chintin_ trichoderma
TRANSCRIPT
PHẦN I – TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Đại cương về hệ enzyme chitinase
1.1.1 Khái quát về enzyme
1.1.1.1 Định nghĩa [1, 23]
Enzyme là một loại phân tử protein được sinh vật tổng hợp nên và tham gia xúc tác cho các
phản ứng sinh học.
Enzyme có phân tử lượng từ 20.000 đến 1.000.000 dalton, được cấu tạo từ các L-acid amin
liên kết nhau bởi liên kết peptid. Bộ phận đặc hiệu tham gia phản ứng gọi là trung tâm hoạt
động của enzyme.
Enzyme gồm hai nhóm: nhóm enzyme một cấu tử gồm những enzyme có thành phần hóa học
duy nhất là protein; nhóm enzyme hai cấu tử gồm những enzyme có hai thành phần: phần
protein thuần gọi là apoenzyme có vai trò xúc tác, phần thứ hai phi protein là coenzyme là
những chất hữu cơ đặc hiệu có vai trò thúc đẩy quá trình xúc tác. Ngoài ra có một số kim loại
như Zn, Cu, Mn, Fe ... đóng vai trò liên kết enzyme và cơ chất trong quá trình xúc tác phản
ứng, liên kết giữa apoenzyme và coenzyme, tham gia trực tiếp vào quá trình vận chuyển điện
tử.
1.1.1.2 Cơ chế hoạt động [16, 23]
Trung tâm hoạt động của enzyme (E) có cấu trúc không gian tương ứng với cơ chất mà chúng
xúc tác, phản ứng hình thành trong quá trình enzyme tiếp xúc với cơ chất như “chìa khóa-ổ
khóa“ tạo phức hợp enzyme-cơ chất. Quá trình tác động của enzyme vào cơ chất để tạo sản
phẩm trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Enzyme (E) tương tác với cơ chất (S) nhờ những liên kết tạo phức E-S
Giai đoạn 2: Khi cơ chất (S) tạo phức với enzyme (E), cơ chất sẽ bị thay đổi cấu hình không
gian và mức độ bền vững các liên kết, liên kết bị phá vỡ tạo sản phẩm.
Giai đoạn 3: Enzyme tách ra, được giải phóng nguyên vẹn. Sản phẩm (P) tạo thành.
Sơ đồ cơ chế tác động enzyme:
E + S ← → E-S → E + P
1.1.2 Enzyme chitinase
1.1.2.1 Định nghĩa
Chitinase hay poly β-1,4-(2-acetamido-2-deoxy)-D-glucosid,
glucanohydrolase, thuộc nhóm enzyme thủy phân (Hydrolase), là
enzyme thủy phân chitin thành chitobiose qua việc xúc tác sự thủy
giải liên kết 1,4- β-glucosid giữa C1 và C4 của 2 phân tử N-
acetylglucosamine liên kết nhau trong chitin.
1.1.2.2 Phân loại
a. Dựa vào phản ứng phân cắt [67]
Enzyme phân giải chitin bao gồm: endochitinase, chitin-1,4-chitobiosidse, N-acetyl- β-D-
glucosaminidase (exochitinase).
- Endochitinase: (EC 3.2.1.14): là nhóm enzyme phân cắt nội mạch chitin một cách ngẫu
nhiên tạo các đoạn oligosaccharide. Các enzyme này đã được nghiên cứu từ dịch chiết môi
trường nuôi cấy nấm mốc Trichoderma harzianum (e loại endochitinase: M1= 36kDa, pI1= 5,3
± 0,2 và M2= 40kDa, pI2=3,9), Gliocladium viens (M=41kDa, pI=7,8).
- Chitin-1,4-chitobiosidse: là enzyme phân cắt chitin tạo thành các sản phẩm chính là các
dimer chitobiose.
- N-acetyl- β-D-glucosaminidase (exochitinase): là enzyme tiếp tục phân cắt chitin từ một đầu
cho snr phẩm chính là các monomer N-acetyl- β-D-glucosamin.
Hình: sơ đồ phân cắt chitin bởi các enzyme thuộc nhóm chitinase
b. Dựa vào cấu trúc phân tử [67]
Enzyme chitinase được sắp xếp vào 2 họ Glycohydrolase:
- Họ Glycohydrolase 18: là họ chitinase lớn nhất với khoảng 180 chi, có cấu trúc xác định
gồm 8 xoắn α/β cuộn tròn, được tìm thấy ở hầu hết các loài thuộc Eukaryote, Prokaryote và
virus. Họ này bao gồm chủ yếu là enzyme chitinase, ngoài ra còn có các enzyme khác như
chitodextrinase, chitobiase và N-acetyl- β-D-glucosaminidase. Các chitinase này hoạt động
thông qua một cơ chế kiểm soát mà trong đó các đoạn β- polymer bị phân cắt tạo ra sản phẩm
β-anomer.
Các chitinase thuộc họ Glycohydrolase 18 được tổng hợp từ Aeromonas hydrophila, Bacillus
circularis, Trichoderma harzianum, Aphanocladium album, Serratia marcscens …
- Họ Glycohydrolase 19: họ này gồm hơn 130 chi, thường thấy chủ yếu ở thực vật như cà
chua (Solanum tuberosum), cải (Arabidopsis thaliana), đậu Hà Lan (Pisum sativum)…, ngoài
ra còn ở xạ khuẩn Streptomyces griceus, vi khuẩn Haemophillus influenzae …Chúng có cấu
trúc hình cầu với một vòng xoắn và hoạt động thông qua cơ chế nghịch chuyển.
c. Dựa vào trình tự amoni acid [75]
Dựa vào trình tự đầu amin (N), sự định vị của
enzyme, điểm đẳng điện, peptid nhận biết và vùng
cảm ứng, người ta phân loại enzyme chitinase thành 5
nhóm:
- Nhóm I: là những đồng phân enzyme trong phân tử
có đàu N giàu cystein nối với tâm xúc tác thông qua
một đoạn giàu glycin hoặc prolin ở đầu cacboxyl (C)
(peptid nhận biết). Vùng giàu cystein có vai trò quan
trọng đối với sự gắn kết enzyme và cơ chất chitin
nhưng không cần cho hoạt động xúc tác.
- Nhóm II: là những đồng phân enzyme trong phân tử
chỉ có tâm xúc tác, thiếu đoạn giàu cystein ở đầu N và
peptid nhận biết ở đầu C, có trình tự amino acid tương
tự chitinase ở nhóm I. Chitinase nhóm II có ở thực
vật, nấm và vi khuẩn; chúng được cảm ứng bởi các
tác nhân bên ngoài.
- Nhóm III: Trình tự amino acid hoàn toàn khác với
chitinase nhóm I và II.
- Nhóm IV: là những đồng phân enzyme chủ yếu có ở
lá cây hai lá mầm, 41 – 47% trình tự amino acid ở tâm xúc tác của chúng tương tự như
chitinase nhóm I, phân tử cũng có đoạn giàu cystein nhưng kích thước phân tử nhỏ hơn đáng
kể so với chitinase nhóm
- Nhóm V: Dựa trên những dữ liệu về trình tự, người ta nhận tháy vùng gắn chitin (vùng giàu
cystein) có thể đã giảm đi nhiều lần trong quá trình tiến hóa ở thực vật bậc cao.
1.1.2.3 Cấu trúc của hệ enzyme chitinase
a. Cấu trúc enzyme chitinase thuộc họ Glycohydrolase 18
Cấu trúc không gian (cấu trúc bậc 3) của một số enzyme chitinase huộc họ Glycohydrolase 18
đã được nghiên cứu, cụ thể là chitinase vi khuẩn (Serratia marcascens) và chitinase thực vật.
Tâm hoạt động của các enzyme này tạo thành từ 8 sợi xoắn α/β cuộn tròn. Sợi số 8 của phiến
cuộn vào bên trong cấu trúc hình nhộng với vòng xoắn thể hiện như một chiếc nhẫn hướng ra
ngoài (hình vẽ [92])
Hình 3: Mô hình cấu trúc không gian của enzyme chitinase Serratia marcescens
b. Cấu trúc enzyme chitinase thuộc họ Glycohydrolase 19
Chitinase tách chiết từ lúa mạch (Hodeum vulgare) đã được tinh thể hóa và phân tích cấu trúc
bằng tia X. Đầu tiên người ta tiến hành quan sát ỏ độ phân giải 2,8 A0 và sau đó quan sát ở độ
phân giải 1,8 A0(hình vẽ). [93]
Hình 4: Mô hình cấu trúc không gian của chitinase Hodeum
1.1.2.4 Các đặc tính cơ bản của hệ enzyme chitinase [11]
a. Trọng lượng phân tử
Enzyme chitinase tìm thấy ở thực vật bậc cao và tảo biển có trọng lượng phân tử khoảng
30kDa (kilodalton). Ở các loài thân mềm, chân đốt, động vật có xương (cá, lưỡng cư, thú),
một số chitinase có trọng lượng phân tử khoảng 40-90 kDa hoặc cao hơn cả là khoảng
120kDa. Trọng lượng phân tử của enzyme chitinase thu nhận từ nấm và vi khuẩn có khoảng
biến đổi rộng, từ 30 đến 120 kDa.
b. Điểm đẳng điện, hằng số Michaelis
Enzyme chitinase có giá trị điểm đẳng điện pI thay đổi rộng, từ 3- 10 ở thực vật bậc cao và
tảo; pI từ 4,7-9,3 ở côn trùng, giáp xác, thân mềm và cá; pI từ 3,5 – 8,8 ở vi sinh vật. Hằng số
Michaelis : 0,010 – 0,011 (g/100ml).
c. Ảnh hưởng của nhiệt độ [32, 63]
Theo nhiều nghiên cứu, chitinase hoạt động ở giới hạn nhiệt độ từ 20 – 500C (Frandberg
và Schnure, 1994; Huang và cộng sự, 1996; Bhushan và Hoondal, 1998; Wiwat và cộng sự,
1999; Bendt và cộng sự, 2001).
Nhìn chung nhiệt độ tối ưu cho hệ enzyme chitinase ở vi sinh vật hoạt động là 400C,
ngoại trừ chitinase của Aspergillus niger hoạt động trên cơ chất là glycol chitin có nhiệt độ tối
thích là 50OC (Jeuniaux, 1963). Tuy nhiên, tùy theo nguồn gốc thu nhận mà các enzyme
chitinase có thể có những giá trị nhiệt độ tối thích khác nhau. Các enzyme chitinase thực vật
thuộc nhóm III và chitinase từ Bacillus licheniformis phân lập ở suối nước nóng cho thấy khả
năng chịu đựng nhiệt độ cao đến 800C. Bendt và cộng sự (2001) phát hiện hoạt tính thủy phân
chitin mạnh nhất của chitinase từ Vibrio sp. Từ 30-450C và chitinase chịu nhiệt từ chủng
Bacillus sp. BG-11 hoạt tính cao nhất ở 40-600C.
Lorito (1998) đã khảo sát hoạt tính enzyme chitinase từ chủng Trichoderma harzianum
Rifai nhận thấy enzyme này có khả năng hoạt động trong khoảng nhiệt độ rộng từ 25-600C,
nhiệt độ tối ưu là 400C.
d. Ảnh hưởng của pH [32]
Giá trị pH tối thích (pHop) của hệ enzyme chitinase từ 4-9 đối với các enzyme chitinase
ở thực vật bậc cao và tảo; hệ enzyme chitinase ở động vật là 4,8- 7,5 và ở vi sinh vật là 3,5-
8,0.
Theo các nhà khoa học, pHop của enzyme chitinase có thể có sự phụ thuộc vào cơ chất
được sử dụng. Đa số các enzyme chitinase đã được nghiên cứu có pHop khoảng 5,0 khi cơ
chất là glycol chitin nằm trong khoảng pH kiềm yếu.
Các nghiên cứu đã chứng tỏ rằng chitinase hoạt động được trong khoảng pH từ 4,0-8,5
(Morrisey và cộng sự, 1976; Wiwat và cộng sự, 1999; Bendt và cộng sự, 2001). Chitinase của
nấm hoạt tính cao nhất ở pH = 5, trong khi ở vi khuẩn pH tối thích là 8,0. Theo Bhushan và
Hoondal (1998), hoạt tính của chitinase từ Bacillus sp. BG-11 cao nhất ở pH = 8,5.
e. Chất tăng hoạt – chất ức chế
* Allosamidin: allosamidin là chất ức chế được nghiên cứu, đặc biệt là với chitinase côn
trùng. Allosamidin ức chế cạnh tranh với enzyme chitinase, giá trị KI khoảng 0,1μm. Chất
này có cấu tạo tương tự dạng trung gian của cơ chất: một vòng oxazoline; vòng này có thể ở
giữa carbonyl oxygen của nhóm N – acetyl và C1 của N-acetyl-D-glucosamin trong quá trình
thủy giải. [67]
Hình 5: Cấu trúc hóa học của allosamidin và dẫn xuất allosamidin [94]
Allosamidin: R1=R2=CH3
Demethylallosamdin: R1=CH3,R2=H
Didemethylallosamidin: R1=R2=H
* Các ion kim loại: Các ion kim loại: Hg2+, Ag+ là những chất ức chế, còn ion Cu+ thì
tùy theo dạng enzyme chitinase: dạng chitinase bị ức chế hoặc tăng cường hoạt tính (tìm thấy
ở mọt số loài cá và vi sinh vật). Bên cạnh đó albumin cũng có vai trò làm tăng hoạt đông của
enzyme chitinase, nhưng sự ảnh hưởng nỳ chỉ rõ ràng sau 2 – 3 giờ đầu của phản ứng.
f. Ổn định hoạt tính [65]
Enzyme chitinase thô hoặc tinh sạch ổn định trong trạng thái đông lạnh khoảng 2 năm.
Chúng bị mất hoạt tính nhanh chóng ở 370C trong trường hợp không có mặt cơ chất. Chu kỳ
bán hủy ở 370C là 40 ngày và ở 50C là 230 ngày.
Sự ổn định của enzyme chitinase sẽ cao hơn khi có mặt của cơ chất là chitin.
Enzyme chitinase bất hoạt bởi oxygen, hằng số bất hoạt ở 200C là K = 0,145/h.
1.1.2.5 Các loại cơ chất của enzyme chitinase
a. Chitin [67]
Cơ chất chủ yếu của enzyme chitinase là chitin. Chitin được tìm thấy trong thành tế bào
của nấm sợi và là chất hữu cơ chiếm khối lượng lớn hình thành nên lớp vỏ ngoài của động vật
không xương khớp (côn trùng, giáp xác, thân mềm).
Chitin là một polymer mạch thẳng có cấu tạo dạng chuỗi, thành phần chủ yếu là các
monomer N- acetyl – D – glucosmin nối với nhau bằng liên kết 1,4 – β – glucosid. Mỗi đoạn
chitin được xác định có độ dài là 10,4 A0. Về mặt cấu trúc, chitin có cấu trúc tương tự như
cellulose, điểm khác biệt hóa học duy nhất là nhóm acetamido ở vị trí số 2 trên khung carbon
của chitin được thay bằng nhóm hydroxyl (-OH) ở cellulose [1,76]. Ngoài ra, chitin cũng có
cấu trúc liên hệ với murein – cấu trúc polymer hiện diện ở vách tế bào v khuẩn.
Ở lớp vỏ côn trùng và giáp xác chitin được gắn kết với các polysaccharid khác (cellulose,
mannan, glucan...) hàm lượng chiếm tối đa khoảng 3-5% sinh khối nấm tươi. (hình vẽ)
Hình 5 : cấu trúc hóa học của chitin [95]
Về mặt cấu trúc lập thể, chitin có 3 dạng : α, β, δ ; Sự khác nhau này biểu hiện ở sự sắp
xếp các chuỗi. Ở α- chitin các chuỗi xuôi và ngược xen kẽ nhau, ở β- chitin thì cùng hướng và
ở δ- chitin có 2 chuỗi xuôi xen kẽ với 2 chuỗi ngược. Dạng chiếm nhiều nhất là α- chitin. [64]
Trong giới động vật, chitin là một thành phần cấu trúc quan trọng trong lớp vỏ của một
số động vật không xương sống như côn trùng, nhuyễn thể, giáp xác và giun tròn. Trong giới
thực vật, chitin có ở thành tế bào của nấm và một số tảo Chlorophiceae.
Chitin tồn tại trong tự nhiên ở dạng tinh thể, đó là cấu trúc gồm nhiều phân tử được nối
với nhau bằng các liên kết hydro tạo thành một hệ thống sợi. Trong tự nhiên, chitin hiếm khi
tồn tại ở trạng thái tự do mà gần như luôn luôn liên kết dưới dạng phức hợp chitin- protein.
Điều này dẫn đến sự đề kháng với các hóa chất và các enzyme thủy phân, gây nhiều khó khăn
cho việc chiết tách, tinh chế chúng. Tùy thuộc vào các đặc tính cơ thể và sự thay đổi từng giai
đoạn sinh lý mà trong cùng một loài có thể thấy sự thay đổi về lượng và chất của chitin.
Tính chất của chitin [27, 31]
Chitin ở thể rắn, có cấu trúc bền vững nhờ các liên kết hydro trong và giữa các mạch.
Chitin không tan trong nước, trong dung dịch acid và kiềm loãng, trong cồn và trong các dung
môi thông thường. Nó chỉ tan được trong một số acid vô cơ đặc (HCl, H2SO4, H3PO4…).
b. Các dẫn xuất của chitin [64, 65]
Enzyme chitinase có thể tác động lên một số dẫn xuất của chitin như glycol – chitin,
carboxymethylchitin, chitosan, chitinsulfat, 4- methylumbellferyl – tri – N – acetyl
chititrioside (MUC – phát huỳnh quang).
Enzyme chitinase không tác động trên các cơ chất : chitin nitrat, cellulose, hyaluronic
acid, alginic acid hoặc mucin.
1.1.2.6 Cơ chế cảm ứng của hệ enzyme chitinase [57] tl tham khảo
Hiện nay, cơ chế cảm ứng của hệ chitinase của Trichoderma là chủ đề rất được nhiều
nhà khoa học quan tâm. Sự cảm ứng enzyme ngoại bào rất hiệu quả khi nuôi cấy Trichoderma
trong môi trường có nguồn cacbon duy nhất là chitin tinh sạch, vách tế bào nấm hoặc hệ sợi
nấm. Không có hoặc rất ít có hiện tượng cảm ứng khi thành phần môi trường có chứa
chitosan, cellulose, chitin chưa tinh sạch hoặc laminarin.
Các enzyme khác nhau thì có cơ chế cảm ứng khác nhau. Ví dụ : N-acetyl-glucosamine
chỉ cảm ứng đặc trưng cho việc tạo ra β-N- acetyl-glucosamine chỉ cảm ứng đặc trưng cho
việc tạo ra β-N- acetyl-hexosaminedase ( N-acetylglucosaminidase) mà không cảm ứng tạo ra
endochitinase ở Trichoderma.
Trong quá trình ký sinh của Trichoderma trên những ký chủ khác nhau thì mức độ cảm
ứng và thành phần các sản phẩm enzyme tạo thành khác nhau, chủ yếu là 1,4- β – N –
acetylglucosaminiase 102 kDa và 72 kDa (CHIT102, CHIT72) và một vài enzyme
endochitinase của nhóm II. Hơn nữa vách tế bào nấm thu nhận từ những loại nấm đảm
Basidiomycetes khác nhau, được sử dụng để cảm ứng endochitinase từ các chủng
Trichoderma cũng khác nhau.
Sự hình thành hệ enzyme chitinase in vitri bị ức chế bởi tỷ lệ gia tăng của lượng đường
glucose, sucrose và snr phẩm cuối, điều này cho thấy rằng quá trình sinh tổng hợp enzyme
được điều chỉnh một cách đặc hiệu bởi sự ức chế dị hóa. Điều này đã được nghiên cứu rõ hơn
ở endochitinase 42kDa (CHIT42) và gen mã hóa ThEn-42 của T. Harzianum. Nhiều tác giả
cho rằng, glucose ức chế sự hình thành CHIT42 cũng như ở cấp độ mRNA. Sự hình thành
CHIT72, CHIT42 và CHIT33 được điều hòa ở cấp độ phiên mã.
Inbar và Chet đã chứng minh sự tạo thành enzyme chitinase của chủng T. Harzianum ký
sinh được bắt nguồn bởi việc tiết ra chất trung gian tương tác với ký chủ là lectin. Hiện tượng
này xảy ra khi có sụ cảm ứng của chitooligomer. Lectin là hệ thống nhận biết ký chủ của vi
nấm ký sinh và rất có giá trị trong nghiên cứu pha sớm của quá trình ký sinh nấm. Sự thật là
trong điều kiện in vitro hệ sợi nấm đã hấp khử trùng có tác dụng cảm ứng CHIT33 và
CHIT42 mạnh hơn tác nhân cảm ứng là chitin tinh sạch. Do đó, khi có sự tồn tại của ký chủ
nhưng không có chitin cũng đủ để vượt qua được sự ức chế của glucose đối với CHIT42. [58]
Sự cảm ứng cũng bị hạn chế bởi ánh sáng, quá trình tạo bào tử hay sự tiếp xúc vật lý
giữa tế bào và cơ chất. Cũng có ý kiến cho rằng, hiện tượng bị ‘bỏ đói’ cũng là tác nhân cảm
ứng mạnh mẽ khả năng sinh tổng hợp CHIT42. Sự hoạt động của hệ enzyme chitinase bị ảnh
hưởng bởi các hoạt động của những hợp chất cảm ứng khác nhau như các enzyme phá hủy
vách khác (protease và glucanase), các liên kết protein trong vách tế bào chất, permease và
chất kháng sinh.
1.1.2.7 Cơ chế tác dụng của hệ enzyme chitinase (TLTK)
Enzyme chitinase xúc tác cho phản ứng thủy phân liên kết 1,4- β-glucosid trong chitin.
Nó phân cắt dọc theo mạch carbon của chitin và sản phẩm tạo thành chủ yếu là chitobiose và
chiotriose. Những chất này sau đó tiếp tục bị phân cắt thành các monomer là các N-acetyl D-
glucosamine. [65]
Quá trình phân giải chitin được tóm tắt như sau :
Chitin → Citobiose, chitotriose → N-acetyl D-glucosamine
Sự thủy phân chitin có thể xảy ra theo 2 cơ chế : cơ chế giữ lại các cấu tử β-anomer
trong sản phẩm và cơ chế nghịch chuyển từ dạng β sang dạng α (hình 29)
Vị trí kết nối giữa cơ chất chitin và enzyme chitin được giả định bao gồm tối thiểu 6
tiểu phần đường được ký hiệu từ A đến F (bắt đầu từ đầu không khử). Tại vị trí này,
hexasaccharid sẽ được phân cắt thành hai trisaccharid (hình 2.10) [86]
1.1.2.8. Các nguồn thu nhận enzyme chitinase [30, 57, 58]- LASH
Chitin là một polysaccharide phổ biến trong tự nhiên, là một polyme sinh học được
tổng hợp với số lượng lớn từ sinh vật. Lượng chitin được sản xuất hàng năm trên thế giới chỉ
đứng sau cellulose, chúng được tạo ra trung bình 20g trong 1 năm/1m2 bề mặt trái đất. Trong
tự nhiên chitin hiện diện ở hầu hết các giới vi sinh vật. Đến nay đã có nhiều nghiên cứu về
enzyme chitinase của các vi sinh vật, thực vật, động vật. [53]
a. Chitinase vi khuẩn [67]
Enzyme chitinase được tìm thấy ở các vi khuẩn : Chromobacterium, Klebsiella,
Pseudomonas, Clostridium, Vibrio và đặc biệt là ở nhóm Streptomyces.
Enzyme chitinase có thể là enzyme cấu trúc hoặc enzyme cảm ứng. Tuy nhiên trong
các môi trường nuôi cấy vi sinh vật, người ta đều cho thêm chitin – cơ chất của enzyme
chitinase để làm tăng khả năng tổng hợp enzyme chitinase, đồng thời ổn định hoạt tính
enzyme chitinase sau quá trình chiết tách. Vi khuẩn tổng hợp enzyme chitinase nhằm phân
giải chitin trong môi trường tạo nguồn cacbon cho vi khuẩn sinh trưởng, phát triển.
b. Chitin nấm [67]
Chitinase cũng được tạo ra bởi các loại nấm sợi. Các chủng nấm mốc cho enzyme
chitinase cao như : Trichoderma, Gliocladium, Calvatia,...đặc biệt là ở các loài nấm lớn như
Lycoperdon, Coprinus...các nấm phân hủy chitin cũng được tìm thấy trong các thủy vực như
loài nấm Karlinggiomyces asterocystic thuộc lớp Phycomycetes.
Tương tự như ở vi khuẩn, enzyme chitinase của nấm đóng vai trò quan trọng về mặt
dinh dưỡng, nhưng khác là hoạt động của chúng rất linh hoạt trong quá trình phát triển và
trong sụ phát sinh hình thái của nấm bởi vì chitin là thành phần chính của vách tế bào nấm.
Chitinase còn giữ vai trò chính trong hoạt động ký sinh nấm đối kháng lại các lòi nấm gây
bệnh thực vật.
c. Chitinase thực vật [67]
Chitinase tham gia vào cơ chế tự vệ của thực vật chống lại các loại côn trùng và nấm
ký sinh gây bệnh [54]. Người ta đã quan sát thấy chitinase tách chiết từ cây cần tây có khả
năng ức chế sợi nấm phát triển. Tuy nhiên cũng có tác giả cho rằng chitinase còn có vai trò
khác như tham gia vào quá trình hình thành phôi [41]. Các thực vật bậc cao có khả năng tạo
enzyme chitinase như : cao su (Hevea brasiliensis), thuốc lá (Nicotiana sp), lúa mạch
(Hordeum vulgare), cà rốt, hạt đậu nành ... và đặc biệt một số loài tảo biển cũng là nguồn
cung cấp enzyme chitinase [52].
d. Chitinase động vật [65]
Từ một số động vật nguyên sinh và từ các mô, tuyến khác nhau trong hệ tiêu hóa của
nhiều loài động vật không xương : ruột khoang, giun tròn, thân mềm, chân đốt (ví dụ trong
dịch ruột của ốc sên Helix aspersa), ta có thể thu nhận được enzyme chitinase. Đối với động
vật có xương sống enzyme chitinase được tiết ra từ tuyến tụy và dịch dạ dày của các loài cá,
lưỡng cư, bò sát ăn sâu bọ ; trong dung dịch dạ dày của những loài chim, thú ăn sâu bọ.
Trong động vật thủy sản, đặc biệt là trong vỏ tôm, cua ghẹ, mai mực, hàm lượng chitin
chiếm khá cao từ 14-35% so với trọng lượng khô.
Chitin được tìm thấy từ nhiều nguồn khác nhau với hàm lượng khác nhau [45,51]
Bọ cánh cứng 37%
Nhện 38%
Bò cạp 30%
Sâu 20-38%
Nấm 5-20%
Tôm 33%
Cua 70%
Mực 3-20%
Mặc dù chúng được phổ biến rộng rãi nhưng cho đến nay nguồn thu nhận chính của
chitin là từ vỏ cua và tôm. Trong công nghệ chế biến, do chitin tồn tại ở dạng phức hợp với
một số chất như: CaCO3, protein, lipid, các chất hữu cơ … nên việc tách chiết còn khó khăn
vì phải đảm bảo cả hai yếu tố cùng một lúc là vừa loại hết tạp chất đồng thời không làm biến
đổi tính chất của chitin.
Ngoài ra, enzyme chitinase còn được thu nhận từ dịch biểu bì của giun tròn trong suốt
quá trình phát triển và dịch tiết biểu bì của các loài chân đốt vào thời điểm thay vỏ, lột da.
Enzyme chitinase giúp côn trùng tiêu hóa màng ngoài (cutincun) trong quá trình biến thái hay
lột xác.
1.2 Ứng dụng của chitinase trong nông nghiệp và y học
1.2.1 Một số ứng dụng hệ enzyme chitinase trong nông nghiệp
Các loại côn trùng và vi sinh vật (chủ yếu là nấm mốc) phần lớn đều có hại cho động
thực vật, chúng gây ra nhiều loại dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi, ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp. [85, 113]
Hầu hết các nhân tố có hoạt tính kháng nấm (fungicid) hay diệt côn trùng (insecticid)
kiểm soát dịch bệnh thông qua việc tiêu diệt hoặc kiểm soát các tác nhân gây bệnh, các ký
chủ trung gian hoặc các vector mang bệnh đều sử dụng một trong các kiểu tác động sau :
- Các chất độc gây ngạt thở hoặc làm chết khô.
- Các chất độc làm kết tủa hoặc bất hoạt các enzyme, làm giảm chức năng của các
bào quan trong nguyên sinh chất.
- Các chất độc gây bất hoạt các enzyme trong chuỗi hô hấp.
- Các chất độc ảnh hưởng lên các cơ quan như hệ thần kinh, hệ tuần hoàn,…
Dĩ nhiên là một loại thuốc tốt nhất sẽ gây hại cho vật chủ của các loài ký sinh mà nó
tác động. Tuy nhiên, do sự phức tạp và sự phụ thuộc qua lại lẫn nhau trong các quá trình sống
thì không lúc nào người ta đạt được mục đích trên và vì thế một số fungicid và insecticid gây
độc ở chừng mực nào đó, một số khác gây ra các hiệu ứng phụ không mong muốn,…
Vì chitin không phải là thành phần phổ biến ở thực vật và động vật có xương nên
người ta sử dụng các tác nhân kìm hãm sự sinh tổng hợp chitin trong các fungicif và
insecticid như nikkomycin, polyoxin D,… Khi áp dụng trên cây cảnh, cây lương thực, trên
động vật, những tác nhân trên chứng tỏ không gây hại đáng kể cho thực vật hoặc động vật có
xương.
1.2.1 Cơ sở khoa học của ứng dụng enzyme chitinase trong phòng trừ nấm gây bệnh
thực vật
Thành tế bào của vi nấm dày khoảng 0.2 µm, có tính phản quang rất mạnh nên có thể
phân biệt được rõ ràng ở kính hiển vi quang học. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh
cấu tạo thành tế bào vi nấm có cấu trúc bản mỏng, vừa có cấu trúc sợi [15]
Cấu tạo chính của thành tế bào ở các nhóm nấm chủ yếu : [15]
Nhóm phân loại Cấu tạo chính của thành tế bàoNấm nhầy myxomyces
Plasmodiphore
Cellulose
ChitinNấm noãn oomycetes Cellulose – GlucanNấm cổ Hyphytridiomycetes
Chytridiomycetes
Cellulose – Chitin
Chitin – GlucanNấm tiếp hợp Zygomycetes Chitin – chitosanNấm nang Ascomycetes
Nấm đảm Basidiomycetes
Nấm bất toàn Deuteromycetes
Chitin – Glucan
Theo Hirohi Ihui [80], enzyme chitinase luôn có mặt trong cơ thể thực vật mặc dù
trong cây không chứa chitin. Chitinase và β – 1,3 – glucanase được tạo ra trong mô thực vật
khi tế bào bị kích thích bởi nấm gây bệnh chứa chitin, xúc tác sự thủy phân vách tế bào nấm
và ngăn cản sự phát triển của bệnh. [59]
Sự kích thích hoạt tính enzyme chitinase là dấu hiệu trả lời của tế bào đối với tác động
của tác nhân gây bệnh, đi kèm với sự kích thích hoạt tính phân giải amoniac, phenylalanin
làm tiền đề cho sự tổng hợp lignin và phytoalexin ở thực vật...
Bên cạnh đó các nhà khoa học cũng đã chứng minh quá trình chống lại các mầm bệnh
thực vật có liên quan đến việc sản xuất ra enzyme chitinase. Thật vậy, vi khuẩn có khả năng
chống lại nấm bệnh bằng cách sản xuất ra chitinase [48]. Chitinase của Streptomyces có khả
năng ức chế sự phát triển của nấm bệnh. [112]
Chủng Serratia marcescen hoang dại có khả năng kiểm soát sinh học đối với các mầm
bệnh thực vật. Ở chủng Serratia marcescens đột biến có mang gen ChiA (gen mã hóa enzyme
chitinase), khi gen bị bất hoạt thì chủng này mất hiệu lực kiểm soát sinh học. Khi tái tổ hợp
gen ChiA từ Serratia marcescens vào E.coli, E.coli có khả năng làm giảm các bệnh gây ra
bởi Sclerotium rolfsii và Rhizoctonia solani [87].[8]
Trong chu kỳ sống của ký sinh với nấm bệnh, Trichoderma có tiết ra enzyme chitin
phân hủy chitin, bao gồm phức hợp với 6 enzyme khác biệt nhau : hai enzyme β-1,4-N-acetyl
glucosaminidase có trọng lượng phân tử lần lượt là 102, 73, kDa và bốn enzyme
endochitinase có trọng lượng phân tử lần lượt là 52, 42, 33 và 31 kDa. Trong đó.
Endochitinase (42 kDa) có khả năng thủy phân vách tế bào botrytis cinerea in vitro. Quá trình
kháng nấm bệnh muốn đạt được hiệu quả cao nhất cần có sự phối hợp hoạt động bổ sung cho
nhau của 6 enzyme này,…[76]
1.2.2 Phối hợp chitinase và chủng vi khuẩn Enterobacter cloecae kháng nấm
Đây là sự kết hợp giữa enzyme phân hủy thành tế bào nấm mốc với vi khuẩn kháng
nấm Enterobacter cloecae ( vi khuẩn thường thấy trên bề mặt hạt và các vùng rễ của thực
vật ). Sự kết hợp này nhằm mục đích kìm hãm sự sinh trưởng và phát triển của cá loài nấm
mốc thông qua sự tác động kép : chitinase phân giải thành tế bào của nấm mốc, tạo môi
trường dinh dưỡng cho Enterobacter cloecae tăng sinh trưởng trong tự nhiên, đồng thời tăng
khả năng kiểm soát sinh học thông qua tăng khả năng gắn vào thành phần khuẩn ty của nấm
mốc.
Sự tương tác giữa chitinase và Enterobacter cloecae trong hỗn hợp gia tăng khả năng
kháng nấm mốc gây bệnh nhờ chủng vi khuẩn có thể bám vào thành tế bào, thậm chí khi có
sự hiện diện D-glucose, saccharose, do đó có thể trải rộng phạm vi sử dụng trên các hạt giống
và thực vật có sự tiết rỉ các loại đường này.
Hiện nay, người ta sử dụng hỗn hợp này để bảo vệ hạt giống, lá, rễ hoặc quả, vùng đất
xung quanh hạt… Hỗn hợp này có thể dùng để kháng các loài nấm mốc gây bệnh thực vật
như Fusarium, Gliocladium, Trichoderma, Saccharomyces,…
1.2.3 Chế phẩm biocid – sự tác động cộng hưởng của hệ enzyme chitinase, các enzyme
khác và các tác nhân kháng nấm
Các nhà khoa học đã nghiên cứu sự thủy phân vách tế bào vi nấm bởi các enzyme
chitinase, glucanase, cellulase,…[107] và đã thử nghiệm trên đồng ruộng tác dụng của các
chế phẩm biocid. Khi sử dụng riêng biệt chế phẩm chitinase, nhận thấy hiệu quả tiêu diệt thấp
trên nấm mốc, giun tròn, chí có khả năng kìm hãm. Chế phẩm thủy phân bởi các enzyme
protease phối trộn với một số tác nhân khác có hiệu quả tiêu diệt nấm mốc, giun tròn, và côn
trùng cao. [111]
Khi phối trộn 2 chế phẩm này theo tỷ lệ 1 :1 thì thu được hiệu quả cao hơn khi sử dụng
riêng lẻ. Đây có thể là do sự cộng hưởng hoạt tính của hệ sinh hóa phức tạp đa nhân tố.
Ngoài ra, người ta còn tìm cách tăng cường hoạt tính kháng nấm thông qua tác động
cộng hưởng giữa hỗn hợp chế phẩm trên với các tác nhân kháng nấm : captan, manzate,
chloroneb, … [111]
1.2.4 Bổ sung chitin vào đất nhằm tạo điều kiện sinh trưởng tốt cho các chủng vi sinh
vật trong đất tổng hợp chitinase kháng nấm
Toyoda đã đề nghị cung cấp vào đất một lượng thích hợp chitin nhằm kích thích sự
phát triển của các chủng vi khuẩn sản sinh chitinase (những vi sinh vật này chiếm ưu thế ở
vùng rễ).
Xạ khuẩn Streptomyces anulatus được cố định trong một giọt gel alginat Ca và đưa
vào đất, chủng xạ khuẩn này phát triển mạnh trong đất có chứa chitin và ức chế một cách
mạnh mẽ sự phát triển của những mầm bệnh từ nấm (ví dụ kiểm soát bệnh héo của cây cà
chua gây ra bởi nấm Fusarium oxysporum).
1.2.5 Tuyển chọn loài nấm đối kháng côn trùng gây hại cây trồng [10, 53,87]
Trong công tác bảo vệ thực vật, người ta đã đạt được nhiều kết quả tốt trong việc dùng
một số loài nấm phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng. Cụ thể như nấm Metarhizium anisopliae
dùng phòng trừ sâu xám, sâu đục thân ngô, sâu đục nõn dừa. nấm Beauveria bassiana trừ
trên 80 loại sâu hại khác nhau, trong đó có sâu đục thân ngô, bọ xít, bọ hung,..
Phần lớn các loài nấm xâm nhập vào cơ thể sâu bằng sợi nấm xuyên qua lớp vỏ
cutincun (phức hệ protein – chitin) vào trong. Các vòi nấm tiết ra enzyme chitinase phân giải
chitin tạo thành một lỗ để xâm nhập vào trong… Các nhà khoa học đã chứng minh mối liên
hệ giữa khả năng tiêu diệt sây bệnh của vi nấm đối kháng và sự tổng hợp enzyme chitinase ở
các loài vi nấm này.
Hiện nay, các nhà khoa học đã chủ động tuyển chọn các giống vi nấm đối kháng sâu
bệnh hại cây trồng dựa trên chỉ tiêu hoạt tính chitinase, sử dụng môi trường cảm ứng để kích
thích biểu hiện hoạt tính enzyme chitinase và nhân sinh khối loài vi nấm này, đồng thời thu
nhận các gel mã hóa chitinase, chuyển sang những loài vi nấm khác không có gel này để làm
tăng khả năng tiêu diệt sâu bệnh của chúng.
1.2.2 Một số ứng dụng trong Y học
1.2.2.1 Tổng hợp chitooligosaccharid
Hiện nay hoạt tính sinh học của các chitooligosaccharis ngày càng được nghiên cứu
sâu. Trong y học người ta sử dụng các oligomer chitohexaose và chitoheptaose làm tác nhân
kháng ung thư. Enzyme chitinase của Vibrio alginolyticus phân cắt huyền phù chitin thành
chitopentaose và chitotriose. Enzyme N,N’ – diacetylchtobiase được sử dụng rộng rãi làm
nguyên lieuj khởi đầu cho sinh tổng hợp các hợp chất có hoạt tính sinh học. Chitinase thu
nhận từ S. Griseus có khả năng thủy phân chitin huyền phù thành chitobiose tiếp tục được cải
biến hóa học thành một dẫn xuất disaccharid mới 2- acetamido- 2- deoxy- D- allopyranose,
đây là chất trung gian để tổng hợp nên chất ức chế enzyme. Ngược lại, Kobayashi và cộng sự
cho biết có thể sử dụng chitinase của Bacillus để tổng hợp chitobiose nhờ sự kết nối N-
acetyl- D- glucosamin với dẫn xuất đường oxazolin. [34]
1.2.2.2 Chẩn đoán các bệnh truyền nhiễm do vi nấm bằng enzyme chitinase [76]
Nhiều phương pháp chẩn đoán bệnh nấm được đề xuất như ELISA, sự ngưng kết
kháng thể, mẫu dò phân tử ..., để phát hiện đặc hiệu các nấm gây bệnh trong các dịch cơ thể
nhưng giá thành quá cao. Những bất lợi chung trong hầu hết các phương hiện sử dụng là khó
áp dụng đối với các mẫu dịch cơ thể bởi vì khó cố định được các mẫu này. Các phương pháp
nhuộm như GMC (Grocott methenamine AgNO3 staining), calcofluor/cellufour, India Ink,
lectin label, rylus BSU được dùng nhuộm cố định các tiêu bản nấm nhưng không có tính đặc
hiệu cao và cần sử dụng các thiết bị đắt tiền.
Chitin hiện diện nhiều trong vách hầu hết các nấm gây bệnh, ít nhất là một giai đoạn
trong chu trình sống của nấm hay ở nấm men thì hiện diện trong những vết chồi. Do đó cần
một phương pháp nhuộm chitin đặc hiệu cho nấm, tạo cơ sở xây dựng một phương pháp chẩn
đoán nhanh chóng, hiệu quả các loài nấm gây bệnh.
Hiện nay, các nhà khoa học đã đề xuất một phương pháp chản đoán mới các bệnh
truyền nhiễm do nấm bằng cách sử dụng enzyme chitinase đã được phân lập tạo dòng từ
Vibrio parahemolyticus (đặt tên là chitinase VP1), nó kết hợp chặt chẽ với chitin và có thể sử
dụng như một mâu dò trong việc chẩn đoán với độ nhạy cao, để nhận diện một cách đặc hiệu
các vách tế bào nấm hay những vết chồi nấm men trong những lát cắt mẫu mô bệnh.
1.2.2.3 Chế phẩm thuốc mới : enzyme chitinase và các dược chất kháng nấm [5, 52]
Hiện nay, các nhà khoa học đề nghị sử dụng chitinase với các tác nhân kháng nấm có
thể chấp nhận khác nhằm bổ trợ cho hoạt động nội sinh của chitinase.
Các tác nhân đó bao gồm :
- Amphotericin B và những phức chất có cấu trúc tương tự nystatin và Pyramycin.
- 5-fluorocytosin và các dẫn xuất azol như fluconazol, ketoconazol, itraconazol,
miconazol...
- Allylamines – thiocarbamates như olnaftat, terbinafin...
- Griseofulvin ; acid undecylenic ; bezoic...
Enzyme chitinase có thể phát huy hiệu quả các tác nhân kháng nấm ở liều lượng không
gây tác dụng phụ cho bệnh nhân. Ngoài ra việc kết hợp giữa enzyme chitinase và
laminarinase được ghi nhận là hữu hiệu hơn trong việc tấn công vào vách tế bào nấm (so với
chỉ dùng enzyme chitinase).
Các nhà khoa học đã thử nghiệm hoạt tính kháng nấm của enzyme chitinase tái tổ hợp
trong cơ thể chuột và thỏ bị nhiễm các loại nấm khác nhau thuộc nhóm Aspergillus,
Candida...Hiệu quả của sự điều trị với tác nhân kháng nấm được ước lượng trên 3 điểm :
- Giảm tỷ lệ chết.
- Giảm số lượng tế bào nấm được nuôi cấy từ các cơ quan.
- Giảm mức độ lưu thông kháng nguyên nấm.
1.3 Đặc điểm sinh học của Trichoderma
1.3.1 Phân loại và đặc điểm hình thái của Trichoderma
1.3.1.1 Phân loại
Trichoderma là một trong những vi nấm gây nhiều khó khăn cho công tác phân loại do
còn nhiều đặc điểm cần thiết cho việc phân loại vẫn còn chưa được biết đầy đủ.
Persoon ex Gray (1801) phân loại Trichoderma như sau:
Giới: Fungi
Ngành: Ascomycota
Lớp: Euascomycetes
Bộ: Hypocreales
Họ: Hypocreaceae
Giống: Trichoderma
Ainsworth và Sussman lại cho rằng Trichoderma thuộc lớp Deuteromyctes, bộ
Moniliales, họ Moniliaceae.
Theo hai nhà khoa học Elisa Esposito và Manuela da Silva (1998), Trichoderma thuộc
họ Hypocreaceae, lớp Nấm túi Ascomycetes; các loài Trichoderma được phân thành 5 nhóm:
Trichoderma, Longibrachiatum, Saturnisporum, Pachybasium và Hypocreanum. Trong đó, 3
nhóm Trichoderma, Pachybasium, Longibrachiatum có giai đoạn telemorph (hình thái ở giai
đoạn sinh sản hữu tính ) là Hypocrea; nhóm Hypocreanum hiếm khi gặp dưới dạng
teleomorph độc lập; nhóm Saturnisporum không tìm thấy hình thức teleomorph.
1.3.1.2 Đặc điểm hình thái của Trichoderma
Trichoderma là một loài nấm bất toàn, sinh sản vô tính bằng đính bào tử từ khuẩn ty.[12]
Khuẩn ty của nấm không màu, cuống sinh bào tử phân nhánh nhiều, ở cuối nhánh phát triển
thành một khối tròn mang các bào tử trần không có vách, không màu, liên kết nhau thành
chum nhỏ ở đầu cành nhờ chất nhầy. Bào tử hình cầu, hình elip hoặc hình thuôn. Khuẩn lạc
nấm có màu trắng hoặc từ lục trắng đến lục vàng, xanh, lục xỉn đến lục đậm. Các chủng của
Trichoderma có tốc độ phát triển nhanh ( có hình) chúng có thể đạt được đường kính khuẩn
lạc từ 2 – 9 cm sau 4 ngày nuôi cấy ở 200C.
1.3.2 Đặc điểm sinh lý, sinh hóa
Môi trường sống
Trichoderma spp là nhóm vi nấm phổ biến ở đất nông nghiệp, đồng cỏ, rừng, đầm
muối và đất sa mạc. Hầu hết chúng là những vi sinh vật hoại sinh, nhưng chúng cũng có khả
năng tấn công các loại nấm khác. Trichoderma rất ít tìm thấy trên thực vật sống và không
sống nội kí sinh với thực vật. Chúng có thể tồn tại trong tất cả các vùng khí hậu từ miền cực
Bắc đến những vùng núi cao cũng như miền nhiệt đới. Tuy nhiên, có một số tương quan giữa
sự phân bố các loài và các điều kiện môi trường.
T.polysporum và T.viride có mặt ở vùng khí hậu lạnh, trong khi T.harzianum có ở các
vùng khí hậu nóng. Điều này tương quan với nhu cầu cần nhiệt độ tối đa cho từng loài.
Các loài Trichoderma thường xuất hiện ở đất acid, và Gochenaur (1970) cho rằng có
tương quan giữa sự hiện diện của T.viride với đất acid trong vùng khí hậu rất lạnh ở Peru,
Trichoderma phát triển ở bất cứ pH nào nhỏ hơn 7 và có thể phát triển tốt ở đất kiềm nếu như
ở đó có sự tập trung một lượng CO2 và bicarbonat.
Trichoderma có thể sử dụng nhiều nguồn thức ăn khác nhau từ Carbonhydrat, amino
acid đến ammonia.
Trichoderma là vi nấm ưa độ ẩm, chúng đặc biệt chiếm ưu thế ở những nơi ẩm ướt,
những khu rừng khác nhau. T. hamatum và T. pseudokoningii có thể chịu điều kiện độ ẩm cao
hơn so với những loài khác. Tuy nhiên, Trichoderma spp thường không chịu được độ ẩm thấp
và điều này được cho là một yếu tố góp phần làm cho số lượng Trichoderma giảm rõ rệt trong
những nơi có độ ẩm thấp, song các loài Trichoderma spp khác nhau thì yêu cầu về nhiệt độ và
độ ẩm cũng khác nhau.
Trichoderma spp có thể được phát hiện trong đất bởi mùi hương của chúng, hương
dừa (6-pentyl-α-pyrone dễ bay hơi) thường được tạo ra trong quá trình sinh trưởng của
Trichoderma.
Với phương pháp pha loãng người ta ước tính Trichoderma có thể đạt đến 3% tổng số
vi nấm hiện diện trong các loại đất rừng và 1,5% số lượng trong đất trồng cỏ.
Turner và cộng sự (1997) chỉ ra rằng T.longibrachiatum và T.citrinoviride có nhiều sự
trùng nhau về khu vực phân bố địa lí. Sự phân bố rộng khắp này lẽ do sự phát tán hiệu quả
( nhờ gió hoặc côn trùng) hoặc biểu hiện một quá trình tiến hóa rất sớm.
Chất chuyển hóa thứ cấp và kháng sinh
Trichoderma spp sản xuất nhiều loại kháng sinh. Ngày nay, danh sách của các chất
trên được kéo dài thêm ra, bao gồm đa dạng các chất có hoạt tính: glioviridin ( một
diketopiperazin), sesquiterpenoids, trichothecenes ( trichodermin), cyclic peptides, isocyanid
– bao gồm các chất chuyển hóa (trichoiridin). Bên cạnh khả năng ức chế vi sinh vật khác,
chắc chắn những chất chuyển hóa này liên quan đến sự tăng trưởng yếu kém của thực vật bậc
cao hơn và cũng là nguyên nhân gây ra bệnh còi ở cừu thông qua hoạt động ức chế vi sinh vật
phân giải cellulose trong dạ cỏ của chúng. Các chủng Trichoderma cũng sinh ra nhiều loại
hợp chất ức chế dẽ bay hơi có thể trợ giúp cho sự hình thành khuẩn lạc cả chúng trong đất.
Trichoderma và Gliocladium sản xuất đa dạng chất chuyển hóa thứ cấp. Những chất
này bao gồm sắc tố anthroqinon (pachybasin-[1,8-dihydroxy-3-methyl-,10-anthraquinon];
emodin- [1,6,8-trihydroxy-3-methyl-9,10-anthroquinon]), chức năng của chúng vẫn chưa
được biết, một số chất khác như benzoquinon (thermophyllin), cardinan (avocettin);
dihydrocoumarins, polyacetyl mạch nhánh (trichodermen) và dẫn xuất các acid béo (methyl-
2,4,6-triene-1-1 carboxylat). Những chất này cũng chưa được biết rõ về hiệu quả của chúng
trong sự hình thành khuẩn lạc.
1.3.2.1 Dinh dưỡng và con đường trao đổi chất cơ bản của Trichoderma
a. Nguồn Cacbon [56]
Trichoderma nổi bật về khả năng tiết ra enzyme phân hủy nhiều loại polysaccharide
( như cellulose, hemicellulose) và những polymer liên quan như chitin. Những enzyme này
được công nhận có giá trị thương mại.
Manczinger và Pollner (1985) [74] đã sử dụng nguồn cacbon là phương thức để phân
loại các giống Trichoderma thành từng nhóm. Theo phân tích, những nguồn cacbon sau được
sử dụng bởi tất cả những chủng đã nghiên cứu: D-glucose, D-galactose, D-fructose, D-
mannose, D-cellobiose, trehalose, D-xylose, L-arabinose, d-mannitol, D-arabitol, glycerol,
salacin, esculin, arbutin, glycerol-1-monoacetat, β-methyl-D-glucosid và N-acetyl- β-D-
glucosamin. Nói chung nguồn cacbon tốt nhất là glucose, fructose, mannose, galactose,
xylose, rehalose và cellobiose.
Ngược lại Trichoderma spp thường không có khả năng sử dụng α-methyl-D-xylosid,
α-methyl-D-mannosid, methanol, ethanol, n-propanol, ethylamine, 5-ketogluconic acid, L-
tartaric, propionic acid, butyric acid, oxalic acid, glyoxalic acid, DL-isocitric acid, adipic acid,
DL-lactic acid, manolic acid, acetoin, maltitol, dertran, uracil, cytosine, cytidin, L-lysin, L-
histidin, L-methyonin, L-cystein, α-DL-aminoadipic acid, β-alanin, ethanolamine, nhiều loại
D-amino acid, benzoic acid, ferrulic acid và anthanilic acid. Việc sử dụng một vài nguồn
cacbon (như inulin, tinh bột, xylan, pectin, lactose, sucrose, maltose, một vài polyol, sugar
acid, hàu hết các amino acid và một vài pentoses) thì tùy thuộc vào từng loài, và có thể sử
dụng cho mục đích phân loại hóa học.
b. Nguồn Nitơ [56]
Trichoderma sppcó khả năng sử dụng cả những nguồn nitơ khá phức tạp hay đơn giản
để tăng trưởng. Khi Trichoderma đang tăng trưởng trên nguồn cacbon là carbohydrate, nguồn
nitơ thường được sử dụng là ammonium hơn là nitrat. Một vài chủng như
T.reesei hay T.koningii T-1 cũng không thể sử
dụng nitrat. Đó là sự thiếu enzyme nitrate permease.
Nguồn nitơ hữu cơ như peptone thường được sử dụng trong môi trường để hạn chế sự
tăng trưởng chậm trên cơ chất polymeric như là cellulose. Tuy nhiên cần chú ý rằng peptone
được sử dụng như là cả nguồn nitơ lẫn nguồn cacbon, và được ưu tiên sử dụng khi được cung
cấp đồng thời với polysaccharide. Trong số những amino acid, nguồn nitơ hữu cơ tốt nhất cho
Trichoderma là alanin, aid aspartic và aicd glutamic. Ngoài amino acid thì T.lignorum ( =
T.viride) được báo cáo là có thể sử dụng bazơ purin, purin nucleoside và nucleotide tương
ứng như là nguồn nitơ duy nhất.
c. Nguồn dinh dưỡng khác [56]
Hầu hết các chủng phân lập hoang dại của Trichoderma không yêu cầu những nhân tố
tăng trưởng phức tạp hay vitamin. Thành phần ion kim loại của sợi nấm T.reeei đã được phân
tích bởi Gaunt và cộng sự (1984) và được sử dụng để tính toán nhu càu về ion kim loại.
Những ion kim loại như sắt thì càn thiết ch sự tăng trưởng và có thể được tìm thấy ở một
nồng độ rất thấp trong môi trường.
Một số lượng lớn những ion kim loại khác cũng rất quan trọng cho sự tăng trưởng ở
những nồng độ thấp, ngược lại nồng độ cao lại ức chế tăng trưởng. Sự thêm vào của Cd2+ và
Hg2+ ở nồng độ 1 – 10mM dẫn đến ức chế tăng trưởng T.viride và dẫn đến kiểu hình bất
thường của nấm. Tuy nhiên tương tự như loài nấm khác, Trichoderma cũng bắt các ion kim
loại trong màng tế bào của chúng, phát hiện này đã được sử dụng trong viêc loại bỏ những ion
kim loại nặng ra khỏi nước thải công nghiệp bằng hệ sợi nấm Trichoderma.
d. Oxi và CO2 [56]
Trichoderma là vi sinh vật hiếu khí bắt buộc, mặc dù những chủng đã phân lập đều
được thu nhận trên những môi trường sống có áp suất từng phần oxi rất thấp. Sự cung cấp oxi
và hoạt động của ti thể cũng được báo cáo là những nhân tố điều hòa sự hình thành cellulase
của T.reesei [53], và nồng độ O2 ở mức dưới cực thuận dường như là thích hợp cho sự tổng
hợp enzyme.
CO2 sản phẩm cuối cùng của sự oxi hóa cacbon, sẽ được tích lũy ở một mức độ nào đó
trong môi trường tăng trưởng rắn, phụ thuộc pH và nhiệt độ. Vì vậy, vài loài Trichoderma spp
bị ức chế bởi CO2 theo phương thức phụ thuộc vào pH, sự ức chế mạnh nhất trong môi
trường kiềm nhẹ và trung tính. Hutchinson và Cowan (1972) [61] báo cáo rằng T.harzianum
tạo ra hiệu ứng ức chế CO2 và ethanol trên sự tăng trưởng và tạo bào tử của nhiề nấm khác
(Aspetgillus niger, Pestalotia rhododendri), trên cây con của Lactuca sativa. Điều này cho
thấy môt vài chủng Trichoderma có thể chấp nhận sự tích tụ CO2 nhiều hơn một số nấm khác.
1.3.2.2 Ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài lên sư phát triển của nấm Trichoderma [56]
a. Nước.
Jackson và CS (1991) đã khảo sát trên T.virens, T.citrinovride và T.viride và thấy
rằng mức độ phát triển của sợi nấm của tất cả các loại nấm giảm khi tăng điện thế nước vượt
qua ngưỡng -0,7 đến -14,0 Mpa. Trong khoảng này tát cả những chủng phân lập này dễ chấp
nhận điện thế thấm lọc (NaCl, glycerol) hơn là điện thế chất nền (polyethyeneglycol) [32]
Sự giảm lượng nước đã thúc đẩy sự tạo bào tử của T.harzianujm,đặc điểm này có thể
sử dụng trong môi trường nuôi cấy lỏng để tạo đính bào tử cùng với việc tăng mức độ sấy
khô rất có ích cho những mục đích điều khiển sinh học. Sự nảy mầm của đính bào tử của
Trichoderma đặc biệt nhạy cảm với việc tăng áp suất thấm lọc [32]
b. Nồng độ ion H+
Nồng độ ion H+ có ảnh hưởng lớn trên sự tăng trưởng của nấm, vì nhiều chất dinh
dưỡng (ví dụ như đường và amino acid), đều được thu nhận bằng sự đồng vận chuyển với H+.
Vì vậy nấm thường phù hợp với môi trường có pH hơi acid. Sự tăng trưởng tối ưu thường
trong khoảng pH= 4 – 6,5, và một vài chủng Trichoderma spp thích hợp với pH < 3.
c. Nhiệt độ
Nhiệt độ tối ưu cho sự tăng trưởng của hầu hết Trichoderma là trong khoảng 25 –
300C.
Sự tăng trưởng phụ thuộc nhiệt độ là một hiện tượng có tính thích nghi ở
Trichoderma, là loài có nguồn gốc từ vùng khí hậu ấm áp, có nhiệt độ tối ưu cao. Những loài
thuộc Trichoderma nhóm Longibrachium có nhiệt độ tối ưu cao nhất từ 38 – 440C. Bên cạnh
đó, T.polysporum và T.viride được quan sát có mật độ cao nhất ở nhiệt độ hơi lạnh 20 –
250C. Những chủng phân lập của T.viride thậm chí có thể tăng trưởng ở 50C [32].
1.3.3.3 Môi trường
Việc phân lập và định hướng được tiến hành bằng cách nuôi Trichoderma trên môi
trường nuôi cấy chọn lọc. Trong môi trường dùng những hóa chất và thuốc nhuộm như
Bengal đỏ, tím kết tinh ( crystal violet), oxgall (2-deoxycholat) và pentachloronitrobenzen
(PCNB) đều có phối hợp với nhiều thuốc diệt nấm. Môi trường phục hồi cổ điển là TSM
(Trichoderma Selective Medium) sau đó dược cải tiến để hạn chế sự phát triển của Fusarium
bằng cách phối hợp với benomyl cho những chủng kháng lại thuốc diệt nấm này. [44, 45]
1.3.3.4 Cấu trúc ở mức tế bào – phân tử
a. Vách tế bào [56]
Bề mặt tế bào của hầu hết các loại nấm bao gồm 3 lớp lưu thông: màng nhầy, vách tế
bào và màng tế bào. Cấu trúc vách tế bào của Trichoderma thuộc dạng chitin-β-glucan. Tuy
nhiên, chitin hiện diện ở hệ sợi lại không có ở bào tử của T.viride. Sự tổng hợp chitin rất cần
thiết cho sự nảy mầm của bào tử đính.
Vách tế bào của một vài chủng Trichoderma cũng đã được phát hiện là chứa galactose
và N-acetyl-β-D-galactosimin lectin. Lora và cộng sự (1994) [72] đã mô tả sự hiện diện của
một protein vách tế bào có khả năng ức chế chitinase trong S.cerevisiae.
b. Nhân [56]
Giống như ở tất cả Eukaryot các tế bào nấm mang một nhân điển hình được bao quanh
bởi một màng đôi. Nhân của nấm thường nhỏ hơn (đường kính từ 1-5μm), và chứa ít hơn 1pg
DNA. Bào tử đính thường chứa nhiều hơn một nhân. Tuy nhiên Trichoderma spp có số lượng
nhân khác nhau. Một vài chủng đơn nhân (Hammill, 1974 [83]) ngược lại vài chủng đa nhân
(như T.atroviride ATCC 36042). T.reesei hình thành nhân nhỏ sau khi xử lý colchicin do sự
phân chia nhân bất bình thường. Hàm lượng DNA trung bình của những nhân nhỏ này bằng
30% của nhân bình thường, gọi là đa bội lệch. Những nhân này có thể hữu ích cho việc vận
chuyển những lượng DNA nhỏ vào trong thể nguyên sinh [85]
c. Bào quan và màng tế bào [56]
Những nghiên cứu trên T.reesei cho thấy trong tế bào của chúng hiện diện tất cả các
bào quan của Eukaryot, tương tự với các chủng Trichoderma khác. Cấu trúc của một số bào
quan (như thể Golgi) thì khác biệt so với Eukaryot, nhưng vẫn chưa biết rõ những đặc tính về
sinh hóa có khác nhau hay không. Một vài loài Trichoderma spp chứa một lượng lưới nội chất
khá lớn và nhiều nhất là ở chủng T.seesei đột biến.
1.3.3.5 Hiện tượng ki sinh của nấm Trichoderma
Hiện tượng kí sinh của nấm Trichoderma spp bao gồm một số bước sau:
Bước 1: Tương tác đầu tiên là tơ nấm Trichoderma hướng về tơ nấm ký chủ [38] .
Hiện tượng này là đặc tính hướng hóa của Trichoderma spp, hướng về nơi có chất hóa học do
tơ nấm ký chủ tiết ra (Chet vf Elad, 1983, [42]). Khi tơ nấm Trichoderma đã đến tơ nấm ký
chủ, chúng có xu hướng tiếp xúc và cuộn xung quanh sợi nấm ký chủ hình thành cấu trúc móc
hoặc ép sát sợi nấm và phát triển song song với nấm ký chủ. Theo Chet và Baker (1981), sự
tiếp xúc nhận biết của nấm Trichoderma với ký chủ của nó rất đặc trưng. Ví dụ: Trichoderma
harzianum nhận biết tơ nấm R.solani nhờ một chất bám dính (agglutinin), chất này liên kết
đặc hiệu với lectin có trong cấu trúc vách tế bào của nấm Rhizoctonia slain [38]
Bước 2: Tơ nấm ký sinh thủy phân vách nấm ký chủ bằng cách tổng hợp tiết ra các
enzyme: glucanase, chitinase, cellulose (Elad, 1983 [42]) Enzyme β-1,3-glucanase và
chitinase của Trichoderma harzianum không chỉ tác động kết hợp với nhau mà còn kết hợp
với các hợp chất kháng nấm.
Tóm lại, các chúng Trichoderma có thế được sử dụng làm tác nhân sinh học là dựa
trên khả năng ký sinh nấm của chúng (chủ yếu là ký sinh trên các loài nấm gây bệnh thực
vật). Quá trình ký sinh nấm của Trichoderma bao gồm các bước sau:
- Sự hóa dưỡng của Trichoderma
- Sự nhận biết ký chủ
- Tiết enzyme ngoại bào và chất kháng sinh
- Xâm nhập vào tơ nấm ký chủ
- Tiêu diệt ký chủ.
Đặc tính ký sinh của loài Trichoderma trên các loài nấm gây bệnh thực vật đã được
nghiên cứu khá kỹ [38,43]. Các nhà khoa học đa số tập rung tìm hiểu quá trình ký sinh nấm
trong kiểm soát bênh cây. Hình vẽ
1.3.3.6 Mối liên hệ giữa khả năng đối kháng nấm gây bệnh thực vật và hợt động
enzyme chitinase của Trichoderma spp. [58]
Trichoderma spp có khả năng phân giải vách tế bào nấm. Harran đã khảo sát cơ chế
phân tử của enzyme phân giải liên quan đến hoạt động kiểm soát sinh học của T. harzianum.
Sự thủy phân vách tế bào nấm chủ yếu dựa vào hoạt tính của chitinas, glucanase và protease.
Sau khi bám và quấn quanh nấm bệnh, khuẩn ty của nấm ký sinh tạo ra lỗ hổng trên vách của
khuẩn ty ký chủ. Màu sắc của khuẩn ty ký sinh thay đổi và phát huỳnh quang mạnh bởi sự kết
hợp của fluorescein isothiocyanat với lectin gắn vào chitotriose hoặc với calcofluor White. Cả
phức hợp này được gắn với β – glucan và oligomer N – acetyl – D – glucosamin. Hiện tượng
này được nhận định do enzyme phân giải được tiết ra tại vị trí tiếp xúc bởi T. harzianum khi
phân hủy vách của R. solani và S. rolfsii. Nếu có sự hiện diện của cycloheximid, hiện tượng
đối kháng bị ngăn chặn và hoạt tính của enzyme bị suy giảm. Hoạt tính của enzyme chitinase
cúng được tìm thấy khi Trichoderma tấn công R. solani và S. rolfsii trong môi trường đất.
T.harzianum có khả năng tấn công lên nấm bệnh thì tiết β – 1,3 – glucanase và
chitinase nhiều hơn những chủng không co khả năng tấn công nấm bệnh, khả năng đối kháng
của S. rolfsii khi bị T. harzianum tấn công cũng đã được nghiên cứu. Khuẩn ty T.
harzianum khi xâm chiếm vào hạch của S. rolfsii và tạ lỗ trên bề mặt của hạch này, cuối cùng
làm thay đổi hình dạng và làm biến mất tế bào chất của nó.
chủng Trichoderma khác nhau tùy thuộc ở cấp độ enzyme phân giải tạo ra để tấn công
sợi nấm của các loại nấm bệnh. Để tìm ra sự hình thành enzyme chitinase trong quá trình
tương tác ký sinh, Harran đã thực hiện thí nghiệm nuôi cấy ghép (dual - culture) trong đó
T.harzianum đương đầu riêng lẻ với hai loại nấm bệnh đều chứa chitin trong thành phần cấu
tạo vách tế bào là R. solani, nhưng khó có thể mọc tràn qua phần môi trường có chứa khuẩ ty
của S. rolfsii trong cùng điều kiện.
Sự biểu hiện của hệ enzyme chitinase T. harzianum trong tương tác này được điều
hòa rất đặc biệt bởi tùy loại tế bào ký chủ. Hiệu quả đối kháng chóng lại R. solani cao do sự
biểu hiện của cả 3 loại endochitinase là CHIT52, CHIT42 và CHI33 và N –
acetylglucosaminidase 102kDa. Ngược lại, iệc chống lại S. rolfsii của T. harzianum trong
tương tác ký sinh không có hiệu quả do chỉ có duy nhất 2 loại exochitinase là N-
acetylglucosaminidase (CHIT102, CHIT73) được phát hiện.
Những kết quả này chứng minh rằng hệ enzyme chitinase của T. harzianum không
phải được điều hòa một cách đơn giản theo cơ chế “bật/tắt” để phản ứng lại sự hiện diên hay
vắng mặt của chitin.
a. Sự đối kháng giữa T. harzianum và nấm bệnh S. rolfsii.
Inbar và Chet nghiên cứu sự cảm ứng chitinase đặc thù của T. harzianum trong suốt
quá trình ký sinh với S. rolfsii. Trước khi tiếp xúc, cả T. harzianum lẫn S. rolfsii đều có chứa
β-1,4-N-acetylgucosaminidase của riêng mình. Nhưng khi có sự tương tác β-1,4-N-
acetylgucosaminidase của S. rolfsii biến mất. Trong giai đoạn đầu của quá trình tương tác thì
enzyme 1,4-N-acetylgucosaminidase 102 kDa (CHIT102) của Trichoderma được cảm ứng
đầu tiên. Ngay sau đó ( khoảng 12 gờ sau khi tiếp xúc) thì hoạt động của CHIT102 bị suy
giảm nhanh chóng đồng thời với sự cảm ứng tạo ra nhiều enzyme β-1,4-N-
acetylgucosaminidase kDa (CHIT73). Hiện tượng này sẽ không xảy ra nếu sợi nấm của S.
rolfsii khử trùng trước khi bổ sung vào môi trường ủ với .T. harzianum.
Để nhận biết hiệu ứng của quá trình ký sinh, Inbar và Chet dã sử dụng hệ thống
biomimetic, gắn lectin tinh sạch từ S.rolfsii lên sợi nylon. Khi Trichoderma phát triển trên
những sợi nylon được phủ lectin, hoạt tính của CHIT102 tăng nhanh hơn so với nuôi trên môi
trường sợi nylon không gắn lectin. Điều lưu tâm ở đây là hệ thống biomimetic tuyệt đối
không có sự hiện diện của chitin, kết quả này cho thấy cảm ứng CHIT102 ở Trichoderma
trong quá trình đối kháng xảy ra rất sớm. [62]
b. Sự đối kháng giữa T. harzianum và nấm bệnh R. solani.
Xem xét sự phức tạp trong tương tác in vivo giữa nấm ký sinh và ký chủ của nó trên
vùng rễ của thực vật hoặc ở trong đất. Phương pháp phân tích tương tác kép (dual –
interaction assay) là phương pháp khả thi nhất để nghiên cứu các đặc tính sinh hóa của nấm
ký sinh. Flores đã sử dụng phương pháp này để nghiên cứu sự biểu hiện của gen protease
(pbr1) ở T. harzianum trong quá trình tương tác giữa T. harzianum và R.solani. Ông nhận
thấy rằng, nồng độ mRNA của gen pbr1 tăng khi sự tương tác xảy ra. Carsolio nghiên cứu sự
biểu hiện của CHIT42 ở T. harzianum IMI 206040 trong suốt thí nghiệm nghiên cứu sự ký
sinh trực tiếp của nó trên R.solani và ông nhận thấy sự biểu hiện của CHIT42 được cảm ứng
mạnh mẽ trong suốt quá trình tương tác đối kháng. Trong quá trình đối kháng giữa T.
harzianum và R.solani; CHIT102 cũng là enzyme được cảm ứng đầu tiên. Tuy nhiên khoảng
12 giờ sau khi tiếp xúc hoạt tính của CHIT102 không hề suy giảm mà còn tiếp ục gia tăng,
đồng thời 3 loại endochitinase là CHIT52, CHIT42 và CHIT33 cũng được cảm ứng. Thời
gian sau đó, hoạt tính của CHIT102 mới bắt đầu giảm dần trong khi hoạt tính của CHIT52,
CHIT42, CHIT33 dần dần gia tăng [37]
1.3.3.7 Những hợp chất kháng nấm của các chủng trichoderma.
gliotoxin (C13H14N2S2O4): là chất kháng sinh từ nấm T. viride Gliotoxin không bền và
dễ bị phân hủy nhanh chóng trong ánh sang, phổ kháng sinh của gliotoxin bao gồm vi khuẩn
(chủ yếu vi khuẩn gram dương) và các nấm gây bệnh hoạt tính kháng sinh của gliotoxin liên
quan đến sự có mặt của phân tử lưu huỳnh trong cấu tạo của chúng.
Viridin (C9H16O6): ngoài gliotoxin, người ta còn tách được chất kháng sinh Viridin
(sắc tố vàng), chúng có khả năng ức chế một số loài nấm gây bệnh như Fusarium coeruleum,
Botrytis alli, Penicillium notatum.
Một số chất kháng sinh khác
- Theo Dennis và Webster (1971) [40], T. Viride có khả năng tiết trichodermin, T.
hamatum tạo ra các polypeptide có bản chất kháng sinh.
- Okuda (1982) cho rằng nhiều loài Trichoderma spp tiết isonitrile có bản chất kháng sinh.
- Trichozianine là kháng sinh có hoạt tính kháng nấm được phát hiện nhiều ở loài T.
harzianum. Trichozianine kết hợp với những enzyme thủy phân vách trong quá trình ức chế
sự nảy mầm và kéo dài tơ nấm trong quá trình ký sinh nấm [79]
- Trichothecene từ T. harzianum cũng có hoạt tính kháng nấm (Corley et al.1994).
- Tricholin là protein bất hoạt ribosome do T. viride tiết ra, chúng làm giảm sự hình thành
chuỗi polysome ở nấm bệnh Rhizoctonia solani [70]
- Claydon (1987) [30] xác định được chất alkylpyrons dễ bay hơi do T. harzianum ức chế
nấm R. solani gây bệnh héo rũ trên cải trong điều kiện in vitro.
1.3.3 Ứng dụng của vi nấm Trichoderma
1.3.3.1 Trong nông nghiệp
a. Bảo vệ thực vật [12,28]
Trichoderma spp hiện diện khắp nơi trong đất và trên các loài cây gỗ vừa bị đốn ngã là
một bằng chứng thể hiện tính cạnh tranh mạnh mẽ của chúng, mặt khác với đặc tính ký sinh
trên một số nấm gây bệnh thực vật, các nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra những kết quả
thuyết phục về khả năng đối kháng nấm của Trichoderma spp thông qua hoạt động ký sinh
nấm.
Một số bênh do nấm liên quan đến các bộ phận của cây dưới mặt đất (rễ) rất khó trị
bằng phương pháp hóa học truyền thống, vì không thể tác động toàn bộ hệ rễ bằng thuốc diệt
nấm. Trichoderma spp là tác nhân đối kháng tự nhiên của các nấm gây bệnh trong đất và
được ứng dụng làm tác nhân kiểm soát sinh học thành công trong nhà kính và ngoài đồng
ruộng, chúng là những ký sinh rất hữu hiệu trên nhiều loài nấm gây bệnh khác nhau như:
Phytophthora spp, Rhizoctonia solani, Pythium spp, Sclerotium rolfsii.
Năm 1993, Harman và Hayes thử nghiệm dung hợp tế bào trần nhằm tạo ra chủng có
khả năng kiểm soát bệnh hữu hiệu. Một số nhà khoa học khác tập trung vào cải biến một số
đặc tính liên quan đến các hoạt động đối kháng như tạo chủng đột biến sinh enzyme mạnh
hơn để tăng hiệu quả đối kháng.
Một số loài Trichoderma được sử dụng phổ biến trong kiểm soát sinh học là T.
koningii, T. harzianum; T. viride, T.hamatum. T. harzianum có thể dùng kết hợp với những
chủng Trichoderma khác hoặc dùng dưới dạng phân bón vi sinh.
Hiện nay trên thế giới đã có một số chế phẩm được thương mại hóa như: [15]
• TRICHODEX (tác nhân chính có T. harzianum)
• BINAB-T (tác nhân chính bao gồm T. harzianum và T. polysporum) của Thụy
Điển.
• TRI 002, TRI 003 (chủng T. harzianum) của Hà Lan.
• T22 Planter Box (đây là chủng dung hợp protoblast T. harzianum) của Hoa Kỳ.
• Trichopel, Trichoject, Trichodowels, Trichoseal (tác nhân chính là T. harzianum
và T. viride) của Úc.
b. Cải thiện năng suất cây trồng
Vài loài Trichoderma có khả năng kích thích sự nảy mầm và sự ra hoa. Đã có nhiều
công trình khoa học chứng minh rằng T. harzianum và T. koningii kích thích sự nảy mầm và
tăng trưởng của cây. Đối với các loại được trồng trong nhà kính, T. harzianum đẩy nhanh sự
ra hoa bằng cách rút ngắn ngày ra hoa hay tăng số lượng hoa.
Trichoderma đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của cy trồng nhờ khả năng giúp cây trồng
tạo ra hệ rễ cứng cáp hơn. Một nghiên cứu gần đây còn cho biết nếu bắp T. harzianum T-22
hỗ sinh ở rễ thì cần lượng phân đạm ít hơn 40% so với rễ không có T -22.
Trichoderma cải thiện cấu trúc và thành phần của đất, đẩy mạnh sự phát triển của vi
sinh vật nốt sần cố định nito trong đất, duy trì sự can bằng của các vi sinh vật hữu ích trong
đất, bảo toàn và tăng độ phì nhiêu, dinh dưỡng cho cây trồng.
Tăng sức đề kháng của cây trồng, một số chủng T. harzianum còn có thể xâm nhập
vào mô bào cây, làm tăng tính chống chịu bệnh của cây trồng.
Như vậy, các chúng nấm Trichoderma spp trong các chế phẩm phân hữu cơ vi sinh
không những cung cấp một nguồn phân bón an toàn, hiệu quả mà còn giúp kiềm chế các bệnh
gây hại cây trồng và taoh được những ổ sinh thái phòng bệnh lâu dài trong tự nhiên. Những
loài Trichoderma được dùng phổ biến trong kiểm soát sinh học là T. harzianum, T. koningii,
T. viride, T. hamatum và T. polysporum.
1.3.3.2 Trong lĩnh vực xử lý môi trường [47]
T.harzianum có khả năng phân hủy các chất gây ô nhiễm trong đất rừng.
T.harzianum đã chứng tỏ khả năng phân giải hiệu quả của chúng trên ciliatin,
glycophosphat và amino methylphosphat acid (3-methoxyphenyl).
T.harzianum 2023 (Khoa sinh lý hực vật Trường Đại học California) có thể phân giải
DDT, endosulfan, pentachloronitrobenzen và pentachlorophenol.
T.harzianum CCT-4790 phân giải 60% thuốc diệt cỏ Duirion trong đất trong 24 giờ,
đây là một tiềm năng tốt để xử lý sinh học các hóa chất ô nhiễm trog đất và trong đầm lầy.
1.3.3.3 Trong công nghệ thực phẩm [11]
Enzyme của chủng Trichoderma longibrachiatum đã được khảo sát và cho thấy có thể
làm tăng hương vị của men rượu. Đồng thời, các loại glucanase và glucosidase được tiết ra
bởi chủng này có khả năng thủy phân liên kết glycoside, do đó đã thủ giải các liên kết
glycoside-terpen phóng thích terpen, tạo mùi thơm đặ trưng.
Bột lúa mì để sản xuất bánh mì thường chứa đầy đủ hàm lượng β – amylase nhưng lại
thiếu α – amylase nhất định. α – amylase có thể lấy từ lúa đại mạch nảy mầm (malt), vi
khuaane hay nấm. Trong đó nấm là nguồn α – amylase phong phú và tốt nhất. Người ta đã
chuyển gen α – amylase ở nấm Trichoderma vào nấm men bánh mỳ dưới sự kiểm soát của
promoter ACT1. Bánh mỳ tạo ra có kích thước lớn hơn trước và ruột bánh mì cũng mềm hơn,
chậm cứng hơn làm tăng thời gin bảo quản.
Ngoài ra trong công nghiệp sản xuất dầu olive, có sử dụng cellulose và hemicelulase
chiết từ Trichoderma trộn với pectinase chiết tách từ Aspergillus, điều này đã làm tăng sản
lượng dầu sản xuất ra một cách rõ rệt, đồng thời chất lượng dầu cũng được cải thiện so với
phương pháp sản xuất dầu truyền thống.
1.3.3.4 Bổ sung thức ăn cho gia súc
Hiện nay tren thị trường có chế phẩm EconaseTM với các enzyme có nguồn gốc từ
Trichoderma reesei bổ sung vào thức ăn của gia cầm có các ưu điểm sau:
• Thành phần chất dinh dưỡng linh động hơn.
• Sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ tiền hơn
• Dễ tiêu hóa hơn
• Làm tăng giá trị năng lượng thật của các loại ngũ cốc
• Các gia cầm tăng trưởng đồng dạng
• Giúp tăng trọng tốt hơn
• Trứng gia cầm sach sẽ hơn
• Tăng màu lòng đỏ trứng gà
• Giảm lượng rác thải ra môi trường
Bên cạnh đó, chế phẩm AvizymeTM cũng có những ưu điểm tương tự như EconaseTM
phù hợp cho gà trong giai đoạn đẻ trứng. PorzymeTM là thương hiệu của một hỗn hợp các
enzyme cellulose, hemicellulase, protease. Amylase bổ sung vào khẩu phần ăn của lợn con
vừa thôi bú. Tất cả các enzyme này đều có nguồn gốc từ Trichoderma.
1.3.3.5 Nguồn gen để sử dụng trong chuyển gen [12]
Nhiều vi sinh vật kiểm soát sinh học đều có chứa một số lượng lớn gen mã hóa các snr
phẩm có hoạt tính cần thiết sử dụng trong kiểm soát sinh học. Nhiều gen có nguồn gốc
Trichoderma đã được tạo dòng và có tiềm năng ứng dụng rất lớn trong chuyển gen để tạo ra
cây có khả năng kháng được nhiều bệnh. Chưa có một gen nào được thương mại hóa tuy
nhien hiện có nhiều gen của Trichoderma được nghiên cứu và phát triển.
1.1.11. 1.3.3.6 Tình hình nghiên cứu và khả năng ứng dụng Trichoderma spp ở Việt
Nam
Ở nước ta, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu ứng dụng vi nấm Trichodema:
theo báo cáo của Trần Thị Thuần ( Bộ môn nghiên cứu bệnh cây – Viện bảo vệ thực vật
(1995)), ghi nhận bước đầu thành công khi sử dụng một số chủng Trichoderma phân lập được
trong đất, nhằm hạn chế bệnh khô vằn hại bắp do nấm Rhizoctonia gây ra.
Gần đây (2001), TS. Hoàng Quốc Khánh (phòng vi snh ứng dụng – Viện sinh học
nhiệt đới) thử nghiệm thành công trên diện rộng chế phẩm BIOPROMOT (bao gồm 2 chủng
giống T. harzianum và T. Koningii) trên hai loài cây cà chua và cải, chế phẩm dùng để xử lý
đất nhằm hạn chế bệnh và kích thích cây tăng trưởng.
Năm 2005, Đinh Minh Hiệp và cộng sự bước đầu đã hoàn tất việc khảo sát sự phân bố
của các chủng nấm Trichoderma tại Thành Phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Đồng thời nhóm nghiên cứu này cũng đã có những nghiên cứu sâu về hoạt tính đôi kháng của
vi nấm Trichoderma đã phân lập đối với các loài nấm gây bệnh cây trồng phổ biến như
Sclerotium rolfsii, Rhizoctonia solani, Phytophthora primulae và thử nghiệm ứng dụng chế
phẩm Trichoderma tại một số nơi như xã Bầu Lâm (huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu), trạm bảo vệ thực vật Long Khánh…đã thu được một số kết quả bước đầu khá tốt.
Các kết quả nghiên cứu của trường đại học cần thơ, Viện Nghiên cứu lúa Đồng bằng
Sông Cửu Long, Công ty Thuốc sat trùng Việt Nam, Viện Sinh học nhiệt đới đã cho thấy hiệu
quả rất rõ ràng của nấm Trichoderma trên một số cay trồng ở phí nam. Các nghiên cứu cho
thấy nấm Trichoderma có khả năng tiêu diệt nấm Furasium solani (gây bênh thối rễ trên cam
quýt, bệnh vàng lá chết chậm trên tiêu) hay một số loài nấm gây bênh khác như Sclerotium
rolfsii, Fusarium Oxysporum, Rhizoctonia solani. Công dụng thứ 2 của nấm Trichderma là
khả năng phân hủy cellulose, hòa tan lân chậm tan. Lợi dụng đặc tính này người ta đã phối
trộn Trichoderma vào quá trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh, để thúc đẩy quá trình phân hủy
hữu cơ được nhanh chóng. Các sản phẩm hữu cơ sinh học có ứng dụng kết quả nghiên cứu
mới này hiện có trên thị trường như loại phân Cugasa của Công ty Anh Việt (TP. Hồ Chí
Minh), phân VK của Công Ty Viễn Khang (Đồng Nai) dã được nông dân các vùng trồng rau,
cây ăn trái, cây tiêu, cây điều, hoan nghênh và ứng dụng hiệu quả.