm
địa. Đây là hình ảnh cho một cuộc đời khổ não. Bởi vậy dù đã bước vào con
đường tu hành nhưng nợ trần vẫn chưa dứt.
2. Mẫu người Tử Tham Mão Dậu là lúc khởi đầu của cuộc đời, họ hoàn toàn
chưa có một ý niệm mạnh mẽ gì về tôn giáo cả. Nhưng đến một lúc nào đó
họ bị vấp ngã để rồi chính những sự đau đớn chua cay ở đời đã dẫn dắt họ
đến với đạo. Nhưng vào được với đạo hay không thì còn tùy vào các sao đi
cùng Tử Tham. Chẳng hạn nếu gặp Không Kiếp thì khả năng và sác xuất tu
hành rất cao. Nếu gặp Xương, Khúc thì tâm còn vướng nặng chuyện của trần
tục cho nên khó mà tu thành.
Ngoài ra nếu không đề cập đến phương diện tâm linh thì cuộc đời của
những người Tử Tham Mão Dậu cũng ba chìm bảy nổi, thành bại thất
thường từ cuộc sống vật chất cho đến vấn đề tình cảm lúc nào cũng đòi hỏi
ở đương số một sự phấn đấu. Nhưng cuộc đời cũng buồn nhiều hơn vui, ít
khi được xúng ý toại lòng.
Tóm lại: Mẫu người Tử Tham Mão Dậu có một nét đặc biệt là có lòng tín
37
ngưỡng rất mạnh ngay từ khi còn bé. Cuộc sống của họ bị giằng co giữa đời
và đạo, điển hình như những người tu tại gia, tu xuất v.v….. Điểm này có
phần giống những người có Thiên Không thủ Mệnh, là những người tuy
không bi quan, yếm thế như Tử Tham Mão Dậu mà họ chỉ hướng về tôn giáo
mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bị vấp ngã, hay lưng trời gãy cánh
(bán thiên triết sĩ).
BÀI 11:
MẪU NGƯỜI “TỲ HÀ NGỌC (CỰ KỴ)”
Tâm lý chung của nhiều người khi nghiên cứu về khoa Tử Vi là thường chỉ
chú tâm đến những bộ sao chính như Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham
hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương v.v... Thật ra những cách đơn giản như Cự Kỵ,
hoặc các bộ sao nhỏ như Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ bàn đến
cũng cho chúng ta thấy một số mẫu người có những nét rất đặc biệt trong
cuộc đời, nếu không muốn nói là những cách, những bộ sao nhỏ này đôi khi
còn ảnh hưởng sâu đậm hơn và chi phối mạnh mẽ hơn trên cuộc đời của
đương số. Và trước khi phác họa những nét đặc biệt cũng như những điểm
giống nhau và khác nhau của hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người Thai Phục
Vượng Tướng, chúng ta hãy bàn qua bản chất của mỗi sao trong hai cách
này.
Trước tiên, Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão,
Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Về ý nghĩa thì Cự Môn là cái miệng, và
chúng ta đã biết, con người sống cũng nhờ cái miệng, chết cũng vì cái miệng,
được người thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng bởi cái miệng của
mình mà thôi... Ngoài ý nghĩa trên, nếu Cự Môn tọa thủ tại những vị trí
38
miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của sự giàu sang, thông minh, cơ
trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành ngoại giao,
giao thiệp, dạy học, luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá số của con cái mình có
cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá và Thiên Phù
hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành luật, vì
tương lai chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại,
nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy
nghĩ, cứ mở miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những
chuyện thị phi khẩu thiệt mà thôi.
Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc. Chẳng hạn, Cự Môn ở Tí Ngọ là cách
Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn trong đá, Cự Môn gặp Thái
Dương là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp
Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có
nghĩa là ngọc bị tì vết.
Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu như độc
hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng, thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông
nổi và hay lầm lẫn... Với bản chất như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên
ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ cũng có một điểm tốt là giữ được
của.
Cách Cự Kỵ không có gì đáng nói đối với nam mệnh, ngoài những nét tổng
quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay bị nhiều điều thị phi khẩu
thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà cách này chỉ đáng lưu ý hơn đối với
nữ mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào phái nữ, hay
nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn bà, cho nên
mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến lá số của những
39
người đàn bà có cách Cự Kỵ.
Khi lá số của một nữ mệnh có Cự Môn tọa thủ và có Hóa Kỵ đồng cung, xung
chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có điểm bất lợi. Ở đây chúng ta phải
lưu ý một điều là khi luận đoán một lá số của nữ mệnh mà có những cách
như Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề
cập tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vì vấn đề sẽ
liên quan đến danh tiết và phẩm hạnh của một người đàn bà. Do đó, chúng
ta nên phân biệt rõ ràng mỗi trường hợp sau đây.
Trường hợp lá số của một người đàn bà mà cung Mệnh có Cự Môn miếu
vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải quan sát thêm ở cung Mệnh và
các cung chính khác như cung Thân, cung Phúc, cung Phu, cung Quan, cung
Nô... để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như Thái Dương, Tứ
Đức... hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên Hình... thì
Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến cho
mình bị những tai tiếng thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai
lầm phẩm hạnh của mình mà có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu
tình dục (sexual harassement). Mức độ nặng hơn, nếu gặp những sao như
Thiên Hình, Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ
buồng trứng, tử cung v.v... Hoặc có thể là những tai nạn về xe cộ và đáng kể
nhất là những tai họa về sông biển như một số người đã gặp trên đường
vượt biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp này, viên
ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh mà
rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là
ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.
Trường hợp nếu Cự Môn tuy là miếu, vượng mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự
40
hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như Văn Xương, Văn Khúc, Hồng Loan
hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình dục như Tham Lang, Đào
Hoa, Thiên Riêu v.v... thì những gì không tốt xảy ra cho đương số là do bản
tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn cảnh chỉ là những trợ
lực thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại gặp thêm
Đào Hồng thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, và khi
đã có gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì chồng
con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa vị
trong xã hội, là những mệnh phụ phu nhân... Trường hợp này có thể ví như
mẫu người của Vương Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa đó, với xã hội phong kiến
đó, mà nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng đánh đàn, thì làm
sao trách được sự đánh giá nghiêm khắc của người sau: Đoạn trường cho
đáng kiếp tà dâm. Và như vậy, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong trường
hợp này là một viên ngọc vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ
không phải do tay người dũa ngọc hay người chủ của viên ngọc.
Trường hợp nữ mệnh có Cự Môn hãm địa tọa thủ mà không được Tuần,
Triệt án ngữ hay được các sao “đoan chính” hóa giải phần nào thì đây là một
mẫu người đặc biệt. Là mẫu người có một bề ngoài mà ai mới gặp cũng thấy
yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy rõ con người thật được
che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố kỵ đủ điều... Và
nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì Hà Ngọc thật là đúng
nghĩa!
Khoa Tử Vi cũng cho rằng, cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung
chính yếu khác như cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc hay cung
Phu Thê cũng còn nói lên sự bất ổn trong cuộc sống tình cảm của đương số.
Lá số có cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một mối tình hay chỉ một cuộc
41
hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau theo kiểu già nhân
ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người này, nếu không
được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường là
do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng
ích kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.
Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt cho cả nam mệnh và nữ mệnh, nhưng đối với
nữ mệnh thì sự ảnh hưởng nặng nề và tai hại hơn trong lãnh vực trinh tiết
và phẩm hạnh của đương số. Nói chung, nữ mệnh mà gặp cách Cự Kỵ thì
cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức độ nặng
nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp đặc biệt,
cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi Thân, khoa Tử Vi
Đẩu Số gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt vì có sự ứng
hợp.
BÀI 12
MẪU NGƯỜI “NHẬT NGUYỆT ĐỒNG LÂM”
Nhật là Thái Dương, là mặt trời. Nguyệt là Thái Âm, là mặt trăng. Hai vầng
Nhật Nguyệt là 2 trong 14 chính tinh của khoa Tử Vi. Những đặc tính của
Nhật Nguyệt rất thực tế. Mặt trời là nguồn năng lượng lớn nhất đối với qủa
đất của chúng ta cho nên người có Thái Dương thủ Mệnh là người rất năng
động. Dù nam hay nữ tính tình cũng có phần nóng nảy.
Từ cổ chí kim mặt trăng luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân
cho nên người có Thái Âm thủ Mệnh thường mang tính đa sầu, đa cảm.
Chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn bản chất của mỗi sao trước khi có cái nhìn
42
khái quát về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.
Thái Dương thuộc nam đẩu tinh, hành Hỏa, miếu địa ở Tỵ, Ngọ tức là mặt
trời vào lúc giữa trưa, và vượng địa ở Dần, Mão, tức là mặt trời lúc bình
minh. Ở 4 vị trí trên, Thái Dương chủ về sự thông minh, lòng nhân đức, tài
lộc và uy quyền. Thái Dương rất hợp với người Dương Nam, Dương Nữ, và
những người sinh vào ban ngày.
Thái Âm thuộc bắc đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Dậu, Tuất, Hợi, là lúc
mặt trăng tỏa sáng nửa đêm, vượng địa ở hai cung Thân (lúc trăng mới
mọc), và Tí (lúc trăng sắp tàn)
Ở những vị trí miếu vượng, Thái Âm là sự nhân từ, tánh đa sầu, đa cảm và
lãng mạn, có khiếu về văn chương, nghệ thuật. Đồng thời Thái âm cũng chủ
sự giàu có về điền sản như nhà cửa, đất đai…..Thái Âm đặc biệt phò trì cho
người Âm Nam, Âm Nữ, những người mạng Mộc, Thủy, và người sinh vào
ban đêm, nhất là sinh vào những đêm trăng tròn 15, 16 thì càng tuyệt hảo.
Trong cơ thể, Nhật Nguyệt tượng trưng cho đôi mắt. Trong gia đình, Thái
Dương là ông, là cha, là chồng, Thái Âm là bà, là Mẹ, là vợ…..Điều này rất rõ
khi cung hạn có Nhật hay Nguyệt tọa thủ thì những gì xảy ra trong hạn đó
không những là cho chính bản thân của mình mà còn nói lên những sự việc
xảy ra cho chồng, cho vợ, cha mẹ, ông bà của đương số nữa. Sự biểu tượng
này cũng nói lên tình cảm hay sự gần gũi mật thiết trong cuộc sống giữa
người con đối với cha hay mẹ. Chẳng hạn, khi chúng ta thấy lá số của một
người có Thái Dương thủ Mệnh thì người này chịu ảnh hưởng tánh tình của
cha nhiều hơn, có thể sẽ nối nghiệp cha, hoặc có thể vì hoàn cảnh, đương số
sẽ sống gần gũi và hợp với cha nhiều hơn là với mẹ.
43
Khi nói đến hai sao Nhật Nguyệt, khoa Tử Vi có một nguyên tắc mà chúng ta
thường nghe là: “Chính bất như chiếu” nghĩa là: Nhật Nguyệt chiếu Mệnh
tốt hơn thủ Mệnh. Điều này nghĩ cũng hợp lý, rất thực tế. Chẳng hạn như
chúng ta đặt một ngọn đèn ngay trước mặt mà đọc sách thì ánh sáng chiếu
trực tiếp vào mắt sẽ làm cho mắt bị chói và mau mỏi mệt hơn là để ngọn
đèn chiếu lên chụp đèn, hay chiếu vào tường rồi phản chiếu vào trang sách.
Chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn khi đi sâu vào trường hợp Nhật Nguyệt đồng
cung. Trong 12 cung của lá số, bộ Nhật Nguyệt chỉ đồng cung ở hai vị trí Sửu,
Mùi tạo nên một mẫu người khá đặc biệt gọi là mẫu người Nhật Nguyệt
Đồng Lâm.
Nhật Nguyệt Đồng Lâm cũng giống như hiện tượng Nhật Thực, Nguyệt Thực.
Nghĩa là trong một khoảng thời gian nào đó, mặt trời, mặt trăng, và trái đất
cùng ở một đường thẳng. Như chúng ta đã thấy, khi Nhật Thực hay Nguyệt
Thực thì mặt trăng che mặt trời hoặc mặt trời che mặt trăng, cho nên ánh
sáng mờ mờ ảo ảo, ngày chẳng ra ngày, đêm cũng không giống đêm. Đó
chính là nét đặc thù đầu tiên của mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.
“Những người bất hiển công danh
Cũng bởi Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi.”
Ý nghĩa thật qúa rõ ràng: Những người có Mệnh an tại Sửu/Mùi, có Nhật
Nguyệt tọa thủ thì một đời công danh cũng như sự nghiệp khó lòng được
như ý. Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt mà chúng ta sẽ bàn đến sau.
Mệnh an tại Sửu/Mùi có Nhật-Nguyệt đồng thủ, mặc dù không phải là
44
những vị trí miếu vượng của Nhật-Nguyệt nhưng cũng là người khá thông
minh vì đó là bản chất thuần túy của vầng Nhật-Nguyệt. Tuy nhiên vì hai
nguồn ánh sáng nằm cùng với nhau cho nên Nhật-Nguyệt tự che lấy ánh
sáng của nhau như đã nói ở trên. Vì vậy người Nhật Nguyệt Đồng Lâm có trí
nhớ kém và thường hay có những quyết định lầm lẫn, mãi cho đến khi việc
đã xong, quay mình nhìn lại thì mới thấy ân hận tại sao lúc đó mình làm như
vậy. Nhật-Nguyệt là biểu tượng của ngày và đêm, và cũng là biểu tượng của
Âm và Dương trong vũ trụ cho nên người có NN thủ hay chiếu Mệnh thường
có năng khiếu về ngành điện tử, điện toán, vi tính v.v…..
Nhật - Nguyệt đồng cung cũng như Nhật Thực, Nguyệt Thực là khoảng thời
gian mà ánh sáng và bóng tối hòa lẫn với nhau, trắng đen lẫn lộn, và như
chúng ta thường gọi là lúc tranh tối tranh sáng. Bởi thế, người Nhật Nguyệt
Đồng Lâm thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị những chứng nhức đầu kinh niên,
căng thẳng thần kinh, dễ bị xúc động, và chắc chắn một điều là hai mắt kém,
có nhiều bệnh tật khi còn bé.
Riêng đối với phái nữ, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần có kinh nguyệt
thường bị đau bụng dữ dội hơn những người khác. Và họ thường hay bị
những chứng bệnh mà đông y gọi là bệnh khí huyết.
Nếu nói như vậy, Mệnh có Nhật-Nguyệt đồng thủ tại Sửu/Mùi thì đây không
phải là một cách tốt, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như sau:
1.Mệnh có Nhật Nguyệt tọa thủ tại Sửu/Mùi mà có Tuần án ngữ, và được
các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Quang Quí, Thai Tọa, Đào Hồng Hỷ
hội hợp thì trở nên tốt. Đây là số của những nhà văn, nhà thơ, nhà báo,
những người làm ngành truyền thông, hay là giới văn nghệ sĩ danh tiếng và
45
có địa vị trong giới văn chương, nghệ thuật.
2.Mệnh có Nhật Nguyệt đồng thủ tại SửuMùi, có Hóa Khoa, Hóa Lộc đồng
cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu thì lại trở nên tốt đẹp. Công danh sự
nghiệp vững vàng, có quyền cao chức trọng trong xã hội.
Tóm lại, ngoài hai trường hợp vừa nêu trên, Nhật Nguyệt Đồng Lâm ở
Sửu/Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo ấm nhưng đây là mẫu người bất
đắc chí, có khả năng mà không gặp được thời vận điển hình như nhà thơ Tú
Xương ngày trước.
Cũng là Nhật-Nguyệt đồng cung, nhưng đúng với nguyên tắc căn bản mà
chúng ta đề cập ở trên “Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh” Như
vậy nếu Mệnh an ở Sửu được NN đồng cung ở Mùi xung chiếu thì chắc chắn
tốt hơn Nhật-Nguyệt tọa thủ tại Mệnh. Và phú Tử Vi cũng khẳng định điều
này: “Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài.” Trong trường
hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của Nhật-Nguyệt, và có
Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng cho Nhật-
Nguyệt. Được cách này, công danh phú quý càng rực rỡ và bền vững hơn.
Như vậy, khi nói đến mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta phải phân
biệt 2 trường hợp. Nếu Nhật-Nguyệt đồng thủ Mệnh thì cuộc đời được mô
tả khái quát như câu: “Những người bất hiển công danh, cũng vì Nhật-
Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi” Nếu Nhật-Nguyệt đồng cung xung chiếu Mệnh
thì công danh sự nghiệp chắc chắn sẽ trong tầm tay.
Nhưng cho dù ở trường hợp nào thì mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm
giống nhau ở chổ mắt yếu, nhức đầu kinh niên, thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ
46
kém, phái nữ thường bị đau bụng dữ dội khi hành kinh. Năng khiếu nổi bật
nhất của họ là văn chương và nghệ thuật.
BÀI 13
MẪU NGƯỜI “THAI PHỤC VƯỢNG TƯỚNG”
Trong khoa Tử Vi Đẩu Số, “Thai Phục Vượng Tướng” chỉ là một bộ sao nhỏ,
gồm các sao: Thai, Phục Binh, Đế Vượng, Tướng Quân hay Thiên Tướng.
Trong cơ thể, sao Thai chỉ bộ phận sinh sản của đàn bà, cũng có nghĩa là bào
thai, là sự sinh đẻ, là vấn đề sinh lý, tình dục, một cấu tạo mới hay sự thay
đổi mới. Phục Binh chỉ sự lừa gạt, dối trá, âm mưu, gài bẫy, hãm hại. Đế
Vượng có nghĩa là cái lưng, là số nhiều, là sự hưng thịnh, phát đạt. Đế
Vượng còn chỉ sự sinh sôi nảy nở, sự canh cải mới mẻ. Thiên Tướng/Tướng
Quân trong cách này hàm ý nghĩa là người đàn ông.
Bộ Thai Phục Vượng Tướng (TPVT) không có ý nghĩa gì nhiều về công danh,
sự nghiệp hay giàu sang phú quý, và cũng không có gì đáng nói với nam giới.
Đối với nữ giới, bộ sao này rất là quan trọng. TPVT cũng phần nào giống như
bộ Cự Kỵ, hay Tham Kỵ, nói lên bản tánh, những biến cố, cũng như những
khúc quanh quan trọng về mặt tình cảm, hay khuynh hướng tình dục trong
cuộc đời của một người, đặc biệt là phụ nữ. Vì vậy chúng ta phải rất thận
trọng và cân nhắc khi thấy một lá số nữ mệnh có cách TPVT. Bởi vì lời giải
đoán là sự đánh giá về danh tiết và phẩm hạnh của đương số. Điều đó đối
với một người đàn bà tối ư quan trọng.
Trường hợp nữ mệnh có TPVT nằm trong các cường cung như Mệnh, Tài,
47
Quan, Phúc, Di, Thê mà chính cung có những sao chủ sự đoan chính, hay
những sao có khả năng khắc chế tính lãng mạn, dâm đãng, lẳng lơ, sự buông
thả trong vấn đề tình dục, thì lá số đó sẽ có 2 trường hợp:
1. “Tiền Dâm Hậu Thú” có nghĩa là ăn ở với nhau trước rồi mới cưới hỏi sau.
Với nhịp sống của một xã hội tân tiến hôm nay thì vấn đề này trở nên hết
sức bình thường. Nhưng nếu ngược trời gian trở về một thế kỷ trước đây thì
qủa là một điều khó có thể chấp nhận được. Điều lý thú là khoa Tử Vi có thể
nói lên những điều thầm kín ấy một cách khá chính xác.
2. Sao Thai, Phục Binh nói lên sự hư thai, Đế Vượng ý nói nhiều lần. Đương
số có thể gặp cả hai trường hợp nêu trên.
Cũng cách TPVT nhưng Mệnh và các cung chính lại không có những sao khắc
chế, ngược lại có thêm những dâm tinh khác như Tham Lang, Đào Hoa,
Thiên Riêu, Mộc Dục…..đồng thủ hay hợp chiếu thì đương số sẽ thất trinh,
thất tiết với người khác khi lấy chồng, hoặc sống với nhau theo kiểu già nhân
ngãi, non vợ chồng, chứ không có cưới hỏi gì.
Trường hợp nữ Mệnh gặp cách TPVT mà cung Mệnh và những cung chính bị
nhiều sát tinh như Địa Không, Địa Kiếp đồng cung hay hợp chiếu thì sự thất
tiết có thể là do hoàn cảnh hay tai nạn ngoài ý muốn. Không hẳn đương số là
hạng đàn bà lẳng lơ mất nết.
Trường hợp có sao Thai thủ Mệnh, nhưng không đủ 4 sao mà Thai lại gặp
Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ đồng cung hoặc hợp chiếu thì ý nghĩa ở đây
không những chỉ đơn thuần vấn đề ăn ở với nhau trước khi cưới hỏi mà còn
chỉ bản tánh lẳng lơ, mất nết, thích chuyện ngoại tình, cho nên phú Tủ Vi
48
mới có câu:
“Đào Hồng mà ngộ sao Thai
Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng.”
hay
“Đồng Hồng mà ngộ sao Thai
Chồng vừa khỏi cửa đón trai vào nhà”
Trường hợp nữ mệnh có TPVT mà sao Thai cùng với những dâm tinh khác
tọa thủ tại Mệnh, mà đương số đã có gia đình thì sẽ có thai do ngoại tình.
Nếu Thai gặp Song Hao thì dễ bị hư thai, gặp Lưu Hà hay Hóa Kỵ thì dùng
thuốc mà phá thai, hặp Thiên Hình hay Kiếp Sát thì nạo thai, hay khi sanh
phải bị mổ xẻ.
Nếu Thai tọa thủ tại Mệnh có Thiên Riêu đồng cung hay hợp chiếu thì đây
cũng là mẫu đàn bà có cuộc sống rất buông thả. Nếu Thai Riêu gặp thêm
Đào Hoa nữa thì phải chịu một kiếp phong trần, và nếu không được những
sao khắc chế bớt sẽ dễ trở thành gái giang hồ, đàn bà lăng loàn, xem thường
luân thường đạo lý.
Cũng cách TPVT mà có Phục Binh thủ Mệnh hoặc xung chiếu từ Thiên Di thì
sự thất trinh của đương số thường là bị dụ dỗ, cưỡng bức, hay gài bẫy. Nếu
có thêm sát tinh Không Kiếp đồng cung hay hợp chiếu thì càng chắc chắn
hơn.
Trường hợp nữ Mệnh không thuộc cách TPVT nhưng trong lá số bộ sao này
49
nằm ở một cung nào đó thì chúng ta cũng nên cân nhắc 2 trường hợp sau
đây:
1. Mệnh của đương số là người đoan chính, đến hạn gặp TPVT thì vấn đề
sinh con đến trong hạn này.
2. Nếu Mệnh là người đa tình, lãng mạn mà hạn gặp TPVT (phải đủ 4 sao) thì
phải nên thận trọng trong vấn đề giao lưu tình cảm. Trong hạn này (thường
ứng nghiệm vào tiểu hạn 1 năm) cuộc đời sẽ có nhiều thay đổi, những khúc
quanh trong vấn đề tình cảm, và có thể khúc quanh này sẽ thay đổi cả cuộc
sống hiện tại của đương số.. Và một điều đáng lưu ý là sự việc không chỉ đơn
thuần trên vấn đề tình cảm mà TPVT còn có ý nghĩa sâu đậm trên vấn đề xác
thịt.
Đối với nam giới thì cách TPVT chỉ rõ bản tính đặt nặng vấn đề vật chất hơn
tình cảm. Trong tình yêu, họ cho rằng trái tim và tâm hồn của người yêu
chưa đủ, mà phải chiếm đoạt cho được cả thân xác. Nếu hội thêm những
sao như Tham Lang, Phá Quân hãm địa, Không Kiếp, Quan Phù, Quan
Phủ…..thì đương số chắc chắn là bà con của họ Sở.
Tóm lại, trong cách TPVT, đặc biệt đối với phụ nữ thì nói lên sự chủ ý hay tự
nguyện của đương số nặng hơn là vì hoàn cảnh, hay tai nạn như cách Cự Kỵ.
Nhìn chung, mẫu người TPVT có thể bao gồm mọi thành phần, mọi giai cấp
trong xã hội, từ một người đàn bà tầm thường cho đến một mệnh phụ phu
nhân, vì đây chỉ là lãnh vực tình cảm hay khuynh hướng tình dục, là vấn đề
phẩm hạnh của con người.
BÀI 14
50
MẪU NGƯỜI “KHỐC HƯ”
Thiên Khốc và Thiên Hư chỉ là hai sao nhỏ trong những phụ tinh của khoa Tử
Vi. Nhưng không phải vì thế mà chúng không có ý nghĩa gì đáng kể trong
cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật vậy, con người khi lọt lòng mẹ đã
cất tiếng khóc chào đời, khi lớn lên cũng qua tiếng cười mà biết được niềm
hạnh phúc, cũng như tiếng khóc đễ biết được nổi thống khổ, thành bại ở
đời. Khốc Hư là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, vì vậy cho dù bất cứ lãnh
vực nào của cuộc đời, khi nói đến sức khỏe, tình duyên, hôn nhân, tiền bạc,
hay công danh sự nghiệp thì sự hiện diện của Khốc Hư cũng cho ta biết
đương số khi nào đi vào những lãnh vực này, con đường với những nụ cười
thoải mái hay con đường đầy nước mắt thương đau.
Chẳng hạn, chưa nói đến khốc hư tọa thủ tại Mệnh mà chỉ nói đến Khốc Hư
tọa thủ tại cung Quan Lộc thì cũng hiểu được công việc làm của đương số
phải vất vả, lận đận, ba lần bại mới được một lần nên. Cùng một ngành nghề
nhưng người có Khốc Hư ở Quan Lộc phải lao tâm khổ lực hơn những người
không có. Nếu Khốc Hư ở Tài Lộc thì đồng tiền kiếm được chắc chắn phải đổi
bằng nhiều mồ hôi và nước mắt. Khốc Hư ở Phu Thê thì việc hôn nhân phải
trải qua nhiều trở ngại, nếu ăn ở với nhau rồi thì nước mắt cũng nhiều hơn
là nụ cười. Khốc Hư ở cung Tử Tức thì cha mẹ nuôi con rất cực khổ, đến khi
con lớn lên lại phải gánh chịu nhiều phiền muộn vì con cái. Khốc Hư ở Nô
Bộc thì từ bạn bè đến kẻ ăn người ở, và cả người tình của mình đều thường
xuyên đem đến những phiền muộn cho mình trong việc giao tế, làm ăn và
chuyện tình cảm.
Thiên Khốc, Thiên Hư đều thuộc hành Thủy, đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu, và
51
Mùi. Là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, cho nên người có KH thủ Mệnh
thường hay lo lắng, hay suy tư, và cũng rất hay bị đau ốm bệnh tật. Đây là
mẫu người kín đáo và có phần cô đôc tựa như Vũ Khúc hay Đẩu Quân thủ
Mệnh vậy. Lúc còn sống trong gia đình thì khắc với cha mẹ, anh em. Khi có
gia đình thì khắc với vợ con, nhưng sự xung khắc không đến nổi trầm trọng.
Người KH nếu chưa qua khỏi tiền vận thì đừng nên toan tính nhiều để rồi
thất vọng. Muốn được xứng ý toại lòng phải từ trung vận trở về sau.
Tuy nhiên, nếu trên cương vị một người chủ hay một cấp chỉ huy thì mẫu
người KH thủ Mệnh là một cấp thừa hành tốt vì họ là người có tinh thần
trách nhiệm. Giao việc cho họ, chúng ta sẽ thấy họ lo lắng, suy nghĩ, soạn
thảo kế hoạch, đắn đo cân nhắc rất thận trọng. Và khi đã làm thì làm đến
nơi đến chốn.
Nhưng oái oăm thay, với tinh thần làm việc như thế mà ít khi người KH đạt
được kết qủa một cách dễ dàng ngay từ phút đầu tiên. Vì thế khoa Tử Vi gọi
mẫu người KH là “Tiền Trở Hậu Thành” Có nghĩa là thường bị trở ngại lúc
đầu rồi sau đó mới thành công. Tuy nhiên đặc tính Tiên Trở Hậu Thành chỉ
ảnh hưởng mạnh mẽ trong tiền vận mà thôi, rồi sau đó sự tác hại sẽ nhẹ
dần. Về đặc tính này, người KH có phần nào giống người Vô Chính Diệu:
trong một hạn, dù tiểu hay đại hạn, và trong cả một đời người, chỉ được
may mắn, hanh thông vào nửa đời sau mà thôi.
Có phải chăng vì vậy mà người KH rất có ý chí, luôn luôn có gắng để vươn lên
trong mọi tình huống. Khi vượt qua khỏi cái tiền vận gian nan sẽ bước vào
một hậu vận tốt đẹp hơn. Điểm nổi bật của người KH là khả năng thuyết
phục người khác, có tài hùng biện và rất sắc bén trong lĩnh vực chính trị. Nếu
KH đi chung với Cự Nhật hay Tang Hổ thì đây là những thầy giáo giỏi, những
52
nhà ngoại giao hay chính khách có tài.
KH có hai vị trí tốt đẹp là hai cung Tí và Ngọ mà chúng ta quen gọi là Khốc
Hư Tí Ngọ là cách tiền bần hậu phú. Nếu Mệnh an tại Tí/Ngọ có KH đồng
cung (ờ Tí tốt hơn Ngọ) thì cuộc đời trước nghèo sau giàu. Sự thay đổi ở vào
thời điểm nào, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
BÀI 15
MẪU NGƯỜI “VĂN TINH ÁM CỦNG”
Khoa Tử Vi Đẩu Số đã có từ hơn 4000 năm nay cho nên những ý niệm cũng
như cách sắp xếp các sao đều đặt căn bản trên một xã hội phong kiến. Mỗi
sao là một biểu tượng. Có sao biểu tượng cho một vị Vua như Tử Vi, có sao
biểu tượng cho quan văn như bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, cho quan võ như
Sát Phá Liêm Tham, cho giới sĩ phu như Xương Khúc, Khôi Việt, Hổ Tấu v.v…..
Đặc biệt hai sao Văn Xương, Văn Khúc được gọi là văn tinh, biểu tượng cho
văn cách của học vấn và khoa bảng.
Văn Xương là bắc đẩu tinh, hành kim, còn có tên là Văn Quế, chủ về văn học
và sự cao quý. Văn Khúc là nam đẩu tinh, hành thủy, có tên là Văn Hoa, chủ
về nghệ thuật và sự sinh đẹp. Cả hai đều đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ,
Hợi. Khi đắc địa Xương khúc chủ về công danh qua con đường khoa bảng.
Những người Mệnh có Xương Khúc tọa thủ đồng cung, xung chiếu hay hợp
chiếu thì khoa Tử Vi gọi là cách Văn Tinh Ám Củng.
Đây mà mẫu người thông minh và hiếu học, có năng khiếu đặc biệt về văn
53
chương, thi phú, ca nhạc, kịch, điêu khắc, hội họa…..nói chung là lĩnh vực
văn học và nghệ thuật. Cho nên Xương Khúc đắc địa mà gặp thêm Đào Hồng
Hỷ hoặc Long Phượng Tuế Tấu thì đây là số của những ca nghệ sĩ , tài tử điện
ảnh nổi danh.
Người đắc cách Văn Tinh Ám Củng (VTAC) thường theo học những khoa về
văn chương, nhân văn ngoại ngữ, và nếu toàn bộ lá số tương đối tốt, họ là
những người đạt được bằng cấp cao và đặc biệt là có năng khiếu về sinh
ngữ. Trường hợp Xương Khúc hãm địa thì đường học vấn của họ thường bị
dang dở, nhưng vẫn có năng khiếu về nghệ thuật. Cho nên họ thường là
những người khéo tay. Nếu sinh hoạt trong ngành thủ công như đan, may,
thêu, dệt, thợ bạc, nghề tóc, nails.v.v….. thì tuy không giàu có nhưng suốt
đời cũng được cơm no áo ấm.
Đặc biệt đối với nữ mệnh, người có Xương Khúc dù đắc hay hãm thì cũng là
người có nhan sắc, biết cách ăn mặc và khéo trang điểm. Chữ nhan sắc đây
không chỉ nói đến vẻ đẹp trên khuôn mặt mà còn phải nói đến một thân
hình đẹp, nhất là bộ ngực bởi vì Xương Khúc là biểu tượng của đôi nhủ hoa
của người đàn bà.
Tuy nhiên khi nói về nhan sắc của một người đàn bà qua lá số, chúng ta phải
phân biệt cái đẹp của Đào Hoa và cái đẹp của Xương Khúc khác nhau ở chổ
nào. Đào Hoa là nét đẹp lộ hẳn ra bên ngoài, tất cả vẻ đẹp hầu như đều lộ rõ
trên khuôn mặt như một đóa hoa đã nở, cái đẹp của một khuôn mặt mà
khoa tướng mệnh gọi là Đào Hoa Diện, vẻ đẹp trên phương diện thẫm mỹ,
nhưng chưa hẳn đã đẹp dưới cái nhìn của khoa tướng mệnh. Nét đẹp của
Đào Hoa dễ lôi cuốn, khêu gợi, hấp dẫn, dễ thu hút đối phương ngay từ phút
ban đầu. Nhưng khi tiếp xúc lâu hơn, có thể gây cho đối phương một chút
54
thất vọng nào đó chẳng hạn như ăn nói không có duyên, hời hợt bên ngoài,
suy nghĩ nông cạn, cởi mở qúa trớn hay suồng sã lẳng lơ…..
Ngược lại, nét đẹp của Xương Khúc không loè loẹt phô trương như Đào Hoa.
Có thể nói cái nét duyên dáng nhiều hơn là đẹp. Một người có Xương Khúc
thủ Mệnh thì nhan sắc có thể chỉ ở mức trung bình, nhưng khi tiếp xúc càng
lâu thì càng bị thu hút bởi cái duyên ngầm, cái nét đa tình hấp dẫn, hoặc có
thể do những yếu tố khác như sự thông minh, có kiến thức, và có trình độ
học vấn, có chiều sâu tâm hồn, ăn nói khéo léo, tế nhị, hoặc có một tâm hồn
lãng mạn…..
Tuy nhiên, nữ Mệnh có Xương Khúc đặc địa thì ngoài những đặc tính vừa
nêu trên, có thể nói đây là mẫu người đàn bà có một bản năng tình dục rất
mạnh, nhưng khác với sự buông thả, lẳng lơ của Đào Hoa ở chổ họ có thể tự
kiềm chế được. Họ chỉ bộc lộ điều này với người yêu hay vợ chồng của họ
mà thôi. Và trong cái khung cảnh của xã hội ngày nay, có lẽ đây không hẳn là
một điều xấu. Có thể nói, đối với những người đàn ông có khuynh hướng cởi
mở trong vấn đề tình cảm thì người đàn bà có Xương Khúc thủ mệnh đúng
là một người tình lý tưởng.
Nhưng trường hợp nữ mênh có Xương Khúc hãm địa tọa thủ thì khuynh
hướng buông thả trong vấn đề tình cảm và tình dục rất gần với Đào Hoa. Do
đó, cuộc đời phải ba chìm bảy nổi và nhiều phiền muộn với chồng con. Nếu
Xương Khúc hãm địa mà lại gặp thêm sát tinh, hung tinh hội chiếu thì đây là
mẫu người đàn bà hình phu khắc tử, có nghĩa là số sát chồng, hại con.
Nữ Mệnh có Xương Khúc hãm địa và có Thiên Riêu đồng cung hay hợp chiếu
là người mê tính dị đoan, thích những chuyện đồng bóng. Nếu bộ ba Xương,
55
Khúc, Riêu gặp thêm Hóa Kỵ thì đây là người đàn bà có bề ngoài rất kiều mị,
ai gặp cũng phải động lòng vì nét hấp dẫn và lôi cuốn. Nhưng bản tính rất
dâm đãng, cuộc sống rất phóng túng, buông thả và tuổi thọ cũng chẳng
được bao nhiêu.
Trường hợp Mệnh có Văn Khúc và Vũ Khúc đắc địa đồng thủ, đây là cách Nhị
Khúc Vượng Cung, là người văn võ song toàn, công danh sự nghiệp rất bền
vững. Đặc biệt đối với những người tuổi Giáp có sự ứng hợp nên càng tốt
đẹp hơn những tuổi khác. Mẫu người Nhị Khúc Vượng Cung thường lúc nào
cũng có 2 nghề, hoặc sinh hoạt trong hai lĩnh vự khác nhau và đối nghịch
nhau nhưng bên nào cũng đều đạt mức thành công dễ dàng.
Trường hợp cung Mệnh an tại Tứ Mộ có Tham Lang và Hỏa Tinh tọa thủ
đồng cung, thì đây là cách Tham Hỏa Tương Phùng, một dạng của cách
Tham Vũ Đồng Hành mà chúng ta đã nói đến. Nếu cách này có thêm Văn
Khúc đắc địa đồng cung hay hợp chiếu thì đương số là người có chức tước
và địa vi cao trong xã hội.
Tóm lại mẫu người VTAC là người rất lý thú khi chúng ta tiếp xúc, kết giao
bằng hữu, cộng tác làm ăn, và cũng là những người tình, người chồng hay
người vợ lý tưởng. Nếu Xương Khúc không nằm trong một lá số qúa tệ thì họ
là những người có phong cách, có trình độ, có chiều sâu tâm hồn. là những
nhà văn, nhà thơ, những ca nhạc sĩ nổi danh…..
Riêng đối với phái nữ thì đây là người có nhan sắc, duyên dáng và đa tình.
Thật xứng với cái tên Văn Quế, Văn Hoa mà khoa Tử Vi thường gọi.
BÀI 16
56
MẪU NGƯỜI “DỊCH MÔ
Dịch Mã chỉ là một phụ tinh nhưng lại đóng những vai trò khá quan trọng
trong một lá số. Có thể nói từ lá số của một bậc quân vương, một danh
tướng, một thương gia, hay một người bình dân mà đến thời điểm nào đó
trong cuộc đời tạo dựng được những công danh sự nghiệp cho mình thì hầu
như lá số của họ không thể không có sự góp phần của Thiên Mã. Lý do thật
đơn giản vì Thiên Mã là biểu tượng của tài năng. Bởi vậy, một lá số mà cung
Mệnh và cung Thân có Thiên Mã tọa thủ gọi là cách Dịch Mã.
Người ta thường cho rằng Thiên Mã thuộc hành Hỏa và trong 12 cung của lá
số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung là Dần, Thân, Tỵ, Hợi, và chỉ đắc địa ở hai
cung Dần và Tỵ mà thôi. Trong khoa Tử Vi, Thiên Mã là biểu tượng của chân
tay, hoặc phương tiện di chuyển như xe cộ, tàu bay, tàu hỏa…..
Đặc tính chủ yếu của người Dịch Mã là tính năng động, tháo vác, đảm đang,
quán xuyến, thích di chuyển, thích tranh cãi, hay thay cũ đổi mới…..Vởi
những đặc tính ấy cho nên Thiên Mã không chỉ ảnh hưởng ở hai cung Mệnh
và Thân mà nó còn tác động mạnh mẽ vào các cung chính như Quan Lộc,
Thiên Di…..là những lãnh vực của công danh và sự nghiệp.
Tuy nhiên khi nói đến mẫu người Dịch Mã, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của
chữ “dịch” là xê dịch, chuyển đổi, di chuyển, biến động….. do đó cũng có
người cho rằng hành của Thiên Mã thay đổi theo hành của cung mà Thiên
Mã tọa thủ. Có nghĩa là, khi Mã tọa thủ ở Dần (hành Mộc) thì Mã ứng với
người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã ứng cho người mạng Hỏa và Thổ.
Khi ở cung Thân thì Thiên Mã ứng với người mạng Kim và Thủy…..v.v. Nhu
57
vậy, khi hành của Thiên Mã ứng hợp với hành của Mệnh thì đương số là
người có tài năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết tài năng của mình.
Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời lại không được
những vận hội may mắn, không được đời biết đến khiến cho tài năng phải bị
mai một như một kẻ sinh bất phùng thời.
Người có Mệnh an ở hai cung Dần Thân có Tử Phủ và Thiên Mã tọa thủ đồng
cung gọi là cách Phù Dư Mã, là ngựa kéo xe cho Vua chỉ những người có tài
năng, giữ những chức vụ cố vấn, phụ tá cho các cấp chỉ huy của một đơn vị
quân đội, hay giám đốc của một cơ sở hành chánh, thương mại…..Hoặc cũng
có thể là những người không giữ một chức vụ gì chính thức nhưng ra đời
thường được kề cận với những người có quyền thế trong xã hội.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh và có Nhật Nguyệt đồng cung hay hợp chiếu là
cách Thư Hùng Mã. Một đôi ngựa tốt, chỉ người văn võ song toàn, nhưng
cách này thường phát về văn nghiệp hơn là võ nghiệp. Đây là mẫu người có
kiến thức sâu rộng, có trình độ học vấn, có năng khiếu về các ngành như
ngoại giao, chính trị, văn học và nghệ thuật. Nếu đã đi vào những lãnh vực
vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này sẽ đạt được những công danh
sự nghiệp một cách dễ dàng, và có người có thể thành công trên cả hai lĩnh
vực cùng một lúc. Chẳng hạn họ có thể là một nghệ sĩ nổi danh lại vừa giàu
có nhờ làm thương mại. Người Thư Hùng Mã có khả năng song thủ hỗ bác
tương tự như người có Thân cư trong tam hợp Phúc, Di, và Phu Thê.
Người có Thiên Mã gặp Lộc Tồn đồng cung là cách Chiết Tiễn, có nghĩa là bẻ
roi đánh ngựa, giục ngựa lên đường, chỉ người có tài. Khởi sự làm gì cũng
được may mắn thuận lợi. Nếu Thiên Mã ở Mệnh có Lộc Tồn ở Thiên Di xung
chiếu thì đây là cách Lộc Mã Giao Trì, ngựa ăn cỏ trên cách đồng xanh, là
58
người được vận hội may mắn, được thừa hưởng những công lao thành qủa
của người khác làm. Và theo ý nghĩa của Lộc Tồn là lộc trời cho, nên cả hai
cách vừa nêu trên cũng chỉ những người trở nên giàu có nhờ trúng số, hoặc
được thừa hưởng tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Người có Lộc Mã mưu
sự chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được may mắn.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh là Chiến Mã, ngựa
xuất trận. Cách này chỉ người có tài năng là thường là phát về võ nghiệp nếu
gặp một lá số tốt. Đây là số của những quân nhân được thăng cấp rất nhanh
chóng. Tuy nhiên cách Chiến Mã này tiềm tàng những tai họa về chân tay
như thương tật hay tàn khuyết nếu không có những cách hóa giải. Nếu đủ
bộ Mã Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại từ nhỏ, hoặc bị bại liệt do các
chứng bệnh khác đưa đến như bị tai biến mạch máu não, tiểu đường .v.v…..
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Khốc, Điếu Khách là cách Mã Khốc
Khách, có nghĩa là ngựa đeo lục lạc vàng, chỉ những người có tài năng, có
danh tiếng trong một lãnh vực nào đó. Hạn gặp Mã Khốc Khách thì vận hội
may mắn đã đến, là thời điểm mà danh tiếng của mình được người đời biết
đến. Đối với một lá số trung bình thì đương số cũng gặp được những cơ hội
may mắn như được cấp trên giao phó công việc và được tín nhiệm hay
thăng thưởng do khả năng và những thành qủa tốt đẹp của mình.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Phi Liêm đồng cung hay xung chiếu gọi là
cách Phi Mã, là ngựa có cánh bay như trong truyện thần thoại của Hy Lạp, ý
nghĩa cũng tương tự như Mã Khốc Khách, chỉ người có tài năng và được
nhiều may mắn, làm việc gì cũng thành chông dễ dàng và nhanh chóng. Hạn
gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc di chuyển. Nếu khởi sự một điều gì trong
hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã đáo hạn là thời cơ đã đến. Người có
59
cách Phi Mã thường thích hợp với những công việc đi đây đi đó, cuộc đời là
những chuyến hành trình không dứt.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Hình đồng cung là cách Phù Thi Mã, là ngựa
kéo xe tang. Người có cách này suốt đời cực khổ, làm việc gì cũng khó khăn
trắc trở, thành ít bại nhiều, và thường gặp toàn những chuyện xui xẻo, đau
thương, buồn khổ, tang tóc triền miên. Hạn gặp Mã Hình thì phải hết sức
thận trọng trong mọi việc, vì những gì sẽ đến trong thời gian này chỉ là
những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của mình.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Đà La đồng cung gọi là Mã Đà hay Chiết Túc Mã. Có
ý nghĩa là ngựa què, chỉ những người không được may mắn, hay gặp khó
khăn trắc trở. Cuộc đời nhìn chung toàn là những lao đao lận đận. Cùng là
một việc, người khác làm thì thuận lợi may mắn, mình làm thì khó khăn, trở
ngại. Bởi vậy trên phương diện dùng người, thì giao một công việc cần có kết
qủa sớm, hay một kế hoạch quan trọng cho người có số Mã Đà hay đang
trong vận Mã Đà thì đây là một quyết định từ sai lầm đến mạo hiểm của
người có trách nhiệm.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuyệt đồng cung, gọi là Mã Tuyệt hay Cùng Đồ Mã.
Có nghĩa là ngựa chạy đến đường cùng, chỉ người làm việc thường thất bại,
cuộc đời thường lâm vào cảnh bế tắc. Tương tự nếu Mã thủ Mệnh gặp tuần
triệt, gọi là Tử Mã, nghĩa là ngựa chết, ngựa vô dụng, ý nghĩa và tai họa còn
nặng hơn Cùng Đồ Mã.
Thiên Mã là một trong những lưu tinh (sao lưu) khi xem hạn. Có nghĩa l2 vị
trí của Thiên Mã sẽ thay đổi theo mỗi năm và gọi là Lưu Thiên Mã. Đó cũng
là ý nghĩa thứ ba của chữ “Dịch” khi gọi Thiên Mã là Dịch Mã.
60
Khi xem hạn, nếu thấy Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung, xung chiếu hay
hợp chiếu thì những điều sau đây sẽ xảy đến trong vận hạn: mua xe, đổi xe,
đổi chổ ở, đổi việc làm, đi du lịch v.v…..Có thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi.
Ví dụ: nếu đã đổi chổ ở thì sẽ không thay đổi việc làm, đi xa v.v….. Nhưng
cũng rất có thể xảy ra hai sự việc cùng một lúc. Những gì thay đổi trong vận
hạn ít nhiều tùy theo vị trí của Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung hay
xung chiếu. Mức độ tốt xấu của sự việc còn tùy thuộc vào những sao chi
phối trong hạn đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm việc khác. Cũng
có thể vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt).
Tóm lại, khi nói đến Thiên Mã điều quan trọng mà chúng ta phải cân nhắc là
hành của Thiên Mã và hành của bản Mệnh. Nếu cả hai cùng hành, hoặc hành
của Mã sinh cho hành của bản Mệnh thì Mã này mới là Mã của mình. Ngược
lại nếu không đồng hành thì Mã này chỉ là cái bóng mà thôi.
Trên thực tế chúng ta thấy hai lá số đều có Thiên Mã thủ Mệnh nhưng khả
năng và sự may mắn của hai người hoàn toàn khác nhau rất nhiều. Người có
Thiên Mã không hợp với bản Mệnh thì cũng là người có tài năng nhưng tánh
tình rụt rè, nhút nhát, thiếu lòng tin, và không có ý chí phấn đấu để nắm lấy
cơ hội, cho nên cuối cùng dễ trở thành bất đắc chí.
Với một lá số trung bình trở lên, người Dịch Mã là người đa tài. họ có nhiều
năng khiếu nổi bật và có thể thành công trên nhiều lãnh vực khác nhau. Họ
là những người năng động, thích sự đổi thay và những chuyến hành trình
như những bông hoa tô thắm cho cuộc đời của họ. Về khía cạnh này, cá tính
của người Dịch Mã có phần nào giống như mẫu người Thân Cư Thiên Di mà
chúng ta đã đề cập trước đây.
61
BÀI 17
MẪU NGƯỜI “ĐÀI CÁC”
Hoa Cái chỉ là một sao nhỏ cho nên có nhiều người khi giải đoán lá số
thường ít khi để ý đến sao này. Thật ra, tuy chỉ la phụ tinh nhỏ, Hoa Cái cũng
có thể tạo nên bản chất đặc biệt của mẫu người mà chúng ta vẫn thường
gặp trong cuộc sống hằng ngày. Biết đâu, có thể người đó là chính mình,
chồng mình, vợ mình, người yêu của mình, bạn bè của mình hay một người
nào đó mà mình quen biết.
Hoa Cái là biểu tượng của cái lọng, thuộc hành Kim và không thấy sách vở đề
cập dến những vị trí đắc hãm của phụ tinh này. Hoa Cái còn được gọi với tên
rất đẹp là Đài Các Tinh. Chỉ hai chữ Đài Các cũng đã nói lên bản chất của
những người Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái cư Thiên Di và có thể gọi
chung là mẫu người Đài Các.
Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự chưng diện, sự sang trọng quý phái. Cho nên, về
hình dáng, người có Hoa Cái thủ Mệnh, dù là đàn ông hay đàn bà đều có nét
mặt thanh tú, vóc dáng thanh nhã, nói năng và cư xử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây
là mẫu người rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn mặc. Họ
không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho mái tóc, chọn lựa một cái cà
vạt cho hợp với màu áo, một hiệu son phấn nào đó cho phù hợp với màu
da.v.v..Sự chưng diện đối với họ là một nghệ thuật, cũng là một nhu cầu cần
thiết như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa để khoe sắc
cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ.
62
Bởi vậy trong lĩnh vực sinh hoạt, người có Hoa Cái thủ Mệnh nếu gặp thêm
những sao Xương Khúc, Thái Âm, Đào Hồng Hỷ…..là những người của ngành
quảng cáo hay trình diễn thời trang, diễn viên kịch nghệ, điện ảnh, cải lương
v.v…..Nếu là những người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn thì nét vẽ nhẹ nhàng,
dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang nặng khuynh hướng
lãng mạn.
Dưới thời đại phong kiến của Trung Hoa, cái quan niệm vương quyền được
biểu tượng bằng những hình ảnh như Long chầu, Hổ phục, phượng múa
lọng che, và Hoa Cái là một trong 4 biểu tượng đó, gọi tắt là Tứ Linh (Long
Trì, Phượng Các, Hoa Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy quyền, hiễn đạt hay công danh
sự nghiệp.
Trường hợp nếu Hoa Cái không thủ Mệnh nhưng phía trước của Mệnh,
Thân, Thiên Di, Quan Lộc có Hoa Cái, phía sau có Thiên Mã tọa thủ thì đây là
cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là lọng đi trước, ngựa theo sau, là cảnh tiền
hô hậu ủng mà chúng ta thường gọi là cảnh vinh quy bái tổ, chỉ sự hiễn đạt
về công danh và sự nghiệp.
Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà tọa thủ ở cung Thiên Di, bản tính cũng
giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một điểm đặc biệt là khi họ ra khỏi
nhà là được người trên kẻ dưới thương mến. Có thể vì tính tình của họ vui
vẻ, thân thiện, cởi mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc, lời lẽ, cử chỉ của họ nhẹ
nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ có cảm tình với mọi
người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa Cái cư Thiên Di rất thích hợp
với những công việc như chào hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại, ngoại
giao v.v…..
63
Tuy nhiên những đặc tính của Hoa Cái có thể thay đổi tùy theo ảnh hưởng
của một số sao khác. Chẳng hạn, người có Hoa Cái thủ Mệnh sẵn có khuynh
hướng lãng mạn, nếu gặp thêm Đào Hoa, Mộc Dục, Riêu…..thì sự lãng mạn
sẽ đi qúa trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt tình cảm và tình dục. Vì Hoa
Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài các…..Cho nên những
người có khuynh hướng sa đọa này cũng thuộc loại giai cấp thượng lưu, của
những kẻ có tiền, có quyền lực.
Riêng với phái Nam có Hoa Cái thủ Mệnh cũng thích sửa soạn, chưng diện,
nước bông, nước hoa…..Hoa Cái ở đây cũng nói lên phần nào sự biến thái về
tâm sinh lý của đương số. Mức độ nặng hay nhẹ thì còn tùy thuộc vào toàn
bộ lá số.
BÀI 18
MẪU NGƯỜI “ĐÀO HOA”
Đà Lạt là thành phố của mộng mơ và nổi tiếng bởi những cành hoa Anh Đào
khoe sắc trong nắng ấm mùa xuân. Màu hồng nhạt của hoa Anh Đào như
màu má của những người con gái Đà Lạt ở tuổi xuân thì hấp dẫn biết bao du
khách, và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho người văn nghệ sĩ. Có phải
chăng vì vậy mà người ta đã dùng tên của loài hoa này làm biểu tượng cho
những người có một sức hấp dẫn, thu hút người khác? Trong khoa Tử Vi
Đẩu Số, một phụ tinh có cùng ý nghĩa như vậy và cũng mang tên Đào Hoa,
cho nên có thể nói, những người có số Đào Hoa thủ mệnh là mẫu người Đào
Hoa mà chúng ta sẽ bàn đến.
64
Sao Đào Hoa và Hồng Loan thường đi đôi và có cùng chung một đặc tính.
Đào Hoa hành Mộc, Hồng Loan hành Thủy. Những sách Tử Vi không đề cập
đến những vị trí đắc địa hay hãm địa của Đào Hồng. Tuy nhiên, có người căn
cứ trên thực tại để định những vị trí tốt xấu của Đào Hồng. Như cung Mão
được xem là vị trí tốt nhất của Đào Hoa vì cung Mão là thời điểm của bình
minh, những cánh hoa còn đọng sương mai, khởi đầu của sự khoe sắc tươi
thắm rực rở nhất trong ngày. Cung Ngọ là giữa trưa, hoa không còn tươi
thắm nữa vì bị nắng cháy. Cung Tí thì ở vào ban đêm, là thời điểm mà hoa
đã khép cánh.
Quan niệm này cũng hợp lý, tuy nhiên vẫn có những loài hoa chỉ nở về đêm
như hoa Quỳnh, Dạ Lý Hương, Thiết Mộc Lan v.v….. chỉ khoe sắc và tỏa
hương nồng trong bóng tối mà thôi. Đã mang kiếp hoa thì tất phải sớm nở
tối tàn, dù cho rực rở trong buổi bình minh thì có còn tươi thắm được đến
buổi bình minh hôm sau chăng?
Nhưng nếu nói theo quan điểm trên, Đào Hoa đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu
tức là Tứ Tuyệt, Hồng Loan đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi tức Tứ Sinh, thì quan
điểm cũng có cái triết lý khi phân tích về bản chất của Đào Hồng, là hai sao
biểu tượng cho phái nữ. Khi nói Đào Hoa ở Tứ Tuyệt, chúng ta có thể tưởng
tượng hoàn cảnh của một cô con gái có nhan sắc nhưng tư nhỏ đã sinh sống
trong một hoàn cảnh rất nghiệt ngã, khiến cho người con gái này phải có đầy
đủ thủ đoạn để sinh tồn. Còn ngược lại, Hồng Loan ở tứ sinh như một người
con gái khuê các, nên bản chất hiền lương đoan chính.
Tuy vậy, theo thiển ý của người viết, vị trí của Đào Hồng không quan trọng
bằng những sao mà Đào Hồng trao duyên gởi phận, và điều này sẽ được dẫn
chứng ở phần sau. Ở đây, chỉ lấy một ví dụ, bất kể Đào Hoa ở vị trí nào mà
65
khi gặp Hồng Loan và Thiên Hỷ thì trở thành bộ sao tốt gọi tắt là Đào Hồng
Hỷ hay còn gọi là Tam Minh.
Đối với khoa Tử Vi, Đào Hồng đều là biểu tượng của sự sinh đẹp, cho nên có
ý nghĩa chỉ về phái nữ nhiều hơn phái nam. Người có Đào Hoa hay Hồng
Loan thủ mệnh, dù nam hay nữ đều có nhan sắc, đẹp trai, đẹp gái. Nét mặt
lúc nào cũng vui tươi, tính tình vui vẻ cởi mở. Tuy nhiên, chúng ta phải phân
biệt cái đẹp và cái nết của hai sao Đào Hồng khác nhau ở điểm nào?
Khi nói về nhan sắc, hàm ý nói về phái nữ, cái đẹp của Đào Hoa là nét đẹp lộ
liễu ra bên ngoài, lồ lộ như một đóa hải đường, vẻ đẹp mà khoa Tướng
Mệnh gọi là Đào Hoa Diện, hoặc Đào Hoa Nhãn, là nét đẹp có sức hấp dẫn,
lôi cuốn thu hút người đối diện ngay từ phút ban đầu từ khuôn mặt, đôi
mắt, cử chỉ, lời ăn tiến nói có vẽ lôi cuốn, lẳng lơ, hoặc có một lối sống
buông thả…..
Cái đẹp của Đào Hoa có thể nhìn thấy ở bất cứ tầng lớp nào trong xã hội, từ
một mệnh phụ phu nhân cho đến một người mẫu, một diễn viên, một thôn
nữ, thậm chí một cô gái giang hồ….. Nhưng địa vị và vẻ đẹp bên ngoài đó
không bảo đảm là nết hạnh của họ cũng tốt đẹp như vậy.
Còn nét đẹp của Hồng Loan là nét đẹp của sự nhu tình, duyên dáng, thanh
cao, quý phái, đài các. Cái đẹp nghiêng nhiều về tinh thần hơn là vật chất.
Nữ mệnh có Hồng Loan có thể chỉ là một người đàn bà nhan sắc trung bình,
nhưng có duyên, là mẫu người nhu mì và có chiều sâu tâm hồn. Tuy nhiên,
khi đi chung với Đào Hoa cả hai sẽ có ảnh hưởng tương hỗ nhau. Hồng Loan
chỉ chế giảm được một phần nhỏ khuynh hướng vật chất và buông thả của
Đào Hoa mà thôi, còn phần lớn là bị lôi cuốn bởi Đào Hoa.
66
Ngoài ý nghĩa về nét đẹp và tính nết, Đào Hồng còn chủ sự nhanh chóng,
sớm sủa, dễ dàng và may mắn. Chẳng hạn, Đào Hồng tọa thủ ở Mệnh, cung
Thiên Di, hay cung Quan Lộc là số của những người ra đời sớm, đi làm sớm
hay có công danh sự nghiệp sớm hơn những người cùng lúa tuổi với mình.
Đây cũng là số của những người có nhiều may mắn trong vấn đề học hành
thi cử, và khi ra trường lại tìm được việc làm dễ dàng hơn những người
khác. Nếu cung Tài Lộc có Đào Hồng tọa thủ thì đương số sớm làm ra tiền và
kiếm tiền một cách dễ dàng.
Nếu hai sao Đào Hồng gặp thêm Hỷ Thần hay Thiên Hỷ chủ sự may mắn về
thi cử, sự thăng quan tiến chức, cũng là việc cưới hỏi. Hạn gặp Đào Hồng Hỷ
là sự báo hiệu một tin vui sắp đến. Trong lãnh vực nghề nghiệp, Đào Hồng
Hỷ chỉ những người sinh hoạt trong các bộ môn ca nhạc kịch, điện ảnh.
Trong gia đình, Hồng Loan là biểu tượng của con gái, nếu Hồng Loan gặp
Thiên Khôi là chỉ người trưởng nữ.
Nhu vậy đối với khoa Tử Vi, mẫu người Đào Hoa là những người cung Mệnh
có Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ hay xung chiếu. Đặc tính đáng chú ý của
họ là sức thu hút đối với người khác phái, họ là những người đắt đào, đắt
kép, bước ra khỏi nhà là có người thương, người theo, có người sẳn sàng
gánh vác, nâng đỡ mọi điều…..
Tuy nhiên, người Đào Hoa không phải lúc nào cũng được may mắn tốt đẹp
như vậy, nhất là đối với nữ phái. Nếu Đào Hồng bất hạnh trao duyên gởi
phận cho những sao xấu thì thà đừng có Đào Hồng còn hơn. Chẳng hạn nữ
Mệnh có Đào Hồng tọa thủ, gặp Hóa Kỵ, Riêu hay Thai đồng cung hay hợp
chiếu, thì đương số là người đàn bà đẹp nhưng lẳng lơ, buông thả và cuộc
67
đời sẽ trầm luân với những buồn thương sầu hận. Nếu Đào Hồng những sát
tinh như Không Kiếp thì có thể nói là một nỗi bất hạnh cho đương số.
Chúng ta lấy cuộc đời của Vương Thúy Kiều để làm một ví dụ điển hình: mối
tình đầu vừa chớm nở đã đành trao lại cho em để bán mình vào lầu xanh.
Tấm thân đã phải đổi chủ biết bao nhiêu lần, rồi xuống tóc, rồi trầm mình,
nhưng nợ trần đâu dễ phủi tay? Đó là mẫu người Đào Hoa lụy vì tình, oan
nghiệt vì tình, vì nhan sắc mà gặp tai họa, hoặc là lâm vào hoàn cảnh mà
người đời thường hay gọi “trao duyên nhầm tướng cướp” Nếu Đào Hồng
ngộ Thiên Không thì cũng như Đào Hoa gặp lửa, chắc chắn duyên phận phải
bẽ bàng và có thể xa lánh cõi đời bằng con đường tu hành như chuyện Lan
và Điệp.
Đối với nam giới, nếu cung Quan Lộc có Đào Hồng thì đương số ra đời sớm
lý do có thể là do tính thích tự lập hoặc vì hoàn cảnh đưa đẩy. Họ cũng là
người lập được công danh sự nghiệp rất sớm, và điều đáng nói là sự thành
công đó không hẳn hoàn toàn do khả năng của chính họ mà một phần là do
sự nâng đỡ, giúp sức của người khác phái, nguyên nhân chính là vấn đề tình
cảm. Tương tự, đối với nam mệnh mà cung Tài Lộc có Đào Hồng thì đương
số làm ra tiền một cách dễ dàng. Nếu lá số tốt đẹp họ có thể là những người
giàu có lúc còn trẻ tuổi, và chắc chắn rằng sự thành đạt đó không thể thiếu
sự góp phần của người khác phái bởi những quan hệ tình cảm đặc biệt nào
đó., và đôi khi đó chỉ là tình cảm một chiều.
Chúng ta thường nghe câu: “sau lưng một người đàn ông thành công là
bóng dáng của một người đàn bà tài giỏi” Nhưng không phải Đào Hồng lúc
nào cũng cũng được may mắn tọa thủ trong một lá số tốt đẹp để biểu tượng
cho một người đàn bà giỏi. Nam số nếu Mệnh hay cung Quan có Đào Hồng
68
gặp hung tinh, sát tinh thì hậu qủa sẽ là những gì mà cựu Tổng Thống
Clinton hay Thái Tử Charles đã gánh chịu. Bởi vậy, trong lá số của người đàn
ông nếu Đào Hồng gặp những sao tốt như Tử Phủ hay Nhật Nguyệt…..thì
đương số được công thành danh toại. Với phái nữ, đó là hình ảnh của một
người vợ “vượng phu ích tử”, một hồng nhan tri kỷ. Ngược lại, Đào Hồng
gặp những sao xấu, thì Đào Hồng cũng là một hồng nhan nhưng cũng là họa
thủy. Chẳng hạn như Đào Hồng ngộ Không Kiếp ở cung Mệnh hay cung Quan
Lộc, nhẹ thì như đã nói ở trên, nặng thì chung cuộc có khác gì cảnh Hạng Võ
phải biệt Ngu Cơ rồi tự vẫn bên bờ Ô Giang. Hoặc nam mệnh có Đào Hồng
tọa thủ ở cung Tài Lộc gặp Song Hao, Địa Kiếp thì tiền kiếp được cũng nhờ
đàn bà, tán gia bại sản cũng vì đàn bà.
Đối với khoa Tử Vi, không phải chỉ có hai sao Đào Hoa và Hồng Loan là biểu
tượng cho mẫu người đào hoa mà còn có nhiều sao khác như Liêm Trinh, là
một sao võ cách nhưng vẫn được mệnh danh là đào hoa tinh. Ý nghĩa đào
hoa của Liêm Trinh thường dùng cho Nam nhiều hơn Nữ. Đàn ông cung
Mệnh có Liêm Trinh, dù đắc hay hãm cũng là người có số đào hoa họ có
duyên ngầm, có một nét đa tình nào đó dễ thu hút người khác phái. Tuy
Liêm Trinh là một sao về võ cách nhưng bản tính vốn liêm khiết và tự trọng
cho nên trong tình trường, họ thường bị người khác phái chủa động và tấn
công trước. Trong lĩnh vực tình cảm, Liêm Trinh có những đặc tính gần với
Hồng Loan hơn là Đào Hoa.
Tham Lang cũng là một đào hoa tinh, nhưng tình cảm của Tham Lam rất
giống Đào Hoa, nặng về vật chất, buông thả, sa đọa. Nếu cung Mệnh an tại
Tí có Tham Lang tọa thủ là cách “phiếm Thủy Đào Hoa” = Hoa đào trôi theo
dòng nước, chỉ những người có tâm hồn lãng mạn, đường tình lao đao lận
đận, hoặc những người có cuộc sống buông thả, phong trần. Cách Phiếm
69
Thủy Đào Hoa có nghĩa ý đối với phái nữ nhiều hơn Nam.
Thái Âm cũng là biểu tượng của người đào hoa bởi vì Thái Âm mặt trăng, là
nguồn cảm hứng bất tận cho người văn nghệ sĩ từ cổ chí kim. Cho nên,
người mà cung Mệnh hay cung Phúc Đức có Thái Âm thì ít nhiều cũng là
người đa tình lãng mạn, yêu chuộng văn chương nghệ thật, là mẫu người
sống vì nhạc, thác vì tình. Đặc biệt đối với nam mệnh, nếu Thái Âm tọa thủ
tại cung Thê thì đương số là người đào hoa, thích bay bướm, nhưng nể vợ,
sợ vợ như Thúc Sinh trong truyện Kiều vậy.
Ngoài ra một số sao khác như Cự Môn, Xương Khúc, Hoa Cái…..hoặc một vài
cách như Thai Phục Vượng Tướng, Cự Kỵ, Tham Kỵ, Hoa Cái cư Thiên Di…...
đều là đặc tính của mẫu người đào hoa, ít hay nhiều, tốt hay xấu còn tùy vào
mỗi lá số hoặc những sao mà chúng đi chung.
Những sao khắc chế được tính đào hoa gồm có Thái Dương, Hóa Khoa, Lộc
Tồn, Tứ Đức, Thiên Hình, Thiên Không…..riêng đối với nữ mệnh, Thiên Hình
và Thiên Không có tác dụng khắc chế qúa mạnh, không những làm mất hết
tánh đào hoa mà còn khiến đương số phải chịu cảnh lận đận trên đường
tình duyên. Chẳng hạn nữ Mệnh có Đào Hoa gặp Thiên Hình, đây là người
đàn bà có nhan sắc, nhưng tâm hồn khô khan, ăn nói không duyên
dáng…..hay nói một cách khác, đúng xa mà nhìn thì thấy đẹp, nhưng đến
gần thì chỉ là một cành hoa giấy.
Từ những nét vừa nêu trên, chúng ta thấy rằng ý nghĩa chính của Đào Hồng
là sự sinh đẹp và tình ái. Cho nên Đào Hồng thích hợp với tuổi trẻ hơn là lúc
về già. Vì vậy, trong tiền vận hay trung vận nếu gặp Đào Hồng + sát tinh
nhập hạn thì cũng không đáng sơ như khi ở hậu vận, nhất là đối với những
70
người mệnh Vô Chính Diệu.
Và sau hết, chúng ta cũng đừng quên rằng, mẫu người đào hoa giống như
lúc nào cũng nắm trong tay con dao hai lưỡi. Con dao Đào Hoa trong cái tốt
có ẩn tàng cái xấu. trong hạnh phúc có mầm móng của sự đau khổ.
Chúng ta thấy Đào Hồng cũng cùng một nguyên tắc như Nhật Nguyệt đó là
“chính bất như chiếu” Do đó cách tốt đẹp hơn hết là Đào Hồng không nên
tọa thủ ở Mệnh, nhất là đối vớ nữ phái. Một chút nhan sắc trời cho mà phải
đánh đổi cả một đời truân chuyên, điều này thử nghĩ có đắng hay không? Vị
trí tốt nhất cho Đào Hồng là cung Quan Lộc hay cung Tài Lộc. tại đây, Đào
Hồng chiếu về Mệnh thì đương số vẫn là người có nhan sắc, tuy nhan sắc
không rực rỡ và phô bày cái đẹp ra bên ngoài nhưng lại tránh được bốn chữ
“Hồng Nhan Đa Truân” Và nói chung cho cả nam nữ thì Đào Hồng ở hai cung
Tài và Quan giúp cho đương số thành công dễ dàng hơn trên phương diện
công danh và sự nghiệp chứ không chỉ trói buộc đương số vào cái vòng tình
cảm như khi Đào Hồng thủ Mệnh.
Đối với đàn bà, nhan sắc là trời cho nhưng hồng nhan đa truân hay hồng
nhan bạc mệnh thì cũng là ý trời. Dù nam hay nữ, có thể một lúc nào đó,
người đào hoa phải tự hỏi mình được nhiều người thương là hạnh phúc hay
phiền muộn? Cũng như mấy ai biết được giữa hồng nhan tri kỷ va hồng nhan
họa thủy phải chăng chỉ là một đường tơ? Phúc hay họa thì chỉ có khoa Tử Vi
Đẩu Số mới trả lời cho chúng ta rõ ràng mà thôi.
BÀI 19
MẪU NGƯỜI “TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ”
71
Trong truyện Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung có 4 nhân vật đại gian , đại ác
hợp thành một nhóm gọi là Tứ Ác, đứng đầu trong nhóm tà đạo để chống lại
phe chính phái. Khoa Tử Vi cũng vậy, có sao thiện thì cũng có sao ác. Cầm
đầu trong nhóm hung tinh này là hai đại sát tinh Địa Không và Địa Kiếp mà
chúng ta thường gọi là Không Kiếp. Hai sao này cũng như những sao khác, có
thể nhìn thấy bất cứ một nơi nào trên lá số, nhưng đặc biệt khi Địa Không
tọa thủ tại cung Mệnh và Địa Kiếp tọa thủ tại cung Thân, hoặc Kiếp ở Mệnh,
Không ở Thân làm thành cách Mệnh Kiếp Thân Không, và đó là mẫu người
đặc biệt, có thể gọi chung là mẫu người Không Kiếp mà chúng ta sẽ bàn đến.
Trước khi phác họa những nét chính về cuộc đời của mẫu người này, chúng
ta hãy nói sơ qua những đặc tính của hai sao này. Không Kiếp thuộc hành
Hỏa, đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi. Tại cung Tỵ và Hợi thì KHÔNG KIếP đồng
cung cho nên dù tốt xấu, uy lực của Không Kiếp sẽ gấp đôi so với Không Kiếp
xung chiếu nhau ở hai cung Dần Thân.
Xét về ngũ hành thì Không Kiếp tọa thủ tại cung Tỵ là tốt nhất vì hành của
sao và hành của cung cùng hành Hỏa. Vị trí thích hợp thứ hai là cung Dần vì
hành Mộc của cung tương sinh cho hành Hỏa của Không Kiếp, làm cho uy
lực của Không Kiếp khá mạnh mặc dù là đơn thủ.
Nói chung, dù đắc hay hãm, KHÔNG KIếP chủ sự hung hiểm, phá tán, bất
hạnh, hoạch phát, hoạch phá. Dù nam hay nữ mà cung Mệnh hay cung Thân
có Không Kiếp đắc địa tọa thủ cùng với những sao tốt là người kín đáo, thâm
trầm, biết suy xét, có mưu trí và rất gan dạ. Tuy nhiên người Không Kiếp
không được kiên nhẫn, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng và sớm thấy kết
qủa. Cho nên nếu không được như ý hay chỉ thất bại lần đầu là nản chí ngay,
72
bỏ cuộc dễ dàng. Nếu Không Kiếp đắc địa cùng những sao xấu tọa thủ ở
Mệnh thì những đức tính thăng trầm, gan dạ sẽ biến đương số thành người
thủ đoạn và dễ đi vào con đường tà đạo.
Nếu hãm địa thủ Mệnh + những sao tốt, dù nam hay nữ, bản tánh trở nên
bất nhất, lúc chính, lúc tà, lúc tốt lúc xấu, vui buồn bất chợt khiến cho những
người giao tiếp với đương số phải e dè. Nếu Không Kiếp hãm địa thủ Mệnh
cùng với những sao xấu thì tánh tình nham hiểm, xảo quyệt, thủ đoạn, hung
dữ, bạo ngược.
Người Mệnh / Thân có Không Kiếp đắc địa hay hãm địa thường bị những
chứng bệnh về da như mụt nhọt, ghẻ ngứa vì dị ứng, những chứng bệnh về
đường hô hấp như viêm phổi, viêm cuống họng, hen suyễn, khó thở….. Đã
mang danh là đại sát tinh cho nên những bệnh tật hay tai họa do Không Kiếp
mang đến chắc không phải là đơn giản, nhẹ nhàng. Dưới cái nhìn của khoa
Tử Vi thì vấn đề chế giải tùy thuộc vào phúc đức của mỗi người và tùy theo
sự bất hạnh xảy ra ở thời điểm nào trong cuộc đời. Không Kiếp như Đào
Hồng, càng về cuối cuộc đời thì càng tác hại nặng nề hơn lúc trẻ.
Trong cuốn Tử Vi Ảo Bí của Việt Viêm Tử có đề cập đến quan điểm Không
Kiếp Vô Luận. Quan điểm này cho rằng: những người sinh vào tháng 4
(tháng Tỵ) và tháng 10 (tháng Hợi) thì không bị Không Kiếp phá tán vì có sự
ứng hợp với hai cung Tỵ Hợi, là hai vị trí đắc địa của Không Kiếp. Quan điểm
này đưa đến 2 nghi vấn, đầu tiên là Không Kiếp an theo giờ sinh, vậy tại sao
chỉ vô luận đối với tháng sinh mà không áp dụng “vô luận” với giờ sinh? Thứ
hai là Không Kiếp cũng đắc địa ở Dần Thân, nhưng tại sao những người sinh
vào tháng Dần, và tháng Thân lại không được hưởng cách Không Kiếp Vô
Luận? Theo quan niệm cổ xưa của phương đông, đàn ông chú trọng đến
73
công danh sự nghiệp, còn đàn bà nặng về chồng con. Đối với người Không
Kiếp thì hai chữ công danh, phú quý phải nhìn theo một quan niệm căn bản
của khoa Tử Vi, hung tinh đắc địa phát dã như lôi, có nghĩa là hung tinh đắc
địa sẽ phát nhanh như sấm sét. Điều đó sẽ kéo theo một hệ qủa không thể
nào tránh được, bạo phát thì bạo tàn. Bởi vậy, người Không Kiếp làm việc gì
cũng đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng, nhưng những gì đã ở trong
tầm tay lại khó giữ được lâu bền.
Đó chính là hai mặt của Không Kiếp, con dao hai lưỡi, một tay nâng mình
lên, một tay xô mình ngã, càng cao danh vọng thì càng lắm đau thương. Ý
nghĩa đó chúng ta phải nhìn thấy để đừng qúa tin tưởng vào sự tốt đẹp của
Không Kiếp khi hai sao này đắc địa, hoặc có những sao khác kiềm chế. Đặc
tính của Không Kiếp là như vậy, trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu, điều mà
chúng ta nghĩ là may mắn thì đó cũng chính là mầm móng của tai họa trong
nay mai. Bởi vậy cái quan niệm thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, xem ra
có vẽ thích hợp với mẫu người Không Kiếp, cờ đến tay thì phất, có trong tay
thì hưởng.
Như vậy, những sao nào có thể kiềm chế nổi hai đại sát tinh này? Có người
cho rằng Tử Phủ miếu vượng thì đủ uy lực chế ngự Không Kiếp. Nhưng theo
thiển ý của người viết, nếu Tử Vi hay Thiên Phủ cho dù có miếu địa mà đúng
riêng lẻ một mình cũng tối kỵ Không Kiếp. Tử Vi gặp Không Kiếp khác gì Vua
bị gian thần lộng quyền. Thiên Phủ mà gặp KHÔNG KIếP thì nhà kho trống
trơn. Nói chung, các văn tinh, sát tinh, quý tinh không đủ uy lực để chế ngự
hai đại sát tinh này mà chỉ có những võ tinh như Sát Phá Liêm Tham và Thiên
Tướng miếu vượng là không sợ Không Kiếp. Trói buộc được Không Kiếp chỉ
có Tuần Triệt.
74
Trường hợp đặc biệt là các văn tinh chỉ có Nhật Nguyệt là không sợ các sao
“không” như Thiên Không, Địa Không mà ngược lại, vì ý nghĩa chữ “không”
đối với NN là một bầu trời xanh thẳm không gợn áng mây, là điều kiện lý
tưởng cho NN tỏa sáng.
Đối với nữ Mệnh, Không Kiếp là hai sao bất hạnh cho đường tình duyên. Nữ
mệnh có Không Kiếp là người cao số, lúc thiếu thời thì tình duyên lận đận,
khi lập gia đình thì khắc chồng, khắc con. Sự xung khắc nặng hay nhẹ thì vẫn
tùy thuộc vào từng lá số và mỗi thời điểm trong cuộc đời, lúc còn trẻ, nhẹ
thì sinh ly, giữa hay cuối đời, nặng thì tử biệt.
Nổi bất hạnh của nữ mệnh có KHÔNG KIếP còn tùy thuộc vào những sao mà
Không Kiếp đi cùng, chẳng hạn hư Đào Hồng, Riêu Thai, Cự Kỵ, Tham Kỵ,
Xương Khúc….. (điều này thấy không hợp lý bởi vì KHÔNG KIếP không bao
giờ đi cùng với Xương Khúc. Các bạn nên cân nhắc vấn đề này) Gặp Không
Kiếp thì là cách hồng nhan bạc phận mà cũng có thể là bạc mệnh. Tình
duyên trắc trở, việc cưới hỏi gặp nhiều trở ngại, làm kế, làm lẽ, hai ba đời
chồng, bị chồng ruồng rẫy phụ bạc, hay bạo hành vì tai nạn hay vì tính lẳng
lơ, buông thả mà thất trinh, thất tiết. Vì hoàn cảnh hay do mình tự chọn làm
gái giang hồ v.v….. đều là những nhịp cầu oan nghiệt mà người đàn bà gặp
những cách vừa nêu trên sẽ phải bước qua.
Tuy nhiên các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Không Kiếp thì cuộc đời cũng
khá nhiều gian truân nhưng không đến nổi tan tác hay trầm luân như những
tuổi khác. Nếu 4 tuổi Thìn, Tuất Sửu, Mùi đắc cách Không Kiếp kiếp Tỵ Hợi
thì công danh phú quý sẽ đạt được một cách dễ dàng, và thật bất ngờ.
Những tuổi khác cũng được hoạch phát nhưng không giữ được lâu bền.
75
Trong một lá số nếu Mệnh và Thân tốt thì cuộc đời từ ngày lọt lòng mẹ cho
đến khi tư giã cõi đời đều được sung sướng. Hoặc nếu Mệnh Thân được một
tốt, một xấu thì ít ra cuộc đời cũng có một khoảng thời gian sung sướng.
Trường hợp nếu Mệnh và Thân cùng xấu thì cả cuộc đời là những chuỗi ngày
gian truân. Và đó là nét đặc biệt của mẫu người Mệnh Không Thân Kiếp, hay
Mệnh Kiếp Thân Không, một mẫu người có đầy đủ tất cả những hình ảnh đã
nêu trên. Và nếu Nguyễn Du dùng truyện Kiều đễ diễn đạt cái quan niệm tài
mệnh tương đố của mình, thì chúng ta cũng có thể nói rằng, mẫu người
Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không là mẫu người đa tài, đa
năng, đa dạng và cũng đa truân, là mẫu người mà khi bước chân vào đời đã
phải ở trong cái vòng tài mệnh tương đố của tạo hóa.
Tuy vậy, chúng ta cũng còn một biệt lệ cho những người Mệnh Không Thân
Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không sinh vào các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì lại
có sự ứng hợp, cho nên cuộc đời sẽ chiết giảm được rất nhiều những điều
bất hạnh do Không Kiếp mang đến.
Nếu đã nói như vậy thì niềm an ủi cũng là sự kiêu hãnh mỗi một khi mình
vươn lên được trước những thử thách cay nghiệt đó, càng phong trần danh
ấy càng cao.
BÀI 20
MẪU NGƯỜI “BẠCH THỦ THÀNH GIA”
Khi nguyên cứu về khoa Tử Vi, chúng ta nên lưu ý một điều là không phải chỉ
những chính tình như Tử Vi, Thiên Phủ, Liêm trinh, Thất Sát v.v….. mới là
76
những sao làm nên chuyện lớn. Nhưng đôi lúc, chỉ là những phụ tinh, nếu ở
đúng cách, đúng chỗ thì vẫn giúp đương số làm nên sự nghiệp một cách dễ
dàng. Đó chính là trường hợp của sao Kình Dương mà khoa Tử Vi thường gọi
là cách Kình Dương Độc Thủ, hay còn gọi là mẫu người Bạch Thủ Thành Gia,
có nghĩa là tay trắng làm nên sự nghiệp.
Kình Dương thuộc nhóm bắc đẩu tinh, hành Kim, có tên là Dương Nhận, chủ
về sát phạt và hình khắc. Kinh Dương đắc địa ở tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi)
Người có Kình Dương đắc địa tọa thủ tại Mệnh thì thân hình cao và gầy, mặt
xương, tánh qủa quyết, can đảm, dũng mãnh, thích phiêu lưu mạo hiểm,
làm việc gì cũng muốn mau chóng. Là người túc trí đa mưu, đa tài, đa năng
và có lẽ vì vậy mà cái “tôi” rất lớn, dù cho có giữ sự khiêm cung nhưng cũng
khó có thể che giấu được nét kiêu căng tự phụ vốn sẳn là bản chất.
Bởi những đặc tính vừa nêu trên, người có Kình Dương thủ Mệnh rất thích
hợp với võ nghiệp hoặc các ngành kinh doanh về kỹ nghệ. Nam phái, Mệnh
có Kình Dương đi kèm với bộ sao Sát Phá Liêm Tham thì dễ làm nên sự
nghiệp trên chiến trường. Nhưng nếu Kình gặp thêm Linh Hỏa và Kiếp Sát thì
đây cũng là cách sinh nghề tử nghiệp, khó tránh được chuyện phơi thây
ngoài chiến địa. Như chúng ta có nói, Tham Vũ đồng hành ở tứ mộ là mẫu
người của thương trường, nhưng nếu gặp thêm Kình Dương thì đấy lại là
người nghiêng về quân đội, là những quân nhân rất gan dạ và cũng là cấp chỉ
huy có khả năng trong lãnh vực tham mưu, chiến lược.
Nếu Kình Dương hãm địa thủ Mệnh mà không có những sao tốt đi
kèm thì cho dù nam hay nữ, tánh tình cũng rất hung bạo, liều lĩnh, nông nổi,
bướng bỉnh, ương ngạnh, xảo trá. Cuộc đời chỉ gặp toàn là những tai họa,
bệnh tật, và dễ dính dáng đến chuyện tù tội.
77
Kình Dương hãm ở Mệnh cũng là người khéo tay, có năng khiếu về nghành
thủ công. Nếu Kình hãm đi cùng với những sao biểu tượng cho nghệ thuật
như Nhật Nguyệt, Xương Khúc v.v….. đây là những nghệ nhân trong các lãnh
vực như điêu khắc, hội họa, trang trí nhà cửa, làm nữ trang…..
Nhưng dù đắc hay hãm địa, người có Kình Dương thủ Mệnh, nếu không có
những sao chế giải, là người chủ trương sống ở đời “vô độc bất trượng phu”
Đối với họ, cứu cách mới quan trọng, không cần phải câu nệ đến phương
tiện.
Ngoài 4 vị trí tốt đệp của Kình Dương là tứ mộ, Kình Dương cũng có nhiều ý
nghĩa đáng kể tại một vài vị trí khác như Tí Ngọ và Mão Dậu. Tại 4 cung này,
nếu không có những sao tốt chế giải thì Kình Dương chủ sự bệnh tật, tai họa
và chết yểu.
Tuy nhiên, đặc biệt tại cung Ngọ, Kình Dương đóng một vai trò hai mặt tốt
và xấu. Nếu Mệnh an tại Ngọ có Kình Dương tọa thủ là cách Mã Đầu Đới
Kiếm, kiếm treo đầu ngựa, là kẻ anh hùng lập công trên lưng và chết cũng
trên lưng ngựa. Kình tại Ngọ, gặp được những sao tốt đẹp tọa thủ đồng
cung như Thiên Đồng, Thái Âm, hay Khoa Quyền Lộc…..thì đây là cách phát
về võ nghiệp, là số của những bậc danh tướng, công trạng hiển hách,
thường được bổ nhậm trấn giữ biên cương. Nhưng với cách này, trong cái
tốt luôn ẩn tàng những điều bất hạnh. Lưỡi kiếm Kình Dương giúp anh hùng
tạo nên sự nghiệp, và cũng chính lưỡi kiếm oan nghiệt này đã giữ đúng định
luật khắc khe của tạo hóa:
“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
78
Bất hứa nhân gian kiến bạc đầu….."
Đó chính là số của Quan Vân Trường của thời Tam Quốc phân tranh. Cách
Mã Đầu Đới Kiếm đã đưa đến cái chết bi thảm của một đấng anh hùng như
vậy.
Ngoài ra hai cung Dần thân cũng không phải là vị trí tốt lành cho Kình
Dương. Tại hai cung này. Kình Dương chỉ sự bệnh tật tai họa, thất bại….. Nói
chung, Mệnh ở Dần Thân có Kình Dương thì cuộc đời có thể diễn tả trong
bốn chữ “tay làm hàm nhai” tệ hại nhất đối với người tuổi Giáp và Mậu, dù
cho có may mắn được thừa hưởng di sản của ông bà, cha mẹ thì cũng phá
tán hết tổ nghiệp mà thôi.
Tuy nhiên, nếu Mệnh ở Dần Thân có Kình, được những sao tốt khác cùng tọa
thủ thì cuộc đời sẽ được cơm no áo ấm nhờ bẩm sinh có năng khiếu về nghề
thủ công. Nếu có thêm những sao chế giải bớt sự phá hoại của Kình thì khi
vào trung hay hậu vận có thể sẽ trở mình thành đại phú bởi một ngành thủ
công nào đó như dệt, kim hoàn, điêu khắc v.v…..
Như vậy chúng ta thấy rằng, trong 12 cung của thiên bàn, chỉ có 4 cung tứ
mộ là đất dụng võ của kình dương mà thôi. Đối với nam phái, Mệnh an tại tứ
mộ có Kình Dương cùng với những sao tốt đẹp là số phát về võ nghiệp.
Nhưng nếu ở tứ mộ, Kình gặp Tử Phủ thì lại phát về kinh thương. Với những
cách vừa nêu trên mà gặp những người có các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì
có sự ứng hợp, nên mức độ tốt đẹp được tăng lên gấp bội, và khoa Tử Vi gọi
là cách kình Dương Nhập Miếu.
Đối với phái Nữ, Mệnh tại tứ mộ có Kình Dương là người đàn bà đảm đang,
79
hành xử ngoài đời không thua gì đấng mày râu, là người dám nói, dám làm.
Có thể nói một cách không qúa đáng, đây là mẫu người đàn bà làm quan cho
chồng. Điều này không phải chỉ ảnh hưởng của một Kình Dương đắc địa mà
chúng ta phải nhớ rằng, đàn bà có Mệnh an ở tứ mộ là người rất thông
minh, sắc sảo, ít nhất là trong một lãnh vực nào đó.
Bởi vậy, có người cho rằng, nữ phái, Mệnh ở tứ mộ có Kình, cùng với những
sao tốt đẹp là người đàn bà “vượng phu ích tử” chỉ nên hiểu theo ý nghĩa
của một người đàn bà đảm đang, có khả năng từ hai bàn tay trắng tự mình,
hay giúp chồng tạo dựng sự nghiệp. Còn trên những khía cạnh khác vấn đề
tình cảm, sự tâm đầu ý hợp giữa hai vợ chồng….. chắc chắn không nhiều thì
ít cũng khó tránh khỏi sự xung khắc trong gia đạo. Điều này chúng ta sẽ thấy
rõ ràng hơn trong trường hợp Kình Dương tọa thủ đồng cung với Nhật
Nguyệt, là hai sao biểu tượng cho vợ chồng, thì ý nghĩa lúc đó sẽ ngược lại,
nam thì khắc vợ, gái thì lúc trẻ cao số, lập gia đình thì khắc chồng, sát chồng.
Từ đó, chúng ta cũng thấy thêm một điều nữa là Nhật Nguyệt không sợ
Không Kiếp mà chỉ sợ Kình Đà.
Trong một lá số, Nhật Nguyệt dù miếu vượng mà gặp phải Kình Đà thì sớm
muộn gì cũng sẽ đau khổ, bệnh tật về mắt, vợ chồng xung khắc, và nếu
không có những sao hóa giải, nhẹ thì sinh ly, nặng thì tử biệt.
Tóm lại cách Kình Dương Độc Thủ trong một lá số tương đối tốt đẹp sẽ giúp
cho đương số đạt được công danh sự nghiệp. Tuy nhiên, cuộc đời của người
Kình Dương thủ Mệnh là con đường đầy chông gai. Sự thành công của họ là
từ hai bàn tay trắng, bằng sức phấn đấu cũng như khả năng của chính bản
thân. Cho nên lúc thiếu thời thường gian nan vất vả, cho đến trung vận hay
hậu vận thì mới được công thành doanh toại.
80
BÀI 21
MẪU NGƯỜI “LƯNG TRỜI GÃY CÁNH”
Trong nhóm hung sát tinh của khoa Tử Vi, người ta ít chú trọng đến sao
Thiên Không, một phụ tinh nhỏ xếp vào hàng em út so với đại sát tinh Không
Kiếp mà chúng đã đề cập trong chương trước. Theo thiển ý của người viết
thì Thiên Không là một phụ tinh rất đáng cho chúng ta lưu ý khi giải đoán
một lá số và nhất là lúc xem hạn. Ngoài những ý nghĩa căn bản và đơn giản
của một ác tinh, Thiên Không còn mang nhiều sắc thái đối nghịch nhau rất lý
thú mà chúng ta phải cân nhắc thận trọng khi giải đoán một lá số có Thiên
Không thủ Mệnh để khỏi đi đến những kết luận sai lầm đáng tiếc.
Thiên Không thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần, thân, Tỵ, Hợi và đó cũng là nơi
đắc địa của Không Kiếp, cho nên tại những vị trí này, Thiên Không sẽ có uy
lực không kém gì không kiếp, và cũng như các đàn anh, Thiên Không chủ sự
phá tán, thất bại, gãy đổ nửa chừng.
Người có THIÊN KHÔNG hãm địa thủ mệnh thì tính tình gian xảo, qủy quyệt,
chuyên dùng sự gian dối, thủ đoạn để ăn ở với người, để mưu sự với đời,
nhưng rốt cuộc cũng không làm được việc gì ngoài những trò tiểu xảo hầu
thủ lợi cho cá nhân mình, nhưng chung cuộc thì cũng tự hại mình mà thôi.
Người có THIÊN KHÔNG đắc địa thủ mệnh tính tình táo bạo, thăng trầm, túc
81
trí đa mưu, thích toan tính những chuyện lớn lao, nhưng nếu không có
những sao chế giải thì từ anh hùng trở thành gian hùng dễ như trở bàn tay.
Bởi vậy, như đã nói ở trên, ý nghĩa lý thú của THIÊN KHÔNG là chúng ta có
thể ví người Thiên Không là người “nhị trùng bản ngã”. Trong con người
THIÊN KHÔNG có một người thiện, một người ác, có chính, có tà…..Một lá số
với cách cục tốt đẹp nào đó khiến chúng ta kết luận đương số là anh hùng,
nhưng cẩn thận, anh hùng có thể là gian hùng nếu có thêm Thiên Không
đồng thủ mệnh.
Cái bản ngã thứ nhì của THIÊN KHÔNG hiểu theo triết lý nhà Phật thì THIÊN
KHÔNG còn có ý nghĩa “sắc sắc không không” Cho nên, người có THIÊN
KHÔNG đắc địa thủ mệnh gần giống với mẫu người Tử Tham Mão Dậu, bẩm
sinh từ lúc còn trẻ đã có khuynh hướng yếm thế, có những ý nghĩ và cuộc
sống gần gũi với tôn giáo. Cái khổ của người THIÊN KHÔNG là sự dằn vặt
trong nội tâm bởi hai cánh tay của THIÊN KHÔNG, một thiện một ác, một
chánh một tà, một đời một đạo, lôi kéo, giằng co đương số suốt cả cuộc đời:
Mệnh tọa Thiên Không định xuất gia, có nghĩa là người Thiên Không thủ
mệnh lòng chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện được hay không đớ
còn tùy thuộc vào những sao phối hợp mà chúng ta đề cập sao đây.
Sự cân nhắc thận trọng với lá số THIÊN KHÔNG lại càng nên thận trọng hơn
đối với hai sao Đào Hồng, là biểu tượng cho sắc đẹp, nghệ thật và nhất là nữ
phái. Có nhiều sách cho rằng THIÊN KHÔNG thủ mệnh gặp Đào Hoa, dù nam
hay nữ, cũng là những người có khả năng quyến rũ người khác phái bằng
những ngón nghề riêng của mình. Theo thiển ý của người viết, chúng ta phải
phân biệt hai trường hợp.
Đối với nam mệnh, THIÊN KHÔNG là biểu tượng cho bản chất của đương số,
82
và Đào Hoa là đối tượng đeo đuổi. Cho nên nam phái có TH + ĐH ở mệnh là
người đào hoa và biết dùng những ưu điểm trời phú cho mình như nhân
dáng, lời ăn, tiếng nói ngọt ngào, địa vị, quyền thế..v.v…..Nói chung là dùng
mọi khả năng quyến rũ của mình dễ lợi dụng đàn bà vào một mục đích nào
đó. Nếu gặp thêm những sao như Phục Binh, Quan Phù, Quan Phủ….. thì
mức độ lợi dụng sẽ đi đến chuyện dụ dỗ, lừa gạt, phản bội một cách trắng
trợn.
Đối với phái nữ, Đào Hoa là biểu tượng chính của đương số, là cánh hoa biết
nói, còn THIÊN KHÔNG là lửa trên trời. Đào Hoa gặp lửa thì làm sao không
khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách này là người có nhan sắc nhưng lại
không có duyên. Chữ duyên ở đây bao hàm cả hai ý nghĩa: Sự duyên dáng từ
cử chỉ đến cách ăn nói của người đàn bà, và cũng là ý nghĩa của duyên phận.
Chúng ta thường thấy những người đàn bà có sắc đẹp bên ngoài nhưng khi
tiếp xúc thì không tìm thấy một nét hấp dẫn nào qua tính tình hay nội tâm.
Họ cũng như cành hoa hữu sắc vô hương, và phải chăng vì vậy mà Đào Hoa
ngộ Thiên Không thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có sức quyến
rũ nam phái.
Và tương tự, chúng ta nên thận trọng trong việc giải đoán với sao Hồng
Loan, cùng ý nghĩa như Đào Hoa. Mệnh có Thiên Không + Hồng Loan là
người có tư cách thanh cao, thích an nhàn, ẩn dật, và khuynh hướng xa lánh
trần tục rất rõ ràng. Hai chữ “không hồng” với quan niện triết lý của nhà
Phật, phải chăng là không vướng bụi hồng trần?
Một ý nghĩa đáng kể mà chúng ta đã nói ở trên là sự thất bại, sự đổ gãy nửa
chừng của người có Thiên Không thủ mệnh. Sự gãy đổ này có thể xảy ra trên
mọi lãnh vực từ công danh, sự nghiệp cho đến chuyện tình cảm gia đạo
83
v.v…..Bởi vậy, chúng ta có thể gọi người THIÊN KHÔNG thủ Mệnh là mẫu
người Bán Thiên Triết Sỉ = Lưng Trời Gãy Cánh.
Người có cách Tham Vũ Đồng Hành là người làm nên sự nghiệp từ thương
trường. Nhưng nếu mệnh có Thiên Không thì chắc chắn thì đương số ít nhất
cũng phải một lần thất bại đau thương rồi mới làm nên sự nghiệp. Tùy theo
mỗi lá số, có người đổ vỡ trên đường công danh, có người gãy đổ trên
đường tình ái….. Và cho đến việc tu hành cũng không phải là con đường nhẹ
nhàng đối với những người đã có lòng thoát tục. Cho nên cuối cùng họ đành
chấp nhận cuộc sống nửa đời nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời.
Chúng ta cũng thấy rất rõ đặc tính lưng trời gãy cánh khi THIÊN KHÔNG nhập
hạn. Một tay chọc trời khuấy nước như Hạng Võ mà hạn gặp THIÊN KHÔNG
cũng đành phải mất nước, biệt Ngu Cơ và tự vẫn bên dòng Ô Giang. Hạn gặp
Thiên Không thì tốt nhất là khoanh tay ngồi yên, chớ mưu tính chuyện gì cho
tốn công phí sức. Dù có mưu cầu toan tính tới đâu thì chung cuộc cũng chỉ là
đầu voi đuôi chuột mà thôi. Nếu gặp hạn xấu thì kết quả có thể còn tệ hại
hơn, kể cả chuyện tán gia bại sản hay gia đình ly tán.
Những tác hại của THIÊN KHÔNG sẽ nhẹ nhàng hơn đối với những người
Mệnh Vô Chính Diệu vì cung mệnh của họ vốn đã là “không” nếu gặp thêm
không nữa thì cũng không gì đáng ngại. Những người có Nhật Nguyệt thủ
mệnh cũng không sợ Thiên Không vi hai vầng nhật nguyệt lại càng sáng tỏ
trong bầu trời không gợn áng mây che.
Cuối cùng, một đặc điểm oái oăm khác của mẫu người Thiên Không là cho
dù hôm nay có làm nên công danh sự nghiệp, có quyền cao chức trọng, thì
cũng nên hiểu rằng chung cuộc của mình rồi cũng hai bàn tay trắng mà thôi.
84
Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng không phải chỉ những chính tinh mới quyết
định số mệnh của một con người, mà đôi lúc những phụ tinh lại là những
khúc quanh rất quan trọng của một đời người.
BÀI 22
MẪU NGƯỜI “NHẬT TRẦM THỦY BỂ”
Khi phác họa về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta đã nêu rõ
những đặc tính của sao Thái Dương trong một vài vị trí đặc biệt. Ở đây,
chúng ta chỉ nhắc lại những đặc tính của Thái Dương trong những vị trí tốt
đẹp trước khi nói đến Thái Dương sẽ như thế nào ở vào các vị trí hãm địa.
Thái Dương thuộc Nam Đẩu tinh, hành Hỏa, miếu ở hai cung Tỵ Ngọ, tức là
mặt trời lúc giữa trưa và vượng địa ở hai cung Dần Mão, là lúc mặt trời lúc
bình minh. Ở 4 vị trí này, Thái Dương chủ sự thông minh, lòng nhân đức, tài
lộc và uy quyền. Thái Dương hợp với những người Dương Nam, Dương Nữ
và những người sinh vào ban ngày. Ngoài những vị trí miếu vượng vừa nêu
trên, hai cung Sửu Mùi cũng là hai vị trí đắc địa của Thái Dương, mặc dù đó
là thời gian đã là giao điểm giữa đêm và ngày.
Như vậy sáu cung còn lại từ cung Thân đến cung Tí là những vị trí hãm địa
của Thái Dương, là thời điểm của bóng đêm, mặt trời không ánh sáng. Trong
sáu cung hãm địa này, Thái Dương có hai vị trí khá đặc biệt là cung Tí và Hợi,
khoa Tử Vi gọi là cách Nhật Trầm Thủy Bể (NTTB), nghĩa là mặt trời chìm
xuống đáy nước. Tuy vậy, nhưng ít nhiều mặt trời vẫn còn giữ được ánh
quang huy, vẫn còn giá trị của một vầng Thái Dương.
85
Người có Thái Dương thủ Mệnh tại hai cung Tí Hợi là người hiền lương rộng
lượng, có lòng nhân từ với mọi người nhưng đôi lúc tính tình cũng hơi cố
chấp, có lẽ vì lúc nào cũng đối xử tốt đẹp với mọi người, cho nên nghĩ rằng
người khác cũng sẽ đối xử với mình như vậy. Là người thông minh, tuy nhiên
không được bền chí, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng, gặp trở ngại thì dễ
dàng nản lòng, bỏ cuộc. tính khí thanh cao, thích sự tao nhã, thích cuộc sống
an nhàn, đặc biệt là có năng khiếu về thẩm mỹ, văn chương và nghệ thuật.
Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể từ nhỏ đã có nhiều bệnh tật. Đáng kể nhất là
những bệnh về mắt, bệnh về máu huyết như áp huyết cao, thần kinh dễ bị
suy yếu, hay bị chứng đau đầu kinh niên. Nếu muốn qua khỏi bệnh tật này,
lúc trẻ phải sống xa gia đình hoặc xa quê hương càng tốt. Được như vậy thì
sức khỏe sẽ ngày một khá hơn và tuổi thọ cũng kéo dài hơn. Tuy nhiên vẫn
phải thận trọng với đôi mắt của mình, nếu trong người hay tay chân không
bị khuyết tật gì bẩm sinh, và nếu có thêm nhưng sao như Kình Đà, Thiên
Hình, Kiếp Sát thì mắt có thể bị vật nhọn đâm vào hay phải chịu sự mổ xẻ.
Nói về đường công danh sự nghiệp thì mẫu người NTTB là những người có
khả năng thiên phú, nổi bật nhất là trong lãnh vực văn học, nghệ thuật.
Nhưng oái oăm thay, tài năng của họ cũng như mặt trời chìm sâu đáy nước
cho nên hầu hết, họ là những ngưới bất đắc chí. Trong cuộc sống, trong
công việc, hoặc trong những môi trường sinh hoạt hàng ngày họ thường gặp
phải những hoàn cảnh khiến cho họ không thể thi thố hết tài năng của mình
được. Đây cũng là trường hợp những người mang khả năng tâm huyết đạt
thành qủa, nhưng thành qủa đó lại do người khác hưởng chứ người đời
không biết đến mình. Chẳng hạn như những người chuyên dự thảo chương
trình, kế hoạch, tham mưu, cố vấn, các chuyên viên, các khoa học gia âm
86
thầm làm việc trong những phòng thí nghiệm v.v…..
NTTB dù nam hay nữ cũng là những người khéo tay và có khiếu về thẩm mỹ.
Họ xuất sắc trong những lãnh vực như nấu ăn, trang điểm, thêu thùa, trang
trí nhà cửa….. Nếu có thêm những sao về văn học như Thái Âm, Xương
Khúc, Khôi Việt, Đào Hồng Hỷ….. hợp chiếu thì họ là những nghệ sĩ có thực
tài nhưng vì hoàn cảnh mà tài năng phải bị mai một, hoặc là tác phẩm của
họ chỉ được người đời biết đến khi họ đã khuất. Và những trường hợp mà
chúng ta vẫn thường thấy là đôi lúc tên tuổi của một ca sĩ, một diễn viên
trên sân khấu, màn ảnh….. lại được nhiều người biết đến và hâm mộ hơn là
những nhạc sĩ, người soạn tuồng, đạo diễn. Cũng như những tác phẩm nổi
tiếng, những hồi ký của một chính khách, một nhân vật nào đó, thường vẫn
do một người khác viết dùm (người Mỹ gọi là Ghost Writer) Đó là ý nghĩa
của mặt trời chìm đáy nước.
Riêng với nữ mệnh, Thái Dương ở Tí Hợi là người có nhan sắc nhưng nét mặt
lúc nào cũng phảng phất một nét buồn bởi có câu “Nhật lạc nhàn cung, sắc
thiểu xuân dung.” Tính tình đa sầu đa cảm, tâm địa hiền thục thanh cao và
có thể nói bốn chữ công dung ngôn hạnh đều hội đủ. Họ thường hợp và
sống gần với cha hơn mẹ, nhưng cũng vì Thái Dương hãm, cho nên khi lập
gia đình thì lại khắc chồng, chuyện tình duyên buồn nhiều hơn vui.
Nói chung, Thái Dương dù hãm nhưng nếu không gặp những hung tinh hay
ám tinh thì cuộc đời cũng đủ ăn đủ mặc. Nếu may mắn được những sao tốt
đi kèm, hoặc được Tuần Triệt án ngữ thì hậu vận cũng có một cuộc sống an
nhàn sung sướng. Người Thái Dương hãm địa thủ mệnh thiếu thời thường
gặp những nghịch cảnh để rồi lúc nào cũng phải phấn đấu, chỉ khi về già thì
cuộc sống mới có phần toại nguyện.
87
Nhưng đặc biệt với những người tuổi Bính và tuổi Đinh thì lại rất hợp với
Thái Dương tại cung Tí, cuộc đời vẫn được giàu sang phú qúy: “Thái Dương
cư tí, Bính Đinh phú qúy trung lương.” Với các tuổi khác, tuy là có tài năng,
nhưng suốt đời chỉ gặp toàn là những cảnh bất đắc chí, cũng giống như nhà
thơ Tú Xương hay Cao Bá Quát mà thôi.
BÀI 23
MẪU GƯỜI uc1“MỆNH TUẦN THÂN TRIỆT”
Trong 118 vì sao của khoa Tử Vi có hai sao được xem là đặc biệt nhất. Đó là
sao Tuần và Triệt. Tuần Triệt (TT) an theo năm sinh và hàng can của năm
sinh, và đặc biệt là vị trí của Tuần Triệt nằm giữa ranh giới của hai cung chứ
không tọa thủ trong một cung nào như các sao khác. Điểm đặc biệt thứ hai
là vị trí đắc hãm và hành của chúng. Đây cũng là một vấn đề tranh cãi rất
nhiều. Có người cho rằng Tuần thuộc hành hỏa và Triệt hành kim. Cũng có
người cho rằng Tuần và Triệt đều hành thủy. Một số khác lại cho rằng Tuần
và Triệt không có hành cố định, đóng ở cung nào thì mang hành của cung
đó. Như vậy, lập luận này sẽ đưa đến kết qủa là Tuần Triệt có lúc chỉ có một
hành trong trường hợp chúng đóng giữa hai cung Thân và Dậu đều thuộc
hành kim. Nhưng giả sử Tuần Triệt đóng giữa hai cung Ngọ và Mùi thì thì
Tuần Triệt phải mang hai hành Hỏa của cung Ngọ và Thổ của cung Mùi. Xét
cho cùng, điều này xem ra không hợp lý lắm.
Khi nói về ngũ hành, ví dụ như nói về hành của một hướng, như Đông Nam
88
thì chúng ta nói là Mộc đới Hỏa, hoặc hành của Phượng Các là Mộc đới Thổ
chứ không thấy ai nói vừa mang hành Mộc và mang hành Thổ. Chữ “đới” ở
đây có nghĩa là “nghiêng về” hay “thiên về” Trong cuốn tử vi Ảo Bí của Việt
Viêm Tử, tác giả cho rằng Triệt có hành Kim đới Thủy và Tuần có hành Hỏa
đới Mộc.
Về những vị trí đắc hãm của Tuần Triệt thì cũng có người cho rằng TT chỉ đắc
địa ở Tỵ Ngọ và Thân Dậu, còn những vị trí khác đều hãm địa. Nhưng điều
này cũng không hợp lý vì chúng ta biết Triệt không đóng ở Tỵ Ngọ. Và cũng
theo quan điểm này thì nếu TT đắc địa sẽ không tác hại, còn nếu hãm địa thì
sẽ tác hại. Đây là điều không hợp lý thứ hai. Sau khi nói đến ý nghĩa của hai
sao TT dưới đây, chúng ta sẽ thấy bản chất của TT là như thế nào.
Tóm lại, người viết đồng ý với quan điểm của Thái Thứ Lang, tác giả của
cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, “hai sao Tuần Triệt không có những vị trí đắc
địa hay hãm địa và cũng không thuộc một hành nào trong ngũ hành.”
Đầu tiên chúng ta thấy rằng, chỉ với cái tên của hai sao này cũng đã nói lên
rất nhiều ý nghĩa. Tuần có nghĩa là tuần tiểu, tuần phòng, canh giữ, vây hãm.
Triệt là chặc đứt, phá tan, tiêu tán, làm mất hết. Từ đó, hai sao TT vừa đóng
vai trò vừa chính vừa tà, vừa thiện vừa ác đối với các sao trong cung mà
chúng trấn đóng.
Khi nói đến ảnh hưởng của TT, có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ
nhất cho rằng TT làm đảo ngược ý nghĩa tốt xấu của tất cả những sao trong
hai cung mà chúng đóng. Ví dụ: một sao đắc địa gặp TT thì những đặc tính
tốt đẹp của sao này bị mất đi và trở nên hãm. Ngược lại nếu sao hãm địa
gặp TT thì lại trở nên tốt đẹp giống như đắc địa. Như vậy thì uy lực của TT
89
qúa lớn vì TT không phải chỉ ảnh hưởng lên 1 sao mà chúng ảnh hưởng lên
tất cả các sao mà chúng trấn đóng. Quan điểm đảo ngược này chúng ta thấy
trong một vài trường hợp đặc biệt. Ví dụ: Liêm Tham ở Tỵ, Hợi rất xấu,
nhưng nếu gặp TT thì trở nên tốt đẹp, và được gọi là phản vi kỳ cách, đổi xấu
thành tốt.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng TT không hề đảo ngược ý nghĩa của các sao
trong vòng ảnh hưởng của chúng, mà chỉ giảm bớt những đặc tính tốt xấu
của các sao. Theo thiển ý của người viết, quan điểm này xem ra có phần hợp
lý hơn. Tỉ lệ chiết giảm của Triệt tuy rất cao nhưng cũng chưa đếm mức độ
100% để có thể thay đổi hẳn bản chất của một sao nào đó. Hơn nữa, cũng
có trường hợp những sao đắc địa mà gặp TT thì lại càng tốt hơn chứ không
hề bị đảo ngược, như trường hợp Cự Cơ ở hai cung Tí Ngọ (Thạch Trung Ẩn
Ngọc) là ngọc còn ẩn trong đá, nếu gặp TT phá vỡ cho ngọc lộ ra bên ngoài
thì càng đúng cách.
Khi nói về mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt hay Mệnh Triệt Thân Tuần, Thái
Thứ Lang đã gián tiếp xác định mức độ ảnh hưởng của TT nói chung. Theo
Thái Thứ Lang, người Mệnh Tuần Thân Triệt cần có Cơ Nguyệt Đồng Lương
đắc địa thứ mệnh thì cuộc đời về già mới được xứng ý toại lòng. Như vậy
chúng ta có thể ghi nhận một điều, đối với Tuần, thà có chính tinh đắc địa để
chấp nhận mức độ tốt bị giảm bớt còn hơn là gặp chính tinh hãm địa rồi
trông chờ Tuần làm cho tốt đẹp.
Đối với người Mệnh Triệt Thân Tuần thì Thái Thứ Lang cho rằng, Mệnh cần
phải Vô Chính Diệu thì lúc về già mới được xứng ý toại lòng. Như vậy chúng
ta thấy rằng, ảnh hưởng của của Tirệt mạnh mẽ hơn Tuần nhiều, cho nên
cung Mệnh thà không có chính tinh vẫn còn tốt hơn có chính tinh, dù đắc
90
hay hãm địa.
Trên thực tế chúng ta thấy hai sao TT không có uy lực để thay trắng đổi đen
một cách hoàn toàn, chẳng hạn, một người có Thái Dương đắc địa thủ Mệnh
gặp TT thì bản tính của người này không thể trở thành giống bản tính của
người có Địa Kiếp thủ Mệnh được. Nói một cách khác, TT chỉ ảnh hưởng
mạnh mẽ trên lãnh vực công danh, sự nghiệp của đương số chứ không triệt
tiêu được bản chất lương thiện của một Thái Dương vốn đã đắc địa.
Ngoài ra, ảnh hưởng của TT ở mức độ nào còn tùy thuộc vào ý nghĩa của
mỗi sao, hay ý nghĩa của một cách do nhiều sao hợp lại, chứ không hoàn
toàn giống nhau. Chẳng hạn như sao Thiên Hình, Thiên Mã, Thiên Tướng,
Tướng Quân…..dù đắc hay hãm cũng tối kỵ TT hơn các sao khác bởi vì kiếm
gãy, ngựa què, tướng mất đầu…..thì tất nhiên là vô dụng. Tương tự, Thất Sát
ở Dần thân là người anh hùng một mình một kiếm, nhất hô bá ứng, nhưng
gặp Triệt lại trở thành anh hùng gãy kiếm. uc1 uc1 uy vậy, cũng có những
trường hợp đặc biệt, ví dụ như hai sao Cự Cơ ở Tí Ngọ như chúng ta đã nói ở
trên. Vì ý nghĩa của cách Thạch Trung Ẩn Ngọc cho nên TT lại rất cần thiết.
Chúng ta vừa nói đến ảnh hưởng của TT trên các sao, còn ảnh hưởng của TT
trên các cung thì như thế nào? Có phải sự ảnh hưởng của TT trên hai cung
mà chúng trấn đóng đều như nhau? Điều này chúng ta cũng có hai quan
điểm:
1. Ảnh hưởng của TT trên mỗi cung nặng hay nhẹ còn tùy thuộc đương số là
Dương Nam, Âm Nữ hay là Âm Nam, Dương Nữ. Nói một cách khác là theo
chiều của vòng đại hạn của mỗi lá số. Ví dụ: Lá số có vòng đại hạn đi theo
chiều thuận, có nghĩa là từ cung Mệnh rồi qua Phụ Mẫu, Phúc Đức v.v….. Và
91
nếu Triệt đóng giữa cung Mệnh và cung Huynh Đệ, như vậy chúng ta nói là
Triệt chặn đầu cung Huynh Đệ và vuốt đuôi cung Mệnh. Khi nói Triệt chặn
đầu một cung nào thì ảnh hưởng của Triệt ở cung đó sẽ mạnh hơn đối với
cung mà Triệt vuốt đuôi, và tỉ lệ ảnh hưởng được xác định cũng theo nguyên
tắc Âm Dương:
Dương hành tam thất (3/7)
Âm quy nhị bát )2/8)
Như vậy, nếu theo chiều thuận của vòng đại hạn thì cung nào bị TT chận đầu
sẽ chịu ảnh hưởng 7 phần, nếu đi ngược sẽ chịu ảnh hưởng 8 phần và tương
tự các cung xung chiếu hay tam hợp chiếu với các cung có TT đóng cũng chịu
ảnh hưởng nặng nhẹ theo nguyên tắc này.
2. Ảnh hưởng của TT phân phối đều trên hai cung mà chúng trấn đóng chứ
không có cung nào nặng hơn cung nào như ý nghĩa của quan điểm thứ nhất.
Người viết đồng ý với quan điểm thứ hai vì chúng ta thấy rằng ảnh hưởng
của TT chỉ khác nhau trên các cung có chính tinh mà thôi. Thường những
cung có chính tinh không nên gặp TT. Trái lại, những cung nào VCD thì lại rất
cần có TT . Trong trường hợp này TT đóng vai trò của một người giám hộ để
bảo vệ cho một gia đình không có gia chủ. Từ đó, chúng ta rút ra một hệ
luận là ảnh hưởng của TT đối với chính tinh có tầm quan trọng hơn đối với
các phụ tinh.
Ngoài ra, TT đôi lúc còn đóng hai vai trò khác nhau, một thiện, một ác.
Chẳng hạn nếu ba cung tam hợp, gọi là tam phương, bị nhiều sát tinh thủ
hay hợp chiếu mà được Triệt đóng thì mọi sự hung hiểm cũng giảm đi rất
nhiều. Ngược lại, bốn cung Mệnh, tài Quan, Di, gọi là Tứ Chính, dù có đắc
92
cách tới đâu nhưng đã gặp Tuần thì cũng xem như bị phá hết: “Tam phương
vô sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng. Tứ chính giao phù kỵ, nhất không chi
trực phá.”
Và trên đây chúng ta mới nói đến vùng ảnh hưởng của TT, còn thời gian ảnh
hưởng của hai sao này thì như thế nào? Thường có người cho rằng Triệt ảnh
hưởng 30 năm đầu của cuộc đời, Tuần ảnh hưởng 30 năm sau của cuộc đời.
Theo thiển ý của cá nhân, Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong khoảng tiền
vận, rồi từ yếu dần ở trung vận và hậu vận. Ảnh hưởng của Tuần thì không
có khoảng thời gian nào mạnh hay yếu, cứ ở mức trung bình, đều đặn và
bền bỉ từ tiền vận cho đến hậu vận.
Trường hợp cung Mệnh có Triệt thì ảnh hưởng của Triệt sẽ như thế nào?
Cung Mệnh cũng như các cung khác thông thường có đủ sao xấu và tốt xen
lẫn nhau. Có sao đắc địa, có sao hãm địa. Đối với những sao tốt đắc địa thủ
Mệnh, đương số sẽ gặp sự bất lợi vì Triệt sẽ làm giảm bớt những ý nghĩa tốt
đẹp của các sao này. Sự bất lợi sẽ xảy ra trong thời ky tiền vận của đương số,
và sau đó, khi uy lực của Triệt yếu dần thì sự tốt đẹp của các sao tốt sẽ được
phục hồi ở một mức độ nào đó mà thôi chứ không thể nào được 100% như
trường hợp không bị Triệt.
Ngược lại, trong khoảng tiền vận thì đương số lại được một lợi điểm là, giả
sử, nếu có những hung tinh hay sát tinh thủ mệnh, thì nhờ ảnh hưởng của
Triệt mà đương số tránh được phần nào những điều không tốt do các hung
sát tinh gây nên. Nhưng từ trung vận trở lên, khi Triệt yếu dần, không còn
đủ uy lực để trói buộc hung sát tinh nữa, và sự tốt xấu lúc đó chỉ còn tùy
thuộc vào công lực của các sao tốt và sao xấu, bên nào mạnh thì chế ngự
được bên đó.
93
Nói chung, Triệt đóng tại Mệnh thì tiền vận (từ lúc sinh ra cho đến 32 tuổi
đối với người Thủy Nhị Cục, 33 với Mộc Tam Cục, 34 với Kim tứ Cục, …..)
Thường bị lao đao lận đận và dễ gặp hoàn cảnh mồ côi sớm (trường hợp
Triệt đóng giữa hai cung Mệnh và Phụ Mẫu )
Trường hợp Triệt đóng tại cung Thân thì ảnh hưởng của Triệt không có gì
đáng kể vì uy lực của Triệt mất dần trong khoảng trung vận và hậu vận, có
thể xem Triệt như một áng mây, gây rắc rối trở ngại cho đương số những lúc
khởi sự một việc gì mới mà thôi.
Trường hợp cung Mệnh có Tuần đóng thì tất cả những gì tốt đẹp do các sao
tốt mang đến, cũng như những hung họa do hung sát tinh gây ra cho đương
số đều giảm xuống ở mức trung bình, và muốn biết cuộc đời của đương số
thế nào trong khoảng tiền vận thì chúng ta phải đặt cả tốt và xấu lên bàn
cân. Thường người ta cho rằng Mệnh ứng với tiền vận, nhưng thật ra Mệnh
vẫn là cái gốc của đời người, cho nên sau tiền vận, Mệnh vẫn còn ảnh hưởng
ở mức độ nhẹ. Như vậy, khi Tuần đóng ở Mệnh, thì sau khoảng thời gian của
tiền vận những mức độ tốt hay xấu của cung Mệnh do Tuần chi phối vẫn còn
âm hưởng.
Nếu Tuần đóng tại cung Thân thì vấn đề tốt hay xấu cũng tương tự như trên.
Nếu có khắc thì trong trường hợp này là Tuần chỉ chi phối trong khoảng thời
gian trung vận và hậu vận mà thôi.
Nếu cả Tuần và Triệt cùng đóng ở cung Mệnh hay cung Thân thì thế nào?
Điều này cũng có hai ý kiến khác nhau.
94
1. Một số cho rằng khi TT gặp nhau thì sẽ tự hoá giải cho nhau và hai cung
đó xem như không có mặt của TT nữa. Điều này xét ra không hợp lý lắm bởi
vì khoa Tử vi không có những sao nào cùng nhóm lại triệt tiêu nhau. Những
sao cùng nhóm luôn hỗ trợ cho nhau, tốt thì tốt thêm, xấu thì xấu hơn.
Chẳng hạn như Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc, hay hủy hại nặng nề khi
Không Kiếp gặp thêm Hỏa Linh. Chỉ có những sao khác nhóm mới khắc chế
nhau như Thiên Hình khắc chế và làm giảm đi sự lẳng lơ của Đào Hoa.
2. Mệnh có cả TT như một nhà tù có hai ông cai ngục. Ông chính là Triệt, ông
phụ là Tuần. Hết khoảng thời gian của tiền vận khi Triệt về hưu thì cũng còn
ông Tuần cai quản, chứ không hề nhà giam được bỏ ngỏ.
Sau hết, trường hợp chúng ta muốn nói ở đây là những lá số có Tuần đóng ở
Mệnh và Triệt đóng ở Thân mà chúng ta thường nghe là mẫu người Mệnh
Tuần Thân Triệt, hay trường hợp Mệnh Triệt Thân Tuần, thì cuộc dời của hai
mẫu người này như thế nào?
Để có câu trả lời, cách tốt nhất là chúng ta để lên bàn cân từng phần một rồi
cộng trừ các số thành với nhau để có đáp số cuối cùng. Mệnh có Tuần đóng,
nếu Mệnh tốt thì mức độ chiết giảm do Tuần gây ra tương đối nhẹ nhàng,
còn nếu cung Mệnh xấu, thì sự cứu vãn của Tuần cũng không được bao
nhiêu. Những hung sát tinh cũng như những đúa con phá gia chi tử trong
một gia đình bất hạnh. Họa chăng chỉ có người cha là triệt còn đủ uy lực để
chế ngự, chứ còn mẹ Tuần thì không đủ sức.
Qua trung vận và hậu vận thì ứng vào cung Thân. Nếu cung Thân tốt mà có
Triệt đóng thì cũng không gây ảnh hưởng gì đáng kể, có chăng chỉ là những
trở ngại gây rắc rối lúc ban đầu mà thôi. Trường hợp nếu cung Thân xấu thì
95
Triệt ở đây cũng như người nộm dùng để dọa chim chứ không có năng lực gì
đáng kể. Như vậy, nếu người Mệnh Tuần Thân Triệt mà có cung Thân tốt
đẹp thì về già cuộc đời cũng đạt được nhiều mãn nguyện.
Trường hợp đối với những người Mệnh Triệt Thân Tuần thì cũng tương tự.
Mức độ tốt xấu của cung Mệnh sẽ bị chiết giảm nhiều hơn, và sự ảnh hưởng
này chỉ xảy ra trong khoảng tiền vận mà thôi. Rồi từ đó cho đến hết cuộc
đời, ảnh hưởng của sự tốt xấu trên cung Thân chỉ ở mức độ ôn hoà. Như vậy
đối với mẫu người Mệnh Triệt Thân Tuần thì thời gian thử thách nhất là thời
thanh xuân, sau đó, nếu cung Thân tốt đẹp thì cuộc đời tương đối cũng
được bình ổn.
Tuy nhiên, người Mệnh Tuần Thân Triệt, hay Mệnh Triệt Thân Tuần cũng có
những trường hợp đặc biệt như, nếu cung Mệnh hay cung Thân VCD mà có
Tuần hay Triệt đóng thì tốt hơn là không có TT. Hoặc là cung Mệnh vừa có cả
Tuần lẫn Triệt vừa thêm hai sao Thiên Không và Địa Không, tùy theo có bao
nhiêu sao KHÔNG, chúng ta gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không
hay tứ không, đều là những cách hoạch phát. Hoặc là nếu TT đóng tại Mệnh
hay Thân mà hai cung này VCD lại được Nhật Nguyệt hợp chiếu thì cũng rất
tốt đẹp.
Tóm lại, TT là hai sao đặc biệt nhất trong 118 sao của khoa Tử Vi, và cũng đã
trở thành đề tài tranh luận rất nhiều. Nhưng tốt nhất là tùy theo kinh
nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự chọn cho mình một quan điểm riêng. Dù
sao, khi nói đến TT, chúng ta đều thấy ảnh hưởng tốt xấu của hai sao này
trên một lá số nào đó không phải là điều đơn giản. Giống như một người bị
bệnh phải uống thuốc, như người bị chứng đau nhức phải uống thuốc giảm
đau. Nhưng khi uống thuốc giảm đau nhiều thì lại sinh ra chứng đau bao tử,
96
uống thuốc chữa bệnh đau bao tử nhiều thì lại sinh ra chứng bất lực.. Ảnh
hưởng của TT cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này thì phá bên kia, và có
lẽ cái thâm sâu của khoa Tử Vi là ở chổ đó.
BÀI 24
MẪU NGƯỜI “CỰ CƠ MÃO DẬU”
Giai cấp xã hội của thời phong kiến xa xưa được xếp hạng thứ tự Sĩ, Nông,
Công, Thương. Kinh doanh thương mại được đứng vào hàng thú tư. Nhưng
thật sự thì ai cũng hiểu một quan niệm, gần như là một định luật đó là “phi
thương bất phú”. Khoa Tử Vi cũng đề cập đến những mẫu người của thương
trường, trong đó có mẫu người Cự Cơ Mão Dậu, là một trong những mẫu
người doanh thương mà chúng ta khảo sát sau đây.
Cự Môn là một bắc đẩu tinh, thuộc hành Thủy. Có lẽ hành Thủy khiến cho
Cự Môn trở nên uyển chuyển theo hoàn cảnh, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”
Cự Môn đắc địa đi với những võ tinh thì sẽ hỗ trợ cho võ tinh thêm mạnh
mẽ để phát về võ nghiệp. nếu đi với những sao văn tinh thì sẽ thành công
trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu đi với những sao có khuynh hướng
về kinh doanh thì sẽ trở thành những tay kinh doanh cự phách, và tương tự,
khi đi với dâm tinh thì Cự Môn rất buông thả.
Cự Môn miếu địa ở Mão Dậu, vượng địa ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân và
Hợi, hãm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Tỵ. Mặc dù bị xếp hạng là ám tinh nhưng Cự
Môn miếu vượng thủ Mệnh là người thông minh và nhân hậu. Cự hãm thì
thật sự đúng với biệt danh là ám tinh.
97
Cự Môn là biểu tượng của cái miệng, của lời ăn tiếng nói…..cho nên khi đắc
địa thì khéo ăn nói, có tài hùng biện, có khả năng thuyết phục người. Nhưng
nếu hãm thì lời nói thiếu suy nghĩ, dễ mất lòng người và dễ bị tai tiếng thị
phi, đôi lúc còn đưa đến tai họa cũng vì cái miệng của mình thiếu thận trọng.
Với bản tính bất nhất như đã nói trên, may mắn cho Cự Môn tại hai vị trí
miếu địa Mão Dậu, ám tinh này gặp được thiện tinh Thiên Cơ, thuộc nam
đẩu tinh, hành Mộc. Và Thiên Cơ cũng góp một phần bản chất vào mẫu
người doanh thương Cự Cơ Mão Dậu này. Thiên Cơ miếu ở Thìn Tuất Mão
Dậu, vượng ở Tỵ, Thân, đắc ở Tí Ngọ Sửu, hãm ở Dần Hợi. Thiên Cơ là một
phúc thiện tinh cho nên dù hãm cũng không hề mất hết thiện tính của mình.
Khi đắc địa, Thiên Cơ chỉ sự khéo léo về tay chân, sáng suốt về trí óc, có mưu
trí nhưng lại xử sự nhân từ và cởi mở. Nếu ở vị trí miếu vượng thì chủ về
phú quý, phúc thọ, và đặc biệt là có năng khiếu về kinh doanh.
Như vậy, hai sao Cự Cơ cùng miếu tại Mão Dậu. Hành Thủy của Cự Môn
càng sinh vượng cho hành Mộc của Thiên Cơ, hơn nữa, cũng tại vị trí này,
Thiên Cơ đặc biệt có năng khiếu về kinh doanh, cho nên Cự Môn trở thành
kẻ đồng hành rất tốt. Với bản tánh gan dạ, liều lĩnh, Cự Môn đã hỗ trợ Thiên
Cơ mạnh mẽ trong lãnh vực này.
Người Cự Cơ Mãu Dậu là những người trong thương trường. Nhưng chúng
ta cần phân biệt lãnh vực hoạt động của đôi bên. Người Tham Vũ Đồng
Hành thường hoạt động trong lãnh vực kỹ nghệ chuyên môn v.v….. Còn
người Cự Cơ Mão Dậu không chuyên về một lãnh vực nào cả, có thể là
ngành hàng tiêu dùng, có thể là những sản phẩm về văn học nghệ thuật
v.v…..Hay nói một cách khác là bản tính uyển chuyển của Cự Môn, cho nên
98
những sao đi kèm với Cự Cơ sẽ quyết định đương số sẽ kinh doanh trong
lãnh vực nào.
Ví dụ: Mệnh ở Mão hay Dậu có Cự Cơ với Hổ Tuế Phù, thì đây là những
người có năng khiếu về luật pháp, những nhà làm luật, những quan tòa hay
những danh sư danh tiếng, và chắc chắn những tổ hợp luật sư sẽ là những
lãnh vực kinh doanh của họ.
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa, Tấu là người
có năng khiếu về văn học, nghệ thuật, cho nên khi vào đường kinh doanh thì
lãnh vực hoạt động thường là những nhà xuất bản sách, báo chí, nhạc, hay
phim…..
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Tả Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang, Qúy là người
kinh doanh trong các ngành y dược học. Nhỏ thì là phòng mạch, một
pharmacy, lớn thì một clinic, một bệnh viện, một viện bào chế dược
phẩm…..
Nhưng cách Cự Cơ Mão Dậu cũng chỉ mới là giới tiểu thương, nếu muốn
kinh doanh với tầm vóc lớn thì phải có thêm Song Hao mới gọi là đắc cách
Chúng Thủy Triều Đông, có nghĩa là tất cả các dòng sông đều chảy về hướng
Đông.
Khi nói về cách Song Hao ở Mão Dậu, chúng ta thấy có hai nguyên nhân. Đầu
tiên là do địa thế của nước Trung Hoa, tất cả những dòng sông đều chảy về
hướng Đông, cho nên cổ thi có câu: “tự cổ nhân sinh thường hận, thủy
thường đông” có nghĩa là từ xưa đến nay người đời ai mà không ôm một
mối hận lòng, điều này cũng tự nhiên như dòng sông chảy về hướng Đông.
99
Song Hao thuộc hành Thủy, lại được hành Kim của cung Dậu tương
sinh, cho nên nguồn nước sẽ được dồi dào bất tận. Trong thiên nhiên, nước
là biểu tượng của tiền bạc. Song Hao lại là biểu tượng của số nhiều. Những
dòng sông từ Dậu là phương Tây, chảy về Mão là phương Đông, khiến cho
hành Mộc của Thiên Cơ được hưng thịnh, và đây mới đúng là tầm vóc của
mẫu người kinh doanh Cự Cơ Mão Dậu. Cũng vì thế mà Mệnh an tại Mão tốt
hơn ở Dậu, tốt nhất đối với những tuổi Ất, Tân, Kỷ và Bính, những tuổi này
sẽ đạt phú quý một cách dễ dàng hơn những tuổi khác. Nếu Mệnh ở Dậu, thì
đương số cũng là người kinh doanh mà trở nên giàu có, nhưng càng giàu thì
tuổi thọ càng giảm:
“Cự Cơ Dậu, thượng hóa cát dã
Túng hữu tài quan, dã bất chung”
Nhưng Cự Cơ Mão Dậu đắc cách Chúng Thủy Triều Đông thì lại có người cho
rằng Cự Cơ đã gặp Song Hao thì chớ nên có Hóa Lộc mà bị phá cách. Lý do
quan điểm này cho rằng Hóa Lộc hành Thổ, khắc với hành thủy của Song
Hao khiến cho Thiên Cơ thiếu nước. Lý luận này xét ra không được ổn vì
cũng có nhiều sao khác thuộc hành Thổ như Lộc Tồn, tại sao chỉ áp dụng cho
Hóa Lộc mà thôi?
“Song Hao Mão Dậu ái ngộ Cự Cơ, tối hiềm Hóa Lộc”
Thật ra Song Hao ở Mão Dậu kỵ với Hóa Lộc không phải nguyên nhân chính
là do sự sinh khắc của ngũ hành mà là do ý nghĩa của Song Hao mà ra.
Hao là hao tốn, tiêu hao. Với ý nghĩa đó cho nên Hóa Lộc, Lộc Tồn không nên
gặp Hao, nếu gặp thì khác nào mang tiền thả trôi theo dòng nước. Tóm lại,
100
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ + Song Hao + Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì đương số
cũng là ra tiền một cách dễ dàng, nhưng tiền vào tay mặt thì ra tay trái.
Đối với nữ phái, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ là người đàn bà có tay làm ăn
buôn bán, trên thương trường đương số không thua gì những đấng mày râu.
Tuy nhiên, một Thiên Cơ hiền lành không thể trói buộc nổi Cự Môn với bản
tánh liều lĩnh, phóng khoáng. Cự Môn dù miếu vượng cũng có điều bất lợi
cho phái nữ bởi vì Cự Môn là cái miệng, là lời ăn tiếng nói, là khẩu thiệt thị
phi, khắc khẩu, vợ chồng xa nhau thì thương nhớ, gần nhau thì cãi vã suốt
ngày…..Cho nên đàn bà có Cự Môn thủ Mệnh hay Thân thì bên ngoài giỏi,
tháo vát nhưng bên trong gia đạo thường vẫn có điều không ổn, ít nhiều
hạnh phúc gia đình bị những đám mây đen của Cự Môn lãng vãng đâu đó.
Đó chính là nguyên nhân khiến cho Cự Môn phải mang danh là ám tinh.
Nhưng nếu dùng lăng kính của Freud mà chiếu rọi cho tận cùng, thì một
phần chính cũng vì đàn bà Cự Cơ Mão Dậu có khá nhiều tham vọng và
khuynh hướng tình dục rất mạnh mẽ. Với bản chất đặc biệt đó chúng ta thấy
có hai mẫu người đàn bà Cự Cơ Mão Dậu:
1. Họ có thể che dấu hay dồn nén khuynh hướng tình dục của mình thành
những tham vọng trên lãnh vực làm ăn kinh doanh của họ, và đây chính là
con đường mà Freud gọi là “tình dục thăng hoa thành tài năng”
Trong những trường hợp tương tự như thế, chúng ta mới thấy quan điểm
của Freud đã được khoa Tử Vi chứng nghiệm. Thật vậy, khi xét đến những là
số của những vị chân tu chúng ta đều thấy hầu hết những lá số này đều có
bóng dáng của Đào Hồng hay những dâm tinh khác. Điều này không có gì
nghịch lý, kẻ chân tu vốn cũng đầy đủ thất tình lục dục như mọi người, có
101
khi còn mạnh hơn, nhưng cái hay là họ đẩy tất cả những thất tình lục dục đó
vào một chữ “không” biến tình dục thành tài năng, và được như vậy họ mới
quán triệt được chữ “đạo”, rồi mới hiểu được chữ “ngộ” là gì.
2. Là người có cuộc sống buông thả, phóng khoáng. Họ dùng những thành
qủa, giai cấp mà họ đạt được trong xã hội đễ biện minh cho quan niệm sống
của họ. Và trên thương trường, đây cũng là người đàn bà không thua sút ai,
mà cả trong cuộc chơi, họ cũng là người dám bỏ ngàn vàng để mua lấy trận
cười làm vui…..Đó chính là mẫu người đàn bà mà chúng ta thường gọi là
“đàn bà dễ có mấy ai”
BÀI 25
MẪU NGƯỜI “ĐA TÀI ĐA NĂNG”
Chúng ta vẫn thấy những người tuy sống trong một hoàn cảnh thoải mái,
một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng nét mặt của họ lúc nào cũng có sự
tư lự, một nét suy tư nào đó, hay phảng phất trên mặt một thoáng buồn
miên man như người đang ôm một nỗi niềm tâm sự sâu kín. Khoa Tử Vi,
những người này thường cung Mệnh của họ đều có Tang Môn hoặc Bạch Hổ
tọa thủ, và chúng ta gọi là mẫu người Tang Hổ.Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ là
hai bại tinh trong nhóm lục bại. Tuy là hai bại tinh, nhưng người Tang Hổ
không phải là người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói
đến. Ngược lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ vào hai sao Tang
Hổ.
Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch Hổ thuộc hành Kim, cả hai đắc địa tại Dần
Thân Mão Dậu. hai sao này lúc nào cũng đi đôi với nhau ở vị trí xung chiếu.
102
Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là người gan dạ, cương quyết và ngay thẳng.
Người Tang Hổ có đủ sự gan lì để thử thách với nghịch cảnh. Khả năng đó có
thể xem như ông Trời dành riêng cho họ vì cuộc đời của những người này kể
từ lúc lột lòng mẹ thì sự thử thách dành cho họ đã chờ sẳn rồi.
Người Tang Hổ thường chịu cảnh mồ côi từ lúc còn bé, nếu không thì tuổi
thơ ấu cũng phài chịu cảnh xa cha mẹ, gia đình ly tán, thiếu tình thương và
sự đùm bọc của cha mẹ, anh chị. Phải chăng vì vậy mà người Tang Hổ luôn
có một nét buồn sâu kín trên khuôn mặt, và nét buồn này sâu đậm nhất
trong khoảng thời gian của tuổi thanh xuân tức là khoảng tiền vận rồi sau đó
sẽ phai nhạt dần.
Để bù trừ cho những bất hạnh đó, người có Tang Hổ đắc địa là người đa tài
đa năng, đa hiệu. Tuy tính tình cương quyết và đôi khi trở thành ương
ngạnh, nhưng họ là người quyền biến và có khả năng giải quyết công việc
cho thích ứng với hoàn cảnh. Năng khiếu nổi bậc nhất của họ là sự suy luận
và phán đoán rất sắc bén. Đó chính là yếu tố căn bản cho khả năng hùng
biện cũng như khả năng thuyết phục người khác. Vì vậy, những lãnh vực về
chính trị, ngoại giao và luật pháp đều là những sở trường của người Tang
Hổ.
Trong trường hợp Tang Hổ hãm địa thủ mệnh thì cuộc đời luôn gặp nhiều
nghịch cảnh đau thương, ngang trái. Nếu không làm những ngành nghề liên
quan như cảnh sát, toà án, luật sư…..thì dễ vướng vào vòng tù tội và tuổi thọ
cũng ngắn ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung cả nam lẫn nữ, dù đắc hay
hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật, nhất là những bệnh về
xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong máu…..Riêng với nữ mệnh thì nét
mặt u sầu, chưa lập gia đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi có gia đình
103
rồi lại khắc chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ hình khắc
có thể thành sát phu. Cho nên nếu lập gia đình muộn cũng có thể chế giải
được phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó
khăn, khi có con thì lại khổ vì con cái và dễ mắc những bệnh về các bộ phận
sinh sản như tử cung, buồng trứng…..Ngoài ra, người Tang Hổ, dù nam hay
nữ, lúc còn trẻ không có tay nuôi súc vật, phải vào trung vận thì đặc tính này
mới giảm dần.
Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ là cách Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong rừng sâu. Đây
chỉ người có tài, có địa vị, quyền uy, và thường phát về võ nghiệp.
Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là cách Hổ Xuất Sơn Lâm. Cung Mão thuộc
phương đông, là thời gian của bình minh, là thời điểm bắt đầu của một
ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ, biểu tượng cho một vận hội tốt đẹp đang chờ
đón. Cho nên, người đắc cách này, cuộc đời thường hay gặp được những
may mắn đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão Dậu còng
gọi là cách “tứ phương củng phục anh hùng” ý nói những người có khả năng
lãnh đạo, thâu phục được anh hùng hào kiệt bốn phương.
Người mệnh an tại Dậu có Bạch Hổ là cách Hổ Khiếu Tây Phương. Cung Dậu
thuộc phương Tây, là thời gian của hoàng hôn vì vậy có người cho rằng Bạch
Hổ ở Dậu không tác hại vì đó là lúc cọp đã ăn no nên vào sâu trong rừng mà
ngủ. Theo ý của người viết thì hai chữ Tây Phương hàm ý là “cõi Phật” Khiếu
Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng có nghĩa là có lòng hướng
Phật. Người có cách này là người có tánh tình nhân hậu và thường có
khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm linh, thì
người Bạch Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão
Dậu.
104
Trong hai sao Tang Hổ thì Bạch Hổ có tầm ảnh hưởng đáng kể hơn Tang
Môn. Ví dụ như Bạch Hổ đi với Tấu Thư (Hổ Tấu) có nghĩa là Hổ mang hòm
sách, chỉ người có số khoa bảng, học rộng hiểu nhiều. Bạch Hổ gặp Phi Liêm
(Phi Hổ) như Hổ mọc thêm cánh, cách này giống như Phi Mã, chỉ những
người thường gặp được các vận hội may mắn đưa đến sự thành công rất dễ
dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay Phi Mã là vận may đang đến, nếu
dự tính điều gì thì nên mạnh dạn xúc tiến, thi cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm sẽ
được như ý, có việc rồi thì sẽ được thăng chức thăng lương…..
Bạch Hổ cũng là một trong Tứ Linh (Long Phượng Hổ Cái) Mệnh, Quan, Phúc,
Di đắc Tứ Linh thì đường công danh thuận lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ
Linh cũng chế giải được phần nào những tai họa do các hung sát tinh gây ra.
Hạn Tứ Linh là cơ hội tốt cho vấn đề công danh.
Bạch Hổ và Thiên Hình hay Kình Dương đồng cung thủ Mệnh là cách “hổ
hàm kiếm” = Hổ ngậm kiếm, chỉ người gan dạ, oai dũng, có tư cách và chí
khí, nếu có thêm những võ tinh hội họp thì đường binh nghiệp sẽ phát rất
nhanh.
Tang Hổ cũng là những sao lưu, cho nên hạn có Tang Hổ, gặp Lưu Tang, Lưu
Hổ là có tang trong hạn đó. Tang Hổ nhập hạn gặp Khốc Hư cũng cùng một ý
nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng tai nạn và
bệnh tật, nhất là những chứng bệnh về máu huyết và bệnh về xương như
đau khớp, rỗng xương….. Đàn bà lúc có thai và sinh nở mà hạn gặp Tang Hổ
cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai.
“Nam nhân Tang Hổ hữu tài uyên bác
105
Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự qủa ưu”
Hai câu trên có thể dùng để tóm lược những nét đặc thù của mẫu người
Tang Hổ: đàn ông Tang Hổ thì đa tài đa năng. Đàn bà Tang Hổ tình duyên
ngang trái, gia đạo buồn phiền.
BÀI 25
CẢI SỐ ĐƯỢC KHÔNG ?
Con người từ khi bước chân vào đời ai cũng hăm hở, lạc quan và đầy lòng tự
tin. Ở vào cái tuổi mà người ta gọi là “Tam Thập Nhị Lập” ít có ai nghĩ đến
hai chữ “số mệnh”. Nhưng dần dần khi đã va chạm với cuộc sống, trải qua
một vài lần thất bại đổ vỡ ….. thì lúc đó mới bắt đầu thấm mệt mới bắt đầu
hiểu ý của Nguyễn Du, “có tài mà cậy chi tài” hoặc có phần khắt khe và hoàn
toàn ràng buộc vào cái ý niệm “thiên mệnh” là “bởi số, chạy đâu cho khỏi
số ?”
Tin hay không tin, tin ít hay nhiều, mức độ tin tưởng sẽ tỷ lệ theo tuổi đời,
và có thể tin sớm hay tin muộn vào hai chữ ‘số mệnh” thì cũng còn tùy
thuộc đường đời của mỗi người, là con đường đầy hoa lá hay sỏi đá chông
gai ? Và người Á Đông của chúng ta cho rằng, vào khoảng lứa tuổi 40, có thể
gọi là khoảng đời mà con người đã “tận nhân lực” cho nên có thể bắt đầu
“tri thiên mệnh”
Như vậy biết số để làm gì? Và biết số rồi có cải được hay không?
106
Vấn đề đầu tiên, biết số để làm gì, biết số có lợi ích gì không, là những điều
có thể có câu trả lời tương đối dễ dàng. Có người nói rằng:
- Tôi không bao giờ xem Tử Vi, biết rồi thêm buồn thêm lo mà thôi.
Khi nói như vậy, họ đã hàm ý tin rằng mỗi người đều có số mệnh, và ít nhiều
họ đã thấy hay cảm thấy được cuộc đời của họ không có gì lạc quan lắm, cho
nên chấp nhận một cuộc sống “đến đâu hay đến đó” biết trước chỉ thêm lo
nghĩ mà không làm được gì để thay đổi.
Nhóm người này rất ít và mang cái tâm trạng của loài đà điểu, sợ thì chui
đầu xuống đất cát, còn hầu hết đều muốn biết số của mình như thế nào. Và
những người này lại có hai quan niệm, một thụ động và một chủ động.
Những người thụ động là khi biết số của mình rồi thì thôi, phó mặc cho số
như “thuyền đời mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” ngược lại, những
người có quan niệm chủ động thì họ tin vào số, dựa vào số, nương theo số
để tránh hết những trở ngại mà họ đã biết trước. Đây chưa phải là một hình
thức cải số mà chúng ta sẽ đề cập đến. Có thể nói đây là một hình thức tích
cực của sự cải số, biết số và làm đúng với số cũng là một cách giúp chúng ta
tránh được phần nào trở ngại, có thể là những trở ngại nhỏ nhặt, nhưng
cũng có thể là những nguyên nhân đưa đến những sự thất bại to lớn. Ví dụ,
người Mệnh Vô Chính Diệu, nếu biết số của người VCD là không nên đứng
mũi chịu sào, có nghĩa là nếu trong quân đội thì không nên giữ chức vị
trưởng, dù lớn hay nhỏ, hoặc bên hành chánh thì không nên giữ những chức
vụ như trưởng phòng, giám đốc v.v….. hoặc trong lãnh vực làm ăn kinh
doanh thì không nên là người ra mặt điều hành. Một ví dụ khác, người làm
ăn mua bán nếu biết hạn của mình năm nay không tốt thì họ chỉ giữ cơ sở
của họ như cũ chứ không bỏ công bỏ của để khuếch trương phát triển rồi
107
chuốc lấy sự thất bại lỗ lã. Còn ngược lại, nếu biết là hạn tốt, họ sẽ mạnh
dạn mạo hiểm hơn mà vẫn gặt hái được những thành qủa như ý. Và trên
khía cạnh tiêu cực, nếu mình biết trước số mình nghèo, tình duyên mình lận
đận, con cái mình sẽ hư hỏng, về già mình sẽ cô đơn lẻ bóng v.v…..thì ít ra
mình đã biết, đã ít nhiều có sự chuẩn bị về tâm lý. Khi sự việc xảy đến,
những ảnh hưởng về tinh thần sẽ có phần nhẹ nhàng, có thể chịu đựng
được và có thể vượt qua dễ dàng hơn là trường hợp bất ngờ.
Đi xa hơn, bậc làm cha mẹ nếu biết được số mệnh là một điều rất hữu ích
trong vấn đề giúp đỡ con cái của mình. Mặc dù chúng ta vẫn nói, không ai
hiểu con cái bằng cha mẹ, nhưng thật ra sự hiểu biết của cha mẹ về con cái
rất hạn hẹp. Ngoài tính tình và những sở thích hiện tại, có nghĩa là đang
trong lứa tuối đó của mỗi đứa con, thì cha mẹ không thể nào nhìn thấy được
những biến chuyển và những thay đổi trong tương lai của mỗi đứa con của
mình. Nhưng khoa Tử Vi có thể nhìn thấy được những điều đó và giúp cho
cha mẹ hiểu rõ năng khiếu, sở trường, sở đoản của mỗi đứa con để hướng
dẫn con cái chọn ngành mà học, chọn nghề mà làm. Nói chung, nếu cha mẹ
có thể nhìn thấy trước cuộc đời của con mình, sung sướng hay cực khổ, may
mắn hay gian truân, tình cảm được hạnh phúc hay lận đận, thì ít ra cha mẹ
cũng có sự bù đắp trước về mặt tâm lý giúp cho con cái khỏi bị ngỡ ngàng và
thất vọng khi phải đối diện với nghịch cảnh của đời mình.
Trên một phương diện khác, biết số là một yếu tố hữu ích cho thuật dùng
người. Ba chữ “thuật dùng người” không hẳn mình phải là một cấp lãnh đạo,
chỉ huy v.v….. nhưng trong vấn đề hợp tác làm ăn với nhau, biết rõ người
hợp tác với mình cũng là một điều quan trọng. Hoặc trong vấn đề giao thiệp
của cuộc sống hằng ngày, biết số giúp mình biết người và khỏi lầm người thì
cũng tránh được sự ân hận về sau.
108
Những điều vừa nêu trên đề cập vấn đề chúng ta biết số và thuận theo số,
như vậy biết số rồi, chúng ta có cải số được hay không?
Đối nghịch lại với quan niệm “thiên mệnh” là quan niệm “nhân định thắng
thiên” Nhân sinh quan này phản ảnh phần nào khả năng tự tôn của con
người, sự phấn đấu là tự tin của những tâm hồn lạc quan. Trong những bộ
môn Khoa Học Huyền Bí thì môn Phong Thủy, Tướng Mệnh, và Tử Vi Đẩu Số
đều đề cập đến phần nhân định, có nghĩa là con người có phần nào chủ
động trong số mệnh của họ, chỉ khác nhau ở chỗ mức độ mà con người có
thể cùng tạo hoá dự phần vào sự thay đổi số phận của mình.
Nói như vậy là chúng ta đã sớm có câu trả lời, con người có thể cải số được
nhưng rất hạn hẹp và chỉ ở một mức độ nào đó thôi chứ không thể nào thay
đổi, lật ngược lại cả 180 độ. Trong những môn vừa nêu trên thì khoa Phong
Thủy có thể sửa đổi một cách dễ dàng nhất vì đối tượng của Phong Thủy là
nhà ở, cơ sở thương mại hay mộ phần. Về khoa Tướng Mệnh, sự sửa đổi
không thể nhờ vào khoa thẩm mỹ mà chỉ đặt trên yếu tố cái tâm của con
người, “tướng tùy tâm sinh” Và khoa Tử Vi mà chúng ta đề cập ở đây chỉ
dẫn cho chúng ta những trường hợp và phương cách cải số nhưng xét ra
cũng rất hạn chế và kết qủa của cuộc cải số này vẫn còn ràng buộc chặt chẽ
vào những yếu tố quan trọng mà con người khó lòng kiểm chứng được, đó
là phúc đức của mỗi người. Khi nói phúc đức của mỗi người chúng ta đã hiểu
rằng phúc đức tạo được do chính bản thân mình tạo ra và phúc đức mà
mình thừa hưởng được từ cha mẹ, ông bà hay nói chung là của dòng họ.
Như vậy, chúng ta đã nói biết số và thuận theo số cũng là một hình thức cải
số nhưng tiêu cực. Còn những cách cải số tích cực hơn nhưng cũng rất hạn
109
hẹp, ví dụ, một vài trường hợp thấy trong các sách Tử Vi như nếu một đứa
con nào đó có số khắc với cha mẹ thì đứa con ấy sẽ bị đau ốm, bệnh tật
hoặc là có thể từ khi sinh ra đứa con này, cha mẹ của nó thường hay gặp
những chuyện không may như mất việc, làm ăn thua lỗ v.v…..Trong trường
hợp này, cách hóa giải là cho đứa con ở với ông bà nội/ngoại, hay chú bác cô
dì…..
Cách hóa giải của khoa Tử Vi thoạt nghe thì có vẻ dễ dàng nhưng thực tế thì
đây là một vấn đề rất tế nhị. Có cha mẹ nào sinh con ra mà không muốn
chính tay mình nuôi con. ở đây chưa nói đến sự ảnh hưởng sâu xa về tâm lý
sau này của đứa bé. Tuy vậy, nếu làm được thì đổi lại sự bình yên cho cả hai
bên, cha mẹ và con cái.
Một ví dụ khác như đối với những người con gái mà khoa Tử Vi gọi là “cao
số” hoặc có số hình khắc với chồng con, nặng nề hơn là số sát phu thì những
lời khuyên thông thường là không nên cử hành đám cưới hỏi linh đình, mà
càng nên đơn giản, càng lặng lẽ âm thầm càng tốt. Tùy theo mức độ khắc sát
nặng nhẹ, hoặc lễ cưới không đốt đèn long phụng, không rướt dâu, hoặc có
thể ở mức độ là cô dâu lặng lẽ xách vali về nhà chồng, hay một hình thức
khác mà chúng ta thường nghe nói là cưới chạy tang. Cưới chạy tang là
trường hợp đôi bên chưa có ý định làm đám cưới, nhưng nếu trong gia đình
hai bên có tang, thì đây cũng là một cơ hội hóa giải sự khắc sát nặng nề,
những giọt nước mắt ngày sau khóc chồng thì nay đã đổ xuống cho tang sự.
Như vậy, đối với khoa Tử Vi, chúng ta có thể cải số, nhưng chỉ ở một mức độ
nào đó và cũng giới hạn trong một vài lãnh vực. Việc cải số đối với khoa Tử
Vi vẫn đặt căn bản trên quan niệm phúc đúc là chính yếu, đức năng thắng
số. Cái yếu tố phúc đức này có được hay không là tùy ở cái tâm, cái tánh và
110
hành động của mỗi cá nhân. Ví dụ như một giai đoạn về đức năng thắng số
là một cậu bé được ông thầy coi số và nói với cha mẹ cậu ta sẽ không sống
qúa tuổi 17. Một ngày tình cờ đi qua con suối, cậu bé thấy tổ kiến có hàng
ngàn con kiến đang bị cuốn trôi theo dòng nước. Cậu bé can đảm lội xuống
suối để cứu tổ kiến. Và cha mẹ đã ngạc nhiên khi thấy cậu vẫn sống qua tuổi
17.
Còn thời Tam Quốc phân tranh, Khổng Minh Gia Cát Lượng, trên thông thiên
văn, dưới rành địa lý, làm phép cầm sao bổn mạng của mình để sống thêm
vài năm nữa mà thất bại. Người xưa đã nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt
khô” Gia Cát Lượng vì phò tá nhà Hán mà đã ra tay đốt chết 10 vạn quân
đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốt Hồ Lô, rồi đốt luôn 80 vạn quân Tào
trên sông Xích Bích thì như vậy phúc đức còn đâu mà toan cải số ?
Tóm lại, những phương pháp cải số của khoa Tử Vi vừa giới hạn, vừa khó
thực hiện. Một cách được xem là căn bản và áp dụng tổng quát là quan
niệm “đức năng thắng số”
Nhưng hai chữ phúc đức vừa khó đo lường, vừa có vẻ mơ hồ khiến cho con
người đâm ra nghi ngờ và đưa đến những ý nghĩ có vẻ đùa giỡn nhưng cũng
phần nào hàm ý sự hoài nghi như có câu “ người ngay thường mắc nạn, kẻ
ác lại sống lâu.” Và nếu đem cái triết lý qủa báo của nhà Phật thì lại đi vào
một nghi vấn khác: đâu phải lúc nào cũng thấy “qủa báo nhãn tiền” ? Nếu
không “nhãn tiền” thì đến bao giờ? Đi xa qúa sẽ làm lung lay niềm tin của
con người.
111