chinh sach ngoai thuong cua khoi eu va quan he voi viet nam
DESCRIPTION
Bo mon Kinh Te Doi NgoaiTRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
TIỂU LUẬN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Đề tài:
CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG, TÌNH HÌNH KINH TẾ KHỐI EU VÀ QUAN
HỆ VỚI VIỆT NAM
Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Lớp: 06DQN
Giảng viên: Th.S Cao Minh Trí
TP.HỒ CHÍ MINH 2/2009
1
Danh sách nhóm 3:
1. Trần Thị Ngọc Hà
2. Trương Thị Tường Vi
3. Ngô Cẩm Tú
4. Lâm Thị Hồng
5. Dương Ái Phương
6. Nguyễn Thị Thúy
7. Nguyễn Thị Xuân
8. Nguyễn Thị Kim Long.
9. Lương Hồ Xuân Hương
10. Lê Kim Liên
11. Lê Trọng Hiếu
12. Trần Văn Minh
13. Trần Ngọc Minh
14. Trần Vũ Mai Phương
15. Nguyễn Thị Thanh
Thuận
16. Cao Quốc Thắng.
2
Mục lục
I. Quá trình hình thành của EU (1 - 8)
II. Chính sách ngoại thương của EU (8 – 26)
Chính sách thương mại, các định chế, quy định và các yêu cầu của EU
III. Tình hình kinh tế của EU (26 – 36)
IV.Quan hệ Việt Nam và EU
1. Thực trạng (35-38)
2. Những cơ sở vàng (38-39)
3. Bối cảnh mới, quan hệ mới (39-41)
4. Mối quan hệ giữa VN với 1 số nước EU (41-47)
5. Mối quan hệ giữa VN với EU thể hiện ở 1 số lĩnh vực (47-51)
a) Lĩnh vực đầu tư (47-49)
b) Văn hóa – Giáo dục (49)
c) Lĩnh vực năng lượng (49)
d) Về môi trường(49-50)
e) Dự Án MUTRAP (50-51)
V. Chính sách của EU đối với VN (51-53)
1 GSP
2 Hiệp định PCA
3 Thuế quan
VI. Tình hình xuất nhập khẩu EU_ VN (53-62)
1
VII. Swot
a) Điểm mạnh (63-66)
b) Điểm yếu (66-69)
c) Cơ hội (69-70)
d) Thách thức (70-73)
VIII. Kiến nghị và đề xuất (73-75)
VII. Phụ lục
1. Xuất khẩu da giày vào EU suy giảm lợi thế giá
2. Từ 1-1-2009, EU chính thức “loại” giày da Việt Nam ra khỏi GSP
3. Suy thoái kinh tế sẽ gây những khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam sang EU
trong năm 2009
4. Những khó khăn của VN khi thâm nhập thị trường EU
2
Lời mở đầu
Trong những những năm gần đây nền kinh tế nước ta phát triển và đạt nhiều
thành tựu đáng kể, điển hình là Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới WTO. Việc là thành viên của WTO cho nước ta nhiều cơ hội
cũng như thách thức, đặc biệt là ở thị trường khó tính như EU.
EU là một trong những thị trường xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp Việt Nam
bên cạnh thị trường Mỹ, Nhật. Để có thể kinh doanh thành công tại thị trường khó
tính này doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu rõ những chính sách ngoại thương
của EU.
Vì vậy chúng tôi nghiên cứu trình bày về chính sách ngoại thương ,tình hình thương
mại quốc tế của EU & quan hệ với Việt Nam
I. Qúa trình hình thành của EU:
Ngày nay, EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, là một trong ba
trung tâm lớn nhất trong nền kinh tế thế giới (Hoa Kỳ, Nhật và EU) với GDP năm 1998
đạt 8.482 tỷ USD, chiếm 19,8% GDP toàn cầu, năm 2000 đạt 9.050 (khoảng 20% toàn
cầu), và năm 2001 đạt 9.315 tỷ USD. GDP tính theo đầu người năm 1995 là 23.089 USD/
người, năm 2000 đạt trên 24.000 USD, đồng thời EU cũng là Trung tâm Thương mại Tài
chính khổng lồ với đồng.
Là một tổ chức liên chính phủ của các nước châu Âu. Từ 6 thành viên ban đầu,
hiện nay có 27 quốc gia thành viên. Liên minh được thành lập với tên gọi hiện nay theo
Hiệp ước về Liên minh châu Âu năm 1992, thường gọi là Hiệp ước Maastricht. Tuy
nhiên, nhiều phương diện của Liên minh châu Âu đã có từ trước, kể từ thập niên 1950,
thông qua một loạt các tổ chức tiền thân.
Lịch sử của Liên minh châu Âu bắt đầu từ chiến tranh thế giới thứ II. Ý tưởng về hội
nhập châu Âu đã được nhận thức sẽ giúp ngăn chặn việc giết chóc và phá hủy không xảy
ra nữa. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman là người đã nêu ra ý tưởng và đề
xuất lần đầu tiên trong một bài phát biểu nổi tiếng ngày 9 tháng 5 năm 1950. Cũng chính
3
ngày này hiện nay được coi là ngày thành lập của EU và được kỉ niệm hàng năm là Ngày
châu Âu. Ban đầu, EU bao gồm 6 quốc gia thành viên là:Bỉ, Đức, Italia, Luxembourg,
Pháp, Hà Lan . Năm 1973, tăng lên thành gồm 9 quốc gia thành viên. Năm 1981, tăng lên
thành 10. Năm 1986, tăng lên thành 12. Năm 1995, tăng lên thành 15. Năm 2004, tăng
lên thành 25. Năm 2007 tăng lên thành 27.
Liên minh châu Âu (EU) có trụ sở đặt tại thủ đô Brussels của Bỉ. Trước ngày 1
tháng 11 năm 1993 tổ chức này được gọi là Cộng đồng Châu Âu (EC).
Sau đây là danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo năm
gia nhập:
1957: Bỉ, Đức, Italy, Luxembourg, Pháp, Hà Lan
1973: Đan Mạch, Ireland, Anh
1981: Hy Lạp
1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển
Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia,
Malta, Cộng hòa Síp
Ngày 1/1/2007: Romania, Bulgaria.
Vẫn còn 22 quốc gia gồm Albania, Andorra, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Bosnia &
Herzegovina, Croatia, Grugia, Iceland, Liechtenstein, Macedonia, Moldova, Monaco,
Montenegro, Na Uy, Nga, San Marino, Serbia, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sĩ, Ukraina, và Vatican
chưa gia nhập Liên minh châu Âu.
Hiện nay, EU có diện tích là 4.422.773 km² với dân số là 492,9 triệu người (2006) ;
với tổng GDP là 11.6 nghìn tỉ euro (~15.7 nghìn tỉ USD) trong năm 2007. Hầu hết các
quốc gia châu Âu đều đang là thành viên của Liên minh châu Âu.
Ngày nay, EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, là một trong ba trung tâm
lớn nhất trong nền kinh tế thế giới (Hoa Kỳ, Nhật và EU) với GDP năm 1998 đạt 8.482 tỷ
USD, chiếm 19,8% GDP toàn cầu, năm 2000 đạt 9.050 (khoảng 20% toàn cầu), và năm
2001 đạt 9.315 tỷ USD. GDP tính theo đầu người năm 1995 là 23.089 USD/ người, năm
2000 đạt trên 24.000 USD, đồng thời EU cũng là Trung tâm Thương mại Tài chính
khổng lồ với đồng.
4
Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành của EU là bản “Tuyên bố Schuman” của Bộ
trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09 tháng 05 năm 1950 với đề nghị đặt
toàn bộ nền sản xuất gang thép của Cộng hoà liên bang Đức và Pháp dưới một cơ quan
quyền lực chung, trong một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác cùng tham gia.
Sau đó, Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC), một tổ chức tiền thân
của EU ngày nay được ký kết. Từ đó đến nay, sự liên kết giữa các quốc gia châu Âu đã
không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với đỉnh cao là một Liên minh
châu Âu như chúng ta thấy ngày nay và trong tương lai có thể sẽ đạt tới cấp độ liên kết
cao hơn. Nhìn lại hơn 50 năm hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu, có thể
thấy quá trình này gắn liến với các hiệp ước chủ yếu sau đây (từ năm 1951 đến nay):
- Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng Than – Thép châu Âu (ECSC)
được ký ngày 18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức, Italy, Bỉ, Hà
Lan và Luxembourg
- Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu
(EURATOM) và Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày 25/31957 với
sự nhất trí của 6 nước thành viên ECSC.
- Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu (EC) được ký ngày 08/04/1965
giữa các nước của 3 nước Cộng đồng này dưới tên gọi: Cộng đồng châu Âu.
- Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu được ký ngày 07/2/1992
tại Maastricht – Hà Lan, với sự nhất trí hoàn toàn của nguyên thu quốc gia các
nước thành viên (lúc này, số thành viên của EC là 12 nước bao gồm: Pháp, Đức,
Bỉ, Italy, Hà Lan, Luxembourg, Anh, Đan mạch, Ailen, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và
Tây Ban Nha) nhằm thành lập một “không gian châu Âu” thống nhất về kinh tế,
chính trị, an ninh, quốc phòng và các chính sách về xã hội.
- Hiệp ước Amsterdam được ký vào ngày 2/10/1997 bởi các nguyên thủ của
15 nước thành viên (năm 1995 EU đã kết nạp thêm 3 nước thành viên nữa là:
Thuỵ Điển, Phần Lan, Áo). hiệp ước này được hình thành trên cơ sở sửa đổi hiệp
ước Maastricht nhằm đưa những cố gắng của EU trong việc xây dựng một liên
minh kinh tế - tiền tệ (EMU) trở thành hiện thực.
- Hiệp ước Nice (7-11/12/2000) được tập trung vào các vấn đề cải cách thể
chế để đón nhận các thành viên mới5
- Như vậy, từ ECSC đến EU hiện nay là cả một quá trình phát triển phức tạp
với các hình thức liên kết kinh tế quốc tế được phát triển chặt chẽ, toàn diện và
hoàn toàn mới về vật chất. Và cho đến nay, sau nhiều nỗ lực thiết thực của EU,
tiến trình nhất thể hoá châu Âu đã đạt được các kết quả rất khả quan trên nhiều
lĩnh vực.
II. Chính sách ngoại thương của EU
Thị trường EU gồm hầu hết các nước châu Âu với gần 4 triệu km2 và 456
triệu dân có thu nhập cao. GDP gần 11.000 tỉ USD chiếm 27% GDP thế giới.
Tổng ngạch ngoại thương gần 1.400 tỉ USD chiếm gần 20% thương mại toàn
cầu. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp,
bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng.
Nếu tính cả mậu dịch nội khối thì tổng ngạch mậu dịch là 3.092 tỷ chiếm
hơn 41% thị phần thế giới. EU đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ chiếm
khoảng 43% thị phần, gấp 2,5 lần Mỹ. Đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% FDI
toàn cầu và nhận 20% đầu tư từ bên ngoài.
EU là thị trường mở, mang tính cạnh tranh rất cao đồng thời yêu cầu cao về
chất lượng hang, vễ sinh môi trường, nhãn mác, bao bì…Khung pháp lý về thị
trường đã được mở hoàn toàn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam ngoài việc tiếp
tục được hưởng ưu đãi GSP. Tuy vậy, để có thể tiếp cận thị trường EU, các
doanh nghiệp cần hiểu rõ chính sách thương mại, các định chế, quy định và các
yêu cầu sau đây:
1. Liên minh châu Âu đang cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế và luật
pháp cho phù hợp với tình hình mới. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại
của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu
dùng. EU trợ cấp sản xuất nông nghiệp trong khối đồng thời đánh thuế cao và áp
dụng hạn ngạch đối với một số nông sản nhập khẩu như gạo, đường, chuối, sắn
lát.v.v...Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được
thực hiện nghiêm ngặt.
2. Bên cạnh cam kết với các nước thành viên WTO, EU ký nhiều hiệp định
thương mại và các hiệp định ưu đãi khu vực và song phương và dành chế độ MFN
toàn phần cho sản phẩm nhập khẩu từ Ôxtrâylia, Canađa, Đài Loan, Hồng Kông, 6
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, NiuZealand, Hoa Kì và các hiệp định ngành
hàng song phương khác.
3. Bên cạnh các cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ WTO về nông
nghiệp, EU duy trì hạn ngạch áp dụng thuế quan đối với một số sản phẩm, giảm
dần trị giá và số lượng các sản phẩm được trợ cấp xuất khẩu. Trong một số lĩnh
vực dịch vụ, EU đã có cam kết cụ thể thực hiện theo lịch trình chung của GATs,
kể cả lĩnh vực viễn thông cơ bản, tài chính và dịch vụ nghe nhìn.
4. EU áp dụng Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) dành cho 143 quốc
gia và 36 vùng lãnh thổ, trong đó các nước chậm phát triển nhất được ưu đãi nhiều
hơn theo sáng kiến “Mọi sản trừ vũ khí-EBA”
5. EU áp dụng nhiều biện pháp tác động trực tiếp đến nhập khẩu vào lãnh
thổ mình như thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ, thuế quan, thuế gián tiếp, giấy
phép, biện pháp tự vệ, quy tắc và tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, chống bán phá
giá…
6. Tất cả các nước thành viên EU phải áp dụng chính sách ngoại thương
chung đối với ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu là người đại diện duy nhất cho Liên
minh trong đàm phán, ký các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong
lĩnh vực này.
7. Chính sách ngoại thương của EU gồm chính sách thương mại tự trị và
chính sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công
bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn
ngạch, chống bán phá giá, hàng rào kĩ thuật, trợ cấp xuất khẩu
8. EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá dưới hình thức đẩy
mạnh tự do hoá thương mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá XNK và tiến
tới xoá bỏ hạn ngạch, GSP). Hiện nay, 25 nước thành viên EU áp dụng một biểu
thuế quan chung đối với hàng hoá XNK. Đối với hàng nhập khẩu, mức thuế trung
bình đánh vào hàng nông sản là 18%, hàng công nghiệp là 2%
9. Chính sách ngoại thương của EU từ 1951 đến nay phân thành những
nhóm chủ yếu sau: chóm chính sách khuyến khích xuất khẩu, nhóm chính sách
thay thế nhập khẩu, nhóm chính sách tự do hoá thương mại, nhóm chính sách hạn 7
chế xuất khẩu tự nguyện. Việc ban hành tình hình phát triển kinh tế, tiến trình nhất
thể chế hóa châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ của các sản phẩm
của Liên minh trên thị trường thế giới. Ngoài ra EU còn có quy chế nhập khẩu
chung.
10. Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện các
biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả. EU đã
ban hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu dưới
hình thức bán phá giá” để đấu tranh với những trở ngại trong buôn bán với các
nước ngoài khối. Ví dụ, đánh thuế 30% đối với những sản phẩm điện tử của Hàn
Quốc và Singapore, nhôm của Nga và xe hơi của Nhật Bản, giày dép của Trung
Quốc, đánh thuế 50% -100% đối với các xí nghiệp sản xuất camera truyền hình
của Nhật Bản.. Trong khi đó, các biện pháp chống hàng giả của EU cho phép ngăn
chặn không cho nhập khẩu những hàng hóa được sản xuất do sao chép, đánh cấp
bản quyền.
11. Chính sách ngoại thương của EU biểu hiện trong việc áp dụng một số
chính sách và công cụ đặc biệt, tiêu biểu là biểu thuế quan chung và chính sách
chống bán phá giá
12. Biểu thuế quan chung (CCT – Common Custom Tariff) của Liên
minh châu Âu.
EU áp dụng biểu thuế quan chung (CCT) chủ yếu đối với các mặt hàng
công nghiệp. Đây là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại của Liên minh.
Các thành phần của CCT bao gồm danh mục các mặt hàng tính thuế, các
quy định về cách tính thuế, miễn hoặc giảm thuế, xuất xứ hàng hoá. Các mức thuế
quan được xây dựng trên cơ sở lấy bình quân các mức thuế áp dụng với từng mặt
hàng kể từ ngày 1/1/1957 ở 6 nước của EEC khi mới thành lập là Pháp, Tây Đức,
Italy, và Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg). Theo cách tính này thì phần
lớn các mức thuế của Pháp và Italy phải giảm đi, còn các mức thuế ở Đức và
Luxembourg được tăng lên. Trong quá trình xây dựng, CCT được chia thành ba
giai đoạn và kết thúc vào năm 1968, sớm hơn so với thời hạn dự kiến 2 năm.
Hiệp ước Roma có quy định điều khoản theo đó các thành viên EC luôn
sẵn sàng đàm phán nhằm cắt giảm các mức thuế quan chung. Những thoả thuận về 8
những cắt giảm như vậy đã đạt được trong khuôn khổ một loạt các vòng đàm phán
Dillon (1961-1962), mức CCT bình quân được giảm từ 25% vào năm 1958 xuống
còn 11,7% vào năm 1963. Còn kết quả đạt được sau vòng đàm phán Kennedy là
các mức thuế quan được cắt giảm trung bình đối với Hoa Kỳ là 32% và với Anh là
35%. Do có những thoả thuận cắt giảm như vậy cho nên đến tháng 1/1972, mức
trung bình của CCT chỉ còn là 8,1% giảm đi 35% so với mức ban đầu, 12% và
11,5%. Một khi đã xây dựng được các mức CCT thì các nước thành viên phải có
nghĩa vụ áp dụng chúng theo một cách thức thống nhất. Điều này liên quan đến
danh mục các mặt hàng, thủ tục tính thuế và các quy định về xuất xứ hàng hoá kết
hợp với việc thực hiện GSP.
Đặc biệt khi làm rõ đặc điểm trong chính sách ngoại thương EU, cần phải
nghiên cứu biểu thuế quan có liên quan đến xuất xứ của hàng hoá theo quy định
của liên minh. Xuất xứ hàng hoá của EU được quy định cụ thể như sau:
- Đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước hưởng
GSP như: khoáng sản, động thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh hải và các hàng
hoá sản xuất từ các sản phẩm đó xem là có xuất xứ và được hưởng GSP.
- Đối với các sản phẩm sản xuất tại nước hưởng GSP ( tính theo giá xuất
xưởng) phải đạt 60% tổng giá trị hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm
hàng thì hàm lượng này thấp hơn. EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và công đoạn gia
công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng tạo thấp hơn 60%
(điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh không dưới 40%: đồ trang trí làm từ kim loại không
dưới 30%; giày dép chỉ được hưởng GSP nếu các bộ phận như: mũi, đế, ở dạng rời
sản xuất trong nước hưởng GSP hoặc nhập khẩu;..)
EU còn quy định xuất xứ cộng gộp, đây là quy định về xuất xứ mà theo
đó hàng của một nước có thành phần xuất xứ từ một nước trong cùng một tổ chức
khu vực cũng được hưởng GSP thì các thành phần đó cũng được xem là có xuất
xứ từ nước liên quan. Thí dụ, Việt Nam xuất khẩu sang EU một mặt hàng trong đó
thành phần xuất xứ của Việt Nam chiếm 29% giá trị, còn lại 15% giá trị nhập khẩu
của Indonesia, 10% của Thái lan, 15% của Singapone. Xuất xứ cộng gộp của hàng
Việt Nam sẽ là: 20%+15%+10% = 60%. Mặt hàng này lẽ ra không được hưởng
GSP (vì hàm lượng giá trị của Việt Nam chưa được 50%), nhưng nhờ cộng gộp 9
(60%) nên đã đủ điều kiện hưởng GSP. Đây là đặc điểm về xuất xứ của EU mà
các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý và vận dụng.
13. Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của Liên minh châu Âu.
Chế độ GSP là một biện pháp đẩy mạnh thương mại của EU đối với các
nước đang phát triển và chậm phát triển (trong đó có Việt Nam) với mục đích giúp
cho hàng hoá của các nước này tăng khả năng thâm nhập vào thị trường EU thông
qua một số những ưu đãi thuế quan nhất định, từ đó thúc đẩy kinh tế của các nước
này phát triển. Chế độ GSP được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tự nguyện,
không đòi hỏi có đi có lại, đơn phương quyết định. Chương trình này đã được Hội
đồng châu Âu thông qua quy chế áp dụng cho từng thời kỳ: 1971 -1980, 1981-
1990, 1991-1994, 1994-2005. Trong 8 năm trở lại đây, chương trình ưu đãi thuế
quan 4 năm (1995-1998) đối với các sản phẩm công nghiệp nhất định có nguồn
gốc từ các nước đang phát triển; (2) Quy định số 1256/96 ngày 20/6/1996 về việc
áp dụng một chương trình ưu đãi thuế quan trong 4 năm (1996-1999) đối với một
số sản phẩm nông nghiệp có nguồn gốc từ các nước đang phát triển: (3) Quy định
số 2820 ngày 21/12/1998 về việc áp dụng một chương trình ưu đãi thuế quan trọng
3 năm (1999-2001) đối với tất cả các sản phẩm có xuất xứ các nước đang phát
triển.
Hiện nay, EU vẫn đang áp dụng chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập
cho thời kỳ từ 1/7/1999 đến 31/12/2001. Theo chương trình này, EU chia ra các
sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm với mức thuế khác nhau dựa trên mức
độ nhạy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước xuất khẩu và
những văn bản thoả thuận đã ký kết giữa hai bên. Bốn nhóm sản phẩm của các
nước đang phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU là:
+ Nhóm 1- Sản phẩm rất nhạy cảm: bao gồm phần lớn là nông sản và một số
ít sản phảm công nghiệp tiêu dùng như: chuối tươi, chuối khô, dứa tưới, dứa hộp,
(lượng đường không quá 17% trọng lượng), quần áo may sẵn, nguyên liệu thuốc
lá, lụa tơ tằm,.. được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế xuất MFN. Đây là
nhóm mặt hàng EU hạn chế nhập khẩu.
+ Nhóm 2- Sản phẩm nhạy cảm: chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, hoá chất,
nguyên liệu, hàng thủ công (gạch lát nền và đồ sứ), gày dép, hàng điện tử dân 10
dụng, xe đạp, ô tô, đồ chơi trẻ em…được hưởng mức thế GSP bằng 70% thuế suất
MFN. Đây là nhóm mạt hàmg mà EU không khuyến khích nhập khẩu.
+ Nhóm 3- Sản phẩm án nhạy cảm: bao gồm phần lớn thuỷ sản đông lạnh
(tôm, cua, mực đông lạnh, cá tươi ướp lạnh) một số nguyên liệu và hoá chất, hàng
công nghiệp dân dụng (máy điều hoà, máy giặt, tủ lạnh)..được hưởng mức thuế
suất GSP bằng 35% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích
nhập khẩu.
+ Nhóm 4 - Sản phẩm không nhạy cảm: chủ yếu là một số loại thực phẩm, đồ
uống, (nước khoáng, bia, rượu), nguyên liệu (than đá, dầu thô, cao su..), nông sản
(dừa cả vỏ, hạt điều)..được hưởng mức thuế GSP bằng 0% đến 10% thuế suất
MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu.
Mỗi nhóm hàng trên gồm nhiều mặt hàng chịu các mức thuế suất khác
nhau trong phạm vi giới hạn của GSP giai đoạn 1/7/1999 đến 31/12/2001. Đến
cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt giai đoạn của chương trình GSP và xoá bỏ hạn
ngạch đối với hàng dệt may của các nước là thành viên WTO còn đối với những
nước không phải là thành viên của WTO thì chưa có chính sách cụ thể. Cho đến
nay, EU vẫn chưa đưa ra chương trình thực hiện GSP cho thời kỳ từ 2005 trở đi,
nhưng họ đang tiến từng bước giảm thuế quan và giảm ưu đãi GSP.
Trong tương lai, tới một thời điểm nhất định, hàng xuất khẩu của các
nước đang phát triển khi xâm nhập vào thị trường EU sẽ không được hưởng GSP
nữa và phải cạnh tranh bình đẳng với hàng của các nước phát triển, chịu cùng một
mức thuế như hàng của những nước này và không được hưởng các ưu đãi khác.
Như vậy, đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU
thời kỳ 2005 -2010 sẽ xảy ra hai khả năng: thứ nhất, có thể hàng xuất khẩu của
Việt Nam vào EU không phải chịu hạn ngạch hoặc phải chịu hạn ngạch nhưng vẫn
được hưởng GSP. Cho dù xảy ra trường hợp nào thì giai đoạn 2001-2010 có khả
năng sẽ rất khó khăn và nhiều thách thức đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường EU.
Các biện pháp khuyến khích trong GSP của EU so với ưu đãi mà cá nước
và khu vực khác dành chó các nước đang phát triển vào loại thấp nhất. Có lẽ vì thế
đã tồn tại trong hệ thống GSP của EU quy định khuyến khích tăng thêm mức ưu 11
đãi 10%, 20%o Cho 35% đối với hàng nông sản và 15% 25% 35% đối với hàng
nông sản và của EU bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/1999 thì những trường hợp
sau được hưởng ưu đãi thêm:
+ Bảo vệ quyền của người lao động: nước hưởng GSP cần chứng minh trong
các văn bản pháp quy của mình có các quy định về các tiêu chuẩn áp dụng các
nguyên tắc về tổ chức, đàm phán tập thể và tuổi lao động tối thiểu.
+ Bảo vệ môi trường: các văn bản pháp quy của nước hưởng GSP phải có các
quy định cụ thể áp các tiêu chuẩn của OIBT về bảo vệ môi trường.
14. Chính sách chống bán phá giá.
Các quy định về chống bán phá giá của EU được đưa ra từ những ngày
đầu thành lập và được xây dựng trên cơ sở điều khoản của WTO, EU chỉ được áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp các ngành công nghiệp
của EU bị tổn hại do việc nhập khẩu các sản phẩm phá giá. Đây là những sản
phẩm được bán trên thị trường nội địa với mức giá “thông thường”. Tuy nhiên,
việc so sánh các mức giá này thường gặp khó khăn. Cách tính giá “thông thường”
của EU dựa vào chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận cận biên. Vấn đề là mức lợi
nhuận như thế nào mới được coi là thích hợp. Xu hướng của EU là tính mức lợi
nhuận cao, có khi tới 30%.
Các quy định chống bán phá giá của EU được xác định trong Quy chế
chống phá giá có hiệu lực từ năm 1995 và sau đó được cập nhật bằng quy chế
384/96 có hiệu lực từ ngày 6/3/1996. Quy chế mới lồng ghép tất cả các biện pháp
được thoả thuận tại vòng đàm phán Urugoay của GATT. Quy chế chống phá giá
năm 1996 quy định việc áp dụng thuế chống bán phá giá và chỉ được áp dụng thuế
này trong các đìều kiện:
+ Có phát hiện bán phá giá: giá xuất khẩu của sản phẩm trên thị trường EU
thấp hơn giá bán tại thị trường của nhà xuất khẩu.
+ Có tổn hại vật chất cho doanh nghiệp của EU; hàng nhập khẩu gây ra hoặc
đe doạ gây tổn thất cho phần lớn ngành kinh doanh EU.
+ Lợi ích của EU: chi phí mà EU bỏ ra để thực hiện các biện pháp không
được tỉ lệ ngịch với lợi ích thu được.
12
Sau khi các mức giá xuất khẩu và giá thông thường đã được xác định thì
chúng được so sánh với nhau để xác định mức phá giá. Luật pháp của EU cho
phép thực hiện điều chỉnh đối với các mức chênh lệch liên quan đến công dụng
của các sản phẩm, thuế nhập khẩu, các loại thuế gián tiếp, các chi phí bán hàng
như vận chuyển vận chuyển và tiền trả hoa hồng. Tuy nhiên, EU bị phê phán là
không tính đến nhưng mức khác biệt lớn hơn về sản lượng bán ra trên thị trường
nội địa hoặc về hoạt động Marketing khi bán hàng. Phương pháp so sánh các mức
giá của EU cũng bị phê phán (đặc biệt từ phía Nhật Bản) vì các chi phí bán không
được tính đến trên thị trường EU nhưng lại được tính đến trên thị trường nội địa,
dẫn đến làm tăng thêm mức chênh lệch giá.
Khi mức bán phá giá được tính đến trên thị trường đó có làm tổn hại đến
ngành sản xuất nội địa hay không. Mức độ gây tổn hại thường được đo bằng các
chỉ số như lợi nhuận công suất hoạt động và thị phần. Quá trình này cần đến việc
thu nhập và xử lý một lượng thông tin lớn về kinh tế, tài chính và thương mại.
Sau khi xác định được mức bán phá giá và mức độ tổn hại đối với các
ngành sản xuất nội địa, EU áp dụng các mức thuế chống phá giá hoặc chấp nhận
đề nghị từ phía người xuất khẩu lên. Thông thường, các bên không nên áp dụng
đặt mức thuế chống phá giá ở mức tối đa nếu như điều này không cần thiết cho
việc ngăn chặn tổn hại do bán phá giá gây ra. EU thường tính toán ở mức độ tổn
thất và áp đặt mức thuế đúng bằng mức đó . Về nguyên tắc, các biện pháp chống
bán phá giá thường là các mức thuế tính theo giá trị. Tuy nhiên, đối với những mặt
hàng đồng nhất như nguyên liệu, nông sản thì thuế tính theo số lượng thường được
áp dụng. Trong trường hợp mức thuế áp dụng vượt quá mức phá giá thì khoản
chênh lệch sẽ phải được hoàn trả cho nhà xuất khẩu.
15. Các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Liên minh châu
Âu
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng
được bảo vệ nghiêm ngặt, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển.
Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm
ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng
thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua những quy 13
định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm
được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu, v.v.. các tổ
chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định
chuẩn Quốc gia hoặc châu Âu. Hiện nay, ở EU có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ ban
châu Âu về định chuẩn, Uỷ ban châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện Định chuẩn
viễn thông châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này với
điều kiện phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung của EU, các luật và định chuẩn
quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản phẩm được sản xuất từ các
nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt được mức an toàn ngang với tiêu chuẩn
của EU. Quy chế bảo đảm an toàn của EU đối với một số loại sản phẩm tiêu dùng
biểu hiện cụ thể như sau:
+ Các sản phẩm thực phẩm, đồ uống đóng gói sản phẩm phải ghi rõ tên sản
phẩm, nhãn mác, danh mục thành phẩm, thành phần, trọng lượng tịnh, thời gian sử
dụng, cách sử dụng, địa chỉ của nước sản xuất hoặc nơi bán, nơi sản xuất, các điều
kiện đặc biệt để bảo quản, để chuẩn bị sử dụng hoặc các thao tác bằng tay, mã số
và mã vạch để dễ nhận dạng lô hàng.
+ Các loại thốc men đều phải được kiểm tra chặt chẽ, phải đăng ký và được
các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia thuộc EU cho phép trước khi sản
phẩm được bán ra trên thị trường EU. Giữa các cơ quan có thẩm quyền này và Uỷ
ban châu Âu về định chuẩn thiết lập một hệ thống thông tin trao đổi tức thời, có
khả năng nhanh chóng thu hồi bất cứ loại thuốc nào có tác dụng phụ đang được
bán trên thị trường.
+ Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống nhất về mã hiệu cho biết
các loại sợi cấu thành nên loại vải hay lụa được bán ra trên thị trường EU. Bất cứ
loại vải hay lụa nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay nhiều loại sợi mà trong các
loại ấy chiếm tối thiểu 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu có thể đề tên của
loại sợi đó kèm theo tỷ lệ về trọng lượng hoặc đề tên của loại sợi đó kèm tỷ lệ tối
thiểu 85%, hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm. Nếu sản phẩm gồm hai hoặc
nhiều loại sợi mà không loại sợi nào đạt tỷ lệ 85% tổng trọng lượng thì trên mã
hiệu ít nhất cũng phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan trọng nhất, kèm theo tên các
loại sợi khác đã được sử dụng. Nếu các sản phẩm không ghi đúng như vậy thì 14
không được bán trên thị trường bất cứ nước EU nào. EU ngày nay được xem như
là một “đại quốc gia” ở châu Âu chính sách thương mại chung của EU cũng giống
như chính sách thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách thương mại
nội khối và chính sách ngoại thương. Chính sách thương mại nội khối tập trung
vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm
soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan (xoá bỏa các hàng rào thuế
quan và phi quan thuế) để tự do lưu thông hàng hoá, sức lao động, dịch vụ, vốn và
điều hoà các chính sách ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối. Uỷ ban
châu Âu (EC) là người đai diện duy nhất cho Liên minh trong việc đàm phán, ký
kết các hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. Hiện nay,
15 nước thành viên EU cùng áp dụng một biểu thuế quan và hệ thống quy chế
nhập khẩu chung.
Như vậy, tác động của những công cụ chính sách đối với các công cụ
trong chính sách ngoại thương của EU. Các biện pháp này được áp dụng một cách
tương xứng đối với sản xuất của toàn bộ cộng đồng, bất chấp có tình trạng dư thừa
hay thiếu hụt. Thuế linh hoạt sẽ có tác dụng hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có
tình trạng dư thừa. Các mức thuế quan bảo hộ này có thể biến động mạnh từ năm
này sang năm khác vì chúng phụ thuộc trực tiếp vào giá cả thế giới.
Nói một cách chung nhất, tác động trực tiếp của chính sách bảo hộ nói
trên là đem lại lợi ích cho nhà sản xuất, còn người tiêu dùng của EU thì bị đánh
thuế. Tuy nhiên, sự bảo hộ như vậy chỉ là bề ngoài vì nó phụ thuộc không chỉ vào
các mức thuế linh hoạt và các chính sách, công cụ khác. Đây chỉ là hình thức bảo
hộ danh nghĩa vì các mức thuế linh hoạt và các chính sách, công cụ khác còn phụ
thuộc vào các yếu tổ tiền tệ tỷ giá hối đoái nữa. Do các mức giá nói trên được tính
bằng EURO trong khi giá thế gới nhìn chung lại được tính bằng USD, nên khi
USD lên giá so với EURO thì các mức đó sẽ giảm xuống hoặc ngược lại. Có chế
giá cả và kiểm soát đối với từng sản phẩm cũng có tác động đến quan hệ thương
mại với các nước ngoài EU. Lý do là vì cơ chế này ảnh hưởng không chỉ tới nhu
cầu nhập khẩu và lượng hàng hoá dành cho xuất khẩu. Do các cơ chế kiểm soát
nói trên làm mức giá nội địa cao hơn mức giá trên thị trường thế giới cho nên sản
xuất có xu hướng gia tăng, và tiêu dùng có xu hướng giảm sút. Kết quả là nhập 15
khẩu của EU có xu hướng giảm trong mức cung xuất tăng lên. Tuy mức giá chung
cao hơn mức giá thế giới. Nhưng nhập khẩu lại có xu hướng giảm sút vì tác dụng
của các mức thuế quan linh hoạt, còn xuất khẩu được khuyến khích bởi cơ chế tài
chính, thuế quan. Nên có khuynh hướng tăng lên.
16. Hàng rào phi quan thuế của Liên minh châu Âu
Hạn ngạch (Quota): là một công cụ được EU sử dụng để hạn chế số
lượng hoặc giá trị một số mặt hàng nhập khẩu vào EU và phân bổ theo hạn ngạch
theo chương trình hỗ trợ các nước đang phát triển trong khung khổ của GSP.
Những hạn ngạch này nằm cho quy chế 519/94 (của khối EU cũ) áp dụng cho một
số nước chưa phải là thành viên của WTO. Tuy nhiên, sau khi gia nhập WTO,
những hạn chế về định lượng được thoả thuận là phải dỡ bỏ vào năm 2005. Hiện
nay, một số mặt hàng của Việt Nam như hàng dệt may, một số loại thuỷ sản xuất
khẩu sang thị trường EU cũng phải chịu sự quản lý bằng hạn ngạch.
Hàng rào kỹ thuật: rào cản kỹ thuật chính là quy mô chế nhập khẩu
chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU, được cụ thể hoá
ở 5 tiêu chuẩn bắt buộc của sản phẩm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh
thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và
tiêu chuẩn về lao động. Những mặt hàng xuất khẩu như hải sản, nông sản thực
phẩm và dược liệu của Việt Nam phải thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu này của
EU. Năm tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm nhập khẩu vào thị trường EU cụ
thể như sau:
+Tiêu chuẩn chất lượng: Hệ thống quản lý ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt
buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU. Có thể
coi ISO 9000 như một “ngôn ngữ” xác định cam kết cung ứng sản phẩm có chất
lượng đáng tin cậy cũng như “phương tiện thâm nhập” vào thị trường EU mà các
doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý và thực hiện.
+Tiêu chuẩn 2: tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm. Về phương diện này, EU đòi
hỏi các doanh nghiệp chế biến hàng thực phẩm xuất khẩu sang EU phải tuân thủ
các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Đặc biệt việc áp dụng hệ thống HACCP (Hazard
Analysis Critical Control Point) trong các xí nghiệp chế biến hải sản là một yêu
cầu không thể thiếu. HACCP là hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các trọng 16
yếu áp dụng cho các doanh nghiệp trực phẩm và các ngành có liên quan (chăm
nuôi, trồng trọt) Hệ thống này có tính bắt buộc với các công ty nước ngoài. Nhưng
từ ngày 1/1/1993, EU đã ra một văn bản hướng dẫn nhập khẩu hàng thuỷ sản nêu
rõ: “Các điều khoản áp dụng cho nhập khẩu thuỷ sản từ nước thứ 3 phải tương
đương với hàng lưu thông trong EU”. Như vậy, một cách gián tiếp cơ chế này đã
bắt buộc các nhà xuất khẩu nước ngoài phải tuân thủ các nguyên tắc HACCP khi
muốn thâm nhập vào thị trường EU. Các công ty chế biến thực phẩm của Việt
Nam phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Về phương diện này, việc áp
dụng hệ thống HACCP là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bắt buộc đối với
các xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu
sản phẩm vào thị trường EU.
+Tiêu chuẩn 3: tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng EU đã thông qua những
quy định về độ an toàn chung của sản phẩm hay các định chuẩn. Hiện nay, ở EU
có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ ban châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện định chuẩn
viễn thông của châu Âu chịu trách nhiệm đưa ra các quy chế định chuẩn. Theo hệ
thống quy chế này, ký mã hiệu là quan trọng số một trong lưu thông hàng hoá trên
thị trường EU và được quy định rất nghiêm ngặt, cụ thể đối với một số nhóm hàng
của nước ta như sau:
+ Các loại thuốc mem đều phải được kiểm tra, đăng ký và phải được các cơ
quan thẩm quyền của các quốc gia thuộc EU cho phép trước khi được bán ra trên
thị trường. Giữa các cơ quan thẩm quyền này và uỷ ban châu Âu về định chuẩn
thiết lập một hệ thống thông tin trao đổi tức thời có khả năng nhanh chóng thu hồi
bất cứ loại thuốc nào có tác dụng phụ đang được bán trên thị trường.
+ Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống thống nhất về mã hiệu cho
biết các loại sợi cấu thành nên loại vải hay lụa được bán trên thị trường.
+Tiêu chuẩn 4: tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Thị trường EU yêu cầu các
hàng hoá có liên quan đến môi trường phải dán nhãn sinh thái (ecolabels) hoặc
nhãn tái sinh theo quy định. Ngoài ra, các nhà sản xuất còn phải đảm bảo tuân thủ
hệ thống quản lý môi trường ISO 14000. Đây là bộ tiêu chuẩn được xây dựng trên
cơ sở các thoả thuận quốc tế, đem đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi
trường và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan như đánh giá môi trường, phân 17
tích chu kỳ sống của sản phẩm. Nhằm cải thiện môi trường một cách liên tục tại
các tổ chức cơ sở. Như vậy, thị trường EU yêu cầu hàng hoá có liên quan đến môi
trường phải dán nhãn theo quy định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và có chứng chỉ
được quốc tế công nhận, nên các doanh nghiệp Việt Nam cần có ý thức tôn trọng.
Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (Good agrricultural Practice) và các nhãn hiệu sinh thái
(Ecolabels) đang ngày càng phổ biến, chứng tỏ các cấp độ kách nhau về môi
trường tốt. Ngoài ra, các công ty ngày càng được yêu cầu phải tuân thủ hệ thống
quản lý môi trường (các tiêu chuẩn The social Accountability 8000 sẽ ngày càng
trở nên quan trọng trong những năm tới.
+Tiêu chuẩn 5: tiêu chuẩn về lao động EU cấm nhập khẩu những hàng hoá
mà quá trình sản xuất doanh nghiệp sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng
bức nào như được xác định trong Hiệp ước Geneva (25/9/1926 và 7/9/1956) và
các Hiệp ước lao động quốc tế số 29 và 105. Uỷ ban châu Âu (EC) tiền thân của
EU có quyền đình chỉ hoạt động của các xí nghiệp này sử dụng lao động cưỡng
bức và cấm nhập khẩu những hàng hoá mà quá trình sản xuất sử dụng bất kỳ một
hình thức lao động cưỡng bức nào như được xác định trong các Hiệp ước Geneva
ngày 25/9/1926 và 7/92956 và các Hiệp ước Lao động quốc tế số 29 và 105. Ví
dụ, các hình thức lao động cưỡng bức bị cấm khi doanh nghiệp sử dụng để sản
xuất hàng hoá nhập khẩu như: lao động tù nhân, lao động trẻ em, v..vv...
Các công cụ hành chính khác nhằm quản lý nhập khẩu: hiện nay để
đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại và để khắc phục với những trở
ngại trong buốn bán với thế giới thứ ba, EU còn ban hành chính sách chống bán
phá giá (anti – dumping), chống trợ cấp xuất khẩu và áp dụng thuế “chống xuất
khẩu bán phá giá”. Trong khi đó, các biện pháp chống hàng giả của EU lại cho
phép ngăn chặn không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền. và
trên cơ sở các chỉ tiêu nhân đạo và bảo vệ môi trường, EU cũng cấm nhập khẩu
lông thú động vật bị gãy bằng các dụng cụ đúc bằng thép từ (1/121979).
+Ngoài những công cụ hành chính quản lý nhập khẩu, EU còn phân biệt hai
nhóm nước: nhóm áp dụng cơ chế kinh tế thị trường (nhóm I) và nhóm có nền
thương nghiệp quốc doanh (nhóm II). (trong đó có Việt Nam) chịu sự quản lý chặt
và thường phải xin phép trước khi nhập khẩu vào thị trường EU. Đây là một sự 18
phân biệt đối xử bất lợi cho hàng Việt Nam xuất khẩu sang EU trong suốt một thời
gian dài. Cho đến ngày 14/5/2000, EU mới chính thức “công nhận Việt Nam áp
dụng kinh tế thị trường”.
+Qua đây có thể thấy chính sách thương mại nói chung và chế độ quản lý
nhập khẩu nói riêng của EU là rất phức tạp. Do đó, việc thu nhập và phổ biến
thông tin về thị trường này đến các nhà sản xuất của Việt Nam là việc làm cần có
tầm quan trọng hàng đầu đối với chúng ta hiện nay. Theo cách tính toán của
UNCTAD ( Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại phát triển), do thiếu thông tin
và không hiểu rõ các quy định về thủ tục của EU, Việt Nam hiện nay chỉ sử dụng
được khoảng 48% các ưu đãi của EU trong chế độ GSP.
+EU sử dụng “rào cản kỹ thuật” là biện pháp chủ yếu để đảm bảo hộ sản xuất
và tiêu dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần. Hơn nữa,
các nước đang phát triển được EU cho hưởng thuế quan ưu đãi GSP. Bởi vậy, yếu
tố có tính quyết định việc hàng của các nước này có thâm nhập vào được thị
trường EU hay không chính là hàng hoá đó có vượt qua được rào cản kỹ thuật của
EU hay không.
+EU là thị trường đòi hỏi yêu cầu chất lượng cao, điều kiện thương mại
nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU nổi tiếng khó tính về
mẫu mốt, thị hiếu. Khác với Việt Nam, nơi giá cả có vai trò quyết định trong vịêc
mua hàng, đối với phần lớn người châu âu thì “thời trang” là một trong những yếu
tố quyết định. Chỉ khi các yếu tố chất lượng, thời trang và giá cả hấp dẫn thì sản
phẩm mới có cơ hội bán được ở châu Âu. Việc nhiều nước châu âu khác, đặc biệt
là Trung Quốc, với tiềm năng xuất khẩu lớn và đã có nhiều kinh nghiệm có mặt ở
thị trường EU là một khó khăn lớn đối với Việt Nam khi thâm nhập thi trường
này. Ngày nay, EU là một thị trường mở có quy mô lớn đối với các nhà đầu tư và
các sản phẩm nước ngoài. Do đó, nó là một thị trường mang tính cạnh tranh rất lớn
vì lượng hàng nhập khẩu rất nhiều. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trên
thị trường này đang bị sức ép rất mạnh của Trung Quốc (giày dép, dệt may, hàng
điện tử, đồ chơi, thủ công mỹ nghệ), hàng Indonesia (dệt may, giày dép,..). Phần
lớn hàng của các đối thủ cạnh tranh có ưu thế hơn hàng của Việt Nam về chất
lượng, giá cả và nguồn cung cấp ổn định. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị 19
trường EU thì không còn cách nào khác là chúng ta phải chiến thắng trong cạnh
tranh, đánh bại các đối thủ chiếm lĩnh thị trường. Để làm được việc đó, hàng xuất
khẩu Việt nam phải phù hợp với thị hiếu tiêu dùng và đáp ứng tốt 5 tiêu chuẩn của
sản phẩm (chất lượng, vệ sinh thực phẩm, an toàn cho người sử dụng, bảo vệ môi
trường và lao động). Ngay từ lúc này, chúng ta cần phải thực hiện việc cải tiến sản
xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, đa dạng hoá và sản xuất sản phẩm theo thị
hiếu tiêu dùng trên thị trường EU.
(Nguồn: Giải pháp đẩy mạnh XK hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Châu Âu –
PGS. TS Vũ Chí Lộc)
III. Tình hình kinh tế của EU
Trải qua không ít những thăng trầm trong gần một nửa cuối thế kỷ XX, giờ
đây châu Âu đang dần lấy lại vị trí “ trung tâm thế giới” của mình. Đặc biệt,
trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước EU đã thực sự khẳng định được vị thế là một
trung tâm kinh tế hùng mạnh của thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể
và tương đối ổn định. Tăng trưởng GDP của EU trong năm 1996 là 1,6%, năm
1997 là 2,5%, năm 1988 là 2,7%, năm 1999 là 2,0%, và cho đến năm 2000 thì cả
châu Âu “thở phào nhẹ nhõm”với tốc độ tăng GDP là 3%, cao nhất từ cuối thập
ký 80 cho tới năm cuối cùng của thế kỷ XX. Năm 1988 khi cơn bão tả chính làm
nghiêng ngả nền kinh tế thế giới thì EU – khu vực ít bị ảnh hưởng nhất của
khủng hoảng – vẫn tiếp tục quá trình phát triển kinh tế của mình. Theo các nhà
kinh tế, sự ổn định kinh tế của EU được xem là một trong những nhân tố chính
giúp cho nền kinh tế thế giới tránh được nguy cơ suy thoái toàn cầu. Năm 1999
tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế của EU có chiều hướng giảm do sự sụt giá của
đồng Euro và sản xuất công nghiệp giảm sút. Nhưng chỉ với riêng sự suy giảm
này cũng chưa thể đưa ra một kết luận tiêu cực về nền kinh tế EU, bởi ngày cả
khi tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại, lạm phát của EU trong năm 1999 vẫn
ở mức 1,1%- mức thấp chưa từng có trong lịch sử, tỉ lệ thất nghiệp giảm lần đầu
tiên trong thập kỷ 90 từ hơn 10% xuống còn 9,4% trong năm 1999 và thâm hụt
ngân sách của các nước thành viên cũng ở mức thấp: 0,5% - 0,7% GDP. Tình
hình kinh tế EU trong năm 1999 đã được cải thiện và phát triển tích cực. Năm
20
2000, GDP của EU cao hơn năm 1999 gần 1,1%, tăng trưởng tốc độ 3% các năm
2001-2002 do tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp (cuộc chiến chống
khủng bố của Hoa Kỳ - Anh phát động ở Afganixtan, chiến tranh chống Iraq) đã
tạo nguy cơ chưa từng có chia rẽ nội bộ EU và ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế
châu Âu. Khoảng cách giữa các quốc gia trong khối ngày càng thu hẹp. Trong số
các quốc gia thuộc EU thì các nước nhỏ Bắc Âu tỏ ra tiến mạnh nhất, nước Đức
khổng lồ thường bị tụt hậu trong mấy năm gần đây cũng đã bắt kịp với tốc độ
tăng trưởng kinh tế chung của cả khối. Chỉ có Italy, mặc dù hơi yếu về khả năng
cạnh tranh cũng đã vươn lên với tốc độ tăng trưởng 2,6 % trong năm 2000, tuy
nhiên vẫn bị coi là mức thấp nhất trong khối. Theo uỷ ban châu Âu, kinh tế EU
vẫn đang phát triển khả quan. Các chuyên gia kinh tế của IMF (Quỹ tiền tệ quốc
tế) và OECD (Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế) cũng rất lạc quan vào sự
tiếp tục phát triển kinh tế của EU bởi Ngân hàng trung ương châu Âu tiếp tục
kiểm soát chặt chẽ mức cấp tiền và duy trì mức lãi xuất khá ổn định ở mức 4,5%.
Theo dự báo của OECD, trong năm 2003, tốc độ tăng trưởng kinh tế EU vẫn sẽ
ổn định ở mức trên dưới 2,6%, tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm đáng kể từ 8,8% năm
2003. Các nhà kinh tế cho rằng “EU tăng trưởng chậm nhưng chắc” và vẫn tin
tưởng khẳng định xu hướng đi lên của kinh tế EU trong những năm tới 2010 và
tầm nhìn tới 2020.
(Giải pháp đẩy mạnh XK hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Châu Âu
– PGS. TS Vũ Chí Lộc)
Tại phiên họp các nước thành viên của Liên minh châu Âu (EU) diễn ra
tại Brussels (Bỉ)(17/02), các nước thành viên trong EU cùng nhau thống
nhất một quan điểm đó là từ bỏ “chủ nghĩa bảo hộ” và cùng nhau liên
minh đối chọi với khủng hoảng tài chính.
Chủ tịch luân phiên của EU đồng thời là Thủ tướng của Cộng hòa Séc -
Mirek Topolánek cho hay, đối mặt với khủng hoảng là nhiệm vụ được
ưu tiên hàng đầu của EU, các nước thành viên của EU là đang là những
người “cùng thuyền”, vì vậy liêm minh để giải quyết vấn đề là không có
gì khác lạ.
21
Theo ông Topolánek hội nghị thượng đỉnh của EU vào ngày 01/03 tới sẽ
tiếp tục thảo luận về vấn đề này, như làm thế nào để có thể đương đầu
với khủng hoảng, các vấn đề với tài sản xấu, khuyến khích các tổ chức
kinh tế cung cấp những khoản tiền cứu trợ.
Theo nhận định của các chuyên gia, nội bộ EU cùng thống nhất một
quan điểm, hiện tại để có thể giải quyết vấn đề kinh tế thì các nước
trong liên minh cần phải có những biện pháp giải quyết thống nhất.
Chủ nghĩa bảo hộ cũng chỉ là vũ khí “hủy diệt” đi những điểm mạnh
của thị trường đơn nhất của EU, và nó có thể tạo ra những hậu quả rất
“nguy hiểm”.
Ông Topolánek nhấn mạnh, ông luôn đợi chờ các thành viên của EU
nhanh chóng đưa ra quyết định thống nhất từ các chính sách nông
nghiệp như trợ cấp nông nghiệp của EU, điển hình là kế hoạch chi ra 5
tỷ EURO từ chính sách dự trù nông nghiệp, bên cạnh đó cũng tập trung
hỗ trợ ngành năng lượng và mở rộng cơ sở hạ tầng.
Một vài thành viên trong phiên họp cũng cho biết, tình hình khủng
hoảng kinh tế hiện tại là một trải nghiệm “gan góc” đối với kinh tế EU,
một khu vực EU đoàn kết mới có thể ứng phó một cách có hiệu quả với
khủng hoảng
(www.hptrade.com.vn/news/hoso/200711150825001976)
Trong tháng 9/2008, thâm hụt thương mại của EU với các nước ngoài
khối là 23 tỉ Euro, tăng 38,5% so với tháng 9/2007 (16,6 tỉ Euro). So với
tháng 8/2008, xuất khẩu của EU trong tháng 9/2008 tăng 1,7% và nhập
khẩu tăng 0,2%.
Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2008, trao đổi thương mại của EU
với hầu hết các đối tác lớn đều tăng so với cùng kỳ năm 2007. Mức tăng
lớn nhất về xuất khẩu là sang thị trường Nga (24%) và Brazil (23%).
Mức tăng nhập khẩu lớn nhất là từ Na Uy (31%) và Nga (30%). Trong
khi đó, kim ngạch xuất khẩu của EU sang Mỹ giảm 5%, sang Nhật Bản
22
giảm 4% so với cùng kỳ năm 2007, trong khi mức nhập khẩu từ Hàn
Quốc giảm 8% và từ Nhật Bản giảm 4%.
(nguồn: bản tin Eurostat ngày 17/11/2008)
(http://vn.euvietnam.com/bizcenter/0/Số-liệu-thương-mại-của-EU-tính-đến-
1-9-2008/34/448)
Trong năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính đã có những tác động mạnh đến nền
kinh tế EU. Theo số liệu của Eurostat (Cơ quan thống kê của EU), GDP của cả
khu vực đồng Euro và toàn khối EU trong quý III/2008 đều giảm 0,2%. Tăng
trưởng GDP của EU nhiều khả năng chỉ đạt hơn 1% trong năm 2008.
Khủng hoảng tài chính đã khiến hàng loạt ngân hàng tại châu Âu lâm vào cảnh
vỡ nợ. Chính phủ các nước phải chi hàng trăm tỉ USD để mua lại cổ phần của các ngân
hàng cũng như tăng tính thanh khoản cho thị trường tiền tệ. Tình hình tiếp tục có
những diễn biến phức tạp vào các tháng cuối năm, khi nguy cơ lạm phát đã cơ bản
được đẩy lùi thì EU lại chuyển sang rơi vào nguy cơ suy thoái kinh tế (một số nước
như Ý, Tây Ban Nha, Đức đã chính thức bị suy thoái) cũng như sự suy giảm trong các
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
Để đối phó với tình hình này, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và một
số ngân hàng quốc gia thành viên đã liên tục hạ lãi suất cơ bản, lần gần đây nhất là vào
ngày 4/12, với các mức cắt giảm mạnh mẽ
Bên cạnh đó, ngày 11 và 12/12, tại kỳ họp thượng đỉnh cuối cùng trong năm
2008 của Hội đồng châu Âu, các nước EU đã nhất trí thông qua gói kế hoạch trị giá
200 tỉ Euro (tương đương gần 260 tỉ USD) với các mục tiêu kích thích tiêu dùng và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn khối. Từng nước thành viên EU cũng đã công bố
những kế hoạch cứu nguy nền kinh tế của riêng mình trị giá hàng chục tỉ USD.
Về phần mình, Uỷ ban châu Âu (EC) cũng vừa công bố một kế hoạch trị giá 5 tỉ
Euro (tương đương 6,4 tỉ USD) từ ngân sách chung của khối để nâng cao khả năng
cạnh tranh của các nền kinh tế thành viên EU thông qua đẩy mạnh đầu tư cho ngành
năng lượng và hệ thống Internet. Các chuyên gia kinh tế EU cho rằng, đầu tư nhiều
hơn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm các lĩnh vực: khí đốt, điện và Internet băng
23
thông rộng sẽ giúp châu Âu đảm bảo an ninh năng lượng và nâng cao khả năng cạnh
trạnh cho nền kinh tế các quốc gia thành viên trong môi trường kinh tế khắc nghiệt như
hiện nay.
Trao đổi thương mại của EU với một số đối tác lớn tính đến hết tháng 9/2008 (nguồn:
Eurostat, đơn vị tính: tỉ Euro)
EU xuất khẩu
EU nhập khẩu
Cán cân
Mỹ
189,2
140,1
+ 49,1
Nga
79,5
136,6
- 57,1
Nhật Bản
31,9
57,5
- 25,6
Hàn Quốc
20,0
29,1
- 9,1
Trung Quốc
59,1
179,6
- 120,5
Thế giới
988,3
1.178,6
- 190,3
(Nguồn: Thương Vụ Việt Nam tại Bỉ và EU)
Trong năm 2008, một đặc điểm đáng chú ý là EU tăng cường đẩy mạnh việc thực
hiện các biện pháp môi trường, gắn liền với các quy định mới liên quan mật thiết
đến thương mại. Từ 1/12/2008, Luật Hoá chất (REACH) đã bắt đầu được thực
hiện: các hóa chất không được đăng ký hoặc đăng ký thất bại trong giai đoạn tiền
đăng ký trước đó, sẽ không được sử dụng để sản xuất sản phẩm xuất sang thị
trường EU. Các sản phẩm có chứa hóa chất chưa được đăng ký trước 1/12/2008 sẽ
phải trải qua một quá trình đăng ký chi tiết và kéo dài trước khi được phép nhập
khẩu vào EU.
24
Theo số liệu của Eurostat (hiện chỉ có số liệu chi tiết đến tháng 9/2008), t ính
chung trong 9 tháng đầu năm 2008, trao đổi thương mại của EU với hầu hết các
đối tác lớn đều tăng so với cùng kỳ năm 2007. Mức tăng lớn nhất về xuất khẩu là
sang thị trường (27%) và Nga (25%). Mức tăng nhập khẩu lớn nhất là từ Nga
(31%) và Na Uy (29%). Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu của EU sang Mỹ và
Nhật Bản đều giảm 3%, nhập khẩu từ Hàn Quốc giảm 6% và từ Nhật Bản giảm
2% so với cùng kỳ năm 2007.
Cũng trong 9 tháng đầu năm 2008, EU tiếp tục xuất siêu sang thị trường Mỹ,
nhưng giá trị giảm 17% so với cùng kỳ năm 2007 (49,1 tỉ Euro so với 59,2 tỉ
Euro). Với thị trường Thụy Sỹ, mức xuất siêu của EU tăng khoảng 18,3% (13,6 tỉ
Euro so với 11,5 tỉ Euro). Trong khi đó, mức thâm hụt thương mại với thị trường
Nga tăng khá mạnh, hơn 40% (57,1 tỉ Euro so với 40,6 tỉ Euro), với Na Uy là
62,3% (37,5 tỉ Euro so với 23,1 tỉ Euro) và với Trung quốc là 3,2% (120,5 tỉ Euro
so với 116,7 tỉ Euro). Tuy nhiên, thâm hụt thương mại của EU gần như không thay
đổi đối với Nhật Bản (25,6 tỉ Euro so với 25,7 tỉ Euro) và giảm 29% đối với thị
trường Hàn Quốc (9,1 tỉ Euro so với 12,8 tỉ Euro).
Tính riêng từng nước thành viên, trong 9 tháng đầu năm 2008, các nước xuất siêu
lớn nhất lần lượt là Đức (142,3 tỉ Euro), Hà Lan (31,9 tỉ Euro) và (20,2 tỉ Euro).
Ngược lại, các nước nhập siêu lớn nhất là Anh (91,7 tỉ Euro), Tây Ban Nha (72,2
tỉ Euro), Pháp (50,2 tỉ Euro), Hy Lạp (27,3 tỉ Euro).
(http://vn.euvietnam.com/bizcenter/0/Tổng-quan-về-kinh-tế-và-thương-mại-của-EU-
năm-2008/34/440)
Số liệu nhập khẩu của EU một số mặt hàng có kim ngạch và thị phần lớn từ Việt
Nam
TT Mã 8 số Tên hàng
Nhập
từ Việt
Nam
Quý
I/2007
Nhập từ
Việt Nam
Quý I/2008
Tổng
nhập
của
EU
Tỷ trọng
nhập từ
Việt Nam
của EU Trị so với
Quý
25
giá I/2007
(%)
Quý
I/2008
Quý I/2008
1 40012200 Cao su tự nhiên TSNR 20,65 19,1 -7,5% 242,3 7,8%
2 62019300 Áo khoác có mũ, áo phông, áo
gió và và các sản phẩm tương tự…
(trừ loại đan hoặc thêu, vest, áo
jacket, áo cộc tay và quần…) nam
giới
17,9 16,9 -5,6% 165 10,5%
3 62029300 Áo khoác có mũ, áo phông,
áo gió và và các sản phẩm tương
tự…(trừ loại đan hoặc thêu, vest,
áo jacket, áo cộc tay và quần…)
nữ giới
13,6 14,5 +6,6% 158,6 9%
4 64021900 Giày thể thao có đế ngoài và mũi
bằng cao su hoặc nhựa…
16,3 16,7 +2,4% 65,4 25,5%
26
5 64029993 Giày (dép) không phân biệt nam
nữ,có mũi nhựa, đế ngoài nhựa
hoặc cao su,
độ dài đế trong > = 24 cm…
21,55 19,3 -10% 84 23%
6 64029998 Giày (dép) nữ đế ngoài cao su
hoặc nhựa, mũi nhựa, đế trong
dài > = 24 cm…
42,9 40,9 -4,6% 282,5 14,5%
7 64029939 Giày (dép) mũ nhựa, đế ngoài
cao su hoặc nhựa…
28,9 26,9 -7% 148 18%
8 64039991 Giày có đế ngoài cao su, nhựa hoặc
da tổng hợp, mũ da …
29 27,5 -5% 115,5 23,8%
9 64039993 Giày (dép) không phân biệt nam
nữ, đề ngoài cao su, nhựa
hoặc da tổng hợp, mũ da,
độ dài đế trong > = 24 cm…
45 42,5 -5,5% 159 26,7%
10 64039996 Giày (dép), đề ngoài cao su,
nhựa hoặc da tổng hợp, mũ da
(không ôm mắt cá chân),
độ dài đế trong > = 24 cm… cho
nam giới
58,8 60,45 +2,8% 350 17,2%
11 64039998 Giày (dép), đề ngoài cao su,
nhựa hoặc da tổng hợp, mũ da
54,8 64,6 +18% 402 16%
27
(không ôm mắt cá chân), độ dài
đế trong > = 24 cm… cho nữ giới
12 64041100 Giày thể thao các loại (tennis,
bóng rổ, thể dục…), đế ngoài
cao su hoặc nhựa, mũ bằng chất
liệu dệt
59,2 51 -13,8% 202,3525,2%
13 64041990 Giày đế ngoài cao su hoặc nhựa,
mũ bằng chất liệu dệt (trừ loại đi
trong nhà, giày thể thao các loại)
83,5 93,2 +11,6% 435 21,4%
14 64016900 Ghế khung gỗ (trừ loại có bọc) 76,55 75,4 -1,5% 204 37%
15 94036010 Đồ nội thất cho phòng ăn và
phòng khách (trừ ghế)
23,8 27,4 +15% 340,4 8%
16 94036090 Đồ nội thất gỗ (trừ loại dùng cho
VP hoặc cửa hàng, bếp, phòng
ăn, phòng khách, phòng ngủ và
các loại ghế)
74,2 93,5 +26% 443 21,1%
(http://vn.euvietnam.com/bizcenter/0/Số-liệu-nhập-khẩu-của-EU-một-số-mặt-hàng-
có-kim-ngạch-và-thị-phần-lớn-từ-Việt-Nam/34/266)
Số liệu nhập khẩu giầy da (Mã 640) của EU từ Việt Nam
(Theo Eurostat)28
Đơn vị: triệu Euro
TT Nước 2004 2005 2006 2007
1 Anh 604,898 567,160 557,505 494,720
2 Đức 501,727 467,889 504,933 486,169
3 Bỉ 247,479 257,830 246,603 264,870
4 Italia 171,256 192,170 185,156 198,938
5 Pháp 196,286 185,724 194,222 180,891
6 Hà Lan 207,583 176,867 132,658 145,878
7 Tây Ban Nha 88,851 106,419 110,936 122,675
8 Thụy Điển 46,683 41,256 51,526 51,903
9 Áo 24,894 28,039 35,770 35,768
10 Hy Lạp 20,893 21,591 23,500 26,196
11 Slovakia 2,860 0,224 0,433 23,561
12 Đan Mạch 23,809 21,509 18,136 12,746
13 Séc 10,460 5,596 6,050 8,944
14 Ba Lan 14,501 4,863 6,900 7,534
15 Ai Len 9,803 8,815 7,118 6,241
16 Phần Lan 8,124 7,809 5,795 4,668
17 Rumani 2,499 4,274 7,597 1,807
18 Slovenia 0,769 1,242 1,712 1,580
19 Litva 0,856 1,433 2,628 1,429
20 Síp 1,810 1,034 1,492 1,233
21 Hungari 7,153 1,705 1,320 1,113
22 Bồ Đào Nha 2,166 1,371 0,818 0,736
23 Latvia 0,637 0,583 0,287 0,559
24 Manta 0,409 0,213 0,151 0,192
25 Bungari 0,952 1,402 2,154 0,177
26 Estoni 1,503 0,373 0,175 0,074
27 Luxembourg 0 0 0 0
Tổng EU (tỷ Euro) 2,2 2,11 2,11 2,08
29
(http://vn.euvietnam.com/bizcenter/0/Số-liệu-nhập-khẩu-giầy-da-(Mã-640)-của-EU-
từ-Việt-Nam/34/267)
IV. Quan hệ Việt Nam và EU
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên của Liên minh Châu
Âu phát triển mạnh từ những năm đầu thập kỷ 90 sau khi Việt Nam ký một loạt
hiệp định song phương với EU như Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học và
kỹ thuật ( năm 1990), Hiệp định dệt may (1994, 1996, 1997, 2000, 2003); Hiệp định
giầy dép (2000).
Quan hệ hợp tác đầu tiên giữa EU và Việt Nam chủ yếu là trợ giúp người Việt Nam
hồi hương. Từ 1989-1996, tổng viện trợ của EU cho mục đích này trên 110 triệu USD.
Năm 2002, EU đã thông qua chiến lược hợp tác với Việt Nam trong giai đoạn
2002-2006, nhằm tạo điều kiện tăng tốc xoá đói giảm nghèo trong chiến lược phát
triển bền vững. Theo đó EU dự kiến trợ giúp 162 triệu euro tập trung vào 2 lĩnh vực:
Tăng cường phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt hỗ trợ phát triển một số tỉnh nghèo
thông qua hỗ trợ lĩnh vực giáo dục;
Trợ giúp cải cách kinh tế Việt Nam theo hướng cơ chế thị trường để nhanh chóng hội
nhập với kinh tế khu vực và thế giới;
Ngoài ra, trong chiến lược hợp tác này còn có vấn đề bảo vệ môi trường, văn hoá, giáo
dục, chất lượng giới tính và quản lý nhà nước có hiệu quả.
Quan hệ buôn bán thương mại Việt Nam - EU trong 10 năm từ 1990-1999 với quy
mô tăng hơn 12 lần và tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 32%.. Hiện Nay,EU là nhà
cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam. Trong đó, các lĩnh vực ngành nghề được tài trợ
nhiều nhất là nông lâm thủy sản (17,58%), tài nguyên (13,15%), y tế ( 9,59%), phát
triển xã hội (9,58%). Ngoài ra, các nước thành viên EU còn cung cấp vốn ODA thông
qua các tổ chức tài chính đa phương.
1. Thực trạng
30
Theo ông Phillp Meyer,Trưởng đoàn đàm phán EU về Hiệp Định Thương mại tự do
EU-ASEAN , EU muốn củng cố quan hệ thương mại
với Việt Nam.Hiện Liên Minh châu Âu đang là nhà đầu
tư lớn thứ hai ở Việt Nam
Ông Philip Meyer đang có mặt tại Hà Nội để tiếp tục
xúc tiến các vòng đàm phán về việc thiết lập Hiệp định
Thương mại tự do (FTA) giữa EU với khu vực ASEAN.
Được khởi động từ tháng 5/2007, nhưng đến nay, việc đàm phán vẫn chưa hoàn tất.
Quan chức EU nói với báo giới tại Hà Nội chiều 20/1 rằng tiến triển đàm phán "rất
chậm" và "ít khả quan". Một trong những vướng mắc, theo EU, đó là trình độ phát
triển trong ASEAN không đồng đều, dù mức độ chào đàm phán so với các nước và
khu vực khác ở mức thấp.
Giữa tháng 10/2008, sau nhiều trì hoãn, EU và ASEAN đã mở vòng đàm phán lần 6
về FTA giữa hai khu vực, trong đó Việt Nam là nước giữ vai trò điều phối cho
ASEAN. EU đang kỳ vọng vòng đàm phán mới tiếp theo đang diễn ra tại Hà Nội sẽ
tìm ra phương thức mới, tháo gỡ bế tắc.
Đề cập đến quan hệ thương mại Việt Nam và EU, ông Philip Mayer cho biết năm
2007, EU đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam với trao đổi hai
chiều hơn 11 tỉ euro, chỉ đứng sau Trung Quốc. Với doanh nghiệp Việt Nam, EU là
thị trường lớn với gần nửa tỉ dân.
"Việt Nam là đối tác quan trọng của EU cả về mặt lịch sử và quan hệ thương mại. EU
là đối tác thương mại quan trọng, là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam", ông
Philip Mayer nói. Ông cũng cho biết EU trông đợi Việt Nam sẽ có những bước mở
cửa thị trường hơn nữa trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ.
Hiện Việt Nam và EU cũng đang xúc tiến đàm phán Hiệp định Hợp tác và Đối tác
(PCA), khuôn khổ hợp tác mới giữa EU và Việt Nam trong thế kỷ XXI, thay thế Hiệp
Ông Philip Mayer.
31
định khung về hợp tác EU và Việt Nam ký năm 1995. Trong đó cũng xác định khuôn
khổ hợp tác mới về thương mại, kinh tế..giữa Việt Nam và EU.
2. Những cơ sở vàng
Năm 2007, tổng giá trị cam kết của EU dành cho Việt Nam là 948 triệu USD, trong
đó gần 500 triệu USD là viện trợ không hoàn lại, chiếm 21% tổng cam kết của các
nhà tài trợ.
Tuy nhiên, có một điều rõ ràng là cơ sở chính cho sự phát triển mạnh mẽ quan hệ Việt
Nam - EU chính là sự cất cánh của cả hai nền kinh tế. Với dân số 500 triệu, 27 quốc
gia thành viên EU chiếm 30% GDP, 41% thương mại và 43% đầu tư toàn cầu. Năm
2000, các nhà lãnh đạo EU đã thông qua chiến lược Lisbon nhằm biến châu Âu thành
một nền kinh tế dựa trên tri thức năng động và có sức cạnh tranh nhất thế giới. Nhờ
cải cách về cơ cấu, EU đã đạt mức tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức 3%/năm, thất
nghiệp dần được kiểm soát ở mức dưới 7%, thấp nhất kể từ giữa thập niên 1980.
Trong tương lai, kinh tế châu Âu đang chờ đợi một chu kỳ tăng trưởng mới với việc
EC thông qua một kế hoạch thúc đẩy chiến lược cải cách giai đoạn 2008-2010 trên 4
lĩnh vực ưu tiên là tri thức và đổi mới, giải toả tiềm năng kinh doanh, đầu tư nguồn
nhân lực và hiện đại hoá thị trường lao động, năng lượng và biến đổi khí hậu.
Phía Việt Nam cũng có những thay đổi “nóng” trong những năm qua, trong đó thành
công đáng ghi nhận nhất là tốc độ tăng trưởng luôn đạt mức cao, bình quân khoảng
8%/năm. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, trong năm 2007, tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam có thể đạt hơn 8% và lượng FDI cam kết đạt mức kỷ lục 16 tỷ USD.
Cùng với tư cách thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt
Nam đã trở thành một địa chỉ đầu tư hấp dẫn. Báo cáo Triển vọng đầu tư thế giới
2006 của UNCTAD xếp hạng Việt Nam là địa điểm hấp dẫn đầu tư đứng thứ 6 trên
thế giới. Trong khu vực, Hội đồng Doanh nghiệp châu Á xếp Việt Nam thứ ba về hấp
dẫn đầu tư đối với các tập đoàn châu Á giai đoạn 2007 – 2009. Với chiến lược hội
nhập quốc tế thích hợp, Việt Nam đang dần khẳng định vai trò và tiềm năng của mình
ở khu vực và trên thế giới.
32
3. Bối cảnh mối quan hệ mới
Mối quan hệ Việt Nam - EU được xác lập trên cơ sở Hiệp định khung về hợp tác từ
năm 1995, đến nay đã hết hạn. Tuy nhiên, đây là bản hiệp định dựa trên mối quan hệ
giữa một bên là các nước cung cấp viện trợ phát triển và một bên là nước nhận viện
trợ, trong khi đó những bước phát triển mạnh mẽ ở cả Việt Nam và EU đã làm cán
cân lợi ích giữa hai bên có sự thay đổi căn bản. Theo cựu Đại sứ, Trưởng Phái đoàn
EC tại Việt Nam Markus Cornaro, quan hệ EU - Việt Nam đã “phát triển vượt ra
ngoài khuôn khổ thương mại, hợp tác phát triển và chính trị thuần tuý”. Còn theo bà
Sandra Callagan, Trưởng ban Chính trị, Kinh tế và Thương mại thuộc Phái đoàn EC
tại Việt Nam, Hiệp định khung về hợp tác Việt Nam - EU không còn thể hiện được
mối quan hệ đối tác đã nâng lên một tầm cao mới và cần phải có một hiệp định hợp
tác sâu rộng hơn giữa hai bên để thay thế.
Chính vì vậy, trong cuộc gặp giữa Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia
Khiêm và Uỷ viên phụ trách quan hệ đối ngoại của EC Benita Ferrero-Waldner tại
Hamburg (Đức), tháng 5/2007, Việt Nam và EU đã thoả thuận tiến hành đàm phán
một Hiệp định Đối tác và Hợp tác (PCA). Đây là hiệp định được xây dựng trên cơ sở
hai bên cùng có lợi, mở rộng hơn nhiều so với Hiệp định khung năm 1995, bao gồm
nhiều lĩnh vực mới như nhập cư, chống tội phạm, chống khủng bố, ngăn ngừa vũ khí
giết người hàng loạt...Ngoài kinh tế, PCA cũng là một hiệp định hợp tác về rất nhiều
lĩnh vực quan trọng khác như trao đổi khoa học công nghệ và nghiên cứu. Trong
khuôn khổ PCA, hai bên đối tác để bàn bạc không những về những khoản viện trợ mà
EU sẽ tiếp tục dành cho Việt Nam hay về cách để Việt Nam sử dụng hiệu quả các
khoản viện trợ đó, mà còn về những lợi ích khác mà cả EU và Việt Nam đều quan
tâm.
Là một bước phát triển quan trọng và là khuôn khổ cho toàn bộ quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và EU trong thời gian tới, Hiệp định PCA mới giữa EU và Việt Nam sẽ
thay cho Hiệp định khung về hợp tác ký năm 1995 đã hết hạn. “Đối với Việt Nam,
PCA là khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ với EU, bỏ lại đằng
sau mối quan hệ phụ thuộc để hướng tới một quan hệ đối tác bình đẳng hơn”, bà
33
Sandra Callagan, Trưởng ban Chính trị, Kinh tế và Thương mại thuộc Phái đoàn EC
tại Việt Nam đã nói về PCA như vậy.
Đầu tháng 10 vừa qua tại Hà Nội, hội thảo “Hiệp định đối tác và hợp tác (PCA) và
triển vọng quan hệ Việt Nam – EU” đã được Bộ Ngoại giao Việt Nam và Phái đoàn
Uỷ ban Châu Âu tại Việt Nam tổ chức như một bước chuẩn bị thiết thực cho đàm
phán Việt Nam - EU về Hiệp định này. Trên cơ sở đó, đại diện các bộ, ngành, các cơ
quan nghiên cứu, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và đại diện phía EU đã đề xuất
phương hướng và biện pháp phát triển quan hệ cụ thể với EU trên tất cả các lĩnh vực,
xây dựng cơ sở cho hai bên tiến hành đàm phán và ký kết PCA.
4. Mối quan hệ của VN và một số nước EU
Mặc dù liên minh Châu Âu có 27 thành viên nhưng VN chỉ có quan hệ kinh tế
với một số nước trong EU.Tiêu biểu một số nước sau:
Phần Lan: ”Năm 2009, thương
mại hai chiều giữa hai nước sẽ vẫn tăng vì những mặt hàng Việt Nam có tiềm
năng xuất khẩu vào Phần Lan chủ yếu là những mặt hàng thiết yếu phục vụ
cuộc sống như hoa quả, hải sản…".(
http://vneconomy.vn/20090220071251588P0C10/phan-lan-dang-rong-cua-
cho-hang-xuat-khau-viet-nam.htm)
34
-Mặc dù kinh tế thế giới suy giảm nhưng hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn có nhiều
cơ hội để tiếp cận thị trường Phần Lan. Đó là khẳng định của ông Pietro Karjalainen,
Tham tán Thương mại Phần Lan trong buổi giới thiệu cuốn sách “Xuất khẩu sang
Phần Lan” được tổ chức m được tổ chức mới đây, tại Hà Nội.ới đây, tại Hà Nội.
Đôi nét về đất nước Phần Lan cũng như tạp quán tiêu dung của người dân nơi
đây:
-Phần Lan là nước nằm ở phía Bắc của Liên minh Châu Âu (EU). Các nước láng
giềng là Na Uy, Thuỵ Điển, Nga, Estonia.
-Với dân số khoảng 5,3 triệu, nhưng có tới 2/3 trong số này sống ở các đô thị. Tuy -
nhiên mật độ dân số chỉ là 15,5 người/km2. GPD trên đầu người là khoảng 35.000 -
Euro.
-Năm 2007, Phần Lan nhập khẩu gần 60 tỷ Euro. Hơn nửa số lượng hàng hoá trên là
nhập khẩu từ EU, ngoài ra là hàng hoá có xuất xứ từ các quốc gia khác như Nga,
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...
-Giá trị hàng hoá Phần Lan nhập khẩu trong năm 2007 từ các nước đang phát triển
khoảng trên 10 tỷ Euro, chiếm 17% trong tổng số nhập khẩu. Từ năm 2004 đến 2007,
tốc độ tăng trưởng cho toàn bộ hàng nhập khẩu là 13%/năm, do vậy những năm tới,
xu hướng phát triển trên sẽ không có nhiều thay đổi.
-Cũng trong nhiều năm qua, mức tiêu dùng của người dân tăng khoảng 3%/năm. Tính
trung bình chi tiêu trong gia đình, thực phẩm chiếm khoảng 12%. Tuy nhiên, tỷ lệ này
đang có xu hướng giảm đi và nhóm hàng đang tăng lên là thiết bị nội thất, đồ dùng
trong gia đình và sức khoẻ
-. Như vậy, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang có rất nhiều cơ hội
để tăng cường quan hệ hợp tác thương mại với Phần Lan.
35
-Phần Lan là thị trường có yêu cầu khá cao đối với các loại hàng hoá và rất ưa chuộng
những mặt hàng mỹ nghệ. Vì thế doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên tập trung vào
các mặt hàng công nghệ cao, hay những mặt hàng truyền thống có giá trị gia tăng
tốt…Đây sẽ là những mặt hàng có nhiều cơ hội được người tiêu dùng Phần Lan lựa
chọn.
-Bên cạnh đó, nông sản của Việt Nam cũng là sản phẩm có nhiều triển vọng xuất sang
thị trường Phần Lan. Hiện ở Việt Nam có nhiều loại hoa quả mà Phần Lan không có
hoặc nếu có số lượng cũng rất hạn chế. Tiếp đến là cà phê, theo thống kê, Phần Lan
đang là nước có tỷ lệ sử dụng cà phê trên mỗi người cao nhất thế giới.
Ngoài ra, người Phần Lan cũng rất thích hải sản nhưng tôm lại hầu như không có ở
Phần Lan. Trong khi đó, những mặt hàng này Việt Nam đang có rất nhiều thế mạnh.
-Hàng xuất khẩu sang Phần Lan phải tuân thủ pháp luật không chỉ của Phần Lan mà
của cả EU.
-Luật pháp của EU quy định khá rõ những điều khoản về tiêu chuẩn để bảo vệ người
tiêu dùng, người lao động và môi trường. Trong đó, thực phẩm là nhóm hàng có
những yêu cầu cao nhất, còn những yêu cầu cụ thể cho nhiều nhóm hàng khác có
phần mềm dẻo hơn.
-Tuy nhiên, ngay từ lần đầu xuất khẩu hàng, các yêu cầu càng được thoả mãn bao
nhiêu, những lần sau các doanh nghiệp sẽ càng thuận lợi khi ký kết hợp đồng xuất
hàng sang Phần Lan cũng như EU.
-Trong bối cảnh hiện nay thương mại hai chiều giữa hai nước sẽ vẫn tăng vì những
mặt hàng Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu vào Phần Lan chủ yếu là những mặt hàng
thiết yế Cũng theo thống kê của Phần Lan, trong những năm gần đây, hợp tác thương
mại và đầu tư giữa Phần Lan và Việt Nam, tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn ở mức
từ 20-40%.
36
-Riêng năm 2008, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa giữa hai nước đạt 239,6 triệu
USD, tăng 40% so với năm trước. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu đạt trên 134 triệu
USD và nhập khẩu là khoảng 105 triệu USD. Đây chính là cơ sở vững chắc để chúng
ta có thể tin tưởng rằng, kim ngạch thương mại hai chiều của hai nước sẽ tiếp tục tăng
trong năm 2009 này.
-Phần Lan đúng là một thị trường tiềm năng đối với Việt Nam. Không chỉ riêng Phần
Lan, ở các nước lớn như Mỹ, Nhật, ...mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được
đánh giá rất cao do giá thành rẻ và chất lượng tốt, lại ít khả năng kiểm tra chất lượng
nghiêm ngặt so với các mặt hàng lương thực thực phẩm khác .
-Tuy nhiên Việt Nam cũng sẽ gặp không ít khó khăn khi đương đầu với các đối thủ
cạnh tranh như Trung Quốc và Thái Lan. Vì họ có thể đáp ứng kịp thời những đơn đặt
hàng lớn do hầu hết các mặt hàng mỹ nghệ của họ được làm bằng máy móc và có mô
hình sản xuất tập trung. Trong khi đó Việt Nam chỉ sản xuất thủ công với quy mô nhỏ
và rải rác nên rất khó có thể cung ứng được những hợp đồng với số lượng -lớn trong
một thời gian ngắn.
-Nếu Việt Nam đã phát hiện ra lợi thế của mình thì nên khắc phục những khó khăn,
phát huy điểm mạnh, đưa ra những kế hoạch cụ thể, sản xuất chuyên nghiệp hơn, để
đánh bại các đối thủ , độc quyền nắm giữ các thị trường tiềm năng này.
Pháp
Tham tán Thương mại Việt Nam tại Pháp vừa cung cấp những thông tin mới nhất về
quan hệ thương mại giữa hai nước.
Chiều 3/3, tại Khách sạn Melia (Hà Nội), bên lề buổi gặp mặt các tham tán thương
mại Việt Nam tại nước ngoài, ông Phạm Xuân Yên, Tham tán Thương mại Việt Nam
tại Pháp cho biết tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Pháp
năm 2007 đạt 1,75 tỷ Euro, tăng hơn 32% so với năm 2006 (đạt khoảng 1,5 tỷ Euro).
“Đáng chú ý, năm 2007 Việt Nam xuất siêu vào Pháp 910 triệu Euro”, ông Yên nói.
Cụ thể, theo số liệu ông Yên đưa ra, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam vào Pháp năm 2007 đạt 1,33 tỷ Euro, tăng 23,39% so với năm 2006 (1,162 tỷ
Euro) và dự kiến năm 2008 sẽ tăng 20,1% so với năm 2007. Các mặt hàng chủ lực của
37
Việt Nam xuất sang Pháp là giày dép, dệt may, đồ gia dụng, thủy sản, cà phê… (xem
bảng dưới bài).
Ngoài ra, “hiện 13% dân Pháp, tương đương 8,3 triệu người, có mức thu nhâp dưới
660 Euro/tháng - mức thấp ở Pháp. Đây là phân khúc thị trường mà các doanh nghiệp
Việt Nam có thể khai thác hiệu quả”, theo lời ông Yên.
Dù kim ngạch xuất khẩu là tương đối lớn, song theo ông Yên, đa phần các mặt hàng
chủ lực của Việt Nam xuất sang Pháp vẫn là hàng gia công như giày dép, dệt may.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam chưa định vị được thương hiệu tại Pháp. Một
khó khăn khác là các điều kiện về hàng rào kỹ thuật khắt khe khiến nhiều doanh
nghiệp khó có khả năng đáp ứng.
Trong khi đó, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Pháp vào Việt Nam năm 2007
đạt 420 triệu Euro, tăng 47,35% so với năm 2006 (đạt 324 triệu Euro) và năm 2008 dự
tính mức tăng sẽ là 20% so với năm 2007. Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Pháp
chủ yếu là sản phẩm điện, điện tử, dược phẩm, sản phẩm cơ khí, hóa chất, đá quý,
trang sức…
Pháp có tổng thu nhập quốc nội (GDP) đứng thứ 6 thế giới, hiện đạt 1.750 tỷ Euro
(tính đến tháng 1/2007), với thu nhập bình quân đầu người đạt 27.301 Euro.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Pháp
Thứ
tự
Mặt
hàng
Kim ngạch xuất
khẩu 2007
Kim ngạch xuất khẩu
2008 (dự tính)
Thay đổi so với
2007 (dự tính)
1 Giầy dép 450 510 13.3%
2 Dệt may 220 250 14%
3Đồ gia
dụng145 190 31%
38
4Thủy
sản58 75 29.3%
5 Cà phê 57 75 31%
Đơn vị: Triệu Euro / Nguồn: Tham tán Thương mại Việt Nam tại Pháp
Anh
-Nhận lời mời của Thủ tướng Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland Gordon
Brown, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu chuyến thăm chính thức
nước này từ ngày 3-5/3/2008.
-Đây cũng là chặng đầu tiên trong chuyến công du 3 nước châu Âu là Anh quốc,
Đức và Ireland.
-Chuyến thăm nhằm thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác giữa hai nước đặc biệt trong lĩnh
vực thương mại và đầu tư. Với khoảng 100 doanh nghiệp tháp tùng Thủ tướng,
chuyến thăm được kỳ vọng sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác đầu tư cho doanh nghiệp
hai nước
-Bên cạnh các cuộc gặp chính thức cấp cao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ tiếp
xúc với giới doanh nghiệp, tài chính và tham dự các cuộc vận động đầu tư với
những công ty của Anh.
5. Mối quan hệ giữa VN_EU thể hiện ở 1 số lĩnh vực
5.1 Lĩnh vực đầu tư
Năm 2006, EU viện trợ ODA cho Việt Nam 936,2 triệu USD) nhằm hỗ trợ trên
lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, y tế .Từ nay đến năm 2013, EU cam kết sẽ dành viện trợ
ODA cho Việt Nam tăng 30% (vietnamnet.vn). điển hình là Viện trợ không hoàn lại
của EU tăng từ mức 373 triệu euro năm 2006 lên 375 triệu euro năm 2007, trong khi
vốn vay giảm từ 426 triệu euro năm 2006 xuống còn 345 triệu euro cho năm 2007.
Trong số các nước EU, Pháp cam kết ODA lớn nhất với 281,10 triệu euro, tiếp theo là
Anh với 74,85 triệu euro, Đan Mạch 64,9 triệu euro..(vietbao.vn)
39
Quan hệ Việt Nam - EU đã phát triển với tốc độ chóng mặt. Tổng kim ngạch
thương mại hai chiều đã tăng hơn 4 lần, EU trở thành đối tác thương mại số 1 của Việt
Nam và cũng là nguồn cung cấp FDI lớn thứ hai của Việt Nam với tổng vốn đăng ký
tính đến tháng 11/2007 đạt 8,4 tỷ USD.
Tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam đầu tháng 12/2007, EU tiếp tục là
một trong những nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam, với tổng giá trị cam
kết tài trợ năm 2008 đạt 962,8 triệu USD, tập trung chủ yếu vào ba lĩnh vực chính là
xóa đói giảm nghèo, y tế-giáo dục và quản trị.
Chính sách đầu tưu nước ngoài và những điều kiện vật chất, nhất là hạ tầng cơ sở của
Việt Nam, ngày càng tốt hơn đã và đang tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư
nước ngoài, trong đó có các
nước EU. Tổng số vốn đăng ký đầu tư của EU vào Việt Nam tính đến nay đạt tới
5.380 triệu USD với 322 dự án được cấp giấy phép. Tuy vậy, 71 dự án đã hết hạn, giải
thể hoặc chuyển nhượng vốn. EU còn 251 dự án với tổng số vốn đăng ký là 4.380
triệu USD, chiếm 10% vốn dự án và 12,2% vốn đăng ký của các dự án đang hoạt
động tại Việt Nam.
Các nước EU đầu tưu lớn vào Việt Nam gồm Pháp (104 dự án, vốn đăng ký 1.789
triệu USD), Anh (29 dự án, vốn đăng ký là 1.047 triệu USD) và Hà Lan (36 dự án, vốn
đăng ký là 578 triệu USD)... Đầu tư của EU tập trung chủ yếu vào các ngành công
nghiệp như dầu khí, điện, nước, xây dựng cơ sở hạ tầng, chế biến nông sản thực phẩm,
viễn thông, dịch vụ tài chính, ngân hàng... Các dự án đầu tư của EU nhìn chung hoạt
động có hiệu quả và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam,
đạt mức doanh thu 2,3 tỷ USD, thu hút hơn 23.000 lao động Việt Nam. Tuy vậy, so
với tiềm năng và vốn đầu tư ra nước ngoài của EU, thì số vốn họ đầu tư vào Việt Nam
còn quá nhỏ bé. Đây cũng là điều mà các nhà hoạch định chính sách và giới doanh
nghiệp của Việt Nam phải suy nghĩ làm sao thu hút được thêm đầu tư của các nước EU
trong thời gian tới.
5.2 Văn hóa – Giáo dục
Từ 1996 đến 1999, EU tài trợ cho chương trình "liên kết các trường đại học khoa
học và kỹ thuật" do cơ quan đại học của khối các nước có sử dụng tiếng Pháp (AUF)
40
tổ chức. Tiếp đó là dự án "hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo" với 3 hợp phần chính là hỗ
trợ về thể chế, về quản lý và về sư phạm
Trong năm 1998-1999, cuộc triển lãm nghệ thuật "Việt Nam ở thế kỷ XX" đã được
tổ chức thành công ở Brussels (Bỉ) và Palermo (Italy)
Ngoài những lĩnh vực hợp tác lớn nói trên, quan hệ du lịch giữa Việt Nam và EU
cũng có nhiều nét nổi bật thông qua những dự án hỗ trợ ngành du lịch Việt Nam
Riêng giai đoạn 2002-2006, EU đã dành 162 triệu Euro cho các dự án hợp tác với
Việt Nam. Năm 2004, EU đã trợ giúp Việt Nam 600.000 euro để phòng chống dịch
cúm gia cầm.
5.3 Ỡ lĩnh vực năng lượng
EU sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng chính sách tiết kiệm năng lượng, phát triển
nguồn năng lượng thay thế như khí gas tự nhiên, xây dựng nhà máy thuỷ điện và điện
hạt nhân.
5.4 Về môi trường
EU sẽ hợp tác với Bộ Tài nguyên- Môi trường xây dựng chính sách trung hạn về
vấn đề môi trường, thay đổi khí hậu.
EU sẽ giúp Việt Nam tiếp cận với các chuẩn mực về an toàn thực phẩm, đảm bảo
các sản phẩm nông nghiệp có thể bán được giá cao tại thị trường châu Âu. Pháp và EU
cũng tiếp tục thúc đẩy các chương trình phát triển nông nghiệp sạch tại một số vùng ở
Việt Nam.
5.5 Dự Án MUTRAP
Song hành cùng với tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu của Việt Nam là Dự án
Hỗ trợ Thương mại Đa biên - MUTRAP (Mutilateral Trade Assistance Project), một
biểu tượng của quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống giữa Liên minh châu Âu và Việt
Nam.
Dự án Hỗ trợ Chính sách Thương mại Đa biên là Dự án hỗ trợ kỹ thuật liên quan
đến thương mại lớn nhất và dài nhất của Liên minh châu Âu dành cho chính phủ Việt
Nam, được khởi đầu với Giai đoạn chuẩn bị (1998-1999), tiếp nối sau đó là các Dự án
MUTRAP I (2001-2003), MUTRAP kéo dài (4/2003-3/2004), MUTRAP Bắc cầu
(8/2004-11/2004), MUTRAP II (2005-2008) và hiện nay là MUTRAP III (2008-2012).
41
Dự án EU-Việt Nam MUTRAP III có ngân sách 10.670.000 Euro, trong đó
Liên minh châu Âu tài trợ 10.000.000 Euro và Chính phủ Việt Nam đóng góp 670.000
Euro, được thực hiện từ tháng 8/2008 đến tháng 6/2012.
Dự án được xây dựng trên cơ sở Chiến lược Quốc gia giữa Liên minh châu Âu và
Việt Nam cho giai đoạn 2007-2013 và phù hợp với Chương trình Hành động hậu gia
nhập WTO của Chính phủ để thực hiện các cam kết WTO nhằm hỗ trợ Việt Nam thực
hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, thông qua việc tăng cường năng lực của Bộ
Công Thương và các bộ, ngành hữu quan trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược
hội nhập kinh tế quốc tế và thương mại của Việt Nam.
Những năm gần đây, cộng đồng người Việt tại các nước EU cũng là một cầu nối
tích cực trong quan hệ thương mại giữa hai bên. Hàng năm, cộng đồng người Việt tại
EU đã nhập khẩu một lượng hàng Việt Nam để bán tại các trung tâm thương mại và
các cơ sở kinh doanh của người Việt tại các nước này.
Hai bên cũng thỏa thuận tăng cường hợp tác, đưa quan hệ kinh tế, thương mại và
đầu tư giữa hai bên, nâng kim ngạch thương mại hai chiều đạt 15 tỷ euro vào năm
2010, trên cơ sở dự kiến năm nay, con số này sẽ đạt hơn 12 tỷ euro.EU cũng cam kết
sẽ hỗ trợ về mặt kỹ thuật để Việt Nam sớm được công nhận là có nền kinh tế thị
trường.
Mới đây, Ủy ban châu Âu (EC) đã thông qua Chiến lược hợp tác với Việt Nam
trong giai đoạn 2007-2013 với khoản ngân sách trị giá 430 triệu USD tập trung hỗ trợ
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Dự kiến tăng trưởng thương mại
hai chiều vượt mức 20% và đạt 15 tỷ USD vào năm 2010. Đó là những con số dự báo
hết sức ấn tượng cho sự phát triển quan hệ Việt Nam – EU trong tương lai.
V. Chinh sách ngoai thương giữa EU_VN
Sau gần hai thập kỷ thiết lập quan hệ ngoại giao, và đặc biệt là từ khi Hiệp định
khung về hợp tác được ký kết năm 1995, thương mại đã trở thành một trong những
lĩnh vực nổi bật nhất trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU.
1 GSP
Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và EC cam
kết dành cho hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi phổ cập (GSP), gia hạn và
42
tăng hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Tuy nhiên, Từ ngày 1-1-
2009.Liên hiệp châu Âu (EU) đã thông qua quyết định về việc bỏ quy chế hệ thống ưu
đãi thuế quan phổ cập (GSP) đối với mặt hàng giày dép VN Cuộc họp ngày 11.6, các
thành viên EU đã bỏ phiếu thông qua Dự thảo ưu đãi thuế quan chung GSP giai đoạn
2009 - 2011 mà EC đề xuất, trong đó mục XII (chủ yếu giày dép) của VN sẽ không
được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của EU nữa. Theo Lefaso VN, ngành da
giày là ngành công nghiệp quan trọng của VN, chính sách ưu đãi thuế quan GSP đã
đóng góp lớn vào sự tồn tại và phát triển của ngành da giày VN trong các năm qua.
Nay nếu bãi bỏ GSP sẽ tác động đến các DN ngành da giày, tốc độ phát triển ngành
và nền kinh tế.
Về tác động và thiệt hại khi các sản phẩm giày dép XK của VN sang EU khi không
được hưởng ưu đãi GSP, Lefaso cho rằng, bằng việc bãi bỏ GSP thì lợi thế cạnh tranh
về giá các sản phẩm da giày của VN sẽ có suy giảm so với các nước khác trong khu
vực, do bình quân mỗi đôi giày XK của VN phải tăng thêm thuế nhập khẩu vào EU từ
3,5 - 5%.Hiệp hội Da giày Việt Nam đã cho biết, khi không được hưởng Quy chế ưu
đãi thuế quan GSP. Nếu tính theo kim ngạch xuất khẩu năm 2007 vào EU của mặt
hàng này là 2,19 tỷ USD thì khi áp thuế, Việt Nam sẽ mất thêm 109,9 triệu USD.
Ngành có 700 doanh nghiệp, 70% là doanh nghiệp nước ngoài, với 1 triệu lao động và
khoảng 30% lao động sẽ bị ảnh hưởng bởi quyết định của EC. Theo quy định, thuế ưu
đãi GSP được xây dựng trên cơ sở minh bạch, công bằng và không phân biệt đối xử,
nhằm giúp đỡ các nước đang phát triển bị phụ thuộc vào một vài ngành hàng xuất
khẩu.
2 Hiệp định PCA
Hiệp định PCA mới giữa EU và Việt Nam sẽ thay cho Hiệp định khung về hợp tác
ký năm 1995 đã hết hạn. Đây là hiệp định được xây dựng trên cơ sở hai bên cùng có
lợi, mở rộng hơn nhiều so với Hiệp định khung năm 1995, bao gồm nhiều lĩnh vực
mới như nhập cư, chống tội phạm, chống khủng bố, ngăn ngừa vũ khí giết người hàng
loạt...Ngoài kinh tế, PCA cũng là một hiệp định hợp tác về rất nhiều lĩnh vực quan
trọng khác như trao đổi khoa học công nghệ và nghiên cứu. Trong khuôn khổ PCA, hai
bên đối tác để bàn bạc không những về những khoản viện trợ mà EU sẽ tiếp tục dành
43
cho Việt Nam hay về cách để Việt Nam sử dụng hiệu quả các khoản viện trợ đó, mà
còn về những lợi ích khác mà cả EU và Việt Nam đều quan tâm .“Đối với Việt Nam,
PCA là khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ với EU, bỏ lại đằng
sau mối quan hệ phụ thuộc để hướng tới một quan hệ đối tác bình đẳng hơn”, bà
Sandra Callagan, Trưởng ban Chính trị, Kinh tế và Thương mại thuộc Phái đoàn EC
tại Việt Nam đã nói về PCA như vậy.
Mới đây, Ủy ban châu Âu (EC) đã thông qua Chiến lược hợp tác với Việt Nam
trong giai đoạn 2007-2013 với khoản ngân sách trị giá 430 triệu USD tập trung hỗ trợ
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Dự kiến tăng trưởng thương mại
hai chiều vượt mức 20% và đạt 15 tỷ USD vào năm 2010. Đó là những con số dự báo
hết sức ấn tượng cho sự phát triển quan hệ Việt Nam – EU trong tương lai.
3 Thuế quan
EU áp thuế chống bán phá giá đối với giầy mũ da hay hạn chế nhập khẩu mặt hàng
cá da trơn của Việt Nam do phát hiện dự lượng kháng sinh bị cấm. Hiện nay, 33 mã
hàng giày thể thao và giày mũ da bị áp thuế chống bán phá giá, các chủng loại khác
vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan của EU và không bị hạn chế về số lượng
VI. Tình hình xuất nhập khẩu EU_ VN
Thâm hụt thương mại của EU với Việt Nam năm 2006 đã đạt mức kỷ lục mới 4,43
tỷ euro (so với 3,6 tỷ euro năm 2005).
Nếu tính cả mậu dịch nội khối thì tổng ngạch mậu dịch là 3.092 tỷ chiếm hơn 41% thị
phần thế giới. EU đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ chiếm khoảng 43% thị phần,
gấp 2,5 lần Mỹ. Đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% FDI toàn cầu và nhận 20% đầu tư từ
bên ngoài.
Trao đổi thương mại EU - Việt Nam tính đến hết tháng 9/2008
(Nguồn: Eurostat, đơn vị tính: tỉ Euro):
9 tháng 2008 9 tháng 2007 So sánh
EU xuất 2,47 2,55 Giảm 3%
EU nhập 6,38 5,97 Tăng 6,9%
Cán cân 3,91 3,42 Tăng 14,3%
44
Tổng KN 8,85 8,52 Tăng 3,87%
Theo Số liệu thì xuất khẩu của Việt Nam vào EU tiếp tục tăng 6,9% so với cùng kỳ
năm 2007, trong khi nhập khẩu từ EU giảm 3% là chấp nhận được trong bối cảnh suy
giảm nhu cầu tiêu thụ tại các nước EU.
Kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu giữa Việt Nam và EU trong 10 tháng
đầu năm 2008
Tổng KN XNK Tháng
10/2008
Tháng
9/2008
Tăng giảm % Tháng
10/2007
Tăng
giảm %
VN- EU SoT10&T9/08 SoT10/08&07
VN xuất 656.290 740.406 Giảm 11,36% 624.173 Tăng 5,15%
VN nhập 283.779 260.335 Tăng 9% 372.893 Giảm 23,9%
Cán cân 372.511 480.071 251.280
Tổng kim ngạch 940.069 1.000,741 Giảm 6% 997.066 Giảm 5,72%
1 Tình hình xuất khẩu
Việt Nam nhập khẩu từ EU nhiều máy móc, thiết bị công nghệ nguồn chất lượng
cao chiếm 10% kim ngạch nhập khẩu, chủ yếu là thiết bị toàn bộ, máy, phụ tùng,
phương tiện vận tải bao gồm cả máy bay, tàu biển, ô tô, xe lửa, nguyên liệu, hoá
chất, tân dược, phân bón, vật liệu xây dựng, sắt thép, sản phẩm cơ khí, hàng tiêu
dùng cao cấp… Tuy vậy, thương mại dịch vụ chưa phát triển.
1 số m/h EU XK sang
VN
Tháng
10/2008
Tháng
9/2008
Tăng
giảm %
Tháng
10/2007
Tăng
giảm %
Sản phẩm điện tử,
linh kiện
36.045 29.186 Tăng
23.5%
39.045 Giảm 7.68%
45
Máy móc thiết bị
công ghiệp
81.822 87.592 Giảm
6.59%
101.72 Giảm 19.56%
Dược phẩm thiêt bị
y tế
22.804 16.682 Tăng
36.7%
15.204 T ăng 50%
Mỹ phẩm hoá chât 10.820 9.634 Tăng
12.3%
11.761 Gi ảm 8%
Sắt thép và kim loaị
khác
11.502 9.728 tăng
18.24%
13.979 Gi ảm 17.72%
2 Tình hình nhập khẩu
Năm 2007, xuất khẩu cà phê, thuỷ sản, sản phẩm điện tử và vi tính, sản phẩm nhựa,
hạt tiêu, hàng rau quả của VN vào thị trường EU tăng mạnh. EU hiện là thị trường xuất
khẩu trọng điểm của Việt Nam, trong những năm gần đây xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trường này liên tục tăng mạnh. Như trong năm 2006, 2007 xuất khẩu vào thị trường
này đều tăng trên 28% so với năm trước, đạt lần lượt là 7,04 tỷ USD và 9,02 tỷ USD.
Trong năm 2008, mặc dù nền kinh tế EU tăng trưởng chậm lại, nhưng xuất khẩu của
Việt Nam vào thị trường này được dự đoán sẽ tiếp tục khả quan.
Giày Dép
EU là thị trường nhập khẩu giày dép của Việt Nam lớn thứ 2 trên thế giới
(sau Hoa Kỳ) và được coi là thị trường trọng điểm của Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu
giày dép những năm gần đây của thị trường EU khoảng trên 29 tỷ USD/năm. Theo số
liệu thống kê, xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã tăng khá nhanh
trong thời gian qua và đạt 2,1 tỷ USD trong năm 2007, tăng 8% so với năm 2006 và
chiếm 7,2% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này.
Nhìn chung, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và
kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, 33 mã hàng giày thể thao và giày mũ da bị áp thuế
chống bán phá giá, các chủng loại khác vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan của EU và
không bị hạn chế về số lượng. Tuy đạt được tốc độ tăng trưởng khá nhưng nhìn chung,
xuất khẩu giày dép của Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều hạn chế như nhiều 46
nguyên liệu đầu vào của ngành da giày phải nhập khẩu từ bên ngoài, khâu tiêu thụ còn
phụ thuộc lớn vào đối tác trong liên doanh, khâu nghiên cứu thị hiếu thị trường, thiết
kế mẫm mà và phát triển snả phẩm mới còn yếu. Mục tiêu dự kiến của mặt hàng giày
dép năm 2008 đối với thị trường EU là đạt kim ngạch 2,7 tỷ USD, tăng 26% so với
năm 2007.
Cà Phê
Hiện EU là thị trường tiêu thụ lớn nhất của cà phê Việt Nam, chiếm tỷ trọng
khoảng 50% trong Tong kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của nước ta. Trong năm
2007, xuất khẩu cà phê vào thị truờng này đạt trên 878,8 triệu USD, tăng 63% so với
năm 2006. Mức tăng này này chủ yếu do giá cà phê trên thế giới tăng mạnh trong năm
2007.
Gỗ
Sản phẩm gỗ được nhận định là mặt hàng có tiềm năng phát triển do EU là thị
trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vào EU
năm 2007 đạt khoảng 600 triệu USD. những nước nhập khẩu đồ gỗ của Việt Nam
chính là Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch. (Thời báo kinh tế Việt nam) . kim ngạch xuất
khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường EU trong tháng 1 năm 2008 đạt 112
triệu USD, tăng 10,2% so với tháng trước và tăng 44,5% so với cùng kỳ năm 2007.
Như vậy, liên tục từ tháng 9 năm 2007 đến nay, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của
Việt Nam vào thị trường EU liên tục tăng mạnh.
Các thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong khối EU
Thị trường Tháng 1/2008 Tháng 1/2007 So sánh
USD USD USD %
Anh 25,691,746 19,735,246 5,956,500 30.18%
Đức 9,914,607 2,329,579 7,585,028 61.52%
Pháp 7,771,086 13,416,705 4,354,381 32.45%
Hà Lan 9,710,841 6,249,641 3,461,200 55.38%
47
Italia 7,624,143 4,534,902 3,089,241 68.12%
Tây Ban Nha 6,501,046 3,951,470 2,549,576 64.52%
Bỉ 4,737,561 4,342,351 395,210 9.10%
Đan Mạch 3,279,178 2,526,687 752,491 29.78%
Thuỵ Điển 3,221,338 1,991,218 1,230,120 61.78%
Phần Lan 3,159,995 2,341,056 818,939 34.98%
Ai Len 2,780,906 2,102,537 678,369 32.26%
Ba Lan 1,858,811 578,458 1,280,353 221.34%
Hy Lạp 1,855,353 1,730,420 124,933 7.22%
Áo 913,084 260,572 652,512 250.42%
Bồ Đào Nha 878,194 503,061 375,133 74.57%
Rumani 436,393 35,371 401,022 1133.76%
Hungary 420,448 340,471 79,977 23.49%
CH Czech 382,330 157,449 224,881 142.83%
Síp 323,625 323,625
Slovakia 157,027 36,407 120,620 331.31%
Latvia 134,440 87,295 47,145 54.01%
Slovenia 101,676 28,890 72,786 251.94%
Bungari 52,785 12,188 40,597 333.09%
Manta 48,725 48,725
Estonia 30,803 166,486 -135,683 -81.50%
Litva 13,394 13,909 -515 -3.70%
Tổng 111,999,535 77,472,369 34,527,166 44.57%
48
(trích trong Newsletter tháng 3/2008 Thông tin Thương mại, Trung tâm Thông tin
Thương mại, Bộ Công Thương)
Thuỷ sản
EU là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất thế giới, với kim ngạch nhập khẩu hàng
năm lên tới 34 tỉ USD. Trong năm 2007, xuất khẩu thuỷ sản của VN sang EU tiếp tục
tăng mạnh, đạt 911 triệu USD, tăng 40% so với năm 2006.
Năm 2008, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới EU đạt 275 nghìn tấn với kim
ngạch đạt 910 triệu USD, tăng 26,6% về lượng và 27,7% về kim ngạch so với năm
2007. Phấn đấu đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,7 tỉ USD, tăng bình quân
23%/năm trong giai đoạn 2008-2010.
49
Trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU đã tăng
chậm lại, đạt trên 1,48 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm 2006. Tuy nhiên, trong năm
2008, xuất khẩu hàng dệt may sang EU sẽ khó khăn hơn do hàng dệt may của Trung
Quốc xuất khẩu sang thị trường này sẽ được dỡ bỏ hòan toàn hạn ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU qua các năm
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Kim ngạch xuất
khẩu (triệu USD) 3.198 3.919 4.939 5.480 7.045 9.028
So với năm trước 3,88 22,56 26,02 10,96 28,54 28,16
Các mặt hàng EU nhập khẩu từ Việt Nam trong năm 2007
Mặt hàng
Tháng
12/2007
(nghìn USD)
So
tháng 12/06
(%)
Năm
2007
(nghìn USD)
So năm
2006 (%)
Tổng 941.401 -4,96 9.028.338 28,16
Giày dép các loại 238.839 16,54 2.176.308 11,45
Hàng dệt may 147.455 8,34 1.487.63620,14
Hàng hải sản 120.459 102,82 911.479 40,69
Cà phê 104.005 3,93 878.873 63,18
Gỗ, sản phẩm gỗ 129.812 135,36 621.197 27,85
Máy vi tính, sp
điện tử và linh
kiện
37.654 50,03 415.195 50,96
Túi xách, ví, vali,
mũ và ô dù25.760 21,98 247.161 20,55
50
Sản phẩm chất
dẻo209.258 1.672,17 185.024 77,15
Hạt điều 12.444 71,17 164.527 56,08
Cao su 15.305 -66,44 147.566 -4,12
Sản phẩm mây,
tre, cói, thảm58.407 499,66 119.303 27,28
Sản phẩm gốm sứ 16.084 5,29 116.707 19,12
Sản phẩm đá
quý, kim loại quý5.956 -3,25 88.290 -2,35
Hạt tiêu 6.039 28,08 85.586 37,52
Than đá 0 - 40.633 112,78
Hàng rau quả 4.458 75,30 39.062 49,61
Đồ chơi trẻ em 4.097 90,12 29.203 -7,56
Xe đạp và phụ
tùng2.204 14,61 21.041 -59,54
Mỳ ăn liền 23.400 1.182,19 17.564 27,24
Chè 1.165 -18,53 11.630 7,02
Dây điện và dây
cáp điện859 87,96 9.272 174,48
Thiếc 260 -64,96 5.601 100,47
Gạo 281 307,25 4.894 106,76
Quế 0 - 303 32,89
Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc EU năm 2007
Thị trường
Tháng
12/07
(ngàn USD)
So tháng
12/06 (%)
Năm
2007
(ngàn USD)
So năm
2006 (%)
Tổng 941.401 -4,96 9.028.338 28,16
51
Đức 211.813 15,40 1.855.056 28,35
Anh 126.545 14,09 1.431.424 21,34
Hà Lan 119.997 35,29 1.182.144 37,87
Pháp 95.929 16,58 884.351 10,93
Bỉ 88.651 26,47 849.028 23,50
Italia 93.970 18,32 816.849 25,08
Tây
Ban Nha75.085 7,68 759.632 36,13
Ba lan 20.375 12,27 220.890 37,95
Thụy điển 24.471 48,16 202.356 18,36
Đan mạch 15.565 -0,04 138.049 26,04
Áo 7.742 -21,57 111.949 14,85
CH Séc 12.780 90,21 102.047 45,59
Phần Lan 9.997 32,92 92.512 34,32
Hy lạp 8.268 35,39 81.805 26,54
Slôvakia 6.288 78,03 71.480 209,87
Hungari 6.467 35,69 62.713 89,80
Bồ Đào Nha5.892 72,48 52.115 58,90
Bungari 2.630 0,00 35.868 -
Rumani 3.642 0,00 32.317 -
Sôlôvenhia 2.289 52,91 18.087 57,05
Látvia 842 13,78 8.932 75,69
CH Síp 936 61,38 6.958 18,33
Extônia 662 -99,69 5.787 -27,13
Aixơlen 312 -15,45 4.748 36,52
Manta 253 40,56 1.241 -35,57
(tiengiang.tbtvn.org). 52
V. SWOT
1. Strenght (điểm mạnh):
- trình độ khoa hoc kỹ thuật công nghệ cao
- thị trường rộng lớn
, xây dựng được một thị trường nội bộ vững mạnh,
-minh Châu Âu EU là một tổ chức có ảnh hưởng rất lớn trên chính trường quốc tế,
đây là một tổ chức quy tụ nhiều quốc gia lớn trên thế giới mà từ trước tới nay đều
chiếm những vị trí quan trọng trong Liên Hợp Quốc như Pháp, Anh, Đức... Từ những
ảnh hưởng về mặt chính trị tới Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đến quân sự, kinh tế,
thương mại tới các khu vực khác trên thế giới... Sự ra đời của đồng tiền chung Châu
Âu (EURO) vào năm 1999 đã ảnh hưởng rất nhiều tới đồng đôla Mỹ. Thị trường EU
sẽ là một thị trường đầy tiềm năng cho việc trao đổi thương mại song phương giữa các
khu vực và các quốc gia với EU
EUR ngày càng được coi là tiền tệ đáng tin cậy trên thế giới và được nhiều nước
quan tâm sử dụng
- hệ thống giáo dục mạnh
- EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, là một trong ba trung tâm lớn
nhất trong nền kinh tế thế giới (Hoa Kỳ, Nhật và EU
Áp dụng biểu thuế quan và chính sách chung thuận lợi trong quản lý.
•Liên hệ: có thể nói EU là thị trường truyền thống của ASEAN. Trong những năm gần
đây, quan hệ giữa ASEAN và EU ngày càng được thế giới chú ý và đánh giá cao.
Việc EU mở rộng thành viên sẽ giúp cho các nước trong khối ASEAN mở rộng thị
trường, gia tăng hạn ngạch xuất khẩu, thuận lợi lớn nhất đó là về thuế quan và hạn
ngạch của EU bởi khối ASEAN đã từng quen thuộc với những quy định này
hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 với việt nam
1.1 Liên minh chính trị:
Tất cả các công dân của các nước thành viên được quyền tự do đi lại và cư trú trong
lãnh thổ của các nước thành viên.
53
- Được quyền bầu cử và ứng cử chính quyền địa phương và Nghị viện châu Âu tại bất
kỳ nước thành viên nào mà họ đang cư trú.
- Thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung trên cơ sở hợp tác liên chính
phủ với nguyên tắc nhất trí để vẫn bảo đảm chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực này.
- Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu Âu.
- Mở rộng quyền của Cộng đồng trong một số lĩnh vực như môi trường, xã hội,
nghiên cứu....
- Phối hợp các hoạt động tư pháp, thực hiện chính sách chung về nhập cư, quyền cư
trú và thị thực.
Hiện nay, EU có diện tích là 4.422.773 km² với dân số là 492,9 triệu người (2006)
[1] ; với tổng GDP là 11.6 nghìn tỉ euro (~15.7 nghìn tỉ USD) trong năm 2007. Hầu
hết các quốc gia châu Âu đều đang là thành viên của Liên minh châu Âu.
Hình thành đơn vị tiền tệ riêng là EURO , tỷ giá cao hơn đồng dola Mỹ.
Các thành viên tận dụng thế mạnh của nhau để nhanh chóng phát triển.
27 nước thành viên mở rộng diện tích , mở rộng dân số vì vậy vai trò và vị thế trên
chính trường quốc tế có tiếng nói lớn .
1.2 Nguồn nhân lực :
Ngày 1/1/2007 EU đã gia nhập them 2 thành viên mới là Rumani và Bungari kể từ
nay EU sẽ trải rộng từ Đại Tây dương đến biển Đen. Với đợt mở rộng lần này,EU
đang tự cân bằng về hướng Đông Nam khiến EU trở thành một vùng đông dân thứ 3
trên thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ
Với dân số 492.9 triệu người nguồn nhân lực của EU hết sức dồi dào ,mặc dù Pháp ,
Anh…dân số già đi trong khi tỷ lệ sinh lại giảm đi nhưng các thành viên mới gia nhập
liên minh lại có số dân khá cao ,các thành viên sau này đa số là những nước nghèo
54
hơn nên sẽ có nhiều người nhập cư vào các nước EU giàu nên sẽ lấp đi phấn nào
khoảng trống đó
EU đã có được một nền hòa bình và thịnh vượng. Mỗi nước thành viên của EU đều
đóng góp vào sự thống nhất châu Âu và sự ổn định của nền dân chủ ở đây. Sự vắng
bóng của những cuộc xung đột giữa các quốc gia thành viên là một minh chứng sống
động cho sự liên kết chặt chẽ này. Với 27 nước thành viên, EU ngày nay đã trở thành
động cơ hòa bình trên thế giới.
Dân chủ, một trong những giá trị chung của EU đã được phát huy mạnh mẽ tại châu
lục này. Những bản sắc văn hóa và truyền thống đa dạng của các nước thành viên EU
đều được trân trọng và đón nhận. Các đường biên giới nội khối được rộng mở, di sản
văn hóa của toàn châu Âu thêm phong phú. Một châu Âu giàu có về vốn hiểu biết và
kinh nghiệm chính là chìa khóa của sự tăng trưởng mạnh, việc làm và sự hoà hợp xã
hội. Người dân EU được sống bình đẳng, đầy đủ quyền tự do đi lại, học tập và sinh
sống thuận lợi trong toàn liên minh.
Sự phồn vinh đã đến với liên minh khi người dân ở đây được hưởng mức sống với
những tiêu chuẩn xã hội cao. EU đã thành công khi tạo dựng hình mẫu xã hội châu Âu
công bằng và dân chủ. Không những thế, khối thị trường chung dần phát triển thành
thị trường duy nhất - khu vực trao đổi thương mại rộng lớn nhất trên thế giới. Đồng ơ-
rô là biểu tượng thành công cho tiến trình nhất thể hóa kinh tế của EU, mang đến cho
người dân EU những cơ hội tốt nhất trong việc lựa chọn sản phẩm với giá cả cạnh
tranh.
Với sức mạnh kinh tế, vị thế của EU trên thế giới ngày càng vững chắc. Các nước
thành viên của EU cùng "sát cánh bên nhau" trong cuộc chiến chống khủng bố, tội
phạm quốc tế và nhập cư bất hợp pháp. EU kêu gọi thế giới giải quyết xung đột bằng
hòa bình và mong muốn con người sẽ không còn là nạn nhân của các cuộc chiến hay
bạo lực. EU đoàn kết vì sự tự do và phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới; kêu
gọi đẩy lùi đói nghèo, bệnh dịch; bảo vệ môi trường toàn cầu trước sự thay đổi của
khí hậu; tiếp tục đóng vai trò chính trong các hoạt động nhân đạo.
55
Liên minh Châu Âu EU là một tổ chức có ảnh hưởng rất lớn trên chính trường quốc
tế, đây là một tổ chức quy tụ nhiều quốc gia lớn trên thế giới mà từ trước tới nay đều
chiếm những vị trí quan trọng trong Liên Hợp Quốc như Pháp, Anh, Đức... Từ những
ảnh hưởng về mặt chính trị tới Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đến quân sự, kinh tế,
thương mại tới các khu vực khác trên thế giới... Sự ra đời của đồng tiền chung Châu
Âu (EURO) vào năm 1999 đã ảnh hưởng rất nhiều tới đồng đôla Mỹ. Thị trường EU
sẽ là một thị trường đầy tiềm năng cho việc trao đổi thương mại song phương giữa các
khu vực và các quốc gia với EU.
2. Weakness(điểm yếu)
Đó là sự chia rẽ giữa các nước do cuộc khủng hoảng Iraq - thể hiện những hạn chế về
chính trị của EU trước một cuộc khủng hoảng quốc tế lớn; các phần tử khủng bố tấn
công Madrid (Tây Ban Nha) và Luân Đôn (Anh), cho thấy EU dễ bị ảnh hưởng trước
một mối đe dọa mới và cuối cùng, việc Pháp và Hà Lan vốn là 2 nước sáng lập EU, đã
bác bỏ Hiến pháp EU.
Những ảnh hưởng sâu sắc của toàn cầu hóa đối với EU trong các lĩnh vực kinh tế và
xã hội, những thách thức về kinh tế xuất phát từ việc mở rộng EU.
2.1 Phân biệt giàu nghèo:
Trong EU 27, sự cách biệt sẽ ngày càng lớn. London là vùng giàu nhất của EU mở
rộng, với GDP tính theo đầu người tương đương với 260% mức trung bình của EU.
Sau đó đến Brussels (215%), Luxembourg (195%), Hamburg (170%) và Ile de France
(165%). 6 vùng nghèo nhất đều năm ở Ba Lan (từ 29-33% mức trung bình). Trước khi
mở rộng, 3 vùng của Hy Lạp và vùng Estrémadure của Tây Ban Nha đứng cuối bảng
xếp hạng (dưới 55%). Trong số 10 nước Đông Âu, chỉ có các vùng Prague và
Bratislava đứng trên mức trung bình của EU 15 (cụ thể là 135% và 102%). 2 vùng
khác, trong tổng số 41 vùng, có GDP tính theo đầu người cao hơn 75% mức trung
bình, một ở Hungary và một ở Síp.
56
. Theo báo cáo năm 2003 của Interpol, hoạt động của các băng đảng người Litva, chủ
yếu buôn lậu thuốc lá và ma tuý, làm tiền euro giả hay rửa tiền, đã bị phát hiện ở khắp
nơi trong EU. Các băng đảng người Nga - tội phạm tài chính, gian lận quỹ, nhập cư
trái phép - đặc biệt nổi cộm ở các nước Bắc Âu và vùng Baltic. Còn các băng đảng
người Ba Lan - buôn bán xe hơi, buôn lậu - đã thành lập ở Đức các mạng lưới không
phải người bản xứ. Tuy nhiên, các băng đảng người Albania mới là mối đe doạ lớn
nhất với EU. Sự hợp tác giữa Interpol và cảnh sát các quốc gia lại chậm trễ.
2.2 Vấn đề nhập cư:
Uỷ ban châu Âu cho rằng nỗi lo sợ của người lao động từ 10 nước thành viên mới sẽ
ồ ạt tràn sang là thái quá. Trước hết, hiệp ước gia nhập cho phép hạn chế việc tự do đi
lại của nhân công trong một thời hạn tối đa là 5 năm và có thể tăng lên 7 năm với một
số điều kiện. Đây là một khả năng mà EU 15 quyết định thực hiện triệt để. Thứ hai,
theo một công trình nghiên cứu hồi tháng 2/2004, mỗi năm chỉ có khoảng 220.000
người - nghĩa là trong 5 năm chỉ khoảng 1% dân số trong độ tuổi lao động của các
nước thành viên mới - có ý định chắc chắn sẽ sang làm việc tại Tây Âu. Cơ quan
nghiên cứu tình hình kinh tế của Pháp đánh giá, về lâu về dài, con số này có thể vào
khoảng 3 triệu. Hăng hái nhất là thanh niên thường không có bằng cấp. Về khả năng
chuyển dịch sản xuất và dịch vụ sang phía đông, đây không phải là một vấn đề mới
mẻ vì thương mại giữa EU 15 và các nước thành viên mới đã được tự do hoá từ đầu
những năm 1990.
2.3 Về ngôn ngữ:
Từ năm 1958, luật pháp cộng đồng bắt buộc phải được soạn thảo bằng tất cả các ngôn
ngữ chính thức, với số lượng tăng từ 11 lên 20 vào ngày 1/5/2004. Trên thực tế, hiện
nay có hơn 55% tài liệu của Uỷ ban được viết lúc đầu bằng tiếng Anh, dưới 30% bằng
tiếng Pháp và 5% bằng tiếng Đức. Thuỵ Điển, Phần Lan và Áo gia nhập EU năm
1995 đã làm giảm việc sử dụng tiếng Pháp và với việc mở rộng EU, thì tiếng Pháp
chắc chắn sẽ còn mất thêm chỗ đứng. Trong các cuộc thi tuyển công chức châu Âu ở
10 nước thành viên mới, 60% chọn tiếng Anh như ngoại ngữ hai, 20% chọn tiếng
57
Đức, 12% chọn tiếng Pháp. Tại Ba Lan và CH Czech, chỉ có 3% số học sinh học tiếng
Pháp, cứ 3 học sinh thì có 2 học tiếng Anh, cứ 2 học sinh Séc và 3 học sinh Ba Lan thì
có một học tiếng Đức. Muốn cứu vãn tiếng Pháp, chính phủ Pháp đã chu cấp chi phí
đào tạo trong 2 năm cho 3.500 công chức của 10 nước thành viên mới. Đại diện
thường trực của Pháp bên cạnh EU, Pierre Sellat, cho rằng nếu EU không làm việc
bằng tiếng Pháp nữa thì tiếng Pháp sẽ chết hẳn trên thế giới.
2.4 Về tôn giáo:
Đó là một trong những cuộc tranh luận gay cấn nhất trong Công ước châu Âu. Phần
mở đầu có cần nói đến Chúa trời hay "di sản Thiên chúa giáo" mà bỏ qua những đóng
góp của Do Thái giáo và Hồi giáo vào lịch sử châu lục không? Phái Dân chủ - Thiên
Chúa giáo ở Đức, đại diện của Ba Lan, Italy, Tây Ban Nha, với sự hỗ trợ của Giáo hội
và Toà thánh Vatican, muốn như vậy. Nước Pháp thế tục (kể cả phái hữu lẫn phái tả)
và Bỉ phản đối. Các bên đi đến thoả hiệp là ghi vào đó "di sản văn hoá, tôn giáo và
nhân văn". Hơn nữa, điều khoản 51 thừa nhận quy chế quốc gia của các nhà thờ - từ
đó sẽ hạn chế khả năng sử dụng pháp lý trước Toà án nhân quyền châu Âu. Một cuộc
tranh luận khác là liệu việc mở rộng có làm tăng ảnh hưởng của Roma hoặc thúc đẩy
nhanh quá trình phi Thiên Chúa giáo đang thịnh hành ở phía tây hay không? Tại
Malta, luật pháp cấm ly hôn. Tại Slovenia và Litva, giáo hội Thiên Chúa giáo thúc
giục phải đưa Cơ đốc giáo trở lại nhà trường; còn ở Ba Lan, khả năng phá thai bị hạn
chế.
3. Cơ hội (Opportunity)
. Cạnh tranh về thuế vốn đã quyết liệt sẽ còn quyết liệt hơn và mức thuế sẽ còn giảm
nữa. Các nước tham lam nhất hiện nay là Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan, Bỉ và Italy, với
mức thuế khoảng 33-35,4% lợi nhuận. Tại Litva, Slovakia, Hungary, mức thuế dao
động trong khoảng 15-19%. Tại Estonia, mức thuế lại bằng 0. Latvia không đánh thuế
lợi tức. Ở Ba Lan, CH Czech, Hungary, mức đánh thuế thu nhập tối đa là 40%, nhưng
đang giảm. Tại Berlin, Thủ tướng Đức kêu gọi chống "phá giá thuế", song các nước
thành viên mới không mảy may quan tâm, vì họ đang cần đầu tư nước ngoài. Còn Áo,
58
vì lo ngại trước tình trạng chuyển dịch sản xuất ra nước ngoài, nên từ năm 2005 sẽ giảm
thuế doanh nghiệp xuống còn 25%.
- Ở các nước thành viên mới, số người muốn sang một trong các nước EU 15 là thanh
niên, có bằng đại học hay còn là sinh viên và số nữ muốn đi ngày càng nhiều. Trong 5
năm tới, khoảng 3% số nữ thanh niên trong độ tuổi từ 15 đến 24 có thể sẽ sang Tây Âu
sinh sống và làm việc. Trong 10 nước thành viên mới, có tới 2/3 số thanh niên có thể
tham gia trao đổi bằng một thứ tiếng khác (47% là tiếng Anh) và chỉ có 17% không biết
ngoại ngữ so với 32% ở các nước thành viên mới. Trong khuôn khổ đó, gần 4.500 thanh
niên Ba Lan, 2.500 thanh niên Czech và hơn 1.500 thanh niên Hungary đã được hưởng
học bổng Erasmus trong 2 năm 2001 và 2002.
Sự phồn vinh đã đến với liên minh khi người dân ở đây được hưởng mức sống với
những tiêu chuẩn xã hội cao. EU đã thành công khi tạo dựng hình mẫu xã hội châu Âu
công bằng và dân chủ. Không những thế, khối thị trường chung dần phát triển thành thị
trường duy nhất - khu vực trao đổi thương mại rộng lớn nhất trên thế giới. Đồng ơ-rô là
biểu tượng thành công cho tiến trình nhất thể hóa kinh tế của EU, mang đến cho người
dân EU những cơ hội tốt nhất trong việc lựa chọn sản phẩm với giá cả cạnh tranh.
Với sức mạnh kinh tế, vị thế của EU trên thế giới ngày càng vững chắc. Các nước thành
viên của EU cùng "sát cánh bên nhau" trong cuộc chiến chống khủng bố, tội phạm
quốc tế và nhập cư bất hợp pháp. EU kêu gọi thế giới giải quyết xung đột bằng hòa bình
và mong muốn con người sẽ không còn là nạn nhân của các cuộc chiến hay bạo lực. EU
đoàn kết vì sự tự do và phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới; kêu gọi đẩy lùi
đói nghèo, bệnh dịch; bảo vệ môi trường toàn cầu trước sự thay đổi của khí hậu; tiếp tục
đóng vai trò chính trong các hoạt động nhân đạo.
Năm mươi năm trôi qua, EU đã có được một nền hòa bình và thịnh vượng. Mỗi nước
thành viên của EU đều đóng góp vào sự thống nhất châu Âu và sự ổn định của nền dân
chủ ở đây. Sự vắng bóng của những cuộc xung đột giữa các quốc gia thành viên là một
minh chứng sống động cho sự liên kết chặt chẽ này. Với 27 nước thành viên, EU ngày
nay đã trở thành động cơ hòa bình trên thế giới.
59
4. Thách thức: Khối EU chắc chắn sẽ gặp những rào cản khá lớn từ phía Mỹ bởi hành
động này đã từng xảy ra trong những năm gần đây. Một Châu Âu "to lớn", một ảnh
hưởng rất lớn tới thế giới sẽ làm cho Mỹ phải "ngồi lại" để "ngẫm nghĩ" và chắc chắn sẽ
có những động thái làm quan ngại tới quan hệ thương mại hai bên.
Còn một vài điều mà EU phải làm như Hiến pháp vốn đang bị một vài nước không bỏ
phiếu tán thành (Ba Lan, Tây Ban Nha), vấn đề về việc làm, chi phí nhà ở, mức sinh hoạt,
văn hoá dân tộc và đặc biệt là làn sóng di cư, nhập cư giữa các quốc gia trong EU. Khủng
bố và an ninh giữa các quốc gia sẽ là những vấn đề gây rất nhiều khó khăn cho những nhà
lãnh đạo trong tương lai tới đây.
Thứ nhất, EU phải bảo đảm vai trò chủ chốt trợ giúp các nước thành viên phát triển trong
một môi trường toàn cầu hóa. Do vậy, trước hết, EU cần phải chú trọng tới vấn đề tăng
trưởng và việc làm, khuyến khích cạnh tranh trong hoạt động kinh tế, đồng thời hướng tới
việc cải thiện cơ chế bảo hộ xã hội. EU sẽ phải đầu tư hơn nữa vào các công nghệ mũi
nhọn, nghiên cứu khoa học, vì đây là những nhân tố giúp nâng cao khả năng cạnh tranh
của EU trên thế giới. Nhất là khi tiến trình toàn cầu hóa đang ngày càng trở thành
"phương tiện kiếm lời" của tất cả các quốc gia từ quá trình hội nhập kinh tế và tài chính
quốc tế mà trong đó sẽ có kẻ thắng, người thua. Ngoài ra, toàn cầu hoá kinh tế sẽ dẫn đến
hiện tượng lưu chuyển nguồn nhân công trong thị trường lao động và EU sẽ phải gánh
chịu áp lực từ mọi phía do số lượng người nhập cư mang lại. Do không còn đường biên
giới nội khối, giờ đây, EU sẽ cần đến những quy định về vấn đề nhập cư đối với đường
biên giới ngoài khối. Tuy nhiên, trong tương lai, EU sẽ phải chấp nhận chính sách nhập
cư khi sự già hóa dân số và tình trạng thiếu hụt nhân công trong nội bộ trở thành những
mối đe dọa.
Thứ hai, thiết lập những biện pháp đối phó với sự thay đổi khí hậu toàn cầu. Nhiệt độ trái
đất ngày càng nóng lên cùng khí thải gây hiệu ứng nhà kính đang trở thành mối đe dọa
nghiêm trọng tới môi trường. EU hiện chưa có giải pháp nào mang tính toàn cầu nhằm
cứu vãn tình trạng này. Trước mắt, EU kêu gọi các nước thành viên tham gia chiến dịch
giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ nay tới năm 2012 theo những quy định bắt buộc
60
của Hiệp ước Ki-ô-tô. Bên cạnh đó, việc xây dựng chương trình đàm phán nhằm đưa ra
những đề xuất thu hút sự tham gia tích cực và trách nhiệm hơn từ các đối tác chính gây ra
khí thải dẫn tới hiệu ứng nhà kính là đặc biệt cần thiết. Một phần kế hoạch nữa của EU
được hướng tới việc tăng cường sử dụng hiệu quả năng lượng nhằm giảm 20% mức tiêu
thụ năng lượng của khối từ nay đến năm 2020; khuyến khích các nước dùng năng lượng
tái sinh trong sản xuất. EU tiến tới việc hoàn thiện thị trường nội khối về điện và khí ga;
xúc tiến thiết lập quan hệ với các đối tác cung cấp năng lượng ổn định và lâu dài.
Thứ ba, duy trì hòa bình và ổn định nội khối. Ngày nay, mâu thuẫn hay xung đột giữa
các nước thành viên EU là điều không thể xảy ra nhờ có sự hợp nhất mà họ đã tạo dựng
trong suốt 50 năm qua. Nhưng trong một thế giới bất ổn, phức tạp và đầy biến động, liên
minh phải tiếp tục duy trì hòa bình và ổn định hơn nữa trong nội bộ. Để làm được điều
đó, liên minh cần tăng cường tham gia các hoạt động can thiệp giải quyết xung đột và gìn
giữ hòa bình; tạo ảnh hưởng trong việc định chế các chính sách thương mại quốc tế một
cách hiệu quả và công bằng; tiếp tục đóng vai trò trợ giúp nhân đạo và phát triển...
EU phải bảo đảm an ninh đối với các quốc gia thành viên; thiết lập mạng lưới an ninh tại
các vùng sát đường biên giới của khối như phía Bắc Địa Trung Hải, vùng Ban-căng,
Trung Đông; bảo toàn hợp tác quân sự và chiến lược với các liên minh như Liên minh
Đại Tây Dương và Chính sách an ninh quốc phòng chung châu Âu (PESD).
Thứ tư, tăng cường dân chủ trong thể chế, chính sách và xã hội châu Âu, đồng thời thực
hiện những công cụ pháp lý và quản lý tốt hơn nữa. Song, giải quyết vấn đề này không dễ
dàng. Cuộc thử nghiệm đầu tiên vào năm 2005 đã thất bại khi dự án về Hiến pháp châu
Âu bị cử tri hai nước Pháp và Hà Lan tẩy chay. Theo những nhà lãnh đạo EU, nguyên
nhân của thất bại này là do người dân châu Âu không được cung cấp đầy đủ thông tin về
bộ máy lãnh đạo EU, các quyền và lợi ích chính đáng của họ chưa được bảo đảm… Bởi
vậy, nhiều dự án đã được giới lãnh đạo EU đề xuất nhằm khôi phục quan hệ với người
dân thông qua việc trao thêm quyền cho họ trong tham gia xây dựng các quyết sách liên
quan tới tương lai của EU, đặc biệt là việc cải cách thể chế mà EU sẽ phải thực hiện trong
nhiều năm tới thì mới có thể vận hành một cách hiệu quả hơn.
61
Khối EU chắc chắn sẽ gặp những rào cản khá lớn từ phía Mỹ, bởi hành động này đã từng
xảy ra trong những năm gần đây. Một châu Âu "to lớn", một ảnh hưởng rất lớn tới thế
giới sẽ làm cho Mỹ phải "ngồi lại" để "ngẫm nghĩ" và chắc chắn sẽ có những động thái
làm quan ngại tới quan hệ thương mại hai bên.
VIII. Kiến Nghị và Đề Xuất
1. EU là thị trường chiến lược quan trọng còn nhiều tiềm năng mà Việt Nam
chưa khai thác hết. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế có thể canh
tranh với các đối thủ khác một khi chất lượng được cải thiện, giá cả hợp lý. Bên cạnh
đó kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU còn nhiều hạn chế. Trong khi thế mạnh
sản xuất của EU là những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao (máy móc, thiết bị công
nghệ cao ….) mà Việt Nam đang rất cần để thực hiện thành công chiến lược: Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm.
2. Để giảm rủi ro, thua thiệt khi thâm nhập thị trường EU đòi hỏi các doanh
nghiệp Việt Nam phải thông hiểu “luật chơi” của EU như: Hệ thống luật pháp , các rào
cản kỹ thuật … cũng như việc tìm hiểu phong tục tập quán , thị hiếu tiêu dùng của
công dân EU. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường
một cách có hiệu quả hơn.
3. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại , tổ chức hội chợ , triển lãm ,
trưng bày hàng hóa , giới thiệu sản phẩm của Việt Nam tại EU . Thông qua đó giúp
các doanh nghiệp Việt Nam có những thông tin thiết thực về : giá cả , mẫu mã , chất
lượng sản phẩm , chiến lược hậu mãi của các đối thủ cạnh tranh; nhằm nâng cao năng
lực canh tranh cho các doanh nghiệp tại EU .
4. Các tham tán thương mại, văn phòng đại diện thương mại của Việt Nam tại
EU cần nhạy bén và cung cấp kịp thời , đầy đủ , chính xác các thông tin thị trường ,
những biến động và dự báo xu hướng tiêu dùng của thị trường châu Au. Nhằm giúp
các doanh nghiệp Việt Nam kịp thời điều chỉnh các quyết định chiến lược về cơ cấu
xuất nhập khẩu vào thị trường châu Au .
5. Các doanh nghiệp Việt Nam cần giảm xuất khẩu qua trung gian trên cơ sở
đẩy mạnh việc thâm nhập, tiếp cận và mở rộng kênh phân phối sản phẩm thông qua
các các văn phòng đại diện Việt Nam tại EU. Trực tiếp thiết lập mối quan hệ với các
62
nhà nhập khẩu EU; tăng cường xuất khẩu trực tiếp, giảm dần phương thức gia công,
khuyến khích sử dụng nguyên vật liệu trong nước nhằm tăng hiệu quả kinh tế, tạo việc
làm cho lao động trong nước.
6. Triển khai xây dựng các trung tâm thương mại Việt Nam tại EU , thiết lập
các đầu mối trung chuyển hàng hóa vào EU. Xây dựng kho ngoại quan , phát huy vai
trò của cộng đồng người Việt tại EU. Nhằm thiết lập cầu nối hàng hóa giữa các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam với thị trường bản địa.
7. Vấn đề xây dựng thương hiệu: sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đa số
dưới hình thức gia công và FOB nên không có thương hiệu. Qua nhiều năm gia công ,
chất lượng hàng hóa của Việt Nam đã được cải thiện nhiều. Chất lượng chính là những
viên gạch xây dựng thương hiệu; đồng thời nó cũng là “lời hứa” đảm bảo đối với hàng
hóa và đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng. Tạo được thương hiệu nổi tiếng là
biện pháp, cơ hội, triển vọng vững chắc nhất để các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập
thị trường EU. Con đường ngắn nhất và có hiệu quả nhất cho các doanh nghiệp Việt
Nam tạo lập được thương hiệu có uy tín trên thị trường châu Au theo tôi là: Trước tiên
doanh nghiệp Việt Nam liên doanh với những đối tác có nhãn hiệu nổi tiếng nhằm tạo
chỗ đứng trong các kênh phân phối. Đồng thời các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư chiều
sâu, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm; nhằm tạo dấu ấn
trong tâm trí người tiêu dùng EU. Dần dần xây dựng những hàng hóa mang nhãn hiệu
Việt Nam. Đây là yêu cầu tất yếu của môi trường kinh doanh quốc tế đầy cạnh tranh
hiện nay. Doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng xúc tiến đăng ký bảo hộ thương
hiệu sản phẩm tại EU. Trước hết ưu tiên cho những sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị
trường EU.
8. Trong giao thương quốc tế khi rào cản thuế quan dần được tháo dỡ thì tiêu
chuẩn kỹ thuật của hàng hàng hóa lại là rào cản chính trong thương mại. Vì vậy chúng
ta phải đẩy mạnh tiêu chuẩn hóa theo hướng hài hòa các tiêu chuẩn quốc gia với các
tiêu chuẩn quốc tế nhằm mục đích: cùng chung một tiêu chuẩn, một giấy chứng nhận
… đã được chấp nhận tại các quốc gia. Điều này tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi
phí cho hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên cho đến nay tiêu chuẩn Việt Nam
63
(TCVN) hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế ) mới chỉ đạt 20% (1200 TCVN/5600 TCQT).
Dự kiến tăng lên 30% trong vòng 5 năm tới .
9. Tiếp tục đầu tư vốn, đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm tăng năng suất lao
động , tăng chất lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất và cho ra đời những sản phẩm
có khả năng đáp ứng nhu cầu cao tại EU trên cơ sở thân thiện hơn với môi trường và
phù hợp với thị hiếu tiêu dùng luôn biến động tại EU.
VII. Phụ Lục
1. Xuất khẩu da giày vào EU suy giảm lợi thế giá
Trước việc EU công bố đưa ngành da giày VN ra khỏi hệ thống ưu đãi thuế quan
phổ cập, Hiệp hội Da giày VN đã chính thức lên tiếng.
Theo ông Đinh Đức Thuấn, Chủ tịch Hiệp hội Da giày VN, thời gian qua, Chính
phủ, Bộ Công thương và Hiệp hội Da giày VN đã nỗ lực trong các cuộc đàm phán
với Ủy ban châu Âu và các thành viên EU để nhóm hàng mục 12 tiếp tục được
hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập GSP song kết quả không được thuận lợi.
Trong cuộc họp ngày
11/6, các thành viên EU
đã bỏ phiếu thông qua dự thảo ưu đãi thuế quan chung GSP giai đoạn 2009-2011 mà Ủy
ban châu Âu đề xuất, trong đó mục 12, chủ yếu là giày dép của VN sẽ không được hưởng
ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của EU nữa.
64
Trong thời gian tới, thủ tục tiếp theo là dự thảo này sẽ trình lên Hội đồng châu
Âu xem xét để thông qua chính thức (dự kiến đầu tháng 7/2008).
Nếu bãi bỏ GSP, lợi thế cạnh tranh về giá của sản phẩm da giày VN sẽ suy
giảm so với các nước khác trong khu vực. Bình quân mỗi đôi giày xuất khẩu
phải tăng thêm thuế nhập khẩu vào EU từ 3,5-5%.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là gần 2,2 tỷ USD thì khả năng phát
sinh thêm khoảng gần 110 triệu USD
Bên cạnh đó, có thể có một số đối tác nước ngoài sẽ di dời đơn hàng sang các
nước khác trong khu vực để tranh thủ lợi thế GSP. Nhưng theo Hiệp hội, khối
lượng đơn hàng xuất đi do việc ảnh hưởng bởi GSP không nhiều.
Tuy nhiên, theo ông Thuấn, năng lực cạnh tranh của ngành da giày thì không
ảnh hưởng bởi GSP. Vì các yếu tố chính quyết định năng lực cạnh tranh của
ngành đối với một quốc gia là: ưu đãi thuế quan của thị trường nhập khẩu, chi
phí về nguồn cung cấp nhân công, nguồn cung cấp nguyên, nhiên, vật liệu, các
chính sách ưu đãi của Chính phủ.
Các nước mà ngành da giày có năng lực cạnh tranh so với ngành da giày VN
hiện nay là Trung Quốc, Indonesia và Bangladesh.
Tuy nhiên, hiện nay, tình hình của Trung Quốc là giá nhân công và chi phí đầu
vào tăng rất cao. Do vậy, Trung Quốc đã mất ưu thế cạnh tranh về giá và nhân
công so với Việt Nam. Còn lại Bangladesh và Indonesia, tuy được ưu đãi thuế
quan ở thị trường EU nhưng ở các nước này, tình hình an ninh và chính trị
không ổn định. Như vậy, Việt Nam vẫn còn lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là về
nhân công.
Từ sau vụ kiện bán phá giá giày mũ da vào EU, các DN da giày đã đa dạng hóa
thị trường, chuyển sang thị trường Bắc Mỹ, Nhật, sản xuất nhiều giày kỹ thuật
cao và các chủng loại giày không thuộc diện chịu thuế, nhằm giảm tối thiểu
thiệt hại xảy ra. Đồng thời, các DN phối hợp và thương lượng với các nhà nhập
khẩu về rủi ro do bị áp thuế, các nhà bán lẻ và người tiêu dùng châu Âu cũng
từng bước thích nghi được với mức thuế này.
65
Hiệp hội Da giày VN khuyến nghị các DN trong ngành áp dụng đồng bộ các
phương pháp quản lý mới nhằm tiết giảm chi phí quản lý, đẩy mạnh xúc tiến
thương mại, tìm kiếm mở rộng thị trường mới, đây là giải pháp cần thiết để
duy trì khả năng cạnh tranh trong điều kiện thị trường EU gặp khó khăn như
hiện nay. Đồng thời, Hiệp hội kiến nghị Chính phủ và các bộ ngành tiếp tục
đàm phán với EC để nhóm hàng 12 tiếp tục được hưởng GSP, tạo điều kiện
thuận lợi cho các DN ổn định sản xuất và xuất khẩu sang EU.
2. Từ 1-1-2009, EU chính thức “loại” giày da Việt Nam ra khỏi GSP
Ngày 13-6, Liên minh châu Âu (EU) công bố quy chế về hệ thống ưu đãi
thuế quan phổ cập (GSP) dành cho các nước nghèo nhất trong giai đoạn
2009-2011, trong đó đưa ngành giày dép da
Việt Nam ra khỏi GSP. Đại sứ,
Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam, ông
Sean Doyle (ảnh), đã dành cho báo chí
cuộc trao đổi xung quanh sự kiện này.
Ông Sean Doyle nói:
Việc xem xét lại hệ thống thuế quan phổ
cập (thuế quan ưu đãi cho những quốc
gia nghèo nhất) đã khẳng định thành công của Việt Nam trong đa dạng hóa
các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường EU và giảm sự phụ thuộc nặng nề
vào một số mặt hàng chính. Lần xem xét này cho thấy sự vững mạnh và
khả năng cạnh tranh của ngành giày da Việt Nam. Như vậy, chỉ duy nhất
ngành giày dép Việt Nam sẽ “tốt nghiệp” GSP và đưa ra khỏi hệ thống này
từ ngày 1-1-2009
Cơ chế GSP của EU quy định, các ngành đạt tới ngưỡng 15% sẽ tiếp tục
được hưởng GSP nếu ngành đó chiếm trên 50% tổng số các mặt hàng được
hưởng GSP của một nước. Mặt hàng giày dép nằm trong GSP của Việt
Nam chiếm mức trung bình là 19,9% trong giai đoạn 2004-2006.
Hơn thế nữa ngành giày dép được hưởng GSP chiếm tỷ lệ trung bình là
49,1% trong tổng kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu được hưởng GSP của
Việt Nam. Trên cơ sở này, và theo quy chế GSP và quy định WTO, EU kết 66
luận rằng ngành giày dép của Việt Nam rất cạnh tranh và Việt Nam đã
không còn quá phụ thuộc vào xuất khẩu giày dép nữa. Đáng lẽ Việt Nam đã
phải “tốt nghiệp” từ giai đoạn 2005-2008 rồi.
Tuy nhiên, EU vẫn sẵn sàng dành cho các ngành hàng của Việt Nam bao
gồm cả ngành giày da một hệ thống thuế quan lâu dài và thậm chí rộng rãi
hơn trong khuôn khổ đàm phán khu vực tự do thương mại EU-ASEAN liên
quan đến phần đàm phán song phương với Việt Nam
°EU đã nghiên cứu dệt may cách đây 2 năm cho thấy, ngành này có 1 triệu
nhân công và rất nghèo. Trong bối cảnh khó khăn, xuất hiện tình trạng đình
công, trong đó có ngành giày da. Khi EU đưa ngành giày da Việt Nam ra
khỏi hệ thống GSP, sẽ có tác động tiêu cực như thế nào đối với giày da và
những người nghèo ở Việt Nam
°Cách đây 3 năm có nửa triệu người Việt Nam trong ngành giày dép sẽ bị
ảnh hưởng, nhưng tôi không thấy có ảnh hưởng nào trong xuất khẩu, mà
xuất khẩu còn rất tốt. Con số này tăng lên cho thấy ngành này đang phát
triển.
Tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU năm 2007 tăng 10,6% và đạt tổng giá
trị 2,17 tỷ USD (năm 2006 là 1,96 tỷ USD). Ngành giày dép Việt Nam thể
hiện những dấu hiệu lớn mạnh tương tự với 20% giày dép xuất khẩu sang
EU thậm chí không hưởng GSP
Điều này nói lên rằng số nhà xuất khẩu ngày càng gia tăng có khả năng bán
ở những mức giá cạnh tranh trên thị trường EU mà không có đặc quyền đặc
lợi gì nhưng đã tạo đòn bẩy cho những phương diện khác như chất lượng,
kiểu dáng và thương hiệu
FTA là một công cụ thích hợp hơn, hiện đại hơn đối với cơ cấu thương mại
ngày càng tinh vi và tốc độ phát triển nhanh chóng của Việt Nam. Chúng
tôi hi vọng rằng Việt Nam sẽ toàn tâm tham gia vào tiến trình này để cơ chế
đó có thể thực hiện được càng sớm càng tốt cho cho các doanh nghiệp Việt
Nam như là một phần của một khung thể chế lâu dài và ổn định
Thêm vào đó, Ủy ban châu Âu sẽ tiếp tục ủng hộ những cố gắng của Việt
Nam trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh thương mại quốc tế và hoạt 67
động thương mại thông qua ODA. Trong bối cảnh này việc ký kết các hiệp
định cho dự án MUTRAP mới (để hỗ trợ các chính sách thương mại của
Việt Nam) trị giá 10 triệu euro nhằm giúp Việt Nam từng bước tham gia
vào các cơ chế kinh tế - thương mại toàn cầu.
(Nguồn Báo Sài Gòn Giải phóng)
(http://www.investnghean.gov.vn/news/default.asp?m=3&act=view&id=397)
3. Suy thoái kinh tế sẽ gây những khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam sang EU
trong năm 2009
Thương mại hai chiều Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EU) trong năm 2008 đạt
mức 15,8 tỷ USD, tức là tăng 13,9% so với năm 2007.
Do giới hạn về việc hội nhập tài chính thế giới và sự có mặt hạn chế của các tổ
chức tài chính quốc tế ở Việt Nam, nên Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp
hoặc ngay lập tức bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, do đó ảnh hưởng của sự suy
giảm chỉ có thể cảm nhận ở một vài tháng sau đó, khi khủng hoảng tác động tới
các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như EU, Mỹ và Nhật Bản. Đáng lưu
ý là dự đoán tăng trưởng trong năm 2009 của khu vực châu Âu giảm 0,4%, ở Mỹ
là 2% và ở Nhật là 0-1%.
Tuy nhiên, chúng ta không nên quá vội vàng đưa ra kết luận bởi vì ảnh hưởng từ
cuộc khủng hoảng tài chính vẫn chưa rõ ràng.
Dù xuất khẩu của Việt Nam có thể giảm sút do sự suy giảm kinh tế toàn cầu,
chúng ta cần phải lưu ý rằng tại các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam,
người dân vẫn có nhu cầu hàng hóa tiêu dùng giá thấp, hơn nữa những người tiêu
dùng trước đó mua hàng hóa giá đắt có thể chuyển sang mua sản phẩm của Việt
Nam với giá rẻ hơn.
Nói cách khác, sự dịch chuyển ưu tiên mua sắm có thể nhận thấy rõ ràng và do đó
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam với giá cạnh tranh sẽ bù đắp thua lỗ đã được dự
báo trước
4. Những khó khăn của Việt Nam khi tham nhập thị trường EU.
Với 27 quốc gia thành viên, EU là một thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế
giới. Tuy nhiên, đây cũng là một trong những thị trường khó tính với nhiều tiêu 68
chuẩn nghiêm ngặt và chặt chẽ được lập ra áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu.
Đối với mỗi một mặt hàng, thị trường châu Âu đều có những tiêu chuẩn áp dụng
riêng, chẳng hạn như: mặt hàng rau quả tươi yêu cầu đạt chứng chỉ chất lượng
GAP, mặt hàng thủy sản phải đạt chứng nhận chất lượng của Cục Quản lý an toàn
vệ sinh và thú y thủy sản (NAFIQUAVED) cấp, mặt hàng lâm sản, đồ gỗ khi xuất
vào thị trường châu Âu phải có chứng chỉ rừng FSC (Forest Stewardship Council -
Hội đồng Quản lí rừng Quốc tế).
Tham gia thị trường các nước châu Âu, doanh nghiệp không chỉ phải đối mặt với
những tiêu chuẩn chung, mà còn phải thỏa mãn những quy định riêng của từng nhà
nhập khẩu hàng hóa, bởi lẽ các nhà nhập khẩu vẫn có thể đưa ra những quy định
riêng cho hàng hóa trong hệ thống phân phối của mình
. Để tiếp cận được thị trường EU, hàng hóa cần vượt qua những rào cản về tiêu
chuẩn. Hai vấn đề lớn nhất đối với hàng hóa xuất khẩu vào EU là an toàn thực
phẩm và chất lượng.
69
70
71