chƯƠng ii lỊch sỬ ra ĐỜi vÀ phÁt triỂn cỦa tỘi phẠm hỌc
DESCRIPTION
CHƯƠNG II LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỘI PHẠM HỌC. I. Trường phái tội phạm học cổ điển (Classical School) II. Trường phái tội phạm học thực chứng (Positivist School). I. Trường phái tội phạm học cổ điển (Classical School) 1. Hoàn cảnh ra đời (trước cách mạng Pháp 1789) - PowerPoint PPT PresentationTRANSCRIPT
CHƯƠNG IILỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TỘI PHẠM HỌC
I. Trường phái tội phạm học cổ điển (Classical School)
II. Trường phái tội phạm học thực chứng (Positivist School)
I. Trường phái tội phạm học cổ điển (Classical School)
1. Hoàn cảnh ra đời (trước cách mạng Pháp 1789)
-Sự tuỳ tiện của hệ thống PL và việc áp dụng pháp luật-Sự hà khắc của hình phạt
Tuỳ tiện của HTPL:• Thế kỉ XIII, châu Âu chưa có một hệ
thống pháp luật thống nhất: áp dụng pháp luật tập quán cho các vùng, miền khác nhau. Ở Pháp: 60 loại tập quán chung và khoảng 300 tập quán địa phương
• Thẩm phán có quyền lực vô biên • Sự tồn tại của lettres de cachet
lettres de cachet In French history, lettres de cachet were letters signed by the king of France, countersigned by one of his ministers, and closed with the royal seal, or cachet. They contained orders directly from the king, often to enforce arbitrary actions and judgements that could not be appealed
Hình phạt vô cùng hà khắc, mang nặng tính bạo lực:Hình phạt bao gồm hoả thiêu, đánh, xẻo thịt, dìm chết, đày, chém đầu và một số loại hình phạt khác. Vụ án Robert – Franois Damiens
Robert – Franois Damiens 9. Januar 1715 –28. März 1757
2. Các nhà tư tưởng tiến bộ
2. Cesare Beccaria (1738 - 1794)
• Cesare Bonesana, Marchese di Beccaria (1738 - 1794). Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật tại ĐHTH Pavia, ông trở về quê hương Milan và cùng với hai anh trai của mình Alessandro and Pietro Verri và một số người trẻ tuổi nhiệt huyết thành lập gia nhập nhóm trí thức cấp tiến có tên "Academy of Fist" tên tiếng ý là "L'Accademia dei pugni". Mục đích của họ là nghiên cứu những cải cách cần thiết để đổi mới xã hội Italia.
Cesare Bonesana, Marchese di Beccaria:„Academy of Fist” „L'Accademia dei pugni“
1764 Beccaria xuất bản "Về tội phạm và hình phạt" Dei delitti e delle pene On Crimes and Punishments
• Theo Beccaria vấn đề tội phạm không phải do con người tồi mà là do pháp luật tồi.
• Tội phạm xảy ra một phần là do lỗi của xã hội
• Chỉ có nhà lập pháp mới có quyền ban hành QPPL.
• Các thẩm phán khi quyết định hình phạt cần phải phù hợp với luật pháp và chỉ phù hợp với luật pháp.
• Các thẩm phán không được giải thích luật.
• Mọi người cần được đối xử bình đẳng
• Hình phạt cần phải được áp dụng nhanh chóng và hiệu quả
• Mọi người cần được đối xử bình đẳng
• Hình phạt tử hình cần được huỷ bỏ• Bãi bỏ việc sử dụng biện pháp tra
tấn để đạt được sự thú tội• Phòng ngừa tội phạm tốt hơn là
trừng trị
• Các tư tưởng tiến bộ của Cesare Bonesana, Marchese di Beccaria đã ảnh hưởng sâu rộng đến HTPL của nhiều quốc gia trên thế giới.
• Thuyết vị lợi của Jeremy Bentham (Anh)1748-1832 Utilitarianism
• The greatest happiness principle or the principle of utility
• Nguyên tắc hạnh phúc tối đa hay nguyên tắc vị lợi
• Nguyên tắc vị lợi cho rằng: Một hành động là đúng nếu thúc đẩy hạnh phúc, là sai nếu có xu hướng tạo ra cái đối lập với hạnh phúc.
• Theo ông pháp luật đặt ra là để đem lại hạnh phúc cho mọi người chứ không phải pháp luật đặt ra là nhằm trừng trị con người.
• Ông đã đấu tranh cho việc đem lại sự công bằng cũng như loại bỏ các hình phạt nhằm trừng trị thể xác cũng như xúc phạm danh dự tinh thần của con người đặc biệt là những người thuộc tầng lớp dưới
II. Tội phạm học thực chứng The Positive School of
Criminology 1. Thuyết sinh học quyết định
• Trường phái nhân chủng họcGiambattista della Porta (1535-1615)
• Giambattista della Porta (1535-1615) được coi là người sáng lập trường phái xem tướng (diện mạo) con người (thế kỉ thứ XVI), nghiên cứu đặc trưng của khuôn mặt và mối liên hệ của chúng đối với hành vi của con người.Người PT trộm cắp thường có một cặp môi dày và ánh nhìn sắc.
• Johann Kaspar Lavater (1741-1801)
• Johann Kaspar Lavater (1741-1801) là một nhà thần học người Thuỵ Sỹ sau đó đã phát triển những luận điểm của Porta về thuyết nhân chủng học
• Franz Joseph Gall (1758-1828) Baden -ĐứcNghệ thuật và Tướng số
Johann Kaspar Spurzheim (1776-1832)
• Gall và Spurzheim nghiên cứu tướng số của con người. Các ông đã coi những bất thường trên cơ thể con người có liên quan đến hành vi của họ (cái bướu trên đầu chính là dấu hiệu của khuynh hướng phạm tội)
Thuyết tội phạm bẩm sinhAuguste Comte (1798-1857)Cour de philosophie positive (cách giải quyết bằng triết học thực chứng)
• Charles Robert Darwin(1809-1882)
• Tội phạm là bẩm sinh và hoàn toàn có thể được nhận ra bởi những đặc điểm bất thường về thể chất.
• Trường phái Tội phạm học ÝCesare Lombroso (1835-1909)
• Cesare Lombroso (1835-1909)• 1876 cho ra đời tác phẩm
L’uomo delinquente (Người phạm tội), tội phạm học đã trở thành khoa học nghiên cứu nguyên nhân
• Học thuyết người phạm tội bẩm sinh của ông chỉ rõ: Tội phạm là dạng thấp của hành vi và người phạm tội gần giống với tổ tiên loài người hơn là những người khác (Cằm bạch, răng năng khoẻ... )
• Có thể nhận ra họ trong những người không phạm tội bởi những dấu hiệu khác nhau của bệnh lại giống
• Đối với tội phạm bẩm sinh, Lombroso phân biệt: Tội phạm thần kinh và Criminoloid.
• Tội phạm thần kinh không phải tội phạm bẩm sinh, họ trở thành tội phạm là kết quả của một vài thay đổi trong não gây trở ngại khả năng phân biệt giữa đúng và sai.
• Criminoloid làm thành nhóm bao gồm những người phạm tội do thói quen, do giận dữ và nhiều loại tương tự
• Enrico Ferri (1856-1929).
• Enrico Ferri là thành viên chính phủ Italia, đạt tới danh hiệu nhà giáo nhân dân, luật sư nổi tiếng, chủ bút một tờ báo và là học giả đáng kính trọng.
• Ferri đã xuất bản cuốn sách chuyên đề đầu tiên của mình năm 21 tuổi. Năm 25 tuổi ông đã là giáo sư đại học.
• Mục đích của luật hình sự và chính sách hình sự là bảo vệ xã hội trước những hành vi phạm tội
• Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa được xây dựng trên cơ sở khoa học sẽ làm giảm tội phạm và cho phép mọi người sống với nhau trong xã hội mà không lệ thuộc nhiều vào hệ thống tư pháp hình sự.
• Raffaele Garofalo (1852-1934). • Garofalo đã tìm thấy nguồn gốc của xử
sự phạm tội không phải là ở các đặc điểm thể chất mà là ở các đặc điểm tâm lí, cái mà ông cho là những sai lệch về đạo đức
• Cá nhân có sự khiếm khuyết trong những quan điểm đạo đức nên không có được sự chế ngự khi thực hiện các tội phạm loại này
• Trên cơ sở lí thuyết Darwin, Garofalo lí luận: hình phạt tử hình có thể giải thoát xã hội khỏi những thành viên không có khả năng thích nghi, giống như quá trình chọn lọc tự nhiên đào thải những cơ thể không thích nghi.
• Đối với những người phạm tội ít nguy hiểm hơn, có thể thích nghi họ trở lại xã hội thông qua những loại hình phạt khác như đày đi nơi xa; hạn chế quyền; đưa vào sống trong các trang trại thuộc địa; hoặc đơn giản là bồi thường thiệt hại
• Charles Buckman Goring • Viên chức y tế của nhà tù
Parkhurst ở Anh • Đã tập hợp số liệu về 64 đặc điểm
của trên 3000 tù nhân và của nhóm đối chứng gồm các sinh viên của trường đại học Oxford và Cambridge, các bệnh nhân trong bệnh viện và các quân nhân
• Từ một thông tin về số đo hộp sọ của một sinh viên, chỉ nên phán đoán hoặc anh ta học tại trường đại học của Anh, hoặc anh ta học trường đại học của Scốt-len hơn là dự báo hoặc anh ta cuối cùng sẽ trở thành giáo sư đại học hoặc một kẻ phạm tội nghiêm trọng bị kết án
• Trường phái kiểu cơ thể• Ernst
Kretschmer (1888 - 1964
• Phân biệt 3 loại vóc người chủ yếu: (1) người suy nhược: Gầy còm, thể chất yếu ớt, vai hẹp (2) người lực lưỡng: Trung bình đến cao, khoẻ mạnh, cơ bắp, xương thô(3) người béo: Cao trung bình, hình dáng mũm Mĩm, cổ to, mặt rộng
• William Sheldon (1898 – 1977) • Xây dựng một cách có hệ
thống nhóm các kiểu cơ thể: Người hướng nội, người có cơ bắp rắn chắc và người ốm yếu gầy còm
• Người có phần lớn các đặc điểm của kiểu người có cơ bắp rắn chắc (sức mạnh thể lực, hung hãn, vóc người lực lưỡng)… có khuynh hướng nhiều hơn những người khác trong việc liên quan đến những xử sự bất hợp pháp
• Sheldon Glueck (1896 -1980) • Eleanor Glueck (1898-1972)
• Hạn chế: những nghiên cứu trên cơ sở kiểu cơ thể đã bị chỉ trích về phương pháp: Thể hiện ở việc phân loại sơ sài và nghiên cứu trên những người không mang tính đại diện cho các nhóm đó
• Những nghiên cứu này cũng chưa đề cập sự giao thoa về văn hoá và là những phân tích thống kê nghèo nàn
• Thuyết phạm tội thừa kế • sự phạm tội là đặc điểm được kế thừa
thông qua gen • Richard Dugdale (1841 – 1883) đã
nghiên cứu cuộc đời của hơn 1000 thành viên của gia đình mà ông gọi là Jukes:280 bần cùng, 60 kẻ trộm, 7 kẻ giết người, 40 kẻ phạm các tội khác, 40 kẻ bị bệnh hoa liễu, 50 gái điếm
• Kết luận:Một vài dòng họ sinh ra những thế hệ tội phạm, họ chắc đã được di truyền một đặc điểm thoái hoá dọc theo giống
• Henry Goddard (1866 - 1957). Nghiên cứu về gia phả dòng họ của chiến sỹ cách mạng Martin Kallikak
• Rất nhiều tội phạm trong số những hậu duệ của người con ngoài giá thú của Kallikak hơn là những hậu huệ của người con trai sinh ra bởi cuộc hôn nhân sau đó với “một phụ nữ trong cùng tầng lớp”.
2. Thuyết tâm lí quyết định
• Isaac Ray (1807 - 1881)
• Chuyên gia tâm thần học pháp lí đầu tiên của Mĩ đã dành cả cuộc đời mình nghiên cứu sự ứng dụng các nguyên tắc tâm thần trong luật pháp. Ông bảo vệ khái niệm “sự điên rồ về đạo đức”
• Họ là những người bình thường về mọi phương diện trừ việc có vài sai sót trong một phần của não đã quy định những sự phản ứng kích động
• Ray đặt vấn đề liệu chúng ta nên truy cứu trách nhiệm pháp lí một người về hành vi của họ nếu như họ có sự sai sót đó, bởi vì những người này thực hiện tội phạm mà không có ý định làm như vậy
• Henry Maudsley (1835 - 1918) • Theo các quan điểm khác nhau, một số
người có thể được xem như "hoặc là bị điên hoặc là tội phạm
• Kiểm tra trí tuệ của các phạm nhân, ông kết luận: 25% đến 50% phạm nhân có những nhược điểm về trí tuệ và chúng đã làm cho họ không đủ khả năng giải quyết được những vấn đề của chính mình
3. Thuyết xã hội quyết địnhAdolphe Quételet Nhà toán học Bỉ
• Luật sư người Pháp André Michel Guerry (1802 - 1866)
• Hai ông nghiên cứu mối quan hệ giữa những thống kê về tội phạm với những nhân tố như sự nghèo đói, tuổi, giới tính, chủng tộc và hoàn cảnh môi trường
• Guerry đã sử dụng những số liệu chứng minh rằng tỉ lệ tội phạm thay đổi cùng với những nhân tố xã hội. Ông đã thấy rằng vùng trù phú nhất ở Pháp có tỉ lệ tội phạm xâm phạm sở hữu cao nhất nhưng tỉ lệ tội phạm bạo lực chỉ bằng một nửa so với những vùng khác
• Ông kết luận rằng nhân tố chính trong tội phạm sở hữu là cơ hội: ở những tỉnh giàu, có nhiều thứ để trộm cắp hơn rất nhiều so với các tỉnh nghèo hơn
• Quételet nghiên cứu ở Pháp, Bỉ và Hà-Lan. Sau khi phân tích những số liệu thống kê tội phạm, cái mà ông gọi là “thống kê đạo đức”
• Ông kết luận: Nếu chúng ta nhìn vào toàn bộ cách xử sự của các nhóm trong toàn xã hội, chúng ta sẽ tìm thấy một quy luật đáng ngạc nhiên về tỉ lệ của những xử sự khác nhau
• "Chúng ta có thể liệt kê trước có bao nhiêu cá nhân sẽ nhúng tay mình vào máu của bạn bè mình, bao nhiều người sẽ lừa đảo, bao nhiêu tù nhân; giống như con người có thể liệt kê trước ngày sinh, ngày chết"
• Quételet cho rằng cần phải nhận ra các nhân tố có liên quan tới tội phạm và ấn định cho chúng “mức độ ảnh hưởng thích hợp”
• Gabriel Tarde (1843 – 1904). • Làm thẩm phán tỉnh 15 năm và
sau đó trở thành người quản lí số liệu thống kê quốc gia của Pháp
• Các băng nhóm giết người và trộm cắp khét tiếng bắt đầu được hình thành khi những đứa trẻ bị bỏ rơi trên các quảng trường công cộng hoặc các ngã tư. Bất kể chúng nhỏ hay lớn, những đám trẻ cướp đường, những kẻ giống như những đàn chim sẻ, kết bạn với nhau, lúc đầu để cướp bóc, và sau đó là trộm cắp, bởi vì sự thiếu giáo dục và thiếu thức ăn ở nhà chúng
• émile Durkheim
• émile Durkheim Viết về mối quan hệ giữa tội phạm và các nhân tố xã hội thế kỉ XIX
• Ngày 12 tháng 10 năm 1870, khi Durkheim 12 tuổi, quân đội Đức đã xâm lược và chiếm đóng thành phố quê hương ông ở miền đông nước Pháp. Ở độ tuổi rất nhỏ, ông đã chứng kiến cảnh hỗn độn của xã hội và hậu quả của những thay đổi nhanh chóng
• Năm 24 tuổi, ông trở thành giáo sư triết học và năm 29 tuổi ông làm việc tại Trường đại học tổng hợp Bordeaux. ở đây, ông đã dạy khoá học đầu tiên về xã hội học. Đến năm 1902, ông chuyển đến Trường đại học tổng hợp Paris, ông đã hoàn thành luận án tiến sĩ tại đây
• Theo Durkheim, tội phạm là một phần tất yếu của xã hội cũng như sự sinh ra và chết đi
• Tội phạm có thể biến mất hoàn toàn chỉ khi tất cả các thành viên trong xã hội có cùng giá trị
• Sự tiêu chuẩn hoá này của các cá nhân vừa không có khả năng tồn tại vừa không phải là mong muốn của mọi người.
• Một thiên tài để thực hiện nghiên cứu của mình thì có thể trở thành tội phạm trong xã hội phát triển ở tầng mức thấp vì tính mới mẻ đột phá trong công việc…
• Ông lí luận: Hình phạt trong xã hội cũ là sự trừng phạt đối với những người chệch hướng và được sử dụng để củng cố hệ thống giá trị, để nhắc con người nhớ rằng cái gì đúng, cái gì sai, bằng cách ấy giữ gìn đức tin chung. Do đó sự trừng phạt phải khắc nghiệt để phục vụ mục đích này.
• Trong xã hội văn minh đô thị hoá, hỗn tạp thì sự trừng phạt được sử dụng để sửa chữa những sai sót được thực hiện đối với nạn nhân. Sự trừng phạt theo đó được ước lượng theo thiệt hại gây ra với mục đích bồi thường và phục hồi trật tự càng nhanh càng tốt