chøc n¡ng ph¶n biÖn x· héi cña b¸o chÝ ë viÖt nam hiÖn...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN MINH
CHøC N¡NG PH¶N BIÖN X· HéI CñA B¸O CHÝë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số : 62 31 20 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS LÊ MINH QUÂN
2. GS,TS NGUYỄN VĂN HUYÊN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các tài liệu, số liệu tham khảo, trích dẫn trình bày
trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Minh
MỤC LỤC
TrangMỞ ĐẦU 1Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 81.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến chức năng
phản biện xã hội của báo chí 81.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến chức năng
phản biện xã hội của báo chí 181.3. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu về chức năng phản biện
xã hội của báo chí và những vấn đề đặt ra cho luận án 32Chương 2: LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA
BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM 362.1. Phản biện xã hội và phản biện xã hội của báo chí 362.2. Chức năng phản biện xã hội của báo chí và các tiêu chí đánh
giá việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí 65Chương 3: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 933.1. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay 933.2. Những thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra trong việc thực hiện
chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay -đánh giá theo các tiêu chí của phản biện xã hội của báo chí 104
Chương 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNCAOCHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨCNĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆTNAM HIỆN NAY 138
4.1. Những quan điểm cơ bản về nâng cao chất lượng và hiệu quảthực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Namhiện nay 138
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệuquả thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở ViệtNam hiện nay 147
KẾT LUẬN 171DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN 173DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 174
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DLXH : Dư luận xã hội
HTCT : Hệ thống chính trị
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
PBXH : Phản biện xã hội
QLCT : Quyền lực chính trị
QLNN : Quyền lực nhà nước
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Báo chí cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam sáng lập và lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lấy việc phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân làm mục tiêu cao cả của mình. Báo chí cách mạng nước ta được xác định
là công cụ chủ yếu trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, phát luật của Nhà nước, tập hợp và đoàn kết, nâng cao và bồi
dưỡng tri thức khoa học và tình cảm cách mạng trong quần chúng nhân dân.
Từ khi ra đời, báo chí cách mạng nước ta đã có những đóng góp to lớn
và hiệu quả vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, xây dựng bảo vệ và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa (XHCN). Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
báo chí nước ta đã đóng góp to lớn vào những thành tựu chung của đất nước,
đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước đang phát
triển với mức thu nhập trung bình (ở mức thấp); giữ vững ổn định chính trị,
tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá - xã hội,
củng cố quốc phòng - an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại; đưa đất nước
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và
hội nhập quốc tế.
Trong thời kỳ đổi mới, báo chí nước ta phát triển ngày càng mạnh mẽ
cả về số lượng và chất lượng; chức năng, nhiệm vụ của báo chí ngày càng
được mở rộng và nâng cao; báo chí không chỉ là cơ quan ngôn luận của Đảng
và Nhà nước, mà còn là diễn đàn, là tiếng nói của nhân dân; không chỉ đưa
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân, mà còn phản
ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến với Đảng và Nhà
nước. So với trước thời kỳ đổi mới, chức năng và nhiệm vụ của báo chí nước
ta đã có sự đổi mới đáng kể. Trước đổi mới báo chí nước ta chỉ thực hiện
2
chức năng là công cụ, phương tiện tuyên truyền, giáo dục, cổ động; báo chí
tuyên truyền một chiều, đường lối chính sách từ trên đưa xuống để nhân dân
tiếp thu, thực hiện mà không cần và ít có ý kiến góp ý, phản hồi; nhận thức
chung của xã hội cho rằng báo chí phải phản ánh đúng quan điểm đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, những gì trái với đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước đều không thể chấp nhận, thậm chí còn bị quy kết về
lập trường, quan điểm.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN và hội nhập quốc tế, nhu cầu về
tự do, dân chủ và thông tin trong xã hội ngày càng lớn; các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, những quyết định liên quan đến đời sống của
nhân dân, quyền và nghĩa vụ của công dân, chức năng và nhiệm vụ các tổ chức
trong hệ thống chính trị nước ta, các quan hệ đối nội và đối ngoại liên quan đến
lợi ích quốc gia, dân tộc ngày càng cần được công khai, minh bạch và tham gia
đóng góp ý kiến của nhân dân. Nhu cầu đóng góp ý kiến cho Đảng và Nhà nước
ngày càng lớn, làm xuất hiện nhu cầu chính đáng của nhân dân về phản biện xã
hội (PBXH). Và nhu cầu báo chí phản ánh ý kiến đóng góp cho Đảng và Nhà
nước ngày càng lớn của nhân dân, của xã hội làm xuất hiện chức năng PBXH
của báo chí. Từ đây báo chí nước ta một cách khách quan bắt đầu có chức
năng và nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn và phức tạp là PBXH.
Thời gian qua, ở nước ta đã xuất hiện nhiều tổ chức có các chức năng
phản biện xã hội, như của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, v.v.. Với PBXH,
báo chí nước ta đã và đang có những đóng góp to lớn trong việc phản ánh góp
ý và kiến nghị của nhân dân với Đảng và Nhà nước trong việc khắc phục
những hạn chế, bất cập trong chủ trương, chính sách. Do đó chức năng PBXH
của báo chí ngày càng được xác định và thừa nhận. Nội dung và hình thức,
phương pháp và kỹ năng PBXH của báo chí nước ta ngày càng được hình
3
thành và phát triển. Tuy nhiên, PBXH của báo chí còn thấp so với yêu cầu,
chưa kịp thời và hiệu quả còn hạn chế.
Thực tiễn công cuộc đổi mới ngày càng định hình và làm rõ những
chức năng của báo chí, trong đó có chức năng PBXH. Đến nay chức năng này
được các cá nhân, tổ chức, thường xuyên đề cập, sử dụng đến thuật ngữ “chức
năng phản biện của báo chí”. Đã có nhiều cuộc hội thảo, diễn đàn trao đổi về
nội dung này và các ý kiến tập trung cho rằng cần phải khẳng định và tăng
cường chức năng này trong hoạt động báo chí. PBXH của báo chí không chỉ
còn là vấn đề chính trị, pháp lý mà còn là vấn đề văn hóa (văn hóa chính trị,
văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật, văn hóa đổi mới, v.v.); là vấn đề dám
nghĩ và dám làm, dám tranh luận và phản biện, dám tiếp thu và sửa chữa
trước yêu cầu khách quan của thực tiễn đổi mới đất nước.
Ở các nước phương Tây, với sự tồn tại của xu hướng chính trị và quyền
lực khác nhau, sự tranh giành ảnh hưởng và uy tín trong xã hội đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập, PBXH của báo chí có vị trí và vai trò rất lớn.
Trong xã hội dân chủ tư sản, ý kiến của đại đa số nhân dân và dư luận xã
hội được coi là áp lực quan trọng thậm trí đối trọng với quyền lực nhà nước.
“Sức mạnh của báo chí truyền thông chính là bắt nguồn từ sức mạnh dư luận xã
hội. Do đó nói báo chí là quyền lực thứ tư thực chất là quyền lực của nhân dân
của dư luận xã hội mà báo chí là kênh truyền dẫn và liên kết sức mạnh của dư
luận xã hội” [35, tr.56].
Với PBXH, báo chí ở đây đã trở thành một loại quyền lực xã hội, giám
sát và đối trọng với chính quyền.
Ở nước ta, trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo xã hội
và trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì
PBXH, trong đó có PBXH của báo chí càng trở nên cần thiết. PBXH nói chung
và của báo chí nói riêng giúp cho các cấp ủy Đảng, chính quyền hạn chế được
những bất cập và, thậm chí, những thiếu sót, sai lầm trong quá trình xây dựng và
4
thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; ngăn chặn và hạn
chế sự độc đoán, chuyên quyền, nạn quan liêu, tham nhũng; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí, ở đây, cũng có nghĩa là
nghiên cứu một phương thức kiểm soát quyền lực - quyền lực chính trị
(QLCT), quyền lực nhà nước (QLNN). Với chức năng PBXH, báo chí tạo
diễn đàn dân chủ, rộng rãi để nhân dân tham gia ngày càng đầy đủ vào công
việc chính trị, công việc nhà nước; vào việc kiểm soát quyền lực công,; khắc
phục các nguy cơ mất dân chủ, lạm quyền dẫn đến suy thoái quyền lực đe dọa
đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc.
Nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí chính là giải quyết những cơ sở
lý luận và thực tiễn. Những vấn đề về quan niệm, khái niệm, bản chất của PBXH
của báo chí, báo chí trong hệ thống chính trị nước ta, những tiêu chí trong hoạt
động phản biện. Thực tiễn hiện nay nhiều chính sách, pháp luật còn gặp nhiều
khó khăn, từ dự thảo, đến ban hành và thực thi trong cuộc sống, do đó là đòi hỏi
khách quan, cấp thiết hiện nay phải có phản biện của báo chí. Nhân dân luôn
quan tâm, mong chờ và cùng với báo chí nhằm thể hiện tiếng nói, quan điểm của
mình trước chính sách của cơ quan công quyền, liên quan đến lợi ích của nhân
dân. Bản thân cơ quan công quyền - chủ thể tiếp nhận phản biện cũng mong
muốn được phản biện để làm cho chính sách, pháp luật đúng đắn hơn giúp hiệu
lực quản lý, chỉ đạo của nhà nước có hiệu quả.
Những giả thiết (những câu hỏi nghiên cứu) của luận án:
Cho đến nay ở nước ta có những quan niệm khác nhau về PBXH của
báo chí, vậy đâu là quan niệm có cơ sở khoa học, thực tiễn và có thể trở thành
khái niệm phản ánh đúng nội hàm và bản chất PBXH của báo chí? Có hay
không PBXH của báo chí và PBXH qua báo chí hay chỉ là PBXH của báo
chí? Hiện nay ở nước ta, hoạt động PBXH của báo chí đã diễn ra - với những
kết quả, hạn chế và khó khăn nhất định, nhưng PBXH không chỉ là nhiệm vụ
5
khi cần thiết của báo chí hay còn là và phải là chức năng - hoạt động thể hiện
đặc tính có tính bản chất của báo chí? Đánh giá PBXH của báo chí nói chung
và của báo chí ở nước ta cần theo những tiêu chí nào; PBXH của báo chí ở
nước ta có mang tính phổ biến (phù hợp với thông lệ quốc tế) và tính đặc thù
(phù hợp với đặc điểm của Việt Nam) hay không? Quan điểm và giải pháp
thực hiện có hiệu quả chức năng PBXH của báo chí là cần thiết nhưng những
quan điểm và giải pháp ấy là gì? v) PBXH của báo chí cần được xem xét như
thế nào với tính cách một phương thức thực thi QLCT và QLNN ở nước ta?
Tình hình trên làm cho việc nghiên cứu vấn đề “Chức năng phản biện
xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay”, với tính cách một luận án tiến sĩ
chính trị học, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đíchTrên cơ sở lý luận về chức năng PBXH của báo chí, luận án làm rõ
thực trạng về thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra của việc thực hiện chức năng
PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay, nêu ra những quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng PBXH của
báo chí ở Việt Nam hiện nay và những năm tới.
2.2. Nhiệm vụMột là, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để làm
rõ những vấn đề đã được nghiên cứu (của các tác giả trong và ngoài nước),
làm tiền đề cho việc nghiên cứu tiếp theo của luận án này.
Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận về khái niệm và chức năng của báo
chí, của PBXH và PBXH của báo chí.
Ba là, làm rõ thực trạng theo những tiêu chí xác định thực hiện chức
năng PBXH của báo chí ở Việt Nam.
Bốn là, nêu ra những quan điểm và giải pháp nhằm thực hiện có hiệuquả chức năng PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay và những năm tới.
6
Bốn nhiệm vụ này sẽ được thực hiện tương ứng với 4 chương của luận án.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu3.1. Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề chức năng PBXH của báo
chí ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Phạm vi và giới hạn nghiên cứuPhạm vi nghiên cứu của luận án là việc xác định và thực hiện chức
năng PBXH của báo chí trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, từ gócđộ của Chính trị học - môn khoa học về quyền lực - QLCT và QLNN. Làcông trình đầu tiên nghiên cứu về chức năng và thực hiện chức năng của báochí ở Việt Nam, nên luận án tập trung hơn vào những vấn đề có tính khái quát- khái quát lý luận và thực tiễn, những chứng minh mới được khai thác ở mứcđộ cần thiết.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án4.1. Cơ sở lý luậnLuận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí vàchức năng, nhiệm vụ trong đó có chức năng, nhiệm vụ PBXH của báo chí cáchmạng, về quyền lực và thực thi QLCT, QLNN và những vấn đề có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứuLuận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: kết hợp lịch sử và
lô gích, phân tích và tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn, v.v..5. Đóng góp mới về khoa học của luận ánNhững đóng góp mới về khoa học của luận án là: Từ góc độ của chính
trị học PBXH của báo chí được xem xét với tính cách một phương thức thực
thi (nhất là phương thức kiểm tra, kiểm soát) QLCT, QLNN luận án đã làm rõ
những vấn đề sau đây: i) khái niệm và bản chất của PBXH của báo chí; ii)
những căn cứ khoa học của PBXH của báo chí và chức năng PBXH của báo
chí ở Việt Nam hiện nay; iii) những tiêu chí đánh giá chất lượng và hiệu quả
7
thực hiện chức năng PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay; iv) thực trạng
(những yếu tố tác động, thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra) của việc xác định
và thực hiện chức năng PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay; v) những
quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức
năng PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay và những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luậnLuận án làm sáng tỏ khái niệm và những cơ sở khoa học về tính tất yếu
và cơ chế thực hiện chức năng PBXH của báo chí ở Việt nam. Kết quả của
luận án có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu và giảng dạy Chính trị
học, Báo chí học và những bộ môn khoa học có liên quan.
6.2. Ý nghĩa thực thực tiễnLuận án góp phần vào việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Thông qua việc thực hiện chức năng PBXH của
báo chí, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy, QLCT, QLNN
của nhân dân ngày càng được kiểm tra, kiểm soát thực chất hơn. Luận án góp
phần cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện
chủ trương, chính sách và pháp luật về chức năng PBXH của báo chí.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, đề tài, sách báo, bài viết
ở trong và ngoài nước nghiên cứu, bàn về chức năng, nhiệm vụ PBXH của
báo chí dưới nhiều góc độ khác nhau. Đó là những vấn đề lý luận và phương
pháp cơ bản, có giá trị, làm cơ sở và định hướng cho quá trình nghiên cứu của
luận án.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN CHỨC
NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về phản biện xã hội
Ở Mỹ, trong các cuốn sách: "The Governmental Proceses" (Các quá trình
chính phủ) của David B.Truman [127] và "Dilemmas of Pluralistdemocracy"
(Những nan giải của nền dân chủ đa nguyên) của Robert A.Dahl [139], các
tác giả của nó - những người theo chủ nghĩa đa nguyên đã tập trung phân tích
sự hình thành của các nhóm lợi ích, các tổ chức chính trị xã hội cùng với các
quá trình chính trị nhà nước. Theo đó, trong xã hội hầu hết mọi người dân đều
tham gia vào các nhóm tổ chức với những lợi ích khác nhau, nên mỗi nhóm
lợi ích đều có xu hướng phân chia từ bên trong để nắm chắc một phần quyền
lực phù hợp với khả năng và mục tiêu của mình. Vì vậy, định hướng tổng thể
đối với chính sách công là kết quả của hàng loạt những ảnh hưởng từ các
nhóm lợi ích đến chính phủ - mà không có một nhóm nào ảnh hưởng tuyệt
đối. Các tác giả đánh giá cao vai trò to lớn của các nhóm lợi ích trong việc
ảnh hưởng đến quá trình chính sách và ngay cả bản chất nhà nước nhìn theo
giác độ này cũng chính là một nhóm lợi ích. Vì vậy toàn bộ quá trình chính trị
là quá trình tương tác, kiềm chế đối trọng giữa các nhóm, tầng lớp khác nhau
trong xã hội. Các tác giả thừa nhận rằng, các tổ chức và các thể chế có xu
9
hướng đề cao lợi ích làm cho chính sách công có thể bị khống chế bởi một vài
nhóm lợi ích nào đó có sức mạnh về tổ chức và có nguồn lực; hoặc nó cũng
có thể bị lôi kéo, giằng co giữa các đối thủ ngay trong khu vực nhà nước. Quá
trình hoạch định, quyết định, chính sách luôn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố;
sự cạnh tranh chính trị, các chiến lược vận động tranh cử, lợi ích nhóm, lợi
ích quốc gia và PBXH được hình thành từ đây.
Trong cuốn sách: "Interpetation and Social Criticism" (Chú giải và
phản biện xã hội), của Michael Walzer [136] đã phân tích làm sáng tỏ hoạt
động PBXH, đồng thời đưa ra một khuôn khổ triết lý để phân tích PBXH là
một hoạt động xã hội. Cuốn sách phản ánh thực tiễn phản biện xã hội, giải
thích nó và việc hình thành các chuẩn mực đạo đức của PBXH. Nội dung
cuốn sách còn đề cập đến tranh luận quan niệm đương đại khác nhau về
PBXH, lý thuyết và vai trò của trí thức trong việc hình thành các PBXH và
tạo nên sự thay đổi xã hội thông qua PBXH. Trên nền tảng chung này, PBXH
được nhìn nhận ở nhiều cấp độ khác nhau, cấp vĩ mô là sự hình thành, phát
triển các lý thuyết, hệ tư tưởng đang giữ vai trò chủ đạo trong xã hội; ở cấp độ
vi mô là sự phê bình, phản ánh, chỉ trích đường lối chính sách cụ thể của nhà
nước hoặc các hoạt động của nhà nước, đảng chính trị, phong trào xã hội, trên
cơ sở cách nhìn nhận xem xét, đánh giá và hướng tiếp cận khác nhau.
Trong cuốn sách: "Interest Group Politis" (Chính trị của các nhóm lợi
ích), Ssecond edition của Allan J. Cigler [125], các tác giả nghiên cứu vai trò
của các nhóm lợi ích trong quá trình hoạch định chính sách công, từ việc cung
cấp thông tin, dữ liệu phản ánh nhiều chiều, khía cạnh khác nhau của vấn đề
chính sách đến sự bình luận, chỉ trích phê phán của các nhóm, phương tiện
truyền thông và dư luận. Các nhóm cũng tập trung sự chú ý và thu hút ngày
càng đông đảo sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học các học giả
vào những vấn đề của mình về đời sống xã hội. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác
trong mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích và các ủy ban trong quá trình hoạch
10
định chính sách cũng có thể dẫn tới sự đồng thuận giữa nhóm lợi ích và các
quan chức nhà nước. Các nhóm lợi ích có thể cam kết ủng hộ nhất định về
phiếu cử tri, sự quyên góp tài chính cho hoạt động đảng phái, vận động tranh
cử và đổi lại các nhà lập pháp ở các ủy ban có thể ra những quyết sách, quyết
định thiên vị cho lợi ích của nhóm này. Ở đây PBXH được xem như một
phương thức giải quyết mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích.
Những công trình trên đây đều thể hiện quan điểm cho rằng, phản biện
xã hội là yêu cầu khách quan của bất kỳ hệ thống QLNN nào; nếu quyền lực
không được kiểm soát thì dẫn đến lạm quyền, quyền lực sẽ bị tha hóa. Tuy
nhiên, vấn đề PBXH, chức năng PBXH của báo chí chưa được các nhà tư
tưởng nêu lên trên cả hai phương diện: một là, đặt vấn đề nghiên cứu khoa
học về phản biện; hai là, các hoạt động thực tiễn của phản biện nói chung và
chức năng PBXH của báo chí nói riêng. Do vậy, đây còn là một trong những
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung làm sáng tỏ.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về chức năng phản biện xã hội của báo chí
- Ở Nga, Víchto Aphanaxép, tác giả của cuốn sách: "Quyền lực thứ tư
và bốn đời Tổng bí thư" [3] đã đề cập và làm rõ khái niệm quyền lực của của
báo chí, nêu sự ra đời của báo chí, vị trí, vai trò to lớn của báo chí trong các
thể chế chính trị. Khái niệm đó có ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh chi phối,
tác động của báo chí đối với đời sống xã hội. Cuốn sách đề cập và làm rõ hơn
việc các nhà lãnh đạo đã sử dụng báo chí trong xử lý công việc, coi đó như là
một quyền lực để lãnh đạo kinh tế, chính trị, xã hội. Tác giả chỉ ra, ở nhiều
nước trên thế giới, thể chế chính trị được xây dựng trên cơ sở học thuyết tam
quyền phân lập của Môngtétxkiơ. QLNN phân bổ cho hệ thống các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp theo nguyên tắc độc lập - ngang bằng - chế ước
lẫn nhau, nhằm mục đích phòng ngừa lạm dụng quyền lực. Vì vậy, quyền
được biết của công chúng trở thành hạt nhân của triết lý báo chí tự do và định
hướng đường đi cho báo chí trong quan hệ với HTCT.
11
A.A. Grabennhicốp cho xuất bản cuốn sánh: "Báo chí trong kinh tế thị
trường" [48]. Tác giả đã đề cập các đặc trưng của báo chí trong điều kiện thị
trường; những phương diện hoạt động chủ yếu của phóng viên, biên tập viên,
cộng tác viên trong tòa soạn; cơ cấu, chức năng của tòa soạn; quan hệ giữa
ban biên tập và độc giả - khán, thính giả; quy trình tổ chức in ấn, xuất bản
báo; những thể loại báo chí, v.v.. Tác giả đề cập đến báo chí và các phương
tiện truyền thông đại chúng trong việc quản lý xã hội về mặt chính trị - xã hội.
Muốn tồn tại được trong nền kinh tế, báo chí phải biến đổi theo nó, tuy nhiên
vấn đề là làm sao tìm được cho mình một hướng đi thích hợp. Báo chí cần
trung thực, phản ánh một cách nhanh nhạy chính xác và đặc biệt những người
cầm bút phải hết sức phòng, tránh trước những cám dỗ và cạm bẫy từ cuộc
sống. Cuốn sách nêu tương đối chi tiết những kiến thức nghiệp vụ làm báo,
giúp cho những nhà báo nhanh chóng nâng cao nghiệp vụ phát triển nghề
nghiệp của mình.
M.I.Sotak (2003) đã xuất bản cuốn sách: "Phóng sự - tính chuyên
nghiệp và đạo đức" [97]. Tác giả đã đề cập đến tính thời sự báo chí, mối quan
hệ giữa đạo đức nhà báo trong nghề viết phóng sự. Tác giả cho rằng, cần đẩy
mạnh hơn tính chuyên nghiệp cho nhà báo, đồng thời nêu vấn đề giáo dục đạo
đức trong phóng viên cũng như từng nhà báo cần rà soát việc thực hiện quy
định về đạo đức nghề nghiệp; cần quan tâm nâng cao trình độ chuyên môn,
bản lĩnh nghề nghiệp, đặc biệt là phẩm chất đạo đức của người làm báo đối
với phóng viên. Tác giả nhấn mạnh đến bản thân mỗi người làm báo, mỗi tòa
soạn phải phát huy trách nhiệm để nâng cao chất lượng đáp ứng mong muốn
của bạn đọc.
A.A.Chertưchơnưi (2004) xuất bản cuốn sách: "Các thể loại báo chí",
[28]. Cuốn sách đã nêu và làm sáng tỏ phần lý luận chung về các yếu tố hình
thành thể loại trong báo chí; đồng thời trình bày rõ hơn những khía cạnh, nội
dung chính của các thể loại báo chí được phân theo tính chất của các thể loại
12
tin, thể loại phân tích, thể loại chính luận - nghệ thuật. Đặc biệt, mỗi thể loại
được minh họa bằng nhiều bài viết hấp dẫn đã đăng tải trên báo và tạp chí ở
Nga nhằm người đọc có thể hình dung trực quan về diện mạo các thể loại báo
chí một cách sắc nét.
E.P. Prô kôrốp (2004) cho xuất bản cuốn sách: "Cơ sở lý luận báo chí",
[86]. Cuốn sách khái quát về lý luận nghiệp vụ báo chí, đưa ra khái niệm về
nghề nghiệp làm báo và đặc thù của hoạt động báo chí. Cuốn sách đưa ra
những quan niệm và cách tiếp cận khái niệm báo chí; báo chí trong mối quan
hệ gia cấp cầm quyền và nhà nước; vai trò của báo chí đối với đời sống xã
hội; đặc điểm của báo chí; bản chất hoạt động báo chí; đối tượng và cơ chế
hoạt động của báo chí; các chức năng cơ bản của báo chí và tự do báo chí
được xem là nền tảng lý thuyết báo chí. Trong cuốn sách có thể thấy được vai
trò của báo chí đối với xã hội trong đó có các chức năng của báo chí, mặc dù
báo chí chịu sự chi phối của nhà nước nhưng báo chí có tính độc lập tương
đối là kết lối sức mạnh của nhân dân và DLXH đây là vấn đề được đề tài rất
quan tâm.
- Ở Trung Quốc, năm 2005, Bùi Phương Dung xuất bản cuốn Công tác
tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới [34]. Cuốn sách chủ yếu phân tích
khái niệm công tác tư tưởng, vấn đề xây dựng đội ngũ những người làm công
tác tư tưởng, trong đó có lĩnh vực báo chí. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản
Trung Quốc coi tuyên truyền tư tưởng của Đảng là một phương tiện giáo dục,
động viên quần chúng nhân dân và mang tính chính trị rất cao, có đặc điểm là
công khai rộng rãi, kịp thời, nhanh nhạy, có thể đưa đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng vào trong quần chúng nhanh nhạy nhất, rộng rãi nhất và
biến thành hành động thực tế của quần chúng; có thể phản ánh một cách rộng
rãi ý kiến, tiếng nói, ý chí, nguyện vọng của quần chúng; có thể kịp thời
truyền bá tin tức trong nước và thế giới, trực tiếp tác động tới tư tưởng, hành
vi và xu hướng chính trị của quần chúng, hướng dẫn, khích lệ, động viên, tổ
13
chức quần chúng phấn đấn thực hiện lợi ích căn bản của mình. Tác giả nhấn
mạnh công tác tư tưởng, trong đó có báo chí phải kịp thời tổng kết kinh
nghiệm và rút ra từ thực tiễn những hoạt động góp ý kiến, phê bình của báo
chí đối với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Năm 2007, trên Tạp chí Học tập và Nghiên cứu lý luận, số 8, Điền
Trung Mẫn có bài Bàn về đổi mới công tác tư tưởng thời kỳ mới [77], đề cập
đến vai trò quan trọng của báo chí trong công cuộc xây dựng xã hội hài hòa,
khẳng định báo chí là thế mạnh chính trị quan trọng của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, đặc biệt là trong thời kỳ xã hội tiến hành cải cách. Nhấn mạnh, báo chí là
một phần quan trọng của công cuộc xây dựng xã hội hài hòa XHCN. Trong điều
kiện xã hội hiện nay, mở rộng dân chủ tự do tiến bộ báo chí có sức mạnh nhất
định, báo chí là diễn đàn quan trọng để xã hội trao đổi phản biện với Đảng và
Nhà nước; tăng cường tính tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo của đông đảo
quần chúng nhân dân để xây dựng chủ trương chính sách. Tác giả cũng nêu rõ
chức năng của báo chí là phải bám sát thực tế, bám sát quần chúng, bám sát cuộc
sống, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, cố gắng vận dụng nhiều hình
thức và cần tăng cường cải tiến công tác báo chí.
- Năm 2009, trên Tạp chí Pháp chế Chính phủ, số 31, Lý Diệu Bác có
bài Công tác tư tưởng cần tăng cường đổi mới và tính thời đại [15], cho rằng,
báo chí muốn giàu tính đổi mới thì phải tạo dựng quan niệm mới, hình thành
cơ chế mới, tiến hành sắp xếp, đổi mới một cách tổng thể; vận dụng hình thức
mới, tiến hành đổi mới phương thức, cách làm tự do cởi mởi hơn, sâu hơn.
Qua nghiên một số công trình nghiên cứu trên, có thể thấy các tác giả
Trung Quốc đã đề cập đến hoạt động của báo chí thể hiện, vai trò vị trí, nhiệm
vụ chức năng của báo chí. Nhằm nâng cao chất lượng của báo chí trong tình
hình mới khi mà dân chủ ngày càng được mở rộng, trình độ dân trí ngày càng
được nâng nên báo chí Trung Quốc đang được quan tâm đầu tư rất lớn cả về
cơ chế chính sách lẫn con người, cơ sở vật chất phục vụ cho nhiệm vụ truyền
14
thông bảo đảm nhanh nhất, đúng đắn đầy đủ khách quan nhất. Sự ra đời của
các tập đoàn truyền thông có ý nghĩa to lớn trong việc cạnh tranh thông tin,
làm cho thông tin hay và hấp dẫn và đáp ứng nhu cầu bạn đọc. Trong quá
trình phát triển, báo chí Trung Quốc cũng luôn quan tâm tới nâng cao chất
lượng báo chí bằng việc tăng cường tính dân chủ, tự do phản biện xã hội của
báo chí về những vấn đề mà bạn đọc quan tâm nhất là những chính sách của
Đảng và Nhà nước, nhằm mở rộng dân chủ thu hút sự quan tâm chú ý của
người dân về những vấn đề bức xúc
- Ở Tây Ban Nha, nét nổi bật của báo chí là tự do báo chí, báo chí tư
nhân ra đời, thông tin trên báo chí nhanh nhạy có sự cạnh tranh thông tin, trợ
giúp của Chính phủ khi báo chí tuyên truyền cho Chính phủ. Tờ báo Mundo
Obrero (Báo Thế giới Công nhân) là cơ quan ngôn luận của cả PCE và IU
(Đảng Cộng sản Tây Ban Nha), có trụ sở chính tại Thủ đô Madrid. Qua trao
đổi với ông Tổng biên tập được biết tờ báo ra đời cách đây gần 100 năm, Báo
Mundo Obrero có nhiều đóng góp to lớn cho cuộc đấu tranh của công nhân và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tây Ban Nha. Hiện
nay, Báo tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu: đấu tranh phê phán chủ nghĩa
tự do mới; chống lại nền chuyên chế của thị trường; bình luận, phê phán
những chính sách kinh tế - xã hội làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người
lao động; bảo vệ công lý, dân chủ, an sinh xã hội. Tuy nhiên trong quá trình
hoạt động tờ báo khó tiếp cận thông tin dẫn đến thiếu thông tin hay không
được thông tin đầy đủ.
Tờ báo Elpaís, theo Tổng biên tập, báo Elpaís, ra đời cách đây đã 30
năm, tờ báo lớn có uy tín với độc giả. Báo Elpaís có chất lượng, uy tín, được
đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước đón nhận. Ở Tây Ban Nha các tờ báo
nào ủng hộ chính phủ được cấp một phần kinh phí còn các báo khác được cấp
ít hoặc không, tự hạch toán. Nhưng không phải báo chí nói hay cho chính phủ
mà được nhân dân đón đọc vì tự do của người dân là sự lựa chọn thuộc về họ
15
khi mà lợi ích được bảo đảm. Có thể thấy, tự do báo chí cũng có mức độ, tùy
thuộc vào chính phủ, nhưng đương nhiên báo chí có tính phản biện cao.
Theo Arturo Escobar (1995), báo chí trong thực hiện các chức năng,
nhất là về chức năng phản biện xã hội là động lực xây dựng đất nước. Theo
nghiên cứu này, báo chí được coi là nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy
quá trình hiện đại hóa văn hóa và lối sống. Trong các loại hình thông tin và
giải trí thì báo chí được xem là phương tiện quan trọng để cung cấp thực tế
khách quan và những phân tích liên quan đến thực tiễn cuộc sống (Pye.L.W,
1963). Qua đây có thể thấy chức năng phản biện xã hội báo chí, có vai trò
quan trọng trong việc hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển xã hội tự do,
dân chủ. Thực ra, báo chí có chức năng phản biện xã hội một cách mạnh mẽ
tạo diễn đàn rộng rãi thu hút sự tham gia của xã hội về thông tin phản hồi
chính sách giữa người dân và nhà nước[91].
- Ở Anh, Theo BBC News, làm gì thì làm, BBC không đi khỏi các
nguyên tắc đã thành luật định trong Hiến chương Hoàng gia, luật Viện Cơ
Mật của Hoàng gia Anh đặt ra làm nền tảng cho nghề báo BBC. Đó là tính bất
thiên vị, chính xác và không có nghị trình chính trị (tiếng Anh, đó là 'no
political agenda'). Vẫn theo James Harding, chính trong thời đại chạy tin qua
các kênh liên tục, trực tiếp, các trang web, trang Twitter nhanh chóng, thì
"cách làm tin chậm, có kỷ luật và điều tra kỹ càng (meticulous investigations),
cũng như cách phân tích kiên trì lại càng làm tin bài nổi bật lên". Trên lý
thuyết, BBC không phải cạnh tranh về khán thính giả như báo chí thương mại
nên không phải vội vã rượt đuổi theo tin tức giật gân, nóng hổi. Mặt khác,
công chúng đến với BBC là vì sự tin cậy và chất lượng chứ không phải vì tốc
độ. Một số bài viết gửi tham gia Diễn đàn của BBC thể hiện quan điểm riêng
của tác giả, ở đây thể hiện tính khách quan trong thực hiện chức năng của báo
chí. Sản phẩm của BBC là bao gồm các chương trình và thông tin trên ti vi,
trên đài phát thanh và trên internet, wikipedia. Đây có thể nói là tờ báo có
16
chức năng phản biện cao đảm bảo khách quan khoa học thu hút nhiều độc giả.
PBXH của báo chí Anh, cũng như ở các nước phương Tây, là vấn đề hiển
nhiên và không mới. Dân chủ phương Tây phát triển tương đối sớm và dân
chủ đã trở thành máu, thịt của thể chế chính trị. Họ không bàn và nói đến vấn
đề phản biện xã hội của báo chí. Để có thể kế thừa những yếu tố hợp lý, cái
mới trong PBXH của báo chí phương Tây, phục vụ cho phát triển nền báo chí
cách mạng nước ta, cần nghiên cứu sâu hơn về sự phản biện đó trên cơ sở cơ
chế và luật pháp.
- Ở Myanmar, báo chí đã có những bước tiến vượt bậc về tự do báo chí.
Cơ quan Đăng ký và Giám sát Báo chí Myanmar cho biết, từ ngày 20/8/2012,
Myanmar sẽ bãi bỏ kiểm duyệt báo chí, các phóng viên không còn phải nộp
bài cho cơ quan kiểm duyệt nhà nước trước khi đăng nữa, v.v.. Tháng 9/2012,
Thứ trưởng Bộ thông tin Myanmar Ye Htut thừa nhận trong quá khứ, báo chí
nhà nước chỉ đăng tin một chiều của chính phủ và quốc hội. Nhưng rồi đây,
báo chí Myanmar sẽ được phép chỉ trích chính sách của nhà nước. Myanmar
đồng thời cho phép các nhà báo viết các chủ đề chính trị xã hội gây tranh cãi -
một điều chưa từng thấy trong thời gian quân đội cầm quyền ở nước này.
Khoảng 300 tờ báo và tạp chí đăng tải các vấn đề ít nhạy cảm hơn cũng được
phép in mà không cần kiểm duyệt trước. Như vậy, báo chí Myanmar được tự
do hơn trong việc tham gia vào các hoạt động của đất nước, trong đó có việc
chuyển tải các chính sách kể cả chỉ trích chính sách của nhà nước. Thông qua
tự do báo chí quyền của người dân được mở rộng và đề cao, và việc chính phủ
lắng nghe, tiếp thu là điều kiện tốt nhất để xây dựng và điều chỉnh, sửa đổi
chính sách tốt hơn.
- Ở Malaysia, theo John Lent (1976), tất cả chính phủ của các quốc gia
châu Á đều cho rằng cần phải hạn chế tự do của báo chí. Hơn một thập kỷ
sau, cựu thủ tướng Malaysia, Mahathir Mohamad đã nhấn mạnh đến trách
nhiệm xã hội của báo chí trong sự so sánh với tự do của họ; rằng tư tưởng
17
phương Tây về tự do báo chí tuyệt đối không thể tồn tại trong thực tế. Báo chí
cần có tự do, nhưng tự do cần phải gắn với trách nhiệm, trong chừng mực nào
đó báo chí được xem là sự đe dọa tiềm ẩn của dân chủ thì nó cần được phép
hoạt động mà không có sự can thiệp của chính phủ. Tuy nhiên khi báo chí có
biểu hiện lạm quyền lực thì một chính phủ dân chủ cần có trách nhiệm điều
chỉnh nó cho đúng. Chính phủ đã có 3 yêu cầu đối với báo chí Malaysia: thứ
nhất, tránh đề cập hay khơi gợi những vấn đề có thể gây kích động đến tình cảm
dân tộc; thứ hai, thận trọng khi phản ánh đến vấn đề liên quan đến tôn giáo; thứ
ba, báo chí phải tham gia vào chủ quyền lãnh thổ về mặt địa lý quốc gia.
Tóm lại, với cách tiếp cận khác nhau, ở nước ngoài nhiều tác giả đã đề
cao vai trò của báo chí, coi báo chí là quyền lực thứ tư trong các quyền lập
pháp, tư pháp và hành pháp đề cao tự do báo chí trong sự phát triển của xã
hội. Nhưng thực chất, báo chí không phải là tất cả, mà báo chí luôn bị chi
phối, kiểm soát bởi chính phủ, nhà nước, chính điều này đã làm hạn chế chức
năng phản biện của báo chí. Tuy nhiên, về mặt luật pháp ở một số nước, hệ
thống luật pháp đã có nhiều điều rõ ràng, và dân chủ quyền tự do của công
dân được qui định khá đầy đủ; về tự do báo chí, tự do ngôn luận được tôn
trọng. Những cơ sở chính trị, pháp luật và xã hội đã tạo điều kiện cho báo chí
thực hiện phản biện chính sách một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, chính phủ,
nhà nước cũng lắng nghe, tiếp thu những ý kiến phản biện của báo chí để điều
chỉnh chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tiễn lợi ích của các giai cấp
trong xã hội.
Khái niệm PBXH của báo chí được các nhà nghiên cứu, các nhà báo
đưa ra với các lý thuyết khác nhau không đề cập trực tiếp vào chức năng
PBXH của báo chí, mà ở đó mỗi quan điểm có cách tiếp cận và lý giải khác
nhau dựa trên các quan niệm khác nhau về dân chủ, vai trò và tự do báo chí
trong đời sống xã hội nói chung và PBXH của báo chí nói riêng. Tự do báo
chí và sự phát triển của báo chí chính là một trong những yếu tố quan trọng để
18
đo lường sự phát triển của xã hội và dân chủ trong xã hội. Người ta thấy một
vấn đề có tính quy luật là, báo chí phát triển nhờ tích cực tham gia vào quá
trình PBXH, nhất là phản biện đường lối và chính sách quốc gia.
Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về PBXH của báo chí vớinhững tiếp cận khác nhau, nhưng vẫn chưa có công trình nào nghiên cứuchuyên biệt về chức năng PBXH của báo chí dưới góc độ Chính trị học.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾNCHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến phản biện xã hộiMột số bài tạp chí liên quan đến phản biện xã hội:1) Tháng 12/2006, trên Tạp chí Xây dựng Đảng, tác giả Đỗ Duy
Thường có bài: "Phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trongquá trình xây dựng luật, pháp lệnh" [109]. Tác giả cho rằng, phản biện trongquá trình xây dựng luật, pháp lệnh có thể được hiểu là hoạt động nhận xét,đánh giá, bình luận, thẩm định và kiến nghị bằng văn bản đối với các dự án luật,pháp lệnh của các cơ quan Nhà nước khi được yêu cầu. Sự phản biện làm giảmthiểu những thiếu sót, sơ hở trong việc xây dựng, ban hành các văn bản luật.
2) Trên Tạp chí Cộng sản số 17/2006, tiến sĩ (TS)Trần Đăng Tuấn cócác bài viết: "Phản biện xã hội: Một số vấn đề chung và bài Phương thức phảnbiện xã hội" [114]. Ở đó tác giả quan niệm PBXH là đưa ra các lập luận, phântích nhằm phát hiện, chứng minh, khẳng định, bổ sung hoặc bác bỏ một đề án(phương án, dự án) xã hội đã được hình thành và công bố trước đó. Phản biệnxã hội dựa vào các lập luận, phân tích từ một góc nhìn, một hệ thống công cụvới góc nhìn và hệ thống công cụ đã dùng ở đề án xã hội. PBXH thực hiệnchủ yếu ở hai trường hợp: một là, đối với các dự thảo chủ trương, chính sách;hai là, phát hiện các điểm chưa hoàn thiện, thậm chí sai sót, hoặc không cònphù hợp với đường lối chính sách, quy định pháp lý, v.v. đang được thực hiệntrong thực tế, để lực lượng cầm quyền có điều chỉnh, sửa đổi hoặc thay đổichính sách cho phù hợp.
19
3) Năm 2006, trên Tạp chí Mặt trận số 37, TS.Hoàng Hải có bài: "Pháthuy vai trò của MTTQ trong phản biện xã hội và giám sát xây dựng Đảng"[50]. Tác giả cho rằng, nội dung PBXH mà Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thựchiện là phản biện những chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan đếnquyền, nghĩa vụ và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, đến tổ chứcbộ máy và cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị, những chính sách cụ thể đốivới gia cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ởnước ngoài. Đối tượng nhận được phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chứcchính trị - xã hội và nhân dân là cơ quan tổ chức của HTCT.
Một số sách liên quan đến phản biện xã hội:1) Cuốn sách: "Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của
MTTQ Việt Nam" [5]. TS.Nguyễn Thọ Ánh cho rằng: Giám sát PBXH là yêucầu khách quan, mang tính phổ biến trong việc vận hành quyền lực chính trịnhà nước dân chủ. Nó là một trong những bộ phận cấu thành hệ thống kiểmsoát quyền lực nhằm khắc phục xu hướng lạm quyền, tha hóa quyền lực nhànước. Hoạt động giám sát ở nước ta cho đến nay, về thực chất, chủ yếu nằmtrong hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước mà cụ thể là Quốc hội vàhội đồng nhân dân các cấp. Hoạt động này cùng với hoạt động kiểm tra củaĐảng, hoạt động thanh tra của chính quyền làm thành hệ thống kiểm soátquyền lực từ bên trong hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát phản biện xãhội tuy được Đảng và Nhà nước qui định nhưng nhìn chung chưa phát huy tácdụng góp phần kiểm soát quyền lực. Hệ thống giám sát và PBXH ở nước tagồm nhiều chủ thể, trong đó Mặt trận tổ quốc có vai trò quan trọng đặc biệt.Từ cách đặt vấn đề và đi đến nội dung của tác giả Nguyễn Thọ Ánh, có thểthấy trong hệ thống PBXH ở nước ta còn có báo chí tham gia PBXH và nócũng nằm trong hệ thống kiểm soát quyền lực từ “bên trong” HTCT.
Một số đề tài khoa học liên quan đến phản biện xã hội:1) Trong đề tài khoa học: 01X-11/02-2009-1 do PGS,TS. Phạm Xuân
Hằng làm chủ nhiệm: "Xây dựng cơ chế phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
20
quốc thành phố Hà Nội nhằm phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô" [51]. Tác
giả của đề tài đã nêu khái niệm PBXH và phân biệt giữa PBXH và một số
hoạt động xã hội khác; khái niệm cơ chế PBXH; các nguyên tắc PBXH. Tác
giả chỉ ra thực trạng PBXH của MTTQ thành phố Hà Nội thời gian qua, hạn
chế và nguyên nhân. Tác giả cho rằng PBXH thực chất là phát huy năng lực
sáng tạo quyền làm chủ của nhân dân thể hiện qua việc tham gia hoạch định
và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực hiện
PBXH là góp phần mở rộng dân chủ; nhân dân tham gia PBXH với tư cách
vừa là người chịu sự lãnh đạo, vừa là người làm chủ, vừa là người thực hiện
vừa là người thụ hưởng.
Một số luận văn, luận án liên quan đến phản biện xã hội:
1) Luận án tiến sĩ của Vũ Thị Như Hoa: "Nâng cao chất lượng phản
biện xã hội của MTTQ Việt Nam ở nước ta hiện nay" [58]. Luận án đã hệ
thống hóa những vấn đề lý luận về phản biện xã hội và vai trò của MTTQ
Việt Nam trong PBXH. Bước đầu xác định tiêu chí đánh giá chất lượng phản
biện của MTTQ Việt Nam. Đánh giá khái quát chất lượng phản biện của
MTTQ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong đó tác giả có đề cập đến báo chí là một phương thức PBXH rất quan
trọng và nổi bật, xuất phát từ chức năng của báo chí phản ánh hiện thực đời
sống xã hội, định hướng dư luận xã hội có sức mạnh phản biện chính sách của
Nhà nước. Tác giả nhấn mạnh báo chí chỉ phát huy tốt vai trò tác dụng trong
điều kiện một xã hội dân chủ, tự do ngôn luận đồng thời phụ thuộc vào bản
lĩnh, dũng khí của chính báo chí
Có thể nói, từ Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng (1991)đến nay, với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,dân chủ XHCN được coi trọng và quan tâm nhiều hơn, đã đặt nền móng chonhững tư tưởng phản biện. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước,
21
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ ra: “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặttrận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát phản biện xã hội”[42, tr.4]. Nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, Vănkiện Đại hội X cũng xác định: “Xây dựng qui chế giám sát và phản biện xãhội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối vớiviệc hoạch định đường lối chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng vàviệc tổ chức thực hiện, kể cả công tác tổ chức cán bộ” [42, tr.135].
Với Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban
hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội [26]. Trong Chương III của Quy chế này nêu rõ nhiều
vấn đề quan trọng về PBXH ở nước ta hiện nay, theo đó:
Đối tượng phản biện xã hội là các văn bản dự thảo về chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chương
trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những vấn
đề thuộc bí mật quốc gia) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Nội
dung PBXH chính là sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự thảo. Sự phù
hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước; thực tiễn của đơn vị, địa phương. Tính đúng đắn,
khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính khả thi của văn bản
dự thảo. Dự báo tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại của văn bảo dự thảo.
Phạm vi phản biện xã hội; MTTQ Việt Nam chủ trì PBXH đối với các
văn bản dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Các đoàn thể chính trị - xã hội: Chủ trì PBXH đối với các văn bản
dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội
viên, tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của đoàn thể mình; phối hợp
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ PBXH.
22
Chủ thể phản biện xã hội: Xây dựng kế hoạch PBXH phù hợp với kếhoạch, yêu cầu phản biện của cơ quan, tổ chức cần phản biện. Tổ chức đốithoại với cơ quan, tổ chức có yêu cầu phản biện khi cần thiết. Gửi kết quảphản biện bằng văn bản (văn bản phải được đóng dấu và có chữ ký của ngườicó thẩm quyền) đến cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện. Chịu trách nhiệm vềnhững nội dung phản biện của mình. Bảo đảm bí mật nội dung thông tinphản biện theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có văn bản dự thảo (nếu có).Gửi văn bản dự thảo và cung cấp đầy đủ những thông tin, tài liệu cần thiếtđến chủ thể phản biện. Cử người có trách nhiệm thay mặt tổ chức của mìnhtham dự hội nghị phản biện do chủ thể phản biện tổ chức hoặc tham gia đốithoại theo yêu cầu của chủ thể phản biện. Trả lời bằng văn bản với chủ thểphản biện về việc tiếp thu ý kiến phản biện. Báo cáo đầy đủ (bằng văn bản)các ý kiến phản biện của chủ thể phản biện với cơ quan, tổ chức có thẩmquyền ban hành văn bản, v.v..
Sau thời gian dài nghiên cứu, tổng kết, đánh giá các cơ quan chức năngđã đưa ra những quan điểm cơ bản về PBXH. Trước hết nó được thể hiện ởcác văn kiện của Đảng từ văn kiện Đại hội X đến nay quy định MTTQ ViệtNam và các tổ chức chính trị xã hội có chức năng PBXH. Có thể nói đây làbước tiến mới về chất trên con đường đổi mới mở rộng dân chủ ở nước ta,thực thi QLNN thuộc về nhân dân.
Báo chí nước ta là một bộ phận trong HTCT, một tổ chức thành viêntrong tổ chức MTTQ, do đó báo chí cũng thực hiện chức năng PBXH. Tuynhiên, sự quy định đối với báo chí có chức năng phản biện xã hội của các nghịquyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn chưa cụ thể và rõ ràng; có chăngchỉ là sự vận dụng, liên hệ cho hoạt động PBXH của báo chí, cho nên trongquá trình PBXH báo chí hiện còn gặp rất nhiều khó khăn. Nhận thức và thựctiễn PBXH của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội là những cơ sở lýluận và thực tiễn cần thiết, có thể tham khảo cho việc nghiên cứu về chứcnăng PBXH của báo chí ở nước ta hiện nay.
23
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến phản biện xã hội
của báo chí
Một số bài tạp chí liên quan đến phản biện xã hội của báo chí:
1) Tác giả, TS.Lưu Văn Kiền có bài: "Báo chí - công cụ sắc bén của
công tác tư tưởng" [69]. Tại đây, tác giả đã đề cập đến vị trí, vai trò của báo
chí trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng; chỉ ra phương hướng, mục
tiêu cần thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu, mục tiêu phát triển của báo chí
trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng là xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ
công tác tư tưởng và dựa trên những căn cứ khoa học - thực tiễn. Tác giả đã
nêu định hướng tuyên truyền trong hoạt động báo chí là một khâu trong quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, một yếu tố trong nội hàm Đảng lãnh đạo
báo chí; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện việc định hướng
thông tin, định hướng tuyên truyền trong hoạt động báo chí đạt hiệu quả cao.
2) Tác giả Hà Đăng có bài: "Nâng cao công tác báo chí của Đảng dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh" [46]. Qua việc nêu lên tầm quan trọng, sự
ảnh hưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự lãnh đạo của Đảng đối với báo
chí, tác giả đã nêu lên một số nhiệm vụ trước mắt và giải pháp tiếp tục đổi
mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với
báo chí.
3) Tác giả Đinh Thu Hằng có bài viết: "Phát huy vai trò phản biện xã
hội của báo chí" [52]. Bài viết đã khẳng định vai trò phản biện của báo chí thể
hiện trên một số nội dung sau đây: i) Báo chí kịp thời phân tích những điểm
hợp lý và chưa hợp lý và những điểm chưa phù hợp nhằm làm cho chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng phù hợp hơn đúng đắn
hơn; ii) báo chí phát hiện những mặt tích cực, nhân tố mới điển hình đồng
thời phê phán những biểu hiện tiêu cực, hạn chế nhằm giúp cho các cơ quan
chức năng có giải pháp tích cực trong quản lý điều hành xã hội. iii) báo chí
tạo diễn đàn rộng rãi để đông đảo các tầng lớp xã hội tham gia phản biện xã
24
hội mà báo chí là người tổ chức dẫn dắt khơi dậy. Những vấn đề trên mang
tính gợi mở nhiều vấn đề quan trọng có liên quan đến đề tài có ý nghĩa quan
trọng trong việc tìm hiểu chức năng phản biện xã hội của báo chí.
4) Ngày 16/6/2009, nhân kỷ niệm 84 năm Báo chí cách mạng Việt Nam
(21/6/1925 - 21/6/2009), PGS,TS.Tô Huy Rứa đã có bài phát biểu "Nhiều
phản biện của báo chí được Đảng, Nhà nước tiếp thu" [95]. Tác giả nêu bật
một số thành tích của báo chí, như: Báo chí có cách làm đúng đắn và sáng tạo
không chỉ đưa chủ trương, giải pháp của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống
một cách kịp thời mà còn giúp nhân dân hiểu rõ về mình, tin tưởng đồng
thuận với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Chính phủ, v.v.. Báo chí
cũng đề cập phân tích phản ánh với Đảng và Chính phủ những vấn đề cần
quan tâm nhất là những bất cập liên quan đến quá trình thực hiện chính sách,
các nhóm giải pháp, v.v. đồng thời kiến nghị những giải pháp thiết thực có
tính khả thi. Những phản ánh, đề xuất, kiến nghị nêu trên của báo chí đã được
Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp quan tâm. Một số kiến nghị đã được các
cơ quan liên quan tiếp thu, điều chỉnh.
Một số sách liên quan đến phản biện xã hội của báo chí:
1) Cuốn sách: "Định hướng và quản lý báo chí trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay", nhóm nghiên cứu do
PGS,TS.Trần Quang Nhiếp chủ trì [84]. Tập trung nêu bật những khó khăn,
thuận lợi của báo chí trong điều kiện hiện nay khi mà nước ta đang xây dựng
nền kinh tế thị trường; nhất là mặt trái của kinh tế thị trường tác động đến báo
chí, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những hạn chế, thiếu sót của báo chí,
trong đó có tình trạng suy giảm chất lượng văn hóa trong hoạt động báo chí
nói chung, sản phẩm báo chí nói riêng.
2) Cuốn sách: "Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính
trị khóa VIII về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí",
xuất bản do Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin,
25
Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp xuất bản và phát hành [25]. Cuốn sách nêu
rõ, để nâng cao hiệu quả lãnh đạo đối với báo chí, Đảng phải không ngừng đổi
mới tư duy, phong cách, phương thức lãnh đạo đối với công tác báo chí. Đảng
lãnh đạo báo chí bằng việc đề ra nghị quyết, chỉ thị, định hướng quy hoạch, kế
hoạch phát triển hệ thống báo chí và định hướng nội dung thông tin, tuyên
truyền của báo chí; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan báo chí; lãnh
đạo các đoàn thể chính trị - xã hội trong cơ quan báo chí. Nhà nước có trách
nhiệm thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí bằng
chính sách, pháp luật trong quản lý hoạt động báo chí. Trong quá trình lãnh
đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có bước
chuyển quan trọng trong việc đổi mới tư duy, phong cách và phương thức
lãnh đạo đối với công tác báo chí.
3) Cuốn sách: "Tăng cường lãnh đạo quản lý tạo điều kiện để báo chí
nước ta phát triển mạnh mẽ, đúng hướng" [10] đã đề cập nhiều vấn đề trong
hoạt động của báo chí nước ta trong quá trình thực hiện chỉ thị 22-CT/TW của
Bộ Chính trị khóa VIII và Thông báo kết luận 162-TB/TW của Bộ chính trị
khóa IX.
Một số đề tài khoa học liên quan đến phản biện xã hội của báo chí:
1) Năm 2007, Vụ Báo chí Ban Tuyên giáo Trung ương đã chủ trì đề tài
cấp Ban/Bộ, nghiên cứu về: Chỉ đạo quản lý báo chí trong tình hình hiện nay
[124]. Đề tài đã đặt ra nhiều vấn đề trong thực tiễn phát triển của báo chí; việc
định hướng quản lý báo chí như thế nào để báo chí phát huy hiệu quả tác dụng
là kênh thông tin phản biện có hiệu quả giúp cho Đảng và Nhà nước lãnh đạo,
quản lý và điều hành xã hội ngày càng tốt hơn.
2) Năm 2009, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên
giáo Trung ương) đã có Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, nghiên cứu về
Lịch sử báo chí Việt Nam [13]. Công trình này, đã đánh giá quá trình ra đời
26
trưởng thành của nền báo chí cách mạng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò to lớn
của báo chí cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn cách mạng, nhất là đóng
góp cho đường lối đổi mới của Đảng. Đây là giai đoạn mà công trình nghiên
cứu nhận định có nhiều vấn đề của cuộc sống được báo chí phản biện.
Một số luận văn, luận án liên quan đến phản biện xã hội của báo chí:
1) Luận án tiến sĩ chuyên ngành CNXH khoa học về: "Đội ngũ nhà báo
Việt Nam trong công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN" của Chu Thái
Thành (2000) [103] đã trình bày hàng loạt vấn đề có tính lý luận liên quan đến
vị trí, vai trò, chức năng của báo chí. Tác giả đã xây dựng khái niệm “Nhà báo
- trí thức XHCN” và nhấn mạnh vốn thực tiễn cùng kinh nghiệm và lý luận là
tài sản quan trọng của các nhà báo đây là cơ sở quan trọng giúp cho các nhà
báo có kiến thức để PBXH.
2) Luận án tiến sĩ triết học: "Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
trong thời kỳ đổi mới", của tác giả Nguyễn Vũ Tiến [110] đã làm sáng tỏ các
quan niệm báo chí, quản lý báo chí, sự lãnh đạo, vị trí tầm quan trọng của
công tác quản lý báo chí, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng về báo chí Việt Nam; phân tích, đánh giá thực trạng
báo chí và sự lãnh đạo báo chí của Đảng ở Việt Nam; nêu lên những vấn đề
đặt ra đối với việc lãnh đạo, quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới; từ đó nêu
lên phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay.
3) Luận án tiến sĩ xã hội học của Đỗ Văn Quân (2012): "Phản biện xã
hội qua báo chí (Nghiên cứu trường hợp tờ Báo điện tử VietNamnet.VN)"
[88]. Tác giả đã đề cập và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phản biện xã
hội và PBXH qua báo chí ở Việt Nam thông qua việc phân tích trường hợp tờ
báo điện tử VietNamnet.VN trong một số năm gần đây và đưa ra các kiến
nghị, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động PBXH qua báo chí.
27
4) Luận văn thạc sĩ báo chí học của Lại Thị Hải Bình (2006): "Báo chí
với quá trình hình thành nhân cách của học sinh, sinh viên" [22] chỉ ra báo chí
luôn gắn liền, đồng hành và có tác động rất lớn đến hình thành nhân cách của
học sinh, sinh viên. Từ ý nghĩa và vai trò của báo chí, tác giả đưa ra những
yêu cầu và nội dung nhiệm vụ của báo chí để tác động, xây dựng nhân cách
tốt hơn ở học sinh, sinh viên.
5) Luận văn thạc sĩ ngành Chính trị học của Trần Danh Lân (2007):
"Báo chí trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay"
[71] góp phần làm sáng tỏ vai trò của báo chí trong cuộc đấu tranh chống
tham nhũng ở nước ta hiện nay; thực trạng đấu tranh chống tham nhũng của
báo chí Việt Nam trong công cuộc đổi mới; đề ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy vai trò của báo trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay.
6) Luận văn cử nhân báo chí học của Tạ Thị Nguyệt (2009): "Báo chí
với phản biện xã hội" [82]. Tác giả đã đưa ra những khái niệm và vai trò phản
biện, PBXH; vai trò của báo chí với PBXH trong tình hình hiện nay; đánh giá
kết quả về sự tác động của báo chí với PBXH. Trên cơ sở đó đề ra giải pháp
để thực hiện PBXH của báo chí.
Có thể thấy trong lĩnh vực khoa học về báo chí đã có những công trìnhnghiên cứu về vai trò, chức năng của báo chí trên lĩnh vực kinh tế, đấu tranhchống tiêu cực, tham nhũng, nâng cao trình độ, nhu cầu thông tin giải trí, tưtưởng, giám sát xã hội, khai sáng, giải trí, v.v.. Tuy nhiên, ở đó chỉ tập trungnghiên cứu chuyên ngành, hướng tiếp cận chỉ là giải quyết những vấn đề kinhtế - xã hội, văn hoá, lối sống, v.v..
Cũng có một số bài viết, bài giảng có đề cập đến PBXH của báo chí,song phần nhiều được thể hiện dưới dạng nêu vấn đề chứ chưa đi sâu vàonghiên cứu cụ thể, một cách có hệ thống. Vị trí, vai trò phản biện của báo chítrong đời sống xã hội, trong chủ trương chính sách, của Đảng và Nhà nước.
28
Tuy nhiên với những khảo sát như trên, có thể thấy rằng, vấn đề PBXH củabáo chí ở nước ta chưa được quan tâm đúng mức; việc nghiên cứu nó là quáhạn chế, nếu không nói là trống vắng. Do vậy, cần phải có những công trìnhnghiên cứu sâu về vấn đề này để góp phần phát triển báo chí Việt Nam.
1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến chức năng phảnbiện xã hội của báo chí
Một số bài tạp chí và bài tại hội thảo khoa học liên quan đến chứcnăng PBXH của báo chí:
1) PGS,TS. Hồng Vinh có bài biết: “Nhiệm vụ của Báo chí trước yêucầu mới của đất nước” [119]. Tác giả đã nêu lên vai trò lãnh đạo thườngxuyên của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, của các cơ quan chủ quản; sựquan tâm theo dõi, ủng hộ và phê bình của toàn xã hội cùng với cố gắng rấtlớn của đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí. Tác giả còn chỉ ra vai trò chứcnăng của báo chí trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước; cùngvới đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa vai trò của báo chítrong việc xây dựng và thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảngvà Nhà nước.
2) Ngày 22/6/2010, trên Báo Tiền Phong, tác giả Nguyễn Quang A vớibài viết: "Báo chí với phản biện" [1] đã có nhận định đáng quan tâm rằng: Sởdĩ báo chí là một kênh quan trọng bởi vì tính công khai của nó. Ý kiến trênbáo chí có thể được nhiều người thảo luận, bàn cãi từ nhiều góc độ khác nhau.Một ý kiến độc đáo có thể gây cảm hứng cho hàng ngàn ý kiến khác. Đấy làmột kênh rất hiệu quả cho lập luận công, thảo luận công về các vấn đề liênquan đến nhiều người. Đây là những ý kiến rất đáng chú ý có thể làm cơ sở tiềnđề cho báo chí thực hiện chức năng PBXH vì tác giả cho rằng; báo chí có thểgây cảm hứng cho hàng ngàn ý kiến khác, là một kênh rất hiệu quả cho quátrình thảo luận, tranh luận, v.v.. công về các vấn đề liên quan đến nhiều người.
3) Tại Hội thảo về Vai trò của báo chí, truyền thông trong việc lấy ý
kiến nhân dân cho các dự thảo chính sách, TS. Đỗ Thịnh có tham luận: "Vai
29
trò của báo chí trong việc lấy ý kiến của nhân dân cho các chính sách lớn"
[106]. Tác giả cho rằng, Chính phủ phải luôn phải lắng nghe ý kiến của nhân
dân, báo chí là công luận “đệ tứ quyền”, một kênh quan trọng để thực hiện
công việc vô cùng quan trọng đó. Gần 30 năm đổi mới vừa qua, thai nghén ra
được những chính sách đúng, đưa lại thành công vang dội như “xé rào” trong
công thương nghiệp, “khoán 10” trong nông nghiệp, v.v.. đã là những bằng
chứng sinh động. Tác giả đã đề cấp đến việc báo chí đã phản ánh chuyển tải
những thông tin của nhân dân đến Đảng và Nhà nước, nhằm sửa đổi, điều
chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tiễn cơ sở. Đây là những yếu tố quan
trọng cho báo chí tham gia tích cực và “thầm lặng” phản biện đường lối,
chính sách.
4) Cũng tại Hội thảo trên, TS. Nguyễn Thu Trang có tham luận: "Báo
chí trong việc lấy ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp góp ý cho các dự thảo
chính sách kinh tế" [112]. Tác giả cho rằng, báo chí là đầu mối lý tưởng để
phát hiện bất cập trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, từ đó cộng đồng
doanh nghiệp đề xuất các sáng kiến sửa đổi hoặc xây dựng chính sách. Báo
chí là kênh quan trọng để phổ biến về dự thảo chính sách, pháp luật trên diện
rộng là kênh thông tin quan trọng, nhanh chóng với các thông tin được đọc
bởi hàng triệu người, v.v.. Báo chí là diễn đàn trao đổi nhiều chiều về các dự
thảo chính sách, pháp luật giữa các doanh nghiệp với các tầng lớp, huy động trí
tuệ của xã hội vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Báo chí là công cụ
hữu ích để tạo dư luận và sức ép hợp lý để các cơ quan soạn thảo chính sách,
pháp luật cẩn trọng tiếp thu ý kiến của doanh nghiệp và cộng đồng.
5) Còn tác giả TS. Nguyễn Quang A với tham luận: "Dân mong gì ở
báo chí trong việc đưa tin bài về các dự thảo chính sách" [2] đã nêu rõ: Thiếu
thông tin, thiếu các thủ tục minh bạch, thiếu tranh luận, thì việc lấy ý kiến nhân
dân về các dự thảo chủ trương, chính sách lớn đều không có hiệu quả. Vai trò
của báo chí là đưa tin trung thực, làm cho thủ tục được minh bạch và thúc đẩy
30
tranh luận, phản biện, phải tôn trọng các ý kiến khác nhau và chỉ được dùng lý
lẽ, lập luận để phân tích, ủng hộ hay phản biện. Theo tác giả, khâu này có lẽ
đang là khâu yếu nhất trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật.
Một số sách liên quan đến chức năng phản biện xã hội của báo chí:
1) Cuốn sách: "Báo chí và dư luận xã hội" [36] đã lý giải 4 vấn đề khá
cơ bản về báo chí và dư luận xã hội: Bản chất dư luận xã hội; Bản chất hoạt
động báo chí; Mối quan hệ tác động của báo chí và dư luận xã hội; Nhà báo
và dư luận xã hội. Tác giả chỉ rõ trong lý luận và thực tiễn báo chí hiện đại,
báo chí và dư luận xã hội (DLXH) luôn có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng.
Theo tác giả, các luồng ý kiến, phán xét của DLXH là nội dung quan trọng mà
hàng ngày báo chí truyền thông đăng tải; và từ dư luận xã hội lại đến lượt nó
nảy sinh ra sự kiện, ý kiến, phán xét, v.v.. của DLXH. Vì thế, báo chí vừa có
thể phản ánh và biểu đạt dư luận, vừa có thể định hướng DLXH, v.v.. Đây là
công trình quan trọng làm cơ sở và tiền đề cho hình thành chức năng PBXH
của báo chí ở trình độ cao hơn.
2) Cuốn sách "Cơ sở lý luận báo chí" của PGS,TS.Nguyễn Văn Dững
[35], cho biết trong cuốn sách Lý Luận báo chí Trung Quốc đương đại của
Trình Bảo Vệ viết rằng, báo chí Trung Quốc có 3 chức năng lớn: Thứ nhất,
truyền bá thông tin - thể hiện tính chất truyền thông tin tức. Thứ hai, định
hướng dư luận - thể hiện tính chất công cụ dư luận. Thứ ba, phục vụ xã hội -
thể hiện tính chất truyền thông công cộng. Các chức năng này thể hiện đặc
tính của các cơ quan truyền thông đại chúng có tính công cộng nhằm truyền
bá tri thức, giáo dục đạo đức, quảng cáo và văn nghệ, giải trí, v.v.. Trong ba
chức năng trên cho thấy chức năng thứ hai có yếu tố của sự tương tác gây
ảnh hưởng đến công chúng và có sự kiểm soát những lợi ích khác nhau, đây
có thể được xem là cơ sở tiền đề để nghiên cứu PBXH của báo chí.
3) Cuốn sách "Báo chí các nước ASEAN" của Đặng Thị Thu Hương
[67], đã giới thiệu một cách tổng thể về quá trình hình thành và phát triển,
31
những nét tương đồng và sắc thái khác biệt của báo chí các nước ASEAN,
trong đó có vấn đề PBXH.
4) Cuốn sách: "Phản biện xã hội của tác phẩm báo chí Việt Nam quamột số sự kiện nổi bật" của ThS. Phan Văn Kiền chủ biên [70]. Tác giả cuốnsách đã trình bày một số vấn đề về PBXH của tác phẩm báo chí trong đó nêubật một số đặc trưng như tạo ra thảo luận xã hội, thảo luận và thỏa thuậnthông qua đối thoại, v.v.. Tác giả cũng nêu những yếu tố cản trở quá trìnhPBXH trong tác phẩm báo chí hiện đại và đề ra một số giải pháp. Tác giảnhấn mạnh vị trí của PBXH của báo chí trong cấu trúc xã hội dân sự, trong đóđề cập PBXH của báo chí như là cầu nối duy nhất của các thể chế trong xã hộidân sự. Tác giả đã phân tích PBXH của tác phẩm báo chí Việt Nam qua mộtvài sự kiện nổi bật: “Loạt bài; “Đêm trước đổi mới”, “Mưa lũ tại Hà Nội”,“Dự án đường sắt cao tốc” trên hai tờ báo là Vnexpress.net và Tiền phong.Thông qua các tuyến bài đó, tác giả đã lập luận có cơ sở về tính phản biện vànghệ thuật phản biện trong tác phẩm báo chí, làm cho chức năng PBXH ngàycàng rõ hơn trước các sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v.. Đây là cơ sởquan trọng giúp cho đề tài nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí.
Một số luận văn, luận án liên quan đến chức năng PBXH của báo chí:1) Luận văn Thạc sỹ báo chí học của tác giả Mai Thúy Hường: "Báo
chí với vấn đề kiểm soát quyền lực (khảo sát qua báo in)" [68]. Tác giả đã đềcập đến vai trò, vị trí của báo chí đối với thực thi quyền lực giai cấp cầmquyền. Báo chí là công cụ chịu sự lãnh đạo của giai cấp cầm quyền song báochí cũng có tính độc lập tương đối của nó, chính là phản ánh các hoạt độnglãnh đạo của giai cấp cầm quyền, chỉ ra những kết quả, thành tựu đồng thờinhững bất cập cần điều chỉnh. Do báo chí còn có chức năng là diễn đàn củanhân dân cho nên mọi chính sách, quyết định được báo chí đưa tin, nhân dânthảo luận, góp ý kiến. Thông qua chức năng báo chí của mình báo chí kiểmsoát quyền lực của cơ quan công quyền, mỗi sự kiện vấn đề đều được báo chíđưa tin, bình luận, phân tích đánh giá.
32
2) Luận văn thạc sĩ báo chí học, Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn,Đại học Quốc gia Hà Nội của Tác giả Hoàng Thủy Chung với đề tài: "Tínhphản biện xã hội của tác phẩm báo chí" [30]. Tác giả đã đề cập đến các tácphẩm báo chí có sức thuyết phục và được bạn đọc yêu quí hay không chính làtính phản biện xã hội đến đâu. Sự cần thiết mỗi tác phẩm phải đặt tính phảnbiện lên hàng đầu, vì bạn đọc luôn mong muốn ở báo chí các sự kiện, vấn đềnóng của xã hội được xem xét nhiều chiều. Báo chí là công cụ nhanh nhất đểchuyển tải các vấn đề nóng của xã hội thông qua đó tạo cho bạn đọc diễn đànđể phản biện nhiều chiều. Tác giả nhấn mạnh muốn phát huy dân chủ tăngcường kiểm soát quyền lực thì mỗi tác phẩm báo chí cần phải tăng cường tínhPBXH xã hội, đây là tính khách quan. Đặc điểm chung của các nghiên cứu nàylà phân tích, đánh giá và nhấn mạnh đến chức năng vai trò PBXH của các tácphẩm báo chí. Chức năng PBXH của báo chí là một thực tiễn khách quan củađời sống xã hội, đây được coi là chức năng riêng của báo chí. Thông qua chứcnăng này báo chí thể hiện sức mạnh và uy tín của mình trong hoạt động PBXH.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên khi bàn đến PBXH của báo chímới chỉ tập trung đến khía cạnh góp ý kiến, phản ánh những vấn đề do cuộcsống đặt ra có liên quan đến chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. Cónhững nghiên cứu, đưa ra được một số vấn đề liên quan đến PBXH của báochí, song chưa phân tích sâu sắc và làm nổi bật cơ sở chính trị và pháp lý,cũng như lý luận và thực tiễn của PBXH của báo chí, do chưa đưa ra đượcchức năng PBXH của báo chí, những nội dung về vai trò PBXH của báo chí,về lý luận và thực tiễn PBXH của báo chí ở nước ta hiện nay.
1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHỨC NĂNG PHẢNBIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LUẬN ÁN
Thứ nhất, các công trình trên đây đã đạt được một số kết quả khinghiên cứu về PBXH và PBXH của báo chí:
Ở các nước, những công trình nghiên cứu trên cho thấy trong xã hộihiện đại, báo chí ngày càng quan tâm, coi trọng hơn chức năng thông tin, đây
33
là chức năng quan trọng hàng đầu, nhờ có chức năng này, xã hội có nhiềuthông tin hơn, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của công chúng, xã hội cởi mở,minh bạch hơn, dân chủ được phát huy và đề cao. Thông tin đa dạng, đachiều, phong phú làm cho cuộc sống ngày càng sinh động hơn, quan hệ giữangười dân với các đảng phái chính trị và nhà nước gần gũi hơn.
Báo chí có tính độc lập tương đối, có khả năng và chức năng PBXH -phản biện chính sách của nhà cầm quyền như một thực tế khách quan. Báo chídùng sức mạnh của nhân dân, của dư luận xã hội làm cho chính quyền phảithay đổi chính sách (nếu có hạn chế, bất cập, sai sót), nếu không sẽ bị sụp đổ.Báo chí thực hiện tương đối có hiệu quả chức năng PBXH, khi phản biện củabáo chí đến với nhà cầm quyền thường tạo ra những hiệu ứng tích cực. Dovậy, vai trò kiểm soát và thực thi QLCT,QLNN của báo chí ngày càng đượctôn trọng và sử dụng có hiệu quả.
Báo chí là công cụ của giai cấp thống trị, phục vụ lợi ích của giai cấpthống trị, đều chịu sự kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp của chính quyền. Báochí không thể không gắn với chính trị và kinh tế. Tự do báo chí, báo chí nhànước hay báo chí tư nhân đều phải tuân thủ pháp luật. Ở những thời điểm khácnhau, sự thể hiện chức năng tư tưởng hay chức năng giải trí, chức năng tuyêntruyền hay chức năng PBXH, v.v. có khác nhau nhưng đều bị chi phối bởi lợi íchchính trị và kinh tế.
Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu về PBXH và PBXH của báochí từ ở một ngành, một lĩnh vực nhất định với những cách tiếp cận khác nhauđã bắt đầu xuất hiện. Các công trình này cho thấy, trong những năm đổi mớigần đây hoạt động của báo chí đã có yếu tố tích cực hơn, thực hiện các chứcnăng của báo chí ngày càng đầy đủ và hiệu quả hơn, dám nói những gì màtrước kia không dám nói, dám đi nhiều hơn vào những “vùng cấm”, nhân dânvà xã hội tin tưởng ở báo chí hơn. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội đượcbáo chí phản biện một cách tích cực, hiệu ứng xã hội nhanh và mạnh mẽ hơnvà các nhà lãnh đạo đã chú ý lắng nghe hơn.
34
Thứ hai, các công trình trên đây chưa làm rõ vấn đề PBXH của báo chí
với tính cách là một chức năng của báo chí nói chung và ở Việt Nam nói riêng:
Các công trình nghiên cứu nêu trên về báo chí ở nước ta chủ yếu phản
ánh tình hình hoạt động của báo chí; khẳng định và bảo vệ sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí; khẳng định là tiếng nói, là
diễn đàn của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Những công trình nghiên cứu về
PBXH mới tập trung vào PBXH của MTTQ Việt Nam và các thành viên của
Mặt trận. Rất ít công trình nghiên cứu về PBXH của báo chí. Và càng chưa có
công trình nào nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống về chức năng PBXH ở Việt
Nam nói riêng. Do vậy, quan niệm về chức năng PBXH của báo chí, PBXH của
bản thân báo chí hay PBXH của xã hội thông qua báo chí, những yêu cầu và
nội dung thực hiện chức năng PBXH, v.v. của báo chí còn rất khác nhau.
Từ chỗ chưa làm rõ được: i) tính tất yếu khách quan của việc khẳng
định chức năng PBXH của báo chí; ii) vị trí của PBXH của báo chí trong hệ
thống PBXH của xã hội; iii) chủ thể, khách thể và đối tượng của PBXH của
báo chí; iv) nội dung, hình thức và phương pháp PBXH của của báo chí; v)
những cơ sở chính trị - pháp lý, những cơ chế chính sách bảo đảm thực hiện
chức năng PBXH của báo chí; vi) những yêu cầu và điều kiện cho việc thực
hiện chức năng PBXH của báo chí, v.v. nên chưa có công trình nào đánh giá
được thực trạng và đề xuất được phương hướng, giải pháp cho việc thực hiện
chức năng PBXH của báo chí nước ta hiện nay.
Hơn nữa, các công trình trên tiếp cận từ các ngành khác nhau về báo
chí, song chưa thấy từ góc độ chính trị học - góc độ của môn khoa học về
quyền lực, về tổ chức và thực thi quyền lực; - góc độ thể chế, chính sách
nhằm hiện thực hóa chức năng PBXH của báo chí ở nước ta. Cụ thể hơn, qua
các tài liệu, công trình, đề tài khoa học, bài viết trên báo chí, hội thảo khoa
học và tra cứu, cập nhật thông tin, chưa có công trình nào nghiên cứu về chức
năng PBXH của báo chí, đặc biệt là tiếp cận vấn đề từ Chính trị học.
35
Tiểu kết chương 1
Sau khi khảo sát (ở mức độ nhất định) các công trình nghiên cứu về
PBXH của báo chí ở trong và ngoài nước, nhất là từ khi đất nước ta tiến hành
công cuộc đổi mới, cho thấy vấn đề PBXH nói chung và chức năng PBXH
của báo chí ở nước ta nói riêng chưa thực sự được quan tâm. Nhiều vấn đề về
khái niệm và bản chất, nội dung và hình thức, phương pháp và phương tiện,
và vai trò, v.v. . của PBXH của báo chí và thực hiện chức năng PBXH của
báo chí ở nước ta vẫn chưa được làm rõ. Trên cơ sở kế thừa những kết quả đã
được nghiên cứu đã có, vấn đề đặt ra cho luận án là làm sáng tỏ những cơ sở
khoa học (cơ sở lý luận và thực tiễn) của việc xác định nội hàm của khái niệm
chức năng PBXH của báo chí và báo chí ở Việt Nam; đánh giá sự cần thiết và
thực trạng, xác định quan điểm, giải pháp thực hiện có hiệu quả chức năng
PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù việc nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí còn nhiều chỗ
trống, nhiều vấn đề và nhiều nội dung chưa được đề cập, chưa được luận giải
thật sự khoa học, song những kết quả nghiên cứu của các công trình đã được
khảo sát là những tài liệu quý báu cho việc nghiên cứu đề tài. Tác giả luận án
kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học,
các tác giả có liên quan để tiếp tục đi sâu nghiên cứu chức năng PBXH của
báo chí ở Việt Nam.
36
Chương 2
LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
2.1. PHẢN BIỆN XÃ HỘI VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
2.1.1. Phản biện và phản biện xã hội
2.1.1.1. Phản biệnCuộc sống con người và xã hội loài người luôn diễn ra một cách tự
nhiên, đó là loại bỏ những yếu tố sai lầm, dần tiếp thu những yếu tố tiến bộ,
hợp lý, sửa chữa và tiệm cận đến yếu tố đúng đắn và như vậy thường gọi là
phản biện. Những hành vi ban đầu mang tính tự nhiên, bột phát, đơn lẻ đó
được lặp đi, lặp lại trở thành thói quen, nếp sống của con người, cộng đồng và
xã hội. Khi xã hội phát triển đến trình độ cao, những hành vi, hành động đó
chuyển thành hoạt động tự giác, có tổ chức và dần mang tính chuyên môn,
chuyên nghiệp hơn. Đầu tiên là những hoạt động phản biện trong lao động,
sản xuất, xây dựng, tự vệ và bảo vệ cộng đồng, xã hội; sau đến là những hoạt
động phản biện trong cải tiến, phát minh, sáng chế khoa học, xây dựng đời
sống văn hóa, xã hội, nghệ thuật; cao hơn là phản biện trong xây dựng chính
sách, luật pháp, thiết lập và duy trì chế độ chính trị - xã hội và nhà nước, v.v..
Từ sự phát triển của thực tiễn cuộc sống, tư duy con người và xã hội loài
người đã có nhiều quan niệm, định nghĩa, khái quát về phản biện.
Theo nghĩa từ nguyên, phản có nghĩa là nghĩ, xét lại, theo Hán - Việt,
chữ phản gồm 5 nghĩa; 1) trái, đối lập với chữ chính; 2) trả lại, trở về; 3) nghĩ,
xét lại; 4) trở, quay; 5) trái lại, phản đối, trái lại không chịu. Biện là phân tích,
biện luận. Nếu gắn phản với biện có nghĩa là phân định xấu, tốt, trên cơ sở
phân tích, biện luận. Theo nghĩa trên, “có thể hiểu phản biện là đặt lại, xét
lại một sự việc, một vấn đề trên cơ sở lập luận, phân tích một cách khách
quan khoa học có sức thuyết phục, nhằm phát hiện hoặc đưa các chính kiến
37
trở về đúng giá trị của nó. Ban đầu khái niệm phản biện thường dùng để nhận
xét, đánh giá chất lượng một công trình khoa học, sau đó dần mở rộng ra lĩnh
vực chính trị - xã hội” [55].
Trong Từ điển Tiếng Việt (1992) của Viện Ngôn ngữ học ghi phản biệnlà: “Đánh giá đúng chất lượng một công trình khoa học khi công trình đượcđưa ra bảo vệ để lấy học vị của hội đồng chấm thi” [119, tr.755]. Các Từ điểnTiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, Nhà xuất bản Đà Nẵng,Nhà xuất bản Thanh Hóa, v.v. hiện nay cũng nhất trí với quan điểm trên.
Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30-1-2002 củaThủ tướng Chínhphủ Về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp cácHội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nêu rõ; Phản biện là hoạt động cung cấpcác thông tin, tư liệu cùng các ý kiến phân tích, đánh giá tính khả thi và cáckiến nghị về sự phù hợp của nội dung đề án đối với mục tiêu và các điều kiệnràng buộc ban đầu hoặc thực trạng đặt ra.
Theo đó, phản biện là một hoạt động khoa học, là quá trình diễn ra cáchoạt động được đảm bảo bởi những nguyên tắc chặt chẽ, gồm các khâu đánhgiá, phân tích, lập luận, thẩm định chất lượng, nhằm chứng minh, khẳng địnhhoặc bổ sung, bác bỏ một phần hay toàn bộ công trình nghiên cứu của cá nhânhoặc một nhóm người. Phản biện là sự tranh luận, đưa ra lập luận khác nhauđể làm rõ đúng - sai một vấn đề nhất định. Phản biện là một hoạt động phântích độc lập. Đây là một yếu tố rất quan trọng bảo đảm tính khách quan vàchính kiến của chủ thể phản biện. Mất đi yếu tố này thì phản biện sẽ giảmhoặc không còn giá trị. Phản biện hoàn toàn không đồng nghĩa với phản bác,lại càng trái ngược với bài bác, v.v.. Phản biện có những cấp độ, phương diệnkhác nhau (mức độ thấp, mức độ trung bình, mức độ cao) mà đỉnh cao là phảnbiện lý luận, phản biện khoa học.
2.1.1.2. Phản biện xã hộiPBXH là một vấn đề không mới, loài người đã làm quen với khái niệm
này từ rất sớm và biến nó trở thành công cụ hữu hiệu để tạo ra nền dân chủ,
38
tạo sự phát triển về chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến. Trong thời đại ngày
nay, PBXH vẫn là một trong những vấn đề hệ trọng, là đối tượng cần nghiên
cứu, nhất là đối với các quốc gia đang phấn đấu cho nền dân chủ.
PBXH là một hoạt động mang tính khoa học, là một hành vi khoa học
trong hành động của con người, xuất hiện khi con người chuẩn bị hành động.
Phản biện làm cho mỗi một hành vi được tiến hành trên cơ sở có một sự xác
nhận có chất lượng khoa học đối với nó. Hơn nữa, PBXH là một khái niệm
chính trị, biểu hiện đặc trưng, chuyên nghiệp nhất của đời sống chính trị và xã
hội dân chủ.
PBXH ở Việt Nam là một hiện tượng chính trị - xã hội mới, do sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, quá trình dân chủ hóa chính trị và xã hội
trong thời kỳ đổi mới mang lại. Đến nay, hiện tượng xã hội này đã ngày càng
định hình cả về nội dung, hình thức hoạt động (trong thực tiễn) lẫn quan niệm,
khái niệm (trong lý luận).
Với tính cách là một khái niệm mới xuất hiện ở nước ta trong những
năm gần đây, nên khái niệm PBXH còn chưa được đề cập và phân tích, đánh
giá một cách đầy đủ. Tuy nhiên khái niệm PBXH đã bắt đầu thu hút sự quan
tâm của đông đảo của các thành viên trong xã hội nhất là những nhà khoa
học, chuyên gia, nhà quản lý trong đó có nhà báo.
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Phát huy vai trò và tạo
điều kiện thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng
đường lối chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện
vai trò giám sát và phản biện xã hội” [42, tr.4]. Theo cách giải thích các từ
ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng, PBXH là sự phản biện nói chung,
nhưng có quy mô và lực lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và các
nhà khoa học, chuyên gia về nội dung, phương hướng, chủ trương, chính
sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục y tế,
văn hoá, môi trường, an ninh trật tự xã hội của Đảng, nhà nước và các tổ chức
39
liên quan. PBXH là phát huy quyền làm chủ nhân dân, ý thức trách nhiệm của
nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, v.v.. Nhân dân không chỉ có
quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. PBXH là nhu cầu cần thiết và đòi hỏi bắt buộc
của quá trình lãnh đạo, quản lý và điều hành đất nước, khắc phục tệ quan liêu.
Thuật ngữ PBXH được sử dụng chính thức trong Báo cáo chính trị tại
Đại hội X của Đảng. Theo đó, PBXH là:
Phản biện nói chung, nhưng có quy mô và lực lượng rộng rãi hơn
của xã hội, của nhân dân và các nhà khoa học về nội dung, phương hướng,
chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công
nghệ, giáo dục, y tế, môi trường, trật tự an ninh chung toàn xã hội của Đảng,
Nhà nước và các tổ chức liên quan [43, tr.182].
Đến Đại hội XI của Đảng đã phát triển và cụ thể: “Đảng, Nhà nước có
cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt
động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội” [45, tr.87].
Quán triệt và cụ thể hóa các quan điểm Đại hội XI của Đảng, ngày
12/12/2013, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW
về Quy chế giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị
- xã hội. Trong đó nêu rõ: “Phản biện xã hội là việc nhận xét, đánh giá, nêu
chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước”. Hoạt động PBXH mang tính xã hội
(tính xã hội đồng nghĩa với tính nhân dân) sâu sắc, việc tổ chức phản biện và
phản biện phải đứng trên lập trường của nhân dân, đại diện cho quyền lợi hợp
pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, bảo đảm lợi ích của toàn xã
hội và yêu cầu của đất nước. Do đó, PBXH phải thực sự giúp cho đối tượng
tiếp nhận phản biện đưa ra quyết định đúng đắn.
Trong một số bài viết của mình như Phản biện xã hội: Một số vấn đề
chung [114, tr.38] và bài Phương thức phản biện xã hội [115, tr.54], TS.Trần
40
Đăng Tuấn đã quan niệm phản biện và tự phản biện là; “cách để cuộc sống
diễn ra, cuộc sống đi lên... Ở vị trí quyền lực, coi trọng phản biện sẽ có được
phản biện xã hội có tổ chức, giúp ích lớn cho ổn định và phát triển; ngược lại,
tránh né phản biện xã hội, kết quả là nhận được phản biện xã hội tự phát -
mảnh đất thuận lợi để hình thành tâm thế phản kháng xã hội”. Đây là những
nội dung cảnh báo về nhận thức không đầy đủ và đúng đắn về PBXH. Và tác
giả đã nêu lên PBXH là “đưa ra các lập luận, phân tích nhằm phát hiện, chứng
minh, khẳng định, bổ sung hoặc bác bỏ một đề án (phương án, dự án) xã hội
đã được hình thành và công bố trước đó”.
Qua phân tích các đặc trưng PBXH, PGS.TS,Trần Hậu đã đưa ra quan
điểm về PBXH:
Phản biện xã hội là sự phản ánh chính kiến của xã hội đối với các
chủ trương, chính sách, pháp luật do hệ thống lãnh đạo, quản lý đề
ra, thể hiện qua những nhận xét, đánh giá, phân tích có căn cứ và có
sức thuyết phục, được thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
bởi các chủ thể phản biện; có chức năng chuyển tải nhu cầu, nguyện
vọng của xã hội đến hệ thống lãnh đạo và quản lý; có tác dụng thúc
đẩy nền dân chủ xã hội và củng cố thể chế xã hội. Hình thức phản
biện xã hội tùy thuộc vào truyền thống văn hóa chính trị, trình độ tổ
chức dân chủ của từng nơi, từng thời kỳ lịch sử [55].
Như vậy có thể thấy PBXH là việc nêu nhận xét đánh giá, nêu chính
kiến của xã hội đối với các chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật do hệ
thống lãnh đạo, quản lý đề ra, được thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp bởi các chủ thể phản biện; có tác dụng thúc đẩy nền dân chủ xã hội và
củng cố thể chế xã hội.
Nếu phản biện khoa học là một trong những cách thức chủ yếu để các nhà
nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học, thì trong đời sống xã hội,
PBXH là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân
41
chủ. Trong một xã hội dân chủ ấy báo chí có điều kiện phát triển và khẳng
định chức năng PBXH.
2.1.2. Phản biện xã hội của báo chí
2.1.2.1. Báo chía) Sự hình thành của báo chí
Lịch sử văn hóa của nhân loại cho thấy, báo chí ra đời từ những thông
tin, thông báo của chính quyền qua tiếng mõ làng hay các yết thị dán ở nơi
công cộng đã xuất hiện tờ Acta Diuna của người La Mã cổ xưa. Cuối thế kỷ
XVI đầu thế kỷ XVII, những hình thức đơn giản đầu tiên của báo chí mới
xuất hiện ở châu Âu. Những tờ báo in đã được phát hành định kỳ, trước hết
giành cho nhà buôn; chủ yếu đăng tin về cách buôn bán, giá cả, nguồn hàng,
sự giao động của giá hàng, tình hình trong nước và thế giới. Báo in ở phương
Tây ra đời, gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản (CNTB), nhằm phổ
biến tư tưởng dân chủ tư sản, chống lại sự thống trị hà khắc của chế độ phong
kiến, thúc đẩy phát triển khoa học - kỹ thuật, xây dựng xã hội dân chủ, xã hội
công dân. Năm 1836, tờ báo chính trị - văn học La Presse của Pháp ra đời, mở
đầu kỷ nguyên của báo ngày. Sự xuất hiện báo Sông Ranh mới (1848 - 1849),
do C.Mác sáng lập và Ph.Ăngghen cộng tác, đã khai sinh ra nền báo chí cách
mạng của giai cấp vô sản, tập hợp và cổ vũ cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới chống CNTB, vì CNXH và chủ
nghĩa cộng sản.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự phát triển của khoa hoc - kỹ thuật
đã tạo nên bước phát triển có tính cách mạng của báo chí. Với sự phát minh ra
vô tuyến điện (1905) của nhà bác học Nga Pôpốp, đài phát thanh ra đời, mang
lại những khả năng to lớn, giải quyết nhu cầu thông tin, giao tiếp của xã hội.
Sự ra đời của truyền hình (1936) và liên tục hoàn thiện nhanh chóng kỹ thuật
truyền hình đã đưa lại cho loại hình phương tiện thông tin đại chúng này sức
mạnh to lớn trong hơn nửa đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XX, sự xuất hiện kỹ
42
thuật số đã mang lại khả năng không giới hạn cho báo chí về thông tin và vai
trò của báo chí ngày càng tăng lên trong đời sống của nhân loại.
Ở Việt Nam, báo chí xuất hiện muộn. Tuy có các hình thức sơ khai,
như các “mõ làng” hay yết thị của các triều đại phong kiến vào các ngày
mồng một, ngày rằm tại các “Quảng Vân Đình”, v.v. (báo chí trong quan
niệm dân gian), song mãi đến thế kỷ thứ XIX, khi chữ quốc ngữ ra đời thì báo
chí mới chính thức xuất hiện. Những năm 20 thế kỷ XX, báo chí ở Việt Nam
đã có sự phát triển triển về số lượng và chất lượng, với hơn 70 tờ báo, tạp chí
xuất bản bằng chữ quốc ngữ, chữ Pháp và chữ Hán. Từ những năm 20 của thế
kỷ XX, nền báo chí cách mạng Việt Nam hình thành, với vai trò to lớn của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sau đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
b) Quan niệm về báo chí
Tiếp cận từ chính trị học cho thấy, quá trình hình thành và phát triển
của báo chí hiện đại không tách rời sự ảnh hưởng, tác động của tư tưởng
chính trị và chế độ chính trị xã hội. Sự phát triển của báo chí hiện đại phụ
thuộc vào thái độ, quan điểm và yêu cầu của giai cấp cầm quyền và chế độ
chính trị xã hội. Bất cứ một lực lượng chính trị nào nắm chính quyền đều phải
quan tâm đến việc sử dụng báo chí như một công cụ, phương tiện để bảo vệ
lợi ích và thực hiện mục đích chính trị của mình. Đến thế kỷ XIX, báo chí đã
thực sự trở thành vũ đài chính trị, một mặt trận đấu tranh chính trị - tư tưởng
giữa các giai cấp, tầng lớp và thế lực chính trị trong xã hội. Các giai cấp sử
dụng báo chí như một công cụ, vũ khí sắc bén để tranh giành ảnh hưởng, thực
thi quyền lực của mình nhằm phân chia, bảo vệ quyền lợi giai cấp. Chính vì
vậy báo chí trở thành lực lượng quan trọng không thể thiếu trong đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Các nước phương Tây quan niệm báo chí như một quyền lực trong xã
hội để lãnh đạo, chi phối thực thi quyền lực bảo vệ quyền lợi giai cấp tư sản
cầm quyền. Giai cấp cầm quyền, lãnh đạo đã hiến định các quyền tự do báo
43
chí trong hiến pháp của mình. Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của
cách mạng Pháp năm 1789 có qui định các quyền cá nhân và quyền tập thể
của tất cả các giai cấp là bình đẳng [117]. Những điều sửa đổi bổ sung của
Hiến pháp Hoa kỳ ngày 17/9/1787 nêu rõ: Quốc hội sẽ không ban hành bất cứ
một đạo luật nào nhằm, v.v. ngăn cấm tự do ngôn luận, báo chí, v.v. [56]. Về
sau, các nước phương Tây tiếp tục phát triển các tư tưởng tự do báo chí này,
xác định tự do báo chí là những giá trị của nhân quyền, để thực hiện các ý đồ
khác nhau, phục vụ cho giai cấp thống trị cầm quyền.
Theo quan điểm của giai cấp tư sản, báo chí là phương tiện thông tin -
thông tin sự kiện là khách quan, độc lập và không phụ thuộc vào chính trị;
báo chí độc lập với chính trị, là quyền lực thứ tư (giám sát cả ba quyền lập
pháp, tư pháp, hành pháp). Trong xã hội ba quyền lập pháp, tư pháp, hành
pháp (tam quyền phân lập), hoạt động độc lập với nhau, chế ước (kiểm soát
và cân bằng) lẫn nhau. Hơn thế, cả 3 loại quyền lực ấy lại còn được kiểm soát
bởi thứ quyền lực khác - quyền lực của báo chí. “Dù không có văn bản pháp
luật nào qui định nhưng báo chí trong xã hội tư bản nghiễm nhiên được coi là
quyền lực thứ tư - có quyền giám sát cả ba nhánh quyền lực kia” [35, tr.56].
Sức mạnh của báo chí bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, dư luận xã hội
mà báo chí chuyển tải đến công chúng. Với ý nghĩa đó, báo chí thực sự là
quyền lực thứ tư; tuy rằng trong thực tế các giai cấp thống trị luôn tìm mọi
cách chi phối báo chí như một công cụ, phương tiện nhằm giành và giữ quyền
lực cho mình. Sức mạnh của QLCT, QLNN và của đồng tiền, xét đến cùng,
vẫn chi phối sức mạnh của báo chí.
Tiêu biểu cho quan niệm của giai cấp tư sản, báo chí phương Tây là
quan điểm của báo giới Mỹ. Họ cho rằng báo chí Mỹ là sự thỏa hiệp giữa hiệu
quả kinh tế và mục đích chính trị. Ngày nay kinh doanh trở thành mục tiêu
hàng đầu của báo chí Mỹ, PBXH của báo chí Mỹ chính là phát triển theo
hướng marketing kinh tế và chính trị, do QLCT và người giàu có chi phối.
44
- Chủ nghĩa Mác - Lênin nêu rõ, báo chí là công cụ tuyên truyền, là
phương tiện đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng và văn hóa. Báo chí là
một bộ phận không thể tách rời trong bộ máy tổ chức của Đảng Cộng sản, là
cơ quan ngôn luận, là diễn đàn của nhân dân. Báo chí là công cụ thực hiện
QLCT -QLNN của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Cuộc đời hoạt động
cách mạng của C.Mác, Ph.Ăngghen, gắn liền với hoạt động báo chí. Ngay
trong đấu tranh lý luận giai đoạn đầu, bằng một loạt các bài báo của mình
C.Mác đã chỉ ra rằng, không thể có đời sống chính trị tự do nếu không có
quyền đại diện của nhân dân. Quyền đại diện đó cần cho xã hội giống như
không khí cần cho con người, v.v.. Từ đó, một loạt những phạm trù thuộc nội
hàm dân chủ đầu tiên được C.Mác nêu là “tự do”, “tự do thật sự”, “có quyền”,
là “công dân”, “nhà nước”, là “quyền đại diện của nhân dân”, v.v.. Khi bàn về
tự do báo chí của nhà nước Phổ, C.Mác viết: “Vấn đề không phải là ở chỗ, tự
do báo chí có tồn tại hay không, - tự do báo chí bao giờ cũng tồn tại. Vấn đề
là ở chỗ tự do báo chí có phải là đặc quyền của một số người, hay nó là đặc
quyền của tinh thần con người” [101, tr.84-85].
Khi bàn về vai trò của tự do báo chí trong thúc đẩy sự phát triển của xã
hội, C.Mác viết:
Báo chí quan hệ với điều kiện sinh sống của nhân dân, với tư cách là
lý tính, nhưng cũng không kém phần với tư cách là tình cảm. Vì vậy, báo chí
không chỉ nói bằng tiếng nói lý tính của sự phê phán đang nhìn những mối
quan hệ hiện tồn tại từ đỉnh cao của mình, mà còn nói bằng tiếng nói đầy
nhiệt tình của bản thân cuộc sống, một tiếng nói mà người ta không thể và
cũng không nên - đòi hỏi ở những báo cáo chính thức [101, tr.290-291].
Đề cập đến mối quan hệ của báo chí với nhà cầm quyền C.Mác cho rằng:
Trong lĩnh vực báo chí, những người cai trị và những người bị cai trị
có khả năng như nhau để phê bình những nguyên tắc và yêu cầu của
nhau nhưng không phải trong khuôn khổ những quan hệ lệ thuộc,
45
mà trên cơ sở ngang quyền với nhau, với tư cách là những công dân
của nhà nước - không phải với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà
với tư cách là sức mạnh của trí tuệ, với tư cách là những người thể
hiện những quan điểm hợp lý [101, tr.290].
Tiếp thu những tinh thần của Chủ nghĩa Mác, trên cơ sở nghiên cứu vàphát hiện thấy vai trò, tác dụng kiểm soát QLNN sau quá trình ủy quyền củahoạt động PBXH của báo chí, V.I.Lênin cho rằng: “Chúng tôi sẵn sàng dànhmột chỗ trên tờ báo của chúng tôi cho những bài bàn về các vấn đề lý luận, vàchúng tôi mời tất cả các đồng chí chúng ta công khai thảo luận những điểmcần tranh luận” [72, tr.232]. Cần phải có sự tranh luận, thậm chí là luận chiếntrên báo chí làm cho vấn đề được sáng tỏ: “...một cơ quan báo mà phươnghướng đã được xác định rõ rệt thì rất có thể phục vụ cả việc phản ánh nhữngquan điểm khác nhau lẫn việc tổ chức luận chiến trên tình đồng chí giữa cáccộng tác viên của nó” [72, tr.415-416]. V.I.Lênin còn chỉ rõ: “...biến báo chítừ chỗ là một cơ quan chủ yếu phổ biến những tin tức chính trị hàng ngày,thành một cơ quan ngôn luận nghiêm chỉnh giáo dục kinh tế cho quần chúngnhân dân” [73, tr.181] và “Tờ báo phải trở thành một cơ quan chiến đấu, mộtlà nó không những sẽ cung cấp những tài liệu đều đặn và xác thực về kinh tếcủa ta, mà hai là sẽ còn phân tích những tài liệu ấy, chỉnh lý tài liệu ấy mộtcách khoa học để rút ra những kết luận đúng đắn giúp cho việc quản lý” [74,tr.138]. V.I.Lênin luôn quan tâm coi trọng và sử dụng báo chí như một côngcụ, một phương thức để truyền bá học thuyết cộng sản khoa học của mình vàophong trào công nhân nhằm thuyết phục, giác ngộ giai cấp, đấu tranh từ tựphát lên tự giác chống lại áp bức bóc lột giành và giữ chính quyền.
- Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về báo chí, Hồ ChíMinh tiếp tục khẳng định vai trò của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng.Người cho rằng “cán bộ báo chí là chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởngvăn hóa”. Ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đãtham gia hoạt động báo chí. Bài viết đầu tiên được đăng tải trên báo chí Pháp
46
“Yêu sách của nhân dân Việt Nam” được gửi đến hội nghị Versailles (VécXây) năm 1919. Sau đó Người tham gia báo Người cùng khổ (Le Paria) xuấtbản năm 1922; sáng lập báo Thanh Niên (xuất bản số đầu ngày 21/6/1925) -đánh dấu sự ra đời của báo chí Cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã dùngbáo chí làm công cụ tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng cộng sản chủnghĩa, con đường cách mạng giải phóng dân tộc, tập hợp và giác ngộ quầnchúng, chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản ViệtNam, lãnh đạo nhân dân ta làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, báo chí cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ và góp phần to lớn vào
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Sau đất nước hòa bình, thống nhất (1975), nhất là sự nghiệp đổi mới đất
nước (từ 1986) đã mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của báo chí nước ta.
Trong thời kỳ đổi mới báo chí còn được xem là tiếng nói và diễn đàn của của
Đảng, Nhà nước và nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Báo chí cách mạng nước ta được xem là một lĩnh vực (mặt trận), có chức
năng quan trọng thực thi QLCT, QLNN nhằm thực hiện thắng lợi đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, nghiên cứu các quan niệm báo chí ở trên cho thấy quan niệm
về chức năng PBXH của báo chí là nhu cầu khách quan, thiết thực của xã hội,
gắn với hoạt động sống, nhất là hoạt động lãnh đạo, quản lý. Khi xã hội loài
người phát triển và có sự phân chia giai cấp, báo chí chịu sự chi phối bởi giai
cấp, “chính trị nào thì báo chí ấy”, đã xuất hiện các quan niệm khác nhau về
báo chí. Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản quan niệm khác nhau về báo chí,
nhưng nét chung là cả hai đều dùng nó để giành, giữ QLCT và kinh tế.
c) Khái niệm báo chí
Cho đến nay ở nước ta vẫn có những cách nhìn, quan niệm khác nhau
về báo chí. Chẳng hạn, “Báo chí là loại hình hoạt động thông tin chính trị - xã
47
hội. Nghĩa là thông tin báo chí bao giờ cũng chứa đựng những giá trị xã hội
hay chính trị” [99, tr.51]. Lại có tác giả cho rằng, “Tiếp cận khái niệm báo chí
bằng quan điểm hệ thống là nhìn nhận mọi sự vật hiện tượng trong sự cấu
thành bởi nhiều yếu tố; các yếu tố này liên kết với nhau thông qua quan hệ chí
phối giàng buộc trong điều kiện cụ thể, thời gian và không gian xác định” [35,
tr.59]. Theo đó, khái niệm báo chí từ góc độ chính trị học và từ phương diện
tổ chức và hoạt động, được mô tả là: thứ nhất, một quyền lực chính trị, ở các
nước có những thể chế chính trị khác nhau thì mối quan hệ giữa quyền lực
chính trị với báo chí khác nhau; thứ hai, cơ quan chủ quản, ở nước ta theo
Luật Báo chí năm 1989 đó là tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp, v.v. có quyền xin phép thành lập cơ quan báo chí; thứ ba, nhà báo -
chủ thể trực tiếp hoạt động báo chí; thứ tư, sản phẩm báo chí; thứ năm, kênh
chuyển tải; thứ sáu, công chúng xã hội; thứ bảy, tổ chức chính trị - xã hội; thứ
tám, đời sống xã hội.
Tuy nhiên, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí
(năm 1999), “Báo chí Việt Nam hiện nay là phương tiện thông tin đại chúng
thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng
và Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân” [92]. Báo chí Việt
Nam hiện nay bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông
tấn); báo nói (chương trình phát thanh); báo hình (chương trình truyền hình,
chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ
thuật khác nhau); báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính)
bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam và tiếng nước ngoài.
Ngoài ra, có một số khái niệm phát sinh cũng cần làm rõ như, cơ quan
báo chí, cơ quan chủ quản báo chí, người đứng đầu cơ quan báo chí, nhà báo,
v.v.. Cơ quan báo chí là cơ quan thực hiện một trong các loại hình báo chí. Cơ
quan chủ quản báo chí là tổ chức đứng tên xin cấp giấy phép hoạt động báo
chí và trực tiếp quản lý cơ quan báo chí. Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
48
là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người đứng đầu cơ quan báo chí là
tổng biên tập hoặc tổng giám đốc, giám đốc. Nhà báo là người có các tiêu
chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định, đang
hoạt động hoặc công tác thường xuyên với một cơ quan báo chí và được cấp
thẻ nhà báo. Nhà báo Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ
thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ
báo chí do Nhà nước quy định, đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên
với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo.
Từ nghiên cứu trên và cách tiếp cận chính trị học tác giả cho rằng: báo
chí ở Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống
xã hội; là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn
đàn của nhân dân; tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương,
chính sách và luật pháp của Nhà nước đến với quần chúng nhân dân; nơi nhân
dân và các tổ chức của mình trao đổi bày tỏ các nhu cầu, lợi ích và nguyện
vọng chính đáng, thực hiện quyền làm chủ (trong đó có quyền kiểm tra, kiểm
soát, giám sát và phản biện) của nhân dân.
2.1.2.2. Phản biện xã hội của báo chíPhản biện của báo chí là PBXH. Do vậy PBXH của báo chí không nằm
ngoài quá trình PBXH. PBXH của báo chí là phương thức tốt nhất giúp công
chúng và người lãnh đạo, quản lý trong cuộc nhìn nhận một vấn đề, một sự
kiện ở nhiều góc độ khác nhau, nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập
nhau trên cả phương diện đánh giá và số lượng người ít - đông. Trong những
sự khác biệt đó, báo chí là kênh thông tin chuyển tải, kết nối được tiếng nói,
sức mạnh của nhân dân và DLXH.
Từ những quan niệm trên có thể thấy, PBXH của báo chí là hoạt động
thông tin - giao tiếp, phản ánh chính kiến của xã hội đối với các chủ trương,
chính sách, pháp luật do hệ thống lãnh đạo, quản lý đề ra, thể hiện qua
những nhận xét, đánh giá, phân tích có căn cứ và có sức thuyết phục, được
49
thực hiện qua báo chí; có chức năng chuyển tải nhu cầu, nguyện vọng của xã
hội đến hệ thống lãnh đạo và quản lý; có tác dụng thúc đẩy nền dân chủ xã
hội và củng cố, xây dựng thể chế xã hội.
Có thể thấy quan niệm PBXH của báo chí đã chỉ ra chủ thể phản biện,
đối tượng tiếp nhận phản biện, đối tượng phản biện, nội dung phản biện của
báo chí.
a) Chủ thể phản biện xã hội của báo chí
PBXH của nhà báo và tòa soạn báo: Khi nói PBXH của báo chí Việt
Nam, có nghĩa là nói đến quan điểm, chính kiến của các Tòa soạn báo và nhà
báo, thông qua tác phẩm báo chí của mình mà thực hiện PBXH, trước một
vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, luật pháp nào đó đang diễn ra trong đời sống
xã hội ở nước ta. Như vậy, chủ thể của sự phản biện ở đây thuộc về các cơ
quan báo chí và nhà báo, với tính cách là một bộ phận của HTCT trong hệ
thống quyền lực ở Việt Nam. Lúc này, báo chí không lấy việc phản ánh là chủ
yếu mà với tư cách một chủ thể, tổ chức chính trị - xã hội lên tiếng phản biện
và chịu trách nhiệm về quan điểm, chính kiến của mình. Trong trường hợp
này, phản biện của cơ quan báo chí và nhà báo đóng vai trò quyết định.
PBXH của báo chí là một phương thức trong xã hội ta, thể hiện một tư
duy mới của Đảng ta về báo chí. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI nêu rõ: “Phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và
phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân
dân và đất nước” [45, tr.225].
Quan điểm trên cho thấy, PBXH của báo chí là một tất yếu khách
quan, vốn có và vì lợi ích của nhân dân và đất nước và sự tồn tại của chính
báo chí. Xét ở khía cạnh khác, báo chí là công cụ, phương tiện tuyên truyền
của Đảng và Nhà nước, phản ánh tư tưởng, quan điểm chính thống của Nhà
nước, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Tuy nhiên, báo chí
có tính độc lập của nó. Thông qua thực hiện các chức năng, mà báo chí thể
50
hiện các lập trường, quan điểm của mình về các chính sách của đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội và pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện
chính sách, báo chí phản biện là khẳng định những mặt tích cực, tiến bộ, chỉ
ra những mặt hạn chế, khuyết điểm thiếu sót (nếu có) nhằm đưa ra những giải
pháp điều chỉnh bổ sung nhằm làm cho chính sách đó có hiệu quả. Từ thực
tiễn sinh động của hoạt động báo chí những năm qua, có thể thấy PBXH của
thể hiện trên các vấn đề cơ bản như sau:
Về mục đích, thực hiện PBXH của báo chí là xây dựng chính sách đúng
đắn, có sức sống trong thực tiễn, góp phần vào giữ vững ổn định chính trị và
phát triển đất nước, mở rộng dân chủ, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước đối với xã hội. Các tác phẩm báo chí đã phản ánh và
cung cấp những luận cứ khoa học, kịp thời, chính xác, khách quan cho quá
trình dự thảo, ban hành và thực thi các chủ trương, đề án, quyết sách của
Đảng và Nhà nước v.v. Thực tế cho thấy những nhà lãnh đạo, quản lý là
những người soạn thảo và ban hành các chính sách, quyết sách, bên cạnh
những vấn đề đúng đắn, tích cực, phù hợp với đời sống thực tiễn của đất
nước, sẽ không trách khỏi những thiếu sót, sai lầm, đôi khi là cả sự áp đặt chủ
quan, duy ý chí hay cả những vấn đề vụ lợi cá nhân hay các nhóm lợi ích, ở
các ngành, lĩnh vực. Cho nên muốn cho chính sách, luật pháp ấy đảm bảo
được tính chính xác, khách quan, khoa học, đúng đắn vì lợi ích chung của
nhân dân, đất nước cần phải có sự phản biện của báo chí, với tính cách là cơ
quan có sự độc lập tương đối với các quyết sách và thực thi các quyết sách
của Đảng và Nhà nước.
Tham gia PBXH là đưa ra những nhận xét đánh giá của dư luận xã hội
bằng các tác phẩm báo chí của chính các nhà báo và Tòa soạn báo. Đây chính
là hình thức thể hiện sự phản biện của báo chí; là công việc chính trị quan trọng,
hết sức nhạy cảm, rất cần đến trình độ, năng lực và bản lĩnh của nhà báo và cơ
quan báo chí. Khi xử lý những nguồn tin quan trọng, đòi hỏi rất cao về năng lực,
51
trình độ và bản lĩnh chính trị ở nhà báo, cơ quan báo chí để đưa ra những quyết
định sáng suốt có hiệu quả nhất. Đúng như một nhà nghiên cứu về báo chí đã
nhận định: “mà khi động chạm đến những vấn đề nhạy cảm mà không gây ra
xung đột, không làm khó chịu đối tượng được phản biện” [70, tr.86].
Như vậy, nội dung PBXH của báo chí là thông qua các tin bài, ảnh (tác
phẩm báo chí), xem xét, đánh giá, bình luận, có thể đồng tình hay không đồng
tình ở mức độ khác nhau của nhà báo, tòa soạn về các giai đoạn của chính
sách, từ dự thảo đến khi ban hành và quá trình tổ chức thực hiện. Thông qua
chức năng của báo chí để thể hiện nội dung hình thức phản biện và trình độ
phản biện của báo chí. Thực hiện chức năng PBXH của báo chí chính là sự
kiểm chứng tính đúng đắn, tính tối ưu của sự phù hợp giữa chính sách với
thực tiễn cuộc sống.
PBXH qua tổ chức xã hội và cá nhân: PBXH của báo chí bằng việc tổ
chức huy động các chuyên gia, nhà khoa học, độc giả, v.v. thông qua báo chí
làm công cụ, phương tiện để thể hiện quan điểm, chính kiến và ý kiến của
mình đối với các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và luật pháp của xã hội, đặc
biệt là trước những chính sách và thực thi chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đặc điểm nổi trội của đối tượng này là độc lập tương đối với giới cầm quyền
có trình độ cao, nhìn nhận và sử lý các vấn đề xã hội nhanh, có thể nắm bắt
được những thông tin sâu sắc về soạn thảo, dự thảo và thực thi chính sách của
chính quyền. Thực tế cho thấy đúng như nhận định: “Sức mạnh của phản biện
được nhân lên khi có sự tham gia của tuyến bài của độc giả và các chuyên gia
kinh tế, xã hội” [70, tr.87]. Như vậy, sự phản biện ở đây không phải là các
nhà báo hay cơ quan báo chí, mà là các chuyên gia, nhà khoa học, độc giả,
v.v. thực hiện các quyền dân chủ, quyền tự do ngôn luận mà luật pháp của
Nhà nước ta cho phép để phản biện những vấn đề đang nảy sinh trong chính
sách và việc thực thi chính sách của Đảng và Nhà nước. Lúc này, báo chí thực
hiện chức năng chuyển tải, phản ánh những tiếng nói đồng tình, không đồng
52
tình, tâm tư, nguyện vọng, góp ý kiến của người dân trước những vấn đề nảy
sinh trong xã hội.
Ở đây các nhà khoa học, chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhân dân, v.v. có
những tin, bài viết góp ý, bình luận, tranh luận phản biện về các chính sách
được báo chí đăng tải. Thông qua, nhà khoa học, chuyên gia, nhà nghiên cứu
và bạn đọc đã tạo ra diễn đàn quan trọng; đội ngũ này đã làm cho chức năng
PBXH của báo chí ngày càng được xác lập rõ hơn trong đời sống xã hội; các
tác phẩm báo chí ngày càng sâu sắc đa dạng, nội dung PBXH nhiều màu sắc;
những phản biện nhanh nhạy, sắc sảo và đầy dũng khí về những mặt tích cực,
như những hạn chế trong chủ trương chính sách và việc thực thi các chủ
trương, chính sách của Nhà nước. Theo đó,
Thực hiện chức năng phản biện xã hội là báo chí góp phần khơi thức
tập hợp nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của toàn dân, trước hết là đội
ngũ trí thức, nhất là các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau góp ý
cho các quyết sách lớn của nhà nước...Trí thức thực thụ là những
người có chuyên môn sâu, hiểu biết rộng nhất là có quan điểm và
chính kiến độc lập và có bản lĩnh bảo vệ các quan điểm chính kiến
ấy [35, tr.194].
Thực tế cho thấy, có nhiều chính sách, nhất là những chủ trương, chính
sách phức tạp, nhạy cảm, mới mẻ nảy sinh, các cơ quan chức năng và nhà
quản lý đã không tiên lượng, dự báo hay bao quát đầy đủ, kịp thời. Nhưng
nhờ có ý kiến phân tích bình luận của các chuyên gia, nhà khoa học lên tiếng,
phản ánh đúng lúc, kịp thời, thấu lý, đạt tình đã góp phần tạo điều kiện thuận
lợi cho các cơ quan chuyên môn điều chỉnh, bổ sung, không ngừng hoàn thiện
cơ chế, chính sách, đáp ứng nhu cầu, lợi ích của công dân, nhân dân lao động
và các cơ quan, doanh nghiệp, của đất nước. Mặt khác, do biết cách khơi gợi
vấn đề, khuyến khích động viên đông đảo công chúng tham gia ý kiến, nhiều
cơ quan báo chí đã mở được diễn đàn, chuyên trang, chuyên mục, v.v. tập hợp
53
được nhiều ý kiến, góp ý của các nhà khoa học, các chuyên gia và các tầng
lớp nhân dân đóng góp vào các dự án, đề án, văn bản pháp luật. Việc làm này
đã giúp cho các cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý nhà nước, bổ sung, sửa đổi
các nội dung, quy định của đề án, dự án và các văn bản đó phù hợp với thực
tiễn cuộc sống, làm cho các chủ trương chính sách ngày càng đúng đắn, có
sức sống trong đời sống xã hội. Vai trò, vị trí của các chuyên gia, nhà khoa
học đã làm cho chức năng PBXH của báo chí ngày càng được khẳng định,
niềm tin của công chúng đối với báo chí nước ta ngày càng được nâng lên.
Coi trọng PBXH của báo chí thực chất là một hình thức phát huy quyền
dân chủ, tự do ngôn luận báo chí của nhân dân, tạo diễn đàn sâu rộng của
nhân dân một cách công khai, minh bạch và có định hướng đúng đắn. Để
nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò của PBXH của báo chí, những người tham
gia ý kiến phản biện cần có trí tuệ bản lĩnh khoa học, tinh thần thiện chí, thái
độ xây dựng, nhận định và đánh giá sự kiện, vì lợi ích chung của toàn xã hội,
vì quyền và lợi ích chính đáng của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật
nước ta ghi nhận và bảo hộ. PBXH của báo chí không phải là “nói lấy được”,
“gặp đâu nói đấy”, “muốn nói gì thì nói”; trái lại, đó là sự tham gia vào đời
sống chính trị một cách đúng đắn, tuân theo pháp luật, theo lẽ phải, đúng với
tinh thần: “nói phải củ cải cũng nghe”; nói có cơ sở khoa học lý luận và thực
tiễn, lý do xác đáng và suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi nói, khi viết. Phản biện
không phải là bác bỏ, lại càng không phải cố tình ngụy biện để bác bỏ bằng
được. Việc làm này góp phần thực hiện tốt quy định về PBXH của nhà nước
ta, vừa góp phần giúp báo chí Việt Nam thể hiện tốt vai trò, chức năng PBXH
của mình.
Trong “thế giới phẳng” của thời đại thông, với một đất nước có 54 dân
tộc, hơn 90 triệu dân và hơn 4 triệu kiều bào ở nước ngoài, v.v. cần phải
khuyến khích phát huy mọi thành phần giai cấp, tầng lớp trong xã hội có ý
kiến, thể hiện chính kiến trên báo chí, tham gia PBXH. Đồng thời, các cơ
54
quan nhà nước cũng luôn phải lắng nghe, sàng lọc và tiếp thu những ý kiến
đóng góp chân thành, những tiếng nói tâm huyết, những đề xuất, kiến nghị,
hiến kế nhằm xây dựng chính sách ngày càng tốt hơn.
PBXH của báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tự do,dân chủ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.Mọi PBXH của báo chí phải trở thành kênh thông tin hữu ích giúp tăng cườnghơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, quản lý và điều hành của Nhà nước trên mọimặt đời sống xã hội ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, thời gian qua, chưa có cơ chế rõ ràng để thực hiện phản biệncủa báo chí. Từ đó đặt ra yêu cầu hoàn thiện thể chế, cơ chế, cũng như nghiêncứu toàn diện về hoạt động PBXH nói chung, PBXH và chức năng PBXH củabáo chí nói riêng.
Việc nhận thức đúng đắn về PBXH của báo chí sẽ giúp cho các cơ quancó chức năng - cơ quan lãnh đạo báo chí (của Đảng) và cơ quan quản lý báochí (của Nhà nước) có những chủ trương, định hướng quan trọng trong việcthiết lập chức năng PBXH của báo chí trong đời sống xã hội của nước ta.Giúp cho các cơ quan báo chí có chủ trương, kế hoạch xây dựng các chuyêntrang, chuyên mục và đội ngũ nhà báo sắc sảo, thực hiện PBXH có hiệu quảnhất, đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đồngthời cũng khắc phục được sự phản biện một chiều, thiên về phản đối màkhông đề xuất được ý kiến xây dựng và việc thực hiện các chủ trương, chínhsách của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
b) Đối tượng phản biện xã hội của báo chíĐối tượng PBXH nói chung là đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duynhất cầm quyền, lãnh đạo toàn diện trực tiếp Nhà nước và toàn xã hội bằngđường lối chính trị, bằng việc kiểm tra giám sát; Nhà nước thực hiện thể chếhóa đường lối của Đảng cầm quyền bằng các chính sách, pháp luật nhằm thựcthi đường lối chính trị một cách có hiệu quả.
55
Trong điều kiện nước ta báo chí cũng là một tổ chức của HTCT do đó
nó cũng chịu sự điều chỉnh của “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” do Bộ Chính
trị ban hành ngày 12/12/2013. Do đó đối tượng PBXH của báo chí là các văn
bản dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các
quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của Nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực chất chức
năng PBXH của báo chí ở đây là thực thi và kiểm soát quyền lực. PBXH của
báo chí giúp cho các cơ quan đảng, chính quyền xây dựng và thực hiện chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn, với đòi
hỏi của nhân dân.
Đối tượng PBXH của báo chí thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, cương lĩnh chính trị mang tính định hướng đối với HTCT,
trong đó có Nhà nước. Với tư cách là đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo
của Đảng trong HTCT nước ta mang tính toàn diện, tuyệt đối. Cương lĩnh
chính trị của Đảng là tuyên ngôn, mục tiêu chính trị và định hướng phát triển
đất nước trong cả một giai đoạn trong tiến trình quá độ lên CNXH. Ở nước ta
từ khi Đảng lãnh đạo đến nay có hai cương lĩnh chính trị: Cương lĩnh chính trị
năm 1930 và cương lĩnh chính trị năm 1991, (tại Đại hội Đại biểu lần thứ VII
của Đảng đã thông qua cương lĩnh Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991). Cương lĩnh
1991 đã tổng kết kinh nghiệm thực hiện cương lĩnh năm 1930).
Thứ hai, thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước xây
dựng Hiến pháp, làm nền tảng cho hệ thống luật pháp ra đời nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, thể hiện ở
mức cao nhất tinh thần chủ quyền nhân dân theo nguyên tắc tất cả QLNN thuộc
về Nhân dân. Sự ra đời của bản Hiến pháp là thể hiện vai trò lãnh đạo tuyệt đối
của Đảng đối với Nhà nước, đây là cơ sở pháp lý để xác lập tính chính đáng của
56
Nhà nước. Hoạt động lãnh đạo của Đảng, cũng như hoạt động quản lý của Nhà
nước, được đánh dấu mốc thời gian theo các nhiệm kỳ (5 năm), thông qua các
Đại hội Đảng, các kỳ bầu cử cơ quan QLNN. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội
Đảng, Nhà nước quán triệt, triển khai cụ thể hóa Nghị quyết xây dựng Luật và
các văn bản Luật; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, xác định mục tiêu,
nhiệm vụ, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội những năm tiếp theo.
Thứ ba, Nhà nước cụ thể hóa đường lối chính trị của Đảng cầm quyền
thành các đạo luật, đây là công cụ chủ yếu, hữu hiệu nhất của Nhà nước để
quản lý điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước bằng luật pháp
là tất yếu khách quan của nhà cầm quyền, thể hiện sự tiến bộ văn minh của xã
hội mà Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Luật là văn bản quy phạm mang tính phổ
biến, tính bắt buộc chung, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ban hành luật
là thẩm quyền thuộc chức năng của Nhà nước, thể hiện QLNN. Nhưng luật
ban hành phải vì con người, phục vụ con người. C.Mác đã chỉ rõ: “Dưới chế
độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì
con người” [107, tr.350]. Vì vậy, hoạt động xây dựng luật phải thể hiện vai
trò của nhân dân là chủ thể sáng tạo pháp luật, vừa ủy quyền cho cơ quan
QLNN cao nhất, vừa trực tiếp tham gia thể hiện chính kiến, phản ánh lợi ích
của mọi tầng lớp và giai cấp khác nhau.
PBXH của báo chí là phương thức hữu hiệu thu hút các tầng lớp, giai
cấp, tập hợp được ý kiến đa dạng, phong phú của đông đảo nhân dân đối với
các văn bản quy phạm pháp luật ở tất cả các khâu, các giai đoạn trong quá
trình xây dựng luật. Đồng thời, chính hoạt động PBXH của báo chí trong xây
dựng luật cũng là quá trình chuẩn bị cho nhân dân hiểu rõ luật và thực hiện
luật sau khi được Nhà nước ban hành.
Hệ thống pháp luật gồm các luật và các văn bản dưới luật có phạm vi
tác động, đối tượng điều chỉnh cụ thể khác nhau trên các lĩnh vực chính trị,
57
kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v.. Vì vậy, đối tượng PBXH của báo chí cần tập trung
vào những luật có nội dung, điều chỉnh tác động đến sinh mệnh chính trị của
Đảng, Nhà nước, liên quan đến lợi ích thiết thực “nhạy cảm” của nhân dân.
Thứ tư, chính sách công là những quy định về ứng xử của Nhà nước với
những hiện tượng nảy sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện dưới
những hình thức khác nhau một cách ổn định, nhằm đạt được mục tiêu định
hướng, do Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện. Đó là chính sách công,
tức là “chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối
quyền lực công cộng". Đây là một loại công cụ mà các Nhà nước dùng để
quản lý kinh tế - xã hội bởi các chính sách này tạo sự điều khiển đồng bộ,
theo định hướng nhất định để Nhà nước quản lý đất nước.
Hơn nữa, “nói đến chính sách công không thể không nói đến các ưu
tiên chính trị của đảng cầm quyền thông qua Nhà nước cũng như tính tối ưu
của chính sách”. Mặt khác, “Khả năng đưa ra và thực hiện được các chính
sách đúng đắn, hiệu qủa, hợp lòng dân quyết định một cách cơ bản tính chính
đáng của QLNN mà mỗi đảng chính trị, lực lượng xã hội đang nắm giữ”.
Chính sách công của Nhà nước là sự thể chế hóa và cụ thể hóa đường lối,
chính sách của Đảng do đó phải được phản biện từ xã hội, từ nhân dân. Báo
chí là công cụ tuyên truyền, là phương tiện đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư
tưởng và văn hóa, là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, là diễn đàn
của nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân.
Do đó, các chính sách công là đối tượng PBXH của báo chí.
Chính sách công là công cụ quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội nên chúng rất đa dạng và phong phú: Theo chủ
thể ban hành chính sách có chính sách quốc gia và chính sách địa phương;
theo chức năng của chính sách có chính sách phân phối (phân bổ nguồn tài
nguyên quốc gia cho các đối tượng cụ thể trong xã hội), chính sách phân phối
lại (hướng tới giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập, khả năng tiếp cận các dịch
58
vụ giữa các tầng lớp dân cư, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bất công trong
xã hội) và chính sách điều tiết (hướng tới hạn chế sự phát triển của bộ phận
này, hoặc tạo điều kiện cho sự phát triển của bộ phận khác); theo trạng thái
của chủ thể quyết định chính sách có chính sách thụ động (nhằm xử lý tình
huống phát sinh trong đời sống xã hội) và chính sách chủ động (khi xã hội chưa
đủ khả năng để nhận thức được nhu cầu chính sách hoặc chỉ giới hạn ở một bộ
phận rất hẹp; thường thể hiện mục tiêu củng cố lợi ích quốc gia về lâu dài và xử
lý các vấn đề phát triển ở tầm dài hạn); theo thời gian thực hiện có chính sách
ngắn hạn (chỉ áp dụng trong khoảng thời gian ngắn, có thể thay đổi hàng năng và
chính sách dài hạn (đòi hỏi thời gian thực hiện lâu dài); theo không gian tác động
có chính sách đối nội (giải quyết các vấn đề nội tại của đất nước) và chính sách
đối ngoại (hướng dẫn và điều tiết các quan hệ đối ngoại của Nhà nước với các
quốc gia, các tổ chức trên thế giới), v.v.. [61, tr.287 - 289].
Trong các loại chính sách đó, đối tượng PBXH chủ yếu của báo chí là
chính sách quốc gia và chính sách địa phương; chính sách phân phối và chính
sách phân phối lại; chính sách chủ động, chính sách dài hạn; chính sách đối nội
và những chính sách đối ngoại liên quan đến chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc.
Kết quả của các quá trình chính trị ở nước ta, nhất là quá trình lãnh đạo
của Đảng và quản lý Nhà nước, từ việc xây dựng đường lối chính trị của
Đảng đến việc cụ thể hóa của Nhà nước thành các đạo luật và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, v.v. luôn luôn tác động mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống
xã hội và cần đến sự phản hồi từ phía xã hội và, do vậy, đều trở thành đối
tượng PBXH của báo chí.
c) Chủ thể tiếp nhận phản biện xã hội của báo chí
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền
lãnh đạo xã hội, đối với báo chí Đảng lãnh đạo trực tiếp tập trung mọi mặt
bằng đường lối chủ trương, bằng công tác cán bộ, công tác kiểm tra; Nhà
nước quản lý báo chí bằng luật pháp. Đảng và Nhà nước luôn có vai trò to lớn
59
trong việc dự thảo, ban hành và thực thi chính sách, pháp luật, do vậy độc
quyền rất dễ dẫn đến lạm quyền, lộng quyền suy thoái quyền lực. Từ thể chế
chính trị ấy cho thấy QLCT, QLNN được nhân dân ủy quyền cần có sự kiểm
soát. Thông qua hoạt động PBXH của báo chí, nhân dân tham gia kiểm soát
quyền lực của mình bằng việc góp ý kiến, tranh luận, phản biện chủ trương
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhằm làm cho chính sách pháp
luật có sức sống trong thực tiễn.
Như vậy, chủ thể tiếp nhận phản biện xã hội của báo chí là Đảng và
Nhà nước, bằng tổ chức bộ máy và cán bộ của mình tiếp nhận các PBXH của
báo chí. Đây là cơ chế phản biện khách quan trong sự vận hành của thể chế
chính trị, đòi hỏi phải có nhận thức và hành động đúng trong việc tiếp nhận
các phản biện, nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN mà tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân.
d) Nội dung phản biện xã hội của báo chí
Theo “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” do Bộ Chính trị ban hành ngày
12/12/2013 thì:
Nội dung chức năng phản biện xã hội chính là sự cần thiết, tính cấp
thiết của các chủ trương, chính sách có thể là văn bản dự thảo hoặc
đang thực thi trong cuộc sống. Sự phù hợp của văn bản (kể cả các
văn bản dự thảo và văn bản đã có hiệu lực) chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; thực tiễn của đơn
vị, địa phương. Tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời
sống xã hội và tính khả thi của văn bản. Dự báo tác động, hiệu quả
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại
của văn bản [26].
Bởi chính sách được thực hiện theo quá trình sau hoạch định (dự thảo,
soạn thảo, chuẩn bị cho việc quyết định, quyết định ban hành) và tổ chức thực
60
thi (triển khai thực hiện trong đời sống xã hội); nên nội dung phản biện gồm:
thứ nhất, PBXH trong việc hoạch định, soạn thảo chính sách, pháp luật; thứ
hai, PBXH trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật; thứ ba, PBXH với
công tác cán bộ, việc bố trí cán bộ trong bộ máy quyền lực nhà nước [58].
Từ các quan điểm trên, tác giả cho rằng quá trình hình thành và ra đời
chính sách được hiểu là: Thực tiễn đặt ra nhu cầu cho việc xây dựng chính
sách rồi đến khởi thảo thành văn bản dự thảo, thảo luận phản biện góp ý hoàn
chỉnh, quyết định ban hành và tổ chức thực hiện trong đời sống, quá trình này
vẫn tiếp tục cần sự phản biện làm cho chính sách ngày càng hoàn thiện mang
lại hiệu quả cao. Kiểm soát quyền lực diễn ra thường xuyên, trong mọi giai
đoạn và mắt khâu của quá trình giành giữ, tổ chức và thực thi quyền lực - từ
đường lối, chính sách đến tổ chức và cán bộ; từ ra quyết định đến thực hiện và
đánh giá quyết định.
Do đó, nội dung PBXH của báo chí được thể hiện như sau:
Thứ nhất, PBXH của báo chí trong quá trình soạn thảo ban hành chính
sách, pháp luật: Ở giai đoạn này, phản biện đối cơ sở lý luận và thực tiễn, tính
cấp thiết của chính sách, pháp luật; cách thức quy trình thực hiện; xác định
nội dung chính sách, pháp luật là trọng tâm của phản biện. Phản biện của báo
chí tham gia vào tất cả quá trình đó và có sự chuẩn bị tốt về tài liệu, chứng cứ
khoa học, con người, tổ chức phát huy sức mạnh báo chí đưa ra những lập
luận, chứng cứ để khẳng định hay bác bỏ, đồng tình hay không đồng tình.
Quan tâm đến tính khách quan, khoa học của vấn đề nhằm đi đến cùng của sự
thật, có những điều chỉnh, bổ sung hoặc thay thế cần thiết để hoàn thiện chính
sách, pháp luật trước khi ban hành, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả thực
thi chính sách và pháp luật trong đời sống.
Từ những yêu cầu cao của chính sách, pháp luật đòi hỏi phản biện của
báo chí cần có bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn và sự am hiểu sâu về
những vấn đề trong nội dung chính sách, pháp luật; nắm vững cơ sở khoa học
61
và thực tiễn của vấn đề để đưa ra những luận chứng, luận cứ có thể thuyết
phục được cơ quan soạn thảo và ban hành chính sách, pháp luật. Đồng thời
phải có đạo đức nghề nghiệp, có tâm trong sáng của nhà báo trong hoạt động
phản biện, đặt lợi ích của nhân dân, đất nước trên lợi ích cá nhân.
Thứ hai, PBXH của báo chí trong quá trình thực thi chính sách, pháp
luật. Báo chí chí tham gia phản biện ở quá trình, kết thúc quá trình dự thảo,
chính sách, pháp luật được ban hành có hiệu lực và được thực thi trong đời
sống xã hội. Đây là quá trình tác động ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích, quyền
lợi của các thành phần trong xã hội. Sự tác động trực tiếp thường xuyên của
chính sách, pháp luật vào đời sống dần bộc lộ những ưu điểm - khuyết điểm,
hạn chế bất cập; mặt tốt - mặt chưa tốt, phù hợp - chưa phù hợp, thậm chí bộc
lộ cả những thiếu sót sai lầm của chính sách, pháp luật, đây là vấn đề mà cơ
quan soạn thảo và ban hành chính sách, pháp luật khó có thể lường trước
được. Phản biện của báo chí chính là đưa ra những bình luận, phân tích, đánh
giá nhằm tìm ra những ưu điểm và những thiếu sót, hạn chế sai lầm.
Trong thực tiễn triển khai và thực hiện chính sách, pháp luật những
thiếu sót, sai lầm có thể diễn ra ở nhiều khâu, có thể do nội dung của chính
sách, pháp luật, cũng có thể do tổ chức thực hiện vận dụng chính sách pháp
luật không tốt. Nguyên nhân của những bất cập đó có nhiều, từ chủ quan đến
khách quan, trực tiếp đến gián tiếp.v.v. cho dù nguyên nhân nào đi chăng nữa,
cũng cần phải có phản biện của báo chí.
Thứ ba, PBXH của báo chí đối với tổ chức bộ máy và công tác cán bộ
và cán bộ trong bộ máy nhà nước. Tổ chức bộ máy nhà nước và cán bộ là sự
vận hành nhà nước nhằm thực thi QLCT, QLNN; quyền lực này là do nhân
dân ủy quyền cán bộ là người thực thi, do đó quyền lực cần phải có sự kiểm
soát. Sự thiếu vắng các cơ chế kiểm soát, phản hồi và điều chỉnh trong thực
thi quyền lực luôn tạo ra những cơ hội cho người cầm quyền quan liêu, tham
nhũng, làm suy thoái quyền lực. Trong bộ máy QLNN cán bộ là người được
62
nhà nước giao cho nhiệm vụ xây dựng và ban hành và tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật.
Nhà nước ta là cơ quan quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân ban
hành Hiến pháp pháp, pháp luật, nhưng bản thân Nhà nước lại phải được tổ
chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Chúng ta đã có
bước tiến đáng kể trong nhận thức về vấn đề kiểm soát quyền lực bên trong
nhà nước, từ chỗ phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Đại hội
XI của Đảng (2011) đã phát triển thành phân công phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, chính quyền từ Trung ương đến địa
phương, các bộ ban ngành Trung ương đến địa phương. Tổ chức và hoạt động
như vậy vận hành có hiệu quả không khi một đảng duy nhất cầm quyền, do
vậy rất cần phải có PBXH của báo chí.
Công tác cán bộ bao gồm xây dựng luật, văn bản dưới luật; các qui
định, qui chế, tiêu chí cán bộ, v.v. tuyển dụng cán bộ, qui hoạch nguồn cán
bộ, đào tạo bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, đề bạt, luân chuyển, sử dụng, khen
thưởng, kỷ luật và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ.
Đối với cán bộ, công chức cần có phẩm chất chính trị, năng lực trình độ
chuyên môn, có đạo đức cách mạng, lối sống trong sáng lành mạnh, nhất là
cán bộ chủ chốt, cán bộ được nhân dân bầu cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp). Chức trách nhiệm vụ được giao, khả năng tổ chức triển khai chính
sách, pháp luật trong cuộc sống như thế nào. Đây là mối quan tâm chung của
xã hội và là nội dung rất quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực, làm tốt
PBXH của báo chí sẽ góp phần khắc phục những lúng túng trong kiểm soát
quyền lực - từ chất vấn đến điều trần, từ tín nhiệm đến miễn nhiệm và bãi
nhiệm những chức danh trong Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội
khi cần thiết.
63
Thứ tư, tính chất “phản tư” trong thực hiện chức năng phản biện xã
hội của báo chí. PBXH của báo chí được hiểu là việc nêu và góp ý kiến, bình
luận hay tranh luận, nhằm thể hiện sự đồng tình, không đồng tình hoặc bác bỏ
của báo chí về một vấn đề, một quan điểm của chính sách còn chưa rõ ràng,
chưa đúng đắn, chưa tạo được sự đồng thuận xã hội; góp phần xây dựng và
hoàn thiện đường lối, chính sách xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà
quyền lực thuộc về nhân dân.
Để nghiên cứu phản tư của báo chí, xuất phát từ quan điểm hệ thống và
góc độ tiếp cận nghiên cứu của chính trị học là nhìn nhận mọi sự vật, hiện
tượng trong sự cấu thành bởi nhiều yếu tố có tác động, liên kết, ràng buộc và
chi phối lẫn nhau trong điều kiện cụ thể. Do đó vận dụng trong xã hội, mỗi
một hệ thống xã hội cụ thể có những cấu trúc khác nhau, từ cấu trúc quyền
lực chính trị, nhà nước các thể chế kinh tế, văn hóa, v.v. mà ở đó báo chí được
xem xét như là một bộ phận (tiểu hệ thống) của hệ thống nói chung. Trong
mối quan hệ này báo chí có nhiều mối quan hệ dọc, ngang khác nhau, có quan
hệ chịu sự chi phối phụ thuộc, có mối quan hệ ngang bằng, bình đẳng, trong
đó có mối quan hệ với QLCT, QLNN và quyền lực kinh tế, v.v..
Ở Việt Nam thể chế chính trị được thể hiện, QLCT tối cao thuộc về
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng lãnh đạo toàn diện, trực tiếp và tuyệt đối
báo chí. Đảng ta luôn coi báo chí là vũ khí sắc bén để tuyên truyền, tập hợp tổ
chức và giáo dục giai cấp và nhân dân. Báo chí là một bộ phận trong hệ thống
QLCT của đảng. Báo chí là công cụ thể hiện QLCT. Như vậy báo chí vừa là
công cụ thực hiện QLCT, đồng thời cũng là chủ thể kiểm soát quyền lực.
Do vậy, phản biện của báo chí ở đây cũng có thể được hiểu là phản tư, vì
năng lực phản tư được hiểu là khả năng của con người hay tổ chức trong việc tự
phủ định chính mình. Báo chí là một cơ quan, một bộ phận trong bộ máy của
Đảng, Nhà nước và tính độc lập tương đối của báo chí trong mối quan hệ với hệ
thống quyền lực giúp cho báo chí phản tư tốt hơn, phản tư của báo chí ở đây
64
được hiểu không phải là phủ định chính mình. Điều này có nghĩa là nhờ một cơ
chế (cơ chế PBXH) trong tổ chức hệ thống chính trị mà Đảng và Nhà nước có
thể thừa nhận những hạn chế, yếu kém của mình và trên cơ sở đó có cách sửa
chữa, khắc phục. Ở đây cũng có thể được hiểu là trong HTCT “tự phê bình và
phê bình” (nội bộ), báo chí góp ý kiến, kiến nghị với Đảng, Nhà nước làm cho
hệ thống HTCT mạnh lên; đồng thời sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với
báo chí làm cho báo chí tốt hơn. Trong mối quan hệ này được hiểu là sự tác động,
qua lại giữa hai sự vật hiện tượng trong một thể thống nhất mà ở đây là HTCT.
Nếu báo chí không có năng lực phản tư, thì QLCT, QLNN sẽ bị suy thoái lạm
quyền, xã hội yếu kém không phát triển được, thậm trí là sụp đổ chế độ.
Với tính cách là “quyền lực thứ tư” trong xã hội, báo chí là công cụ thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân; giám sát và phát hiện các hiện tượng suy thoái
quyền lực; dựa vào pháp luật và những chuẩn mực đạo đức xã hội tạo ra những
“áp lực xã hội” đối với việc kiểm soát hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Quá trình thực hiện PBXH của báo chí cho thấy nó có mức độ khác nhau:
Ở mức thấp, PBXH của báo chí là sự phản ánh, biện minh cho một luận
điểm A nào đó trong chính sách còn luận điểm B và C chỉ là bình luận có tính
hình thức bề ngoài không sâu sắc, có những tin, bài bày tỏ ý kiến đồng thuận,
tham gia ý kiến với mong muốn là làm cho nó tốt hơn.
Ở mức trung bình, thực hiện PBXH của báo chí có nghĩa là thông qua
các tác phẩm báo chí đưa ra những ý kiến khác hoặc đúng hay không đúng
nhưng để cảnh báo một vấn đề nào đó trong chính sách và quyết định, làm
cho đối tượng được phản biện phải cảnh giác đối với những chính sách hay
quyết định mà mình sắp đưa ra hoặc đã đưa ra; đồng thời nó cảnh báo xã hội
cần cảnh giác để ngăn chặn cái xấu, cái tiêu cực.
Ở mức cao, PBXH của báo chí có nghĩa là phát hiện ra những chính
sách, quyết định thiếu khoa học, lợi ích nhóm, bài bác nhau, những chính
sách, quyết định đưa ra là mâu thuẫn nhau, chống đối nhau một cách trực
65
diện, bài bác, phủ định nhau. Những vấn đề được đánh giá, xem xét có thể do
điều kiện, hoàn cảnh, tình huống khác nhau cho nên trong quá trình phản
biện, có thể đưa ra những kết quả không giống nhau. Tuy nhiên phản biện của
báo chí phải đưa ra những đánh giá khách quan, đúng đắn, khoa học nhằm
thuyết phục đối tượng được phản biện.
Thực tiễn công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới báo chí nói riêng đãlàm xuất hiện chức năng PBXH của báo chí. Chức năng PBXH của báo chí làsự tồn tại khách quan, là yêu cầu tất yếu của một xã hội hiện đại là cần phảicó sự phản biện. Nhiều vấn đề của cuộc sống đặt ra cần phải có bình luận,tranh luận, đánh giá xem xét nhiều chiều, ở nhiều khía cạnh yếu tố khác nhaulàm cho chủ trương đường lối, chính sách hoàn chỉnh hơn. Khi nói phản biệnxã hội của báo chí là ý kiến, quan điểm mang tính phản biện của báo chí trướcmột vấn đề xã hội nào đó với tư cách là một thực thể xã hội, đại diện cho côngluận, dưới sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật củaNhà nước. Ở đây, báo chí không lấy việc phản ánh là chủ yếu mà với tư cáchmột chủ thể, lên tiếng phản biện và chịu trách nhiệm về quan điểm, ý kiến củamình. Quan niệm PBXH trên báo chí và phản biện xã hội của báo chí thựcchất là một, bởi phản biện dù dưới hình thức nào đi chăng nữa cũng vẫn thôngqua báo chí, biên tập kiểm duyệt xuất bản và đó là sản phẩm của báo chí vàbáo chí phải chịu trách nhiệm. Để thực hiện chức năng PBXH của báo chí cóhiệu quả cần có các điều kiện nhất định về môi trường, cơ chế hành lang pháplý; tạo cơ sở vật chất nguồn lực con người cho hoạt động phản biện.
2.2. CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ VÀ CÁC TIÊU CHÍĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
2.2.1. Chức năng của báo chí và chức năng phản biện xã hội củabáo chí
2.2.1.1. Chức năng của báo chíChức năng,về mặt ngữ nghĩa, chức năng - tiếng La tinh là “function” -
được hiểu là sự tổng hợp vị trí, vai trò, bổn phận, nghĩa vụ, tác dụng của cái gì
66
đó đối với sự vật, hiện tượng nào đó. Mỗi một sự vật, hiện tượng tồn tại và
vận động đều nhằm thực hiện những mục đích nhất định nào đó.1
Chức năng của báo chí được hình thành không phải do sự áp đặt chủ
quan, từ đâu đó hay từ ai đó, mà nó tồn tại một cách khách quan trên cơ sở
những qui luật nội tại của báo chí. Nói về tính khách quan của chức năng báo chí
trên cơ sở qui luật nội tại của báo chí, C.Mác viết: “Muốn cho báo chí hoàn
thành sứ mệnh của mình thì trước hết cần phải không có áp lực nào từ bên ngoài
vào, cần phải thừa nhận báo chí có những qui luật nội tại của mình” [76].
Mặt khác, do các cách tiếp cận khác nhau nên quan niệm, nhận định về
chức năng của báo chí cũng khác nhau. Từ cách tiếp cận theo quan điểm hệ
thống, khái niệm chức năng có thể hiểu là vai trò, bổn phận, nghĩa vụ của yếu
tố này với yếu tố khác trong hệ thống và đối với hệ thống trong tổng thể.
Nghiên cứu chức năng có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, nó
cho phép con người nắm được những mối liên hệ phổ biến, chủ yếu của đối
tượng, tạo cơ sở xác định phương hướng và phương pháp hành động một cách
có hiệu quả. Hiểu được chức năng thì mới hiểu được bản chất của đối tượng
nghiên cứu, mới xác định được phương hướng và phương pháp hoạt động,
phù hợp và có hiệu quả. Quan điểm hệ thống, đòi hỏi việc nghiên cứu chức
năng xã hội của báo chí phải xem xét nó trong tổng thể các mối quan hệ với
các yếu tố khác nhất là thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, v.v. và trong
hệ thống xã hội nói chung, đặc biệt báo chí phụ thuộc trước hết, trực tiếp vào
thể chế chính trị vào giai cấp cầm quyền lãnh đạo xã hội.
Khái niệm chức năng của báo chí còn cần được xem xét trong mối quan
hệ lịch sử, cụ thể của các sự vật, hiện tượng trong xã hội. Do đó, khi nghiên
cứu chức năng PBXH của báo chí cần dựa trên các quan điểm toàn diện, lịch
1 Theo DAITUDIEN.NET, Trong tiết học, xã hội học, chức năng chỉ ra: i) Tác động của các đặc tính của mộthệ thống khách thể đối với các hệ thống môi trường cùng nằm trong một hệ thống các quan hệ với khách thểđang xem xét một hệ thống các quan hệ nhất định. ii) Kết quả đối với một hệ thống xã hội của một hiệntượng, sự kiện, yếu tố, thể chế xã hội có tác dụng góp phần vào sự vận hành, duy trì hệ thống xã hội đó. Địnhnghĩa này giả định rằng một hệ thống có một sự thống nhất nhất định, gọi là sự thống nhất chức năng.
67
sử cụ thể và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo đó, thứ nhất, nghiên
cứu chức năng xã hội của báo chí cũng là nghiên cứu tính mục đích hoạt động
của báo chí trong mối quan hệ, tác động ảnh hưởng với các yếu tố khác. Thể
hiện phương pháp hành động, phương tiện tác động vào đối tượng để đạt
được mục đích đã định. Thứ hai, nghiên cứu tính chất phụ thuộc của báo chí
vào đời sống xã hội, vào thể chế chính trị, nhất là xã hội đang tồn tại nhiều sự
khác biệt về giai cấp và lợi ích. Là loại hình hoạt động thông tin mang tính
chính trị - xã hội, báo chí ra đời do nhu cầu khách quan của xã hội, có vai trò
to lớn không thể thiếu đối với đời sống xã hội. Trong quá trình đó báo chí
chịu sự giàng buộc, phụ thuộc tác động qua lại của những yếu tố khác nhau
trong xã hội.
Có thể nêu khái niệm chức năng của báo chí như sau: Chức năng của
báo chí là sứ mệnh và bổn phận hay nghĩa vụ và trách nhiệm vốn có của báo
chí, là cái mà báo chí sinh ra để làm, thông qua đó hiểu được vị trí, vai trò và
tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Tổng hợp vai trò, vị trí và tác
dụng của báo chí cũng chính là chức năng của báo chí.
Tính mục đích của báo chí cũng thể hiện rõ ràng, nhất quán trong chức
năng của báo chí. Chức năng của báo chí còn có tính mục đích, thể hiện kết
quả cần đạt tới của quá trình hoạt động thực tiễn của báo chí. Bản thân sự tồn
tại và phát triển của báo chí đã khẳng định vai trò, tác dụng và ý nghĩa quan
trọng của nó trong xã hội.
Cần nói thêm rằng, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau tương ứng với
các chức năng mới của báo chí như:
Ở nửa cuối thế kỷ XIX C.Mác và Ph.Ăngghen đề cao chức năng truyền
bá tư tưởng (tuyên truyền) và cổ vũ hành động. C.Mác đã triệt để lợi dụng tự
do báo chí tư sản để truyền bá hệ tư tưởng mới - tư tưởng CNXH khoa học
do ông sáng lập. C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng báo chí một cách tích cực
và hiệu quả vào việc đấu tranh chống CNTB và tập hợp, giác ngộ giai cấp
68
công nhân; đưa cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân từ tự phát lên
tự giác, từ đấu tranh kinh tế lên đấu tranh chính trị, giành và giữ chính quyền.
Trực tiếp và gián tiếp C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến chức năng PBXH
của báo chí nói chung và báo chí của giai cấp vô sản nói riêng.
Đầu thế kỷ XX, từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, nhất là yêu cầu xây
dựng tổ chức đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo phong trào đấu tranh
chính trị toàn Nga, V.I.Lênin đã kế thừa hai chức năng báo chí do C.Mác nêu
ra đồng thời bố sung thêm chức năng tổ chức và nhấn mạnh tính chất tập thể
của các chức năng báo chí vô sản. Trong bài "Tổ chức đảng và sách báo
đảng” Lênin viết: “Tờ báo chí không những chỉ là người tuyên truyền tập thể,
cổ động thể mà còn là người tổ chức tập thể" [33, tr.12-13]. V.I.Lênin đặc biệt
nhấn mạnh vai trò của báo chí ông nói, muốn có một phong trào đáng gọi là
phong trào chính trị toàn Nga thì phải có một tổ chức chính trị toàn Nga,
nhưng muốn có một tổ chức chính trị (hay chính đảng) toàn Nga, trước hết
phải có một tờ báo chính trị toàn Nga “Chỉ có tờ báo chính trị mới có thể thực sự
giáo dục được ý thức chính trị cho quần chúng và mới soi sáng được, v.v.. Chỉ
có tờ báo chung cho toàn Nga” [33, tr.458-459]. Do đó Người thành lập và lãnh
đạo tờ Tia lửa và sử dụng nó vào việc thành lập Đảng Cộng sản (Bôn sê vích)
Nga lãnh đạo phong trào công nhân Nga tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tư
sản tháng Hai và Cách mạng XHCN tháng Mười Nga năm 1917.
Trong thời kỳ tồn tại 2 hệ thống chính trị - xã hội đối lập giữa CNTB
và CNXH, quan niệm về chức năng của báo có sự khác biệt cơ bản. Các nước
TBCN tuyệt đối hóa chức năng thông tin giao tiếp của báo chí, trong khi các
nước XHCN lại tuyệt đối hóa chức năng tư tưởng, tuyên truyền. Mặc dù trên
thực tế thông tin, giao tiếp luôn gắn với tuyên truyền nhằm đạt đến những
mục đích nhất định. Ngược lại, hoạt động tuyên truyền của báo chí không thể
không dựa trên cơ sở của các thông tin, giao tiếp; không có thông tin, sự kiện
thì tuyên truyền sẽ khó đạt được hiệu quả, thậm chí phản tác dụng. Ở Nga,
69
trong giáo trình Dẫn luận báo chí, Nxb Đại học, Mátxcơva, 1988 của tác giả
E.P.Prôkhôrốp đã khái quát thành 3 nhóm chức năng cơ bản của báo chí:
nhóm chức năng tư tưởng, nhóm chức năng khai sáng - giải trí và nhóm chức
năng tổ chức - quản lý xã hội. Đến năm 1998, trong giáo trình này tác giả bổ
sung thêm thức năng kinh tế - quảng cáo [38].
Ngoài ra, có quan điểm cho rằng, trong quá trình hình thành và phát
triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB), với sự xuất hiện và phát triển của báo chí
đến nay, có thể khẳng định báo chí có mấy chức năng chủ yếu như: chức năng
thông tin; chức năng phản ánh; chức năng tạo ra dư luận xã hội, góp sức định
hướng dư luận xã hội; chức năng nâng cao dân trí; chức năng giải trí, v.v. ;
báo chí có 3 chức năng cơ bản như: chức năng tư tưởng; chức năng quản lý và
giám sát xã hội; chức năng phát triển văn hóa và giải trí [99]; báo chí có 6
chức năng: chức năng thông tin - giao tiếp; chức năng tư tưởng; chức năng
khai sáng giải trí; chức năng quản lý giám sát phản biện xã hội; chức năng
kinh tế - dịch vụ [35]. Còn theo Trịnh Bảo Vệ (Trịnh Bảo Vệ, Lý luận Trung
Quốc đương đại), báo chí Trung Quốc có ba thức năng lớn: thứ nhất, truyền
bá thông tin - thể hiện tính chất truyền; thứ hai, định hướng dư luận - thể hiện
tính chất công cụ dư luận; thứ ba, phục vụ xã hội thể hiện tính chất truyền
thông công cộng. Cụ thể hơn, chức năng của báo chí là truyền bá tri thức; giáo
dục đạo đức, nếp sống văn minh; thông quảng cáo; và thông tin văn hóa văn
nghệ, giải trí.
Quá trình hoạt động thực tiễn báo chí ở Việt Nam cho thấy đã khẳng
định được những chức năng cơ bản như: chức năng tư tưởng, chức năng,
thông tin- giao tiếp; chức năng phát triển văn hoá giải trí; chức năng quản lý
giám sát xã hội; chức năng kinh tế - dịch vụ; chức năng PBXH [35, tr.152].
PBXH của báo chí là một trong những chức năng có vai trò, ý nghĩa quan
trọng trong sự tồn tại của báo chí đối với xã hội, đặc biệt là đối với nước ta,
trong điều kiện thể chế nhất nguyên chính trị và một đảng lãnh đạo, cầm
70
quyền. Hơn nữa, vấn đề đặt ra ở đây là báo chí có chức năng, trách nhiệm,
nghĩa vụ hay vai trò tác dụng như thế nào đối với việc thực thi (trong đó có
kiểm soát) QLCT, QLNN của nhân dân ở nước ta. Nhận thức các chức năng
này và thực hiện nó như thế nào để khai thác và phát huy có hiệu quả sức
mạnh của báo chí cho sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước.
Trên cơ sở đó chúng ta có thể khái quát một số chức năng cơ bản của
báo chí, trong đó có báo chí ở Việt Nam hiện nay như sau:
a) Chức năng thông tin
Thông tin là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của báo chí nhà cầm
quyền sử dụng thông tin báo chí nhằm thực thi QLCT và QLNN để lãnh đạo
điều hành xã hội. Báo chí ra đời và phát triển trước hết là nhằm thỏa mãn nhu
cầu thông tin - nhu cầu sống, nhu cầu phát triển ngày càng cao của con người
và xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng cao. Thông tin và
tuyên truyền là hai mặt của một vấn đề bởi mục đích của thông tin chính là
tuyên truyền. Thông tin trên báo chí đã không chỉ trở thành sức mạnh chính
trị trong cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng, sức mạnh đột phá của sự phát triển
kinh tế, khoa học mà còn góp phần hình thành diện mạo văn hoá quốc gia cũng
như nhân cách mỗi con người. Báo chí phản ánh thực tiễn bằng thông tin sự kiện
và vấn đề thời sự. Thông tin sự kiện và vấn đề thời sự càng phong phú, nhiều
chiều bao nhiêu, chức năng nhận thức càng thể hiện tốt bấy nhiêu.
Yêu cầu đặt ra về thông tin báo chí là nhanh chóng, kịp thời, phù hợp
và đáp ứng được lợi ích của công chúng. Thông tin phải trung thực, đúng bản
chất của sự kiện, đảm bảo lợi ích chính trị, dân tộc và quan trọng với bản thân
mình. Thông tin phong phú, đa dạng, nhiều chiều. Thông tin phải định hướng,
hướng dẫn dư luận xã hội. Đây cũng chính là nhiệm vụ hàng đầu của truyền
thông đại chúng nhằm phục vụ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Thông tin
báo chí phải phù hợp với văn hoá và phát triển, đảm báo tính nhân văn. Yêu
cầu này càng trở trên cấp thiết trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hóa đã
71
và đang diễn ra nhanh chóng trên mọi lĩnh vực. Báo chí, như Bớcnơ Lútvích
(1786-1837) - nhà chính luận, phê bình người Đức, nhận xét, rằng báo chí
không chỉ là phương tiện nhận thức thực tiễn, mà còn là công cụ đấu tranh
chính trị - xã hội, ủng hộ và bảo vệ tiến bộ xã hội.
b) Chức năng giáo dục tư tưởng
Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ
vào xã hội, báo chí có vai trò và ý nghĩa hết sức to lớn trong công tác tư
tưởng. Việc giáo dục lý tưởng chính trị, xây dựng lối sống mới luôn gắn liền
với việc kế thừa và phát huy, những giá trị tích cực trong đời sống văn hóa
tinh thần của dân tộc. Đấu tranh với những âm mưu, những luận điệu phản
tuyên truyền, chống Đảng, chống chế độ là một nội dung và mục đích quan
trọng của công tác tư tưởng đồng thời của chức năng tư tưởng của báo chí. Để
nâng cao tính tự giác của quần chúng, nhiệm vụ đặt ra cho báo chí là phát
triển nhận thức của họ. Một khi đã được hình thành trong nhân dân, tính tự
giác sẽ trở thành động lực mạnh mẽ, cho những hành động sáng tạo trong lao
động sản xuất và xây dựng cuộc sống mới của họ.
Báo chí giúp cho công chúng nhìn nhận, đánh giá, xác định được tính
chất hoạt động của mình trong đó và định hướng các hành vi, ý thức các hành
động tương lai. Ở đây, yêu cầu về sự định hướng toàn diện của quần chúng xã
hội trở thành chức năng, mục đích có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ hoạt
động tư tưởng của các phương tiện thông tin đại chúng. Với những đặc trưng
của mình, báo chí có năng lực to lớn trong việc hình thành mô hình thông tin,
phản ánh sự vận động của đời sống hiện thực, tác động vào đông đảo quần
chúng nhân dân lao động, nhằm tạo nên định hướng xã hội tích cực.
Với nội dung của tính định hướng xã hội toàn diện, báo chí là một
trong những phương tiện quan trọng của nhà cầm quyền thực hiện chức năng
giáo dục chính trị - tư tưởng nhằm tăng cường và củng cố QLCT. Báo chí với
chức năng giáo dục tư tưởng có vai trò hết sức quan trọng trong việc định
72
hướng, tạo dựng DLXH một cách chủ động và đúng đắn. Báo chí với chức
năng tuyên truyền là những phương tiện quan trọng, trong việc hình thành ý
thức lịch sử - văn hóa của xã hội.
Nghiên cứu các vấn đề cơ bản của báo chí, các nhà khoa học Việt Nam
thống nhất nhận định:
Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ vào
xã hội, hoạt động của báo chí có vai trò hết sức to lớn trong công tác tư tưởng,
v.v.. Nhiệm vụ đầu tiên trong hoạt động tư tưởng của báo chí là nâng cao tính
tự giác của quần chúng. Để thực hiện được mục tiêu này, báo chí phải góp
phần nâng cao nhận thức của họ [99, tr.75].
c) Chức năng quản lý, giám sát xã hội
Trước hết,“Quản lý xã hội được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ
thể quản lý vào khách thể quản lý nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của xã
hội đạt hiệu quả và mục đích đề ra. Đây là hoạt động có ý thức của con người
trong hệ thống xã hội, trong đó con người là yếu tố quyết định” [99, tr.83].
Báo chí tham gia chức năng quản lý xã hội trước hết được hiểu là tham gia
vào các quyết định quản lý làm cho các quyết định đó được thực thi trong
cuộc sống, thực chất đây cũng là hoạt động kiểm soát quyền lực. Qua báo chí,
các chủ trương chính sách, quyết định quản lý lãnh đạo được chuyển đến
người dân và trở thành quyết tâm chính trị của toàn xã hội. Đến nay, ở nước ta
chức năng quản lý và giám sát xã hội của báo chí đã được xác lập.
Bản chất của quá trình quản lý là quá trình thông tin, từ khai thác thu thập
đánh giá, lựa chọn, phân tích và xử lý các thông tin đến việc đưa ra các quyết
định và truyền đạt thông tin về quyết định đến khách thể quản lý. Những thông
tin về quyết định quản lý cần phải được chuyển tải kịp thời, đầy đủ đến khách
thể quản lý, đến những khâu, những yếu tố cần tác động điều chỉnh.
Để bảo đảm cho sự quản lý có hiệu quả, phải có cơ chế thông tin hai
chiều. Chiều thuận từ chủ thể đến khách thể chuyển đi những quyết định quản
73
lý, các thông tin cần thiết để hướng dẫn về cách thức phương pháp, điều kiện
thực hiện. Yêu cầu đặt ra đối với chiều thông tin này là chính xác kịp thời,
đầy đủ. Đó là điều kiện cần thiết cho tác động một cách có hiệu lực của chủ
thể quản lý, làm cho khách thể quản lý phát triển theo hướng đã định. Thông
tin ngược chiều là kênh thông tin từ khách thể quản lý đến chủ thể quản lý.
Kênh thông tin ngược chiều kịp thời, đầy đủ, toàn diện là điều kiện, tiền đề
cho việc đưa ra những sự điều chỉnh hay những quyết định quản lý mới một
cách đúng đắn hợp lý.
Trong quá trình hoạt động của mình, báo chí tham gia vào việc bảo
đảm nguồn thông tin hai chiều. Hai chiều thông tin này tồn tại trong tổng thể
hoạt động của hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng và trong mỗi tác
phẩm báo chí. Sự tuần hoàn thông tin liên tục giữa chủ thể quản lý và khách
thể quản lý, giữa các yếu tố trong một hệ thống xã hội, giữa các hệ thống xã
hội với nhau là điều kiện tất yếu của quản lý. Chính nhờ có sự tuần hoàn
thông tin ấy mà các yếu tố trong một hệ thống có khả năng phối hợp những
mối quan hệ lẫn nhau mỗi hệ thống có thể thực hiện sự tác động hợp là với
môi trường xung quanh và ngược lại, tạo ra khả năng hướng các yếu tố cũng
như chính toàn bộ hệ thống vào những mục tiêu định trước. Thực tế cho thấy,
báo chí thông tin trung thực khách quan nhiều chiều từ cuộc sống để giúp cho
các cấp lãnh đạo kịp nắm bắt đúng và trúng tình hình để có thế điều chỉnh
chính sách chủ trương, thậm chí thay đổi quan điểm chi đạo. Hàng ngày hàng
tuần các cơ quan tham mưu của Đảng và Nhà nước luôn lắng nghe báo chí,
lắm bắt thông tin để chỉ đạo điều hành đưa ra những quyết định đúng đắn
nhằm điều chỉnh chính sách, pháp luật cho phù hợp với cuộc sống.
Giám sát là theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy
định không. Điều đó có nghĩa là giám sát bao gồm hai quá trình, theo dõi và
kiểm tra. Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt
động được thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong điều kiện
74
có thể theo mục tiêu chương trình kế hoạch đã đề ra. Giám sát phải được tiến
hành bởi lực lượng độc lập khác với chủ thể đang tiến hành hoạt động được
giám sát, giám sát có chuyên môn hiểu biết... mới bảo đảm tính khách quan và
hiệu quả.
Nghị quyết Trung ương 6 (lần hai) khoá VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định, báo chí và truyền thông đại chúng là một trong bốn hệ thống
giám sát xã hội. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận, nhận thức của
Đảng về vai trò xã hội của báo chí và truyền thông đại chúng. Chức năng
giám sát xã hội của báo chí trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách,
pháp luật là để kịp thời phát hiện những nơi làm đúng và làm hay, để biểu
dương, khích lệ và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời phát hiện những
vi phạm chủ trương, chính sách và luật pháp để đấu tranh. Vai trò và sức
mạnh giám sát xã hội của báo chí trước hết là xã hội hóa những việc làm tốt
và những sai phạm của các tổ chức hoặc cá nhân để khơi nguồn, định hướng
dư luận xã hội theo hướng ủng hộ hoặc chỉ trích, tạo áp lực dư luận và buộc
các cơ quan công quyền giải quyết, giải thích và giải đáp trước nhân dân,
trước công luận. Xã hội càng phát triển thì dân chủ càng mở rộng, quyền lực
của nhân dân càng được tăng cường, đặc biệt là quyền giám sát các cơ quan
công quyền của nhân dân nhằm hạn chế lạm dụng quyền lực. Bởi QLCT,
QLNN không được kiểm soát chặt chẽ sẽ dẫn sẽ đến lạm dụng và làm tha hóa
quyền lực, dẫn đến tha hóa và sụp đổ chế độ xã hội.
Tính chất, quy mô giám sát xã hội của báo chí phụ thuộc trước hết vào
tính chất và quy mô, của cơ quan tổ chức mà nó đại diện. Những nhiệm vụ
cần giải quyết của các cơ quan, hệ thống kinh tế - xã hội đặt ra yêu cầu về
thông tin để tạo ra mối liên hệ hai chiều cần thiết. Phạm vi hoạt động, quy mô
các vấn đề liên quan của mỗi hệ thống kinh tế - xã hội đòi hỏi báo chí phải có
lượng thông tin tương ứng. Ở phạm vi xã hội, trong khi thực hiện các chức
năng tư tưởng, báo chí cũng đồng thời thực hiện chức năng quản lý xã hội.
75
Giám sát là một bộ phận quan trọng trong quá trình quản lý của báochí, v.v.. Trước hết báo chí giám sát việc thực hiện đường lối, chínhsách của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn, v.v.. Kết quả hoạt độngkiểm tra, giám sát của báo chí là nguồn thông tin quan trọng giúpĐảng và Nhà nước kịp thời quyết định bổ sung điều chỉnh các hoạtđộng của chính mình [99, tr.88].
Do đó, muốn nâng cao năng lực giám sát của mình báo chí truyềnthông cần tìm cách tuyên truyền, giải thích để nhân dân nhận thức đầy đủ vàđúng đắn các thủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước,động viên, khích lệ nhân dân không chỉ tích cực thực hiện mà còn tham giagiám sát quá trình thực hiện ấy. Hoàn thiện môi trường pháp lý - xây dựngnhà nước pháp quyền, xã hội công dân, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội bằngthể chế pháp luật, thể chế tổ chức và thực thi QLCT, QLNN một cách khoa học;có cơ chế kiểm soát và giám sát độc lập đế chống lạm dụng quyền lực. Nâng caotrình độ về mọi mặt, năng lực tác nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh nghềnghiệp cũng như cải thiện điều kiện làm việc cho đội ngũ nhà báo.
d) Chức năng kinh tế - dịch vụTrong nền kinh tế kế hoạnh hóa tập trung, quan liêu bao cấp ở các nước
XHCN cũng như ở Việt Nam, quảng cáo bị xem là hiện tượng “ngoại lai",không thể chấp nhận. Trong quá trình đổi mới, nhận thức của chúng ta đã thayđổi từ chỗ không thừa nhận sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường đã đi đếnthừa nhận và phát triển nền kinh tế thị trường; từ nền kinh tế kế hoạch hóa tậptrung quan liêu bao cấp, dựa trên 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể,khép kín đã đi đến phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mởcửa hội nhập với thế giới. Tình hình ấy làm xuất hiện hoạt động mới của báochí là kinh tế - dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trường, bối cảnh toàn cầu hóa đã hình thành các
quan niệm mới về sản phẩm báo chí, báo chí phải là sản phẩm hàng hóa. Tức
là sản phẩm báo chí cũng có giá trị và giá trị sử dụng có giá thành và giá bán,
76
chịu sự chi phối bởi quy luật cung cầu của thị trường. Nhưng đó là sản phẩm
hàng hóa đặc biệt. Tính chất đặc biệt của sản phẩm này được thể hiện trên
nhiều khía cạnh từ tổ chức lao động, sản xuất, sử dụng và cho đến định giá
bán công chúng - khách hàng - thị trường, cách thức tiêu thụ giá trị hàng hóa
và hiệu quả, v.v.. Hơn nữa, chức năng kinh tế - dịch vụ của báo chí còn là
chức năng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Vấn đề đặt ra là, quảng cáo có phải là chức năng xã hội của báo chí hay
không. Quan niệm đáng chú ý và thuyết phục hơn cả xem việc đăng tải thông
điệp quáng cáo là chức năng xã hội cơ bản của báo chí. Vì quảng cáo là nhu
cầu sống còn, nhu cầu phát triển của kinh tế thị trường và trong điều kiện
khoa học - công nghệ phát triển. Báo chí thỏa mãn nhu cầu của kinh tế thị
trường tức là góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng và đẩy nhanh tốc
độ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trong xã hội. Có thể nói báo chí hiện
đại, trong đó có báo chí ở nước ta hiện nay ngày càng tham gia và tham gia có
hiệu quả vào quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ; tham gia “chuỗi giá trị”
trên quy mô quốc gia và toàn cầu. Mặt khác, chính các cơ quan báo chí cũng
cần có nguồn thu từ quảng cáo, để tự hạch toán trang trải thu - chi. Đăng tải
quảng cáo cũng chính là nhu cầu của bản thân các cơ quan báo chí.
e) Chức năng phát triển văn hoá và giải trí
Đây là một trong những chức năng khách quan, quan trọng đáp ứng nhu
cầu giải trí của xã hội. Cùng với các chức năng khác như; thông tin, giáo dục
tư tưởng, quản lý giám sát, phản biện xã hội, dịch vụ kinh tế… tạo nên sức
mạnh của của báo chí.
Thực hiện chức năng này, báo chí quan tâm hàng đầu đến những giá trị
văn hoá nhân văn. Các sản phẩm truyền thông góp phần to lớn vào việc phổ
biến các tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc, điêu khắc, hội hoạ kiến trúc các hoạt
động văn hoá lễ hội…đây là điều kiện quan trọng để đại chúng hoá các giá trị
văn hoá, tinh thần tốt đẹp của dân tộc và nhân loại giúp cho mội người trong
77
xã hội không ngừng bổ sung vốn kiến thức làm phong phú hơn đời sống tinh
thần bản thân và xã hội. Đây là điều kiện để phát triển con người toàn diện.
Với những lợi thế, sức mạnh của báo chí, trên từng số báo, chươngtrình truyền hình phát sóng hàng ngày hàng giờ truyền bá những giá trị vănhoá truyền thống dân tộc, tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các dân tộc trênthế giới góp phần phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc.Đồng thời báo chí cũng giúp công chúng, tạo điều kiện cho công chúng sửdụng thời gian, cân bằng tâm sinh lý phát triển và xây dựng giá trị nhân cáchcủa mỗi người. Chúng ta thử hình dung cuộc sống nếu thiếu báo chí thì conngười sẽ ra sao? Từ thời tiết đến mớ rau, hạt gạo rồi đến các sự kiện thời sựchính trị trong nước và quốc tế …đều được báo chí phản ánh làm cho conngười nắm bắt được nhịp sống có kiến thức rộng hơn, tinh thần thoải mái vàtốt hơn. Đại hội XI của Đảng yêu cầu “Báo chí, xuất bản phát hiện nhữngnhân tố mới, cái hay cái đẹp trong xã hội, giới thiệu người tốt việc tốt, nhữngđiển hình tiên tiến…Nâng cao bản lĩnh chính trị tư tưởng, trình độ văn hoá vànghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ báo chí, xuất bản”.
Bằng hoạt động có tổ chức và mục đích, báo chí góp phần hình thànhnhân cách lối sống tốt đẹp, trình độ hiểu biết và một nền văn hoá tiên tiến,lành mạnh, thể hiện trong các hoạt động và các mối quan hệ của con người.
Báo chí vừa là công cụ tích cực trong việc truyền bá các sản phẩm vănhoá vừa là đ ịa chỉ hội tụ và kiểm nghiệm đánh giá, tổng kết những giá trị vănhoá đồng thời cũng là địa chỉ sáng tạo, giới thiệu các giá trị văn hoá. Báo chícó thể nói là thước đo tầm cao của văn hoá là công cụ truyền bá hướng dẫn vàlưu giữ các nội dung và giá trị văn hoá và báo chí cũng là văn hoá.
Vấn đề đặt ra hàng đầu hiện nay là trong việc chuyển tải thông tin vănhoá giải trí là nâng cao chất lượng tư tưởng của tác phẩm văn học nghệ thuậtvà tăng cường tính hấp dẫn, sinh động về hình thức thể hiện tác phẩm và cáchoạt động văn hoá. Xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí và nhu cầuhoạt động văn hóa - tinh thần của nhân dân ngày càng cao, nhất là trong điều
78
kiện nền kinh tế thị trường hiện nay nhu cầu giải trí ngày càng lớn đòi hỏi báochí ngày càng phải có nhiều sản phẩm văn hoá có giá trị của dân tộc và nhữngtinh hoa văn hoá nhân loại. Văn kiện Hội nhị Trung ương 5 khoá VIII khẳngđịnh: “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là độnglực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”.
Như vậy chức năng phát triển văn hoá và giải trí của báo chí không chỉđáp ứng nhu cầu văn hoá - giải trí của nhân dân, mà còn tích cực góp phầnxây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Các chức năng của báo chí, dù ở đâu và trong thời kỳ nào, cũng có mốiquan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, tạo thành hệ thống hoàn chỉnh các chứcnăng của báo chí. Nằm trong sự tác động qua lại thường xuyên, các chức năngnày được thực hiện bằng những nội dung, hình thức khác nhau nhưng tácđộng qua lại và bổ sung cho nhau. Việc tách ra và phân tích các chức năngbáo chí chỉ có ý nghĩa, khi hiểu đầy đủ hơn mối quan hệ thống nhất giữachúng. Đây còn là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu, xác định chức năngPBXH của báo chí như một chức năng cơ bản, quan trọng, nhằm sử dụng cóhiệu quả hơn chức năng này vào hoạt động thực tiễn báo chí; đồng thời khôngngừng hoàn thiện thêm hệ thống chức năng báo chí của Việt Nam.
Ở các chức năng trên, và theo đó là những nhiệm vụ - những công việccó liên quan, báo chí ở những mức độ nhất định cũng thực hiện chức năngPBXH, thể hiện ở sự trao đổi, đánh giá, bình luận, nhận xét, sự phản hồi trongquá trình tổ chức thông tin, đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội. Vớitính cách là nội dung chủ yếu của luận án, vấn đề chức năng PBXH sẽ đượctrình bày riêng, cụ thể sau đây.
2.2.1.2. Chức năng phản biện xã hội của báo chía) Khái niệm chức năng phản biện xã hội của báo chíChức năng PBXH xã hội của báo chí là một chức năng của báo chí1,
thể hiện sứ mệnh và bổn phận hay nghĩa vụ và trách nhiệm vốn có của báo
1 Chức năng của báo chí, như đã nêu ở phần trên, là sứ mệnh và bổn phận hay nghĩa vụ và trách nhiệm vốncó của báo chí, là cái báo chí sinh ra để làm, thông qua đó hiểu được vị trí, vai trò, tác dụng của báo chí trongđời sống xã hội. Tổng hợp vai trò, vị trí và tác dụng của báo chí cũng chính là chức năng của báo chí.
79
chí trong việc nêu ra ý kiến, đánh giá, bình luận hay tranh luận của xã hội,của cơ quan báo chí hoặc nhà báo, thể hiện sự đồng tình, không đồng tìnhhoặc bác bỏ một vấn đề còn chưa rõ ràng, chưa đúng đắn, chưa tạo được sựđồng thuận xã hội trong chủ trương, đường lối của đảng (nhất là đảng cầmquyền), chính sách, pháp luật của nhà nước nhằm góp phần xây dựng vàhoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật ấy đáp ứng yêu cầucủa xã hội.
Từ góc độ chính trị học cho thấy báo chí - nhất là trong điều kiện ở
nước ta hiện nay - là một bộ phận, một yếu tố cấu thành của HTCT - hệ thống
tổ chức và thực thi QLCT, QLNN, thì chức năng của báo chí nói chung và
chức năng PBXH của báo chí nói riêng cũng là chức năng của HTCT. Đồng
thời, việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí cũng chính là một phương
thức thực thi QLCT, QLNN. Ở nước ta, báo chí là tiếng nói, là diễn đàn, là
công cụ - phương tiện lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phương tiện
làm chủ của nhân dân nên báo chí là phương thức thực thi QLCT, QLNN của
Đảng, Nhà nước và suy cho cùng là quyền lực của nhân dân. Với chức năng
PBXH báo chí còn tham gia sâu vào các quá trình chính trị, quá trình ra đời
của chính sách và thực hiện chính sách. Hơn nữa, với chức năng PBXH báo
chí còn tham gia vào quá trình thực thi, kiểm soát quyền lực. Kiểm soát quyền
lực của báo chí ở đây có thể hiểu với cả 2 nghĩa - vừa kiểm soát quyền lực từ
bên trong HTCT (vì báo chí nước ta là một bộ phận của HTCT, các cơ quan
báo chí đều của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội); vừa kiểm
soát quyền lực từ bên ngoài thông qua việc phản ánh DLXH hay sức ép từ
ngoài xã hội đối với HTCT, trong đó có Đảng và Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Thật vậy, thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, đi cùng với đó là dân chủ mở rộng, tự do ngôn luận, tự do
báo chí, quyền con người được đề cao. Nhân dân có quyền tham gia vào công
80
việc của Nhà nước, việc kiểm soát quyền lực mà mình đã ủy quyền là tất yếu
khách quan. Nhân dân thông qua báo chí và bằng báo chí để kiểm soát quyền
lực. Thông qua báo chí là diễn đàn của nhân dân để phản biện chính sách,
pháp luật đây chính là cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu lực, hiệu quả. Đồng
thời, báo chí kết hợp với các tổ chức xã hội, DLXH, v.v.. hình thành cơ chế kiểm
soát từ bên trong hệ thống quyền lực và cơ chế kiểm soát từ bên ngoài hệ thống
ấy hay giữa tự kiểm soát từ bên trong và áp lực kiểm soát từ bên ngoài.
Từ sự phân tích trên cho thấy: thể chế, cơ chế kiểm soát quyền lực có
sự tham gia của báo chí và thể chế, cơ chế ấy được xây dựng bởi chính chức
năng PBXH của báo chí, đây là khách quan tất yếu, vốn có của sự phát triển
trong một xã hội dân chủ. Để phát huy sức mạnh tối đa chức năng PBXH của
báo chí, cần phải không chỉ được đảm bảo bằng những cơ sở chính trị (chủ
trương, nghị quyết của Đảng), mà còn phải bảo đảm bằng cơ sở pháp lý
(chính sách, pháp luật của Nhà nước). Ở nước ta, báo chí và việc thực hiện
chức năng PBXH của báo chí đều cần có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước và sự tham gia của nhân dân.
Liên quan đến chức năng PBXH của báo chí, cần xác định nội hàm của
khái niệm chức năng PBXH của báo chí hay các yếu tố cấu thành của PBXH
của báo chí. Theo đó, các yếu tố cấu thành của PBXH của báo chí bao gồm
chủ thể, đối tượng, nội dung và phương thức phản biện và mối quan hệ hay sự
tương tác giữa các yếu tố ấy với nhau. Hơn nữa, với cách tiếp cận hệ thống,
việc nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí cũng cần xem xét trong tổng
thể các mối quan hệ với các yếu tố khác - nhất là các thể thế chính trị, kinh tế,
văn hóa, v.v. và trong hệ thống xã hội nói chung, đặc biệt báo chí phụ thuộc
trước hết và trực tiếp vào thể chế chính trị.
Mặt khác, cần phân biệt sự khác nhau, mặc dù sự khác nhau chỉ là
tương đối, giữa chức năng và nhiệm vụ. Chức năng là cái có thể làm và làm
được do khả năng vốn có của một chủ thể quy định, thể hiện những thuộc tính
81
đặc trưng và bản chất của chủ thể ấy, phân biệt chủ thể này với chủ thể khác,
độc lập tương đối với hoàn cảnh. Còn nhiệm vụ là cái phải làm, cần làm để
đạt được một mục tiêu nhất định, do yêu cầu và hoàn cảnh quy định. Mỗi loại
chủ thể thường chỉ làm được một loại chức năng, nhưng có thể làm được
nhiều nhiệm vụ khác nhau. Chức năng là cái quy định nhiệm vụ chứ không
phải ngược lại. Chẳng hạn, chức năng của Đảng là lãnh đạo tuyệt đối lên Nhà
nước và xã hội, để thực hiện được chức năng đó Đảng phải có nhiệm vụ đề ra
chủ trương, đường lối để lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Chức năng của
Nhà nước, mọi nhà nước đều có chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Giữa
hai chức năng này luôn có mối quan hệ biện chứng. Với Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất. Thực
hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện để Nhà nước xã hội chủ nghĩa
bảo đảm và giữ vững địa vị thống trị xã hội về phương diện chính trị, đảm bảo
quyền dân chủ cho nhân dân, xây dựng cơ sở để quyền làm chủ đó được thực
hiện trên thực tế. Để thực hiện chức năng này thì nhiệm vụ của Nhà nước ta
là: Thứ nhất, không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân; thứ hai, tổ chức và
quản lý kinh tế; thứ ba, tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục.
Tương tự như chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội (các đoàn thể
nhân dân) là tập hợp, đoàn kết nhân dân và tham gia chính trị (tham chính). Sự
chồng chéo, chồng lấn, nhầm lẫn chức năng, v.v..của các tổ chức này làm suy
yếu, giảm hiệu lực, hiệu quả của mỗi tổ chức và toàn bộ HTCT. Tương tự, chức
năng PBXH bằng phương thức của báo chí thì chỉ có báo chí mới làm được.
Trên cơ sở chức năng là cái được quy định, trong những trường hợp cụ thể báo
chí có những chức năng khác nhau và trong mỗi chức năng đó qui định những
nhiệm vụ cụ thể. Đối với chức năng PBXH của báo chí cũng qui định những
nhiệm vụ phản biện của báo chí thông qua đối tượng, chủ thể, nội dung phản
biện của báo chí đã được trình bày ở phần trên. Chức năng PBXH của báo chí
cũng khác với chức năng PBXH của MTTQ và các đoàn thể nhân dân.
82
b) Đặc điểm của chức năng phản biện xã hội của báo chí
- Tính chính trị trong chức năng phản biện xã hội của báo chí:
Tiếp cận từ PBXH đến PBXH của báo chí đến chức năng PBXH cho
thấy, hoạt động báo chí nói chung và PBXH của báo chí là hoạt động chính
trị, báo chí luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc, “nền chính trị nào thì sinh ra
nền báo chí ấy”. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng “Từ bỏ chính trị là không
thể được. Chính trị của báo chí cũng là chính trị; tất cả những tờ báo chủ
trương từ bỏ chính trị đều đang công kích chính phủ. Vấn đề là can dự vào
chính phủ như thế nào và đến mức nào” [107, tr.547]. Giai cấp nào cầm
quyền lãnh đạo nhà nước, xã hội cũng luôn áp đặt và chi phối hệ tư tưởng,
quan điểm của giai cấp mình lên báo chí. Sự tự do của báo chí, tùy thuộc vào
sự tự do tuyên truyền nhiều hay ít hệ tư tưởng, quan điểm của giai cấp cầm
quyền. Sự kiểm duyệt và kiểm soát báo chí là điều tất nhiên của nhà nước và
giai cấp cầm quyền. Sự phát triển của báo chí tùy thuộc vào bản chất tiến bộ
hay phản động của giai cấp cầm quyền.
Hơn nữa, nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí từ góc độ chính trị
học, còn cần thấy rằng, nếu báo chí là một thứ quyền lực trong xã hội thì
PBXH là một phương thức thể hiện quyền lực của báo chí, là một chức năng
của báo chí - cái quy định của bản chất của báo chí. QLCT và QLNN, nhất là
trong điều kiện xã hội hiện đại, không thể không cần đến báo chí như là một
thực thể, một phương thức, một phương tiện trong quá trình tổ chức và thực
thi quyền lực. Bởi quyền lực là phạm trù xã hội - lịch sử, phản ánh mối quan
hệ chi phối - phục tùng giữa con người với con người trong xã hội. Ở đó,
quyền và lực trong xã hội là 2 phạm trù có mối quan hệ tác động qua lại với
nhau. Quyền là khái niệm mang tính xã hội, mà ở đó người ta nhận thức được
nhu cầu nào đó của mình được thực hiện trong sự thừa nhận của người khác,
có nghĩa là người có quyền khi nhu cầu của người ấy được người khác (pháp
luật, đạo đức, dư luận, truyền thống) thừa nhận. Lực là thuộc tính vốn có của
83
sự vật hiện tượng, nhưng chỉ biểu hiện ra trong sự tương tác giữa các sự vật
hiện tượng khác, quá trình này lực có sức mạnh có thể gây ra sự biến đổi lớn
nhỏ khác nhau, hoặc giữ nguyên. Trong xã hội khi người có lực, nếu có nhu
cầu thì bằng mọi cách dùng sức mạnh để chiếm đoạt quyền; mặt khác khi có
quyền thì lực được nhân lên gấp bội. Nếu có quyền mà không có lực, hoặc
ngược lại thì hoạt động sẽ không mang lại kết quả như mong muốn.
Cụ thể hơn, QLCT là quyền quyết định, định đoạt những vấn đề,
công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt động để đảm bảo
sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp một chính đảng, tập
đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo; định đoạt điều
khiển bộ máy nhà nước; xây dựng và phát triển kinh tế xã hội trong
một quốc gia và quan hệ chính trị - kinh tế - ngoại giao với các nhà
nước khác và tổ chức quốc tế khu vực và thế giới; bảo đảm chiều
hướng phát triển quốc gia phù hợp lý tưởng chính trị [35, tr.94].
Với nghĩa này, PBXH của báo chí trở thành một mắt khâu của quá
trình, quy trình ra quyết định, ra quyết sách của các cơ quan quyền lực như
đảng chính trị (nhất là đảng cầm quyền) và nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều
4, Hiến pháp năm 2013). Báo chí nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mang
bản chất giai cấp công nhân của Đảng, là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà
nước, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật Việt Nam; đồng thời là tiếng
nói, là diễn đàn của nhân dân. Báo chí có chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân,
đồng thời có nhiệm vụ phản ánh ý kiến nguyện vọng của nhân dân đến với
84
Đảng và Nhà nước. Các văn kiện của Đảng nhất là từ Đại hội IX, X, XI, đã đề
cấp đến tự do báo chí trong đó có hoạt động PBXH của báo chí. Đây chính là
sự thể hiện cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng trong việc qui định chức năng
PBXH của báo chí.
Thực hiện công cuộc đổi mới và thực tiễn hoạt động báo chí đến nay
ngày càng định hình chức năng PBXH của báo chí. Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự ở
nước ta hiện nay đặt cơ sở khách quan cho một chức năng mới của báo chí
nước ta - chức năng PBXH của báo chí. Hơn nữa, chức năng PBXH còn ngày
càng được nhân dân và báo giới mong đợi ghi nhận về mặt pháp lý như một
chức năng quan trọng và cần thiết của báo chí nước ta.
- Tính khách quan, khoa học của chức năng phản biện xã hội của báo chí:
Khi có hoạt động PBXH của báo chí diễn ra, đương nhiên là trước đó,
đã tồn tại một số vấn đề nào đó trong xây dựng chính sách, pháp luật của cơ
quan Đảng và Nhà nước. Những vấn đề đó là hạn chế, thiếu sót có thể làm
cho bản thân chính sách, pháp luật quyết định trở nên bất khả thi khi áp dụng
vào điều kiện thực tế cuộc sống. Trong thực tiễn mỗi một chủ trương, chính
sách ra đời đều chứa đựng tồn tại, hạn chế nhất định không tránh khỏi do
nhiều nguyên nhân khác nhau, đây là vấn đề khách quan, không ai mong
muốn. Cho nên để đảm bảo tính khách quan, khoa học, công khai, minh bạch
và công bằng cần có chức năng PBXH của báo chí. PBXH của báo chí chính
là thực hiện chức năng PBXH của báo chí thực chất là đưa ra một cách nhìn
khách quan của nhân dân và xã hội với chất lượng, hiệu quả và triển vọng của
chính sách vừa được ban hành - một cách nhìn mang tính khách quan so với
cách nhìn chủ quan của người trong cuộc.
Trong ý nghĩa tích cực của nó, chức năng PBXH của báo chí không có
mục đích phủ định sạch trơn hay tìm cách đánh đổ kiến tạo chính sách, pháp
luật của cơ quan công quyền. Ngược lại, nó giúp cơ quan xây dựng chính
85
sách, pháp luật nhận ra những, tồn tại khiếm khuyết hay lỗ hổng của bản thân
chính sách, kể cả việc đề xuất phương hướng hay giải pháp nhằm khắc phục
những hạn chế, thiếu sót ấy. Rõ ràng, việc bổ sung cách nhìn khách quan,
khoa học và có thể đưa đến một tác động kép, một mặt, nó trực tiếp nâng cao
tính hiệu quả của quá trình xây dựng chính sách, pháp luật; mặt khác, từng
bước thay đổi tư duy xây dựng chính sách, pháp luật kể cả tư duy quản lý
lãnh đạo, quản lý theo hướng bám sát thực tiễn hơn.
Việc ngăn chặn, hạn chế tính độc quyền, tính phiến diện; hạn chế sự
“ưu tiên” thiên lệch của Nhà nước; nâng cao chất lượng của chính sách,pháp
luật và hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật; nâng cao tính công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan làm chính sách, pháp luật;
kiểm tra, giám sát và kiểm soát có hiệu quả hoạt động chính sách, pháp luật
v.v.. không thể không cần đến chức năng PBXH của báo chí. Yêu cầu khắc
phục sự hạn chế về nhận thức, ý thức và trách nhiệm của con người hoặc cơ
quan hoạch định đường lối, chính sách, ngăn chặn nguy cơ chi phối của lợi
ích nhóm cần đến chức năng PBXH của báo chí.
Tính khách quan, khoa học của chức năng PBXH của báo chí còn thể
hiện: Qua phản biện của báo chí tiếng nói của nhân dân và xã hội nếu được
chủ thể tiếp nhận phản biện lắng nghe, tiếp thu có sửa chữa sẽ tạo một
vòng phản hồi rất hiệu quả, đó là, chất lượng chính sách, pháp luật được
nâng cao, nhân dân tích cực tham gia vào công việc nhà nước, uy tín của
nhà lãnh đạo, quản lý được nâng cao và quá trình này làm cho các chính
sách, pháp luật tiếp theo có chất lượng và hiệu quả hơn. Còn ở chiều ngược
lại, nếu tiếng nói phản biện của họ không được lắng nghe tiếp thu, không
được phản hồi, thì họ mất niềm tin vào vai trò làm chủ, lòng tin vào nhà
nước, chế độ bị xói mòn và ý kiến của họ có thể không còn mang tính xây
dựng. Và như vậy vòng phản hồi này chỉ làm yếu chứ không làm mạnh
thêm các chính sách, quyết định.
86
2.2.2. Những tiêu chí đánh giá chất lượng và hiệu quả thực hiện
chức năng phản biện xã hội của báo chí
2.2.2.1. Trách nhiệm chính trị và pháp lý của chức năng phản biện
xã hội của báo chí
Đối với thể chế chính trị Việt Nam, QLCT tối cao thuộc về Đảng Cộng
sản Việt Nam - Đảng lãnh đạo toàn diện, trực tiếp và triệt để đối với toàn bộ
xã hội nói chung và báo chí nói riêng. Đảng ta luôn coi báo chí là vũ khí sắc
bén để tuyên truyền, tập hợp tổ chức và giáo dục nhân dân. Báo chí là công cụ
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; giám sát và kiểm soát hiện tượng suy
thoái quyền lực; dựa vào pháp luật và những chuẩn mực đạo đức xã hội để tạo
ra những áp lực xã hội đối với kiểm soát hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Như vậy báo chí vừa là công cụ thực hiện QLCT nhưng đồng thời cũng là chủ
thể giám sát, kiểm soát quyền lực.
Trong thời đại thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi
thành phần giai cấp, tầng lớp trong xã hội; đồng thời luôn lắng nghe, tiếp
thu những ý kiến đóng góp chân thành, những tiếng nói tâm huyết, những
đề xuất, kiến nghị, hiến kế nhằm xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh,
văn minh. Vì vậy, với tư cách là diễn đàn rộng rãi của toàn xã hội, chức
năng phản biện của báo chí cần thực hiện tốt đường lối của Đảng các quy
định của pháp luật, tuân theo những quy định của Hiến pháp, pháp luật và
vì lợi ích tối cao của Tổ quốc. Trong tiêu chí này báo chí tham gia PBXH
phải đúng đường lối của Đảng và đúng quy định của pháp luật, đúng định
hướng chỉ đạo của cơ quan quản lý báo chí. PBXH của báo chí góp phần
làm cho Đảng và Nhà nước mạnh lên, không thể PBXH làm cho Đảng và
Nhà nước yếu đi và dẫn đến sụp đổ. Đây là điều kiện tiên quyết thực hiện
chức năng PBXH của báo chí.
87
2.2.2.2. Sự khách quan và khoa học chức năng phản biện xã hội của
báo chíBáo chí tham gia phản biện phải bảo đảm tính khách quan, khoa học
công khai, minh bạch trên mọi mặt. Phản biện về chính sách phải tôn trọng sự
thật khách quan, không có ý chủ quan, động cơ cá nhân để xem xét, đánh giá,
tránh tình trạng chủ quan duy ý trí. Khách quan và khoa học, công khai minh
bạch là tiêu chí hàng đầu của chức năng PBXH.
Nhận thức đầy đủ về tính khách quan và khoa học trong PBXH của báo
chí là cần thiết, vì đây là cơ sở quan trọng để xem xét PBXH của báo chí đã
làm đúng qui trình, nguyên tắc chưa. Để nhận thức đúng đắn, đầy đủ vị trí, vai
trò của chức năng PBXH của báo chí, đòi hỏi báo chí phản biện cần có tính
khách quan, khoa học, tinh thần thiện chí, thái độ xây dựng, nhận định và đánh
giá sự kiện, vấn đề vì lợi ích chung của toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì mới tạo
được uy tín, có cơ sở huy động đông đảo lực lượng tham gia phản biện cùng với
báo chí. Trong quá trình PBXH, báo chí phải tập hợp được các cơ quan và nhà
khoa học có liên quan; các cơ quan tư vấn, tham vấn độc lập, v.v..
PBXH của báo chí phải bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình của báo chí (nhà báo, cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo
chí), của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền.
2.2.2.3. Sự kịp thời và nhạy bén của chức năng phản biện xã hội
của báo chíNội dung phản biện của báo chí phải đề cập đến những vấn đề bức xúc
của xã hội, lợi ích ảnh hưởng đến nhiều người mà tập trung chủ yếu vào
đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Phải quy định thời gian cho một vấn đề phản biện là trong bao lâu, dài
hay ngắn, có mở đầu có kết thúc. Quá trình phát sinh một vấn đề nào đó, có
tính thời gian và không gian, cho nên chủ thể phản biện của báo chí cần phải
tìm hiểu, biết trước được vấn đề đó và chuẩn bị kế hoạch thực thi có hiệu quả.
88
Tránh tình trạng, chính sách, pháp luật đó có hiệu lực rồi báo chí mới phản
biện thì hiệu quả không cao, tất nhiên một vấn đề khi ban hành và có hiệu lực
rồi vẫn tiếp tục được phản biện nhưng lúc này không còn nhiều ý nghĩa.
Tính kịp thời, đúng lúc và nhạy bén đòi hỏi tác phẩm phản biện của báo
chí xuất hiện đúng lúc, đáp ứng được nhu cầu của công chúng và sự quan tâm
của họ trong thời điểm đó thì phản biện đó sẽ có giá trị hơn. Ngày nay, lượng
thông tin phụ thuộc một cách quyết định vào tính kịp thời, chính xác, đúng
lúc, nhanh nhạy. Do vậy, báo chí làm được những điều trên sẽ làm tăng giá trị
của phản biện, nếu phản biện chậm, hiệu quả sẽ ngược lại và lượng của nó sẽ
bằng không.
Hình thức phản biện cần phải tổ chức chặt chẽ, cả về tổ chức và con
người đảm bảo tính chuyên nghiệp. Cơ quan báo chí cần tổ chức lực lượng
chuyên nghiệp (bộ phận, ban, phòng, v.v.), xây dựng đội ngũ này có trình độ,
phẩm chất và năng lực chuyên môn cao để thực hiện phản biện có hiệu quả.
Bằng các thể loại báo chí khác nhau, điều tra, bình luận, v.v. thông qua các
loại hình báo chí khác nhau để chuyển tải đến đối tượng được phản biện có
hiệu quả nhất. Tác phẩm báo chí là nội dung trọng tâm trong kết lối mối quan
hệ giữa nhà báo, tác phẩm và chủ thể tiếp nhận phản biện.
2.2.2.4. Sự chuẩn mực về đạo đức và giá trị văn hóa và của chức
năng phản biện xã hội của báo chíĐể làm rõ hơn tiêu chí những giá trị chuẩn mực về văn hoá và đạo đức
trong thực hiện chức năng phản biện chúng ta cần xem xét một số nội dung
sau. Ở Việt Nam thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm quyền, QLCT tối
cao thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng lãnh đạo toàn diện, trực tiếp và
triệt để đối với toàn bộ xã hội. Nhưng ở Mỹ tổ chức QLCT nhà nước là quyền
lực trung tâm. QLNN được phân chia thành ba nhánh lập pháp, hành pháp và
tư pháp, ba quyền này độc lập với nhau, kiềm chế giám sát lẫn nhau. Trong
HTCT quyền lực Mỹ, báo chí được coi là quyền lực thứ tư, có thể giám sát ba
89
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở Trung Quốc, hệ thống tổ chức
QLCT theo mô hình một đảng nổi trội, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản kiêm Chủ
tịch nước và là nguyên thủ quốc gia. Trung Quốc cho phép báo chí tư nhân
hoạt động, không có luật báo chí.
Trình bày hệ thống quyền lực của một số nước như trên để thấy rằng ở
mỗi quốc gia khác nhau tổ chức HTCT không giống nhau, do đó cũng có
những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức khác nhau. Cho nên phản biện của
báo chí vừa phải tôn trọng các qui định của pháp luật, vừa phải bảo đảm
những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức, lối sống lợi ích cộng đồng, giá trị
truyền thống văn hóa của dân tộc là khách quan cần phải được quán triệt.
Mỗi thông tin xuất hiện trên báo chí đều có thể ảnh hưởng trực tiếp hay
gián tiếp đến những giá trị đạo đức của một bộ phận dân cư, vị thế diện mạo
quốc gia dân tộc. Không thể có những phản biện đi trái với giá trị văn hóa,
chuẩn mực đạo đức xã hội bằng việc soi mói đời tư, khiêu dâm, bạo lực,
quảng cáo cho các hình ảnh phi văn hóa, chạy theo lợi nhuận. Mọi sự PBXH
của báo chí phải trở thành kênh thông tin hữu ích phát huy các giá trị truyền
thống của dân tộc, xây dựng các giá trị chuẩn mực đạo đức đồng thời qua đó
PBXH của báo chí xác định được tiêu chí phản biện của mình.
Trong quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới chúng ta cần phải tôn
trọng và giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Phản biện của báo chí là một nội
dung quan trọng để giữ gìn và phát huy những giá trị, chuẩn mực đạo đức
cộng đồng, truyền thống văn hóa của dân tộc. Đây là những giá trị cốt cách
của người Việt, trong xu thế hoà nhập nhưng không hoà tan.
2.2.2.5. Năng lực và trình độ tổ chức thực hiện chức năng phản biện
xã hội của báo chíTrước hết đặt ra yêu cầu là chủ thể phản biện phải có năng lực, trình
độ, bản lĩnh phản biện, vì chính báo chí là đại diện cho quyền lực của nhân
dân, chuyển tải ý kiến nguyện vọng của nhân dân đến với Đảng và Nhà nước
90
và ngược lại. Kiểm soát QLCT, QLNN cần phải có nhà báo, nhà khoa học,
các chuyên gia (giới tinh hoa) làm đại diện, hạt nhân trung tâm, họ có trình độ
kiến thức, nhận thức sâu về những nội dung mà chính sách và pháp luật đề
cập. Trình độ năng lực phản biện thông qua đánh giá tác phẩm báo chí. Mỗi
chủ đề, chuyên đề thực hiện phản biện, báo chí cần phải xem xét cần bao
nhiêu cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia. Ở đây cần có sự lựa chọn cho đúng,
phù hợp những thành phần có liên quan với chủ đề. Có những vấn đề cần
nhiều đơn vị cơ quan, cá nhân tham gia, nhưng cũng có những vấn đề nhiều
lực lượng tham gia quá sẽ làm cho quá trình thực hiện chức năng phản biện
không được tập trung (loãng) và hiệu quả không cao gây khó khăn, lãng phí.
Một sự kiện cần báo nào tổ chức phản biện thì báo ấy chủ trì và phối hợp
phản biện.
Sự ra đời của chính sách, pháp luật là xuất phát từ cuộc sống và do đó
chính sách phải phục vụ cuộc sống. Đánh giá được chất lượng của thực hiện
chức năng PBXH của báo chí, chính là hiệu quả của các chính sách trong
cuộc sống nếu các chủ trương, chính sách, pháp luật nhanh đi vào cuộc sống
thì cũng đồng nghĩa với việc báo chí phản biện có hiệu quả. Báo chí phải
tham gia tích cực vào quá trình ra đời và thực thi chính sách, pháp luật bằng
việc phản biện đầy đủ, kịp thời việc thực thi chính sách, có đánh giá so sánh
tìm ra những điểm tốt, đồng thời phát hiện những vấn đề bất cập, rút ra bài
học và đề ra những giải pháp. Chất lượng và hiệu quả của chính sách chính,
pháp luật là sự ổn định xã hội, đất nước phát triển, các giá trị được giữ gìn và
tôn vinh, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, v.v..
2.2.2.6. Hiệu ứng và hiệu quả thực hiện chức năng phản biện xã hội
của báo chíKết quả cuối cùng của PBXH của báo chí là chất lượng và hiệu quả của
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn cuộc sống. Quá
trình ra đời của chính sách, pháp luật không phải đã có sự đồng thuận ngay
91
của xã hội cho nên báo chí có nhiệm vụ tạo sự đồng thuận bằng việc tham gia
tích cực vào việc phản biện những vấn đề chưa đồng ý, nhất trí tạo ra hiệu
ứng DLXH để đi đến sự nhất trí và đồng thuận cao. Báo chí có vai trò vị trí
định hướng dư luận, hướng dư luận vào một vấn đề nào đó với liều lượng
nhiều ít khác nhau, đảm bảo cho sự đồng thuận xã hội. Báo chí cần phải tham
gia tích cực vào quá trình này như là việc giải quyết của các mặt đối lập của
sự vật hiện tượng trong sự thống nhất.
Quán triệt tinh thần, xây dựng chính sách, pháp luật là một quá trình,
không ai có thể đưa ra một ý kiến, một quyết sách đúng hết ngay từ đầu, cần
phải cần có sự hoàn thiện và bổ xung trong khi xây dựng chính sách, ban đầu
là dự thảo lúc này cần phải có phản biện nhất là phản biện của báo chí. Muốn
phản biện của báo chí có hiệu quả trước hết các tác phẩm báo chí cần tạo
được hiệu ứng xã hội ban đầu, gây sự chú ý về vấn đề cần phản biện. Hiệu
ứng về những vấn đề phản biện tạo ra phải đủ lớn, có sức lan toả, lan truyền
rộng rãi tạo DLXH mạnh về vấn đề đó, gây áp lực lớn đối với chủ thể tiếp
nhận phản biện. Đây là yếu tố rất quan trọng mà phản biện báo chí mang lại,
là làm cho dư luận nóng lên gây sự chú ý quan tâm của nhiều người, trong
thực tế đã xuất hiện những bức xúc của người dân, làm cho chủ thể tiếp nhận
phản biện không quan tâm không được. Do đó báo chí muốn thực hiện tốt
được tiêu chí này cần phải quán triệt đầy đủ tiêu chí của tác phẩm báo chí
thông thường, nhưng đồng thời bảo đảm tính PBXH cao. Phản biện của báo
chí phải đảm bảo khách quan, khoa học, đa chiều, có sức thuyết phục, phản
biện phải đề cập toàn diện từ các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, truyền
thống dân tộc quê hương.v.v.. có sức lay động, lan toả nhanh đối với xã hội.
Những phản biện đó cần phải làm cho DLXH quan tâm và tạo áp lực
nhiều hơn đối với chính sách, pháp luật và rất cần đối tượng tiếp nhận quan
tâm tiếp thu sửa đổi hoặc huỷ bó (nếu sai). Hiệu quả của phản biện còn cần
phải quan tâm đến yếu tố nhanh hay chậm, từ các phản ứng và sức lan toả
92
đòi hỏi phải đảm bảo thời gian nhanh nhất nếu không sẽ mất thời cơ và
hiệu quả thấp.
Hiệu ứng mà PBXH của báo chí mang lại cũng chính là dân chủ được
mở rộng và đề cao, quyền lực được kiểm soát, chống được lạm quyền, lộng
quyền, suy thoái quyền lực bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Đồng thời góp phần quan trọng xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh,
khắc phục những hạn chế, thiếu sót của các chủ trương, chính sách làm cho
nó có sức sống trong thực tiễn.
Tiểu kết chương 2
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phản biện, PBXH, PBXH của báo
chí, chức năng của báo chí, chức năng PBXH của báo chí nói chung và PBXH
của báo chí ở Việt Nam hiện nay, với những vấn đề đã được làm rõ ở trên,
thật sự có ý nghĩa cho việc lý giải những vấn đề của báo chí, chức năng của
báo chí và nhất là chức năng PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay. Trong
những quan niệm, khái niệm được trình bày và phân tích trên đây vừa thể hiện
những giá trị có tính phổ biến của báo chí trên thế giới, vừa có sự vận dụng,
liên hệ cụ thể với báo chí và PBXH của báo chí ở nước ta hiện nay.
Hơn nữa, những tiêu chí đánh giá hiệu quả và chất lượng của hoạt động
PBXH với tính cách là chức năng của báo chí ở Việt Nam đã được nêu ra.
Những tiêu chí này, do việc lần đầu tiên được luận án này nêu ra và còn phải
được thực tiễn PBXH của báo chí ở nước ta kiểm nghiệm và bổ sung, nhưng
coi đây cũng là một trong những đóng góp của luận án về đánh giá PBXH của
báo chí ở nước ta. Nhưng tiêu chí này sẽ là căn cứ cho việc đánh giá thực
trạng của việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí nước ta hiện nay và
những năm tới.
93
Chương 3
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa và xã hội đến việcthực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
3.1.1.1. Tác động của nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiệnđại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đến việc thực hiện chức năng phảnbiện xã hội của báo chí
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta hiện nay, cùng vớiviệc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách; tạo dựng môitrường chính trị - xã hội, môi trường pháp lý, môi trường đầu tư cho kinh tếphát triển, v.v. khách quan tác động đến PBXH nói chung và chức năngPBXH của báo chí nói riêng.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay, cùng vớinhững vấn đề quan trọng và phức tạp của kinh tế - từ phát triển kinh tế. Trongđó kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản hay vấn đề đất đai,tài nguyên, môi trường, thu hút đầu tư, thuế, thuê mướn lao động, tiền lương,v.v.. đã tác động mạnh mẽ đến chức năng PBXH của báo chí.
Những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong nền kinh tế thị trường địnhhướng XHCN và hội nhập quốc tế nước ta luôn đặt ra những yêu cầu caotrong việc ban hành chính sách, pháp luật. Muốn chính sách, pháp luật có hiệuquả trong cuộc sống đòi hỏi phải có PBXH nói chung và phản biện của báochí nói riêng. Đồng thời sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội tác độngmạnh mẽ đến dân chủ, tiến bộ xã hội đòi hỏi ở PBXH của báo chí với tư cáchlà diễn đàn của nhân dân.
94
3.1.1.2. Tác động của của yếu tố xã hội đến việc thực hiện chức năng
phản biện xã hội của báo chíXã hội là một tập hợp của nhiều nhóm lợi ích. Mỗi nhóm lợi ích luôn ý
thức được rằng khi làm chính sách, khi ban hành các quyết định, đạo luật
mình phải có lợi ích nhiều hơn. Cho nên trong quá trình phát triển, các nhóm
có nguy cơ mâu thuẫn về quyền lợi, dẫn đến những “bức xúc” xã hội (trong
trường hợp không được giải tỏa); cao hơn, có thể dẫn đến tình trạng căng
thẳng xã hội thường trực, quyền tự do dân chủ bị xâm phạm, thậm chí là tiền
đề cho các cuộc khủng hoảng chính trị - xã hội trên diện rộng. Sở dĩ có tình
trạng như vậy là bởi xã hội đã thiếu đi một cơ chế đối thoại, phản biện để điều
hòa mâu thuẫn, cân đối lợi ích giữa các nhóm liên quan. Yêu cầu về sự đồng
thuận xã hội cũng cần đến PBXH nói chung và PBXH của báo chí nói riêng.
Các yếu tố như, dân chủ, văn hoá, giáo dục, y tế và việc làm hiện nay
đã và đang có những vận động thay đổi mạnh mẽ từ đòi hỏi, áp lực của cuộc
sống. Nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi phải có phản biện của báo chí, PBXH
của báo chí sẽ góp phần quan trọng vào mở rộng dân chủ, tạo đồng thuận xã
hội, hạn chế những bức xúc, xung đột trong xã hội. Khi một xã hội trở nên
đồng thuận, bản thân nó đã tự tạo cho mình những tiền đề phát triển mới. Vì
đồng thuận xã hội là điều kiện cần để phát triển các nguồn lực cộng đồng xã
hội, qua đó các thành viên dễ dàng tương tác với nhau qua PBXH của báo chí.
Mặt khác, yêu cầu nâng cao trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ công
dân, qua đó hình thành môi trường xã hội dân chủ, tiến bộ cũng cần đến chức
năng PBXH của báo chí. Do bản chất xã hội của nó, các hoạt động phản biện
thường gây ảnh hưởng đáng kể lên đời sống cộng đồng. Đặc biệt, chức năng
PBXH của báo chí còn tác động mãnh mẽ đến xã hội, làm cho DLXH “nóng”
nên về những vấn đề mà xã hội quan tâm. PBXH của báo chí không chỉ làm
cho người dân không thể im lặng trước các diễn biến của xã hội, mà còn làm
cho họ từ chỗ tự phát, thụ động chuyển thành chủ động, tự giác tham gia với
95
số đông vào quá trình PBXH. Mỗi tác phẩm báo chí được đăng tải, làm cho
hoạt động phản biện của báo chí sôi nổi hơn, sức “nóng” của nó gây áp lực
mãnh mẽ hơn đối với những người làm chủ trương, chính sách. Do vậy, trong
điều kiện hiện nay những yếu tố xã hội có tác động mạnh mẽ và đòi hỏi cao
chức năng PBXH của báo chí là một tất yếu khách quan.
3.1.1.3. Tác động của của yếu tố văn hóa đến việc thực hiện chứcnăng phản biện xã hội của báo chí
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay các giá trị văn hoá có nhiềuthay đổi trước tác động mạnh mẽ chính trị, kinh tế, văn hoá nước ngoài. Sựphát triển của văn hóa, trong đó có văn hóa chính trị (văn hóa lãnh đạo, vănhóa quản lý và văn hóa tham chính - tham gia chính trị), văn hóa dân chủ, vănhóa pháp lý, văn hóa giao tiếp chính trị, văn hóa ứng xử trong chính trị, v.v.cũng cần đến chức năng PBXH của báo chí như một tất yếu khách quan.
Với sự phát triển của kinh tế và xã hội, của quá trình hội nhập, quốc tếvà quá trình dân chủ hóa có tính toàn cầu, PBXH nói chung và PBXH của báochí nói riêng còn được xem là những nội dung và hình thức quan trọng vàkhông thể thiếu của văn hóa. PBXH có văn hóa hay có văn hóa trong PBXHcủa báo chí ở nước ta hiện nay là tất yếu khách quan.
Mặt khác, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân tăng, sự phát triểnnhanh chóng của dân trí, các giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại đan xenvà sự lựa chọn và tiếp thu thế nào. Do đó ,nhu cầu, khả năng PBXH của xãhội tăng lên làm cho nhu cầu PBXH qua bằng báo chí tăng lên hay PBXH củabáo chí tăng lên.
3.1.2. Tác động của các yếu tố chính trị và pháp lý đến việc thựchiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
3.1.2.1. Tác động của những yếu tố chính trị đến việc thực hiện chứcnăng phản biện xã hội của báo chí
Từ tiếp cận chính trị học về quyền lực cho thấy, báo chí ở nước ta hiện
nay, vừa là tiếng nói của Đảng và Nhà nước vừa là diễn đàn của nhân dân, do
96
đó cần phải được xác định là một phương thức kiểm soát quyền lực. Báo chí
chịu sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là công cụ tuyên truyền đường lối
chủ trương chính sách, pháp luật đến xã hội. Tính độc lập tương đối của báo
chí ở chỗ báo chí phát huy sức mạnh của nhân dân và DLXH để tạo áp lực
cho cơ quan quyền lực. Báo chí là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân; giám sát và phản biện các hiện tượng suy thoái quyền lực, lạm quyền,
quan liêu. Hơn nữa, vai trò PBXH của báo chí trong kiểm soát quyền lực càng
lớn khi hệ thống kiểm soát quyền lực của HTCT, của Đảng và Nhà nước còn
nhiều hạn chế. Quan hệ kiểm soát quyền lực của báo chí có thể được hiểu
là quyền lực vừa ở bên trong và quyền lực ở bên ngoài, trong mối quan hệ
chịu sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là bên trong. Trong khi đó báo chí
là tiếng nói và diễn đàn của nhân dân, thông qua phản biện của báo chí
nhân dân kiểm soát quyền lực của mình. Đây là những vấn đề đặt ra cho
mối quan hệ giữa QLCT, QLNN đối với báo chí mà phản biện của báo chí
là một trong những yếu tố phản biện quyền lực mà nhân dân ủy quyền. Báo
chí do Đảng và Nhà nước sinh ra, chịu sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối và
báo chí phải có nghĩa vụ và trách nhiệm xây dựng Đảng và Nhà nước vững
mạnh đủ sức lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Đây chính là quan hệ
phục tùng QLCT và QLNN của báo chí. Trong mối quan hệ qua lại tác
động, ảnh hưởng lẫn nhau của quyền lực ấy giữa Đảng và Nhà nước với
báo chí đặt ra cho PBXH của báo chí có nhiều thuận lợi song cũng có nhiều
thách thức.
Thuận lợi là có Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý bằng
nghị quyết, chỉ thị, pháp luật và chính sách đối với hoạt động của báo chí nói
chung phản biện của báo chí nói riêng, do đó tính mục đích là đảm bảo tính
xây dựng, tránh xung đột, tự do tùy tiện. Phản biện của báo chí chính là “phê
và tự phê” trong nội bộ ở đây báo chí góp ý kiến cho Đảng và Nhà nước
những vấn đề còn hạn chế, thiếu sót “lỗ hổng” trong chính sách, pháp luật. Do
97
vậy hoạt động PBXH của báo chí được tăng cường, tự do, dân chủ được mở
rộng quyền lực được kiểm soát.
Khó khăn, thách thức báo chí là của Đảng và Nhà nước, chịu sự chi
phối quyết định bởi QLCT, QLNN. Do vậy, chức năng phản biện của báo chí
có được phát huy hay không, tình trạng tập trung quyền lực quá lớn dẫn đến
lạm quyền, suy thoái quyền lực trong thực thi chính sách và pháp luật là điều
khó tránh khỏi. Cơ quan lãnh đạo quản lý báo chí can thiệp sâu vào hoạt động
báo chí, chỉ được phản biện vấn đề này mà không được phản biện vấn đề kia
hay phản biện vấn đề này ít, vấn đề kia nhiều, cơ quan chức năng cho rằng có
vùng “cấm” “nhạy cảm”. Sự tập trung quá lớn quyền lực dẫn đến quan liêu,
lạm quyền xảy ra đã làm hạn chế hoạt động phản biện của báo chí, quyền của
người dân không được thực hiện. Những vấn đề đó đã đặt ra cho báo chí
thách thức lớn làm thế nào có thể vượt qua, để PBXH của báo chí có hiệu quả.
3.1.2.2. Tác động của những yếu tố pháp lý đến việc thực hiện chức
năng phản biện xã hội của báo chíThực tiễn hoạt động của báo chí chưa có qui định của Luật về chức
năng PBXH của báo chí đây là thách thức khó khăn lớn nhất. Vấn đề là xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phản biện, làm cơ sở pháp lý để báo
chí tham gia kiểm soát quyền lực đang là yêu cầu đặt ra có tính cấp bách.
Thuận lợi là nhà nước quản lý báo chí bằng pháp luật, báo chí hoạt
động theo luật pháp, việc ban hành các đạo luật nhằm thể hiện ý trí của Nhà
nước đối với PBXH. Báo chí có nghĩa vụ trách nhiệm tôn trọng pháp luật,
thực thi chính sách pháp luật trong hoạt động, đề cao vai trò của báo chí trong
hoạt động phản biện. Đặc biệt cần quan tâm, phát huy sức mạnh của nhân dân
phản biện chính sách, pháp luật trong khi phương thức và nguồn lực để nhân
dân làm chủ còn nhiều hạn chế. Chức năng PBXH của báo chí chưa có văn
pháp lý điều chỉnh, nhưng trong thực tế thì hoạt động phản biện của báo chí
đã và đang diễn ra và nó mang lại những hiệu quả nhất định trong việc kiểm
98
soát QLNN. Đây là nguồn cảm hứng lớn cho hoạt động phản biện của báo chí
phát huy chức năng phản biện, là cơ sở để nhà nước ban hành luật phản biện
của báo chí.
Khó khăn, thách thức là đòi hỏi về cơ chế pháp lý ngày càng rõ ràng
công khai minh bạch có sức sống trong thực tiễn và đáp ứng ngày càng tốt hơn
lợi ích của nhân dân. Trình độ dân trí, dân chủ, tự do ngày càng phát triển ở trình
độ cao đặt ra cho cơ chế phản biện của báo chí những thách thức to lớn.
Hiện nay hệ thống pháp luật báo chí gồm luật Báo chí sửa đổi năm
1999 cùng 6 Nghị định, 7 Quyết định và 5 Thông tư hướng dẫn. Song nhìn
chung do sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn đến nay đã bộc lộ nhiều khó
khăn, bất cập không phù hợp. Nhiều quy định không được thực hiện. Quyền
tiếp cận thông tin của nhà báo gặp nhiều trở ngại. Quy chế người phát ngôn
mang tính hình thức và không thực tế. Các quy định mơ hồ như “bí mật công
tác”, “không thuộc thẩm quyền” cộng với sợ trách nhiệm, nên quy chế này
không những không phát huy tác dụng mà còn ngăn cản báo chí tiếp cận
thông tin. Lối tư duy “phải quản cho chặt” thực tế là thảm họa cho báo chí. Vì
vậy cần phải có tư duy mới thuận theo sự phát triển của xã hội theo hướng là
quản cho có hiệu quả. Hiệu quả quan trọng nhất của phản biện của báo chí là
tác động vào xã hội, phát huy sức mạnh của nhân dân như thế nào trong việc
tham gia kiểm soát quyền lực.
Xây dựng một xã hội dân chủ mà ở đó, người dân được nói lên tiếng
nói của mình và được cơ quan quyền lực mà mình ủy quyền tiếp nhận và sửa
đổi. Xã hội mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân, quyền dân chủ của người
dân được phát huy. Việc dần hoàn thiện HTCT đã không ngừng giúp báo chí
có cơ chế phối hợp để chuyển tải những ý kiến, những vấn đề mà các tổ chức
chính trị xã hội và các tổ chức nghề nghiệp quan tâm. Vấn đề đặt ra ở đây là
không chỉ có báo chí chuyển tải các nội dung của các tổ chức và cá nhân mà
còn đứng ra tổ chức phản biện các nội dung đó một cách kịp thời và có tính
99
thuyết phục cao. Ở nước ta, chế độ chính trị một đảng cầm quyền thì càng cần
tăng cường PBXH, trong đó có PBXH của báo chí. Việc phản biện này cần
thu hút nhiều giai tầng xã hội tham gia và báo chí là một kênh quan trọng, nếu
không muốn nói là rất quan trọng. Những vấn đề trên cần phải có cơ chế phối
hợp rõ ràng cần được công khai, minh bạch, kịp thời tạo điều kiện cho hoạt
động PBXH có hiệu quả.
Xây dựng và hoàn thiện, cơ chế, pháp luật đảm bảo quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân là vấn đề khó khăn và phức tạp, vừa bức xúc trước mắt vừa
cơ bản lâu dài. Trong đó trước mắt cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế, pháp
luật đảm bảo cho báo chí tham gia phản biện chính sách, pháp luật, đảm bảo
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân có ý nghĩa và tầm quan trọng sống còn
đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta hiện nay. Cơ sở pháp lý là những yếu tố
đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của PBXH của báo chí.
3.1.3. Tác động của toàn cầu hóa truyền thông việc thực hiện chức
năng phản biện xã hội của báo chí
Sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã
mở ra một xã hội thông tin nhiều chiều; từ mạng intrenet các trang báo, mạng
xã hội, blog cá nhân, v.v. tràn ngập các thông tin mà các thông tin này cần
được kiểm chứng. Quá trình này đặt ra cho báo chí thách thức, yêu cầu cao là
phải đổi mới công nghệ làm báo quan tâm chăm lo đến cơ sở vật chất kỹ thuật
đảm bảo hiện đại. Công nghệ đặt ra yêu cầu làm báo cao hơn, nhất là báo
mạng với tính ưu việt của nó nhanh chóng, kịp thời và khả năng tương tác với
độc giả cao. Bạn đọc có thể cùng làm báo với tòa soạn và thế giới phẳng
thông tin đầy ắp tràn ngập đòi hỏi quá trình phản biện cũng phải hòa nhập đáp
ứng yêu cầu này.
Thuận lợi là mặt tích cực của toàn cầu hóa truyền thông đại chúng là
kênh thông tin có sức mạnh to lớn nhất, có điều kiện thuận lợi nhất để liên kết
các dân tộc, các quốc gia đi tới tiếng nói, hành động chung tăng cường khả
100
năng giao tiếp; tạo điều kiện tiền đề cho mọi người tiếp cận kho tàng chí thức
của nhân loại; là phương tiện cung cấp dữ liệu thông tin phong phú. Đến lượt
mình, truyền thông đại chúng có cơ hội mở rộng quy mô, tăng cường sức
mạnh ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu. Đây là một trường học mở cửa cho
tất cả những ai mong muốn học tập và nâng cao trình độ hiểu biết.
Nhờ tính ưu việt của truyền thông toàn cầu mà trình độ nhận thức của
người dân được nâng cao, họ có thể phân biệt được đúng sai, phải trái và đưa
ra những hành động của mình. Nhận thức được nâng lên họ hiểu được dân
chủ, tự do và quyền của mình đây là điều quan trọng giúp họ kiểm soát quyền
lực của mình có hiệu quả hơn. Truyền thông toàn cầu hóa đã tạo áp lực cho cơ
quan quyền lực chịu sức ép mạnh mẽ từ dư luận, sức mạnh của nhân dân, họ
không thể quan liêu, lạm quyền. Từ truyền thông toàn cầu hóa đã tạo động lực
sức mạnh của báo chí trong hoạt động phản biện; báo chí có nhiều thông tin
hơn, thông tin đa chiều và tốc độ và tần xuất cao hơn. Hệ thống truyền thông
đại chúng toàn cầu hóa trở thành nguồn thông tin sinh động, phong phú, toàn
diện kịp thời và có tính thời sự, cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách.
Để có được chính sách đúng đắn, có hiệu quả, thì điều kiện đầu tiên
chính là thông tin. Chỉ có với hệ thống thông tin đầy đủ mới có khả năng phân
tích, đánh giá tình hình đầy đủ, chính xác, đưa ra những dự báo hợp lý, trên
cơ sở đó đưa ra quyết định hành động đúng đắn. Do đó quan tâm đến hệ thống
truyền thông đại chúng toàn cầu hóa của Đảng và Nhà nước là tất yếu khách
quan nhằm hội nhập đầy đủ với thế giới. Truyền thông đại chúng toàn cầu tác
động mạnh mẽ đến tự do, dân chủ ở Việt Nam và báo chí với chức năng phản
biện sẽ góp phần quan trọng vào việc mở rộng dân chủ nhằm kiểm soát quyền
lực của Đảng và Nhà nước.
Khó khăn, thánh thức là mặt trái của toàn cầu hóa truyền thông đại
chúng diễn ra trong điều kiện không công bằng về nhiều mặt trong đó có
thông tin. Phát hành những thông tin xấu, bất lợi, có tính chất tiêu cực đối với
101
những giá trị văn hóa, nhân văn truyền thống dân tộc. Đặc biệt, hệ quả phức
tạp là những thông tin có tính chính trị nhưng không có định hướng nhận thức rõ
ràng, dẫn đến sự nhiễu loạn, làm mất phương hướng của DLXH, bất lợi cho sự
ổn định chính trị - xã hội, phục vụ cho những mục tiêu chính trị. Đây là hiện
tượng khá phổ biến và cũng dễ nhận thấy trong đời sống chính trị quốc tế hiện
đại. Nguồn thông tin can thiệp chính trị thường được khai thác từ hai phía - bên
ngoài quốc gia và ngay trong nội bộ mỗi quốc gia. Nguồn thông tin bên ngoài
bao gồm nguồn thông tin quốc tế, những luận điểm, quan niệm, giá trị từ bên
ngoài. Nguồn thông tin từ bên trong là sự khai thác ngay từ những vấn đề, sự
kiện, những ý kiến, tâm tư của nội bộ xã hội, thông thường được phản ánh rất
nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng đã được sửa chữa.
Về thực chất, toàn cầu hóa truyền thông đại chúng, trước hết là mở
rộng phạm vi và quy mô ảnh hưởng của truyền thông đại chúng các nước giàu
mạnh, phát triển. Mặt khác, chính các nước công nghiệp phát triển phương
Tây cũng muốn bành trướng ảnh hưởng văn hóa như một thứ sức mạnh mềm
nhằm tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh, phát triển kinh tế và bành
trướng QLCT của mình.
Toàn cầu hóa truyền thông đại chúng vào Việt Nam bên cạnh những
mặt tích cực còn bộc lộ những tác động tiêu cực đó là tuyên truyền lối sống
thực dụng đề cao cá nhân, bạo lực, những giá trị không phù hợp với thuần
phong mỹ tục của người Việt Nam. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu
“diễn biến hòa bình”. Sử dụng các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy và
nhiều loại hình thông tin như báo điện tử, báo in, báo phát thanh, v.v. tác động
vào các tầng lớp nhân dân nhất là thanh thiếu niên, nhằm phủ nhận chủ nghĩa
Mác -Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng ta, xóa
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Toàn cầu hóa truyền thông đại chúng khiến một
số nhà báo chạy theo thị hiếu tầm thường thương mại hóa, vụ lợi “kiếm tiền”
xa rời tôn chỉ mục đích của tờ báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp, v.v.. Toàn
102
cầu hóa truyền thông đại chúng đã tạo điều kiện cho một số nhà báo thiếu
trung thực trong phản biện, khai thác thông tin thiếu kiểm chứng tạo dư luận
không tốt cho xã hội. Đây là sự tác động nguy hại cho hệ thống quyền lực ở
nước ta, là thách thức rất lớn hiện nay đối với báo chí nhất là thực hiện chức
năng PBXH của báo chí.
3.1.4. Tác động của sự phát triển báo chí nước ta đến việc thực hiện
chức năng phản biện xã hội của báo chí
Trong thời kỳ đổi mới, với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, với sự phấn đấu lỗ lực của các cơ quan quản lý, cơ quan báo chí, báo
chí nước ta đã phát triển mạnh mẽ cả về loại hình, phương thức tổ chức hoạt
động và quy mô tác động xã hội; hoạt động báo chí phát triển về số lượng,
chất lượng, hình thức, nội dung và đội ngũ nhà báo. Gần 30 năm qua báo chí
Việt Nam phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng cũng như trở thành
một hệ thống đa dạng, phong phú đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự
nghiệp phát triển đất nước.
Từ 186 tờ báo năm 1980, năm 1989 nước ta đã tăng lên hơn 200 tờ báo
trung ương và địa phương với trên 6.000 người làm báo chuyên nghiệp, với
nhiều khó khăn về cơ sở vật chất - kỹ thuật” [111, tr.328].
Đến tháng 2 năm 2013, nước ta có 812 cơ quan báo chí in trên cả nước
với 1.084 ấn phẩm. Trong đó, báo có 197 cơ quan (gồm 84 cơ quan báo chí
Trung ương và các bộ, ngành, đoàn thể; 113 báo địa phương); tạp chí có 615
cơ quan (488 tạp chí Trung ương và 127 tạp chí địa phương). Cả nước có 74
báo, tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội, 1174 trang thông tin điện tử tổng hợp;
có 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó, Đài
Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số
VTC phủ sóng toàn quốc; có 172 kênh chương trình phát thanh và truyền hình
quảng bá, gồm 99 kênh truyền hình, 73 kênh phát thanh, v.v.. Cả nước có gần
17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề, hàng trăm phóng viên đang hoạt
103
động báo chí chuẩn bị đến thời hạn cấp thẻ; hơn 19.000 hội viên Hội Nhà báo
Việt Nam [11].
Đến hết năm 2013, nước ta có 997 cơ quan báo chí in với 1.084 ấnphẩm (so với 676 cơ quan và gần 700 ấn phẩm của năm 2009); gần 17.000nhà báo được cấp thẻ; 01 hãng thông tấn, 67 đài phát thanh, truyền hình, 101kênh truyền hình và 78 kênh phát thanh, 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạngxã hội và 1.174 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động (năm 2011chỉ có 46 báo điện tử và 287 trang thông tin điện tử). Đài Tiếng nói Việt Namphủ sóng 99,5% diện tích lãnh thổ và phủ sóng qua vệ tinh tới nhiều nước trênthế giới. Trên 90% hộ gia đình bắt được sóng Đài Truyền hình Việt Nam, sovới 85% năm 2008 [11].
Đồng thời, với gần 100 báo điện tử, trong đó có một số báo điện tử lớnnhư Báo Điện tử Đảng Cộng sản việt Nam, Cổng thông tin điện tử Chính phủ,Vietnamnet, Vn.Express, v.v. và là các cánh tay nối dài của các báo in, báophát thanh, truyền hình lớn cùng hàng trăm trang điện tử. Hàng nghìn websiteđã phát huy mạnh mẽ các ưu thế của báo điện tử nên đã sản xuất, khai thác,tổng hợp được khối lượng thông tin lớn nhất, truyền tải nhanh nhất đến bạnđọc [111, tr.463-464]. Các báo điện tử ra đời là một bước tiến mới trong hoạtđộng tương tác với bạn đọc và khả năng phản biện trực tiếp nhanh, nhạy kịpthời đáp ứng cao nhu cầu phản biện của xã hội.
Kế thừa hợp lý những tiến bộ, ưu việt của báo chí trên thế giới, với đặcthù của Việt Nam, tư duy, quan niệm về chức năng PBXH của báo chí cũngphát triển phong phú, đa dạng. Với nhu cầu thông báo liên tục, báo chí đã pháthành định kỳ hàng tháng, tuần, năm và thậm chí theo giờ. Sự phát triển củakhoa học kỹ thuật, sau là khoa học - công nghệ hiện đại, PBXH của báo chíkhông chỉ còn được quan niệm với tư duy truyền thống là chỉ loại báo in nữa,mà đã mở rộng sang cả phạm vi phát thanh và truyền hình. Quan niệm nàyngày càng rộng mở, sang cả tạp chí liên tục được xuất bản trên các trangthông tin điện tử, v.v..
104
Nhiều cơ quan, đoàn thể, cá nhân có mạng internet với hàng chục triệu
người thường xuyên sử dụng. Hệ thống phát thanh, truyền hình đã và đang áp
dụng nhiều công nghệ thông tin tiên tiến từ analog (tương tự) sang digital (kỹ
thuật số). Phương thức phát thanh có giao lưu trực tuyến, cầu truyền hình, đã
phổ cập tới nhiều đài địa phương. Diện phủ sóng phát thanh, truyền hình tăng
lên, tới tận cả miền núi, hải đảo xa xôi và cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài. Báo chí tạo nên một hệ thống truyền thông đại chúng hùng mạnh, đóng
góp tích cực vào việc phản biện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và
luật pháp của Nhà nước; những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước, những
bài học kinh nghiệm, những nhân tố mới, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước.
Sau gần 30 năm đổi mới, báo chí nước ta không ngừng đổi mới, thể loại
báo chí ngày càng phong phú, đặc biệt là các thể loại, bình luận, phóng sự
điều tra, bút ký, ghi nhanh, phỏng vấn, ảnh phóng sự, ảnh phê bình, v.v.. Đây
là những nguồn lực và điều kiện quan trọng và cần thiết cho việc thực hiện
chức năng PBXH của báo chí ở nước ta.
3.2. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC
THỰC HIỆN CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY - ĐÁNH GIÁ THEO CÁC TIÊU CHÍ CỦA PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA
BÁO CHÍ
3.2.1. Những thành tựu trong việc thực hiện chức năng phản biện
xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
3.2.1.1. Nhận thức về chức năng phản biện xã hội của báo chí ngày
càng caoa) Nhận thức của Đảng về chức năng phản biện xã hội của báo chí
Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, là bước ngoặt quan
trọng của tiến trình cách mạnh, nó mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất
nước, trong đó có sự chuyển biến và thay đổi về nhận thức trong hoạt động
105
của báo chí. Luồng gió đổi mới thổi vào xã hội làm cho nhận thức trong xã
hội có sự chuyển biến mạnh mẽ, tự do báo chí, tự do ngôn luận được đề cao,
người dân có quyền nói lên tiếng nói của mình, trình bày nguyện vọng ước
muốn. Đảng và Nhà nước đã quan tâm hơn đối với báo chí, thông qua việc
ban hành các Nghị quyết, văn bản pháp luật nhằm tăng cường tính chiến đấu,
phản biện của báo chí. Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 (khóa VI) năm 1988
về xây dựng Đảng khẳng định: "Đối với những vấn đề mới đặt ra, những vấn
đề phức tạp còn có những ý kiến khác nhau phải cùng nhau nghiên cứu, tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn, lắng nghe ý kiến của quần chúng, của các chuyên
gia và cán bộ khoa học, phát huy tự do tư tưởng, tranh luận thẳng thắn, dân
chủ” [40, tr.172]. Trên báo chí đã xuất hiện những tác phẩm báo chí mang
tiêu đề “Những việc cần làm ngay'', nhiều vấn đề được tranh luận thẳng thắn
về những quan điểm khác nhau, thậm trí trái ngược, đã bước đầu cho thấy dân
chủ, tự do được đề cao QLCT, QLNN bước đầu được kiểm soát và nhận thức
về PBXH của báo chí dần hình thành. Kết quả hoạt động của báo chí nói
chung và PBXH nói riêng ngày càng được Đảng và Nhà nước đánh giá cao,
xã hội nghi nhận coi đây là một chức năng của báo chí.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-
1986) trở thành mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ đổi mới của
Việt Nam. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI xác định: “đổi mới
toàn diện trên mọi lĩnh vực”, “trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh
tế”, “giữ vững ổn định chính trị là tiền đề để bảo đảm thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới” [39]. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, báo chí cũng phát triển
theo luồng gió của đổi mới sau Đại hội Đảng lần thứ VI. Nghị quyết của các Đại
hội Đảng lần VII, VIII, IX, X và XI đều tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới
đất nước, sự nghiệp đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu. Chưa bao giờ trong lịch
sử Việt Nam báo chí lại có sự sôi động, tự do ngôn luận, tự do báo chí và vai trò
của người làm báo được xã hội thừa nhận đến như vậy.
106
Đầu những năm 1990, từ sau sự kiện chính trị chế độ XHCN ở Đông
Âu và Liên Xô sụp đổ, tan rã (12/1991), câu hỏi lớn đặt ra cho Đảng cũng như
mọi người dân Việt Nam là liệu cách mạng nước ta có đứng vững được trong
cơn thử thách hiểm nghèo không? Có thực hiện được con đường đi lên CNXH
bỏ qua chế độ tư bản không? Âm mưu “diễn biến hòa bình”, kích động bao
vây cấm vận, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo
của Đảng. Tất cả những vấn đề đó tạo ra trong xã hội những cuộc tranh luận
sôi nổi điều này đã tạo điều kiện cho mở rộng dân chủ, tự do được phát huy,
mọi người đều được tham gia ý kiến của mình để góp công góp sức xây dựng
đất nước. Với PBXH, báo chí nước ta đã “vào cuộc” và thực hiện xuất sắc vai
trò của mình trong PBXH, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái muốn phủ
nhận thành tựu của cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận và
xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Đây có thể được coi như giai đoạn của hội nghị
“Diên hồng” lấy ý kiến toàn dân và sự hình thành các cơ sở về chính trị, pháp lý,
xã hội cho ra đời của PBXH, trong đó có PBXH của báo chí.
PBXH của báo chí đã góp phần to lớn vào việc xác định và thực hiện
đường lối đổi mới đất nước. Theo đó, đất nước ta đã thu được thành tựu to lớn
trong đó có đổi mới thể chế, cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực phải được kiểm
soát. Bước đầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thực hiện
mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động của
Quốc hội cơ quan lập pháp ngày càng có nhiều đổi mới, từ tổ chức bộ máy,
đến cán bộ nhất là hoạt động xây dựng pháp luật, gần 30 năm qua đã ban hành
nhiều đạo luật quan trọng, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp
ứng yêu cầu xây dựng xã hội dân chủ văn minh.
Sự ra đời của các bản Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi năm
2001 và năm 2013 đã khẳng định điều đó, điều 2 Hiến pháp năm 1992 nêu rõ
Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền
107
lực thuộc về nhân dân. QLNN là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục
vụ nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân
về những quyết định của mình. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định. Như vậy ý nghĩa quan trọng của Hiến pháp là đã
tạo lập cơ chế dân chủ, tự do hơn nhằm phát huy tối đa sức mạnh của nhân
dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhân dân có quyền tham gia
giám sát vào công việc của Đảng và Nhà nước thông qua tự do, ngôn luận, tự
do báo chí, nhân dân sử dụng phản biện của báo chí như là một công cụ để
kiểm soát quyền lực.
Đồng thời, các Hiến pháp và các đạo luật đều quy định một xã hội sống
và làm việc theo hiến pháp và pháp luật đã tạo không gian và môi trường xã
hội thuận lợi công khai, minh bạch, bình đẳng cho con người phát triển toàn
diện, v.v. .như là cơ sở xã hội của sự ra đời của PBXH. Sự ra đời của hệ thống
PBXH trong đó có PBXH của báo chí là một tất yếu khách quan trong một xã
hội văn minh, khắc phục những thiếu sót và hạn chế, tiêu cực của cơ quan
quyền lực. Quá trình PBXH của báo chí là phát huy được sức mạnh dư luận
và người dân trong việc kiểm soát quyền lực, đồng thời giúp cho cơ quan
quyền lực ngày càng mạnh lên.
Quan điểm đổi mới báo chí của Đảng đã khẳng định, báo chí thể hiện
tiếng nói của Đảng, đồng thời là diễn đàn của nhân dân; sự lãnh đạo của Đảng
đối với báo chí; mở rộng dân chủ với tinh thần dân chủ trong báo chí. Có thể
nói tư tưởng lấy dân làm gốc, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra của
Đảng đã thực sự thấm sâu vào quá trình đổi mới báo chí. Những năm qua
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm phát huy tốt nhất những
giá trị mà truyền thông đại chúng mang lại đồng thời hạn chế những tiêu cực
108
xã hội. Nhờ đó mà người dân phát huy quyền làm chủ xây dựng đất nước
đóng góp những ý kiến phản biện mạnh mẽ thông qua báo chí. Trong điều
kiện xã hội thông tin, các cơ quan quyền lực không thể bưng bít thông tin và
không thể không nhận được những phản hồi từ nhiều phía có cả tích cực và
tiêu cực, tác động ấy đã làm cho dân chủ hơn, nhân dân nói được tiếng nói
của mình. Hơn nữa, dưới tác động của truyền thông đại chúng toàn cầu là cơ
sở xã hội quan trọng để hình thành chức năng PBXH của báo chí.
Nhà nước tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để phát huy đúng vai trò của mình. Báo
chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng. Quyền thông tin và quyền tự
do thông tin về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới, nhân dân được
phát biểu ý kiến của mình và tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, được
kiến nghị, phê bình, khiếu nại, v.v..qua báo chí.
Sự ra đời Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí năm
1999, Nghị định số 51/NĐ-CP của Chính phủ ngày 26/4/2002 về “Quy định
chi tiết thi hành Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo
chí”, v.v.. là những văn bản pháp lý quan trọng, có giá trị pháp lý xác định chức
năng, nhiệm vụ của báo chí; tự do báo chí; quyền và nghĩa vụ của báo chí; chế
độ trách nhiệm của báo chí; khen thưởng kỷ luật đối với báo chí, trong đó có
chức năng PBXH của báo chí nước ta. Hơn nữa, đây là còn là cơ sở quan trọng
để báo chí thực thi pháp luật, thực hiện chức năng PBXH trong thực tế.
Công cuộc đổi mới đã mở ra cho báo chí những nhiệm vụ chức năng
mới, đồng thời cũng đặt ra những thách thức to lớn. Báo chí thông qua đấu
tranh chống tiêu cực đã góp phần vào cuộc vận động làm trong sạch tổ chức
đảng, bộ máy nhà nước, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, góp phần phát huy
dân chủ trong sinh hoạt Đảng và trong xã hội, minh oan cho người vô tội, lên
án những hành vi trù dập người phê bình. Báo chí phản biện những vấn đề lợi
dụng dân chủ để vu cáo, xuyên tạc sự thật, hỗ trợ các cơ quan pháp luật và
109
quần chúng chống tiêu cực. Đi đôi với việc chống tiêu cực, báo chí đã
phát hiện cổ vũ những nhân tố mới, những ''điểm sáng”, điển hình tiên tiến.
Nhìn lại các số báo, các chương trình phát thanh, các buổi truyền hình, các
phim thời sự có thể thấy phản biện của báo chí đã chú ý biểu dương cái mới,
nhân tố mới. Nhiều kinh nghiệm của nhân dân đã được tổng kết, làm cơ sở
cho nhiều nghị quyết của Đảng về đổi mới quản lý, sản xuất kinh doanh.
Nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có sự chuyển biếnbước đầu về chức năng PBXH của báo chí. Thông tin nhiều chiều của báo chíđược lãnh đạo, quản lý quan tâm lắng nghe coi đó là thông tin quan trọngphục vụ cho lãnh đạo, quản lý. Quan niệm về báo chí cũng có nhiều chuyểnbiến tích cực, quan tâm đến thông tin trái chiều nhiều hơn, qua đó giúp cho cơquan quyền lực điều chỉnh chính sách, pháp luật. Nhiều vấn đề mà báo chíphản biện được các đại biểu Quốc hội sử dụng làm tài liệu, căn cứ để phảnbiện chính sách, pháp luật. Thực tiễn pháp lý và lịch sử báo chí cách mạngViệt Nam suốt hơn 80 năm qua, ở các mức độ chuyên sâu khác nhau, cũng đãvà đang có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến nội dung quan trọng này.
b) Nhận thức của xã hội về chức năng phản biện xã hội của báo chíSự thừa nhận xã hội về chức năng PBXH của báo chí ngày càng rộng
rãi. Theo đó, nhận thức của xã hội và người dân về báo chí có nhiều thay đổi,quan tâm đến phản biện của báo chí nhiều hơn, gửi gắm niềm tin vào báo chílớn hơn, chức năng là diễn đàn của nhân dân được đề cao. Người dân quantâm đến báo chí nhiều hơn, nhiều ý kiến phản biện của người dân về chínhsách, pháp luật được báo chí đăng tải góp phần quan trọng để báo chí tăng sứcmạnh phản biện của mình. Nhân dân coi báo chí là kênh quan trọng trong việcchuyển tải những ý kiến phản biện đến cơ quan công quyền, thông qua báochí nhân dân có thể kiểm soát được quyền lực mà mình đã uỷ quyền. Nhândân quan tâm đến tính nhiều chiều của thông tin, đây là cơ sở quan trọng đểthực hiện phản biện chính sách, pháp luật có hiệu quả. Quyết định chính sách,pháp luật luôn là ở nơi dân, do dân và vì dân
110
Bài học vỡ lòng về nhà nước hầu như ai cũng biết, rằng trên bề mặt,
dường như chỉ những người có chức có quyền, xin được gọi chung
là “Quan” giữ vai trò quyết định chính sách, (từ khi khởi thảo, xét
duyệt, ký tá, đóng dấu đỏ quyền lực); song ở bề sâu, thực chất, lực
lượng quyết định chính sách luôn là dân. Dân luôn là người thực
hiện [106].
Sức mạnh PBXH của báo chí chính là sức mạnh của nhân dân, DLXH;
báo chí đã sử dụng sức mạnh ấy để phản biện chính sách, pháp luật tạo áp lực
nhiều chiều đối với cơ quan công quyền.
c) Nhận thức của các cơ quan báo chí và nhà báo về chức năng phản
biện xã hội của báo chí
Nhận thức của cơ quan báo chí, nhà báo về chức năng PBXH được
nâng lên, các tác phẩm báo chí cho thấy thông tin phản biện nhiều chiều được
báo chí quan tâm đề cập. Những vấn đề bức xúc nhạy cảm được báo chí quan
tâm tổ chức phản biện một cách khoa học khách quan và đảm bảo hiệu quả.
Tích cực, chủ động trong hoạt động phản biện nhằm kiểm soát quá trình chính
sách, pháp luật trong đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của
người dân. Báo chí Việt Nam thời kỳ đổi mới đã vượt qua những khó khăn,
thách thức ban đầu để khẳng định PBXH của báo chí là một chức năng PBXH
của báo chí.
3.2.1.2. Đóng góp của phản biện xã hội của báo chí vào công cuộc
đổi mới ngày càng lớna) Phản biện xã hội của báo chí ngày càng đóng góp tích cực vào sự
hình thành và hoàn thiện đường lối đổi mới
- Phản biện xã hội của báo chí với việc hình thành và phát triển của
đường lối đổi mới:
Với hoạt động phản biện, sau này gọi là PBXH, trước thềm của công
cuộc đổi mới, ngay từ đầu những năm 1980 báo chí nước ta đã có những đóng
111
góp tích cực vào việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Với sự đóng
góp ý kiến từ những bài viết tổng kết thực tiễn hết sức sắc sảo của các nhà
báo, của các tờ báo hàng đầu của Đảng và Nhà nước, tư duy đổi mới của
Đảng ta đã từng bước được hình thành và phát triển. Trên báo viết, báo nói,
báo hình, báo ảnh ngày càng xuất hiện nhiều hơn những mô hình mới về ba
chương trình kinh tế lớn, về “Khoán 10” trong nông nghiệp, về kinh tế nhiều
thành phần, về những thành tựu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất và đời sống. Thông qua báo chí nhiều kinh nghiệm của nhân dân đã được
tổng kết, làm cơ sở cho nhiều nghị quyết của Đảng về đổi mới quản lý, sản
xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế mới theo tinh thần thực hiện 3 lợi ích, làm
cho sản xuất “bung ra”, v.v..
Báo chí luôn bám sát thực tiễn, phản ánh sự nghiệp đổi mới, cổ vũ
mạnh mẽ cho sự ra đời và phát triển của các chính sách kinh tế mới, nhân tố
mới, điển hình tiên tiến và điều rất quan trọng là phản biện của báo chí khẳng
định cổ vũ ủng hộ cái mới. Đây được coi là tư duy mới về chức năng PBXH
của báo chí nhờ đó báo chí đã dũng cảm nói lên sự thật bản chất của vấn đề,
như chính sách khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động; cho dân mượn
đất sản xuất, chính sách phân phối lưu thông, v.v.. tạo được sự quan tâm của
các nhà quản lý lãnh đạo, các nhà kinh tế, các nhà khoa học và nhân dân.
Nhiều tác phẩm báo chí ra đời đã có sức nay chuyển lòng người, góp phần
làm sáng tỏ tính khách quan, khoa học giúp Đảng và Nhà nước có những
quyết định đúng đắn. Các quyết định đưa ra đã tạo được sự quan tâm chú ý
của cả xã hội và sự tranh luận, phản biện sôi nổi trên mặt báo, bằng các tác
phẩm báo chí đã giải thích làm rõ thêm về chính sách, pháp luật giúp cho
người dân hiểu sâu sắc hơn chính sách, pháp luật qua đó cơ quan công quyền
bổ xung hoàn chỉnh chính sách quyết định của mình.
Thông qua PBXH, báo chí đã chỉ ra nguồn gốc của sự hình thành cơ
chế hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển nền kinh
112
tế - xã hội và nêu lên những hình thức chuyển đổi từ các biện pháp quản lý
hành chính sang các biện pháp kinh tế. Nhiều báo chí có mục diễn đàn kinh
tế, đăng tải nhiều bài viết của các chuyên gia, nhà quản lý kinh tế, các nhà
khoa học trong và ngoài nước thu hút được sự quan tâm đông đảo của dư luận
và các nhà hoạch định chính sách. Nội dung của các bài báo tập trung phân
tích, đánh giá, bình luận những hạn chế của nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp.. Thực tiễn đặt ra nhiều câu hỏi đối với báo chí là tổ chức phản biện
đến đâu và như thế nào để thuyết phục được các nhà hoạch định chính sách,
đường lối chấp nhận tiếp thu và đưa ra những quyết sách phù hợp. Việc báo
chí đưa ra những căn cứ để xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
được coi là tất yếu khách quan. Về việc kinh doanh và quyền tự chủ của
người kinh doanh, phản biện báo chí làm rõ, hoạt động kinh doanh, xuất hiện
và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Kinh doanh
luôn gắn với thị trường xuất phát từ nghiên cứu thị trường và nó cũng phải
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường.
Lần đầu tiên báo chí đề cập mạnh dạn đến cụm từ đổi mới kinh tế đất
nước đây là cơ sở tiền đề mạnh mẽ khẳng định đổi mới báo chí - chức năng
PBXH của báo chí. Những hạn tiêu cực của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp
đã ngày càng bộc lộ rõ rệt. Vì thế, báo chí mở ra hàng loạt trang, bài với
những dòng tít lớn: “Xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch
toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa”. Tiêu chí được đặt ra là:
Chống tập trung quan liêu bao cấp là cuộc đấu tranh vô cùng gian
khổ giữa cái mới và cái cũ, giữa tính năng động của yêu cầu đổi mới
và tư tưởng bảo thủ, sức ỳ của những thói quen, giữa yêu cầu cấp
thiết lập quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa thật sự của đoàn thể
nhân dân lao động với chủ nghĩa cá nhân trong một số người nhân
danh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để cố bám giữ đặc quyền, đặc
lợi [17, tr.344].
113
Báo chí Việt Nam đặc biệt là báo Nhân dân đã tăng liên tục loạt bài về
đổi mới tư duy kinh tế, nhân tố quan trọng đầu tiên để đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế. Đây cũng là lần đầu tiên mà khái niệm “Đổi mới tư duy kinh tế” được
đưa lên mặt báo. Những tác phẩm báo chí đó đã góp phần uốn nắn một số
nhận thức không đúng trong Đảng, trong dân về chủ nghĩa xã hội, về vai trò
của kinh tế thị trường, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, về chế độ sở hữu,
chức năng quản lý của nhà nước và các thành phần kinh tế, mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Từ những kinh nghiệm quản lý kinh tế ở một số cơ sở, địa phương, trên
các báo đã có nhiều bài điều tra, phóng sự, tranh luận, phản biện về những
vấn đề của đất nước như: trả lương bằng tiền, bù giá vào lương, xóa bỏ tem
phiếu, bán lẻ theo một giá làm cho người tiêu dùng tự do lựa chọn mặt hàng
và nơi mua hàng:
Trong việc cải tiến quản lý kinh tế, quản lý xí nghiệp, hàng trăm cơ
sở sản xuất quốc doanh ở các ngành khác nhau đã áp dụng có hiệu
quả những hình thức cụ thể trả lương khoán: khoán tập thể theo sản
phẩm cuối cùng, khoán sản phẩm theo đơn giá luỹ tiến, khoán gọn
công trình xây dựng, v.v.. Nhờ làm tốt hình thức trả lương này,
nhiều xí nghiệp đã giành được thế chủ động tiếp tục đẩy mạnh sản
xuất đưa công tác quản lý ở cơ sở đi vào nền nếp, từng bước tăng
thêm thu nhập về tiền lương, tiền thưởng cho người lao động. Đó là
một bước trong việc kết hợp kế hoạch hóa với hạch toán kinh tế và
sử dụng đòn bẩy kinh tế trực tiếp ở cơ sở [18, tr.345].
Cụm từ đổi mới xuất hiện trên báo chí lúc này thực sự đã có sức mạnh
và trở thành chủ đề lớn của báo chí. Báo chí đã phản biện nhiều chiều về các
chủ trương chính sách kinh tế, có hiệu quả được xã hội ghi nhận.
Có đổi mới tư duy kinh tế mới dám thừa nhận và thay đổi những
quyết định sai lầm trước đây trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, dũng
114
cảm xử lý những việc nảy sinh trong cuộc chuyển hướng, điều chỉnh
lớn phương án bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư năm tới. Có đổi
mới tư duy kinh tế mới đổi được cơ chế quản lý theo phương hướng
có ý nghĩa cách mạng sâu sắc là kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội
chủ nghĩa [11, tr.346].
- Phản biện xã hội của báo chí với thực tiễn đổi mới trong những năm
đầu của thời kỳ đổi mới:
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật” qua văn kiện của Đại hội VI của Đảng (1986), báo chí đã tham gia
mạnh mẽ vào quá trình PBXH, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra của
công cuộc đổi mới. Báo chí nước ta đã phản biện làm rõ những hạn chế, sai
lầm và khuyết điểm của cơ chế, chính sách cũ; cổ vũ những nhân tố mới,
những ý tưởng mới trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới.
Thông qua phản biện của báo chí đã chỉ ra tính cấp bách và tất yếu phải đổi
mới, khẳng định đổi mới là một sự nghiệp cách mạng đầy khó khăn gian khổ,
chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa tìm tòi, khám phá, lựa chọn bước đi và các
giải pháp phù hợp, làm cho chủ trương, chính sách ngày càng có sức sống
trong thực tiễn.
PBXH của báo chí nước ta trong thời kỳ đổi mới bắt đầu từ loạt
bài Những việc cần làm ngay của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (với bút
danh NVL) từ ngày 25/5/1987 trên các báo, đài trong cả nước. Đây là tiền đề
cơ sở quan trọng cho hoạt động phản biện sâu sắc, mạnh mẽ của báo chí. Báo
chí, bình luận, phê bình góp ý cụ thể, có địa chỉ rõ ràng, yêu cầu xử lý nghiêm
minh những vụ việc tiêu cực và những cán bộ phạm sai lầm, khuyết điểm, mở
ra thời kỳ mới cho hoạt động báo chí tham gia trực tiếp cuộc đấu tranh với
những cái lạc hậu, cái xấu và cái ác. Báo chí cả nước mở chuyên mục Hưởng
ứng những việc cần làm ngay. Nhờ đó, hàng loạt các vấn đề nổi cộm tiêu cực,
115
những biểu hiện đặc quyền, đặc lợi (lợi ích nhóm) của một số người, v.v. đã
được đưa ra trước công luận. Báo Nhân dân từ việc đăng những bài báo ngắn
gọn trên góc phải trang nhất, sau này được chuyển thành diễn đàn Nói và
Làm đã gắn kết chặt chẽ giữa việc phê phán, phê bình công khai trên báo với
những hành động cụ thể để sửa chữa những khuyết điểm đó.
Thời kỳ đầu của thời kỳ đổi mới, chế độ quản lý tập trung quan liêu bao
cấp ngày càng bộc lộ những hạn chế, xã hội ngày càng xuất hiện những hiện
tượng tiêu cực; xuất hiện khủng hoảng kinh tế, làm cho đời sống của người dân
gặp nhiều khó khăn. Cuộc đấu tranh giữa cái cũ, lạc hậu lỗi thời với cái mới còn
manh nha diễn ra rất khó khăn và quyết liệt, nằm ngay trong mỗi người và tổ
chức đòi hỏi phải giải quyết. Yêu cầu đó đòi hỏi báo chí phải có phản biện, chỉ ra
sự lựa chọn đúng đắn nhất là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế, từ bỏ
cơ chế tập trung bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường.
Trên báo chí dần có những phản biện sâu bằng những bài điều tra kinh
tế nêu lên những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội.
Những bài chống tiêu cực đầu tiên đăng trên báo Lao động xuất hiện
vào tháng 6/1986, một thời điểm có ý nghĩa trước khi tiến hành Đại
hội VI của Đảng, v.v.. Chính trong bối cảnh đó, các bài điều tra đã
xuất hiện đều tập trung vạch rõ những bất hợp lý của chế độ “Đặc
quyền, đặc lợi'' mà một số cán bộ có chức đã mắc phải [111, tr.86].
Mở đầu là những bài như “Nhà khách Bộ Giao thông biến đi
đâu” (ngày 21/8/1986), “Tòa nhà cao tầng đó xây cho ai”, “Mắc tội tham ô,
trù dập người ngay vẫn được bầu vào Đảng ủy”,... [87, tr.334].
Báo Lao động đã cùng các tờ báo khác sử dụng thành công thể loại bài
điều tra trong việc xây dựng lên những tác phẩm báo chí có tính phản biện
cao và trở thành lực lượng tiên phong trong công cuộc chống tập trung, quan
liêu bao cấp của đất nước. Hàng loạt bài điều tra được đăng tải trên các báo
thời kỳ đó hầu hết đều đi từ những phản biện của các nhà khoa học, chuyên
116
gia và người dân: “Theo bạn đọc thì ông đã móc một số nguyên vật liệu ở kho
H và hơn một ngàn tấn tôn loại có bề dày 1,2 - 1,5 mm, bạn đọc còn cho biết
rõ một xe ô tô đã chở số tôn này về cho ông” [14, tr.37].
Quán triệt quan điểm đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế,
báo chí đã tập trung vào phản biện làm nổi bật các quan điểm đổi mới của
Đảng bằng các tuyến bài: Trong công nghiệp và xây dựng, các báo như Nhân
dân, Lao động, Tiền phong, Sài Gòn giải phóng tập trung tuyên truyền cho
việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư, hướng vào các công trình trọng điểm như thủy
điện Sông Đà và Trị An, dầu khí Vũng Tàu - Côn Đảo, v.v.. Đồng thời, cổ vũ
mạnh hơn việc đổi mới quản lý theo cơ chế mới, thực hiện tự chủ tài chính,
hạch toán kinh doanh, đưa ra nhiều điển hình làm ăn theo cơ chế mới. Coi
việc tuyên truyền cho mặt trận phân phối lưu thông là một trọng điểm. Nội
dung này, ngoài các báo lớn ở trung ương, những tờ báo địa phương như Hà
Nội mới, Sài Gòn giải phóng cũng đã làm tốt. Báo chí cũng cổ vũ mạnh
những nỗ lực phấn đấu thực hiện “bốn giảm'' và chỉ rõ rằng muốn ''bốn giảm”
thắng lợi phải dứt khoát đi vào cơ chế quản lý mới.
Những tờ báo như Nhân dân, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Văn
nghệ, Lao động, v.v. đã có hàng loạt bài viết, phân tích, bình luận phản biện
làm sáng tỏ các nhận định của Trung ương, đồng thời có góp ý phê phán các
tư tưởng sai trái. Những bài viết ấy đã thể hiện tinh thần phản biện một cách
sâu sắc khách quan về quan điểm, đường lối của Đảng. Đồng thời Đảng và
Nhà nước đã và đang cần nghe sự thật và tự sửa mình thông qua các ý kiến
đóng góp, phản biện.
PBXH của báo chí trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực đã góp phần
vào cuộc vận động làm trong sạch tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, lành mạnh
hóa các quan hệ xã hội, góp phần phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng và
trong xã hội, minh oan cho người vô tội, lên án những hành vi trù dập người
phê bình. Mức độ phản biện cao của báo chí thể hiện là lên án những người
117
lợi dụng dân chủ để vu cáo, xuyên tạc sự thật, hỗ trợ các cơ quan pháp luật và
quần chúng chống tiêu cực như báo Đại đoàn kết, Tiền phong, Lao động, Phụ
nữ Việt Nam, Thanh niên, Công an thành phố Hồ Chí Minh, v.v..
Những tờ báo lớn, có đông đảo bạn đọc như Nhân dân, Quân đội nhân
dân, Sài Gòn giải phóng, Hà Nội mới, Lao động, Tiền phong, Văn nghệ, v.v..
Bằng nhiều cách khác nhau báo chí đã thực hiện chức năng phản biện với
những bài viết ở nhiều thể loại khác nhau để phân tích, bình luận, đánh giá và
góp ý kiến với Đảng và Nhà nước. Đã có nhiều bài phản biện thể hiện quan
điểm, chính kiến không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau tạo ra trong xã
hội những áp lực từ nhiều phía. Mặt khác, qua các bài bình luận thời sự và
chuyên luận chính trị, hướng vào giải quyết các mối lo ngại trong cán bộ và
nhân dân, khẳng định khả năng đứng vững và phát triển đất nước theo định
hướng XHCN.
Bên cạnh đó, ở giai đoạn này, chính hệ thống báo chí Việt Nam đã chủ
động “'mở cửa”, phản biện một cách sắc sảo, đem lại một cái nhìn đa chiều
cho bạn đọc Việt Nam về những sự kiện trên thế giới. Nhờ phản biện nhiều
chiều có cơ sở khoa học và khách quan báo chí Việt Nam góp phần: Khẳng
định tính tất yếu lịch sử của CNXH và những thành tựu vĩ đại của hệ thống
XHCN trên thế giới; Khẳng định tính tất yếu khách quan và phương hướng
XHCN của quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới; Làm cho cán bộ và nhân dân ta
nhận rõ bản chất và con đường diệt vong tất yếu của CNTB, nâng cao cảnh
giác cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động
quốc tế, v.v..
Cho đến nay, sau gần 30 năm đổi mới, những vấn đề lý luận và thực
tiễn quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, như xây dựng
và hoàn thiện mô hình CNXH ở Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, phát
118
triển kinh tế tri thức, v.v. đến những vấn đề chính sách phát triển kinh tế - xã
hội cụ thể đều cần đến hoạt động PBXH của báo chí và thực tiễn báo chí cũng
đã và đang làm tốt vấn đề này.
b) Phản biện xã hội của báo chí ngày càng đóng góp tính cực vào việc
xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình
đổi mới
- PBXH của báo chí với việc xây dựng và hoàn thiện chủ trương, chính
sách nói chung:
Những thông tin từ phía bạn đọc đã được báo chí rất quan tâm sử dụng
làm tài liệu để phản biện. Ngoài việc trả lời bạn đọc, căn cứ trên các đơn thư
của bạn đọc, báo chí đã triển khai các bài viết, điều tra rất có giá trị, đáp ứng
được những nhu cầu bức xúc của nhân dân, trực tiếp đấu tranh chống lại các hiện
tượng tiêu cực, góp phần làm trong sạch xã hội, tạo lòng tin của người dân đối
với Đảng và chính quyền. Phản biện của báo chí ngày càng đa dạng, phong phú
hơn qua việc phổ biến và giải thích đường lối, quan điểm của Đảng, phản ánh
những hoạt động tích cực ở cơ sở, giới thiệu những kinh nghiệm sáng tạo của
quần chúng, góp phần làm cho các Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, mang
lại hiệu quả rõ rệt, nhất là trong công cuộc đổi mới kinh tế.
Báo chí đã phản biện những hạn chế, thiết sót hoặc không còn phù hợp
ở một số chính sách, của cơ chế quản lý kinh tế, chú trọng những thiếu sót do
cơ chế và tổ chức thực hiện; đề xuất những giải pháp. Những kiến nghị hợp
tình, hợp lý của nhân dân được phản ánh trên báo chí là một đóng góp đáng
kể quan trọng của phản biện báo chí, giúp Đảng và Nhà nước xây dựng, bổ
sung, hoàn chỉnh các chính sách, pháp luật.
- PBXH của báo chí với việc xây dựng và hoàn thiện chính sách phát
triển kinh tế:
Báo chí Việt Nam ngày càng tiếp cận với nền báo chí hiện đại về
PBXH. Báo chí đã phản biện nhiều chiều, đa dạng, phong phú hơn. Báo chí
119
đã thông tin nhằm góp phần hoàn thiện hơn một số chính sách; những kiến
nghị của nhân dân được tiếp thu, v.v..
Mỗi dự thảo chính sách là cơ hội cho các cây bút đưa tin, phân tích
phản biện. Qua ngòi bút các nhà báo với nhiều thể loại báo chí phân
tích sâu hơn về khía cạnh liên quan thì người dân hiểu sâu hơn và
cũng sẽ có nhiều ý kiến góp ý xây dựng, phản biện cho dự thảo
chính sách, khi đó báo chí đúng là diễn đàn của nhân dân trong xây
dựng chính sách [57].
Cụ thể hơn, có thể nêu:
- PBXH của báo chí với việc điều chỉnh chính sách đối với các tập
đoàn kinh tế nhà nước và kinh tế nhà nước: Đối với các vụ việc tiêu cực ở
Vinashin, Vinaline báo chí cũng đã tập trung phản biện về chính sách, pháp luật
đối với thành phần kinh tế nhà nước, đã có sơ hở, thiếu sót trong quản lý tài sản
và công tác cán bộ bị coi nhẹ, để các bị cáo lợi dụng chiếm đoạt tài sản của quốc
gia. Tất cả những bức xúc của người dân về chính sách, pháp luật là sự lạm
quyền, tha hóa về quyền lực mà người dân không có khả năng kiểm soát. Thông
qua những tác phẩm báo chí tạo sức mạnh từ dư luận, những vấn đề bức xúc về
chính sách, pháp luật đã được đưa đến Quốc hội để bàn thảo sửa đổi.
- PBXH của báo chí với việc điều chỉnh chính sách đất đai: Báo chí
tham gia phản biện các vấn đề đề phức tạp, nổi cộm, bức xúc như vụ cưỡng
chế đất đai tại Tiên Lãng (Hải Phòng), với hàng nghìn tin, bài của các nhà
khoa học, nhà quản lý và các chuyên gia và các nhà báo phản biện làm rõ
đúng, sai trong quyết định giao đất, thu hồi đất và nguyên nhân của nó đã làm
nóng dư luận một thời gian dài. Có thể nói đây là vụ án điển hình mà báo chí
đưa ra đó là chính sách, pháp luật và con người thực thi pháp luật có vấn đề,
cần được thảo luận để đánh giá và đưa ra quyết định sửa đổi chính sách, pháp
luật cho đúng. Việc thu hồi đất tại Văn Giang (Hưng Yên) cũng là một sự
kiện điển hình trong thu hồi đất đai, dân đến khiếu kiện đông người kéo dài,
120
rồi hành hung nhà báo đã làm bức xúc dư luận và hồi chuông cảnh báo cho
việc làm chính sách, pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước.
- PBXH của báo chí với việc điều chỉnh chính sách khai thác và sử
dụng tài nguyên: Nhiều PBXH của báo chí trên thực tế chứng tỏ có chất
lượng và hiệu quả cao, minh chứng rõ nhất là những diễn biến mới đây liên
quan đến Dự án Bô xít Tây Nguyên. Trong bài phỏng vấn “Xung quanh Dự
án Bô xít và cảng Kê Gà: Họ đã coi thường phản biện”, trên báo Pháp luật Tp
Hồ Chí Minh ngày 22/2/2013, đã phân tích đưa ra những chứng cứ xác thực
về sự cần thiết phải có phản biện trong đó có phản biên của báo chí xung
quanh dự án bô xít. Trong bài “Nên đặt lại vấn đề khai thác bô xít” tác giả cho
rằng, trước khi nghiên cứu phản biện về dự án này, chúng tôi thấy rằng việc
vận tải bô xít sẽ là một trong những bài toán kinh tế khó nhất của chủ đầu tư,
hầu như không có lời giải trong điều kiện hạ tầng hiện nay của nước ta, nếu
cố làm thì mức lỗ sẽ càng nặng hơn. Một dự án kinh tế mà công nghệ khai
thác cũng như tiêu thụ sản phẩm đều chủ yếu dựa vào Trung Quốc, nghĩa là
“bỏ tất cả trứng vào một giỏ” thì độ rủi ro rất cao, trên báo Tuổi trẻ ngày
23/2/2013. Bài “Dự án bô xít: Không hiệu quả thì nên dừng”, trên báo Người
lao động 22/3/2013, nêu rõ nhiều chuyên gia kinh tế, khai khoáng, trong đó có
cả của chính Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam đã khuyên nên dừng
toàn bộ Dự án càng sớm càng tốt. Bài “Kiến nghị về qui hoạch và các dự án
khai thác Bô xít ở Việt Nam - Boxitvn, 12/4/2009” [121], bài báo nêu rõ cách
đây gần 4 năm đã phản biện đề nghị dừng dự án, là một khởi đầu cho thời kỳ
mới. Đây là thời kỳ mà những nhà làm chính sách phải làm quen với không
khí dân chủ lắng nghe, tiếp thu học hỏi để rồi điều chỉnh chính sách. Sau khi
có PBXH và PBXH của báo chí, Chính phủ đã phải quyết định điều chỉnh các
dự án khai thác bô xít.
Năm 2012, loạt 3 bài Động đất ở Thủy điện sông Tranh 2 "Dư chấn
lòng dân" của Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam khu vực miền
121
Trung, được phát sóng đã được xã hội đón nhận bằng những nhìn nhận đúng
đắn hơn về thực trạng, trong đó có đời sống của nhân dân vùng đập. Tác
phẩm báo chí này đã đưa ra phản biện rất quan trọng là thủy điện không thể
đánh đổi mạng sống của người dân. Điều đó được Chính phủ ghi nhận với
quyết định dừng tích nước tại thủy điện sông Tranh vì tính mạng và đời sống
của người dân; yêu cầu các cơ quan có liên quan phải xem xét lại tác động
không chỉ của Thủy điện Sông Tranh 2, mà còn của các dự án thủy điện khác,
cũng như chính sách phát triển thủy điện.
- PBXH của báo chí với việc điều chỉnh chính sách xây dựng kết cấu hạtầng: Có nhiều dự án lớn, quyết định sinh tử cho đất nước và các thế hệtương lai, đã và đang được phản biện qua rất nhiều bài viết, kiến nghị thưngỏ, chờ đợi sự cầu thị từ các cấp có thẩm quyền, nổi bật phản biện củabáo chí về dự án Đường sắt cao tốc Bắc - Nam; đường Hồ Tây - Ba Vìđược đưa đến diễn đàn Quốc hội kết quả Quốc hội đã không thông qua. Saukhi có PBXH và PBXH của báo chí Chính phủ đã phải quyết định ngừngxây dựng cảng Kê Gà…
- PBXH của báo chí với việc điều chỉnh các chính sách xã hội:Năm 2013, chẳng hạn, với những tác phẩm báo chí nổi bật được trao
giải báo chí toàn quốc đã thể hiện tinh thần phản biện xã hội mạnh mẽnhư; Loạt 05 bài: Nhân bản kết quả xét nghiệm ở Bệnh viện đa khoa HoàiĐức - Báo Lao Động. Bằng trách nhiệm và lương tâm của người làm báo cácphóng viên đã không quản ngại khó khăn nguy hiểm để tìm hiểu thu thậpchứng cứ điều tra rõ nội dung và nguyên nhân của việc nhân bản kết quả xétnghiệm ở Bệnh viện đa khoa Hoài Đức. Tác phẩm báo chí được xuất bản đãtạo ra một áp lực mạnh mẽ trong toàn xã hội về y đức của thầy thuốc, nhiềuphản biện đã được đưa ra với nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này.Thông qua các phản biện khác nhau trong đó có phản biện của báo chí Bộ Ytế đã vào cuộc chấn chỉnh lại y đức và xử lý nghiêm những cá nhân vi phạmthiết lập lại trật tự y đức của toàn ngành, v.v..
122
Trong tháng 8-2012, quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tại Thông tư 33/2012/TT-BNNPTNT “thịt và phụ phẩm bảo quản
ở nhiệt độ bình thường chỉ được bày bán trong vòng 8 giờ kể từ khi giết mổ”,
báo chí tham gia phản biện, tạo DLXH quy định này bị phản đối kịch liệt vì
tính phi thực tế với điều kiện kinh doanh, sinh hoạt của người dân. Vì không
áp dụng nổi, nên ngày 30-8-2012, bộ này phải ký Quyết định số 2090/QĐ-
BNN-TY ngưng hiệu lực thi hành đối với Thông tư 33 nêu trên.
Quy định phạt 5 triệu đồng nếu sử dụng điện thoại ở cây xăng thu hút
sự chú ý của dư luận hồi đầu tháng 8-2012 (Theo Nghị định 52/2012/NĐ-CP
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa
cháy) không phải vì lệnh cấm nghiêm ngặt mà vì họ băn khoăn liệu việc triển
khai phạt sẽ như thế nào. Sau khi báo chí phản biện các cơ quan chức năng đã
thừa nhận tính khả thi của việc xử phạt không cao và cho rằng chỉ “để giáo
dục ý thức, phòng ngừa vi phạm và giải pháp trước mắt vẫn tuyên truyền là
chủ yếu”.
Nếu không có sự phản biện của báo chí thì vừa qua những người có
hoàn cảnh éo le, không có cha mẹ đã phải kê khai tên cha, mẹ mình ngay trên
chứng minh nhân dân theo quy định gần đây của Bộ Công an; người đội mũ
bảo hiểm kém chất lượng đã bị “đè” ra phạt theo sáng kiến của bốn bộ Khoa
học và Công nghệ - Giao thông Vận tải - Công thương - Công an; người phát
hiện tiêu cực thi cử không được khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.v.v..
- PBXH của báo chí với việc điều chỉnh các chính sách cán bộ:
Loạt bài: Phải cắt giảm đám “vác ô” càng sớm càng tốt - Báo Lao
Động. Đây loạt bài có tính phản biện cao tác động đến công tác cán bộ được
dư luận đặc biệt quan tâm, bởi lâu nay người ta đều ước mơ vào công chức và
rồi tâm lý phải vào bằng được đã làm cho xã hội thêm áp lực và phiền toái,
nhũng nhiễu. Cứ là công chức thì yên tâm rồi không phải lo nghĩ gì, “bình
123
chân như vại” mà mọi người phải kính nể và xã hội kính trọng. Điều này đã
được cử tri bức xúc và tại diễn đàn Quốc hội, Bộ Trưởng Bộ Nội vụ đã có
cuộc giải trình trong đó đánh giá cán bộ công chức không đúng thực chất
“sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”, báo nhiêu phần trăm không làm được việc,
v.v. và thực sự đây là lỗ hổng trong đánh giá và quản lý cán bộ, công chức
của Chính phủ, v.v..
3.2.1.3. Phản biện xã hội của báo chí ngày càng khách quan, khoa
học và dân chủThông qua PBXH của báo chí các tổ chức trong HTCT, Hội nghề
nghiệp, các chuyên gia, nhà khoa học, quản lý lãnh đạo, v.v. thực hiện quyền
của mình tham gia, trao đổi, bình luận, phản hồi ý kiến, góp ý cho Đảng và
Nhà nước về đường lối, chủ trương, chính sách. Hàng triệu ý kiến chân thành,
thẳng thắn, xây dựng và đầy tinh thần trách nhiệm tham gia góp ý kiến trình
bầy nguyện vọng của nhân dân với Đảng và Nhà nước, thực hiện quyền kiểm
soát quyền lực. Báo chí đã thực hiện các phản biện có chủ đề lớn như Dự thảo
văn kiện Đại hội Đảng; các Dự thảo Hiến pháp, các dự án luật và các văn bản
dưới luật, v.v. đây thực sự là ngày hội chính trị của các tầng lớp nhân dân
nhằm phát huy vai trò tốt nhất quyền tự do, dân chủ của mình.
Báo chí đã phản biện, dân chủ thảo luận đề xuất sáng kiến, đưa ra
những kiến nghị, giải pháp cho hoạt động quản lý, lãnh đạo hiệu quả hơn. Báo
chí đã tạo nhiều diễn đàn giao lưu, trao đổi về nhiều vấn đề của cuộc sống
không phân biệt thành phần, giai cấp mỗi người tự lựa chọn cho mình một
diễn đàn phù hợp. Nhiều vấn đề bức xúc của người dân không được giải
quyết, không được bảo vệ thông qua phản biện của báo chí người dân có được
kết quả mong muốn, như những vụ án oan sai báo chí đã đứng ra bảo vệ, bênh
vực. Phản biện của báo chí đã góp phần đưa ra ánh sáng nhiều vụ việc vi
phạm quyền của người dân và thông qua báo chí nhân dân tố cáo những hành
vi tham nhũng, xâm hại đến lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia. Tính
124
dân chủ mà báo chí mang lại còn thể hiện ở chỗ, nó là diễn đàn để nhân dân
bày tỏ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước muốn với những nhà lãnh đạo.
Tạp chí Cộng sản thường xuyên phân tích một cách khoa học nhữngquan điểm của Lênin về CNXH, vận dụng những nguyên lý cơ bản, nhất làphép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích tình hìnhthực tế nước ta một cách sâu sắc, từ đó làm sáng tỏ tính đặc thù của cuộc cáchmạng XHCN và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. Nội dung tập trungvào các vấn đề: đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, cán bộ, phong cách và đổimới cơ chế quản lý trong kinh tế dân chủ hóa, xây dựng Đảng, xây dựng nềnvăn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời phê phán nhữngquan điểm ấu trĩ, sai lệch về chủ nghĩa xã hội. Tạp chí Cộng sản đi tiên phongđấu tranh cho sự đổi mới tư duy theo tinh thần đổi mới, kiên quyết chống bảothủ, trì trệ, biểu hiện của khuôn sáo, đồng thời đấu tranh chống chủ nghĩa duy ýchí, chống mọi biểu hiện của nóng vội, chủ quan. Tạp chí, tạo nên một không khícởi mở, tự do tư tưởng, dân chủ thảo luận trên tạp chí, dám nhìn thẳng vào sựthật, mạnh dạn phân tích, góp phần tích cực vào việc làm sáng tỏ đường lối vàcác quan điểm của Đảng. Chuyển tải kịp thời đến bạn đọc những thông tin lýluận cần thiết, những quan điểm, đường lối của Đảng, tăng thêm những bàinghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giới thiệu những nhân tố mới, những điểnhình tiên tiến cùng nhiều nội dung khác theo chức năng của tạp chí.
Thông qua mục ý kiến bạn đọc, giao lưu trực tuyến trên mạng Intenet,báo điện tử, v.v. hàng triệu ý kiến của đồng bào không chỉ trong nước mà cảngười Việt Nam ở nước ngoài tham gia trao đổi đối thoại về những vấn đềbức xúc, nhậy cảm của cuộc sống; phương thức ở đây không chỉ gián tiếp màcòn trực tiếp trao đổi với các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.Chẳng hạn, giao lưu trực tuyến của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ vớiđồng bào trong và ngoài nước những năm qua tạo ra hiệu quả rõ rệt. Thôngqua giao lưu trực tuyến, lãnh đạo hiểu được người dân và ngược lại nhữngthông tin ấy góp phần quan trọng vào việc củng cố hoàn thiện nền dân chủ
125
XHCN. Các nhà lãnh đạo, quản lý cũng không thể bưng bít được những sai lầmkhuyết điểm của mình, bởi nhân dân thực hiện được quyền rất quan trọng củamình là kiểm soát được quyền lực của mình qua báo chí. Quyền dân chủ củangười dân còn được thể hiện qua sinh hoạt của Quốc hội, báo chí đã đăng tải,truyền hình trực tiếp phiên chất vấn Đại biểu Quốc hội, thành viên của Chínhphủ. Thông qua các phiên thảo luận báo chí làm rõ nghĩa vụ và trách nhiệm củađại biểu với tư cách đại diện cho quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân.
Thông qua chức năng phản biện của mình, báo chí đã làm tốt nhiệm vụ
diễn đàn nhân dân. Chẳng hạn, các điểm nóng chính trị - xã hội ở Tây Nguyên
những năm 2001 và 2004, ở Mường Nhé (Điện Biên) năm 2011; một số điểm
nóng về tôn giáo những năm trước đây ở Huế, Quảng Bình, Nghệ An, Hà Nội;
những vụ lợi dụng dân chủ, nhân quyền, v.v.. Báo chí đã tổ chức các bài bình
luận, phóng sự, phản biện đưa ra những bằng chứng, chứng cứ hình ảnh người
thật, việc thật, để vạch trần bộ mặt thật của kẻ địch và khẳng định đây là hành vi
dụ dỗ lừa đảo người dân nhẹ dạ và hậu quả những người theo chúng đã gặp vô
cùng khó khăn trong cuộc sống. Hay như báo chí đã tổ chức cho nhân dân tham
gia thảo luận góp ý kiến vào việc sửa đổi Hiến pháp 1992 với hàng triệu ý kiến, có
phân tích đánh giá, bình luận sâu sắc, đây có thể coi là đợt sinh hoạt chính trị sâu
sắc trong đời sống của người dân thể hiện mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Hơn nữa, thông qua quá trình phản biện các chính sách đó, báo chí đã ngày
càng trưởng thành cả về trình độ chuyên môn, phương pháp, cách thức làm báo,
trong đó nổi bật là kinh nghiệm, bản lĩnh nghề nghiệp phản biện của nhà báo.
3.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chức năng phản biện xã
hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
3.2.1.1. Nhận thức về chức năng phản biện xã hội của báo chí chưa
đúng đắn và đầy đủNhận thức của các cơ quan chức năng về PBXH của báo chí chưa đầy
đủ, coi phản biện xã hội là vấn đề nghiêm trọng, dẫn đến ngại phản biện,
126
không giám phản biện và thậm trí là né tránh phản biện, coi phản biện là
“phản bác”, “bài bác” “bác bỏ nhau”. Trong hoạt động báo chí thiếu quan tâm
đến phản biện của báo chí, trong chỉ đạo báo chí thường bằng mệnh lệnh “trên
nói sao dưới viết vậy”, không được nói khác. Quan niệm báo chí chỉ là cơ
quan truyền đạt đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
một chiều từ trên xuống dưới, không thông tin trái chiều.
Chủ thể tiếp nhận phản biện của báo chí nhận thức chưa đầy đủ về chức
năng PBXH của báo chí, chưa quan tâm coi trọng phản biện, ngại phản biện
thậm chí không muốn phản biện. Tâm lý cho rằng phản biện là tìm ra những
cái sai, hạn chế, thiếu sót của người này hay người khác và coi đó là đụng
chạm, “soi mói”, “vạch lá tìm sâu” cho nên im lặng là “vàng”. Không được
phản biện những vấn đề gay cấn, mà cơ quan chức năng cho là “nhạy cảm” tất
cả những hạn chế đó đã làm cho phản biện của báo chí mất đi sức sống.
Xã hội còn nhiều ý kiến khác nhau về PBXH của báo chí có một số tổ
chức, cá nhân cho rằng chưa đủ điều kiện để báo chí phản biện, như cơ chế
chính sách, tự do dân chủ, trình độ của chủ thể phản biện, v.v. Số khác thì cho
rằng đây là thời cơ để tốt để báo chí thực hiện phản biện của báo chí do toàn
cầu hóa thông tin, công cuộc đổi mới của Đảng đang đi vào chiều sâu rất cần
phản biện, v.v..
3.2.1.2. Năng lực của các cơ quan lãnh đạo và quản lý báo chí còn
hạn chếTrong định hướng chính trị, cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí chưa
quan tâm coi trọng đúng mức đến hoạt động PBXH, nếu có thì cũng chưa đi
đến cùng sự việc; chỉ đạo sâu, quá cụ thể về hoạt động báo chí, như đưa tin sự
kiện này nhiều sự kiện kia ít, hình thức mức độ các sự kiện có giới hạn nhất
định việc này đưa tin đậm, việc kia dừng vì rất nhiều lý do khác nhau. Trong
hoạt động phản biện của báo chí còn biểu hiện chệch hướng chính trị làm cho
xã hội hoài nghi về chính sách; chạy theo lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm làm
127
tổn hại đến lợi ích quốc gia. Phản biện của báo chí còn chủ quan, thiếu cơ sở
khoa học “theo tin đồn” đã dẫn đến hậu quả không tốt cho chính trị và kinh tế,
xã hội. Tình trạng nói nhiều, làm ít và ngược lại, hay không nói gì làm cho
báo chí khó khăn trong hoạt động phản biện. Trong khi đó báo chí hoạt động
chịu sự điều chỉnh của Luật, Nghị định và hướng dẫn cũng như Qui tắc đạo
đức nghề báo, mọi sai sót của báo chí các cơ quan chức năng đều có thể sử
phạt nghiêm minh theo pháp luật.
Khi đánh giá về những hạn chế của báo chí, Chỉ thị 08-CT/TW của Ban
Bí thư (khóa VII) đã chỉ rõ:
Thông tin chưa đa dạng, tính chiến đấu chưa cao, chưa phản ánh tốt
thực tiễn Việt Nam; thiếu những bài điều tra, phóng sự, nghị luận có
giá trị phát hiện vấn đề và định hướng dư luận; có những thông tin
quốc tế thiếu chọn lọc; vẫn có những biểu hiện thương mại hóa, có
một số biểu hiện chệch hướng. Trong đấu tranh chống tiêu cực còn
có những vụ việc đưa không chính xác, đưa sai nhưng không đính
chính, gây khó khăn cho việc giải quyết [9, tr.257 - 258].
Đặc biệt, Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 08-CT/TW của Ban
Bí thư (khóa VII), chỉ ra một số khuyết điểm, yếu kém như:
Khuynh hướng thương mại hóa với nhiều biểu hiện khác nhau, coi
nhẹ chức năng phản biện xã hội và chức năng giáo dục, chạy theo
thị hiếu tầm thường của một bộ phận độc giả, thính giả, khán giả,
chất lượng chính trị, văn hóa, khoa học giảm sút; đạo đức một số
nhà báo xuống cấp khá nghiêm trọng. Báo chí chưa mạnh dạn khẳng
định những cái mới, cái đúng dù nó chỉ là mầm mống, chưa giám
đoạn tuyệt với những cái cũ đã lỗi thời, lạc hậu, thông tin chưa có
tính chuyên đề, chuyên sâu. Tính chiến đấu trên các phương tiện
thông tin đại chúng nhìn chung chưa cao, v.v. [9].
Chỉ thị 22-CT/TW ngày 17/10/1997 nêu:
128
Một bộ phận báo chí, xuất bản bị khuynh hướng thương mại hóa và
cơ chế thị trường chi phối, chạy theo thị hiếu tầm thường, đăng tải
những chuyện giật gân, tình dục, mê tín dị đoan hoặc những chuyện
vụn vặt. Coi nhẹ việc biểu dương, cổ vũ người tốt, việc tốt, nhân tố
mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có những trường
hợp phủ nhận truyền thống và thành tựu cách mạng, xa rời định
hướng XHCN [25, tr.9-10].
Mặc dù nghị quyết của Đảng có đề cập đến PBXH của báo chí, nhưng
chưa được cụ thể hóa bằng các văn bản luật (Luật, hay Pháp lệnh) của nhà
nước cho hoạt động PBXH của báo chí. Đây là khó khăn lớn nhất cho PBXH
của báo chí, do đó hoạt động PBXH của báo chí đến nay cơ bản mang tính tự
phát, dẫn đến chất lượng và hiệu quả thấp.
3.2.1.3. Năng lực của các cơ quan báo chí và nhà báo còn hạn chếa) Năng lực của các cơ quan báo chí
Lãnh đạo của nhiều cơ quan quản lý và cơ quan báo chí chưa nhận thức
đầy đủ về phản biện xã hội của báo chí, đạo đức nghề nghiệp chưa được đề
cao, có phóng viên vi phạm pháp luật. Một số cơ quan báo chí đã không định
hướng nhiệm vụ PBXH cho báo chí, có hiện tượng người viết thiếu bản lĩnh
chính trị, khi viết không xác định rõ viết cho ai, viết làm gì và viết để phục vụ
ai. Trên một số tờ báo có nhiều tác phẩm chất lượng văn hóa thấp, không
hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ. Ví dụ điển hình, đầu năm
2007 cả nước xôn xao vì báo Bảo vệ Pháp luật đăng loạt bài dài kỳ với tít
“Thánh vật sông Tô Lịch”, “Hàng chục quầy báo đã “cháy” hàng và phải đi
photocoopy để bán. Không ít cửa hàng báo, tạp chí chăng biển to “Có bán loạt
bài thánh vật sông Tô Lịch”. Dư luận hoang mang. Đáng tiếc, thông tin sai
lệch này được phát đi từ nhận thức chưa đúng của không phải một cá nhân
nhà báo mà là của một tập thể tờ báo” [70, tr.27]. Ở đây, thấy rõ là quá trình
thực hiện một loạt bài đã không có sự xác minh, kiểm chứng các thông tin
129
xem độ xác thực của thông tin đến đâu, đặc biệt sự phản biện của các chuyên
gia và nhà khoa học trên báo chí.
Hiện tượng “cửa quyền” ở nhiều cơ quan báo chí không thực hiện đúng
luật pháp về báo chí, hạ thấp vai trò phản biện của báo chí, viết sai không
đính chính hoặc đính chính lấy lệ, nhận khuyết điểm không đúng mức; có
trường hợp lộ bí mật Nhà nước hoặc đưa công khai quá sớm khi vụ việc đang
trong giai đoạn điều tra, xem xét. Có tờ báo vì động cơ không chính đáng,
không trong sáng tìm cách thu hút dư luận vào những vấn đề làm hạ uy tín
của cá nhân hay tập thể. Trong một số bài tranh luận, phê phán, có những lời
lẽ cay cú, quá tả, truy chụp thiếu văn hoá, không có lợi cho đoàn kết nội bộ.
Những vấn đề hết sức bức xúc, nhạy cảm báo chí đã phản biện một cách thiếu
thuyết phục, không giúp cho sự việc giảm nhiệt mà còn thổi phồng, kích
động, làm cho tình hình nóng lên, dư luận bức xúc. Đây là những nội dung
tiêu cực, thiếu tính xây dựng đi ngược lại với quan niệm phản biện của báo
chí cách mạng, những khuyết điểm, thiếu sót chậm được khắc phục và có
phần nghiêm trọng; trong khi những khuyết điểm, thiếu sót trước chưa được
khắc phục thì lại phát sinh một số khuyết điểm, thiếu sót mới. Một số cơ quan
báo chí còn để tư nhân, kể cả tư nhân nước ngoài thao túng trong lựa chọn đề
tài, chủ đề tuyên truyền, v.v..
b) Đạo đức và năng lực của nhà báo trong việc thực hiện chức năng
phản biện của báo chí
Đối với không ít nhà báo, khi nói đến chức năng phản biện còn mơ hồ,
lúng túng trong tác nhiệp; còn xuất hiện bệnh “ngôi sao”, tự thỏa mãn đã xuất
hiện ở một số nhà báo, nhất là trong lớp nhà báo trẻ. Đã có không ít nhà báo
vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm Luật pháp. Một số nhà báo điều tra
không kỹ, thậm chí do động cơ cá nhân nên viết sai lệch, thổi phồng nhiều mô
hình "giả" làm cho xã hội bị nhiễu thông tin. Nhiều nhà báo vì lợi ích bản
thân, viết theo đơn đặt hàng, nên viết ca ngợi thành tích không đúng với một
130
số đơn vị, cá nhân. Sự bao cấp báo chí đã làm hạn chế sự phát triển của báo
chí. Bạn đọc thờ ơ vì sự khô khan, không có tính chiến đấu, tính phản biện,
những vấn đề đó làm cho báo chí trong giai đoạn này hoạt động không hiệu
quả, vì thế đòi hỏi nhà báo phải có một sự đổi mới thật sự.
Trong phản biện đấu tranh chống suy thoái, tha hóa quyền lực của một
bộ phận cán bộ, đảng viên nhất là đảng viên có chức có quyền của một số nhà
báo chưa cao, chưa hình thành được chủ đề và những tuyến bài phản biện,
chưa bám sát được thực tiễn của cuộc sống xã hội. Chất lượng khoa học trên
báo chí chưa cao thể hiện ở một số bài viết phản biện chuyên ngành, đòi hỏi
phải có vốn kiến thức sâu rộng về ngành đó, nhưng khi đề cập đến vấn đề này,
một phần do nhà báo thiếu hiểu biết và có thể do không đi sâu vào nghiên cứu
điều tra, thiếu khách quan, trung thực, nên đôi khi chất lượng phản biện hiệu
quả không cao và có thể dẫn đến sai lầm.
c) Khả năng phối hợp tổ chức phản biện xã hội của báo chí
Sự phối hợp giữa cơ quan báo chí và cơ quan quyền lực trong việc soạn
thảo chính sách chưa tốt, thậm trí không muốn phối hợp vì họ cho rằng phản
biện của báo chí sẽ làm mất uy tín của họ. Cho lên việc đưa ra xin ý kiến về
các dự thảo chính sách chỉ là hình thức cho nó có, phải phép mà thôi. Theo tác
giả Nguyễn Văn Hiếu tại Hội thảo “Cơ quan xây dựng chính sách mong đợi
gì ở báo chí xung quanh việc triển khai lấy ý kiến của nhân dân” ngày 27/2
/2013 cho biết:
Thực tế soạn thảo văn bản thời gian qua cho thấy báo chí chưa phải
là hình thức phổ biến và chủ động trong việc lấy ý kiến của nhân
góp ý cho các dự thảo chính sách. Bản thân cơ quan chủ trì soạn
thảo cũng như cơ quan báo chí cũng chưa chủ động trong việc này.
Thời gian qua chỉ có một số văn bản có tính chất quan trọng và ảnh
hưởng đến toàn bộ hoặc phần lớn người dân thì cơ quan chủ trì soạn
thảo mới có kế hoạch thông qua báo chí là một kênh lấy ý kiến nhân
131
dân, như góp ý vào dự thảo văn kiện Đại hội XI của Đảng, sửa đổi
Hiến pháp năm 1992... Cơ quan báo chí với tôn chỉ mục đích của
mình cũng đã có những bài viết, phân tích đánh giá, bình luận phản
biện về dự thảo chính sách song phần nhiều là cơ quan chủ quản là
cơ quan chủ trì soạn thảo cũng có những bài phân tích về một khía
cạnh nào đó nhưng mang tính đơn lẻ và không có kế hoạch dài hạn
cho việc lấy ý kiến phản biện của nhân dân [57].
Một số tờ báo có hiện tượng thờ ơ trước các sự kiện chính trị - xã hộiquan trọng của đất nước, của ngành mình, địa phương mình, v.v.. Báo chíchưa tích cực chủ động phối kết hợp với hệ thống PBXH, nhất là phản biện xãhội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đội ngũ trí thức có vai trò đặc biệt to lớn trong PBXH của báo chí, sứcmạnh phản biện của báo chí chính là khơi nguồn cảm xúc các nhà khoa học,chuyên gia. Tuy nhiên, vai trò đó chưa được báo chí xác định, do vậy việc tổchức và tập hợp để thực hiện phản biện gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó cơchế phối hợp trong hệ thống phản biện cùng các cơ quan quyền lực chưa rõ ràng.
Từ những hạn chế trên cho thấy báo chí chưa thật sự coi trọng đến hoạtđộng PBXH mà chỉ tập trung vào những vấn đề có thu nhập, đem lại lợi íchcho một bộ phận cá nhân mà quên đi lợi ích cộng đồng. Thực chất của vấn đềyếu kém, hạn chế PBXH của báo chí chính là các cơ quan chức năng chưaquan tâm coi trọng xây dựng Luật phản biện của báo chí.
Do hạn chế về nhận thức hoạt động PBXH của báo chí nên tổ chức hoạtđộng của báo chí đối với PBXH gặp nhiều khó khăn. Các cơ quan báo chíthường không quan tâm đến hoạt động PBXH của báo chí mà cho rằng cứ cótác phẩm về tình hình chính trị, kinh tế xã hội là được. Chưa quan tâm đến tổchức hoạt động PBXH của báo chí ra sao, cần phải làm gì và làm thế nào. Cáctuyến bài về các chủ đề lớn chưa tổ chức các lực lượng tham gia phản biện,như tuyến bài của nhà báo phải làm thế nào; tuyến bài của các chuyên gia,nhà khoa học lấy ở đâu và mức độ của các bài đó là gì.
132
Tính hiệu ứng, hiệu quả PBXH của báo chí chưa đáp ứng yêu cầu, chưa
kịp thời, thể hiện thái độ và trách nhiệm tiếp nhận của các cơ quan chính sách
còn hạn chế. Sự tiếp thu PBXH của báo chí từ phía các cơ quan chính sách
chưa cao, từ đó chất lượng của hoạt động chính sách với nghĩa rộng (bao gồm
cả việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước).
Những hạn chế trên là những vấn đề bức xúc không những của báo chí
mà cả xã hội đều quan tâm. Việc khắc phục những hạn chế đó chính là tạo
điều kiện tốt nhất cho báo chí thực hiện chức năng PBXH, đồng thời cùng với
người dân tham gia vào kiểm soát quyền lực có hiệu quả nhất.
3.2.3. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
3.2.3.1. Nâng cao năng lực phản biện xã hội của báo chí hiện nayCông cuộc đổi mới đất nước ngày càng khó khăn, phức tạp đặt ra yêu
cầu và nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện chủ trương và đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước ngày lớn; sự nghiệp xây dựng và hoàn
thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế; đổi mới và hoàn thiện HTCT, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, v.v. đang ngày
càng đặt ra những yêu cầu, nội dung và chất lượng mới của PBXH của báo
chí nước ta.
Hiện nay nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, dân chủ
ngày càng được phát huy, vấn đề phản biện xã hội là nội dung rất được mọi
người quan tâm. Nghị quyết Trunng ương năm (khoá X) “Về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị” chỉ rõ:
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với HTCT mà trọng
tâm là đối với nhà nước còn chậm và lúng túng. Vẫn còn tình trạng
cấp uỷ bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt
133
động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực…Chưa thực sự coi
trọng đổi mối phong cách, lề lối làm việc; tình trạng họp hành nhiều,
ban hành nhiều nghị quyết, nhưng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực
hiện yếu, nói chưa đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, né tránh đùn đẩy
trách nhiệm, thiếu gương mẫu còn diễn ra ở nhiều nơi [44].
Những vấn đề đó đặt ra cho báo chí một thách thức mới, đó là báo chí
có dám phản biện không, mức độ mà báo chí phản biện là gì, đến đâu? do nội
dung của những vấn đề này được cho là nhạy cảm.
Nghị quyết lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), về
một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay nêu rõ; công tác xây dựng
Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết
điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với Đảng. Biểu hiện sự suy thoái, tha hóa về quyền lực
chính trị ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá
nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục
bộ, tham nhũng. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế
ở nhiều nơi rơi vào hình thức, có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ
trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình,
tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ,
hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI của Đảng cảnh báo, đó là những
yếu kém khuyết điểm trên nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối
QLCT và QLNN, với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Nguy cơ suy thoái, quan liêu, lộng quyền, lạm quyền là thực tế rõ ràng cần
phải được chấn chỉnh, trước hết phải tự kiểm điểm, đấu tranh phê và tự phê
nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực từ bên trong mỗi cá nhân và tổ chức bộ
134
máy cơ quan quyền lực. Nhân dân tham gia vào việc kiểm soát quyền lực thông
qua báo chí, bằng sức mạnh phản biện của báo chí làm cho cán bộ, đảng viên và
tổ chức bộ máy có sự chuyển biến trong nhận thức và hành động.
Với chức năng PBXH, báo chí cần phải nâng cao trình độ năng lực
phản biện nhằm đưa đường lối của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước
vào cuộc sống, đáp ứng niềm mong đợi của toàn Đảng, toàn dân.
3.2.3.2. Tính kịp thời và nhạy bén của phản biện xã hội của báo chi
hiện nayTrong hoàn cảnh toàn cầu hóa hiện nay, báo chí cũng bị tác động bởi xã
hội thông tin bùng nổ đa dạng nhiều chiều. Khoa học - công nghệ đặc biệt là
công nghệ thông tin phát triển với tốc độ chóng mặt theo hướng vừa là thuận
lợi vừa là thách thức đối với hoạt động báo chí. Cạnh tranh thông tin diễn ra
quyết liệt, thông tin không còn là độc quyền của bất cứ tổ chức, cá nhân nào
kể cả thông tin quốc tế. Công nghệ làm báo ngày nay không nằm ngoài quá
trình đó, phương thức thông tin cũng rất hiện đại và phong phú (phát qua vệ
tinh, truyền qua mạng internet, qua các kênh phát thanh, truyền hình). Độc giả
hiện nay đòi hỏi thông tin nhanh nhất, mới nhất, ngắn nhất, sôi động nhất.
Vậy nên, tính đối tượng thời gian và cập nhật thông tin trở thành một thách
thức lớn đòi hỏi chất lượng nội dung, hình thức thể hịên phải luôn mới. Sự
xâm nhập mạnh mẽ báo chí của nước ngoài vào Việt Nam, trong đó có cả
chương trình tiếng Việt với hơn 40 Đài Phát thanh trên thế giới có chương
trình tiếng Việt, chưa kể báo in, báo điện tử.v.v..
Cạnh tranh thông tin hiện nay diễn ra hết sức sôi động, quyết liệt và
liên tục nhằm mục đích là phản ánh đời sống nhanh nhất thoả mãn nhu cầu
thông tin ngày càng cao của mọi tầng lớp. Thông tin nhiều chiều đã và đang
đi vào đời sống một cách tự nguyện hay nói cách khác nó là món ăn tinh thần
không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của công dân trong một xã hội
dân chủ. Trước tình hình đó đặt ra yêu cầu thông tin PBXH của báo chí cũng
135
cần đổi mới đó là bám sát các hoạt động chính trị của cơ quan quyền lực tập
trung vào chính sách, pháp luật bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân
dân. Thông tin phản biện của báo chí phải đảm bảo tính chính trị tạo điều kiện
tốt nhất cho việc tập hợp các lực lượng, tầng lớp khác nhau tham gia phản
biện. Tính hình ấy làm cho yêu cầu nâng cao tính kịp thời và nhạy bén của
PBXH của báo chí hiện nay trở nên cấp thiết.
3.2.1.3. Cơ sở xã hội và pháp lý của phản biện xã hội của báo chí
hiện nayPBXH của báo chí và chức năng PBXH phản biện xã hội của báo chí
hiện nay ở nước ta chưa được quy định trong các văn bản pháp luật. Báo chí
tham gia phản biện còn hạn chế, nhiều vấn đề của cuộc sống đặt ra chưa được
chủ động tích cực xem xét, xác minh, phân tích, đánh giá nhằm phản biện một
cách khách quan, khoa học về các sự kiện. Một vấn đề thực tiễn hiện nay đặt
ra cho báo chí là làm sao phản biện một cách tốt các dự thảo chính sách và
vấn đề ở đây là:
cơ chế phản hồi, tiếp thu ý kiến của nhân dân góp ý vào dự thảo
chính sách qua báo chí khác với các hình thức khác vì báo chí có thể
đăng ý kiến góp ý, cũng có thể phân tích với các thể loại báo chí
khác nhau...cơ quan chủ trì soạn thảo chỉ căn cứ vào nội dung báo
nêu để xem xét chỉnh sửa, hoàn chỉnh dự thảo, việc này cần làm rõ...
Cơ quan chủ trì soạn thảo trong quá trình soạn thảo chính sách tùy
theo tính chất của văn bản để coi báo chí là kênh thông tin để lấy ý
kiến góp ý của nhân dân, có kế hoạch và bố chí việc này. Cơ quan
báo chí cần chủ động và phối hợp với các cơ quan chủ trì soạn thảo
chính sách để thực hiện việc lấy ý kiến phản biện của nhân dân. Tùy
theo hoạt động của cơ quan báo chí để bố chí thời lượng, diện tích
hợp lý và coi dự thảo chính sách là các đề tài khai thác thường
xuyên. Cần có cơ chế phản hồi, tiếp thu ý kiến của nhân dân góp ý
136
phản biện vào dự thảo các chính sách qua báo chí có các thể khác
nhau [57].
Từ những bức xúc ấy, báo chí phải lên tiếng, vào cuộc đi sâu tìm hiểu,
nhằm phản biện tốt nhất giúp người dân giải toả những bức xúc và cũng là
góp ý kiến cho Đảng và Nhà nước, sửa đổi bổ xung đường lối, luật pháp và
những quyết sách đáp ứng ngày càng tốt hơn về nhu cầu và lợi ích của người
dân. Báo chí phải có nhiều bài chuyên sâu phản biện một cách tích cực các
quyết sách của Đảng và Nhà nước. Phản biện của báo chí ở đây cũng chính là
quá trình tham gia vào tổng kết thực tiễn, phát hiện và cổ vũ những nhân tố
mới, làm cho những cái mới xuất hiện và phát triển hợp qui luật, góp phần
đẩy lùi những cái cũ lạc hậu. Trước những yêu cầu tình hình mới hiện nay,
đổi mới báo chí là yêu cầu khách quan và trong đó có phản biện của báo chí
phải được đề cập và được thể hiện trong luật pháp.
Từ tình hình trên cho thấy, cần phải có một bộ Luật và một cơ chế phản
biện ngày càng rõ ràng và chặt chẽ. Chỉ có như vậy, chức năng PBXH của
báo chí mới được bảo đảm, được phát huy và chỉ như vậy báo chí mới góp
phần giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội bức xúc hiện
nay, góp phần vào thúc đẩy đất nước phát triển.
Tiểu kết chương 3
Trước những yêu cầu do sự nghiệp đổi mới đặt ra đối với việc thực
hiện chức năng PBXH của báo chí, báo chí nước ta đã đạt được những thành
tựu bước đầu, có ý nghĩa về chức năng PBXH; từ chỗ chỉ nói theo một chiều
đã phát triển đến chỗ thông tin hai chiều, phản hồi, phản biện đã được đề cao.
Trong PBXH của báo chí bằng những bài viết sắc sảo, bình luận, điều tra có
cơ sở của nhà báo, các nhà khoa học, chuyên gia đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề
“nóng”, bức xúc của cuộc sống. Những phản biện đó đã tạo cơ sở tiền đề giúp
cho Đảng và Nhà nước ta hình thành đường lối đổi mới, ban hành các chính
137
sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn. Những đóng góp của chức năng PBXH
của báo chí đã và đang đóng góp to lớn vào thành quả chung của đất nước sau
gần 30 năm đổi mới.
Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện
chức năng PBXH của báo chí ở nước ta. Hơn nữa những khó khăn, thách thức
trong việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí nước ta hiện nay và những
năm tới rất lớn. Việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí nước ta thời
gian tới, do công cuộc đổi mới của đất nước đặt ra, cần phải tiếp tục bổ sung,
phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân. Rất cần những quan điểm đúng đắn và giải pháp phù hợp,
khả thi để nâng cao chất lượng và hiệu quả chức năng PBXH của báo chí
nước ta.
138
Chương 4
NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay phải dựa trên cơ sở nhận
thức đúng đắn định hướng chính trị, tính đảng, tính chiến đấu và tính
nhân dân trong thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
4.1.1.1. Việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí cần
bảo đảm định hướng chính trị và tính đảngPBXH là một khái niệm chính trị, thể hiện đặc trưng của dân chủ trong
đời sống xã hội. Chức năng PBXH của báo chí góp phần điều chỉnh các vấn
đề kinh tế, văn hoá, chính trị, làm cho các khuynh hướng đó trở nên khoa học,
đúng đắn và gần gũi với đời sống con người hơn.
Đối với báo chí cách mạng, luôn phải có định hướng chính trị thông
qua tôn chỉ, mục đích của tờ báo, theo Hồ Chí Minh báo chí phải “lấy chính
trị làm chủ”. Do đó khi viết báo cần phải xác định là viết về cái gì, viết cho ai,
viết để làm gì? Đây là cách hiểu rất mới và rất sâu sắc so với cách hiểu truyền
thống về “chính trị” của báo chí cách mạng. Khi viết bài báo có chức năng
phản biện phải quán triệt tính đảng, phản biện vấn đề gì với mục đích gì, căn
cứ cơ sở nào, có lợi cho ai?
Tính đảng ở đây thể hiện PBXH của báo chí phải đúng quan điểm của
Đảng, trên lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong
quá trình phản biện phải trả lời cho được câu hỏi là chủ trương, chính sách
139
của Đảng và pháp luật của Nhà nước có phục vụ lợi ích của nhân dân không?
Để thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước phải được
cụ thể hoá bằng những việc làm cụ thể, thiết thực qua các chương trình, các
dự án, đề án, v.v.. Quá trình này được PBXH của báo chí tìm hiểu, nghiên
cứu, phân tích, thẩm định về tính khả thi, tính toán các mặt lợi, hại làm sao mang
lại hiệu quả thực sự có ích cho xã hội, giải quyết và đáp ứng được nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân. Chức năng PBXH của báo chí phải đứng trên lập
trường giai cấp công nhân của Đảng, đại diện cho quyền lợi, lợi ích của nhân
dân, của đất nước. Phản biện của báo chí phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
không có sự lãnh đạo của Đảng hiệu quả phản biện không cao thậm trí mất
phương hướng, bất tận. Chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng thì chức năng
PBXH của báo chí mới được phát huy, mọi chủ trương, chính sách mới được
kiểm soát trong thực tiễn, tạo tiền đề cho sự thống nhất về tư tưởng, hành động.
Để thực hiện có hiệu quả chức năng PBXH của báo chí thì việc nắm
vững chủ trương, chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
của người làm báo là đòi hỏi quan trọng, khách quan có ý nghĩa quyết định
của phản biện. Nhận thức đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước có ý nghĩa tích cực và là yêu cầu, là mục đích trong chức năng PBXH
của báo chí.
Phản biện phải đảm bảo tính định hướng chính trị của Đảng, trên cơ sở
đó phản biện của báo chí mới định hướng dư luận một cách đúng đắn. Đồng
thời, báo chí cũng cần bám sát thực tiễn đời sống xã hội, nắm và phản biện
một cách khách quan, trung thực tình hình DLXH để từ đó tạo ra luồng
DLXH chính thống, định hướng tư tưởng, tạo ra sự nhận thức đầy đủ và thống
nhất trong hành động. Do vậy, trong PBXH báo chí nước ta hiện nay cần phải
hết sức chú ý việc bảo đảm tính định hướng chính trị, tạo sự đồng thuận trong
DLXH làm cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực thi
trong cuộc sống.
140
PBXH là chức năng quan trọng của báo chí nhằm giúp cho sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước có hiệu quả hơn. Thời
gian qua phản biện của báo chí còn hạn chế và chưa hấp dẫn bạn đọc, nhiều
khi còn phiến diên một chiều. Điều này do một phần trách nhiệm và năng lực
của người làm báo, nhưng cái chính là cơ chế phản biện xã hội hiện nay chưa
rõ ràng, minh bạch, chưa có cơ sở pháp lý để báo chí thể hiện. Muốn nâng cao
chất lượng phản biện xã hội và giữ vững tính đảng, đòi hỏi sự nỗ lực từ nhiều
phía chứ không chỉ riêng cơ quan báo chí. Trước hết là sự nỗ lực của Đảng,
Nhà nước để đưa ra những quy định của pháp luật trong PBXH của báo chí.
Mặt khác, báo chí cũng phải làm tốt chức năng phản biện những chính sách,
quyết định cụ thể của đảng, chính quyền, những vấn đề kinh tế xã hội liên
quan đến đời sống của người dân; nội dung phản ánh, phản biện của báo chí
phải phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước.
4.1.1.2. Việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí cần
bảo đảm tính nhân dân, tính xã hộiNăng lực PBXH của báo chí gắn liền với quá trình dân chủ hóa xã hội
và cũng là quá trình dần hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước nói chung. Đối
với báo chí cách mạng, tính nhân dân, trước hết phải thể hiện được tiếng nói,
diễn đàn của người dân. Tiếng nói của người dân thông qua báo chí, nếu được
cơ quan công quyền lắng nghe sẽ tạo sự phản hồi tích cực; chất lượng chính
sách, pháp luật được nâng cao, người dân hăng hái tham gia vào công việc
chung. Ngược lại, nếu tiếng nói của họ không được lắng nghe, không được
phản hồi, thì họ mất niềm tin vào vai trò làm chủ của mình, lòng tin vào nhà
nước bị xói mòn và ý kiến của họ có thể sẽ không còn mang tính xây dựng. Bởi
“Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng. Một tờ báo không được đại đa số
dân chúng ham chuộng, thì không xứng đáng là một tờ báo, v.v.” [31]. Làm thế
nào để tờ báo được đông đảo quần chúng quan tâm, yêu chuộng vẫn còn là điều
141
trăn trở của nhiều tờ báo hiện nay. Thực chất quan điểm này chính là thông qua
báo chí nhân dân kiểm soát được QLCT và QLNN mà mình uỷ quyền.
Người dân có quyền lựa chọn báo chí, lựa chọn thông tin để tiếp cận,
do đó báo chí cần có cách thức thể hiện phù hợp. Coi trọng chức năng PBXH
của báo chí thực chất là một hình thức phát huy quyền dân chủ của nhân dân
một cách công khai, minh bạch. Thực tế cho thấy báo chí vẫn chưa phản ánh
được hết những điều mà nhân dân mong đợi, bạn đọc quan tâm. Uy tín của
một tờ báo gắn với chất lượng phản biện, nhưng phản biện như thế nào cho
đúng và trúng, được người dân tin cậy không phải dễ, điều này luôn là bài
toán khó với báo chí nhất là đối với báo Đảng.
PBXH của báo chí cần đặt lợi ích của người dân lên trên hết, dũng cảm
phản biện bảo vệ cái đúng vạch trần những cái sai bảo vệ lợi ích của nhân
dân. Không nói lên được tiếng nói của người dân, không bảo vệ lợi ích chính
đáng của người dân thì mọi phản biện không được nhân dân quan tâm. Do đó,
báo chí cũng không thể hiện tính nhân dân theo đúng nghĩa của nó và đương
nhiên hiệu quả công tác tuyên truyền sẽ kém. Chỉ có thể trả lời đúng những
câu hỏi đó bằng tri thức khoa học và bản lĩnh của người công dân cầm bút có
lương tâm, có trách nhiệm với cộng đồng, với đất nước thì PBXH báo chí mới
thực sự có sức thuyết phục.
4.1.1.3. Việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí cần
bảo đảm tính chiến đấu, tính phê phánQuan điểm này chỉ rõ cơ chế kiểm soát quyền lưc, muốn kiểm soát
được QLCT và QLNN, phản biện của báo chí đảm bảo tính chiến đấu, tính
phê phán. Xét trong mối quan hệ của HTCT chính là phê bình và tự phê bình.
Tính chiến đấu trong PBXH của báo chí là tiếng nói trung thực, khen
chê đúng mực, dũng cảm đấu tranh bảo vệ chân lý tìm đến cùng sự thật. Nếu
không có tiếng nói trung thực, khen chê tùy tiện, lẩn tránh sự thật, không dám
đấu tranh nghĩa là từ bỏ vũ khí chiến đấu và phản biện có thể sẽ trở trở thành
142
ngụy biện. Tuy nhiên, tính chiến đấu trong phản biện của báo chí nhìn chung
vẫn còn khá dè dặt, hạn chế và rất khó khăn. Việc phản biện đòi hỏi phải thâm
nhập thực tế để thu thập chứng cứ, tài liệu, văn bản liên quan, v.v.. Những
khó khăn đó nhiều khi đã làm cho nhà báo nản, ngại va chạm và chọn giải
pháp an toàn là không phản biện. Hiện nay, vẫn còn tình trạng nhà quản lý,
lãnh đạo không muốn, ngại phản biện xã hội của báo chí, hoặc phản ứng thiếu
thiện chí với báo chí. Do đặc điểm chức năng phản biện của báo chí là công
khai, nên tạo ra sức mạnh dư luận xã hội, làm cho mọi người phải quan tâm.
Để tạo nên sức chiến đấu trong PBXH của một tờ báo, có nhiều yếu tố
nhưng yếu tố mang tính quyết định chính là con người, trong đó tổng biên tập
là tổng tư lệnh. Tổng biên tập là người đề ra nội dung, tổ chức thực hiện, nên
phải quyết đoán, bản lĩnh dám làm, dám chịu trách nhiệm. Dưới tổng biên tập
phải có đội ngũ phóng viên dũng cảm, có năng lực trình độ, nghiệp vụ, dám
phản biện để bảo vệ sự thật, lẽ phải. Muốn tờ báo có tính phản biện cao phải có
những tác phẩm báo chí sâu sắc, nhiều chiều của xã hội, quá trình này đòi hỏi
công phu và thậm trí nguy hiểm. Để hoàn thành tốt chức năng PBXH, mỗi một
tòa soạn báo cần xây dựng được đội ngũ phóng viên đáp ứng tốt yêu cầu này.
4.1.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay phải dựa trên cơ sở xác định
rõ ràng và chính xác nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện chức
năng phản biện xã hội của báo chí
4.1.2.1. Về nội dungXây dựng nội dung phản biện chính là xây dựng những tác phẩm báo
chí có chứa những thông tin của các vấn đề cần phản biện. Đây là nội dung có
ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch tổ chức phản biện cho phù
hợp. Cho nên khi thực hiện chức năng PBXH của báo chí cần phải xem chủ
đề đó là gì? Tính thời sự chính trị của vấn đề, nội dung của các chính sách,
pháp luật có liên quan nhiều hay ít đến đời sống nhân dân và xã hội. Nội dung
143
phản biện rộng hay hẹp, tổng thể hay bộ phận.v.v..; các chủ đề có tính thời sự
chính trị bức xúc trong xã hội và các giá trị kinh tế lớn. Muốn báo chí phản
biện tốt thì phải có nội dung tốt, đây được coi là yếu tố quan trọng quyết định
sự thành công trong PBXH của báo chí.
4.1.2.2. Về hình thứcCần đa dạng các hình thức PBXH của báo chí, thể hiện qua báo nói,
báo hình, báo điện tử, báo in với cách trình bầy khác nhau vừa hiện đại vừa
thể hiện đậm nét tôn chỉ, mục đích, đối tượng của tờ báo. Bằng các thể loại
như bình luận, phóng sự điều tra, v.v.. Ví dụ, buổi sáng ta thức dậy, xem các
trang báo, nghe đài, xem truyền hình, lên mạng, v.v. thì hình thức trình bày
cũng tạo sự chú ý đối với bất cứ ai và sau đó là tìm kiếm thông tin xảy ra
trong ngày hoặc cập nhật theo giờ để biết các chủ đề chuyên đề nổi bật hôm
nay là gì và họ tỏ thái độ bình luận xã hội của các nhà báo đối với những vấn
đề mà xã hội quan tâm. Hiện nay các báo rất quan tâm đến hình thức trình bày
đổi mới giao diện để thu hút bạn đọc, như Truyền hình Việt Nam, báo Nhân
dân, Tiền phong, Lao động, Thời báo kinh tế, Dân trí, v.v..
4.1.2.3. Về phương pháp và phương tiệnCó sự lựa chọn phương pháp cho phù hợp, tùy theo nội dung, chuyên
đề để lựa chọn các phương pháp khác nhau, có thể tổ chức hội thảo, trao đổi
chuyên mục, điều tra, bạn đọc cùng làm báo, sự phản hồi của bạn đọc.
Phương tiện của hoạt động báo chí nói chung PBXH nói riêng cần được trang
bị hiện đại đáp ứng tốt yêu cầu tác nghiệp thực hiện chức năng PBXH. Thực
tiễn cho thấy độc giả thích những cơ quan báo chí và nhà báo có tinh thần
phản biện. Như vậy không phải ngẫu nhiên mà người ta thích tờ báo này và
không thích tờ báo kia; thích kênh truyền hình này, tờ báo mạng kia và không
thích những kênh khác và báo mạng khác, v.v.. Có thể thấy rằng trong phản biện
đòi hỏi cơ quan báo chí và nhà báo cần phải mềm dẻo, linh hoạt trong sử dụng
phương pháp cũng như phát huy và sử dụng tối đa phương tiện để tác nghiệp.
144
4.1.3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay phải dựa trên cơ sở hoàn
thiện cơ chế, chính sách bảo đảm thực hiện chức năng phản biện xã hội
của báo chí
Quan điểm về xây dựng cơ chế, chính sách đảm bảo phải thông thoáng
đầy đủ rõ ràng trên cơ sở đó phát huy tốt mọi nguồn lực, giúp cho quá trình
thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí có hiệu quả. Đây là quan
điểm nhất quán và xuyên suốt trong quá trình thực hiện chức năng PBXH của
báo chí. Cơ chế chính sách chính là chỉ ra cho báo chí được làm gì, làm như
thế nào, làm ra sao? và phối hợp với ai? Đó chính là cơ sở quan trọng để quá
trình thực hiện phản biện được tiến hành một cách đồng bộ thống nhất và có
hiệu. Khi xây dựng cơ chế chính sách là phải phát huy tốt mọi nguồn lực tham
gia phản biện xã hội; tạo mọi điều kiện cả về vật chất và tinh thần cho cơ
quan báo chí thực hiện tốt chức năng phản biện.
Các văn bản pháp luật về PBXH của báo chí cần quy định rõ ràng và
bắt buộc quy trình (các bước đi) cần thiết cho việc thực hiện chức năng
PBXH của báo chí; quy trình (các bước đi) cần thiết cho việc tiếp thu và phản
hồi kết quả thực hiện PBXH của báo chí đối với các cơ quan chức năng, các
cơ quan hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
4.1.4. Nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay phải dựa trên cơ sở phát
triển các nguồn lực, nhất là nhân lực (các nhà báo) đảm bảo thực hiện
chức năng phản biện xã hội của báo chí
Phát triển nguồn nhân lực - xây dựng đội ngũ nhà báo là quan điểm
xuyên suốt của quá trình thực hiện chức năng PBXH của báo chí, thể hiện
như sau:
Một là, nâng cao trình độ nhận thức trình độ chính trị; văn hóa của
người làm báo từ Tổng biên tập, ban biên tập, các phòng ban, biên tập viên,
145
phóng viên và những cộng tác viên viết bài cho báo. Trong đó tập trung đầu
tư cho bộ phận thực hiện chuyên nghiệp về PBXH của báo chí.
Hai là, nâng cao kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về lĩnh vực phản biện
xã hội của báo chí đây là đòi hỏi khách quan của nhiêm vụ phản biện. Chỉ có
thể quan tâm đến trình độ nghiệp vụ phản biện xã hội của báo chí mới có thể
thực hiện phản biện có hiệu quả. Ở đây không chỉ có trình độ nghiệp vụ mà
đòi hỏi phải có kỹ năng và nghệ thuật phản biện có làm được như vậy thì
nhiệm vụ phản biện xã hội của báo chí mới đảm bảo tính chuyên nghiệp.
Ba là, sử dụng các cộng tác viên chuyên gia, các nhà khoa học có trình
độ và năng lực am hiểu sâu về từng lĩnh vực, có quan điểm, lập trường đúng
đắn, trung thực thẳng thắn có trách nhiệm và nhiệt tình với công việc. Tổ
chức và huy động các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vấn đề phản
biện để tham gia phản biện cùng báo chí. Đây là những lực lượng quan trọng
để huy động sức mạnh tổng hợp cùng với báo chí tạo nên sự sôi động, hấp
dẫn trong thực hiện chức năng PBXH của báo chí.
Bốn là, về mô hình cần lựa chọn những mô hình phù hợp cho hoạt động
báo chí nói chung và phản biện xã hội của báo chí nói riêng (thành lập các
phòng, ban, bộ phận, nhóm, v.v.) làm cho hoạt động phản biện của báo chí
linh hoạt và hiệu quả.
4.1.5. Nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay phải dựa trên cơ sở bảo đảm
các tiêu chí về thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
Tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí chất lượng cao đã được các cơ quan
quản lý nhà nước quy định cụ thể, đó là:
Những tác phẩm mang lại hiệu quả thiết thực cho toàn xã hội hoặc
một vùng miền, địa phương; có nhiều tìm tòi, phát hiện những vấn
đề mới nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày; có nội dung phù hợp,
hấp dẫn người đọc, người nghe, người xem; phù hợp với quan điểm
146
chỉ đạo, tuyên truyền, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước [27].
Kết quả thực hiện chức năng PBXH của báo chí không nằm ngoài kết
quả hoạt động của báo chí do đó tiêu chí đánh giá kết quả phản biện cũng nằm
trong tiêu chí chất lượng của hoạt động báo chí. Tuy nhiên trong thực hiện
chức năng PBXH của báo chí có những điểm nhấn riêng đặc thù và đòi hỏi
những yêu cầu khác và cao hơn.
-Trách nhiệm chính trị và pháp lý, có nghĩa là thực hiện chức năng
PBXH của báo chí phải đúng đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước
đúng định hướng chỉ đạo của cơ quan quản lý.
- Thực hiện chức năng PBXH của báo chí phải bảo đảm khách quan,
khoa học; thực hiện có hiệu quả tiêu chí này đòi hỏi phải có những thông tin,
tài liệu mới bảo đảm khách quan, trung thực thể hiện tính độc đáo, có giá trị
phản biện. Tôn trọng hiện thực khách quan, xem xét đánh giá nhiều mặt, tránh
động cơ cá nhân trên cơ sở vì lợi ích chung
- Kịp thời nhạy bén trong thực hiện chức năng PBXH của báo chí, thực
hiện chức năng này báo chí luôn phải bám sát cuộc sống, sự kiện. Chỉ có như
vậy thông tin, tư liệu phục vụ cho nhiệm vụ phản biện của báo chí mới kịp
thời và có nội dung tốt.
- Quá trình thực hiện chức năng PBXH của báo chí còn cần đến sự
chuẩn mực về văn hoá, đạo đức đây là những giá trị nhân văn đòi hỏi nhà báo
cần phải xác định và xây dựng cho mình. Nhà báo thực hiện tốt đạo đức nghề
báo đây được coi là lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp, lẽ sống, thể hiện
trong mỗi tác phẩm báo chí.
- Cơ quan báo chí và nhà báo không ngừng nâng cao năng lực, trình độ
tổ chức phản biện. Thể hiện ở mỗi một vấn đề, sự kiện để phản biện có hiệu
quả cần phải xác định đúng nội dung, thành phần, thời gian, địa điểm.v.v..để
xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện. Báo chí cần huy động và tổ chức đông
147
đảo lực lượng tham gia phản biện, báo chí là người đi trước, tích cực chủ
động vào cuộc. Mỗi khi Đảng và Nhà nước có dự thảo chủ trương, nghị
quyết, v.v. thì cần phải đưa báo chí vào cuộc, đó là sự hỗ trợ đắc lực, sự chuẩn
bị dư luận tốt nhất để cho những nghị quyết vào cuộc sống. Báo chí không
phải chỉ chờ chỉ đạo mà báo chí phải tích cực, chủ động, nỗ lực, phát hiện
những vấn đề thực tế, đi đến cùng của sự thật phản biện kịp thời.
Sự thành công của tác phẩm báo chí tham gia phản biện còn thể hiện ở
chỗ nó tạo hiệu ứng DLXH mạnh mẽ, tạo áp lực cho quá trình chính sách làm
cho chủ thể tiếp nhận PBXH của báo chí phải xem xét lại và điều chỉnh.
Hiệu quả PBXH của báo chí được đo bằng kết quả thực hiện chính sách, pháp
luật trong đời sống, tuy nhiên kết quả của chính sách pháp luật còn do nhiều
yêu tố không chỉ riêng báo chí.
Do vậy để thực hiện có hiệu quả chức năng PBXH của báo chí đòi hỏi
nhà báo và cơ quan báo chí cần phải thực hiện tốt các tiêu chí đã qui định.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
VÀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam
hiện nay
4.2.1.1. Nâng cao nhận thức và năng lực, đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý Nhà nước trong việc thực hiện chức năng phản biện xã
hội của báo chía). Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với phản
biện xã hội của báo chí
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước đối với hoạt
động báo chí nói chung và PBXH của báo chí nói riêng là yêu cầu của thực
tiễn. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí nhất
148
là đáp ứng nhu cầu phản biện của xã hội đang là một thách thức lớn. Vì hiện
nay thông tin ngày càng đa dạng và nhanh chóng “thế giới phẳng” chúng ta
không thể, hạn chế che dấu và xã hội cũng đòi hỏi rất cao về thông tin. Đứng
trước các yêu cầu đó trong quá trình lãnh đạo Đảng đã có những bước phát
triển mới quan điểm về báo chí song để tạo điều kiện cho báo chí hoạt động
tốt hơn, đường lối của Đảng cần phải được cụ thể hơn bằng các chỉ thị, quyết
định, v.v. để đường lối của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó
về mặt Nhà nước cần cụ thể hóa bằng Luật và các văn bản dưới luật; nghị
định, thông tư, hướng dẫn, đồng thời có kiểm tra đánh giá các hoạt động của
báo chí để uốn nắn kịp thời.
Công tác chỉ đạo quản lý báo chí phải công khai, minh bạch, chủ động
cung cấp thông tin và định hướng thông tin. Các vấn đề về dự thảo chính
sách, pháp luật cần được đăng tải công khai có địa chỉ thời gian và không gian
để các cơ quan báo chí có thể chủ động tiếp cận xây dựng kế hoạch và tổ chức
phản biện. Có thể qui định báo chí được phản biện nội dung gì, phản biện đến
đâu, phản biện như thế nào, ra sao? Tránh sự phản biện tự phát, tự do bất tận
không có hồi kết.
Khắc phục tình trạng lãnh đạo, quản lý báo chí vẫn còn chồng chéo,
chưa thống nhất. Vì vậy, cần bổ sung các quy định nhằm cải tiến phương
thức, lề lối làm việc, cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan trong quản
lý nhà nước về báo chí, về sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức cá nhân trong
thực hiện chức năng PBXH của báo chí. Xác định rõ các nguyên tắc làm việc
và quy chế phối hợp giữa lãnh đạo và quản lý nhà nước về báo chí; xác định
rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chỉ đạo,
cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan báo chí.
Hiện nay, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý đối với báo chí còn
chưa thật rõ ràng, tạo nên nhiều nấc quản lý trung gian, trùng lặp gây lãng phí
thời gian và khiến cơ quan báo chí có điều kiện ỷ lại, dựa dẫm vào sự lãnh
149
đạo, chỉ đạo của các cơ quan chức năng của Đảng, cơ quan quản lý Nhà nước,
làm suy giảm sự năng động, sáng tạo trong phản biện của cơ quan báo chí. Có
thể lấy ví dụ; khi có vấn đề cần phản biện như sửa đổi Hiến pháp năm 1992
các cơ quan báo chí chưa có sự phân định rõ chức năng của từng cơ quan báo
chí để thực hiện phản biện; cơ quan báo chí nào đứng ra định hướng báo chí
và dư luận, tình trạng mạnh báo nào, báo đó làm và sau đó 2 cơ quan, một là
Ban Tuyên giáo Trung ương với chức năng chỉ đạo, định hướng và Bộ Thông
tin - Truyền thông với chức năng quản lý báo chí đứng ra nhận xét đánh giá.
b)Nâng cao nhận thức, năng lực các cấp lãnh đạo, quản lý của Đảng
và Nhà nước về thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
Các cấp lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, các cơ quan báo chí
và cần nhận thức đầy đủ về chức năng PBXH của báo chí. Thực tiễn cho thấy
thời gian qua các cơ quan báo chí đã và đang thực hiện có hiệu quả chức năng
phản biện của báo chí về những vấn đề đặt ra của cuộc sống, nhất là tập trung
vào chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Các tổ chức ban, ngành các
chuyên gia cũng đã tham gia rất tích cực vào việc PBXH được dư luận đồng
tình ủng hộ coi đây là nội dung quan trọng trong hoạt động dân chủ trong thực
thi kiểm soát quyền lực. Nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo, quản lý
của Đảng và chính quyền, các cơ quan báo chí và đội ngũ nhà báo về xây
dựng, thực hiện chức năng PBXH của báo chí. Các cấp lãnh đạo, quản lý của
cơ quan báo chí và nhà báo cần phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc PBXH là một
chức năng của báo chí nó tồn tại khách quan. Chức năng PBXH của báo chí
thể hiện tính khách quan, khoa học, minh bạch, phản ánh đúng với qui luật
vận động phát triển của báo chí và xã hội, đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận
thức đầy đủ và tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động phản biện được thực hiện.
Đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đối
với báo chí, nhất là khi nhu cầu và trách nhiệm phản biện của xã hội đang là
một thách thức lớn. Không né tránh PBXH của báo chí mà cần phải tích cực,
150
chủ động thực hiện chức năng PBXH của báo chí, thông qua hoạt động này là
cách tốt nhất để thực thi và kiểm soát quyền lực.
4.2.1.2. Nâng cao nhận thức và năng lực của các cơ quan báo chí
trong việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
Khắc phục tình trạng không rõ chức năng PBXH của báo chí nên một
số cơ quan chủ quản đã lạm dụng quyền hạn, dẫn đến hạn chế sự phát triển
của tờ báo, trở thành lực lượng kìm hãm, gây khó khăn cho phản biện của báo
chí. Đồng thời, do hạn chế về cơ chế và quy chế hoạt động, nên vấn đề quan
hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí chưa được điều chỉnh theo yêu
cầu phát triển báo chí, cho nên có hiện tượng cơ quan chủ quản can thiệp vào
hoạt động phản biện của báo chí hoặc buông lỏng hoạt động này, v.v..
Như vậy, việc hình thành sớm một quy chế làm việc rõ ràng, cụ thể
giữa cơ quan chỉ đạo, định hướng (Ban Tuyên giáo Trung ương) và cơ quan
quản lý (Bộ Thông tin-Truyền thông) với ban ngành hữu quan liên quan đến
quản lý nhà nước về báo chí, giữa cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và
địa phương, cơ quan quản lý và cơ quan chủ quản. Cơ chế này phải đảm bảo
sự điều hành thống nhất, có khả năng giải quyết nhanh và dứt điểm các vụ
việc, đồng thời kiểm soát được hoạt động PBXH của báo chí, tránh hiện
tượng “đánh trống bỏ dùi”, “dễ làm khó bỏ”, đùn đẩy công việc cho nhau,
trách nhiệm không rõ ràng. Cơ chế này cần phải sớm được cụ thể hóa thành
văn bản pháp quy, làm chỗ dựa pháp lý cho việc vận hành hoạt động phản
biện xã hội của báo chí. Trước mắt, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp
với Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban kiểm tra
Trung ương, Hội nhà báo Việt Nam và các cơ quan chủ quản báo chí xây
dựng và hoàn thiện Quy chế phối hợp. Nội dung của Quy chế này cần quy
định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện chức năng PBXH
của báo chí đối với chính sách, pháp luật.
151
4.2.2. Nhóm giải pháp về thể chế, cơ chế, chính sách đảm bảo thực
hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
4.2.1.1. Đẩy mạnh nghiên cứu tổng kết thực tiễn, xây dựng và hoàn
thiện các cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của
báo chíĐảng cần phải lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan quản lý và cơ quan báo
chí, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn hoạt động của báo chí, nhằm chỉ ra những
kết quả đạt được và vấn đề còn tồn tại, hạn chế và những vấn đề mới của chức
năng PBXH của báo chí và từ đó hình thành các luận cứ khoa học và nâng
tầm lý luận của chức năng PBXH. Cần phải khẳng định rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn về sự tồn tại chức năng PBXH của báo chí và kết quả đạt được của
chức năng này trong thời gian qua. Từ những ý kiến của bạn đọc, góp ý về
vấn đề này hay vấn đề khác đã trở thành tập hợp các ý kiến có cơ sở khoa học
cùng với báo chí tham gia tích cực vào quá trình phản biện. Ở chiều ngược
lại, các ý kiến phản biện của báo chí phải được đối tượng nhận phản biện tiếp
thu, sửa đổi, bổ xung một cách tích cực, trên tinh thần xây dựng phù hợp với
tiến trình mở rộng dân chủ hiện nay.
Đồng thời, cơ quan quản lý báo chí, cơ quan báo chí cần có những cuộc
hội thảo chuyên đề, tọa đàm, lấy ý kiến của các nhà khoa học, góp ý ở các
vùng, miền để xây dựng các luận cứ khoa học về xác định chức năng PBXH
của báo chí. Trên cơ sở đó báo cáo với Đảng và Nhà nước để được ghi nhận
chức năng PBXH của báo chí vào các văn bản có giá trị pháp lý nhằm hoàn
thiện hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động phản biện của báo
chí. Đây là nội dung rất quan trọng để báo chí phát triển, đáp ứng với yêu cầu
của công cuộc đổi mới đất nước nhất là xây dựng một xã hội dân chủ tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân.
Sự ra đời và tồn tại của các đạo luật trong cuộc sống là yêu cầu đòi hỏi
khách quan và hoạt động của báo chí không nằm ngoài quá trình ấy. Yêu cầu
152
của phát huy dân chủ đã và đang là đòi hỏi và trở thành thực tế trong cuộc
sống trong đó dân chủ trong báo chí đang là yêu cầu bức xúc. Chức năng PBXH
của báo chí phải được luật hoá, và qui định cụ thể chi tiết trong Luật, Nghị định,
trong đó luật hoá chức năng PBXH của báo chí là ưu tiên hàng đầu nhằm đáp ứng
tốt hơn hoạt động của báo chí. Báo chí tham gia phản biện đến đâu, ở lĩnh vực gì,
ngành nào, v.v. đều phải được qui định rõ trong luật và báo chí phải có trách
nhiệm và nghĩa vụ thực hiện và coi đó là nhiệm vụ của báo chí.
Để chức năng PBXH của báo chí tham gia tích cực vào quá trình chínhtrị, làm cho đời sống tinh thần dân chủ của xã hội có những sinh khí mới.Khắc phục tình trạng có những vấn đề, những vụ việc mà báo chí thực hiệnchức năng phản biện đã làm cho dư luận hoang mang, gây bức xúc, thậm chímất niềm tin, xuất hiện những điểm nóng mà không được khắc phục kịp thời.Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có nguyên nhân quan trọng trực tiếp là doluật pháp của chúng ta còn nhiều bất cập, chậm được đổi mới và bổ xung khivấn đề trở lên nóng và bức xúc thì lúng túng, không biết xử lý ra sao, v.v..Tình trạng báo chí phản biện không định hướng, không nắm vững pháp luật,thậm trí bất chấp pháp luật vẫn còn xảy ra. Đây là cách mà báo chí phản biệntùy tiện, cá nhân “đánh đấm” “ăn chia” chộp dựt, chạy theo giá trị vật chất,v.v. . đã tạo ra trong dư luận nhiều điều tiếng không tốt, không đúng với bảnchất của chức năng PBXH của báo chí. Do đó đòi hỏi phải xây dựng Nhànước pháp quyền XHCN, nhà nước hoạt động theo pháp luật và chỉ tuân thủpháp luật, thì những tồn tại, hạn chế đó chắc chắn sẽ được khắc phục. Trướckhi ban hành Luật về PBXH, cần bổ sung nội dung về PBXH của báo chí vàoLuật báo chí hiện nay. Sự tham khảo những quy định về PBXH của MTTQViệt Nam là cần thiết cho PBXH của báo chí.
4.2.1.2. Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động cho thực hiện chứcnăng phản biện xã hội của báo chí
Cơ chế đóng vai trò quan trọng đối với việc thực hiện chức năng PBXH
của báo chí. Thực tế cho thấy, chỉ cần có một cơ chế đúng phù hợp với sự vận
153
động và phát triển thì hiệu quả công việc sẽ rất cao. Trong thời gian qua, công
cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thổi một luồng gió mới
cho báo chí tự đổi mới mình, kết quả hoạt động do báo chí mang lại là không
thể phủ nhận. Thông qua báo chí, Đảng gần dân và hiểu dân hơn, chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng đáp ứng được yêu cầu cuộc sống
của người dân. Một trong những nguyên nhân của kết quả trên là chúng ta đã
xây dựng được cơ chế thực thi tốt đường lối báo chí của Đảng và luật pháp
của nhà nước. Báo chí nước ta đã là món ăn tinh thần không thể thiếu được
của các tầng lớp nhân dân; thực sự đến với nhiều đối tượng, trở thành người
bạn thân thiết hằng ngày của họ. Đó là vì báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà
nước, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, là tiếng nói của nhân
dân, v.v.; đồng thời là diễn đàn tin cậy của các tầng lớp nhân dân, đã và đang
đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của đông đảo cán bộ, nhân dân.
Cơ chế được xem như là nhân tố quan trọng và quyết định cho sự tồn
tại và phát triển của các chính sách. Nhìn lại xa hơn một chút chúng ta thấy
rằng trong thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mà ở đây rõ
nhất là kế hoạch hoá tập trung, chế độ cấp phát... do đó tình hình kinh tế
chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, lạm phát cao không thể kiểm soát, có lúc lên
đến hơn 800%, một thời kỳ mà người ta cho rằng “bán như cho mua như
cướp”. Nguyên nhân của yếu kém đó là do chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp. Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình
thành nên một cơ chế mới đó là kinh tế thị trường, đây là quyết định đúng đắn
của Đảng ta và thực tế là nó đã chứng minh là chúng ta đã ra khỏi khủng khoảng.
Từ những thực tế đó có thể thấy rằng cần phải tìm tòi lựa chọn sáng tạo để tìm ra
cơ chế đúng và trúng và báo chí cũng không nằm ngoài qui luật ấy.
Trong thực tế thì báo chí trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp cũng
không nằm ngoài sự chi phối đó. Báo chí lúc đó chỉ được đưa những tin bài
đã được định sẵn, được phép của những cơ quan chức năng, những ý kiến đó
154
nhiều khi chỉ là những ý kiến chủ quan, của nhà cầm quyền. Lúc đó chúng ta
chưa có ý thức và chưa đề ra chức năng PBXH của báo chí, do đó thông tin
rất hạn chế, đơn điệu, xuôi chiều, rằng mọi chủ trương chính sách đưa ra đều
được coi là đúng, không cần phải bổ xung sửa đổi. Nhiều vấn đề trong cuộc
sống không được phản ánh kịp thời nhất là những vấn đề bức xúc và do đó đã
hạn chế sức sáng tạo của báo chí.
Để cho PBXH của báo chí hoạt động có hiệu quả, phải có cơ chế phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Cơ chế đó được thể hiện ở một số nội
dung sau:
Báo chí phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Đảng lãnh đạo báo chí
bằng đường lối chủ trương chính sách, những định hướng lớn và nội dung tư
tưởng đối với báo chí, bằng công tác cán bộ đối với các tổ chức cơ quan báo
chí. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo
chí đã nhấn mạnh phải hoàn thiện cơ chế chính sách và Luật pháp. Cơ chế ở
đây chính là tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của báo chí. Trong đó công
tác lãnh đạo quản lý không phải nói lý thuyết nữa mà phải sớm thể chế hoá
thành văn bản pháp qui, qui chế hoá, cơ chế hoá, luật hoá, làm chỗ dựa pháp
lý cho việc vận hành bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động báo chí. Thời gian
tới sẽ triển khai xây dựng và thực hiện các qui chế về cung cấp, phổ biến
thông tin; Quy chế về bổ nhiệm, bãi nhiệm, khen thưởng, kỷ luật; Qui chế về
cấp phép hoạt động báo chí. Ở tầm vĩ mô, cần có qui chế rõ ràng cụ thể, giữa
Ban Tuyên giáo Trung ương với Bộ Thông tin và Truyền thông, có sự tham
gia của Hội nhà báo Việt Nam, giữa ban và sở cấp tỉnh, thành phố cũng như
giữa Trung ương với địa phương, giữa cơ quan nhà nước với cơ quan chủ
quản, giữa cơ quan chủ quản với ban biên tập các báo. Cơ chế này có sự điều
hành thống nhất, có khả năng giải quyết nhanh và dứt điểm các vụ việc, đồng
thời kiểm soát liên tục hoạt động báo chí, tránh hiện tượng đánh trống bỏ dùi,
dễ làm khó bỏ, đùn đẩy công việc cho nhau, trách nhiệm không rõ ràng.
155
Các cơ quan trong hệ thống chính trị, các nhà lãnh đạo quản lý phải
luôn lắng nghe phản biện của báo chí, coi đây là kênh thông tin quan trọng để
những nhà lãnh đạo, quản lý nắm tình hình, phục vụ cho việc điều chỉnh các
chủ trương, chính sách của mình. Báo chí phản biện đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đến đâu, phản biện những nội dung gì, vào
thời gian nào, mức độ rộng, hẹp khác nhau ra sao? Đó là yêu cầu bức xúc,
nhằm làm cho báo chí hoạt động có hiệu quả hơn. Báo chí nào được tham gia
phản biện vào các quá trình ra quyết định từ dự thảo đến lấy ý kiến, góp ý,
hoàn chỉnh các quyết định, ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định nói
trên. Tất cả những nội dung trên thời gian qua báo chí đã làm song nó chỉ là
tự phát, chưa có định hình rõ rệt và nhiều vấn đề còn lúng túng (có phản biện
hay không phản biện) hiệu quả chưa cao vì chúng ta chưa có một cơ chế
thống nhất đồng bộ có tính khả thi, nhiều khi còn áp đặt, cấm đoán báo chí.
Báo chí còn được coi là công cụ tư tưởng của Đảng, đây là công cụ sắc bén và
đầy nhậy cảm, do đó ngoài Luật báo chí ra, để nội dung phản biện đi vào cuộc
sống, còn phải xây dựng các cơ chế cho phù hợp với mục đích, yêu cầu, phạm
vi, nội dung phản biện. Trong HTCT, báo chí phải được qui định như thế nào,
phản biện ra sao? Quan hệ giữa PBXH của báo chí đối với Đảng và Nhà nước,
đối với mặt trận và các đoàn thể chính trị và những nội dung liên quan khác.
Từ cách đặt vấn đề như vậy, có thể thấy phải đặt ra những quan hệ cơ
chế PBXH của báo chí. Đối với đường lối của Đảng thường xuyên, hay định
kỳ phản biện, và qui định Nghị quyết, Chỉ thị, v.v. nào báo chí được phản
biện và báo nào được tham gia vào quá trình đó. Trong quá trình phản biện
phải xây dựng được cơ chế quan hệ qua lại, trao đổi cung cấp thông tin, xử lý
thông tin theo hướng phát huy dân chủ. Đối với các quyết định của Nhà nước
là những nội dung tác động trực tiếp đến đời sống hàng ngày của người dân
và đây cũng là những vấn đề rất nhạy cảm đối với báo chí, báo chí thường
phải phản ánh nhanh, đầy đủ, toàn diện. Thực tế cho thấy, có những vấn đề
156
làm dư luận nóng lên, đau đầu những nhà quản lý, lãnh đạo. Do vậy xây dựng
cơ chế phản biện với những Quyết định của nhà nước là yêu cầu bức xúc hiện
nay, nhằm tạo cho báo chí những điều kiện thuận lợi nhất trong hoạt động
nghề nghiệp.
4.2.1.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức trong cơ quan báo chíCác tổ chức Đảng, đoàn, hội trong cơ quan có vai trò quan trọng trong
việc lãnh đạo quản lý nâng cao chất lượng, hiệu quả của mỗi tờ báo còn có vai
trò rất quan trọng của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, đoàn thể, bởi mỗi
thành viên trong tòa soạn đều đồng thời là một thành viên trong một tổ chức
trên hoặc đồng thời thuộc nhiều tổ chức. Vì vậy, nâng cao vai trò của các tổ
chức đó trong mỗi cơ quan báo chí cũng chính là giúp nâng cao chất lượng,
hiệu quả của báo nói chung và thực hiện chức năng PBXH của báo chí nói
riêng. Mỗi đảng viên phải ý thức được vai trò tiên phong, gương mẫu của
mình trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, chuyên môn trong đó có
chức năng PBXH của báo chí. Đồng thời, tổ chức cơ sở đảng phải thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo và đời sống; cần tạo điều
kiện thuận lợi để quần chúng phản biện công việc và phẩm chất của cán bộ
đảng viên. Cấp ủy và tổ chức đảng có trách nhiệm xây dựng chế độ kiểm tra
cán bộ và công tác cán bộ làm cho cán bộ không ngừng nâng cao năng lực
phản biện của báo chí. Tổ chức công đoàn có vai trò quan trọng trong bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người lao động, nói chung và bảo vệ quyền và lợi ích
của nhà báo tham gia PBXH, đây là lĩnh vực nhạy cảm trong hoạt động phản
biện. Đoàn thanh niên là tổ chức của những người trẻ tuổi, có nhiệt huyết, có
kiến thức, nhanh nhạy với cái mới, do đó cần phát huy, động viên, khơi gợi
lòng nhiệt tình của lực lượng này trong việc thực hiện chức năng phản biện xã
hội của báo chí.
Đối với Chi hội nhà báo, đây là tổ chức nghề nghiệp của những người
làm báo, các chi hội nhà báo trong cơ quan báo chí cần nâng cao hơn nữa vai
157
trò bảo vệ quyền lợi những người làm báo, thông qua việc góp ý với chính
quyền về việc thực thi các chế độ, chính sách đối với nhà báo thực hiện chức
năng PBXH của báo chí. Đồng thời, tìm hiểu và đề xuất các giải pháp nhằm
bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ những người làm báo tinh thông về báo chí có kỹ
năng nghiệp vụ PBXH.
4.2.3. Nhóm giải pháp về đổi mới nội dung và hình thức, phương
pháp và phương tiện đảm bảo thực hiện chức năng phản biện xã hội của
báo chí ở Việt Nam hiện nay
4.2.3.1. Về nội dungBáo chí cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng thông tin phản biện
của báo chí, trước hết xuất phát từ yêu cầu tự thân của hoạt động báo chí. Đặc
biệt yêu cầu nhu cầu thông tin bức thiết liên quan đến phản biện của báo chí
đó chính là các dự thảo chính sách, pháp luật liên quan đến đời sống của nhân
dân. Đây là những vấn đề đặt ra thời cơ, đồng thời cũng là những thách thức
hết sức gay gắt hiện nay cho việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí.
Trước yêu cầu mới của sự phát triển, tất cả các loại hình thông tin báo chí đều
hướng tới là nhanh, kịp thời, coi trọng chất lượng chính trị, chất lượng văn
hoá, chất lượng khoa học và chất lượng nghiệp vụ phản biện xã hội. Thông tin
phải đảm bảo tính chân thật, tính giáo dục, tính nhân dân, tính chiến đấu, đáp
ứng với yêu cầu phản biện của báo chí phù hợp với lợi ích của đất nước và
của nhân dân. Phản biện của báo chí góp phần quan trọng trong việc cung cấp
tri thức, nâng cao dân trí, hình thành và định hướng dư luận xã hội lành mạnh,
góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng chính trị và tinh thần
trong xã hội. Ở đây cần phải đặc biệt quan tâm đến đối tượng được báo chí
phản biện (những người có quyền lực từ soạn thảo chính sách, đến đóng dấu
quyền lực và ban hành) có đồng thuận và tiếp nhận nội dung mà báo chí phản
biện không. Nếu như có sự đồng thuận tiếp thu sửa chữa của đối tượng được
phản biện, nó sẽ là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội.
158
Muốn có nội dung phản biện tốt ngoài việc tích cực, chủ động lựa chọnvấn đề, báo chí cần quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch tin bài, trước trongvà sau quá trình phản biện. Cơ quan báo chí cần chủ động và phối hợp với cáccơ quan chủ trì soạn thảo chính sách để thực hiện việc lấy ý kiến phản biệncủa nhân dân. Tùy theo hoạt động của cơ quan báo chí để bố chí thời lượng,diện tích hợp lý và coi quá trình chính sách, pháp luật là các đề tài khai thácthường xuyên. Đặt ra yêu cầu cho nhà báo và các bộ phận chuyên môn phảitập trung để có tin bài nhanh, kịp thời, đúng và trúng vấn đề cần phản biện.
Tạo điều kiện cho báo chí đi vào phản biện những vấn đề nóng bỏng,bức xúc mà Đảng và nhà nước cũng như người dân quan tâm nhất. Hiện nay,tình trạng cán bộ, đảng viên quan liêu, xa dân,lạm quyền, suy thoái xâm hạilợi ích của người dân đặt ra lựa chọn được những nội dung bức xúc điển hìnhđể tổ chức phản biện.
4.2.3.2. Về hình thức, phương thức và phương tiệnMuốn nâng cao hiệu quả phản biện của báo chí phải tăng cường phối
hợp giữa các bộ phận, các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm báo chí.Hiệu quả phản biện của báo chí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn và cách thểhiện phản biện. Cho nên, bên cạnh việc nâng cao chất lượng nội dung, tăngcường hàm lượng thông tin, việc lựa chọn những hình thức, phương thứcchuyển tải phù hợp có ý nghĩa quan trọng. Thì trong phản biện phải thể hiệnnghệ thuật phản biện, ngôn ngữ hình ảnh và hình thức biểu hiện phản biệnsinh động, gây được những xúc cảm tốt, thuyết phục được đối tượng tiếp nhậnphản biện là yêu cầu cần thiết đối với báo chí. Như tạp chí thể hiện thế nào;báo in, báo điện tử thể hiện ra sao? Báo hình đến đâu.v.v..tất cả các loại hìnhbáo chí phát huy thế mạnh, thực hiện có hiệu quả PBXH của báo chí.
Đổi mới mạnh mẽ hình thức thể hiện thông tin như màu sắc, hình ảnhtờ báo, tạp chí giao diện đẹp phù hợp với thị hiếu độc giả; bố chí chuyên mụcphản biện sao cho kết cấu tiểu mục hợp lý, dễ thấy ưa nhìn hình ảnh đẹp gâycảm xúc độc giả.
159
Phương thức và phương tiện cũng cần phải được đổi mới; Thông quacác thể loại báo chí, bằng các phương tiện hiện đại để chuyển tải những ý kiếnnhững nội dung phản biện. Các cơ quan báo chí và phóng viên phải thườngxuyên tự tìm tòi học hỏi để có những phương thức phù hợp với điều kiện hoàncảnh khác nhau. Bằng các thể loại báo chí khác nhau nhằm đưa các tin bàiđến được với đối tượng tiếp nhận phản biện một cách nhanh và hiệu quả nhất.Các cơ quan có trách nhiệm cần tăng cường cho hoạt động phản biện của báochí những trang bị hiện đại phù hợp đáp ứng tốt yêu cầu của phản biện.
4.2.4. Nhóm giải pháp về phát trển nguồn lực (nguồn nhân lực - độingũ quản lý báo chí và nhà báo) đảm bảo thực hiện chức năng phản biệnxã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
4.2.4.1. Nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ lãnh đạo, quản lýđảm bảo thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Namhiện nay
Thực tiễn cho thấy các hoạt động PBXH của báo chí đã và đang diễn ramạnh mẽ, mặc dù chưa có luật điều chỉnh, đây là thách thức lớn đối với nhữngngười lãnh đạo, quản lý báo chí. Vì vậy, cần có những quy định, chính sách hợplý để nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý.
Trước hết, cần quy định hệ thống tiêu chuẩn chức danh, nghiệp vụ phùhợp với thực tiễn từng loại báo chí, bảo đảm hiệu quả hoạt động phản biện xãhội của báo chí. Cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí phải có tri thức, hiểu biết vềbáo chí, khoa học chính trị, kỹ năng phản biện xã hội; có kinh nghiệm thực tế.Phải tốt nghiệp chuyên ngành báo chí hoặc phải tham gia học các lớp bồidưỡng kiến thức về khoa học phản biện báo chí. Ngoài ra, cán bộ lãnh đạo,quản lý phải có những kiến thức cơ bản về lý luận chính trị, quản lý nhà nước,am hiểu pháp luật về báo chí nói chung và những văn bản pháp luật hoạt độngphản biện của báo chí nói riêng.
Tránh tình trạng cơ cấu "đã là cấp ủy viên thì làm gì cũng được". Do
vậy, nhiều người làm trái nghề mà vẫn phải nhận vì "tổ chức phân công". Qua
160
khảo sát của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2004, trong số 62 giám đốc đài
phát thanh truyền hình tỉnh, chỉ có 40,3% đã học đại học chính quy hoặc tại
chức báo chí. Do đó phải có chính sách đào tạo và đào tạo lại có chọn lọc
những người lãnh đạo, quản lý báo chí để đáp ứng yêu cầu mới của báo chí là
thực hiện chức năng phản biện. Đây là yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển chung
của xã hội làm cho báo chí thực hiên tốt chức năng phản biện của mình.
Trong thời gian tới các trung tâm đào tạo báo chí cần xây dựng nộidung chương trình đào tạo và bồi dưỡng về chức năng phản biện xã hội củabáo chí cho đội ngũ làm công tác lãnh đạo, quản lý về báo chí.
Đối với chức danh Tổng biên tập báo, tạp chí:Với cương vị người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước pháp luật mọi
hoạt động của tòa báo, tổng biên tập phải quyết định những mục tiêu, phươnghướng và tổ chức thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được giao; định hướngthông tin cho nhà báo theo từng giai đoạn, thậm chí từng ngày, từng giờ, từngsự việc cụ thể,... Vì vậy, các tiêu chí lựa chọn tổng biên tập mỗi tờ báo, tạpchí ngoài tiêu chuẩn chung cần đề cập tới năng lực và bản lĩnh nghề nghiệptrong việc phản biện những vấn đề nóng của xã hội. Tổng Biên tập có nhậnthức tốt, đủ bản lĩnh, dũng khí thể hiện tính chiến đấu trong lãnh đạo tổ chứctòa soạn báo thực hiện chức năng PBXH của báo chí.
- Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị: Ngoài cáctiêu chí bắt buộc là phải có bằng đại học chuyên môn và bằng cao cấp lý luậnchính trị. Có thể coi đây là tiêu chí “cứng”, bất di bất dịch. Thì Tổng biên tậpcần có bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo tờ báo thực hiện chức năngPBXH của báo chí. Người đứng đầu tờ báo cần nắm vững nghiệp vụ báo chí,tránh xảy ra tình trạng lãnh đạo báo chí nhưng không hiểu về nghiệp vụ báochí. Đây là đòi hỏi mới trong điều kiện báo chí có chức năng PBXH, khôngdễ gì mà Tổng biên tập một tờ báo, tạp chí dám thực hiện chức năng này.
- Về nhân cách, đạo đức: Ngoài các tiêu chuẩn “cứng” như trên, các
tiêu chuẩn khác mà người lãnh đạo nào cũng cần phải đạt được, đó là phải có
161
khả năng tập hợp, động viên tập thể cùng vì mục đích chung. Trong quan hệ
với người dưới quyền, mọi hành vi, thái độ, cách ứng xử, điều hành công việc
của tổng biên tập phải rõ ràng, công bằng, đúng mực, linh hoạt trong việc vận
dụng cơ chế khen thưởng, xử phạt; cần tạo điều kiện, giúp đỡ cấp dưới có cơ
hội để phát triển. Tổng biên tập phải nêu tấm gương sáng về đạo đức của
người làm báo nói chung và trong tổ chức phản biện của báo chí nói riêng
phải khách quan, minh bạch, không động cơ cá nhân, lợi dụng để làm lợi cho
mình; hay thông qua phản biện để đề cao mình hạ thấp người nào đó, tìm cách
triệt hạ đối thủ. Phải biết tôn trọng, lắng nghe đội ngũ phóng viên, biên tập
viên, cộng tác viên và những người tham gia phản biện.
- Đội ngũ lãnh đạo, quản lý về hoạt động phản biện xã hội của toà soạn:
Đây là đội ngũ cán bộ chủ chốt của báo, ngoài việc thực hiện việc triển
khai các định hướng của tổng biên tập tham mưu trực tiếp xây dựng nội dung
chương trương trình thành các tin, bài cụ thể. Đội ngũ này còn có vai trò rất
quan trọng trong việc trực tiếp tạo ra các sản phẩm phản biện của báo chí. Vì
vậy, phải đặc biệt chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
này. Nội dung đào tạo cần thiết thực, phù hợp với yêu cầu đối với từng loại
cán bộ, chú trọng cả phẩm chất đạo đức và kiến thức, cả lý luận và thực tiễn.
Đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kiến thức phản biện xã hội của báo chí theo
phương thức kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đào tạo chính quy với các hình
thức bồi dưỡng. Mở rộng đào tạo trong nước, đồng thời chú trọng đào tạo ở
nước ngoài, tham quan thực tế trao đổi về hoạt động phản biện của báo chí
nước ngoài.
4.2.4.2. Nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ nhà báo đảm bảo
thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nayTrước hết cần có tiêu chí cụ thể trong tuyển dụng cho các đối tượng
trên, bên cạnh tiêu chuẩn chung còn có tiêu chuẩn riêng đối với đối ngũ này
cho thực hiện chức năng phản biện của báo chí, bởi đây là một khâu quan
162
trọng, nếu tuyển dụng không đúng, không trúng sẽ rất khó khăn trong hoạt
động phản biện của báo chí. Quy trình tuyển dụng cán bộ cho báo phải được
tiến hành chặt chẽ, có tiêu chuẩn rõ ràng ngoài nhiệm vụ của báo còn có thể
đảm nhiệm tốt yêu cầu thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí.
Về lý luận chính trị, để làm tốt chức năng PBXH của báo chí về chủtrương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, yêu cầu bắtbuộc đối với nhà báo phải có trình độ chính trị ở những mức độ nhất địnhtheo chức trách đảm nhận. Do đó, phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo về lýluận chính trị cho từng loại đối tượng. Hằng năm có kế hoạch cử phóng viên,biên tập viên đi học các lớp lý luận chính trị ở các mức khác nhau. Bên cạnhđó, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận chính trị cho nhà báo bằng nhiềuhình thức như: học tập chính trị, thảo luận chuyên đề hoặc sinh hoạt của chibộ, đoàn thanh niên, công đoàn. Thông qua các hình thức này nhà báo không chỉnắm vững quan điểm chỉ đạo của Đảng, những chủ trương, chính sách của Nhànước, v.v. mà còn có điều kiện thể hiện chính kiến của mình, trau dồi khả năngthể hiện tin, bài phản biện về chủ trương, chính sách, pháp luật một cách khách,quan khoa học. Muốn thực hiện phản biện xã hội của báo chí một cách có hiệuquả các phóng viên báo chí phải nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủnghĩa Mác - Lênin, nắm vững những quy luật phát triển khách quan của sự vật,am hiểu tình hình thực tế trong nước và thế giới, nắm vững nguyện vọng và lợiích của quần chúng cũng như trình độ và năng lực thực tế của họ.
Về đạo đức, lối sống, đạo đức, lối sống của người làm báo không có gìkhác đối với mọi cán bộ, đảng viên, đó là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công,vô tư”, mỗi cán bộ, phóng viên, biên tập viên mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tựphê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong cơquan báo chí sẽ không có người vi phạm đạo đức và vi phạm pháp luật; đồngthời môi trường báo chí cũng trở nên trong sạch hơn. PBXH của báo chí cũngminh bạch và công khai. Phải kiên quyết chống tiêu cực trong quá trình báochí tham gia PBXH.
163
Trong Luật cán bộ, công chức ban hành 2008 có những quy định về
đạo đức nói chung của cán bộ, công chức; với giới báo chí còn có 9 quy định
về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo; mỗi cơ quan, đơn vị lại có những
quy định riêng đối với cán bộ, công chức. Đặc biệt khi báo chí xác định chức
năng PBXH của báo chí thì qui định về đạo đức nghề nghiệp càng phải đòi
hỏi cao hơn và có tính cụ thể.
Tuy nhiên, đạo đức, lối sống tốt không phải tự nhiên mà có được,
không phải chỉ nhờ sự góp ý mà có thể trở nên tốt hơn được, mà tự bản thân
mỗi người phải không ngừng rèn luyện trong thực tiễn cuộc sống, trong sự
đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa trung thực và dối trá, giữa lòng tham
và sự tốt bụng, giữa sự đố kỵ và vị tha,... Sự trung thực trong công việc, trong
lời nói với lối sống lành mạnh, tích cực, quan tâm đến đồng nghiệp là những
phẩm chất mà tất cả chúng ta cần hướng tới. Trong hoạt động PBXH của báo
chí phải xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan, tránh chủ quan cá nhân chủ
nghĩa. Để thực hiện được điều đó, nhà báo phải có tư duy lý luận cao, quán
triệt và vận dụng có hiệu quả đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
chủ nghĩa Mác - Lênin về khoa học chính trị làm căn cứ xây dựng nội dung
PBXH thể hiện tính định hướng.
Về chuyên môn, nghiệp vụ, thực tế có nhiều phóng viên, biên tập viên có
kiến thức chuyên ngành nhưng chưa học qua nghiệp vụ báo chí nên khả năng tác
nghiệp còn hạn chế; một số nhà báo học báo chí nhưng không am hiểu kiến thức
phản biện của báo chí, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng phản biện.
Vì vậy, trong quy hoạch, kế hoạch đào tạo, phải sắp xếp và đào tạo lại theo yêu
cầu chuyên môn, nghiệp vụ; những nội dung, kỹ năng thực hiện chức năng phản
biện của báo chí. Nghiệp vụ báo chí, là mảng cần được ưu tiên đào tạo. Do tính
chất công việc của nghề báo không thể cử người đi học các lớp dài hạn, vì vậy
nên mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về kỹ năng phản biện của báo chí. Đa dạng
hình thức đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên sẽ có hiệu quả nhất định. Tuy
164
nhiên, để nâng cao chất lượng phản biện của báo chí nên mời các chuyên gia
không chỉ am hiểu lý luận, mà còn là những người đã từng quản lý các cơ quan
ban ngành thực hiện chức năng phản biện; các chuyên gia lãnh đạo quản lý có
trình độ và kinh nghiệm trong làng báo tham gia giảng dạy.
Kiến thức chuyên ngành, cần được chú trọng hơn; thực tế cho thấy, cónhững tin, bài viết về một lĩnh vực chuyên ngành nhưng người viết không biếtsử dụng thuật ngữ của chuyên ngành đó, bài viết trở nên không sâu tính thuyếtphục không cao, thậm trí là không thể thực hiện được phản biện. Nhà báoHữu Thọ cho biết:
Trong xã hội dân chủ hiện nay, dân trí ngày càng nâng cao, lợi íchcủa các tầng lớp không giống nhau, chỗ đứng khác nhau, cách nhìnnhận khác nhau, cho nên một chính sách nào ra đời đương nhiên sẽcó những ý kiến khác nhau, có ý kiến đồng ý, có ý kiến phản đối.Nhà báo có nhiệm vụ đưa những ý kiến khác nhau (gọi là phảnbiện), nhưng nếu đưa thông tin quá đậm đặc, thì thực chất lại làm vôhiệu hóa chính sách. Bác Hồ đã khuyên người làm báo 3 điều: thậtthà, chân thành và chừng mực [107].
Nhà báo phải có động cơ trong sáng, không vụ lợi, không bênh vực một phíađược ngụy trang dưới vỏ bọc phản biện. Nhà báo cần có quan điểm phản biệntích cực, đứng về lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng củangười nông dân trong kinh tế thị trường đầy cạm bẫy.
Bên cạnh đó, cần có kiến thức về công nghệ thông tin ở mức độ nhấtđịnh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ PBXH của tòa soạn. Đây là nội dung rấtquan trọng của báo chí hiện đại, vì sự tương tác của báo chí, nhà báo sẽ nhậnđược nhiều phản hồi cần thiết cho hoạt động phản biện.
4.2.4.3. Mở rộng đội ngũ cộng tác viên đảm bảo thực hiện chức năngphản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
Xây dựng đội ngũ cộng tác viên, chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản
lý, v.v. cần được quan tâm thường xuyên, có kế hoạch hoạt động trước mắt,
165
cũng như lâu dài. Đảm bảo cho cộng tác viên có điều kiện định hướng và cập
nhật thông tin, tư liệu. Việc xây dựng được đội ngũ cộng tác viên am hiểu về
khoa học chính trị, nghiệp vụ báo chí, nhiệt tình, yêu nghề và có khả năng
phản biện tốt là cơ sở để nâng cao chất lượng và uy tín của tờ báo. Đội ngũ
cộng tác viên luôn gắn với thực tiễn và trải rộng trên các lĩnh vực, vùng,
miền, nhờ đó những thông tin, tư liệu không những kịp thời, mà còn tương
đối toàn diện.
Tuy nhiên, chất lượng thông tin của đội ngũ công tác viên không chỉ
phụ thuộc vào bản thân họ, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự chỉ đạo, hướng
dẫn của ban biên tập và người đứng đầu cơ quan báo chí. Việc chăm lo, nâng
cao năng lực làm báo, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân đối với những người
làm báo nói chung và đội ngũ cộng tác viên nói riêng là một trong những
công việc đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý không chỉ quan tâm, mà còn phải
thường xuyên đổi mới, sáng tạo để đưa ra những giải pháp mang lại hiệu quả
cao. Kịp thời biểu dương, khen thưởng những cá nhân có có những phát hiện,
tin, bài hay, có giá trị trong thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí.
4.2.5. Nhóm giải pháp về xác định tiêu chí đánh giá (mức độ đạt
được so với tiêu chuẩn) việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của
báo chí ở Việt Nam hiện nay
4.2.5.1. Bảo đảm tính khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể trong
phản biện xã hộiTrong quá trình phản biện phải bảo đảm tính khách quan toàn diện,
muốn là được điều này báo chí phải thể hiện lập trường gia cấp rõ ràng, phóng
viên, biện tập viên, tổng biên tập phải có bản lĩnh thực hiện phản biện. Không
chủ quan, cảm tính trong thực hiện nhiệm vụ đặt lợi ích cộng đồng, quốc gia
dân tộc nên trên hết, chống lại những quan điểm, tiêu cực sai trái chạy theo
đồng tiền đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc. Quá trình thực hiện trước,
trong và sau phản biện cần phải đảm bảo tính khoa học từ việc lựa chọn chủ
166
đề đến xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện. Ví dụ quá trình sử lý tài liệu cần phải
hết sức khoa học và tỷ mỷ, những tài liệu này giao cho ai, lấy ở đâu, đối tượng
nào, cái nào trước cái nào sau tất cả các công việc ấy cần phải có khoa học.
4.2.5.2. Thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chínhsách, pháp luật của Nhà nước về phản biện xã hội
Trước hết để thực hiện đúng các qui định của pháp luật về phản biệnđòi hỏi phải có luật về PBXH của báo chí, có như vậy thì báo chí mới có cơsở pháp lý để phản biện. Như chúng ta đã biết Đảng lãnh đạo bằng việc đề racác chủ trương, nghị quyết chỉ thị đối với báo chí; lãnh đạo thông qua côngtác tổ chức - cán bộ, qua việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cơquan báo chí; kiểm tra nội dung chính trị tư tưởng của báo chí; kiểm tra các tổchức đảng và đảng viên thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trong các cơ quanbáo chí. Vì vậy trong thực hiện PBXH của báo chí Đảng phải có chỉ thị, quyếtđịnh, nghị quyết về vấn đề phản biện của báo chí. Trên cơ sở đó Nhà nướcxây dựng luật và các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư, hướng dẫn chohoạt động phản biện của báo chí; có như vậy quá trình thực hiện phản biện mớibảo đảm tính pháp lý. Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của BộChính trị ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Namvà các đoàn thể chính trị - xã hội là một thực tiễn cần được vận dụng.
Khi các văn bản pháp quy được ban hành, đòi hỏi báo chí cần phải lấyđó làm khuôn mẫu để thực hiện phản biện xã hội; báo chí chỉ được thực hiệnnhững gì mà pháp luật cho phép. Thực hiện phản biện đúng pháp luật là mộttất yếu, bởi báo chí là cộng cụ tư tưởng sắc bén của Đảng và Nhà nước chonên mọi phản biện đều phải được kiểm soát, không thể nói cho thích, tự dotùy tiện nêu vấn đề rồi để đó không đi đến cùng sự việc. Tình trạng một số tờbáo còn tùy tiện bất tuân "Lệnh" khi đưa tin những vấn đề nhạy cảm như làmột chuyên đề để phản biện.
Việc tăng cường đào tạo bồi dưỡng quán triệt cho đội ngũ báo chí các
văn bản chỉ thị của Đảng và luật pháp của Nhà nước là hết sức cần thiết; họ
167
phải cần am hiểu pháp luật ngoài chuyên môn nghiệp vụ ra tránh cho qúa
trình thực hiện phản biện vi phạm pháp luật ở đây rất cần lưu ý cho những
phóng viên báo chí tác nghiệp độc lập. Tăng cường những phóng viên có
chuyên môn nghiệp vụ vững, kinh nghiệm, bản lĩnh chính trị và tâm của
người làm báo.
PBXH của báo chí thực hiện đúng pháp luật chính là hành động vănminh trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam mà hiến pháp năm2013 đã qui định. Đồng thời cũng chính là xây dựng nền báo chí cách mạng,hiện đại, hội nhập quốc tế.
4.2.5.3. Tôn trọng các chuẩn mực văn hóa và đạo đức xã hội trongphản biện
Bên cạnh việc PBXH thực hiện đúng các qui định của pháp luật thì báochí cần phải tôn trọng các giá trị chuẩn mực văn hóa và đạo đức. Pháp luậtđiều chỉnh các quan hệ xã hội song không phải là tất cả các quan hệ mà bêncạnh đó còn có các quan hệ do các qui phạm về đạo đức điều chỉnh. Theo đó:
Thứ nhất, để phản biện có kết quả, báo chí cần phải quan tâm đến cácqui định về đạo đức nghề nghiệp của báo chí. Ngoài luật báo chí điều chỉnhcác hoạt động báo chí ra thì Hội nhà báo Việt Nam có qui định về đạo đứcnhà báo đây có thể được coi là nội dung quan trọng để các Nhà báo hoạt độngcó hiệu quả
Thứ hai, thực hiện phản biện cần phải am hiểu phong tục tập quán,truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, các giá trị đạo đức chuẩn mực từng vùngmiền, dân tộc khác nhau. Ví dụ, vừa qua báo chí tham gia phản biện 3 phươngán xây dựng và cải tạo cầu Long Biên, Hà Nội, ở đây cần hiểu được giá trịvăn hóa của cây cầu với không gian văn hóa Hà Nội là gì và các giá trị kinh tếkhác mà nó mang lại để đi đến nhận xét đánh giá phản biện cho đúng với tầmvóc của nó.
Thứ ba, thực hiện PBXH của báo chí cần thể hiện văn hóa trong mọi
hoạt động, làm cho nội dung phản biện có tính hấp dẫn hơn, dễ cảm hóa đối
168
tượng hơn, v.v.. Tình trạng công kích, bài bác nhau đã xảy ra làm cho hoạt
động của một số cơ quan báo chí mất uy tín với độc giả và sự đánh giá của
đối tượng nhận phản biện. Cho nên muốn thuyết phục được đối tượng thì
người thực hiện phản biện phải có văn hóa có đạo đức và đó cũng chính là sự
tôn trọng lẫn nhau.
Thứ tư, các nhà báo cần không ngừng học hỏi ngoài nghiệp vụ chuyên
môn, đạo đức nhà báo mà còn tìm hiểu tổng kết đúc rút kinh nghiệm trong cuộc
sống để nâng tầm văn hóa, xây dựng cho mình đạo đức phản biện của báo chí.
4.2.5.4. Tổ chức hợp lý lực lượng tham gia thực hiện chức năng
phản biện xã hộiCần phải đổi mới nhận thức về chức năng PBXH của báo chí, MTTQ
có chức năng giám sát và phản biện mà báo chí là một tổ chức nằm trong đó,
cho nên báo chí có chức năng PBXH trong một thể thống nhất của HTCT.
Các thành phần và lực lượng trong HTCT có nhiệm vụ tham gia xây dựng
chính quyền, do đó PBXH là một kênh quan trọng để thực hiện nhiệm vụ đó.
Thực hiện PBXH của báo chí cần phải tập hợp và huy động đông đảo
lực lượng tham gia như MTTQ; các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, hội
nghề nghiệp, v.v. các chuyên gia và các nhà khoa học am hiểu các lĩnh vực
khác nhau. Bằng các hình thức như tổ chức hội thảo, tọa đàm khoa học để có
tin bài, đây là việc làm cần được tổ chức một cách chặt chẽ đảm bảo đúng nội
dung và kịp thời. Các tin bài có giá trị xuất hiện trên mặt báo sẽ góp phần làm
cho phản biện sâu sắc hiệu quả cao hơn.
Muốn làm cho số lượng, thành phần tham gia thực hiện chức năng
PBXH đông đảo và có hiệu quả, báo chí cần có kế hoạch bố trí nội dung
chương trình phối kết hợp khoa học; có nguồn tài chính cơ sở vật chất hỗ trợ
cho hoạt động phản biện từ trước trong và sau.
Tòa soạn báo có kế hoạch cho các phóng viên của mình thực hiện phản
biện, bên cạnh đó cơ quan báo chí và các phóng viên có thể huy động phối
169
hợp với các tờ báo khác cùng phản biện tạo không khí phản biện tích cực và
sôi nổi. Dự kiến được mỗi một sự kiện cần một số lượng phóng viên là bao
nhiêu, cộng tác viên bao nhiêu, cơ quan liên quan, cơ quan báo chí.
Cần liên kết hợp tác với các nước phát triển có những điểm tương đồng
trong hoạt động phản biện và kế thừa kinh nghiệm của họ. PBXH của báo chí
đang là những vấn đề mới, khá nhạy cảm còn nhiều ý kiến khác nhau việc
nghiên cứu trao đổi với nước ngoài là cần thiết.
4.2.5.5. Nâng cao mức độ, mở rộng phạm vi tác động và hiệu quả
thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
Đây là tiêu chí quan trọng quyết định bởi suy cho cùng dù có phản biện
hay không thì hiệu quả, chính trị, kinh tế văn hóa xã hội phải có sự thay đổi.
Nếu cho là hiệu quả phản biện tốt mà kết quả kinh tế xã hội thấp kém thì phản
biện không có ý nghĩa gì. Vấn đề đặt ra ở đây là giải pháp nào để phản biện
của báo chí thúc đẩy được kinh tế xã hội phát triển, câu hỏi cần có lời giải.
Thứ nhất, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đều bắt
nguồn từ việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, cho nên
phản biện của báo chí phải lấy đó làm mục đích để hành động. Khi phản biện
báo chí cần phải đánh giá đúng vấn đề, xem xét một cách khoa học nội dung
mà các nhà hoạch định cần xin ý kiến. Ví dụ; Đề án đổi mới thi tốt nghiệp
Phổ thông Trung học năm học 2014 - 2015 được Bộ giáo dục và Đào tạo đưa
ra đã tạo ra những cuộc tranh luận, thảo luận, phản biện sôi nổi của báo chí và
toàn xã hội và chúng ta thấy các nhà hoạch định chính sách lắng nghe và tiếp
thu, bổ xung và sửa đổi tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Thứ hai, sự ảnh hưởng tác động đến phát triển kinh tế, xã hội đòi hỏi
phản biện của báo chí cần có sự chuyên sâu, am hiểu các lĩnh vực, đồng thời
huy động các chuyên gia về từng lĩnh vực làm nổi bật tính khách quan khoa
học của vấn đề.
170
Tiếu kết chương 4
Những quan điểm định hướng và những giải pháp - từ nhận thức đến
thể chế và nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của PBXH
của báo chí nước ta hiện nay và những năm tới là những vấn đề cần được
quán triệt và và thực hiện nghiêm túc. Hơn nữa, để việc thực nhiệm chức năng
PBXH của báo chí nước ta thật sự có chất lượng và hiệu quả, cần đánh giá
PBXH của báo chí theo những tiêu chí đã được xác định. Tiêu chí đánh giá
kết quả PBXH của báo chí có vai trò và vị trí quan trọng hoạt động phản biện
của báo chí, muốn có kết quả phản biện tốt cần phải xây dựng và thực hiện
các tiêu chí và do đó xây dựng tiêu chí là một đòi hỏi khách quan.
Trên cơ sở các quan điểm có tính định hướng, cần thực hiện các nhóm
giải pháp một cách đồng bộ có hiệu quả chức năng PBXH của báo chí, làm
cho chức năng này có sức lan tỏa trở thành diễn đàn rộng rãi của người dân.
Thông qua PBXH của báo chí, nhân dân được trình bày tâm tư, nguyện vọng,
những góp ý quan trọng cho đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước.
171
KẾT LUẬN
1. Trên cơ sở kế thừa những kết quả đã được nghiên cứu ở trên, nhiều
vấn đề đặt ra cho luận án là, làm sáng tỏ những cơ sở khoa học lý luận và thực
tiễn của việc xác định nội hàm của khái niệm chức năng PBXH của báo chí và
báo chí ở Việt Nam; đánh giá sự cần thiết và thực trạng, xác định quan điểm,
giải pháp thực hiện có hiệu quả chức năng PBXH của báo chí ở Việt Nam
hiện nay. Những kết quả nghiên cứu của các công trình đã được khảo sát là
những tài liệu quý báu cho việc nghiên cứu đề tài. Tác giả luận án kế thừa,
tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác
giả có liên quan để tiếp tục đi sâu nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí ở
Việt Nam.
2. Những vấn đề lý luận về phản biện, PBXH, PBXH của báo chí, chức
năng của báo chí, chức năng PBXH của báo chí nói chung và chức năng
PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện tiếp cận từ chính trị học, với những vấn
đề đã được làm rõ ở trên, thật sự có ý nghĩa cho việc lý giải những vấn đề của
báo chí, chức năng của báo chí và nhất là chức năng PBXH của báo chí ở Việt
Nam hiện nay. Trong những quan niệm, khái niệm được trình bày và phân
tích trên đây vừa thể hiện những giá trị có tính phổ biến của báo chí trên thế
giới, vừa có sự vận dụng, liên hệ cụ thể với báo chí và PBXH của báo chí ở
nước ta hiện nay. Những tiêu chí đánh giá hiệu quả và chất lượng của hoạt
động PBXH với tính cách là chức năng của báo chí ở Việt Nam đã được nêu
ra. Những tiêu chí này, do việc lần đầu tiên được luận án này nêu ra và còn
phải được thực tiễn PBXH của báo chí ở nước ta kiểm nghiệm và bổ sung,
nhưng đây cũng là một trong những đóng góp của luận án về đánh giá PBXH
của báo chí ở nước ta. Những tiêu chí này sẽ là căn cứ cho việc đánh giá thực
trạng của việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí nước ta hiện nay và
những năm tới.
172
3. Trước những yêu cầu do sự nghiệp đổi mới đặt ra đối với việc thực
hiện chức năng PBXH của báo chí, báo chí nước ta đã đạt được những thành
tựu bước đầu. Những phản biện đó đã tạo cơ sở tiền đề giúp cho Đảng và Nhà
nước ta hình thành đường lối đổi mới, ban hành các chính sách, pháp luật phù
hợp với thực tiễn. Những đóng góp của PBXH của báo chí đã và đang đóng
góp to lớn và thành quả chung của đất nước sau gần 30 năm đổi mới. Tuy
nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện chức năng
PBXH của báo chí ở nước ta. Hơn nữa những khó khăn, thánh thức trong việc
thực hiện chức năng PBXH của báo chí nước ta hiện nay và những năm tới rất
lớn. Việc thực hiện PBXH của báo chí nước ta thời gian tới, do công cuộc đổi
mới của đất nước đặt ra, cần phải tiếp tục bổ sung, phát triển và cần phải đưa
chức năng PBXH của báo chí vào Luật báo chí sửa đổi, nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Việc thực
hiện những quan điểm đúng đắn và giải pháp phù hợp, khả thi sẽ nâng cao
chất lượng và hiệu quả chức năng PBXH của báo chí nước ta
4. Những quan điểm định hướng và những giải pháp - từ nhận thức đến
thể chế và nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của chức
năng PBXH của báo chí nước ta hiện nay và những năm tới là những vấn đề
cần được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Hơn nữa, để việc thực hiện chức
năng PBXH của báo chí nước ta thật sự có chất lượng và hiệu quả, cần đáng
giá PBXH của báo chí theo những tiêu chí đã được xác định. Trên cơ sở các
quan điểm có tính định hướng, cần thực hiện các nhóm giải pháp một cách đồng
bộ có hiệu quả chức năng PBXH của báo chí, làm cho chức năng này có sức lan
tỏa trở thành diễn đàn rộng rãi của người dân. Thông qua chức năng PBXH của
báo chí, nhân dân được trình bày tâm tư nguyện vọng, những góp ý quan trọng
cho đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước.
173
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1 . Nguyễn Văn Minh (2009), “Phản biện xã hội của báo chí góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng”, trong sách Nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Minh (Chủ nhiệm, 2010), Một số giải pháp nâng cao chất
lượng tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước trên báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đề tài khoa học cấp Ban/Bộ, KHBĐ (2010)-04, Ban Tuyên giáo
Trung ương.
3. Nguyễn Văn Minh (2012), "Báo chí với việc nâng cao chất lượng tuyên
truyền nghị quyết của Đảng", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 30/8/2012.
4. Nguyễn Văn Minh (2014), "Một số vấn đề về phản biện xã hội của báo chí
ở nước ta hiện nay", Tạp chí Báo cáo viên, (8).
5. Nguyễn Văn Minh (2014), "Phản biện xã hội của báo chí và phản biện xã
hội qua báo chí", Tạp chí Lý luận chính trị, (8).
6. Nguyễn Văn Minh (2014), "Phản biện xã hội của báo chí là chức năng của
báo chí", Tạp chí Dạy và Học ngày nay số chuyên đề, (11).
174
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Quang A (2010), “Báo chí với phản biện”, Báo Tiền Phong, ngày22/6/2010.
2. Nguyễn Quang A (2013), Dân mong gì ở báo chí trong việc đưa tin bài vềcác dự thảo chính sách, Hội thảo “Vai trò của báo chí, truyền thôngtrong việc lấy ý kiến nhân dân cho các dự thảo chính sách”, do REDthuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chứcngày 27/2, tại Hà Nội.
3. V.Aphanaxép (1995), Quyền lực thứ tư và bốn đời Tổng bí thư, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Dương Ngọc Ánh (2005), Báo chí tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ chủquyền kinh tế đất nước, Luận văn thạc sĩ Ngành báo chí.
5. Nguyễn Thọ Ánh (2012). Thực hiện chức năng giám sát phản biện xã hộicủa Mặt trận tổ quốc Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, HàNội.
6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1985), Quy chế tổ chức báo địaphương, ngày 15/10/1985.
7. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981), Chỉ thị số 100- CT/TW ban hànhtháng 10/1981 về chủ trương khoán sản phẩm đến nhóm và ngườilao động trong hợp tác xã nông nghiệp.
8. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1992), Chỉ thị số 08-CT/TW ngày31/3/1992 về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng caochất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản”.
9. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1997), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiệnChỉ thị 08 -CT/ TW của Ban Bí thư (khóa VII).
10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tăng cường lãnh đạo quản lý tạođiều kiện để báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, đúng hướng, NxbLý luận chính trị, Hà Nội.
175
11. Ban Tuyên giáo Trung ương (2012), Báo cáo công tác báo chí năm 2012,
một số nhiệm vụ trọng tâm 2013.
12. Ban Tuyên giáo Trung ương (2013), Báo cáo tổng kết báo chí năm 2013.
13. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2009), Lịch sử báo chí Việt Nam,
Đề tài cấp nhà nước.
14. Trần Đình Bá (1999), Một chặng đường làm báo, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
15. Lý Diệu Bác (2009), “Công tác tư tưởng cần tăng cường đổi mới và tính
thời đại”, Tạp chí Pháp chế Chính phủ (Trung Quốc), (31).
16. Nguyễn Trần Bạt (2007), “Phản biện xã hội”, http:// w.w.w. chúng ta.net,
ngày 27 tháng 2.
17. Nguyễn Thanh Bình (2009), “Điều kiện cho giám sát phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận (7/80)
18. Nguyễn Trọng Bình (2009), “Về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và tác dụng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nước
ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (8) .
19. Nguyễn Trọng Bình (2009), “Nâng cao hiệu quả phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí lý luận chính trị,(11).
20. Nguyễn Trọng Bình (2010), “ Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam – Thực trạng và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Mặt trận (81)
21. Nguyễn Hoà Bình (2010), “Phản biện xã hội”, Báo Hà Nội mới, ngày 24,
tháng 7.
22. Nguyễn Trọng Bình (2007), “Một số ý kiến về phản biện xã hội”, Thông
tin Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (4).
23. Lại Thị Hải Bình (2006), Báo chí với quá trình hình thành nhân cách của
học sinh, sinh viên, Luận văn thạc sĩ ngành báo chí.
24. Bộ Chính trị (1988), Nghị quyết số 10- NQ/TW ngày 5/4/1988 về đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp.
176
25. Bộ Chính trị (1997), Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 17/10/1997 tiếp tục đổi
mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản.
26. Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 về quy
chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội.
27. Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Tài chính (2007), Thông tư số 17/2007/
TTLT/BVHTT - BTC ngày 14/6/2007 hướng dẫn thực hiện hỗ trợ tác
phẩm báo chí chất lượng cao ở Trung ương và địa phương giai
đoạn 2006 - 2010.
28. A.A. Chertưchơnưi (2004), Các thể loại báo chí, Nxb Thông tấn,Mátxcơva (Liên bang Nga).
29. Chính trị học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn (2012), Nxb Chính trịquốc gia - Sự thật, Hà Nội.
30. Hoàng Thủy Chung (2010), Tính phản biện xã hội của tác phẩm báo chí,Luận văn thạc sĩ ngành Báo chí Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Chủ tịch Hồ Chí Minh (1949), Thư gửi Lớp học viết báo Huỳnh ThúcKháng, ngày 9/6/1949.
32. Đỗ Quý Doãn (2010), “Thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng vềbáo chí, xuất bản thành chính sách, pháp luật của Nhà nước”, Tạpchí Cộng sản điện tử, ngày 17/6/2010.
33. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại họcquốc gia, Hà Nội.
34. Bùi Phương Dung (2005), Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới,Trần Khang và Lê Cự Lộc dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Dững (Chủ biên) (2007), Tác phẩm báo chí, Tập 2, Nxb lýluận chính trị, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.37. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và truyền thông hiện đại, Nxb Lao
động, Hà Nội.
177
38. Nguyễn Văn Dững (2013), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao động, Hà Nội.39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1988), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
46. Hà Đăng (2003), “Nâng cao công tác báo chí của Đảng dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (40).
47. Trần Ngọc Đường (Chủ biên) (2011), Một số vấn đề về phân công phối
hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. A.A. Grabennhicốp (2003), Báo chí trong kinh tế thị trường, Nxb Thông
tấn, Mátxcơva.
49. Trương Thị Hồng Hà (2007), “Xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo cho
nhân dân tham gia hoạt động giám sát phản biện xã hội”, Tạp chí
Cộng sản, (8/778), tr.56 - 61.
50. Hoàng Hải (2006), “Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc trong phản biện
xã hội và giám sát xây dựng Đảng”, Tạp chí Mặt trận, (37).
178
51. Phạm Thị Hằng (2008), Nâng cao chất lượng thông tin trên báo điện tử,
Luận văn thạc sĩ ngành Báo chí.
52. Đinh Thu Hằng (2008), “Phát huy vai trò phản biện xã hội của báo chí”,
Tạp chí Lý luận và truyền thông, (8).
53. Phạm Xuân Hằng (2009), Xây dựng cơ chế phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc thành phố Hà Nội nhằm phát triển kinh tế xã hội của Thủ
đô, Đề tài khoa học: 01X -11/02 -2009 -1.
54. Trần Hậu (2009), “Góp phần tìm hiểu về phản biện xã hội”, Tạp chí Lý
luận chính trị, (6), tr.77 -80.
55. Trần Hậu (2009), Các hình thức và giải pháp thực hiện giám sát xã hội và
phản biện xã hội đối với các tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị, Chương trình khoa học và công nghệ KX10.06 - 10.
56. Hiến pháp Hoa kỳ ngày 17/9/1787, http://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%
BA%BFn_ph%C3%A1p_Hoa_K%E1%BB%B3
57. Nguyễn Văn Hiếu (2013), Cơ quan xây dựng chính sách mong đợi gì ở
báo chí xung quanh việc triển khai lấy ý kiến của nhân dân, Hội
thảo “Vai trò của báo chí, truyền thông trong việc lấy ý kiến nhân
dân cho các dự thảo chính sách”, do RED thuộc Liên hiệp các Hội
Khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 27/2 tại Hà Nội.
58. Vũ Thị Như Hoa (2013), Nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam ở nước ta hiện nay, Chuyên ngành Chính trị học -
Trường Đại học KHXH và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
59. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chính trị
học (2000), "Đối tượng, chức năng đặc điểm và nội dung của Chính
trị học Việt Nam", Tạp chí Thông tin chính trị học, (5).
60. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Chính trị
(2004), Tập bài giảng Chính trị (hệ Cao cấp chính trị), Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
179
61. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính
trị khu vực I, Khoa Chính trị học (2010), Chính trị học - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chính trị
học (2011), Tập bài giảng Chính trị học (hệ Cao cấp lý luận chính
trị), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
63. Đỗ Minh Hồng (2006), Báo điện tử Việt Nam và vấn đề văn hóa dân tộc,
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí.
64. Nguyễn Văn Huyên (2001), “Phát huy dân chủ trong cơ chế một đảng
cầm quyền ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (1), tr.9 - 12.
65. Nguyễn Văn Huyên (2005), "Văn hóa và văn hóa chính trị từ cách tiếp
cận triết học mác xít", Tạp chí Triết học, (5).
66. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2012), Các chuyên đề bài giảng lịch sử
tư tưởng và các học thuyết chính trị thế giới, Nxb Chính trị - Hành
chính quốc gia, Hà Nội.
67. Đặng Thị Thu Hương (2013), Báo chí các nước ASEAN, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
68. Mai Thúy Hường (2009), Báo chí với vấn đề kiểm soát quyền lực (khảo
sát qua báo in), Luận văn Ths chuyên ngành báo chí.
69. Lưu Văn Kiền (2001), “Báo chí - công cụ sắc bén của công tác tư tưởng”,
Tạp chí Cộng sản, (16).
70. Phan Văn Kiền (2012), Phản biện xã hội của tác phẩn báo chí Việt Nam
qua một số sự kiện nổi bật, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
71. Trần Danh Lân (2007), Báo chí trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng
ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ ngành Chính trị học.
72. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Tập 44, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
180
75. L.Lipson (1965), Những tranh luận lớn về chính trị, Nxb Prentice Hall
INC (Bản dịch của Viện Chính trị học).
76. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
77. Điền Trung Mẫn (2007), “Bàn về đổi mới công tác tư tưởng thời kỳ mới”,
Tạp chí Học tập và nghiên cứu lý luận (Trung Quốc), (8).
78. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2009), “Về giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân”, Đề án của Đảng đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Hà Nội.
79. Nguyễn Văn Minh (2010), Giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đề tài cấp Bộ/ Ban.
80. Montesquieu (2004), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
81. Hoàng Thị Ngân (2010), “Giám sát và phản biện xã hội”, Tạp chí Nhànước và Pháp luật, (9/269).
82. Tạ Thị Nguyệt (2009), Báo chí với phản biện xã hội, Luận văn cử nhânbáo chí (Học viện báo chí và tuyên truyền).
83. Minh Nhật (2012), "Vai trò phản biện của báo chí là rất quan trọng", Báomới điện tử, ngày 20/6/2012.
84. Trần Quang Nhiếp (2000), Định hướng và quản lý báo chí trong điều kiệnkinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, Nxb Chínhtrị quốc gia, Hà Nội.
85. M.Prelot và G.Lescuyer (1975), Lịch sử các tư tưởng Chính trị, NxbDaloz, (Bản dịch của Viện Chính trị học).
86. E.P. Prôkhôrốp (2004), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Thông tấn, Mátxcơva(Liên bang Nga).
181
87. Đào Duy Quát, Đỗ Quang Hưng,Vũ Duy Thông (Chủ biên) (2010), Tổngquan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam (1925 - 2010), Nxb Chínhtrị quốc gia, Hà Nội.
88. Lê Minh Quân (2009), Tư tưởng chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở ViệtNam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
90. Lê Minh Quân - Bùi Viêt Hương (2012), Về quyền lực nhà nước trongquản lý hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Đỗ Văn Quân (2012), Phản biện xã hội qua báo chí (Nghiên cứu trườnghợp tờ Báo điện tử VietNamnet), Luận án tiến sĩ Xã hội học.
92. Quốc hội (1999), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,Hà Nội.
94. Tô Huy Rứa (2007), "Tiếp tục đổi mới và phát triển vững chắc nền báochí cách mạng nước ta", Tạp chí Cộng sản, (6).
95. Tô Huy Rứa (2009), “Nhiều phản biện của báo chí được Đảng, Nhà nướctiếp thu”, Cổng TTĐT Chính phủ, ngày 16/6.
96. Trương Tấn Sang (2007), "Tiếp tục phát triển nền báo chí cách mạng, gópphần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóađất nước", Báo Nhân Dân, ngày 21/6/2007.
97. M.I. Sotak (2003), Phóng sự - tính chuyên nghiệp và đạo đức, Nxb Thôngtấn Mátxcơva (Liên bang Nga).
98. Dương Xuân Sơn (1996), Báo chí nước ngoài, Nxb Văn hóa - Thông tin,Hà Nội.
99. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2011), Cơ sở lý luậnbáo chí truyền thông, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
100. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa -Thông tin, Hà Nội.
182
101. Tạ Ngọc Tấn (2000), "70 năm Đảng lãnh đạo báo chí, những vấn đềnóng hổi tính thời sự", Tạp chí Cộng sản, (6).
102. Tạ Ngọc Tấn, Đinh Thế Huynh (2007), Cơ sở lý luận báo chí, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Chu Thái Thành (2000), Đội ngũ nhà báo Việt Nam trong công cuộc đổimới theo định hướng XHCN, Luận án tiến sĩ chuyên ngành CNXHkhoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
104. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (2011), Trào lưu xã hội dân chủ ở mộtsố nước phương Tây hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Hồ Bá Thâm và Nguyễn Thị Tường Văn (2010), Phản biện xã hội vàphát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Đỗ Thịnh (2013), Vai trò của báo chí trong việc lấy ý kiến của nhân chocác chính sách lớn, Hội thảo “Vai trò của báo chí, truyền thôngtrong việc lấy ý kiến nhân dân cho các dự thảo chính sách”, do REDthuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chứcngày 27/2, tại Hà Nội.
107. Hữu Thọ (2012), "Ngòi bút trách nhiệm", Tạp chí Tuyên giáo, (6).
108. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày
28/5/2007 ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho
báo chí.
109. Đỗ Duy Thường (2006), “Phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, (12).
110. Nguyễn Vũ Tiến (2003), Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trongthời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học.
111. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1999), 70 năm báo Lao động,Nxb Lao động, Hà Nội.
112. Nguyễn Thu Trang (2013), Báo chí trong việc lấy ý kiến của cộng đồng
doanh nghiệp góp ý cho các dự thảo chính sách kinh tế, Hội thảo
183
“Vai trò của báo chí, truyền thông trong việc lấy ý kiến nhân dân
cho các dự thảo chính sách”, do RED thuộc Liên hiệp các Hội Khoa
học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 27/2, tại Hà Nội.
113. Nguyễn Phú Trọng (2012), "Sức hấp dẫn của báo chí chính là nói đúngsự thật một cách thuyết phục", Báo Sài Gòn giải phóng điện tử,http://www.sggp.org.vn/, ngày 10/6/2012.
114. Trần Đăng Tuấn (2006), “Phản biện xã hội: Một số vấn đề chung”, Tạpchí Cộng sản, (18).
115. Trần Đăng Tuấn (2006), “Phương thức phản biện xã hội”, Tạp chíCộng sản, (17).
116. Lê Huy Tuấn (2005), Triết học chính trị Montesqiueu với việc xây dựng Nhànước pháp quyền Việt Nam, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
117. Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của cách mạng Pháp năm 1789.http://reds.vn/index.php/lich-su/lan-song-do/1400-tuyen-ngon-nhanquyen-va-dan-quyen-1789. Đăng thứ bảy, ngày 14 Tháng 7 2012 12:46
118. Phạm Quang Tú, Đặng Hoàng Giang, “Phản biện xã hội; khái niệm,chức năng và điều kiện hình thành”, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&News=5004&CategoryID=42. 09:10-20/03/2012
119. Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Tuệ (Chủ biên), (1998), Từ điển tiếng ViệtNxb Đà Nẵng.
120. Hồng Vinh (2004), “Nhiệm vụ của Báo chí trước yêu cầu mới của đấtnước”, Tạp chí Cộng sản, (61).
121. Nguyễn Hồng Vinh, “Về tự do ngôn luận tự do báo chí”, http://www.baocantho.com.vn/, Chủ nhật, 16/06/2013 20 giờ 20 GMT+0
122. Nguyễn Hữu Vịnh (2013), Xây dựng chính sách và truyền thông xãhội: Học kiến thức và tập dân chủ, Hội thảo “Vai trò của báo chí,truyền thông trong việc lấy ý kiến nhân dân cho các dự thảo chínhsách”, do RED thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật ViệtNam tổ chức ngày 27/2/2013 tại Hà Nội.
184
123. Dương Vũ (2004), "Báo chí tham gia quản lý xã hội", Tạp chí Cộng
sản, (5).
124. Vụ Báo chí Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Chỉ đạo quản lý báo
chí trong tình hình hiện nay, Đề tài cấp Ban / Bộ.
Tài liệu tiếng Anh
125. Allan J. Cigler (2003), Interest Group Politis, Burdett A.Loomis,
Washington DC.
126. Escobar. A (1995), Encountering Development: The Making and
Unmaking of the third World, Princetion: Princeton University Press.
127. David B.Truman (1951), The Governmental Proceses, New York:
Alfred A. Knopf, Ine.
128. Jean L. Cohen and Andrew Arato (1992), Civil society and political
theory Cambridge, Mass: Mit Press.
129. J. Patrik Gunning (2003), Understanding Democracy - an introductionto public choice.
130. Hedebro (1982), Communication and Social Change in DevelopingNations: A critical View, Ames: Iowa State University Press.
131. Huntington, S.P (1968), Political order in changing societies, NewHaven, CT: Yale University Press.
132. Kausikan. B (1994), Human rights: Asia’a diferent stand, Media Asia,21 (1) : 45-51
133. Katz and P.F.Lazarsfeld, Personal Influence: The Part Played byPeople in the Flow of Mass Communication, 2nd. (Free Press, NewYokf, 2005).
134. Lee K.Y (1992), Discipline versus democracy, Far Eastern EconomicReview, 10 December: 29.
135. McQuail.D (1987), Mass Communication Theory: An introduction,
Lodon: Sage.
185
136. Michael Walzer (1983), Interpetation and Social Criticism, Havard
University Press.
137. Neocleous, Kean J (1998), Civli society and State, Verso, London.
138. Pye.L.W (1963), Communication and Political Development,
Princeton: Princeton University Press.
139. Robert A.Dahl (1982), Dilemmas of Pluralistdemocracy, Yale
University Press.
140. Sen (1999), Development as Freedom, NewYork, Rendom House.