cảm ơn chị tịnh nguyên về bài ký sự. · úng là giấc mơ đã thành sự thật....
TRANSCRIPT
Cảm ơn chị Tịnh Nguyên về bài ký sự.
Không phải chị đang viết văn mà là thực sự chị đang vẽ một bức tranh tuyệt đẹp
về Đất Phật. Tôi chưa được may mắn chiêm ngưỡng tận mắt các chứng tích
của Phật Thích Ca, nhưng qua từng nét vẽ của chị tôi thực sự xúc động thấy
từng hình ảnh như đang hiện ra sinh động trước mắt mình. Từng Thánh Tích
một trôi qua như một khúc phim chiếu trên màn ảnh, kèm theo lời thuyết minh
cùng với những cảm nghĩ xuất phát từ đáy lòng, tất cả quyện lại với nhau khiến
đọc giả dễ dàng đồng cảm, và xa hơn nữa là đồng hành cùng với chị để về Đất
Phật cho dù chưa một lần đặt chân đến đó.
Đây là một bài ký sự rất thành công.
Có nhiều điều mới mẻ tôi đã nhận ra được trong bài viết này:
- Sự cơ cực nghèo nàn của người dân Ấn Độ rỏ ràng không phải là do
một đấng Thần Linh nào giáng họa, mà đó chính là bằng chứng hiển
nhiên của nghiệp quả đã đề cập trong nhà Phật.
- Viết về sông Hằng. Con sông như ngút ngàn bóng tối, tương phản với
hai bên bờ tràn ngập ánh hoa đăng. Sự tương phản như giữa sự sống và
cái chết, biên giới chỉ là mong manh như đường ranh cúa mép nước,
bước qua mép nước là cái chết; như một tiếng thở hắt ra là chấm dứt một
đời người … Một sự so sánh tuyệt đẹp.
Những người đã từng đi thăm vùng đất Thánh Địa, thường kể cho nhau nghe
về sự cảm ứng linh thiêng từ vùng đất Phật, sẽ làm thăng hoa cuộc sống tâm
linh sau khi các vị ấy trở về. Phải chăng chị Tịnh Nguyên là một trường hợp ?
Chị đã từng mong là sẽ có được một lần thứ 2 hành hương, tôi chúc chị sẽ đầy
đủ cơ duyên để toại nguyện.
Sacramento Tháng 2, 2019
Huyền Lâm
úng là giấc mơ đã thành sự thật. Không riêng gì cá nhân tôi, hầu như các Phật tử
nào cũng đều có chung ước nguyện “về thăm đất Phật”.
Đoàn Sacramento gồm 9 người, khởi hành từ San Francisco và sau đó gặp tất cả 34 thiền
sinh từ các đoàn khác tại thủ đô New Delhi của Ấn Độ, do Ni sư Thích Nữ Triệt Như
hướng dẫn.
Trải qua 14 ngày trong chuyến hành hương Ấn Độ, thấy những cảnh nghèo nàn, khổ đau
của đất nước này, nghiệm thêm lời nói đầu tiên của Ni sư: “Chuyến hành hương này là
bài pháp thực tế nhất mà các thiền sinh tự nhận thức, suy nghĩ không do một thầy, cô hay
một ai truyền đạt lại”.
Để rồi tôi tự nghĩ: nếu nói con người do một đấng thần linh hay một đấng cứu rỗi nào tạo
nên thì quả thật là bất công.
Vì vậy, chúng ta mới biết chữ “nghiệp” trong Phật giáo (duyên nghiệp trùng trùng).
Chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay, có kiếp này là do nhân quả, do duyên nghiệp nhiều
đời nhiều kiếp huân tập lại mà thành. Giá trị nhân bản của Phật Giáo chính là con người
phải tự mình gánh lấy trách nhiệm và hậu quả của thân, tâm, ý nghiệp do mình gây ra.
Nhưng ngược lại, Ấn độ giáo cho rằng con người được đấng thần linh tạo ra, đặt để một
vị trí, thẫm định từ một quyền lực của đấng tối cao, con người phải chấp nhận, tôn giáo
của giai cấp từ thời Đức Phật cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại, Cũng vì vậy mà đạo Phật
của công bằng và nhân bản không được phát triển trên đất nuớc này.
Đ
Đất nước ta vào thời phong kiến, thi hào Nguyễn Du cũng từng viết về thân phận con
người trong truyện Kiều:
“ Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới đươc phần thanh cao”.
Đến New Delhi vào chiều Chủ nhật, đoàn được hướng dẫn viên ngưới Ấn Độ đón tiếp và
đưa về khách sạn. Chỉ vỏn vẹn hơn nửa tiếng, chúng tôi đã chứng kiến tài lái xe “lạng
lách tài tình” của bác tài trong giờ cao điểm, kèm theo những tiếng í é sợ hãi, lẩn tiếng
cười thích thú của anh chị em trong xe.
Sáng hôm sau, dùng điểm tâm xong (suốt 14 ngày hành hương, chúng tôi đều có 3 buổi
ăn ở khách sạn mà chúng tôi ngụ lại qua đêm), theo lịch trình chúng tôi sẽ viếng thăm đài
kỷ niệm thánh Gandhi, India gate (đài tưởng niệm các chiến sỉ đã hy sinh) , lăng mộ Taj
Mahal và bảo tàng viện có chứa Xá lợi Phật. Nhưng vì rơi vào ngày thứ hai, bảo tàng
viện đóng cửa nên thay vào đó chúng tôi được viếng khu chợ mua sắm.
Đài tưởng niệm thánh Gandhi nằm trong thành phố New Delhi, môt khuôn viên rộng lớn
có 4 cửa vào tham quan. Một vị thánh đã dành lại độc lập cho đất nước Ấn Độ vậy mà chỉ
vỏn vẹn một ngôi mộ đuợc bao quanh bởi những thảm cỏ xanh mướt được chăm sóc kỷ
càng và một bức tượng nhỏ khiêm nhường ở cổng chánh . Thế thôi!
Ghé qua India gate đài tưởng niệm anh hùng tử sĩ, một kiến trúc đươc xây dựng giống
như khải hoàn môn của Pháp. Dưới chân đài có trồng nhiều hoa và những chậu hoa bài trí
rải rác chung quanh khuôn viên gọi là có sắc màu để du khách chụp hình. Nếu viếng vào
ngày lễ có nhiều lính mang quân phục đứng gác
Bù vào thời gian viếng thăm bảo tàng viện đóng cửa, chúng tôi được hướng dẫn đến khu
chợ mua sắm mà hầu như khách du lịch từ các nước như Việt Nam, Tích Lan, Thái Lan
và người phương Tây. Các mặt hàng nơi này ngoài quần áo, khăn choàng, những thứ
khác đều liên quan tới Phật giáo như chuổi hạt, tượng Phật chuông mõ… Chúng tôi rất
thích thú với cảnh sinh hoạt buôn bán và màu sắc, hàng hoá phong phú nơi này.
Ngày tiếp theo chúng tôi đươc viếng thăm lăng mộ Taj Mahal, một lâu đài xây dựng toàn
bắng đá cẩm thạch trắng chạm trổ tinh vi. Lăng mộ chánh gồm có 2 ngôi mộ của vua và
hoàng hậu. Bao quanh là một thành quách rộng lớn. Đứng phía sau lăng mộ, từ thành
quách trên cao nhìn xuống có một dòng sông êm đềm lặng lẽ trôi, chạy dài, suốt theo lăng
mộ thật thơ mộng. Công trình kiến trúc rất là nguy nga, tráng lệ,rất là mỹ thuật, suốt 22
năm mới hoàn thành, nhưng để đạt được thành tích này, phía thống trị đã đem đến bao
nhiêu thống khổ cho dân chúng dưới ách quyền lực của vua chúa thời xưa.
Phải nhìn nhận đây là một công trình, một kiệt tác kiến trúc nổi tiếng của nhân loại
nhưng để đánh giá là một biểu tượng cho một tình yêu bất tử, vĩnh cữu hay cho là một
thiên tình sử thì quả thật trái ngược với nguyên lý vô thường của đạo Phật.
Hai ngày có thể không đủ để nhận xét vế thành phố này nhưng cảm nhận của riêng tôi là
thành phố New Delhi bị thu hẹp lại, không có trời cao, đất không rộng. Trời không cao vì
chẳng thấy trời cao mây trắng, chẳng thấy những đám mây trôi bềnh bồng thay vào đó
chỉ là một bầu trời vẫn đục,u ám, không khí đầy khói bụi gây cho du khách khó thở hơn.
Đất không rộng vì những công trình trên dường phố, xa lộ, ngổn ngang dang dở, nhà cửa
có lối kiến trúc giống như chưa đươc hoàn tất, phố xá thiếu vệ sinh, có nhiều ụ rác hai
bên đường ... làm tôi và vài anh chị em trong đoàn chia sẻ ý tưởng, thành phố này giống
như mới trải qua một cưộc chiến.
Thành phố không có màu xanh của lá, sắc màu của hoa, dù rằng thành phố có trồng
nhiều cây xanh, từng lớp bui chồng chất làm hoa và lá trở thành một màu xám xịt. Đến
lúc, một trận mưa rào không biết có đủ gột rửa cho lá hoa trở về màu sắc, cho đường phố,
cho con người ở đất nước này cảm nhận sắc màu của mùa xuân?
Nếu thấy được sắc màu trên đất nước này chỉ qua những bộ sari của người phụ nữ Ấn
Độ, nhưng tiếc thay nó lại không tự do tung bay phất phới khắp nơi, mà lại bị chôn chặt
trong luật lệ, phong tục, tập quán của xã hội và tôn giáo.
Cho nên chúng tôi thường thấy bất cứ sinh hoạt, dịch vụ, buôn bán lớn nhỏ hầu hết do
nam giới đảm trách.
Số ngày còn lại chúng tôi trải qua hàng trăm cây số để viếng các thánh tích của Phật
giáo. Xuyên qua biên giới Nepal đến thánh tích đầu tiên trong bốn thánh tích quan trọng
nhất: Lâm Tì Ni, nơi Phật đản sanh.
Sáng sớm tinh mơ chúng tôi đã có mặt ở khuôn viên Lâm Tì Ni và thực hành thiền dưới
tàng cây lớn. Hạnh phúc biết bao trong những giờ phút nơi này, để thấy những chứng tích
thật sự, những hàng chử ghi trên trụ đá vua A dục có thể xem như một bản khai sinh của
thái tử Tất Đạt Đa. Trong đền thờ hoàng hậu Maya thấy bước chân của thái tử mới chào
đời được trân trọng gìn giữ mặc dù chỉ là những dấu tích cũ kỷ rêu phong nhưng cũng đủ
ấm lòng ngưới con Phật khi viếng thăm nơi này.
Được thấy những cành vô ưu đong đưa trước gió mà tích xưa chép lại, hoàng hâu đã hạ
sanh thái tử Tất Đạt Đa khi vừa với tay vịn vào. Chúng tôi đi vòng quanh ngắm nhìn
phong cảnh để được thấy hồ nước trong xanh mà theo sử liệu thì thái tử và hoàng hậu đã
tắm gội nơi này. Còn diễm phúc nào hơn khi tất cả đã được thấy sự thật nơi chốn của một
đấng giác ngộ ra đời, một nhân vật lịch sử có thật mà toàn thế giới đã khâm phục và kính
trọng...
Còn niềm xót xa nào hơn khi chúng tôi đặt chân đến Ca Tỳ La Vệ, nơi quê hương của
đức Phật cách xa Lâm Tì Ni 17 km, nơi mà trước kia là một vương quốc trù phú nay trở
thành hoang phế. Nơi đây thái tử Tất Đạt Đa đã sống trong nhung lụa, giàu sang phú quí,
hạnh phúc bên cạnh người thân, cha mẹ, họ hàng, vợ con, giờ đây chỉ còn là một mảnh
đất hoang tàn bao quanh bởi 4 bức tường, những nền gạch phế tích rêu phong theo năm
tháng, làm chạnh lòng:
“ Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.
Được sự hướng dẫn cũa hướng dẫn viên, chúng tôi ra khỏi cánh cửa rào, theo sử liệu là
cổng thành phía Đông mà ngày xưa thái tử đã trốn ra ngoại thành cùng với Xa Nặc để
thấy sự thật về cái già, cái khổ và sự chết chóc của con người nên ngài đã quyết định từ
bỏ tất cả để tìm đường giải thoát.
Dọc theo bờ tường, cổng thành, một con đường dẫn vào làng quê với những thửa ruộng
chín vàng chờ gặt, những con trâu đang gặm rạ khô bên mái nhà tranh vách đất, những
tiếng cười của những đứa trẻ nhà quê thân thiện chạy theo nắm chặt bàn tay của chúng
tôi. Vài cây số vào làng chúng tôi thấy hai ngôi mộ, một lớn một nhỏ được cho là của vua
Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Hàng ngàn năm đi qua nhưng hình ảnh của quê hương
đức Phật vẫn hiện hữu trên một miền đất tràn ngập bao nhiêu điều kỳ bí, huyền diệu ,
hình ảnh vẫn còn đây, giống y như cũ.
Có những thánh tích đem đến cho chúng tôi những hạnh phúc an lạc thì cũng có những
thánh tích làm chúng tôi bùi ngùi xót xa. Nếu như Lâm Tì Ni , nơi nhân thiên và muôn
vật reo vui đón mừng ngày đản sinh của đức Phật thì Kushinagara là nơi trời và muôn vật
rơi lệ, u buồn tiễn đưa Đức Từ Phụ. Cảnh trí nơi đây đã đươc trùng tu lại, hai cây sa la
song thọ vẫn đứng thẳng dưới nền cỏ xanh mướt, cũng màu xanh đó đã làm rỏ thêm nền
gạch di tích cũ được xây dựng hàng ngàn năm qua. Một ngôi chùa Niết Bàn có nét kiến
trúc như một hình trụ to lớn không có dáng dấp của một ngôi chùa thuần tuý cổ truyền
thường thấy ở Á Đông, phía sau chánh điện là một chánh điện to lớn thờ Xá Lợi Phật
(sau khi trà ti phân chia Xá Lơi ) của bộ tộc Mallas. Đoàn chúng tôi vào bên trong chánh
điện và thiền hành chung quanh tượng đức Phật nhập diệt nhiều vòng. Pho tượng đức
Phật nhập diệt dài hơn 10 m được đặt trên bệ cao hình chữ nhật, nằm trong tư thế kiết
tường, mặt hướng ra cửa chánh phía nam, đầu quay về hướng bắc như đang ngủ. Trên
tường chung quanh có vài hình ảnh điêu khắc ghi lại một vài tình tiết khi Phật nhập diệt.
Tôi thực sự xúc động với cảnh trí nơi đây hai cây song thọ mà ngày nào hoa đã rơi phủ
đầy nhục thân của một bậc giác ngộ duới sư chi phối của qui luật vô thường.
Đến Lộc Uyển còn gọi là Vườn Nai khi xưa nơi này muôn thú tụ tập, nhiều nhất là nai
nên được gọi là vườn nai, sau nhiều lần trùng tu cho khách hành hương đến viếng thăm.
Nai không còn nhiều nhưng những di tích xưa cũ dù tháng năm bào mòn vẫn còn hiển
hiện nơi đây, tháp Dhamex sừng sững oai nghi, nơi mà đức Phật đến đây để giảng bài
pháp chuyển luân đầu tiên cho 5 anh em Kiều Trần Như được đắc quả A La Hán. Từ đó
đã khai sáng cho nền giáo lý của đạo Phật. Lời của đức Phật từ bi đã trãi qua hơn hai
ngàn năm mà vẫn có giá trị tồn tại đến ngày nay.
Có những thánh tích gây nhiều cảm xúc, bồi hồi thương cảm thì ngươc lại Bồ Đề Đạo
Tràng, nơi Đức Phật thành đạo gây cho tôi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Sáng
sớm tinh mơ đoàn chúng tôi đã có mặt trong số hàng ngàn người đang chờ đợi ở cổng
vào, hàng rào che chắn, những thiết bị bảo vệ an toàn kiểm soát an ninh giống như tại phi
trường gây cho tôi cảm giác ngạc nhiên đầu tiên
Sư cô đã hướng dẩn chúng tôi Thiền trong khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng ngày đầu tiên và
đoàn chúng tôi có 3 ngày nơi đây, nên có nhiều anh chị em đã dành trọn thời gian những
buổi Thiền nơi này thay vì đi thăm viếng những ngôi chùa của các nước ở ngoại ô Bồ Đề
Đạo Tràng.
Khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng rất rộng lớn được bao bọc bởi tường cao bốn phía. Vào
cổng chánh chúng ta sẽ nhận ra một bảo tháp lớn có tên gọi là chùa Bồ Đề. Vì tháp ở sâu
hơn mặt đất nên khuôn viên này có xây nhiểu tầng tam cấp chung quanh để chúng ta đi
quanh chiêm ngưỡng những di tích. Chùa Bồ Đề được xem là toà tháp chánh trong khuôn
viên này, kiến trúc như kim tự tháp vuông vức màu trắng thanh nhã thẳng đứng ở 4 góc
có 4 tháp nhỏ được điêu khắc nhiều hình tượng Phật và nhiều vị Bồ Tát. Tượng Bồ tát
Quan Thế Âm bên phải của đại tháp được khách hành hương tham bái và lễ lạy, lối kiến
trúc tháp theo truyền thống Miến Điện vì tháp được trùng tu bởi Phật tử Miến Điện. Bên
trong chánh điện là một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni đang ngồi thiền được tạc từ thế kỷ
thứ 10 Tây Lịch.(Điều đặc biệt là bức tượng này được thay Y liên tục do các đoàn hành
hương dâng y cúng dường và sau đó du khách hành hương được thỉnh y lại)
Sau bảo tháp là cây Bồ Đề tàng rộng vươn cao lá xanh mướt vào tháng 11 lúc chúng tôi
đang hành hương, nơi đây thái tử đã tham thiền trong 49 ngày và chứng đạo. Có thể nói
rằng cây Bồ Đề là chứng tích của sự thành đạo của Đức Phật.
Ngoài ra còn có di tích tháp Kim Cương, nơi đức Phật sau khi thành đạo đã dành 1 tuần
ngồi nhìn ngắm lại cây bồ đề tỏ lòng biết ơn sự che chở của cây trong suốt thời gian 49
ngày tham thiền.
Trụ đá của vua A Dục còn lưu lại ghi dấu rõ ràng chứng tích của hơn hai ngàn năm trước.
Một hồ nước trong xanh có một tượng Phật đang toạ thiền với rắn thần che bên trên
tượng Phật. Truyền thuyết cho rằng rắn thần che chắn, bảo vệ đức Phật được an toàn
trong thời gian nhập định trong cơn mưa to gió lớn
Bên ngoài khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng giống như một hội chợ, đèn đuốc trang hoàn
sáng rực khi về đêm, đường phố tấp nập ồn ào, những dịch vụ, hàng quán, khách sạn, đều
phục vụ cho du khách hành hương khiến cho tôi có cảm tưởng như nơi đây là một trung
tâm du lịch, một thắng cảnh nổi tiếng hơn là một thánh tích tâm linh. Ngoại thành Bồ Đề
Đạo Tràng ngày nay cũng có nhiều chùa được xây dựng từ nhiều cộng đồng Phật Giáo
Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Miến Điện, Tây Tạng, Bhutan, Nhật Bản v,,v..Bồ Đề
Đạo Tràng vẫn là một địa danh nổi tiếng, là nơi linh thiêng nhất của Phật Giáo. Một nơi
đem đến sự bình yên, hạnh phúc, an lạc như được trở "về nhà", trở về nội tâm và tỉnh
thức cho bất cứ ai đến viếng nơi này
Ngoài 4 thánh tích quan trọng chúng tôi cũng dừng chân tại Đại học Nalanda của một
thời xa xưa lúc Phật giáo còn phồn thịnh. Sự xúc động dâng trào khi nhin thấy cảnh tang
thương biến đổi của một trung tâm giáo dục đồ sộ huy hoàng, một nền văn hoá cao độ
ngày xưa dưới sự huỷ hoại của thế lực vô minh tàn bạo. Đó đây còn lập loè mùi lửa khói
của từ muôn kinh vạn quyển của đại thư viện kéo dài suốt cả nhiều tháng trường mới dứt.
Đây là bục giảng của giảng sư, kia là phòng ốc cho tu sinh từ khắp miền thế giới về đây
tu học, này là giếng nước sinh hoạt hằng ngày. Tất cả hình ảnh xưa cũ hiện về, phô bày
ẩn hiện trước mắt tôi. Không một chống cự nào, không một phản kháng tự vệ chánh đáng
nào. Nền đạo học của từ bi, của trí huệ, đạo cho vui cứu khổ đó sao bị oan ương nghiệt
ngã đến nổi như vậy! Một sự huỷ hoại của ngàn xưa cho đến ngàn sau chưa thể phục hồi,
chưa thể phục hoạt!
Đoàn tiếp tục di chuyển đến núi Linh Thứu, biểu tượng của 40 năm hoằng hoá của đức
Phật, cách xa Đại học Nalanda khoảng 10 km. Núi không cao lắm có thể đi bộ lên đỉnh
trong vòng 30 phút nhờ con đường lát đá khang trang dễ đi. Nhưng một số khách hành
hương vì tuổi tác và bệnh tật vẫn cần sự "trợ duyên" của 2 người dân Ấn độ khiêng kiệu
để lên đỉnh. Trên đỉnh núi Linh Thứu có phiến đá giống hình mỏ của con chim kên kên,
chim này thường thấy ở Ấn Độ, nên đuợc gọi là Linh Thứu. Nơi đây sau khi thành đạo,
Đức Phật đã nhiều lần thuyết giảng tại đây những bài kinh quan trọng, có di tích hương
phòng, nơi Đức Phật trú ngụ trên mặt bằng đỉnh núi và các hang động nơi trú ngụ của 3
vị đệ tử lớn của Đức Phật, ngài Xá Lợi Phất, ngài An Nan và ngài Mục Kiền Liên. Nhiều
người trong chúng tôi đảnh lễ trước hương thất của Đức Phật.. Từ đỉnh phóng tầm mắt
nhìn chung quang thấy quang cảnh thật an bình, màu xanh của núi rừng, màu vàng của
đồng lúa, ngô khoai dưới thấp. Xa xa phía bên trái là hướng có nhà tù nơi vua A Xà Thế
giam giữ vua cha Tần Bà Sa La, nơi vua cha thường ngày từ ngục thất dỏi nhìn về đỉnh
núi Linh Thứu mong được nghe những lới giảng của Đức Phật từ xa. Phía phải hương
thất là một ngôi chùa Nhật màu trắng với hình dáng một tháp tròn cao vút trên một đỉnh
núi xanh lơ. Khách hành hương có thể dễ dàng thăm viếng chùa này bằng đường cáp
treo.. Chúng tôi rất tiếc không có dịp viếng thăm chùa này vì không có trong chương
trình.
Hạnh phúc nào hơn, sung sướng nào hơn khi dừng chân trên đỉnh núi lịch sử này, bốn bề
lộng gió, cảnh vật an bình trong khoảng không gian như bất tận. Tôi đã thật sự trải qua
những giây phút toạ thiền an lạc, mà nơi đây hơn 2500 năm trước đức Phật truyền tâm ấn
cho ngài Ma ha Ca Diếp sau khi ngài mĩm cười qua công án Niêm Hoa Vi Tiếu và tuyên
bố trước đại chúng,” “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô
tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, truyền ngoài giáo pháp, nay trao cho Ca-diếp”.
Nơi đây cũng là nơi Đức Phật đã từng giảng pháp cho chư thiên
Bồ Đề Đạo Tràng ồn áo náo nhiệt bao nhiêu thì Kỳ Viên tịnh xá khá yên tịnh, vẫn còn
thấy những chú vượn, khỉ đang tha hồ nhảy nhót mà không chút sợ hải khách thập
phương . Nhìn bao quát khuôn viên Kỳ Viên Tịnh xá chúng tôi không làm sao hình dung
nổi số vàng mà ngài Cấp Cô Độc trải để mua lại từ Thái tử Kỳ Đà cúng dường cho Đức
Phật và tăng đoàn
Qua lời miêu tả của ngài Huyền Trang Kỳ Viên tịnh xá còn có một hương thất 7 tầng rất
trang nghiêm và rộng lớn. Đức Phật dừng chân 24 năm nơi đây để hoằng pháp, giảng
kinh, được xem như là một vương quốc Phật Giáo. Nay chỉ còn lại một phế tích, khi tìm
ra các nhà khảo cổ đã cho đặt lại vài viên gạch thành một tháp nhỏ 7 tầng nhầm xác định,
đánh dấu hương thất này, ngày nay khách hành hương trát vàng lên những viên gạch nên
tháp đã trở thành màu vàng óng ánh.
Cách kỳ viên Tịnh xá không xa có 2 tháp Pakk Kati là nơi Đức Phật đã giáo hoá tướng
cướp Vô Não và tiếp theo là một tháp cao hơi cheo leo khi lên đến đỉnh vì có nhiều hố
sâu nhỏ, chúng tôi dừng chân vào sáng sớm, mặt trời vừa lên sau chòm cây trên đỉnh núi
thật là đẹp Kacchi Kati nơi ghi dấu cư ngụ của ngài Cấp cô độc
Nhiều bụi cỏ mọc dọc hai bên đường đến Khổ Hạnh Lâm, được sư cô cho biết có tên là
kusa dịch ra "cát tường"(giống như cây lau sậy) Đức Phật đã dùng làm tọa cụ trong lúc
ngồi Thiền. Chúng tôi lại tiếp tục leo núi, không cao như núi Linh Thứu nhưng vẫn gây
sờn lòng cho vài khách hành hương, dọc theo con đường núi có nhiều khỉ và vượn leo
trèo nhảy nhót. Nơi đây Đức Phật từng tu khổ hạnh trong 6 năm, nhìn bức tượng chỉ còn
bộ xương trong ngôi đền nhỏ, đủ thấy quyết tâm cao độ của một đấng, giác ngộ, giải
thoát.
Lái xe khoảng 30 phút chúng tôi sẽ gặp làng của cô Sujata, với một bức tượng được tạc
rất là dân gian đang cúng dường bát cháo sữa cho Đức Phật khi ngài kiệt sức với 6 năm tu
khổ hạnh, được xem như là 1 trong 2 lần cúng dường ý nghĩa và quan trọng nhất của
cuộc đời Đức Phật. Chúng tôi cũng được viếng thăm vườn xoài nàng Ambapali cúng
dường Đức Phật và nhiều nơi có liên quan đến cuộc đời Đức Phật mà các nhà khảo cổ đã
tìm ra được.
Ngoài những thánh địa Phật Giáo chúng tôi cũng không thể thiếu một di tích lịch sử quan
trọng sông Hằng, con sông linh thiêng của người Ấn Độ. Theo như lịch trình của chuyến
hành hương, đoàn sẽ viếng sông Hằng để ngắm mặt trời mọc tuyệt đẹp vào buổi bình
minh nhưng vì việc di chuyển thay đổi chúng tôi phải viếng thăm sông Hằng vào buổi
chiều hoàng hôn. Nhờ vậy mà chúng tôi không mục kích những những cảnh tượng ghê sợ
và thương cảm về việc thiêu xác trên bờ sông, và hình ảnh giặt giũ, tắm rửa hay những
rác rưới nhếch nhác lênh đênh trên mặt nước
Chúng tôi cũng được xuống thuyền chờ sẳn ở bến sông để đưa chúng tôi theo ven bờ
nhìn thấy “sông Hằng by night”. Nhằm lúc thành phố có ngày lễ hội quan trọng, dọc bờ
sông đèn đuốc giăng mắc sáng choang, chiếc cầu trên sông Hằng xa xa cũng sáng trưng
in hình phản ánh lung linh dưới nước. Con thuyền bập bềnh trên sông, dưới nước là
những ngọn hoa đăng dập dềnh được du khách thả theo dòng nước. Ánh hoa đăng khi tỏ
khi mờ, khi cao khi thấp trôi ngược với hướng thuyền trên sóng nước cho tôi có cảm
tưởng như mình đang thưởng ngoạn trên dòng sông Hương thơ mộng
Nhìn lại con sông như ngút ngàn bóng tối, trên bờ đầy ánh sáng, đủ màu sắc, một hình
ảnh tương phản giữa cái chết và cái sống ngay trong khoảng khắc này. Du khách chỉ còn
chùng lòng và cảm nhận qui luật vô thường của kiếp người. Tôi chợt nhớ lại đến người
bạn đã chia sẻ cảm nghĩ về chuyến hành hương mà anh đã đi trước đây, “ Tìm một bầu
trời cảnh Bụt đích thực nơi đâu? Tôi cũng có dịp đi Ấn Độ, viếng các Phật tich, nhưng tứ
động tâm không để lại tội một dấu ấn nào cả, thế nhưng bóng tối trên sông Hằng lại cho
tôi một ý niệm tròn đầy của thiên nhiên và tánh Phật”.
Ngày chót, chúng tôi bay về lại New Delhi , trong ngày hôm đó đoàn chúng tôi viếng bảo
tàng viện chứa xá lợi Phật Đây là một bảo tàng viện lớn nhất ở thành phố New Delhi , có
gần 200.000 tác phẩm nghệ thuật, cổ xưa nhất có niên đại 5.000 năm. Trưng bày nhiều
tranh ảnh, tượng Phật và Bồ Tát bằng đồng đá, gạch nung của 2 trường phái nổi tiếng
Grandhara và Matura. Điều vui mừng và hạnh phúc biết bao khi Xá lợi Phật được nhà
khảo cổ Anh tìm ra năm 1898 từ 2 bình đá, 1 lớn, 1 nhỏ ghi lại dòng chử của vua Adục
được thỉnh về tôn trí tại đây với khuôn tháp bằng vàng do Phật Giáo Thái Lan cúng
dường. Mặc dù trong không gian ồn ào từ tiếng tụng kinh, của nhiều đoàn viếng thăm
nhưng sư cô đã hướng dẩn chúng tôi một thời Thiền thật an lạc. Hướng về nương tựa
pháp thân xá lợi tức là giáo pháp của Đức Như Lai là con đường tu của chúng ta
Trong suốt cuộc hành trình 14 ngày vừa qua, trên những con đường dài xuyên suốt bao
thành phố lớn nhỏ, làng quê thôn xóm, những đồng ruộng bạt ngàn trơ cuống rạ cuối mùa
gặt vào tháng 11, những cánh đồng trồng chuối, ngô, khoai, người dân nông thôn Ấn Độ
vẫn còn nghèo nhưng đất nước họ thật thanh bình, không chiến tranh, cuộc sống hiền
lành, chân chất với con trâu nhai lại bên đống rơm khô, bên mái nhà rơm trống trải nghèo
nàn, khói lam chiều sau những rặng cây, mái nhà. Những hình ảnh đó làm sống lại trong
tôi hàng mấy chục năm trước ở đất nước tôi cũng hình ảnh ấy, cũng đồng lúa bạt ngàn,
những con đê chạy dài theo thửa ruộng, cũng con trâu, cái bừa, cũng nhà tranh vách đất,
cũng khói lam chiều bay lượn dưới hàng cây, khóm trúc. Hình ảnh ngày xưa đó nó như
một bức tranh đủ màu sắc, như một mầm sống vươn lên với sức sống mảnh liệt mà tôi
cảm nhận đuợc, tôi chứng kiến được. Ngược lại hình ảnh nơi đây, nơi đất nước này, mầm
sống vươn lên chỉ thể hiện bản năng sinh tồn mà thôi không thấy một ánh sáng, một sắc
màu hy vọng ưom mầm hướng về tương lai, do tôi quá chủ quan chăng?
Ngày cuối cùng, ngồi lại chia sẻ cùng với Ni sư, anh chị em trong đoàn đều có cùng ý
nghỉ như nhau, đều có những cảm xúc buồn vui, xót xa, hạnh phúc, thương cảm cho thân
phận con người. Nhưng riêng tôi, tôi nhận ra vị trí của mình, sự có mặt của mình trong
cõi ta bà này quả là do mạng lưới trùng trùng duyên nghiệp.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Sacramento, 31 tháng 01 năm 2019
Tịnh Nguyên, Như Nguyệt( NTN)
P/S: Nguồn hình trong bài viết được trích ra từ Album của đoàn hành hương. Quý
vị có thể tham khảo thêm hình ảnh trong album này theo 5 đường links dưới đây:
https://photos.app.goo.gl/rcdaCepAvLzb4WmP6
https://photos.app.goo.gl/TXM3tQb9WZdcVwWH7
https://photos.app.goo.gl/roFHn2bWC2wv6zmM7
https://photos.app.goo.gl/ZgNrBo9LY4rF7BqY9
https://photos.app.goo.gl/8Q4pxaV5EPea8mmH9