cơ sở ngôn ngữ học và tiếng việt (word) -...
TRANSCRIPT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
(Tái bản lần thứ năm)
Tác giả: MAI NGỌC CHỪ
- VŨ ĐỨC NGHIỆU - HOÀNG TRỌNG PHIẾN
LỜI NÓI ĐẦU
Theo chương trình đào tạo năm năm, chia hai giai đoạn, giáo trình "Cơ
sở ngôn ngữ học và tiếng Việt được giảng cho sinh viên các ngành khoa học
xã hội và nhân vân năm thứ nhất và thứ hai của giai đoạn đầu.
Giáo trình này nhằm giới thiệu một cách giản dị và có hệ thống những
khái niệm cơ bản, mở đầu của ngôn ngữ học và tiếng Việt. Trên cơ sở đó,
sinh viên sẽ từ chỗ biết để rồi tiến tới hiểu những kiến thức sâu rộng hơn của
khoa học về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng, được trình bày trong
các giáo trình nâng cao ở giai đoạn sau.
Do vậy, giáo trình này không phải là giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học
như vẫn thường gặp; nhưng cững chưa phải là giáo trình mang tính cách
chuyên sâu của chuyên ngành hẹp. Nó không đi vào những phân tích, lí giải
hoặc tranh biện phức tạp, đa tuyến, mà chỉ cố gắng trình bày một hệ thống,
một cách hiểu. Mặt khác, có những vấn đề trong giáo trình chỉ nêu ra mà
không trình bày kĩ vì sinh viên có thể tự tìm hiểu trong các tài liệu khác theo
sự hướng dẫn của giáo viên.
Tuy nhiên, người học có thể dùng giáo trình với tư cách một tài liệu
chính thức để thi nhận chứng chỉ cho từng học phần.
Nội dung của giáo trình gồm bốn phần, dự kiến trình bày trong 120 tiết
học. Các chương mục không nhất thiết cân đối về số lượng trang in, mà được
phân phối theo nội dung của vấn đề, và đánh số từ I đến XXIII.
Sau mỗi phần của giáo trình, danh mục tài liệu tham khảo có ghi rõ
những tài liệu phổ biến, dễ dùng và sinh viên cần phải học thêm trong khi học.
Những người soạn thảo giáo trình được phản công như sau:
Phần thứ nhất: Tổng luận
Chương I, II: TS. Vũ Đức Nghiêu và PGS. Hoàng Trọng Phiến.
Chương III, IV: TS. Vũ Đức Nghiệu.
Phần thứ hai: Cơ sở ngứ âm học và ngữ âm tiếng Việt: PGS. Mai Ngọc
Chừ.
Phần thứ ba: Cơ sở từ vựng học và từ vựng tiếng Việt: TS. Vũ Đức
Nghiêu.
Phần thứ tư: Cơ sở ngữ pháp học và ngữ pháp tiếng Việt:
Chương XVIII, XIX, XX: PGS. Mai Ngọc Chừ và PGS. Hoàng Trọng
Phiến. Chương XXI, XXII, XXIII: PGS. Hoàng Trọng Phiến.
Trong khi soạn thảo giáo trình này, chúng tôi đã được các đồng nghiệp
trong và ngoài trường giúp đỡ nhiều. Riêng GS. Diệp Quang Ban đã đóng
góp rất tích cục cho ba chương cuối của phần thứ tư.
Giáo trình này được tái bản là nhờ sự ủng hộ nhiệt tình của Nhà xuất
bản Giáo dục.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tất cả.
Vì cố gắng để kịp đáp ứng nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên nên
giáo trình này được soạn ra, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi chân
thành đề nghị người sử dụng góp ý, phê bình để giáo trình được tốt hơn.
Hà Nội, tháng 6 năm 1997
NHÓM BIÊN SOẠN
QUY ƯỚC TRONG CÁCH TRÌNH BÀY
1. Các chú thích ở cuối trang ứng với những chữ số ghi ở phía trên, đặt
giữa hai ngoặc tròn, ví dụ (1).
2. Tài liệu dẫn trong sách được ghi bằng chữ số, đặt giữa hai ngoặc
vuông, ví dụ [15]: Chữ số này ứng với số được ghi ở mục Tài liệu tham khảo
cuối mỗi phần, ví dụ ở phần II (Cơ sở ngữ âm học và ngữ âm tiếng Việt) số
[15] là tài liệu: Đoàn Thiện Thuật. Ngữ âm tiếng Việt, H., 1980.
3. Dấu ngoặc kép: được dùng để phiên âm các từ hoặc biểu thị các âm
bằng chữ cái thông thường, ví dụ "a", "cam"; dấu ngoặc vuông […] dùng ghi
các âm tố, ví dụ [sistra] và dấu vạch chéo dùng ghi các âm vị, ví dụ /tan/. Kí
hiệu đặt trong hai ngoặc vuông và trong hai vạch chéo là kí hiệu phiên âm
quốc tế.
Phần 1. TỔNG LUẬN
* Bản chất xã hội của ngôn ngữ
* Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ
* Nguồn gốc và diễn tiến của ngôn ngữ
* Phân loại các ngôn ngữ
Chương 1. BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA NGÔN NGỮ
Về mặt thời gian lịch sử, chắc hẳn ngôn ngữ của loài người phải cổ xưa
hơn rất nhiều lần so với ngay cả những huyền thoại xưa cũ nhất. Nó gắn bó
với sự sống của con người như đồ ăn thức uống, như sự thở ra, hít vào…;
đến nỗi dường như không mấy khi mỗi người chúng ta nghĩ tới nó, nghĩ rằng
có một cái gọi là ngôn ngữ tồn tại với mình.
Nhưng rồi có lúc chúng ta tự hỏi: Ngôn ngữ là gì?
Lời giải đáp cho câu hỏi đó không phải chỉ có một và không thể chỉ có
một, bởi vì bản thân ngôn ngữ vốn là một đối tượng hết sức phức tạp và đa
diện.
I. TRƯỚC HẾT, NGÔN NGỮ LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI
1. Nói rằng ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội là bởi vì một sự thật hiển
nhiên: nó không phải là hiện tượng tự nhiên (vốn là những hiện tượng tồn tại
một cách khách quan, không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người)
như sao băng, thủy triều, động đất…
Ngôn ngữ chỉ sinh ra và phát triển trong xã hội loài ngưòi, do ý muốn và
nhu cầu: người ta phải giao tiếp với nhau trong quá trình sống và tồn tại, phát
triển. Bên ngoài xã hội loài người, ngôn ngữ không thể phát sinh. Điều này
được chứng minh qua hai câu chuyện sau đây:
- Chuyện thứ nhất: Theo nhà sử học Hêđồrôt, hoàng đế Zêlan Utđin
Acba đã cho tiến hành một thí nghiệm để xem một đứa trẻ không cần ai dạy
bảo, có thể biết được đạo của mình hay không, có biết nói tiếng nói của tổ
tiên mình và gọi tên vị thần của dòng đạo mình hay không… Ông ta đã cho
bắt cóc một số trẻ sơ sinh thuộc nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo, dòng đạo khác
nhau, đem nuôi cách li hoàn toàn với xã hội trong một tháp kín; không ai được
đến gần; cho ăn uống qua một đường dây… Mười hai năm sau, cửa tháp
được mở. Những đứa trẻ vẫn lớn lên; nhưng chúng có nhiều biểu hiện của
thú hơn là người; và không hề có biểu hiện nào về tiếng nói hoặc tín ngưỡng,
tôn giáo cả.
- Chuyện thứ hai: Năm 1920, ở Ấn Độ, người ta phát hiện ra hai em bé
gái được chó sói nuôi sống trong một cái hang. Một em khoảng hai tuổi, một
em khoảng bảy, tám tuổi. Sau khi được cứu trở vễ, em nhỏ bị chết; em lớn
sống được, nhưng chỉ có những tập tính của chó sói: không có ngôn ngữ, chỉ
biết gầm gừ, bò bàng cả tứ chi dựa trên hai bàn tay, hai bàn chân; thỉnh
thoảng cất tiếng sủa như sói về ban đêm…
Sau gần bốn năm em bé này mới học được 6 từ, và qua 7 năm được
gần 50 từ. Đến 16 tuổi, em mới nói như một đứa trẻ 4 tuổi và không sống
được nữa.
2. Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tượng của cá nhân tôi, cá nhân
anh; mà nó là của chúng ta. Chính vì nó là cái chung của xã hội, của chúng
ta; cho nên anh nói tôi mới hiểu, và chúng ta hiểu nhau. Về mặt này, đối với
mỗi cá nhân, ngôn ngữ như một thiết chế xã hội chặt chẽ, được giữ gìn và
phát triển trong kinh nghiệm, trong truyền thống chung của cả cộng đồng.
Thiết chế đó chính là một tập hợp của những thói quen nói, nghe và hiểu,
được tiếp thu một cách dễ dàng và liên tục ngay từ thời thơ ấu của mỗi chúng
ta. Vì thế, những thói quen này về sau rất khó thay đổi. Nó như là một cái gì
đấy bắt buộc đối với mỗi người trong mọi người.
Dầu sao thì tiếng Việt cũng vẫn gọi con mèo, cái nhà, người mẹ… bằng
các từ mèo, nhà, mẹ… Còn tiếng Anh thì gọi bằng các từ cat, house,
mother… chứ không thể dễ dàng thay thế bằng từ khác hoặc đánh đổi cho
nhau.
Mặt khác, sự phân biệt giữa ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ văn hóa chung
của mỗi cộng đồng dân tộc với các biến dạng khác của nó trong các cộng
đồng người nhỏ hơn, phân chia theo phạm vi lãnh thổ hoặc tầng lớp xã hội
(gọi là những tiếng địa phương, phương ngữ xã hội)… cũng chính là những
biểu hiện sinh động, đa dạng về tính xã hội của ngôn ngữ. Ví dụ, từ lời lẽ của
tiếng Việt chuẩn mực được phát âm thành nhài nhẽ, đó là cách phát âm của
phương ngữ Bắc bộ Việt Nam. Trong khi đó, nếu phát âm thành nài nẽ thì đây
lại là hiện tượng nói ngọng và bị coi là lỗi.
3. Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tượng sinh vật vì nó không mang
tính di truyền. Người ta có được ngôn ngữ là nhờ quá trình học tập, tiếp thu
từ những người cùng sống ở xung quanh.
Mặt khác, so với tiếng kêu của các loài động vật, ngôn ngữ loài người
cũng khác hẳn về chất. Tiếng kêu đó, loài động vật có thể dùng để "trao đổi
thông tin” như: kêu gọi bạn tình trong các mùa hôn phối, hay là báo tin có
thức ăn, có sự nguy hiểm… nhưng tất cả đều vô tình xuất hiện dưới ảnh
hưởng của những "cảm xúc" khác nhau. Chúng - những tiếng kêu đó - là bẩm
sinh; sự trao đổi thông tin" là vô ý thức. Đó là những kết quả của quá trình di
truyền chứ không giống nhau như kết quả của trẻ em học nói.
Còn hiện tượng một số con vật học ndi được tiếng người thì rõ ràng lại
là kết quả của quá trình rèn luyện phản xạ có điều kiện. Những con vật "biết
nói" đó dù thông minh đến mấy cũng không thể nào tự lĩnh hội được hoặc
phát âm được những âm thanh để biểu thị khái niệm khi nó ở ngoài một hoàn
cảnh cụ thể với một kích thích cụ thể.
4. Chẳng những ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội như đã phân tích
bên trên; mà hơn thế nữa, nó là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Tính chất đặc
biệt này thể hiện ở chỗ nó không thuộc về kiến trúc thượng tầng của riêng
một xã hội nào; cho nên khi một cơ sở hạ tầng nào đó bị phá vỡ, kéo theo sự
sụp đổ của kiến trúc thượng tầng tương ứng, thì nó (ngôn ngữ) vẫn là nó. Mặt
khác ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Nó ứng xử bình đẳng đối với tất cả
mọi người trong xã hội. Tuy vậy, mỗi người, mỗi nhóm người… không vô can
với nó mà họ sử dụng cho no mục đích của mình, theo cách của mình sao
cho có hiệu quả nhất.
Chính vì tính chất đặc biệt này mà người ta không thể hi vọng tác động
làm biến đổi ngôn ngữ bằng một cuộc cách mạng chính trị xã hội.
II. NGÔN NGỮ LÀ PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI
1. Có thể hiểu một cách giản dị rằng: giao tiếp là sự truyền đạt thông tin
từ người này đến người khác với một mục đích nhất định nào đó.
Sự giao tiếp được thực hiện nhờ hoạt động giao tiếp giữa hai hoặc hơn
hai người với nhau trong một bối cảnh nhất định và bằng một phương tiện
giao tiếp chung.
Các kết quả nghiên cứu về sinh lí học và tâm lí học cho thấy rằng ở con
người, nhu cầu giao tiếp dường như mang tính bẩm sinh. Ngay cả bây giờ,
nếu thiếu ngôn ngữ hoặc giao tiếp bằng ngôn ngữ bị hạn chế do những
nguyên nhân nào đó thỉ người ta dùng "ngôn ngữ cử chi" cho đến khi không
còn có thể trao đổi bằng "ngôn ngữ" này nữa mới thôi.
Khi giao tiếp, người ta trao đổi tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, sự hiểu
biết… với nhau; và tác động đến nhau. Chính nhờ thế mà con người mới tập
hợp với nhau thành cộng đồng xã hội, có tổ chức và hoạt động của xã hội;
những tư tưởng và trí tuệ của người này, thế hệ này mới truyền tới người
khác, thế hệ khác được.
Những hoạt động được gọi là giao tiếp đó, đã được thực hiện nhờ một
công cụ tốt nhất là ngôn ngữ. Nhờ nó mà con người có khả năng hiểu biết lẫn
nhau. Nó là một trong những động lực bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Chức năng trung tâm của ngôn ngữ là chức năng giao tiếp.
2. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp giữa người với người; nhưng
không phải mọi yếu tố, mọi đơn vị của nó đều tham gia như nhau vào quá
trình này. Nói khác đi, các đơn vị của nó tham gia thực hiện chức năng xã hội
vốn có của nó một cách khác nhau.
Trực tiếp tham gia vào quá trình mang thông tin và truyền đạt thông tin
là các đơn vị định danh như từ, cụm từ; và các đơn vị thông báo như câu, văn
bản. Chẳng hạn, các từ: người, máy, nhà, cây, đi, cười, một, hai, giỏi… Các
cụm từ: đá tai mèo, nhà cao tầng, bê tông đúc sẵn, mẹ tròn con vuông… Các
câu: Người với người là bạn; Trên trái đất có chừng một triệu giống động vật;
Máu người không phải nước lã… đều là những đơn vị trực tiếp mang thông
tin hoặc truyền tải thông tin.
Ngược lại, các đơn vị như: âm vị, hình vị lại chỉ gián tiếp tham gia vào
quá trình giao tiếp; bởi vì chúng chỉ là chất liệu cấu tạo nên những đơn vị vừa
nêu trên mà thôi.
3. Trong xã hội loài người, phần lớn nhất và trọng yếu nhất của thông
tin (gồm các kiểu dạng, các nguồn gốc khác nhau) được tàng trữ và lưu hành
nhờ ngôn ngữ. Nói như V.Lênin: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người. Sở dĩ nó quan trọng nhất là vì trên góc độ lịch sử
và toàn diện mà xét, không một phương tiện giao tiếp nào có thể sánh được
với nó.
Cho dù ngôn ngữ bằng lời của con ngưòi có bị những hạn chế về
không gian và thời gian; cho dù ngoài ngôn ngữ ra, con người còn dùng
những phương tiện giao tiếp khác nữa như: các điệu bộ, cử chỉ; các loại kí
hiệu, tín hiệu giao thông; các biểu trưng quân hàm, quân hiệu; các tác phẩm
nghệ thuật tạo hình, âm nhạc… nhưng ở vị trí trên hết và trước hết, vẫn phải
là ngôn ngữ.
So với ngôn ngữ, các loại phương tiện giao tiếp khác chỉ có thể đóng
vai trò là phương tiện bổ sung cho nó (giao tiếp ở đây được hiểu là giao tiếp
trong đời sống rộng rãi thuộc phạm vi toàn xã nội). Sở dĩ nói như vậy là vì
phạm vi sử dụng của chúng rất hạn chế; và mặt khác, chúng không đủ sức để
phản ánh những hoạt động và kết quả hoạt động tư tưởng phức tạp của con
người; còn như âm nhạc hay các tác phẩm nghệ thuật tạo hình thì chỉ có thể
nhắc gợi, hướng người ta đến với một tư tưởng, tình cảm nào đó mà thôi.
Trong khi các phương tiện giao tiếp bổ sung khác có thể được "biểu diễn lại",
"diễn dịch lại bằng ngôn ngữ, thì việc làm ngược lại, dường như là không thể;
hoặc nếu có thể, thì kết quả chỉ là phần rất nhỏ và không đẩy đủ.
III. NGÔN NGỮ LÀ HIỆN THỰC TRỰC TIẾP CỦA TƯ TƯỞNG
1. Khi nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, chúng ta
muốn nhấn mạnh đến chức năng hàng đầu của nó: chức năng giao tiếp.
Bên cạnh đó ngôn ngữ còn có một chức năng nữa là chức năng phản
ánh. Tư duy của con người - sự phản ánh thế giới khách quan xung quanh -
chủ yếu được tiến hành, được thực hiện dưới hình thức ngôn ngữ.
Từ cội nguồn của mình, ngôn ngữ loài người ra đời và phát triển là do
người ta thấy cần phải nói với nhau một cái gì đó. Ở đây, mệnh đề này bao
hàm hai vấn đề:
a) Con người đã có một cái gì đấy (những kết quả, quá trình hoạt động
thuộc lĩnh vực tinh thần, tư tưởng…) cần phải được truyền đạt, trao đổi với
người khác.
b) Phương tiện để truyền đạt những thông tin đó.
Nói rõ hơn, các kết quả của sự phản ánh thế giới khách quan (cũng tức
là tư duy) của con người cần được thông báo với những người khác trong
cộng đồng; và chính con người đã chọn phương tiện để thông báo là ngôn
ngữ. Từ đây, nảy sinh vấn đề quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy.
2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy vốn hết sức phức tạp cho nên
có thể tiếp cận nghiên cứu từ nhiều phương diện, nhiều xuất phát điểm khác
nhau. Nếu chỉ xét từ góc độ chức năng phản ánh của ngôn ngữ không thôi,
thì trước hết cần phải thấy: Hiện thực trực tiếp của tư tưởng là ngôn ngữ.
(K.Mac)
Tuv nhiên, nói vậy không có nghĩa rằng ngôn ngữ chỉ là cái vỏ vật chất
trống rỗng; mà nó là một thể chất hai mặt: vật chất - tinh thần.
Kết luận mà Mác nêu như vừa dẫn, hết sức quan trọng. Ông còn có
một nhận xét khác: Ngôn ngữ củng cố xưa như ý thức vậy (…) là ý thức thực
tại, thực tiễn; và tương tự như ý thức, ngôn ngữ sinh ra chỉ do nhu cầu, do sụ
cần thiết phải giao tiếp với người khác.
Ở đây, cần phân biệt các tên gọi tư duy và ý thức. Bản thân tên gọi tư
duy cũng đã có những cách hiểu không hoàn toàn đồng nhất trong các khoa
học khác nhau như triết học, tâm lí học, sinh lí học thần kinh cao cấp… Ngay
trong một khoa học, người ta cũng có thể hiểu tư duy là sự phản ánh thực tại
khách quan được tiến hành bởi con người; hoặc cũng có thể hiểu tư duy là
sản phẩm của các hoạt động trí tuệ đó.
Vậy ý thức cần phải được hiểu là nó rộng hơn tư duy. Nó là một tập
hợp hoàn chỉnh gồm những yếu tố nhận thức về cảm xúc, có liên quan chặt
chẽ với nhau, trong đó tư duy chỉ là một trong những quá trình nhận thức mà
thôi.
Trong mối tương quan tư duy - ý thức thì tư duy là bộ phận cơ bản cấu
thành ý thức; bởi vì trong ý thức, cùng với các quá trình nhận thức như cảm
giác, tri giác, kí ức, biểu tượng, tư duy, còn có các quá trình cảm xúc gắn liền
với sự đánh giá và trạng thái ý chí của con người.
Do dó khi nói về chức năng của ngôn ngữ trong quan hệ ngôn ngữ - tư
duy như thế nào, thì cũng có thể nói về quan hệ ngôn ngữ - ý thức như vậy.
3. Ngôn ngữ là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất để thể hiện tư
duy. Về phương diện này, tư duy là cái được biểu hiện còn ngôn ngữ là cái
để biểu hiện tư duy. Các kết quả hoạt động của tư duy (thuộc lĩnh vực tinh
thần) bao giờ cũng được khoác một cái vỏ vật chất âm thanh (ngôn ngữ) để
thể hiện ra ngoài dưới dạng vật chất nhằm làm cho những người khác "thấy
được". Mối quan hệ ngôn ngữ - tư duy ở đây có thể hình dung như hai mặt
của một tờ giấy vậy: đã có mặt này là phải có mặt kia. Chính ở trong ngôn
ngữ và nhờ có ngôn ngữ mà ý thức tiềm tại trở nên được hiện thực hóa, thực
tại hóa. Mặt khác chính trong quan hệ với tư duy, với ý thức mà ngôn ngữ
không phải là cái xác không hồn, không phải là hiện tượng thuần túy vật chất.
Nó trở thành hiện tượng vật chất - tinh thần.
Bởi thế, ta không thể nói một tiếng hắt hơi hay nói một tiếng ho (vì đó là
những tiếng, những âm thanh phát ra vô ý thức do hoạt động, phản ứng
thuần túy sinh lí của cơ thể con người). Tuy nhiên, ta có các từ ho, hắt hơi để
nói trong những câu, chẳng hạn:
- Liên ho suốt ngày vì bị cảm lạnh.
- Ông ấy ngồi và hắt hơi liên tục.
Tiếng ho hoặc tiếng hắt hơi của ai đó mà ta nghe thấy được, không
phải là ngôn ngữ.
4. Chẳng những là phương tiện vật chất để biểu đạt tư duy, ngôn ngữ
còn là công cụ của hoạt động tư duy. Nó trực tiếp tham gia vào quá trình hình
thành và phát triển tư duy của con người.
Để tiến hành các hoạt động tư duy, trí tuệ, con người cần phải có một
cái vốn tri thức, hiểu biết nhất định (có thể là nhiều hoặc ít, tùy theo). Vốn tri
thức đó con người có được nhờ những hoạt động thực tiễn, tìm hiểu và khám
phá thế giới khách quan quanh mình. Nó được tàng trữ, được bảo toàn chủ
yếu nhờ ngôn ngữ; rồi chính nhờ ngôn ngữ mà người ta có thể truyền thụ
những tri thức, những hiểu biết từ người này sang người khác, từ thế hệ này
đến thế hệ khác, từ nơi này đến nơi khác…
Về mặt sinh lí học thần kinh cao cấp, sự truyền đạt tri thức bằng ngôn
ngữ, nhờ ngôn ngữ như vậy, chính là hiện tượng ngôn ngữ tham gia vào việc
tạo nên các liên hệ tạm thời. Nhờ các liên hệ tạm thời này mà con người khác
hẳn động vật: Người ta không nhất thiết phải làm quen trực tiếp với sự vật
này hay sự vật kia, nhưng vẫn có thể biết được ít nhiều nó là gì, nó như thế
nào… nếu như có một người nào đó đã biết và nói lại cho biết, hoặc người ta
biết được những sự vật khác có quan hệ đến chúng… (Tôi chưa thấy sao
Hỏa bao giờ, nhưng tôi cũng biết được Phô bốt của nó là gì, nó như thế
nào… nhờ các nhà thiên văn học nói cho biết).
Việc truyền kiến thức như thế đã rút ngắn được thời gian cần thiết cho
sự tìm hiểu thế giới xung quanh con người. Cứ như vậy, truyền đạt, tích lũy,
phát triển thêm… tư duy con người càng ngày càng trở nên phong phú hơn
và sâu xa hơn.
5. Để làm rõ hơn bản chất của ngôn ngữ cùng với chức năng giao tiếp,
chức năng phản ánh của nó, cần làm sáng tỏ hơn mối quan hệ tay ba giữa ý
thức (tư duy) với ngôn ngữ và thực tại khách quan.
Ta biết rằng cội nguồn của ý thức chính là thực tại khách quan, vì ý
thức chính là hình ảnh chủ quan của thực tại khách quan, là tồn tại được
phản ánh. Ý thức được biểu hiện bằng ngôn ngữ. Vậy ngôn ngữ quan hệ gián
tiếp với thực tại khách quan thông qua ý thức. Quan hệ ngôn ngữ - ý thức -
thực tại khách quan như vừa nêu, thường được biểu diễn qua một quan hệ
bộ ba quen thuộc khác là từ - khái niệm - sự vật.
Ngôn ngữ và ý thức (tư duy) gắn bó với nhau như một, không bao giờ
tách rời nhau, nhưng chúng không phải là một. Đối với thực tại khách quan,
ngôn ngữ có tác dụng, vai trò như một công cụ để định danh, gọi tên cho các
sự vật, hiện tượng, quan hệ… tồn tại trong đó. Mặt khác, quan trọng hơn là:
ngôn ngữ như một công cụ để cấu trúc hóa, mô hình hóa thực tại khách quan.
Nó cũng cho thấy được ít nhiều những đặc điểm văn hóa - dân tộc, văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần của mỗi cộng đồng người; nhưng không thể nói
đó là những biểu hiện cao thấp của các trình độ tư duy khác nhau.
IV. NGÔN NGỮ - LỜI NÓI - HOẠT ĐỘNG LỜI NÓI
1. Trong giao tiếp ngôn ngữ, sở dĩ tôi nói, anh nghe và chúng ta hiểu
nhau được (mặc dù ai nấy đếu nhận ra và phân biệt: đây là tiếng nói của tôi,
kia là tiếng nói của anh…) là bởi vì giữa chúng ta đã có một cái chung và
những cái riêng.
a) Cái chung đó của chúng ta bao gồm các âm, các từ, các bộ phận
cấu tạo từ, các mô hình cấu tạo nhóm từ, mô hình cấu tạo câu, các thành
phần câu… cùng với các quy tắc hoạt động, quy tắc biến đổi của chúng… vốn
đã và đang được sử dụng trong không biết bao nhiêu lần khác nhau giữa
những người đang cùng nói một ngôn ngữ.
Cái chung đó, trong ngôn ngữ học được gọi là ngôn ngữ.
Đó là một hệ thống những đơn vị vật chất, và những quy tắc hoạt động
của chúng, dùng làm công cụ giao tiếp của con người, được phản ánh trong ý
thức của cộng đồng và trừu tượng hóa khỏi bất kì một tư tưởng, cảm xúc và
ước muốn cụ thể nào.
Như vậy, ngôn ngữ không chỉ tồn tại riêng cho tôi hay riêng cho anh,
mà tồn tại cho tất cả chúng ta. Nó được nhận thức và tương ứng với ý thức
của cả cộng đồng chứ không phải chỉ tương ứng với ý thức của riêng anh
hoặc riêng tôi. Nó, tự bản chất vốn là hiện tượng mang tính xã hội.
b) Là công cụ để giao tiếp giữa người với người, ngôn ngữ chứng tỏ
các khả năng của mình trong các lời nói ra (kể cả dạng nói lẫn dạng viết). Cái
lời nói ra đó, trong ngôn ngữ học được gọi là lời nói - kết quả của sự nói
năng.
Lời nói là chuỗi liên tục các tín hiệu ngôn ngữ được xây dựng nên theo
các quy luật và chất liệu của ngôn ngữ, ứng với nhu cầu biểu hiện những nội
dung (tư tưởng, tỉnh cảm, cảm xúc, ý chí…) cụ thể. Với cách hiểu như vậy,
nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt về mặt tên gọi thuật ngữ, ta có thể coi lời
nói như là những văn bản, những diễn từ (discourse). Lời nói phân biệt với
ngôn ngữ ở chỗ: nó mang những màu sắc cá nhân của chủ thể nói năng
(người nói cụ thể trong một tình huống cụ thể).
c) Có thể nói: giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa người với người thực chất
là sự truyển - nhận thông tin thông qua sự trao đổi văn bản (B.v. Kasevich).
Nếu không tính đến sự giao tiếp bằng cách viết, thì giao tiếp bằng cách nói
năng sẽ bao gồm:
- Hành vi nói ra của người nói. Đây chính là hành vi sản sinh văn bản
(diễn từ).
- Hành vi hiểu văn bản (được thực hiện từ phía người nghe, người đối
thoại).
Trong đối thoại giao tiếp, giả sử có hai người, thì tư cách người nghe
và người nói được luân phiên nhau: anh nói, tôi nghe và ngược lại, tôi nói,
anh nghe.
Hành vi nói của người nói và hành vi hiểu của người nghe được gọi là
hành vi lời nói; còn hệ thống các hành vi lời nói gọi là hoạt động lời nói.
2. Về sự phân biệt ngôn ngữ với lời nói và xem xét mối quan hệ giữa
chúng với nhau, phải kể F.de.Saussure là người đi đầu. Ông (và những người
ủng hộ ông về sau) đã tách biệt hoàn toàn tuyệt đối giữa ngôn ngữ như một
cái hoàn toàn có tính chất xã hội với lời nói như một cái hoàn toàn có tính cá
nhân.
Sự thể không hoàn toàn hẳn như vậy. Thực chất phân biệt ngôn ngữ
(langue) với lời nói (parole) là tự tách bạch giữa hai mặt của một vấn đề:
Ngôn ngữ được thực tại hóa trong lời nói; và lời nói chính là ngôn ngữ đang
hành chức, đang được dùng để giao tiếp giữa người với người.
Chính F.Saussure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương cũng đã
viết về vấn đề này như sau:
Hoạt dộng ngôn ngữ có một mặt cá nhân và một mặt xã hội, và không
thể quan niệm mặt này mà thiếu mặt kia được (tr.29)
Tất nhiên, hai đối tượng này gắn bó khăng khít với nhau và giả định lẫn
nhau: ngôn ngữ là cần thiết để cho lời nói có thề hiểu được và gây được tất
cả những hiệu quả của nó; nhưng lời nói lại cần thiết để cho ngôn ngữ được
xác lập; về phương diện lịch sử, sự kiện của lời nói bao giờ cũng đi trước (…)
Cuối cùng, chính lời nói làm cho ngôn ngữ biến hóa. (tr.45)
Như vậy, so với ngôn ngữ và trong mối tương quan với ngôn ngữ, lời
nói không phải chỉ đơn thuần là cái gì đó thứ yếu, hoàn toàn ngẫu nhiên và
hoàn toàn mang tính cá nhân. Nó cũng chính là ngôn ngữ - ngôn ngữ đang ở
dạng hoạt động - và vì vậy, nó cũng mang trong mình mặt xã hội của ngôn
ngữ lẫn những màu sác cá nhân của người nói - người sử dụng.
Ngôn ngữ hoạt động, hiện ra dưới dạng những chuỗi âm nối tiếp nhau.
Tuy nhiên, để sử dụng được một ngôn ngữ, có thính giác tốt vẫn là chưa đủ.
Người ta phải biết phân tích được các loạt âm thanh đó với những dấu hiệu
riêng biệt, để biết trong đó có những âm đoạn nào ứng với cái gì, nằm trong
những quan hệ nào với các âm đoạn khác… Do đó, nếu không nắm được
ngôn ngữ thì ta vẫn có thể nghe thấy lời nói của người khác, nhưng không
biết anh ta "nói gì". Đối với đứa trẻ sơ sinh, trong những tháng đầu tiên, tiếng
nói của những người xung quanh nó chẳng khác gì với các tiếng động, tiếng
ồn ào khác. Ngay cả người lớn, khi chưa nắm được ngoại ngữ, anh ta có thể
nghe thấy người ta nói ngoại ngữ đó, nhưng không thể hiểu được; thậm chí
cũng không thể nhắc lại từng câu, từng từ được. Sở dĩ như vậy là vì anh ta
không biết "phân tích" cái chuỗi âm thanh lạ tai đó ra từng thành phần; từng
khúc đoạn; bộ phận… như thế nào; và các quy luật vận dụng chúng trong các
tình huống nói năng như thế nào…
Kết cục, nếu nắm vững những hiểu biết về mối quan hệ biện chứng của
cặp phạm trù cái chung - cái riêng trong học thuyết duy vật biện chứng Mác
xít, chúng ta sẽ thấy mối quan hệ ngôn ngữ - lời nói một cách sáng rõ hơn
nhiều.
Chương 2. HỆ THỐNG TÍN HIỆU NGÔN NGỮ
I. BẢN CHẤT TÍN HIỆU CỦA NGÔN NGỮ
1. Trong đời sống của mình, loài người phát hiện, làm quen, xây dựng
và sử dụng nhiều kiểu loại tín hiệu khác nhau. Việc nghiên cứu toàn diện các
loại tín hiệu đó, là nhiệm vụ trung tâm của khoa tín hiệu học (semiology).
Đã có nhiều quan niệm khác nhau và nhiều cách phân loại khác nhau
đối với tín hiệu. Để cho vấn đề ở đây trở nên giản tiện, đỡ phức tạp, chúng ta
quan niệm về tín hiệu như sau:
Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng)
kích thích vào giác quan của con người, làm cho người ta tri giác được và lí
giải, suy diễn tới một cái gì đó ngoài sự vật ấy.
Ví dụ: Cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường bộ là một
tín hiệu; bởi vì khi nó hoạt động (sáng lên) ta nhìn thấy nó và suy diễn tới sự
cấm đoán, không được đi qua chỗ nào đó.
Vậy một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thỏa mãn các yêu cầu sau
đây:
a) Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác
quan của con người; chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ, vật
thể… Nói cách khác, tín hiệu phải là vật chất, kích thích đến giác quan của
con người và con người cảm nhận được.
b) Phải đại diện cho một cái gi đó, gợi ra cái gì đó không phải là chính
nó. Tức là cái mà nó đại diện cho, không trùng với chính nó. Ví dụ: Tín hiệu
đèn đỏ báo hiệu nội dung cấm đi. Nội dung này và bản thể vật chất của cái
đèn đỏ không hề trùng nhau.
Mặt khác nó cũng sẽ chỉ là tín hiệu khi mối liên hệ giữa nó với cái mà
nó chỉ ra được người ta nhận thức, tức là người ta phải biết liên hệ nó với cái
gì.
c) Sự vật đó phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được
xác định tư cách tín hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. Chảng hạn, cái
đèn đỏ vừa nói trên là một tín hiệu; thế nhưng nếu tách nó ra, đưa vào chùm
đèn trang trí thì nó lại không phải là tín hiệu nữa. Sở dĩ như thế là vì chỉ có
nằm trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông, nó mới có tư cách tín hiệu, được
xác định cùng với đèn xanh, đèn vàng nhờ sự đối lập quy ước giữa chúng với
nhau.
2. Xuất phát từ bình diện tín hiệu học trong nghiên cứu ngôn ngữ,
người ta bảo rằng ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, rằng nó có bản chất tín
hiệu.
Theo quan niệm vừa trình bày bên trên, tín hiệu là cái phải có hai mặt:
mặt biểu hiện vật chất và mặt được biểu hiện (cái mà mặt biểu hiện chỉ ra,
làm đại diện cho). Vậy thì trong ngôn ngữ trước hết phải coi các hình vị
(những đơn vị nhỏ nhất mà có giá trị về mặt ngữ pháp ví dụ như: work, er,
ing, ed… trong các từ: work, worker, working, worked… của tiếng Anh: hoặc
như: sân, máy, bay, quạt, cánh… trong các từ: sân bay, máy bay, cánh
quạt… của tiếng Việt) và các từ là những tín hiệu; bời vì chúng có mặt biểu
hiện là âm thanh, và mặt được biểu hiện là những ý nghĩa, những nội dung
nhất định nào đó.
Ở đây cũng cần phải thấy rằng trong từ - đơn vị trung tâm của ngôn
ngữ - có thể có nhiều quan hệ tín hiệu. Trước hết, âm thanh biểu hiện (làm tín
hiệu cho) ý nghĩa. Tiếp theo, cả cái phức thể âm thanh - ý nghĩa đó lại biểu
hiện, làm tên gọi, làm đại diện cho sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình…
trong thế giới khách quan. Đến lượt mình, cả cái phức thể bộ ba này, trong
những phát ngôn cụ thể, lại có thể làm tín hiệu, đại diện cho một sự vật khác.
(Đó là những trường hợp chuyển nghĩa ẩn dụ, hoán dụ, trường hợp từ biểu
thị nghĩa bóng… như ta vẫn thường gặp).
Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của ngôn ngữ học không phải là nghiên cứu
các sự vật, hiện tượng… được gọi tên; mà là nghiên cứu các phương thức
phản ánh chúng trong ngôn ngữ nói chung và từng ngôn ngữ cụ thể.
3. Bản chất tín hiệu và đặc trưng của tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở
những điểm sau đây:
3.a. Cũng như các tín hiệu nói chung, tín hiệu ngôn ngữ là sự hợp nhất
của cái biểu hiện với cái được biểu hiện. Cái biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ
là âm thanh, còn cái được biểu hiện của nó là ý nghĩa, là khái niệm về sự vật
được phản ánh được gọi tên. (Ở đây, như trên vừa nói, chúng ta đã gác sự
vật được gọi tên sang một bên). Dưới dạng đơn giản hóa tới mức lí tường, ta
có thể biểu diễn tín hiệu - từ cây trong tiếng Việt chẳng hạn, bằng lược đồ
như sau:
Từ “cây”
- Âm: cây
- Ý (Khái niệm)
Loài thực vật có thân, lá rõ rệt hoặc có hình thù giống: những thực vật
có thân, lá.
Cái biểu hiện (cũng thường gọi là mặt biểu hiện) và cái được biểu hiện
của tín hiệu ngôn ngữ gắn bó khăng khít với nhau, và đã có cái này là có cái
kia. Người ta có thể hình dung chúng như hai mặt của một tờ giấy vậy, đã có
mặt này, tất phải có mặt kia.
3.b. Hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ không bao giờ tách rời nhau, nhưng
lại có quan hệ võ đoán với nhau. Điều này có nghĩa là chúng ta không tìm
được lí do cho việc giải thích vì sao âm này lại có ý này hoặc ý này vì sao lại
được "chứa" trong âm này…
Trong ví dụ vừa nêu trên kia, bản thân âm CÂY không hề có mối liên hệ
bên trong nào, cũng như không có sức mạnh quy định, ràng buộc nào đối với
cái ý mà nó biểu thị. Ngược lại, cái ý (khái niệm) loài thực vật có thân, lá,…
không hể tự mình quy định tên gọi cho mình, không hề có tác động quyết định
nào đối với áo khoác vật chất âm thanh của mình.
Dùng âm này hay âm kia để biểu thị ý (nội dung) này hay ý khác… tất
cả đều do quy ước, do thói quen (hoặc suy đến cùng là do thói quen) của tập
thể cộng đồng.
Nếu quả thật quan hệ giữa mặt biểu hiện và được biểu hiện của tín
hiệu ngôn ngữ là quan hệ có lí do, quan hệ quy định lẫn nhau thì đã không có
hiện tượng cùng một sự vật như nhau, một khái niệm như nhau, nhưng mỗi
ngôn ngữ đã cấp cho nó một âm khác nhau; và trong một ngôn ngữ đã không
có hiện tượng từ đồng âm, đồng nghĩa tồn tại.
Tuy nhiên, trong ngôn ngữ, các từ tượng thanh, các thán từ lại dường
như là những luận chứng phản lại nguyên lí về tính không lí do giữa mặt biểu
hiện và được biểu hiện. Để giải đáp, chúng ta hãy tự hỏi: các từ tượng thanh
và thán từ trong mỗi ngôn ngữ là bao nhiêu? Chúng có phải là toàn bộ ngôn
ngữ, hay phần cốt lõi, cơ bản của ngôn ngữ không? Tại sao cùng một sự vật
nhưng trong ngôn ngữ này người ta gọi nó bàng cái tên có tính tượng thanh,
còn ngôn ngữ kia thì lại không?…
Cuối cùng, cần ghi nhận rằng sự tượng thanh cũng chỉ là tương đối,
gần đúng mà thôi; và trong các ngôn ngữ khác nhau đã tượng thanh cùng
một từ theo những cách ít nhiều khác nhau. Bên cạnh đó, các từ cảm thán
cũng trong một tình hình tương tự như vậy.
Nhìn trên góc độ lịch sử và toàn thể, những từ được coi là có lí do cũng
sẽ lu mơ dần cái lí do ấy đi để nhận lấy tính chất của tín hiệu ngôn ngữ nói
chung, là vốn không có tính lí do.
3.c. Mặt biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ là âm thanh - là cái nghe được
chứ không nhìn thấy được. Nó "diễn ra trong thời gian và có những đặc điềm
vốn là của thời gian: a) Nó có một bề rộng và b) bề rộng đó chỉ có thể đo trên
một chiều mà thôi” (F.de.Saussure).
Nói rõ hơn, mặt biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ có tính hình tuyến. Khi
tín hiệu ngôn ngữ đi vào hoạt động (giao tiếp) chúng hiện ra lần lượt cái này
tiếp theo sau cái kia, làm thành một chuỗi, một tuyến theo bề rộng một chiều
của thời gian. Chính điều này làm cho tín hiệu ngôn ngữ khác với các tín hiệu
khác, bởi vì trong khi mặt biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ có tính hình tuyến,
thì các tín hiệu loại khác có thể được sắp xếp, phân bố trên một không gian
đa chiều, thậm chí bất chấp trật tự không gian và thời gian.
Tính hình tuyến này lộ rõ ngay khi người ta biểu hiện các yếu tố đó
bằng chữ viết và đem tuyến không gian của những tín hiệu vẫn tự thay thế
cho sự kế tiếp trong thời gian (F.de.Saussure), Với ngôn ngữ, người ta không
thể nào nói ra hai yếu tố cùng một lúc. Chúng phải được phát âm nối tiếp theo
nhau trong ngữ lưu, hết cái này đến cái kia. Ví dụ, ta hãy quan sát một phát
ngôn được ghi lại bằng những kí hiệu chữ viết như sau:
Ai-đi-đằng-ấy-xa-xa-để-em-ôm-bóng-trăng-tà-năm-canh…
Chính vì vậy, thuộc tính này (tính hình tuyến) được coi như một nguyên
lí cơ bản của ngôn ngữ, có giá trị chi phối cơ chế hoạt động của ngôn ngữ.
Nó cũng dẫn đến rất nhiều hệ quả, mà một trong những hệ quả quan trọng
nhất là quan hệ ngữ đoạn giữa các đơn vị ngôn ngữ. Điều này chẳng những
quan trọng đối với người tham gia vào cuộc đối thoại, giao tiếp bằng ngôn
ngữ (để người ta có thể nghe được, nhận ra một cách phân minh các tín hiệu,
các yếu tố trong lời của người nói ra) mà còn rất quan trọng đối với người
phân tích ngôn ngữ học.
Dựa vào các chuỗi được nối ra đó, người phân tích ngôn ngữ học phân
tích và nhận diện được các đơn vị ngôn ngữ, phát hiện được các quy tắc kết
hợp các yếu tố, các đơn vị, các thành phần để có các từ, nhóm từ, câu, đoạn
văn và văn bản.
4. Ngôn ngữ, như đã trình bày, vốn là hiện tượng mang bản chất xã hội
và thuộc số các hiện tượng xã hội. Mặt khác, nó còn có một bản chất nữa
không kém phần quan trọng là: ngay từ đầu, ngôn ngữ đã đồng thời là tín
hiệu, mang bản chất tín hiệu.
Chính bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, với tất cả những đặc trưng riêng
biệt và tính phức tạp trong tổ chức hệ thống của mình, một nhân tố trung tâm
bảo đảm cho nó trở thành phương tiện lao tiếp quan trọng nhất của con
người.
II. HỆ THỐNG VÀ CẤU TRÚC CỦA NGÔN NGỮ
1. Những khái niệm mở đầu
1.1. Hàng ngày, chúng ta vẫn nói hoặc nghe nói tới những tên gọi như:
hệ thống giáo dục phổ thông, hệ thống đèn tháp sáng, hệ thống ống cấp thoát
nước… Chúng ta đã dùng từ hệ thống không đòi hỏi được giới hạn một cách
nghiêm ngặt về mặt thuật ngữ.
Hiện nay, khái niệm hệ thống được sử dụng trong rất nhiều ngành khoa
học; và đã có không ít quan niệm về nội dung, cũng như cách tiếp cận thuật
ngữ này.
Một cách hiểu thường gặp về hệ thống, được phát biểu như sau: Đó là
một tổng thề những yếu tố có liên hệ qua lại và quy định lẫn nhau, tạo thành
một thể thống nhất phức tạp hơn. Cách hiểu hệ thống như vậy có thể được
diễn giải rõ thêm:
- Đó là một tập hợp các yếu tố
- Các yếu tố đó phải có quan hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau. Từ
đây suy ra rằng: mỗi yếu tố chỉ thể hiện được mình và cố được "phẩm chất”
của mình trong hệ thống "của mình".
- Các yếu tố quan hệ với nhau theo những cách thức nhất định như thế,
tạo thành một tập hợp có tư cách một chỉnh thể.
Vậy, có thể xem bộ cờ tướng là một hệ thống; ba cái đèn màu xanh, đỏ,
vàng của tín hiệu giao thông đường bộ là một hệ thống…
1.2. Hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó. Khái niệm cấu trúc thường
xuyên đi đôi cùng với khái niệm hệ thống. Cấu trúc được hiểu là tổng thể các
mối quan hệ trong hệ thống, là phương thức tổ chức của hệ thống.
Như thế, cấu trúc chỉ là một thuộc tính cấu tạo hệ thống; nó có được
trong hệ thống chứ không ở ngoài hệ thống. Nếu hiểu được tổ chức bên trong
của hệ thống như thế nào, là ta đã hiểu được cấu trúc của nó. Ví dụ: Khi coi
một tòa nhà cao tầng là một hệ thống hoàn chỉnh, nếu ta "nắm" được tòa nhà
ấy có bao nhiêu đơn nguyên, mỗi đơn nguyên có bao nhiêu tầng, mỗi tầng có
bao nhiêu phòng; các đơn nguyên, các tầng và các phòng đó thuộc những
loại nào, kiểu gì, được sắp đặt như thế nào, nương tựa vào nhau ra sao,
quan hệ nối kết với nhau như thế nào… thì nghĩa là ta đã biết được, hiểu
được cấu trúc của hệ thống - tòa nhà đó.
Tuy nhiên, có điều cấn lưu ý là dường như chúng ta đã nói tới cấu trúc
như một cái gì đấy chỉ thuần túy là một tổng thể, một mạng lưới của các quan
hệ, mà không kể gì đến các yếu tố có quan hệ. Sự thể là vẫn phải tính đến cả
các yếu tố trong khi miêu tả và xem xét cấu trúc nhưng đôi khi, để nhằm vào
những mục tiêu nhất định, người ta đã trừu tượng hóa chúng mà thôi.
1.3. Trong tự nhiên và xã hội có rất nhiều loại hệ thống. Tuy vậy, các hệ
thống chức năng là loại quan trọng nhất. Đó là loại hệ thống được cấu tạo,
được xây dựng nhằm những mục đích nhất định; và trong đó, mỗi yếu tố hoặc
loại yếu tố phải thực hiện một chức năng nào đó.
Ngôn ngữ là hệ thống chức năng, bởi vì nó do con người tạo lập để
thực hiện chức năng vô cùng quan trọng: chức năng làm công cụ giao tiếp,
chức năng phản ánh tư duy của con người…
2. Hệ thống và cấu trúc của ngôn ngữ.
2.1. Sở dĩ ta nói được: ngôn ngữ là một hệ thống là vì nó thỏa mãn
những yêu cầu, đáp ứng những tiêu chí cần yếu của khái niệm hệ thống nói
chung. Nó là một tổng thể, một tập hợp các yếu tố - các đơn vị của nó - và
các đơn vị này có những mối quan hệ thuộc nhiều kiểu dạng khác nhau.
Ngôn ngữ cũng có cấu trúc của nó, bởi vì nó có một tổ chức bên trong,
có một mạng lưới quan hệ phức tạp, đa dạng giữa các kiểu loại yếu tố - đơn
vị khác nhau của mình.
2.2. Các đơn vị của ngôn ngữ - cũng tức là các yếu tố của nó - phân
biệt nhau về chức phận trong hệ thống, vị trí trong hệ thống và cũng phân biệt
nhau về cấu tạo của mình. Để nhận diện và phân biệt chúng về mặt khoa học,
người ta phải dùng các kĩ thuật phân tích ngôn ngữ học.
Theo trình tự từ lớn đến nhỏ (như vẫn thường gọi) có thể kể ra các đơn
vị của ngôn ngữ là: câu - từ - hình vị - âm vị.
Trong số này, câu có chức năng cơ bản là thông báo. Từ (có nhà
nghiên cứu còn kể thêm cả cụm từ) là đơn vị có chức năng định danh. Hình vị
và âm vị là những đơn vị đảm nhận chức năng cấu tạo (hình vị để cấu tạo và
biến đổi từ; âm vị để cấu tạo và phân biệt mặt biểu hiện - vật chất âm thanh -
của các đơn vị khác). Ví dụ:
a) Các câu: They saw that his ideas were both clever and pratical (tiếng
Anh)… Họ đã thấy những ý tưởng của ông vừa thông minh vừa thiết thực
(tiếng Việt)…
b) Các từ: They - saw - that - his - ideas - were - both - clever - and -
practical (t.Anh)…
Họ - đã – thấy - những - ý tưởng - của - ông - vừa - thông minh - thiết
thực (t.Việt)…
c) Các hình vị: fly-er; work - ed; book - s; un-cover; im-possible; loue-
ly… (t.Anh); tàu-thủy; đường-sắt; cái-vàng; xe-cộ; láu-cá; học-trò; nhà-máy;
lười-nhác… (t.Việt)
d) Các âm vị: k-a-d (card) b-i-g (big) t-u (too) s-ou (so)… (t. Anh) s-a
(xa) l-a-m (làm) k-u-n (cùn)… (t.Việt).
2.3. Các đơn vị của ngôn ngữ, như vậy là không phải chỉ gồm một loại.
Căn cứ vào chức năng đảm nhận trong hệ thống, người ta đã tách ra được
các loại đơn vị như vừa trình bày trên đây. Mỗi loại đơn vị đó, đến lượt chúng,
lại làm thành một tiểu hệ thống trong hệ thống lớn là hệ thống ngôn ngữ.
Người ta gọi mỗi tiểu hệ thống (gồm những đơn vị đồng loại) của ngôn ngữ là
một cấp độ. Đó là vì (như dưới đây sẽ trình bày) các tiểu hệ thống đó có quan
hệ chi phối nhau.
Vậy tương ứng, ta thấy ngôn ngữ có các cấp độ (được gọi tên bằng tên
của đơn vị lập thành nó) là: cấp độ câu, cấp độ từ, cấp độ hình vị, cấp độ âm
vị.
2.4. Các đơn vị của ngôn ngữ quan hệ với nhau rất phức tạp và theo
nhiều kiểu. Đặc biệt, càng đi vào hoạt động giao tiếp, các quan hệ đó càng
thể hiện ra dưới nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên, xét ngôn ngữ với tư cách
một hệ thống, người ta thường nói đến ba quan hệ cốt lõi nhất, có khả năng
chi phối toàn bộ cơ chế hoạt động của hệ thống này như sau:
2.4.a. Quan hệ cấp bậc (hierarchical relation).
Người ta cũng gọi đây là quan hệ tôn ti hoặc quan hệ bao hàm, quan
hệ cấp hệ. Chúng ta gọi đó là quan hệ cấp bậc với ngụ ý thể hiện tính tôn ti,
thứ bậc của các cấp bậc ngôn ngữ. Quan hệ cấp bậc thể hiện ở chỗ: đơn vị
thuộc cấp độ cao hơn bao giờ cũng bao hàm đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn.
Ngược lại, đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn bao giờ cũng nằm trong đơn vị thuộc
cấp độ cao hơn; và là thành tố để cấu tạo đơn vị thuộc cấp độ cao hơn.
Điều đó có nghĩa là: câu bao hàm từ; từ bao hàm hình vị; hình vị bao
hàm âm vị. Ngược lại, âm vị nằm trong hình vị, hình vị nằm trong từ, từ nằm
trong câu. Vậy xét về mặt thành tố cấu tạo, mỗi đơn vị thuộc cấp độ cao hơn
bao giờ cũng gồm ít nhất một đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn. Ví dụ:
Hình vị gồm một âm vị: pari-e (t.Pháp), book-s (t.Anh).
Từ gồm một hình vị: eau (t.Pháp); ‘…’ (t.Nga); người, đẹp, hát.. (t.Việt).
Câu gồm một từ Feu! (t.Pháp), Attention! (t.Anh); Bat! (t.Khmer); Cháy!
(t.Việt).
Thậm chí, một văn bản (gần đây với sự phát triển của bộ môn ngôn
ngữ học văn bản, người ta đã chứng minh và coi văn bản cũng là đơn vị ngôn
ngữ) có thể chỉ gồm một câu, một từ như trong tục ngữ, các danh ngôn, các
câu khẩu hiệu, lời nhắc nhở, khuyến cáo…
Chẳng hạn:
Pass along!… Attention: train!… (t.Anh)
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. (t.Việt)
Lắc trước khi dùng, (lời ghi trên nhãn lọ thuốc)
Thuốc tiêm, không được uống, (-nt-)
Rõ ràng, đơn vị ở cấp độ thấp hơn bao giờ cũng là cái đi vào để cấu
tạo đơn vị thuộc cấp độ cao hơn. Quan hệ cấp bậc là quan hệ giữa các đơn vị
không đồng loại, những đơn vị khác nhau về cấp độ, tức là khác nhau về
phẩm chất, về chức năng mà chúng đảm nhận trong hệ thống ngôn ngữ.
2.4. b. Quan hệ ngữ đoạn (syntagmatical relation)
Quan hệ ngữ đoạn là quan hệ nối kết các đơn vị ngôn ngữ thành chuỗi
khi ngôn ngữ đi vào hoạt động. Cơ sở của nó chính là tính hình tuyến của
ngôn ngữ. Tính chất này bắt buộc các đơn vị ngôn ngữ phải nối tiếp nhau lần
lượt trong ngữ lưu để cho ta những kết hợp gọi là ngữ đoạn (syntagmes). Ví
dụ: Bàn này; Bàn này bằng gỗ; Bàn này bằng gỗ lim; Đã làm rồi; Còn vui hơn
nữa; Sẽ nhớ mãi…
Thực chất, quan hệ ngữ đoạn là quan hệ của tính tương cận. Nó liên
kết các yếu tố lại để tạo thành những đơn vị lớn hơn; chẳng hạn, liên kết các
hình vị để tạo từ; liên kết các từ để tạo nhóm từ; liên kết các từ, nhóm từ để
tạo câu; liên kết các câu để tạo đoạn văn bản hoặc văn bản…
Ta có thể hình dung quan hệ ngữ đoạn là quan hệ giữa các yếu tố, các
đơn vị, nối tiếp nhau trên một trục nằm ngang theo tuyến tính gọi là trục ngữ
đoạn. Trên trục này chỉ có những đơn vị đồng hạng (hiểu với nghĩa là thuộc
cùng cấp độ, có chức phận như nhau) thì mới trục tiếp kết hợp với nhau. Đó
là một nguyên tắc.
Chẳng hạn, từ trực tiếp kết hợp với từ (hoặc nhóm từ có chức phận
tương đương) chứ không phải là trực tiếp kết hợp với câu hoặc hình vị của từ
khác.
2.4.c. Quan hệ liên tưởng (associative relation)
Ở đây, chúng ta hãy dùng tên gọi này với nội dung bao gồm cả cái mà
trong một số tài liệu về ngôn ngữ học gọi là quan hệ hệ hình hay quan hệ đối
vị (paradigmatical relation).
Trên kia chúng ta đã thấy quan hệ ngữ đoạn là quan hệ hiện diện trên
tuyến tính, dựa vào sự nối tiếp nhau của hai hay nhiều yếu tố trên trục ngữ
đoạn.
Quan hệ liên tưởng là quan hệ "xâu chuỗi” một yếu tố xuất hiện với
những yếu tố khiếm diện đứng sau lưng nó và về nguyên tắc có thể thay thế
cho nó. Ví dụ:
1 - Đứng sau lưng từ chè trong ngữ đoạn đang uống chè là một loạt từ:
cà phê, bia, rượu, thuốc, nước… Chúng hoàn toàn đủ khả năng về nguyên
tắc để thay vào vị trí của chè.
2 - Đứng sau lưng dạng thức (…) của động từ tiếng Nga (…) là các
dạng thức (…), (…)…
Chúng sẵn sàng thay thế cho nhau "khi cần thiết".
Có thể biểu diễn hai ví dụ này dưới dạng như sau:
Đang uống OH
cà phê
chè
bia
rượu
thuốc
nước
‘…’
‘…’
‘…’
‘…’
‘…’
‘…’
Mỗi dãy yếu tố, đơn vị được lập thành nhờ quan hệ liên tưởng, gọi là
một dãy liên tưởng hoặc hệ đối vị (paradigme). Ta có thể hình dung dãy này
theo chiều của một trục thẳng đứng, vuông góc với trục ngữ đoạn; và gọi nó
là trục liên tưởng.
Sự liên tưởng có thể được tiến hành dựa trên tính tương đồng (chủ yếu
là tương đồng về mặt được biểu hiện) hoặc tính tương phản (đối lập, trái
nghĩa). Như vậy, quan hệ liên tưởng mang tính nội dung, dựa vào nội dung, ý
nghĩa hơn là quan hệ ngữ đoạn. Mặt khác nếu quan hệ ngữ đoạn là quan hệ
hiện diện giữa hai hay nhiều yếu tố trong các ngữ đoạn hiện thực thì quan hệ
liên tưởng lại là khiếm diện. Nó khiếm diện vì nó là sợi dây liên hệ giữa một
yếu tố xuất hiện với những yếu tố "đứng sau lưng” yếu tố này, trú ngụ trong
đầu óc, trong trí tuệ của người sử dụng ngôn ngữ.
Quan hệ liên tưởng cho phép người nói (người tạo lập văn bản) khi
muốn nói một cái gì đó được quyền lựa chọn lấy yếu tố thích ứng trong dãy
liên tưởng có thể có. Tuy nhiên, sự lựa chọn này cũng còn phải tùy thuộc vào
khả năng tổ hợp giữa các yếu tố được lựa chọn để đưa vào kết hợp trong
ngữ đoạn nữa. Chứng tỏ rằng mỗi một kết hợp, một ngữ đoạn, một phát ngôn
được hình thành, đều đã có sự chi phối, chế ước lẫn nhau và thống nhất với
nhau giữa quan hệ ngữ đoạn và quan hệ liên tưởng. Điều này thể hiện rõ
nhát và phát huy tác dụng trong khi tạo lập văn bản giao tiếp nói chung, đặc
biệt là trong sáng tác văn chương, nghệ thuật, thơ ca.
Ví dụ, trong câu thơ Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày của Tản
Đà, hẳn ông đã phải lựa chọn trong dãy liên tưởng như: khô-tuôn-cạn-ướt-
đẫm… chẳng hạn, để lấy ra một từ thỏa đáng nhất. Từ khô được lựa chọn vì
nó xứng với cái ý tác giả muốn nói; đồng thời bảo đảm sự tương hợp về mọi
quy tắc ngôn ngữ với các yếu tố đứng trước và sau nó trong ngữ đoạn.
5. Nhận ra các đơn vị, các yếu tố, các lớp hạng yếu tố của ngôn ngữ
cùng những quan hệ phức tạp, đa dạng giữa các yếu tố, các lớp hạng này, là
ta đã phát hiện ra được cấu trúc của nó. Mặt khác, qua đó, tính hệ thống của
ngôn ngữ cũng được làm sáng tỏ.
Tuy nhiên, nhận thức về hệ thống và cấu trúc của ngôn ngữ không phải
chỉ là "biết để mà biết". Điều này cho phép ngôn ngữ học nhìn nhận đối tượng
nghiên cứu của mình một cách toàn diện và sâu sác hơn. Chính từ chỗ thấy
được ngôn ngữ bao gồm nhiều loại đơn vị, yếu tố khác nhau, tạo thành nhiều
tiểu hệ thống, nhiều bộ phận khác nhau có tác động, quan hệ qua lại với nhau
mà trong ngôn ngữ học đã xây dựng những bộ môn nghiên cứu khác nhau, đi
sâu vào nghiên cứu từng mặt, từng bộ phận, từng tiểu hệ thống đó. Chẳng
hạn, ngữ âm học và âm vị học nghiên cứu cơ cấu âm thanh - mặt biểu hiện -
của ngôn ngữ; ngữ pháp học nghiên cứu cơ cấu ngữ pháp của ngôn ngữ; từ
vựng học nghiên cứu thành phần từ vựng của ngôn ngữ… Đến nay thì ngôn
ngữ đã được nghiên cứu ở những góc độ chi tiết hơn với nhiều bộ môn cụ thể
hơn nữa như: ngữ nghía học, phong cách học, ngữ pháp văn bản, từ nguyên
học… và nhiều bộ môn liên ngành khác như: ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ
học tâm lí… Các bộ môn đó có thể nghiên cứu trên góc độ chung đối với các
ngôn ngữ, và thuộc về các bộ môn đại cương (tức là nghiên cứu những vấn
đề chung, khái quát cho nhiều hoặc cho các ngôn ngữ). Ngược lại, chúng
cũng có thể nghiên cứu trong từng ngôn ngữ cụ thể như: ngữ âm học tiếng
Việt, từ vựng học tiếng Việt, ngữ pháp học tiếng Việt…
Một cấu trúc phức tạp của những đơn vị không đồng loại có quan hệ
qua lại với nhau; đó là cái điển hình đối với ngôn ngữ (A. Rephormatxki). Vì
vậy, khi xét một sự kiện ngôn ngữ nào đó, ta phải luôn luôn đặt nó trong hệ
thống. Tại đây, cấu trúc của hệ thống sẽ "thẩm định" phẩm chất của sự kiện
đó trong mối quan hệ với hàng loạt sự kiện khác, yếu tố khác. Ví dụ: xét một
yếu tố a. Nó là cái gì? Đặt vào tiếng Nga, trong tương quan với các từ ‘…’,
‘…’, ’…’… nó là một từ: liên từ a. Còn trong tương quan với các yếu tố như
‘…’, y, e, ‘…’, u… (như trong pyKoũ, pyny, pyKe, pyKu… chẳng hạn) thì a lại
là một hình vị để thể hiện các ý nghĩa giống cái, cách 1, số ít của danh từ.
Việc xác nhận ngôn ngữ mang tư cách của một hệ thống cho ta một sự
nhìn nhận trở lại đối với nguyên lí về tính võ đoán. Chính tính hệ thống của
ngôn ngữ đã chế ước tính võ đoán. Về điểm này, F.de. Saussure có nêu một
nhận xét quan trọng: Tất cả những gì có liên quan đến ngôn ngữ với tính cách
là một hệ thống đều đòi hỏi (…) được nhìn nhận trên quan điểm sau đây, một
quan điểm đã không dược các nhà ngôn ngữ học chú ý máy: sự hạn chế tính
võ đoán (…). Nguyên lí này, nếu có hiệu lực vô hạn độ, sẽ dẫn tới tình trạng
hết sức phức tạp; nhưng trí tuệ đã đưa được nguyên lí trật tự và đều đặn vào
một số bộ phận trong khối các tín hiệu, và chính đó là vai trò của cái có
nguyên do tương đối.
Cuối cùng, cũng cần nói thêm: hệ thống ngôn ngữ không phải là một
cái gì đấy cứng nhắc và hoàn toàn bất biến. Là một hệ thống thuộc loại hệ
thống chức năng, ngôn ngữ phải có những biến đổi để đáp ứng với yêu cầu
làm công cụ giao tiếp của con người.
Trong tiến trình phát triển của mình, hệ thống này hiện ra tư cách là cái
của ngày hôm nay, đang tồn tại và hành chức, nhưng chính nó cũng lại là sản
phẩm, là tài sản của ngày hôm qua, từ các thế hệ xa xưa truyền lại. Nó vừa là
kết quả của hiện tại, lại vừa là kết quả của quá khứ. Bởi vậy, người ta có thể
nghiên cứu ngôn ngữ ở một trạng thái cụ thể, vào một đoạn thời gian nào đó,
được giả: định như là “đứng im" không có thay đổi gì, hệ thống ngôn ngữ
được coi như là hoàn toàn ổn định… Nghiên cứu như thế gọi là nghiên cứu
đồng đại (synchronic). Ngược lại, người ta có thể nghiên cứu ngôn ngữ (các
yếu tố, các bộ phận của nó) đã có những biến đổi gì, biến đổi như thế nào…
trong các trạng thái xét theo tiến trình lịch sử… Hướng nghiên cứu này gọi là
nghiên cứu theo quan điểm lịch đại (diachronic).
Đồng đại và lịch đại không đối nghịch nhau mà thống nhất biện chứng
với nhau. Nếu ta coi mỗi trạng thái ngôn ngữ như một "lát cắt" đồng đại thì
lịch đại chính là một dãy liên tục mang tính kế thừa của chính những lát cắt
đồng đại đó. Ngược lại, đối với lịch đại, mỗi lát cắt đồng đại chỉ là một sự
phân cắt ít nhiều mang tính chất ước lượng mà thôi.
Chương 3. NGUỒN GỐC VÀ DIỄN TIẾN CỦA NGÔN NGỮ
Các dạng ngôn ngữ đã và đang hiện diện trên hành tinh của chúng ta,
hết sức đa dạng và sinh động. Mỗi ngôn ngữ cụ thể như thế lại có một nguồn
gốc trực tiếp hoặc gián tiếp của nó, với những chiều hướng biến động, phát
triển không phải bao giờ cũng hoàn toàn như nhau. Tuy nhiên, đó là những
vấn đề được nghiên cứu riêng cho từng ngôn ngữ một.
Ở đây, chúng ta sẽ chỉ nói đến những "chuyện chung" của ngôn ngữ
trong xã hội loài người nói chung.
I. NGUỒN GỐC CỦA NGÔN NGỮ
1. Không phải chỉ có chúng ta hôm nay mới tự hỏi: ngôn ngữ của con
người ra đời từ đâu? nhờ ai, nhờ cái gì?… Việc đặt những vấn đề đại loại
như thế và lời giải đáp cho chúng, thực ra đã có không ít và có từ lâu, thậm
chí từ xa xưa.
Khi đức tin vào sức mạnh sáng tạo vạn năng nơi Thượng Đế bị đổ vỡ
(vì chẳng bao giờ có Thượng Đế cả) thì không ai còn nghĩ rằng Thượng Đế
đã tạo ra loài người chúng ta và cho ta ngôn ngữ để ta biết nói như biết thở
vậy.
Người ta cũng đã cố gắng đi tìm nguồn gốc ngôn ngữ ở trần gian, nơi
ngôn ngữ đang tồn tại và hoạt động. Thế là các giải thuyết như: thuyết tượng
thanh, thuyết về tiếng kêu động vật, thuyết về tiếng kêu trong phối hợp lao
động, thuyết cảm thán bộc lộ tâm lí tình cảm, thuyết quy ước xã hội… lần lượt
xuất hiện. Ngày nay, bình tĩnh mà xét, các giả thuyết đó đều có phần đúng
của nó, nhưng tiếc thay, chỉ đúng được với một vài sự kiện hoặc hiện tượng
ngôn ngữ mà thôi. Nhìn nhận như thế về nguồn gốc ngôn ngữ, thật chẳng
khác nào thấy một vài cây đã vội kết luận cho rừng bởi vì "thấy cây mà chẳng
thấy rừng”.
2. Với sự ra đời của triết học day vật biện chứng, vấn đề nguổn gốc
ngôn ngữ được xem xét vi zr.iT. z::h một cách toàn diện hơn. khoa học và
hợp lí hơn: con nr::: -i:."U thể sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ; vậy phái tìm
hiếu su ra ir: của ngôn ngữ gán liền với nghiên cứu nguốn góc con nguời cả
trong quá trình phát sinh giống nòi lẫn quá trình phát sinh và phát triển của
mỗi cá thể.
Các kết quả nghiên cứu vể triết học. sinh vật học, khảo cổ học, sinh lí
học thần kinh và ngôn ngữ học… kết luận rằng lao động đã làm phát sinh,
phát triển loài người và làm phát sinh ngôn ngữ trong quá trình đó.
2.a. Hàng triệu năm trước đây, tổ tiên của chúng ta vốn là một loài
vượn người sống trên cây trong những cánh rừng tiền sử. Do nhiều biến
động của tự nhiên, những cánh rừng ấy bị tiêu diệt. Thức ăn trên tầng cây
cao ngày càng trở nên khó kiếm. Loài vượn người ấy buộc lòng phải rời ngọn
cây cao (vốn là nơi trú ẩn, sinh sống từ lâu đời) xuống đất đi lang thang kiếm
ăn.
Trên mặt đất, sự di động chủ yếu không còn là leo trèo như trên cây
nữa; đã thế kẻ thù lại nhiều hơn… Việc tìm kiếm thức ăn và tự vệ để sinh
tồn… đã buộc loài vượn người này tập dần được cách đi bằng hai chi sau và
đứng thẳng mình lên. Cái bản lề trong quá trình chuyển biến từ vượn thành
người chính là việc đứng thẳng mình lên và đi bằng hai chân đó. Để có được
dáng đứng thẳng lên, loài vượn người xưa kia đã phải "tập đi" hàng nghìn
năm chứ không đơn giản như một em bé tập đi bây giờ, chỉ độ một tháng là
xong.
Thế là hai tay con vượn người được giải phóng. Đôi chân bây giờ hoàn
toàn đảm đương việc đi lại. Đôi tay ngày càng trở nên khéo léo hơn, biết sử
dụng các vật sản có làm công cụ tự vệ, kiếm ăn; và quan trọng hơn: nó biết
chế tạo ra công cụ lao động. Con vượn người đã chuyển dẩn thành con
người vượn rồi thành người (người nguyên thủy).
Dáng đứng thẳng cũng làm cho tầm mắt của tổ tiên chúng ta được rộng
và xa hơn; đồng thời lồng ngực nở hơn và những cơ quan của bộ máy phát
âm có điểu kiện phát triển hơn.
Mặt khác, có công cụ trong tay, những con người tiền sử đó kiếm được
nhiều thức ăn hơn và chuyển dẩn từ đời sống ăn thực vật (cây, quả, củ, rễ…)
sang đời sống ăn thịt. Thêm vào đó, việc tìm ra và sử dụng được lửa cũng đã
khiến họ chuyển từ ăn sống sang ăn chín. Một hệ quả quan trọng đã diễn ra,
thức ăn chín mém khiến xương hàm người ta không cần phải to thô như
trước nữa; lồi cằm (phần trước xương hàm dưới) vểnh ra rõ dần.
Tuy nhiên, trong số các biến đổi vễ mặt sinh học của con người sự tiến
bộ của bộ não là quan trọng nhất. Nhờ lao động, nhờ ăn thịt, bộ não của tổ
tiên chúng ta cũng phức tạp dần lên; những phần vỏ não trực tiếp liên quan
đến tiếng nói như thùy trán, thùy thái dương và phần dưới thùy đỉnh, phát
triển mạnh. Kết cục là so với những người bà con anh em họ của tổ tiên
chúng ta bộ não con người ngày nay (tính theo tỉ lệ giữa trọng lượng của não
với trọng lượng toàn thân) lớn hơn khi đột 10 lần, hơn đười ươi 6 lần, hơn khỉ
đen 2 lần và hơn vượn 4 lần.
Như vậy, lao động đã tạo ra con người và tạo ra những tiền đề thứ nhất
về mặt sinh học để ngôn ngữ cơ thể phát sinh. Có thể nói lao động để chuẩn
bị và "tạo cơ sở vật chất” để loài người có những cơ quan thích hợp cho việc
sản sinh tiếng nói.
2.b. Cũng chính lao động đã tạo ra nhân tố xã hội để ngôn ngữ phát
sinh. Lao động đã liên kết con người thành những bầy đàn, những cộng đồng
và về sau thành xã hội có tổ chức. Muốn cùng chung sức để làm việc gì đó,
người ta cần phải thỏa thuận với nhau là sẽ làm gì, làm như thế nào… Những
điều "biết được" về thế giới xung quanh, những kinh nghiệm trong lao động
cần phải được thông báo cho nhau từ người này sang người khác, từ thế hệ
này sang thế hệ khác…
Đến đây thì con người (dù là người cổ nhất) đã khác con vật về chất.
Người ta đã đến lúc thấy "cần phải nói với nhau một cái gì đó" bởi vì họ đã có
cái cần phải nói với nhau và có phương tiện để nói với nhau. Phương tiện ấy
chúng ta gọi là ngôn ngữ. Vậy không có ai khác, chính lao động đã sáng tạo
ra con người và ngôn ngữ của con người. Lao động đã làm cho bộ óc của
con người cổ xưa biết hoạt động "theo kiểu người" và có một công cụ vừa để
tiến hành những hoạt động đó, vừa làm phong phú hóa nó, nâng nó lên "trình
độ của con người". Đó là ngôn ngữ.
2.c. Tự bản chất của mình, từ khi mới phat sinh, ngôn ngữ vốn là công
cụ, là phương tiện để con người giao tiếp với nhau. Thế nhưng lúc đầu nó
chưa phải là ngôn ngữ như chúng ta đang có hôm nay; mà là thứ ngôn ngữ
chưa phân thành âm tiết rõ ràng, bởi vì cái lưỡi, cái cằm và hàm dưới, hệ dây
thanh… chưa phù hợp, thuần thục với công việc mới mẻ, đầy phức tạp công
việc phát tiếng nói này; thậm chí có bộ phận còn đang trên đường hoàn thiện
dần.
Tuy vậy, người ta không đợi cho mọi bộ phận cấu âm phát triển thật
hoàn chỉnh rồi mới nói với nhau. Những tiếng nói còn lẫn, còn nhòe, và ú ớ đó
đã được phối hợp với các động tác, dáng vẻ của cơ thể, mặt mũi, vai, tay,
chân (nhất là đôi tay) để "phát biểu" ý nghĩ, tình cảm của họ. Thoạt đầu tiếng
nói của con người chưa khác các điệu bộ bao nhiêu. (Điều này còn để lại
những tàn dư của nó trong một số ngôn ngữ mà hiện nay ta còn thấy được.
Chẳng hạn, trong ngôn ngữ dân tộc Êvê, người ta không dùng một từ đi mà
lại dùng nhiều từ khác nhau, miêu tả các kiểu đi khác nhau.
dô bô hô bô hô: đi nặng nề, phục phịch
dô dê dê: đi một cách vững vàng
dô bu la bu la: đi nhanh bừa đi
dô pi a pi a: đi rón rén
dô gô vu gô vu: đi khập khiễng, đầu chúi xuống…)
Dần dần, con người sử dụng tiếng nói thành thạo hơn và bỏ xa những
cách "phát biểu" bằng cử chỉ, động tác; bởi lẽ ngôn ngữ thành tiếng của họ
ngày càng mạch lạc hơn, hoàn thiện hơn, trở thành hệ thống tín hiệu thứ hai,
hệ thống "tín hiệu loan báo các tín hiệu”.
Hoạt động tín hiệu là hiện tượng chung cho mọi loài động vật trên hành
tinh chúng ta; nhưng con người, với ngôn ngữ của mình đã có thêm một
phương thức mới, khác hẳn vệ chất. Nhờ có ngôn ngữ này mà từ đây, ngay
trong đêm đen, con người nghe được (tức là nhận được) một tín hiệu có
nghĩa "mặt trời" chẳng hạn, thì anh ta đã nghĩ tới, đã hình dung ra mặt trời rồi,
không cần phải đợi cho đến khi nhìn tận mắt nữa.
Đối với động vật, chỉ có những kích thích trực tiếp về thị giác, thính
giác, khứu giác, xúc giác mới trở thành tín hiệu kích thích được. Ngược lại,
đối với con người, ngoài những thứ đó, người ta còn có các từ trong ngôn
ngữ để thay thế cho chúng. Đến đây thì cái gọi là ngôn ngữ thực sự hình
thành và không bao giờ rời xa loài người nữa.
II. DIỄN TIẾN CỦA NGÔN NGỮ
Ở trên, chúng ta đã phân tích và thấy rằng ngôn ngữ xuất hiện cùng với
quá trình hình thành ý thức, gắn liền với lao động, với sự xuất hiện của con
người và xã hội loài người. Vậy, xem xét quá trình diễn tiến của ngôn ngữ
trong sự diễn tiến của xã hội loài người sẽ là điều hợp lí.
Về mặt dân tộc học, người ta đã phân loại các đơn vị tổ chức xã hội
loài người thành các bậc: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và cuối cùng là dân tộc. Bên
cạnh đó, học thuyết về các hình thái kinh tế xã hội lại phân chia lịch sử xã hội
theo một cách khác và được các hình thái kinh tế xã hội ứng xử với các giai
đoạn phát triển như: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa.
Trên thực tế, khó lòng có thể vạch ra từng bậc trong sự diễn tiến của
ngôn ngữ một cách "phân đoạn" như vậy. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất
định, người ta vẫn có thể dựa vào những ranh giới phân đoạn đó nhiều hoặc
ít, tùy theo, vì chẳng còn có cách nào hơn.
1. Chế độ công xã nguyên thủy ứng với loại cộng đồng thị tộc và bộ lạc
(còn gọi chung là các nhóm dân tộc học) trong đó bộ lạc là đơn vị cơ sở.
Mỗi bộ lạc như thế cư trú trên một lãnh thổ, mọi người trong bộ lạc có
quan hệ kinh tế với nhau, mang những đặc điểm đời sống - văn hóa chung và
nói cùng một thứ tiếng.
Về mặt ngôn ngữ, thời kì này có hai xu hướng dường như trái ngược
nhau, nhưng nhiều khi lại đan xen vào nhau: xu hướng chia tách, phân tán và
xu hướng liên minh, hợp nhất.
a) Xu hướng chia tách thường xảy ra khi một bộ lạc tăng trưởng dân số
không ngừng và đến một lúc nào đó, do nhiều điều kiện khác nhau (nhưng
nhu cầu sinh sống là chủ yếu) buộc người ta tự nhiên phải tách ra thành
những bộ phận, những nhóm, cư trú phân tán trên nhiều địa bàn khác nhau.
Do điều kiện sống xa nhau, thậm chí biệt lập, rất ít tiếp xúc hoặc không có tiếp
xúc nữa, các bộ phận cư dân đó về sau đã hình thành nên (một cách tự
nhiên) những bộ lạc độc lập.
Trong quá trình đó, những khác biệt về mặt ngôn ngữ đã nảy sinh rồi
được củng cố qua nhiều thế hệ và trở thành ngôn ngữ khác nhau có cùng
nguồn gốc, hoặc trở thành những phương ngữ, thổ ngữ khác nhau của một
ngôn ngữ chung. Các nhà dân tộc học, sử học, ngôn ngữ học cùng với những
ngành khoa học hữu quan, khi nghiên cứu sự thân thuộc về mặt cội nguồn
giữa các tộc người, giữa các ngôn ngữ hiện đang tồn tại hoặc giữa các
phương ngữ của một ngôn ngữ, đã thấy rất rõ điều đó. Chẳng hạn: Các nhóm
phương ngữ: Mày, Rục, Sách, Arem, Mãliểng của tiếng Chứt; các nhóm
phương ngữ: Thổ, Poọng, Đan Lai, Li Hà, Cuối Chăm, Cuối Niêu của tiếng
Thổ ở khu vực Đông Nam Trường sơn - Việt Nam; Các phương ngữ của
tiếng Papua ở Châu Phi, các phương ngữ của tiếng Litva ở Liên Xô… hẳn đã
là kết quả của quá trình chia tách và khuếch tán như vậy.
Có thể nói, ngôn ngữ của các bộ lạc, tự nó đã là những mầm mống để
hình thành các phương ngữ, thổ ngữ trong giai đoạn xã hội phát triển cao hơn
sau này.
b) Xu hướng hợp nhất có lẽ hay xảy ra vào giai đoạn chót của chế độ
công xã nguyên thủy đang chuyển dần sang xã hội có giai cấp. Lúc này, có
những liên minh bộ lạc được hình thành (hoặc là bằng cách một bộ lạc này
chinh phục các bộ lạc khác, hoặc là một số bộ lạc tự nguyện liên minh với
nhau vì những nguyên nhân nào đó).
Liên minh bộ lạc là điều kiện hết sức thuận lợi để các ngôn ngữ (dù
không gần gũi nhau lắm về mặt cội nguồn, hoặc hoàn toàn không có quan hệ
thân thuộc đi chăng nữa) tiếp xúc chặt chẽ với nhau và tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau. Thường có hai lối tác động:
Thứ nhất, một ngôn ngữ bộ lạc chiến thắng các ngôn ngữ khác và trở
thành ngôn ngữ chung trong cộng đồng toàn liên minh. Tuy vậy, nó vẫn chịu
ảnh hưởng của các ngôn ngữ không chiến thắng khác và thay đổi ít nhiều bộ
dạng của mình đi; nhất là ở mặt ngữ âm và từ vựng. Tiếng Latin của người La
Mã trong các vùng bị người La Mã chinh phục, là như vậy.
Thứ hai, tiếp xúc ngôn ngữ dẫn đến pha trộn ngôn ngữ và thậm chí có
thể làm nảy sinh một ngôn ngữ mới. Thế nhưng, đây không phải là sự pha
trộn cơ giới, đảo đều; cũng không phải là sự tạo thành một ngôn ngữ hoàn
toàn mới, khác hẳn các ngôn ngữ tham gia tiếp xúc, pha trộn; bởi vì ngôn ngữ
mới này vẫn giữ cơ cấu hình thái của một trong những ngôn ngữ thuộc thành
phần pha trộn đó làm cơ sở nên tảng cho mình. Chính nhờ cái cơ sở (gọi là
cơ tầng) đó mà người ta vẫn xác định được ngôn ngữ mới thân thuộc với
ngôn ngữ nào hơn và thuộc vào nhóm nào trong phổ hệ của họ ngôn ngữ.
Lối tiếp xúc, ảnh hưởng như thế, ngay gần đây, người ta vẫn còn có
thể kiểm chứng được trong không hiếm ngôn ngữ hiện đang tổn tại. Ví dụ:
1/ Tiếng Việt trong quá trình tiếp xúc láu đời với tiếng Hán, đã vay
mượn vào vốn từ của mình một khối lượng rất lớn các từ và yếu tố tạo từ
cùng với một số ảnh hưởng khác về mặt ngữ pháp; nhưng không vì thế mà
nó thuộc cùng một nhóm gấn gũi về cội nguồn với tiếng Hán.
Ở châu Âu, quan hệ giữa tiếng Anh với tiếng Pháp; tiếng Rumani với
các ngôn ngữ Slave và tiếng Hi Lạp, tiếng Hung, người ta cũng thấy những
tình hình tương tự: tiếng Anh vẫn thuộc số các ngôn ngữ Giecman, còn tiếng
Pháp, tiếng Rumani vẫn thuộc về các ngôn ngữ Roman.
2/ Theo A.G.Odricua, người Sán Chấy ở Việt Nam vốn là người Dao
gốc Quý Châu - Trung Quốc, di cư đến Quảng Đông rồi di cư sang Việt Nam
sống chung với người Tày, Nùng. Tại đây, ngôn ngữ của họ, tiếng Sán Chấy,
là một ngôn ngữ pha trộn gồm cơ tiếng Dao với tiếng Tày Nùng.
Như vậy, điểm nổi rõ về mật ngôn ngữ trong thời kì công xã nguyên
thủy, thời kỉ của các thị tộc, bộ lạc là luôn luôn diễn ra quá trình chia tách và
liên minh, tiếp xúc. Một mặt, sự chia tách làm gia tăng số lượng các ngôn ngữ
khác nhau hoặc các phương ngữ, thổ ngữ khác nhau trong một ngôn ngữ;
mặt khác, sự tiếp xúc lại dẫn đến tình trạng gần nhau, và tới một mức nào đó
sẽ dẫn đến pha trộn ngôn ngữ.
2. Thay thế chế độ công xã nguyên thủy là chế độ xã hội có giai cấp,
gắn lieefn với sự thiết lập nhà nước (trước hết là những nhà nước cổ đại)
theo kiểu nào đó của phương Đông hoặc phương Tây.
Tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở từng nơi mà các nhà nước đó đã
được xây dựng bằng những cách khác nhau, bởi những nguyên nhân ít nhiều
khác nhau. Các nhà nước cổ đại ở Hi Lạp, La Mã, Ai Cập, Ấn Độ. Trung Hoa
và vùng Cận Đông là sản phẩm của những bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc chiến
thắng để thống trị các tộc người khác trong cộng đồng. Một số nơi khác (rất
có thể như nước Văn Lang ở Việt Nam thời xưa chẳng hạn) lại xây dựng nhà
nước trên cơ sở của một liên minh tự nguyện, thiết lập chính quyền trung
ương thống nhất, khả dĩ tập trung sức mạnh toàn cộng đổng để đối phó với
thiên tai hoặc các cuộc xâm lãng, thôn tính của ngoại nhân.
Nhà nưóc ra đời đòi hỏi trong cộng đồng phải có một ngôn ngữ thống
nhất làm ngôn ngữ nhà nước. Ngôn ngữ đó có thể là một ngôn ngữ bản địa
của người chiến thắng như tiếng Latin từ sau năm 49 trước công nguyên ở
đế quốc La Mã, tiếng Xôngai trong lãnh thổ của nhà nước Xôngai (ở châu
Phi) trước đây; cũng cổ thể là ngôn ngữ của bộ lạc làm hạt nhân, trung tâm
cho nhà nước như tiếng Việt trong lãnh thổ nước Vãn Lang thời xưa. Mặt
khác, ở một số nơi, cùng với sự hình thành nhà nước là quá trình xuất hiện,
xây dựng chữ viết (hoặc là tự sáng tạo, hoặc là vay mượn, cải biên, hoặc là
tiếp thu hẳn một hệ thống của ngoại tộc).
Người nắm được và sử dụng chữ viết lúc đó chủ yếu là các trí thức
trong tầng lớp thống trị, các tăng lữ thuộc các tôn giáo hoặc thương nhân
(như ở Cận Đông và vùng Địa Trung Hải). Vì vậy, trong giai đoạn này ngôn
ngữ nhà nước không phải ở nơi nào cũng đồng thời là ngôn ngữ của toàn
dân. Thậm chí, khi nhà nước đã đạt tới trình độ quản lí tổ chức và tập trung
cao (như trong chế độ phong kiến về sau chẳng hạn) thì cái gọi là ngôn ngữ
nhà nước, ngôn ngữ có tính chính thống thường cũng có nghĩa là ngôn ngữ
viết, phân biệt với ngôn ngữ nhân dân (là ngôn ngữ dùng trong giao tiếp rộng
rãi hàng ngày) và có khi nó xa cách với ngôn ngữ nhân dân.
Điều này còn diễn ra cho tận đến lúc ngôn ngữ dân tộc dần dần chiếm
ưu thế trong mọi phạm vi giao tiếp của cả nước.
Dầu sao thì sự ra đời của nhà nước cũng đã có ảnh hưởng đến ngôn
ngữ. Nó là nhân tố vừa đòi hỏi, vừa thúc đẩy việc tìm kiếm, xây dựng một
ngôn ngữ chính thức, thống nhất về phương diện quốc gia. Dù có đồng thời là
ngôn ngữ toàn dân hay không.
3. Nét nổi bật trong thời kì hình thành dân tộc là hình thành một ngôn
ngữ dân tộc thống nhất.
Dân tộc vốn là một phạm trù lịch sử, xuất hiện vào một giai đoạn nhất
định, với những điều kiện và hoàn cảnh nhất định.
Một trong những điều kiện quan trọng bắt buộc, để bảo đảm một cộng
đồng người hình thành một dân tộc (ví dụ như điều kiện về lãnh thổ, về kinh
tế, về cấu tạo tâm lí và văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần…) là cộng đồng đó
phải có một ngôn ngữ chung.
Tuy nhiên, ngôn ngữ chính thức, thống nhất của nhà nước với ngôn
ngữ thống nhất của dân tộc không phải bao giờ cũng trùng nhau. Tình trạng
này hiện nay chúng ta vẫn còn quan sát được ở nhiều nước châu Phi: tại đó,
có nhiều ngôn ngữ của các dân tộc bản địa, nhưng ngôn ngữ nhà nước lại là
một thứ tiếng châu Âu nào đó, được phổ biến từ thời thực dân. Ví dụ tiếng
Anh ở Nigiêria, tiếng Pháp ở Mali và Ghinê…
Dân tộc được hỉnh thành, làm tăng cường thêm sự thống nhất về nhiều
mặt, trong đó có thống nhất ngôn ngữ. Những dị biệt của ngôn ngữ mang tính
xã hội hoặc lãnh thổ giữa các bộ lạc, bộ tộc bị triệt thoái dân; còn những nét
chung, thống nhất càng ngày càng được phát hiện, xây dựng và củng cố để
thành tài sản chung của tất cả mọi người.
Thông thường, ngôn ngữ dân tộc có thể được xây dựng trên cơ sở của
một phương ngữ có sẵn (thường là phương ngữ ở vùng trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa trong quan hệ nhà nước) hoặc xây dựng trên cơ sở của các
tác động qua lại dẫn đến sự tổng hòa, có chọn lọc từ các phương ngữ khác
nhau. Ví dụ, có thể coi tiếng Việt với phương ngữ Bắc (mà trung tâm là hai
vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã) thuộc trường hợp thứ nhất; còn tiếng
Nga với sự tổng hòa các phương ngữ Bắc Nga và Nam Nga cùng một phần
tiếng Slave cổ, thuộc về trường hợp thứ hai.
Tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc, tuy vậy, vẫn buộc phải chấp
nhận tình trạng còn tổn tại những phương ngữ địa lí và phương ngữ xã hội.
Đó là sự thực hiển nhiên mà chúng ta hoàn toàn có thể quan sát được thống
nhất trong cái đa dạng, và đa dạng trên một căn bản thống nhất. Tiếng Việt,
tiếng Hán, tiếng Khmer, tiếng Lào, tiếng Thái Lan cũng như tiếng Nga, tiếng
Pháp, tiếng Anh… đều như thế.
Sự hình thành ngôn ngữ dân tộc thống nhất cũng sẽ thường dẫn đến
việc xây dựng ngôn ngữ văn học (hiểu theo nghĩa rộng, không phải chỉ là
ngôn ngữ trong văn học nghệ thuật). Đó là thứ ngôn ngữ có quy chế, được
trau dồi dù có chính thức hay không.
Thật ra, quá trình hình thành ngôn ngữ dân tộc và xây dựng ngôn ngữ
văn học (của dân tộc) không phải bao giờ cũng đi đôi với nhau hoặc tiếp liễn
nhau. Trong khi ở Hi Lạp cổ đại, ngôn ngữ văn học được xây dựng từ rất sớm
(thế ki III trước Công nguyên) thì trước đầy và ngay cả thời gian không xa so
với hiện nay, ở nhiều nơi người ta dùng hẳn một ngôn ngữ khác (cùng với
chữ viết của nó) để làm ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ nhà nước. Ngôn ngữ
văn học như thế cũng đồng thời chỉ có nghĩa là ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ đó
thường là của những dân tộc khác có nền văn hóa, văn học hết sức rực rỡ.
Chẳng hạn một số nước Châu Âu dùng tiếng Latin; vùng Bắc Phi và Tiểu Á,
một số nước dùng tiếng A Rập; còn vùng Lào, Thái Lan, Campuchia dùng
tiếng Pali Sanskrit; Việt Nam dùng tiếng Hán…
Khi ngôn ngữ dân tộc dần dần khẳng định được vai trò và vị trí của
mình, nó cũng sẽ được nhân dân tích cực trau dồi, làn cho có quy chế, có
chuẩn mực cả ở hình thức nói lẫn hình thức viết. Do vậy, nó được dùng trong
mọi lĩnh vực giáo dục, văn hóa văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng… Từ
đây, ngôn ngữ dân tộc của nhân dân được lựa chọn, được suy chế hóa để
trở thành ngôn ngữ văn học của dân tộc mình.
4. Xem xét diễn tiến của ngôn ngữ loài người nói chung cũng như của
một ngôn ngữ nói riêng, hầu như người ta hiếm gặt những trường hợp biến
đổi và phát triển đơn tuyến. Những điều trình bày trên đây, quả thực đã có
phần đơn giản hóa vấn đề rất nhiều để cho phù hợp với mục đích của chúng
ta: chỉ quan sát những đường hướng khái quát và giản lược nhất mà thôi.
Dù sao thì ngôn ngữ cũng không bao giờ không biến đổi. Chỉ có điều,
khi khảo sát diễn tiến của bất kì ngôn ngữ nào cũng vậy cần lưu ý rằng:
a) Nó không phát triển, biến đổi theo phương thức đột biến và cách
mạng, mặc dù luôn luôn biến đổi không ngừng.
b) Trong các quá trình biến đổi, do những tác động ảnh hưởng nhiều
chiều, nhiều kiểu của nhiều nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ, thì ba mặt: ngữ
âm, từ vựng và ngữ pháp của nó vẫn không biến đổi đồng đều như nhau. Để
thực hiện được chức năng làm công cụ giao tiếp và phản ánh, bảo đảm cho
mọi người sử dụng có thể hiểu được nhau, mặt từ vựng của ngôn ngữ bao
giờ cũng thay đổi nhanh nhạy nhất, mặt ngữ âm biến đổi chậm hơn rất nhiều
so với từ vựng, còn ngữ pháp là bộ phận biến đổi chậm nhất và ít nhiều nó
mang tính cách của một nhân tố, một thành phần bảo thủ.
Đối với việc nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử của ngôn ngữ nói
chung hay từng mặt, từng bộ phận của nó nói riêng, nhận thức đó là một
trong những điều rất có ý nghĩa và cần thiết.
Chương 4. PHÂN LOẠI CÁC NGÔN NGỮ
I. CÁC NGÔN NGỮ TRÊN THẾ GIỚI VÀ CƠ SỞ PHÂN LOẠI
1. Hiện nay chưa có một ngôn ngữ chung cho tất cả mọi người trên trái
đất, mà chỉ có những ngôn ngữ riêng, cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng
người.
Theo thống kê mới đây, trên thế giới có khoảng 5.650 ngôn ngữ. Tuy
nhiên, con số này chưa phải là tuyệt đối chính xác, vì nó còn liên quan đến
tiêu chí: thế nào là một ngôn ngữ độc lập. Trong số ngôn ngữ vừa nêu, có
khoảng 1400 "ngôn ngữ” chưa phải là những ngôn ngữ độc lập hoặc đang có
nguy cơ bị tiêu biến.
Về mật độ phân bố, số lượng ngôn ngữ ở mỗi khu vực trên trái đất,
cũng như số người sử dụng mỗi ngôn ngữ, rất không đồng đều. Chẳng hạn,
chỉ riêng khu vực rừng núi Đông Nam Á đã có tới 180 ngôn ngữ khác nhau
(có thể nói đó là một mật độ rất dày). Ở châu Úc, khoảng 250 ngôn ngữ chỉ có
khoảng hơn 40.000 người sử dụng.
Trong xu thế ngày càng mở rộng quan hệ giữa các dân tộc, các quốc
gia từ trước đến nay và từ nay về sau, việc dạy và học tiếng luôn luôn đống
hành với những việc thuộc loại, phải đi trước một bước. Mặt khác, nghiên cứu
lịch sử một dân tộc cũng không thể tách rời lịch sử ngôn ngữ của dân tộc đó.
Bởi vậy, ngôn ngữ học đã lưu tâm nghiên cứu, so sánh, phân loại các ngôn
ngữ để giúp tìm ra những con đường tối ưu cho công việc đó.
2. Việc phân loại các ngôn ngữ có thể dựa vào những tiêu chí bên
ngoài chúng như: số lượng người nói, chủng tộc, ranh giới địa lí… Thế
nhưng, những cách làm đó ngay từ đầu đã bộc lộ sự thiếu nghiêm chỉnh,
thiếu khoa học và không đem lại lợi ích gì.
Vì vậy, người ta phải dựa vào những tiêu chí ở ngay trong bản thân
ngôn ngữ.
3. Khi phân loại các ngôn ngữ, người ta buộc phải so sánh chúng với
nhau, bởi vì "chúng ta nhận thức mọi diều trong thế giới này, không có con
đường não khác là thông qua so sánh" (K.D. Usinxkij).
Những phương pháp cơ bản thường được áp dụng trong so sánh ngôn
ngữ là:
3.a. Phương pháp so sánh lịch sử. Phương pháp này chủ yếu áp dụng
cho nghiên cứu, phân loại các ngôn ngữ theo cội nguồn. Mục đích của nó là
phát hiện những nét phản ảnh quan hệ thân thuộc, gần gũi về nguồn gốc giữa
các ngôn ngữ để quy chúng vào những phổ hệ ngôn ngữ cụ thể khác nhau.
3.b. Phương pháp so sánh loại hình. Phương pháp này chủ yếu áp
dụng cho nghiên cứu, phân loại các ngôn ngữ theo loại hình. Mục đích chính
của nó là nghiên cứu những đặc trưng của các loại hình ngôn ngữ và nghiên
cứu những đặc trưng về mặt loại hình của các ngôn ngữ, để quy các ngôn
ngữ cụ thể vào những loại hình khác nhau.
3.C. Phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp này áp dụng cho
việc đối chiếu các ngôn ngữ khác nhau, bất kể chúng có quan hệ nào về mặt
cội nguồn hoặc loại hình hay không. Nó không nhằm phát hiện quan hệ cội
nguồn hay sự tương đồng về loại hình giữa các ngôn ngữ đó; mà nhằm vào
mục đích phát hiện những tương đồng và khác biệt chủ yếu trên diện đồng
đại ở một hay nhiều bình diện, bộ phận của các ngôn ngữ dó.
Ví dụ, người ta có thể đối chiếu ngay tiếng Anh ở nước Anh với tiếng
Anh ở Hoa Kì và thấy rằng có nhiều dị biệt trong việc dùng giới từ. Không
phải là ít trường hợp, khi người Anh dùng giới từ in thì người Mĩ lại dùng on
in the street on the Street
in the train on the train
Về từ vựng ngữ nghĩa cũng vậy. Cũng là tiếng Anh cả, nhưng nếu
người Anh dùng subway với nghĩa là "đường ngầm dành riêng cho người đi
bộ" thì người Mĩ lại dùng nó với nghĩa là "đường xe điện ngầm". Trong khi đó,
để chỉ "đường xe điện ngầm" người Anh dùng từ underground hoặc tube.
Cùng là cái vỉa hè, người Anh gọi là pavement, còn người Mĩ lại gọi là
sidewalk.
Đối với phương pháp so sánh đối chiếu, cần chú ý phân biệt ngôn ngữ
là đối tượng nghiên cứu (A) với ngôn ngữ là phương tiện nghiên cứu (B). Nếu
A là đối tượng nghiên cứu thì B chỉ là cái đưa ra đối sánh với A để làm sáng
tỏ những điều mà người nghiên cứu cần quan tâm trong A mà thôi. Chẳng
hạn, người ta có thể đối chiếu hệ thống ngữ âm tiếng Việt với một hệ thống
ngữ âm X nào đó để dạy tiếng Việt cho người dùng tiếng X là ngôn ngữ mẹ
đẻ; hoặc có thể đối chiếu những vấn đề ngữ pháp như: thời gian của thời, các
ý nghĩa của các thể… trong tiếng Anh, tiếng Nga với tiếng Việt, để góp phần
dạy tiếng Anh, tiếng Nga cho người Việt được tốt hơn.
II. PHÂN LOẠI CÁC NGÔN NGỮ THEO CỘI NGUỒN
1. Tiến đề cho cách phân loại này
Việc phân loại các ngôn ngữ theo cội nguồn dựa trên những tiền đề
chính sau đây:
1.a. Trong lịch sử, có những ngôn ngữ mà vì một lí do nào đó đã bị chia
tách ra thành nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ bị chia tách đó thường
được gọi là ngôn ngữ mẹ hay ngôn ngữ cổ sơ. Như vậy, về nguyên tắc, có
thể tìm tòi ngược dòng thời gian lịch sử của những ngôn ngữ được giả định ià
vốn cùng "sinh ra” từ một ngôn ngữ mẹ, để quy chúng vào những nhóm,
những chi, những ngành, những dòng… khác nhau, tùy theo mức độ quan hệ
thân thuộc nhiều hay ít.
Ví dụ, các ngôn ngữ quanh sa mac Sahara thuộc họ ngôn ngữ Sêmit
hiện nay, là kết quả của sự chia tách một ngôn ngữ chung từ thời xa xưa.
Còn ở Việt Nam, có thể quy tiếng Việt và tiếng Mường vào một nhóm gọi là
nhóm các ngôn ngữ Việt - Mường cùng với các tiếng như: tiếng Chứt, tiếng
Nguồn…
1.b. Ba mặt: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của ngôn ngữ và các tiểu hệ
thống của nó biến đổi không đồng đều, có những mặt, những yếu tố, những
bộ phận được bảo toàn rất lâu dài; nhưng cũng có những yếu tố, những bộ
phận đã biến đổi với những mức độ khác nhau. "Hầu như trong mỗi từ hoặc
mối hình thức của từ lúc nào cũng có một cái gì đó mới và một cái gì đó cũ".
1.c. Sự biến đổi ngữ âm (điều cần tìm kiếm đầu tiên trong khi nghiên
cứu quan hệ cội nguồn của ngôn ngữ) không phải là những biến đổi hỗn loạn
mà thường có lí do, có quy luật và theo hệ thống. Ví dụ tiếng Việt cổ có âm
(ml); hiện nay ở tất cả mọi trường hợp, âm này đã biến đổi thành âm (nh) ở
Bắc Bộ và âm (l) ở Bắc Trung Bộ, Nam Bộ. Hãy so sánh:
mlời Nhài lời
Mlỡ nhỡ lỡ
mlài nhài (quạt) lài
mlát nhát (chém) lát
1.d. Tiền đề quan trọng nhất là tính võ đoán trong quan hệ ngữ âm với
ý nghĩa. Chẳng hạn giữa khái niệm "cây" và âm "CÂY" trong tiếng Việt không
hề có mối quan hệ tự nhiên nào quy định lẫn nhau. Vì vậy, nếu hai, ba ngôn
ngữ mà không có quan hệ gì với nhau vễ cội nguồn thì để gọi tên cùng một
vật, hiện tượng, chúng thường có những từ khác nhau. (Từ tree của tiếng
Anh với từ cây của tiếng Việt là như vậy).
Bởi thế, ta có quyền giả định rằng: những từ gần gũi nhau về âm thanh,
có liên quan hoặc gắn bó với nhau ở ý nghĩa thường, luôn luôn bắt nguồn từ
cùng một gốc nào đó. Có thể đưa ra một số ví dụ trong các tiếng Việt,
Mường, Chứt, Môn, Khmer để so sánh như sau:
Việt Mường Chứt Môn Khmer
một mộc Môch mual muôi
ba pa Pa pi bây
nước đak đak đak tuk
tay thai si tai dây
đầu tlôk kulôk kduk kbal
tóc thak Usuk sok sof
2. Khi so sánh các ngôn ngữ cần phải lưu ý những gì.
Nếu không thận trọng giữa các sự kiện ngôn ngữ đưa ra để so sánh có
thể chúng ta dễ mắc phải sai lầm vì bị chúng đánh lừa ở cái vẻ giống nhau
hoặc khác nhau bề ngoài. Bởi thế khi so sánh, cần phải luôn luôn để ý tới
những điểm sau đây:
2.a. Việc so sánh được tiến hành không thể chỉ căn cứ vào riêng một
mặt ngữ âm hay ngữ pháp, vì:
a.1. Những đặc điểm trong cơ cấu ngữ âm hay ngữ pháp của các ngôn
ngữ, mặc dù nhiều nhưng cũng chỉ là hữu hạn. Do đó, có thể có những đặc
điểm, hiện tượng cùng hiện diện trong nhiều ngôn ngữ khác nhau mà chắc
chắn những ngôn ngữ đó lại không có quan hệ gì với nhau về mặt cội nguồn.
Như V. B.Kasevich cho biết chẳng hạn, nhiều ngôn ngữ ở Đông Nam Á và
Tây Phi đều có thanh điệu; và thậm chí chúng còn có cả những điểm giống
nhau đến kì lạ về ngữ pháp; nhưng rõ ràng là không có lí do gì để khẳng định
rằng chúng có quan hệ họ hàng (cội nguồn) với nhau.
a.2. Đôi khi ngược lại, có những ngôn ngữ chắc chắn có quan hệ họ
hàng với nhau, nhưng trong cấu trúc của chúng lại có những khác biệt rất
đáng kể. So sánh tiếng Nga, tiếng Bungari, tiếng Asam và tiếng Hinđu, người
ta thấy tiếng Bungari và tiếng Asam có tính phân tích trội hơn tiếng Nga và
tiếng Hinđu mặc dù tiếng Nga với tiếng Bungari, tiếng Hinđu vói tiếng Asam,
từng đôi một có quan hệ thân thuộc, cội nguồn.
2.b. Các từ cảm thán, từ tượng thanh, từ trùng âm ngẫu nhiên (thường
là rất ít, ví dụ động từ cắt trong tiếng Việt và cut trong tiếng Anh; từ mata trong
tiếng Mã Lai với từ mati trong tiếng Hi Lạp đều có nghĩa là "mắt"…); từ vay
mượn (ngôn ngữ nào cũng -có) đều phải gạt ra ngoài, khi tiến hành công việc
khảo sát ở đây. Chúng không có giá trị làm căn cứ cho các đánh giá và kết
luận. Nếu dựa vào chúng, người nghiên cứu sẽ bị dẫn vào những kết luận sai
lạc hết sức nguy hại; thậm chí thiếu đúng đắn.
2.c. Nghiên cứu cội nguồn ngôn ngữ phải chú ý trước hết tới vốn từ cơ
bản. Đó là bộ phận từ vựng bền vững nhất, có lịch sử xa xưa nhất, được mọi
người, mọi nơi, vào mọi lúc đều có thể sử dụng (Ví dụ: các từ chỉ số đếm, chỉ
bộ phận thân thể, chỉ hành động cơ bản của con người, chỉ quan hệ gia đình,
chỉ các hiện tượng tự nhiên, chỉ những sự vật thiết yếu trong đời sống con
người…). Vì thế, điều quan trọng là chúng có thể bảo lưu được, hoặc phản
ánh được những yếu tố, những đặc điểm chắc chắn là cổ xưa.
2.d. Các sự kiện đưa ra làm cứ liệu so sánh không đòi hỏi phải giống
nhau hoàn toàn về mọi mặt (nhiều khi sự giống nhau hoàn toàn lại không có
ích gì, vì chẳng nói lên được cái gì cả). Cái mà người nghiên cứu phải tìm tòi
ở đây là khảo sát xem chúng (các ngôn ngữ) có những tương ứng với nhau
trong hàng loạt trường hợp hay không. Chính các thế tương ứng để lại là
những chứng cứ rõ ràng nhất, tốt nhất về quan hệ họ hàng giữa các ngôn
ngữ. Ví dụ, âm đầu /y/ và /&/ của tiếng Việt tương ứng với âm đầu /k/ và /tl/
của tiếng Mường trong hàng loạt từ sau đây, là rất giá trị.
Việt gà gạo gốc gái...
Mường ka kấu kôk kấy...
Việt trứng trèo Trả tre...
Mường Tlấng tleo tlả Tle...
2. e. Khi xác lập được những dãy sự kiện trong hai ngôn ngữ và chứng
minh được rằng những dãy đó có quan hệ nguồn gốc với nhau, thì điều này
vẫn chưa đủ để nói là hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng. Ta phải luôn luôn
cảnh giác ở chỗ này vì dễ bị nhầm lẫn.
Hàng loạt từ gốc Hán trong tiếng Việt khi so với tiếng Hán là như vậy.
Chúng có mặt trong tiếng Việt là do vay mượn, tiếp xúc chứ không phải do
tiếng Hán với tiếng Việt là có cùng một cội nguồn. Ví dụ: cận-gần; kính-
gương; can-gan; kiếm-gươm; kíp-gấp…
3. Để so sánh và phân loại ngôn ngữ theo nguồn gốc thì phải làm những gì
Có rất nhiều việc phải làm, mà những công việc đó đòi hỏi phải có sự tỉ
mỉ, thận trọng cần thiết, trên đại thể, có thể quy về ba việc quan trọng nhất,
ứng với ba bước sau đây.
3.a. Chọn sự kiện (cái đưa ra để so sánh) và lập thành những dãy
tương ứng với nhau. Cái được đưa ra để lập thành các dãy tương ứng đó
phải là từ hoặc hình vị; bởi vì đây là những đơn vị tối thiểu, được xét ở cả hai
mặt: ý nghĩa và âm thanh.
Điều quan trọng nhất là phải xem xét những tương ứng tìm được, có
hiện diện đều đặn trong hàng loạt trường hợp hay không. Ví dụ
- Người ta đã phát hiện các tương ứng phụ âm /ớ/ và /d/; /tw/ và
/tsv/; /p/ và /pf/… giữa tiếng Anh và tiếng Đức qua các dãy từ như:
Anh: thick, thing, bathy.. twice, twelve, twenty.
Đức: die, ding, bad,…zweiman, zwolf, zwanzig,…
- Khi so sánh các loại từ có âm đầu /k/ hoặc /tl/ của tiếng Mường với
hàng loạt từ có âm đầu /‘…’/ hoặc /‘…’/ trong tiếng Việt người ta kết luận
được rằng tiếng Mường và tiếng Việt co tương ứng /k/ - /‘…’/ và /tl/ - /‘…’/.
Cần lưu ý một tình hình đặc biệt là: hiện tượng vay mượn từ giữa các
ngôn ngữ thì rất hay gặp; nhưng vay mượn một hình thức ngữ pháp thì cực kì
hiếm hoi. Vì thế, nếu tìm được những tương ứng thuộc lĩnh vực ngữ pháp
(hình thái học) giữa hai ngôn ngữ, thì sự tương ứng đó rất có giá trị. Chẳng
hạn, so sánh hệ hình thái tiếng Anh với tiếng Đức, ta thấy rõ là có những
tương ứng đều đặn sau đây:
Tiếng Anh Tiếng Đức
sing- sang- sung
drink-drank-drunk
sink-sank-sunk
sing- sang-gesungen
trink- trank-getrunken
sink-sank-gesunken
/i/ -/æ/-/^/
small-smaller-smallest
quick-quickerquickest
rich-richer- richest
/i/ - /a/ - /u/
klein-kleiner-kleinste
schnell-schnellerschnellste
reich-reicher-reichste
‘…’ - er - est ‘…’ – er - ste
3.b. Xác định niên đại và phục nguyên.
b.1. Sau khi lập được những thế tương ứng của các yếu tố, các dạng,
người ta tiến tới xác định xem dạng nào cổ hơn dạng nào; hay là cả hai cùng
bắt nguồn từ một dạng thứ ba cổ hơn. Có làm như thế mới tái lập được dạng
cổ của chúng. Mỗi dạng được xác định là cổ hơn và vừa tái lập được,
phương pháp so sánh lịch sử gọi là một nguyên bình; và khi ghi chúng lên
mặt giấy, người ta thường đánh một dầu ở đẳng trước. Ví dụ: taner, *bl, *kl,
*kr…
Thực ra, phục nguyên các nguyên hình là các công việc tốn nhiều công
sức nhất và đòi hỏi phải tỉ mỉ. Ta có thể quan sát quá trình phục nguyên Ấn -
Âu của số từ bảy qua các từ tương ứng của tiếng Hi Lạp, Latin và Sanskrit;
để có một hình dung sơ qua về sự phức tạp đầy thú vị của nó.
1 + Trước hết, nhìn vào các từ tương ứng ta thấy dạng của chúng như
sau:
Sanskrit: Sapta
Hi Lạp: hepta
Latin: Septem.
Lập bảng đối chiếu thành phần âm thanh các từ và theo nguyên tắc số
đông ta được:
s a p t a
h e p t a
s e p t e m
Nhìn theo cột dọc, số đông sẽ cho phép ta phục nguyên được dạng cổ
của chúng là Septa.
2 + Bây giờ ta xem xét các khả năng biến đổi âm vị học có cho phép ta
phục nguyên được như thế hay không.
/s/ - /h/ (+)
/a/ - /e/ (+)
/e/ - /a/ (+)
// - /m/ (-)
Trên thực tế, không thể có khả năng ở dạng gốc có âm cuối zero, rồi về
sau zero biến đổi thành /m/. Vậy chỉ có thể nghĩ tới khả năng vốn xưa nó
có /m/ rổi âm này bị rụng đi. Vì thế dạng phục nguyên cần sửa lại là
Septam.
3 + Cuối cùng, ta phải kiểm tra xem những biến đổi được ta giả định là
như thế…, như thế… có phù hợp hay không với những biến đổi mẫu mực, đã
được khẳng định là chắc chắn có trong các ngôn ngữ đó.
/s/ Ấn Âu -> /b/ Hi Lạp (+)
/e/ Ấn Âu -> /a/ Sanskrit (+)
/a/ Ấn Âu -> // Latin (+)
/m/ Ấn Âu -> // Sanskrit (-)
-> // Hi Lạp (-)
Người ta thường thấy tiếng Hi Lạp và Sanskrit thường không có hiện
tượng rụng /m/ ở cuối từ. Vậy cái dạng vừa được sửa chữa Septam là không
chấp nhận được. Tuy nhiên, nhìn rộng hơn, người ta đã phát hiện ra hiện
tượng /a/ trong tiếng Hi Lạp và Sanskrit đôi khi lại có nguồn gốc từ âm /m/ Ấn
Âu mà ra. Đó là một âm mang tính chất nửa nguyên âm, nửa phụ âm, và
chính nó đã biến thành /em/ trong tiếng Latin. Đến đây, thế là rõ. Dạng tái lập
(phục nguyên) cuối cùng phải là Septem.
b.2. Từ chỗ phục nguyên được dạng cổ, so sánh với các dạng có sau,
ta mới vạch ra được các sự kiện ngôn ngữ đã diễn biến trong lịch sử như thế
nào. Mặt khác, lại phải cố gắng phục nguyên được càng nhiều sự kiện ngôn
ngữ và càng toàn diện ở các mặt của cấu trúc ngôn ngữ càng tốt; để tiến tới
mục tiêu lí tưởng là phục nguyên được cấu trúc hoàn chỉnh của ngôn ngữ mẹ
(ngôn ngữ nguyên sơ) ban đầu.
3.c. Căn cứ vào kết quả của hai bước làm việc trên đây và cân nhắc tới
nhiều phương diện khác bằng những phương pháp và thủ tục cụ thể (nhiều
khi rất phức tạp) người ta mới xác định được mức độ thân thuộc nhiều hay ít
giữa các ngôn ngữ, để làm một việc có thể coi là cuối cùng trong nghiên cứu
cội nguồn, là quy chúng vào nhóm nào trong các chi (nhánh) thuộc ngành và
dòng nào trong các ngữ hệ (họ ngôn ngữ).
Một ngữ hệ thường được biểu diễn dưới dạng sơ đồ hình cây và được
gọi là cây ngữ hệ hoặc cây ngữ tộc. Chẳng hạn, người ta đã dựng cây ngữ hệ
Ấn Âu; hoặc M.Ferlus đã dựng cây ngữ hệ của ngữ hệ Nam phương như sau:
Sơ đồ NGỮ HỆ PHƯƠNG NAM.
4. Kết quả phân loại.
Kết quả của việc phân loại các ngôn ngữ theo cội nguồn cho ta các ngữ
hệ. Trong mỗi ngữ hệ lại phân chia ra các dòng. Từ các dòng, chia ra các
ngành, rồi các ngành chia ra các chi nhánh. Mỗi chi (nhánh) lại còn có thể
chia ra các nhóm gồm những ngôn ngữ cụ thể.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã xác định được nhiều ngữ hệ mà trong
số đó, có những ngữ hệ lớn thường hay được nhắc đến như:
4.1. Ngữ hệ Ấn Âu. Ngữ hệ này gồm những dòng chính như: dòng Ấn
Độ, dòng Iran, dòng Bantic, dòng Slave, dòng German, dòng Roman, dòng Hi
Lạp. Anbani..
Tiếng Nga. Ba Lan, Chec, Slovac, Bungari… thuộc dòng Slave. Tiếng
Anh, Đức, Hà Lan… thuộc dòng German. Tiếng Latin, Italia, Pháp, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Rumani… thuộc dòng Roman.
4.2. Ngữ hệ Sêmít có các dòng chính như: dòng Sêmít, dòng Ai Cập,
dòng Kusit, dòng Becbe, dòng Sát-Hamít.
4.3. Ngữ hệ Thổ (Nhĩ Kì) gồm các ngôn ngữ như: Thổ Nhĩ Kì, Kiếcghiđi,
Tácta, Azecbaizan…
4.4. Ngữ hệ Hán - Tạng có các dòng chính như: dòng Hán, dòng Tạng-
Miến…
4.5. Ngữ hệ Nam phương gồm các dòng chính như: dòng Nam Thái
(Austro Thái), dòng Nam Á (Austroasiatique). Trong dòng Nam Á có các
ngành: Nahali, Munđa, Nicôba và Môn - Khmer.
Theo M. Ferlus và một số nhà nghiên cứu khác trong và ngoài Việt
Nam, tiếng Việt, tiếng Mường nằm trong nhóm Việt - Mường, ngành Môn -
Khmer thuộc dòng Nam Á cùng với các nhóm ngôn ngữ BaNa, KhaMú, KaTu,
Khmer… trong ngữ hệ Nam phương (Austrique).
II. PHÂN LOẠI NGÔN NGỮ THEO LOẠI HÌNH
1. Phương pháp và mục đích
Mỗi cách phân loại ngôn ngữ dùng một phương pháp so sánh khác
nhau. Phân loại theo cội nguồn thì như trên đã nói dùng phương pháp so
sánh lịch sử làm căn bản, để tìm cội nguồn và quan hệ cội nguồn của các
ngôn ngữ.
Nghiên cứu phân loại các ngôn ngữ theo loại hình thì dùng phương
pháp so sánh loại hình. Từ đây đã hình thành bộ môn loại hình học. Một trong
những mục đích quan trọng ở đây là xác định các kiểu loại hình (typs) ngôn
ngữ dựa trên những dấu hiệu cấu trúc cơ bản của chúng, rồi phân loại, sắp
xếp các ngôn ngữ vào các loại hình ấy.
Một "loại hình ngôn ngữ" thường được biểu hiện là một cái mẫu trừu
tượng, trong đó bao gồm một hệ thống các đặc điểm có liên quan với nhau,
chi phối lẫn nhau, cái này đòi hỏi phải có cái kia hoặc giả định sự vắng mặt
của cái kia… (Ví dụ, nếu một loại hình ngôn ngữ nào đó có phạm trù cách
hoặc giống thì người ta suy ra được rằng thể nào nó cũng cố phạm trù số)
Muốn xác định loại hình và phân loại theo loại hình, nguời ta phải áp
dụng các thủ pháp làm việc của loại hình học, phân tích so sánh các sự kiện
để phát hiện sự đẳng cấu (isomorphism) trong các ngôn ngữ.
Nếu so với nghiên cứu ngôn ngữ khu vực và sự tiếp xúc ngôn ngữ thì
rõ ràng là so sánh loại hình có những yêu cầu riêng. Nghiên cứu ngôn ngữ
khu vực và sự tiếp xúc ngôn ngữ áp dụng phương pháp so sánh vừa có nét
giống với so sánh lịch sử, lại vừa có nét giống với so sánh loại hình. Mục đích
của nó không thuần túy chỉ là đi tìm quan hệ nguồn gốc hay quan hệ đảng
cấu về mặt loại hình. Nó "đi tìm kiếm” và phát hiện sự giống nhau cũng như
những xu thế phát triển gặp nhau giữa các ngôn ngữ trong vùng nhờ sự tiếp
xúc văn hóa hoặc vị trí gán nhau giữa các dân tộc trong khu vực.
2. Kết quả phân loại
Hiện nay, bảng phân loại các ngôn ngữ gồm bốn loại hình: loại hình
hòa kết, chắp dính, đơn lập, đa tổng hợp; đã được đa số các nhà nghiên cứu
chấp nhận.
2.1. Loại hình ngôn ngữ hòa kết (flexional)
Loại hình ngôn ngữ này có một tên gọi khác nữa, cũng tương đối phổ
biến là loại hình khuất chiết. Nó bao gồm chủ yếu các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ
Ấn Âu, ngữ hệ Sêmít và một số ngôn ngữ ở châu Phi.
Loại hình này thể hiện ba đặc trưng cơ bản sau đây:
a) Trong hoạt động ngôn ngữ, từ có biến đổi hình thái, tức là từ nó đòi
hỏi từ kia sự hợp dạng. Điều này cũng có nghĩa rằng, ở đây, ý nghĩa ngữ
pháp của từ, các quan hệ ngữ pháp của từ, được thể hiện ngay trong bản
thân từ. Ví dụ một câu tiếng Nga.
‘…’.
Hình thái ‘…’ của động từ ‘…’ là để phù hợp với (hợp dạng với) ngôi, số
của chủ ngữ ‘…’.
Hình thái ‘…’ của danh từ ‘…’ là để phù hợp với đòi hỏi của động từ,
thể hiện ý nghĩa bổ ngữ, cách bốn, số ít, giống cái…
Các biến đổi i-me; he-him, they-them… work-worked; play-played…
trong tiếng Anh, cũng để phục vụ cho yêu cầu hợp dạng như vậy.
Ngoài sự biến đổi bằng các biến tố ở cuối từ cho hợp dạng, các ngôn
ngữ hòa kết còn có nhiều hiện tượng được gọi là "biến tố bên trong" cũng với
mục đích như vừa nêu trên. Chẳng hạn có thể kể ra:
- Biến đổi số ít - số nhiều của danh từ
man- men; goose geese… (tiếng Anh)
‘…’; ‘…’ (tiếng Nga)
- Biến đổi thời hiện tại - quá khứ của động từ:
take -took; see- saw… (tiếng Anh)
sing - sang, trink -trank… (tiếng Đức)
- Biến đổi thể hoàn thành - thể chưa hoàn thành:
‘…’; ‘…’ (tiếng Nga)
b) Sự đối lập căn tố - phụ tố trong các ngôn ngữ hòa kết là rất rõ rệt.
Mặt khác, chúng được kết hợp với nhau rất chặt đến nỗi căn tố cũng không
thể đứng một mình, mà chỉ tồn tại và hoạt động được khi đi kèm với phụ tố
mang những ý nghĩa ngữ pháp nhất định. Ngược lại, phụ tố lại cũng chỉ thể
hiện được các ý nghĩa ngữ pháp (một cách xác định) khi chúng kết hợp với
căn tố. Ví dụ, trong tiếng Nga, căn tố ‘…’ phải đúng trong kết hợp với phụ tố -
a (hoặc -e - y- CLM) và ngược lại các phụ tố đó cũng phải trong kết hợp với
căn tố ‘…’ để cho các hình thái: ‘…’, ‘…’, ‘…’ … thì chúng mới tồn tại và hoạt
động được.
c) Trong các ngôn ngữ thuôc loại hình hòa kết, một ý nghĩa ngữ pháp
có thể được biểu hiện bằng nhiều phụ tố; và ngược lại, nhiều ý nghĩa ngữ
pháp có thể được biểu diễn đồng thời bằng một phụ tố. Tức là ở đây, sự
tương ứng giữa phụ tố với ý nghĩa ngữ pháp không phải là một đối một một
cách chặt chẽ.
Chẳng hạn, phụ tố a trong từ pyKa trên kia, chi một mình nó đã đồng
thời biểu diễn các ý nghĩa: cách một, số ít, giống cái của danh từ: Còn ý nghĩa
giống cái có thể được biểu diễn bằng a trong ‘…’ (cách 1, số ít) bằng y trong
‘…’ (cách 4 số ít), bằng ‘…’ trong ‘…’(cách 5 số ít).
Khi nghiên cứu các ngôn ngữ hòa kết, người ta còn chia chúng thành
hai nhóm (hai tiểu loại hình) gọi là nhóm các ngôn ngữ hòa kết phân tích và
nhóm các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp.
Các ngôn ngữ hòa kết phân tích (điển hình là tiếng Anh; và trong chừng
mực đáng kể, kể cả tiếng Pháp nữa) giảm bớt sự biến đổi hình thái của từ và
tăng cường sử dụng từ hư, trật tự từ, ngữ điệu… để diễn đạt các quan hệ
ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp. Nói cách khác, chúng gia tăng các phương
tiện bên ngoài từ để thể hiện các ý nghĩa đó.
Ví dụ 1. Dùng từ hư trong tiếng Pháp, tiếng Anh:
L’ami-les ami; la maison - les maisons… (tiếng Pháp)
shall, will + V (động từ)… (tiếng Anh)
Ví dụ 2. Dùng trật tự từ trong tiếng Pháp, tiếng Anh:
papier de décor - décor de papier… (tiếng Pháp)
tap water - water tap; garden flower - flowergarden… (tiếng Anh)
Ví dụ 3. Dùng ngữ điệu trong tiếng Anh:
(Đừng đưa cái đó cho tất cả mọi người - ngụ ý rằng chỉ đưa cho một vài
người thôi).
Các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp, ngược lại, mang đẩy đủ ba đặc trưng
loại hình cơ bản nêu trên; và tăng cường tính tổng hợp với tất cả sức mạnh
và sự nổi trội của chúng.
Nhóm các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp bao gồm các ngôn ngữ dòng
Slave nói chung, cùng với tiếng Đức, tiếng Latin, tiếng Hi Lạp cổ, tiếng
Sanskrit, nhiều ngôn ngữ dòng Roman (trừ tiếng Anh, tiếng Pháp), các ngôn
ngữ họ Sêmít như tiếng Arập, tiếng Do Thái cổ… Điển hình nhất cho nhóm
ngôn ngữ này mà chúng ta quen biết là tiếng Nga.
2.2. Loại hình ngôn ngữ chắp dính (agglutinate)
Nếu trong một ngôn ngữ có hiện tượng cứ nối tiếp thêm một cách máy
móc, cơ giới vào căn tố nào đó một hay nhiều phụ tố; mà mỗi phụ tố đó lại chỉ
luôn luôn mang một ý nghĩa ngữ pháp nhất định thôi; thì người ta bảo hiện
tượng đó là hiện tượng chắp dính; hoặc hiện tượng thể hiện tính chắp dính.
Loại hình ngôn ngữ chắp dính bao gồm những ngôn ngữ có tính chắp
dính. Loại hình này có ba đặc điểm cơ bản nhất là:
a) Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp của từ được biểu diễn ngay
trong bản thân từ bằng phương tiện phụ tố. Điều này cũng giống với các ngôn
ngữ hòa kết. Ví dụ một ngôn ngữ họ Thổ dùng hậu tố -lar hoặc -dor để thể
hiện ý nghĩa ngữ pháp số nhiều của danh từ.
adam (người đàn ông) - adamlar (những người đàn ông)
kadin (người đàn bà) - kadinlar (những người đàn bà)
col (bàn tay) - coldor (những bàn tay)
b. Căn tố nói chung hầu như không biến đổi hình thái và co thể tồn tại,
hoạt động độc lập được khi không có phụ tố đi kèm. Điều này khác với căn tố
của ngôn ngữ loại hình hòa kết: căn tố ở đây có thể hoạt động tách biệt với
phụ tố. So sánh:
adam - udamlar
col - coldor
ev - evler
c. Mỗi phụ tố chắp dính luôn luôn chỉ biểu diễn một ý nghĩa ngữ pháp;
và ngược lại, mỗi ý nghĩa ngữ pháp bao giờ cũng được biểu thị bằng một phụ
tố riêng. Bởi thế, trong hoạt động ngôn ngữ; độ dài của từ có thể tương đối
lớn. Vì các phụ tố cứ được nối tiếp vào căn tố một cách “tự động" để biểu
diễn cho đủ những ý nghĩa ngữ pháp cần thiết phải diễn đạt.
Ví dụ:
ev - căn phòng
evi - căn phòng của tôi
eviden - Từ căn phòng của tôi (ra)
evleriden – từ những căn phòng của tôi (ra)
Các ngôn ngữ họ Thổ (nhu tiếng Thổ Nhĩ Kì, Kazak, Kiecghidi,
Tuolmenia, Azecbaizan, Kaza -Tacta…). Các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ugô-
Phần Lan, tiếng Ban Tu ở châu Phi… là những ngôn ngữ điển hình cho loại
hình chắp dính. Ngoài ra, tiếng Mông Cổ, Nhật Bản, Triều Tiên, một số ngôn
ngữ của thổ dân châu Úc, châu Mĩ cũng được một vài nhà nghiên cứu xếp
vào loại hình này.
2.3. Loại kình ngôn ngữ đơn lập (isolate)
Bên cạnh tên gọi đơn lập thường dùng, loại hình ngôn ngữ này còn
được gọi là ngôn ngữ phi hình thái, ngôn ngữ không biến hình ngôn ngữ đơn
tiết, phân tiết… tùy theo người ta nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng
kia của chúng.
Tiếng Việt, tiếng Hán và các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á được gọi là
tiêu biểu cho loại hình ngôn ngữ đơn lập; đặc biệt là tiếng Việt và tiếng Hán
cổ đại. Ngoài ra loại hình này cũng bao gồm cả tiếng Aranta ở châu úc, tiếng
Êvê, tiếng Joruba ở châu Phi.
Loại hình ngôn ngữ đơn lập thể hiện 4 đặc điểm chính.
a) Trong hoạt động ngôn ngữ, từ không biến đổi hình thái; tức là chúng
không đòi hỏi ở nhau sự hợp dạng như trong các ngôn ngữ hòa kết. So sánh:
Tôi nhìn họ.
Họ nhìn tôi
(Các từ tôi, họ làm chủ ngữ hay bổ ngữ đều không biến đổi hình thái,
động từ cũng không biến đổi theo ngôi, số của chủ ngữ… Trong khi đó, ở
tiếng Anh chắc chắn phải có sự biến đổi I - me, they - them; tiếng Nga phải có
sự biến đổi ‘…’-‘…’, ‘…’-‘…’…)
b) Các quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu
bằng từ hư và trật tự từ. Vỉ dụ:
- Dùng từ hư
người – những người (Việt)
rien - kompung rien - rien hơi (Khmer)
học - đang học - học rồi (Việt)
- Dùng trật tự từ
của trước - trước cửa (Việt)
tiền môn - môn tiền (Hán)
Mdai top oi băư: Mạ (vừa) mới cho bú (Khmer); Kon dzurn top mdai oi
bãư: Con có khóc mẹ mới cho bú.
c) Nhiều ngôn ngữ trong loại hình đơn lập (điển hình là tiếng Hán, tiếng
Việt) có một loại đơn vị đặc biệt thường được gọi là hình tiết. Hình tiết là đơn
vị có nghĩa (hoặc luôn luôn có khả năng mang nghĩa mà vỏ âm thanh của nó
lại trùng khít với một âm tiết (đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất). Chính bởi
vậy mà nó có khả năng khi thì được sử dụng, đi vào hoạt động với tư cách
một từ, khi thì lại chỉ được dùng với tư cách yếu tố cấu tạo từ (hình vị). Ví dụ:
Tiếng Việt: tre - tre pheo; vàng - cá - cá vàng…
Tiếng Hán hsien sheng - tiên sinh: (người) sinh trước
hsien sheng - tiên sinh: tự xưng gọi người đáng kính, sinh trước - ngài.
Thế cho nên, hệ quả là các ngôn ngữ trong loại hình này, việc xác định
ranh giới từ trong ngữ lưu càng trở nên phức tạp và khó khăn hơn; câu
chuyện về phân định từ ở đây, cho đến nay vẫn còn có nhiều điều phải bàn đi
tính lại. Chẳng hạn trong tiếng Việt, đứng trước các chuỗi hai hình tiết như:
hờn giận, yêu thương, thương nhớ, trước sau, to béo, cao lớn, nhường nhịn,
đi lại, ra vào… người ta thường phải biện luận không ít trước khi khẳng định
một thái độ đối xử với chứng là một từ hay hai.
d) Hiện tượng cấu tạo từ bằng phụ tố rất ít hoặc hầu như không phát
triển trong các ngôn ngữ đơn lập (ví dụ tiếng Việt, tiếng Mường). (Nói rằng rất
ít, không có nghĩa là hoàn toàn không có. Ta có thể quan sát thấy một số phụ
tố trong các tiếng như: Khmer, Chàm, Kơ Ho, Pa Kô-Taôih, Mnông - Preh…
nhưng chúng ít và hoạt động yếu).
Vì thế quan hệ dạng thức (quan hệ về mật hình thái) giữa các từ yếu
đến mức dường như là chúng tồn tại rất "rời rạc", rất "tự do” trong câu. Có lẽ
tên gọi rời rạc hay đơn lập (isolate) trước hết đã xuất phát từ tình hình đó.
Chẳng hạn, trong tiếng Việt, ta thấy hàng loạt những trường hợp như: cha mẹ
- mẹ cha; trước sau - sau trước; Làng xóm -xóm làng; bé nhò – nhỏ bé…
hoặc người bạn học.
Mặt khác cũng bởi tính hình thái của từ yếu như thế, quan hệ hình thái
yếu như thế, cho nên mới có người quan niệm rằng ngôn ngữ đơn lập là
ngôn ngữ không có từ loại. Chẳng hạn, xem trong tiếng Việt.
- đẽo cày - đi cày ngoài đồng - cày ruộng
- mua cá - cá khô - Trên trài, dưới cá, chỗ nào cũng cá, góc chợ nào
cũng cá.
- Nhà này cũng gỗ lim cả.
(Danh từ cá, cụm danh từ gỗ lim vừa đứng ở vị trí của danh từ lại vừa
đứng được ở vị trí điển hình của động từ.)
2.4. Loại hình ngôn ngữ đa tổng hợp (polysynthetic)
Các ngôn ngữ đa tổng hợp còn được gọi tên là ngôn ngữ hỗn nhập hay
ngôn ngữ lập khuôn, vì chúng có hai đặc điểm nổi bật như sau:
a) Có một loại đơn vị đặc biệt, vừa là từ vừa là câu, được cấu tạo trên
cơ sở động từ. Trong đơn vị đó, có thể có mặt luôn cả bổ ngữ, trạng ngữ; và
nhiều khi gồm cả chủ ngữ. Đơn vị đo, người ta gọi là đơn vị lập khuôn.
Như vậy ở đây có thể xem cơ cấu ngữ pháp của phát ngôn cũng đồng
thời là cả cấu ngữ pháp của từ.
Ví dụ: Nitampenda - Tôi sẽ yêu nó.
Atakupenda - Nó sẽ yêu anh.
Trong hai phát ngôn này (cũng đồng thời là hai đơn vị lập khuôn - tiếng
Suakhili) đều có động từ (penda) làm cơ sở. Chúng (phát ngôn) bao gồm cả
chủ ngữ a(nó), ni (tôi) lẫn bổ ngữ ku (anh), m (nó) và yếu tố chi thời của động
từ: ta (sẽ).
b) Đặc điểm thứ hai như một hệ quả rút ra từ đặc điểm thứ nhất: Các
ngôn ngữ đa tổng hợp vừa có nét giống với ngôn ngữ chắp dính ở chỗ: chúng
cũng tiếp nối các hình vị vào với nhau; lại vừa có nét giống với các ngôn ngữ
hòa kết ở chỗ: khi kết hợp các hình vị với nhau, có thể có biến đổi vỏ ngữ âm
(dạng thức) của hình vị. So sánh:
Atakupenda - nó - chủ ngữ = a
Nitampenda - nó - bổ ngữ = m
Trên thực tế, tính đa tổng hợp (hỗn nhập, lập khuôn) của loại hình ngôn
ngữ này thể hiện ở một số lượng không nhiều các đơn vị lập khuôn. Nói cách
khác, người ta ít gặp loại đơn vị này vì chúng chỉ chiếm khoảng 2 - 3% tổng
số từ mà thôi. Chính vì lẽ đó mà đã có những ý kiến phê phán việc tách các
ngôn ngữ đa tổng hợp như trên thành một loại hình riêng.
Những nhà nghiên cứu chủ trương xác lập loại hình này và tách nó
riêng biệt ra, thường quy vào đây các ngôn ngữ: Sucôt, Camsat, Suakhili, một
số ngôn ngữ vùng Capcaz và một số ngôn ngữ Á cổ.
3. Ghi chú thêm cho cách phân loại theo loại hình
Ở mức lí tưởng, mỗi loại hình ngôn ngữ phải là một cái mẫu trong đó
bao gồm một hệ thống thuần khiết các đặc điểm đặc thù cho loại hình đó. Thế
nhưng thực tế tình hình bức tranh phân loại không đơn giản vậy. Trước hết,
ranh giới loại hình không phải là một bức tường thành "bất khả xâm phạm”.
Không phải rằng: một ngôn ngữ đã thuộc một loại hình thì tất cả mọi yếu tố
trong hệ thống và cấu trúc của nó đều phải mang đặc điểm của loại hình đó;
mà ngược lại, một ngôn ngữ thuộc loại hình này vẫn có thể "để lọt" vào trong
mình những hiện tượng; những yếu tố mang đặc trưng của loại hình khác; chỉ
có điều, những hiện tượng và yếu tố đó gồm một số lượng nhỏ, đồng thời
không đủ "tính trội" để "phá vỡ những đặc trưng loại hình điển hình của nó"
mà thôi. Ta có thể thấy điều đó qua phân tích vài ví dụ.
Ví dụ 1. Trong tiếng Nga, một ngôn ngữ hòa kết điển hình, Tgười ta vẫn
gặp hiện tượng mang tính phân tích, hoạt động theo cơ chế phân tích tính,
thể hiện ý nghĩa ngữ pháp một cách đối lập".
Ví dụ 2. Hiện tượng thêm đuôi -‘…’ biểu thị ý nghĩa phản thân cho động
từ tiếng Naa; hoặc thêm đuôi -ed để biểu diễn ý nghĩa quá khứ cho động từ
tiếng Anh… Chúng ta đều biết rõ cả: ‘…’, ‘…’... wanted, loved, sarted…
Người ta bảo đó làf những hiện tượng mang tính chắp dính lọt vào
trong hai ngoon ngữ thuộc loại hình hòa kết này; bởi vì yếu tố ‘…’ và -ed
được tiếp hợp vào động từ "một cách chắp dính".
Tuy có những điếu như trên, nhưng việc phân loại ngôn ngữ theo loại
hình vẫn không bị ảnh hưởng gì. Ngay cả việc tách ra nhóm các ngôn ngữ
hòa kết phân tích và nhóm các ngôn ngữ hòa kế tổng hợp cũng vậy: các ngôn
ngữ hòa kết phân tích thì bớt đặc trưng và mức độ tổng hợp tính, tăng cường
đặc trưng phân tích tính; còn các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp thì lại giảm bớt
tối đa các biểu hiện phân tích tính và tăng cường triệt để các đặc trưng tổng
hợp tính. Không phải vì một vài hiện tượng "khác lạ" hoặc "để lọt vào" mà có
thể làm phá vỡ được những đặc trưng loại hình của một ngôn ngữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH (PHẦN I)
1. J.Aitchison. Ngôn ngữ học đại cương. ST Pauls house warwichk
lane. London EC4.1972 (tiếng Anh).
2. V.G. Gak. Ngữ pháp lí thuyết tiếng Pháp, Nxb Đại học, Moskva, 1979
(tiếng Nga).
3. B.N. Golovin. Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học, Moskva, 1983
(tiếng Nga).
4. Hoàng Thị Châu. Tiếng Việt trên các miền đất nước. Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1989.
5. L. Hjelmslev. Ngôn ngữ. Bản dịch tiếng Việt - Đại học Tổng hợp, Hà
Nội, 1973.
6. V.I. Kodukov. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, Moskva, 1979
(tiếng Nga).
7. G.A. Klimov. Âm vị và hình vị. Nxb Khoa học, Moskva, 1967 (tiếng
Nga).
8. V.A. Kochergina. Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học Tổng hợp
Moskva, 1979 (tiếng Nga).
9. Triệu Nguyên Nhiệm. Ngôn ngữ và các hệ thống biểu trưng. Bản dịch
tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội.
10. A. A. Rephormatskij. Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục,
Moskva, 1967 (tiếng Nga).
11. N. V. Stankevich. Loại hình các ngôn ngữ, Nxb Đại học và thcn, Hà
Nội, 1982.
12. JU. Stepanov. Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Bản dịch
tiếng Việt, Nxb Đại học và thcn, Hà Nội, 1984.
13. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Những phương pháp nghiên cứu
cội nguồn ngôn ngữ, Tập 3, Ngôn ngữ học đại cương (Bản dịch tiếng Việt -
Viện Ngôn ngữ học Viện Khxh Việt Nam).
NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN CẦN ĐỌC
14. Mác-Ăngghen-Lênin bàn về ngôn ngữ. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962.
15. V.B. Kasevich. Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương.
(Bản dịch tiếng Việt), Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1982.
Đọc từ mục 1 đến mục 38, mục 52 đến mục 67.
16. F. de. Saussure. Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học
xã hội- Hà Nội, 1373. Đọc các mục:
Phàn dẫn luận: chương I đến chương V
Phần thứ nhất: chương I, chương II
Phần thứ hai: chương V, chương VI
Phần thứ năm: chương II, IV, V
Phần 2. CƠ SỞ NGỮ ÂM HỌC VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
Chương 5. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGỮ ÂM HỌC
I. ĐỐI TƯỢNG CỦA NGỮ ÂM HỌC
1. Ngữ âm là gì?
Ngôn ngữ, như chúng ta đã đề cập đến ở phần I, là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất của con người. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng,
ngay từ khi mới xuất hiện, ngôn ngữ đã tồn tại dưới hình thức âm thanh. Con
người giao tiếp được với nhau chính là nhờ ở hĩnh thức vật chất này. Mặt âm
thanh đã làm nên tính chất hiện thực của ngôn ngữ. Bởi vậy, nói đến ngôn
ngữ là nói đến ngôn ngữ bằng âm thanh. Hiện nay chưa có dân tộc nào dùng
một ngôn ngữ phi âm thanh để trao đổi tư tưởng.
Trong ngôn ngữ học, người ta gọi hình thức âm thanh của ngôn ngữ là
ngữ âm. Ngữ âm, vì vậy, là cái vỏ vật chất của ngôn ngữ, là hình thức tồn tại
của ngôn ngữ.
Ngữ âm là âm thanh nhưng không phải bất kì âm nào do con người
phát cũng là ngữ âm. Tiếng nấc, tiếng ho, tiếng ợ không phải là ngữ âm vì
chúng không phải là phương tiện biểu đạt của ngôn ngữ, không có chức năng
giao tiếp.
2. Ngữ âm học (phonetics)
Là khoa học nghiên cứu mặt ngữ âm của ngôn ngữ. Tuy nhiên đối
tượng nghiên cứu của ngữ âm học không chỉ là những dòng âm thanh cụ thể
của tiếng nói mà còn là những đơn vị ngữ âm, những quy luật tổ chức, kết
hợp các âm. Ngoài ra, ngữ âm học còn nghiên cứu cả chữ viết - một phương
tiện ghi lại ngôn ngữ bằng văn tự. Ngữ âm học được phân thành ngữ âm học
đại cương và ngữ âm học cục bộ. Ngữ âm học đại cương nghiên cứu những
quy luật ngữ âm chung cho tất cả các ngón ngữ trên thế giới (quy luật kết
hợp, quy luật biến đổi, phát triển của các âm…), những nguyên lí cấu tạo
chung của các âm (như nguyên lí cấu tạo nguyên âm, phụ âm), những
phương pháp nghiên cứu ngữ âm, lí luận chung về cách viết và chính tả,
v.v…
Ngữ âm học cục bộ nghiên cứu ngữ âm của một ngôn ngữ cụ thể, ví dụ
ngữ âm tiếng Anh, ngữ âm tiếng Việt,… Ngữ âm học cục bộ có thể chia nhỏ
thành:
+ Ngữ âm học miêu tả nghiên cứu ngữ âm ở trạng thái hiện đại (đương
đại) của nó, ví dụ ngữ âm học tiếng Pháp hiện đại, ngữ âm học tiếng Nga
hiện đại.
+ Ngữ âm học lịch sử nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử của hệ
thống ngữ âm, chẳng hạn quá trình tlăm - trăm; Tlem - Trèm - Chèm; Tlem -
Từ Liêm, blời - giời – trời, … trong tiếng Việt.
Mặt âm thanh của ngôn ngữ, tức ngữ âm, không phải là một hiện tượng
đơn giản. Do tính chất phức tạp của nó, người ta buộc phải xem xét nó từ
nhiều góc độ khác nhau. Theo truyền thống ngôn ngữ học, nó được nghiên
cứu từ các mặt dưới đây.
2.1. Từ mặt sinh vật học (cấu âm)
Mỗi một âm do con người phát ra đều là kết quả của một hoạt động
nhất định của bộ máy phát âm của con người; hơn nữa nó là đối tượng của
sự tri giác thính giác có quan hệ với những quá trình nhất định nẩy sinh từ cơ
thể con người. Nghiên cứu ngữ âm từ mặt sinh lí học tức là nghiên cứu xem
những cơ quan nào tham gia vào việc tạo ra âm thanh ngôn ngữ và quá trình
tạo lập đó diễn ra như thế nào. Đại thể, có thể hình dung quá trình phát âm
như sau:
1) Mệnh lệnh được truyển đi từ vỏ não, từ trung tâm điều khiển nói
năng nằm ở bán cầu não;
2) Sự truyền đạt mệnh lệnh này theo dây thần kinh đến các cơ quan
thực hiện trực tiếp;
3) Sự hoạt động của bộ máy hô hấp (phổi, phế quản, khí quản) cũng
như cơ hoành và toàn bộ lồng ngực;
4) Hoạt động phức tạp của các cơ quan phát âm (dây thanh, lưỡi, môi,
ngạc, hàm dưới…). Toàn bộ những hoạt động của bộ máy hô hấp và của các
cơ quan phát âm tạo ra một âm tương ứng được gọi là sự cấu âm.
Bộ máy phát âm của con người có thể phân chia thành ba bộ phận
chính.
a) Cơ quan hô hấp. Đây là các cơ quan ở lồng ngực như hoành cách,
phế quản, thanh quản, phổi… Nhiệm vụ của các cơ quan hô hấp là cung cấp
mức không khí cần thiết để tạo ra các dao động âm thanh và truyền âm ra
ngoài.
b) Thanh hầu. Đó là cơ quan phát ra âm thanh. Thanh hầu có cấu tạo
như một cái hộp do bốn miếng sụn hợp lại. Bên trong có dây thanh. Dây
thanh có thể rung động theo hướng căng lên hay chùng xuống, mở ra hay
khép vào vì nó gồm hai màng mỏng giống như đôi môi. Dây thanh chính là
nguồn âm. Dây thanh của phụ nữ, trẻ em thường mảnh và căng hơn của đàn
ông, người già, do đó âm phát ra nghe cao hơn.
Thanh hầu là khoang cộng hưởng đầu tiên của bộ máy phát âm.
c) Các khoang cộng hưởng ở phía trên thanh hầu: khoang yết hầu,
khoang mũi, và khoang miệng.
Từ trong thanh hầu, âm được phát ra rất nhỏ nhưng nhờ có các khoang
cộng hưởng ở trên mà được khuếch đại to lên nhiều.
Khoang miệng là một hộp cộng hưởng động, ở đây có các cơ quan
ngôn ngữ quan trọng như môi, ngạc, lợi, răng và đặc biệt là lưỡi. Lưỡi có thể
vận động linh hoạt theo mọi hướng: tiến ra trước, lùi lại sau, nâng cao lên, hạ
xuống thấp, do đó mà làm cho khoang miệng luôn luôn thay đổi. Lưỡi có vai
trò quan trọng như vậy nên đã có hàng loạt thành ngữ nói về nó: Lưỡi không
xương nhiều đường lắt léo; Uốn ba tấc lưỡi; Uốn lưỡi bẩy lần hãy nói (thành
ngữ Pháp); v.v… Thậm chí, ở nhiều ngôn ngữ từ lưỡi đã được dùng để biểu
hiện ý nghĩa "ngôn ngữ, tiếng nói", chẳng hạn tiếng Pháp: langue, tiếng Anh
tongue, tiếng Nga ‘…’. Cùng với lưỡi, hoạt động của môi, hàm dưới… cũng
làm cho hình dáng và thể tích của khoang miệng thay đổi, vì vậy đã tạo ra
được sự muôn màu muôn vẻ cho các âm phát ra.
(xem hình sau - các cơ quan chính trong bộ máy phát âm)
1. Môi
2. Răng
3. Lợi
4. Ngạc cứng
5. Ngạc mềm (rèm ngạc)
6. Lưỡi con
7. Đầu lưỡi
8. Mặt lưỡi
9. Gốc (cuối) lưỡi
10. Nắp họng
A: Khoang yết hầu
B: Khoang miệng
C: Khoang mũi
Tất cả các cơ quan phát âm có thể chia thành hai loại: các cơ quan chủ
động và các cơ quan thụ động.
Thuộc loại chủ động là những cơ quan vận động được và đóng vai trò
chính khi cấu tạo các âm. Ví dụ: dây thanh, lưỡi, môi, lưỡi con, ngạc mềm.
Những cơ quan thụ động không vận động được và khi cấu âm chúng
giữ vai trò hỗ trợ, kèm theo sự vận động của cơ quan chủ động, ví dụ: lợi,
răng, ngạc cứng. Các cơ quan này thường là những "điểm tựa” để cho các cơ
quan chủ động hướng tới.
2.2. Từ mặt vật lí học (âm học)
Âm thanh của ngôn ngữ có nhiều điểm giống với các âm thanh khác
trong tự nhiên. Nó cũng là kết quả của sự chấn động của các phần tử không
khí trong tự nhiên vốn bắt nguồn từ một vật thể nhất định. Cũng như các âm
thanh thường gặp, âm thanh ngôn ngữ cũng có những thuộc tính vật lí (âm
học) cần được nghiên cứu.
a) Độ cao. Âm thanh phát ra bao giờ cũng ở một độ cao nhất định. Mức
độ cao thấp của âm phụ thuộc vào sự chấn động nhanh hay chậm của các
phần tử không khí trong một đơn vị thời gian nhất định. Nói cách khác, độ cao
của âm phụ thuộc vào tần số dao động. Tần số dao động của dây thanh quy
định độ cao của giọng nói con người.
b) Độ mạnh. Độ mạnh của âm do biên độ dao động quvết định. Biên độ
dao động càng lớn âm phát ra càng mạnh. Trong ngôn ngữ, phụ âm phát ra
thường mạnh hơn nguyên âm. Độ mạnh còn được gọi là cường độ.
c) Độ dài. Độ dài hay trường độ của âm phụ thuộc vào sự chấn động
lâu hay chóng của các phần tử không khí. Trong tiếng Việt, ví dụ, a trong hai
dài hơn a trong hay.
d) Âm sắc. Âm sắc là bản sắc, là sắc thái riêng biệt của một âm. Cùng
một nốt nhạc nhưng âm thanh của các loại đàn khác nhau sẽ có những sắc
thái khác nhau, Đó là sự khác nhau về âm sắc. Cùng một bài hát và hát ở
cùng một độ cao như nhau nhưng tiếng hát của Thanh Hoa vẫn khác với
tiếng hát của Thu Hiền, đó cũng là sự khác nhau về âm sắc.
Âm sác khác nhau là do:
- Vật tạo ra âm khác nhau, chẳng hạn vật bằng đồng như chuông âm
sẽ khác với vật bằng gỗ như mõ.
- Cách làm cho vật phát ra âm khác nhau, ví dụ dùng phím đánh đàn,
dùng tay bật đàn, dùng cung kéo nhị, v.v…
- Hiện tượng cộng hưởng khác nhau như tiếng nói của một người ở
nhà xây và ở nhà gỗ, v.v… Đây là lí do giải thích vì sao các nhà hát phải có
một kiến trúc đặc biệt.
e) Tiếng động và tiếng thanh. Các phân tử không khí khi chấn động tạo
ra các chuyển động âm thanh nhịp nhàng, điều hòa, có chu kì ta sẽ có tiếng
thanh; ngược lại - các chuyển động không nhịp nhàng, điều hòa sẽ tạo ra
tiếng động. Thường thường, các nguyên âm cho nhiều tiếng thanh còn các
phụ âm - nhiều tiếng động.
Hai mặt sinh vật học và vật lí học vừa nêu trên của việc nghiên cứu ngữ
âm đã làm thành cái mà các nhà ngôn ngữ học xưa nay vẫn gọi là mặt tự
nhiên của nó. Xét thuần túy về phương diện này có thể coi ngữ âm học là một
bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu những phương thức cấu tạo vầ những
thuộc tính âm học của lời nói của con người. Tuy nhiên, ngữ âm không phải
là một hiện tượng có tính tự nhiên thuần túy. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã
hội. Ngữ âm - mặt biểu đạt của nó - cũng có tính chất xã hội. Vì vậy, cần phải
nghiên cứu ngữ âm từ một mặt khác nữa.
2.3. Từ mặt chức năng xã hội.
Đối với người Việt, đối với xã hội Việt Nam, hai tiếng rác với rắc là hai
vỏ âm thanh của hai từ hoàn toàn khác nhau về nghĩa. Hai tiếng này có ba
yếu tố giống nhau là r, c và "dấu sắc". Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ
trong rác, a được phát âm dài còn trong rắc thì nó được phát âm ngắn hơn.
Như vậy, đối với người Việt, đối với xã hội Việt Nam, đặc trưng về trường độ
dài rất được coi trọng. Nhờ nó, ta có thể phân biệt được hàng loạt cặp từ kiểu
tám - tắm, bát - bắt, cán - cắn v.v… Ở đây đặc trưng về trường độ có một
chức năng xã hội rõ rệt: phân biệt ý nghĩa của các từ. Tuy nhiên đối với người
Nga, tình hình không phải như thế. Một từ như ‘…’c (tạm ghi và đọc theo chữ
Việt rác) dầu có được phát âm với một nguyên âm ngắn đi chăng nữa (kiểu
như rắc) thì ý nghĩa của từ vẫn không thay đổi; người Nga vẫn hiểu là "con
tôm". Do đó, đối với người nói tiếng Nga, đặc trưng về trường độ không có
chức năng phân biệt nghĩa của từ. Như vậy là cùng một đặc trưng âm học
(trường độ) nhưng xã hội này coi trọng, xã hội khác lại xem thường. Đó là tính
chất xã hội của ngữ âm. Tính chất xã hội của ngữ âm giúp ta giải thích đươcj
vì sao số lượng nguyên âm và phụ âm ở các ngôn ngữ trên thế giới không
như nhau: tiếng Nga có 34 phụ âm và 5 nguyên âm và tiếng Việt có 22 phụ
âm và 16 nguyên âm, v.v.
Tính chất xã hội làm cho hệ thống ngữ âm của các ngôn ngữ trên thế
giới trở nên đa dạng, nhiều vẻ. Vì vậy, khi xem xét một hiện tượng ngữ âm,
người nghiên cứu không thể không quan tâm thích đáng đến chức năng xã
hội của chúng.
Tóm lại, đối tượng của ngữ âm học là ngữ âm với sự xem xét từ ba mặt
của nó: mặt sinh vật học (cấu âm), mặt vật lí học (âm học) và mặt chức năng
xã hội (ngôn ngữ học).
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA NGỮ ÂM HỌC
Do ngữ âm học nghiên cứu cả mặt tự nhiên lẫn mặt xã hội của ngữ âm
cho nên nó đã sử dụng hai loại phương pháp nghiên cứu chủ yếu khác nhau:
một loại thích dụng với các khoa học tự nhiên, một loại thích dụng với các
khoa học xã hội.
Loại thứ nhất là phương pháp quan sát, miêu tả các hiện tượng ngữ
âm. Sự quan sát có thể tiến hành bằng mắt, bằng tai của người nghiên cứu.
Ví dụ, khi quan sát một người nào đó phát âm hai tiếng tu hú người nghiên
cứu nhìn thấy hai môi người phát âm tròn lại và nhô về phía trước. Đó là sự
quan sát trực tiếp. Quan sát còn có thể tiến hành bằng phương pháp gián tiếp
tức là qua máy. Ngữ âm học thực nghiệm đã dùng hàng loạt máy móc hiện
đại để quan sát âm thành lời nói. Chung quy lại có thể phân thành bốn loại
phương tiện chính là:
+ Các phương tiện ghi hình cung cấp những đường ghi trên giấy hay
trên phim ảnh. Những đường ghi này không thể chuyển lại thành âm thanh
mà chỉ có thể xem bằng mát.
+ Các phương tiện ghi âm lên mặt sáp, mặt nhựa, băng từ tính… để khi
cần có thể chuyển các đường ghi thành âm thanh trở lại.
+ Các phương tiện ghi vị trí của các cơ quan cấu âm (máy ảnh. máy
quay phim bằng tia X).
+ Các phương tiện ghi và phân tích âm thanh bằng máy quang phổ,
máy hiện sóng v.v…
Phương pháp quan sát bằng máy cho ta những cứ liệu chính xác. Nó
giúp người nghiên cứu quan sát được những sắc thái quá nhỏ bé của âm
thanh mà thính giác con người không có khả năng nhận biết, phân biệt. Tuy
nhiên nó không phải là phương pháp duy nhất và không phải trong trường
hợp nào cũng có thể thay thế được phương pháp quan sát trực tiếp.
Phương pháp thứ hai vốn thích dụng với các khoa học xã hội là
phương pháp suy luận. Trong ví dụ đã dẫn ở 1.3, từ chỗ người Việt có phân
biệt nghĩa của hai từ rác và rắc, nhà nghiên cứu suy ra được rằng trong tiếng
Việt trường độ có tác dụng phân biệt nghĩa, có một chức năng xã hội.
Phương pháp suy luận dựa trên sự đối chiếu, so sánh các từ để tìm ra cái có
ý nghĩa ngôn ngữ học.
Trong hai loại phương pháp nghiên cứu kể trên, phương pháp quan
sát, miêu tả thường đi trước và là bước chuẩn bị cho phương pháp suy luận.
Song đi trước không có nghĩa là quvết định. Để tìm ra hệ thống nguyên âm,
phụ âm của một ngôn ngữ nào đó, người nghiên cứu không thể không tiến
hành bước thứ hai: bước suy luận. Với ý nghĩa đó mà nói thì chính phương
pháp suy luận mới là phương pháp chủ vếu của ngữ âm học.
III. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGỮ ÂM HỌC
Ngữ âm học có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Những thành tựu của nó
đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Ngữ âm học đưa ra những cơ sở khoa học để xây dựng âm chuẩn cho
một ngôn ngữ, đặt chữ viết cho các dân tộc chưa có chữ viết và cải tiến hệ
thống chữ viết của các dân tộc đã có chữ viết từ trước.
Kiến thức ngữ âm học rất cần cho việc dạy và học ngoại ngữ. Nếu
người dạy có những tri thức vững chắc về ngữ âm học và người học cũng có
những khái niệm tối thiểu về môn này thì kết quả học tập sẽ tốt hơn, bời vì
người học không đơn thuần "bắt chước" lối phát âm của người nước ngoài
mà tiếp thu nó một cách có ý thức, dựa trên sự so sánh cấu âm của tiếng
ngoại quốc với tiếng mẹ đẻ của mình.
Những tri thức khoa học về ngữ âm học có thể giúp ích cho việc dạy
phát âm, dạy học theo đúng âm chuẩn, dạy chính tả, phân tích cách tổ chức
âm thanh của một tác phẩm thơ, v.v…
Ngoài ra ngữ âm học còn có một vai trò nhất định trong việc khôi phục
lại ngôn ngữ cho những người bệnh mắc chứng mất ngôn do chấn thương sọ
não, những trẻ em câm - điếc từ nhỏ; trong việc kiểm tra sự minh xác của
đường dây trong ngành thông tin, trong việc đặt lời cho ca khúc phù hợp với
nhạc để không tạo nên sự méo mó, sai lạc cho lời ca,
Với các bộ môn khác của ngôn ngữ học như ngữ pháp học và từ vựng
học, ngữ âm học cũng có một tác dụng hỗ trợ nhất định để làm sáng tỏ những
hiện tượng có liên quan đến các bộ môn này (ví dụ, quy luật tổ chức ngữ âm
trong các từ láy v.v..).
Chương 6. ÂM TIẾT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
I. KHÁI NIỆM ÂM TIẾT
Chuỗi lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác
nhau. Đơn vị phát âm ngán nhất là âm tiết (syllable). Dù lời nói có chậm lại
đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ tách được đến âm tiết là hết. Một câu như
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. có cả thảy 8 âm tiết.
Cần chú ý rằng đây nói về tính chất không thể phân chia được của âm
tiết về phương diện phát âm còn về phương diện thính giác thì khác. Khi nghe
một âm tiết như ba, người Việt có thể phân nó thành các yếu tố nhỏ hơn b và
c. Sự phân tích ấy hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm đối chiếu các tiếng với
nhau, ví dụ, đối chiếu ba với na, ca, xa… và với bô, be, bi,…
Sở dĩ về phương diện phát âm, âm tiết có tính chất toàn vẹn, không thể
phân chia được là bời vì nó được phát âm bằng một đợt căng của cơ thịt của
bộ máy phát âm. Cứ mỗi lần cơ thịt của bộ máy phát âm căng lên rồi chùng
xuống là ta có một âm tiết. Lời nói của con người là một chuỗi đợt căng chùng
như thế. Có thể biểu diễn quá trình ấy bằng một đường gợn sóng như hình
bên.
Khi phát âm mỗi một âm tiết, các cơ thịt của bộ máy phát âm đều trải
qua ba giai đoạn: tăng cường độ căng, đỉnh điểm căng thẳng và giảm độ
căng. Tương ứng với ba giai đoạn này là sự phát triển của độ vang: tăng
cường độ vang, độ vang cao nhất và giảm dần độ vang. Trên sơ đồ đường
cong hình sin biểu thị quá trình phát âm âm tiết, đỉnh đường cong (cực đại)
tương ứng với giai đoạn thứ hai còn chỗ hõm xuống (cực tiểu thì tương ứng
với độ căng thấp nhất. Đỉnh hình sin là đỉnh âm tiết, chỗ hõm xuống là biên
giới âm tiết. Biên giới giữa các âm tiết, vì vậy, là biên giới giữa hai đợt căng.
Đứng ở vị trí đỉnh âm tiết thường là các nguyên âm (như i và e trong ví
dụ dưới), đôi khi cũng có thể là một phụ âm, ví dụ: table “cái bàn" (trong tiếng
Anh và tiếng Pháp, ở đây nằm ở đỉnh âm tiết). Đứng ở vị trí biên giới là các
phụ âm hoặc bán nguyên âm, chẳng hạn: bàn, học, màu, hai.
Dựa vào cách kết thúc, các âm tiết được chia thành hai loại lớn: mở và
khép. Mỗi loại như thế còn được phân thành hai loại nhỏ hơn. Như vậy có thể
nói về bốn loại âm tiết như sau:
- Những âm tiết kết thúc bằng một phụ âm vang (như: ”mn, "n", "ng”,
"nil"…) được gọi là những âm tiết nửa khép, ví dụ: ánh trăng rằm.
- Những âm tiết kết thúc bằng một phụ âm không vang được gọi là
những âm tiết khép, ví dụ: học tập tốt.
- Những âm tiết kết thúc bằng một bán nguyên âm được gọi là những
âm tiết nửa mở, ví dụ: kêu gọi.
- Những âm tiết kết thúc bằng cách giữ nguyên âm sắc của nguyên âm
ở đỉnh âm tiết được gọi là các âm tiết mở, ví dụ: vo ve, thủ thỉ.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
Để chỉ khái niệm âm tiết trong ngôn ngữ học, theo truyền thống người
Việt, thường dùng từ tiếng hoặc tiếng một. Tiếng, tức âm tiết, của tiếng Việt
có những đặc điểm đáng chú ý dưới đây:
1. Có tính độc lập cao.
Trong dòng lời nói, âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng được thể hiện khá
đầy đủ, rõ ràng, được tách và ngắt ra thành từng khúc đoạn riêng. Khác với
âm tiết của một số ngôn ngữ âm tiết tiếng Việt thường không bị nhược hóa
(reduction) hay mất đi. Trong tiếng Nga chẳng hạn, khi nói nhanh [Mariya
Ivanovna] có thể trở thành [marvan:a], ở ngôn ngữ này, như L.R.Zinder nhận
xét: Khi nói nhanh, tất cả những cái gì không có trọng âm đều có thể nhược
hóa đến cùng cực.
Trong một số ngôn ngữ Âu châu, ngoài hiện tượng nhược hóa còn có
cả hiện tượng nối âm (liaison). Bốn âm tiết của tiếng Anh: this is a book khi
kết hợp lại thành câu sẽ được phát âm nối dính với nhau thành: This is a
book (Đây là một quyển sách). Trong tiếng Pháp tình hình cũng hệt như thế.
Ví dụ:
Les amis (Những người bạn)
Vont ils? (Họ có đi không?)
Ở tiếng Nga, hiện tượng nối âm không phổ biến nhưng không phải
không có, ví dụ: Bor OH (Anh ấy đây này).
Trong tiếng Việt không bao giờ có hiện tượng nối âm như trên. Các âm
tiết không hề bị "biến dạng" ở trong lời nói.
im ắng không nói thành i mắng
pháp y không nói thành phá py
thức ăn không nói thành thứ căn
các anh không nói thành cá canh
Khác với âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu, âm tiết nào của tiếng
Việt cũng mang một thanh điệu nhất định (xin xem kĩ ở phần thanh điệu sẽ
trình bày sau). Chính đặc điểm này đã làm cho sự thể hiện của từng âm tiết
trong chuỗi lời nói càng được nêu bật hẳn lên.
Do có sự thể hiện rõ ràng như vậy cho nên việc vạch ra ranh giới giữa
các âm tiết trong tiếng Việt dễ dàng hơn nhiều việc phân chia ranh giới âm tiết
trong các ngôn ngữ Âu châu. Trong tiếng Nga chẳng hạn, khi nghe một người
nào đó phát âm một từ gồm nhiều âm tiết như MecreHKo (nơi, thị trấn), người
mới học tiếng Nga khó xác định được ranh giới âm tiết đi qua đâu; ngắt
thành‘…’.
Vì vậy để xác định rõ ranh giới âm tiết trong những từ phức tạp, các
nhà nghiên cứu thường phải viện đến phương pháp nghiên cứu khách quan,
đặc biệt là cách phân tích lời nói bằng quang phổ. Trong tiếng Việt, trái lại,
các âm tiết được phát ra hết sức khúc chiết, rành rọt, rõ mồn một, cho nên
người nghe có thể nhận biết một cách dễ dàng ranh giới của chúng và số
lượng âm tiết trong một câu nói. Muốn biết được một câu văn hay một câu
thơ có bao nhiều âm tiết, ta có thể xác định bằng cách nghe xem có bao
nhiêu hơi, bao nhiêu "tiếng một" được phát ra. Tính chất tách bạch từng âm
tiết còn được phản ánh trên văn tự: người ta viết rời từng âm tiết (chữ) chứ
không viết liền thành từ như kiểu chữ Nga, chữ Anh, chữ Pháp.
Những điều vừa trình bàv trên đây về sự thể hiện của âm tiết tiếng Việt
chứng tỏ ràng, so với âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu, âm tiết tiếng Việt
có tính độc lập cao hơn hẳn.
2. Có khả năng biểu hiện ý nghĩa
Trong các ngôn ngữ Âu châu, âm tiết chỉ là một đơn vị ngữ âm thuần
túy. Âm tiết nếu bị tách ra khỏi từ chứa nó thì trở nên vô nghĩa hoàn toàn. Một
từ, ví dụ Kupaca của tiếng Nga (giáp bào) nếu tách riêng thành các âm tiết
KU, pa, ca thì đó chỉ là những đơn vị ngữ âm đơn thuần. Trong tiếng Việt,
ngược lại, có một tình hình đáng chú ý là tuyệt đại đa số các âm tiết đều có
nghĩa. Số lượng âm tiết tự thân mang nghĩa chiếm tuyệt đại đa số. Nói cách
khác, ở tiếng Việt gần như toàn bộ các âm tiết đều hoạt động như từ. Có thể
dẫn ra hàng loại ví dụ: mất, dầu, tay, bụng, máy, mưa, gió, nhà, sân, vườn,
học, ăn, ngủ, đẹp, tốt…
Ngoài những âm tiết có nghĩa hiển nhiên như trên, trong tiếng Việt hiện
đại còn một số âm tiết mà hiện nay được coi là vô nghĩa như pheo (trong tre
pheo), núc (bếp núc), lè (xanh lè), v.v… Song nếu lùi lại quá khứ thì những
âm tiết này trước đây đều có nghĩa cả: pheo = tre, núc = bếp, lè = xanh. Dấu
vết ý nghĩa này vẫn ròn lại trong các ngôn ngữ dân tộc, chẳng hạn, trong tiếng
Mường.
Như trên đã nói, tuyệt lại đa số các âm tiết đều là từ đơn. Một số âm tiết
tuy chưa hẳn là một từ hoàn toàn độc lập như các từ đơn nhưng trong những
hoàn cảnh nhất định chúng vẫn có khả năng hoạt động như một từ thực sự.
Âm tiết ngơi trong khổ thơ sau đây là một ví dụ:
Bao bà mẹ từ tim làm mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi cho nhà con ngơi
(Tố Hữu)
Âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu không bao giờ có khả năng ấy nếu
đó không phải là một từ đơn thực sự.
Chính vì mỗi âm tiết của tiếng Việt đều có khả năng biểu hiện; nghĩa
cho nên người Việt mới có điểu kiện tạo ra được cách chơi chữ theo lối tách
từ kiểu: có hội mà không có nghị, có nghị mà không có quyết (tách đôi các từ
hội nghị, nghị quyết). Trong thơ ca hiện tượng tách từ ghép để mỗi âm tiết tồn
tại như một từ đơn khá nhiều và thường tạo ra một sự biểu hiện ý nghĩa độc
đáo, chẳng hạn, Nguyễn Du không viết.
Mặt sao dày dạn gió sương
Thân sao ong bướm chán chường bấy thân
Mà viết:
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thăn
(Truyện Kiều)
Cách chẻ đôi các từ: dày dạn, gió sương, ong bướm, chán chường rõ
ràng có tác dụng nhấn mạnh hơn hẳn vào tính chất tiều tụy, tàn tạ của nàng
Kiều trước sóng gió của cuộc đời. Các cách nói bướm lả ong lơi, bướm chán
ong chường, ra ngẩn vào ngơ, v.v,.. vì vậy rất hay được các nhà thơ sử dụng.
Áp lực về ngữ nghĩa của các âm tiết tiếng Việt nhiều khi mạnh đến mức
làm cho những âm tiết nước ngoài vốn vô nghĩa vào trong tiếng Việt cũng
được "ban" cho một lượng ngữ nghĩa nhất định. Đây là những trường hợp rút
gọn theo kiểu:
Itali: Ý
Kennơdi: Ken
Đối với người Italia, riêng âm tiết đầu trong tổ hợp bốn âm trên không
có ý nghĩa chỉ tên nước. Ngược lại, âm tiết "Ý" đã được "Việt Nam hóa” hoàn
toàn có thể mang ý nghĩa của cả tổ hợp này.
Ngoài ra, cách nói tắt theo kiểu dồn nghĩa của cả từ đa tiết hoặc của cả
tổ hợp từ chỉ vào một âm tiết nhất định như: cổ-cận-dân (cổ đại, cận đại, dân
gian), cao-xà-lá (cao su, xà phòng, thuốc lá), gạo mậu (gạo mậu dịch) v.v…
Suy cho cùng cũng là bắt nguồn từ đặc điểm vừa nêu của âm tiết tiếng Việt.
Tóm lại, trong tiếng Việt, âm tiết không chỉ là một đơn vị ngữ âm đơn
thuần như âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu mà còn là một đơn vị từ vựng
và ngữ pháp chủ yếu. Ở đây mối quan hệ giữa âm và nghĩa trong âm tiết
cùng chặt chẽ và thường xuyên như trong từ của các ngôn ngữ Âu châu. Và
đó chính là một nét đặc trưng loại hình chủ đạo của tiếng Việt.
3. Có một cấu trúc chặt chẽ
3.1. Âm tiết tiếng Việt không phải là một khối không thể chia cắt được
mà là một cấu trúc. Mô hình cấu trúc tổng quát của tất cả các âm tiết tiếng
Việt là:
Mỗi âm tiết tiếng Việt, ở dạng đầy đủ nhất có 5 phần.
Thành phần thứ nhất có chức năng phân biệt các âm tiết với nhau về
cao độ.
Đó là thanh diệu. Mỗi âm tiết đều mang một trong sáu thanh điệu.
Những âm tiết như em ơi đi xem mặc dù không có dấu thanh nhưng
vẫn mang một thanh điệu nhất định. Trong âm tiết loạt, ta cố thanh nặng.
THANH ĐIỆU
ÂM ĐẦUVẦN
Âm đệm Âm chính Âm cuối
Thành phần thứ hai có chức năng mở đầu một âm tiết. Các âm tiết
khác nhau có thể phân biệt với nhau bằng những cách mở đầu khác nhau. Đó
là âm đầu. Âm đầu bao giờ cũng do các phụ âm đảm nhiệm. Trong những âm
tiết như: anh em ai ta có phụ âm đầu /p/ (âm tác thanh hầu), còn trong âm tiết
loại thì đó là /l/.
Thành phần thứ ba có chức năng làm thay đổi âm sắc của âm tiết sau
lúc mở đầu, cụ thể là làm trầm hóa âm tiết. Đó là âm đệm. Thành phần này do
bán nguyên âm /w/ đảm nhiệm. Trong loạt bán nguyên âm này được viết
bằng con chữ o. Ở những âm tiết như dẹp, xinh không có sự tổn tại của /w/,
người ta gọi đó là âm đệm zêrô.
Thành phấn thứ tư quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết, là hạt nhân
của âm tiết. Thành phần này bao giờ cũng do một nguyên âm đảm nhiệm. Nó
có tên là âm chính. Trong âm tiết loạt, /a/ giữ vai trò này.
Thành phần cuối cùng đảm nhiệmchức năng kết thúc âm tiết. Nó có thể
là một phụ âm như /t/ trong loạt, /n/ trong lan hoặc một bán nguyên âm như
/ụ/ trong kêu, /i/ trong gọi. Người ta gọi thành phần này là âm cuối. Cũng như
âm đệm, âm cuối có thể là zêrô như trong các âm tiết có ba chú bé.
3.2. Năm thành phần cấu tạo âm tiết tiếng Việt không phải bình đẳng
như nhau về mức độ độc lập và về khả năng kết hợp.
Nhiều sự kiện ngôn ngữ chứng tỏ rằng thanh điệu và âm đầu kết hợp
với phần còn lại của âm tiết (phần vần) một cách lỏng lẻo. Người ta có thể tìm
được nhiều bằng chứng về sự phân li, về một đường ranh giới khá rõ ràng
giữa các thành phấn này. Trong số những bằng chứng đó, bằng chứng về
cách nói lái của người Việt là hiển nhiên hơn cả. Ở cách nói lái cây còn -> con
cầy, thưa anh rằng -> răng anh thừa, người ta thấy rõ khả năng tách thanh
điệu ra khỏi phần còn lại của âm tiết. Còn những trường hợp nói lái kiểu hiện
đại -> hại điện (càng hiện đại bao nhiêu càng hại điện bấy nhiêu), cá đua ->
cua đá (Cồn cỏ có con cá đua là con cua đá) thì chúng ta lại nhận thấy có sự
giao hoán các âm đầu giữa hai âm tiết.
Trái lại, các yếu tố của phần vần bao gồm âm đệm + âm chính + âm
cuối thì kết hợp với nhau khá chặt chẽ. Người ta ít tìm thấy những bằng
chứng hiển nhiên về sự phân li của chúng. Thực nghiệm cũng đã chỉ ra rằng
giữa âm chính và âm cuối thường có sự bù trừ, đắp đổi cho nhau về trường
độ, nghĩa là nếu âm chính dài thì âm cuối ngắn và ngược lại. So với hai thành
phần thanh điệu và âm đầu, các thành phẩn âm đệm, âm chính và âm cuối có
tính độc lập thấp hơn hẳn.
Căn cứ vào mức độ độc lập không như nhau, vào khả năng kết hợp
lỏng, chặt khác nhau của các thành phần cấu tạo âm tiết, người ta nói rằng
âm tiết tiếng Việt có cấu trúc hai bậc [15], [6].
- Bậc 1 là bậc của những yếu tố kết hợp với nhau lỏng lẻo, có tính độc
lập cao. Đó là thanh điệu, âm đầu và phần vần.
- Bậc 2 là bậc của những yếu tố kết hợp với nhau khá chặt chẽ, có tính
độc lập thấp. Đó là những yếu tố của phần vần: âm đệm, âm chính và âm
cuối.
Có thể mô tả cấu trúc hai bậc của âm tiết tiếng Việt qua một sơ đồ hình
cây như sau:
Cách dạy trẻ em học "đánh vần" hiện nay ở lớp 1 là tuân theo cấu trúc
hai bậc này: cuộn các yếu tố bậc hai lại thành vần trước o + a + n = oan), sau
đó mới thêm âm đầu và thanh điệu vào: + oan = toan, toan + huyền = toàn).
Trong các ngôn ngữ Âu châu, các yếu tố cấu tạo âm tiết không sếp
thành hai bậc như trong tiếng Việt. Mối quan hệ giữa các yếu tố chỉ là những
dấu cộng đơn thuần theo một hàng ngang.
Chương 7. ÂM TỐ VÀ PHÂN LOẠI CÁC ÂM TỐ
I. ĐỊNH NGHĨA
Âm tố (sound) là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, không thể phân chia được
nữa. Âm tiết na chẳng hạn, gồm hai âm tố mà trên chữ viết được ghi bằng hai
chữ cái n và a, tương tự như vậy, ‘…’ (bảng) của tiếng Nga gồm năm âm tố;
pen (cái bút) của tiếng Anh gồm ba âm tố.
Chữ viết của các ngôn ngữ thường không giống nhau và có hiện tượng
dùng nhiều con chữ khác nhau để ghi cùng một âm hoặc trái lại, dùng một
con chữ ghi nhiều âm khác nhau. Vì vậy, để ghi âm tố, người ta đã thống nhất
dùng con chữ in Latin lấy từ bảng kí hiệu phiên âm quốc tế đặt trong hai
ngoặc vuông ví dụ [n], [a], và theo nguyên tắc mỗi con chữ chỉ dùng để ghi
một âm. Tuy nhiên, trong lời nói, âm tố không phải bao giờ cũng được phát
âm với một tư thế điển hình mà thường có những sắc thái khác nhau, những
nét "rườm”. Để ghi lại sắc thái ấy, người ta đã sử dụng một số dấu phụ đặt
bên cạnh các kí hiệu phiên âm, chẳng hạn, dấu ngửa đặt trên nguyên âm chỉ
tính chất ngắn (ví dụ: [ă], dấu hai chấm chỉ tính chất dài (ví dụ: [a:]), dấu
khuyên tròn nhỏ chi tính chất tròn môi (ví dụ: [bo]), V.V…
II. PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ CÁC ÂM TỐ
1. Nguyên âm và phụ âm
Dựa theo cách thoát ra của luồng không khí khi phát âm, các âm tố
thường được phân làm hai loại chính: nguyên âm (vowel) và phụ âm
(consonant).
Khi dây thanh dao động, âm được tạo nên nếu đi ra ngoài tự do, có một
âm hưởng êm ái, dễ nghe ta sẽ có các nguyên âm, ví dụ: [i], [e], [a], [u], [o].
Về mặt âm học, các nguyên âm bao giờ cũng là tiếng thanh bởi vì khi phát âm
các nguyên âm, sự chấn động của các phấn tử không khí thoát ra có một chu
kì khá đều đặn. Về mặt cấu âm, khi phát âm một nguyên âm, bộ máy phát âm
làm việc đều hòa, căng thảng từ đầu đến cuối. Sự hoạt động đều hòa ấy của
bộ máy phát âm làm cho luồng hơi thoát ra có cường độ yếu nhưng không hề
bị cản lại.
Trái lại, luồng không khí từ phổi đi ra nếu bị cản trở ở một điểm nào đó,
chẳng hạn, sự khép chặt của hai môi khi phát âm [b], [m], sự tiếp xúc giữa
đẩu lưỡi với lợi như khi phát âm [t], [d], gây nên tiếng nổ hoặc tiếng xát và
gây nên một âm hưởng "khó nghe", ta sẽ có các phụ âm. Về mặt âm học, các
phụ âm thường tạo nên một tần số chấn động không ổn định và, do đó, là
tiếng động. Về mặt cấu âm, khi phát âm các phụ âm, bộ máy phát âm làm
việc không đều hòa, khi căng khi chùng, tạo cho luồng không khí phát ra một
cường độ mạnh hơn các nguyên âm.
Ngoài hai loại âm tố chủ yếu trên đây còn có loại âm tố thứ ba mang
tính chất trung gian, đó là các bán nguyên âm hay các bán phụ âm. Những
âm tố này vừa mang tính chất nguyên âm vừa mang tính chất phụ âm. Hai
âm [-i] và [-u] trong hai câu là thuộc loại này.
2. Miêu tả và phân loại các nguyên âm
Khi miêu tả và phân loại các nguyên âm, người ta thường dựa vào
những tiêu chuẩn chính là vị trí của lưỡi, độ mở của miệng và hình dáng của
môi.
2.1. Theo vị trí của lưỡi có thể phân các nguyên âm thành:
Các nguyên âm dòng (hàng) trước, tức là khi phát âm đầu lưỡi đưa về
phía trước, ví dụ: [i], [e] của tiếng Việt, tiếng La Ha, tiếng Mường,…
- Các nguyên âm dòng giữa. Khi phát âm các nguyên âm này, phần
giữa của lưỡi nâng lên phía ngạc. Các nguyên âm [‘…’], [‘…’] trong chớ, chứ
của tiếng Việt thuộc loại này.
- Các nguyên âm dòng sau: Đây là những nguyên âm kiểu [a], [u], [o],
[‘…’] của tiếng Việt Mường. Đặc trưng của lối cấu âm các âm này là phấn sau
của lưỡi nâng lên hướng ngạc mềm.
2.2. Theo độ mở của miệng, các nguyên âm được phân thành:
- Các nguyên âm có độ mở rộng như: [a], [ă] của tiếng Việt, tiếng Tày -
Nùng, tiếng La Ha, tiếng Dao, tiếng Mường.
- Nguyên âm có độ mở hẹp như [i], [u] trong các ngôn ngữ Việt, Mèo,
Pà Hưng, La Ha, Mường, Dao,…
Ngoài ra còn có thể có loại hơi rộng hoặc hơi hẹp nếu phân chia một
cách chi tiết hơn nữa.
2.3. Theo hình dáng của đôi môi, người ta phân biệt các nguyên âm
không tròn môi như [i], [e], [a] với các nguyên âm tròn môi như [u], [o], [o].
Ngoài ba tiêu chuẩn chính như trên có thể kể ra một số tiêu chuẩn
khác, ví dụ tiêu chuẩn về trường độ, về tính mũi hóa. Theo tiêu chuẩn trường
độ sẽ có sự đối lập nguyên âm dài với nguyên âm ngắn, ví dụ: [a] và [ ă] trong
cam và căm. Theo tính mũi hóa, có sự phân biệt [a] và [ã] như Jean và Janne
trong tiếng Pháp.
Theo cách phân tích trên đây, chúng ta có thể nhận diện vị trị của các
nguyên âm thường gặp qua một hình thang nguyên âm như sau:
Trong hình thang nguyên âm quốc tế vừa dẫn, ba vạch đứng thể hiện
ba dòng nguyên âm: trước, giữa, sau. Phía bên trái mỗi vạch đứng là các
nguyên âm không tròn môi, bên phải - các nguyên âm tròn môi. Theo chiều từ
trên xuống dưới, càng xuống phía dưới, độ mở miệng càng rộng hơn. Sau
đây là một vài ví dụ về một số nguyên âm (hơi khác lạ với người Việt).
[Y]: phát âm như [i] nhưng tròn môi. Ví dụ: trong tiếng Pháp tu [ty]
(mày), tiếng Đức: funf [fynf] (5).
[‘…’]: phát âm như [e] nhưng tròn môi. Ví dụ, deux (hai) của tiếng Pháp.
[‘…’]: phát âm mở hơn [e] và tròn môi. Ví dụ: fleur (hoa), neuf (mới) của
tiếng Pháp.
[‘…’] gần như nguyên âm trong xích, tịch theo cách phát âm của miền
Nam nước ta. [‘…’] có trong tiếng Nga, ví dụ ‘…’ (mày).
[^] như nguyên âm trong brush (bàn chải) của tiếng Anh.
[‘…’] phát âm như [a] nhưng tròi môi. Ví dụ: dog (con chó) của tiếng
Anh.
Khi miêu tả một nguyên âm, người ta thường dựa vào tất cả những tiêu
chuẩn đã dẫn ra ở trên. Ví dụ: [i] là một nguyên âm có độ mở hẹp, hàng
trước, không tròn môi; [ă] độ mở rộng, hàng sau, không tròn môi, ngắn; [u]
hàng sau, tròn môi, độ mở hẹp, v.v…
3. Miêu tả và phân loại các phụ âm
Việc miêu tả và phân loại các phụ âm thường căn cứ vào hai tiêu chuẩn
chính là phương thức cấu âm và vị trí cấu âm.
3.1. Theo phương thức cấu âm cấc phụ âm được phân thành:
- Các âm tấc. Khi không khí xả ra bị cản trở hoàn toàn, phải phá vỡ sự
cản trở ấy để ra ngoài và gây nên tiếng nổ, ta có phụ âm tác. Thuộc loại tác,
ngoài nhữig âm nổ thuần túy như [p], [t], [k] còn phải kể đến các âm mũi như
[m], [n], [‘…’], [‘…’] và âm bật hai như. [t’] trong thơ thẩn. Đặr trưng của phụ
âm mũi là khi phát âm chúng, không khí thoát qua đường mũi (cùng với
đường miệng) để ra ngoài. Đối với âm bật hơi ngoài tiếng nổ xảy ra ở miệng
còn đồng thời có một tiếng xát nhẹ ở khe hở giữa hai mép dây thanh.
- Các âm xát. Khi cấu âm các phụ âm xát, không khí đi ra bị cản trở
không hoàn toàn, phải lách qua một khe hở nhỏ giữa hai cơ quan cấu âm,
gây nên tiếng xát nhẹ. ví dụ [v], [f], [h] trong các từ vỗ, phải, hò. Cũng thuộc
loại xát còn phải kể đến phụ âm bên như [1] của tiếng Việt. Cách cấu âm đặc
trưng của phụ âm này là có sự cọ xát của luồng không khí ở hai bên mép lưỡi
khi chúng thoát ra ngoài.
- Các âm rung. Đó là các kiểu âm [R] trong các ngôn ngữ khác nhau.
Đặc điểm cấu âm của loại phụ âm này là ở chỗ lưỡi con hoặc đầu lưỡi chấn
động liên tục làm cho luồng không khí bị chặn lại và mở ra liên tiếp, gây nên
một loạt tiếng rung.
Ngoài cách phân loại các phụ âm thành ba kiểu tắc, xát, rung còn có
một cách phân loại khác căn cứ vào đặc điểm âm học của phụ âm. Đó là cách
phân chia thành các âm vang và các âm ồn.
- Các âm vang, ví dụ [m], [n], [l], [‘…’], [‘…’] của tiếng Việt trong các từ
muôn năm, nghe, nhỏ, lắm. Các phụ âm vang có đặc điểm là trong thành
phần cấu tạo của chúng tiếng thanh là chính, là cơ sở.
- Các âm ồn, ví dụ [t], [k], [b], [s]. Đặc trưng của phụ âm ồn là có nhiều
tiếng động (tiếng ổn) trong thành phần cấu tạo của chúng. Các phụ âm ồn có
thể phân nhỏ thành các âm hữu thanh như [b], [d], [g], [z] và các âm vô thanh
như [p], [t], [k], [s]. Sự phân nhỏ này hoàn toàn căn cứ vào chỗ khi cấu âm
dây thanh có rung hay không.
3.2. Căn cứ vào vị trí cấu âm, các phụ âm được phân thành năm loại chính.
- Các âm môi. Khi vật cản là hai môi, ta có các âm môi - môi, ví dụ [m],
[b] của tiếng Việt, tiếng Nga, tiếng Anh. Khi vật cản là môi dưới và hàng răng
cửa của hàm trên, ta có các âm môi - răng, ví dụ [v], [f] của tiếng Việt, tiếng
Tày, tiếng Mèo, tiếng Thái,…
- Các âm đầu lưỡi: Nếu đầu lưỡi áp chặt vào hàng răng cửa của hàm
trên, âm phát ra sẽ được gọi là âm đầu lưỡi - răng. Ví dụ [t], [t’] của tiếng Việt.
Đấu lưỡi còn có thể áp vào lợi hoặc quặt lên phía ngạc tạo nên các âm đầu
lưỡi - lợi, ví dụ [d], [n], [l] hoặc đầu lưỡi ngạc như [‘…’] [‘…’] trong các từ sa,
trường ở cách phát âm miền Trung hoặc miền Nam.
- Các âm mặt lưỡi. Đó là những âm kiểu [c], [‘…’] trong các từ cha, nhà.
Ở đây mặt lưỡi được nâng lên phía ngạc cứng.
- Các âm cuối lưỡi hoặc gốc lưỡi. Nét đặc trưng cấu âm của các phụ
âm cuối lưỡi là phấn cuối lưỡi được nâng lên tiếp xúc với ngạc mềm (rèm
ngạc), ví dụ [g], [k], [‘…’]
- Các âm thanh hầu. Không khí đi ra bị cản trở trong thanh hấu sẽ tạo
nên các âm thanh hầu. Âm [h] trong từ hói hả là thuộc loại này.
Những tiêu chuẩn phân loại trên đây đã được sử dụng tổng hợp để
miêu tả một phụ âm nào đó. Phụ âm [‘…’] chẳng hạn là phụ âm gốc lưỡi,
vang - mũi, tắc, phụ âm [p]- môi, ồn, vô thanh, tắc, phụ âm [d] - đấu lưỡi, ồn,
hữu thanh, tắc, v.v…
Tuy nhiên, ngoài những tiêu chuẩn chính như trên, khi miêu tả các phụ
âm, người ta còn chú ý đến xu hướng phát âm của chúng. Xu hướng này
được thể hiện ở chỗ bộ phận phát âm không hoạt động bình thường như
thường lệ mà nhích về một phía nào đó, tạo ra một sắc thái âm thanh mới.
Khi một âm gốc lưỡi, ví dụ: [‘…’], [k], được phát âm với xu hướng nhích
về trước, trở thành một âm mặt lưỡi - ngạc, người ta gọi đó là hiện tượng
ngạc hóa. Đây là hiện tượng [‘…’] -» [‘…’], [k] -> [c] trong những từ như bình
bịch, chênh chếch (xem thêm chương X).
Ngược lại, khi mặt lưỡi nhích sâu vào phía ngạc mềm hay khẩu mạc, ta
có hiện tượng mạc hóa. Đó là hiện tượng âm [l] tối so với âm [l] sáng trong
tiếng Anh, âm [l] cứng so với âm [l’] mềm trong tiếng Nga.
Trường hợp một âm vốn không có cách cấu âm tròn môi nhưng lại
được phát âm với hai môi tròn lại, ví dụ [t] trong tủ, to, tổ, được gọi là hiện
tượng môi hóa.
Chương 8. ÂM VỊ VÀ CÁC HỆ THỐNG ÂM VỊ CỦA TIẾNG VIỆT
I. ĐỊNH NGHĨA
1. Âm vị là gì?
Trong một từ như ba của tiếng Việt, ngoài thanh điệu, có hai đơn vị tối
thiểu b và a. Nhờ hai đơn vị ấy người Việt nhận diện được từ ba và phân biệt
được vỏ âm thanh của từ này với âm thanh của các từ khác như va, la, ca, bi,
bô, be, v.v… Như vậy mỗi đơn vị ngữ âm tối thiểu như b và a đều co hai chức
năng:
1) Cấu tạo nên vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa (trong trường hợp
này, đó là vỏ âm thanh của từ ba) và
2) Phân biệt (khu biệt) vò âm thanh của các đơn vị có nghĩa. Mỗi một
đơn vị như vậy được gọi là một âm vị. Âm vị (phoneme), vì vậy, được định
nghĩa là đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ dùng để cấu
tạo và phân biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ. Để ghi
âm vị, người ta thường đặt kí hiệu phiên âm ở giữa hai vạch nghiêng song
song, ví dụ /b/, /a/.
Đến đây một câu hỏi tiếp theo lại được đặt ra là: vậy các đơn vị khác
nhau (tức các âm vị) phân biệt với nhau ở những đặc trưng nào? Muốn trả lời
được câu hỏi đó chúng ta phải xác định những đặc trưng âm học và cấu âm
tạo nên một âm vị cụ thể sau đó so sánh những đặc trưng của âm vị này với
những đặc trưng của âm vị khác để tìm ra sự khác biệt. Hãy lấy âm vị /n/ làm
ví dụ. Âm vị này có ba đặc trưng đáng chú ý là đầu lưỡi, tắc và vang. Tính
chất đầu lưỡi làm sao cho /n/ khác với /‘…’/ là mộ phụ âm cũng có tính chất
tắc và vang như /n/ nhưng không có tính chất đầu lưỡi mà có tính chất gốc
lưỡi. Tính chất tắc làm cho /n/ phân biệt với /l/ là một phụ âm xát, mặc dù cả
hai đều là âm vang và đầu lưỡi. Cuối cùng, tính chất vang phân biệt /n/ với /t/
vốn có tính chất ồn và cũng giống /n/ ở tính chất tắc và đầu lưỡi. Có thể hình
dung sự phân biệt của /n/ với /‘…’/, với /l/ và với /t/ như sau:
Ba đặc trưng đầu lưỡi, vang, tắc làm cho /n/ phân biệt với /‘…’/; với /t/
và với /l/, do đó làm cho na phân biệt với nga, với ta, với la, làm cho nay phân
biệt với ngay, với tay và với lay, v.v... được gọi là những đặc trưng khu biệt
(nét khu biệt, dấu hiệu khu biệt, tiêu chí khu biệt). Các đặc trưng khu biệt là
những đặc trưng có tác dụng giúp người bản ngữ nhận diện các âm vị, phân
biệt các âm vị với nhau và do đó phân biệt các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ.
Quá trình phân tích trên đây cho thấy nội dung của âm vị /n/ được xác
định bằng ba đặc trưng khu biệt. Do đó, một cách khái quát, âm vị còn được
định nghĩa là một chùm hoặc một tổng thể đặc trưng khu biệt được thể hiện
đồng thời. [9]
2. Phân biệt âm vị với âm tố
Âm vị là một đơn vị trừu tượng còn âm tố là một đơn vị cụ thể. Âm vị
được thể hiện ra bằng các âm tố và âm tố là sự thể hiện của âm vị... Tiếng
Việt có một âm vị /N/ nhưng trong lời nói hàng ngày không phải lúc nào ta
cũng phát âm những âm [n] cụ thể hoàn toàn như nhau: Khi thì nó mạnh lên,
khi thì nó yếu đi, khi thì nó lại được phát âm hơi tròn môi (như trong no, nô).
Đó là những âm tố cụ thể. Có thể coi chúng như [n1], [n2], [n3]… và cái "lõi"
chung của cả dãy là cái gốc (âm vị) /N/. Yếu tố gốc ấy chỉ có ba đặc trưng khu
biệt còn mỗi một yếu tố cụ thể thì ngoài ba đặc trưng này còn có cả những
đặc trưng khác nữa, ví dụ đặc trưng tròn môi như trong no, nô. Điều đó có
nghĩa là âm vị chỉ gồm những đặc trưng khu biệt còn âm tố thì gồm cả những
đặc trưng khu biệt lẫn những đặc trưng không khu biệt.
Chính vì âm vị là cái chung, là cái mang chức năng khu biệt nên nói
đến âm vị là nói đến mặt xã hội. Trái lại, vì âm tố là sự thể hiện của âm vị, là
một yếu tố âm thanh cụ thể cho nên nói đến âm tố là nói đến mặt tự nhiên của
ngữ âm.
Nói đến âm vị là chỉ bó hẹp trong một ngôn ngữ nhất định vì vậy có thể
nói /k/ và /’…’/ là hai âm vị của tiếng Việt nhưng không thể nói đó là hai âm vị
của tiếng Hán. Ngược lại, nói đến âm tố là nói đến một cái gì chung cho mọi
ngôn ngữ chứ không phải chỉ cho ngôn ngữ này hay ngôn ngữ khác.
3. Biến thể của âm vị
Âm vị được thể hiện ra bằng các âm tố. Những âm tố cùng thể hiện một
âm vị được gọi là các biến thể (variant) của âm vị. Các biến thể thường được
phân chia ra làm hai loại: các biến thể kết hợp và các biến thể tự do. Biến thể
kết hợp là biến thể bị quy định bởi vị trí, bởi bối cảnh ngữ âm. [m] trong màn
và [m] trong mũ là hai biến thể của âm vị /m/. Biến thể thứ hai do đi trước
nguyên âm tròn môi [u] nên bị môi hóa. Đó là biến thể kết hợp. Biến thể tự do,
ngược lại, là biến thể không bị quy định bởi bối cảnh ngữ âm. Từ mẹ chẳng
hạn, có người phát âm với một âm mở to gần như [‘…’] lại có người phát âm
hẹp gần như [e] và có âm [i] nhẹ ở đầu tức là [‘…’]. Đó là những biến thể tự
do của âm vị [‘…’].
II. CÁC HỆ THỐNG ÂM VỊ CỦA TIẾNG VIỆT
Ở các ngôn ngữ Âu châu, trong cùng một từ một phụ âm, ví dụ /m/, có
thể khi thì đứng ở cuối (chẳng hạn, ‘…’-"cái nhà" của tiếng Nga) khi thì đứng
ở đầu âm tiết (chẳng hạn ‘…’ - cách 2). Trong trường hợp này, đó là hai biến
thể vị trí của cùng một âm vị phụ âm /m/. Trong tiếng Việt, chúng ta không có
cơ sở gì để nói rằng /m/ trong mê và /m/ trong ém là một âm vị bời vì chúng
vừa khác nhau về đặc điểm cấu âm (một âm mở ra, một âm đóng lại) lại vừa
khác nhau về chức năng khu biệt. Hơn nữa, trong cùng một từ, không bao giờ
chúng ta thấy có hiện tượng đổi vị trí như /m/ trong từ ‘…’ của tiếng Nga. Vì
vậy /m/ trong mê và /m/ trong êm là hai âm vị thuộc hai hệ thống khác nhau.
Do tình hình trên, trong các thứ tiếng Âu châu, khi miêu tả và phân loại
các âm vị, người ta thường chỉ chia chúng ra làm hai loại chính đối lập nhau
về đặc trưng âm học và cấu âm: hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm.
Đối với tiếng Việt, tình hình không đơn giản như vậy. Các âm tiết tiếng
Việt, như đã trình bày ở chương trước, đối lập nhau theo nhiều thành tố:
thanh điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối. Và ở vị trí của mỗi thành
tố đều có một loạt âm vị cùng đảm nhiệm một chức năng như nhau. Như vậy,
xét theo chức năng khu biệt, tiếng Việt có không phải 2 mà 5 hệ thống âm vị
khác nhau: hệ thống âm đầu, hệ thống âm đệm, hệ thống âm chính, hệ thống
âm cuối và hệ thống thanh điệu.
1. Hệ thống âm đầu
a) Danh sách các âm đầu.
Tiếng Việt có tất cả 22 phụ âm làm nhiệm vụ âm đầu. Đó là /b, m, f, v, t,
t’, d, n, z, ‘…’, s, ‘…’, c, ‘…’, ‘…’, l, k, x, ‘…’, ‘…’, h, ‘…’/
Theo cách phân loại phụ âm đã trình bày ở chương trước, có thể mô tả
hệ thống phụ âm đầu trong một bảng ở trang sau.
Trong danh sách trên chúng ta không kể đến hai âm [P] và [R] vì chúng
chi tồn tại trong những từ phiên âm tiếng nước ngoài, ví dụ: parabôn, pêlixilin.
Riêng âm [R] có tồn tại ở một vài địa phương nhưng phạm vi rất hạn chế.
Ba âm quặt lưỡi (uốn lưỡi) /’...’/ không có trong tiếng Hà Nội và một số
vùng lân cận. Tuy nhiên, các âm này rất phổ biến ở miền Trung và miền Nam,
vì vây không thể không đưa chúng vào hệ thống.
Phụ âm /’...’/ tổn tại trong những âm tiết như ai, ơi, ăn, oản. Cách đánh
vần "tự nhiên" của trẻ theo kiểu ờ + ăn = ăn, ờ + oan = oan, v.v… đã xác
nhận sự tồn tại của âm vị này.
b) Sự thể hiện bằng chữ viết của các âm đầu:
Trừ âm vị /’...’/ không được ghi lại trên chữ viết, phần lớn phụ âm còn
lại đều có một cách thể hiện.
Âm vị Cách viết Ví dụ
/m/ M mượt mà
/b/ B Buồn bã
/v/ V vội vã
/f/ ph Phất phới
/t/ t tan tác
/t/ th thơm tho
/d/ đ đẫy đà
/n/ n no nê
/s/ X xa xăm
/S/ s sớm sủa
/l / l long lanh
/c/ ch chuồn chuồn
/tr/ tr trục trặc
/jl/ nh nhanh nhẹn
/k/ kh khô khóc
/h/ h hối hả
/z/ r ra ruộng
Có một số trường hợp đáng chú ý là:
- Phụ âm /z/ được viết tằng d hoặc gi. Nói cách khác, hai cách viết d và
gì ngày nay đều được phát âm thành /z/, ví dụ da thịt, gia đình.
- Âm vị /k/ được viết bằng k khi đi trước các nguyên âm /i, e, ’...’, ie / ví
dụ: kì, kèn, kế, kiến; bằng q khi đi trước âm đệm /w/ ví dụ: quân, quen, quá;
tầng c trong những trường hợp còn lại, ví dụ: con cáy.
- /’...’/ được ghi bằng gh lài đứng trước /i, e, ε / ví dụ: ghi, ghế, ghen và bằng g trong nhữrg trường hợp còn lại, ví dụ: gây gổ.
- / ŋ / được viết bằng ngk khi đi trước / i, e ε, ie/ chẳng hạn: nghi,
nghẹn, nghề, nghiến và bằng ng trong những trường hợp khác, ví dụ: ngủ
ngon.
c) Vai trò của âm đầu
c1. Vai trò của âm đầu trong việc nhận diện âm tiết
Người ta nhận diện âm tiết dựa vào các thành phần cấu tạo nên nó, tức
là dựa vào những cái phân biệt các âm tiết với nhau. Số lượng âm vị đảm
nhiệm một thành phần nào đó càng lớn thì việc nhận diện một âm tiết càng
dễ. So với các thành phần khác như âm đệm, âm chính, âm cuối, thanh điệu
thì âm đầu có số lượng lớn nhất, do đó âm đầu có chức năng khu biệt lớn
hơn cả. Dựa vào thành phần này người ta dễ nhận diện âm tiết hơn dựa vào
các thành phần khác. Đây là một trong những lí do giải thích vì sao người Việt
đả viết tắt dựa vào âm đầu ví dụ MDQD (mậu dịch quốc doanh), HTX (hợp
tác xã). Một điều hiển nhiên là cách viết tắt dựa vào âm đầu như XHCN dễ
nhận diện âm tiết hơn cách viết tắt dựa vào thanh điệu chẳng hạn ~. ~
c2. Vai trò của âm đầu trong các vần thơ Việt Nam
Vần (rhyme) là sự hòa âm giữa hai âm tiết ở những vị trí nhất định
trong dòng thơ, khổ thơ. Sự hòa âm này được tạo ra chủ yếu nhờ sự đồng
nhất vận mẫu của hai âm tiết hiệp vần, ví dụ chòng - dòng, dào - vào. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, sự đồng nhất âm đầu cũng có thể góp phần
tạo ra một hòa âm nhất định, ví dụ:
Da trời ai nhuộm mà lam
Tình ta ai nhuộm, ai làm cho phai
(Nguyễn Bính)
Song vần không chỉ có sự đồng nhất mà còn có sự khác biệt để tránh
lặp vần - một hiện tượng thường làm cho người nghe cảm thấy rất "ngang
tai". Và âm đầu có vai trò chính, vai trò chủ đạo trong việc tạo ra mặt khác biệt
trong vần thoơ Việt Nam: ví dụ: đào - vào, ta - ca.
2. Hệ thống âm đệm
a) Khi phát âm những âm tiết như tuấn, ngoan, hai môi của người phát
âm tròn lại. Yếu tố tròn môi trong những âm tiết kiểu này được gọi là âm
đệm /w/.
Âm đệm /w/ có cấu tạo gần giống như nguyên âm làm âm chính /u/
trong những âm tiết như hút, lụt nhưng khác vởi âm chính /u/ ở vị trí và chức
năng mà nó đảm nhiệm ở trong âm tiết. Âm chính bao giờ cũng nằm ở đỉnh
âm tiết, quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết. Âm đệm, trái lại, chỉ nằm ở
sườn đường cong đi lên và chỉ có chức năng tu chỉnh, hoàn thiện thêm, làm
trầm hóa âm sắc của âm tiết. So sánh hai âm tiết lụt và luật sẽ thấy rõ điều
đó.
Ở những âm tiết như tấn, ngan yếu tố tròn môi như trên không tồn tại.
Người ta gọi đó là âm đệm zêrô.
b) Trong lời nói, độ mở của âm đệm /w/ phụ thuộc vào độ mở của
nguyên âm - âm chính đi sau. Nếu nguyên âm đi sau là nguyên âm rộng
như /a, ă, ε / thì âm đệm cũng được mở rộng, ví dụ, hoa hòe, xoăn. Ngược lại
nếu nguyên âm đi sau là nguyên âm hẹp như /i, e ‘…, ‘…’/, thì /w/ cũng
được thu hẹp lại ví dụ huy, huệ, tuần, thuở.
c) Trên chữ viết, âm đệm /w/ có hai cách thể hiện phản ánh hai biến thể
rộng, hẹp của nó. Nó được ghi bằng con chữ o khi đi trước các nguyên âm
rộng /a, ă, ε /, ví dụ: họa hoằn, hoa hòe. Nó được ghi bằng con chữ u khi đi
trước các nguyên âm còn lại, ví dụ: huy, huệ, tuần, thuở.
Một điểm đáng chú ý nữa là khi đi sau phụ âm /k/ (với cách viết là q),
âm đệm /w/ bao giờ cũng được viết bàng u ví dụ: qua, que, quăn quy, quê,…
d) Âm đệm /w/ không phân bố sau các phụ âm môi /m, b, f, v/.
Một số trường hợp đi ra ngoài quy luật này đều là các từ phiên âm từ
tiếng nước ngoài, ví dụ: ô tô buýt, thùng phuy, khăn voan.
Trong tiếng Việt, hai âm có cấu âm như nhau hoặc gần nhau thì không
kết hợp với nhau. /w/ là một bán nguyên âm tròn môi, vì vậy nó không đi với
các phụ âm môi.
Sau các phụ âm /n,Y/ sự xuất hiện của /w/ cũng rất hạn chế (chỉ trong
vài từ như noãn cầu, noãn sào, goá).
3. Hệ thống âm chính
a) Danh sách các nguyên âm làm âm chính.
Tiếng Việt có tất cả 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi làm âm
chính. Đó là /i, e, ε, ‘...’, ‘...’, ‘...’, a, ă, u, o, ɔ, ‘...’, ‘...’, ie, ‘...’, uo/.
Theo những tiêu chuẩn phân loại nguyên âm đã trình bày (chương VII)
mà cụ thể là dựa vào vị trí của lưỡi, độ mở của miệng, hình dáng của môi và
thời gian phát âm (trường độ), có thể mô tả các nguyên âm đơn tiếng Việt
trong bảng dưới đây.
Xét về mặt âm học, các nguyên âm hàng trước thuộc loại âm sắc bổng,
hàng sau - trầm; các nguyên âm có độ mở lớn sẽ có âm lượng lớn, độ mở
nhỏ - âm lượng nhỏ.
Ba nguyên âm đôi /ie, ‘...’, uo/ thuộc về ba hàng: trước, sau không tròn
môi và sau tròn môi. Các nguyên âm này đứng ngoài sự đối lập vê độ mở (âm
lượng) vì chúng được phát âm "trượt" chứ không cố định như các nguvên âm
đơn.
b) Sự thể hiện bằng chữ viết của các âm chính.
Có 10 nguyên âm chỉ có một cách thể hiện bằng chữ viết.
Đó là: /e, ε, ‘...’, ‘...’, ‘...’, a, u, o, ε, ‘...’/
Cần chú ý rằng nguyên âm /’...’/ được viết bằng chữ cái a trong những
từ có vần anh hoặc ach, ví dụ: rành mạch, tanh tách, nguyên âm /’...’/ chỉ tồn
tại trong những từ có vần ong hoặc oc, ví dụ: ròng rọc, long dong.
Năm nguyên âm có hai cách thể hiện bằng chữ viết.
- Nguvên âm /i/ được viết bằng i và y, ví dụ: chi li, ý kiến.
- Nguvên âm /o/ được viết bằng oo khi đi trước /ŋ, k/ ví dụ: xoong,
nước, loong toong và bằng o trong những trường hợp còn lại, ví dụ: gọi to.
- Ngnvên âm /ă/ được ghi bằng a trong những âm tiết có vần au hoặc
cy, ví dụ: đau tay, chau mày và bằng ă, ví dụ: loắt choắt.
- Nguyên âm đôi /uo/ được ghi bằng ua ở những âm tiết có âm cuối
zêrô, ví dụ: mua rùa và bằng uô khi ầm cuối không phải zêrô, ví dụ: luống
cuống, buôn buốt.
- Nguvên âm đôi /’...’/ được ghi bằng ưa đối với những âm tiết có âm
cuối zêrô, chẳng hạn: lưa thưa và bằng ưa trong những trường hợp khác,
chẳng hạn: vườn tược.
Riêng nguyên âm đôi /ie/ có tới 4 cách thể hiện. Nó được ghi bàng yê ở
những âm tiết 20 âm đệm /w/ và có âm cuối không phải zêrô, ví cụ: tuyên
truyền hoặc âm cuối khác zêrô, âm đệm zêrô và âm đầu /’...’/, ví dụ: yên, yếu.
Trong những âm tiết có âm cuối không phải zêrô, âm đệm zêrô và âm đầu
không phải /’...’/ thì nó được ghi là iê, ví dụ: chiếu điện. Với những âm tiết có
âm cuối zêrô, nguyên âm đôi này được viết bằng ia, ví dụ chia mía. Cũng với
âm cuối zêrô nhưng có đệm /w/ thì nó lại được ghi bằng ya, chảng hạn khuya.
Toàn bộ sự thể hiện của các nguyên âm - âm chính bằng chữ viết là
như sau:
c) Sự thể hiện và quy luật biến dạng của các âm chính trước âm cuối.
Ở những âm tiết có âm cuối zêrô, nguyên âm làm âm chính bao giờ
cũng ở thể dài, ví dụ: đi về nhà.
Khi đi trước / ŋ, k/ (với cách viết là nh, ch hoặc ng, c), các nguyên âm
hàng trước, hàng sau tròn môi và nguyên âm hàng sau không tròn môi /’...’/
đều bị ngăn lại. Ví dụ: thích, tinh mịch, chênh chếch, lùng sục, hừng hục (trừ
hai trường hợp ngoại lệ là các vần eng éc, oong ooc - dấu vết của cách phát
âm cổ còn sót lại).
Các nguyên âm đôi /ie, ’...’, uo/ bao giờ cũng ở thể dài vì khi cấu âm
chúng đòi hỏi phải có một thời gian nhất định đủ để lướt được từ âm nọ đến
âm kia. Các nguyên âm này đều bắt nguồn từ một yếu tố có độ mỏ hẹp trượt
xuống một yếu tố cùng hàng có độ mở lớn hơn. Khi âm cuối là zero, hiện
tượng trượt càng đi xa hơn và các yếu tố thứ hai của cả ba nguyên âm đôi
đều có xu hướng tiến gần đến [A]. Đây là lí do giải thích vì sao những người
đặt chữ viết đã dùng cùng một con chữ a để ghi các yếu tố thứ hai của cả ba
nguyên âm đôi này. Ví dụ chưa mua mía.
d) Quy luật phân bổ các âm chính
d1) Quy luật phân bố âm chính sau âm đầu và âm đệm.
Trong những âm tiết có âm đệm zêrô, nói chung mỗi nguyên âm đều có
thể đi sau tất cả các phụ âm đầu, trừ hai trường hợp:
- Nguyên âm đôi /uo/ không đi sau phụ âm /f/.
- Nguyên âm đôi /ie/ không xuất hiện sau /’...’/.
Khi đi sau âm đệm /w/ sự phân bố của âm chính có mấy điểm đáng chú
ý là:
- Sau /w/ không xuất hiện các nguyên âm hàng sau tròn môi /u, o, ‘...’,
ɔ, uo/ và các nguyên âm hàng sau không tròn môi /’...’, ‘...’/. Sở dĩ như vậy là
vì âm đệm /w/ và các nguyên âm này rất gần nhau về đặc điểm cấu âm.
- Cũng theo quy luật trên, các nguyên âm hàng trước /i, e, £, ie/ khi đã
kết hợp với âm đệm /W/ vốn là một bán nguyên âm môi thì cũng không bao
giờ kết hợp với các phụ âm cuối là âm môi /m, p/.
d2) Quy luật phân bổ âm chính trong các vần thơ
Trong các vần thơ Việt Nam, hai nguyên âm - âm chính ở hai âm tiết
hiệp vần với nhau thường đồng nhất, cùng hàng hoặc cùng độ mà [2], 112],
[1], Một số ví dụ:
- Đồng nhất:
Thương ai bằng nỗi thương con
Nhơ ai bằng nỗi gái son nhớ chồng
(Ca dao)
- Hai nguyên âm cùng hàng:
Anh cách em như đất liền xa cách bể
Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em
Em thân thuộc sao thành xa lạ thế
Sắp gặp rồi, sóng lại đẩy xa thêm
(Chế Lan Viên)
Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng
(Ca dao)
- Hai nguyên âm cùng độ mở:
Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng luẩn quất bên cô
Bằng không tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào trong giấc mơ.
(Nguyễn Bính)
4. Hệ thống âm cuối
a) Danh sách các âm cuối
Ngoài âm cuối zêrô, tiếng Việt còn có tám âm cuối có nội dung tích cực,
trong đó 6 phụ âm /m, n, ŋ, p, t, k/ và hai bán nguyên âm /u, i/. Vị trí của từng
âm vị trong hệ thống âm cuối có thể trình bày khái quát trong bảng sau:
b) Sự thể hiện bằng chữ viết
Âm vị zêrô không được ghi lại trên chữ viết. Cần chú ý tới 4 trường hợp
sau:
Phụ âm /k/ được ghi bằng ch khi xuất hiện trong những âm tiết có các
vần ích, êch, ach, tức là khi nó đi sau /i, e, t/, ví dụ: chếch, thích, sạch, ở các
âm tiết khác, nó được ghi bằng c, ví dụ: được, việc, bóc, lạc.
Phụ âm / ŋ / được ghi bằng nh trong những âm tiết có các vần inh, ênh,
anh, tức là khi nó đi sau /i, e, /, ví dụ: mình, khênh, bánh. Nó được giũ bằng
ng trong những trường hợp khác, ví dụ: vùng vằng, không, hàng.
Bán nguyên âm /-u/ được viết bằng o trong những âm tiết có các vần
ao, eo, tức là khi nó đi sau /a, ε /. Ví dụ: leo cao, trèo, vào. Còn lại, nó được
ghi bằng u, ví dụ: kêu cứu, tiu nghỉu, bêu riếu.
Bán nguyên âm /-ị/ được ghi bằng y ở những âm tiết có vần ay, ây, ví
dụ: mây bay. Trong những âm tiết khác, nó được ghi bằng i, ví dụ: nói, dài,
rồi.
Có thể hình dung toàn bộ sự thể hiện bằng chữ viết của các âm cuối
như sau:.
/m/ - m
/p/ - p
/n/ - n,
/t/ - t
/ ŋ / - ng, nh
/k/ - c, ch
/u/ - u, o
/-i/ - i, y
c) Sụ thể hiện quy luật biến dạng của các âm cuối
Tất cả các phụ âm cuối đều là những phụ ăm đóng. Âm /m/ trong /nam/
chẳng hạn, được phát âm khép lại chứ không bật ra theo kiểu [na - m] của
tiếng Nga. Đây cũng là một trong những lí do giải thích vì sao tiếng Việt không
có hiện tượng nối âm. Trong các ngôn ngữ Âu châu, do phụ âm cuối từ được
phát âm bật ra, do sự kết hợp của nó với nguyên âm đi trước khá lỏng lẻo
nên khi gặp nguyên âm của từ đi sau, nó dễ dàng bắt quan hệ để tạo nên một
âm tiết khác.
Trong số các phụ âm cuối thì / ŋ, k/ co sự biến dạng đặc biệt. Khi đi sau
các nguyên âm hàng trước, chúng bị kéo về phía trước và trở thành / ŋ, c/, ví
dụ: tĩnh mịch, bách bệnh. Khi đi sau các nguyên âm tròn môi, chúng cũng bị
tròn môi lây, ví dụ học, đúc, đồng.
Khi đi sau các nguyên âm dài, các bán nguyên âm /-u, i/ có bị biến dạng
ít nhiều tùy thuộc vào độ mở của nguyên âm đi trước. Nếu nguyên âm đi
trước có độ mở hẹp thì bán nguyên âm cuối cũng có độ mở hẹp, ví dụ: gửi,
túi, níu, cứu. Ngược lại, nếu nguyên âm đi trước có độ mở rộng thì âm cuối
cũng được mở rộng hơn, ví dụ: hai, bác.
d) Quy luật phân bố các âm cuối
d1) Quy luật phân bố âm cuối sau âm chính
Nói chung tất cả các phụ âm cuối đều phân bố sau tất cả các âm chính,
trừ một số trường hợp là / ŋ, k/ không đi sau /’...’/, /m, p/, không đi sau /’...’,
‘...’, ‘...’/, /n, t/ không đi sau / ‘…’, ‘...’/. Như vậy sau /’...’/, /’...’/ chỉ có thể là / ŋ /
hoặc /k/ (trong các vần anh, ach, ong, oc).
Hai bán nguyên âm cuối /-u, -i/ kết hợp với âm chính theo nguyên tắc
xa nhau về cấu âm, cụ thể là:
- Bán nguyên âm /-i/ thuộc hàng trước chỉ xuất hiện sau các nguyên âm
hàng sau (không tròn môi và tròn môi), ví dụ: gửi, nơi, ấy, túi, rồi).
- Bán nguyên âm /-u/ thuộc hàng sau tròn môi chỉ xuất hiện sau các
nguyên âm hàng trước và các nguyên âm hàng sau không tròn môi, ví dụ: rêu
rao, lâu, keo.
d2) Quy luật phân bố âm cuối trong các vần thơ
Trong các vần thơ, âm cuối trong cặp âm tiết hiệp vần phân bố theo
những nguyên tắc sau [1] [2] [12].
- Đồng hoàn toàn, ví dụ:
Gia đình mình đã sơ tán chưa em
Chiêu thứ bảy em có về phố nhỏ
Có ngập ngừng trước khi mở cửa
Lá sấu rơi xúc động bên thềm
(Thanh Thảo)
- Các âm thuộc cùng nhóm vang mũi /m, n, ŋ]/ đi với nhau. Ví dụ:
Sao đặc trời sao sáng suốt đêm
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em
(Nguyễn Bính)
- Các âm cùng nhóm tắc - vô thanh /p, t, k/ đi với nhau, ví dụ:
Ngày mai anh đi em có buồn không
Con đường đôi mình em đến lớp
Một mình em giữa hai bờ nước
Cây phượng, cây bàng cành cứ níu sang nhau
(Trần Nhương)
Chương 9. CÁC HIỆN TƯỢNG NGÔN ĐIỆU
Ở trên chúng ta đã đề cập đến khái niệm âm vị. Xưa nay, theo truyền
thống ngôn ngữ học, các âm vị luôn luôn được thể hiện kế tiếp nhau trong lời
nói bằng những khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, mỗi âm vị đều
chiếm một khúc đoạn. Tuy nhiên, để tạo nên từ bà chẳng hạn, đồng thời với
những âm vị như /b/, /a/ còn phải có thanh huyền - một hiện tượng được thể
hiện đồng thời với các âm vị trên. Để tạo nên từ cecrpa đồng thời với các âm
vị Nga /sestra/ còn phải có hiện tượng nhấn giọng ở âm tiết [ra]. Những hiện
tượng ngữ âm vừa nêu không được định vị trên tuyến thời gian như các âm vị
thông thường mà được thể hiện đồng thời với các âm vị đó. Đó là những hiện
tượng ngôn điệu (prosodic facts) hay điệu tính. Những hiện tượng ngôn điệu
chủ yếu là ngữ điệu, trọng âm và thanh điệu.
I. NGỮ ĐIỆU
Ngữ điệu (intonation) là sự chuyển động của thanh cơ bản của giọng
nói, là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong câu.
Cùng với các chỗ ngừng, ngữ điệu cũng là một phương tiện phân loại
lời nói. Ví dụ:
Tôi không ngờ được rằng anh
một con người tài ba như thế mà lại bị cô ấy đá
Song ngữ điệu được dùng không chỉ để phân đoạn lời nói. Chức năng
chính của nó là nói liền các bộ phận của lời nói lại với nhau, làm cho lời nói
trở nên liền mạch.
Ngữ điệu còn được sử dụng để biểu hiện tính chất của các loại câu. Ở
đây nó đóng vai trò là một phương thức ngữ pháp thực thụ. Qua ngữ điệu,
người nghe có thể biết được câu nói thuộc loại gì: trần thuật, nghi vấn hay
mệnh lệnh (cầu khiến), v.v… Ví dụ:
- Anh đi? (lên giọng - câu hỏi)
- Anh đi! (mệnh lệnh)
Trong nhiều ngôn ngữ, sự chuyển động lên của ngữ điệu thường có
chức năng tiếp tục, tức là nó thông báo mệnh đề chưa kết thúc, sự chuyển
động xuống - có chức năng kết thúc, tức là nó cho biết mệnh để đã hết. Ngoài
ra sự vận động theo hướng nằm ngang có thể có ý nghĩa liệt kê. Ví dụ: Đây:
bàn, ghế, tủ, giường…
Cuối cùng, ngữ điệu còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc biểu hiện tất cả
những sắc thái cảm xúc đa dạng của lời nói. Qua ngữ điệu, người nghe có
thể biết được thái độ, tình cảm của người nói: phẫn nộ, yêu thương, chế diễu,
vui vẻ, buồn phiền, lo lắng, hờn dỗi…
Trong tiếng Việt, ngữ điệu thường được sử dụng đồng thời với những
từ tình thái như à, u, nhi, nhé… Sử dụng tốt các phương tiện này sẽ làm cho
lời nói trở nên sinh động, có hồn và nâng cao được hiệu quả giao tiếp.
II. TRỌNG ÂM
Trọng âm (accent) là sự nêu bật một trong những âm tiết của từ bằng
những phương tiện ngữ điệu nhất định.
Sự nêu bật được tiến hành bằng cách nhấn mạnh âm tiết (tức là bằng
cường độ phát âm) được gọi là trọng âm lực. Sự nêu bật được tiến hành
bằng cách kéo dài thời gian phát âm được gọi là trọng âm lượng. Trên thực tế
còn có cả những trường hợp nhấn trọng âm vừa bằng cường độ lại vừa bằng
thời gian phát âm. Trong tiếng Nga chẳng hạn, âm tiết mang trọng âm vừa
được phát mạnh lại vừa được kéo dài hơn các âm tiết khác.
Tùy từng ngôn ngữ mà trọng âm có thể cố định hay tự do. Trọng âm cố
định là trọng âm bao giờ cũng rơi vào vị trí nhất định của từ. Ví dụ, trong tiếng
Sec (Tiệp) trọng âm bao giờ cũng ở âm tiết đầu từ, trong tiếng Balan - ở âm
tiết trước âm tiết cuối, trong phần lớn các ngôn ngữ Chiur - ở âm tiết cuối.
Trọng âm cố định có chức năng phân giới, tức là phân biệt ranh giới giữa các
từ. Dựa vào trọng âm, người ta có thể biết được đến đâu hết một từ vì bắt
đầu một từ khác. Chẳng hạn, nếu trọng âm luôn luôn rơi vào âm tiết đầu thì
cứ đến âm tiết nhấn trọng âm người ta biết là đã sang một từ mới; nếu nó
luôn rơi vào âm tiết trước âm tiết cuối thì khi đến trọng âm người ta biết còn
một âm tiết nữa sẽ hết từ.
Trọng âm tự ảo là trọng âm không ở vào vị trí nhất định của từ: trong từ
này nó ở âm tiết đầu, trong từ kia - ở âm tiết cuối, trong từ thứ ba ở âm tiết
trước âm tiết cuối, v.v… Ví dụ, trong tiếng Nga: ‘…’, ‘…’, ‘…’. Trong các ngôn
ngữ có trọng âm tự do trọng âm có chức năng khu biệt ý nghĩa của từ, nghĩa
là khi thay đổi vị trí của trọng âm sẽ dẫn đến việc thay đổi hoặc phá vỡ ý
nghĩa của từ, ví dụ trong tiếng Nga ‘…’ (sự đau khổ) ‘…’ (bạ).
Khái niệm trọng âm tự do không trùng làm một với khái niệm trọng ân:
di động. Đặc điểm của trọng âm di động là trong khi từ biến đổi hình thái, nó
có thể thay đổi vị trí, ví dụ trong tiếng Nga, nuuý, ‘…’ (tôi viết, anh viết). Trọng
âm di động cũng có thể có ở các ngôn ngữ có trọng âm tự do mà cũng có thể
có ở các ngôn ngữ có trọng âm cố định.
Trong các ngôi ngữ Âu châu như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp,
trong âm có vai trò đáng kể. Trong tiếng Việt và các ngôn ngữ có thanh điệu
khác, vai trò của trọng âm có bị "mờ nhạt" đi trước sự tồn tại của thanh điệu.
Tuy nhiên sẽ là không đúng nếu như có thái độ cực đoan cho rằng tiếng Việt
hoàn toàn không có trọng âm.
Trong tiếng Tiệt trọng âm được nêu bật chủ yếu bằng cách tăng cường
trường độ của nguyên âm. Nói cách khác, trọng âm của tiếng Việt chủ yếu là
trọng âm lượng. Tiếng Việt có một số từ không bao giờ mang trọng âm (ví dụ
từ cái - loại từ). Tuy nhiên có những từ trọng âm được thể hiện khá rõ, ví dụ:
cà khẳng cà khiu, tóe tòe loe. Tuyệt đại đa số các thực từ đều mang trọng âm.
Có những cặp từ đối lập trong đó trọng âm là tiêu chí khu biệt duy nhất, ví dụ
cho, đề là động từ. (Tôi cho anh quyền sách; Nó để khăn lên bàn) với cho đề
là từ hư (quét cho sạch, nói dể anh hiểu). Có những từ đa tiết, nếu đặt sai
trọng âm thì từ đó bị phá vỡ; mỗi âm tiết thành một từ riêng biệt, ví dụ bảo với
= nói theo và bảo (động từ) + với (giới từ).
III. THANH ĐIỆU VÀ CÁC THANH ĐIỆU CỦA TIẾNG VIỆT
1. Định nghĩa
Thanh điệu (tone) là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm
tiết có tác dụng cấu tạo và khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị. Sự khác
nhau giữa cà và cả là sự khác nhau về thanh điệu: âm tiết cà được phát âm
cao, âm tiết ch được phát âm thấp. Nhờ thanh điệu, các câu sau đây đã được
hiểu theo các ý nghĩa khác nhau: Con ba ba đâu rồi, Con bà ba đâu rồi, Con
ba bà Đâu rồi, Còn bà ba đâu rồi,…
Như vậy, nếu như ngữ điệu là đặc trưng của câu, trọng âm là đặc trưng
của từ thì thanh điệu là đặc trưng của âm tiết. Không phải ngôn ngữ nào cũng
có thanh điệu. Tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Lào có thanh điệu. Các ngôn ngữ
Anh, Nga, Pháp, Khmer không có.
2. Miêu tả các thanh điệu tiếng Việt
Tiếng Việt có 6 thanh điệu. Trên chữ viết, năm thanh được ghi lại bằng
năm dấu huyền, ngã, hỏi, sắc, nặng còn một thanh không được ghi lại bằng
một dấu nào cả. Có thể gọi đó là thanh không dấu.
a) Thanh không dấu. Đây là thanh điệu cao, có đường nét vận động
bằng phẳng từ đầu đến cuối, ví dụ: đi xe ca sang Gia Lâm.
b) Thanh huyền. So với thanh không dấu, thanh huyền là một thanh
thấp. Đường nét vận động của thanh này cũng bằng phẳng như thanh không
dấu tuy về cuối có hơi đi xuống.
Như vậy, sự khác nhau giữa thanh không dấu và thanh huyền chủ yếu
là ở độ cao. Một số sinh viên nước ngoài học tiếng Việt đã phát âm ba thành
bà hoặc ngược lại, là do không phân biệt được hai mức cao - thấp của chúng.
c) Thanh ngã. Thanh ngã bắt đầu ở độ cao gần ngang thanh huyền
nhưng không đi ngang mà vút lên kết thúc ở độ cao cao hơn cả thanh không
dấu.
Ở thanh ngã, đường nét vận động bị gãy ở giữa do trong quá trình phát
âm có hiện tượng bị tắc thanh hầu (xem hình dưới). Đây là chỗ khó phát âm
đối với trẻ em và đối với người nước ngoài học tiếng Việt. Thanh này hay bị
phát âm thành thanh sắc: ngã -> ngá, nước lã -> nước lá.
d) Thanh hỏi. Đây là một thanh thấp và có đường nét gãy ở giữa. Độ
cao lúc bắt đầu của thanh hỏi gần ngang thanh huyền. Sau khi đi ngang một
đoạn, thanh này đi xuống và lại đi lên cân xứng với đường đi xuống. Độ cao
lúc kết thúc bằng độ cao lúc ban đầu. Ở trẻ em mới học nói, thanh hỏi thường
được phát âm thành thanh nặng, ví dụ mỏ cửa -> mạ cựa. Ở miền Trung và
miền Nam hai thanh ngã và hỏi không được phân biệt vì vậy hay xảy ra tình
trạng lẫn lộn "dấu ngã! và "dấu hỏi” khi viết chính tả.
e) Thanh sắc. Lúc bắt đầu, độ cao của thanh sắc gần ngang với thanh
không dấu nhưng thanh sắc không đi ngang mà đi lên. ơ những âm tiết có
những âm cuối là /p, t, k/ như bắt cóc, nấp thì thanh sắc vút cao ngay, gây ấn
tượng ngán. Ở phương ngữ miền Trung có vùng phát âm một số âm tiết
mang thanh sắc thành thanh hỏi, ví dụ ý chí -> ý chỉ.
g) Thanh nặng. Thanh nặng là một thanh thấp và có đường nét xuống
dần. Ở những âm tiết có âm cuối /p, t, k/ như học tập, mật thanh nặng được
phát âm xuống ngay, ở thanh nặng cũng có hiện tượng tắc thanh hầu trong
quá trình phát âm..
Dưới đây là biểu đồ về sự thể hiện của các thanh điệu tiếng Việt.
3. Phân loại các thanh điệu tiếng Việt
Trong phần miêu tả ở trên, chúng ta thấy các thanh điệu phân biệt với
nhau theo hai đặc trưng chủ yếu: độ cao và đường nét vận động. Dựa vào hai
đặc trưng nàv, có thể phân loại các thanh điệu theo hai cách:
- Các thanh có âm vực cao: không dấu, ngã, sắc.
- Các thanh có âm vực thấp: huyền, hỏi, nặng.
Trong loại âm vực cao, thanh không dấu thuộc bậc cao vừa. còn ngã,
sắc thì cao hẳn.
b) Theo đường nét vận dộng hay theo ăm điệu, các thanh được chia ra:
- Những thanh có đường nét bằng phẳng (truyền thống gọi là thanh
bằng): không dấu, huyền.
- Những thanh có đường nét không bằng phẳng (truyền thống gọi là
thanh trắc): ngã, hỏi, sắc, nặng.
Trong số các thanh trắc có thể phân nhỏ thành:
+ Các thanh có đường nét gãy: ngã, hỏi.
+ Các thanh có đường nét không gãy: sắc, nặng.
Những điều vừa trình bày được tóm tắt trong bảng sau:
Âm điệu/
Âm vựcBằng
Trắc
Gẫy Không gẫy
Cao Không dấu Ngã Sắc
Thấp Huyền Hỏi Nặng
4. Quy luật phân bố các thanh điệu.
a) Thanh diệu trong các kiều âm tiết
Sự phân bố thanh điệu trong âm tiết liên quan chặt chẽ với thành phần
âm cuối.
Ở những âm tỉết có âm cuối là phụ âm tắc vô thanh /p, t, k/ chỉ có thể
có thanh nặng hoặc thanh sắc. Các thanh không dấu. huyên, ngã, hỏi không
thể tồn tại được ở những âm tiết loại này. Sở dĩ như thế là vì:
- Hai thanh không dấu và huyễn có đường nét âm điệu bằng phẳng.
Đường nét này đòi hỏi phải có một trường độ nhất định mới bộc lộ được.
Trong khi đó thì những âm tiết có âm cuối /p, t, k/ bị đóng chặt lại làm cho một
phần trường độ ở cuối thực chất chỉ là một khoảng im lặng, vì vậy hai thanh
này không có điều kiện để thể hiện đầy đủ đặc trưng bằng phằng của mình.
- Hai thanh ngã và hỏi có nét đặc trưng ở tính chất gãy. Nếu xuất hiện
trong điều kiện trường độ hạn chế thì chúng cũng không bộc lộ được đường
nét vận động phức tạp này.
Ở những âm tiết có âm cuối không vô thanh, tất cả các thanh điệu đều
có thể xuất hiện.
Như vậy, trong sáu thanh điệu thì hai thanh sắc và nặng có phạm vi
phân bố rộng nhất: ở tất cả các kiểu âm tiết.
b) Thanh điệu trong các vần thơ.
Trong các vần thơ truyền thống Việt Nam, thanh điệu trong hai âm tiết
hiệp vần với nhau được phân bố theo nguyên tắc cùng âm điệu, cụ thể là
cùng bằng hoặc cùng trắc, ví dụ;
- Cùng bằng:
Bỏ thuyền bỏ bến bỏ dòng sông
Cô lái đò kia đi lấy chồng
Vắng bóng cô em từ dạo ấy
Để buồn cho những khách sang sông
(Nguyễn Bính)
- Cùng trắc:
Sông Bến Hải bên bồi bên lở
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương
(Tố Hữu)
Một điểm cần chú ý là đối với những âm tiết đều là vần thơ, ở trên cùng
một dòng nhưng không hiệp vần với nhau (tức là mỗi âm tiết đều bắt vần với
một âm tiết ở dòng khác) thì nguyên tắc cùng âm điệu không hoàn toàn bắt
buộc, ở thể song thất lục bát, trong câu thất thứ hai, hai âm tiết là vần thơ
không bao giờ cùng âm điệu. Ví dụ:
Thư thường lại người không thấy lại
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh
Rêu xanh mấy lớp chung quanh…
(Chinh phụ ngâm)
Tuy nhiên, trong thể lục bát, ở câu bát, hai âm tiết - vần thơ bao giờ
cũng cùng âm điệu, tức là cùng bằng, và đối lập nhau về âm vực. Ví dụ:
Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Nhu hôm em đi lễ chùa
Cứ mặc như thế cho vừa lòng anh
(Nguyễn Bính)
c) Thanh điệu trong các từ láy
Trong tiếng Việt hiện đại, như đã nói, thanh ngã là một thanh cao và
thanh hỏi là một thanh thấp. Tuy nhiên, về mặt lịch sử, vị trí của hai thanh này
ngược lại: thanh hỏi cao, thanh ngã thấp. Như vậy trước đây các thanh cao
là: không dấu, hỏi, sắc và các thanh thấp là huyền, ngã, nặng.
Trong các từ láy đôi của tiếng Việt, hai thanh điệu trong hai âm tiết của
từ được phân bố theo nguyên tắc cùng âm vực như trên, cụ thể là các thanh
không dấu, hỏi, sắc đi với nhau, các thanh huyền, ngã, nặng đi với nhau. Một
số ví dụ:
đo dỏ
nhàn nhạt
nhan nhản
bì bõm
hâm hấp
kệch cỡm
đỏ đắn
bàng bạc
d) Thanh điệu trong các thành ngữ
Một đặc điểm nổi bật của các thành ngữ tiếng Việt là tính chất đối. Trừ
những thành ngữ được cấu tạo bằng ba âm tiết, những thành ngữ từ bốn âm
tiết trở lên thường được chia thành hai vế, đọc thành hai nhịp. Ở những thành
ngữ loại này, hai vế của một thành ngữ ngoài sự đối xứng về số lượng âm tiết
còn có sự đối xứng khá đều đặn về thanh điệu. Quy luật đối xứng đó được
thể hiện ở chỗ: các âm tiết cuối của mỗi vế thường mang những thanh đối lập
nhau về âm tiết. Mô hình đối xứng là:
…b/ …t
…t/ …b
Ví dụ:
- Màn trời/ chiếu đất
- Đứng núi này/ trông núi nọ
- Giật đầu cá/ vá đầu tôm
- Việc nhà thì nhác/ việc chú bác thì siêng
Tính chất đối xứng bằng/ trắc trên đây đôi khi có thể "lan" đến âm tiết
thứ hai, thứ ba kể từ âm tiết cuối trở lên.
Ví dụ
…bbb/…ttt
- Treo đầu dê/bán thịt chó.
- Đổ mồ hôi/sôi nước mắt.
…bbt/…ttb
- Đời cua cua máy/đời cáy cáy đào.
Chương 10. NHỮNG HIỆN TƯỢNG BIẾN ĐỔI NGỮ ÂM
Trong lời nói, các âm tố được phát âm không phải một cách biệt lập mà
tạo thành từng chuỗi, từng hàng, ở đây các âm tố có thể bị ảnh hưởng bởi
những bối cảnh ngữ âm hoặc bởi sự tác động lẫn nhau. Trong trường hợp
đầu, những biến đổi ngữ âm là những biến đổi vị trí, trong trường hợp sau -
những biến đổi kết hợp [7].
I. NHỮNG BIẾN ĐỔI VỊ TRÍ
Trong các ngôn ngữ Âu châu, những biến đổi vị trí của các âm tố
thường bị quy định bởi vị trí đối với trọng âm, vị trí ở đầu hay ở cuối từ.
Trong số các biến đổi vị trí, hiện tượng nhược hóa (reduction) được coi
là phổ biến hơn cả. Nhược hóa là làm yếu âm tố đi về cường độ và trường
độ. Hiện tượng nhược hóa nguyên âm thường do trọng âm quy định. Trong
tiếng Nga chẳng hạn, nguyên âm [o] ở trước hoặc sau trọng âm có thể bị
nhược hóa thành [‘...’] hoặc [a].
Những biến đổi của các âm tố ở đầu hay cuối từ cũng là những biến đổi
vị trí hay gặp. Những biến đổi này thường xảy ra đối với các phụ âm. Trong
một số ngôn ngữ, ví dụ tiếng Nga, ở cuối từ, các phụ âm hữu thanh thường
được phát âm thành âm vô thanh tương ứng: [b] -> [p], [d] -> [t], [g] -> [k],…
Trong tiếng Việt, như đã nói, trọng âm không có vai trò "thống trị”, do đó
sự chi phối của nó đối với các âm tố cũng không có hiệu lực đáng kể, không
gây nên hiện tượng nhược hóa mạnh như trong các ngôn ngữ Âu châu.
Mô hình âm tiết tiếng Việt với 5 thành tố đã tạo nên một cấu trúc rất
chặt chẽ. Ở tất cả các vị trí, các âm tố, nói chung, không biến đổi, kể cả vị trí
cuối từ là vị trí vốn rất dễ tạo nên sự biến đổi âm tố trong các ngôn ngữ Âu
châu. Vì vậy, so với các ngôn ngữ này, tiếng Việt ít có những biến đổi vị trí.
II. NHỮNG BIẾN ĐỔI KẾT HỢP
Những biến đổi kết hợp nảy sinh khi các âm tố kết hợp lại với -nhau
trong chuỗi lời nói.
Bản chất của những biến đổi kết hợp sẽ được hiểu một cách dễ dàng
khi ta chú ý đến ba giai đoạn cấu âm một âm tố: tiến, và lui. Khi ranh giới giữa
các giai đoạn này bị thay đổi, xê dịch thì sẽ làm xuất hiện những biến đổi âm
tố khác nbau.
Nếu giai đoạn lui của âm đi trước ảnh hưởng đến giai đoạn tiến của âm
tố đi sau (hay giai đoạn tiến của âm đi sau phải thích nghi với giai đoạn lui của
âm đi trước) thì sẽ xuất hiện những biến đổi kết hợp xuôi; còn nếu giai đoạn
tiến của âm tố đi sau ảnh hưởng đến giai đoạn lui của âm tố đi trước (hay giai
đoạn lui của âm tố đi trước phải thích nghi với giai đoạn tiến của âm tố đi sau)
thì sẽ có những biến đổi kết hợp ngược. Sau đây là một số hiện tượng biến
đổi âm tố do sự kết hợp tạo nên.
1. Hiện tưọng thích nghi (accommodation)
Hiện tượng thích nghi phát sinh khi có sự kết hợp giữa một phụ âm và
một nguyên âm. Đó là hiện tượng một trong hai âm tố biến đổi đi để phù hợp,
thích nghi với âm bên cạnh. Ví dụ, trong tiếng Việt [t] là một phụ âm không
tròn môi nhưng khi đi với các nguyên âm tròn môi như [u], [o] nó cũng bị tròn
môi lây chẳng hạn tu, tô. [k] là một phụ âm gốc lưỡi, khi đi với các nguyên âm
hàng trước như [i], [e] nó bị kéo về phía trước chẳng hạn: kì, kế. Đó là những
hiện tượng thích nghi ngược vì âm đi trước phải biến đổi cho gần với âm đi
sau.
Một trong những ví dụ về hiện tượng thích nghi xuôi là trường hợp của
những từ có các vấn inh, ich, anh, ach, ênh, êch. Ở đây các phụ âm cuối / ŋ /,
k/ khi đi sau các nguyên âm hàng trước bị kéo lên trước và trở thành /‘…’/, /c/,
ví dụ: chinh chích, bênh bệch, sành sạch.
2. Hiện tượng đồng hóa (assimilation):
Đồng hóa cũng là hiện tượng thích nghi nhưng xẩy ra đối với các âm
cùng loại: nguyên âm với nguyên âm, phụ âm với phụ âm. Hai nguyên âm
hoặc hai phụ âm gần nhau, một âm biến đi để có cấu âm gần với âm kia hơn.
Trong tiếng Nga [Sbit’] được phát âm thành [zbit’]; ở đây [S] là âm vô thanh
được phát âm thành âm hữu thanh [z] do đi trước âm hữu thanh [b]. Đó là
hiện tượng đồng hóa ngược.
Trong tiếng Việt, hiện tượng đồng hóa thường gặp ở các thanh điệu. Ví
dụ: năm mười ->năm mươi (âm tiết thứ hai được chuyển từ thanh huyền sang
thanh không dấu để phù hợp với âm tiết thứ nhất), muôn vạn -> muôn vàn
(âm tiết thứ hai chuyển từ một thanh trắc sang một thanh bằng để gần với âm
tiết thứ nhất), v.v…
3. Hiện tượng dị hóa (katabolism):
Hai nguyên âm hoặc hai phụ âm có cấu âm gần nhau, một âm biến đi
để cho chúng trở nên khác nhau. Đó là hiện tượng dị hóa. Một vài thí dụ của
tiếng Nga:
[tramvai] -> [tranvai]
([m] và [v] đều là phụ âm môi, để cho khác nhau, [m] được chuyển
thành [n] là âm lưỡi).
[bomba] -> [bonba]
([m] và [b] đều là phụ âm môi, vì vậy [m] -> [n])
Trong tiếng Việt, hiện tượng dị hóa hay xẩy ra ở các từ láy và theo một
quy luật khá chặt chẽ. Quy luật đó là:
p -> m, t -> n, k -> / ŋ /. Ví dụ:
p -> m: đẹp đẹp -> đèm dẹp, chiếp chiếp -> chiêm chiếp
xốp xốp -> xôm xốp, sụp sụp -> sùm sụp.
t -> n: một một -> mồn một, rét rét -> ren rét
nhạt nhạt -> nhàn nhạt, bợt bợt -> bờn bợt
k -> / ŋ /: khác khác -> khang khác, tức tức -> tưng tức
xịch xịch ->xinh xịch, cạch cạch -> cành cạch.
Hiện tượng dị hóa còn xẩy ra chỉ ở thanh điệu, ví dụ:
Chậm chậm chầm chậm
Đậm đậm đầm đậm
Túng túng tung túng
Đỏ đỏ đo đỏ
Ngoài những hiện tượng biến đổi ngữ âm phổ biến đã nêu trên, trong
các ngôn ngữ trên thế giới còn có thể có những biến đổi khác nữa, ví dụ, hiện
tượng thêm âm (ai ấy -> ai nấy, người nào người ấy -> người nào người nấy),
hiện tượng bớt âm (ba mươi mốt -> băm mốt, phải không -> phỏng) v.v… Tất
cả những hiện tượng này nói chung, đều tồn tại với mục đích làm cho cách
phát âm trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn.
Chương 11. CHỮ VIẾT VÀ CHÍNH TẢ
I. VAI TRÒ CỦA CHỮ VIẾT VÀ MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ CÁC KIỂU CHỮ VIẾT
1. Vai trò của chữ viết
Ngôn ngữ âm thanh trong một thời gian rất dài đã trở thành công cụ
duy nhất để con người có thể truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm sản
xuất và đấu tranh. Tuy nhiên việc sử dụng ngôn ngữ âm thanh không phải
không có những hạn chế nhất định. Khi hai người giao tiếp bằng lời, ảnh
hưởng của ngôn ngữ âm thanh chỉ có hiệu lực trong một phạm vi nhất định.
Ngoài phạm vi ấy, người này không thể nghe đuơc tiếng nói của người kia.
Như vậy là ngôn ngữ âm thanh có sự hạn chế nhất định về mặt không gian.
Mặt khác, "lời nói gió bay", mỗi lời nói chỉ được thu nhận vào đúng lúc nó
được phát ra, Hết thời điểm ấy, nó không tồn tại nữa. Chính vì thế mà đến
ngày nay chúng ta không còn nghe được tiếng nói của các bậc anh hùng dân
tộc như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trang [3]. Xét về mặt
này, ngôn ngữ âm thanh cũng không vượt qua được cái hố ngăn cách của
thời gian.
Để khắc phục hai mặt hạn chế đó của ngôn ngữ âm thanh, con người
đã tìm ra một hình thức thông tin mới: thông tin bằng chữ. Như vậy, chữ viết
ra đời do nhu cầu thông tin liên lạc xét về mặt không gian và nhu cầu truyền
đạt những kinh nghiệm sản xuất và đấu tranh xét về mặt thời gian.
Chữ viết là một hệ thống kí hiệu đồ họa được sử dụng để cố định hóa
ngôn ngữ âm thanh. Chức năng của chữ viết, vì vậy, là đại diện cho lời nói.
So với lời nói thì chữ viết xuất hiện sau. Vì vậy chữ viết tất phải phụ thuộc vào
lời nói. Khi giữa lời nói và chữ viết không có sự phù hợp nữa thì phải cải tiến
chữ viết chứ chông phải cố tìm cách phát âm theo chữ viết hiện hành, bởi vì
làm như vậy là "ngược", chẳng khác nào sửa đầu cho vừa mũ, sửa chân cho
vừa dép, sửa người cho vừa quần áo.
2. Các kiểu chữ viết
a) Chữ viết ghi ý
Là chữ viết cổ nhất của loài người, chữ viết ghi ý không có quan hệ với
mặt âm thanh mà chỉ có quan hệ với mặt ý nghĩa của ngôn ngữ. Quan hệ
giữa ý và chữ ở đây là trực tiếp.
chữ ______________ ý
Ví dụ điển hình nhất về chữ viết ghi ý là các chữ số, các dấu: 1, 2, 3, =
%, +, -,… Khi ta viết, ví dụ, số 1, người Việt, người Nga, người Pháp, người
Anh, người Khmer đều hiểu, mặc dù người mỗi nơi phát âm một khác: người
Việt phát âm là "một”, người Nga [ađin], người Anh - [wan] (one), người
Khmer - [muoi].
Thông thường mỗi một chữ ghi ý đều biểu thị trực tiếp nội dung ý nghĩa
của một từ. Do đó, về nguyên tắc, có bao nhiêu từ phải đặt ra bấy nhiêu kí
hiệu đề ghị. Số lượng từ của một ngôn ngữ tuy không vô hạn nhưng rất lớn vì
vậy số lượng kí hiệu để biểu thị ý nghĩa của nó sẽ nhiều vô kể, trong khi đó thì
khả năng ghi nhớ của bộ óc con người lại có hạn. Đây là điều bất tiện cơ là
hạn chế chính của chữ viết ghi ý.
b) Chữ viết ghi âm
Chữ viết ghi âm không quan tâm đến mặt nội dung, ý nghĩa của từ mà
chỉ ghi lại chuỗi âm thanh của từ đó. Chữ viết ghi âm là đại diện của ngữ âm
chứ không phải của ý nghĩa. Quan hệ giữa chữ và ý ở đây là một quan hệ
gián tiếp mà âm là trung gian.
chữ ___ âm ___ ý
Chữ viết ghi âm được chia ra làm hai loại: chữ ghi âm tiết và chữ ghi
âm vị. Ở chữ viết ghi âm tiết, mỗi kí hiệu biểu thị một âm tiết. Số lượng âm tiết
so với số lượng từ thì ít hơn nhiều, vì vậy chữ ghi âm tiết đơn giản hơn hẳn
chữ ghi ý. Đối với chữ ghi âm vị, mỗi kí hiệu biểu thị một âm vị. Quan hệ giữa
âm vị và kí hiệu là quan hệ 1 - 1 đối với một hệ thống chữ viết lí tưởng. Khi
quan hệ này bị thay đổi, ví dụ một âm vị có nhiều cách ghi hoặc nhiều âm vị
chỉ có một cách ghi, thì phải đặt vấn đề cải tiến chữ viết còn phù hợp với hệ
thống âm vị.
So với chữ viết ghi ý, chữ viết ghi âm, nhất là chữ ghi âm vị, tiến bộ
hơn nhiều. Ưu thế đặc biệt của kiểu chữ viết này là ở chỗ số lượng kí hiệu ghi
âm được giảm xuống nhiều lần vì số lượng âm vị của một ngôn ngữ thường
chỉ nằm trong khoảng trên 10 và dưới 100 (theo P.X.Kuznexov), do đó con
người có thể tiết kiệm được sức lực và thời gian trong việc học đọc, học viết.
II. CHÍNH TẢ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐĨỂM CỦA CHUẨN CHÍNH TẢ
Chính tả là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một
hệ thống các quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng các dấu
câu, lối viết hoa…
Chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây [14]:
1. Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần như
tuyệt đối của nó. Đặc điểm này đòi hỏi người viết bao giờ cũng phải viết đúng
chính tả. Chữ viết có thể chưa hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn
chính tả thì người cầm bút không được tự ý viết khác đi. Ai cũng biết rằng xiết
ghế, ghen không hợp lí và tiết kiệm bằng gế, gen nhưng chỉ có cách viết thứ
nhất mới được coi là đúng chính tả. Vì vậy nói đến chuẩn chính tả là nói đến
tính chất pháp lệnh. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí - không hợp
lí, hay – dở mà chỉ có sự phân biệt đúng – sai, không lỗi - lỗi. Đối với chính tả
yêu cầu cao nhất là cách viết thống nhất, thống nhất trong mọi văn bản, mọi
người, mọi địa phương.
2. Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối cho nên
nó ít bị thay đổi như các chuẩn mực khác của ngôn ngữ (như chuẩn ngữ âm,
chuẩn từ vựng, chuẩn ngữ pháp). Nói cách khác, chuẩn chính tả có tính chất
ổn định, tính chất cố hữu khá rõ. Sự tồn tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã
tạo nên ấn tượng về một cái gì "bất di bất dịch" một tâm lí rất bảo thủ. Chính
vì thế mặc dù biết rằng cách viết iên ngỉ hợp lí hơn nhưng đối với chúng ta nó
rất "gai mắt", khó chịu vì trái với cách viết từ bao đời nay. Mặt khác, do tính
chất "trường tồn" này mà chính tả thường lạc hậu so với sự phát triển của
ngữ âm. Sự mâu thuẫn giữa ngữ âm "hiện đại" và chính tả "cổ hủ" là một
trong những nguyên nhân chính làm cho chính tả trở nên rắc rối.
3. Ngữ âm phát triển, chính tả không thể giữ mãi tính chất cố hữu của
mình mà dần dần cũng có một sự biến dộng nhất định. Do đó, bên cạnh
chuẩn mực chính tả hiện có lại có thể xuất hiện một cách viết mới tổn tại song
song với nó, ví dụ: phẩm zá, anh zũng bên cạnh phẩm giá, anh dũng, trau dồi
bên cạnh trau giồi, dòng nước bên cạnh giòng nước, dành cho đồng thời với
giành cho, v.v…Tình trạng có nhiều cách viết như vậy đòi hỏi phải tiến hành
chuẩn hóa chính tả.
III. TÌNH HÌNH CHỮ VIẾT VÀ CHÍNH TẢ CỦA TA HIỆN NAY
A. Đánh giá chung
Chữ viết của ta có tên là "chữ quốc ngữ". Chữ quốc ngữ là chữ ghi âm
vị, vì vậy, về mặt lí thuyết nó tiến bộ mà về mặt thực tiễn thì nó dễ học, dễ
nhớ. Hơn nữa, nếu so với các thứ chữ ghi âm khác như chữ Anh, chữ Pháp
thì chữ quốc ngữ dễ học hơn hẳn do giữa âm và chữ không có một khoảng
cách quá xa.
Tuy nhiên trong chữ viết và chính tả của ta hiện nay vẫn đang có một
số mặt hạn chế đáng lưu ý.
1. Trong chính tả hiện nay đang có những trường hợp cùng một âm vị
nhưng được viết tùy tiện theo hai cách khác nhau. Đó là cách viết lung tung
i/y và d/gi. Ví dụ hy/hi sinh, mị/mỵ dân, kì/kỳ, lí /lý, giãi/dãi, giò/dò, giàn/dàn,
giây/dây, giô/dô, dăm/giăm,… Đây là hai trường hợp được viết không thống
nhất ở nhiều người, thậm chí ngay trong một người ở những lúc khác nhau,
những văn bản khác nhau.
Ngoài hai trường hợp trên, còn một số trường hợp khác cũng không có
sự tương ứng 1-1 giữa âm vị và cách thể hiện nhưng có nguyên tắc chính tả
rõ ràng, do đó không gây nên cách viết lung tung, ví dụ gh và g; k, c và q,…
2. Một tình hình đáng quan tâm nữa là cách viết không thống nhất đối
với những âm tiết khó xác định một chuẩn mực phát âm cụ thể, tức là những
tiếng chưa có cách phát âm ổn định và những tiếng có đến vài ba biến thể
phát âm địa phương khác nhau, ví dụ: trưng/chưng bày, cay xè/sè, công
sá/xá, bảy/bẩy, giàu/giầu, lĩnh/lãnh, thật/thực/thiệt, nhất/nhứt…
3. Một vấn đề khác không liên quan đến ngữ-âm nhưng cũng nằm trong
phạm vi chính tả là cách viết hoa tùy tiện.
- Viết hoa tên người: Phan Vũ Diễm Hằng, Phan vũ diễm Hằng hay
Phan vũ Diễm Hằng?
- Viết hoa tên đất: Hải Phòng hay Hải phòng, Kiên Giang hay Kiên
giang?
- Viết hoa tên các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp: Bộ Giao thông Vận tải,
bộ Giao thông vận tải hay Bộ giao thông vận tải? Trường Đại học Tổng hợp
Hà Nôi, trường đại học Tổng hợp Hà Nội hay Trường đại học Tổng hợp Hà
Nội?
4. Vấn đề viết tên riêng nước ngoài (tên người, tên đất) và các thuật
ngữ khoa học kĩ thuật lai càng rối ren. Các tên này vào các văn bản tiếng Việt
thường được viết theo nhiều cách:
- Dịch nghĩa: biển Đen (hoặc Hắc Hải), Mũi Hảo Vọng
- Chuyển tự ‘...’ -> Moskva
- Viết nguyên dạng chữ gốc: Ferdinand de Saussure
- Phiên âm:
+ Trực tiếp: Napôlêông, Mêhicô,...
+ Qua một ngôn ngữ khác: Ý đại lợi, Anna Kha Lệ Ninh (qua Hán -
Việt), Sêchpia (Shakespeare) (qua Anh),…
5. Cuối cùng là vấn đề dùng hay không dùng dấu nối: Hải -Phòng hay
Hải Phòng, Rumani hay Ru-ma-ni, Tachiana hay Ta-chi-a-na.
Những cách viết không thống nhất như trên đòi hỏi phải được chuẩn
hóa càng nhanh càng tốt.
B. Một số quy định về chuẩn hóa chính tả
Trên cơ sở những ý kiến thảo luận qua các hội nghị về chính –trị và
thuật ngữ trong những năm qua, ủy ban Khoa học xã hội và Bộ Giáo dục đã
thông qua một số quy định về chính tả để kịp thời thống nhất chính tả trong
sách giáo khoa cải cách giáo dục và từng bước khắc phục tình trạng viết lung
tung hiện nay. Dưới đây là một số quy định đã được đông đảo các nhà nghiên
cứu ủng hộ…
1. Thống nhất viết nguyên âm - âm chính /i/ bằng chữ cái "i", ví dụ: lí
luận, kĩ thuật, mĩ thuật…
Chú ý: - Khi cần phân biệt uy với ui như túy với túi thì vần vẫn viết như
cũ.
- i hoặc y đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn viết theo thói quen
cũ, ví dụ: y (hắn ta), ý kiến, yêu, ầm ĩ, ỉ eo.
2. Khi trong thực tế đang tổn tại hai hình thức chính tả mà chưa xác
định được một chuẩn duy nhất thỉ có thể chấp nhận cả hai hình thức ấy, ví dụ:
eo sèo / eo xèo; sứ mạng / sứ mệnh.
3. Về cách viết hoa tên riêng tiếng Việt.
- Tên người và tên nơi chốn: viết hoa tất cả các âm tiết và không dùng
gạch nối, ví dụ: Trần Quốc Toản, Bình Trị Thiên, Phan Vũ Diễm Hằng.
- Tên tổ chức, cơ quan: chỉ viết hoa âm tiết đầu trong tổ hợp từ dùng
làm tên, ví dụ: Đảng cộng sản Việt Nam, Trường đại học bách khoa Hà Nội,
ủy ban bảo vệ bà mẹ trẻ em.
4. Về cách viết tên riêng không phải tiếng Việt.
- Nếu chữ nguyên ngữ dùng chữ cái Latin thì giữ nguyên trên chữ viết
như trong nguyên ngữ, ví dụ: Paris.
- Nếu chữ viết nguyên ngữ dùng một hệ thống chữ cái khác thì áp dụng
lối chuyển tự chính thức sang chữ cái Latin, ví dụ: Lomonoxov, Moskva.
- Nếu chữ viết nguyên ngữ không phải là chữ ghi âm bàng chữ cái (ghi
từng âm) thì dùng một cách phiên âm chính thức bằng chữ cái Latin, ví dụ:
Tokyo.
- Những tên riêng đã có hình thức quen thuộc thì nói chung không cẩn
thay đổi, ví dụ: Pháp, Anh, Hilạp, Băc Kinh, Lỗ Tấn.
- Chỉ viết hoa âm tiết đầu từ, ví dụ: Puskin.
5. Về việc dùng dấu nối.
- Dùng dấu nối trong các liên danh như: cách mạng khoa học - kĩ thuật,
môn hóa - dược, Quảng Nam - Đà Nẵng.
- Dùng dấu nối khi chỉ giới hạn về không gian, thời gian, số lượng, ví
dụ: chuyến tàu Hà Nội - Huế, thời kì 1945 - 1954, sản lượng 5-7 tấn.
- Khi phân biệt ngày, tháng, năm: 2-9-1945, 30-4-1975.
Trên đây mới chỉ là những quy định đối với một số trường hợp đang
gây nên tình trạng hỗn độn trong cách viết. Trong việc chuẩn hóa chính tả và
cải tiến chữ viết còn nhiều vấn đề nữa cần tiếp tục thảo luận, nghiên cứu,
chẳng hạn, viết d/gi thống nhất bằng z, việc dùng f thay ph, việc bỏ h trong gh,
ngh,..,và xa hơn nữa, việc thống nhất dùng một trong ba cách viết c, k, q,
dùng một cách thể hiện cho âm đệm /w/,… Đó là những công việc của tương
lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH (PHẦN II)
1. Nguyễn Phan Cảnh. Ngôn ngữ tha. Nxb Đại học và gdcn, H, 1988.
2. Mai Ngọc Chừ. Tìm hiểu vần thơ Việt Nam. Luận án PTS, H. 1986
3. Nguyễn Thiện Giáp. Dẫn luận ngôn ngữ học (in rônêô). Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội ấn hành.
4. Lữ Huy Nguyên. Nói lái trong tiếng Việt. "Ngôn ngữ" Số 3-1971.
5. Đoàn Thiện Thuật. Đóng góp vào việc giới định từ đa tiết bằng tiêu
chí trọng âm trong tiếng Việt. Thông báo khoa học Văn học - ngôn ngữ, tập II,
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội 1966.
6. Gordina M.v. Vấn đề âm vị trong tiếng Việt. "Những vấn đề ngôn ngữ
học", M., N 6, 1959 (tiếng Nga).
7. Kochergina V.A. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Trường Đại học Tổng
hợp Moskơva (Những cơ sở của ngữ âm - âm vị học), 1979 (tiếng Nga).
8. Reformatski A.A. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, M., 1967
(tiếng Nga).
9. Trubezkoj N.x. Những cơ sở âm vị học. Nxb Sách nước ngoài, M.,
1960 (tiếng Nga).
NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN CẦN ĐỌC
10. Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Đại học và then, H.,
1975 (Phần thứ nhất: Tiếng)
11. Hoàng Thị Châu. Tiếng Việt trên các miền đất nước. Nxb Khoa học
xã hội, H., 1989.
12. Mai Ngọc Chừ. Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học.
Nxb Đại học và gdcn, H., 1991.
13. Cao Xuân Hạo. Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng. "Ngôn ngữ".
Số 2-1985.
14. Hoàng Phê. Vấn đề cải tiến và chuẩn hóa chính tả. Ngôn ngữ" số 3
+ 4-1979.
15. Đoàn Thiện Thuật. Ngữ ám tiếng Việt. Nxb Đại học và thcn, H.,
1980.
16. Cù Đình Tú... Ngữ âm học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, H,
1978.
17. Zinder L.R. Ngữ âm học đại cương, Nxb Giáo dục. H., 1964.
Phần 3. CƠ SỞ TỪ VỰNG HỌC VÀ TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT
* Từ vựng học và từ
* Cụm từ cố định
* Nghĩa của từ
* Quan hệ đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa trong từ vựng
* Biến đổi trong từ vựng
* Các lớp từ trong từ vựng
Chương 12. TỪ VỰNG HỌC VÀ TỪ
I. TỪ VỰNG HỌC LÀ GÌ
1. Nói cho đơn giản thì từ vựng học (lexicology) là bộ môn ngôn ngữ
học nghiên cứu từ vựng của ngôn ngữ.
Vậy đối tượng nghiên cứu của từ vựng học là từ vựng.
Từ vựng được hiểu là tập hợp tất cả các từ và đơn vị tương đương với
từ trong ngôn ngữ.
Đơn vị tương đương với từ là những cụm từ cố định, cái mà người ta
vẫn hay gọi là các thành ngữ, quán ngữ. Ví dụ: ngã vào võng đào, múa tay
trong bị, con gái rượu, tóc rễ tre, của đáng tội… trong tiếng Việt; hoặc Wolf in
sheeps clothing (Sói đội lốt cừu); like a bat out of hell (ba chân bốn cẳng)…
trong tiếng Anh.
2. Nhiệm vụ và mục đích cơ bản của từ vựng học là phải giải đáp
những vấn để chính như:
a) Từ là gì; nó được tạo nên bằng cái gì và như thế nào?
b) Nghĩa của từ là gì; muốn phân tích cho ra được cái nghĩa đó thì phải
làm thế nào?
c) Thực chất các kiểu tập hợp từ vựng như: đồng âm, đồng nghĩa, trái
nghĩa, các trường từ vựng… là gì và nghiên cứu nó như thế nào.
d) Phân chia các lớp từ vựng bằng cách nào; và những con đường
phát triển của từ vựng ra sao…
Trong thực tế, nghiên cứu từ vựng có thể xuất phát từ những bình diện
khác nhau và dùng những phương pháp khác nhau. Nếu khảo sát những vấn
đề chung cho mọi (hoặc nhiều) từ vựng của nhiều ngôn ngữ, là ta nhìn ở bình
diện của từ vựng học đại cương. Ngược lại nếu chỉ quan tâm đến những vấn
đề của một từ vựng trong một ngôn ngữ nào đó, là ta đứng trên bình diện
nghiên cứu cụ thể. Ví dụ: từ vựng học tiếng Việt, từ vựng học tiếng Hán, từ
vựng học tiếng Anh…
Khi nghiên cứu một từ vựng đương đại (hiện đại) nào đó, người ta
phân tích, miêu tả theo cách nhìn đồng đại và thường gọi tên như: từ vựng
học (tiếng Việt, tiếng Nga…) hiện đại.
Ngược lại, nghiên cứu từ vựng với cách nhìn lịch đại sẽ xây dựng nên
bộ môn từ vựng học lịch sử, khảo sát sự diễn biến của từ vựng trong quá
trình phát triển - lịch sử của nó. Ở đây, phương pháp so sánh lịch sử và các
nhân tố ngoài ngôn ngữ; sẽ rất được chú ý khai thác, sử dụng.
3. Như đã nói từ đầu, các bộ môn: từ vựng học, ngữ âm học và ngữ
pháp học là những bộ môn tương đối độc lập. Tuy vậy, chúng không tách biệt
nhau hoàn toàn mà vẫn có liên quan đến nhau.
Ngữ pháp học và từ vựng học đều có đối tượng nghiên cứu là từ; đặc
biệt, vấn đễ cấu tạo từ như là một phần giao giữa hai bộ môn này, khiến cho
cả hai đều phải cùng thảo luận. Đối tượng nghiên cứu của ngữ âm học thì
riêng hẳn: chỉ chú ý đến mặt âm thanh của từ. Thế nhưng ba bộ môn này
nhiều khi đã phải sử dụng kết quả nghiên cứu của nhau. Việc phân tích nghĩa
của từ bằng phương pháp sử dụng ngữ cảnh, việc phân định ranh giới từ…
chẳng hạn, làm sao có thể bỏ qua không dựa vào các dấu hiệu và quy tắc
ngữ pháp, ngữ âm như: nguyên tắc kết hợp từ, chức năng và trật tự ngữ
pháp, hiện tượng chuyển đổi từ loại, các hiện tượng trọng âm (nhẫt là trọng
âm lực - dynamic accent), hiện tượng mất tính thanh của âm cuối… Mặt khác,
nghiên cứu các biến thể, biến dạng của từ, nhất là nghiên cứu từ vựng lịch sử
và từ nguyên, chắc chắn phải sử dụng những hiểu biết về ngữ âm học, âm vị
học. Ngược lại, không hiếm những hiện tượng ngữ pháp và ngữ âm (nhất là
ngữ âm lịch sử) chỉ có thể giải quyết qua những phân tích "một cách từ vựng
học" như phân tích về từ cổ, từ lịch sử, từ ngữ địa phương…
Ngoài ra, các bộ môn khác, kể cả trong và ngoài ngôn ngữ học: phong
cách học, từ điển học, lịch sử văn hóa văn minh… cũng đều ít nhiều liên quan
tới từ vựng học.
4. Có những bộ môn hình thành trên cơ sở nghiên cứu những mặt,
những bộ phận khác nhau của từ vựng. Nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt
về cách hiểu thì có thể xem như chúng được tách ra từ từ vựng học vậy.
4.a. Trước hết là từ nguyên học. Bộ môn này có mục đích tìm giải thích
và xác định những hình thức, những ý nghĩa có tính chất cội nguồn của từ.
Nó tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng nhìn lịch đại là chủ yếu; và nhiều khi
còn phải vận dụng cả cứ liệu của những ngành khoa học lân cận như: sử học,
dân tộc học, văn hóa và chính trị…
Một ví dụ: Miền Trung Việt Nam có con sông gọi là sông Mã. Trong dân
gian, người ta giải thích rằng gọi nó là sông Mã vì nó: chảy xiết, nhanh và
mạnh như ngựa phi; và sông Mã nghĩa là "sông Ngựa".
Cách giải thích cảm tính, chủ quan, không chứng cớ như vậy, gọi là từ
nguyên học dân gian.
Từ nguyên học khoa học phải tìm những chứng cớ khoa học để giải
thích. Thật ra, sông Mã là lối nói "trại" đi của cái tên đích thực sông Mạ, được
ghi bằng một chữ Hán, đọc là Mã (ngựa).
Mạ trong tiếng Việt xưa (nay còn lưu lại trong phương ngữ miền Trung)
vốn có nghĩa là "mẹ". Những con sông lớn ở vùng Đông Nam Á thường được
gọi bằng cái tên có nghĩa "mẹ" (với ngụ ý là lớn, lớn nhất) như vậy. Chẳng
hạn:
Tiếng Việt có sông Cái, rào cái = sông mẹ
Tiếng Thái Lan có Menam = sông mẹ
Tiếng Môn cổ có Meklong = sông mẹ
(Mô hình tên gọi này còn thể hiện qua cách đặt tên cho một số sự vật
"lớn" khác trong tiếng Việt: ngón tay cái, cột cái, ngón chân cái, đũa cái…)
Vậy tên gọi sông Mạ không ngoài quy luật đặt địa danh nêu trên trong
toàn vùng, và cần thiết hiểu sông Mã = sông Mạ = sông Cái (nghĩa là "sông
mẹ", "sông lớn") chứ không phải là "sông Ngựa”.
Nghiên cứu từ nguyên là công việc đầy khó nhọc, nhưng hết sức thú vị.
4.b. Bộ môn danh học nghiên cứu các quy luật đặt tên: tên người, tên
sông, tên núi non, tên vùng đất… Vì vậy, ở đây có hai phần: nhân danh học
và địa danh học.
Ví dụ 1. Nhân danh học có thể nghiên cứu các quy luật đặt tên riêng
của người Việt, Hán, Khmer, Mường… và phải gắng tìm câu trả lời cho
những câu hỏi đại loại như:
- Tên gọi riêng của từng người trong các dân tộc đó cố những yếu tố gì,
dùng để biểu thị cái gì?
- Giới tính có được biểu thị trên tên gọi hay không?
- Tên họ của vợ và chồng có ảnh hưởng gì sau khi lấy nhau hay
không? Các yếu tố tâm lí, thẩm mĩ, kiêng kị… có ảnh hưởng đến việc đặt tên
không, và nếu có thì gây tác động theo xu hướng nào…
Nhìn lướt qua tên riêng của người Việt trong gần một thế kỉ nay, ta có
thể thấy:
Tên nữ, trước đây bắt buộc phải là:
Họ + thị (thể hiện giới tính) + Tên riêng (lúc chưa lấy chồng)
Họ chồng + thị + Tên chồng (từ khi lấy chồng)
Tên nam giới thường là:
Họ + tên đệm (tùy thích và không nhất thiết phải có)
Họ + tên riêng.
Hiện nay, tên gọi của nữ giới không bắt buộc phải dùng yếu tố thị. Ví
dụ: Trần Phượng Li, Ngô Việt Hà… Phụ nữ ngày nay lấy chồng vẫn dùng họ
tên mình, không phải gọi theo chồng nữa.
Mặt khác, rất nhiều tên kép đã xuất hiện, dùng cho cả nam lẫn nữ: Kiều
Oanh, Hoàng Lan, Tuấn Anh, Diễm Mi… và thậm chí, có cả những tên riêng ít
nhiều đặc biệt như: Thanh Thanh, Nôen, Diễm Diễm, Li Li…
Tên riêng người Việt đang có những biến động rất đa dạng tùy theo
giới tính, trình độ giáo dục, nghề nghiệp, môi trường sống và sở thích cá
nhân. Xu hướng chung là đẹp hóa tên riêng và đa dạng hóa tên riêng. Tuy
nhiên, dù thế nào đi nữa thì người Việt cũng không dùng tên của bố, mẹ, ông,
bà, cụ, kị, tên của những người khả kính trong quan hệ với mình để đặt tên
cho mình. Trong quan niệm của họ, đó là điều kiêng kị đến mức có thể được
xếp vào phạm vi của đạo đức ứng xử.
Ví dụ 2. Nghiên cứu quy luật đặt tên sông ở Đông Nam Á người ta thấy
nét nổi bật là chúng thường mang yếu tố chỉ khái niệm "nước" hoặc "sông".
Vùng ngôn ngữ Tày, Thái dùng yếu tố nặm/nậm: Nậm Tà (sông Hồng), Nậm
Tè (sông Đà), Nặm Má (sông Mã), Nặm Khoóng (sông Mê Kông) và các con
sông khác như: Nặm Le, Nậm Na, Nậm Rốm…
Ở Thái Lan có sông Mê Nam (Mê: mẹ. Nam: nặm) vùng ngôn ngữ
thuộc nhóm Môn - Khmer (tiếng Ba Na, Hrê, Xê Đăng…) người ta dùng yếu tố
dak: sông Đak Rong, sông Đak Min, hổ Đak Lak…
4.c. Ngữ nghĩa học là bộ môn nghiên cứu các vấn đề về nghĩa của từ.
Nó liên quan trực tiếp nhất đến từ điển học là bộ môn nghiên cứu những vấn
đề lí thuyết và kĩ thuật xây dựng các loại từ điển. Từ điển học liên quan rất
chặt chẽ với từ vựng học và ngữ nghĩa học. Có thể phân chia từ điển thành
hai loại lớn.
c.1. Các từ điển bách khoa: Đây là loại từ điển không nhằm xây dựng
các từ trong ngôn ngữ nói chung, mà chủ yếu đưa ra và giải thích các khái
niệm; trình bày từ lai lịch của nó đến các quan điểm khác nhau, cùng với
những thay đổi của nó (nếu có) về mặt nội dung…
Loại từ điển bách khoa cho tất cả các lĩnh vực, gọi là bách khoa toàn
thư; còn loại cho từng lĩnh vực một thì gọi là từ điển bách khoa chuyên ngành.
Ví dụ: Từ điển bách khoa nông nghiệp; Từ điển bách khoa y học.
c.2. Từ điển ngôn ngữ: đây là loại từ điển được xây dựng bằng những
con đường "ngôn ngữ học". Chúng được phân loại ra như sau:
Từ điển một ngôn ngữ, được biên soạn cho một ngôn ngữ cụ thể nào
đó ở từng mặt, từng lĩnh vực. Ví dụ: từ điển giải thích; từ điển đồng nghĩa; từ
điển chính tả; từ điển từ nguyên; từ điển tần số (chung hoặc cho từng lĩnh
vực); từ điển ngược (inversal dictionary)…
Từ điển nhiều ngôn ngữ, được biên soạn trên cơ sở đối chiếu hai hay
nhiều ngôn ngữ. Ở đây cũng có thể gồm từ điển đối chiếu phổ thông như: Từ
điển Anh - Việt; Từ điển Nga - Việt; Từ điền Việt - Pháp… từ điển đối chiếu
chuyên ngành như: Từ điển toán học Anh - Việt; Từ điển y học Nga - Việt; Từ
điển hóa học Anh - Việt…
5. Ở Việt Nam, nếu xét một cách nghiêm ngặt thì từ giữa thế kỉ XX trở
về trước, chúng ta chưa hễ có bộ môn từ vựng học nói riêng và ngôn ngữ học
nói chung.
Có chăng, chỉ có thể nói do yêu cầu cụ thể, với những mục đích khác
nhau, một số từ điển đã được làm ra ở nước ta nhờ một số người vốn không
phải là chuyên nghiên cứu ngôn ngữ học (Việt và không phải Việt). Chẳng
hạn:
- Dictionnarium Annamiticum - Lusitanum et Latinum của A.de. Rhodes.
Romae; 1651.
- Dictionaire Annamite - Franqais của M.Genibrel, Tân Định, 1898.
- Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa của Túc Tăng Pháp tính (khoảng thế kỉ
XVI - XVII. Bản dịch của Nxb Khxh,Hà Nội, 1985).
- Đại nam quốc âm tụ vị của Paul Huỳnh Tịnh Của; Sài Gòn, 1825.
Tuy vậy, qua vài thập kỉ gần đây, bộ môn từ vựng học ở nước ta đã đạt
được những kết quả rất đáng trân trọng, đóng góp công sức đáng kể vào
công việc nghiên cứu tiếng Việt nói chung.
II. TỪ VÀ CẤU TẠO TỪ
1. Vấn đề định nghĩa từ
1.a. Mỗi chúng ta, đã tiếp thu và nhận ra cái gọi là từ thông qua thực
tiễn học tập và sử dụng ngôn ngữ.
Cái khó là ở chỗ phải nêu ra một định nghĩa có tính lí thuyết ”ể từ". Cho
đến nay, trong ngôn ngữ học, các định nghĩa về từ đã được đưa ra không ít.
Các định nghĩa ấy, ở mặt này hay mặt kia đều đúng, nhưng đều không đủ và
không bao gồm hết được tất cả các sự kiện được coi là từ trong các ngôn
ngữ và ngay cả trong một ngôn ngữ cũng vậy. Chẳng hạn:
Từ là một tổ hợp âm có nghĩa chăng? Từ là một tổ hợp các âm phản
ánh khái niệm chăng? Từ là một đơn vị tiềm tàng khả năng trở thành câu
chăng? Từ là một kí hiệu ngôn ngữ ứng với khái niệm chăng?…
Tình trạng phức tạp của việc định nghĩa từ, do chính bản thân trong các
ngôn ngữ, không phải trường hợp nào cũng như nhau. Chúng có thể khác
nhau về:
- Kích thước vật chất
- Loại nội dung được biểu thị và cách biểu thị
- Cách thức tổ chức trong nội bộ cấu trúc
- Mối quan hệ với các đơn vị khác trong hệ thống ngôn ngữ như hình vị,
câu…
- Năng lực và chức phận khi hoạt động trong cần nói
Xét hai từ hợp tác xã và nếu trong tiếng Việt làm ví dụ, ta sẽ thấy:
Từ thứ nhất có kích thước vật chất lớn hơn nhiều so với từ thứ hai và
cấu trúc nội tại của nó cũng phức tạp hơn nhiều.
Từ thứ nhất biểu thị một khái niệm, có khả năng hoạt động lập trong
câu, làm được chủ ngữ, bổ ngữ, định ngữ trong câu, còn từ thứ hai lại không
biểu thị khái niệm không có được năng lực để thực hiện những chức phận
như từ thứ nhất…
1.b. Vì những lẽ đó, không hiếm nhà ngôn ngữ học (kể cả F de.
Saussure. s. Bally, G.Glison…) đã chối bỏ khái niệm từ, hoặc nếu thừa nhận
khái niệm này thì họ cũng lảng tránh việc đưa ra một khái niệm chính thức.
Lại có những nhà nghiên cứu xuất phát từ một lĩnh vực cụ thể nào đó,
đã đưa ra những định nghĩa từng mặt một như từ âm vị học, từ ngữ pháp, từ
chính tả, từ từ điển…
Dù sao, từ vẫn là đơn vị tồn tại tự nhiên trong ngôn ngữ; và chính nó là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ; bởi vì đối với mỗi chúng ta, nói như ý của
E.Sapir thì việc nhận thức từ như là cái gì đấy hiện thực về mặt tâm lí, chẳng
có khó khăn gì đáng kể.
1.c. Mong muốn của các nhà ngôn ngữ học đưa ra một định nghĩa
chung, khái quát, đầy đủ về từ cho tất cả mọi ngôn ngữ, tiếc thay, cho đến
nay vẫn chưa đạt được và có lẽ sẽ không thể đạt được. Chúng ta có thể đồng
tình với L.Serba khi ông cho rằng từ trong ngôn ngữ khác nhau, sẽ khác
nhau…, và không thể có được một khái niệm về từ nói chung.
Tuy thế, để có cơ sở tiện lợi cho việc nghiên cứu, người ta vẫn thường
chấp nhận một khái niệm nào đó về từ tuy không có sức bao quát toàn thể
nhưng cũng chỉ để lọt ra ngoài phạm vi của nó một số lượng không nhiều các
trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn:
Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập,
tái hiện tự do trong lời nói để xây dưng nên câu. Quan niệm này gần với quan
niệm của B.Golovin trong cuốn sách Dẫn luận ngôn ngữ học của ông. Nó
cũng có nhiều nét gần với quan niệm của L.Bloomfield, coi từ là một hình thái
tự do nhỏ nhất. Có nghĩa rằng từ là một hình thái nhỏ nhất có thể xuất hiện
độc lập được.
1.d. Ngay cả những quan niệm như thế, sự thực cũng không phải là áp
dụng được cho tất cả mọi ngôn ngữ và tất cả mọi kiểu từ. Chẳng hạn từ nếu
vừa nói bên trên cũng như từ và, với, thì, ư… trong tiếng Việt; từ and, up, m,
of… của tiếng Anh không thỏa mãn được điều kiện "tái hiện tự do" trình bày
trong quan niệm này.
Gặp những trường hợp tương tự như vậy (trường hợp của những cái
mà ta vẫn gọi là từ hư) người ta phải có những biện luận riêng.
- Trước hết, tất cả chúng đều có nghĩa của mình ở dạng này hay dạng
khác, thể hiện bằng cách này hay cách khác.
- Thứ hai, khả năng "tái hiện tự do" của chúng được thể hiện "một cách
không tích cực". Cần nhớ là trong ngôn ngữ, chỉ có những đơn vị cùng cấp độ
thì mới trực tiếp kết hợp với nhau. Xét hai câu bình thường trong tiếng Việt và
tiếng Anh:
- Em sống với bố và mẹ.
- He will leave here after lunch at two oclock.
Ở đây, em, bố, mẹ, sống, he, leave, here, lunch, two, oclock chắc chắn
là các từ. Vậy thì với, và, will, after, at cũng phải là từ.
- Thứ ba, không hiếm từ hư trong một số ngôn ngữ đã được chứng
minh là có nguốn gốc từ từ thực. Sự hao mòn ngữ nghĩa cùng với sự biến đổi
về chức năng của chúng đã xảy ra. Tuy vậy, không vì thế mà tư cách từ của
chúng bị xóa đi. Ví dụ: trong tiếng Hindu: me (trong) < madhya (khoảng giữa)
của tiếng Sanscrit; ke arth (để, vì) < art ha (mục đích) của Sanscrit… trong
tiếng Hausa: bisan (trên) < bisa (đỉnh, chóp); gaban (trước) < gaba (ngực)…
trong tiếng Việt: của < của (danh từ); phải < phải (động từ); bị < bị (động từ)…
Việc xét tư cách từ cho những trường hợp như: nhà lá, áo len, đêm
trăng, chó mực, cao hổ cốt… trong tiếng Việt còn phức tạp hơn nhiều. Trong
các ngôn ngữ khác cũng không phải là không có tình hình tương tự.
Mặc dù các nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm tòi những tiêu chí cơ bản,
phổ biến để nhận diện từ (như: tính định hình hoàn chỉnh, tính thành ngữ, do
A.Smirnitskij đưa ra chẳng hạn) nhưng khi đi vào từng ngôn ngữ cụ thể,
người ta vẫn phải đưa ra hàng loạt tiêu chí khác nữa, có thể cụ thể hơn, khả
dĩ sát hợp với thực tế từng ngôn ngữ hơn, và thậm chí phải có cả những biện
luận riêng.
2. Cấu tạo từ
2.a. Từ được cấu tạo nhờ các hình vị. Nói cách khác, từ được tạo ra
nhờ một hoặc một số hình vị kết hợp với nhau theo những nguyên tắc nhất
định, ví dụ:
Từ tiếng Anh antipoison = anti + poison
Từ tiếng Nga nucarejib = nuca + rejib
Vậy hình vị là gì?
Quan niệm thường thấy về hình vị, được phát biểu như sau:
Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa và/hoặc có giá trị (chức
năng) về mặt ngữ pháp.
Quan niệm này xuất phát từ truyền thống ngôn ngữ học châu Âu vốn
rất mạnh về hình thái học, dựa trên hàng loạt các ngôn ngữ biến hình. Chẳng
hạn trong dạng thức played của tiếng Anh người ta thấy ngay là: play và -ed.
Hình vị thứ nhất gọi tên, chỉ ra khái niệm về một hành động, còn hình vị thứ
hai biểu thị thời của hành động đặt trong mối quan hệ với các từ khác trong
câu mà played xuất hiện.
Các hình vị được phân chia thành những loại khác nhau. Trước hết là
sự phân loại thành các hinh vị tự do và hình vị hạn chế (bị ràng buộc).
Hình vị tự do là những hình vị mà tự nó có thể xuất hiện với tư cách
những từ độc lập. Ví dụ: house, man, black, sleep, walk)… của tiếng Anh;
nhà, người, đẹp, tốt, đi, làm.. của tiếng Việt.
Hình vị hạn chế là những hình vị chỉ có thể xuất hiện trong tư thế đi
kèm, phụ thuộc vào hình vị khác, ví dụ: -ing, -ed, -s, -ity… của tiếng Anh; -
OM, -ux, -oủ, -e,…của tiếng Nga.
Trong nội bộ các hình vị hạn chế, người ta còn chia thành hai loại nữa:
các hình vị biến đổi dạng thức (các biến tố) và các hình vị phái sinh.
- Hình vị biến tố là những hình vị làm biến đổi dạng thức của từ để biểu
thị quan hệ giữa từ này với từ khác trong câu. ví dụ:
cats, played, worked, singing… trong tiếng Anh
doue, ‘…’, ‘…’ … trong tiếng Nga.
- Hình vị phái sinh là những hình vị biến đổi một từ hiện có cho một từ
mới. ví dụ:
kind - kindness, merry - merriy, (to) work - worker,… của tiếng Anh hoặc
như trường hợp ‘…’ - ‘…’, ‘…’ - nucarem, của tiếng Nga.
Lĩnh vực nghiên cứu về cấu tạo từ chú ý trước hết đến các hình vị tự
do và hình vị phái sinh.
Nếu căn cứ vào vị trí của hình vị trong từ, người ta có thể phân chúng
thành hai loại lớn: gốc từ (cái mang ý nghía từ vựng chân thực, riêng cho
từng từ) và phụ tố (cái mang ý nghĩa ngữ pháp chung cho từng lớp, nhiều từ).
Tùy theo phụ tố đứng ở trước gốc từ, trong gốc từ hay sau gốc từ, người ta
gọi chúng lần lượt là tiền tố, trung tố và hậu tố.
2.b. Từ trong các ngôn ngữ được cấu tạo bằng một số phương thức
khác nhau. Nói khác đi, người ta có những cách khác nhau trong khi sử dụng
các hình vị để tạo từ.
1 - Dùng một hình vị tạo thành một từ. Phương thức này thực chất là
người ta cấp cho một hình vị cái tư cách đầy đủ của một từ; vì thế, cũng
không có gì khác nếu ta gọi đây là phương thức từ hóa hình vị. Ví dụ các từ:
nhà, người, đẹp, ngon, viết, ngủ… của tiếng Việt; các từ đây, tức, phle,
kôru…của tiếng Khmer, các từ: in, of, with, and… ‘…’, ‘…’, ‘…’,…của tiếng
Anh, Nga là những từ được cấu tạo theo phương thức này.
(Thật ra, nói "dùng một hình vị tạo thành một từ" hoặc "từ hoá hình vị"
là không hoàn toàn chặt chẽ về logic, vì điều đó ngụ ý rằng hình vị phải là cái
có trước từ. Trong khi đó, xét tới ngọn nguồn và tổng thể ngôn ngữ thì từ phải
là cái có trước, còn đơn vị mang tư cách hình vị và những "hình vị được từ
hóa” chỉ là các kết quả có được ở hậu kì. Do vậy, đây chỉ là cách nói cho giản
tiện trong việc phân loại và miêu tả mà thôi.)
2 – Tổ hợp hai hay nhiều hình vị để tạo thành từ.
2.a. Phương thức phụ gia.
a.1. Phụ thêm tiền tố vào gốc từ hoặc một từ có sin.
Ví dụ: tiền tố -y - npu - ‘…’...tronc tiếng Nga:
‘…’ - ‘…’, ‘…’; ‘…’ - ‘…’
Tiền tố anti-, im-, un-… trong tiếng Anh:
foreign - antiforeign; possible - impossible
Tiền tố -ch, -m trong tiếng Khmer:
lơ (trên) –chlơ (đặt lên trên); hôp (ãn) - mhôp (thức ăn)…
a.2. Phụ thêm hậu tố.
Ví dụ: Hậu tố UK, Ka, ‘…’… của tiếng Nga trong các từ doMHK,
crydeHTKZ, KCL MenLU.HK…
Hậu tố -er, -ness, -less, -ly, -ity… của tiếng Anh trong các từ player,
kindness, home less…
a.3. Phụ thêm trung tố
Ví dụ: Trung tố U3H, ue của tiếng Nga trong các từ: dojỉỉi3Ha,
KpacỉiBbiủ. Trung tố -n của tiếng Khmer trong các từ kuot (thắt, buộc) -khnuot
(cái nút), back (chia), -phnack (phán bộ phận)… Trung tố -el, -em trong tiếng
Inđônêxia ở các từ: gembung (căng, phổng lên), -gelembung (mụn nước, cái
bong bóng); guruh (sấm, sét) -gemuruh (oang oang)…
2.b. Ghép các yếu tố (hình vị) gốc từ.
Phương thức này cũng gọi là phương thức hợp thành.
Ví dụ:
trong tiếng Nga: ‘…’, ‘…’,…
trong tiếng Anh: homeland, newspaper, inkpot,…
trong tiếng Việt: đường sắt, cá vàng, sân bay…
Ở đây không phải chỉ kể những trường hợp ghép các hình vị thực gốc
từ, mà còn kể cả trường hợp ghép các hình vị vốn hiện diện là những từ hư,
những "từ ngữ pháp" như ‘…’, ‘…’.. trong tiếng Nga; bởi vì, cho nên,… trong
tiếng Việt.
2.c. Phương thức láy
Thực chất của phương thức này là lặp lại toàn bộ một phần của từ,
hình vị ban đầu trong một số lần nào đó theo quy tắc cho phép, để cho một từ
mới. Ví dụ như những từ:
- co ro, lúng túng, giỏi giang, vành vạnh… của tiếng Việt.
- thmảy thmảy, thlay thla, srâu sroy.. của tiếng Khmer.
Trên đây đã trình bày một số phương thức cơ bản để cấu tạo từ trong
các ngôn ngữ. Sự thật thì các phương thức ấy có những biểu hiện còn đa
dạng hơn và đôi khi chúng đan xen vào nhau. Mặt khác, cũng cần lưu ý là các
phương thức tạo từ không hiện diện và hoạt động đồng đều trong mọi ngôn
ngữ. Chẳng hạn, trong các ngôn ngữ Ấn Âu, phương thức phụ gia có hiệu lực
mạnh bởi một trong những lí do là ở các ngôn ngữ này, sự đối lập hình vị gốc
từ với các phụ tố là nét nổi bật; và chúng có những hệ hình thái cực kì phát
triển. Trong khi đó tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, không biến hình lại chủ
yếu dựa vào phương thức hợp thành và phương thức láy. Kết cục là trong
mỗi ngôn ngữ tồn tại một tình trạng gần như là đáp đổi bù trừ giữa các
phương thức cấu tạo từ: phương thức này ít hoạt động thì gia tăng phương
thức kia để "bù lại".
3. Từ trong tiếng Việt
Nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt và chấp nhận một cách nhìn để làm
việc thì quan niệm về từ đã trình bày ở phần trên là có thể dùng được cho
tiếng Việt. Có thể phát biểu lại như sau:
Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn
chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời
nói để tạo câu.
Ví dụ:
nhà, người, áo, cũng, nếu, sẽ, thi,…
đường sắt, sân bay, dạ dày, đen sì, dai nhách,…
3.a. Đơn vị cấu tạo. Đơn vị cơ sở để cấu tạo từ tiếng Việt là các tiếng,
cái mà ngữ âm học vẫn gọi là các âm tiết.
Mặc dù nguyên tắc phổ biến là các từ được cấu tạo từ các hình vị,
nhưng hình vị trong các ngôn ngữ khác nhau có thể không như nhau.
3.a.1. Tiếng của tiếng Việt có giá trị tương đương như hình vị trong các
ngôn ngữ khác, và người ta cũng coi chúng là các hình tiết (morphemsyllable)
- âm tiết có giá trị hình thái học.
- Về hình thức, nó trùng với âm đoạn phát âm tự, nhiên được gọi là âm
tiết (syllable).
- Về nội dung, nó là đơn vị nhỏ nhất có nội dung được thể hiện. Chí ít
nó cũng có giá trị hình thái học (cấu tạo từ). Sự có mặt hay vắng mặt của một
tiếng trong một "chuỗi lời nói ra" nào đó, bao giờ cũng đem đến tác động nhất
định về mặt này hay mặt khác. Ví dụ:
đỏ - đo đỏ - đỏ dần - đỏ rực – đỏ khé - đỏ sẫm…
vịt - chân vịt - chân con vịt…
3.a.2. Xét vé ý nghĩa, về giá trị ngữ pháp, vé năng lực tham gia cấu tạo
từ… không phải tiếng (hình tiết) nào cũng như nhau.
Trước hết có thể thấy ở bình diện nội dung:
a - Có những tiếng tự nó mang ý nghĩa, được quy chiếu vào một đối
tượng, một khái niệm như: cây, trời, cỏ, nước, sân, hòa, thủy, ái…
b - Có những tiếng tự thân nó không quy chiếu được vào một đối
tượng, một khái niệm; nhưng có sự hiện diện của nó trong cấu trúc từ hay
không, số làm cho tình hình rất khác nhau. Đó là chưa kể không ít trường hợp
đã tìm ra nghĩa của chúng trong quá khứ lịch sử của tiếng Việt. Chúng nhiều
khi là kết quả của hiện tượng hao mòn ngữ nghĩa (đesemantic) đến mức tối
đa như vẫn thường gặp. Ví dụ: (dai) nhách; (xanh) lè; (áo) xống; (tre) pheo;
(cỏ) rả; (đường) sá; (e) lệ; (trong) vất; (nắng) nôi…
c - Có những tiếng tương tự như loại b. vừa nêu, nhưng chúng lại xuất
hiện trong những từ mà tất cả các tiếng tham gia tạo từ đều như thế cả (đều
không quy chiếu vào một khái niệm, một đối tượng - nếu tách rời nhau). Ví
dụ: mồ - hôi – bồ - hòn - mì - chính - a - pa - tít… Các từ ở đây có thể thuộc
nguồn gốc Việt như: mồ hôi, bò hòn… nhưng cũng có thể thuộc nguồn gốc
ngoại lai như: mì chính, a pa tít…
Sự tranh luận về giá trị và ý nghĩa của tiếng, thực sự chỉ tập trung ở
những tiếng thuộc loại b. và c.; nhất là loại c. Tuy nhiên, tư cách và giá trị
tương đương với hình vị trong tiếng Việt vẫn có thể chứng minh được (mặc
dù chứa thực sự có sức thuyết phục tuyệt đối cho tất cả mọi trường hợp) qua
các hiện tượng tách rời, lặp, chen thành tố, hoặc rút gọn… Ví dụ:
sung sướng - ăn sung mặc sướng
(quần) xi mi li - (quần) xi
(…)
Mặt khác, cũng cần thấy rằng các tiếng thuộc loại c. này không hiếm số
lượng nhiều trong tiếng Việt và đa số trong số đó lại thuộc nguồn gốc ngoại
lai. Chúng thuộc phạm vi ở vùng biên chứ không phải ở vùng tâm của tiếng
Việt. Hơn nữa, mặc dù chưa có những chứng cứ đầy đủ về mặt tâm lí ngôn
ngữ học, nhưng chúng ta cũng phải lưu ý đến một điều là: trong ứng xử ngôn
ngữ, dường như người Việt luôn luôn có tâm lí chờ đợi ở mỗi tiếng (bất kể
tiếng đó như thế nào) một nghĩa nào đấy; hoặc sẵn sàng cấp cho nó một
nghĩa nào đấy. Nếu không vậy thì làm sao người ta có thể chấp nhận được
những tiếng, những câu như sau: Trời đất khen tao khéo khéo phòm của Hồ
Xuân Hương?
Nói tóm lại, trong Việt ngữ học hiện nay, nếu lấy tiêu chí: có chỉ ra, có
quy chiếu vào đối tượng nào, khái niệm nào hay không; thì người ta vẫn quen
phân loại và gọi các tiếng thuộc loại a. kể trên là loại tiếng có nghĩa; còn các
tiếng loại b. và c. là tiếng vô nghĩa.
3.a.3. Về năng lực hoạt động ngữ pháp, có thể căn cứ vào tiêu chí: "có
khả năng hoạt động tự do hay không" để chia các tiếng thành hai loại.
x- Loại tiếng tự do: có thể hoạt động tự do trong lời nói với tư cách từ.
Thật ra thì chúng là những tiếng mà tự thân một mình đã đủ khả năng tạo
thành từ. Chẳng hạn: làng, xã, người, đẹp, nói, đi…
y- Loại tiếng không tự do: Loại này gồm hai nhóm.
Những tiếng không tự do nhưng tự thân chúng có mang nghĩa: thủy,
hỏa, hàn, trường, đoản, sơn…
Những tiếng không tự do mà tự thân không mang nghĩa: (lạnh) lẽo,
(đen) nhánh; mồ, hôi, cà, phê…
Tuy nhiên, ranh giới giữa các loại tiếng không phải là hoàn toàn tuyệt
đối. Cần phải lưu ý đến những trường hợp trung gian giữa loại này với loại
kia, phạm vi này với phạm vi kia.
3.b. Phương thức cấu tạo
Từ điển tiếng Việt được cấu tạo hoặc là bằng cách dùng một tiếng,
hoặc là tổ hợp các tiếng lại theo lối nào đó.
3.b.1. Phương thức dùng một tiếng làm một từ sẽ cho ta các từ đơn
(còn gọi là từ đơn tiết). Vậy từ đơn ở đây được hiểu là những từ được cấu tạo
bằng một tiếng.
Ví dụ:
tôi, bác, người, nhà, cây, hoa, trâu, ngựa,
đi, chạy, cười, đùa, vui, buồn, hay, đẹp,
vì, nếu, đã, đang, à, ư, nhỉ, nhé…
3.b.2. Phương thức tổ hợp (ghép) các tiếng lại, mà giữa các tiếng
(thành tố cấu tạo) đó có quan hệ về nghĩa với nhau, sẽ cho ta những từ gọi là
từ ghép. Dựa vào tính chất của mối quan hệ về nghĩa giữa các thành tố cấu
tạo, có thể phân loại từ ghép tiếng Việt như sau:
Từ ghép đẳng lập. Đây là những từ mà các thành tố cấu tạo có quan hệ
bình đẳng với nhan về nghĩa. Ở đây, có thể lưu ý tới hai khả năng.
Thứ nhất, các thành tố cấu tạo trong từ đều rõ nghĩa. Khi dùng mỗi
thành tố như vậy để cấu tạo từ đơn thì nghĩa của từ đơn và nghĩa của các
thành tố này không trùng nhau.
So sánh: ăn khác ăn ở khắc ăn nói khắc ỏ khắc nói…
Thứ hai, một thành tố rõ nghĩa tổ hợp với thành tố không rõ nghĩa.
Trong hầu hết các trường hợp, những yếu tố không rõ nghĩa nãy vốn rõ nghĩa
nhưng sau bị bào mòn dẩn đi ở các mức độ khác nhau. Bằng con đường tìm
tòi từ nguyên và lịch sử, người ta thường xác định được nghĩa của chúng. Ví
dụ: chợ búa, bếp núc, đường sá, tre pheo, cỏ rả, sau muộn, chó má, gà qué,
cá mú, xe cộ, áo xống…
Từ ghép đẳng lập biểu thị ý nghĩa khái quát và tổng hợp. Đây là một
trong những điểm làm cho nó khác với các từ ghép chính phụ.
Từ ghép chính phụ. Những từ ghép mà có thành tố cấu tạo này phụ
thuộc vào thành tố cấu tạo kia, đều được gọi là từ ghép chính phụ. Thành tố
phụ có vai trò phân loại, chuyên biệt hóa và sắc thái hóa cho thành tố chính.
Ví dụ: tàu hỏa, đường sắt, sân bay, hàng không, nông sản, cà chua, máy cày,
dưa hấu, cò gà, xấu bụng, tốt mã, lão hóa, xanh lè, đỏ rực, ngay da, thẳng
tắp, sưng vù…
3.b.3. Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hòa phối ngữ âm cho ta
các từ láy (còn gọi từ lấp láy, từ láy âm).
Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và
còn có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đấu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy và
phương thức láy của tiếng Việt.
Một từ sẽ được gọi là từ láy khi các yếu tố cấu tạo nên chúng có thành
phần ngữ âm được lặp lại; nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến đổi
(còn gọi là đối). Ví dụ: dò dẫn điệp phần âm đầu, đối ở phấn vần. Vì thế, nếu
chỉ có điệp mà không có đối (chẳng hạn như: người người, nhà nhà, ngành
ngành… thì ta có dạng láy của từ chứ không phải là từ láy. Kết hợp tiêu chí
về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ láy như sau:
Từ láy gồm hai tiếng (cũng gọi là từ láy đôi) có các dạng cấu tạo như
sau:
Láy hoàn toàn. Gọi là láy hoàn toàn nhưng thực ra bộ mặt ngữ ầm của
hai thành tố (hai tiếng) không hoàn toàn trùng khít nhau, chỉ có điều là phần
đối của chúng rất nhỏ khiến người ta vẫn nhận ra được hình dạng của yếu tố
gốc trong yếu tố được gọi là yếu tố láy. Có thể chia các từ láy hoàn toàn
thành ba lớp nhỏ hơn:
a) Lớp những từ láy hoàn toàn, chỉ đối nhau ở trọng âm (một trong hai
yếu tố được nói nhấn mạnh hoặc kéo dài). Ví dụ: cào cào, ba ba, châu chấu,
đu đủ, rề rề, lăm lăm, khăng khăng, kin kin, lù lù, lâng lâng, đùng đùng, hây
hây, gườm gườm, đăm đăm…
b) Lớp từ láy hoàn toàn, đối nhau ở thanh điệu. Nguyên tắc đối thanh
điệu ở đây là: thanh bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực và
bằng đứng trước, trắc đứng sau.
BẰNG TRẮC
Thanh không dấu (1) Hỏi (4) Sắc (5)
Huyền (2) Ngã (3) Nặng (6)
Ví dụ: đo đỏ, ra rả, hây hẩy, hau háu, ho hó, ngay ngáy, phơi phới,
sừng sững, chồm chỗm, vành vạnh, lừng lững, hơn hớn, càu cạu, thoang
thoảng…
Tuy nhiên, ở đây vẫn có một số ngoại lệ như: cỏn con, dửng dưng, mảy
may, cuống cuồng…
c) Lớp từ láy hoàn toàn, đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm
cuối theo quy luật dị hóa (xem chương X):
m – p
ng - c
n – t
nh - ch
Ví dụ:
ăm ắp, chiêm chiếp, cầm cập, lôm lốp, hèm hẹp…
chan chát, khin khít, sồn sột, thon thót, ngùn ngụt…
khang khác, vằng vặc, rừng rực, phưng phức, phăng phắc…
anh ách, chênh chếch, đành đạch, phành, phạch, rinh rích…
Thanh điệu của các yếu tố trong mỗi từ vẫn tuân theo quy luật của lớp
b.
Láy bộ phận. Những từ láy nào chỉ có điệp ở phần âm đầu hoặc điệp ở
phần vần thì được gọi là từ láy bộ phận. Căn cứ vào đó, có thể chia từ láy bộ
phận thành hai lớp.
a) Lớp từ láy (điệp) âm đầu, đối ở phần vần; ví dụ như: bập bềnh, cò
kè, ho he, thơ thẩn, đẹp đẽ, làm lụng, ngơ ngác, say sưa xoắn xuýt, vồ vập,
hấp háy…
Trong lớp này, có những từ xét về mặt lịch sử vốn không phải là từ láy,
nhưng vì quan hệ về nghĩa giữa các yếu tố của chúng mất dần đi, làm cho
quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên giữa các yếu tố đó nổi lên hàng đầu, và hiện giờ
người Việt nhất loạt coi chúng là từ láy. Ví dụ: chùa chiền, tuổi tác, giữ gìn,
sân sướng… Nghĩa của những từ như vậy được tổ chức theo kiểu của các từ
tre pheo, chó má, đường sá, xe cộ, áo xống…
Trong khi xét sự đối vần ở đây, cũng cần lưu ý tới hiện tượng đối ứng ở
âm chính. Hiện tượng này không phải là quy luật toàn thể, nhưng khá đều
đặn ở một số nhóm từ:
u đối với i: cũ kĩ, hú hí, xù xì, tủm tỉm, mũm mĩm…
ô - ê: ngô nghê, xồ xề, hổn hển, thỗn thện…
0 - e: ho he, vo ve, khò khe, võ vẽ, nhỏ nhẻ…
i - a: hỉ hả, rì rà, xí xóa, hí hoáy…
u - ă: tung tăng, hung hăng, vùng vằng, thủng thẳng…
u - ơ: ngu ngơ, rù rờ, khù khờ, cũn cỡn…
ô - a: bỗ bã, hốc hác, mộc mạc…
ê - a: nghê nga, khề khà, rề rà, xuề xòa, hể hả…
b) Lớp từ láy (điệp) phần vần, đối ở âm đầu; ví dụ như: bâng khuâng,
bơ vơ, lừng chừng, lù dù, lã chã, càu nhàu, lõ mõ, thao láo, hấp tấp, tủn mủn,
lụp xụp, lảng vảng, lúng túng, co ro, lan man, làng nhàng…
Gần nửa số lượng từ láy vần có âm đầu của tiếng thứ nhất là âm l- và
phần lớn chúng có chứa một tiếng còn rõ nghĩa. Tuy vậy, vẫn có không ít từ
mà cả hai tiếng đễu không rõ nghĩa; ví dụ: bải hoải, hấp tấp, lập cập, bầy hầy,
thình lình, xiềng liềng, xó ró, lấc cấc…
Từ láy ba và bốn tiếng được cấu tạo thông qua cơ chế cấu tạo từ láy
hai tiếng. Tuy vậy, từ láy ba tiếng dựa trên cơ chế láy hoàn toàn, còn từ láy
bốn lại dựa trên cơ chế láy bộ phận là chủ vếu. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sàn
sạt, dửng dừng dưng, trơ trờ trờ,… đủng đà đủng đỉnh, lôi thôi lếch thếch, linh
tinh lang tang, vội vội vàng vàng…
Trên thực tế, số lượng từ láy ba tiếng và bốn tiếng không nhiều. Mặt
khác, có thể coi chúng chỉ là hệ quả là bước "tiếp theo" trên cơ chế láy của từ
láy hai tiếng mà thôi. Từ láy ba là láy toàn bộ kèm theo sự biến thanh và biến
vần (ví dụ: nhũn - nhũn nhùn nhun; xốp - xốp xồm xộp…). Nhiều khi ta gặp
những "cặp bài trùng" giữa từ láy hai tiếng và láy ba tiếng như: sát sạt - sát
sàn sại; trụi lủi - trụi thui lủi - trụi thùi lụi; nhũn nhũn - nhũn nhũn nhũn; khét lẹt
- khét lèn lẹt… Từ láy bốn tiếng thì tình hình cấu tạo có đa tạp hơn. Có thể là:
- "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến vần của tiếng thứ hai thành e,
a, a, à, cho phù hợp, hài hòa về âm vực giữa các vần, các thanh:
vớ vẩn – vớ va vớ vẩn.
lề mề - lề mà lề mề…
- Nhân đôi từ láy hai tiếng nhưng biến đổi sao cho hai tiếng đầu có
thanh điệu thuộc âm vực cao, hai tiếng sau mang thanh đĩệu âm vực thấp: bồi
hồi - bổi hổi bồi hồi.
- Nhân đôi từng tiếng của từ láy hai tiếng:
hùng hổ - hùng hùng hổ hổ
vội vàng - vội vội vàng vàng
- Thực hiện cách thứ ba vừa nêu, nhưng biến âm đầu của tiếng thứ
nhất và thứ ba thành -1-
nhồm nhoàm – lồm nhồm loàm nhoàm
thơ thẩn - lo thơ lẩn thẩn.
Ngoài ra, còn có một số từ khác không cấu tạo theo các cách nêu trên;
hoặc từ một từ gốc có thể cấu tạo hai từ láy bốn tiếng chứ không phải chi có
một. Chẳng hạn: bù lu bù loa; bông lông ba la; hoặc: bắng nhắng – bắng nha
bắng nhắng; bắng nhắng bặng nhặng…
Sự biểu đạt ý nghĩa của từ láy rất phức tạp và rất thú vị; nhất là ở nhiều
nhóm từ cùng có khuôn cấu tạo lại có thể có những điểm giống nhau nào đó
về nghĩa. Điều này cần được khảo sát riêng tỉ mỉ hơn.
3.b.4. Trừ các kiểu từ đã trình bày trên đây, tiếng Việt còn có một lớp từ
mà người bản ngữ hiện nay không thấy giữa các thành tố cấu tạo (các tiếng)
của chúng có quan hệ gì về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Vì vậy, từ góc độ phân
loại, cần tách chúng ra và gọi là các từ ngẫu, hợp với ngụ ý: các tiếng tổ hợp
với nhau ở đây một cách ngẫu nhiên. Lớp từ này có thể bao gồm:
- Những từ gốc thuần Việt: bồ câu, bồ hòn, bồ nông, mồ hóng, mồ hôi,
kì nhông, cà nhắc, mặc cả…
- Những từ vay mượn gốc Hán (hoặc phiên âm qua âm Hán Việt) thông
qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ (trong số này có những từ mà từng
thành tố của chúng trước đây vốn rõ nghĩa, nhưng nay không được người
Việt nhận thức nữa).
Ví dụ: mâu thuẫn, hi sinh, trường hợp, kinh tế, câu lạc bộ, tài chính, tài
xế, vằn thắn, lục tàu xá…
- Những từ vay mượn gốc Ấn - Âu qua con đường sách vở hoặc khẩu
ngữ như: axit, mít tinh, sơ mi, tùng bê, mùi xoa, xà phòng, cao su, ca cao, hắc
ín, sô cô la…
Bộ phận từ này, trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng do các
mối quan hệ quốc tế mở rộng, tạo điều kiện cho sự tiếp xúc, vay mượn và du
nhập từ ngữ, nhất là trong lĩnh vực thông tin, khoa học và kĩ thuật.
3.c. Biến thể của từ. Trong hoạt động của mình, một số từ tiếng Việt có
thể có biến động về cấu trúc. Tuy nhiên, cần nói rằng đó không phải là những
biến dạng theo nguyên tắc hình thái học như các dạng thức khác nhau của từ
trong ngôn ngữ biến hình, ở đây, chúng thường chỉ được coi là dạng tâm thần
biến động hoặc dạng lời nói của từ. Có nghĩa rằng, những biến động ấy
không đều đặn, không thường xuyên ở tất cả mọi từ. Chúng chỉ lâm thời xảy
ra ở một số từ trong một số trường hợp sử dụng mà thôi. Đại thể, cả những
dạng biến động như sau:
3.c.1. Biến một từ có cấu trúc lớn, phức tạp hơn sang cấu trúc nhỏ, đơn
giản hơn. Thực chất đây là sự rút gọn một từ dài thành từ ngắn hơn. Ví dụ:
ki lô gam
(ông) cử nhân
(ông) tú tài
Xu hướng biến đổi này không có tính bắt buộc, không đều đặn ở mọi
từ; và nhiều khi chỉ vì lí do tiết kiệm trong ngộ ngữ. Không phải ngày nay tiếng
Việt mới có hiện tượng rút gọi như vậy, mà những cặp từ song song tồn tại
giữa một bên là từ đa tiết với một bên là từ đơn tiết chứng tỏ rằng hiện tượng
này đã có từ lâu. Chẳng hạn:
ve ve - ve
bươm bướm – bướm
đom đóm – đóm (Đồng không con đóm lập lòe - Tản Đà)
Rất nhiều tên gọi các tổ chức chính trị, xã hội, các danh nhân, địa
danh… trong tiếng Việt ngày nay đã được rút gọn lại như vậy.
Đảng cộng sản Việt Nam – Đảng
Hợp tác xã – Hợp
Các dạng nói gộp, rút gọn các từ có yếu tố chung như sau đây thực
chất cũng nằm trong xu hướng này.
tâm lí, sinh lí – tâm, sinh lí
trang bị, thiết bị - trang thiết bị
Xu hướng biến đổi một từ đơn gian thành một từ có cấu trúc phức tạp
hơn, trong tiếng Việt hiện nay không thấy có. Rất có thể vì nó trái với nguyên
tắc tiết kiệm mà người sử dụng ngôn ngữ thường xuyên phải tính đến.
3.c.2. Lâm thời phá vỡ cấu trúc của từ, phân bố lại các yếu tố tạo từ với
những yếu tố khác ngoài từ chen vào. Ví dụ:
khổ sở - lo khổ lo sở
ngặt nghẽo- cười ngặt cười nghẽo
danh lợi – ham danh chuộng lợi
ham chuộng – ham danh chuộng lợi
Sự biến đổi theo kiểu này rất đa dạng, nhằm nhiều mục đích, cũng có
khi người nói, với dụng ý ít nhiều mang tính chơi chữ, và phá vỡ cấu trúc từ
để dùng yếu tố tạo từ với tư cách như một từ. Ví dụ:
tìm hiểu - tìm mà không hiểu
đánh đổ - đánh mãi mà không đổ…
Chương 13. CỤM TỪ CỐ ĐỊNH
I. KHÁI NIỆM
1. Đơn vị dùng làm chất liệu cơ sở để tạo ra câu - đơn vị giao tiếp -
không phải chỉ có từ. Ngoài từ ra, còn có một loại đơn vị gọi là cụm từ cố
định. Có thể nêu một khái niệm giản dị cho cụm từ cố định điển hình như sau:
Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại; tồn tại với tư cách một
đơn vị có sẵn như từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định như từ.
Chính vì thế cụm từ cố định được gọi là đơn vị tương đương với từ.
Chúng tương đương với nhau về tư cách của những đơn vị được làm sẵn
trong ngôn ngữ; và tương đương với nhau về chức năng định danh, chức
năng tham gia tạo câu. Chẳng hạn, các cụm từ: Kanjin 6 Mope; Ha 6e3pbi6e
u paKpuõa… trong tiếng Nga; to hold the balance even between two parties;
to speak by the book… của tiếng Anh; ruộng cả ao liền; qua cầu rút ván; tóc
rễ tre; con gái rượu… của tiếng Việt… đều là những cụm từ cố định. Chúng
được tái hiện và tái lặp cũng như các từ vậy.
2. Cụm từ cố định cần được phân biệt với những đơn vị lân cận, dễ lầm
lẫn với chúng, là từ ghép và cụm từ tự do.
Trước hết, nếu so sánh một từ ghép điển hình với một cụm từ cố định
điển hình ta thấy chúng đều giống nhau ở chỗ:
+ Cùng có hình thức chặt chẽ, cấu trúc cố định.
+ Cùng có tính thành ngữ.
+ Cùng là những đơn vị làm sẵn trong ngôn ngữ.
Ví dụ: sinh viên, học tập, đỏ rực, ngon lành, hoa hồng… ăn ốc nói mò,
mặt trái xoan, vênh váo như bố vợ phải đấm…
Ở đây, cần nói thêm về cái gọi là tính thành ngữ. Thực ra, khái niệm
này chưa phải là đã tuyệt đối rõ ràng. Nói chung, thường gặp nhất là cách
hiểu như sau: Giả sử có một kết cấu X gồm các yếu tố a, b, c… hợp thành X
= a + b + c. Nếu ý nghĩa của X mà không thể giải thích được bằng ý nghĩa
của từng yếu tố a, b, c, thì người ta bảo kết cấu X (hoặc tổ hợp X) có tính
thành ngữ.
Vậy chứng tỏ rằng tính thành ngữ có các mức độ cao, thấp khác nhau
trong các tổ hợp, kết cấu khác nhau; bởi vì cách tổ chức nội dung và hình
thức của chúng theo những con đường, những phương sách rất khác nhau.
Đối chiếu với các ví dụ nêu trên, ta sẽ thấy điều đó.
Từ ghép với cụm từ cố định phân biệt, khác nhau ở chỗ:
+ Về thành tố cấu tạo: thành tố cấu tạo của từ ghép là hình vị; còn
thành tố cấu tạo của cụm từ cố định là từ. So sánh:
news + paper - newspaper
ễnh + ương - ễnh ương
speak + by + the + book - speak by the book
bán + bò + tậu + ễnh + ương - bán bò tậu ễnh ương
+ Về ý nghĩa: Nghĩa của cụm từ cố định được xây dựng và tổ chức theo
lối tổ chức nghĩa của cụm từ; và nói chung là mang tính hình tượng. Chính vì
vậy, nếu chỉ căn cứ vào bề mặt, vào nghĩa của từng thành tố cấu tạo thì nói
chung là không thể hiểu được nghĩa đích thực của toàn cụm từ. Ví dụ: anh
hùng rơm, đồng không mông quạnh, tiếng bấc tiếng chì…
Trong khi đó, đối với từ ghép, thì nghĩa định danh (trực tiếp hoặc gián
tiếp) theo kiểu tổ chức nghĩa của từ lại là cái cốt lõi và nổi lên hàng đầu.
Ví dụ: mắt cá (chân), đầu ruồi, chân vịt, đen nhánh, xanh lè, tre pheo,
thuyền trưởng…
3. Đối với cụm từ tự do, cụm từ cố định cũng có nhưng nét giống nhau
và khác nhau.
Chúng giống nhau bởi lẽ đương nhiên thứ nhất: cả hai đều là cụm từ,
được tạo lập bằng sự tổ hợp của các từ.
Nét giống nhau thứ hai là giống nhau về hình thức ngữ pháp Điểu này
dẫn đến hệ quả là quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố cấu tạo cũng giống
nhau, ví dụ:
nhà ngói cây mít; nhà tranh vách đất… (cụm từ cố định)
cháo gà cháo vịt; phở bò miến lươn… (cụm từ tự do)
Tuy vậy, quan sát kĩ thì thấy chúng khác nhau ở những mặt rất quan
trọng.
- Cụm từ cố định hiện diện với tư cách là đơn vị của hệ thống ngôn
ngữ, ổn định và tồn tại dưới dạng làm sẵn. Trong khi đó cụm từ tự do được
tạo ra trong lời nói, trong diễn từ (discourse). Nó hợp thành đấy, rồi tan đấy, vì
nó không tồn tại dưới dạng một đơn vị làm sẵn. Cụm từ tự do chỉ là sự lấp
đầy từ vào một mô hình ngữ pháp cho trước mà thôi.
- Vì tồn tại dưới dạng làm sẵn nên thành, tố cấu tạo cụm từ cố định có
số lượng ổn định, không thay đổi. Ngược lại, số thành tố cấu tạo cụm từ tự do
có thể thay đổi tùy ý. Ví dụ: mẹ tròn con vuông, mồm năm miệng mười… số
thành tố cấu tạo luôn luôn ổn định; thế nhưng một cụm từ tự do những người
cười chẳng hạn, có thể thêm bớt các thành tố một cách tùy ý để cho ta những
cụm từ có kích thước khác nhau.
những người này - những người chưa nói đã cười này
những người vừa mới đến mà chưa nói đã cười này…
- Về ý nghĩa, cụm từ cố định có ý nghía như một chỉnh thể tương ứng
với một chỉnh thể cấu trúc vật chất của nó. Có nghĩa là nó có tính thành ngữ
rất cao; còn cụm từ tự do thì không như vậy. Ví dụ chỉnh thể ý nghĩa của cụm
từ cố định: rán sành ra mỡ; méo miệng đòi ăn xôi vò; say như điếu đổ… có
tính thành ngữ cao đến mức tối đa; còn những cụm từ tự do như rán mỡ;
miệng cười; say thuốc lào… thì tính thành ngữ của chúng chí là zero.
II. PHÂN LOẠI CỤM TỪ CỐ ĐỊNH
Mặc dù có nhiều điểm giống nhau về nguyên tác, nhưng cách xây
dựng, tạo lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau; không hoàn toàn
như nhau. Vì thế, cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau có thể được
phân loại khác nhau. Chẳng hạn M.Shanskij trong cuồn sách ‘…’ (1985) đã
phân loại các cụm từ cố định trong tiếng Nga hiện đại như sau:
- Phân loại theo mức độ tính chất về ngữ nghĩa: tách ra 5 loại.
- Phân loại theo đặc điểm các từ trong thành phần của cụm cố định:
tách thành 4 loại.
- Phân loại theo mô hình cấu trúc; tách ra 16 loại.
- Phân loại theo nguốn gốc: tách ra 6 loại.
Việc nghiên cứu cụm từ cố định của tiếng Việt tuy chưa thật sâu sắc và
toàn diện nhưng đã có không ít kết quả công bố trong một số giáo trình giảng
dạy trong nhà trường đại học và tạp chí chuyên ngành.
Nếu tạm thời chấp nhận tên gọi mà chưa xác định ngay nội dung khái
niệm của chúng, thì có thể tóm tắt một trong những bức tranh phân loại cụm
từ cố định tiếng Việt như sau:
CỤM
TỪ
CỐ
ĐỊNH
THÀNH NGỮ
Ví dụ: mẹ tròn con vuông…
NGỮ CỐ ĐỊNH
QUÁN NGỮ
Ví dụ: của đáng tội…
NGỮ CỐ ĐỊNH ĐỊNH DANH
Ví dụ: mặt trái xoan…
Dưới đây là một số miêu tả cụ thể.
1. Thành ngữ
1.a. Định nghĩa: Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc
và ý nghĩa. Nghĩa của chúng có tính hình tượng hoặc / và gợi cảm.
Ví dụ: ba cọc ba đồng; chó cản áo rách; nhà ngói cây mít; bán bò tậu
ễnh ương; méo miệng đòi ăn xôi vò; ông mất của kia bà chìa của nọ; đủng
đỉnh như chĩnh trôi sông…
Các cụm từ cố định - thành ngữ như thế đều thỏa mãn định nghĩa nêu
trên. Chúng là những thành ngữ điển hình.
1.b. Phân loại. Có nhiều cách phân loại thành ngữ. Trước hết có thể
dựa vào cơ chế cấu tạo (cả nội dung lẫn hình thức) để chia thành ngữ tiếng
Việt ra hai loại…
1.b.1. Thành ngữ so sánh. Loại này bao gồm những thành ngữ có cấu
trúc là một cấu trúc so sánh. Ví dụ: lạnh như tiền; rách như tổ đỉa; cưới không
bằng lại mặt…
Mô hình tổng quát của thành ngữ so sánh giống như cấu trúc so sánh
thông thường khác:
A ss B
Ở đây A là vế được so sánh. B là vế đưa ra để so sánh, còn s là từ so
sánh: như, bằng, tựa, hệt…
Tuv vậy, sự hiện diện của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt khá đa
dạng, không phải lúc nào ba thành phần trong cấu trúc thành ngữ cũng phải
đầy đủ. Chúng có thể có các kiểu:
A.ss.B. Đây là dạng đầy đủ của thành ngữ so sánh. Ví dụ: đắt như tôm
tươi; nhẹ như lông hồng; lạnh như tiền; dai như đỉa đói; rách như tổ đỉa; đủng
đỉnh như chĩnh trôi sông; lừ đừ như ông từ vào đền…
(A).ss.B. Ở kiểu này, thành phần A của thành ngữ không nhất thiết phải
có mặt. Nó có thể xuất hiện hoặc không; nhưng người ta vẫn lĩnh hội đủ ý
nghĩa của thành ngữ ở dạng toàn vẹn.
Ví dụ: (rẻ) như bèo; (chắc) như đinh đóng cột; (vui) như mở cờ trong
bụng; (to) như bồ tuột cạp; (khinh) như rác; (khinh) như mẻ; (chậm) như rùa.
ss.B. Trường hợp này, thành phấn A không phải là của thành ngữ. Khi
đi vào hoạt động trong câu nói, thành ngữ kiểu này sẽ được nối thêm với A
một cách tùy nghi; nhưng nhất thiết phải có. A là của câu nói và nằm ngoài
thành ngữ. ví dụ
Ăn ở với nhau
như mẹ chồng với nàng dâu.Xử sự với nhau
Giữ ý giữ tứ với nhau…
Có thế kể ra một số thành ngữ kiểu này như:
như tằm ăn rỗi; như vịt nghe sấm; như con chó ba tiền; như gà mắc tóc;
như đỉa phải vôi; như ngậm hột thị…
Đối với thành ngữ so sánh tiếng Việt, có thể nêu một vài nhận xét về
cấu trúc của chúng như sau.
+ Vế A (vế được so sánh) không phải bao giờ cũng buộc phải hiện diện
trên cấu trúc hình thức; nhưng nội dung của nó thì vẫn luôn luôn là cái được
"nhận ra”. A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng hoặc trạng
thái hành động… nào đó. Rất ít khi chúng ta gặp những khả năng khác.
+ Từ so sánh trong thành ngữ so sánh tiếng Việt phổ biến là từ như;
còn những từ so sánh khác, chẳng hạn tựa, tựa như, như thể, bằng, tày…
(gương tày Liếp; tội tày đinh; cưới không bằng lại mặt…) chỉ xuất hiện hết sức
ít ỏi.
+ Vế B (vế để so sánh) luôn luôn hiện diện; một mặt để thuyết minh cho
A, làm rõ A; mặt khác, nhiều khi nó lại chỉ bộc lộ ý nghĩa của mình trong khi
kết hợp với A, thông qua A. Ví dụ: ý nghĩa "lạnh" của tiền chỉ bộc lộ trong lạnh
như tiền mà thôi. Các thành ngữ: nợ như chúa Chổm; rách như tổ đỉa; say
như điếu đổ; say khướt cò bợ… cũng tương tự như vậy.
Mặt khác, các sự vật, hiện tượng, trạng thái… được nêu ở B phản ánh
khá rõ nét những dấu ấn về đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của dân
tộc Việt. Đối chiếu với thành ngữ so sánh của các ngôn ngữ khác, ta dễ thấy
sắc thái dân tộc của mỗi ngôn ngữ được thể hiện một phần ở đó.
+ Vế B có cấu trúc riêng không thuần nhất.
- B có thể là một từ. Ví dụ: lạnh như tiền; rách như tổ đỉa; nợ như chúa
Chổm; đắng như bồ hòn; rẻ như bèo; khinh như mẻ.
- B có thể là một cụm từ. Ví dụ: như bóng với hình; như mẹ chồng với
nàng dâu; ngọt như mía lùi; giữ như giữ mả tổ.
- B có thể là một kết cấu chủ - vị (một mệnh đề), ví dụ: như đỉa phải vòi;
như chó nhai giẻ rách; lừ dừ như ông từ vào đền; như thầy bói xem voi; như
xẩm sờ vạ.
Ngoài những điều nói trên, khi đối chiếu các thành ngữ so sánh với các
cấu trúc so sánh thông thường của tiếng Việt, ta thấy:
+ Các cấu trúc so sánh thông thường có thể có so sánh bậc ngang
hoặc so sánh bậc hơn. Ví dụ: Anh yêu em như yêu đất nước (so sánh bậc
ngang).
Dung biết mình đẹp hơn Mai, (so sánh bậc hơn)
+ Từ so sánh và các phương tiện so sánh khác (chỗ ngừng, cả cặp từ
phiếm định hô ứng…) được sử dụng trong các cấu trúc 3 sánh thông thường,
rất đa dạng: như, bằng, tựa, hệt, giống, chẳng khác gì, y như là, hơn, hơn
là…
+ Một vế A trong cấu trúc so sánh thông thường có thể lí hợp với một
hoặc hai; thậm chí một chuỗi nhiều hơn các vế qua sự nối kết với từ so sánh,-
Ví dụ:
- Kết hợp với một B:
Cổ tay em trắng như ngà,
Con mất em liếc như là dao cau.
- Kết hợp với một chuỗi B: Những chị cào cào (…) khuôn trái xoan như
e thẹn, như làm dáng, như ngượng ngùng.
+ Cấu trúc so sánh thông thường rất đa dạng, trong khí thành ngữ so
sánh ít biến dạng hơn và nếu có thì cũng biến tỉ một cách giản dị như đã nêu
trên. Lí dữ chính là ở chỗ thành so sánh là cụm từ cố định; chúng phải chặt
chẽ và bền vững cấu trúc và ý nghĩa.
1.b.2. Thành ngữ miêu tả ẩn dụ. Là thành ngữ được xây trên cơ sở
miêu tả một sự kiện, một hiện tượng bằng cụm từ, nhưng biểu hiện ý nghĩa
một cách ẩn dụ.
Xét về bản chất, ẩn dụ cũng là so sánh; nhưng đây là so sánh ngầm; từ
so sánh không hề hiện diện. Cấu trúc bề mặt của thành ngữ loại này không
phản ánh cái nghĩa đích thực của chúng. Cấu trúc đó, có chăng chỉ là cơ sở
để nhận ra một nghĩa "sơ khởi", "cấp một" nào đó; rồi trên nền tảng của
"nghĩa cấp một” này người ta mới rút ra, nhận ra và hiểu lấy ý nghĩa đích thực
của thành ngữ. Ví dụ: xét thành ngữ: ngã vào võng đào.
Cấu trúc bề mặt của thành ngữ này cho thấy:
- (Có người nào đó) bị ngã - tức là gặp nạn, không may.
- Ngã, nhưng rơi vào võng đào (một loại võng được coi là sang trọng,
tốt và quý) - tức là vẫn được đỡ bằng cái võng, êm, quý, sang, không mấy ai
và không mấy lúc được ngồi, nằm vào đó.
Từ cách hiểu cái nghĩa cơ sở qua cấu trúc bề mặt này, người ta rút ra
và nhận lấy nghĩa thực của thành ngữ như sau:
Gặp tình huống tưởng như không may nhưng thực ra lại là rất may (và
thích gặp tình huống đó hơn là không gặp bởi vì có lợi hơn là không gặp).
Căn cứ vào nội dung của thành ngữ miêu tả ẩn dụ kết hợp cùng với
cấu trúc của chúng, có thể phân loại nhỏ hơn như sau:
Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu một sự kiện. Trong các thành ngữ
này chỉ có một sự kiện, một hiện tượng nào đó được nêu. Chính vì vậy cũng
chỉ một hình ảnh được xây dựng và phản ánh. Ví dụ: ngã vào võng đào; nuôi
ong tay áo; nướ đổ đầu vịt; chó có váy lĩnh; hàng thịt nguýt hàng cá; vải thưa
che mắt thành; múa rìu qua mất thợ;…
Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện cộng đòng. Ở đây,
trong mỗi thành ngữ sẽ có hai sự kiện, hai hiện tượng được nêu, được phản
ánh. Chúng tương đồng hoặc tương hợp với nhau (hiểu một cách tương đối).
Ví dụ: ba dầu sáu tay; nói có sách mách có chứng; ăn trên ngồi trốc;
mẹ tròn con vuông; hòn đất ném đi hòn chì ném lại…
Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương phản. Ngược lại
với loại trên, mỗi thành ngữ loại này cũng nêu ra hai sự kiện, hai hiện tượng
nhưng tương phản nhau hoặc chí ít cũng không tương hợp nhau. Ví dụ: các
thành ngữ: một vốn bốn lời; méo miệng đòi ăn xôi vò; miệng thơn thớt dạ ớt
ngâm; bán bò tậu ễnh ương; xấu máu đòi ăn của độc…
Bên cạnh việc phân loại thành ngữ tiếng Việt theo cơ chế cấu tạo và
cấu trúc, còn có thể phân loại chúng theo số tiếng. Một nét nổi bật đáng chú ý
ở đây là các thành ngữ có số tiếng chẵn (bốn tiếng, sáu tiếng, tám tiếng)
chiếm ưu thế áp đảo về số lượng (xấp xỉ 85%). Điều này có cơ sở của nó.
Người Việt rất ưa lối nói cân đối nhịp nhàng và hài hòa về âm điệu. Ngay ở
bậc từ ta cũng thấy rằng hiện nay các từ song tiết (hai tiếng) chiếm tỉ lệ hơn
hẳn các loại khác.
Đến lượt mình, tỉ lệ 85% thành ngữ đó gây nên một áp lực về số lượng,
khiến cho những cụm từ như: trăng tủi hoa sầu; tan cửa nát nhà; tháng đợi
năm chờ; ăn gió nằm mưa; lót đó luồn đây; gìn vàng giữ ngọc… nhanh chóng
mang dáng dấp của các thành ngữ và rất hay được sử dụng.
2. Quán ngữ
Quán ngữ là những cụm từ được dùng lập đi lặp lại trong các loại diễn
từ (discourse) thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là để
đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh hoặc để liên kết trong diễn từ.
Ví dụ: của đáng tội; (nói) bỏ ngoài tai; nói tóm lại; kết cục là; nói cách
khác…
Thật ra, tính thành ngữ và tính ổn định cấu trúc của quán ngữ không
được như thành ngữ. Dáng vẻ của cụm từ tự do còn in đậm trong các cụm từ
cố định thuộc loại này. Chỉ có điều, do nội dung biểu thị của chúng được
người ta thường xuyên nhắc đến cho nên hình thức và cấu trúc của chúng
cũng tự nhiên ổn định dần lại và rồi người ta quen dùng như một đơn vị có
sẵn.
Có thể phân loại các quán ngữ của tiếng Việt như sau, dựa vào phạm
vi và tính chất phong cách của chúng.
Những quán ngữ hay dùng trong phong cách hội thoại, khẩu ngữ:
của đáng tội; khí vô phép; khổ một nỗi là; (nói) bỏ ngoài tai; nói dại đố
đi; còn mồ ma; nó chết (một) cái là; nói (…) bỏ quá cho; cắn rơm cắn cỏ;
chẳng nước non gì; đùng một cái; chẳng ra chó gì; nói trộm bóng vía…
Những quán ngữ hay dùng trong phong cách viết (khoa học, chính
luận…) hoặc diễn giảng như:
nói tóm lại; có thể nghĩ rằng; ngược lại; một mặt thì; mặt khác thì; có
nghĩa là; như trên đã nói; từ đó suy ra; có thể cho rằng; như sau; như dưới
dãy; như đã nêu trên; sự thực là; vấn đề là ở chỗ…
Khó lòng có thể phân tích, phân loại quán ngữ theo cơ chế cấu tạo
hoặc cấu trúc nội tại của chúng. Tuy nhiên, sự tồn tại của những đơn vị gọi là
quán ngữ không thể bỏ qua được; và chức năng của chúng có thể chứng
minh được không khó khăn gì. Tình trạng đa tạp và đầy biến động của các
quán ngữ cũng như những đặc trưng bản tính của chúng, khiến cho ta nếu
nghiêm ngặt thì phải nghĩ rằng: chúng đứng ở vị trí trung gian giữa cụm từ tự
do với cụm từ cố định chứ không hoàn toàn nghiêng hẳn về một bên nào,
mặc dù ở từng quán ngữ cụ thể, có thể nặng về bên này mà nhẹ về bên kia
một chút hay ngược lại.
3. Ngữ cố định định danh
3.a. Tên gọi này chúng ta tạm dùng (vì nó chưa thật chặt về nội dung)
để chỉ những đơn vị vốn ổn định về cấu trúc và ý nghĩa hơn các quán ngữ rất
nhiều, nhưng lại chưa có được ý nghĩa mang tính hình tượng như thành ngữ.
Chúng thực sự là các cụm từ cố định, nhưng được tạo dựng theo cách
gần như cách tạo những từ ghép mà người ta vẫn hay gọi là từ ghép chính
phụ. Chẳng hạn: quân sư quạt mo; anh hùng rơm; kỉ luật sắt; tuần trăng mật;
con gái rượu; giọng ông kễnh; tóc rễ tre; mắt ốc nhồi; má bánh đúc; mũi dọc
dừa…
3.b. Thực chất đó là những cụm từ cố định, định danh, gọi tên sự vật.
Trong mỗi cụm từ như vậy thường có một thành tố chính và một vài thành tố
phụ miêu tả sự vật được nêu ở thành tố chính. Nó miêu tả chủ yếu bằng con
đường so sánh nhưng không hề có từ so sánh. Thành tố chính thường bao
giờ cũng là thành tố gọi tên.
Con đường tạo dựng những cụm từ như: lông mày lá liễu; lông mày
sâu róm; mắt lả răm; mắt ốc nhồi; mắt lợn luộc; mắt bồ câu; mát Lươn… gần
như đồng hình với con đường tạo dựng các từ ghép: đen sì; đen sẫm; đen
trũi; đen láy; đen nhánh; đen xỉn…
Chính bởi vậy, ở đây có hai hướng chuyển đi ngược chiều nhau và
thâm nhập vào nhau. Một số thành ngữ so sánh bị khừ từ so sánh dễ được
nhập vào số những cụm từ thuộc kiểu này: ngang cành bứa; cay xé; dẻo kẹo;
đen thui; trẻ măng… Ngược lại, một số cụm từ vốn được tạo ra theo kiểu này,
nhưng vì tính thành ngữ, tính hình tượng đạt tới mức độ gần tương đương
các thành ngữ thực sự, lại rất có thể dễ được nhận vào hàng ngũ của các
thành ngữ. Ví dụ: tuần trăng mật; kỉ luật sát; con gái rượu; sách gối đầu
giường; hòn đá thử vàng; bạn nối khố; thẳng ruột ngựa; toạc móng heo…
3.c. Các ngữ cố định định danh thường tập trung với mật độ khá đậm ở
khu vực tên gọi các bộ phận cơ thể con người như: tóc rễ tre; lông mày lá
liễu; lông mày sâu róm; mắt lá răm; mắt bồ câu; mắt ốc nhồi: râu ngạnh trê;
má bánh đúc; mặt trái xoan; mũi dọc dừa: mồm cá ngáo; răng cải mả; chân
vòng kiềng; chân chữ bát; mật lưỡi cày; bụng cóc; mình trám…
Một số ít hơn là tên gọi của các sự vật khác hoặc tên gọi của một trạng
thái, thuộc tính. Chẳng hạn: giọng ông kênh; đá tai mèo; kỉ luật sắt; gót sắt;
con gái rượu; bạn áo ngắn; sách gối đầu giường; hòn đá thủ vàng: bạn nối
khố; cười cầu tài; tấm lòng vàng; bạn vàng; toạc móng heo; thẳng ruột
ngựa…
Rõ ràng là cơ chế cấu tạo những cụm từ trên đây không khác những
cụm từ làm tên gọi cho một sỗ sự vật hiện tượng như: than quả bàng; bánh
ca vát: máy bay chuồn chuồn; chuối tay bụt… Chỉ có điều, tính thành ngữ của
những cụm từ như thế thấp đến mức tận cùng mà thôi.
3.d. Cũng như tình trạng của quán ngữ, các cụm từ là ngữ cố tính định
danh có những biểu hiện không đồng đều nhau ở điểm này hoặc điểm khác.
Rõ ràng là, nhìn chung, chúng ổn định cả cấu trúc lẫn ngữ nghĩa. Nhưng tính
thành ngữ thì lại kém, thậm kém xa hoặc rất xa so với những thành ngữ chân
chính. Tuy nhiên, chúng cũng không phải là từ ghép, nếu xét về bậc được cấu
tạo. Chỉ có điều, cơ chế cấu tạo của chúng có phần giống với các - ghép
chính phụ thì chúng ta phải thừa nhận.
Ở những mức độ khác nhau, chúng hiện diện như là đơn vị đứng giữa
cụm từ cố định - thành ngữ với từ ghép.
4. Những hiện tượng trung gian
Việc phân loại các cụm từ cố định tiếng Việt như vừa trình bày trên đây
không phải là đã vạch ra những ranh giới tuyệt đối giữa các loại; và không
phải các đơn vị trong mỗi loại đều thể hiện những thuộc tính thuấn khiết của
loại. Chúng ta đã thấy là quán ngữ ít nhiều mang tính chất trung gian giữa
cụm từ cố định với cụm từ tự do; còn ngữ cố định định danh thỉ có tính trung
gian dữa cụm từ cố định với từ ghép.
Mặc dầu vậy, chúng vẫn là những cụm từ có tính cố định. Chỉ có điều
tính cố định đó cao hay thấp, nhiều hay ít mà thôi.
Có thể coi các cụm từ cố định tiếng Việt có vùng tâm và vùng biên; có
đơn vị điển hình và đơn vị không điển hình. Thành ngữ chắc chắn thuộc vùng
trung tâm.
Thế nhưng ngay ở khu vực thành ngữ cũng có những đơn vị trung gian
đtlợc cấu tạo theo lối thành ngữ nhưng tính tự do, kém ổn định vẫn còn rõ
nét.
Có những đơn vị đã đạt được tính thành ngữ khá cao nhưng tính bền
chắc, tính chỉnh thể về cấu trúc lại còn kém ổn định. Nghĩa là số thành tố cấu
tạo nên chúng có thể còn tăng hay giảm được một cách tùy nghi.
Rất nhiéu cụm từ cấu tạo theo kiểu thành ngữ so sánh là như thế: nhức
như búa bổ; đắt như vàng; gầy như gọng vó; buồn như cha chết; hôi như
chuột chù; bẩn như hủi; lôi thôi như ổ chó…
Ngược lại, có những đơn vị khác, tính ổn định về cấu trúc khá bảo đảm;
tức là không thể thêm bớt các thành tố cáu tạo một cách tùy nghi; nhưng tính
thành ngữ, tính nhất thể về nghĩa vẫn chưa cao. Nghĩa của cả cụm từ vẫn là
nghĩa được hiểu nhờ từng thành tố cộng lại. Ví dụ: bàn mưu tính kế; đi ra đi
vào; buôn gian bán lận; suy đi tính lại; nghĩ tới nghĩ lui; gìn vàng giữ ngọc;
trăng tủi hoa sầu; chân mây cuối trời; than thân trách phận; ăn thô nói tục; yêu
trẻ kính già…
Những đơn vị như thế đã, đang và chắc là sẽ còn được tạo lập trong
tiếng Việt. Đó là những sản phẩm được tạo ra trong đời sống hoạt động ngôn
ngữ. Trả lời cho câu hỏi: "chúng có trở thành thành ngữ hay không" thật là
khó. Hẳn rằng còn phải qua thời gian, qua thực tế sử dụng, qua rất nhiều tác
động của các nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ nữa… mới có thể kết luận
được.
Chương 14. NGHĨA CỦA TỪ
I. NGHĨA CỦA TỪ LÀ GÌ
Lưỡng phân ngôn ngữ, ta nhận ra hai mặt của nó: mặt biểu hiện (âm
thanh) và mặt được biểu hiện (nội dung). Nghĩa của từ thuộc về mặt thứ hai.
Ví dụ, từ CÂY trong tiếng Việt có vỏ ngữ âm như ta đọc lên, và từ này
có nội dung, có nghĩa của nó.
1. Khái niệm nghĩa (sense) của từ đã được nêu ra từ lâu và cũng đã có
nhiều cách hiểu, nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy vậy, việc nêu lại và bình
luận các quan niệm về nghĩa, chúng ta đành tạm gác sang một bên cho cách
trình bày ở đây đỡ cồng kềnh, phức tạp.
2. Để trả lời câu hỏi chính: nghĩa của từ là gì? trước hết ta phải trở lại
với bản chất tín hiệu của từ. Từ là tín hiệu; nó phải "nói lên", phải đại diện
cho, phải được người sử dụng quy chiếu về một cái gì đó.
2.a. Khi một người nghe hoặc nói một từ nào đó, mà anh ta quy chiếu,
gán nó vào đúng sự vật có tên gọi là từ đó như cả cộng đồng xã hội vẫn gọi,
đống thời ít nhiều anh ta cũng, biết được những đặc trưng bản chất của sự
vật đó, và anh ta sử dụng từ đó trong giao tiếp đúng với các mẹo luật mà
ngôn ngữ có từ đó cho phép, ta nói rằng anh ta đã hiểu nghĩa của từ đó.
Ví dụ một người Việt hoặc không phải là Việt, nói hoặc nghe một từ
như CÂY chẳng hạn; mà anh ta có thể:
- Quy chiếu, gắn được từ cày vào mọi cái cây bất kì trong thực tại đời
sống.
- Ít nhiều cũng biết được đại khái như: cây là loài thực vật mà phần
thân, lá đã phân biệt rõ; ví dụ như: cây mía, cây tre…
- Dùng từ CÂY trong giao tiếp, phát ngôn… đúng với quy tắc ngữ pháp
tiếng Việt.
Ta nói được rằng: anh ta hiểu nghĩa của từ CÂY trong tiếng Việt.
Cho tới nay, đa số các nhà nghiên cứu đều quan niệm nghĩa của từ là
những liên hệ. Tuy nhiên, đó không phải là những liên hệ lôgic tất yếu; mà là
những liên hệ phản ánh mang tính quy ước, được xây dựng bởi những cộng
đồng người bản ngữ.
Mỗi khi học nghĩa của một từ, chúng ta đều học bằng cách liên hội từ
với những cái mà từ đó chỉ ra (trước hết là sự vật, hiện tượng, hành động,
hoặc thuộc tính… mà từ đó làm tên gọi cho nó). Mặt khác, nghĩa của từ cũng
được học thông qua hoặc liên quan với vô vàn tình huống giao tiếp ngôn ngữ
mà từ đó được sử dụng.
Thuở nhỏ, ta thấy một cái cây bất kì chẳng hạn. Ta hỏi đó là cái gì; và
được trả lời đó là cái cây. Dẩn dần, nay với cây này; mai với cây khác, ta liên
hội được từ CÂY của tiếng Việt với chúng. Thế rồi bước tiếp theo nữa, ta
dùng được từ cậy trong các phát ngôn như trồng cây, chặt cây, tưới cây, cây
đổ, cây rau, cây hoa,… và tiến tới hiểu cây là loài thực vật, có thân, rễ, lá
hoặc hoa, quả. Vậy là ta đã hiểu được nghĩa của từ CÂY.
Đến đây, có thể phát biểu vắn tắt lại như sau: Nói chung nghĩa của từ là
những liên hệ được xác lập trong nhận thức chúng ta giữa từ với những cái
mà nó (từ) chỉ ra (những cái nó làm tín hiệu cho).
2.b. Câu hỏi tiếp theo là: nghĩa, của từ tốn tại ở đâu?
Ta đã thừa nhận và chứng minh bản chất tín hiệu của từ, rằng nó có
hai mặt; mặt hình thức vật chất âm thanh và mặt nội dung ý nghĩa; hai mặt
này gắn bó với nhau như hai mặt của một tờ giấy, nếu không có mặt này thì
cũng không có mặt kia. Vậy nghĩa của từ tồn tại trong từ; nói rộng ra là trong
hệ thống ngôn. Nó là cái phân nửa làm cho ngôn ngữ nói chung và từ nói nên
trở thành những thực thể vật chất - tinh thần.
Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc của con người.
Trong ý thức, trong tư duy của con người chỉ rõ những hoạt động nhận thức,
hoạt động tư duy… mà thôi. Điều này ngụ rằng: trong ý thức, trong bộ óc trí
tuệ của con người chỉ tồn tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là
nghĩa của từ.
Từ những điều trên đây, suy tiếp ra rằng những lời trình bày, giải thích
trong từ điển, cái mà ta vẫn quen gọi là nghĩa của từ trong từ điển, thực chất
là những lời trình bày tương đối đồng tình với sự hiểu biết của ta về nghĩa
của từ mà thôi.
3. Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tượng. Bởi thế, nghĩa của
từ cũng không phải chỉ có một thành phần, một kiểu loại. Khi nói về nghĩa của
từ, người ta thường phân biệt các thành phần nghĩa sau đây.
a - Nghĩa biểu vật (denotative meaning): Là liên hệ giữa từ với sự vật
(hoặc hiện tượng, thuộc tính, hành động…) mà nó chỉ ra. Bản thân sự vật,
hiện tượng, thuộc tính, hành động… đó, người ta gọi là biểu vật hay cái biểu
vật (denotat). Biểu vật có thể hiện thực hoặc phi hiện thực, hữu hình hay vô
hình, có bản chất vật chất hoặc phi vật chất. Ví dụ: đất, trời, mưa, nắng, nóng,
lạnh, ma, quỷ, thánh, thần, thiên đường, địa ngục…
b - Nghĩa biểu niệm (significative meaning):Là liên hệ giữa từ với ý
(hoặc ý nghĩa, ý niệm - signification - nếu chúng ta không cần phân biệt
nghiêm ngặt mấy tên gọi này). Cái ý đó người ta gọi là cái biểu niệm hoặc
biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của biểu vật vào trong ý thức của con
người).
c - Ngoài hai thành phần nghĩa trên đây, khi xác định nghĩa của từ,
người ta còn phân biệt hai thành phần nghĩa nữa. Đó là nghĩa ngữ dụng và
nghĩa cấu trúc.
Nghĩa ngữ dụng (pragmatical meaning) cũng còn được gọi là nghĩa
biểu thái, nghĩa hàm chỉ (connotative meaning) là mối liên nệ giữa từ với thái
độ chủ quan, cảm xúc của người nói.
Nghĩa cấu trúc (structural meaning) là mối quan hệ giữa từ với các từ
khác trong hệ thống từ vựng. Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên
hai trục: trục đối vị (paradigmatial axis) và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis).
Quan hệ trên trục đối vị cho ta xác định được giá trị của từ, khu biệt từ này
với từ khác còn quan hệ trên trục ngữ đoạn cho ta xác định được ngữ trị
(valence) - khả năng kết hợp - của từ.
Thật ra, những phân biệt như trên là cần thiết và hợp lí; nhưng không
phải các thành phần nghĩa đó hiện diện trong mỗi từ bao giờ cũng đồng đều
và rõ ràng như nhau. Vì thế, trong từ vựng - ngữ nghĩa học, nhiều khi người
ta chỉ nhác đến nghĩa ngữ dụng nghĩa cấu trúc; thậm chí cả nghĩa biểu vật
nữa, như những xác nhận về sự tồn tại của chúng hơn là phân tích, chứng
minh cho thật minh bạch.
4. Đối với từ vựng - ngữ nghĩa học, cái quan trọng nổi lên hàng đầu là
nghĩa biểu niệm. Cần phải hiểu mối liên hệ mà chúng ta nói tới trong quan
niệm về nghĩa của từ ở đây chính là mối liên hệ chỉ xuất, mối liên hệ phản
ánh; cho nên nghĩa biểu niệm cũng có thể hiểu là sự phản ánh sự vật - biểu
vật (đúng hơn, là phản ánh các thuộc tính, các đặc trưng của chúng) trong ý
thức con người, được tiến hành bằng từ.
Trọng tâm chú ý phân tích, miêu tả của từ vựng - ngữ nghĩa học là
nghĩa biểu niệm chứ không phải là các thành phần khác. (Chúng chỉ được lưu
ý trong những trường hợp cần thiết mà thôi). Vì vậy, ở đây khi không thật bắt
buộc phải xác định rành mạch về mặt thuật ngữ, thì chúng ta sẽ nói đến nghĩa
với nội dung được hiểu là nghĩa biểu niệm cho giản tiện.
5. Cần phân biệt nghĩa của từ với khái niệm. Nghĩa và khái niệm gắn bó
với nhau rất mật thiết, nhưng nói chung là chúng không trùng nhau.
Khái niệm là một kết quả của quá trình nhận thức, phản ánh những đặc
trưng chung nhất, khái quát nhất và bản chất nhất của sự vật, hiện tượng.
Người ta có được khái niệm chủ yếu là nhờ những khám phá, tìm tòi khoa
học. Nội dung của một khái niệm có thể rất rộng, rất sâu, tiệm cận tới chân lí
khoa học; và có thể được diễn đạt bằng hàng loạt những ý kiến nhận xét. Mặt
khác, rõ ràng là không phải khái niệm nào cũng được phản ánh bằng từ; nó
có thể được biểu hiện bằng hơn một từ. Ví dụ: nước cứng; tổ hợp quỹ đạo;
máy gặt đập liên hợp; công nghệ sinh học…
Nghĩa của từ cũng phản ánh những đặc trưng chung, khái quát của sự
vật, hiện tượng do con người nhận thức được trong đời sống thực tiễn tự
nhiên và xã hội. Tuy nhiên, nó có thể chưa phải là kết quả của nhận thức đã
tiệm cận tới chân lí khoa học. Vì thế, sự vật, hiện tượng nào mà càng ít được
nghiên cứu, khám phá thì nhận thức về nó được phản ánh trong nghĩa của từ
gọi tên nó càng xa với khái niệm khoa học.
Bên cạnh đó, ta thấy rằng không phải từ nào cũng phản ánh khái niệm
(các thán từ và các từ công cụ ngữ pháp chẳng hạn) và trong nghĩa của từ
còn có thể hàm chứa cả sự đánh giá về mặt này hay mặt khác, có thể chứa
cả cảm xúc và thái độ của con người…
Để tiện so sánh, chúng ta phân tích từ nước của tiếng Việt.. Khái niệm
khoa học về nước là: Hợp chất của ôxi và hyđro mà trong thành phần của mỗi
phân tử nước, có hai nguyên tử hyđro với một nguyên tử ôxi.
Nghĩa "nôm" của từ nước có thể được miêu tả dưới dạng từ điển ngắn
gọn là: chất lỏng không màu, không mùi và hầu như không vị, có sẵn trong hồ
ao, sông suối…
Miêu tả như thế thật ra là chưa đủ. Rất nhiều thứ, loại (biểu vật) được
người Việt quy về loại nước mà chỉ cần chúng bào đảm thuộc tính lỏng; còn
có nước nhiều hay ít; mùi vị thế nào; thậm chí có nước hay không… đều
không quan trong. Chẳng hạn: nước biển, nước mắm, nước xốt, nước dứa,
nước ép hoa quả.
Phở nước (đối lập với phở xào)
mã nước (đối lập với mỡ khổ)
nước gang (gang lỏng - ví dụ: đổ nước gang vào khuôn đúc)
nước dãi, nước bọt, nước mát, nước giải, nước ổi…
Phân tích như trên đây chứng tỏ rằng nghĩa và khái niệm không đồng
nhất. Đó là nói về các từ nói chung. Đối với nhiều thuật ngữ khoa học, sự
phân biệt giữa nghĩa và khái niệm không cần đặt ra nữa: chúng đã tiệm cận
đến giới hạn của nhau
II. CƠ CẤU NGHĨA CỦA TỪ
1. Một từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa, nhưng đó không phải là
những tổ chức lộn xộn.
Nếu là một từ nhiều nghĩa (đa nghĩa) thì các nghỉa đó của từ có quan
hệ với nhau, được sắp xếp theo những cơ cấu tổ chức nhất định.
Trong từng nghĩa của mỗi từ cũng vậy; chúng gồm những thành tố nhỏ
hơn, có thể phân tích ra được (dưới đây sẽ gọi là những nghĩa tố - seme) và
cũng được sắp xếp theo một tổ chức nào đó.
Như vậy xét cơ cấu nghĩa của từ là ta xác định xem từ đó có bao nhiêu
nghĩa, mỗi nghĩa có bao nhiêu thành tố nhỏ hơn; và tất cả chúng được sắp
xếp trong quan hệ với nhau như thế nào.
2. Mỗi một nghĩa thường gồm một số nghĩa tố được tổ chức lại.
Nghĩa tố được hiểu là một dấu hiệu lôgic ứng với một thuộc tính chung
của sự vật, hiện tượng (biểu vật) được đưa vào nghĩa biểu niệm…
Đó cũng chính là yếu tố ngữ nghĩa chung của các từ thuộc cùng một
nhóm từ hoặc riêng cho nghĩa của một từ đối lập với nghĩa của những từ
khác trong cùng một nhóm.
Ví dụ, một nghĩa của từ chân trong tiếng Việt được phân tích là: bộ
phận thân thể động vật - ở phía dưới cùng - để đỡ thân thể đứng yên hoặc
vận động dời chỗ.
Trong nghĩa này có ba dấu hiệu lôgic của sự vật ứng với ba thuộc tính
chung của nó, đã được đưa vào. Đó là ba nghĩa tố của một nghĩa trong từ
chân.
Ba nghĩa tố trên đây được phát hiện thông qua sự tập hợp và so sánh
với các từ khác: tay, đầu, vai, ngực, bụng, lưng…
Nghĩa tố bộ phận thân thể động vật chung cho mọi từ trong nhóm.
Hai nghĩa tố còn lại được phát hiện thông qua so sánh với các từ trong
nhóm để thấy những khác biệt trong dấu hiệu lôgic về vị trí, chức năng của sự
vật được gọi tên (biểu vật).
Ta có thể hình dung một tập hợp các nghĩa tố của nghĩa cũng tương tự
như một tập hợp các nét khu biệt của âm vị vậy. Chỉ có điều ở đây, các nghĩa
tố nằm trong tượng quan giả định lẫn nhau và thuyết minh cho nhau. Chúng
có quan hệ thứ tự tôn ti trong tổ chức nghĩa, ví dụ: Trong nghĩa của từ chân
vừa phân tích, ta có ba nghĩa tố gọi theo thứ tự là a, b, c.
Tuy nhiên, đó không phải là thứ tự thời gian, tuyến tính; mà là thứ tự từ
cái lớn đến cái nhỏ, từ cái cần yếu nhất đến cái ít cần yếu hơn… Điều này
được miêu tả lại trong từ điển như một "phổ" của những lời giải nghĩa vậy.
Việc phân tích nghĩa của từ cho đến những thành tố cuối cùng không
còn có thể phân tích tiếp tục được nữa; (tức là phân tích cho hết được các
nghĩa tố cần yếu) là một yêu cầu bắt buộc về mặt nguyên tắc. Thế nhưng,
trên thực tế, cho tới nay vẫn chưa có được một phương pháp tổng quát đủ
mạnh để cho phép xác định trong số các "dấu hiệu logic” cái nào được coi là
nghĩa tố, còn cái nào thì không. Bởi thế, khi phân tích nghĩa từ, có lúc chúng
ta buộc phải qó những biện luận riêng cho từng nhóm, thậm chí từng từ.
3. Ở điểm 1, chúng ta đã nói rằng một từ có thể đơn nghĩa hoặc đa
nghĩa. Tính đa nghĩa của ngôn ngữ ở cấp độ từ thể hiện qua từ đa nghĩa.
Quan hệ đa nghĩa là một trong những dạng quan trọng nhất thuộc các kiểu
quan hệ ngữ nghĩa trong từ.
3.a. Có thể định nghĩa về từ đa nghĩa như sau: Từ đa nghĩa là những
từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của một đối
tượng, hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại.
Ví dụ: Động từ che trong tiếng Việt có hai nghĩa. Động từ ăn có 12
nghĩa… (Từ điền tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội, 1988). Chúng là
các từ đa nghĩa.
Với tư cách là đơn vị định danh, từ đa nghĩa cho ta thấy rằng: từ có thể
di chuyển từ chỗ gọi tên cho đối tượng này sang gọi tên cho cả đối tượng
khác; từ chỗ có nghĩa này, có thể có thêm nghĩa khác.
Từ Đối tượng 1 - Nghĩa 1
Đối tượng 2 - Nghĩa 2
(…)
Đối tượng n - Nghĩa n
Sự "di chuyển" đó có nguyên nhân ở nhận thức của người bản ngữ và
tính chất tiết kiệm trong ngôn ngữ. Hai nhân tố này tác động và ảnh hưởng
lẫn nhau đã dẫn đến việc tạo lập từ đa nghĩa của từ vựng.
3.b. Các nghĩa của từ đa nghĩa được xây dựng và tổ chức theo những
cách thức, trật tự nhất định. Vì vậy, người ta cũng có thể phân loại chúng. Có
nhiều cách phân loại, nhưng thường gặp nhất là những lưỡng phân quan
trọng như sau:
b.1. Nghĩa gốc - nghĩa phái sinh
Lưỡng phân này dựa vào tiêu chí nguồn gốc của nghĩa. Nghĩa gốc
được hiểu là nghĩa đầu tiên hoặc nghĩa có trước, trên cơ sở nghĩa đó mà
người ta xây dựng nên nghĩa khác. Ví dụ chân:
1. Bộ phận thân thể động vật ở phía dưới cùng, để đỡ thân thể đứng
yên hoặc vận động rời chỗ.
2. Cương vị. phận sự của một người với tư cách là thành viên của một
tổ chức (có chân trong ban quản trị).
(…)
Nghĩa 1 của từ chân ở đây là nghĩa gốc. Từ nghĩa 1 người ta xây dựng
nên các nghĩa khác của từ này bằng những con đường, cách thức khác nhau.
Nghĩa gốc thường là nghĩa không giải thích được lí do; và có thể được
nhận ra một cách độc lập không cần thông qua nghĩa khác.
Nghĩa phái sinh là nghĩa được hình thành dựa trên cơ sở nghĩa gốc; và
vì vậy chúng thường là nghĩa có lí do; và được nhận ra qua nghĩa gốc của từ.
Nghĩa 2 của từ chân vừa nêu là một ví dụ về nghĩa phái sinh.
b.2. Nghĩa tự do - nghĩa hạn chế
Lưỡng phân này một mặt dựa vào mối liên hệ giữa từ (với tư cách là
tên gọi) với đối tượng; mặt khác, là khả năng bộc lộ của nghĩa trong những
hoàn cảnh khác nhau mà từ xuất hiện.
Nếu một nghĩa được bộc lộ trong mọi hoàn cảnh, không lệ thuộc vào
một hoàn cảnh bắt buộc nào; thì nghĩa đó được gọi là nghĩa tự do.
Xét từ SẮT trong tiếng Việt, nó có nghĩa:
Kim loại - rắn, cứng - màu xám sáng - tỉ khối 7,88; nóng chảy ở nhiệt độ
1535°C.
Nghĩa này là nghĩa tự do vì được bộc lộ trong mọi hoàn cảnh: giường
sắt; mua sắt; có công mài sắt có ngày nên kim…
Ngược lai, nếu một nghĩa chỉ được bộc lộ trong một (hoặc vài) hoàn
cảnh bắt buộc thì nghĩa đó được gọi là nghĩa hạn chế. Ví dụ: Ngoài nghĩa vừa
nêu, từ SẮT còn bộc lộ nghĩa: nghiêm ngặt, cứng rắn và buộc phải làm theo
trong hoàn cảnh hạn chế": kỉ luật sắt hoặc bàn tay sát.
Từ mùi với nghĩa "hơi ngửi thấy nói chung" và nghĩa "mùi thiu, ôi, khó
chịu”(thịt có mùi) cũng là trường hợp như vậy.
b.3. Nghĩa trực tiếp - nghĩa chuyển tiếp
Hai loại nghĩa này được phân biệt dựa vào mối quan hệ định danh giữa
từ với đối tượng.
Nếu một nghĩa trực tiếp phản ánh đối tượng, làm cho từ gọi tên sự vật
một cách trực tiếp, thì người ta gọi đó là nghĩa trực tiếp (cũng có khi gọi là
nghĩa đen).
Ví dụ: nghĩa thứ nhất, của từ chân và từ sắt như vừa nói ở trên, là
những nghĩa trực tiếp
Nếu một nghĩa gián tiếp phản ánh đối tượng, làm cho từ gọi tên sự vật
một cách gián tiếp (thường thông qua hình tượng hoặc nét đặc thù của nó),
thì người ta bảo nghĩa đó là nghĩa chuyển tiếp (hay còn gọi là nghĩa bóng).
Chẳng hạn, xét từ bụng trong tiếng Việt. Từ này có một nghĩa là "ý
nghĩ, tình cảm tâm lí, ý chí của con người". Nghĩa này là nghĩa chuyển tiếp
(nghĩa bóng). Người Việt thường nói: bụng bảo dạ; suy bụng ta ra bụng
người; con người tốt bụng;…
Trong khi đó, nghĩa trực tiếp của từ bụng phải là: "bộ phận cơ thể
người, động vật, trong có chứa ruột, dạ dày,..? (ví dụ, người ta vẫn nói: mổ
bụng moi gan; bụng mang dạ chửa; no bụng đói con mắt...).
b.4. Nghía thường trực - không thường trục
Lưỡng phân này dựa vào tiêu chí: nghĩa đang xét đã nằm trong cơ cấu
chung ổn định của nghĩa từ hay chưa.
Một nghĩa được coi là nghĩa thường trực, nếu nó đã đi vào cơ cấu
chung ổn định của nghĩa từ và được nhận thức một cách ổn định, như nhau
trong các hoàn cảnh khác nhau.
Ví dụ: Các nghĩa đưa ra xét của từ chăn, bụng, sắt,…đã nêu bên trên,
đều là nghĩa thường trực. Chúng đã nằm trong cơ cấu nghĩa của các từ đó
một cách rất ổn định, thường trực.
Ngược lại, nếu có một nghĩa bất chợt sinh ra tại một hoàn cảnh nào đó
trong quá trình sử dụng, sáng tạo ngôn ngữ, nó chưa hề đi vào cơ cấu ổn
định, vững chắc của nghĩa từ, thì nghĩa đó được gọi là nghĩa không thường
trực của từ. Loại nghĩa này cũng còn được gọi là nghĩa ngữ cảnh.
Ví dụ: Tên gọi áo trắng chỉ có nghĩa là "thầy thuốc” hoặc "nhân viên y
tế” nói chung trong những hoàn cảnh nói như:
Đây tôi sống những ngày nhân hậu nhất
Mỗi mai hồng áo trắng đến thăm tôi.
(Chế Lan Viên)
Trong khi đó, áo trắng trong hoàn cảnh nói sau đây lại không phải vậy:
Tôi về xứ Huế chiều mưa
Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu.
(Nguyễn Duy)
Những lưỡng phân trên đây chưa phải là toàn bộ sự phân loại nghĩa
của từ; nhưng đó là những lưỡng phân quan trọng. Chúng sẽ được vận dụng
như những tiêu chí cần thiết trong khi phân tích để nhận diện, chia tách các
nghĩa của từ đa nghĩa cho hợp lí.
3.c. Để xây dựng, phát triển thêm nghĩa của các từ, trong ngôn ngữ có
nhiều cách. Tuy nhiên, có hai cách quan trọng nhất thường gặp trong các
ngôn ngữ là: chuyẻn nghĩa ẩn dụ (metaphor) và chuyền nghĩa hoán dụ
(metonymy).
c.1. Ẩn dụ:
Ẩn dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên sự liên tưởng so
sánh những mặt, những thuộc tính… giống nhau giữa các đối tượng được gọi
tên.
Có thể diễn giải định nghĩa này như sau:
Giả sử ta có từ T là tên gọi cho đối tượng Đ1 (và lẽ đương nhiên, T có
nghĩa S1).
Khi cần gọi tên cho một đối tượng Đ2 nào đó, mà người ta thấy riữa Đ1
và Đ2 có những nét, những mặt nào đó giống nhau, người ta có thể dùng T
để gọi tên luôn cho cả Đ2. Lúc này, một nghĩa S2 tương ứng được xác lập
trong T.
Chúng ta nói rằng ở đây đã diễn ra một phép ẩn dụ.
Ví dụ: từ CÁNH trong tiếng Việt, có nhiều nghĩa. Khi định danh cho
cánh chim; cánh chuồn chuồn; cánh bướm… nó có nghĩa là: bộ phận dùng để
bay của chim, dơi, côn trùng; có hình tâm, rộng bản; tạo thành đôi đối xứng ở
hai bên thân và có thể khép vào, mở ra.
Trên cơ sở so sánh nhiều sự vật khác có hình dạng tương tự (hoặc
người Việt liên tưởng và cho là chúng tương tự nhau) người ta đã chuyển
CÁNH sang gọi tên cho những bộ phận giống hình cánh chim ở một số vật:
cánh máy bay, cánh quạt, cánh hoa; cánh chong chóng, cánh của, ngôi sao
năm cánh; kề vai sát cánh đấu tranh, cánh tay; cánh buồm; cánh rừng, cánh
đồng, cánh quăn… (những tên gọi sau này đã khác rất xa so với cánh chim).
c.2. Hoán dụ
Hoán dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên mối liên hệ lôgic
giữa các đối tượng được gọi tên.
Định nghĩa này có thể được thuyết minh lại như sau:
Giả sử ta có từ T là tên gọi của đối tượng Đ1 và từ này có nghĩa S1.
Khi cần gọi tên cho một đối tượng Đ2 mà giữa Đ2 với Đ1 có mối liên hệ
logic nào đó (như liên hệ giữa bộ phận với toàn thể; giữa nguyên liệu với sản
phẩm tạo thành chẳng hạn) thì người ta có thể dùng T để gọi tên luôn cho cả
Đ2. Lúc này từ T được xây dựng thêm, được cấp thêm cho một nghĩa S2.
Người ta bảo như thế là đã có một phép chuyển nghĩa hoán dụ.
Ví dụ: vụng vá vai (áo) tài vá nách (áo)
Ở đây, tiếng Việt đã lấy bộ phận thân thể để gọi tên bộ phận trang phục
tương ứng.
c.3. Cơ sở để thực hiện các phương thức chuyển nghĩa trong các ngôn
ngữ rất đa dạng. Mặc dù vậy, đây cũng chính là điểm gặp gỡ nhau nhiều nhất
giữa các ngôn ngữ (so sánh từ wing - cái cánh- trong tiếng Anh với từ cánh
trong tiếng,Việt hoặc từ kbal - cái đầu - trong tiếng Khmer với từ đầu trong
tiếng Việt… chẳng hạn).
Việc miêu tả đầy đủ và tỉ mỉ các cơ sở chuyển nghĩa ấy cần phải được
dành cho những khảo sát riêng.
III. PHÂN TÍCH NGHĨA CỦA TỪ
1. Phân tích, miêu tả cho được cấu trúc nghĩa của từ, là một trong
những nhiệm vụ và mục đích hàng đầu của việc nghiên cứu từ vựng ngữ
nghĩa.
Trong lĩnh vực này, người ta đã đề xướng nhiều phương pháp phân
tích nghĩa của từ, nhưng thường gặp và dễ dùng nhất là phương pháp sử
dụng ngữ cảnh.
2. Ngữ cảnh là gì
2.a. Khi dùng ngôn ngữ để giao tiếp, người ta nói ra những câu, những
phát ngôn chứ không phải là những từ rời rạc. Tại đó, các từ kết hợp với
nhau theo những quy tắc và chuẩn mực của ngôn ngữ. Cũng trong câu hoặc
phát ngôn cụ thể, người ta mới biết được rằng: tại trường hợp, hoàn cảnh cụ
thể này, từ có nghĩa gì (tức là nó bộc lộ nghĩa nào trong số các nghĩa của nó).
Ví dụ, khi ta nghe thấy chỉ một từ CHẮC trong tiếng Việt thôi thì không
thể biết được người nói muốn nói tới nghĩa nào của từ này. Thế nhưng từng
nghĩa một của từ CHẮC sẽ xuất hiện rất rõ ràng, nếu ta nghe thấy nó trong
các phát ngôn, những chuỗi từ đại loại như:
Lúa đã chắc hạt; Nhà xây rất chắc; Lời nói chắc như đinh đóng cột; Ông
này chắc đã có con lớn; Anh làm thế, dễ người ta không biết đấy chác…
Định nghĩa về ngữ cảnh được phát biểu như sau:
Ngữ cảnh của một từ là chuỗi từ kết hợp với hoặc bao xung quanh nó,
dù để làm cho nó được cụ thể hóa hoàn toàn xác định về nghĩa.
(Định nghĩa này cho thấy rằng ngữ cảnh có thể tối thiểu là một từ, tối đa
là một chuỗi lớn hơn, có khả năng ứng với một câu, một phát ngôn…)
2.b. Sở dĩ từ bộc lộ một nghĩa xác định nào đó trong ngữ cảnh chứa nó
là vì trong mỗi ngữ cảnh, từ thể hiện khả năng kết hợp từ vựng và khả năng
kết hợp ngữ pháp của âm.
Khả năng kết hợp ngữ pháp của từ là khả năng nó có thể đứng vào một
vị trí nhất định trong những cấu trúc nhất định nào đó. Nói khác đi, đó là khả
năng từ có thể tham gia vào những cấu trúc ngữ pháp nào.
Ví dụ, trong tiếng Việt, động từ có khả năng kết hợp với các từ: đã,
đang, sẽ, sắp, lại, vừa… ở đằng trước; và: xong, rồi, mãi… ở đằng sau (ví dụ:
đang đi, làm mãi…).
Nếu từ thuộc lớp ngữ pháp nào, thuộc từ loại nào… thì sẽ được quy
định cho những khả năng tương ứng, những vị trí tương ứng trong các mô
hình cấu trúc ngữ pháp.
Ngược lại, khả năng kết hợp từ vựng của từ lại là khả năng kết hợp
giữa một nghĩa của từ này với một nghĩa của từ khác, sao cho tổ hợp được
tạo thành phải phản ánh đúng với thực tại, phù hợp với lôgic và thói quen sử
dụng ngôn ngữ của người bản ngữ.
Ví dụ: Người Việt vẫn nói: ăn cam, học bài; nhắm mắt… và cũng nói:
bây giờ đang mùa thu; trông vẫn con gái như ai; nhà này cũng năm tầng…
mà không thể nói: ăn bài; học cam; nhắm miệng; bây giờ đang nhà…
Có những từ có khả năng kết hợp từ vựng rất rộng, nhưng có những từ
thì khả năng đó lại hẹp hoặc vô cùng hẹp. Chẳng hạn các động từ: nhắm,
nháy, nghén, kiễng, phưỡn, mấp máy… có khả năng kết hợp từ vựng rất hẹp.
Mỗi động từ đó chỉ kết hợp được với một hoặc vài danh từ khác mà thôi.
Có thể diễn giải khả năng kết hợp từ vựng của từ như sau
- Khi có hai từ A và B kết hợp với nhau chẳng hạn, thì không phải lúc
đó tất cả các nghĩa của A đều hiện lên và kết hợp với tất cả các nghĩa của B.
- Nếu ta hình dung mỗi từ có một "phổ” nghĩa:
A = a, b, c…
B = X, y, z…
thì sự kết hợp AB về mặt từ vựng có thể là kết hợp nghĩa ax, by bz, x, ay,
az… tùy trường hợp cụ thể mà AB phản ánh.
Ví dụ: Xét kết hợp che dấu trong câu: Trời mưa một mảnh áo bông che
đầu; ta thấy:
Từ che có 2 nghĩa:
a) (…)
b) Ngăn cho khỏi bị một tác động nào đó từ bên ngoài.
Từ đầu có 4 nghĩa:
x) Bộ phận thân thể người, động vật nằm ở vị trí trên cùng hoặc trước
nhất.
y/(…)
z(…)
f(…)
Khả năng kết hợp từ vựng của che với đầu trong trường hợp - này là
kết hợp của nghĩa b với nghĩa X.
Những phân tích như vừa nêu trên chứng tỏ rằng: khả năng kết hợp từ
vựng của các từ quy định và cho phép chúng có kết hợp với nhau được hay
không. Ngược lại thông qua các kết hợp cụ thể từ này với các từ khác, ta có
thể phát hiện dần từng nghĩa riêng của từ, tiến tới xác định được cả một
"phổ", cả một cơ cấu của nghĩa từ. Điều này cũng tương tự như hình thái học
phát hiện tất cả các từ hình của từ trong hoạt động lời nói để rồi quy chúng là
cái gọi là từ vị vậy.
3. Cách dùng phương pháp phân tích theo ngữ cảnh
Khi áp dụng phương pháp phân tích nghĩa qua ngữ cảnh cho từ tiếng
Việt, chúng ta phải làm những việc cụ thể như sau (Tất nhiên đây mới chỉ là
cái cơ bản chứ chưa phải là những thao tác chi tiết);
a) Tập hợp ngữ cảnh: Đây là bước đầu tiên, bắt buộc phải thực hiện vì
đó là tư liệu làm việc. Trước hết phải xác định được các cảnh (có chứa từ mà
ta cần phân tích) trong các loại văn bản chánh văn thuộc các loại hình phong
cách chức năng khác nhau, sau đó trích các ngữ cảnh đó ra và tập hợp lại.
b) Phân loại ngữ cảnh: khi đã thu được số lượng ngữ cảnh đủ hiểu,
đáng tin cậy, phản ánh đủ hết các nghĩa của từ, chúng ta phân loại. Những
ngữ cảnh nào cùng làm hiện thực hóa một nghĩa của từ (tức là trong những
ngữ cảnh đó, từ xuất hiện với cùng một nghĩa) thì được xếp vào một nhóm
gọi là nhóm ngữ cảnh cùng loại.
Nếu việc phân loại ngữ cảnh làm càng chuẩn xác thì sẽ càng tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tách nghĩa của từ đa nghĩa; bởi vì từ càng đa nghĩa thì
càng phức tạp, càng khó xử lí.
Xét các ngữ cảnh chứa từ SAY như sau đây làm ví dụ.
1. Má hồng không thuốc mà say.
2. Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười.
3. Say thuốc lào,
4. Say xe.
5. Say sóng.
6. Da anh đen cho má em hồng,
Cho duyên em thắm cho lòng anh say.
7. Các cụ ông say thuốc.
8. Các cụ bà say trầu.
9. Còn con trai con gái, chỉ nhìn mà say nhau.
Các ngữ cảnh trên đây được phân thành hai nhóm.
Nhóm 1 gồm ngữ cảnh 1, 6, 9.
Nhóm 2 gồm ngữ cảnh 2, 3, 4, 5, 7, 8.
c) Phân tích nghĩa
Đối với từ đơn nghĩa, nhiệm vụ ở bước này là so sánh với các từ khác
cùng nhóm (tương đồng, tương cận hoặc tương phản với nó) để phát hiện
các nghĩa tố cần yếu trong cấu trúc nghĩa của từ.
Riêng từ đa nghĩa, vấn đề phức tạp hơn. Cùng với việc so sánh, phát
hiện các nghĩa tố cần yếu của từng nghĩa, thì việc tách ra bao nhiêu nghĩa
trong toàn bộ cơ cấu nghĩa từ phải được tiến hành trước một bước. Ta cẩn
phải làm những bước sau đây:
1. Xác định nghĩa gốc của từ (trong thế tương quan lưỡng phân nghĩa
gốc - nghĩa phái sinh). Nghĩa gốc của từ có thể là một nghĩa từ nguyên;
nhưng cũng có thể chỉ là một nghĩa phái sinh rồi phái sinh tiếp tục ra nghĩa
khác, ví dụ từ BẠC có ba nghĩa:
a/ Mỏng manh, ít ỏi, không trọn vẹn mệnh bạc
b/ ít ỏi, sơ sài (trái với hậu) lễ bạc lòng thành
c/ Không nhớ ơn nghĩa không giữ được tình nghĩa trọn vẹn trước sau
như một: ăn ở bạc với bố mẹ.
Nghĩa a. của tính từ bạc là nghĩa từ nguyên, vốn từ gốc Hán.
Nghĩa b. và c. của nó đều được phái sinh từ nghĩa a.
Thế nhưng trong tiếng Việt hiện đại, nghĩa c. mới là nghĩa phổ biến
nhất. Dựa vào nghĩa gốc, ta phát hiện các nghĩa phái sinh và các quy tác
chuyển nghĩa của chúng.
2. Xác định nghĩa không thường trực (nghĩa ngữ cảnh) nếu có, để loại
trừ khỏi phạm vi mà chúng ta đang quan tâm. Như vậy chỉ những nghĩa
thường trực mới được đưa vào phân tích xử lí.
3. Ngay trong khi phân loại ngữ cảnh, thực chất là đã bao hàm việc
tách nghĩa từ trong đó rồi. Vì vậy, nếu phân loại ngữ cảnh mà chuẩn xác thì
số nhóm ngữ cảnh cùng loại nói chung là ứng với số nghĩa khác nhau của từ.
IV. NGHĨA CỦA TỪ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÔN NGỮ
Ở trên, chúng ta đã tạm thời cô lập hóa hai bình diện: ngôn ngữ và lời
nói, để xem xét nghĩa của từ trong ngôn ngữ như một hệ thống tĩnh. Còn một
vấn đề nữa là trong hoạt động ngôn ngữ thì về phương diện nghĩa, từ sẽ như
thế nào?
Tuy ngôn ngữ và lời nói không tách biệt nhau, nhưng về nguyên tắc
nghiên cứu, nhiều khi sự cô lập hóa tạm thời như vậy vẫn là cần thiết và hữu
ích.
1. Khi từ đi vào hoạt động ngôn ngữ, nghĩa của nó được hiện thực hóa,
cụ thể hóa và được xác định. Lúc đó các thành phần nghĩa trong cơ cấu
nghĩa của từ sẽ giảm tính chất trừu tượng và khái quát đến mức tối thiểu để
đạt tới tính xác định, tính cụ thể ở mức tối đa.
Ví dụ, từ CHÂN trong tiếng Việt, với tư cách là đơn vị của ngôn ngữ có
6 nghĩa khác nhau (theo Từ điển tiếng Việt. Hà Nội, 1988). Cơ cấu đó đã
được xây dựng nên một cách khái quát, và khi nhận thức từ này dưới dạng
một từ của ngôn ngữ, của từ điển, thì người ta hướng đến no như một cái
tổng thể chung. Chỉ khi nào đi vào những phát ngôn cụ thể như:
- Mong cho chân cứng đá mềm
- Chân đi chữ bát, mắt thì hướng thiên...
thì một trong 6 nghĩa của từ này mới được bộc lộ, được cụ thể hóa và được
xác định. Chính vì không bị ràng buộc cố định vào một hoặc một phạm vi sự
vật nào đó nên các đơn vị từ ngữ mới có được khả năng hoạt động rộng rãi
và trở nên có tính khái quát cao; để rồi khi đi vào hoạt động trong văn bản
mới trở thành cụ thể và xác định.
2. Mặt khác, cũng trong hoạt động ngôn ngữ, đồng thời với sự giảm
thiểu tính khái quát thì từ lại có thể được gia tăng những sắc thái mới, nội
dung mới do chính sự vật mà nó biểu thị đem lại. Chẳng hạn, xét các từ máu,
lửa, rũ, bùn trong câu:
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
(Nguyễn Đình Thi)
Ở đây, các từ nêu trên không chỉ đơn thuần mang các nội dung ngữ
nghĩa vốn có của chúng nữa. Chúng đã mang những sác thái mới, sắc thái bổ
sung mà chỉ trong những bối cảnh sử dụng như ở diễn từ (discourse) này mới
có được. Các biểu vật máu, lửa, bùn… không phải chi là máu, lửa và bùn như
trong từ điển chỉ ra, giải thích nữa.
Cái gọi là các nghĩa ngữ cảnh của từ đã được xây dựng và nảy sinh
trong những điều kiện như vậy; và cái gọi là các phép ẩn dụ, hoán dụ tu từ
học cùng được thực hiện dựa trên cơ sở đó. Ví dụ:
- Ông đã ngủ một giấc 30 năm, rồi dến khi đất nước hoàn toàn giải
phóng ông mới bừng tỉnh.
Trong giao tiếp, nhiều khi nghĩa ngữ cảnh, nghĩa lâm thời, nghĩa được
hiểu ngầm, hiểu lại… nhờ các thủ pháp tu từ, mới chính là cái quan trọng
hàng đầu; nhất là trong khi xây dựng, tiếp nhận và phân tích các diễn từ, các
văn bản nghệ thuật.
Ví dụ 1. Số từ 100 trong câu ca dao:
Yêu nhau vạn sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
không còn là số đếm đúng 100 nữa. Nó đã mang nghĩa nhiều và chỉ được
nhận thức với ý nghía đó mà thôi.
Ví dụ 2. Các từ: ngày mai, nhen, lửa, tia, hồng trong đoạn văn sau đây
cũng vậy. Chúng không còn chỉ biểu thị nghĩa trực tiếp như trong từ điển nữa.
Đó chỉ là các nghĩa cơ sở, làm nền tảng cho người ta nhận thức các nghĩa
chuyển tiếp xa hơn:
Tôi muốn nói với các em một điều: các em ngày mai lớn lên, ai chàng
có một sự nghiệp? Và trong số các em sao lại chẳng có những anh hùng? Khi
ấy, hãy nhìn lại mà xem; trong sự nghiệp mà chúng ta đã làm, đừng bao giờ
nên quên một tia lửa hồng mà người thầy giáo thân yêu của chúng ta đã nhen
lên trong lòng chúng ta ngay từ những ngày thơ ấu.
(Xuân Trinh)
3. Các từ kết hợp với nhau theo quy tác ngữ pháp và ngữ nghĩa, bộc lộ
khả năng kết hợp từ vựng và kết hợp ngữ pháp của mình, nhưng hai loại quy
tắc này không phải bao giờ cũng song hành với nhau.
a - Có những câu hoàn toàn đúng về mặt ngữ pháp, nhưng lại không
chấp nhận được về mặt ngữ nghĩa hoặc lôgic (trong điều kiện thông thường).
Ví dụ:
- Những tư tưởng xanh lục không màu đang ngủ một cách giận dữ. (N.
Chomsky)
- Thóc giống cắn chuột trong bồ,
Hàng trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.
(Ca dao)
b - Ngược lại, có những câu lại chứa những kết hợp từ được chấp
nhận, được hiểu về mặt ngữ nghĩa, nhưng rõ ràng là có cái gì đó bất thường
về ngữ pháp, ở đây, từ đã có những biến động, thậm chỉ biến động rất quan
trọng về bản chất từ vựng ngữ nghĩa cũng như bản chất ngữ pháp của mình.
Hiện tượng vẫn quen gọi là lâm thời chuyển từ loại, cũng như việc sử dụng từ
vốn thuộc phạm trù này trong ý nghĩa chức năng của từ thuộc phạm trù
khác… là những ví dụ chứng minh cho tính linh động như thế.
Chẳng hạn:
- Tôi thấy chúng tôi thay đổi. Tiếng nói khác đi. Mặt hơi trứng cá. (Nam
Cao)
- Tôi ra con xe. Tôi nhảy con má sang bên này. Tôi vào tướng thì bên
kia hết chiếu.
c - Khi kết hợp với nhau, các từ chẳng những phải tuân theo quy tác
ngữ pháp mà còn phải tuân theo quy tác ngữ nghĩa. Chúng phải tương hợp
với nhau về nghĩa.
Người ta coi hai từ A và B là tương hợp với nhau vế nghĩa khi A đòi hỏi
ở B một nghĩa tố s thì B không được chứa và cho xuất hiện nghĩa tố đối lập -
s; và ngược lại.
Vậy một kết hợp từ sẽ được coi là đúng hay sai tùy theo nó có thỏa
mãn điều kiện nêu trên hay không, ví dụ:
- Một con chó ốm. Câu đúng, vì:
chó: động vật…
ốm: trạng thái… động vật
- Một con chó chết đang thở gấp. Câu sai vì:
chó: động vật…
chết: mất khả năng trao đổi chất
thở: đang hoạt động trao đổi chất.
Vậy chứng tỏ rằng khi hai từ A và B kết hợp với nhau thì chúng phải
cùng chứa một nghĩa tố giống nhau..
Tuy nhiên, thực tế vẫn có những kết hợp bất thường mà lại chấp nhặn
được và còn được coi là hay; bởi đó là những câu, những kết hợp đòi hỏi
phải có sự hiểu lại; hoặc chúng được tạo dựng nhờ các thủ pháp tu từ như:
nhân hóa, vật hóa hoặc cố tình vi phạm nguyên tác tương hợp về nghĩa để
gây hiệu quả tu từ.
Ví dụ 1. Thầy lí vội sủa lên mấy tiếng. Anh chồng bèn lấy thước phang
cho một trận. (Truyện cười dân gian)
Từ sủa chi kết hợp với chó; nhưng ở đây. Thầy lí đã được vật hóa; và
câu nêu trên là câu cháp nhận được.
Ví dụ 2: Trong các câu sau đây, những thuộc tính của người đã được
gán cho chó và cào cào theo lối nhân hóa để trong kết hợp từ, sự tương hợp
về nghĩa vẫn được bảo đảm.
- Nhưng kẻ lên tiếng trước nhất là con Mực (…) Nó đứng lặng vẫy đuôi,
đầu cúi xuống, hai mắt nhèm ươn ướt nhìn dốt như tủi phận. (Nam Cao)
- Những chị cào cào trong làng ra, mĩ miều áo đỏ áo xanh mớ ba mớ
bảy, từng bước chân chầm chậm, khoan thai, khuôn mặt trái xoan như e thẹn,
như làm dáng, như ngượng ngùng. (Tô Hoài)
Ví dụ 3. Xét các câu sau:
Đời y sẽ mốc lên, sẽ gỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra ở một xó nhà quê (…) Rồi
y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống! (…) Chết là thường. Chết
ngay trong lúc Sống mới thật là nhục nhã. (Nam Cao)
Ở đây, để hiểu được người nói (tác giả) muốn nói gì, cần có sự "hiểu
lại” biểu vật và biểu niệm của hai từ sống và chết. Chúng đã có sự xê dịch.
Cần phải hiểu sống trong kết hợp chết mù chưa sống có nghĩa là sống mà
như chưa sống hoặc không phải là sống; chết trong kết hợp chết ngay trong
lúc sống có nghĩa là chưa chết mà như đã chết rồi.
Biểu niệm trong các từ đó, ở trường hợp cụ thể này là quan niệm về ý
nghĩa của cái chết và cái sống trong cuộc đời con người chứ không còn là
biểu niệm hay biểu vật thông thường vốn có của chúng nữa. Chính tác giả
Nam Cao đã trình bày: Làm để có ăn, ăn để sống, sống để đợi chết… cả cuộc
đời chỉ thu gọn vào bằng ấy việc thôi ư? (…) Sống là để làm một cái gì đẹp
hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát
triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình.
Phải gom góp sức lực của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết
đi phải để lại một chút gì cho nhân loại. Có thú vị gì là cái lối sống co quắp
vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc
kiếm thức ăn đổ vào cái dạ dày.
(Hoàng Phê, Ngôn ngữ, số 3/4/1981).
Ví dụ 4. Những câu như sau đây đã được tạo dựng bằng sự vi phạm
nguyên tắc tương hợp nghĩa để gây hiệu quả tu từ:
Nhiều anh con trai làng thấy cô có sắc lại có vốn, muốn hỏi cô làm vợ
để được cưới cả cô lẫn cái vốn của cô. (Nam Cao)
Ở đây từ cưới có nghĩa tố "động vật" đòi hỏi bổ ngữ của nó phải đáp
ứng nghĩa tố này. Thế nhưng từ vốn lại bộc lộ nghĩa tố "bất động vật".
Nguyên tác tương hợp nghĩa đã được vi phạm một cách cố ý để gây hiệu quả
tu từ là sự mỉa mai.
Như đã nói, khi đến với ngữ nghĩa là chúng ta bước sang một phạm vi
dường như không bờ bến của những ý kiến và những vấn đề. Những điều
trình bày trên đây hoàn toàn không phải là đã đủ cho nó, dù mới chỉ nói về
nghĩa của từ, chưa kể đến nghĩa của câu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của từ
vựng ngữ nghĩa, việc làm quen với những vấn đề như vậy, vẫn là cần thiết để
chuẩn bị cho việc tiếp xúc với những giáo trình về ngữ nghĩa sâu hơn sau
này.
Chương 15. QUAN HỆ ĐỒNG ÂM, ĐỒNG NGHĨA VÀ TRÁI NGHĨA TRONG TỪ VỰNG
Ba quan hệ: đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa trong từ vựng thể hiện
ở các từ đồng âm, từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa. Đó cũng chính là một số
kiểu tổ chức của từ vựng.
I. TỪ ĐỒNG ÂM
1. Trước hết có thể nêu định nghĩa sau đây:
Từ đồng âm là những từ trùng nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác
nhau về nghĩa.
Ví dụ: Trong tiếng Anh có 3 từ (viết là to, too, two; đọc là /tu/) làm thành
một nhóm từ đồng âm.
Tiếng Việt cũng có những nhóm đồng âm như:
đường (đường tàu Thống nhát); đường, (mua một cân đường)
sao (ông sao trên trời); sao (sao anh lại làm như thế); sao (đi sao giấy
khai sinh); sao (sao thuốc nam).
2. Hiện tượng đồng âm nói chung và từ đồng âm nói riêng, thường xảy
ra ở những đơn vị có kích thước vật chất, không lớn; tức là có thành phần
ngữ âm không phức tạp. Vì vậy ta chỉ có đồng âm giữa từ với từ là chủ yếu;
và đấy là nét chủ đạo; còn đồng âm giữa từ với cụm từ hoặc cụm từ với cụm
từ thì rất hiếm hoi.
Chẳng hạn những loại đồng âm như: the suns ravs meet li the sons
raise meat; hoặc: jack in the box II jack-in-the-box trong tiếng Anh là rất ít gặp.
Mỗi hiện tượng đồng âm ở những cụm từ như vậy chỉ lập thành được
từng cặp mà thôi. Trong khi đó các từ trong một nhóm từ đồng âm có thể là
hai, ba hoặc dăm bảy từ - thậm chí nhiều hơn nữa.
Hiện tượng từ đồng âm có mặt trong ngôn ngữ là một tất yếu vị số
lượng âm thanh mà con người phát ra được và dùng làm vỏ ngữ âm cho các
từ, dù có nhiều đến mấy cũng chỉ có giới hạn của nó.
3. Từ đồng âm trong tiếng Việt, do đặc trưng loại hình đơn lập của tiếng
Việt, quy định, có những đặc điểm riêng.
a) Trước hết, vì tiếng Việt không biến hình nên những từ nào đồng âm
với nhau thì luôn luôn đồng âm trong tất cả mọi bối cảnh được sử dụng. Đặc
điểm này rất khác so với các ngôn ngữ biến hình Ấn - Âu.
Một từ trong các ngôn ngữ biến hình có thể tham gia vào nhóm đồng
âm nào đó ở dạng thức này mà lại không đồng âm ở dạng thức khác. Có
nghĩa là chúng có thể đồng âm với nhau ở một hoặc vài dạng thức chứ không
nhất thiết đồng âm ở tất cả mọi dạng thức. Ví dụ, trong tiếng Anh:
- Động từ (to) meet nguyên dạng, đồng âm với danh từ meat; nhưng
dạng thức quá khứ của nó (met) thì lại không. Các từ: saw (tục ngữ, cách
ngôn) - saw (cái cưa) - sore (đau đớn) đồng âm với nhau và đồng âm với saw
(dạng quá khứ của động từ (to) see.
b) Vì tiếng Việt không có sự đối lập gốc từ vối phụ tố; các từ được tạo
nên chủ yếu bằng sự kết hợp tiếng với tiếng, cho nên đống âm giữa từ vối từ
là kết quả của đổng âm tiếng với tiếng. Điều này đã được triệt để khai thác khi
người Việt sử dụng đồng âm trong nghệ thuật chơi chữ của mình; đến mức,
chẳng hạn tên riêng Hitle đã được tách ra hai tiếng và được liên hội với hai
động từ hít và le. Người ta thách đối: Hit - Le; và được đối lại cũng bằng một
tên riêng của người Việt bằng con đường liên hội tương tự: Phùng - Há.
4. Các từ đồng âm có thể được phân chia thành các kiểu loại. Tuy
nhiên, có những đặc điểm riêng của từng ngôn ngữ cụ thể bức tranh phân
loại có thể khác nhau.
4.1. Chẳng hạn, đối với các từ đồng âm tiếng Anh, người chia ra:
a) Những từ đồng âm, đồng từ:
coper (anh lái ngựa) - coper (quán rượu nổi)
jet (màu đen hạt huyên) -jet (tia nước, tia máu)
b) Những từ đồng âm, không đồng từ:
son (con trai) - sun (mặt trời)
meat (thịt) - meet (gặp)
Loại đồng âm này là phổ biến nhất.
c) Những từ đồng tự không đồng âm:
tear: xé, bứt mạnh
tear: nước mắt
4.2. Các từ đồng âm tiếng Nga lại có thể được phân loại theo kiểu
khác, thành đồng âm hoàn toàn và đồng âm không hoàn toàn (đồng âm bộ
phận).
a) Từ đồng âm hoàn toàn là những từ trùng nhau vè ngữ âm trong tất
cả mọi dạng thức ngữ pháp của chúng, ví dụ:
‘...’: cái cung
‘...’: củ hành
‘...’: sự trấn tĩnh
‘...’: đoạn trích dẫn
b) Đồng âm bộ phận là những từ chỉ đồng âm với nhau ở một hoặc vài
ba dạng thức ngữ pháp nào đó. Ví dụ:
‘...’: rừng tai ga
‘...’: nguyên tổ hóa học "Bo"
‘...’: mũi khoan kim loại có răng
Ba danh từ này chỉ đồng âm với nhau khi ‘...’ [1] dạng thức số ít cách
một; bởi vì ‘...’ [2] và ‘...’ [3] không có dạng thức số nhiều.
4.3. Trong tiếng Việt tình hình phân loại từ đồng âm có khác. Có thể
nêu một trong những cách phân loại như sau:
a) Đồng âm từ với từ: Ở đây tất cả các đơn vị tham gia vào nhóm đồng
âm đều thuộc cấp độ từ. Loại này lại được chia thành hai loại nhỏ hơn.
a.1. Đồng âm từ vựng: Tất cả các từ đều thuộc cùng một từ loại. Ví dụ:
+ đường (đắp đường) - đường (đường phèn)
+ đường kính (một loại đường để ăn) – đường kính (dây cung lớn nhất
đường tròn)
+ cất (cất vó) – cất (cất hàng)
- cất (cất tiền vào tủ) – cất (cất rượu)…
a.2. Đồng âm từ vựng - ngữ pháp: Các từ trong nhóm đồng âm với
nhau khác nhau về từ loại. Ví dụ:
+ chỉ (cuộn chỉ) - chỉ (chỉ tay năm ngón)
- chỉ (chỉ còn có dăm đồng).
+ câu (nói vài câu) - câu (rau câu)
- câu (chim câu) - câu (câu cá)…
Loại từ đồng âm này chiếm số đông trong tiếng Việt.
b) Đồng âm từ với tiếng. Ở đây các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm
khác nhau về cấp độ; và kích thước ngữ âm của chúng đều không vượt quá
một tiếng.
Ví dụ:
- Con trai Văn Cốc lên dốc bản cò, đứng lăm le cười khanh khách.
Con gái Bát Chàng bán hàng thịt ếch ngồi châu chấu nói ương ương.
- Nhà cửa để lầm than con thơ trẻ lấy ai rèn cặp
Cơ đồ đành bỏ bễ vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi
5. Đại bộ phận các từ đồng âm không được giải thích về nguồn gốc;
nhưng có một số từ, nhóm từ người ta có thể phát hiện ra con đường đã hình
thành nên chúng.
5.1. Những nhóm đồng âm không tìm được lí do hình thành chủ yếu
gồm các từ bản ngữ. Ví dụ: bay (D) - bay (Đ); rắn (T) - rắn (D); đá (D) - đá
(Đ); sắc (T) - sắc (Đ)… của tiếng Việt, là những nhóm đồng âm như vậy.
5.2. Số còn lại, con đường hình thành nên chúng có thể là:
a) Do tiếp thu, vay mượn các từ của ngôn ngữ khác. Từ được vay
mượn có thể đồng âm với từ của bản ngữ và chúng tạo nên -nhóm đồng âm;
hoặc cũng có khi hai, ba từ cùng được vay mượn - những ngôn ngữ khác
nhau và đồng âm với nhau, ví dụ:
Trong tiếng Việt:
sút (giảm, sút - nguồn gốc Việt)
sút (sút bóng - nguồn gốc Anh)
Trong tiếng Nga:
‘...’ (tiêu điểm – nguồn gốc La tinh)
‘...’ (ảo thuật – nguồn gốc Đức).
b) Do cấu tạo các từ phái sinh bằng các phụ tố.
Ví dụ, trong tiếng nga, từ động từ ‘...’ (xây dựng) cấu tạo r. in từ ‘...’
(thuộc về xây dựng). Từ danh từ ‘...’ (hàng ngũ), cấu tạo nên từ ‘...’ (thuộc về
hàng ngũ; có hàng lối), như vậy ta được hai tính từ ‘...’ đồng âm với nhau.
c) Do sự tách biệt nghĩa của từ đa nghĩa, một nghĩa nào đó bứt ra khỏi
cơ cấu nghĩa chung và hình thành một từ mới đồng âm với chính từ ban đầu.
Ở đây, thực ra đã có sự đứt đoạn trong chuỗi liên hệ về nghĩa để dẫn đến
những cặp từ đồng âm. Ví dụ:
Trong tiếng Việt:
quà (món ăn ngoài bữa chính)
quà (vật tặng cho người khác)
Trong tiếng Nga:
‘...’: (sự đập vỡ, phá vỡ)
‘...’: (mảnh vỡ)
‘...’: (người tìm kiếm)
‘...’: (bộ chọn, bộ tìm).
d) Do sự chuyển đổi từ loại, ví dụ như trong tiếng Nga: ‘...’, ‘...’ là những
danh từ cách công cụ chuyển sang làm trạng từ ‘...’ và ‘...’.
5.3. Đối với tiếng Việt, ngoài những nhóm đồng âm không xác định
được căn nguyên, những nhóm hình thành do vay mượn từ, tách nghĩa của
từ đa nghĩa… còn có một con đường rất đáng chú ý là sự biến đổi ngữ âm
của từ do kết quả của một quá trình biến đổi ngữ âm lịch sử nào đó. Chẳng
hạn: hòa -> và (từ nối) đồng âm với động từ và (và cơm); mấy -> với (từ nối)
đồng âm với động từ với (giơ tay với thử trời cao thấp).
mlời -> lời (lời nói)
lợi -> lời (buôn bán có lời)
Cách phát âm của tiếng địa phương (như phương ngữ Bắc Bộ chẳng
hạn) cũng dẫn đến những trường hợp đồng âm trong phương ngữ đó, đù là
phương ngữ phổ biến. Ví dụ:
che (tre) đồng âm với che (che đầu)
da (ra) đồng âm với da (lột da, da thịt)
xâu (sâu) đồng âm với xâu (xâu cá)
6. Tuy không phải lúc nào cũng đạt được kết quả tuyệt đối hài lòng,
nhưng người ta đã đưa ra những tiêu chí như sau để phân biệt từ đa nghĩa
với từ đồng âm:
a. Nếu hai từ khác nhau về nguồn gốc, trùng nhau về ngữ âm thì đó là
hai từ đồng âm. Ngược lại nếu giống nhau cả về ngữ âm lẫn nguồn gốc thì
cần nghĩ tới khả năng đó là hiện tượng đa nghĩa.
Tiêu chí về nguồn gốc gặp phải khó khăn là phải xác định từ nguyên
của từ. Trong khi đó, vấn đề từ nguyên không phải bao giờ cũng được phát
hiện và giải quyết một cách ổn thỏa.
b. Nếu có một nghĩa nào đó của từ đa nghĩa đã tách xa, đã đứt đoạn
mối liên hệ với toàn bộ cơ cấu nghĩa chung thì nó cũng hình thành nên một từ
đồng âm với từ ban đầu.
Tiêu chí về sự đứt đoạn liên hệ nghĩa không phải luôn luôn rõ ràng và ít
nhiều không tránh khỏi chủ quan.
c. Tiêu chí vè hình thái và cú pháp lại xác định rằng nếu hai từ có hệ
hình thái biến đổi khác nhau hoặc khả năng kết hợp, chi phối từ khác một
cách khác nhau, thì đó là hai từ đồng âm.
Tiêu chí này đạt được nguyên tắc hình thức hóa, nhưng khó áp dụng
được cho các ngôn ngữ không biến hình.
d. Đối với tiếng Việt, một ngôn ngữ không biến hình rất tiêu biểu, chúng
ta không thể áp dụng tiêu chí hình thái mà có thể vận dụng riêng lẻ hoặc phối
hợp những tiêu chí như sau:
d.1. Nếu có sự tách nghĩa dẫn đến đứt đoạn mối liên hệ về nghĩa thì
nên coi ở đây đã hình thành những từ đồng âm
Ví dụ:
cây (cây tre)
cây (cây át cơ)
cây (cây vàng)
Giữa cây (cây tre) và cây (cây vàng) đã hoàn toàn đứt đoạn mối liên hệ
về nghĩa. Chúng cần được coi là hai từ đồng âm.
d.2. Đối với hiện tượng vẫn gọi là chuyển từ loại, cần có những biện
luận cụ thể, vì tình hình của chúng không thuần nhất về nhiều mặt; và đặc biệt
là mới liên hệ về nghĩa của mỗi từ trong các tư cách từ loại khác nhau vẫn
còn rõ rệt: cày1 - cày2; cưaq - cưa2; đục1 - đục2
Khi một từ được dùng trong hai tư cách từ loại khác nhau với hai nghĩa
riêng, trong đó nếu nghĩa mới phái sinh do chuyển từ loại đã có khả năng độc
lập làm cơ sở tạo nên nghĩa phái sinh khác; thì lúc này nên tách ra thành hai
từ đồng âm. Nếu không thỏa mãn điều kiện đó thì cần xử lí nó với tư cách là
từ đa nghĩa.
Chỗ da dày và cứng lại vì bị cọ xát nhiều.
1/ (Nói về da) đã trở thành dày và cứng vì bị cọ xát nhiều: cầm cuốc
nhiều đã chai tay.
2/ (Nói về đất) đã trở thành cứng, không xốp, khó cày bừa: đất ruộng bị
chai cứng.
3/ Đã trở thành trơ lì vì đã quá quen: bị mắng nhiều đã chai mặt, không
còn biết xấu hổ là gì nữa.
Ở đây nên tách ra chai1 và chai 2 vì từ nghĩa 1 của chai2 (phái sinh từ
chai1) đã tiếp tục phái sinh ra nghĩa 2 và nghĩa 3.
7. Nghiên cứu và khảo sát kĩ các từ đồng âm cả về lí thuyết lẫn thực
tiễn đều rất cần thiết; đặc biệt trong lĩnh vực từ điển và dịch máy.
Trong ngôn ngữ giao tiếp nói chung, từ đống âm với những sắc thái
riêng của từng ngôn ngữ cụ thể, thường được sử dụng trong các hiện tượng
chơi chữ rất đặc biệt.
II. TỪ ĐỒNG NGHĨA
1. Đã có không ít quan niệm được nêu lên cho hiện tượng này với
những dị biệt ít nhiều. Nhìn chung, có hai hướng quan niệm chính: một là dựa
vào đối tượng được gọi tên, hai là dựa vào khái niệm do từ biểu thị.
Thực ra, từ đồng nghĩa không phải là những từ trùng nhau hoàn toàn
về nghĩa. Chúng nhất định có những dị biệt nào đó bên cạnh sự tương đồng
(mặc đù phát hiện sự dị biệt đó không phải lúc nào cũng dễ dàng). Chính sự
dị biệt đó lại là lí do tổn tại và làm nên những giá trị khác nhau giữa các từ
trong một nhóm từ đồng nghĩa. Rõ ràng tính đồng nghĩa có những mức độ
khác nhau; và ta có thể nêu quan niệm như sau:
Từ đồng nghĩa là những từ tương đồng với nhau về nghĩa; khác nhau
về âm thanh và có phân biệt với nhau về một vài sắc thái ngữ nghĩa hoặc sác
thái phong cách… nào đó, hoặc đồng thời cả hai.
Ví dụ:
start, commence, begin (trong tiếng Anh)
‘...’, ‘...’ (trong tiếng Nga)
cố, gắng, cố gắng (trong tiếng Việt)…
là những nhóm từ đồng nghĩa.
2. Những từ đồng nghĩa với nhau tập hợp thành một nhóm gọi là nhóm
đồng nghĩa. Trong ba ví dụ vừa nêu, ta có ba nhóm đồng nghĩa của tiếng
Anh, tiếng Nga, tiếng Việt.
a) Những từ đồng nghĩa với nhau không nhất thiết phải tương đương
với nhau về số lượng nghĩa; tức là các từ trong một nhóm đồng nghĩa không
nhất thiết, phải có dung lượng nghĩa bằng nhau: từ này có thể có một hoặc
hai nghĩa; nhưng từ kia có thể có tới dăm bảy nghĩa. Thông thường các từ chỉ
đồng nghĩa ở một nghĩa nào đó. Chính vì thế nên một từ đa nghĩa có thể
tham gia vào nhiều nhóm đồng nghĩa khác nhau: ở nhóm này nó tham gia với
nghĩa này; ở nhóm khác, nó tham gia với nghĩa khác.
Ví dụ: Từ coi của tiếng Việt là một từ đa nghĩa. Tùy theo từng nghĩa
được nêu lên để tập hợp các từ, mà coi có thể tham gia vào các nhóm như:
coi - xem: coi hát - xem hát
coi - giữ: coi nhà - giữ nhà
b) Trong mỗi nhóm từ đồng nghĩa thường có một từ mang nghĩa chung,
được dùng phổ biến và trung hòa về mặt phong cách; được lấy làm cơ sở để
tập hợp và so sánh, phân tích các từ khác. Từ đó gọi là từ trung tâm của
nhóm.
Ví dụ trong nhóm từ: ‘...’, ‘...’, ‘...’, ‘...’ của tiếng Nga, từ ‘...’ được gọi là
từ trung tâm. Trong nhóm từ: yếu, yếu đuối, yếu ớt của tiếng Việt, từ yếu
được gọi là từ trung tâm.
Tuy nhiên, việc xác định từ trung tâm của nhóm không phải lúc nào
cũng dễ và đối với nhóm nào cũng làn được. Nhiều khi ta không thể xác định
một cách dứt khoát được theo những tiêu chí vừa nêu trên, mà phải dựa vào
những tiêu chí phụ như: tần số xuất hiện cao (hay được sử dụng) hoặc khả
năng kết hợp rộng…
Chẳng hạn trong các nhóm từ đồng nghĩa tiếng Việt như: hồi, thuở, thời
hoặc: chờ, đợi; hoặc: chỗ, nơi, chốn… rất khó xác định từ nào là từ trung tâm.
(Vấn đề từ trung tâm sẽ được nhắc lại ở điểm 3 tiếp sau).
3. Tập hợp đủ các nhóm từ đồng nghĩa; phân tích cho biết được những
nét giống nhau, khác nhau giữa các từ trong mỗi nhóm, luôn luôn là mong
muốn của những người nghiên cứu và xử lí vấn đề từ đồng nghĩa.
Có nhiều thao tác ít nhiều mang tính kĩ thuật và nguyên tắc hoặc kinh
nghiệm trong khi phân tích nhóm từ đồng nghĩa; nhưng tất cả đều nhằm vào
mục đích chung của hai bước cơ bản sau đây:
3.a. Lập danh sách các từ trong nhóm,
Mỗi nhóm đồng nghĩa có thể nhiều hay ít tùy theo tiêu chí đưa ra để tập
hợp nhưng phải luôn luôn dựa vào nghĩa biểu niệm của từ.
a.1. Trước hết phải chọn một từ đưa ra làm cơ sở để tập hợp các từ
khác. Từ này thường cũng chính là từ trung tâm của nhóm; chẳng những nó
được lấy làm cơ sở để tập hợp từ khác mà còn là cơ sở để so sánh, phân
tích và giải thích chúng. Ví dụ: với từ sợ của tiếng Việt, ta tập hợp thêm một
số từ khác và lập thành nhóm đồng nghĩa: sợ - hãi - kinh - khiếp - sợ hãi -
khiếp sợ.
a.2. Khi lập nhóm đồng nghĩa phải luôn luôn cảnh giác với các cách
diễn đạt đồng nghĩa, với các hiện tượng chuyển nghĩa có tính chất phong
cách, tu từ. Đó là những trường hợp "đồng nghĩa ngữ cảnh" hoàn toàn có tính
chất lâm thời và thuộc về kĩ thuật tạo lập văn bản, do phong cách học nghiên
cứu. ví dụ:
- Bác đã đi rồi sao Bác ơi!
- Ao nâu cùng với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.
3.b. Phân tích nghĩa của từng từ trong nhóm
Ở bước này phải phát hiện những tương đồng và dị biệt giữa các từ
trong nhóm với nhau. Công việc cụ thể phải làm là:
b.1. Cố gắng phát hiện và xác định cho được từ trung tâm của nhóm.
Từ trung tâm thường là từ có mang nghĩa chung nhất, dễ dùng và dễ hiểu
nhất. Về mặt phong cách, nó có tính chất trung hòa. Chẳng hạn, trong nhóm
mồ - mả - mộ - mồ mả thì mộ là từ trung tâm, vì nó đáp ứng các đặc điểm vừa
nêu.
Trong tiếng Việt, từ trung tâm của nhóm đồng nghĩa, nói chung có một
số biểu hiện về hình thức như sau:
Nếu trong nhóm có cả từ đơn tiết lẫn đa tiết thì từ trung tâm thường là
từ đơn.
Nếu trong nhóm có những từ không có khả năng tạo từ phái sinh hoặc
tạo rất ít từ phái sinh, thì còn lại, từ nào có khả năng phái sinh lớn nhất, từ đó
cũng thường là từ trung tâm.
Nếu một từ trực tiếp trái nghĩa với từ trung tâm của một nhóm đồng
nghĩa khác thì nó cũng sẽ chính là từ trung tâm trong nhóm của mình.
Chẳng hạn, xét hai nhóm:
1) Hiền - lành – hiền lành - hiền hậu – hiền từ - nhân hậu - nhân từ.
2) Ác - dữ - độc ác – hiểm độc – khắc nghiệt
Ta thấy ở nhóm 1, hiền là từ trung tâm vì nó thỏa mãn tất cả những đặc
điểm nêu trên. Trong nhóm 2, ác sẽ được coi là từ trung tâm củng vì những lí
do như vậy và nó trái nghĩa với hiền.
Tuy nhiên, một từ đa nghĩa có thể đồng thời tham gia vào nhiều nhóm
đồng nghĩa khác nhau nên có thể ở nhóm này nó là từ trung tâm nhưng ở
nhóm khác thì lại hoàn toàn không có tư cách đó.
b.2. Lần lượt đối chiếu các từ trong nhóm với từ trung tâm và đối chiếu
giữa các từ không phải là từ trung tâm với nhau ta sẽ phát hiện những tương
đồng và dị biệt về nghĩa. Sự tương đồng sẽ có ở tất cả mọi từ; còn sự dị biệt
thì sẽ có ở từng từ trong nhóm. Vì thế khi đối chiếu, ta nên đối chiếu với từ
trung tâm trước, như là so sánh với một mẫu số chung vậy.
Sự dị biệt giữa các từ đồng nghĩa nhiều khi rất tinh tế và khó phát hiện.
Thường gặp nhất là những dị biệt sau đây:
+ Dị biệt về một số sắc thái nghĩa bổ sung như: mức độ trừu tượng,
khái quát của khái niệm; hoặc phương thức, công cụ, chủ thể tiến hành, tiếp
nhận hành động; hoặc thái độ của người nói đối với người nghe; hoặc sự
đánh giá của người nói… ví dụ: xét hai từ: cố gắng.
Nét chung của hai từ này là: đưa sức ra nhiều hơn bình thường để làm
cho được việc gì đó.
Nét riêng (dị biệt) của nó so với gắng là ở mục đích của hành động này:
làm cho kì được, kì xong công việc mà chủ thể biết là khó khăn. Chẳng hạn:
cố làm cho xong; cố quên những chuyện không vui đi; cố nhớ lại xem hôm
qua đã nói gì.
Nét dị biệt của gắng so với cố là: làm cho tốt công việc mà biết là nên
làm. Chẳng hạn, có thể nói: gắng lên chút nữa học cho giỏi, gắng chịu đựng
khó khăn để động viên nhau.
+ Dị biệt về phạm vi sử dụng hoặc sắc thái phong cách, thái độ bình giá
của người nói. ví dụ:
quả - trái: Quả có phạm vi sử dụng rộng hơn trái.
phụ nữ - đàn bà: Phụ nữ có sắc thái trang trọng hơn đàn bà
+ Dị biệt về khả năng kết hợp cú pháp và kể cả kết hợp từ vựng. Ví dụ:
Ta có: trái na, trái bưởi, mặt trái xoan… nhưng không thể có trái
chuông, trái trứng gà, mặt quả xoan…
Ta có: một mực, rất mực, mẫu mực, mức sống, mức lương định mức,
vượt mức… chứ không có một mực, rất mực, mẫu mực, mực sống, mực
lương, định mức, vượt mục… mặc dù hai từ mức và mực là hai từ đồng
nghĩa, trong rất nhiều trường hợp chúng thay thế được nhau.
4. Nhận biết để tập hợp, phân tích thấu đáo các nhóm đồng nghĩa sẽ
giúp cho người ta sử dụng từ ngữ được chuẩn xác và tinh tế hơn, phù hợp
với tâm lí và thói quen của người bản ngữ hơn. Điều đó rất quan trọng đối với
việc dạy và học tiếng.
III. TỪ TRÁI NGHĨA
1. Vốn là một hiện tượng không hoàn toàn đơn giản, các quan niệm về
từ trái nghĩa đã được đưa ra cũng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Tuy
vậy, nét chung được đề cập trong tất cả các quan niệm là sự đối lập về nghĩa.
Quan niệm thường thấy và được đa số chấp nhận, được phát biểu như
sau:
Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa đối lập nhau trong mối quan hệ
tương liên. Chúng khác nhau về ngữ âm và phản ánh nhũng khái niệm tương
phản về lôgic.
Ví dụ: cao và tháp trong câu dưới đây là hai từ trái nghĩa:
Bảy giờ chông thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.
2. Từ quan niệm nêu trên, suy ra rằng: những từ có vẻ đối nghịch nhau
về nghĩa nhưng không nằm trong thế quan hệ tương liên thì đó không phải là
hiện tượng trái nghĩa. Chẳng hạn trong các câu: Nhà này tuy bé mà xinh; Cô
ấy đẹp nhưng lười… thì bé - xinh; đẹp – lười có về đối nghịch nhau; nhưng
chúng không phải là những hiện tượng trái nghĩa, vì không nằm trong quan
hệ tương liên. Ngược lại, hai từ cao và thấp lại là trái nghĩa, vì chúng nằm
trong quan hệ tương liên.
Những từ được cấu tạo bằng phụ tố, tạo ra những cặp từ có nghĩa
ngược nhau (Ví dụ như: ‘...’ - ‘...’ trong tiếng Nga, hoặc: care - careless,…
trong tiếng Anh,..) đều là những từ trái nghĩa cùng gốc. Chúng là kết quả của
hiện tượng phái sinh trong từ vựng. Từ vựng học, trong trường hợp cần thiết,
có thể để cập tới hiện tượng này; nhưng mục tiêu nghiên cứu cơ bản của nó
vẫn phải là những từ trái nghĩa khác gốc, tồn tại với tư cách của một kiểu tổ
chức trong từ vựng, như: cao - thấp; ngắn - dài; dại - khôn; xấu - tốt...,
3. Trong các nhóm từ trái nghĩa, không có từ trung tâm như trong nhóm
đồng nghĩa. Mỗi từ ở đây có thể được hình dung như là nằm ở vị trí của một
âm bản hay dương bản của nhau vậy. Từ này như là một tấm gương phản
chiếu của từ kia, và ngược lại. Ví dụ:
buồn: có tâm trạng tiêu cực, không thích thú của người đang gặp đau
thương hoặc gặp việc không được như ý.
vui: có tâm trạng tích cực, thích thú của người đang gặp việc mình thích
hoặc điều gì đó được như ý.
Vì thế, trong mỗi nhóm từ trái nghĩa sẽ chỉ gồm hai từ, và thường được
gọi là một cặp trái nghĩa. Trong mỗi cặp như vậy, hai từ thường có quan hệ
đẳng cấu nghĩa với nhau. Đặc điểm này chẳng những làm cho dung lượng
nghĩa của chúng tương đương nhau mà kéo theo cấu trúc hình thức của
chúng cũng thường tương đương hoặc gần tương đương nhau. So sánh:
+ nặng - nhẹ; nặng nề - nhẹ nhàng; buồn bã - vui vẻ
+ high - low; fat - thin; long - short…
+ ‘...’ - ‘...’; ‘...’- ‘...’…
Nói rằng hai từ trái nghĩa nhau tương đương với nhau về dung lượng
nghĩa thì không phải là chúng nhất thiết phải có số lượng nghĩa bằng nhau.
Điều quan trọng là cái nghĩa làm cho hai từ đi vào quan hệ trái nghĩa, phải có
dung lượng tương đương nhau. Bởi vậy, cũng như hiện tượng đồng nghĩa, ở
đây, một từ đa nghĩa có thể tham gia vào nhiều cặp trái nghĩa khác nhau.
Điều này cũng ngụ ý rằng một từ nào đó, có thể có quan hệ trái nghĩa với
nhiều từ trong nhóm đồng nghĩa, ví dụ:
+ mềm - cứng; mềm - rắn (mềm nắn rắn buông)
+ già - trẻ; già - non (già giái non hột)
4. Việc xác định các cặp trái nghĩa có nhiều phức tạp nên không thể chỉ
dựa hẳn vào một tiêu chí nào đó. Thông thường người ta hay dựa vào những
tiêu chí sau đây:
4.a. Nếu hai từ là trái nghĩa thì chúng cùng có khả năng kết hợp với một
từ khác bất kì nào đó mà quy tắc ngôn ngữ cho phép. Suy rộng ra là chúng
phải cùng có khả năng xuất hiện trong một ngữ cảnh.
Ví dụ: người khôn - người dại; bóng tròn - bóng méo;
hoặc: no bụng đói con mắt; dốt đặc hơn hay chữ lòng;
Nếu hai từ là trái nghĩa thì chúng phải bảo đảm mối quan hệ liên tường
đối lập với nhau một cách thường xuyên và mạnh; bởi vì mỗi từ trong cặp trái
nghĩa như là tấm gương phản chiếu của từ kia. Ở đây, để giảm bớt đến mức
tối đa tính chủ quan của cái gọi là quan hệ liên tưởng, ta có thể thực hiện
thêm hai thủ tục kiểm tra:
b.1. Phân tích nghĩa của hai từ đó xem chúng có đẳng cấu hay không.
b.2. Trường hợp có nhiều liên tưởng mà cũng bảo đảm tính đẳng cấu
về nghĩa thì cặp liên tưởng nào nhanh nhất, mạnh nhất, có tần số xuất hiện
cao nhất, sẽ được coi là trung tâm, đứng đầu trong chuỗi các cặp trái nghĩa.
Ví dụ:
cứng – mềm: Chân cứng đá mềm.
cứng - dẻo: Thép cứng thay cho thép dẻo.
cứng - nhũn: Khi quả xanh, vỏ cứng; khi chín, vỏ nhũn.
Trong ba cặp liên tưởng này, cặp cứng – mềm phải đứng ở vị trí trung
tâm, vị trí hàng đầu.
4.c. Đối với từ trái nghĩa tiếng Việt, ngoài những tiêu chí nêu trên, còn
có thể quan sát và phát hiện chúng qua những biểu hiện bổ sung như sau:
- Về mặt hình thức, hai từ trái nghĩa trong cặp thường có độ dài bằng
nhau (về số lượng âm tiết), rất ít khi lệch nhau.
- Nếu cùng là từ đơn tiết thì hai từ trong cặp trái nghĩa lại thường cùng
đi đôi với nhau, tạo thành những kết hợp như: dài ngắn, trẻ già, trước sau,
sớm muộn, đầu cuối, ngược xuôi, lớn bé… biểu thị nghĩa khái quát tổng hợp,
bao gồm hết các đối tượng "từ A đến Z" trong một phạm trù của đời sống và
thế giới.
- Trừ vài ba cặp từ như: hồng hào - xanh xao; nhã nhặn - tục tằn; còn
nếu hai từ A và B là trái nghĩa thì:
Hoặc là cả hai cùng không có cấu tạo từ láy;
Hoặc là một bên có, một bên không;
Hoặc cả hai bên cùng có âm tiết láy sẽ không cùng khuôn văn.
Ví dụ:
ra - vào; trong - ngoài; lên - xuống…
mừng - lo; mừng // lo lắng
lành - rách; lành lặn // rách rưới
5. Nghiên cứu các từ trái nghĩa không thể bỏ qua trường hợp những từ
vốn không trái nghĩa với nhau; nhưng trong một số ngữ cảnh chúng lại được
dùng với tư cách như những cặp trái nghĩa, chẳng hạn: đầu voi đuôi chuột;
mật sứa gan lim; miệng hùm gan sứa…
Những từ như thế, người ta vẫn quen gọi là từ trái nghĩa ngữ cảnh, tức
là chúng chỉ nằm trong thế đối sánh trái nghĩa tại một vài ngữ cảnh nào đó
chứ không phải là một quan hệ ngữ nghĩa trong tổ chức ngữ nghĩa của từ
vựng. Cơ sở hình thành mối quan hệ trái nghĩa ngữ cảnh chính là ở các
nghĩa ẩn dụ, hoán dụ, những biểu trưng… của từ, nảy sinh trong từng ngữ
cảnh cụ thể đó. Ví dụ:
Chồng người xe, ngựa người yêu,
Chồng tôi áo rách, tôi chiều tôi thương.
Tình hình trên đây dẫn đến một hệ quả là: trong thực tiễn sử dụng ngôn
ngữ đã có vô cùng nhiều trường hợp thiết lập và dùng trái nghĩa ngữ cảnh.
Có thể gọi chúng là những từ đối nghĩa. Tính chất đối nghĩa này thể hiện rõ
rệt nhất trong những lối nói muốn làm nổi bật sự đối lập giữa hai vế, hai mặt,
hai đối tượng… nào đó, mà người Việt rất hay dùng. Ví dụ: Gò với núi cũng
kề là cao, bể với ao cũng kề là trũng; Đói lòng ăn nắm lá sung, chồng một thì
lấy chồng chung thì dừng; Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Sống cục đất mát
cục vàng.
Chương 16. BIẾN ĐỔI TRONG TỪ VỤNG
A. NHỮNG BIẾN ĐỔI Ở BỀ MẶT
I. HIỆN TƯỢNG RƠI RỤNG BỚT TỪ NGỮ
1. Trong ngôn ngữ vốn có một nguyên tắc chung là chỉ lưu giữ những
yếu tố những đối lập hữu ích; những yếu tố, những đối lập nào thừa (chứ
không phải là yếu tố dư - hiểu theo cách của lí thuyết thông tin) không phù
hợp với nhu cầu sử dụng của con người, thì đều bị loại bỏ.
Ví dụ: Trước đây, tiếng Việt có những từ như: mựa (chớ), sá (nên), nữa
(hơn), tác (tuổi), chiền (chùa)… hoặc những từ như: thái y, thái giám… quả
thực, nông hội, khổ chủ… thế nhưng ngày nay trong đời sống giao tiếp
thường nhật, chúng đã gần như vắng bóng hẳn, hoặc hoàn toàn không còn
nữa.
2. Nguyên nhân làm cho một từ rơi rụng đi, có thể trong ngôn ngữ;
nhưng cũng có thể là những nguyên nhân ngoài ngôn ngữ.
2.a. Nguyên nhân trong ngôn ngữ cơ bản là do sự tranh chấp về giá trị
và vị trí sử dụng. Sự va chạm bởi quan hệ đồng âm hoặc đồng nghĩa đã dẫn
tới tình trạng tranh chấp đó.
Sự va chạm trong quan hệ đồng âm giữa hai từ A và B không phải bao
giờ cũng làm cho một từ phải "ra đi". Chỉ trong một số ít trường hợp, khi cả
hai cùng hiện diện được trong ngữ cảnh và gây nên tình trạng lộn xộn, gây
mơ hồ hoặc hiểu lầm thì lúc đó một trong hai từ mới bị triệt thoái. Ví dụ: trong
tiếng Anh có từ leten (cho phép) và letten (cản trở, vướng), cả hai từ này đều
biến đổi thành let- và đồng âm với nhau. Trong một số hoàn cảnh, chúng gây
nên những hiểu lầm. Từ let (cản trở, vướng) nay đã biến mất khỏi đời sống
giao tiếp thông thường và chỉ còn để lại bóng dáng của mình trong một số lối
nói chuyên môn hóa của môn thể thao ten nít và môn luật học mà thôi.
Va chạm về đồng nghĩa là khả năng thường gặp trong rất nhiều trường
hợp. Nếu A và B đồng nghĩa với nhau và mỗi từ không có một giá trị, phẩm
chất riêng, khác biệt nhau, thì một trong hai từ đó sẽ dần dần bị rơi rụng.
Ngoài ra, nếu A và B như nhau về mọi mặt nhưng một trong hai từ đó lại có
những khó khăn trong sử dụng chẳng hạn, thỉ nó cũng dần dà bị lãng quên.
Tình trạng của các cặp từ tiếng Việt: tác = tuổi, chác = đổi; chiền = chùa; han
= hỏi; gìn = giữ… đều là những từ như vậy.
Khi có tranh chấp và một từ bị rơi rụng thì có thể nói "một đi không trở
lại”. Đó là những trường hợp như các từ của tiếng Việt xưa: mựa (chớ), bui
(chỉ), nhẫn (tới), phen (so bì), tua (nên), khứng (chịu), khóng khảy (vui mừng),
thủa (giới từ)… Ngược lại, cũng có khi nó còn để lại tàn dư của mình trong từ
vựng hiện đại mà ngày nay ta khó hoặc rất khó nhận ra. Chẳng hạn tiếng Việt
xưa có các từ như: đòi (theo), chiền (chùa), tác (tuổi), han (hỏi), nữa (hơn), âu
(lo), chác (đổi), ngặt (nghèo)… Trong từ vựng tiếng Việt ngày nay, chúng đã
không còn tư cách là từ nữa, mà chỉ còn để lại dấu vết của mình trong các từ
theo dõi, chùa chiền, tuổi tác, hỏi han, hơn nữa, lo âu, đổi chác, ngặt nghèo…
mà thôi.
2.b. Nguyên nhân trong ngôn ngữ thứ hai là sự biến đổi ngữ âm. Trong
quá trình diễn biến của ngôn ngữ nói chung và từ vựng nói riêng, bộ mặt ngữ
âm của một từ có thể biến đổi đến nỗi khác lạ hẳn với dạng vốn có ban đầu.
Kết cục là dạng cũ của từ bị mất đi, bởi vì dạng mới hình thành về sau đã
thay thế vào chỗ của nó. Các từ: mấy > với; hòa > và; liễn > lẫn; phen > sánh;
mlời > lời… của tiếng Việt đã bị rụng đi bởi nguyên do biến đổi ngữ âm như
thế.
2.c. Nguyên nhân trong ngôn ngữ thứ hai là sự rút gọn từ. Nếu một từ
nào đó lại có dạng rút gọn của mình thì thông thường, dạng nguyên ban đầu
dần dần nhường chỗ cho dạng rút gọn. Điều này được định luật Zipf ủng hộ.
Zipf đã chứng minh rằng trong ngôn ngữ những từ thông dụng thường có xu
hướng ngắn hơn những từ không thông dụng. Ví dụ, tiếng Anh hiện nay đã
rút ngắn các từ refrigearator, television, aeroplane thành fridge, TV (hoặc
tele), plane; và chúng được dùng phổ biến hơn.
Trong tiếng Việt, ta cũng có thể thấy hàng loạt trường hợp tương tự
như vậy: Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô - Viết -> Liền Xô; Việt Nam
độc lập đồng minh hội -> Việt minh; vô tuyến truyền hình -> vô tuyến…
Tuy nhiên, dù có kích thước dài nhưng không phải từ nào cũng rút gọn
được; nhất là đối với những từ phổ biến, được dùng với tần số cao. Khi đó ta
thường không gặp dạng rút gọn của nó thay thế cho nó mà có thể gặp một từ
khác ngắn hơn thay thế cho nó. Chẳng hạn, tiếng Anh đã dùng pram (cái xe
nôi - rút gọn từ perambulator) thay thể cho baby carriage; và đang ưa dùng
car hơn là automobile.
2.d. Đối với các nguyên nhân ngoài ngôn ngữ làm cho một từ bị triệt
thoái thì trước hết phải tính đến nguyên nhân lịch sử và xã hội.
Khi những sự vật, hiện tượng, chức vị, quan hệ… trong đời sống xã hội
mà bị mất đi bởi những lí do lịch sử, thì tên gọi của chúng cũng giảm dần vị trí
tích cực, rồi mất đi theo. Chúng, hoặc là bị rơi rụng hẳn khỏi đời sống giao
tiếp hàng ngày hiện tại, hoặc là vẫn còn để lại hình bóng của mình đâu đó mà
rất ít được đề cập, sử dụng. Chẳng hạn, các từ: bẩm, lạy, cấm thành; tử cấm
thành, long cổn, hót, hài, mộc, giáo, hỏa hổ, thần công, thượng hoàng… đã
rút lui khỏi từ vựng tiếng Việt ngày nay bằng con đường như thế.
Các nguyên nhân xã hội so với nguyên nhân lịch sử, đa dạng và phức
tạp hơn. Có thể do thói quen sử dụng, sự ưa thích hoặc tiện lợi, thậm chí kể
cả "mốt" nói năng cũng đủ cho một từ nào đó chiếm ưu thế hơn hẳn so với từ
hoặc ngữ đang tranh chấp với nó. Tình hình này có thể được minh họa bằng
những cặp từ như: radio - đài… của tiếng Việt, hoặc table napkin - serviette;
radio - wireleess trong tiếng Anh. Trong mỗi cặp như thế, nếu một từ được xã
hội chấp nhận và ưa dùng hơn thì từ kia sẽ phải thoái lui khỏi vị trí vốn có của
nó.
Sự kiêng kị, nói tránh tên là một lí do về mặt xã hội khiến cho một từ
(tên gọi) nào đó rất dễ bị mất đi. Trên thế giới hầu như nơi nào cũng có hiện
tượng kiêng kị, tránh gọi tên một vài sự vật, hiện tượng, hành động… nào đó.
Ngư dân Việt Nam phần nhiều không gọi cá voi mà gọi cá ông hoặc (cá) ông
voi. Khi gặp cá voi chết người ta bảo rằng: (ông) lụy. Trong rất nhiều ngôn
ngữ dòng Bantic, Slave, German, không thấy có một cái "tên cúng cơm" của
con gấu. Người ta đã gọi chệch đi bằng những tên khác nhau ‘...’ - người ăn
mật (tiếng Nga), ‘...’- màu nâu, màu hung (tiếng Đức), lokys - kẻ liếm láp
(tiếng Latvia)… Nhiều ngôn ngữ Slave khác cũng gọi giống như tên gọi trong
tiếng Nga. Trong khi đó cái "tên cúng cơm" nguyên thủy của con vật này từ
thời ngôn ngữ Ấn - Âu chung, vẫn được bảo lưu trong các ngôn ngữ khá: như
ursus (tiếng Latin - ours (tiếng Pháp) - orso (tiếng Italia) - oso (tiếng Tây Ban
Nha) - arktos (tiếng Hi Lạp) - rksah (tiếng Ấn Độ cổ) - arsa (tiếng Batư cổ) - arj
(tiếng Acmênia) - ari(tiếng Anbani) - art (tiếng Iriand). Sự quên lãng trong các
ngôn ngữ nêu trên chỉ có thể giải thích hợp lí bằng lí do là sự kiêng kị.
Trong cuộc sống của thế giới văn minh bây giờ, sự kiêng ạ cũng vẫn
còn chưa hết. Người ta kiêng, tránh một từ nào đó, thay thế nó bằng một từ
khác, có thể vì nó động chạm đến một niềm sùng tín, dị đoan; hoặc cũng có
thể chỉ vỉ một sự xấu hổ, ngại ngùng nào đó mà từ có thể gây nên. ví dụ:
Ở nước Anh, nhiều người hay dùng passing way hơn là dying (đang
chết; hấp hối) và dùng malignant growth hơn là dùng cancer (bệnh ung thư).
Còn ở Mĩ, người ta lại muốn tránh dùng từ lavatory (vốn ban đầu chỉ có nghĩa
là nơi tắm rửa). Họ muốn thay thế nó bằng comfort station hoặc powder room;
hoặc little I girl’s room. Một người Việt nếu muốn tỏ ra mình không phải là kẻ
thô lỗ, thì anh ta nói nước tiểu, nước giải thay cho nước đái, nói đi tiểu, đi giải
thay cho đi đái…
II. SỰ XUẤT HIỆN CÁC TỪ NGỮ MỚI
Các từ ngữ mới thường xuất hiện để bù đáp những thiếu hụt, không
thỏa mãn, không phù hợp với nhu cầu định danh các sự vật, hiện tượng trong
đời sống và thế giới của con người. Đôi khi, chúng cũng xuất hiện một phần
bởi một trong cách định danh, muốn dành cho sự vật một tên gọi mới hơn dù
nó đã có tên gọi rồi. Tuy nhiên, lí do thứ nhất vẫn là li do chủ yếu. Có hai con
đường cơ bản làm xuất hiện một từ ngữ mới.
1. Con đường đầu tiên và quan trọng hơn cả là dùng những yếu tố,
những chất liệu và quy tắc sẵn cố trong ngôn ngữ dân tộc "của mình" để cấu
tạo từ mới. Ngoài các phương sách cấu tạo từ thường gặp như đã nói ở
chương XII ra, còn có thể kể thêm như sau:
1.a. Phương pháp loại suy. Có thể hiểu đây là cách tạo từ bằng con
đường noi theo cấu tạo của từ có trước. Ví dụ:
Tiếng Việt vay mượn từ bidon và cresson của tiếng Pháp nhưng rồi đã
tân trang cấu trúc của chúng theo mẫu của một dãy từ mà người Việt tưởng
rằng chúng thuộc cùng một loại cấu tạo như nhau:
bidon - bình tông (cùng dãy sau bình tích, bình trà…)
cresson - cải xoong (cùng dãy sau cải xanh, cải bẹ…)
Tiếng Anh đã cấu tạo motoway (xa lộ) the railway và laundromat (hiệu
giặt là tự động) theo automat.
1.b. Hòa đúc hai từ có sẵn tạo thành từ mới. Ví dụ:
Tiếng Anh:
smog = smoke + fog
brunch = breakfast + lunch
motel = motor + hotel
Tiếng Nga:
‘...’= ‘...’+ ‘...’
‘...’= ‘...’+ ‘...’
1.c. Rút ngắn một cụm từ hoặc từ dài hơn, tạo thành một từ mới. Ví dụ:
Tiếng Việt:
khiếu tố = khiếu nại + tố cáo
giao liên = giao thông + liên lạc
Tiếng Anh:
public house -> pub (quán rượu, quán ăn)
perambulator -> pram (xe nôi)
omnibus -> bus (xe buýt)
1.d. Hình thành từ mới do cách ghép các con chữ (âm) ở đầu hoặc cuối
từ trong một nhóm từ với nhau. Ví dụ: ở tiếng Anh, RADAR, SIDA, LASER…
và một số tên gọi của các tổ chức quốc tế như FAO, UNICEF, UNESCO…
đều đã hình thành bằng con đường như vậy.
1.e. Hình thành từ mới bằng cách chuyển đổi từ loại của từ có sẵn. Ví
dụ:
Tiếng Anh:
garage (gara) -> to garage (cho ô tô ra vào)
do ones hair -> hair - do (kiểu tóc; việc làm đầu).
Trường hợp một, chuyển danh từ sang động từ. Trường hợp hai,
chuyển động từ sang danh từ.
2. Con đường thứ hai làm xuất hiện từ ngữ mới là vay mượn.
2.a. Trong ngôn ngữ nào cũng có hiện tượng vay mượn từ ngữ hoặc
yếu tố cấu tạo từ từ một ngôn ngữ khác.
+ Người ta có thể vay mượn các từ, ví dụ như:
Trong tiếng Việt: mít tinh, bốc, ten nít… (nguồn gốc Anh), ga, xăng, so
mi, xà phòng… (nguồn gốc Pháp), bôn sê vích, côm xô môn… (nguồn gốc
Nga), câu lạc bộ, ngân phiếu, mậu dịch (nguồn gốc Hán), shi, lượn, bản…
(gốc Tày Nùng).
Trong tiếng Anh: telephone, thermodynamic… (gốc Hi Lạp cổ), cliche,
boutique… (nguồn gốc Pháp).
+ Cũng có khi người ta vay mượn yếu tố cấu tạo từ hoặc lấy từ của một
ngôn ngữ khác, làm yếu tố cấu tạo từ trong ngôn ngữ của mình. Chẳng hạn:
các phụ tố - able; ible; ent của tiếng Latin; các phụ tố - ism; - ist; -ite của tiếng
Hi Lạp; các phụ tố -age; - ance; - ate của tiếng Pháp đã được vay mượn vào
tiếng Anh. Trong khi đó, tiếng Việt mượn các yếu tố: - hóa; - sinh; - viên
(nguồn gốc Hán) hoặc mượn hẳn một từ trong ngón ngữ khác, đem kết hợp
với một yếu tố có sẵn của mình để tạo ra từ mới.
canh + gác (garde - gốc Pháp) -> canh gác
khăn + piêu (gốc Thái) -> khăn piêu
làng + bản (gốc Tày Nùng) -> làng bản
+ Căn ke lại từ ngữ của ngôn ngữ khác cũng là một hiện tượng vay
mượn ngoài ngôn ngữ. Kết quả của hiện tượng căn ke là người ta có một từ
mới, được tạo nên bằng cách trực dịch từng yếu tố cấu tạo trong từ của ngôn
ngữ khác, ví dụ: Tiếng Việt có các từ vườn trẻ, nhà văn hóa… là căn ke từ
các tên gọi: ‘...’, ‘...’, … trong tiếng Nga. Tiếng Tày Nùng có từ “đin nựa” là căn
ke từ đất thịt trong tiếng Việt. Người Pháp vay mượn từ skyscraper của tiếng
Anh và đã "đổ" lại thành gratte - ciel.
2.b. Đối với các từ ngữ vay mượn, mỗi ngôn ngữ đều có cách xử lí
khác nhau bên cạnh những đường nét chung. Người Việt khi vay mượn từ
ngữ và đưa vào sử dụng trong ngôn ngữ của mình, thường có những điều
chỉnh như sau:
+ Cải tổ cấu trúc ngữ âm của từ cho phù hợp với ngữ âm tiếng Việt và
đồng thời có thể rút ngắn từ lại. Nói chung, từ nào có dị biệt với ngữ âm tiếng
Việt cũng được cải tạo ít nhiều. ví dụ: beton - bêtông; garde - gác; boulon - bu
lông, bù loong; essence - xăng; enveloppe - lốp… meeting - mít tinh; cowboy -
cao bồi; tennis - ten nít… thục địa - thục (củ thục); tiểu tiện – tiểu (đi tiểu); tri
huyện - huyện (ông huyện)…
+ Cải tổ nghĩa của từ. Vay mượn từ nhưng lại cấp cho nó một nghĩa
khác với nghĩa vốn có của nó. ví dụ: tử tế là từ gốc Hán vốn có nghĩa là "cặn
kẽ, chu đáo”, nhưng vào tiếng Việt, nó được cấp cho nghĩa tốt bụng. Tương
tự như vậy, các nghĩa: ”lên mặt hợm hĩnh, tỏ thái độ kiêu ngạo" đã được cấp
cho hai từ hãnh diện, sĩ diện mà từng yếu tố một vốn có những ý nghĩa hoàn
toàn khác: hãnh = may mắn; sĩ - học trò; kẻ có học thức…
+ Vay mượn từ ngữ, nhưng không sử dụng tất cả các nghĩa của chúng,
mà chỉ dùng một số trong các nghĩa đó. Các từ: nhất, hạ, hủ hóa… của tiếng
Việt vay mượn từ tiếng Hán, là những ví dụ chứng minh cho trường hợp này.
B. NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG CHIỀU SÂU CỦA TỪ VỰNG
Thực chất, nói cho giản dị hơn thì đây là những biển đối về phương
diện ngữ nghĩa của từ trong từ vựng. Những biến đổi này rất phức tạp và tinh
tế, nhiều khi chồng chéo lên và cùng diễn ra với những biến đổi ở bề mặt đã
phân tích bên trên. Có hai hướng chính trong biến đổi nghĩa của từ cần được
kể tới sau đây.
1. Thu hẹp nghĩa của từ
Đúng ra, phải hiểu đây là sự thu hẹp phạm vi biểu hiện (định danh) của
từ. Xu hướng này có thể tìm thấy trong những từ như: thầy… của tiếng Việt;
meat, deer của tiếng Anh…
Thầy: Từ chỗ gọi tên cho các đối tượng như: thầy giáo, thầy đồ, thầy
khóa, thầy lang, thầy cai, thầy lí, thầy kí, thầy thông… hiện nay từ này chỉ còn
dùng chủ yếu với nghĩa thầy giáo và thầy thuốc.
Meat vốn có nghĩa "thực phẩm" nói chung; deer vốn chỉ "con vật” nói
chung; nhưng nay tiếng Anh đã thu hẹp bớt dung lượng nghĩa của các từ này
lại: meat = thịt; còn từ deer chỉ có nghĩa là "con hươu".
Hiện tượng thu hẹp nghĩa rất hay gặp trong khi xây dựng thuật ngữ cho
các ngành khoa học: người ta thu hẹp nghĩa của từ thông thường lại và chỉ
dùng với một nghĩa thuật ngữ, nghĩa chuyên môn hóa nào đó. Trong tiếng
Việt, xu hướng thu hẹp nghĩa nói chung là không mạnh bằng mở rộng nghĩa.
2. Mở rộng nghĩa của từ
Xét các ví dụ:
Động từ land trong tiếng Anh có nghĩa là "tiếp đất, hạ cánh” (xuống mặt
đất). Hiện nay động từ này mở rộng nghĩa ra, gồm cả việc hạ cánh xuống mặt
nước (The swan landed on lake - Con thiên nga hạ cánh xuống mặt hồ).
Động từ cắt trong tiếng Việt vốn có nghĩa là: "làm đứt bằng vật sắc".
Hiện nay nghĩa của từ này mở rộng ra gồm cả "việc chấm dứt hành động,
việc làm nào đó" (cắt viện trợ, cắt quan hệ, cắt đường chuyền bóng…) hoặc
"phân công làm việc gì đó theo phiên hoặc thứ tự lần lượt" (cắt trực nhật, cắt
người canh đê, cắt lượt đi tuần…).
Cơ sở của việc mở rộng nghĩa của từ chính là sự chuyển di tên gọi dẫn
đến việc chuyển nghĩa theo xu hướng mở rộng (các cách chuyển nghĩa, đã
trình bày ở mục II chương XIV). Đồng thời với mở rộng nghĩa, tất yếu là mở
rộng phạm vi định danh của từ. Ví dụ: Trước đây tiếng Việt có từ dòng họ vốn
có nghĩa là "cái hồ làm bằng đồng, trong chứa nước để cho chảy dần đi, căn
cứ vào lượng nước đã chảy đi nhiều hay ít để tính thời gian". Ngày nay từ này
đã chuyển sang gọi vật dùng để đo thời gian nói chung mà bất kể nó được
làm bằng gì, hoạt động theo nguyên tắc nào: đồng hồ quả lắc, đồng hồ điện
tử…
Tương tự như trên, ta có thể thấy từ fee (tiền công, tiền thù lao), pen
(bút) trong tiếng Anh cũng vậy. Fee vốn có nghĩa là "gia súc”. Thời xưa gia
súc đã từng được dùng làm vật thanh toán giá trị. Pen vốn có nghĩa là "lông
ống, lông vũ". Loại lông này thời xưa được dùng làm bút viết.
C. NHẬN XÉT CHUNG
1. Các biến đổi trong từ vựng được quy về những xu hướng như trên,
thật ra chỉ là sự phân loại cho tiện việc phân tích. Thực tế các sự kiện biến đổi
trong từ vựng nhiều khi đa dạng và phong phú, phức tạp hơn.
2. Các biến đổi đó không phải lúc nào cũng diễn ra trong tình trạng tách
rời nhau. Chúng có thể cùng diễn ra ở một từ ngữ nào đấy và chồng chéo lên
nhau, tác động đến nhau. Xét ví dụ sau đây:
Tiếng Việt vay mượn tiếng Hán từ long nhãn. Từ này vốn có nghĩa "quả
nhãn". Người Việt đã dùng nó ở hai dạng a) long nhãn; b) nhãn; với hai nghĩa
khác nhau:
long nhãn = cùi nhãn phơi, sấy khô
nhãn = quả (hoặc cây) nhãn.
Như vậy ở đây, người Việt đã vay mượn từ, rút ngắn từ để cho một từ
mới, vì họ cấp cho nó nghĩa mới; còn từ nguyên dạng thì lại cung cấp cho nó
một nghĩa khác với nghĩa vốn có ban đầu. Rõ ràng, đã co một số biến đổi
cùng diễn ra ở một đơn vị từ vựng.
Chương 17. CÁC LỚP TỪ TRONG TỪ VỰNG
Nếu nhìn vào hệ thống từ vựng bằng con mắt thuần ngữ pháp học,
người ta có thể phân chia nó thành những lớp hạng khác nhau một cách
tương đối chặt chẽ và mạch lạc. Ngược lại, nếu nhìn bằng con mắt từ vựng
học thì việc phân chia nó thành các lớp dường như có vẻ không được phân
minh bằng. Tuy nhiên, từ vựng vẫn không phải là một tập hợp hỗn độn.
A. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO NGUỒN GỐC
I. Trên thực tế, hầu như không có từ vựng của ngôn ngữ nào lại chỉ
hình thành, xây dựng bằng con đường "tự nó". Trong những ngôn ngữ được
sử dụng khá rộng rãi trên thế giới như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp…
người ta vẫn có thể thấy hàng loạt từ ngữ mà chúng vay mượn, hoặc vốn có
nguồn gốc từ ngôn ngữ khác. Tiếng Việt của chúng ta cũng vậy.
Như thế, điều mà người ta dễ thấy nhất ở đây là nổi lên đường phân
giới giữa hai lớp từ ngữ: lớp từ bản ngữ (còn gọi là lớp từ thuần) và lớp từ có
nguồn gốc khác, xa lạ (còn gọi là lớp từ ngoại lai). Phân tích qua tiếng Việt, ta
sẽ rõ điều đó.
II. Ở từ vựng tiếng Việt, lớp từ ngữ ngoại lai được phân thành hai lớp
nhỏ hơn: lớp các từ ngữ gốc Hán và lớp các từ ngữ gốc Ấn Âu (chủ yếu là
gốc Pháp).
1. Các từ ngứ gốc Hán
1.a. Tiếng Việt đã trải qua quá trình tiếp xúc với tiếng Hán từ rất lâu đời,
thông qua nhiều con đường và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Có thể
chia quá trình tiếp xúc Hán - Việt thành hai giai đoạn lớn: một là giai đoan từ
đầu công nguyên đến đầu đời Đường (đầu thế kỉ VIII); hai là giai đoạn từ đời
Đường (thế kỉ VIII - thế kỉ X) trở về sau. Hai lần tiếp xúc lớn này cung cấp cho
từ vựng tiếng Việt hai nguốn từ gốc Hán mà như trước nay vẫn quen gọi là từ
Hán cổ và từ Hán - Việt.
1.b. Từ Hán cổ là những từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt trong
giai đoạn một. Vì đi vào tiếng Việt đã lâu đã được đồng hóa rất mạnh, nên
những từ này hiện nay nói chung không còn cái vẻ xa lạ đối với người Việt
nữa. Ví dụ: chè, ngà, chén, chém, chim, buồng, buồn, buồm, mùi, mùa…
1.c. Từ Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai
đoạn hai, mà người Việt đã đọc âm chuẩn (Trường An) của chúng theo hệ
thống ngữ âm của mình. Cách đọc đó được duy trì (với những biến đổi ít
nhiều) cho đến tận ngày nay. Ví dụ: trà, mã, trọng, khinh, vượng, cận, nam,
nữ…
Tên gọi "từ Hán Việt" còn bao gồm cả những từ vốn không phải là gốc
Hán, mà do người Hán mượn một ngôn ngữ khác, rồi người Việt vay mượn
lại và đọc theo âm Hán Việt như các từ Hán Việt khác. Ví dụ: có những từ vốn
xuất thân nguồn gốc Nhật Bản như: trường hợp, nghĩa vụ, phục tùng, phục
vụ, điều chế, đại bản doanh, kinh tế, thủ tục, biện chứng, khái quát, mĩ thuật,
cộng hòa… Có những từ lại vốn xuất thân từ nguồn gốc Phạn (Sanskrit) như
Phật, nát bàn, Di lặc, Thích ca mầu ni… Có từ lại vốn thuộc nguồn gốc châu
Âu như: câu lạc bộ, Anh Cát Lợi, Mạc Tư Khoa…
Bên cạnh đó, những từ đo người Việt tạo ra nhưng sử dụng yếu tố cấu
tạo có nguồn gốc Hán thì cũng được gọi là từ Hán Việt. Chẳng hạn: y sĩ, đặc
công, thể công, công an, thúc bách, đại đội, tiểu đoàn, thiếu tá, hao mòn, ca
hát, hiểm nghèo, thanh vắng, ca ngại, người bệnh, tàu thủy, tàu hỏa, cướp
đoạt… (Tuy nhiên, loại này cần có thái độ nhìn nhận riêng).
1.d. Cũng là những từ gốc Hán nhưng có một nhóm được du nhập vào
tiếng Việt thông qua con đường khẩu ngữ của những người nói phương ngữ
tiếng Hán. Nhóm này có số lượng không nhiều và nói chung không đem lai
cho tiếng Việt ảnh hưởng đáng kể nào. Ví dụ: xì dầu, mì chính, vằn thắn, xá
xíu, sủi cảo, lầu lục tào xá, tào phớ, chí ma phù, bát bảo lường xà,…
1.e. Diễn biến của các từ gốc Hán nói chung trong tiếng Việt rất phức
tạp. Tuy vậy, những kết quả phân tích vễ chúng đã cho phép rút ra một số
hướng như sau:
+ Trước hết, chúng được Việt hóa, được "cải tổ” về mặt ngữ âm. Đó là
một tất yếu. Thậm chí, có hàng loạt từ được Việt hóa tới hai lần, dẫn tới hai
kết quả tồn tại song song: một cách đọc được gọi là cách đọc Hán Việt, một
cách đọc được gọi là Hán Việt Việt hóa. Cách đọc thứ hai làm mờ hẳn nguồn
gốc của chúng đi đưa chúng vào vị trí sâu hơn trong tiếng Việt, ví dụ: kính -
gương; các - gác; can - gan; cận - gần; kí - ghi; quả- góa; kiếm - gươm; họa -
vạ,…
Một biểu hiện khác của sự cải tổ về ngữ âm là rút ngắn từ lại Ví dụ: cử
nhân – cử (cụ cử); tú tài - tú (cậu tú); thục địa - thục (củ thục); tiểu đồng – tiểu
(chú tiểu); tiểu tiện – tiểu (đi tiểu),…
+ Về năng lực hoạt động, khả năng nhập hệ của các từ gốc Hán trong
tiếng Việt rất không đồng đều. Rất nhiều từ có khả năng hoạt động độc lập, tự
do, đến mức có lẽ trừ những người có vốn Hán học và những nhà nghiên cứu
ra, không mấy ai còn để ý đến hoặc "cảm thấy" nguồn gốc Hán của chúng
nữa. Ví dụ: đầu, bút, tuyết, thánh, hiền, tiên, Phật, ông, bà, cô, cậu, cao,
thấp…
+ Về mặt ý nghĩa, không phải từ gốc Hán nào trong tiếng Việt cũng giữ
y nguyên cái nghĩa vốn có của nó. Một số từ chỉ còn được dùng với một hoặc
vài nghĩa trong số nhiều nghĩa của chúng. Chẳng hạn từ nhất vốn có hơn 10
nghĩa nhưng đi vào tiếng Việt nó chỉ còn giữ lại nghĩa "thứ tự trên hết" khi
hoạt động tự do: hạng nhất, giỏi nhất, xếp thứ nhất,…Đôi khi trong những tổ
hợp vay mượn nguyên khối từ gốc Hán, nó mới lưu giữ ý nghĩa "số từ một”
như: nhất cử nhất dộng, nhất cử lưỡng tiện, nhất thể hóa..
Cũng có từ đổi hẳn nghĩa của mình đi. Ví dụ:
bạc (mỏng -> quên ơn); khinh (nhẹ -> coi thường); tâm (tim -> tấm lòng,
bụng dạ con người); tử tế (kĩ lưỡng -> tốt bụng); đáo để (đến đáy, đến tận
cùng -> độc ác, riết róng); sung sướng (đầy đủ, thông suốt -> sướng, hạnh
phúc)…
1.f. Các từ gốc Hán nói chung và từ Hán Việt nói riêng, có vị trí rất đặc
biệt trong từ vựng tiếng Việt. Chúng có số lượng rất lớn và năng lực sản sinh
mạnh. Chúng ra nhập vào mọi lĩnh vực giao tiếp của đời sống người Việt:
chính trị, văn hóa, khoa học, kĩ thuật, quân sự, ngoại giao, y tế, pháp luật…
Điều này không co gì lạ, bởi vị trí và quá trình tiếp xúc lâu đời giữa tiếng Hán
với tiếng Việt tất dẫn đến kết quả đó.
Điều quan trọng là ở chỗ chúng ta phải cố cách nhìn nhận và xử lí các
nhóm, các lớp trong lớp từ gốc Hán này sao cho thỏa đáng, phù hợp với nhu
cầu xây dựng một hệ thống từ vựng tiếng Việt phong phú, đầy đủ mà vẫn
không làm giảm bớt bản sắc tiếng nói dân tộc.
2. Các từ ngữ gốc Ấn Âu
2.a. Bộ phận từ ngữ này vào Việt Nam từ khi nước ta bị người Pháp
xâm lược và chịu ảnh hưởng trực tiếp của họ (giữa thế kỉ XIX). Vừa bằng con
đưòng khẩu ngữ vừa qua con đường chính thức trong giáo dục nhà trường
và giao tiếp hành chính, hàng loạt từ gốc Pháp đã du nhập vào tiếng Việt. Mặt
khác, một số từ nguồn gốc Anh; rồi gần đây, một số từ nguồn gốc Nga cũng
đã được tiếp thu: mít tinh, ten nít, bốc, bồi, cao bồi, tiu, xì ke, côm xô môn,
bôn sê vích, men sê vích, Trôtskit, Xô viết…
Nhìn chung, các từ ngữ gốc Ấn Âu (chủ yếu là gốc Pháp) đã thâm nhập
vào khá nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ đời sống giao tiếp thường ngày
(bao gồm tên gọi một số món ăn, thuốc men, quần áo, đồ đạc, dụng cụ…) cho
đến các ngành văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, y tế… đều có chúng
tham gia. Ví dụ: phomat, kem, xúc xích, pênixilin, canh ki na, caphêin, sa mi…
2.b. Khi được du nhập vào tiếng Việt, sự biến đổi về nghĩa của không
làm nảy sinh những đối lập, khác biệt quan trọng như là ở các từ gốc Hán.
Thế nhưng vấn đề cải tổ bộ mặt ngữ âm của chúng lại là cái quan trọng hàng
đầu, bởi vì cơ cấu âm thanh trong từ Ấn Âu khác, thậm chí khác xa với cơ
cấu âm thanh của từ tiếng Việt. Trước hết, chúng được đọc (nói) theo cách
đọc (nói) của người Việt. Có nghĩa là các từ được phân chia thành những âm
tiết tách rời (nếu là từ dài) và phát âm theo cơ cấu ngữ âm của âm tiết tiếng
Việt Người Việt thêm thanh điệu cho các âm tiết đó, bỏ bớt âm trong các tổ
hợp phụ âm hoặc lại chuyển âm này thành âm khác cho phù hợp với cách
phát âm của mình. Ví dụ: poste - bót; cafe - cà phê; carrotte - cà rốt; gare -ga;
douille - đui (đèn)
Biến đổi thứ hai là người Việt có xu hướng rút ngắn bớt độ dài của các
từ gốc Ấn Âu. Vì vậy, đối với những từ ngắn thì họ chỉ việc cấu trúc hóa lại
cho thành một âm tiết theo kiểu Việt là xong. Chẳng hạn: sou -xu; chef - xếp;
gare - ga; boy – bồi; valse - van; frein - vhanh; gramme - gam…
Ngược lại, những từ dài thường được người Việt rút ngắn bớt; đặc biệt
là ở những từ vay mượn qua tiếp xúc khẩu ngữ: enueloppe - lốp; essence -
xăng; casserole - xoong; creme - kem; cravate - ca vát; hydrogene - hydrô…
2.c. Ứng xử của các đơn vị từ ngữ gốc Ấn Âu trong tiếng Việt không
phải chỉ có một kiểu, một đường.
Có thể thấy ngay là những từ nào vốn là đơn tiết hoặc được đơn tiết
hóa thì khả năng nhập vào tiếng Việt rất mạnh. Chúng cũng tương tự như
những từ gốc Hán đã được Việt hóa hoàn toàn vậy. Ví dụ: xăng, lốp, dạ, len,
săm, phanh, đui, ghi, ga, ray, gác, bốt…
Tình hình của nhưng từ đa tiết có khác. Đặc biệt, những từ có ba âm
tiết trở lên, hoặc những từ có âm tiết còn mang tổ hợp phụ âm vốn được
mượn thông qua con đường sách vở, thì dấu ấn ngoại lai còn rất rõ: xà
phòng, may ô, ki lô, các tông, bê tông, pa nen, sơ mi, đăng ten, xích đu, sô cô
la, granito,…
2.d. Việc thu nhận, xử lí các từ gốc Ấn Âu trong tiếng Việt đã, đang và
sẽ tiếp tục là vấn đề thời sự; nhất là trong bối cảnh chúng ta đang càng ngày
càng mở rộng quan hệ hợp tác với thế giới như hiện nay về nhiều mặt. Cần
có thái độ đúng đắn đối với các từ vay mượn. Chúng ta không ngại ngần khi
cần phải vay mượn từ ngữ, khi mà ta còn thiếu, còn chưa có; vì đó là một
trong những phương sách làm giấu của mọi từ vựng. Sự hòa nhập của nhiều
từ vay mượn vào tiếng Việt đã chứng tỏ điều đó.
Thế nhưng, sẽ là không đúng, nếu ta có thái độ ỷ lại, chỉ trông chờ vào
nguồn từ ngữ của ngôn ngữ khác, mà không chủ động sáng tạo từ ngữ cho
vốn từ vựng của mình. Riêng việc phiên âm, tân trang lại các từ gốc Ấn Âu sẽ
theo một quy định có tính chất pháp lệnh thống nhất trong phạm vi toàn quốc
gia.
III. Như đã nói ở trên, trong mọi từ vựng, trừ những từ ngoại nhập ra,
phần cơ bản còn lại được gọi là lớp từ bản ngữ hay lớp từ thuần; chẳng hạn:
lớp từ thuần Việt, thuần Nga, thuần Khmer…
Lớp từ thuần Việt là cốt lõi của từ vựng tiếng Việt. Nó làm chỗ dựa và
có vai trò điều khiển, chi phối sự hoạt động của mọi lớp từ khác.
Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp từ thuần Việt là các từ gốc
Nam phương, bao gồm cả Nam Á và Tày Thái. Những kết quả nghiên cứu
gần đây cho thấy rằng nhiều bộ phận, nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có
những tương ứng, những quan hệ hết sức phức tạp với nhiều ngôn ngữ hoặc
nhóm ngôn ngữ trong vùng.
Ví dụ:
1. Tương ứng Việt - Mường: vợ, chồng, ông, ăn, uống, cười, bơi, nằm,
khát, trốn, gáy, mỏ, mâm, rá, chum, nòi, vại, váy, cơm, cây, củ, rạ, mây, cau,
cỏ, gà, trứng…
2. Tương ứng Việt - Tày Thái: đường, rẫy, bắt, bóc, buộc, ngắt, gọt,
dẵn, bánh, văng, mo, ngọn, méo, vải, mưa, đồng, móc, nụ, gà, chuột, đâm,…
3. Tương ứng với các ngôn ngữ nhóm Việt - Mường đổng thời với
nhóm Bru - Vân Kiều: trời, trăng, đêm, bụng, ruột, kéo, bốc, ngáy, khạc, củi,
hột, rắn, khô…
4. Tương ứng với nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer ở Tây Nguyên Việt
Nam: trời, mây, mưa, sấm, sét, bàn chân, đầu gối, da, óc, thịt, mỡ, bố, mẹ,
mày, nó, nuốt, cắn, nói, kêu, còi, mặc, nhắm, bếp, chổi, đọi…
5. Tương ứng với nhóm Việt - Mường và các ngôn ngữ Môn Khmer
khác: sao, gió, sông, đất, nước, lửa, đá, người, tóc, mặt, mắt, mũi, răng, lưỡi,
cổ, lưng, tay, chân, máu, xương, cằm, đít, con, cháu…
6. Tương ứng với nhóm Việt Mường và Tày Thái: bão, bể, bát, dao,
gạo, ngà voi, than, phân, cày, đen, gạo, giặt…
7. Tương ứng Việt - Inđônêxia: bố, ba, bu, mẹ, bác, ông, cụ, đất, trâu,
sông, cái, cây, núi, đồng, mất, nghe, đèn, đêm, trắng, tuổi, ăn, cướp, bướm,
sáng, rất, nấu, này/ ni, là, rằng, ngày…
Các ví dụ trên đây chứng tỏ rằng cội rễ của từ vựng tiếng Việt hết sức
phức tạp. Chúng gồm nhiều nguồn đan xen, chồng chéo, thậm chí phủ lấp lên
nhau. Nghiên cứu chúng sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc khảo
cứu nguồn gốc tiếng Việt nói chung.
B. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO PHẠM VI SỬ DỤNG
Trong từ vựng của ngôn ngữ nào cũng vậy, có những từ ngữ chỉ được
dùng trong một phạm vi hẹp nào đấy. Giới hạn của các phạm vi đó có thể là
lãnh thổ, có thể là tầng lớp xã hội người…
I. THUẬT NGỮ
1. Thuật ngữ là những từ ngữ làm tên gọi cho các khái niệm các đối
tượng được xác định một cách chặt chẽ, chuẩn xác trong mỗi ngành, mỗi lĩnh
vực khoa học chuyên môn.
Ví dụ: Trong sinh vật học ta có: họ, loài, giống, bộ, lớp, ngành, đột biến,
di truyền, tính trội, tính lặn, biến dị, phân bào, đơn bào, đa bào, miễn dịch,
kháng thể, kháng nguyên…
Trong ngôn ngữ học ta có: ăm vị, hình vị, từ vị, củ vị, nghỉa vị, ngữ pháp
vị, âm tố, âm vực, nguyên âm, phụ âm, bán nguyên âm, âm tiết, âm đệm, âm
chính, âm cuối, âm đoạn, âm vực…
Như vậy, mỗi môn khoa học, kĩ thuật đều có một hệ thống thuật ngữ
của mình. Tuy nhiên, đó không phải là những từ vựng biệt lập, mà chúng là
những bộ phận riêng trong từ vựng của một ngôn ngữ thống nhất.
2. Thuật ngữ luôn luôn biểu thị khái niệm được xác định trong một
ngành khoa học và lệ thuộc vào hệ thống khái niệm của ngành đó. Trong các
khoa học còn có danh pháp (danh từ khoa học) của từng ngành. Danh pháp
và thuật ngữ không phải là một. Danh pháp chỉ là toàn bộ tên gọi cụ thể của
các đối tượng được dùng trong từng ngành khoa học mà thôi. Chẳng hạn,
nếu ta có một danh sách về tên của các loài thực vật ở Việt Nam: xoan,
muồng, bằng lắng, lát hoa, lát hoa, lát vân, lim, đinh, sến, táu, dổi, dẻ, xoan
đào… thì đó là danh pháp thực vật Việt Nam.
So với từ ngữ thông thường thì thuật ngữ có ngoại diên hẹp hơn nhưng
nội hàm sâu hơn và được biểu thị một cách lôgic chặt chẽ hơn. Trong thuật
ngữ không bao giờ biểu thị những sắc thái phụ như thái độ đánh giá của
người nói, xấu nghĩa hay đẹp nghĩa, khen hay chê, kính trọng hay xem
thường… Từ ngữ bình thường cũng biểu thị khái niệm nhưng đó là "khái niệm
đời thường" chứ không hẳn là "khái niệm khoa học", có tính nghiêm ngặt của
nó. Ví dụ: nước - "hợp chất của ôxi và hiđrô" khác với nước trong nước mắt,
nước dãi, nước bọt, nước tiểu, mỡ nước, phở nước, nước xốt, nước mắm,
nước mưa, nước ao…
3. Thuật ngữ có ba đặc điểm cơ bản sau đây
3.a. Tính chính xác. Chính xác ở đáy là chính xác và chuẩn tắc về nội
dung khái niệm do nó biểu thị. Nội dung đó có thay đổi hay không, thay đổi
như thế nào là tùy theo sự phát triển, khám phá của ngành khoa học chứ
không lệ thuộc vào những biến đổi của hệ thống từ vựng, ngôn ngữ nhu các
từ thông thường.
3.b. Tính hệ thống. Mỗi thuật ngữ đều nằm trong một hệ thống nhất
định và hệ thống ấy phải chặt chẽ. Trước hết là phải bảo đảm tính hệ thống
về mặt nội dung trong toàn bộ hệ thống các khái niệm của từng ngành. Từ
tính hệ thống về nội dung, dẫn đến tính hệ thống về hình thức biểu hiện. Tính
hệ thống về hình thức, ngược lại giúp cho người ta biểu thị được và nhận ra
được tính hệ thống trong nội dung, ví dụ: Trong toán học ta có: đại số, hàm
số, tham số, hiệu số, thương số, tích số, tổng số, tử số, mẫu số, cơ số, căn
số, hàng số, biến số, biến chính, biến bổ trợ, biến lưỡng trị, biến bù, biến phụ
thuộc, biến riêng, biến độc lập, biến ngẫu nhiên…
3.c. Tính quốc tế. Trước hết phải là quốc tế hóa về mặt nội dung. Đây
là yêu cầu tất yếu; và nói chung nội dung khái niệm của một ngành khoa học
trong các nước là không lệch nhau. Đó cũng là biểu hiện của sự thống nhất
khoa học trên con đường nhận thức chân lí.
Cái khó là quốc tế hóa về mặt hình thức. Không thể đòi hỏi sự quốc tế
hóa hoàn toàn về mặt hình thức của các thuật ngữ được, vì mỗi ngôn ngữ cố
những thuộc tính riêng của nó. Có nên chăng là chỉ phấn đấu đạt tới tính quốc
tế ở cách xây dựng cấu trúc của mỗi thuật ngữ mà thôi.
Tuy vậy, thực tế cho thấy nhiều ngành khoa học ở một số khu vực trên
thế giới đã có những hệ thống thuật ngữ ít nhiều mang tính quốc tế trong khu
vực đó. Ví dụ: khu vực Châu Âu vói các ngôn ngữ Ấn Âu, khu vực tiểu Á, Bắc
Phi với tiếng Ả Rập, khu vực Đông Á và Nam Á với ảnh hưởng của tiếng
Hán…
4. Vấn đề xây dựng và tiêu chuẩn hóa các hệ thống thuật ngữ thuộc
các ngành khoa học ở nước ta đã được nêu ra, thực hiện và vẫn đang tiếp
tục thực hiện. Một số từ điển thuật ngữ đối chiếu đã được biên soạn để phục
vụ cho những ngành hữu quan và đang tiếp tục xây dựng, biên soạn thêm,
hoặc bổ sung, hoàn thiện.
II. TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG
1. Những từ thuộc một phương ngữ (tiếng địa phương) nào đó của
ngôn ngữ dân tộc và chỉ phổ biến trong phạm vi lãnh thổ của địa phương đó,
thì được gọi là từ địa phương.
Như vậy khái niệm từ địa phương trước hết nhằm vào những khác biệt
về mặt từ vựng chứ không phải là những khác biệt về mặt ngữ âm. Sự khác
biệt chẳng hạn như: lắt lẻo - lắc lẻo; gập ghềnh - gập nghình… không phải là
mục tiêu chú ý của từ vựng học.
2. Có những con đường khác nhau đã dẫn tới sự hình thành những
kiểu từ địa phương khác nhau.
2.a. Do sự vật được gọi tên chỉ có ở một vài địa phương nhất định nên
tên gọi của chúng trở thành từ địa phương. Loại này, trong từ vựng chung
của toàn dân tộc không có từ tương ứng với chúng. Ví dụ: nhút, lớ, (quả) tắt,
chẻo… (phương ngữ Trung Bộ), sầu riêng, măng cụt, tràm, chôm chôm, trâm
bàu, chao… (phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam).
2.b. Có những từ cùng gọi tên một sự vật, hiện tượng với từ trong từ
vựng chung; nhưng hai từ khác nhau hoàn toàn về mặt ngữ âm. Ví dụ: ngái -
xa, nỏ - không, rào - sông, rú - núi, mô - đâu, tê - kia, rứa - thế, chộ - thấy, trốc
- đầu, nhủ - bảo, xán - đập /ném… (phương ngữ Trung Bộ); má - mẹ, điệp -
phượng, mè - vừng, muỗng - thìa, lượm – nhặt, mác cỡ - xấu hổ… (phương
ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ).
Trường hợp này có thể có hai nguyên nhân chính. Một là, cùng một sự
vật nhưng mỗi địa phương, trong quá trình phát triển cùng dân tộc, đã định
danh một cách khác nhau. Dần dần một tên gọi (một cách định danh) của một
địa phương trở nên phô biến rộng rãi, khiến cho tên gọi của địa phương kia
không thể phổ biến được nữa. Nó chỉ còn hoạt động tồn tại trong phạm vi địa
phương và trở thành từ địa phương. Hai là, cả hai từ vốn đã cùng là từ của từ
vựng chung, nhưng sau đó, vì xung đột đồng nghĩa, một từ phải rút lui và
được bảo toàn trong phạm vi địa phương rồi trở thành từ địa phương. Các
cập từ: đàu - trốc, nhủ - bảo… là như vậy.
2.c. Nhiều từ vốn là dạng cổ của từ tương ứng trong từ vựng chung
hiện nay. Dạng cổ đó được bảo toàn trong một địa phương, còn dạng mới,
dạng hậu kì của chúng thì đi vào từ vựng chung. Kết cục là hai dạng chỉ khác
nhau ở một bộ phận ngữ âm nào đó mà thôi. Ví dụ: gáy - gái, chí - chấy, nác -
nước, kha- gà, khót –gọt, cúi – gối, ví – với,…
2.d. Kiểu từ địa phương thứ tư là những từ đồng âm với từ trong từ
vựng chung. Có hai khả năng có thể dẫn đến tình hình này: Một là chúng
quan hệ đồng âm thuấn túy, ngẫu nhiên, hai là do trước đây, chúng vốn chỉ là
một từ, nhưng một địa phương nào đó đã chuyển đổi đối tượng gọi tên của từ
đi, theo những chiều hướng khác nhau; hoặc ngược lại, từ trong từ vựng
chung đã chuyển đổi đi như thế. Chúng ta có thể so sánh những ví dụ sau
đây.
Từ Nghĩa chungNghĩa trong phương
ngứ Nam Bộ
ốm có bệnh gầy
hòm vật hình hộp đê đựng đỗ đạc săng, quan tài
thằn lằn thằn lằn thạch sùng
kiềng bếp kiềng rế
3. Các biến dạng địa phương của ngôn ngữ về mặt này hay mặt khác,
hiện đang tồn tại như một tất yếu. Điều đó, một mặt nói lên rằng ngôn ngữ
thống nhất của dân tộc vẫn tồn tại và thể hiện trong tính đa dạng của nó; mặt
khác, lại nói lên rằng sự tồn tại các tiếng địa phương là kết quả của những
diễn biến lịch sử xã hội rất khác nhau. Chính vì thế, từ vựng địa phương được
xen; như nơi bảo tồn được những chứng tích xa xưa của ngôn ngữ dân tộc.
Trong nhiều khía cạnh khảo sát, xử lí đối với từ địa phương, việc tìm tòi
những tàn dư cổ còn sót lại trong đó, là điều rất có giá trị và đáng chú ý.
III. TỪ NGHỀ NGHIỆP
1. Từ nghề nghiệp là một lớp từ bao gồm những đơn vị từ ngữ được sử
dụng phổ biến trong phạm vi những người cùng làm một nghề nào đó.
Ví dụ: các từ: thìu, choòng, lò chợ, lò thượng, đi lò… là những từ thuộc
nghề thợ mỏ. Các từ: bó, vét, xịt, phủ, bay, hom, thí một, thí hai, lót sống… là
của nghề sơn mài.
2. Thật ra, nghề nào cũng có những từ ngữ riêng của nó để chỉ: đối
tượng lao động, động tác lao động, nguyên liệu sản xuất, sản phẩm làm ra,
công cụ để lao động,…
Tuy vậy, không phải là hễ người ngoài nghề thì không thể biết được từ
nghề nghiệp. Người ta (trong phạm vi rộng rãi toàn xã nội) vẫn có thể hiểu
được chúng nhiêu hay ít tùy theo mức độ quen biết của xã hội đối với nghề
đó.
Ví dụ, nghề làm ruộng ở Việt Nam, nói chung cả xã hội đều không xa lạ
với nó. Ai cũng biết và sử dụng rất tự nhiên các từ như: cày, bừa, ruộng, bón,
gieo… nhưng chắc chắn không phải ai cũng biết các từ: chia vè, cứt gián, nứt
nanh, cắm vè, lúa con, bông cài, đỏ đuôi, đứng cái…
Như vậy, lớp từ nghề nghiệp tập trung chủ yếu ở những nghề mà xã
hội ít quen như: nghề làm giấy, làm đồ gốm, làm sơn mài hoặc hát tuồng, hát
chèo vốn cũng được coi là nghề), nghề đúc đồng, nghề chài lưới…
Ở một nước nông nghiệp như Việt Nam, những nghề thủ công nghiệp
hoặc tiểu công nghiệp vốn phân tán và không tiếp xúc rộng rãi với toàn xã hội.
Vì thế, những nghề thuộc phạm vi này có nhiều "từ nghề nghiệp" hơn cả. Ví
dụ:
Nghề thợ mộc có: bào cóc, bào phá, bào xoa, chàng tách, mộng vuông,
mộng nanh sấu, mộng mỏ sẻ, xảm, phạt mộc, cất nóc, cầu phong, tàu mái,
bát đấu, thượng lương, long cốt, cột thành, kẻ, bẩy, thuận, bức bàn… Nghề
hát tuồng có: đào, kép, lão, mụ, vai ấu, đào thương, đào chiến, đào điên, đào
võ, đào lẳng, đào yêu, đào đẻ, đào tiên, kép văn, kép võ, kép xanh, kép phong
tình, kép trắng, kép đỏ, kép rằn, kép núi, kép biển, lão đỏ, lão trắng, lão trắng,
lão đen, lão văn, lăo võ, mụ ác, mụ lành… (xem thêm: Tạp chí săn khấu. 11 -
12/1977).
3. Nói chung, sự hoạt động của các từ nghề nghiệp là không đồng đều;
có từ thì vô cùng hạn chế, nhưng cũng có không ít từ ngữ đã đi vào vốn từ
vựng chung. Chúng được coi là một trong những nguồn cung cấp thêm từ
ngữ để làm phong phú hơn cho vốn từ vựng chung.
IV. TIẾNG LÓNG
1. Nói cho giản dị thì tiếng lóng là một bộ phận từ ngữ do những nhóm,
những lớp người trong xã hội dùng để gọi tên những sự vật, hiện tượng, hành
động… vốn đã có tên gọi trong vốn từ vựng chung, nhằm giữ bí mật trong nội
bộ nhóm mình, tầng lớp mình.
Khi nói đến tiếng lóng, người ta vẫn quen nghĩ rằng đó là ngôn ngữ
riêng của những bọn lưu manh, trộm cắp, bất lương, bọn làm ăn bất chính.
Cách hiểu này có phần hẹp hòi và không phản ánh đúng thực tế cuộc sống
ngôn ngữ.
Sự thật là: mỗi tầng lớp xã hội, nói đúng hơn là mỗi một "tiểu xã hội"
đều có thể có những từ ngữ riêng (nhiều hay ít), được sử dụng riêng, nhằm
giữ những bí mật riêng hoặc đùa vui riêng. Ví dụ: Bộ đội phòng không không
quân có những từ ngữ như: lính phòng không (chưa vợ), lái F (vợ còn trẻ,
chưa có con), lái bà già (vợ đã có vài con, vợ đã cứng tuổi), đi Rờ, đi bán kính
(tranh thủ về nhà trong khoảng cách gần…).
Ngay cả sinh viên cũng có tiếng lóng của họ: phao (tài liệu sử dụng
gian lận trong khi thi), chết (thi hỏng), ngánh (nhìn trộm bài), phim (ghi sẵn bài
vào giấy để xem trộm), a lô (ra hiệu cầu cứu hoặc bảo cho bạn).
2. Mặc dù cùng là những từ ngữ được dùng hạn chế trong từng nhóm,
từng tầng lớp người, nhưng tiếng lóng và từ nghề nghiệp căn bản khác nhau.
Từ nghề nghiệp dùng để gọi tên cho những đối tượng có trong nghề. Nó
không có tên gọi tương ứng trong từ vựng chung. Như vậy, ứng xử ngôn ngữ
của từ nghề nghiệp và tiếng lóng là khác nhau. Tính chất hạn chế trong sử
dụng của hai loại từ này cũng khác nhau: tiếng lóng được dùng để giữ bí mật
một cách cố ý. Mặt khác, đôi khi cũng còn phải tính đến cả yếu tố mốt của
tiếng lóng nữa.
Chính vì vậy, khi tính bí mật của một từ tiếng lóng bị giải tỏa, tính chất
mốt của nó đã mất đi, thì nó cũng bị xóa bỏ. Tiếng lóng rất ít khi đi vào vốn từ
vựng chung, nhưng từ nghề nghiệp thì ngược lại.
3. Ở nước ta, trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, trừ một
nhóm rất ít người buôn gian bán lận, làm ăn bất chính hoặc trộm cắp lưu
manh, có vốn tiếng lóng khá phong phú để góp phần che giấu hành vi của họ,
hoặc tỏ ra cho có vẻ “anh chị, thời thượng" còn thì các tầng lớp xã hội khác
rất ít tiếng lóng (mà tiếng lóng của họ lại chỉ để vui đùa là chủ yếu).
Như đã nói, tiếng lóng có tính "thời sự" và "mốt" của nó. Việc tổng kết,
phát hiện nghĩa tiếng lóng và cách cấu tạo của nó luôn luôn lạc hậu" so với sự
đổi mới vì tính không ổn định của nó.
V. LỚP TỪ CHUNG
1. Trừ những từ ngữ thuộc các lớp từ được sử dụng hạn chế về một
lãnh thổ (từ địa phương) hoặc về một "phương ngữ xã hội" (thuật ngữ, tiếng
lóng, từ nghề nghiệp) số còn lại được gọi là lớp từ vựng chung hoặc từ vựng
toàn dân.
Ngay tên gọi của lớp từ này cũng đã ngụ ý rằng nó gồm những từ ngữ
mà toàn dân, mọi người, mọi nơi, mọi lúc đều có thể sử dụng một cách rộng
rãi.
Lớp từ này có khối lượng từ ngữ lớn nhất, và trong từ vựng của ngôn
ngữ nào cũng vậy, nó đóng vai trò làm nền tảng. Nó cũng là cơ sở để thống
nhất từ vựng và thống nhất ngôn ngữ dân tộc, đồng thời là tài sản chung để
mọi thành viên trong dân tộc, trong xã hội sử dụng làm công cụ giao tiếp
chung; bởi vì nó gọi tên cho tất cả những sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá
trình… thiết yếu nhất trong sự tồn tại của đời sống con người.
2. Trong tương quan với từ địa phương, từ nghề nghiệp, thuật ngữ và
cả tiếng lóng, lớp từ ngữ chung vừa làm chỗ dựa cho chúng, lại vừa được
chúng bổ sung cho. Trong trường hợp cần thiết, vẫn có những từ ngữ trong
các lớp từ được sử dụng hạn chế đó, được chấp nhận và tiếp thu vào vốn từ
vựng chung (dĩ nhiên, không phải là tất cả mọi từ). Đó là sự tác động qua lại
hai chiều, là biểu hiện của tính thống nhất trong cái đa dạng của từ vựng.
C. PHÂN LỚP TỪ NGỮ TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC
I. Tích cực và tiêu cực ở đây được hiểu là từ ngữ có đóng vai trò tích
cực trong đời sống giao tiếp hay không, tức là chúng có thường xuyên được
sử dụng hay không.
1. Trong thực tế, có rất nhiều từ ngữ luôn luôn được mọi người sử
dụng ở mọi nơi, mọi lúc. Nghĩa là chúng thường xuyên xuất hiện trong giao
tiếp (ở dạng này hay dạng khác, nói hay viết, độc thoại hay đối thoại…).
Chúng thuộc lớp từ tích cực vì được sử dụng "một cách tích cực".
2. Ngược lại, có những từ ngữ rất ít được sử dụng, hoặc chỉ sử dụng
trong bối cảnh giao tiếp nào đó (vì không phải là quen thuộc với đa số người
trong xã hội). Chúng thuộc lớp từ tiêu cực vì chỉ được sử dụng "một cách tiêu
cực", ví dụ, trong tiếng Việt, các từ: am, lệ (sợ), thái thú, suất đội… là những
từ tiêu cực; còn: nhà, người, đi, đẹp… là những từ tích cực.
II. Mỗi địa phương, mỗi tầng lớp xã hội, mỗi lứa tuổi, giới tính, mỗi nghề
nghiệp và ngay cả mỗi cá nhân… đều có từ vựng tích cực và tiêu cực của
riêng mình, bởi vì việc tích lũy, xây dựng và sử dụng từ ngữ ở các đối tượng
đó không thể đồng đều, như nhau được, và do rất nhiều nhân tố tác động,
ảnh hưởng.
1. Ở đây, chúng ta nói đến từ ngữ tích cực của cả cộng đồng dân tộc
trong bối cảnh toàn xã hội; còn từ ngữ tích cực của cả đối tượng có tính chất
bộ phận như nói trên, sẽ được nghiên cứu riêng, do những yêu cầu riêng.
2. Lớp từ ngữ tích cực là thành phần cơ bản, trụ cột của từ vựng.
Chúng cớ là: để dạy tiếng cho người nước ngoài, người ta thường biên soạn
những từ điển tối thiểu, bao gồm những từ ngữ hay được dùng nhất để cung
cấp cho họ. Từ điển này sẽ góp phần giúp cho họ nhanh chóng nắm bắt được
những từ ngữ thường được dùng một cách tích cực nhất và nhanh chóng đi
vào đời sống giai tiếp chung với người bản ngữ.
Khi phương pháp thống kê, nghiên cứu định lượng được áp dụng vào
từ vựng học, người ta nhận xét rằng từ vựng tích cực bao gồm những từ ngữ
có tần số xuất hiện cao (hay được sử dụng sử dụng một cách tích cực) và độ
phân bố lớn (được sử dụng rộng rãi trong nhiều hoàn cảnh và loại hình giao
tiếp). Trên cơ sở lý thuyết như vậy, người ta đã tiến hành xây dựng các loại
từ điển tần số (từ điển tần số chung và từ điển tần số cho từng lĩnh vực) để
phục vụ cho việc dạy và học tiếng. Ví dụ như từ điển tần số tiếng Anh, tiếng
Nga, tiếng Pháp, tiếng Tiệp, tiếng Đức, tiếng Việt…
III. Như trên đã nói, lờp từ tiêu cực bao gồm những từ ngữ ít được sử
dụng trong ngôn ngữ chung. Vậy những thuật ngữ khoa học, kĩ thuật thuộc
các lĩnh vực chuyên môn hẹp và sâu, những từ địa phương không có khả
năng phổ biến; đặc biệt là những từ đã cổ, đã lỗi thời, hoặc vừa mới nảy sinh
chưa được toàn xã hội biết đến và sử dụng… đều thuộc lớp từ này.
Có ba bộ phận của lớp từ tiêu cực cần xét kĩ là từ cổ, từ lịch sử và từ
mới.
1. Từ cổ
Từ cổ là những từ bị đẩy ra ngoài hệ thống từ vựng hiện tại, bởi trong
quá trình phát triển, biến đổi, đã xảy ra những xung đột về đồng nghĩa hoặc
đồng âm và bị từ khác thay thế.
Chính vì vậy các từ cổ đều có từ tương ứng, đồng nghĩa với chúng
trong trạng thái từ vựng hiện tại.
Sự thật là mức độ tiêu biến của các từ cổ không đồng đều. Có hai dạng
cần phân biệt:
a) Những từ đã mất hẳn trong từ vựng hiện tại. Muốn tìm và hiểu
những từ này phải lùi lại những tài liệu ghi chép được trong quá khứ để khảo
sát và phân tích, ví dụ trong tác phẩm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (thế kỉ
XV) có những từ cổ của tiếng Việt thuộc dạng này như: bui (chỉ), cóc (biết),
chăng (không), khứng (chịu), mảng (nghe), mựa (đừng, chớ), máy (với),
tượng (có lẽ, hình như), thin (giữ gìn), thủa (từ nối), phen (so bì), tua (nên),
chỉn (chỉ, vẫn), phô (các, mọi), xoa (hẩm), lọn (trọn), hòa (và)…
b) Những từ đã bị đẩy khỏi vị trí vốn có của chúng nhưng vẫn còn để lại
dấu vết của mình: trở thành thành tố cấu tạo trong một vài từ nào đó; hoặc
cũng có khi đứng trong một thành ngữ, tục ngữ nào đó mà người ta hiện nay
không biết ý nghĩa của chúng là gì. Chẳng hạn, trong một số tác phẩm cổ
thuộc các thế kỉ trước, chúng ta còn thấy có hàng loạt đơn vị như vậy (đối
chiếu với các từ hiện đại tương ứng):
âu (lo âu), lác (lác đác), lệ (e lệ), nàn (phàn nàn), bỏng (bé bỏng), rập
(giúp rập), dấu (yêu dấu), giã (giã từ), han (hỏi han)
Lại có một số từ tuy không trở thành thành tố cấu tạo từ như trên mà
vẫn đứng trong một số lối nói hạn chế nào đó, nhưng người ta ít hiểu hoặc
không hiểu chúng nữa. Ví dụ:
khôn (khôn lường; khôn xiết…); dấu (con vua, vua dấu, con châu chấu,
châu chấu yêu; chúa dấu vua yêu một cái này (Hồ Xuân Hương); cả (sông cả,
con cả, cả ăn cả mặc lại càng cả lo), đăm, chiêu (ga kia may gảy chiêu đăm);
giái (già giái non hột); dái (khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương)
(đăm = bên phải; chiêu = bên trái; giái = quả, trái; dái = sợ, kính, nể).
2. Từ lịch sử
a) Từ lịch sử là những từ bị đẩy ra ngoài phạm vi từ vựng chung, tích
cực bởi các nguyên nhân lịch sử và xã hội. Khi đối tượng từ biểu thị, gọi tên
bị gạt ra ngoài đời sống xã hội thì tên gọi của nó cũng mất dần vị trí vốn có
trước đây. Chẳng hạn, các từ gọi tên chức tước, phẩm hàm, quan chế, các
công việc thi cử thuế má… thời xưa trong tiếng Việt, nay đã trở thành từ lịch
sử. Trong đời sống giao tiếp chung, rất hiếm khi chúng được nhắc tới: thái
thú, thái học sinh, thượng thư, toàn quyền, công sứ, đốc đồng, tú kép, tú mền,
cử nhân, hoàng giáp, thám hoa, bảng nhãn, nghè, cổng, khóa sinh, ống
quyển, áp triện…
Về cơ bản, đối với xã hội ngày nay, những từ như thế người ta vẫn có
thể hiểu được hoặc hiểu được ít nhiều. Chúng không có từ đồng nghĩa trong
từ vựng hiện nay như là các từ cổ. Khi nói về những vấn đề lịch sử xã hội thời
trước, nếu cần, người ta vẫn phải sử dụng những từ đó.
b) Khi nói về từ lịch sử và từ cổ trong tiếng Việt, ta cần chú ý tới một bộ
phận gồm những từ như: hỏa tiễn, hỏa xa, hỏa châu, hỏa pháo, hải đăng, hải
phỉ, tiềm thủy đĩnh, hàng không mẫu hạm, điền chủ, điền trang, dân cày, khai
hội, gác đờ bu, gác đờ xen, pooc ba ga, ghi đông…
Nếu lấy tiêu chí là bị từ khác thay thế (từ đồng nghĩa với chúng trong từ
vựng hiện đại) thì phải nhất loạt gọi chúng là các từ cổ. Thế nhưng, thực tế là
người hiện thời hôm nay vẫn hiểu chúng khá rõ, thậm chí đôi khi rất rõ và vẫn
dùng, vì chúng chỉ mới bị thay thế cách đây không lâu, hoặc đang trên đường
bị thay thế hẳn. Bởi vậy, để phản ánh tình hình đó, có khi người ta tách chúng
ra thành một nhóm gọi là nhóm các từ cũ với ngụ ý phân biệt về tính chất và
mức độ cổ so với các từ cổ thực sự, xa xôi với tình trạng ngôn ngữ ngày hôm
nay.
3. Từ mới
Trong chương XVI, chúng ta đã nói về một số con đường xuất hiện,
cách cấu tạo các từ ngữ mới. Đó là một chuyện, còn vị trí và vai trò của các
từ ngữ mới đối với từ vựng và đời sống giao tiếp lại là một chuyện khác.
a) Khi một từ vừa mới xuất hiện, chắc chắn chưa có nhiều người trong
phạm vi toàn xã hội biết đến. Nó còn nằm trong phạm vi giao tiếp hẹp nào đó.
Vì thế nó thuộc về lớp các từ ngữ tiêu cực.
Tuy vậy, nếu sau đó, từ này được chấp nhận và phổ biến trong xã hội
một cách rộng rãi thì nó lại nhanh chóng đi vào lớp từ vựng tích cực. Do đó
cái gọi là từ mới phải luôn luôn được xét trong một thời gian cụ thể, một tình
trạng từ vựng cụ thể. Chẳng hạn hiện nay trong tiếng Việt các từ ngữ: tin học,
phần cứng, phần mềm, đầu vào, đầu ra… mới được nói tới trên một số
phương tiện thông tin đại chúng. Chúng chưa được dùng phổ biến sâu rộng
trong phạm vi toàn xã hội và chưa đứng vào lớp từ tích cực của toàn dân.
Thời gian và sự sử dụng của xã hội đối với những từ này trong tương lai sẽ
trả lời: chúng có đứng vào lớp từ đó hay không.
Ngược dòng thời gian cách đây khoảng 10-15 năm, các từ cát xét, tủ
lạnh, bếp ga… vẫn còn là những tên gọi mới trong từ vựng tiếng Việt, giống
như các từ: kháng chiến, súng cối, đại liên, tiểu liên, trung đội, đàn công, vành
đai, tè, ngụy, lô cốt… trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp hoặc:
Việt minh, phê bình. Liên Xô, ủy ban, yêu cầu, phân công, đoàn thể… vào
thời kì Cách mạng tháng Tám vậy. Thế nhưng ngày nay, các từ đó đã đi vàc
lớp từ tích cực của tiếng Việt; và màu sắc mới của chúng không còn nữa.
Thời gian để cho một từ mới có chính thức đi vào lớp từ tích cực hay
không, thường là ngắn, thậm chí đôi khi rất ngắn. Ngược lại, thời gian để một
từ trở nên cũ hoặc cổ thường là kéo dài hơn vì nó tốn tại dai dẳng khá lâu.
b) Từ vựng của mọi ngôn ngữ được phong phú hóa, đa dạng hóa
không phải chỉ ở chỗ có những từ ngữ mới xuất hiện. Nó còn thể hiện ở việc
tạo dựng nghĩa mới cho những từ hiện có; hoặc tìm tòi những cách dùng mới
cho chúng. Nói khác đi, từ vựng chẳng những có những cái mới ở bề mặt, mà
còn có những cái mới ở chiều sâu của nó. (Điều này chúng ta đã nói tới ở
chương XVI về những biến đổi trong từ vựng.)
Nếu ta nói rằng nghĩa này hay nghĩa kia của một từ là nghĩa, mới, ta
phải luôn luôn đặt trong một mốc thời gian để so sánh. Ví dụ, cách đây vài
chục năm các nghĩa tương ứng của một số từ ngữ như sau là nghĩa mới:
tổ chức = làm đám cưới
xây dựng = lấy vợ, lấy chồng
đặt vấn đề = ngỏ lời về ý định yêu đương.
Khoảng mươi năm về trước, nghĩa của từ phường hội trong lối nói chủ
nghĩa tập thể phường hội; hoặc lạnh trong chiến tranh lạnh; và cụm từ bật
đèn xanh cũng ở trong tình trạng như vậy.
Thế, có nghĩa là: nghĩa mới của từ cũng có giới hạn tiêu cực và tích
cực giống như từ mới.
Hiện nay trong tiếng Việt, con đường mở mang, tạo dựng nghĩa mới
cho từ đang phát triển mạnh bên cạnh việc tạo các từ mới. Một trong những
biểu hiện rõ của con đường đo là hiện tượng dùng một từ trong những tư
cách từ loại khác nhau. Điều này có lí do của nó. Khi chuyển đổi từ loại của từ
như vậy, sự biến động trong cấu trúc nghĩa của chúng đã xảy ra và dẫn tới cả
những biến động về bản chất từ vựng ngữ pháp của chúng nữa. Ví dụ: băn
khoăn - những băn khoăn; ảnh hưởng tới chúng ta - những ảnh hưởng của
phong trào cách mạng…
Tương tự như vậy, ta có hàng loạt trường hợp: những day dứt; có hai
suy nghĩ nghiêm chỉnh; rất con người; tác phong công nghiệp lối làm ăn còn
rất tiều nông…
Lẽ đương nhiên, ở đây phải luôn luôn lưu ý tới những cách dùng,
những sáng tạo cá nhân. Rất có thể một tác giả, một cá nhân nào đó trong khi
sử dụng ngôn từ có thể xây dựng, đưa ra một cách dùng mới, một sắc thái
mới trong nội dung cho từ; và cách dùng đó, sắc thái mới đó rất độc đáo. Thế
nhưng, nó có được phổ biến, được cả xã hội chấp nhận và dùng theo hay
không, lại là một vấn đề khác.
Ví dụ, chúng ta rất thú vị với lối nói ga bay (= sân bay); bầu mây (= bầu
trời); trả động (= báo yên)… của Nguyễn Tuân; nhưng chúng chỉ lóe sáng lên
trong tác phẩm của riêng ông mà thôi. Những trường hợp tương tự như vậy
mối chỉ đem lại cho từ cái gọi là nghĩa không thường trực - kết quả của những
cách dùng ngôn ngữ đậm màu sắc tu từ.
D. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO PHONG CÁCH SỬ DỤNG
I. Các phong cách chức năng, các ứng xử ngôn ngữ trong những hoàn
cảnh giao tiếp khác nhau, được hình thành và nhận diện dần dần trong quá
trình phát triển của ngôn ngữ và xã hội. Từ vựng học cũng phân lớp từ vựng
theo tiêu chí phong cách chức năng nhưng không hoàn toàn là sự khảo sát,
phân loại của phong cách học.
II. Ngôn ngữ giao tiếp của con người tồn tại dưới hai dạng cơ bản là nói
và viết. Về mặt thuật ngữ, trước đây chúng ta vẫn thường gặp các tên gọi
phong cách nói hoặc phong cách khẩu ngữ đặt trong thế đối lập với phong
cách viết hoặc phong cách sách vở.
Tuy rằng gọi tên như vậy, nhưng thực tế trong nội dung người ta muốn
phân biệt giữa một bên là ngôn ngữ thông tục, "đời thường", chưa có sự gia
công trau dồi, ít gắn với những chuẩn tắc nghiêm nhặt; còn một bên là ngôn
ngữ được trau dồi, chọn lọc, gắn liền với những chuẩn tắc đó.
Thật ra, ngay trong phong cách nói cũng có sự phân biệt giữa lời nói
được chọn lọc, trau dồi (ví dụ như lời diễn giảng, thuyết trình, lời phát biểu
chính thức có chuẩn bị sẵn...) với lời nói chưa được chọn lọc kĩ và trau dồi
cẩn thận (ví dụ như trong nói năng thân mật thông thường hàng ngày, thậm
chí có thể chấp nhận cả tính chất thông tục trong đó). Loại thứ nhất ở đây
nhích gần về phía ngôn ngữ thuộc phong cách viết hơn; còn loại thứ hai, từ
bản chất của nó, được gọi đích danh là khẩu ngữ - một tên gọi mà tuy không
nói ra một cách hiển minh, nhưng ít nhiều bên trong, người ta có ý phân biệt
nó với ngôn ngữ nói, nói chung.
Như thế, có thể nhận ra trong từ vựng ba lớp từ mang đặc điểm của ba
phong cách: lớp từ ngữ khẩu ngữ, lớp từ ngữ thuộc phong cách viết, và cuối
cùng là lớp từ ngữ trung tính (hoặc còn gọi: trung hòa về phong cách) có thể
dùng trong mọi phong cách khác nhau.
III. LỚP TỪ KHẨU NGỮ
Cái gọi là khẩu ngữ mà chúng ta xét ở đây, chỉ gồm khẩu ngữ của toàn
xã hội nói chung.
Có thể nhận thấy ở lớp từ khẩu ngữ của tiếng Việt một số dấu hiệu sau
đây:
a. Về mặt cấu trúc hình thức, các từ ngữ thuộc lớp này khi đi vào hoạt
động giao tiếp, ít nhiều có thể "tự do, phóng túng” nếu điều kiện cho phép. Nói
cách khác, chúng có nhiều khả năng biến đổi cấu trúc vốn có của mình. Ví dụ:
- Tách rời ra và chen thêm những yếu tố khác vào.
học hành - học với hành, học với chả hành
chồng con – chồng với con
- Tăng cường các dạng láy hoặc lặp lại từ
ông - ông ông ênh ênh
đàn ông - đàn ông đàn ang
con gái - con gái con đứa
b. Ưa dùng những từ ngữ có sắc thái đánh giá cực đại theo chiều nào
đó để cường điệu sự đánh giá của người nói, lôi cuốn sự chú ý của người
nghe. Ví dụ: lo thắt ruột, chờ đỏ mắt, đánh sặc tiết, chạy bở hơi tai, chẻ xác
ra, no đòn, cứng họng, (tức) sôi máu, (giận) tím mặt…
c. Chấp nhận những lối xưng hô thân mật hoặc đậm màu sắc bày tỏ
thái độ. Bên cạnh đó là những từ ngữ có sắc thái thông tục, thậm chí thô
thiển. Chẳng hạn, về từ xưng hô, có thể dùng: mày, tao, cậu, tớ, mình, chúng
mình, bọn mình, y, hắn, hăn ta, bọn nó, tụi nó, thằng, thằng cha, con mẹ, mụ,
con mụ, mụ ta… Về những từ đánh giá hoặc miêu tả hành vi, có: ngu, tồi,
mèng, chẳng ra chó gì, chẳng nước mẹ gì, ăn thua gì, ăn thua mẹ gì, nước
non gì, ăn vàng ăn bạc gì, biết tay, phải lòng, cực, cực kì, nghiêm, gìn…
d. Rất ưa dùng các quán ngữ, thành ngữ để đưa đẩy, rào đón; hoặc để
diễn đạt cho sinh động, ví dụ: của đáng tội; có đời thuở nhà ai; thôi thì…; thì
đã đành là vậy; nó chết một nỗi (một cái) là…; đánh đùng một cái; ấm ớ hội
tề; châu rìa hút thuốc vặt; tuần chay nào cũng có nước mắt; ai biết quan đái
mà hạ võng; lụy như lụy đò…
Thậm chí, đôi khi để tỏ thái độ thân thương, quý mến của các bậc cha
chú, ông bà… đối với trẻ em, người ta còn dùng cả những lời "mắng yêu"
nghe chừng rất thông tục như: thằng chó con, con cún con, cha bố (cô,
cậu…).
Để minh họa, chúng ta hãy xét lời của hai bà già trong hai bối cảnh:
- Gớm! Lại còn thế nữa cơ đấy. Đến lụy như lụy đò cũng còn chẳng ăn
thua nữa là lại bó buộc. Có mà họ thì phế đi. Bao nhiêu đời chủ nhiệm rồi, đổ
lên đổ xuống mãi rồi mới đậu đến thằng bố cháu nhà tôi. Nó hiền lành tốt
nhịn… Dân ở đây họ đáo để lắm kia. Bằng lòng thì chén chú chén anh, không
bằng lòng thì cứ là đổ.
(Nguyễn Thị Ngọc Tú. Buổi sáng)
- Nào, thằng chó con, bố con mày lại sắp bỏ đi cho bằng hết đây. Dậy
nào, dậy nào, cha thằng bố mày, dậy đi tè rồi lại vào kềnh không có nặng, bà
không bế dược.
(Xuân Cang. Đêm hồng)
e. Sắc thái khẩu ngữ và biểu cảm của lớp từ khẩu ngữ còn thể hiện rõ
ở sự hiện diện và hoạt động của những từ thưa gửi: dạ, thưa… các từ ngữ
cảm thán: ôi, ối, òi trời, trời ơi, trời đất ơi, cha mẹ ơi… các ngữ khí từ: à, ư,
nhỉ, nhé…
Mặt khác, việc dùng các từ ngữ với sắc thái nghĩa mới, hoặc kèm theo
những nghĩa ngữ cánh, nghĩa lâm thời… khá phổ biến. Bởi lẽ giản dị là: khẩu
ngữ ít nhiều "phóng túng" về mặt chuẩn tắc.
Tuy vậy, dầu thế nào đi nữa thì cũng phải khẳng định lại rằng tính thông
tục của khẩu ngữ nói chung và từ vựng khẩu ngữ nói riêng, không phải là sự
nói tục và các từ tục. Nếu không thấy sự khác biệt về bản chất này lạm dụng
các từ tục thì sẽ dẫn đến chỗ làm vẩn đục ngôn ngữ, phá mất cái gọi là thẩm
mĩ ngôn ngữ, thậm chí vi phạm đạo đức trong giao tiếp.
IV. LỚP TỪ NGỮ THUỘC PHONG CÁCH VIẾT
1. Bản thân tên gọi này đã ngụ ý rằng ở đây gồm những từ ngữ chỉ chủ
yếu dùng trong các sách vở, báo chí. Người ta cũng thường hiểu đằng sau
tên gọi này còn có một ẩn ý khác: đó là lớp từ ngữ có được chọn lọc, được
trau dồi, được "văn hóa hóa” và gắn bó với chuẩn tắc nghiêm ngặt.
2. Lớp từ ngữ thuộc phong cách viết bao gồm chủ yếu những từ ngữ
thường xuyên được dùng gắn liền với nội dung của một số phong cách chức
năng cụ thể như:
a) Phong cách khoa học: gắn bó với các thuật ngữ khoa học các từ ngữ
chuyên môn hóa: đạo hàm, ẩn số, quỹ tích…, âm vị, hình vị, từ pháp, ngữ
pháp, âm tố, phụ tố…
b) Phong cách hành chính sự vụ: Chủ yếu gồm các từ ngữ thường
dùng trong những văn bản pháp lí, ngoại giao, hành chính: công văn, công
hàm, công ước, hòa ước, tạm ước, hiệu lục, biên bản, sao lục, tố tụng, chiều
theo, đơn phương…
c) Phong cách chính luận báo chí: gồm những từ ngữ thường dùng
trong các văn bản chính luận, bày tỏ thái độ, quan điểm: cộng sản, vô sản, tư
sản, đế quốc, thực dân, suy thoái, vũ trang, xâm lược, chiến tranh, cánh tả,
cánh hữu, cấp trên…
d) Phong cách văn học (nghệ thuật): có thể tổng hòa các phong cách
khác bằng những thủ pháp riêng của từng thể loại và từng truyền thống văn
học của mỗi dân tộc, mỗi giai đoạn.
3. Việc cố gắng xác định những tiêu chí thuần hình thức cho lớp từ ngữ
thuộc phong cách viết này là hết sức khó khăn; bởi vì chính bản thân nó hết
sức đa dạng và luôn luôn linh động. Tuy nhiên cũng có thể thấy có một số
biểu hiện tương đối rõ rệt như sau:
a) Không mang tính thông tục. Chính vì thế mà các từ ngữ của lớp từ
này và lớp từ khẩu ngữ hầu như không đi vào địa phận của nhau.
b) Chủ yếu gồm các thuật ngữ, các từ ngữ chuyên môn hóa của các
lĩnh vực: văn hóa, văn học nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, chính trị, quân sự,
hành chính, pháp luật, triết học, kinh tế… Trong các từ ngữ đó, nhìn chung,
cấu trúc hình thức của chúng là có tính hệ thống và theo chuẩn mực chặt chẽ.
c) Về mặt nội dung ý nghĩa, các từ ngữ ở đây nói chung là mang tính
khái quát, trừu tượng hoặc gợi cảm, hình tượng… tùy theo phạm vi riêng của
mỗi phong cách chức năng.
d) Về mặt nguồn gốc, thì phần nhiều là các từ gốc Hán và gốc Ấn Âu
được du nhập.
Ở đây, vai trò của các từ Hán Việt có vị trí rất đặc biệt. Nó có mặt ở
khắp mọi địa hạt của các phong cách khác nhau và điều quan trọng là tính đa
hướng, tính tĩnh tại, gắn liền với thế giới của những ý niệm đã đem lại cho
các từ Hán Việt trong tiếng Việt cái sắc thái trang trọng và bác học của chúng.
Cũng chính vì vậy mà chúng mới hoạt động một cách tích cực trong lớp từ
thuộc phong cách viết đến như thế.
Trong số các bộ phận từ ngữ thuộc các phong cách chức năng cụ thể
vừa kể trên, riêng bộ phận từ ngữ hay dùng trong thơ ca và văn xuôi nghệ
thuật còn được gọi là từ vựng thơ ca hay từ vựng văn học.
Đối với truyền thống ngữ văn Việt Nam, bộ phận đó gắn liền với các từ
ngữ Hán Việt. Sự phân biệt giữa văn chương bác học, văn chương của "thế
giới chủ nghĩa" với văn chương bình dân, được thể hiện rõ rệt nhất ở đó.
Đi vào các tác phẩm vãn chương Việt Nam trước đây, chúng ta chủ yếu
tiếp xúc với những bóng nguyệt, gương nga, bóng ác, vầng kim ô, du khách,
lữ khách, giai nhân, tài tử, tràm tư, li tao, đồng vọng, tịch liêu, tráng sĩ, chinh
phụ… những thu thảo, ngư ông, ngư phủ, cù lao, Tràng Thành, thu phong,
tiêu phòng… Cũng ở đó, ta sẽ gặp hàng loạt các điển cố, điển tích như: Tâm
Dương, Tiêu Tương, Cô Tô, Hoàng Hạc, sóng thu ba, sóng khuynh thành, lá
thắm chỉ hồng, thềm hoa, lệ hoa, mành Tương, kết cỏ ngậm vành, bỉ sắc tư
phong…
Hiện tượng này có lí do lịch sử và truyền thống của nó. Ngày nay, từ
ngữ trong thơ ca, nghệ thuật đã có những đổi khác. Giữa ngôn ngữ giao tiếp
rộng rãi với ngôn ngữ "chữ nghĩa" hiện nay đã không còn khoảng cách quá xa
như trước nữa; bởi vì, một mặt trình độ văn hóa của nhân dân đã không
ngừng được nâng cao lên; mặt khác, thơ ca, nghệ thuật của chúng tạ đã "dân
hóa" rất mạnh; nó trở về gần với cuộc đời hơn nhiều so với văn chương thời
xưa.
Chẳng hạn, cũng là câu chuyện hẹn thề mong nhớ, nhưng chắc hẳn
ngôn từ trong Chinh phụ ngâm, trong Truyện Kiều… không hoàn toàn giống
như lối nói ngày nay.
V. LỚP TỪ NGỮ TRUNG HOA VỀ PHONG CÁCH
Trừ những từ ngữ mang dấu hiệu đặc trưng của lớp từ khẩu ngữ và lớp
từ vựng thuộc phong cách viết, số còn lại (chiếm phần cơ bản trong từ vựng
nói chung) đươc gọi là lớp từ vựng trung hòa. Các từ ngữ ở đây không có
những dấu hiệu riêng như dấu hiệu của hai lớp từ nói trên. Chúng có thể
được dùng như nhau trong tất cả các phong cách chức năng khác nhau. Sự
thật là: ranh giới giữa các lớp từ ở đây không phải những đường kẻ phân
minh. Trừ những đơn vị từ ngữ mang đặc trưng điển hình của từng lớp, số
còn lại đứng ở khoảng giữa rộng hơn với một đường ranh giới có thể dễ dàng
di động.
Ở đây, một lần nữa, ta lại thấy tính linh động trong khả năng chuyển
hóa ranh giới lớp hạng của các từ ngữ.
Cùng với việc phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc, theo vai trò và phạm vi
sử dụng… cách phân loại từ ngữ theo phong cách sử dụng cũng cho thấy
quang cảnh sinh động của tính thống nhất trong sự đa dạng và phức tạp của
từ vựng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
(PHẦN III)
1. B.N. Golovin. Dẫn Luận ngôn ngữ học. Nxb Đại học Moskva 1983
(tiếng Nga).
2. V. I. Kodukhov. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, Moskva.
1979 (tiếng Nga).
3. B. I. Kosovskij. Ngôn ngữ học đại cương (Lí luận về từ và từ vựng
của ngôn ngữ). Nxb Đại học, Minsk, 1974 (tiếng Nga).
4. M.I. Phomina. Tiếng Nga hiện đại (Từ vựng học). Nxb Đại học.
Moskva, 1978 (tiếng Nga).
5. A.A. Rephormatskij. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục. Moskva,
1967 (tiếng Nga).
6. E.v. Rozen. Từ vựng học tiếng Đức hiện nay. Nxb Đại học. Moskva,
1976 (tiếng Nga).
7. Ju. Stepanov. Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương. Nxb Giáo
dục, Moskva. 1975 (tiếng Nga); Nxb Đại học và thcn, Hà Nội, 1984 (tiếng
Việt).
8. N.M. Sanskij. Thành ngữ học tiếng Nga hiện dại. Nxb Đại học.
Moskva, 1985 (tiếng Nga).
9. Jean Aitchison. Ngôn ngữ học dại cương. ST. Pauls house warwick
lanej London, EC 4. 1972 (tiếng Anh).
NHỮNG. TÀI LIỆU SINH VIÊN CẦN ĐỌC
(Phần III)
10. Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Đại học và then Hà Nội,
1975.
11. Đỗ Hữu Châu. Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. Nxb Giáo dục Hà Nội,
1981.
12. Đỗ Hữu Châu. Các bình diện của từ và từ tiếng Việt. Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1986.
13. Nguyễn Thiện Giáp. Từ vựng học tiếng Việt. Nxb Đại học và thcn,
Hà Nội, 1985.
14. Cao Xuân Hạo. Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng. Tạp chí Ngôn
ngữ số 2-1985.
15. Nguyễn Vãn Tu. Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại. Nxb Đại học và
thcn, Hà Nội, 1976.
Phần 4. CƠ SỞ NGỮ PHÁP HỌC VÀ NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT
* Ngữ pháp và ngữ pháp học
* Phương thức ngữ pháp
* Phạm trù ngữ pháp
* Từ loại
* Đoản ngữ
* Câu
Chương 18. NGỮ PHÁP VÀ NGỮ PHÁP HỌC
I. NGỮ PHÁP LÀ GÌ? CÁC BỘ MÔN CỦA NGỮ PHÁP HỌC
1) Ngứ pháp là thuật ngữ dịch từ grammaire (tiếng Pháp) grammar
(tiếng Anh) mà gốc là grammatike technè ("nghệ thuật viết") của tiếng Hi Lạp.
Thuật ngữ này có hai nghĩa:
(1) là một bộ phận của cấu trúc ngôn ngữ, nó có đơn vị của nó khác với
các đơn vị của từ vựng và ngữ âm;
(2) là một ngành của ngôn ngữ học nghiên cứu sự hoạt động, sự hành
chức theo những quy tắc nhất định để biến các đơn vị ngôn ngữ thành các
đơn vị giao tiếp. Để phân biệt rạch ròi hai nghía trên có thể dùng thuật ngữ
ngữ pháp cho nghĩa (1) và ngủ pháp học cho nghĩa (2). Với ý nghĩa đó mà nói
thì ngữ pháp học là khoa học nghiên cứu về ngữ pháp.
2) Ngữ pháp học gồm có hai bộ phận: từ pháp học và cú pháp học
(theo cách phân chia truyền thống).
a - Từ pháp học chuyên nghiên cứu về các quy tắc biến hình của từ,
các phương thức cấu tạo từ và các đặc tính ngữ pháp của từ loại.
b - Cú pháp học nghiên cứu những quy tắc kết hợp từ, nhóm từ thành
các kết cấu cú pháp để ngôn ngữ trờ thành "phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của loài người".
Hai bộ phận trên có mối quan hệ khăng khít với nhau: nếu biết cách đặt
câu nhưng không nắm vững quy tắc biến hình và các đặc điểm ngữ pháp của
từ thì đặt câu sẽ không đúng, trái lại, nếu chỉ biết quy tắc biến hình từ mà
không biết cách kết hợp từ thành câu, thành phát ngôn thì vẫn không giao tiếp
được. Chỉ có trong cú pháp học, các nhân tố thông báo mới trở thành hiện
thực, hành vi ngôn ngữ mới có ý nghĩa. Và cũng chính ở địa hạt này, các đơn
vị bậc thấp hành chức và thể hiện nét khu biệt của mình trong hệ thống các
đơn vị ngôn ngữ. Nói một cách nôm na, cú pháp học là việc tổ chức câu nói
thành các phát ngôn, thành văn bản. Và văn bản là sản phẩm cuối cùng của
hoạt động ngôn ngữ.
Ngữ pháp học lại có thể chia thành: ngữ pháp học đại cương và ngữ
pháp học cụ thể.
Ngữ pháp học đại cương nghiên cứu những quy luật chung của hoạt
động ngữ pháp trong tất cả các ngôn ngữ. Ngữ pháp học cụ thể nghiên cứu
đặc trưng ngữ pháp của từng ngôn ngữ. Trong ngữ pháp học cụ thể có thể
chia ra ngữ pháp lí luận và ngữ pháp thực hành. Song dù ở góc độ nào, nhà
ngữ pháp học cũng phải đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất dưới đây:
- Đặc trưng trừu tượng ngữ pháp khác với trừu tượng từ vựng và trừu
tượng ngữ âm ở chỗ nào?
- Đơn vị của ngữ pháp là gì?
- Những quy tắc nào làm thành cơ chế của ngữ pháp mà nhc đó ngôn
ngữ trờ thành phương tiện tàng trữ và truỵển đạt thông tin tuyệt vời của xã
hội?
II. TRỪU TƯỢNG NGỮ PHÁP, Ý NGHĨA TỪ VỰNG VÀ Ý NGHĨA NGỮ PHÁP
Các đơn vị ngôn ngữ là kết quả của quá trình trừu tượng hóa khác
nhau về chất.
Trong từ vựng, từ là cái đại diện cho hàng loạt sự vật đã được khái
quát hóa thành tên gọi. Tên gọi của sự vật không tương ứng với từng sự vật
riêng lẻ mà với cả lớp sự vật có cùng bản chất. Từ cây chẳng hạn không biểu
hiện một cây cụ thể nào mà là khái niệm cây. Đó là tên gọi cho hàng loạt: cây
mít, cây ổi; cây cao, cây thấp; cây già, cây non; cây to, cây nhỏ,…
Trong ngữ âm, âm vị cũng là một đơn vị trừu tượng, khái quát. Âm vị
trừu tượng mang trong nó những đặc trưng khu biệt được khái quát hóa từ
hàng loạt âm tố cụ thể. Âm vị /N/ chẳng hạn, là sự khái quát các nét khu biệt
từ các tố n1, n2, n3, n4... Đúng như V. I. Lênin nhận xét: Trong ngôn ngữ chỉ
có cái khái quát mà thôi.
Trừu tượng trong ngữ pháp có phần khác với trừu tượng trong từ vựng
và ngữ âm. Trừu tượng ngữ pháp là trừu tượng mang ý nghĩa phạm trù.
Phạm trù số trong tiếng Anh và tiếng Nga chẳng hạn là khái quát từ hai khía
cạnh đối lập của ý nghĩa ít và nhiều. Phạm trù thể trong tiếng Nga là khái quát
hai ý nghĩa hoàn thành/không hoàn thành.
Để bạn đọc hình dung vấn đề một cách cụ thể xin dẫn ra một vài ví dụ
trong tiếng Nga. Các từ như (1) ‘…’, (2) ‘…’, (3) ‘…’ đã lập thành những phạm
trù như sau:
Phạm
trù cách
Phạm trù số
Ít nhiều
Cách 1 - zêrô - ‘…’
Cách 2 - a - ‘…’
Cách 3 - y - ‘…’
Cách 4 - zêrô - ‘…’
Cách 5 - - ‘…’
Cách 6 - e - ‘…’
Như vậy không chỉ từ vựng học mà cả ngữ pháp học cũng quan tâm
đến ý nghĩa. Nhưng nếu như từ vựng học quan tâm đến ý nghĩa từ vựng, tức
là ý nghĩa sự vật của từ thì ngữ pháp học lại quan tâm đến một kiểu ý nghĩa
khác: ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa phạm trù. Đối với từ
vựng học (1), (2) và (3) là ba từ khác nhau, bởi ý nghĩa sự vật của chúng
khác nhau. Song theo quan điểm ngữ pháp, tất cả ba từ trên đều thuộc về
một loại: danh từ giống đực, số ít, cách 1.
Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn liền mật thiết với nhau. Từ
với tư cách là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ vốn có cả hai ý nghĩa đó. Ý nghĩa
từ vựng phân biệt một từ với hàng loạt từ khác còn ý nghía ngữ pháp thì
thống nhất các từ trong nhóm lại. Ý nghĩa ngữ pháp là sự trừu tượng hóa từ ý
nghĩa từ vựng. Ý nghĩa ngữ pháp đi kèm với ý nghĩa từ vựng và không thể
tồn tại tách khỏi ý nghĩa từ vựng.
Ba từ dưới đây lấy từ tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng Anh sẽ là ví dụ để
làm rõ nhận xét vừa nêu.
‘…’ (sách - số ít) (sách- số nhiều)
petit (nhỏ- giống đực) petite (nhỏ- giống cái)
work (làm việc- thời hiện tại) worked (làm việc- thời quá khứ)
Từ đó ta có:
Sách
Ý nghĩa từ vựngNhỏ
Làm việc
Số ít - số nhiều
Ý nghĩa ngữ phápGiống đực - giống cái
Thời hiện tại - thời quá khứ
Rút ra hệ luận: Mỗi hiện tượng ngữ pháp luôn luôn có hai mặt: mặt bên
trong, tức là cái gì được biểu hiện và mặt bên ngoài, tức là nhờ cách gì mà
cái gì đó được biểu hiện. Quan hệ giữa hai mặt này như hai mặt của một bàn
tay, còn sự tương ứng giữa chúng có thể là một / một hoặc > 1. Vấn đề này
sẽ được xem xét kĩ hơn khi chúng ta đế cập đến khái niệm ý nghĩa ngữ pháp
và phương thức ngữ pháp.
III. ĐƠN VỊ NGỮ PHÁP
Tính chất tuyến tính của lời nói và tính hệ thống của ngôn ngữ cho
phép nhận diện các đơn vị ngữ pháp. Đó cũng là các phẩm chất làm thành
đặc trung của ngữ pháp.
Tính chát tuyến tính của lời nói thể hiện ở chỗ phát ngôn được thực
hiện trong thời gian, yếu tố này nối tiếp yếu tố khác. Theo quan điểm đó, bất
cứ phát ngôn nào cũng là một chuỗi, chia thành những mắt xích nối tiếp nhau,
chẳng hạn, câu được phân thành từ, từ được phận thành hình vị, v.v…
Tính hệ thống của ngôn ngữ không phải là ở cách tổ chức bên ngoài
đơn giản của các chất liệu ngôn ngữ mà là ở chỗ tất cả các yếu tố đống loại
của cấu trúc ngôn ngữ đều có sự liên hệ, nương tựa vào nhau; nhờ đó mà
mỗi yếu tố có được giá trị của mình như những bộ phận đối lập nhau, khu biệt
nhau trong cái toàn thể (một chỉnh thể).
Xét đơn vị ngữ pháp phải dựa vào các phương tiện sau đây.
1. Đơn vị ngữ pháp là thể thống nhất của nội dung ngữ pháp (ý nghĩa)
và hình thức ngữ pháp (phương thức). Mỗi đơn vị được nhận biết như một từ
vị (lexeme). Từ vị là từ trong đó tập hợp tất cả các hình thái (dạng thức biểu
hiện) của nó. Từ vị ‘…’ (anh em) trong tiếng Nga là thể thống nhất của tất cả
các hình thái biến đổi của từ nàv: ‘…’, ‘…’, ‘…’, ‘…’, ‘…’, ‘…’, ‘…’, ‘…’, ‘…’,
‘…’.
Trái lại, hình thái từ trong tiếng Việt phải được xét ở khả năng kết
hợp /không kết hợp của nó với các từ khác, ví dụ, danh từ kết hợp được với
số từ, loại từ, tính từ, chỉ định từ: ba chiếc bàn cũ này; tính từ kết hợp được
với rất, quả, lắm, rất hay, quá đẹp, thú vị lắm mà không kết hợp với từng.
2. Đơn vị ngữ pháp phải có ý nghĩa ngữ pháp (chứ không phải ý nghĩa
từ vựng, ý nghĩa vật thể, ý nghĩa khái niệm). A.A. Reformatxki đã dẫn ra một
ví dụ nổi tiếng về phân biệt ý nghĩa ngữ pháp với ý nghĩa vật thể và ý nghĩa từ
vựng như sau [12, 250]:
- Ở bước đối lập ‘…’ (1) và - ‘…’ (2) ta thấy (1) không cần (2) vẫn có
nghĩa, ngược lại không có (1) thì (2) không tồn tại được, ở đây (2) chỉ ý nghĩa
ngữ pháp.
- Sự đối lập giữa ‘…’ (3) và -AM (4) là sự đối lập giữa ý nghĩa cụ thể
("cái bàn nhỏ”) (3) và ý nghĩa trừu tượng (4) (vì (4) chỉ có ý nghĩa quan hệ
thuần túy).
- Yếu tố ‘…’ (5) tham gia cả vào hai bước trên: kết hợp cả với ‘…’, cả
với -AM. Đó là ý nghĩa phái sinh. Ý nghĩa "cái bàn nhỏ" không phải là con số
cộng máy móc các yếu tố cấu tạo (1) và (5) mà là một thể thống nhất có phẩm
chất mới.
3. Đơn vị ngữ pháp là các phạm trù ngữ pháp chứ không phải hình vị,
từ (như lâu nay người ta quan niệm một cách mơ hồ). Hình vị, từ chỉ là vật
liệu để cấu thành các kết cấu ngữ pháp mang nghĩa phạm trù. Các kết cấu
này là thể thống nhất của ý nghĩa ngữ pháp và phương thức biểu hiện chúng.
Nếu không có các phương thức này thì hình vị, từ chỉ là những đơn vị của từ
điển, những đơn vị của ngôn ngữ chứ chưa được hiện thực hóa thành các
đơn vị của hoạt động lời nói.
Các đơn vị ngữ pháp có thể chia thành các đơn vị ở diện cấu tạo (hình
thái học) và ở diện chức năng, các kết cấu cú pháp (cú pháp học).
Chương 19. PHƯƠNG THỨC NGỮ PHÁP
Bất kì ý nghĩa của một từ, một tổ hợp từ hay một câu nào cũng có
những hình thức thể hiện của nó. Ý nghĩa ngữ pháp cũng vậy, được thể hiện
bằng những hình thức nhất định. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
ngữ pháp học là nghiên cứu những phương tiện biểu hiện của các ý nghĩa
ngữ pháp được sử dụng trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Và nhà
ngôn ngữ học cần khái quát các hình thức đó lại thành những phương thức
chính, gọi là phương thức biểu thị ý nghĩa ngữ pháp. Có thể dẫn ra một số
phương thức ngữ pháp chủ yếu như sau:
I. PHƯƠNG THỨC PHỤ TỐ
Phương thức phụ tố được dùng phổ biến trong các ngôn ngữ Nga,
Anh, Pháp. Trong tiếng Nga chẳng hạn, phụ tố a trong ‘…’ (khoa học) chỉ
cách 1, giống cái, số ít, phụ tố y trong ‘…’ chỉ cách 4, số ít, phụ tố e trong ‘…’
chỉ cách 6 và cách 3 số ít, phụ tố ‘…’ trong ‘…’ chỉ cách 3 số nhiều, v.v…
Trong tiếng Anh phụ tố s trong các từ books (sách), desks (bàn học sinh),
boys (con trai), phụ tổ es trong glasses (cốc), boxes (hộp) biểu hiện ý nghĩa
ngữ pháp "số nhiều”.
Phụ tố được thêm vào trước từ gọi là tiền tố, ví dụ, ở tiếng Nga, ‘…’
("làm" - thể chưa hoàn thành) - ‘…’ ("làm"- thể hoàn thành). Khi phụ tố ở cuối
từ như s trong books người ta gọi là hậu tố. Phụ tố có thể được thêm vào
giữa, khi đó nó có tên là trung tố, ví dụ trong tiếng Èđê và tiếng Jarai: bơsao
"cãi nhau", bơrơsao "sự cãi nhau", bơmut "ghét" - bơrơmut "sự căm thù",
pơsur "khiêu khích" - pabơsur "sự khiêu khích”.
II. PHƯƠNG THỨC LUÂN PHIÊN NGỮ ÂM HỌC HOẶC BIẾN TỐ BÊN TRONG
Ý nghĩa ngữ pháp có thể được biểu hiện bằng sự biến đổi của thành
phần ngữ âm của bản thân gốc từ, hay nói cách khác, bằng hiện tượng biến
tố bên trong. Ví dụ, trong tiếng Anh:
Số ít Số nhiều
foot (bàn chân)
tooth (răng)
man (người đàn ông)
feet (những bàn chân)
teeth (những cái răng)
men (những người đàn ông)
và trong tiếng Xudan:
kat (khuôn khổ)
vot (cái lều)
ket (những khuôn khổ)
voot (những cái lều)
Ở đây ý nghĩa ngữ pháp về số được biểu hiện bằng việc luân phiên âm
vị chứ không phải bằng hiện tượng thêm phụ tố. Phương thức này được dùng
nhiều trong tiếng Ả rập, một phần trong các ngôn ngữ Anh, Đức, Pháp.
III. PHƯƠNG THỨC THAY TỪ CĂN
Theo phương thức này, người ta dùng hẳn một từ căn khác để thể hiện
ý nghĩa ngữ pháp. Cấp so sánh của các tính từ chỉ ý nghĩa "tốt" và "xấu" trong
một số ngôn ngữ Ấn - Âu thường sử dụng phương thức này. ví dụ [10]:
tốt tốt hơn xấu xấu hơn
Tiếng Anh good better bad Worse
Pháp bon meilleur mauuais Pire
Nga ‘…’ ‘…’ ‘…’ ‘…’
IV. PHƯƠNG THỨC TRỌNG ÂM
Phương thức này được dùng trong tiếng Nga, ví dụ: ‘…’ ("bàn tay" -
cách 2, số ít), ‘…’ ("những bàn tay" - cách 1, số nhiều); ‘…’ ("cắt, thái" - chưa
hoàn thành) - ‘…’ ("cắt, thái" - hoàn thành).
V. PHƯƠNG THỨC LẬP
Lặp bao gồm lặp toàn phần hay lặp bộ phận. Nó thường hay được sử
dụng để biểu thị số nhiều, ví dụ trong tiếng Mã Lai: orang (người), orang -
orang (nhiều người), trong từ ngữ Xumer: kup (đất nước), kup - kup (nhiều
nước), trong tiếng Ilakano (đảo Philippin): talon (cánh đồng), taltalon (những
cánh đồng), ở tiếng Việt cũng có hiện tượng này, ví dụ:
ngành -> ngành ngành,
nhà -> nhà nhà
người -> người người,
ngày -> ngày ngày
lớp -> lớp lớp
VI. PHƯƠNG THỨC TỪ HƯ
Các ý nghĩa ngữ pháp có thể biểu hiện không phải bên trong từ mà ở
ngoài từ. Phương thức dùng từ hư là một phương thức như vậy.
Từ hư, như đã nói ở trên, là những từ mất đi ý nghĩa định danh mà chỉ
biểu hiện ý nghĩa quan hệ giữa các thành phần câu (như giới từ, từ nối) hoặc
giữa các câu (từ nối) cũng như chỉ ra các ý nghĩa ngữ pháp độc lập với tổ
hợp từ trong câu (loại từ, mạo từ, trợ từ, các ngữ khí từ, từ đệm).
Các mạo từ trong tiếng Pháp được sử dụng để chỉ giống và số của
danh từ: la bonté (lòng tốt), la là hư từ chỉ giống cái; le portrait (bức họa
truyển thần), le chỉ giống đực, les portraits (những bức họa truyền thần), les
chỉ số nhiều. Từ hư của trong tiếng Việt, từ hư rôboh trong tiếng Khmer biểu
thị ý nghĩa ngữ pháp về sự sở hữu: áo của anh, tiền của chị, Côn chboong
rôboh khnhum (Con đầu lòng của tôi), Chantiêp rôboh boong (Cái đĩa của
anh). Trong tiếng Nga và tiếng Việt từ hư + động từ biểu hiện ý nghĩa tương
lai
‘…’. Tôi sẽ dọc
‘…’. Anh sẽ đọc
‘…’. Anh ấy sẽ đọc
VII. PHƯƠNG THỨC TRẬT TỰ TỪ
Ở trong câu, khi các từ được sắp xếp theo những trật tự trước, sau
khác nhau thì sẽ tạo ra những ý nghĩa khác nhau. Trong câu Anh yêu em, anh
là chủ ngữ còn em là bổ ngữ. Trái lại, khi trật tự trên bị thay đổi, ví dụ Em yêu
anh thì ý nghĩa của câu sẽ khác đi và quan hệ ngữ pháp giữa anh và em cũng
thay đổi.
Tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Khmer, tiếng Hán và hàng loạt ngôn ngữ
khác trong khu vực Đông Nam Á đã dùng trật tự từ làm phương thức cơ bản
để biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các từ với nhau. Trong các ngôn ngữ này,
phương thức trật tự từ còn được sử dụng để tạo từ, ví dụ: sữa bò - bò sữa,
tấm vải – vải tấm, mắt xanh - xanh mắt, to đầu – đầu to. Với những ngôn ngữ
lấy phương thức trật tự từ làm trọng, mỗi vị trí đều có một ý nghĩa riêng, ở các
câu:
- Nó đánh tôi.
- Tôi nhìn nó.
- Anh yêu em.
(1) (2) (3)
Vị trí (1) nó, tôi, anh tuy là ba từ khác nhau về ý nghĩa từ vựng nhưng
có cùng một ý nghĩa ngữ pháp: chủ ngữ; vị trí (2) đánh, nhìn, yêu - vị ngữ và
vị trí (3) tôi, nó, em, - bổ ngữ.
Trái lại, ví dụ, cùng một từ tôi nhưng ở những vị trí khác nhau thì ý
nghĩa ngữ pháp sẽ khác nhau.
- Tôi là bác sĩ. (Tôi: chủ ngữ)
- Anh của tôi là kĩ sư. (tôi: ý nghĩa sở hữu)
- Thầy giáo cho tôi quyển sách. (tôi: bổ ngữ tiếp nhận)
Trật tự từ trong các ngôn ngữ có thể có chỗ giống nhau. cũng có thể có
chỗ khác nhau. Chỗ giống nhau giữa tiếng Việt và tiếng Hán là trật tự trong
câu đều là chủ ngữ - vị ngữ - bố ngữ. Tuy nhiên, giữa từ chính và từ phụ thì
trật tự ở trong hai ngữ này lại trái ngược nhau, ví dụ, người Việt nói gió to.
Hán nói đại phong (đại - to, lớn, phong - gió). Người Việt Kia là cái nhà, người
Nhật lại nói: Kia cái nhà là (Arêwa ưchi dêsư). Người Việt nói: Tôi có ba
người con, người Khmer lại nói: Tôi có con ba người (Khnhum miên côn bây
neh). Người Việt nói: Mẹ đi đâu? nhưng người Jarai lại nói: Đâu mẹ đi? (Pơcă
anu ndo)
Trong tiếng Việt, quy tắc về trật tự của các từ cực kì chặt chẽ vì vậy khi
gặp nhưng hình thức ngược nhau về trật tự thì phải xem xét thận trọng.
Thông thường những hình thức này không đơn thuần là hiện tượng đảo tùy
tiện mà biểu hiện những nội dung, ý nghĩa khác nhau, ví dụ: Một bức tranh
treo trên tường và Trên tường treo một bức tranh; Bao giờ anh đi? và Anh đi
bao giờ?.
Ngoài 7 phương thức chính nêu trên còn có thể kể ra một vài phương
thức khác nữa như phương thức ghép, phương thức ngữ điệu. Khác với
phương thức phụ tố, ở phương thức ghép người ta không liên kết hình vị gốc
từ với các phụ tố trong một từ vị mà là liên kết hình vị gốc từ với hình vị gốc
từ, do đó tạo ra một từ ghép mới thống nhất. Như vậy ghép dùng để cấu tạo
từ. Ví dụ trong tiếng Nga ‘…’ (ngôn ngữ học) được ghép từ ‘…’ (ngôn ngữ)
‘…’ (sự hiểu biết), trong tiếng Anh newspaper (báo) ‘…’ ghép từ news (tin tức)
và paper (giấy). Các từ nha của sách vở, quần áo trong tiếng Việt cũng được
cấu tạo theo nguyên tắc ghép.
Trong những ngôn ngữ như tiếng Nga, tiếng Pháp, nếu nâng cao giọng
nói ở cuối câu thì một câu tường thuật sẽ chuyển thành câu hổi. Đó là
phương thức ngữ điệu.
Các phương thức ngữ pháp trên đây có thể phân thành hai kiểu các
phương thức bên trong từ (phụ tố, luân phiên ngữ âm, thay thừ căn, trùng
âm, lặp) và các phương thức bên ngoài từ (hư từ, trật tự từ, ngữ điệu). Kiểu
thứ nhất gọi là tổng hợp tính, kiểu thứ hai là phân tích tính.
Các nhà ngôn ngữ học dựa vào hai kiểu phương thức này đã phân các
ngôn ngữ ra thành hai loại: các ngôn ngữ tổng hợp tính và các ngôn ngữ
phân tích tính. Các ngôn ngữ tổng hợp tính là những ngôn ngữ dùng nhiều
phương thức tổng hợp, các ngôn ngữ phân tích tính - dùng nhiều phương
thức phân tích tính. Dĩ nhiên, việc phân chia này chi là tương đối bởi vì một
ngôn ngữ thường sử dụng pha tạp nhiều phương thức. Tiếng Latin, tiếng Nga
thuộc loại tổng hợp tính cao, tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Khmer phân tích tính
cao. Tuy nhiên, tiếng Anh, tiếng Pháp được coi là phân tích tính cao nếu so
với tiếng Nga và tiếng Latin nhưng sẽ là phân tích tính thấp nếu so với tiếng
Hán, tiếng Việt.
Chương 20. PHẠM TRÙ NGỮ PHÁP
I. THẾ NÀO LÀ PHẠM TRÙ NGỮ PHÁP
Để hiểu rõ khái niệm này, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc phân tích một
ví dụ cụ thể;
Trong tiếng Nga động từ ‘…’ (nói) được biến hình theo đại từ chủ ngữ,
chẳng hạn:
Tòi nói - ‘…’
Anh (chị) nói - ‘…’
Anh ấy nói - ‘…’
Ở đây các phụ tố được thêm vào từ căn đã làm cho cùng một từ mà có
nhiều ý nghĩa ngữ pháp khác nhau: ‘…’ có ý nghĩa về ngôi thứ nhất, ‘…’ có ý
nghĩa về ngôi thứ hai, ‘…’ lại có ý nghĩa về ngôi thứ ba. Mỗi ý nghĩa ngữ pháp
riêng là như vậy được gọi là một ngữ pháp vị hay, nói gọn lại, một pháp vị.
Không riêng động từ ‘…’ mà tất cả các động từ trong tiếng Nga đều biến hình
như thế và những sự biến hình ấy đều có tác dụng biểu thị những ý nghĩa
ngữ pháp như thế. Từ ba ngôi lẻ tẻ, tức từ ba pháp vị dòng loại, từ nhiều
động từ khác nhau đó, người ta khái quát lại thành một cái chung hơn gọi là
phạm trù ngôi của động từ.
Như vậy chỉ có thể nói về phạm trù ngữ pháp khi có một số ý nghĩa ngữ
pháp nhất định, tức một số pháp vị đồng loại, ít nhất là hai. Trong một ngôn
ngữ nào đó nếu chỉ có một ngôi thì không thể nói về phạm trù này được bởi vì
phạm trù là một sự khái quát, không thể khái quát từ một. Hơn nữa, khi đã có
ý nghĩa ngữ pháp thì nhất thiết phải có hình thức ngữ pháp (phương thức ngữ
pháp; biểu thị các ý nghĩa đó. Ở ví dụ vừa dẫn trong tiếng Nga, đó là phương
thức phụ tố.
Từ những nhận xét trên, có thể coi phạm trừ ngữ pháp là sự khái quát
của một số ý nghía ngữ pháp nhất định được thể hiện ra bằng những phương
thức ngữ pháp nhất định.
II. CÁC KIỂU PHẠM TRÙ NGỮ PHÁP
Trong các ngôn ngữ trên thế giới, số lượng các phạm trù ngữ pháp
không hoàn toàn như nhau. Người ta thường nói đến bốn kiểu phạm trù chủ
yếu như sau:
1. Phạm trù phân loại từ: Thuộc về phạm trù này là từ loại. Việc phân
chia các từ vào một lớp nhất định, ví dụ các từ nhà, bát, quần áo vào lớp
danh từ; học, đi, ăn vào lớp động từ; đẹp, hay, đỏ vào lớp tính từ v.v… là dựa
vào tính khái quát ngữ pháp của các từ như ý nghĩa "sự vật", ý nghĩa "hành
động", ý nghĩa "phẩm chất" v.v…
Ở các ngôn ngữ Âu châu, người ta xác lập từ loại cho một từ nào đó
thường căn cứ vào thuộc tính, hình thái của nó. Hình thái ở đây thường được
hiểu là hình thái trong, tức là sự biến hóa trong chính từ đó. Tuy nhiên, hình
thái còn có thể được hiểu với nghĩa rộng hơn, bao hàm cả hình thái ngoài,
tức là khả năng hợp từ này với từ khác. Đối với tiếng Việt, ngoài tiêu chí về ý
nghĩa từ vựng, tiêu chí cú pháp này (khả năng kết hợp) có một tầm quan
trọng đáng kể trong việc phân chia từ loại (xem chi ở chương Từ loại sẽ trình
bày sau).
Phân loại từ theo phạm trù từ loại là sự phân loại các từ mà không phải
là theo hình thức từ. Song hình thức ngữ pháp của từ là dấu hiệu biểu minh
cho tính chất ngữ pháp của nó. Danh từ trong tiếng Nga cố thuộc tính biến
cách, động từ có thuộc tính chia theo ngôi, thời, thể,… Trong tiếng Việt danh
từ làm vị ngữ thường có là, động từ thì không có dấu hiệu đó, danh từ có tính
từ và động từ không cần v.v…
Vấn đề phân loại các tiểu loại trong một từ loại, rất quan trọng. Chẳng
hạn, động từ là nhóm lớn. Nhóm này lại có động từ chỉ hướng / không chỉ
hướng, động từ nội động / ngoại động… Trong nhóm danh từ có danh từ cập
vật / bất cập vật, danh từ đếm được / không đếm được… Tiến hành phân tiểu
loại càng tỉ mỉ bao nhiêu càng phong phú thông tin của mỗi từ bấy nhiêu.
Trong các ngôn ngữ trên thế giới, số lượng từ loại thực từ thường nằm
trong khoảng 7 ± 2. Danh từ, động từ và tính từ được coi là những hệ thống
từ loại phổ quát, có ở tất cả các ngôn ngữ.
2. Phạm trù ngữ pháp biến đổi từ
Các phạm trù ngữ pháp phân biệt với nhau về nội dung ngữ pháp.
Phạm trù ngữ pháp phân loại thì rộng lớn hơn, chung hơn. Các phạm trù ngữ
pháp biến đổi từ, trái lại nhỏ hẹp hơn, ít tính chất chung hơn. Bởi vậy, người
ta gọi phạm trù ngữ pháp phân loại từ là phạm trù ngữ pháp chung còn phạm
trù ngữ pháp biến đổi từ là những phạm trù ngữ pháp bộ phận. Tuy nhiên
giữa phạm trù ngữ pháp chung và phạm trù ngữ pháp bộ phận có mối liên hệ
nhất định. Những phạm trù ngữ pháp bộ phận ở một chừng mực nhất định có
thể gắn với những từ loại nhất định và là đặc trưng để nhận diện các từ loại
đó. Song tập hợp những phạm trù ngữ pháp bộ phận gắn với một từ loại nhất
định, ở những ngôn ngữ khác nhau, thậm chí ở trong một ngôn ngữ, cũng
khác nhau. Chẳng hạn, phạm trù cách vốn có ở danh từ trong tiếng Nga, tiếng
Đức, tiếng Tuyếc, tiếng Nhật… Song nó lại không có ở danh từ tiếng Việt,
tiếng Hán, tiếng Khmer và hàng loạt các ngôn ngữ Đồng Nam Á khác. Và,
ngay trong bản thân tiếng Nga, không phải tất cả các danh từ đều có phạm trù
cách.
Muốn phát hiện được một phạm trù ngữ pháp biến đổi từ nào đó người
ta phải dùng phương pháp đối lập. Phạm trù số ở danh từ tiếng Nga, tiếng
Anh, tiếng Pháp chẳng hạn, bao gồm hai ý nghĩa đối lập nhau (số ít/ số nhiều)
được diễn đạt bằng hai dạng thức đối lập nhau:
Số ít Số nhiều
‘…’ (nữ sinh viên) ‘…’
boy (bé trai) Boys
cheval (ngựa) chevaux
Phạm trù giống ở tính từ tiếng Nga bao gồm ba khía cạnh ý nghĩa (ba
pháp vị): giống đực, giống cái, giống trung. Chúng được diễn đạt bàng ba
dạng thức đối lập nhau:
giống đực giống cái Giống trung
đẹp ‘…’ ‘…’ ‘…’
trẻ ‘…’ ‘…’ ‘…’
Cần chú ý rằng ở các phạm trù ngữ pháp biến đổi từ, mối quan hệ giữa
ý nghĩa ngữ pháp và hình thức biểu hiện không nhất thiết phải là 1/1. Một
hình thức có thể biểu hiện nhiều ý nghĩa ngữ pháp thuộc về những phạm trù
ngữ pháp khác nhau, ví dụ phụ tố a trong ‘…’ (chị em gái) cho ta biết 3 ý
nghĩa ngữ pháp: giống cái, cách 1, số ít. Trái lại, một ý nghĩa ngữ pháp có thể
được diễn đạt bằng nhiều phụ tố, chẳng hạn ý nghĩa số nhiều của danh từ
tiếng Nga có thể diễn đạt bằng các phụ tố ‘…’, ‘…’,… (‘…’ - các sinh viên, ‘…’
- các cô gái).
Thuộc về các phạm trù ngữ pháp biến đổi từ là phạm trù thời, phạm trù
thể, phạm trù cách, phạm trù số, phạm trù ngôi, phạm trù giống và một số
phạm trù khác nữa. Hai kiểu phạm trù ngữ pháp vừa trình bày - phạm trù
phân loại từ và phạm trù biến đổi từ - thuộc địa hạt nghiên cứu của hình thái
học. Hai kiểu phạm trù ngữ pháp sẽ trình bày dưới đây là thuộc về lĩnh vực cú
pháp học theo cách hiểu truyền thống.
3. Phạm trù ngữ pháp về các vị trí của từ
Khái niệm vị trí được dùng rộng rãi trong ngôn ngữ học nhưng vẫn
chưa được chính xác hóa.
Vị trí được hiểu là một điểm trên chuỗi lời nói do một từ (và các đơn vị
có giá trị tương đương với từ) chiếm giữ, hoàn thành một chức năng nhất
định, ví dụ, ta có hai câu:
- Anh (có) đi không? (1)
- Anh không đi à (!) (2)
Câu (1) (đi đứng trước không) là một câu hỏi,
Câu (2) (không đứng trước đi) là câu phủ định, biểu hiện ý ngạc nhiên.
Vị trí các yếu tố của câu tiếng Việt thường có khuôn trung hòa kiểu:
trạng ngữ -
(1)
chủ ngữ -
(2)
vị ngữ -
(3)
bổ ngữ -
(4)
phương tiện
(5)
Ví dụ: Trên những cánh đồng làng quê ngày nay, nông dân đã xới đất
bằng máy móc hiện dại.
Ở đây mỗi thành phần câu đều chiếm một vị trí nhất định ở trong câu.
Như vậy các thành phần câu như trạng ngữ, chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ…
là thuộc phạm trù ngữ pháp. Chúng được coi là những đơn vị mang nghĩa. Số
lượng và chất lượng các thành phần câu là do chức năng của chúng chiếm
các vị trí trong mô hình câu quy định, ở đây, vị trí là vị trí mang nghĩa. Dựa
vào tính mắc nối các thành phần trong 4 quan hệ mà xác định tính chất của
mỗi thành phần câu: a) quan hệ vị tính (tức là đối tượng và đặc trưng của nó);
b) quan hệ đối tượng (tức là đối tượng phụ thuộc và đối tượng hay là quá
trình chủ đạo), c) quan hệ thuyết định (tức là đặc trưng của đối tượng và
chính đối tượng mang đặc trưng đó), d) quan hệ trạng huống (tức là tình
trạng, tình thế, điều kiện, quá trình, động cơ mà đối tượng vận động). Phạm
trù ngữ pháp thành phần câu về cơ bản dựa vào 4 quan hệ này. Quan hệ quy
định ý nghĩa ngữ pháp của chúng. Chủ ngữ, vị ngữ gắn với quan hệ (a). Còn
bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ gắn với các quan hệ khác hoặc gắn với cả 4
quan hệ (chẳng hạn trạng ngữ). Song vai trò của các thành phần câu không
như nhau. Chủ ngữ và vị ngữ là xương sống của toàn cấu trúc câu, trong đó
vị ngữ là cái đỉnh của cấu trúc. Giải được vị ngữ là giải được toàn câu.
Theo nguyên tắc quan hệ chức năng, ta có hai phạm trù thành phần
câu: những thành phần chủ và những thành phần thứ (hay những thành
phần trung tâm và những thành phẩn biên). Nhưng theo nguyên tắc tổ chức
của chính bản thân thành phần thì ta lại có cách chia như sau:
Muốn kiểm tra thành phần câu có thể tiến hành bằng cách đặt câu hỏi
ngữ nghĩa - lôgic (ai? cái gì? như thế nào? ở đâu? bao giờ? của cái gì? mục
đích gì? do đâu?…) kết hợp với cơ cấu nội tại của mỗi khúc đoạn (tức là đơn
vị) được chiếm ở vị trí nào đó trong chuỗi phát ngôn.
4. Phạm trù kết cấu ngữ pháp của từ
a) Kết cấu là một tổ chức cú pháp bao gồm các đơn vị ngôn ngữ được
sắp xếp theo quan hệ trực tiếp trong lời nói. Kết cấu cũng có thể được hiểu là
một tổ hợp từ hoặc nhóm từ có mối liên hệ trực tiếp. Chẳng hạn Tôi mua cuốn
sách mới. ta có các cấu: tôi mua, mua sách và cả câu là một kết cấu [3].
Hoặc:
Em nhắm mắt cho lòng anh lặng gió
Cho sao trời yên rụng một đêm hoa
thì các kết cấu câu sẽ là:
Em – nhắm mắt - lòng anh - lặng gió
Em nhắm mắt - (cho) - lòng anh lặng gió
Em – nhắm mắt - sao trời - yên rụng
Em – nhắm mắt - yên rụng - một đêm hoa
Em nhắm mắt - cho lòng anh lặng gió -
Em – nhắm mắt - Cho sao trời yên rụng một đêm hoa
Ở đây ta có các tầng liên hệ trực tiếp. Không thể có các kiểu: lòng anh -
gió, em - lặng gió, lòng anh – mắt, sao trời - đêm hoa, v.v… Cũng như vậy,
không thể có tôi - sách, mua - mới.
b) Kết cấu phải có hai vế và liên hệ trực tiếp. Hai yếu tố chỉ có thể tạo
thành kết cấu khi chúng có khả năng kết hợp với nhau. Mỗi khả năng kết hợp
của một từ nào đó với một từ khác theo kiểu liên hệ nhất định sẽ tạo cho từ
ấy một ngữ trị: Hãy lấy động từ chữa bệnh làm ví dụ. Với từ này, nếu có chủ
thể (người) hành động thì nó thể hiện ngữ trị 1, nếu có đối tượng tiếp nhận
(người) thì thể hiện ngữ trị 2, nếu có đối tượng trực tiếp (bệnh sốt) thì thể hiện
ngữ trị 3, nếu có thêm phương tiện (thuốc gì) thì có ngữ trị 4 và nếu có thêm
địa điểm (tại đâu) thì có ngữ trị 5. Như vậy từ này có 5 ngữ trị.
c) Kết cấu cú pháp tham gia tạo thành sườn cấu trúc câu và phát ngôn.
Câu và phát ngôn là những đơn vị ngôn ngữ có hai mặt: ý nghĩa và phương
tiện biểu hiện ý nghĩa. Song ý nghía ở cú pháp bao gồm hai khía cạnh: ý
nghĩa thông báo và ý nghĩa ngữ pháp. Hình thức biểu hiện cũng bao gồm hai
khía cạnh: khuôn hình cấu tạo và các đơn vị từ, tổ hợp từ, kết cấu lấp đầy các
vị trí. Ở đây, do đã đề cập đến câu và phát ngồn nên cũng cần phải nói sơ
qua về hai khái niệm này.
d) Câu là đơn vị thông báo nhỏ nhất của giao tiếp ngôn ngữ. Câu không
chỉ nói về đối tượng, hiện tượng mà còn thông báo về một thông tin cần được
hiện thực hóa bằng hành vi giao tiếp. Ý nghĩa ngữ pháp của nó được biểu
hiện bằng các phương tiện ngữ pháp khác nhau: từ, nhóm từ, kết cấu cùng
với ngữ điệu kết thúc và mang dấu chỉ về tình thái, về vị tính và chỉnh thể nội
dung thông tin dưới các dạng, các lối cách khác hhau ở trong những điều
kiện, những bối cảnh giao tiếp nhất định. Ví dụ:
- Nắng lên. Hồ Gươm xanh. (các câu đơn)
- Gió. Mưa. Não nùng. (các câu đơn)
- Tất nhiên! Cút! (các câu đơn)
- Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng!
Tiên sư anh Tào Tháo. (các câu đơn)
- Khi chúng tôi đến nơi chỉ còn một dúm xương và rất nhiều bản thảo
chằng biết bán cho ai, anh Hoàng vẫn phong lưu”.
(Nam Cao. Đôi mắt)
(câu phức)
- Ở nơi ấy có một đồi mua tím
Có con đường đất mịn mát chân đi.
Ở nơi ấy có một rừng bưởi chín
Có người em bé nhỏ ngóng ta về.
(Đoạn thơ gồm 2 câu liên hợp vị ngữ)
Câu có các kiểu được phân loại theo những nguyên tắc khác nhau:
a) Theo tổ chức, ta có câu đơn và câu ghép,
b) Theo mục đích phát ngôn ta có câu tường thuật, câu hỏi, câu mệnh
lệnh, câu cảm thán,
c) Theo ngữ nghĩa - cú pháp cũng có thể phán thành câu ngắn, câu dài.
Chi tiết về các cách phân loại câu tiếng Việt xin xem ở chương cuối cùng của
cuốn sách này.
e) Phát ngôn là lời nói ra. Nó là cơ sở nhỏ nhất của văn bản. Câu là
đơn vị hiện thực của phát ngôn. Phát ngôn ứng với câu và lớn hơn câu. Nói
đến phát ngôn là nói đến các hành vi nói. Một phát ngôn có nhiều hành vi nói
trong mối liên kết của bối cảnh, ngữ cảnh giao tiếp. Ví dụ 1:
A nói: - Chào anh. Anh đi đâu đấy?
B đáp: - Cảm ơn. Tôi khỏe. Còn anh?
(1) (2) (3)
Phát ngôn của A có hai hành vi nói (1) và (2)
Phát ngôn của B có ba hành vi nói (1), (2), (3)
Và các hành vi trên đây tạo nên các kiểu câu khác nhau.
g) Phạm trù kết cấu ngữ pháp có liên quan đến vấn đề hệ hình trong cú
pháp
Lâu nay người ta thường chú ý đến các kiểu câu một cách biệt lập mà
ít quan tâm đến mối liên hệ lẫn nhau của chúng, nhất là chưa chú ý đúng mức
đến các quan hệ hằng thể và biến thể của câu.
Nghiên cứu quan hệ hệ hình cú pháp thực chất là nghiên cứu quan hệ
giữa các kiểu cấu trúc câu và quy tắc sản sinh từ các câu này đến các câu
khác.
Ví dụ 1:
- Anh đi. (câu miêu tả)
- Anh đi? Anh đi không? (câu hỏi)
- Anh đi! (câu mệnh lệnh)
Ví dụ 2:
- Nó giống cha. -> Cha nó giống nó. Hai cha con nó giống
nhau.
Ví dụ 3:
- Công nhân làm việc ở mỏ -> Công nhân mỏ.
Ví dụ 4:
- Em được tôi yêu. -> Em yêu! (đầu bức thư)
Ví dụ 5:
- Tôi có thể (không có thề, không) làm được việc này.
- Tôi làm bài tập này.
- Tôi có thể (không có thể, không) làm bài tập này.
Ví dụ 6:
- Cô ấy là bạn thân của tôi.
- Người bạn thân của tôi chính là cô áy.
- Tôi coi cô ấy là bạn thân của tôi.
Ví dụ 7:
- Thầy khen nó giỏi -> Thầy khen nó là giỏi.
- Nó được thầy khen giỏi.
Ví dụ 8:
- Em đã chiếm được sự tin yêu của tôi. -> Tôi tin yêu em.
- Em không phản đối tôi.-> Em đồng tình với tôi.
Ví dụ 9:
- Ngu dốt làm con người nghèo khổ mà thôi.
-> Con người nghèo khổ chỉ vì ngu dốt mà thôi.
(khẳng định)
Các ví dụ trên là những phép biến đổi đơn giản nhất của quan hệ hệ
hình.
Mỗi kiểu cấu trúc câu thường tham gia vào một dãy các đối lập và do
vậy chính nó cũng là một vế của một vài hệ hình. Ví dụ, ta có kiểu: Công nhân
xây dựng nhà. Câu này tạo thành hệ hình các kiểu câu tường thuật, câu hỏi,
câu mệnh lệnh, Song, mặt khác, chính câu đó cũng tạo thành vế đối lập của
câu bị động. Nhà này được (do) công nhân xây dựng hoặc Nhà này được xây
dựng bởi công nhân (câu này không thuần Việt nhưng về ngữ pháp thì vẫn
cho phép). Do đó miêu tả các quan hệ phải chú ý cả bên trong của hệ hình và
giữa các hệ hình với nhau.
Giữa các vế của hệ hình cú pháp có quan hệ phái sinh (cũng tương tự
như các quan hệ cấu tạo từ và biến hóa từ). Quan hệ phái sinh này giữa các
câu cho ta câu phái sinh từ một câu gốc. Nhờ từ vựng và nhờ cú pháp mà ta
phân biệt được câu phái sinh với câu gốc. Ví dụ: Chị tôi cắt cỏ -> Chị tôi cắt
cỏ bằng liềm; Hiền may vá áo quần -> Hiền thợ may.
Các quy tắc phái sinh cú pháp thường dùng là: Cấu tạo ghép từ câu
đơn (theo cách gộp), cải biên câu ghép thành nhóm từ (theo cách rút gọn), ví
dụ: Tôi biết rằng cô ấy đã ra đi rồi Tôi biết việc ra đi của cô ấy. Ngoài ra còn
phải kể đến quy tắc đồng nghĩa nữa. Theo quy tắc này, cấu trúc cú pháp thay
đổi, nghĩa của câu vẫn giữ nguyên. Ví dụ:
(1) Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo.
(2) Giá băng tràn mọi nẻo, em sợ lắm.
(3) Em sợ quá trước giá băng tràn mọi nẻo.
(4) Giá băng tràn mọi nẻo làm em sợ lắm.
(5) Cái băng giá đầy em vào sợ sệt.
Các câu (1), (2) thay đổi không phải từ vựng mà là cú pháp. Các câu
(3), (4), (5) thay đổi cả từ vựng và cả cấu trúc cú pháp. Mặc dù có biến đổi
những tất cả các câu đều giữ lại ý nghĩa. Đây cũng là cách chọn lựa các biến
thể câu, là lao động nghe ngôn từ, nhất là đối với thi ca.
Các quy tắc trên đây có giá trị thực tiễn trong sáng tác văn học nghệ
thuật, học ngoại ngữ và dạy ngữ văn ở trường phổ thông.
Trên đây là 4 loại phạm trù chính của ngữ pháp. Khi đi vào nghiên cứu
tiếng Việt còn cần phải tìm hiểu thêm một phạm trù nữa, đó là phạm trù từ
vựng - ngữ pháp.
5) Phạm trù từ vựng - ngữ pháp
Mặc dù phạm trù này ít được các sách ngôn ngữ học thế giới quan tâm
đúng mức, nhưng nó lại được nhắc đến khá nhiều trong ngữ pháp tiếng Việt.
Phạm trù từ vựng - ngữ pháp gắn liền với việc phân chia kho từ vựng của
ngôn ngữ ra thành từng lớp, từng loại bởi vì một khối lượng lớn các từ trong
ngôn ngữ thường không thuần nhất về mặt ngữ pháp. Thường thường người
ta phân chia các từ cắn cứ vào những dấu hiệu hoàn toàn hình thức, chẳng
hạn chia động từ tiếng Pháp thành nhóm có đuôi - ir, nhóm có đuôi - er, chia
tính từ tiếng Việt thành nhóm đơn âm, nhóm đa âm… Ngoài cách chia này
còn một cách chia đáng chú ý hơn là chia vừa dựa vào đặc điểm hoạt động
ngữ pháp của từ vừa dựa vào ý nghĩa khái quát của từ. Ví dụ, chia vốn từ ra
thành các từ thực và từ hư, các từ thực lại chia nhỏ thành danh từ, động từ,
tính từ, v.v… Rồi động từ lại phân tiếp thành nội động từ / ngoại động từ v.v…
Cách chia này cũng gọi là từ vựng - ngữ pháp.
Nhưng phạm trù từ vựng - ngữ pháp tách riêng ra ở mục này khác ở
mấy khía cạnh:
- Ở trên là dựa vào sự đối lập giữa các dạng trong từ, ở đây dựa vào
thế đối lập giữa các tập hợp từ khác nhau trong kho từ vựng.
Ý nghĩa ngữ pháp nói đến trong cách phân chia trên là gồm ý nghĩa
không thường trực vì mỗi ý nghĩa gắn với một dạng thức nhất định còn ở đây
là ý nghĩa có tính thường trực: ý nghĩa hành động đi theo động từ. Ý nghĩa
trạng thái đi theo phó từ, và kèm với động từ, ý nghĩa nội động đi theo tiểu
loại nội động từ v.v… Có thể hình dung khái quát như sau:
Vật thể Quá trình
Trừu tượng Danh từ Động từ
Cụ thể Tính từ Phó từ
(Nhờ tính từ kết hợp mà danh từ được xác lập, nhờ phó từ kết hợp mà
động từ được thể cách hóa)
Hoạt động ngữ pháp của tập hợp từ này khác với tập hợp từ khác thể
hiện ở chỗ:
(a) Chúng được cấu tạo như thế nào và chúng có khả năng biến dạng
ra sao khi đặt chúng vào câu nói.
(b) Chúng có khả năng tham gia như thế nào vào các kết cấu chính phụ
và kết cấu chủ vị.
Nếu có (a) là đặc điểm hình thái thì có (b) - là đặc điểm cú pháp.
Các ngôn ngữ Nga, Anh, Pháp, Đức dựa vào cả ý nghĩa cú pháp và
hình thái nhưng coi trọng hình thái vì các ngôn ngữ này giàu hình thái, giàu kĩ
thuật cấu tạo theo kiểu hòa kết, khuất chiết. Trái lại, tiếng Việt, tiếng Hán và
các ngôn ngữ Đông Nam Á khác phải chú ý đến ý nghĩa khái quát và đặc
điểm cú pháp vì ở các ngôn ngữ này từ không biến hình, biến dạng. Do
nghèo về hình thái, tiếng Việt, tiếng Hán có kĩ thuật cấu tạo khác: cấu tạo theo
kiểu niêm kết, với những cách ghép máy móc.
- Ăn đũa = Ăn bằng đũa (khác) Người hề ăn đũa.
- Tình yêu mẹ - Tình yêu của mẹ
- Một điều đau khổ (+) nhưng không thể nói Một đau (-)
Trong các ngôn ngữ, phạm trù từ vựng - ngữ pháp cũng có hiện tượng
xê dịch, không như nhau: ở tiếng Pháp, tiếng Anh có mạo từ: le, la, les, a, the,
an,… trong tiếng Việt lại có loại từ: con, cái, chiếc, tấm… Cùng là tính từ
nhưng tính từ của tiếng Nga gần danh từ còn của tiếng Việt thì lại gần với
động từ, v.v…
Chương 21. TỪ LOẠI
I. CƠ SỞ DÙNG PHÂN ĐỊNH TỪ LOẠI
Nghiên cứu về từ loại là nghiên cứu các lớp từ của ngôn ngữ xét theo
các đặc trưng ngữ pháp của chúng. Để phân định các lớp từ (các từ loại)
trong tiếng Việt, người ta thường lấy những tiêu chuẩn sau đây làm cơ sở
(đây cũng là những đặc trưng ngữ pháp của từ ở mặt từ loại).
- Ý nghĩa khái quát (còn gọi là ý nghĩa phạm trù chung).
- Khả năng kết hợp.
- Chức vụ cú pháp của từ trong câu (còn gọi là thành phần câu).
Cách hiểu và cách vận dụng các tiêu chuẩn này ở các nhà nghiên cứu
có thể không hoàn toàn giống nhau. Sau đây là một cách hiểu rộng về các
tiêu chuẩn này.
1) Ý nghĩa khái quát của từ là thứ ý nghĩa chung cho cả một lớp từ; ở
tiếng Việt, thứ ý nghĩa này không có dấu hiệu âm thanh biểu hiện ngay trong
từ, nó chỉ tiềm ẩn trong từ và bộc lộ ra khi từ được kết hợp với từ khác. Nói
rộng ra (kể cả các ngôn ngữ có biến hình từ) ý nghĩa khái quát là thứ ý nghĩa
đi kèm với từ. Chẳng hạn, ý nghĩa chỉ vật của từ bàn sẽ bộc lộ khi nó được
kết hợp với ấy ở sau: bàn ấy. Ý nghĩa chỉ hành động của từ bàn khác sẽ bộc
lộ khi nó kết hợp với hãy (ở trước): hãy bàn (việc ấy).
Sau đây là nội dung các ý nghĩa khái quát chính của các lớp từ Việt: ý
nghĩa chỉ vật, ý nghĩa hành động, ý nghĩa trạng thái, ý nghĩa tính chất, ý nghĩa
số lượng, ý nghĩa quan hệ, ý nghĩa tình thái. Ngoài ra, các chức năng sau đây
cũng có tác dụng cho sự phân định từ loại như ý nghĩa khái quát ở một số lớp
con từ chuyên dụng với những chức năng này: chức năng thay thế, chức
năng nhấn mạnh, chức năng biểu thị cảm xúc.
2) Khả năng kết hợp là cái thể tiềm ẩn của mỗi từ trong việc kết hợp với
từ khác để tự bộc lộ bản tính của mình. Không phải mọi cách kết hợp có thực
của từ với từ đều là dấu hiệu của sự bộc lộ khả năng có tác dụng phân loại từ
nói ở đây. Chỉ những cách kết hợp nào làm bộc lộ bản tính từ loại của từ, tức
đặc trưng ngữ pháp của chúng, mới có tác dụng định loại chúng.
Từ trước đến nay, để xác định từ loại người ta sử dụng 2 cách xét khả
năng kết hợp sau đây:
- Dùng từ chứng (từ làm chứng)
- Dùng cụm từ chính phụ.
Hai cách vừa nêu chỉ có tác dụng định loại một số hữu hạn (tuy là đa
số) trong vốn từ Việt. Muốn định loại toàn bộ vốn từ Việt phải mở rộng khả
năng kết hợp đến bậc câu đơn (xét nó dạng hoạt động đầy đủ nhất, không chỉ
bó hẹp ở nòng cốt câu trừu tượng "chủ ngữ - vị ngữ"). Xem mục tiếp theo:
Các từ loại tiếng Việt)
3) Chức vụ cú pháp của từ trong câu là cái vị trí của từ trong mối liên hệ
ngữ pháp với từ (hay cụm từ) khác trong câu. Có thể gọi chức vụ cú pháp của
từ trong câu là "thành phần câu", nhưng cần nhắc rằng thuật ngữ "thành phần
câu" vốn chỉ dành cho một số từ nhất định trong câu, tức là hiểu có hạn chế,
không mở rộng ra cho tất cả các từ có nhiệm vụ cú pháp trong câu. Thuật
ngữ thành phần câu dùng ở đây sẽ rộng hơn, nó được hiểu là chức vụ cú
pháp của từ ở bậc câu.
Với việc định loại các từ cần nhớ rằng các từ thực thường có thể đảm
nhiệm vài ba chức vụ cú pháp trong câu.
Mặt khác, việc định loại các từ có thể được thực hiện ở bậc khái quát
cao hơn; phân biệt từ thực với từ hư.
Sự phân biệt từ thực với từ hư căn cứ vào cách phản ánh đối tượng
xem xét vào vỏ âm thanh của từ.
Ý nghĩa của từ là sự phản ánh thuộc tính của đối tượng hiện thực hay
đối tượng trừu tượng do tư duy để ra vào vỏ âm thanh của từ thông qua chủ
thể tư duy là con người xã hội. Sự phản ánh làm thành ý nghĩa của từ trong
phần lớn trường hợp, diễn ra bằng một trong 2 cách sau đây: gọi tên (hay là
định danh) và biểu thị kèm (kèm theo từ khác).
Từ thực là từ gọi tên đối tượng hiện thực hay đối tượng trừu tượng, bao
gồm vật, hành động, trạng thái, tính chất, số lượng, quan hệ; ví dụ: mèo, tư
tưởng, ma, quá khứ, chạy, suy luận, ngủ, đẹp, mười, nguyên nhân…
Từ hư là từ biểu thị quan hệ theo lối đi kèm theo các từ khác; ví dụ:
đang (chỉ hiện tại - quan hệ thời gian), vì (chỉ quan hệ nguyên nhân), ư (chỉ ý
nghi vấn - quan hệ của nội dung câu nói với mục đích nói)…
Thán từ cũng là từ hư bởi tính chất "ngôn ngữ” ở nó quá thấp. Đó là
những từ biểu thị trực tiếp (không phải gọi tên) các trạng thái tâm - sinh lí.
Nếu hiểu ý nghĩa là sự phản ánh thì sự phản ánh ở thán từ là sự phản ánh
trực tiếp, không có nội dung. Thán từ gần gũi với tiếng kêu, tiếng than của
động vật. Không phải vô cớ mà có những thán từ khá giống nhau tồn tại trong
nhiều ngôn ngữ khác nhau.
II. CÁC TỪ LOẠI CỦA TIẾNG VIỆT
Chúng ta hiểu phân định từ loại là xếp tất cả các từ của một ngôn ngữ
thành những lớp, những nhóm căn cứ vào đặc trưng ngữ pháp của chúng.
Theo đó vốn từ tiếng Việt có thể xếp vào 10 loại sau đây: danh từ, động từ,
tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, kết từ, trợ từ (nhấn mạnh), tình thái từ và thán
từ.
Dưới đây chúng ta sẽ xét chúng ở mặt ý nghĩa khái quát, khả năng kết
hợp và khả năng giữ chức vụ ngữ pháp trong câu.
Trên kia chúng ta đã nhắc đến 3 phạm vi được dùng để xét khả năng
kết hợp trong việc phân định từ loại tiếng Việt. Về phương diện này 10 từ loại
vừa nêu được xác định như trong bảng tổng hợp sau đây (dấu + và dấu – chỉ
việc có thể và không thể xác định từ loại được ở phạm vi đó):
Từ thực
Từ hưTừ loại Bằng chứng tố
Bậc cụm từ chính phụ
Bậc câu
Từ thực Danh từ + ấy (đó)… + +
Động từ (hãy) + + +
Tính từ (rất) + + +
Số từ - + +
Đại từ - + +
Từ hư Đại từ - + +
Phụ từ - + +
Kết từ - - +
Trợ từ - - +
Tình thái từ - - +
Thán từ - - +
Sau đây chúng ta sẽ xem xét 3 từ loại lớn là danh từ, động từ và tính
từ.
1) Danh từ
Danh từ có ý nghĩa khái quát chỉ vật (hiểu rộng, bao gồm cả người,
động vật, thực vật, đồ vật, các chất, những khái niệm trừu tượng về vật tương
đương với những thứ vừa kể) có thể đứng trước các từ ấy, nọ… và thường
giữ vai trò chủ ngữ hoặc bổ ngữ trong câu.
Danh từ được phân chia bước đầu thành 2 lớp nhỏ là danh từ riêng và
danh từ chung.
Danh từ riêng là tên gọi dùng chỉ cá thể vật như tên người (Nguyễn Vãn
Việt), tên đất (Hà Nội, Đòng Nai, Buôn Ma Thuột), tên núi sông (Trường Sơn,
Mê Công) v.v…
Danh từ chung là tên gọi của cả một lớp vật đồng tính xét theo một tiêu
chuẩn đã chọn. Danh từ chung lại có thể tiếp tục chia thành nhiều nhóm theo
những tiêu chuẩn khác nhau có tính đến đặc trưng ngữ pháp cụ thể hơn của
chúng. Sau đây là vài ví dụ.
Căn cứ vào tính chất tổng hợp trong nội dung ý nghĩa của danh từ có
thể tách ra những danh từ tổng họp. Danh từ tổng hợp là những danh từ ghép
gồm 2 (ít khi hơn 2) từ tố phân biệt nghĩa hoặc gần nghĩa gộp lại để chỉ vật
kèm theo tính chất tổng hợp. Chẳng hạn quần áo, binh lính, bếp núc, máy
móc. Phân biệt với danh từ tổng hợp là danh từ không tổng hợp (tất cả danh
từ không mang ý nghĩa ấy).
Căn cứ vào hình thể của vật có thể chia danh từ chung thành:
- Danh từ vật thể, chỉ người, động vật, thực vật, đồ vật.
- Danh từ chất thể, chỉ vật xét ở chất thể của chúng: thể rắn như đất,
đá, sắt, muối; thể lỏng như nước, dầu…; thể hơi như hơi, khói…
- Danh từ tượng thể, chỉ các vật thể tưởng tượng, các khái niệm chỉ vật
trừu tượng như ma, tiên…; tư tưởng, đạo đức, thói, nết…
- Danh từ tập thể, chỉ các tập hợp vật thường là đồng chất được hình
dung thành một khối rời như đàn, bày, lũ, bọn… Có những động từ chỉ hành
động được chuyển sang dùng như danh từ tập thể, cụ thể là nắm, mở, vốc,
bó, ôm…
Căn cứ vào khả năng kết hợp trực tiếp sau số từ (2, 3, 4, 10)… có thể
chia danh từ chung thành các nhóm danh từ không đếm được, danh từ đếm
được.
- Danh từ không đếm được gồm có danh từ tổng hợp, danh từ chất thể.
Ví dụ:
- quần áo, thuốc men, xe cộ, máy móc…
- muối, dầu, khói…
- Danh từ đếm được gồm 2 nhóm nhỏ: danh từ đếm được tuyệt đối và
danh từ đếm được không tuyệt dối.
Danh từ đếm được tuyệt đối có thể đứng sau số từ vô điều kiện, cụ thể
là:
+ Danh từ chỉ loại như: cái, con, cây, người, tấm, bức, tà, sợi, cục, hòn,
hạt, giọt, làn…
+ Danh từ chỉ đơn vị đại lượng như: mẫu, sào, thước, mét, mét vuông,
lít, kilogam, tấn…, sải (dây), gang, nắm…
+ Danh từ chỉ đơn vị hành chính, nghề nghiệp như: nước, tỉnh, xã, ban,
hệ, lớp, ngành, nghề, môn…
+ Danh từ chỉ đơn vị thời gian như: năm, tháng, tuần, giờ, vụ, mùa,
tuổi…
+ Danh từ chỉ lần như: lần, lượt, phen, chuyến, trận…
+ Danh từ chỉ đơn vị không gian như: chỗ, nơi, chốn, xứ, miền, khoảnh,
phía, bên…
+ Danh từ chỉ màu sác, mùi vị, âm thanh như: màu, sắc, mùi vị, tiếng,
âm, giọng…
+ Danh từ chỉ khái niệm trừu tượng như: trí tuệ, tài năng, tư tưởng, khả
năng, thói, tật, nết…
+ Danh từ tập thể như: bọn, tụi, dàn, bộ…, bó, nắm, vốc… (những danh
từ gốc động từ này đồng thời cũng là danh từ đơn vị quy ước dân gian).
+ Danh từ phức (gồm 2 âm tiết trở lên) không tổng hợp chỉ người và vật
như: học sinh, bác sĩ, xe đạp, bánh xe…
Danh từ đếm được không tuyệt đối chỉ có thể đứng trực tiếp sau số từ
trong một số trường hợp như khi liệt kê, ví dụ: trong lồng có 3 gà, 4 vịt; khi tổ
hợp số từ và danh từ làm vị ngữ hoặc định ngữ, ví dụ: Nó thích đồng hồ ba
kim; Con hổ này ba chân. Đây là những danh từ vật thể ngoài những nhóm
con liệt kê trên kia, và trong trường hợp đếm bình thường chúng thường phải
đứng sau danh từ chỉ loại, ví dụ: một (hai, ba)… con gà; một (hai - ba) cái
chân; một, (hai, ba) cây tre.
2) Động từ
Động từ có ý nghĩa khái quát chỉ hành động (hiểu rộng, bao gồm các
hoạt động vật lí - tâm lí - sinh lí), có thể đứng sau hãy và thường giữ chức vụ
vị ngữ trong câu.
Trong lớp động từ có thể tách ra những lớp con sau đây căn cứ vào ý
nghĩa và đặc trưng ngữ pháp:
a) Động từ chỉ trạng thái tâm lí, có đặc điểm là một mặt kết hợp được
với hãy, mặt khác lại kết hợp được với rất. Ví dụ
- yêu, nể, kính trọng, chán, ghét, ủ ê, mong, muốn, hiểu…
b) Động từ tinh thái, chỉ sự cần thiết, khả năng, bản thân chúng đã
mang ý nghĩa mệnh lệnh nên không kết hợp dễ dàng với hãy, nhưng dễ kết
hợp với rất. Ví dụ:
- cần, nên, phải…, có thể…
c) Động từ chỉ trạng thái thụ động, ví dụ:
- bị, được, mắc, phải, chịu…
d) Động từ chỉ các trạng thái khác, ví dụ:
- có, còn, hết, thôi, mất, xuất hiện…
- ngủ, thức, mê, tỉnh, quên…
- đứng, ngồi, nằm, quỳ…
- vỡ, gãy, sứt, lành…
đ) Động từ chỉ hành động, chỉ hoạt động tinh thần và hoạt động vật lí.
Ví dụ:
- toan, định, dám…
- suy nghĩ, đoán, tìm hiểu, nhận thấy, nghi ngờ…
- đi, chạy, bò, lê, vận động…
- chặt, đẩy, biếu, trộn, sai khiến…
Mặt khác, lớp động từ cũng thường được chia thành 2 lớp con là động
từ ngoại động và động từ nội động.
Động từ ngoại động có nội dung ý nghĩa chỉ hoạt động tác dụng lên đối
tượng làm biến đổi, hình thành, tiêu tan nó. Ví dụ:
- đào hầm, đào đất, đào khoai, đào mỏ…
Động từ nội động có nội dung ý nghĩa chỉ hoạt động không tác dụng lên
đối tượng mà tập trung ở chủ thể hành động. Ví dụ:
- ngủ, nằm, đi, tỉnh, xuất hiện…
3) Tính từ
Tính từ có ý nghía khái quát chỉ tính chất, có thể đứng sau từ rất và
thường làm vị ngữ hay định ngữ trong câu.
Tính từ thường được chia ra thành 2 lớp con: tính từ tính chất và tính
từ quan hệ. Tính từ tính chất xuất hiện sau rất, quá hoặc trước lắm, quá. Ví
dụ: xa, đẹp, đỏ, sạch, giỏi, cao, khô…
Tính từ quan hệ có khả năng kết hợp như tính từ tính chất, duy thay vì
rất còn dùng được rặt (không phải rặt những). Ví dụ:
- tập quán rặt Việt Nam; giọng rặt Sài Gòn; tính tình rặt đàn bà; cử chỉ
rặt côn đồ…
4) Chú thích về các từ loại khác
- Số từ có tính chất của từ hư do chúng thường xuất hiện ở cùng một vị
trí với các quán từ những, các, một. Mấy từ này giữ vai trò thành tố phụ trước
của đoản ngữ danh từ. Mặt khác số từ lại có tính chất thực từ vì đó là tên gọi
các số đếm cụ thể và có thể giữ vai trò chủ ngữ hay bổ ngữ trong câu như
danh từ. Vậy số từ thiên về phía thực từ nhiều hơn.
- Đại từ bao gồm nhiều nhóm, cụ thể là đại từ nhân xưng, đại từ thay
thế (thế, vậy), đại từ chỉ định, đại từ chỉ lượng (tất cả, cả). Trong đó đại từ
nhân xưng có tính chất của từ thực nhiều hơn, đại từ chỉ định có tính chất từ
hư nhiều nhất (nó được coi là chứng tỏ của danh từ). Tính chất hư chung của
lớp đại từ là ở chức năng thay thế (so sánh ý nghĩa của từ nguyên nhân với
kết từ vì).
- Phụ từ là những từ chuyên làm thành tố phụ cho danh từ (những, các,
một, mọi, mỗi, từng…) và làm thành tố phụ cho vị từ (vẫn, cứ, vừa, đã, ròi…).
Một số phụ từ có thể dùng một mình làm câu trả lời.
- Kết từ là những từ dùng để chỉ quan hệ bình đẳng, quan hệ chính phụ
và làm nhiệm vụ liên kết 2 từ hay 2 bộ phận từ ngữ với nhau. Ví dụ: và, còn,
mà, thì, vì, nên, nếu, tuy, mặc dù…
- Trợ từ nhấn mạnh không có mặt trong cấu tạo của nhóm từ, chúng
thường chỉ xuất hiện ở bậc câu, ví dụ: cả, chính, đúng, đích thị, chỉ, những (5
vé)…
- Từ tình thái chỉ xuất hiện ở bậc câu để đánh dấu câu theo mục đích
nói (câu nghi vấn, câu mệnh lệnh, câu cảm thán, câu tường thuật), ví dụ, à, ừ,
nhỉ, nhé, hở, nghen…; hoặc biểu hiện nhận xét thái độ của người nói đối với
nội dung câu nói hoặc đối với người nghe, ví dụ: hình như, có lẽ, tất nhiên, ạ,
đấy, đây…
- Thán từ dùng biểu thị cảm xúc và có quan hệ trực tiếp với cảm xúc
chứ không có nội dung ý nghĩa rõ rệt. vi vậy nó có tính chất của từ hư (ở đây
có nghĩa là ít có tính chất "ngôn ngữ1 của loài người, gán với tiếng kêu biểu
lộ cảm xúc của loài vật). Thán từ có thể tự mình làm thành câu, hoặc giữ vai
trò thành phần phụ của câu, biến câu thành câu cảm thán. Ví dụ:
- Ôi!
- Ôi! Tổ quốc giang sơn hùng vĩ…
(Tố Hữu)
Chương 22. ĐOẢN NGỮ
I. NHỮNG NHẬN XÉT KHÁI QUÁT
Các từ trong chuỗi lời nói không phải là một chuỗi kế tiếp giản đơn mà
có những quan hệ nhất định với nhau. Mỗi từ không phải cùng một lúc có liên
hệ với tất cả các từ trong câu mà trực tiếp liên hệ với một từ độc lập nào đó.
Một nhóm những từ có liên hệ trực tiếp với nhau ở trong câu gọi là tổ hợp từ.
Xét theo mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành tổ hợp từ, người ta phân
biệt tổ hợp từ có quan hệ chủ vị, tổ hợp từ có quan hệ bình đẳng (còn gọi là
liên hợp) và tổ hợp từ có quan hệ chính phụ. Loại tổ hợp từ thứ ba này được
gọi là đoản ngữ.
So với các loại khác, đoản ngữ có vai trò quan trọng đặc biệt về mặt
ngữ pháp: phân tích đoản ngữ giúp chúng ta xác định được từ loại và tiểu loại
của thành tố chính, và phân xuất được các lớp con thành tố phụ hoạt động
với tư cách những bộ phận mang những chức vụ cú pháp khác nhau. Ngoài
ra nắm được cách tổ chức đoản ngữ cũng tức là nắm được cách triển khai
câu bằng con đường mở rộng các bộ phận của nó hoặc rút gọn, mô hình hóa
câu để cho việc phân tích câu, hiểu câu được dễ dàng.
Tổ chức chung của đoản ngữ có ba phần: phần trung tâm, phần phụ
trước và phần phụ sau.
Đoản ngữ được gọi tên theo từ loại của thành tố chính. Tiếng Việt có
những kiểu đoản ngữ sau đây:
- Đoản ngữ danh từ: những con mèo đen ấy
- Đoản ngữ động từ: đã đón xe được rồi
- Đoản ngữ tính từ: đã cũ nhiều rồi
- Đoản ngữ số từ: gần 30, xấp xỉ 100, 50 hơn
- Đoản ngữ đại từ: ba chúng tôi
Ba loại đoàn ngữ danh từ, động từ và tính từ vừa phong phú vừa đa
dạng. Đoản ngữ động từ và đoản ngữ tính từ, nhìn chung, có nhiều điểm
giống nhau. Với những nhận xét vừa nêu và do dung lượng sách có hạn, sau
đây chúng tôi chỉ bàn sâu hơn ở đoản ngữ danh từ và đoản ngữ động từ.
II. ĐOẢN NGỮ DANH TỪ (DANH NGỮ)
Danh ngữ là đoản ngữ có danh từ làm thành tố chính. Các thành tố phụ
trong danh ngữ chiếm giữ những vị trí khá ổn định trong lược đồ sau đây:
Tất cả những cái con mèo đen ấy
vị trí -3 vị trí -2 vị trí -1 thành tố chính vị trí 1 vị trí 2
1) Thành tố chính của danh ngữ
Tại phần trung tâm của danh ngữ chúng ta có thể gặp mấy kiểu thành
tố chính sau đây:
- Thành tố chính là danh từ hay dạng ghép gồm một danh từ chỉ loại và
một danh từ, ví dụ: mèo, con mèo
- Thành tố chính trong kiến trúc "danh từ chỉ loại + tổ hợp từ tự do miêu
tả".
Khi có một danh từ chỉ loại kết hợp với một "tổ hợp từ tự do miêu tả”
dùng miêu tả một sự vật ứng với một tình huống cụ thể thì danh từ chỉ loại là
thành tố chính, còn tổ hợp từ miêu tả là thành tố phụ sau (vị trí 1). Ví dụ:
- hai người đang ngồi đọc sách đằng kia; những việc nói hôm nọ.
- Thành tố chính là từ đại diện:
Khi có một từ khác loại với danh từ đại diện cho danh từ vắng mặt
đứng ở phần trung tâm (do cách nói thành công thức hoặc do thói quen) thì từ
đại diện sẽ được coi là thành tố chính hiển hiện của nhóm, và đây vẫn là
nhóm danh từ. Ví dụ:
- ba sôi, hai lạnh (= ba phần nước sôi, hai phần nước lạnh), hai đen (hai
cốc cà phê đen).
2) Thành tố phụ trước của danh ngữ
a - Vị trí - 1
Từ cái ở vị trí - 1 có tác dụng chỉ xuất sự vật nêu ở thành tố chính, tức
là dường như tách sự vật ra để nhấn mạnh (nêu bật sự vật). Ngoài từ cái,
cũng có khi gặp từ chỉ loại khác dùng làm từ chỉ xuất. Chẳng hạn:
… thì con người ấy ai cầu làm chi
(Nguyễn Du)
Từ cái chỉ xuất có thể xuất hiện trước danh từ chất thể (là những danh
từ không trực tiếp đứng sau số từ được), ví dụ:
- cái thép này (thế mà tốt); cái đất này; cái vải này…
Khi có từ chỉ xuất thì sau danh từ - thành tố chính thường có kèm định
ngữ (x. các ví dụ trên). Cách dùng không có định ngữ kèm theo sau danh từ -
thành tố chính chỉ gặp trong cách "nói lửng” ở khẩu ngữ, ví dụ:
- cái thằng…; cái con bé; cái anh…
b – Vị trí - 2
Ở vị trí - 2 là những lớp con từ sau đây:
- Từ chỉ số lượng xác định hay là số từ: một, hai, ba, bốn, mười, hai
trăm…
- Từ chỉ số phỏng định: vài, vài ba, dăm, mươi…
- Từ hàm ý phân phối: mỗi, mọi, từng…
- Quán từ: những, các, một...
- Từ mấy
Sau đây là một số điều cần lưu ý liên quan đến việc sử dụng các từ ở vị
trí -2:
- Khi đã có từ chỉ xuất cái ở vị trí - 1 thì tại vị trí - 2 khó xuất hiện những
từ hàm ý phân phối mỗi, từng, mọi và quán từ. Ví dụ không nói:
- mỗi cái con mèo; các cái con mèo.
- Số từ thường không đứng liền trước danh từ tổng hợp, trừ nhưng
danh từ tổng hợp chỉ người thân thuộc. Ví dụ:
- hai vợ chồng; bốn anh chị em…
Không nói:
- bốn xe cộ; mười quần áo…
- Danh từ tổng hợp nói chung, muốn xuất hiện sau số từ phải đứng sau
danh từ tập thể hay danh từ chỉ đơn vị đại Tượng. Ví dụ:
- hai bộ quần áo; năm đàn trâu bò; hai toa thuốc men
- Các từ chỉ số phòng định và từ những, từ mấy có thể đứng trước
danh từ tổng hợp khi có từ chỉ loại xen giữa, ví dụ:
- dăm cái quăn áo; những cái nồi niêu; mấy con gà vịt."
- Từ những, từ các, từ mọi và những từ chỉ số từ phỏng định lớn có thể
đứng liền trước danh từ tổng hợp. ví dụ: những thợ thuyền; các tướng tá; mọi
xe cộ; vài trăm binh lính…
c - Vị trí - 3
Vị trí - 3 là vị trí các từ chỉ tổng lượng tất cả, hết thảy, tất thảy, hết cả,
cả (toàn bộ). Nhìn chung, những từ này có thể đứng liền trước những lớp con
từ sau đây:
- Số từ, ở vị trí - 2: một (sau cả), hai, ba, bốn, mười…
- Danh từ tập thể (không cần có từ ở vị trí - 2): đàn, lũ, bộ, bó, nắm…
- Danh từ tập thể (không cần có từ ở vị trí - 2): quần, áo, binh, lính, xe
cộ, máy móc…
- Kiểu diễn đạt theo lối tổng hợp nhiều sự vật, một tập hợp vật, với số
lượng xác định trong những hoàn cảnh nhất định, Ví dụ: những Con gà lông
này; gà lông này; một con gà và ba con vịt…
Cần lưu ý mấy điểm sau đây:
- Ý nghĩa tổng lượng có 2 khía cạnh khác nhau: toàn bộ nhiều vật rồi
gộp lại (= số nhiều), toàn bộ khối đơn vị rồi nguyên vẹn (= số đơn). Các từ chỉ
tổng lượng nêu trên không phải tất cả đều dùng được với cả hai khía cạnh ý
nghĩa này.
- Các tiếng hết, cả, tất, thảy đứng riêng là những từ rời có nghĩa và
nghĩa của chúng có phần gần nhau. Do đó khi chúng kết hợp lại thành từ
ghép thì sự khác biệt giữa các từ ghép này rất khó nắm bắt. Hơn nữa sự khác
biệt có khi gắn liền với chức vụ cú pháp của tổ hợp từ chứa chúng trong câu.
Chẳng hạn ở vị trí bổ ngữ và trước từ mọi thì có thể dùng tất cả, hết thảy, tất
thảy, hết cả, cả và thậm chí hết tất cả, hết tất thảy, ví dụ có thể thay vào câu
sau đây những từ vừa dẫn:
- Anh ta làm tất cả mọi việc.
Thế nhưng nếu ở vị trí chủ ngữ thì tổ hợp từ làm chủ ngữ chỉ chấp
nhận 3 từ chỉ tổng lượng đầu.
- Từ tất cả có thể xuất hiện, trước hoặc sau danh từ - thành tố chính.
Hai vị trí này của tất cả có thể có khía cạnh ý nghĩa khác biệt sau đây: tất cả
đứng trước (không hàm chứa là sau tất cả) chỉ "tổng lượng không có phần
dư", tất cả đứng sau chỉ "tổng lượng có thể có phần dư”. So sánh:
- tất cả 5 người (đầu) đã có mặt (không còn ai nữa)
- có mặt 5 người tất cả (có thể còn nữa)
Trong cách dùng này tất cả có thể xuất hiện sau cả động từ như là một
bộ phận chỉ cách thức, ví dụ:
- 5 người có mặt tất cả
3) Thành tố phụ sau của danh ngữ
- Ví trí 1
Vị trí 1 là vị trí của những thực từ nêu đặc trưng của vật biểu thị bằng
danh từ ở vị trí trung tâm. Số lượng thực từ có mặt đồng thời để nêu những
đặc trưng khác nhau tại vị trí này là không hạn chế, tuy nhiên thường gặp từ
một đến ba. Vế mặt từ loại, tại vị trí này có thể xuất hiện tất cả các loại từ
thực, về cấu tạo, có thể là một từ hoặc một tổ hợp từ, kể cả tổ hợp từ chủ - vị,
và ở vị trí này cũng có thể gặp ngữ cố định. Ví dụ:
- phòng tạp chí, phòng đọc, phòng hẹp, phòng mười bốn, phòng ngoài,
chuyến trước, phòng (của) chúng tôi…
- sách báo trong nước và nước ngoài, cửa hàng sách báo ngoại văn,
sách báo thư viện đặt mua…
- cuộc đời ba chìm bảy nổi…
Khi ở vị trí này có vài ba thành tố xuất hiện đồng thời thì xu thế chung
của trật tự giữa chúng là:
- Thành tố phụ nêu đặc trưng thường xuyên hơn sẽ đứng trước, ví dụ:
chiếc áo túi hộp / đẹp.
- Thành tố phụ là danh từ hay vị từ đứng trước, đến thành tố số tử và
cuối cùng thành tố từ chỉ vị trí, ví dụ: đường tránh / số 4 / ở giữa.
- Thành tố phụ có dung lượng nhỏ thường đứng trước thành tố phụ có
dung lượng lớn hoặc các thành tố có chứa kết từ. Ví dụ: vấn đề cấp bách /số
1 / về sản xuất hàng tiêu dùng.
Những xu thế chung vừa nêu dễ bị vi phạm khi có yếu tố ngữ điệu (chỗ
ngừng, điểm nhấn) tham gia vào câu.
b- Vị trí 2
Vị trí 2 chuyên dùng cho các từ chỉ định ấy, nọ, kia, này, đấy, đó như là
dấu hiệu đường biên giới cuối của danh ngữ (trừ trường hợp có thành tố
chứa kết từ của thuộc vị trí 1, so sánh: việc ấy / của anh và việc / của anh /
ấy). Với tư cách này các từ chỉ định ở vị trí 2 thường giúp vạch đường ranh
giới giữa các thành phần câu, so sánh:
bài thơ hay - tổ hợp từ (danh ngữ)
bài thơ này / hay - câu có chủ ngữ, vị ngữ rõ rệt
II. ĐOẢN NGỮ ĐỘNG TỪ (ĐỘNG NGỮ)
Động ngữ là nhóm từ chính phụ có động từ làm thành tố chính. Các
thành tố phụ trong động ngữ không thật ổn định đến mức như các thành tố
phụ ở danh ngữ. Một cách tương đối có thể nêu nhận xét: phần lớn các thành
tố phụ từ hư phân bố về phía trước thành tố chính, phía sau nó thường gặp
nhiều thành tố từ thực hơn, nhưng về cả 2 phía chưa nêu được những vị trí
xác định như ở danh ngữ.
1. Thành tố chính của động ngữ
Việc xác định thành tố chính của động ngữ không phải là một việc giản
đơn, ở đây cũng tồn tại không ít vấn đề.
- Các kiểu thành tố chính thường gặp ở động ngữ là:
- một động từ, ví dụ: đang đọc tờ báo
- một chuỗi động từ (không có thành tố phụ riêng), ví dụ: đã đi học rồi
- một kiến trúc đặc biệt có ý nghĩa "khứ hồi", ví dụ: vừa đi Nam Định về
hôm qua.
- một thành ngữ, ví dụ: cứ chỉ tay năm ngón hoài
Khi gặp một chuỗi động từ - từ thực (ở đây tạm gác tiểu loại động từ
tình thái) thì việc xác định động từ nào chính, động từ nào phụ là việc không
dễ dàng. Chúng ta sẽ xác định thành tố chính theo những quy ước sau đây
(chỉ đề cập chuỗi 2 động từ - từ thực).
- Chuỗi động từ không có thành tố phụ riêng của từng động từ trong đó
sẽ được coi là "dạng ghép" và không cần phân tích, ví dụ: đã đi ngủ rồi; đã đi
học rồi; đã đi săn ròi; đang nằm ngủ ngoài sân…
- Chuỗi động từ có một hoặc cả hai động từ có thành tố phụ riêng thì
động từ thứ nhất là thành tố chính, ví dụ: đã đi học ngoại ngữ; đã đi Đức học
rồi, đã đi Buôn Ma Thuật săn voi ròi; đang nằm ngoài sân ngủ (kia); đang ngồi
học bài ngoài sân; đang ngồi ngoài sân học bài…
- Chuỗi động từ có động từ thứ hai chỉ cách thức hệ quả của hoạt động
nêu ở động từ thứ nhất thì động từ thứ nhất là thành tố chính (nhất là khi 2
động từ thuộc về 2 chủ thể khác nhau), ví dụ: ăn đứng, bò nghiêng, bán quỳ,
đập vỡ, bẻ gẫy, đánh chết..
2. Thành tố phụ trước của động ngữ
Những từ hư làm thành tố phụ trước có thể chia thành những lớp con
với những ý nghĩa khái quát như sau:
- Những từ chỉ sự tiếp diễn tương tự: đều, cũng, vẫn, cứ, mãi, còn…
- Những từ chỉ quan hệ thời gian: từng, đã, vừa, mới, đang, sẽ…
- Những từ chỉ mức độ: rất, hơi, khí, quá…
- Những từ nêu ý khẳng định hay phủ định: có, không, chưa, chẳng…
- Những từ nêu ý mệnh lệnh, khuyên nhủ: hãy, đừng, chớ…
- Những từ chỉ tần số (số lần): thường, hay, năng, ít, hiếm (những từ
này có nhiều tính chất của từ loại tính từ như có thể đứng sau rất).
Ngoài ra, cũng gặp tại vị trí ngay trước động từ (sau những từ thuộc
mấy lớp con kể trên) một số từ thực chỉ cách thức của hoạt động nêu ở động
từ - thành tố chính. Chúng gồm 2 kiểu sau đây:
- Những từ phỏng thanh tượng hình và một số tính từ, ví dụ: ào ào
chảy; lác đác rơi, khẽ kêu, ôn tồn đáp; nhẹ nhàng khuyên bảo; chóng phai;
lâu mòn; tích cực làm việc; căn bản hoàn thành.,.
- Kiến trúc gồm một kết từ và một danh từ (tức là một "giới ngữ") chỉ
điểm xuất phát; kiến trúc này thường đứng trước động từ chỉ hướng (ra, vào,
lên, xuống…), ví dụ: từ quê ra, ở Bắc vô, dưới biển lên, ở trong Nam ra, trên
Thái xuống..
3. Thành tố phụ sau của động ngữ
Những thành tố phụ sau của động ngữ cũng phân được thành 2 loại:
những từ thực với tư cách là bổ ngữ hoặc trạng ngữ (của từ) và những từ phụ
với những chức vụ cú pháp khác nhau.
a- Các từ thực có thể có mặt sau động từ - thành tố chính có 2 loại: loại
do nội dung ý nghĩa, từ vựng của động từ đòi hỏi và loại do hoàn cảnh khách
quan quy định (hoàn cảnh không gian, thời gian, phương tiện, cách thức,
không do nội dung từ vựng của động từ đòi hỏi). Loại từ thực thứ nhất được
gọi là bổ ngữ (gồm có bổ ngữ trực tiếp và bổ ngữ gián tiếp). Ví dụ:
- Mẹ đã mua sách cho Hải Đăng đấy. (sách là bổ ngữ trực tiếp; Hải
Đăng là bổ ngữ gián tiếp)
Loại từ thực thứ hai là trạng ngữ của từ (hoặc bổ ngữ hoàn cảnh của
từ), ví dụ:
- Việt Anh đang làm bài trong nhà. (nhà là trạng ngữ của từ làm)
b- Các phụ từ làm thành tố phụ sau của động ngữ gồm những lớp con
sau đây:
- Lớp từ chỉ ý kết thúc, gồm các từ xong, rồi, đã. Ví dụ: đọc xong, ốm
rồi, nghỉ đã (rồi háy làm).
Chú thích: từ xong chỉ sự hoàn thành, từ rồi chủ yếu chỉ ý kết thúc giai
đoạn mở đầu (tức là chỉ ý "đã bắt đầu") từ đã chỉ ý kết thúc trong tương lai.
- Lớp từ chỉ ý mệnh lệnh trong quan hệ thân mật suồng sã, gồm các từ
đi, nào, thôi. Ví dụ: đọc đi; đứng lại nào, nghỉ tay thôi…
- Lớp từ chỉ kết quả, gồm các từ được, mất, phải, ví dụ: đọc được (tiếng
Pháp); rơi mất (cây bút); xéo phải (chân người khác)
- Từ chỉ ý tự lực, ý "cho chính mình": lấy. Ví dụ tự: đóng (vở) lấy; (Vỡ
lòng) học lấy (những nghề nghiệp hay)…
- Từ chỉ ý cùng chung: với, cùng, ví dụ: Chàng đi thiếp cũng đi cùng;
Cho nó chơi với!
- Từ chỉ ý qua lại (tương hỗ): nhau. Ví dụ: yêu nhau, xin nhớ lời nhau;
gửi thư cho nhau…
- Lớp từ chỉ hướng hư hóa: ra, vào, tới, lui, qua lại… Ví dụ: bàn vào, nói
ra, bàn lui, nhìn qua, làm lại (có ý lặp).
Có thể kể vào đây từ cho chỉ hướng tâm lí, ví dụ: tôi đọc cho; người ta
cười cho…
- Lớp từ chỉ mức độ, gồm các từ lắm, quá… Ví dụ: thương quá; nghĩ
ngợi quá; nể lắm; hiểu lắm…
- Lớp từ chỉ cách thức, gồm các từ ngay, lềen, tức khắc, tức thì, dần,
dần dần, từ tu, nữa, hoài, luôn, mãi… Ví dụ: đi ngay; ốm liền; giảm dần; học
nữa; học mãi.
Vị trí các thành tố phụ thuộc sau của động ngữ không thật ổn định, chỉ
có thể nêu nhận xét chung nhất sau đây: liền sau động từ thường có thể là
các từ phụ chỉ cách thức, tiếp theo là các từ thực, cuối cùng là những từ phụ
thuộc các lớp con khác.
Chương 23. CÂU
I. MỞ DẦU
1. Về việc định nghĩa câu
Trong một định nghĩa câu về mặt ngữ pháp hiện nay, cần tính đến các
mặt sau đây:
- Câu là đơn vị của ngôn ngữ hay của lời nói?
- Mặt hình thức,
- Mặt nội dung,
- Mặt chức năng.
Chúng ta hiểu câu là đơn vị của ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên
trong và bên ngoài) tự lập và có ngữ điệu kết thúc, mang một tư tưởng tương
đối trọn vẹn có kèm thái độ của người nói hoặc chỉ biểu thị thái độ của người
nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm với tư cách là
đơn vị thông báo nhỏ nhất.
2. Về việc phân loại câu
Với những căn cứ khác nhau, câu được phân loại thành những kiểu
khác nhau. Hiện nay có 3 căn cứ phân loại câu sau đây:
2.1- Phân loại theo mục đích nói thì có 4 kiểu là: câu tường thuật (câu
kể), câu nghi vấn (câu hỏi), câu mệnh lệnh (câu cầu khiến), câu cảm thán
(câu cảm).
Câu tường thuật thường được dùng để xác nhận, kể lại, mô tả sự vật
với các đặc trưng nào đó hoặc một sự kiện với các chi tiết nào đó.
Câu nghi vấn được dùng để nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi
và chờ đợi sự trả lời, giải thích.
Câu mệnh lệnh, có mục đích bàv tỏ ý muốn bắt buộc hoặc nho người
nghe thực hiện lệnh nêu lên trong câu.
Câu cảm thán được dùng khi cần thể hiện riêng một mức độ nhất định
của những tình cảm khác nhau hoặc thái độ của người nói.
2.2- Căn cứ vào mối quan hệ với hiện thục (hoặc điều tưởng tượng của
tư duy) sẽ có 2 kiểu câu là: câu khẳng định và câu phủ định.
Câu khẳng định xác nhận sự có mặt của sự vật, sự kiện…, hay đặc
trưng của chúng.
Câu phủ định xác nhận sự vắng mặt của sự vật, sự kiện…, hay đặc
trưng của chúng.
Chú thích chung:
a/ Hai nhóm kiểu câu nêu trên không tách rời nhau trong từng câu cụ
thể, xét ở mặt hình thức cấu tạo. Nói cách khác ta có cùng một lúc chẳng hạn
câu nghi vấn khẳng định hoặc câu nghi vấn phủ định v.v…
b/ Trong hai nhóm kiểu câu nêu trên trong tiếng Việt, ở mỗi kiểu câu
đếu có dấu hiệu hình thức cấu tạo riêng, vì vậy sự phân loại chúng có căn cứ
chung là căn cứ ngữ nghĩa - ngữ pháp.
2.3- Phân loại câu theo cấu tạo cho ta 2 kiểu lớn là câu đơn và câu
ghép. Mỗi kiểu lại có những kiểu nhỏ với đặc trưng cấu tạo riêng của mình.
Sau đây là bức tranh phân loại chung.
Trên đây là lược đồ các kiểu câu phân loại theo cấu tạo pháp (xem mỗi
kiểu ở từng mục tương ứng).
Phần tiếp theo sẽ nêu khái quát về những kiểu câu này.
II. CÂU ĐƠN (A): CÂU ĐƠN 2 THÀNH PHẦN()
1. Xác định phạm vi đối tượng nghiên cứu
Câu đơn 2 thành phần là câu được làm thành từ một nhóm từ chủ ngữ
- vị ngữ tự lập (hiểu là không bị bao hàm trong một kiến trúc khác lớn hơn).
Chủ ngữ và vị ngữ được coi là 2 thành phần chính của câu, chúng làm thành
nòng cốt của kiểu câu này.
Trong hoạt động của mình, câu đơn 2 thành phần đầy đủ có thể có
dạng tối thiểu và dạng tối da.
Ví dụ về dạng tối thiểu:
Chim hót.
Ví dụ về dạng tối đa:
Vì vậy, hôm ấy - đúng vào ngày cuối năm – mấy người mới đã gửi cho
ông thư kí nhà máy một bức thư bằng đường điện đấy.
Ví dụ đầu chim là chủ ngữ, hót là vị ngữ; ở ví dụ thứ mấy người thợ
mới là chủ ngữ, đã gửi cho ông thư kí nhà một bức thư bằng đường bưu điện
là vị ngữ.
Ngoài 2 thành phần làm nòng cốt câu, ở ví dụ thứ hai ta thấy có:
- Trạng ngữ (của câu): hôm ấy
- Phụ ngữ của câu: đấy
Cùng với nóng cốt, trạng ngữ câu và phụ ngữ câu làm khung của câu,
cái giới hạn ngoài cùng của câu.
Ở ví dụ thứ hai ta còn thấy có những bộ phận nằm ngoài khung câu, đó
là
- Giải ngữ: đúng vào ngày cuối năm
- Liên ngữ: vì vậy
Giải ngữ là thành phần tách biệt, không có quan hệ ngữ pháp (hoặc có
rất mờ nhạt), chỉ có quan hệ ngữ nghĩa với toàn câu hoặc với một từ nào đó
trong câu; tuy nhiên, nó vẫn luôn luôn hướng về bên trong câu, nó là thành
phần nằm ngoài khung câu, nhưng là thành phần nội hướng. Liên ngữ là
thành phần tách biệt và không cần cho câu chứa nó, nó chủ yếu làm nhiệm vụ
nối câu chứa nó với câu khác. Đôi khi nội dung liên ngữ có hướng vào bên
trong câu, tuy nhiên tính chất hướng ra bên ngoài câu vẫn luôn luôn là chủ
yếu; nó là thành phân ngoại hướng.
Chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ câu, phụ ngữ câu là những thành phấn
trong khung câu. Khi chúng là những cụm từ chính phụ, hoặc có từ khác đi
kèm, có thể phân xuất được những thành phần câu khác nữa. Đó là:
- Bổ ngữ (trực tiếp và gián tiếp): một bức thư, (cho) ông thư kí nhà máy
- Trạng ngữ (của) từ: (bằng) đường bưu điện
- Định ngữ: ấy, mấy, mới, nhà máy, một, bưu diện
- Phụ ngữ của từ: đã
Như vậy bộ thành phần câu bao gồm những thành tố tạo câu thuộc
những bậc khái quát cao, thấp khác nhau; thể hiện các bước hiện thực hóa
câu trong hoạt động. Trong bộ thành phần câu có những thành tố cần thiết
cho câu, làm thành nòng cốt câu; có những thành tố bổ sung với tư cách
những bộ phận tạo nên tính chất đầy đủ cho câu thích ứng với trường hợp sử
dụng, cùng với nòng cốt những thành tố này cho thấy giới hạn bên ngoài của
câu, tức khung câu; cũng có những thành tố là những bộ phận nằm ngoài
khung câu như là những yếu tố dư thừa đối với cấu tạo ngữ pháp cần và đủ
của câu rồi, nhưng là những yếu tố có thật và xuất hiện khá đều đặn khi câu
hoạt động trong tình huống cụ thể hay tổ chức ngôn ngữ lớn hơn chính nó.
Có thể hình dung bộ thành phần câu nêu trên thành lược đồ sau đây:
Lược đồ phân bố (quy ước) bộ thành phần câu của câu đơn 2 thành
phần.
Chú thích dừng lược đồ:
Dấu | chỉ ranh giới chủ ngữ và vị ngữ
Dấu / / chỉ ranh giới của nòng cốt với thành phần mở rộng nòng cốt.
Dấu <- chỉ ranh giới những thành phần dùng mở rộng các thành phần
nằm trong khung câu.
là khung câu, giới hạn ngoài cùng của câu.
chỉ thành phần chứa thành phần ngoài khung câu.
2. Bổ ngữ, chủ ngữ và quan hệ chủ - vị
Xét động từ bên ngoài câu, người ta nhận thấy rằng các yếu tố do nó
chi phối là bình đẳng với nhau: chủ thể, khách thể, đối thể gián tiếp, yếu tố chỉ
phương tiện, cách thức dùng thực hiện hành động. Ví dụ:
- "hành động viết"
+“người viết"
+ "vật được viết ra"
+ “người nhận"
+ "đồ dùng để viết"
Tuy vậy, trong khi dùng vào câu nói, một trong số các yếu tố do động từ
chi phối đó thường được chọn làm vật cần đưa ra làm chủ đề của câu nói,
yếu tố đó là "yếu tố được giải thích". Còn động từ chỉ hành động tự mình hoặc
cùng với yếu tố khác làm thành bộ phận giải thích hoặc, để cho thống nhất,
cũng được gọi là "yếu tố giải thích”. Ví dụ trong các câu dưới đây yếu tố được
nhấn mạnh là "yếu tố được giải thích":
(a) Hải Đăng viết thư cho Việt Anh bằng bút bi.
(b) Thư này viết cho Việt Anh.
(c) Bút này viết rõ lắm.
(d) Giấy này viết thư.
Trái lại, những yếu tố khác còn lại không được chọn, lại có tác dụng
giải thích cho động từ. Và trong trường hợp này động từ trở thành yếu tố
được giải thích của chúng. Đó là các yếu tố: thư, Việt Anh, bút bi ở (a), Việt
Anh ở (b), rõ lắm ở (c), thư ở (d). Vậy là, vào trong câu các yếu tố do động từ
chi phối có những cương vị khác nhau. Yếu tố được chọn làm yếu tố được
giải thích có cương vị chủ ngữ của câu, và sẽ được vị ngữ giải thích cho.
Trong lúc đó các yếu tố khác còn lại lại có nhiệm vụ giải thích cho động từ, vì
vậy chúng là những bổ ngữ hoặc trạng ngữ của động từ. Đó là chỗ chủ ngữ
khác với các bổ ngữ.
Quan hệ giữa yếu tố được giải thích và yếu tố giải thích là một kiểu
quan hệ hạn định (như động từ với bổ ngữ). Nhưng quan hệ giữa chủ ngữ với
vị ngữ lại có nét riêng của nó. Vốn là yếu tố do động từ chi phối, nhưng khi
được chọn làm chủ đề của câu, chủ ngữ chi phối trở lại động từ. Chẳng hạn
nếu cho ta động từ hót thì tự nó gợi lên yếu tố chim. Nhưng khi chim xuất hiện
như đối tượng cần nói đến thì nó lại quy định sự xuất hiện của hót vì hót là
năng lực của chim. Vì vậy chủ ngữ và vị ngữ trở thành 2 thành phần quy định
lẫn nhau, chúng được coi là 2 thành phần chính của câu.
Nét đặc thù làm cho quan hệ chủ - vị khác với các kiểu quan hệ giữa
yếu tố được giải thích và yếu tố giải thích khác là ở chủ ngữ vừa chỉ ra cái đối
tượng mà câu nói đề cập đến lại hàm chứa hoặc có thể chấp nhận (tức là quy
định) cái đặc tính (quan hệ, tính chất, trạng thái, hành động) sẽ được nói lên
trong vị ngữ và thường có trật tự chủ ngữ trước, vị ngữ sau (trong tiếng Việt).
Nói cách khác giữa chủ ngữ với vị ngữ vừa có quan hệ giữa yếu tố được giải
thích với yếu tố giải thích, lại vừa có yếu tố nghĩa lặp.
Tóm lại, chủ ngữ giống bổ ngữ ở chỗ có yếu tố nghĩa lặp, nhưng khác
với bổ ngữ ở chỗ nó được chọn làm đối tượng mà câu nói đề cập đến. Mặt
khác chủ ngữ giống đề ngữ (ví dụ: Sách này tôi đọc rồi) ở chỗ cả 2 đều là đối
tượng mà câu nói đề cập, nhưng giữa đề ngữ với yếu tố ngôn ngữ tiếp liền
sau nó không cần yếu tố nghĩa lặp (ở đây là giữa sách này với tôi).
3. Các kiểu cơ bản của câu đơn 2 thành phần
Một cách khái quát, câu đơn 2 thành phần chia thành 2 câu có từ không
độc lập chỉ quan hệ làm thành tố chính ở và câu có vị từ (tính từ và động từ)
làm vị ngữ.
3.1. Câu có từ không độc lập chỉ quan hệ làm thành tố chính ở vị ngữ
- Vị ngữ chỉ quan hệ đồng nhất, ví dụ:
Người này là thợ mộc.
- Vị ngữ chỉ quan hệ với vật liệu, ví dụ:
Cái ấm này bằng nhôm.
- Vị ngữ chỉ nguyên nhân, ví dụ:
Việc này tại đồng chí X.
- Vị ngữ chỉ mục đích, ví dụ:
Cái bàn này để ăn cơm.
- Vị ngữ chỉ quan hệ sở thuộc, ví dụ:
Hàng này của xí nghiệp chúng tôi.
- Vị ngữ chỉ quan hệ so sánh (tương đương), ví dụ:
Dân như nước, mình như cá.
(Hồ Chủ tịch)
3.2. Câu có vị từ làm vị ngữ
a/ Câu có tính từ làm vị ngữ, ví dụ:
Nhà bạn Nam rất gần.
Nhà bạn Nam rất gần trường học.
b/ Câu có động từ làm vị ngữ gồm 2 kiểu nhỏ: câu có vị ngữ là động từ
nội động và câu có vị ngữ là động từ ngoại động, ví dụ:
Bạn Hải Đăng đang ngủ. (Động từ nội động)
Bạn Hải Đăng đang học bài. (Động từ ngoại động)
Trong kiểu nhỏ thứ hai đáng lưu ý là những động từ thường đòi hỏi 2
bổ ngữ, ví dụ:
Bạn Nam tặng bạn Việt Anh một quyển sách.
Bạn Nam mượn của bạn Việt Anh một quyển sách.
Bạn Nam pha cà phê với sữa
Cũng trong kiểu nhỏ câu có động từ làm vị ngữ người ta thường tách ra
kiểu câu "gây khiến" như một dạng riêng biệt. Thuộc về kiểu câu gây khiến có
3 kiểu con sau đây:
- Câu chỉ hệ quả, ví dụ:
Bão đổ cây.
Bão làm đổ cây.
- Câu khiên động - ("bắt làm"), ví dụ:
Thầy giáo gọi em Nam đọc bài.
- Cáu đánh giá, thừa nhận, ví dụ:
Tôi coi anh ấy là bạn.
Họ bầu ông ta làm đại biểu.
Ở đây, trừ ví dụ đầu, trong các ví dụ sau ta có một bổ ngữ (hay trạng
ngữ) chỉ hệ quả (đổ) hoặc bổ ngữ nội dung (nội dung điều sai khiến, điều
đánh giá, thừa nhận; đó là đọc bài, là bạn làm đại biểu).
Chú thích: Ngoài 2 kiểu lớn (câu có từ không độc lập chỉ quan hệ và
câu có vị từ ở vị ngữ) trong tiếng Việt còn có kiểu câu mà vị ngữ là danh từ
hay cụm danh từ, ví dụ:
Anh ấy người Việt Nam.
Căn hộ này 60 mét vuông.
Con cá này 2 kilôgam.
Xe này 10 bánh.
III. CÂU ĐƠN (B): CÂU ĐƠN ĐẶC BIỆT
1. Xác định. Câu đơn đặc biệt là một kiến trúc kín tự thân, chỉ chứa
một trung tâm cú pháp chính (có thể có thêm thành phần phụ của câu), không
chứa hay không hàm ẩn một trung tâm cú pháp thứ hai có quan hệ qua lại
như chủ ngữ với vị ngữ.
Câu đơn đặc biệt có thể được làm thành từ một từ hay một tổ hợp từ
chính phụ, hoặc tổ hợp từ bình đẳng, ví dụ:
- Bom tạ.
(Nguyễn Đình Thi)
- Một thứ im lặng ghê người.
(Nam Cao)
- Một chút thẹn thùng. Một chút lòng thương.
(Nam Cao)
- Năm hôm, mười hôm… Rồi nủa tháng, lại một tháng.
(Nguyễn Công Hoan)
- Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch.
(Nguyễn Công Hoan)
- Nhơ nháp, hôi hám, ngứa ngáy, bứt rứt, bực mình. Chửi tục, cạu
nhạu, thở dài.
(Nam Cao)
Câu đơn đặc biệt cũng có thể có thành phần phụ của câu đi kèm (trạng
ngữ hoặc đề ngữ, đó không phải là chủ ngữ!). Ví dụ:
- Chốc lại cóc một tiếng, boong một tiếng.
(Nguyễn Đình Thi)
- Ở làng này, khó lắm.
(Nam Cao)
- Cơm, toàn một thứ gạo cuống rơm đã bốc hơi.
(Nam Cao)
- Vịt, còn hai con.
- Quân địch chết hai sĩ quan.
Ở 3 câu cuối cùng phần được nhấn mạnh là đề ngữ.
2. Phân loại câu đặc biệt
Câu đặc biệt thường được phân loại theo bản tính từ loại của từ làm
thành tố chính của trung tâm cú pháp chính. Theo đó ta có câu đặc biệt danh
từ và câu đặc biệt vị từ.
Ví dụ về câu đặc biệt danh từ:
- Bom tạ.
(Nguyễn Đình Thi)
- Nhà bà Hòa.
(Học Phi)
- 30-7-50.
- Chân đèo Mã Phục.
(Nam Cao)
- Hồi ấy, mỗi ngày một lá thư. Có ngày đến hai lá.
(Nam Cao)
Ví dụ về câu đặc biệt vị từ:
- Ồn ào một hồi lâu.
(Ngô Tất Tố)
- Im lặng quá.
(Nam Cao)
- Ở bên kia lục sục.
(Nam Cao)
- Cháy nhà!
- Trong nhà có khách.
- Trên bàn bày lọ hoa.
3. Về ý nghĩa của câu đơn đặc biệt
Nhìn chung câu đơn đặc biệt có ý nghĩa ngữ pháp khái quát là ý nghĩa
tồn tại. Nội dung "tồn tại" của ý nghĩa ngữ pháp này là một trong những đặc
trưng làm cho câu đơn đặc biệt khác so với một bộ phận của câu bị tách ra
thành một biến thể dưới bậc của câu (hay một ngữ trực thuộc). So sánh
những câu đặc biệt danh từ nêu trên với phần nhấn mạnh là biến thể dưới
bậc của câu trong ví dụ sau đây:
- Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng và vinh dự của thơ. (Phạm
Hổ)
Với nghĩa tồn tại, câu đơn đặc biệt bao gồm cả kiểu câu 4 khuôn hình
chuyên dụng là "giới ngữ chỉ vị trí + động từ chỉ trạng thái + danh từ”, ví dụ:
- Trên bàn bày hai lọ hoa.
- Trên tường treo một bức tranh.
- Trong phòng kê một bộ bàn ghế.
Các động từ bày, treo, kê ở đây được dùng chỉ trạng thái tồn tại của
vật, vì vậy dễ dàng thay chúng bằng động từ có.
Theo đó, những câu chỉ sự tiêu biến, sự xuất hiện có khuôn hình tương
tự cũng được coi là câu đơn đặc biệt. Ví dụ:
- Ở đây hay mất xe đạp.
-Từ trong bụi rậm vụt chạy ra hai con thỏ.
- Bỗng xuất hiện hai người lạ mặt.
(Câu có trạng ngữ thời gian có thể không cần giới ngữ đầu do cách
biểu thị ý nghĩa thời gian này không đòi hòi cách cấu tạo như vậy)
Những danh từ chỉ chủ thể đứng cuối ở đây không có tư cách chủ ngữ
vì chúng không được chọn làm chủ đề của câu, làm yếu tố "được giải thích",
trái lại chúng giữ cương vị yếu tố giải thích cho động từ đứng trước. Do đó,
chúng là những bổ ngữ, cụ thể hơn là những bổ ngữ - chủ thể.
IV. CÂU GHÉP
1. Xác định
Câu ghép là câu chứa hai nhóm từ chủ - vị trở lên, không bao hàm lẫn
nhau, liên hệ với nhau bằng những quan hệ ngữ pháp nhất định.
Câu ghép, về thực chất, là câu đơn có thành phần được mở rộng thành
nhóm từ chủ - vị. Tuy nhiên chỉ quy ước coi là câu ghép khi hoặc trạng ngữ
của câu, hoặc đề ngữ của câu, hoặc giải ngữ của câu được mở rộng thành
nhóm từ chủ - vị. Đối chiếu:
Câu đơn Câu ghép
- Vì ốm, anh ây nghỉ việc. - Vì anh ấy ốm, anh ấy nghỉ việc.
- Cách sống giản dị của Hồ Chủ tịch
chúng ta đã biết.
- Lối ăn ở của Hổ Chủ tịch giản dị như
thế nào, chúng ta đã từng biết. (Phạm
Văn Đồng)
- Rồi bà cười ha hả, cái cười ích kỉ,
vơ vào. (Nguyễn Công Hoan)
- Thế rồi bỗng một hôm - chắc rằng
hai cậu bàn nhau mãi - hai cậu chợt
nghĩ kế rủ Oanh chung tiền mở cái
trường…
(Nam Cao)
(Câu ghép lồng)
Ngoài 3 thành phần vừa nêu, những thành phần khác của câu được
mở rộng thành nhóm từ chủ - vị, thì câu sẽ được gọi là câu mở rộng bằng
nhóm từ chủ - vị (những biến thể của câu đơn), mà không gọi là câu ghép.
2. Phân loại câu ghép
Xét ở mặt ngữ pháp có thể chia câu ghép thành 4 loại chính:
- Câu ghép đẳng lập, dùng kết từ bình đẳng,
- Câu ghép chính phụ, dùng kết từ chính phụ,
- Câu ghép qua lại, dùng cặp phụ từ liên kết,
- Câu ghép chuỗi, không dùng kết từ và cặp phụ từ liên kết.
Ngoài ra cũng gặp kiểu câu có giải ngữ là một nhóm từ chủ - vị làm
thành kiểu:
- Câu ghép lồng.
2.1. Câu ghép đẳng lập thường dùng các kết từ bình đẳng và, mà,
còn…, ví dụ:
- Vợ anh không kêu, mà ba trùm cũng không giục rặn nữa.
(Nguyễn Công Hoan)
2.2. Câu ghép chính phụ thường dùng các cặp kết từ:
- Vì (do, tại, giả sử)… cho nên chỉ nguyên nhân - hệ quả…
- Nếu (hễ, giả mà, giả sử)… thì chỉ điều kiện/giả thiết - hệ quả.
- Tuy (dù, mặc dầu)… nhưng chỉ ý tăng tiến - nhượng bộ.
Các ví dụ:
- Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải nộp
thay.
(Ngô Tất Tố)
- Nếu cụ chỉ cho một dòng, thì còn hơn một dòng nữa, chúng con không
biết chạy vào đâu được.
(Ngô Tất Tố)
- Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
(Tố Hữu)
Chú thích:
a/ Các kết từ thứ hai trong từng cặp kết từ này có thể dễ dàng vắng
mặt, nội dung ý nghĩa của các mối quan hệ giữa hai vế vẫn rõ.
b/ Khi cần đảo vế sau lên trước phải xóa các kết từ vốn có ở vế sau đó.
c/ Kiểu câu ghép chỉ hệ quả - nguyên nhân dùng cặp kết từ sở dĩ… là vì
không thể thay đổi trật tự của 2 vế, ví dụ:
Sở dĩ nó thi hỏng là vì nó học kém.
2.3. Câu ghép qua lại thường dùng các cặp từ phụ hô ứng: không
những (chi)… mà còn, có… mới, vừa… đã, chưa… đã, mới… đã, đã… lại,
không… cũng, càng… càng, vừa… vừa, ví dụ:
- Em Nam không những thông minh mà em ấy còn rất chăm học nữa.
- Có thục mới vực được đạo.
- Tiếng còi vừa dứt thì họ đá có mặt đông đủ.
- Quả cây chưa chín trẻ con đã vặt sạch.
- Nó đá bực mình anh lại còn trêu nó.
- Nó không giúp, tôi cũng làm được.
Chú thích:
a/ Các vế trong kiểu câu ghép dùng cặp từ phụ hô ứng khó tách ra
thành câu riêng mà vẫn giữ được nội dung quan hệ qua lại. Tuy nhiên thảng
hoặc vẫn gặp cách dùng tách vế câu thành câu riêng, nhất là đối với những
câu dài, ví dụ:
- Cố nhiên không phải chỉ vì muốn tận tâm với hai cậu mà thôi. Còn vì
lợi riêng của nó.
(Nam Cao)
- Tôi vừa được nhìn thấy nhà thà Phú Cam xưa nhất xứ Huế. Tôi lại vừa
được chiêm bái cụ cố ông, một đấng trung thần.
(Hữu Mai)
b/ Câu ghép qua lại, về thực chất, phần lớn có nội dung quan hệ chính
phụ, một số có nội dung quan hệ bình đẳng. Cần nhớ rằng trong ngữ pháp chỉ
có quan hệ chủ - vị quan hệ chính phụ và quan hệ bình đẳng.
2.4. Câu ghép chuỗi là hiện tượng những nhóm từ chủ - vị trí dạng câu
đơn đứng nối tiếp nhau làm thành một câu ghép và không sử dụng hết các
kết từ chuyên dụng hoặc các cặp từ phụ hô ứng để liên kết các vế với nhau
(không tính sự có mặt của những phụ từ lẻ có tác dụng liên kết), ví dụ:
- Cái thì thực đẹp, cái thì thực xấu, cái thì thực mới, cái thì thực cũ.
(Nguyễn Công Hoan)
- Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.
(tục ngữ)
- Cô bực, cô bực quá!
(Nguyễn Công Hoan)
Chú thích:
2.5. Câu ghép lồng là kiểu câu có chứa giải ngữ là một dạng câu - dạng
câu đơn hoặc dạng câu ghép. Quan hệ giữa giải ngữ với phần câu còn lại chủ
yếu là quan hệ ý nghĩa (giải thích, bổ sung, nêu thái độ, hoàn cảnh…) giữa
chúng hoặc không có quan hệ ngữ pháp hoặc quan hệ đó rất mờ nhạt, ví dụ
(phần được nhấn mạnh là giải ngữ):
- Cô gái nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích.
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)
(Giang Nam)
- Tiếng Việt Nam ta giàu lắm, phong phú lắm (đây là nói về làm văn,
chứ còn về các môn học khác: khoa học, kĩ thuật, kinh tế học, triết học, thì
tiếng ta còn nghèo, phải dùng chữ nước ngoài, nhưng chỉ nên dùng danh từ
mà tiếng ta không có. Chúng ta nên bỏ thói quen dùng chứ nước ngoài thay
tiếng Việt Nam theo kiểu dùng chứ: "kiều lộ" thay chữ "cầu đường"; "câu
đường" là tiếng Việt Nam dễ nghe, dễ hiểu lại hay, vì sao không dùng? ở đây
có nhiều chuyện nói, nhưng chỉ ngoặc nói đôi câu…).
(Phạm Văn Đồng)
V. CÂU PHỦ ĐỊNH
Về mặt ngữ pháp, khi bàn đến câu phủ định (cũng giống như đối với
những kiểu câu phân loại theo mục đích nói) trước hết người ta đề cập câu
phủ định đích thực, tức là câu có hình thức phủ định thể hiện nội dung phủ
định.
1. Các phương tiện chuyên dụng để tạo ý phủ định
Để tạo ý phủ định, tiếng Việt dùng các phụ từ không, chẳng, chăng,
chưa, đừng, chớ; muốn tạo thêm các sắc thái nhấn mạnh có thể thêm từ hề
để có không hề, chẳng hề, chưa hề, và để tạo ý phủ định bác bỏ có thể dùng
các tổ hợp chứa từ phải, như không phải, chẳng phải, chưa phải hoặc dùng
các khuôn không trực tiếp chứa từ mang ý nghĩa phủ định như (không), có
sao đâu, nào có… đâu, đâu có (…), làm gì có (…), có phải… đâu, đâu (có)
phải v.v…
2. Phân loại hiện tượng phủ định trong tiếng Việt
Vrrg mặt ngữ pháp có thể phân loại hiện tượng phủ định trong tiếng
Việt như sau:
2.1. Yếu tố phủ định làm thành câu đặc biệt
Yếu tố phủ định có thể tạo thành câu đặc biệt để dùng khi cần bác bỏ
bằng cách phủ định một sự kiện, một tình huống, một ý kiến. Trong trường
hợp này nó không phải là dạng rút gọn của một câu hay một cụm từ tương
ứng và nó cũng không phải là một bộ phận của một câu lân cận nào đó tách
ra. ví dụ:
Nó lắc đầu:
- Em không sợ. Em làm ra tiền mà ăn. Không đi ăn mày.
Đức bảo nó:
- Thì tội gì mà khổ thân. Cứ ở nhà này.
- Không
- Thế thì tôi đi với mợ.
Nó sợ hãi:
- Không.
(Nam Cao)
2.2. Câu có vị ngữ bị phủ định
Trong kiểu câu này, yếu tố phủ định đứng đầu bộ phận vị ngữ hoặc các
khuôn chuyên dụng tác dụng ý nghĩa lên bộ phận chính ở vị ngữ. Ví dụ:
- Anh không tin?
(Nam Cao)
- Em chả dám.
(Nam Cao)
- Tôi có biết chuyện đó đâu.
- Anh ấy làm gì có ở nhà giờ này.
- Tôi không phải nghi ngờ anh mà là chưa tiện nói.
2.3. Câu có chủ ngữ bị phủ định
Thông thường ở đây có 2 kiểu cấu tạo bộ phận chủ ngữ:
a/ không phải + danh từ (hay nhóm danh từ) [không phiếm định], ví dụ:
- Không phái ông giám đốc cho mời anh mà tôi mời anh đến có việc.
- Chẳng phải người đó tìm bác mà người lúc nãy kia.
b/ không + danh từ (hay nhóm danh từ) chứa yếu tố phiếm định, ví dụ:
- Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.
(Nam Cao)
- Chẳng có người nào làm như thế cả.
- Không có gì quý hơn độc lập tự do.
(Hồ Chủ tịch)
2.4. Câu có thành phần phụ phủ định nòng cốt câu
Thành phần phụ của câu ở đây không phải là trạng ngữ câu mà chỉ là
một thứ phụ ngữ câu. Ví dụ:
- Không phải mẹ bảo con đến đây (mà là con đi học về ghé qua thôi).
- Chẳng phải quyển sách này của tôi (mà là của bạn kia).
Kiểu câu này khó phân biệt với kiểu câu có chủ ngữ và vị ngữ bị phủ
định nếu không tính đến ngữ điệu.
Phụ ngữ phủ định cũng có thể đứng sau nòng cốt câu, ví dụ:
- Quyền sách này của tôi, đâu phải.
Phụ ngữ cũng có thể là khuôn gián đoạn, ví dụ:
- Chẳng có ai việc gì đâu. (Trả lời câu hỏi: Có ai việc gì không?)
2.5. Câu có thành phần phụ của từ và thành phần phụ của bị phủ định
Các ví dụ:
- Anh đọc không rõ.
- Họ đi chưa ra khỏi ngõ thì gặp khách đến.
- Sẽ không bao giờ chị được trở lại miên Bắc, trở lại quê hương.
(Hữu Mai)
2.6. Hiện tượng phủ định đặc biệt ở câu đặc biệt
Các ví dụ:
- Không có giường, chỉ có một cái chõng tre.
(Nam Cao)
- Làm gì có nhiều mật mà ngọt.
(Nam Cao)
- Trong nhà (chẳng) có người nào đâu.
- Trên trời không một vì sao.
- Không phải anh này.
- Không phải không có giường. (Phụ ngữ phủ định)
3. Phủ định miêu tả và phủ định bác bỏ
Xét mặt dụng học, câu phủ định cũng được dùng trong hành vi ngôn
ngữ khác nhau như nhiều kiểu câu khác, chẳng hạn:
- Hành vi miêu tả (Trên trời không một vì sao)
- Hành vi bác bỏ (Không phải anh này.)
- Hành vi giao tiếp đưa đẩy, như hỏi thay vì chào (Sáng mai không đi
đâu chứ?).
Hiện nay có sự chú ý phân biệt hành vi phủ định miêu tả với hành vi
phủ định bác bỏ. Câu phủ định miêu tả được hiểu là câu phủ định dùng trong
hành vi miêu tả sự vật, hiện tượng, sự kiện. Câu phủ định bác bỏ dùng trong
đối đáp để cải chính, bác bỏ ý kiến, nhận định của người khác, hoặc dùng
trong quá trình suy nghĩ để tự bác bỏ ý kiến, điều cảm nghĩ của chính mình.
Tất cà các hiện tượng phủ định kể trên đều có thể dùng làm câu phủ
định bác bỏ. Riêng những kiểu có kèm theo từ phải và những khuôn phủ định
không trực tiếp chứa từ phủ định và nhất là các khuôn chứa đại từ phiếm
định, thường được dùng nhiều trong hành vi phủ định bác bỏ.
Dễ thấy là sự phân biệt hai kiểu câu phủ định này dựa nhiều vào ngữ
cảnh và tình huống dùng câu, chứ các dấu hiệu ngôn ngữ bên trong câu, nói
chung, không có hiệu lực phân biệt chúng với nhau. Chẳng hạn với câu:
Không có gì quý hơn dộc lập tự do. (Hồ Chủ tịch) nếu xét nó như một
khẩu hiệu chính trị thì có thể coi đây là câu phủ định miêu tả, nếu đặt trong
ngữ cảnh sự tranh luận, nó sẽ có thể là câu phủ định bác bỏ, nhưng nếu xét ở
mặt ý nghĩa sâu xa như một chân lí thì nó lại là một điều, khẳng định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
(Phần IV)
1. Nguyễn Tài Cẩn. Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện dại. Nxb Khoa
học xã hội. H. 1975.
2. Nguyễn Kim Thản. Động từ trong tiếng Việt. Nxb Khoa học xã hội. H.
1977.
3. Kasevich. V. B. Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương.
Nxb Khoa học M.1977 (tiếng Nga).
4. Kochergina. V.A. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Đại học Tổng hợp
Moskva, 1979 (tiếng Nga).
5. Maslôv Jul. X. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Đại học M. 1975.
NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN CẦN ĐỌC
6. Diệp Quang Ban. Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông (2 tập) Nxb Đại học
và gdcn, H. 1989.
7. Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng, từ ghép, đoản ngữ) Nxb
Đại học và thcn, H. 1975.
8. Đinh Văn Đức. Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại) Nxb Đại học và thcn, H.
1986.
9. Hoàng Trọng Phiến. Ngữ pháp tiếng Việt (câu). Nxb Đại học và thcn
H. 1980.
10. Nguyễn Kim Thản. Nghiên cứu vè ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Khoa
học. H. 1963 (tập I). 1964 (tập II).
11. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Khoa học xã hội. H. 1983.
12. Rephormatskij. A.A. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Đại học. M. 1967
(tiếng Nga).
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Quy ước trong cách trình bày
PHẦN THỨ NHẤTTỔNG LUẬN
Chương 1. Bản chất xã hội của ngôn ngữ
Chương 2. Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ
Chương 3. Nguồn gốc và diễn tiến của ngôn ngữ
Chương 4. Phân loại các ngôn ngữ
PHẦN THỨ HAICƠ SỞ NGỮ ÂM HỌC VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
Chương 5. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và tầm quan trọng của
ngữ âm học
Chương 6. Âm tiết và đặc điểm của âm tiết tiếng Việt
Chương 7. Âm tố và phân loại các âm tố
Chương 8. Âm vị và các hệ thống âm vị của tiếng Việt
Chương 9. Các hiện tượng ngôn điệu (ngữ điệu, trọng âm, thanh điệu)
Chương 10. Những hiện tượng biến đổi ngữ âm (thích nghi, đống hóa,
dị hóa)
Chương 11. Chữ viết và chính tả
PHẦN THỨ BACƠ SỞ TỪ VỰNG HỌC VÀ TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT
Chương 12. Từ vựng học và từ
Chương 13. Cụm từ cố định
Chương 14. Nghĩa của từ
Chương 15. Quan hệ đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa trong từ vựng
Chương 16. Biến đổi trong từ vựng
Chương 17. Các lớp từ trong từ vựng
PHẦN THỨ TƯCƠ SỞ NGỮ PHÁP HỌC VÀ NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT
Chương 18. Ngữ pháp và ngữ pháp học
Chương 19. Phương thức ngữ pháp
Chương 20. Phạm trù ngữ pháp
Chương 21. Từ loại
Chương 22. Đoản ngữ
Chương 23. Câu
---//---
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
(Tái bản lần thứ năm)
Tác giả:
MAI NGỌC CHỪ - VŨ ĐỨC NGHIỆU
HOÀNG TRỌNG PHIẾN
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
NĂM 1997