cử tri đoàn
TRANSCRIPT
- -
Tạp chí điện tử của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 9/2008
Cử tri đoàn
- 2 -
50 bang và Quận Columbia tính theo số đại biểu cử tri...
… và theo tư duy thông thường
- 3 -
Về số báo này
Hơn 100 triệu cử tri chắc chắn sẽ đi bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử trên toàn quốc ở Mỹ vào ngày 4/11. Tuy nhiên, chỉ có 538 đại cử tri sẽ bầu lên vị tổng thống Mỹ tiếp theo. Các cuộc bầu cử này sẽ diễn ra ở thủ phủ của 50 bang và tại Washington, D.C. ngày 15/12.
Hệ thống bầu cử gián tiếp được gọi là Cử tri đoàn và được các nhà soạn thảo Hiến pháp lập ra năm 1787 khiến người Mỹ và người dân nước khác thấy khó hiểu. Nó phản ánh hệ thống quản lý liên bang phân bổ quyền lực cho chính phủ trung ương, cho người dân và cho cả các bang.
John C. Fortier – tác giả cuốn Sau khi người dân bỏ phiếu – đã viết trong số báo này của Tạp chí điện tử Mỹ như sau: “Cử tri đoàn đòi hỏi ứng cử viên tổng thống phải là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quốc gia và có sức lôi cuốn quần chúng rộng lớn ở nhiều khu vực khác nhau. Sự tồn tại của Cử tri đoàn khiến các đảng thứ ba, các phe phái mang tính khu vực và các cá nhân khó có thể giành chức tổng thống”.
Cách thức bầu chọn tổng thống của các đại cử tri trong tháng 12 giống với cách các cử tri đã làm vào tháng 11. Người chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu của các đại cử tri hầu như bao giờ cũng giành được phần lớn phiếu phổ thông trên toàn quốc. Tuy nhiên, do tất cả các bang - ngoại trừ hai bang - thực hiện nguyên tắc “người thắng được tất cả” nên đôi khi người giành thắng lợi từ Cử tri đoàn lại về sau ứng cử viên kia về số phiếu phổ thông trên toàn quốc, như đã xảy ra năm 2000.
- 4 -
Phóng viên chính trị David Mark mô tả trò chơi chiến lược xuất phát từ hệ thống Cử tri đoàn. Trong chiến dịch tranh cử, các ứng cử viên tổng thống ìt chú ý đến các bang thường ủng hộ Đảng Dân chủ hoặc Đảng Cộng hòa. Thay vào đó, họ tập trung nguồn lực và sự quan tâm tới một số ít bang có sự chia rẽ - chẳng hạn như Florida và Ohio – vì những bang này sẽ quyết định các cuộc bầu cử.
Nhiều người Mỹ muốn thay đổi hình thức bầu cử tổng thống, chuyển sang bầu trực tiếp, nhưng điều đó ìt có khả năng xảy ra vì việc sửa đổi Hiến pháp đòi hỏi phải có sự quan tâm mạnh mẽ của chính phủ. Do vậy mà trong hơn 220 năm qua, tất cả mới chỉ có 27 điều sửa đổi Hiến pháp được thông qua. Những thay đổi đó vấp phải sự phản đối từ các bang nhỏ có tỉ lệ đại diện thấp trong Cử tri đoàn, sự phản đối từ những người ủng hộ hệ thống hai đảng và những người ủng hộ hệ thống chính phủ liên bang.
Dù còn những khiếm khuyết, song ít nhất hệ thống Cử tri đoàn đưa ra được những quyết định. Hạ viện mới chỉ phải quyết định hai cuộc bầu cử tổng thống vì không có ứng cử viên nào giành được đa số phiếu của Cử tri đoàn, gần đây nhất là cuộc bầu cử năm 1824.
Chúng tôi hy vọng rằng số báo Tạp chí Điện tử Mỹ lần này sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn những lý do lịch sử dẫn tới sự hành thành Cử tri đoàn và hệ thống này vận hành như thế nào.
- 5 -
Nội dung
Tổng thống phải là nhân vật có tầm ảnh hưởng quốc gia và có sức lôi cuốn quần chúng rộng rãi
6
Cử tri đoàn hoạt động như thế nào? 12
Giành đa số phiếu của cử tri đoàn 16
Một ngày trong cuộc sống của một đại cử tri 22
Khi có sự chênh lệch giữa phiếu đại cử tri và phổ thông đầu phiếu
25
Cải cách cử tri đoàn? Không đơn giản như vậy 32
Các hệ thống bầu cử trên thế gới 36
Cử tri đoàn: Cái nhìn từ nước Pháp 39
Bên kia Đại Tây Dương, nhiều điểm tương đồng đáng kinh ngạc
42
Tài liệu đọc thêm 45
Nội dung bằng tiếng Anh của só báo này có trên Internet tại địa chỉ: http://www.america.gov/publications/ejournalusa/0908.html
- 6 -
Tổng thống phải là nhân vật có tầm ảnh hưởng quốc gia và có sức lôi cuốn quần chúng rộng rãi
John C. Fortier
Hệ thống bầu cử tổng thống Mỹ do các nhà lập quốc xây dựng nên từ hơn 220 năm trước. Hệ thống này không chỉ trụ vững với thời gian mà còn định hình nền chính trị Mỹ trong suốt lịch sử của nó.
John C. Fortier là nghiên cứu viên tại Viện Doanh nghiệp Mỹ ở Washing-ton và là tác giả của cuốn sách về Cử tri đoàn có tựa đề Sau khi người dân bỏ phiếu.
Nhiều người Mỹ không hiểu rõ thực chất hệ thống bầu cử tổng
thống của họ, đặc biệt về cái gọi
là Cử tri đoàn có vai trò quyết định cá nhân nào sẽ trở thành
tổng thống và phó tổng thống. Tuy nhiên, họ hiểu rõ bức tranh
tổng thể, tức là mỗi bang có
một số đại cử tri nhất định, bang nào đông dân nhất thí có
nhiều đại cử tri nhất, bang nào dân số ìt nhất, bang đó có ìt đại
cử tri nhất. Mỗi công dân đi bỏ
phiếu ở bang họ sinh sống, và người giành được nhiều phiếu phổ thông nhất sẽ giành được tất cả số phiếu của
đại cử tri ở bang đó, ngoại trừ hai bang không áp dụng nguyên tắc này. Ứng cử viên tổng thống nhận được đa số phiếu đại cử tri sẽ trở thành tổng thống Mỹ và
người liên danh tranh cử trở thành phó tổng thống.
Dĩ nhiên, trong hệ thống bầu cử tổng thống còn một số vấn đề phức tạp. Nếu
phiếu bầu của đại cử tri được phân bổ cho nhiều ứng cử viên khác nhau, hoặc
nếu hai ứng cử viên cuối cùng đều giành được số phiếu đại cử tri như nhau, thí Hạ viện có quyền lựa chọn tổng thống. Cũng có thể có trường hợp ứng cử viên
này giành được đa số phiếu bầu phổ thông còn ứng cử viên kia giành được đa số phiếu của Cử tri đoàn. Tuy nhiên những kịch bản này rất hiếm khi xảy ra.
Trong hầu hết các cuộc bầu cử gần đây nhất, ứng cử viên đắc cử giành được đa
số phiếu phổ thông, chiến thắng ở đa số các bang, và giành đa số phiếu bầu cần thiết của Cử tri đoàn.
Cử tri đoàn khuyến khích các ứng cử viên tổng thống có sức lôi cuốn rộng rãi trên toàn quốc, do vậy con đường của các đảng thứ ba bị cản trở
- 7 -
Đại đa số người Mỹ ít biết về Cử tri
đoàn. Các cuộc thăm dò cho thấy hầu hết người Mỹ thìch tiến hành bỏ phiếu
bầu trực tiếp trên toàn quốc hơn ví họ cho rằng hệ thống đó sẽ dân chủ hơn.
Mặc dù các nhà lập hiến đã lập ra Cử tri
đoàn nhưng họ lại không coi đó là một thiết chế của giới lãnh đạo được hính
thành để thu hút công luận. Họ cho rằng hệ thống lựa chọn tổng thống dựa
trên tính cảm của người dân.
Trong khi xây dựng một hệ thống bầu
cử tổng thống dựa trên ý chì của người
dân, các nhà lập hiến cũng giải quyết hai mối quan ngại khác. Thứ nhất, họ
muốn tổng thống phải độc lập với cơ quan lập pháp và độc lập với các bang.
Thứ hai, họ muốn đảm bảo rằng tổng
thống phải là nhân vật có tầm ảnh hưởng quốc gia.
Bên cạnh hai chức năng này, Cử tri đoàn ngày nay còn một chức năng khác nữa
mà những người xây dựng nó không tiên liệu được, đó là củng cố hệ thống
hai đảng ở Mỹ.
Ủng hộ một Tổng thống độc lập
Tại Đại hội Lập hiến năm 1787, các nhà Lập quốc Mỹ đã tranh luận về nhiều
cách thức khác nhau để chọn tổng thống. Việc lập ra hệ thống Cử tri đoàn chỉ được thống nhất khi quá trình tranh luận sắp kết thúc. Sự lựa chọn hệ thống
bầu tổng thống của họ liên quan tới quyền lực và thành phần của cơ quan lập
pháp, tức Quốc hội. Chỉ sau khi các nhà lập quốc nhất trì được với nhau về diện mạo của Quốc hội, lúc đó họ mới bắt đầu xem xét nghiêm túc cách thức lựa
chọn tổng thống.
Sự thỏa hiệp về hính thức Quốc hội ảnh hưởng rất lớn tới diện mạo của Cử tri
đoàn. Vấn đề lớn tại thời điểm đó là cuộc tranh luận giữa các bang lớn và nhỏ
về đại diện của họ tại cơ quan lập pháp. Thỏa hiệp đó là để có hai viện tại Quốc hội - Hạ viện và Thượng viện. Tại Hạ viện, đại diện của các bang sẽ dựa trên
George Washington, tuyên thệ nhậm chức với tư cách tổng thống đầu tiên, là vị tổng thống duy nhất không vấp phải sự phản đối nào trong bầu cử
- 8 -
dân số của bang và do người dân trực tiếp bầu lên, mặc dù quyền đi bầu cử ở
thời điểm đó hạn chế hơn rất nhiều so với hiện nay. Tại Thượng viện, mỗi bang đều có số đại diện bằng nhau. Dù là bang nhỏ như Delaware hay bang lớn như
Virginia, mỗi bang đều có hai thượng nghị sĩ, và những nghị sĩ này do cơ quan lập pháp bang bầu ra. Theo một điều khoản sửa đổi Hiến pháp sau này, các
thượng nghị sĩ hiện nay đều do dân trực tiếp bầu lên.
Khi thỏa hiệp với Quốc hội đã đạt được, các nhà soạn thảo Hiến pháp muốn đảm bảo rằng tổng thống sẽ có đầy đủ quyền lực và có vị thế độc lập với Quốc
hội. Những ý tưởng của các nhà lập hiến hoàn toàn trái ngược với tư duy hính thành hệ thống nghị viện. Trong hệ thống nghị viện của Mỹ, Quốc hội không
chọn tổng thống, tổng thống cũng không phải là lãnh đạo của một đảng tại Quốc hội. Các nhà lập hiến tin vào hệ thống phân chia quyền lực. Nếu Quốc hội
lựa chọn tổng thống, tổng thống chắc chắn sẽ phải theo Quốc hội, đặc biệt khi
tổng thống muốn được Quốc hội tái bầu. Các nhà lập hiến lo ngại rằng nếu Quốc hội bầu tổng thống, tổng thống chắc chắn sẽ ủng hộ ủng hộ Quốc hội đến
mức trở thành con rối của cơ quan đó chứ không phải là người có tiếng nói độc lập.
Tương tự, các nhà lập hiến cũng không cho các bang được bầu tổng thống trực
tiếp. Thay vào đó, họ lập ra một hệ thống gọi là Cử tri đoàn, trong đó đại cử tri do các bang chỉ định. Cơ quan lập pháp bang có quyền quyết định cách lựa
chọn đại cử tri. Trong những cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên, một số bang quy định người dân sẽ bầu ra đại cử tri; một số bang khác lại quy định tiến hành
bầu cử ở các quận để chọn ra các đại cử tri trong số các ứng cử viên; ở một số bang khác cơ quan lập pháp bang trực tiếp chỉ định đại cử tri mà không cần tiến
hành bầu cử. Trong 40 năm đầu tiên của nền cộng hòa, hầu hết các bang đều
có xu hướng trao cho người dân quyền bầu đại cử tri và tiến tới hính thành nguyên tắc theo đó người thắng cử tại từng bang sẽ giành được tất cả phiếu
bầu của đại cử tri bang đó.
Cũng có một đặc điểm khác nữa cần lưu ý về đại cử tri. Đại cử tri mỗi bang gặp
nhau để bỏ phiếu bầu tổng thống, nhưng tất cả các đại cử tri của bang không
bao giờ quy tụ lại với nhau trên tư cách một cơ quan riêng rẽ ở cấp quốc gia.
Việc phân bổ đại cử tri cho các bang phản ánh sự thỏa hiệp tại Quốc hội. Mỗi
bang có số đại cử tri dựa trên số thành viên của họ tại Hạ viện và số thượng nghị sĩ. Do vậy, mỗi bang nhỏ nhất sẽ có ba đại cử tri, do có một đại diện tại Hạ
viên và hai thượng nghị sĩ. Ngày nay, bang đông dân nhất ở Mỹ là California có
55 đại cử tri – ví có 53 đại diện tại Hạ viện và hai thượng nghị sĩ. Sự phân bổ cuối cùng được tình theo tỉ lệ dân số, theo đó các bang lớn nhất có nhiều đại cử
tri hơn bang nhỏ nhất, mặc dù tỉ lệ đại diện tại Cử tri đoàn của các bang nhỏ có phần nào nhỉnh hơn do nguyên tắc bính đẳng giữa các bang tại Thượng viện.
- 9 -
Lựa chọn một nhân vật có tầm ảnh hưởng quốc gia
Một bì mật thường không được giữ kìn giữa các nhà lập hiến là George Wash-ington sẽ trở thành tổng thống đầu tiên của nước Mỹ. Ông là người anh hùng
dân tộc và hai lần đắc cử tổng thống mà không vấp phải sự phản đối nào.
Tuy nhiên các nhà soạn thảo lo ngại rằng sau Washington sẽ ìt ai có được tầm
vóc quốc gia có khả năng thu hút được phiếu bầu của những bang xa xôi, bị
chia cắt bởi hệ thống giao thông không thuận tiện và có những gắn bó mang tình địa phương. Cử tri đoàn thủa ban đầu được lập ra để khuyến khìch việc bầu
chọn một nhân vật có tầm cỡ quốc gia. Theo hệ thống Cử tri đoàn này, mỗi đại cử tri có thể bỏ hai phiếu, trong đó duy nhất một phiếu được bầu cho ứng cử
viên từ bang họ. Ứng cử viên giành được nhiều phiếu bầu nhất sẽ trở thành
tổng thống, và ứng cử viên giành được số phiếu bầu nhiều thứ hai trở thành phó tổng thống.
Các nhà lập hiến cho rằng các đại cử tri có thể bỏ một phiếu cho “một người con ưu tú” của bang mính, tuy nhiên họ cũng sẽ phải cân nhắc bỏ phiếu cho
một ứng cử viên có ảnh hưởng trên toàn quốc.
Bên cạnh đặc điểm này, Cử tri đoàn lúc ban đầu cho rằng sẽ không có các đảng
phái chình trị hay liên danh giữa tổng thống và phó tổng thống. Người giành
được số phiếu bầu nhiều thứ hai có thể là người ở vùng khác hoặc phe phái khác với tổng thống. Nếu điều này còn đúng ở thời điểm hiện tại thí trong cuộc
bầu cử năm 2004, George W. Bush, người của Đảng Cộng hòa là tổng thống và người về sau ông là John Kerry, người của Đảng Dân chủ, sẽ là phó tổng thống.
Hệ thống cử tri đoàn vận hành để khuyến khìch các đại cử tri bỏ phiếu cho các
nhân vật có tiếng tăm trong nước. John Adams and Thomas Jefferson nổi lên như hai kỳ phùng địch thủ trong chình quyền George Washington.
Tuy nhiên, quan niệm của các nhà lập hiến về một chình phủ không có các đảng phái chình trị đã nhanh chóng bị sụp đổ. John Adams và Alexander Hamilton
được coi là những người theo chủ nghĩa Liên bang còn Thomas Jefferson và James Madison là những người Cộng hòa-Dân chủ (tiền thân của Đảng Dân chủ
ngày nay). Cử tri đoàn lúc đầu – theo đó mỗi đại cử tri bỏ hai phiếu - đã không
vận hành tốt trong hệ thống một đảng phái đó.
Trong cuộc bầu cử năm 1800, Thomas Jefferson tranh cử tổng thống với tư
cách là người của Đảng Cộng hòa - Dân chủ, và Aaron Burr liên danh tranh cử phó tổng thống. Liên danh này đã đánh bại tổng thống đượng nhiệm John Ad-
ams là người của Đảng Liên bang và liên danh tranh cử phó tổng thống của ông
là Charles Pinckney. Tuy nhiên, tất cả đại cử tri đã bỏ phiếu cho Jefferson cũng bỏ phiếu cho Burr. Mặc dù ý định của mọi người là ủng hộ Jefferson làm tổng
- 10 -
thống và Burr là phó tổng thống, nhưng cả hai lại giành được số phiếu ngang
nhau. Hạ viện – lúc đó vẫn dưới sự kiểm soát của những người thuộc Đảng Liên bang - đã phải quyết định kết quả bầu cử. Đảng Liên bang tại Quốc hội và Burr
do vậy đã có dàn xếp với nhau và trong một khoảng thời gian đã không thống nhất được ai sẽ trở thành tổng thống. Cuối cùng, những cái đầu lạnh đã chiến
thắng, và Jefferson đã được Hạ viện bầu làm tổng thống. Chình sự kiện này đã
dẫn tới điều sửa đổi thứ 12 của Hiến pháp, theo đó mỗi đại cử tri bỏ một phiếu bầu tổng thống và một phiếu bầu phó tổng thống.
Hệ thống hai đảng
Các nhà lập hiến không tiên liệu được sự phát triển của hệ thống đảng phái
chình trị và chắc chắn đã không lập ra Cử tri đoàn để thúc đẩy sự phát triển của
hệ thống đó. Tuy nhiên, theo thời gian, Cử tri đoàn trên thực tế đã củng cố cho hệ thống hai đảng Dân chủ và Cộng hòa.
Thứ nhất, các bang có xu hướng tiến hành bầu cử theo nguyên tắc “người thắng được tất cả”. Theo nguyên tắc này, một đảng phải đủ mạnh để thắng
trong cuộc bầu cử phổ thông ở từng bang, chứ không chỉ giành được một tỷ lệ phiếu bầu đáng kể.
Thứ hai, Cử tri đoàn buộc các đảng phải thắng ở các bang trên nhiều vùng khác
nhau. Không ai có thể giành được đa số nếu chỉ chiến thắng ở miền nam hay đông bắc. Trên thực tế, hầu hết các ứng cử viên tổng thống đắc cử gần đây đều
thắng ở đa số các bang.
Sau cuộc bầu cử năm 1800 khiến Cử tri đoàn phải thay đổi, chỉ có duy nhất một
cuộc bầu cử tổng thống là đã không chọn ra được người thắng cuộc với đa số
phiếu đại cử tri, và phải đưa ra Hạ viện để quyết định. Đó là cuộc bầu cử năm 1824, khi hệ thống đảng phái mới bắt đầu phát triển.
Năm 1860, Abraham Lincoln là người của Đảng Cộng hòa thắng cử, giành được đa số phiếu phổ thông, chưa đầy 40%, được lợi do Đảng Dân chủ có nhiều ứng
cử viên. Tuy nhiên, ông vẫn giành được đa số phiếu đại cử tri.
Theo thời gian, các ứng cử viên đảng thứ ba, chẳng hạn như cựu tổng thống
Theodore Roosevelt năm 1912 chạy đua với đối thủ là Tổng thống William How-
ard Taft, đã thắng ở các bang và giành được phiếu đại cử tri. Tuy nhiên, những ứng cử viên của các đảng thứ ba chưa bao giờ đắc cử tổng thống và các đảng
nhanh chóng tan rã ví không thể duy trí được nỗ lực trên toàn quốc để giành chiếc ghế tổng thống hoặc giành được số ghế đáng kể tại Quốc hội.
Kể từ năm 1972, không một ứng cử viên đảng thứ ba nào giành được đa số
phiếu ở một bang nào. Ngay cả ứng cử viên Ross Perot giành được 20% phiếu
- 11 -
phổ thông năm 1992, cũng không đủ mạnh để giành được đa số phiếu ở bất cứ
một bang nào.
Thử nghiệm thời gian
Đã có nhiều phong trào đấu tranh đòi thay đổi Cử tri đoàn và thực hiện bỏ phiếu phổ thông trực tiếp trên toàn quốc. Kể từ khi được hính thành, Cử tri
đoàn đã chính thức được thay đổi bằng sửa đổi hiến pháp và không chính thức
khi hệ thống đảng phái tương tác với nó ra đời và tan rã. Các nhà lập hiến sẽ nhận thức được Cử tri đoàn ngày nay là một thể chế phù hợp với nguyên tắc
phân chia quyền lực, trong đó tổng thống được bầu lên độc lập với Quốc hội và các bang.
Mặc dù các nhà lập hiến không tiên liệu được sự phát triển của các đảng chình
trị, nhưng họ muốn tổng thống phải là người có tiếng tăm, và sự tồn tại của Cử tri đoàn khiến các đảng thứ ba, các phe phái mang tình khu vực và rất ìt người
có thể giành được ngôi vị tổng thống.
Tóm lại, tinh thần cơ bản của Cử tri đoàn là bầu lên một tổng thống có sức cuốn
hút quần chúng rộng rãi, độc lập với Quốc hội và có tầm ảnh hưởng trên toàn quốc. Cho đến nay hệ thống này vẫn đang tiếp tục vận hành.
Những quan điểm trong bài báo này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.
- 12 -
Cử tri đoàn hoạt động như thế nào?
Cơ sở Hiến pháp Trìch Điều II, Khoản 1
Quyền hành pháp sẽ được trao cho Tổng thống Hoa Kỳ. Tổng thống giữ chức vụ của mình trong nhiệm kỳ 4 năm và cùng với Phó Tổng thống cũng được bầu
ra theo cùng một nhiệm kỳ và được bầu cử theo thể thức sau đây:
Theo thể thức mà cơ quan lập pháp qui định, mỗi bang sẽ cử ra một số đại cử tri bằng tổng số thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ tại Quốc hội. Thượng nghị sĩ, hạ
nghị sĩ hay những người giữ chức vụ trong các cơ quan công quyền không được bầu làm đại cử tri.
Cử tri đoàn không phải là một địa điểm mà là một tiến trính mà khởi nguồn
là một phần trong quá trính soạn thảo Hiến pháp Mỹ. Cử tri đoàn được các vị khai quốc công thần của nước Mỹ lập ra như một thỏa hiệp giữa việc bầu chọn
tổng thống do Quốc hội thực hiện và thông qua bỏ phiếu trực tiếp. Người dân Mỹ bỏ phiếu cho các đại cử tri, những người này sau đó sẽ bỏ phiếu bầu tổng
thống. Cục Lưu trữ Quốc gia là cơ quan chình phủ liên bang có nhiệm vụ giám
sát tiến trính này.
Mỗi bang được phân bổ số đại cử tri bằng tổng số thượng nghị sĩ của bang
đó (luôn là hai) và số đại diện của họ tại Hạ viện, dựa trên thống kê dân số tiến
Các đại cử tri tuyên thệ tháng 12/2000 tại Tòa nhà Quốc hội bang Massachusetts tại Boston
- 13 -
hành 10 năm một lần. Hiện nay, bang đông dân nhất là California có 55 đại cử
tri, trong khi đó bang có cư dân ìt hơn như Bắc Dakota có thể chỉ có 3 hoặc 4 đại cử tri.
Cử tri đoàn hiện nay bao gồm 538 đại cử tri (tương ứng với 435 thành viên
Hạ viện và 100 thượng nghị sĩ, cộng với 3 đại diện của Quận Colombia - nơi có thủ đô Washington). Để đắc cử tổng thống và phó tổng thống, ứng cử viên phải
giành được đa số 270 phiếu đại cử tri.
Hiến pháp Mỹ có rất ìt điều khoản quy định tiêu chuẩn đại cử tri. Điều II
quy định rằng thành viên Quốc hội và những “người đang nắm giữ chức vụ tại các cơ quan công quyền Mỹ” không được chỉ định làm đại cử tri.
Quá trính bầu đại cử tri ở mỗi bang khác nhau. Thường thí các lãnh đạo
đảng tại bang sẽ chỉ định đại cử tri tại các đại hội của đảng ở bang hoặc ủy ban
trung ương đảng ở bang sẽ biểu quyết. Các đại cử tri thường được lựa chọn ví sự phục vụ và cống hiến của họ đối với đảng. Họ có thể là các quan chức được
bầu lên ở các bang, các lãnh đạo đảng, hoặc những người có liên hệ với ứng cử viên tổng thống.
Cử tri mỗi bang chọn ra những đại cử tri cam kết sẽ bầu cho một ứng cử
viên tổng thống vào ngày tổng tuyển cử - ngày thứ Ba sau thứ Hai đầu tiên của
tháng 11 (4/11/2008). Tùy thuộc vào quy trính ở mỗi bang, tên của các đại cử tri có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện trên lá phiếu dưới tên của các ứng cử
viên tranh cử tổng thống.
Các đại cử tri ở mỗi bang sẽ gặp nhau vào thứ Hai đầu tiên sau thứ Tư thứ
hai vào tháng 12 (15/12/2008) để bầu tổng thống và phó tổng thống Mỹ.
Không có quy định Hiến pháp hay luật liên bang nào yêu cầu đại cử tri phải
bỏ phiếu phù hợp với bỏ phiếu phổ thông ở bang họ. Tuy nhiên, luật bang quy
định rằng những đại cử tri nào bị cho là không trung thành sẽ bị phạt hoặc không đủ điều kiện ví bỏ phiếu không hợp lệ sẽ bị thay thế bằng một đại cử tri
khác. Tòa án Tối cao Mỹ không quy định cụ thể về việc liệu những cam kết và các hính phạt áp dụng với hành động không bỏ phiếu như cam kết có thể được
thực hiện theo Hiến pháp không. Chưa có đại cử tri nào bị truy tố ví không bỏ
phiếu như đã cam kết.
Ngày nay ìt có đại cử tri nào dám không coi trọng phổ thông đầu phiếu
bằng cách bỏ phiếu cho một ai đó mà không phải là ứng cử viên của đảng họ.
Các đại cử tri nhín chung đều giữ vị trì lãnh đạo trong đảng hoặc được chọn ra ví đã trung thành với đảng. Trong suốt lịch sử Mỹ, hơn 99% đại cử tri đã bỏ
phiếu như đã cam kết.
- 14 -
Tổng số phiếu của Cử tri đoàn sẽ quyết định ai là tổng thống và phó tổng
thống, chứ không phải đa số theo thống kê hoặc đa số mà một ứng cử viên có
thể giành được trong cuộc bỏ phiếu phổ thông trên toàn quốc. Trong lịch sử Mỹ có bốn lần ứng cử viên giành được hầu hết phiếu phổ thông trên toàn quốc
nhưng lại không giành được đa số phiếu đại cử tri. Đó là các năm 1824, 1876, 1888 và 2000.
Năm 2008, 48 trong số 50 bang và Quận Colômbia thực hiện nguyên tắc
“người thắng được tất cả”. Vì dụ, tất cả 55 phiếu của đại cử tri California được
dành cho người chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu phổ thông ở bang đó, ngay cả khi chiến thắng đó là sìt sao 50.1%-49.9%. Chỉ có hai bang là Nebraska và
Maine không theo nguyên tắc người thắng được tất. Ở các bang này, phiếu đại cử tri có thể phân bổ cho các ứng cử viên thông qua phân bổ phiếu bầu theo tỉ
lệ.
Quốc hội nhóm họp trong kỳ họp chung vào tháng 1 trong năm sau bầu cử
tổng thống để kiểm phiếu đại cử tri.
Nếu không ứng cử viên tổng thống nào giành được đa số phiếu đại cử tri,
theo điều sửa đổi thứ 12 của Hiến pháp, Hạ viện sẽ quyết định kết quả bầu cử.
Hạ viện sẽ chọn tổng thống theo hính thức đa số, chọn một trong số ba ứng cử
viên nhận được nhiều phiếu đại cử tri nhất. Việc bỏ phiếu sẽ do các bang tiến hành, đoàn đại biểu của mỗi bang có 1 phiếu. Nếu không ứng cử viên phó tổng
thống nào giành được đa số phiếu đại cử tri, Thượng viện sẽ chọn phó tổng thống bằng đa số, mỗi thượng nghĩ sĩ sẽ chọn một trong hai ứng cử viên nhận
được nhiều phiếu đại cử tri nhất.
Hạ viện đã hai lần phải chọn tổng thống, vào năm 1800 và 1824. Thượng
viện một lần phải chọn phó tổng thống vào năm 1836.
Nguồn tư liệu tham khảo cho thấy trong hơn 200 năm qua, hơn 700 đề xuất
đã được đưa ra tại Quốc hội nhằm cải tổ hoặc xóa bỏ Cử tri đoàn. Số đề xuất
sửa đổi Hiến pháp về việc thay đổi Cử tri đoàn nhiều hơn số đề xuất trong các lĩnh vực khác.
Sự vững bền của Cử tri đoàn có thể bị ảnh hưởng bởi thái độ đối với các
đảng thứ ba – ngoài Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Các đảng thứ ba hầu
như không làm được gí trong hệ thống Cử tri đoàn. Năm 1948 và 1968, các ứng cử viên đảng thứ ba có sức lôi cuốn ở cấp khu vực đã giành được đáng kể phiếu
bầu của đại cử tri ở miền Nam, có thể đã ảnh hưởng tới kết quả bầu cử nhưng không phải là thách thức nghiêm trọng đối với người thắng cử của chình đảng.
Ứng cử viên của đảng thứ ba cuối cùng giành kết quả ngoạn mục là cựu tổng
thống Theodore Roosevelt của Đảng Cộng hòa năm 1912. Ông đã về thứ hai với khoảng cách khá xa về số phiếu đại cử tri và phiếu phổ thông (88/266 phiếu đại
- 15 -
cử tri cần thiết để thắng cử). Mặc dù Ross Perot năm 1992 giành được 19%
phiếu phổ thông trên toàn quốc, nhưng không giành được phiếu đại cử tri nào do ông không thực sự mạnh ở bang nào.
Nguồn: Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ
- 16 -
Giành đa số phiếu của cử tri đoàn David Mark
Hệ thống cử tri đoàn khiến việc bầu chọn tổng thống ở Hoa Kỳ phức tạp hơn nhiều so với việc đơn giản kiểm tất cả các lá phiếu phổ thông. Các đảng phái chính trị lớn buộc phải xây dựng các chiến lược để giành chiến thắng một số “bang còn do dự” mang tình quyết định với cuộc bầu cử. David Mark là biên tập viên cao cấp tại Politico và politico.com, hai ấn phẩm in và trực tuyến về chính trị Hoa Kỳ.
Cứ bốn năm một lần, người dân Mỹ lại đi bỏ phiếu bầu tổng thống Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ. Tuy nhiên, có một điều hơi lạ là không có các cuộc tổng tuyển cử.
Trái lại, người dân Mỹ sẽ bỏ phiếu ở 51 cuộc bỏ phiếu riêng biệt tại 50 tiểu bang và Quận Columbia (thủ đô Washington). Tổng hợp tất cả, kết quả của các cuộc
bầu cử này sẽ tạo nên cử tri đoàn và quyết định cuộc tranh cử tổng thống.
Giành được đa số phiếu của cử tri đoàn
là một nhiệm vụ đầy phức tạp. Các cuộc vận động tranh cử tổng thống thường
phải dành rất nhiều thời gian để xây
dựng các chiến lược nhằm giành được con số thần kỳ 270 lá phiếu đại cử tri –
đa số phiếu trong tổng số 538 phiếu. Giành được đa số phiếu của cử tri đoàn
chắc chắn có nghĩa là dành thời gian và
nguồn lực quý giá ở bang này thí buộc phải hy sinh bang khác. Trong những
tuần cuối cùng trước ngày bầu cử, các chiến dịch hàng ngày phải đưa ra những
quyết định đầy khó khăn về việc lựa chọn những tiểu bang ưu tiên và những
tiểu bang cần phải hy sinh. Việc lựa chọn
sai lầm các tiểu bang có nghĩa là hoặc sẽ giành được Nhà Trắng hoặc là đứng ngoài cuộc trong bầu không khì chình trị của Ngày Nhậm chức Tổng thống vào
20/1.
Tuy vậy, thực tế chình trị cho thấy phần lớn các tiểu bang, tối đa khoảng 30, có
thể hoàn toàn đứng về phìa Đảng Dân chủ hoặc Cộng hòa và không đua tranh
quyết liệt. Dồn thời gian và tiền bạc vào những tiểu bang này có thể sẽ là một sự lãng phì nghiêm trọng đối với bất kỳ bên tham gia tranh cử nào.
Ứng viên Đảng Dân chủ Barack Obama vận động tranh cử tại Ohio nơi ông đã thất bại trước Hillary Clinton trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ
- 17 -
Sân chơi tĩnh
Mười năm đầu của thế kỷ 21 đã chứng kiến ngày càng ìt các mục tiêu rõ ràng trong các cuộc bầu cử tổng thống trước đây. Gần như không có sự thay đổi nào
trên bản đồ bầu cử trong các cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 và 2004. Trên thực tế, chỉ có ba tiểu bang hoán đổi vị trì: Iowa và New Mexico, chuyển từ ủng
hộ ứng cử viên Đảng Dân chủ Al Gore năm 2000 sang Tổng thống Đảng Cộng
hòa George W. Bush năm 2004, và New Hampshire, vốn ủng hộ Tổng thống Bush năm 2000 nhưng bốn năm sau lại chuyển sang ủng hộ ứng cử viên Đảng
Dân chủ John Kerry. Chình điều đó khiến cho đó là thời kỳ tĩnh lặng nhất trên bản đồ bầu cử tổng thống trong thời gian gần đây.
Tuy vậy, vào năm 2004, 13 tiểu bang đã bị quyết định với chênh lệch phiếu chỉ
bảy phần trăm hoặc thấp hơn: Colorado, Florida, Iowa, Michigan, Minnesota, Nevada, New Hampshire, New Jersey, New Mexico, Ohio, Oregon, Pennsylvania
và Wisconsin. Do đó vào năm 2008, các chiến lược gia vận động tranh cử cho ứng cử viên Đảng Cộng hòa John McCain và ứng cử viên sáng giá của Đảng Dân
chủ Barack Obama đang tím cách mở rộng sân chơi và giành thêm nhiều lá phiếu của cử tri đoàn.
Chẳng hạn, kế hoạch của Obama đã kêu gọi mở rộng bản đồ bầu cử bằng cách
tấn công McCain ở những tiểu bang vốn truyền thống ủng hộ Đảng Cộng hòa, bao gồm Bắc Carolina, Missouri và Montana. Trong khi đó chiến lược của McCain
lại nhằm mục tiêu tranh giành các tiểu bang vốn bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ trong thời gian gần đây như Pennsylvania – nơi Obama đã bị Thượng Nghị sỹ
Hillary Clinton đánh bại trong cuộc bầu cử sơ bộ chọn ứng viên Đảng Dân chủ –
và Michigan, nơi Obama đã không cạnh tranh trong cuộc bầu cử sơ bộ. Giới chức ở cả hai cuộc tranh cử đều tự tin dự đoán họ sẽ giành những tiểu bang
vốn đã ủng hộ đối thủ của họ trong các cuộc bầu cử gần đây.
Các chiến lược cử tri đoàn
Con đường để Obama giành được 270 phiếu đại cử tri cần thiết bắt đầu từ việc
gín giữ tất cả các tiểu bang mà John Kerry đã chiến thắng năm 2004, đồng thời tập trung vào một số tiểu bang mà các cố vấn của Obama cho rằng thời gian đã
chìn muồi để giành về phìa họ. Kerry đã giành được 252 phiếu đại cử tri. Để có thêm 18 phiếu đại cử tri nữa, Obama sẽ phải tập trung vào Iowa, Virginia, Bắc
Carolina, New Mexico, Nevada và Colorado, v.v… Danh sách các tiểu bang cần hướng tới của ông còn có Ohio, nơi ông đã thất bại trong vòng bầu cử sơ bộ
trước Thượng Nghị sỹ Hillary Clinton nhưng lại là tiểu bang đã chuyển sang ủng
hộ mạnh mẽ Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2006. Về phần mính, McCain hy vọng cử tri sẽ giúp ông giữ vững được Ohio, một tiểu bang có
ý nghĩa cốt tử đối với sự thành công của Đảng Cộng hòa trong hai cuộc bầu cử
- 18 -
tổng thống vừa qua, đồng thời lôi kéo Michigan,
Pennsylvania và Wisconsin về phìa Đảng Cộng hòa.
Nhưng, đôi khi các chiến lược lựa chọn tiểu bang
trong cử tri đoàn của các chiến dịch bầu cử lại không phải là tất cả. Các chiến dịch tranh cử
thường dùng tiểu xảo một cách tinh vi như thể họ
đang dồn biết bao tiền bạc để giành một tiểu bang nào đó, nhưng trên thực tế họ lại không có ý đồ
như vậy. Ý đồ của họ là buộc đối thủ phải dành thời gian và tiền bạc quý giá của họ vào những
tiểu bang mà họ thường cho là chắc chắn – nhằm giữ vững sân nhà.
Một vì dụ kinh điển về trò “trận giả” này đã xuất
hiện trong những ngày nóng bỏng cuối cùng trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2000 khi Phó
Tổng thống Đảng Dân chủ Al Gore ra tranh cử để kế vị Tổng thống Bill Clinton, trong khi đó ứng cử
viên Đảng Cộng hòa là Thống đốc bang Texas
George W. Bush. Tháng 10/2000, chỉ một vài tuần trước khi diễn ra bầu cử, chiến dịch của ông Bush đã đưa ra một quyết định
khiến nhiều người đặt câu hỏi nhằm tổ chức các quảng cáo đầy tốn kém trên đài phát thanh và truyền hình ở California nơi có 54 phiếu đại cử tri (hiện nay là
55 phiếu) và là trung tâm trong vấn đề chình trị về bầu cử tổng thống. Nhóm vận động tranh cử của ông Bush đã bỏ ra hơn 1 triệu đô-la để quảng cáo trên
thị trường truyền thông đầy đắt đỏ ở California – Los Angeles, San Francisco và
San Diego – còn ứng viên phó tổng thống Đảng Cộng hòa Dick Cheney lại dành một ngày quý báu để đi vận động chình trị ở tiểu bang trong những ngày cuối
cùng của chiến dịch tranh cử.
Tuy nhiên, chiến dịch của ông Gore lại không mắc bẫy. Tự tin về sự ủng hộ
mạnh mẽ dành cho Đảng Dân chủ ở California, nhóm vận động tranh cử của
Đảng Dân chủ tập trung nguồn lực có hạn của họ vào những nơi khác. Điều đó hóa ra lại là một chiến lược sáng suốt ví Gore giành thuận lợi vẻ vang ở Califor-
nia với 53% số phiếu, trong khi ông Bush chỉ đạt 42%.
Nhưng ở Ohio, nhóm vận động tranh cử của Gore lại rút lui quá sớm và tự mính
làm mất đi cơ hội giành 21 phiếu đại cử tri đoàn ở tiểu bang này. Mặc dù nhóm
vận động tranh cử của Gore đã dự đoán Đảng Cộng hòa sẽ thắng lớn ở Ohio nhưng thực tế ông Bush lại chỉ giành chiến thắng với chênh lệch 3,5% số phiếu.
Nếu tập trung nhiều hơn, kết quả toàn bang lẽ ra có thể đã rất khác, và ông Gore lẽ ra đã chắc chắn thắng lợi tại tiểu bang để cầm chắc chức tổng thống.
Ứng cử viên Đảng Cộng hòa John McCain tổ chức chiến dịch tại Ohio, một trong những bang phân lập sít sao nhất.
- 19 -
Tương tự như vậy, các ứng viên năm 2008 đã nêu một số tiểu bang có khả
năng rất mang tình cạnh tranh. Thực tế có thể sẽ không phải như vậy. Các cố vấn của Obama đã nói một số tiểu bang nơi họ chủ ý vận động mạnh mẽ như
Georgia, Missouri, Montana và Bắc Carolina cuối cùng có thể sẽ không chuyển từ ủng hộ Đảng Cộng hòa sang Dân chủ. Nhưng kết quả của nỗ lực đó có thể
buộc McCain phải dành tiền bạc hoặc buộc ông phải đến vận động ở những nơi
được coi là thành trì vững chắc, chứ không phải tập trung nguồn lực cho những tiểu bang quan trọng còn do dự như Ohio.
Người thắng được tất cả
Đối với các chiến lược gia tranh cử tổng thống, một trong những khía cạnh phức
tạp nhất của cử tri đoàn là quy định ở gần như tất cả mọi tiểu bang người chiến
thắng trong cuộc bỏ phiếu tại tiểu bang sẽ được tất cả các lá phiếu đại cử tri của bang, bất kể khoảng cách có sìt sao đến đâu. George W. Bush trong năm
2000 đã giành chiến thắng tại Florida – và chức tổng thống – với 537 phiếu chênh lệch trong tổng số hơn 6 triệu phiếu bầu tại tiểu bang này. Tuy vậy, ngay
cả khoảng cách sìt sao nhất như vậy cũng chỉ ngã ngũ sau 36 ngày đấu tranh về pháp lý và Tòa án Tối cao ra phán quyết chấm dứt việc kiểm lại phiếu trên
toàn bang, và khoảng cách mong manh đó cũng đủ giúp cho Đảng Cộng hòa
giành được tất cả lá phiếu đại cử tri của tiểu bang.
Năm 1988, ứng cử viên Đảng Cộng hòa George H.W. Bush đã giành được 426
phiếu đại cử tri đoàn so với 112 lá phiếu của Thống đốc bang Massachusetts Michael Dukakis, ứng cử viên Đảng Dân chủ, khiến cho chiến thắng này dường
như là hiển nhiên. Nhưng khoảng cách chiến thắng của ông Bush ở nhiều tiểu
bang tương đối hẹp, cho phép ông chiến thắng trên diện rộng nhưng không cách biệt nhiều (California, 51% so với 48%; Connecticut, 52% so với 47%;
Illinois, 51% so với 49%; Maryland, 51% so với 48%; Missouri, 52% so với 48%; New Mexico, 52% so với 47%; Pennsylvania 51% so với 48%; Vermont,
51% so với 48%). Khoảng cách về lá phiếu ở các tiểu bang có nhiều phiếu đại cử tri khác cũng không lớn. Nếu cuộc vận động tranh cử của họ phản công
mạnh mẽ hơn trước những cuộc tấn công nhằm vào họ và mạnh mẽ hơn khi
đưa ra chương trình nghị sự thì Đảng Dân chủ lẽ ra đã chiến thắng.
Cũng trong năm 2000, Gore đã thua ở New Hampshire với tỷ lệ 48,1% so với
46,8%. Điều đó chứng tỏ là một điểm cách biệt quan trọng ví bốn lá phiếu cử tri của New Hampshire lẽ ra đã giúp Gore giành được 271 phiếu cử tri đoàn –
khiến kết quả còn gây tranh cãi ở Florida trở nên vô nghĩa. Tương tự, Gore lẽ ra
đã giành chiến thắng ở quê nhà – tiểu bangTennessee năm 2000 – và giải quyết ổn thỏa cuộc bầu cử. Trái lại, 11 lá phiếu cử tri của Tennessee đã rơi vào tay
ông Bush, với cách biệt khoảng 4%, khiến ông Gore trở thành ứng cử viên tổng thống đầu tiên bị thua tại quê nhà kể từ khi ứng viên Đảng Dân chủ McGovern
- 20 -
bị thua như vậy năm 1972, và chình điều đó khiến ông mất cơ hội trở thành
tổng thống.
Khả năng được bầu trong cuộc tổng tuyển cử
Khi cử tri trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa bỏ phiếu lựa chọn ứng viên của đảng họ thí họ thường xem xét không chỉ ứng viên
mà họ ủng hộ căn cứ trên những vấn đề và phẩm chất cá nhân mà còn xem
ứng viên nào có khả năng giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử nhiều nhất vào tháng 11.
Đó là lý do chính tại sao John Kerry đã được bầu chọn là ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ năm 2004 trước đối thủ là cựu Thống đốc bang Vermont
Howard Dean. Lúc đầu trong cuộc bầu cử, những chỉ trìch nặng nề của Dean về
cuộc chiến Iraq và các chình sách của chình quyền Bush nhín chung đã giúp ông nổi lên vị trì hàng đầu trong cuộc đua sơ bộ lựa chọn ứng viên tổng thống của
Đảng Dân chủ. Những lời lẽ hùng biện mạnh mẽ của ông đã chiếm được niềm tin của các cử tri trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ ví họ cảm thấy
thất vọng do nhiều lãnh đạo của đảng họ trong Quốc hội đã không sẵn sàng phản bác ông Bush một cách mạnh mẽ.
Nhưng những kết quả không đồng đều trên chặng đường vận động tranh cử
của Dean và việc ông thiếu kinh nghiệm trong chình trị quốc gia đã khiến các cử tri trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ cuối cùng đã lựa chọn Kerry, một
thượng nghị sỹ đã có gần 20 năm kinh nghiệm. Kerry là một diễn giả rất giỏi đưa ra các con số và cử tri coi ông là một đối trọng mạnh mẽ hơn so với ông
Bush. Nhưng sau cuộc bầu cử sơ bộ, người ta đã có một câu trào phúng rằng
nhiều người của Đảng Dân chủ đã “hẹn hò với Dean, nhưng lại kết hôn với Ker-ry”.
Bản đồ cử tri đoàn đã trở thành một vấn đề lớn trong trận chiến bầu chọn ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ năm 2008. Trong cuộc đua kéo dài gần sáu
tháng và chỉ ngã ngũ khi tất cả các tiểu bang bầu sơ bộ và hội ý, Hillary Clinton lập luận rằng bà xứng đáng là ứng cử viên của Đảng Dân chủ hơn ví bà có
nhiều cơ hội đánh bại ứng cử viên Đảng Cộng hòa John McCain trong cuộc tổng
tuyển cử hơn đối thủ là Barack Obama.
Clinton đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ ở những tiểu bang còn do
dự như Ohio, Pennsylvania và Tây Virginia. Lập luận đó dường như chưa đủ để thuyết phục những người ủng hộ Đảng Dân chủ - những người đã lựa chọn
Obama là ứng viên của đảng để ganh đua với McCain.
- 21 -
Những người theo Đảng Dân chủ sẽ biết được vào ngày 4/11 liệu toàn bộ cử tri
có đảm bảo sự lựa chọn ứng viên của đảng hay không. Suy cho cùng, giành được đa số lá phiếu cử tri đoàn là một mục tiêu liên tục thay đổi của các chiến
dịch tranh cử tổng thống. Có lẽ điều đáng ngại nhất đó là đặc trưng trong bộ máy chình quyền ở Mỹ, trong đó người giành được nhiều lá phiếu nhất trong
một cuộc bầu cử không nhất thiết tự nhiên sẽ trở thành người chiến thắng.
Trong khi các chiến dịch của Obama và McCain ra sức cố gắng trong những tuần cuối cùng của cuộc bầu cử để giành ìt nhất 270 phiếu, song dường như
việc kết hợp các kết quả chiến thắng trong ngày có thể được giải quyết bằng cách đếm cụ thể - từng bang đếm phiếu vào ngày bầu cử.
Các quan điểm được trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.
- 22 -
Một ngày trong cuộc sống của một đại cử tri Bruce Odessey
Timothy Willard, một trong 538 đại cử tri bầu chọn tổng thống năm 2004, kể lại công việc của ông. Ứng viên của ông đã thất bại.
Bruce Odessey là biên tập viên điều hành số báo này của eJournal USA.
Một ngày vào tháng 12/2004, Timothy G. Willard đã nghỉ vài giờ không hành
nghề luật ở Georgetown, bang Delaware để tới thủ phủ của tiểu bang – Dover – để bỏ phiếu lựa chọn tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Rất nhiều người tin rằng tất cả công dân của Delaware đã bỏ phiếu bầu tổng thống trước đó một tháng, nhưng thực ra họ mới chỉ bỏ phiếu để lựa chọn ba
đại cử tri nhằm bầu chọn ứng cử viên Đảng Cộng hòa George W. Bush hoặc ứng cử viên Đảng Dân chủ John F. Kerry tại cử tri đoàn.
Willard là một đảng viên tìch cực của Đảng
Dân chủ ở tiểu bang. Ông nguyên là bì thư của đảng tại hạt và là đại biểu dự Đại hội toàn
quốc của Đảng để lựa chọn ứng cử viên năm 2000. Ông cũng đã tham gia xây dựng cương
lĩnh chình trị của Đảng tại tiểu bang năm
2004.
Delaware, một trong những tiểu bang nhỏ
nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, chỉ có ba lá phiếu đại cử tri năm 2004. (California, tiểu
bang lớn nhất, có 55 phiếu đại cử tri). Rất tính cờ Delaware lại chỉ có ba hạt, đồng thời bì thư
của Đảng Dân chủ tại tiểu bang đã cử từ mỗi
hạt một đại biểu, trong đó có Willard từ hạt Sussex, là đại cử tri bầu chọn tổng thống nếu
Kerry chiến thắng trong phổ thông đầu phiếu tại Delaware.
Một ngày tại Dover
Kerry đã chiến thắng tại Delaware, với 53 % số phiếu phổ thông. Thực ra từ năm 1988 đến nay, các ứng viên tổng thống Đảng Dân chủ đều chiến thắng
trong các cuộc bầu cử tại Delaware. Do đó, Willard có cơ hội đến Dover để bỏ phiếu trong đại cử tri đoàn vào ngày 13/12, ngày thứ Hai đầu tiên sau thứ Tư
Ứng cử viên của Willard, John Kerry của Đảng Dân chủ (bên phải), đã chiến thắng tại Delaware năm 2004 nhưng lại thua cuộc trước Tổng thống George W. Bush về số phiếu phổ thông và số phiếu của đại cử tri
- 23 -
thứ hai của tháng 12 như Hiến pháp Hoa Kỳ đã quy định đối với các đại cử tri
của tất cả các tiểu bang và Quận Columbia (thủ đô Washington).
Lúc 10 giờ sáng, Willard và hai đồng nghiệp của ông đã có mặt tại Hội trường
Hạ viện tiểu bang Delaware, lựa chọn một trong số họ làm chủ tọa và sau đó thực hiện trọng trách của mính.
Họ đã được Ủy ban Bầu cử của tiểu bang cung cấp kết quả bầu cử chình thức
tháng 11 và ký một loạt các biên bản xác nhận kết quả: ba lá phiếu đại cử tri bầu Kerry làm tổng thống, ba lá phiếu đại cử tri bầu John Edwards liên danh
tranh cử với Kerry làm phó tổng thống. Họ đã gửi các biên bản này tới quốc vụ khanh của tiểu bang Delaware để chuyển tới Cục Lưu trữ Quốc gia tại Washing-
ton. Một vài tuần sau đó, Quốc hội Hoa Kỳ chình thức đếm tất cả các lá phiếu đại cử tri đoàn bầu tổng thống và phó tổng thống, trong đó có lá phiếu của
Willard.
Nhưng như tất cả mọi người đã biết, Bush đã đánh bại Kerry với tỷ lệ phiếu 286-252.
Nhiệm vụ mang tính hình thức
Các đại cử tri bầu tổng thống không có quyền độc lập đúng như những người
lập quốc đã nhín nhận khi họ xây dựng Hiến pháp năm 1787. Đến năm 1796,
các đảng phái chình trị đã thực sự thay đổi tình năng động của cử tri đoàn.
Đối với Willard, nhiệm
vụ của ông chỉ mang tình hính thức. Thậm
chì có thể ông cũng
không nghĩ đến bầu chọn ai khác ngoài
John Kerry. Trên thực tế, luật của tiểu bang
Delaware đã cấm ông không được bỏ phiếu
cho bất kỳ ai khác.
(Không ai biết liệu luật đó có hợp hiến
hay không, nhưng cái gọi là những đại cử
tri lật lọng là chuyện
cực kỳ hiếm trong lịch sử).
Timothy Willard thực hiện nhiệm vụ là đại cử tri bầu chọn tổng thống tại thủ phủ tiểu bang Delaware tại Dover
- 24 -
Willard nói rằng: “Sự kiện đó thực ra không thu hút nhiều sự chú ý của giới
truyền thông hoặc người dân. Tôi vẫn còn nhớ nguyên lúc có mặt tại Hạ viện, khu vực dành cho công chúng không đông lắm”.
Dẫu vậy, ông vẫn rất tự hào là đại diện trong cơ chế bầu cử. Ông nói rằng: “Đó là một vinh dự lớn khi được đóng vai trò quan trọng trong quy trính bầu cử,
nhưng tôi nghĩ nhiều người không hiểu được điều đó”.
Nhưng ông cũng nói rằng người Mỹ cũng nên tím các cơ chế khác thay thế để bầu chọn tổng thống, những cơ chế không bầu chọn ứng viên giành được số
phiếu phổ thông trên toàn quốc ìt hơn so với ứng cử viên khác như chúng ta thỉnh thoảng vẫn gặp với cử tri đoàn.
Willard nói rằng: “Tôi nghĩ chúng ta cần xem xét các giải pháp thay thế dễ hiểu và đơn giản hơn. Ý tôi muốn nói là… tôi cho rằng sẽ không tốt nếu người dân
không hiểu hoặc nghi ngờ về cơ chế bầu cử”.
- 25 -
Khi có sự chênh lệch giữa phiếu đại cử tri và số phiếu phổ thông
Thomas H. Neale Đã có bốn lần trong lịch sử Hoa Kỳ, hệ thống cử tri đoàn đã bầu chọn một ứng viên làm tổng thống có số phiếu phổ thông ít hơn so với ứng cử viên còn lại.
Thomas H. Neale là chuyên gia của Chính phủ liên bang chuyên viết báo cáo trình Quốc hội tại Cơ quan Nghiên cứu Phục vụ Quốc hội Hoa Kỳ.
Kể từ cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên năm 1788, hệ thống đại cử tri đoàn đã thực hiện “sự lựa chọn của người dân” 51 lần trong tổng số 55 cuộc
bầu cử, nhưng đã có bốn lần đại cử tri đoàn đã đưa ra kết quả đầy tranh cãi. Ba trong số các cuộc bầu cử này vào năm 1876, 1888 và 2000, đã lựa chọn tổng
thống và phó tổng thống giành được đa số phiếu đại cử tri nhưng lại đạt được
số phiếu phổ thông ìt hơn so với các đối thủ chình của họ. Năm 1824, không đạt được đa số phiếu đại cử tri đoàn, do đó Hạ viện đã phải bầu tổng thống.
1824: Một cuộc mặc cả bát nháo?
Thời điểm Tổng thống James Monroe sắp
mãn nhiệm đã báo hiệu có một sự thay đổi
lớn trong chình trị Hoa Kỳ khi cuộc bầu cử tổng thống năm 1824 tới gần. Hai đảng của
thời đó mang tên Đảng Liên bang và Đảng Cộng hòa Dân chủ. Trong suốt một phần tư
thế kỷ trước đó, Đảng Cộng hòa Dân chủ đã kiểm soát Nhà Trắng trong khi Đảng Liên
bang thí bị gạt ra ngoài lề. Tuy nhiên, đến
năm 1824, Đảng Cộng hòa Dân chủ đã có những dấu hiệu suy yếu: Các tiểu bang đang
mở rộng quyền bỏ phiếu; các trính tự thủ tục đang được áp dụng đã bị đặt câu hỏi và nước
Mỹ đang đứng trước bầu không khì đổi mới.
Do không thể nhất trì lựa chọn ứng cử viên, các phe phái của Đảng Cộng hòa Dân chủ đã đề cử bốn ứng viên: Ngoại trưởng John Quincy Adams và Bộ trưởng
Tài chình William Crawford; Thượng Nghị sỹ Andrew Jackson, người hùng trong trận chiến New Orleans; và Henry Clay, vị Chủ tịch Hạ viện đầy quyền lực.
Một bức tranh biếm họa chính trị
năm 1824 mô tả một đám đông đang
cổ vũ các ứng viên John Quincy
Adams, William Crawford và An-
drew Jackson (từ trái sang phải)
- 26 -
Sau chiến dịch tranh cử đầy nóng bỏng – do những người đại diện tiến hành bởi
ví người ta cho rằng nếu các ứng viên trực tiếp tham gia vận động thí không quân tử – kết quả cuối cùng bị chia rẽ ghê gớm. Jackson giành được nhiều
phiếu phổ thông và phiếu đại cử tri nhất, kế đến là Adams, rồi Crawford và Clay, nhưng không một ai trong bốn ứng cử viên giành được đa số phiếu đại cử tri.
Trong bối cảnh đó, Hiến pháp quy định Hạ viện sẽ bầu chọn tổng thống, trong
đó mỗi đoàn đại biểu của mỗi tiểu bang chỉ được bỏ một phiếu. Hơn nữa, vì chỉ có ba ứng cử viên hàng đầu đủ điều kiện nên Clay đã bị loại.
Đến thời điểm Quốc hội nhóm họp tại Washington tháng 12/1824, người ta đã biết kết quả bầu cử đầy chia rẽ, nhưng mãi đến ngày 9/2/1825 việc công bố
chình thức mới được lên lịch. Do đó, suốt hai tháng, thủ đô Washington sống trong bầu không khì nóng bỏng với những dự đoán và các cuộc vận động hậu
trường. Điều rõ ràng là Crawford, mới phục hồi sau vụ đột quỵ, đã bỏ cuộc, do
đó kết quả của cuộc đua sẽ chỉ là giữa Adams và Jackson.
Cuộc đua cuối cùng cho thấy sự tương phản rõ ràng: Adams, tốt nghiệp Đại học
Harvard ở Massachusetts tại New England, là một nhà ngoại giao kỳ cựu và con trai của một vị tổng thống trong khi Jackson lại là một chình trị gia vụng về
người Tennessee ở miền Tây, một anh hùng quân đội và đã từng tham gia
nhiều cuộc đấu súng tay đôi. Chủ tịch Hạ viện Clay, người cân bằng quyền lực, đã đàm phán với những người ủng hộ Jackson và Adams, nhưng ông và ứng
viên người New England lại cùng có chình sách giống nhau, và cả hai đều không tin tưởng Jackson. Sau hai cuộc họp kìn kéo dài vào tháng Giêng, sự ủng hộ của
Clay dành cho Adams đã trở nên rõ ràng. Hai tuần sau đó, một lá thư đăng trên tờ báo ở Philadelphia khẳng định rằng Clay đã nhất trì ủng hộ Adams và đổi lại
sẽ được làm ngoại trưởng nếu Adams chiến thắng. Một loạt những lời cáo buộc
và biện hộ đã xuất hiện, trong đó những người ủng hộ Jackson lên án Clay và Adams đã “mặc cả thật bát nháo”.
Vào ngày 9/2, Quốc hội đã nhóm họp để kiểm phiếu đại cử tri. Đúng như dự kiến, Jackson giành được 99 phiếu đại cử tri, còn thiếu 32 phiếu mới đủ 131
phiếu cần thiết để giành chiến thắng, trong khi đó Adams đạt được 84 phiếu,
Crawford được 41 phiếu, và Clay được 37 phiếu. Khi kết quả được công bố, Hạ viện đã phải thực hiện nhiệm vụ theo Hiến pháp, trong đó không ai khác ngoài
Henry Clay là chủ tịch hạ viện. Vào thời đó, khi Hợp chủng quốc mới có 24 tiểu bang, chỉ cần có 13 lá phiếu từ các đoàn đại biểu của tiểu bang là chiến thắng;
các báo cáo sớm cho biết 12 bang ủng hộ Adams, còn thiếu một mới đủ đa số.
Jackson hy vong sẽ đánh bại ngay Adams, tranh thủ được những người ủng hộ Crawford, và vận động một số tiểu bang của người New England vào cuộc. Chủ
chốt ở đây là tiểu bang New York, ví đoàn đại biểu Hạ viện của tiểu bang này bị chia rẽ thành hai phe tương xứng, trong đó có một hạ nghị sỹ vẫn còn do dự.
- 27 -
Vào buổi sáng kiểm phiếm, Clay và Hạ nghị sỹ Daniel Webster từ tiểu bang quê
nhà của Adams đã mời hạ nghị sỹ tiểu bang New York vẫn còn do dự tới văn phòng riêng của Chủ tịch Hạ viện Clay. Clay và Webster rất nổi tiếng ví tài hùng
biện, và tất cả những gí họ nói đều có tác động rất lớn: Khi bức màn bì mật được vén lên, New York đã nằm trong danh sách ủng hộ Adams, đưa ông lên vị
trì đầu bảng. Kết quả cuối cùng là 13 lá phiếu của tiểu bang đã ủng hộ Adams,
7 phiếu cho Jackson, và 4 phiếu cho Crawford.
11 ngày sau, Adams tuyên bố Clay sẽ là ngoại trưởng của mính, khiến người ta
biết rõ đó là bằng chứng cho những lời cáo buộc về mặc cả trước đó. Adams và Clay luôn bác bỏ điều đó, nhưng cho dù có đúng hay không thí những lời cáo
buộc này đã phủ một bóng đen lên chức vụ tổng thống của Adams. Điều đó đã tạo sức mạnh và khiến Jackson và những người ủng hộ ông nổi giận. Ngay lập
tức họ đã chuẩn bị chiến dịch tranh cử tổng thống tiếp theo cho Jackson. Bốn
năm sau, ứng viên từ Tennesse đã được đền đáp khi ông đánh bại Adams một cách vẻ vang trong cuộc bầu cử năm 1828.
1876: Cuộc thỏa hiệp năm 1877
Năm 1876, Đảng Cộng hòa của cố Tổng thống Abraham Lincoln (người ta gọi
tắt Đảng Cộng hòa là GOP) đã nắm giữ vị trì tổng thống trong suốt 16 năm liền,
nhưng vị trì áp đảo của Đảng Cộng hòa đã bị lung lay. Hoa Kỳ bị lâm vào cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng suốt bốn năm liền. Tổng thống Ulysses S. Grant
chuẩn bị mãn nhiệm sau hai nhiệm kỳ đầy rẫy các vụ bê bối chình trị. Đảng Dân chủ, vốn một thời bị ghét bỏ ví họ liên kết với miền Nam nổi loạn trong cuộc nội
chiến, đã giành lại sức mạnh và sự tự tin, chiếm đa số ghế trong Hạ viện năm
Tháng 2/ 1877, Quốc hội đã kiểm phiếu đại cử tri sau cuộc bầu cử đầy tranh cãi Tilden-Hayes
- 28 -
1874. Cử tri da trắng ở miền Nam yêu cầu rút quân đội liên bang đang đồn trú
tại khu vực ủng hộ liên bang trước đây để thực hiện công cuộc tái thiết, chình sách của chình phủ liên bang đảm bảo quyền chình trị cho những người nô lệ
trước đây và bảo vệ các chình quyền tiểu bang của Đảng Cộng hòa sau nội chiến.
Gặp nhau trong các đại hội đảng toàn quốc, các đảng viên Đảng Dân chủ đã đề
cử Thống đốc tiểu bang New York Samuel Tilden làm tổng thống, trong khi đó các đảng viên Cộng hòa lựa chọn Thống đốc tiểu bang Ohio Rutherford B.
Hayes. Cả hai ứng viên đều là những nhà cải cách có uy tìn, và cả hai đảng đều có cương lĩnh giống nhau đề cao chình phủ trong sạch và cải cách bộ máy hành
chình. Cuộc vận động tranh cử đã bị chi phối bởi vô số vụ bôi nhọ, cáo buộc và biện hộ, trong khi đó các ứng viên vẫn cãi lộn, phó mặc các cuộc tấn công chình
trị cho những người đại diện và các tờ báo mang tình đảng phái rất mạnh vào
thời đó.
Hơn tám triệu cử tri đã đi bỏ phiếu vào ngày bầu cử 7/11. Đến đêm, các kết
quả được gửi đến bằng điện tìn cho thấy Đảng Dân chủ có xu hướng chiến thắng. Những tiểu bang ủng hộ Đảng Cộng hòa đã rơi vào tay Tilden, đến sáng,
dường như ông đã chiến thắng ở 17 tiểu bang theo phổ thông đầu phiếu, hơn ìt
nhất 250.000 phiếu, để được 184 lá phiếu đại cử tri, ở thời điểm đó chỉ còn thiếu đúng một lá phiếu là đủ đa số phiếu. Hayes kém hơn, chiến thắng ở 18
tiểu bang và giành được 165 phiếu đại cử tri, nhưng những tia hy vọng của Đảng Cộng hòa lại lóe lên khi kết quả cho thấy kết quả sít sao cho Hayes ở Flor-
ida, Louisiana và Nam Carolina, vốn kiểm soát 19 lá phiếu đại cử tri. Các đảng viên Đảng Dân chủ tại địa phương đã tranh cãi về kết quả, khẳng định rằng
quân đội liên bang đã phá hoại cuộc bầu cử; Đảng Cộng hòa phản đối lại với
cáo buộc rằng cử tri da đen ủng hộ Đảng Cộng hòa đã bị cản trở đến các địa điểm bỏ phiếu bằng vũ lực ở nhiều nơi. Trước sự chia rẽ sâu sắc, mỗi tiểu bang
phải gửi hai giấy chứng nhận kết quả bầu cử đầy mâu thuẫn tới Quốc hội.
Người ta dự đoán sẽ có một cuộc đấu tranh gay gắt về kết quả đầy tranh cãi,
trong đó lực lượng ủng hộ cả hai ứng cử viên đe dọa sử dụng vũ lực. Quốc hội
đã vào cuộc vào tháng 1/1877 bằng cách thành lập một ủy ban bầu cử gồm hai đảng, trong đó thành viên là các thượng nghị sỹ, hạ nghị sỹ và các thẩm phán
của Tòa án Tối cao. Ủy ban này sẽ quyết định những đại cử tri bị tranh cãi nào có lý hơn. Vào ngày 1/2, Quốc hội đã nhóm họp để kiểm phiếu đại cử tri; các
kết quả bị tranh cãi đã được chuyển tới ủy ban để thẩm định một cách kỹ lưỡng
từng lá phiếu. Toàn bộ quá trính đó kéo dài hơn một tháng, nhưng trong tất cả mọi trường hợp, ủy ban đã bỏ phiếu với mức độ chênh lệch nhỏ nhất để chấp
nhận các đại cử tri Đảng Cộng hòa. Vào ngày 2/3, những lá phiếu cuối cùng đã được dành cho Hayes, người đã tuyên bố đắc cử tổng thống chỉ chênh một
phiếu, giành được 185 phiếu so với 184 phiếu của Tilden.
- 29 -
Mặc dù vấp phải sự phản đối rộng lớn của Đảng Dân chủ, đường phố vẫn im
ắng: Suốt một tháng trước đó, các đại diện của các đảng phái chình trị này đã đạt được thỏa thuận ngầm, mang tên Thỏa hiệp năm 1877. Tilden và Đảng Dân
chủ chấp nhận Đảng Cộng hòa chiến thắng, nhưng Hayes cam kết rút quân đội liên bang khỏi những tiểu bang ủng hộ liên bang trước đây, chấm dứt công cuộc
tái thiết một cách thực sự. Với việc quân đội rút lui, các chình quyền của Đảng
Cộng hòa ở miền Nam đã sụp đổ ví những người nô lệ trước đây đã bị cấm không được bỏ phiếu bằng các âm mưu chình trị, đe dọa và khủng bố. Việc mất
quyền bỏ phiếu nhanh chóng kéo theo các đạo luật phân biệt chủng tộc và các hính thức phân biệt đối xử khác với người da đen. Phải mất tám thập kỷ sau
Hoa Kỳ mới khắc phục được những hậu của bản Thỏa hiệp 1877.
1888: Thua rồi lại thắng
Cuộc bầu cử tổng thống năm 1888 ìt có những
màn kịch chình trị hơn vốn đã trở thành các cuộc tranh cãi xung quanh cử tri đoàn. Tổng
thống đương nhiệm Grover Cleveland người New York, thuộc Đảng Dân chủ, đã được tái đề cử
dựa trên cương lĩnh tiếp tục cải cách bộ máy
hành chình và giảm thuế quan. Đảng Cộng hòa, những người ủng hộ thuế quan có lợi cho ngành
công nghiệp Hoa Kỳ nhưng khiến giá tiêu dùng đắt đỏ, lại lựa chọn Benjamin Harrison từ tiểu
bang Indiana, cháu của Tổng thống William
Henry Harrison.
Cleveland đã bắt đầu chiến dịch tranh cử, phó
mặc cho các đại diện của mính để chuyển tải các thông điệp tới công chúng. Trái lại, Harrison, đã
thực hiện hàng chục cuộc diễn thuyết chình trị tại quê nhà. Có lẽ ông là người đầu tiên vận
động tranh cử “trực tiếp”. Bản thân chiến dịch
đó có lẽ là một trong những chiến dịch xấu xa nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, trong đó cả hai bên
cáo buộc lẫn nhau về chuyện mua bán lá phiếu, những thủ đoạn chình trị xấu xa, và sửa kết quả
bầu cử để có được số phiếu cần thiết.
Ngày 6/11, hơn 11 triệu cử tri Hoa Kỳ đã đi bỏ phiếu. Người ta dự đoán một cuộc bầu cử có kết quả sìt sao, và kết quả cho thấy Cleveland đã áp đảo ứng cử
viên Đảng Cộng hòa với tỷ lệ phổ thông đầu phiếu tương ứng là 5.540.000 và 5.440.000. Tuy nhiên, Harrison lại đắc cử nhờ đa số phiếu đại cử tri áp đảo, với
tỷ lệ 233 - 168.
Ứng viên Đảng Cộng hòa Benja-min Harrison (ảnh trên) thua ứng viên của Đảng Dân chủ Grover Cleveland số phiếu sít sao ở một số bang miền bắc với trong cuộc bầu cử năm 1888
- 30 -
Vậy, điều gí không ổn đã xảy ra? Cleveland đã chiến thắng ở các tiểu bang miền
Nam với số phiếu phổ thông chênh lệch rất lớn, nhưng lại thua ở nhiều tiểu bang miền Bắc với mức độ chênh lệch chỉ là một vài ngàn phiếu ở mỗi tiểu
bang. Harrison đã được nhậm chức mà không gây nhiều tranh cãi vào ngày 4/3/1889, nhưng bốn năm sau, Cleveland lại ra tranh cử, và lần này ông đã
chiến thắng, quay trở lại Nhà Trắng vào năm 1893.
2000: Tòa án Tối cao can thiệp
Hầu như rất ìt cuộc tranh cử tổng thống ở Hoa Kỳ lại kết thúc một cách chua
cay như cuộc bầu cử năm 2000. Thậm chì ngay cả bây giờ, sau gần mười năm, cảm xúc của những người ủng hộ George W. Bush của Đảng Cộng hòa và Al
Gore của Đảng Dân chủ vẫn dâng trào khi thảo luận về chủ đề “số phiếu sìt
sao”, thiếu lá phiếu, hay phán quyết của Tòa án Tối cao khi kết thúc quá trính kiểm phiếu lại tại Florida.
Cuộc vận động tranh cử, mặc dù rất quyết liệt, lại không cho thấy có dấu hiệu có cuộc tranh cãi nào sẽ xuất hiện. Theo hầu hết các cuộc điều tra dư luận,
Thống đốc tiểu bang Texas Bush đang dẫn điểm với khoảng cách rất sìt sao, nhưng Phó Tổng thống Gore dường như đang thu hẹp khoảng cách đó. Hai ứng
viên của các đảng nhỏ đã trở thành nhân tố phức tạp hóa vấn đề: người ủng hộ
quyền của người tiêu dùng Ralph Nader thuộc Đảng Xanh bị quy kết đã hút sự ủng hộ từ cử tri của Gore, trong khi đó Patrick Buchanan, ứng viên của Đảng
Cải cách, dự kiến sẽ thu hẹp số phiếu phổ thông dành cho ông Bush.
Hơn 105 triệu cử tri Mỹ đã đi
bỏ phiếu ngày 7/11. Đầu giờ
tối, kết quả của cuộc bầu cử rõ ràng rất sìt sao. Gore giữ vị trì
dẫn đầu về số phiếu phổ thông khắp cả nước, và cuộc bỏ phiếu
ở đại cử tri cũng thật sìt sao, với 246 phiếu dành cho Bush
và 255 phiếu cho Gore, còn 37
phiếu chưa được quyết định ở ba tiểu bang. New Mexico và
Oregon, với 12 lá phiếu đại cử tri, cuối cùng được tuyên bố
bầu chọn Gore, nhưng Florida,
với 25 lá phiếu đại cử tri mang tình quyết định và nơi ông Bush
dẫn đầu nhỉnh hơn một chút, vẫn còn đang tranh cãi.
Chỉ một ngày sau cuộc bầu cử năm 2000, tờ Los Angeles Daily News tuyên bố George W. Bush đắc cử mặc dù việc kiểm phiếu vẫn còn tiếp diễn một vài tuần sau đó
- 31 -
Các báo cáo về những lá phiếu khó hiểu và những dấu hiệu bất thường khác đã
buộc phải kiểm lại phiếu ở cả tiểu bang và các hạt tại Florida. Cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa đã cử các nhóm luật sư và chuyên gia chình trị để nêu lập
luận của họ trước tòa án và trước công luận. Các cuộc tranh cãi đầy chát chúa và công khai về kết quả kiểm phiếu lại đã làm tốn giấy mực của báo chì suốt hai
tuần, và cả hai đảng đều kiện ra tòa án Florida và tòa án liên bang. Trong khi
đó, thời gian vẫn không ngừng trôi: luật liên bang yêu cầu Florida tuyên bố kết quả bỏ phiếu đại cử tri của họ vào ngày 12/12.
Sau biết bao biến động và những phán quyết đầy mâu thuẫn ở các tòa án địa phương, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã kết luận các thủ tục kiểm phiếu lại của Flori-
da đã vi phạm điều khoản bảo vệ bính đẳng của điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp thứ 14, và không có thời gian để lập và thực hiện một kế hoạch khác, giữ
nguyên kết quả bỏ phiếu. Phán quyết của tòa đã bị những người ủng hộ của
Gore phản đối mạnh mẽ. Họ coi đây là quyết định thiên vị về chình trị dành cho Đảng Cộng hòa, nhưng cuộc kiểm phiếu lại đã kết thúc và George Bush đã
tuyên bố chiến thắng tại Florida với số phiếu chênh lệch là 537. Ở khắp cả nước, Bush giành được 271 phiếu đại cử tri so với 266 phiếu của Al Gore, nhưng Gore
đã giành được nhiều hơn khoảng 540.000 phiếu phổ thông.
Mặc dù thất vọng đến cay đắng, song Phó Tổng thống Gore đã chấp nhận kết quả và kêu gọi những người ủng hộ ông tôn trọng phán quyết của Tòa án Tối
cao ví lợi ìch quốc gia. Một số hạ nghị sỹ đã phản đối kết quả khi Quốc hội nhóm họp để kiểm phiếu đại cử tri ngày 6/1/2001, nhưng họ lại thiếu những
người bảo trợ tại Thượng viện và không được Gore cho phép. Lúc đó, với tư cách là Phó Tổng thống, Al Gore là người điều hành phiên họp tại Hạ viện. Ông
Bush được nhậm chức ngày 20/1, vị tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên sau hơn một
thế kỷ đã không giành được đa số phiếu phổ thông.
Các quan điểm trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ hay chính sách hoặc phát hiện của Cơ quan Nghiên cứu Phục vụ Quốc hội Hoa Kỳ.
- 32 -
Cải cách cử tri đoàn? Không đơn giản như vậy David Lublin
Tòa án Tối cao quyết định tạm dừng việc tái kiểm phiếu ở bang Florida, điều này về bản chất đã quyết định chiến thắng nghiêng về phía Bush trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm 2000 giữa Bush và Gore.
Cải cách hệ thống cử tri đoàn trong bầu cử tổng thống Mỹ đòi hỏi phải có nhiều nỗ lực và sự đồng thuận, điều này hiện chưa tồn tại.
David Lublin là Giáo sư về chính quyền tại Khoa Hành chính công, trường Đại học Hoa Kỳ ở Washington.
Có thể dễ dàng chỉ ra
những lý do khiến người ta muốn xóa bỏ hệ thống Cử
tri đoàn trong bầu cử tổng thống Mỹ - đặc biệt là ví hệ
thống này đôi khi đã dẫn tới
việc lựa chọn ra ứng cử viên có số phiếu thấp hơn trong
cuộc phổ thông đầu phiếu trên phạm vi toàn quốc.
Nhưng việc chỉ rõ cách thức
thay thế hệ thống này thí lại không hoàn toàn đơn giản.
Một lý do khiến cho hệ thống Cử tri đoàn dường
như không thể bị thay thế là
bởi ví rất khó có thể sửa đổi Hiến pháp Hoa Kỳ. Điều này trước tiên đòi hỏi Quốc hội Mỹ phải thông qua đề
xuất sửa đổi với tỷ lệ đồng ý là hai phần ba ở cả Hạ viện và Thượng viện; sau đó ba phần tư tổng số các bang phải phê chuẩn đề xuất này. Hiến pháp Hoa Kỳ
mới chỉ được sửa đổi 27 lần kể từ khi nó được thông qua vào năm 1787. Trong đó bao gồm cả 10 lần sửa đổi Hiến pháp đầu tiên - vẫn được biết với cái tên
Tuyên ngôn Nhân quyền, được thông qua một thời gian ngắn sau khi bản Hiến
pháp đầu tiên được phê chuẩn.
Nếu không có sự đồng thuận thí dù được ủng hộ đến mấy đi chăng nữa, việc
xóa bỏ hệ thống Cử tri đoàn sẽ phải vượt qua vô vàn rào cản để được phê
Tòa án Tối cao quyết định tạm dừng việc tái kiểm phiếu ở bang Florida, điều này về bản chất đã quyết định chiến thắng nghiêng về phía Bush trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm 2000 giữa Bush và Gore
- 33 -
chuẩn. Sự đồng thuận như vậy để loại bỏ hệ thống Cử tri đoàn lại chưa bao giờ
có được. Nhiều đảng viên đảng Dân chủ nghĩ rằng thất bại của ứng cử viên tổng thống của đảng mính trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 đã chỉ ra tình cấp
bách của cải cách, nhưng nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa lại cho rằng những nỗ lực nhằm thay đổi hệ thống này chỉ là một nỗ lực làm mất đi danh tiếng
chiến thắng của ứng cử viên thuộc đảng của họ. Mặc dù vẫn có sự ủng hộ từ
phìa một số thành viên khác trong đảng, song vẫn chưa có sự đồng thuận thực sự ủng hộ cho cải cách.
Bên cạnh đó, nhiều bang cũng có hàng loạt lý do để phản đối việc phê chuẩn này. Các bang nhỏ thấy rằng tỷ lệ phiếu cử tri của mỗi bang là chưa hợp lý ví tỷ
lệ này được chia theo tổng số thượng nghị sĩ mà bang đó có – luôn là con số hai - cộng với số lượng đại biểu Hạ viện được bang đó bầu ra – ìt nhất là một, bất
kể tổng số dân cư của bang. Các bang có tỷ lệ phiếu bầu cạnh tranh nhau, vì dụ
như Florida và Ohio tại cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, 2004 và 2008, luôn nhận được sự quan tâm chú ý hơn từ phìa các ứng cử viên ví phiếu đại cử tri
được phân bổ theo phương pháp “người thắng được tất cả” ở các bang, trừ hai bang là Maine và Nebraska. Phe phản đối hệ thống cử tri đoàn thí cho rằng khìa
cạnh này của luật pháp là một bất cập lớn, nhưng các bang chưa có thái độ cụ
thể thí lại chưa sẵn sàng từ bỏ sự quan tâm chú ý nhiều hơn của các ứng cử viên tổng thống mà hiện họ đang được hưởng. Nhiều người ủng hộ thực tế rằng
hệ thống Cử tri đoàn phản ánh bản chất liên bang của Hoa Kỳ và phản đối mọi
Bầu phiếu phổ thông trực tiếp trong các cuộc tranh cử tổng thống là đề tài của nhiều cuộc tranh luận gay gắt có liên quan đến việc tái kiểm phiếu, giống như trường hợp bang Florida năm 2000. Những nhân viên phân tích số liệu trên máy tình này đang kiểm lại phiếu vào ngày 8 tháng 12 năm 2000, ở Fort Lauderdale, bang Florida.
- 34 -
nỗ lực nhằm xóa bỏ hệ thống này ví họ coi việc xóa bỏ hệ thống Cử tri đoàn
giống như là một hành vi tấn công chế độ liên bang và làm tổn thương quyền lực của các bang.
Hiệp ước phổ thông đầu phiếu
Một số người ủng hộ cải cách hệ thống Cử tri đoàn đang đưa ra đề xuất sửa đổi
quy trính trên phạm vi quốc gia thông qua một bản hiệp ước giữa các bang,
trong đó đảm bảo để người thắng cuộc trong đợt phổ thông đầu phiếu trở thành tổng thống. Những người đề xuất Hiệp ước phổ thông đầu phiếu trên
phạm vi toàn quốc này đề nghị các bang có đa số phiếu cử tri đoàn phải đồng ý thống nhất bỏ phiếu cho ứng cử viên tổng thống đã thắng cử trong cuộc phổ
thông đầu phiếu, dù ứng cử viên đó thắng hay thua tại các bang này. Việc tiến
hành cải cách thông qua hiệp ước giữa các bang có vẻ dễ hơn rất nhiều so với việc tiến hành cải cách thông qua sửa đổi hiến pháp. Cần phải có 38 bang phê
chuẩn sửa đổi hiến pháp, trong khi chỉ cần có 11 bang đông dân nhất đồng ý là có thể khiến cho hiệp ước chung này có hiệu lực.
Phương án này có vẻ như là một giải pháp thông minh nhưng nó cũng đặt ra những khó khăn mới. Ở Hoa Kỳ, bầu cử tổng thống không chỉ là một cuộc bầu
cử quốc gia đơn thuần mà là một cuộc tranh đấu tại 50 bang cộng với quận Co-
lombia (thủ đô Washington của Hoa Kỳ). Ví mỗi bang sẽ quyết định ứng viên tổng thống và phó tổng thống thông qua hệ thống bỏ phiếu kìn của mính, nên
sẽ có các cặp ứng viên khác nhau xuất hiện qua bỏ phiếu kìn tại các bang khác nhau. Ngay cả nếu có hiệp ước chung, người dân Hoa Kỳ cũng không có một
cuộc bầu cử thực sự trên phạm vi quốc gia, trong đó mỗi cử tri đều có chung
các ứng viên để lựa chọn.
Các ứng cử viên tổng thống cũng có một cuộc tranh cử khác vào chức phó tổng
thống tại các bang khác nhau. Hiệp ước được đề xuất trên đây đòi hỏi mỗi lá phiếu bầu cho chức tổng thống hoặc phó tổng thống tại mỗi bang phải được
tình trên tổng số ứng viên bất kể ứng viên phó tổng thống có xuất hiện một cách trùng lặp trong cuộc bầu phiếu hay không. Vì dụ như, ứng viên phó tổng
thống thuộc đảng thứ ba Ralph Nader đã không xuất hiện trong lần bỏ phiếu kìn
năm 2004 ở California. Tuy nhiên, tất cả các lá phiếu đã bầu cho Ralph Nader ở California có thể được tình cho Nader không chỉ ở cuộc tổng bầu phiếu trên toàn
quốc mà còn cho cuộc chạy đua của ông vào chức phó tổng thống, mặc dù thậm chì ứng viên phó tổng thống này không xuất hiện trong cuộc phổ thông
đầu phiếu - một giải pháp không hoàn hảo trong trường hợp này.
- 35 -
Một vài câu hỏi chưa có lời giải
Cuộc đua sát nút cho chiếc ghế tổng thống giữa ứng cử viên đảng Cộng hòa George W. Bush và ứng cử viên đảng Dân chủ Al Gore ở Florida năm 2000 và
tác động của nó đã làm dấy lên lời kêu gọi cải cách hệ thống Cử tri đoàn. Trớ trêu thay, một cuộc phổ thông đầu phiếu trên phạm vi toàn quốc cũng lại đặt ra
những vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Hiện không có cơ chế nào – và Hiệp ước phổ thông đầu phiếu toàn quốc đã đề xuất trên đây cũng chưa đưa ra được cơ chế - phân định thắng thua trong cuộc
đua tranh trên phạm vi toàn quốc. Tất cả các bộ luật hiện hành về tái kiểm phiếu đều cho phép thực hiện tái kiểm phiếu trong trường hợp kết quả kiểm
phiếu lần đầu là sát nút nhưng điều này chỉ được áp dụng nếu có kết quả sát
nút trong phạm vi một bang; không bắt buộc phải tiến hành tái kiểm phiếu nếu đó là cuộc bầu cử có kết quả kiểm phiếu sát nút trên phạm vi toàn quốc. Hơn
nữa, cho dù các phương tiện thông tin đại chúng và cả hai đảng chình trị chiếm đa số có theo dõi chặt chẽ đến mấy hoạt động tái kiểm phiếu trong một bang
giống như năm 2000, thí họ cũng khó có thể làm như vậy nếu việc tái kiểm phiếu diễn ra trên toàn quốc. Nếu như rất ìt cơ hội để có một cuộc bầu cử có
kết quả kiểm phiếu sìt sao trên phạm vi toàn quốc thí những chuẩn mực để cấu
thành nên một cuộc bầu cử như vậy lại càng hiếm hoi hơn.
Việc làm thế nào để cưỡng chế thực hiện một Hiệp ước chung giữa các bang,
trong đó quy định cách thức các bang bỏ phiếu Đại Cử tri, cũng là một câu hỏi chưa có lời giải. Hiến pháp Hoa Kỳ đã trao cho cơ quan lập pháp bang quyền
quyết định cách thức bỏ phiếu Cử tri đoàn. Mặc dù hiệp ước chung có thể ngăn
cấm việc rút khỏi hiệp ước trong 6 tháng diễn ra tuyển cử, song điều khoản này còn lâu mới được cưỡng chế thực hiện một cách hợp pháp trong thực tế. Hiệp
ước này không có các điều khoản dự phòng nếu các bang rút khỏi hiệp ước và tòa án thí không cấm họ làm như vậy.
Những quan ngại này dường như rất nhỏ và không quá khó giải quyết về mặt kỹ thuật, song cuộc bầu cử năm 2000 đã chỉ ra tầm quan trọng của những chi tiết
pháp lý và sự cần thiết phải luôn ở tư thế sẵn sàng khi có một cuộc bầu cử có
kết quả kiểm phiếu sát sao. Rốt cuộc, cuộc phổ thông đầu phiếu trên phạm vi toàn quốc cho chiếc ghế tổng thống có thể tồn tại nhưng đòi hỏi phải được lên
kế hoạch trước một cách cẩn trọng ở cấp liên bang và có được sự đồng thuận lớn hơn mức đồng thuận hiện có.
Những quan điểm bày tỏ trong bài báo này không nhất thiết phản ánh quan điểm hoặc chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.
- 36 -
Các hệ thống bầu cử trên thế giới Andrew Ellis
Hệ thống Cử tri đoàn của Hoa Kỳ có những đặc tính tương tự với những hệ thống bầu cử khác trên thế giới nhưng được phối hợp theo một cách riêng.
Andrew Ellis là Giám đốc điều hành của Viện nghiên cứu quốc tế về Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử (International IDEA) ở Stockholm, Thụy Điển.
Có nhiều tiêu chì có thể sử dụng để đánh giá các hệ thống bầu cử. Vì dụ như cách thức lựa chọn đại biểu Hạ viện, tình bền vững, tình hiệu quả, trách nhiệm
giải trính của chình phủ và của các cá nhân được lựa chọn thông qua bầu cử, sự động viên của các đảng chính trị mạnh, và việc thúc đẩy quan điểm đối lập và
giám sát về lập pháp. Nhưng không có hệ thống bầu cử nào lại có thể tối đa
hóa được tất cả những yếu tố kể trên.
Trong quá trính xây dựng các khuôn khổ thể chế, vấn đề phải đặt ra bởi bất kỳ
xã hội nào là việc xác định những tiêu chì nào là quan trọng – và tại sao. Tùy vào từng câu trả lời để có những thiết kế thể chế phù hợp. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của hệ thống bầu cử lại phụ thuộc vào nhiều đặc tình và vào cách
thức mà mỗi chi tiết trong hệ thống ấy
tương tác lẫn nhau.
Các hệ thống bầu cử khác nhau có thể
tạo ra những ứng viên đắc cử khác nhau từ cùng một cuộc bầu phiếu. Hệ
thống bầu cử tổng thống Mỹ có những
đặc tính riêng rẽ không phải chỉ có ở nước Mỹ nhưng nó lại tỏ ra độc nhất vô
nhị trong cách kết hợp những đặc tình trên.
Những loại hình chủ đạo
Hầu hết các hệ thống bầu cử trên thế giới đều có thể được phân thành ba loại hính chình: các hệ thống bầu cử theo đa số phiếu, các hệ thống bầu cử theo tỷ
lệ đại diện, và các hệ thống hỗn hợp. Tại 199 quốc gia và vùng lãnh thổ được coi là có hệ thống bầu cử có thế nhận biết tình đến thời điểm cuối năm 2004,
thí 91 quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng hệ thống bầu cử theo đa số phiếu
trong các cuộc bầu cử lập pháp, 72 quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng hệ thống
Thị trưởng Paris Bertrand Delanoë đã thắng cử nhờ một Cử tri đoàn bao gồm các thành viên hội đồng thành phố
- 37 -
bầu cử theo tỷ lệ đại diện, và 30 quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng hệ thống
bầu cử hỗn hợp. Hệ thống bầu cử được sử dụng tại 6 quốc gia và vùng lãnh thổ còn lại thí không nằm trong ba loại hính hệ thống trên.
Hính thức thắng cử với đa số tuyệt đối được sử dụng nhiều nhất trong loại hính hệ thống bầu cử theo đa số: nó được sử dụng ở 47 trong số 91 trường hợp nói
trên. Tại các nước đã có nền dân chủ lâu đời thí hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại
diện là hính thức được sử dụng rộng rãi nhất, nhưng việc sử dụng hệ thống thắng cử theo đa số tuyệt đối ở Ấn Độ và Hoa Kỳ cũng đồng nghĩa với việc ngày
càng có nhiều người sống tại các quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng hệ thống này hơn.
Theo định nghĩa thí việc chọn ra một vị tổng thống có nghĩa là sẽ chỉ có một người thắng cử. Hệ thống bầu cử kiểu này thuộc loại hính bầu cử theo đa số
tuyệt đối. Vào cuối năm 2004, có 102 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó người
dân bỏ phiếu để lựa chọn tổng thống. Con số này bao gồm cả những quốc gia có hệ thống bầu cử thuộc một trong hai loại: hệ thống bầu cử tổng thống, trong
đó tổng thống là người đứng đầu nhà nước và cũng là người đứng đầu chính phủ hành pháp trong một nhiệm kỳ nhất định và không cần phải phụ thuộc vào
mức độ tìn nhiệm của cơ quan lập pháp để được đương nhiệm; và hệ thống đại
nghị, trong đó tổng thống là người đứng đầu nhà nước với rất ìt hoặc không có quyền lực quan trọng, chình phủ hành pháp có người đứng đầu là thủ tướng và
người này phải phụ thuộc vào mức độ tìn nhiệm của cơ quan lập pháp.
Trong số 102 quốc gia này, có 78 nước sử dụng hệ thống bầu cử hai vòng. Và
trong số 78 quốc gia này thí 22 quốc gia sử dụng hệ thống bầu cử dựa trên đa số phiếu tuyệt đối; một trường hợp sử dụng hệ thống bỏ phiếu thay thế dựa
vào số lượng cử tri; một trường hợp sử dụng hệ thống bỏ phiếu bổ sung trong
đó cử tri đưa ra lựa chọn thứ nhất và lựa chọn thứ hai của họ. Hệ thống bầu cử dựa trên đa số tuyệt đối là một mô hính phổ biến và được chấp nhận rộng rãi
mặc dù không phải là hính thức được sử dụng phổ biến nhất.
Những hệ thống được sử dụng ở 101 trong số 102 quốc gia bầu cử tổng thống
thí dựa trên tổng số phiếu bầu cho mỗi ứng viên tình trên toàn bộ lãnh thổ. Tuy
nhiên, nước Mỹ là quốc gia duy nhất sử dụng đồng thời cả hệ thống Cử tri đoàn. Số phiếu bầu của mỗi người dân tại mỗi bang và quận Côlômbia được tình riêng
rẽ để chọn ra đại cử tri cho mỗi bang, và tổng thống sẽ được lựa chọn bởi những đại cử tri này. Sự khác biệt trên thực tế của hệ thống này là nó dẫn đến
trường hợp người thắng cuộc trong cuộc bầu cử toàn quốc có thể không được
bầu làm tổng thống. Trên thực tế, điều này đã xảy ra ở 3 trong số 55 cuộc bầu cử tổng thống Mỹ (các năm 1876, 1888 và 2000).
- 38 -
Các cử tri đoàn
Các hệ thống cử tri đoàn cũng thường được sử dụng để bầu cử ở cấp địa phương. Ở Paris, mỗi trong số 20 quận nội thành lựa chọn thành viên hội đồng
thành phố bằng cách sử dụng hệ thống bầu cử hai vòng, trong đó đa số ghế được dành cho đảng chính trị đứng đầu hoặc cho danh sách ứng cử viên của
đảng này, nhưng hệ thống này cũng thường cho phép có danh sách đại diện
đảng thứ hai. Danh sách này nêu tên ứng viên có khả năng trở thành thị trưởng: danh sách ứng cử của thị trưởng đương nhiệm trong cuộc bầu cử năm
2008 có tiêu đề “Paris, đến lúc tiến bước cùng với Bertrand Delanoë”.
Sau khi kết quả được tuyên bố, các thành viên mới của hội đồng thành phố Par-
is sẽ nhóm họp với nhau và bỏ phiếu để bầu thị trưởng. Cần phải có số phiếu
chiếm đa số tuyệt đối để được ngồi vào chiếc ghế thị trưởng trong vòng bỏ phiếu thứ nhất hoặc thứ hai. Nếu phải bỏ phiếu lần thứ ba, thị trưởng sẽ được
lựa chọn khi có được đa số phiếu cao nhất.
Như vậy, các thành viên hội đồng thành phố cũng tạo thành một cử tri đoàn.
Tuy nhiên, đặc điểm quan trọng của cử tri đoàn này là thành viên hội đồng thành phố cũng là một hính thức cơ quan lập pháp trong suốt thời gian đương
chức của thị trưởng. Việc lựa chọn thị trưởng thông qua các nhà lập pháp có
mục đìch tối đa hóa khả năng thị trưởng ủng hộ cho hầu hết tiến trính lập pháp của thành phố trong thời gian đương nhiệm. Ngược lại, các đại cử tri trong bầu
cử tổng thống Mỹ chỉ có vai trò trong cuộc bầu cử mà không có chức năng nào khác, và không có mối liên kết nào giữa tổng thống và các đại biểu quốc hội
được tạo nên qua hệ thống bầu cử này.
Trong khi tranh luận về cử tri đoàn, nhiều tác giả đã gộp cả Estonia, Ấn Độ, Su-rinam, Trinidat và Tobago - những nước mà người đứng đầu nhà nước trong
một hệ thống nghị viện được lựa chọn bởi thành viên của cả Thượng và Hạ viện của cơ quan lập pháp, hoặc bởi một tập hợp các đại diện được lựa chọn ở cấp
quốc gia và địa phương. Tại những nước này, cử tri lập pháp lựa chọn các đại biểu lập pháp của họ và các ứng viên cho chức tổng thống không xuất hiện
trong cuộc bầu cử toàn quốc hay thành phố. Các hệ thống này có thể được mô
tả chình xác nhất là những hệ thống bầu cử gián tiếp hơn là những hệ thống bầu cử sử dụng cử tri đoàn.
Những quan điểm bày tỏ trong bài báo này không nhất thiết phản ánh quan điểm hoặc chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.
- 39 -
Cử tri đoàn: Cái nhìn từ nước Pháp André Kaspi
Hệ thống bầu cử của Hoa Kỳ có vẻ như bí ẩn đối với người Pháp nhưng một số thành tố trong hệ thống chính trị của hai quốc gia này được đánh giá là khá tương đồng.
André Kaspi là Giáo sư về lịch sử Bắc Mỹ, trường Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne. Bài viết này được dịch sang tiếng Anh từ nguyên bản tiếng Pháp.
Liệu người Pháp có hiểu được quy cách vận hành của hệ thống Cử tri đoàn tại nước Mỹ hay không? Không có câu trả lời chắc chắn cho câu hỏi này.
Từ năm 1962, cả ở nước Pháp và nước Mỹ, người dân bắt đầu lựa chọn tổng thống của đất nước cộng hòa và cả hai nền dân chủ này đều thực hiện điều đó thông qua phổ thông đầu phiếu. Tuy nhiên, trên thực tế, người Pháp thìch bầu cử trực tiếp hơn - một quy trính bầu cử hai vòng, trong đó, bất kỳ công dân nào cũng có thể trở thành ứng viên tổng thống nếu người đó thu thập được đủ 1000 chữ ký ủng hộ. Vòng bầu cử đầu tiên cho phép ứng cử viên định vị được vị trì của mính trên đường đua; chỉ có hai ứng viên có số phiếu cao nhất được quyền bước tiếp vào vòng đua thứ hai, được tiến hành sau khi có kết quả của vòng đua thứ nhất hai tuần.
Điều này có nghĩa là khi cuộc bầu cử kết thúc thì người đắc cử phải có một đa số phiếu tuyệt đối. Người Pháp tin rằng hệ thống của họ là tương đối đơn giản; nó là hệ thống mở đủ để không loại trừ một ai nhưng đủ chặt chẽ để chỉ cho phép những ứng viên thực sự nghiêm túc tham gia tranh cử - những người có khả năng xây dựng đời sống chình trị tốt.
Người Mỹ thí lại làm theo cách khác. Mỗi trong số 50 bang và quận Côlômbia thực hiện bầu cử riêng tại địa hạt bầu cử của họ ngay cả khi vào thời điểm kết thúc ngày bầu cử, tất cả các bang nhận ra rằng trên thực tế những quy tắc và thủ tục bầu cử mà họ đã áp dụng hầu như giống hệt nhau. Mỗi bang, thông qua phổ thông đầu phiếu, lựa chọn ra một danh sách đại cử tri, mỗi đại cử tri đại diện cho một ứng cử viên. Số lượng đại cử tri trong danh sách này tương ứng với tổng số
Các ứng cử viên đảng xã hội Pháp Dominique Strauss-Kahn, Laurent Fabius và Segolene tham gia vào cuộc tranh luận bầu cử sơ bộ.
- 40 -
thượng nghị sĩ Hoa Kỳ (luôn là hai) và tổng số đại biểu Hạ viện Hoa Kỳ của bang đó - phụ thuộc vào quy mô dân số của bang. Ở tất cả các bang tại Hoa Kỳ ngoài hai trường hợp đặc biệt, danh sách này ủng hộ cho ứng viên chiếm số phiếu đa số tương đối hoặc tuyệt đối trong số phiếu của các đại cử tri mà bang đã bầu ra (ứng viên được Cử tri đoàn ủng hộ là ứng viên được đa số đại cử tri lựa chọn).
Cuộc bầu cử tổng thống - một sự kiện xảy ra 4 năm một lần - diễn ra vào ngày thứ Ba tiếp theo ngày thứ Hai đầu tiên của tháng 11. Trong tháng 12, cử tri đoàn bao gồm các đại cử tri của mỗi bang bắt đầu lựa chọn tổng thống và phó tổng thống Hoa Kỳ dựa trên nguyên tắc đa số tuyệt đối.
Hệ thống bầu cử hai bước này đã cân nhắc đến cả yếu tố nhân khẩu học của Hoa Kỳ và yếu tố công bằng chình trị giữa các bang trong Hợp chủng quốc - một thực tế rất đáng kinh ngạc trong con mắt người Pháp.
Bầu cử Liên bang chứ không phải bầu cử tập trung
Chúng ta quên rằng nước Mỹ không phải là một nước cộng hòa tập trung như nước Pháp. Các bang thuộc Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đều có lịch sử riêng, có đời sống hiến pháp và xã hội riêng của họ. Họ cũng kiên quyết duy trí ảnh hưởng độc lập của mính. Một số bang có diện tìch nhỏ hoặc dân cư thưa thớt; một số khác thí lại rất đông dân cư.
Các bang này bính đẳng với nhau theo một nghĩa nào đó, nhưng rõ ràng là – vì những lý do nhân khẩu học và kinh tế – một số bang được bính đẳng hơn so với những bang khác. Đây là lý do tại sao hệ thống bầu cử của Hoa Kỳ lại phức tạp đến như vậy. Điều này cũng giải thích sự bất bình thường khi một ứng viên tổng thống có thể chiếm đa số phiếu trong cuộc đợt phổ thông đầu phiếu trong khi được ít phiếu đại cử tri hơn so với đối thủ của mình. Năm 2000, George W. Bush đã đắc cử tổng thống mặc dù Al Gore có nhiều hơn 500.000 phiếu bầu phổ thông so với Bush. Ở Pháp, dân chúng đã cực kỳ ngạc nhiên nếu không nói là phẫn nộ trước hiện tượng này.
Tuy nhiên, hầu hết người dân Mỹ dường như không muốn thay đổi hệ thống bầu cử của họ cho giống với hệ thống bầu cử của người Pháp hơn, mặc dù lâu nay ý tưởng cải cách luôn nóng hổi. Nhiều nhà khoa học chình trị kêu gọi cải cách hệ thống sao cho gần hơn hệ thống bầu cử của người Pháp mặc dù nhiều đồng bào của họ không nghĩ như vậy ví mỗi bang vẫn muốn duy trí ảnh hưởng của riêng
Việc sử dụng các đại cử tri để bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, vì dụ như các đại cử tri này của bang Ohio năm 2004, có lẽ sẽ còn tồn tại trong một thời gian lâu nữa
- 41 -
mính. Trong mỗi bang, các dân tộc thiểu số, các tộc người và mỗi cộng đồng tôn giáo đều hăm hở góp tiếng nói của mính vào kết quả bầu cử và họ sẽ không thể làm như vậy nữa nếu tiếng nói của họ bị mất đi trong một hệ thống bầu cử toàn quốc duy nhất.
Ngoài ra, nước Pháp và nước Mỹ cũng định nghĩa khác nhau về quyền công dân. Nền dân chủ Mỹ là một nền dân chủ đa văn hóa; bỏ phiếu theo khối văn hóa chiếm một vị trì quan trọng trong đời sống chình trị Mỹ và chỉ có thể gây ảnh hưởng trong bối cảnh của các bang riêng rẽ. Ví vậy, mặc dù hệ thống bầu cử này đã được phát minh ra từ thế kỷ 18 và một vài người vẫn mơ đến việc sửa đổi hiến pháp liên bang, song sự tồn tại của hệ thống Cử tri đoàn vẫn không hề bị đe dọa. Thể chế đặc biệt này có lịch sử riêng của nó và vẫn còn có sức sống dai dẳng trong tương lai.
Thu hẹp một vài khoảng cách
Tuy nhiên, vòng bầu cử phổ thông trong hệ thống bầu cử của Hoa Kỳ cũng giống như vòng bầu cử thứ nhất ở Pháp, ví đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ đều bỏ phiếu để loại bỏ những ứng viên không có khả năng tiến xa. Vào ngày Lễ Lao động của nước Mỹ trong tháng 9, chỉ còn hai ứng viên chiếm đa số phiếu của hai đảng lớn nhất tiếp tục đi vào vòng hai, còn những ứng viên khác thì dừng lại với vai trò không đáng kể, trừ khi họ có vị thế ảnh hưởng tới kết quả bầu cử phạm vi hẹp hơn giữa các bang.
Người Pháp thí dè dặt hơn trong việc tổ chức bầu cử lần đầu để chọn ứng viên cho Đảng trong cuộc bầu cử sau đó. Và mặc dù những cuộc bầu cử vòng thứ nhất hiện vẫn chưa được tổ chức một cách có hệ thống song bằng cách này hay cách khác, chúng đã giúp xếp loại ứng viên của mỗi đảng chình trị. Vì dụ như, trong năm 2006, đảng Xã hội có ba ứng viên và các thành viên đảng Xã hội đã lựa chọn một trong số đó - Segolène Royal - để đại diện cho họ. Tương tự như vậy, và mặc dù Liên minh Phong trào Nhân dân (UPM) đã chọn một con đường khác song các thành viên của đảng này cũng phải chọn ra một trong số hai ứng viên chình. Đối với người Pháp, không có gí phải phàn nàn nếu quy trính bầu cử này vẫn tiếp tục được mở rộng, áp dụng và triển khai trong các cuộc bầu cử tổng thống sau này.
Phương thức lựa chọn tổng thống, dù là ở Pháp hay ở Mỹ, phản ánh nền tảng văn hóa sâu xa nhất của quốc gia đó. Dù đáng tiếc nhưng quả thực là không điều gí có thể giả tạo hơn khi áp đặt cho quốc gia này hệ thống vận hành tốt ở một quốc gia khác.
Những quan điểm bày tỏ trong bài báo này không nhất thiết phản ánh quan điểm hoặc chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.
- 42 -
Bên kia Đại Tây Dương, nhiều điểm tương đồng đáng kinh ngạc
Philip John Davies
Hệ thống bầu cử của Mỹ và Anh tương đối khác biệt nhưng đôi khi chúng lại tạo ra những kết quả tương đồng một cách kỳ quặc.
Philip John Davies là Giáo sư về nghiên cứu châu Mỹ tại trường Đại học De Montfort, Leicester, và là Giám đốc Trung tâm Eccles về nghiên cứu Châu Mỹ thuộc Thư viện Anh quốc, Luân-đôn, nước Anh.
Lớp học xuyên Đại Tây Dương tạo ra nhiều cơ hội đặc biệt để học hỏi. Sinh viên Anh quốc đôi khi giật mính khi được nghe giảng rằng các nhà lập pháp ở Mỹ thường chạy đua tranh cử tại những nơi mà chương trính nghị sự cá nhân của các ứng cử viên làm lu mờ cả những thông điệp chình trị của đảng.
Lông mày họ nhướn lên đầy ngạc nhiên khi họ được biết rằng các tổng thống Mỹ, thậm chì ở cùng một đảng chình trị, có thể phải đàm phán một cách khéo léo để được thực hiện một quyết định nào đó và phải thỏa hiệp với cơ quan lập pháp để có được thành công trong buổi thuyết trính với toàn bộ cử tri về các chình sách của mính.
Và các sinh viên này đôi khi cũng nhếch mép khi biết về cấu trúc kỳ lạ của Cử tri đoàn và khả năng xảy ra mới đây khi vòng bầu cử Cử tri đoàn đã loại khỏi cuộc đua ứng viên chiếm đa số phiếu trong cuộc phổ thông đầu phiếu trên phạm vi toàn quốc.
“Các cử tri không thế bảo đảm cho những chình sách mà họ ủng hộ thậm chì ngay cả khi đảng của họ thắng cử! Họ không thể chắc chắn rằng họ sẽ có người lãnh đạo mà phần lớn trong số họ đã bỏ phiếu cho! Đây thật sự có phải là một nền dân chủ hay không?”
Đến lượt mình, sinh viên Mỹ thấy mối hồ nghi của họ tăng lên bởi hệ thống bầu cử của Anh bị thống trị bởi các tuyên ngôn chình trị của đảng và các đặc tình cá nhân của các ứng cử viên thường chỉ có ảnh hưởng không lớn tới kết quả bầu cử. Mức độ kiểm soát chình sách thông qua
Công Đảng của Harold Wilson đã thắng trong cuộc bầu cử năm 1964 với chiến thắng sít sao
- 43 -
cơ quan hành pháp vận hành bên trong cơ quan lập pháp đã khiến những sinh viên này thực sự lo lắng.
Và khi bổ nhiệm thủ tướng, họ có thể vô cùng ngạc nhiên trước sự kết nối mong manh giữa toàn bộ cử tri với quy trính bổ nhiệm.
“Hầu như các cử tri đều không được tham gia vào quá trính lựa chọn thủ tướng! Các đảng có khả năng kiểm soát rộng rãi đối với chương trính nghị sự chình trị! Điều này có thực sự dân chủ hay không?”
Các quan điểm khác nhau về nền dân chủ
Trong từ điển ngôn ngữ chình trị, dân chủ là một từ “tụng xưng”. Nhín chung các quốc gia muốn được coi là dân chủ thậm chì ngay cả khi nó giống như các quan hệ công chúng hơn là một thực tế. Trong nửa thế kỷ nước Đức bị chia đôi, chế độ Cộng sản ở phía Đông cũng tự xưng là các nước Dân chủ Cộng hòa.
Nhưng ngay cả khi các quốc gia chấp nhận những đặc tình dân chủ của nhau thí họ vẫn có thể thiết kế hệ thống bầu cử một cách khác nhau. Được nhín qua thấu kình đa văn hóa, các thể chế dân chủ và nền tảng văn hóa lịch sử của chúng dường như đã bị xóa mờ đi và các đường biên giới văn hóa có vẻ như không còn nữa.
Hệ thống bầu cử của nước Anh hướng tới việc tập trung vào cuộc đua giữa các đảng chình trị. Những thay đổi trong quy trính lựa chọn người đứng đầu đảng chính trị trong mấy năm gần đây cũng đề cập đến việc áp dụng những cấu trúc giống như các cử tri đoàn. Các cử tri đoàn này có mục đìch đảm bảo số lượng đại diện cân đối giữa các nhóm trong các đảng chình trị; và hẳn nhiên họ đã tiếp thu bài học nào đó từ nước Mỹ, nhưng họ không xây dựng các nguyên tắc liên bang giống như những nguyên tắc nòng cốt của hệ thống Cử tri đoàn ở Hoa Kỳ.
Dù có những điểm khác biệt này, tiến trính bầu cử lấy các đảng chình trị làm nòng cốt để lựa chọn thủ tướng Anh quốc vẫn có đôi chỗ tương đồng với tiến trính bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ.
Kết quả bầu cử có nhiều điểm giống nhau. Cử tri đoàn ở Hoa Kỳ tạo ra cơ hội tiềm tàng để ứng viên không có đa số phiếu trong vòng phổ thông đầu phiếu có thể đắc cử sau khi dành đa số phiếu bầu của các đại cử tri. Điều này không có gí
George W. Bush tuyên thệ nhậm chức ngày 20 tháng 1 năm 2001, sau khi nhận được ít phiếu bầu hơn so với đối thủ trong vòng phổ thông đầu phiếu
- 44 -
khó hiểu đối với người Anh, khi mà không có cuộc bầu cử nào trong số 17 cuộc bầu cử ở nước Anh tình từ sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới Thứ hai lại có đảng thắng cử là đảng chiếm đa số phiếu bầu trong vòng phổ thông đầu phiếu. Đảng Bảo thủ năm 1955 đã có kết quả sát sao nhất là 49,7% phiếu bầu phổ thông. Nhưng trong bảy lần bầu cử sau chiến tranh, đảng thắng cuộc luôn chỉ có ìt hơn 45% phiếu bầu, ba trong số đó chỉ có ìt hơn 40% phiếu bầu phổ thông, sau đó tỷ lệ này tiếp tục giảm xuống còn 35,2% trong cuộc bầu cử năm 2005.
Tầm quan trọng của những con số nhỏ
Người thắng cuộc trong vòng bầu cử Cử tri đoàn ở nước Mỹ có thể chỉ được ìt phiếu bầu hơn so với đối thủ trong lần phổ thông đầu phiếu trên phạm vi toàn quốc. Điều này rất ìt khi xảy ra nhưng cuộc bầu cử năm 2000 đã khiến cho vấn đề này cần được cân nhắc.
Điều tương tự cũng đã xảy ra trong nhiều cuộc tổng tuyển cử ở nước Anh. Năm 1951, Công đảng đã nhận được nhiều hơn 1% phiếu bầu phổ thông so với đảng Bảo thủ và liên minh của đảng này, nhưng cuối cùng lại nhận được ìt hơn 4% số ghế trong vòng bầu cử thứ hai. Vào tháng 2 năm 1974, đảng Bảo thủ đã chiếm đa số phiếu trong vòng bầu cử phổ thông nhưng đảng Lao động lại chiếm được nhiều ghế hơn trong vòng bầu cử cuối cùng. Mặc dù các đảng khác đã có đủ số ghế để cân bằng quyền lực song Công Đảng vẫn thành lập một chình quyền thiểu số.
Cuộc bầu cử năm 2000 ở Hoa Kỳ đã làm nổi bật tầm quan trọng của những con số nhỏ nhoi trong những lá phiếu bầu ở các bang quan trọng sau khi kết quả kiểm phiếu tỏ ra không nghiêng hẳn về bên nào trong nhiều tuần ở Florida.
Một lần nữa, có thể thấy nước Anh cũng có nhiều điểm tương đồng trong hiện tượng này. Năm 1964, Công Đảng chiếm 317 trong số 630 ghế, giành đa số tuyệt đối với 4 ghế nhiều hơn so với tất cả các đảng khác. Một khu vực cử tri tại đó Công đảng đã thắng chỉ với 7 lá phiếu và ba ứng viên các đảng khác trong cùng một cuộc bầu cử cũng đã giành chiến thắng quyết định chỉ với 10, 11 và 14 lá phiếu.
Không nghi ngờ gí nữa, các nhà quan sát ở nhiều quốc gia chắc chắn sẽ tiếp tục nhín thấy viễn cảnh của nền dân chủ được mở rộng khi họ nhín xuyên qua các đường biên giới. Sự khác biệt là một thực tế có thể gây sửng sốt, song nó lại là nền tảng để từ đó những quan niệm mới sẽ nổi lên. Đừng bao giờ ngừng quan sát những đặc tình thú vị của những nền văn hóa chình trị khác và thông qua chúng, có thể nhận ra những đặc tình thú vị ở ngay chình quốc gia mính.
Những quan điểm bày tỏ trong bài báo này không nhất thiết phản ánh quan điểm hoặc chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.
- 45 -
TÀI LIỆU ĐỌC THÊM Sách báo, tạp chí và các trang web về Cử tri đoàn
Sách báo và tạp chí
Baker, Ross K., and Jamie Raskin. "Has the Electoral College Outlived Its Useful-ness?" eJournal USA: The Long Campaign: U.S. Elections 2008, (October 2007): pp. 40-45.
http://usinfo.state.gov/journals/itdhr/1007/ijde/usefulness.htm
Bennett, Robert W. Taming the Electoral College. Stanford, CA: Stanford Law and Poli-tics, 2006.
Best, Judith. The Choice of the People? Debating the Electoral College. Lanham, MD: Rowman and Littlefield, 1996.
Bonsor, Kevin. "How the Electoral College Works." http://www.howstuffworks.com/electoral-college.htm
Colomer, Josep, ed. Handbook of Electoral System Choice. New York: Palgrave Macmil-lan, 2004.
Debating the Merits of the Electoral College. National Public Radio (27 October 2004). http://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=4127863
Edwards, George C. Why the Electoral College Is Bad for America. New Haven, CT:
Yale University Press, 2004.
Fortier, John C., ed. After the People Vote: A Guide to the Electoral College. Washing-ton, DC: AEI Press, 2004.
Frey, William H. "The Electoral College Moves to the Sun Belt." The Brookings Institu-tion Research Brief. Washington, DC: The Brookings Institution, May 2005. http://www.brookings.edu/metro/20050505_Frey.pdf
Glenn, Gary. “Contemporary Perspectives: The Electoral College and the Development of American Democracy.” Perspectives on Political Science, vol. 32, no. 1 (Winter 2003); p.4.
Greenfield, Jeff. The People's Choice. New York: Plume, 1996.
Gregg, Gary L. Securing Democracy: Why We Have an Electoral College. Wilmington, DE: ISI Books, 2001.
Issacharoff, Samuel. “Law, Rules, and Presidential Selection.” Political Science Quar-terly, vol. 120, no. 1 (Spring 2005): p. 113.
- 46 -
Kura, Alexandrea, ed. Electoral College and Presidential Elections. Huntington, NY:
Nova Science Publishers, 2001.
Longley, Lawrence D. The Electoral College Primer, 2000. New Haven, CT: Yale Uni-versity Press, 1999.
Neale, Thomas H. The Electoral College: How It Works in Contemporary Presidential Elections. Washington, DC: Congressional Research Service, 2004. http://fpc.state.gov/documents/organization/36762.pdf
Neale, Thomas H. The Electoral College: Reform Proposals in the 109th Congress. Washington, DC: Congressional Research Service, 2007. http://fpc.state.gov/documents/organization/82468.pdf
Rakove, Jack N. “Presidential Selection: Electoral Fallacies.” Political Science Quarterly, vol.. 119, no. 1 (Spring 2004): p. 21.
Reynolds, Andrew, Ben Reilly, and Andrew Ellis. Electoral System Design: The New International IDEA Handbook. Stockholm: International IDEA, 2005. http://www.idea.int/publications/esd/index.cfm#toc
Ross, Tara. Enlightened Democracy: The Case for the Electoral College. Dallas, TX: Co-lonial Press, 2004.
Schumaker, Paul D., ed. Choosing a President: The Electoral College and Beyond. New York: Chatham House Publishers, 2002.
Shaw, Daron R. The Race to 270: The Electoral College and the Campaign Strategies of 2000 and 2004. Chicago: University of Chicago Press, 2006.
Should the Electoral College Count? Washington Post Newspaper in Education Pro-gram (23 November 2004). http://www.washpost.com/nielessonplans.nsf/0/B08521CC22F805E085256F5B00547D90/$File/ElectoralCollege.pdf
Thompson, Dennis. Just Elections: Creating a Fair Electoral Process in the U.S. Chica-go: University of Chicago Press, 2002.
Turner, Robert C. “The Contemporary Presidency: Do Nebraska and Maine Have the Right Idea? The Political and Partisan Implications of the District System.” Presidential Studies Quarterly, vol. 35, no. 1 (March 2005): p. 116.
Wagner, David S. “The Forgotten Avenue of Reform: The Role of States in Electoral College Reform and the Use of Ballot Initiatives to Effect That Change.” The Review of Litigation, vol. 25, no. 3 (Summer 2006): p. 575.
- 47 -
Trang Web
270towin.com http://www.270towin.com/
About America: The Constitution of the United States of America With Explan-atory Notes. Adapted from The World Book Encyclopedia © 2004, World Book, Inc. http://www.america.gov/publications/books/the-constitution.html
The Electoral College
http://www.fairvote.org/e_college/?page=964
Electoral College Prediction Map http://www.washingtonpost.com/wp-srv/politics/interactives/campaign08/electoral-college/
National Popular Vote http://www.nationalpopularvote.com/
An Online Symposium on Recent Proposals for Electoral College Reform http://www.michiganlawreview.org/firstimpressions/vol106/electoral.htm
U.S. National Archives: Electoral College Calculator http://www.archives.gov/federal-register/electoral-college/calculator.html
U.S. National Archives: U.S. Electoral College http://www.archives.gov/federal-register/electoral-college/
Who Really Elects the President?
http://www.loc.gov/wiseguide/oct04/election.html
Video
The Electoral College in U.S. Elections http://www.america.gov/multimedia/video.html?videoId=1691067575
Everything You Wanted to Know About the Electoral College But Were Afraid to Ask http://www.americanpressinstitute.org/pages/resources/2004/10/everything_you_wanted_to_know/
Swing States in U.S. Elections http://www.america.gov/multimedia/video.html?videoId=1691067637
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ không chịu trách nhiệm về nội dung và sự tồn tại của các nguồn tin trên. Tất cả các trang web này đều đang hoạt động vào tháng 9/2008
- 48 -
Trung tâm Hoa Kỳ Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ
Tầng 1, Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội
Tel: (04) 3850-5000; Fax: (04) 3850-5048; Email: [email protected] http://vietnam.usembassy.gov