btt2

28
I. Th ời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam 1. Định nghĩa Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài" 2.Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam tạm thời chia hai miền: miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - hậu phương lớn của cách mạng miền Nam... Đảng ta đã xác định rõ: đặc điểm lớn nhất của miền Bắc, xét về kinh tế, là từ nền sản xuất nhỏ,

Upload: linhnguyenmanh

Post on 28-Jan-2016

221 views

Category:

Documents


0 download

DESCRIPTION

no

TRANSCRIPT

Page 1: BTT2

I. Thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam

1. Định nghĩa Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài"

2.Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Từ  sau  thắng  lợi  của  cuộc  kháng  chiến  chống  thực  dân  Pháp, Việt Nam tạm thời chia hai miền: miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - hậu phương lớn của cách mạng miền Nam... Đảng ta đã xác định rõ: đặc điểm lớn nhất của miền Bắc, xét về kinh tế, là từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Những  thành  tựu  của miền  Bắc trong những  năm chống  Mỹ,  cứu nước đã thực sự xứng đáng là hậu phương lớn của miền Nam và có vai trò quyết định nhất đến toàn bộ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Vận dụng những quan điểm cơ bản mà V.I. Lênin đã nêu ra về đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở "những nước tiểu nông", Đảng ta  và  nhân  dân  ta  đã  có  những thành  quả  bước  đầu  trong xây  dựng  chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng khoảng thời gian 1975-1985, chúng ta đã phạm một số sai lầm, trong đó có biểu hiện chủ quan, nóng vội, giản đơn, nhất là về quản lý kinh tế: đó là quá chú trọng hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể một cách hình thức, thực hiện quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, hành chính bao cấp của  Nhà  nước; nhận thức chưa đúng quan điểm của V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần kinh tế đan xen nhau... trong thời kỳ quá độ, do đó đã biến chế độ sở hữu toàn dân và tập thể trở nên trừu tượng, hình thức bề ngoài - nhiều tư liệu sản xuất chung của xã hội, nhất là đất

Page 2: BTT2

đai, trở nên không có chủ cụ thể...  Đó là một trong những nguyên nhân làm triệt tiêu các động lực, các tiềm năng của toàn dân ta, của đất nước ta và không phát huy hết nội lực, không tranh thủ được sự hợp tác quốc tế. Vì vậy, kinh tế, xã hội đã lâm vào trì trệ, khủng hoảng... Đại  hội  Đảng  Cộng  sản  Việt  Nam  lần  thứ  VI  đánh  dấu  sự  mở đầu chính thức công cuộc đổi mới đất nước theo định  hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định đúng đắn, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế. Đổi mới toàn diện, nhưng có trọng điểm đúng: trên cơ sở ổn định, phát triển kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, đồng thời và từng bước đổi mới hệ thống chính trị...  để phát triển đất nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã có nhận thức ngày càng rõ hơn về "thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", có thể thấy rõ những bước cụ thể hoá về phát triển "bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa". Đường lối đổi mới của Đảng ta đã khẳng định đó là "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa". Đến Đại hội IX Đảng ta có nhận thức càng rõ hơn nữa: "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại" .

3. Nội dung của thời kỳ quá độ ở nước ta. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp,  cho  nên  thời  kỳ quá  độ  ở  nước  ta  rất  lâu  dài  với  nhiều  chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa con đường tư bản chủ nghĩa và con đường xã hội chủ nghĩa, đấu tranh quyết liệt chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùngvới những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích  toàn  dân  tộc  trong  mục  tiêu  chung  độc  lập  dân  tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, "Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây

Page 3: BTT2

dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội  chủ  nghĩa  của  nhân  dân,  do  nhân  dân,  vì  nhân  dân;  xây dựng  Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế".

4. Những phương hướng - nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Thứ nhất, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng ta lãnh đạo làm nền tảng và là nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn  dân  tộc.  Thực  hiện  ngày  càng  đầy đủ  các  quyền dân  chủ,  làm  chủ, quyền lực của nhân dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi tội phạm và kẻ thù của nhân dân. Thứ  hai, phát triển lực lượng  sản  xuất,  đẩy  mạnh  công  nghiệp  hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân về vật chất và tinh thần. Thứ ba, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuất qua nhiều hình thức đa dạng về sở hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất, hợp tác sản xuất kinh doanh trong nước và quốc tế. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho cả nền kinh tế quốc dân; từng bước phát triển kinh tế tri thức một cách phù hợp, có hiệu quả và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ đạo. Thứ tư, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng chủ đạo đời sống tinh thần của đất nước. Kế thừa và phát huy tinh hoa văn hoá của dân tộc ta và của nhân loại. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có trí tuệ, đạo đức, lối sống, phong cách... có văn hoá, văn minh; có thể chất và đời sống thẩm mỹ lành mạnh. Đấu tranh loại trừ các biểu hiện phản văn hoá, văn minh, phi đạo lý, đạo đức... trái với giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và của nhân loại tiến bộ, trái với mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội.Thứ năm, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập hợp mọi lực lượng xã hội tán thành và phấn đấu vì mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng,  dân  chủ,  văn  minh  vững  bước đi  lên  chủ  nghĩa  xã  hội.Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, độc lập và cùng có lợi với các nước, các tổ chức quốc tế... Thứ sáu, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, gắn chặt kinh tế với quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thứ  bảy,  thường  xuyên  xây  dựng,  chỉnh  đốn  Đảng  Cộng  sản Việt Nam, theo

Page 4: BTT2

phương châm: phát triển kinh tế là trọng tâm; xây dựng, chỉnh đốn  Đảng  là then chốt... để Đảng ta luôn luôn trong sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín đáp ứng vai trò lãnh đạo xã hội ta trên mọi lĩnh vực trước những yêu cầu ngày càng cao hơn, với những vận hội mới lẫn những thử thách mới.

II. Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (bỏ qua Chủ nghĩa tư bản)

1. Thời kì quá độ lên CNXH chuẩn bị những tiền đề vật chất và tiền đề tinh thần cho CNXH

Tiền đề vật chất : là những vấn đề đã đặt ra liên quan đến vấn đề vật chất , gồm có yếu tố kinh tế : tiến hành công nghiệp hóa , hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Tiền đề tinh thần : là những vấn đề đã đặt ra liên quan đến tư tưởng , ý thức gồm :

Chính trị : tiến hành đấu tranh chống lại những thế lực thù địch , chống phá sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội , tiến hành xây dựng , củng cố nhà

nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh , đảm bảo

quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế , chính trị , văn hóa , xã hội của

nhân dân lao động , xây dựng đảng cộng sản ngày càng trong sạch ,

vững mạnh , ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kì lịch sử.

Tư tưởng – văn hóa : thực hiện tuyên truyền , phổ biến những tư tưởng khoa học và

cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội ; khắc phục những

tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trinh xây dựng

chủ nghĩa xã hội ; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa , tiếp thu

giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.

Xã hội : thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại ; từng

bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền , các tầng

lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội ; xây

Page 5: BTT2

dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng

là tự do của người này là điều kiện , tiền đề cho sự tự do của người khác.

Nói thời kỳ quá độ chuẩn bị những tiền đề ấy cho chủ nghĩa xã hội vì thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu trên con đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội . Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế , chính trị , văn hóa . Xã hội chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành những nội dung đó

2. Lựa chọn đi lên CNXH ở VN:a) Đặc điểm tình hình ở VN:Sau cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN ở miền Bắc, nước ta chuyển ngay sang cách mạng XHCN, vừa xây dựng XHCN ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền Nam. Đồng thời đấy cũng là sự phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay: CNTB với những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và sâu sắc chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hệ thống XHCN trên phạm vi toàn thế giới. Khi bước vào thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH nước ta có những đặc điểm cơ bản sau: về mặt kinh tế, chiến tranh qua đi để lại đất nước ta là một đất nước nghèo nàn với nền kinh tế lạc hậu. Tính chất lạc hậu của nền kinh tế không chỉ được thể hiện ở trình độ lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, mà ở quy mô tổ chức, cách thức quản lý sản xuất, cơ cấu nghành kinh tế,… Nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế như kinh tế quốc doanh, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể,…. trong đó có cả những thành phần kinh tế đối lập với kinh tế XHCN. Trong nông nghiệp, sản xuất chủ yếu nhỏ lẻ, manh mún, kỹ thuật lạc hậu, năng suất thấp. Công nghiệp thì sản xuất rời rạc, nhỏ bé và sự phân bố giữa các nghành không đồng đều. Về mặt chính trị, nhà nước chuyên chính vô sản được thành lập, ngày càng củng cố và hoàn thiện. Về mặt xã hội, tồn tại những cơ cấu giai cấp phức tạp, nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội có những lợi ích đối lập nhau. Có sự khác biệt lớn giữa nông thôn và thành thị, giữa các miền đất nước, giữa lao động trí tuệ và lao động giản đơn. Xét về mặt văn hóa tư tưởng, bên cạnh nền văn hóa tư tưởng mới, vẫn cò tồn tại đan xen những tàn tích của xã hội cũ, tư tưởng cũ lạc hậu. Đó là những điều kiện gây khó khăn cho quá trình quá độ lên CNXH đối với nước ta. Tuy nhiên, đó cũng chính là một trong những điều kiện phù hợp để nước ta tiến hành quá độ từ CNTB lên CNXH. Sự phù hợp với lịch sử của VN thể hiện ở sự phù hợp TKQĐ ở nước ta với lý luận chung về tính chất tất yếu của TKQĐ. Thứ nhất, nhà nước ta đã thực hiện rõ điều này trên quan điểm: “Bỏ qua CNTB, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng hấp thụ kế thừa nhừng thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới thời TBCN.” Thứ hai, đất nước ta còn yếu kém, nhìều tàn dư của chế độ XH cũ và chiến tranh để lại .Công cuộc đi lên CNXH là 1 công việc khó khăn phức tạp . Do đó cần phải có thời gian để cải tạo XH, tạo điều kiện để vật chất tinh thần cho CNXH .

Page 6: BTT2

Và sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta đã có đủ điều kiện quá độ lên TBCN ,đó là: Nhân dân đoàn kết tin tưởng vào chế độ XHCN, chính quyền thuộc về giai cấp của công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng CS và có sự giúp đỡ của các nước tiên tiến ,các nước XHCN anh em và phong trào CM tiến bộ của thế giới.

c) Nguyện vọng của nhân dân VN:

Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử

Nhân dân ta đi theo Đảng tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân không chỉ nhằm thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang, cũng không chỉ nhằm thoát khỏi gông cùm của phong kiến mà khát vọng của nhân dân ta là muốn tiến tới thoát khỏi mọi kiểu áp bức, bóc lột, mọi người đều được sống trong ấm no, tự do, hạnh  phúc. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng đó. Nếu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa mà nhân dân ta đã từng chứng kiến sự đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa tư bản Pháp, Mỹ thì không thể đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Chính vì vậy, đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta. Đó là một sự thật lịch sử không ai có thể phủ nhận được.

Sinh ra và lớn lên ở đất nước bị đế quốc Pháp xâm chiếm, dân tộc bị chìm đắm trong vòng nô lệ. Cách mạng trong đêm tối không tìm thấy đường đi. Trong bối cảnh ấy, Nguyễn ái  Quốc sau nhiều năm bôn ba khắp các châu lục tìm đường cứu nước đã rút ra kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” và “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của  chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930 đã chỉ rõ: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mở đường tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là chủ trương cách mạng triệt để, là sự vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin và quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể nói, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội được đặt ra ngay từ đầu và nhanh chóng trở thành sợi chỉ đỏ trong đường lối của Đảng ta, là quy luật của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã khẳng định: “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên

Page 7: BTT2

quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc”(3).

Sự lựa chọn đó đã được thực tiễn kiểm nghiệm: Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.

Chính vì thế, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(4). Báo cáo chính trị tại Đại hội XI cũng chỉ rõ: “Thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”(5). Sự khẳng định đó là hoàn toàn chính xác, khoa học và cách mạng, hoàn toàn không phải là xuất phát từ ý muốn, nguyện vọng chủ quan.

3. Tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam

Page 8: BTT2

a) Tính chất khó khăn, phức tạp:

Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên Chủ nghĩa Xã hội, nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia; do điều kiện xuất phát riêng  của mỗi quốc gia quy định. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.

Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hòa bình thống nhất quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam vấp phải rất nhiều khó khăn. Việt Nam vừa trải qua cuộc chiến tranh dân tộc trường kỳ, đã qua bao năm tháng bị chiến tranh tàn phá. Chiến tranh để lại những hậu quả vô cùng to lớn, khắc phục những hậu quả này không phải là công việc dễ dàng.

Ngoài ra, Việt Nam vốn là một đất nước nông nghiệp, còn nhiều lạc hậu so với các quốc gia trên thế giới. Trình độ phát triển còn nhiều hạn chế, chưa thể đáp ứng tất cả các nhu cầu cần thiết để trải qua thời kỳ quá độ một cách trơn tru, nhanh chóng. Việc thực hiện quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội yêu cầu rất nhiều nhiệm vụ cần phải thực hiện để đổi mới, cải tạo; với trình độ hạn chế, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi trải qua giai đoạn này.

Trước khi chiến tranh xảy ra, Việt Nam vẫn còn là nhà nước Phong kiến, sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước quyết định thực hiện cải cách, quá độ lên thẳng Chủ nghĩa Xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, Việt Nam thuộc loại hình quá độ gián tiếp: bỏ qua Tư bản Chủ nghĩa để đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Việc bỏ qua Tư bản Chủ nghĩa dẫn đến nền công nghiệp của trở nên kém phát triển, cùng với việc Việt Nam là nước nông nghiệp, càng làm trình độ phát triển của Việt Nam bị hạn chế, tốc độ phát triển bị đình trệ, dẫn đến khó khăn trong quá trình đổi mới để đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Hơn nữa, nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách chưa đồng bộ; tình trạng tham nhũng, suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Đây là những vấn đề cần phải được nhanh chóng khắc phục để đất nước phát triển bền vững

Page 9: BTT2

Thời kỳ quá độ tại Việt Nam là quá trình dài và khó khăn, Việt Nam đã bỏ qua một bước (gọi là nhảy vọt) của phát triển Tư bản Chủ nghĩa (trước khi lên Xã hội Chủ nghĩa) nên Việt Nam không là một nước mạnh về công nghiệp, vẫn phải cố gắng phát triển công nghiệp để trờ thành một nước công nghiệp mạnh. Con đường đi lên Xã hội Chủ nghĩa là một con đường chông gai và gian khổ, đòi hỏi sự hi sinh của tập thể, sự đồng lòng tin tưởng của toàn dân. Các nhà lãnh đạo và nhà nước phải kiên trì giáo dục nhân dân, bằng cách làm gương. Đất nước ta phát triển thành Xã hội Chủ nghĩa trên cơ bản vẫn là một nước nghèo, tiềm lực về kinh tế rất phong phú nhưng con người chưa biết cách khai thác có hiệu quả, do đó chúng ta vẫn còn là một nước nghèo.

Nhìn chung, những khó khăn phức tạp của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội chủ yếu nằm trong đặc điểm của những sự thay đổi, của sự mẫu thuẫn giữa cái cũ chưa hoàn toàn biến mất và cái mới chưa hoàn toàn thay thế. Đặc điểm nổi bật của thời kì quá độ là những nhân tố của xã hội mới và tàn tích của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hoá, xã hội tư tưởng, tập quán trong xã hội. Đặc điểm bản chất nhất của thời kì quá độ là sự quá độ về chính trị mà ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng thêm hoàn thiện. Xét về kinh tế, là nền kinh tế nhiều thành phần. Ngoài các thành phần kinh tế Xã hội Chủ nghĩa, còn có những thành phần kinh tế khác, trong đó có cả thành phần kinh tế tư bản. Nền kinh tế nhiều thành phần là một cơ cấu xã hội phân chia giai cấp phức tạp trong đó có cả những giai cấp mà lợi ích cơ bản của họ đối lập nhau. Xét về mặt xã hội, có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn, giữa các miền đất nước, giữa lao động trí tuệ và lao động giản đơn. Về văn hoá và hệ tư tưởng: bên cạnh nền văn hóa và tư tưởng mới, còn tồn tại những tàn tích của xã hội cũ, hệ tư tưởng cũ cổ hủ, lối sống cũ lạc hậu dẫn đến những tệ nạn xã hội.Những đặc điểm trên nói lên tính phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.

b) Tính chất lâu dài:

Xây dựng Xã hội Chủ nghĩa phải thông qua quá trình đấu tranh gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là giành chính quyền nhà nước, sử dụng bộ máy nhà nước, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới từ hạ tầng cơ sở đến kiến trúc thượng tầng. V.I.Lenin viết: “Cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn , vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài mớí có thể thắng được sức mạnh to lớn của những thói quen quản lí theo kiểu tiểu tư sản và tư sản. Bởi vậy, Các Mác có nói đến cả một thời kỳ

Page 10: BTT2

chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội.

Xét đến tất cả những tính chất phức tạp, khó khăn của thời kỳ quá độ, để Việt Nam có thể đi lên Chủ nghĩa Xã hội, sẽ phải trải qua một thời kỳ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.

Đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa? Gỉai quyết vấn đề này có ý nghĩa lớn cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa” theo kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập Chủ nghĩa Xã hội  với Chủ nghĩa Tư bản, bỏ qua cả những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra ở các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nói rõ bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng Tư bản Chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ Tư bản Chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.

Bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá trình lên Chủ nghĩa Xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế “phi Chủ nghĩa Xã hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa,... Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thức, bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường “rút ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở Chủ nghĩa Tư bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, như Lênin đã nói về Chủ nghĩa Xã hội ở nước Nga với kỹ thuật hiện đại trong các tơ-rớt của Mỹ và nghệ thuật quản lý trong ngành đường sắt ở Đức.

Bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên Chủ nghĩa Xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò tác dụng của hình thức kinh tế quá độ được Lênin phân tích sâu sắc trong lý luận về Chủ nghĩa Tư bản nhà nước. Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian... vừa có tác dụng phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết  để chuyển từ các quan hệ tiền tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội, nó là hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể.

Page 11: BTT2

Tóm lại, xây dựng Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”.

Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa là con đường rút ngắn để xây dựng đất nước văn minh, hiện đại. Nhưng khả năng tiền đề để thực hiện con đường đó như thế nào? Phân tích tình hình đất nước và thời đại cho thấy mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có khả năng và tiền đề để quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa.

Thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, nhiệm vụ cơ bản là xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng Xã hội Chủ nghiã. Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội là xây dựng một chế độ xã hội mới có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản xuất Xã hội Chủ nghĩa; nó là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hoá cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi Chủ nghĩa Xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Vì vậy, không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới Xã hội Chủ nghĩa. Nó chỉ được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao.

Vì vậy, để chuyển từ xã hội Tư bản Chủ nghĩa lên xã hội Xã hội Chủ nghĩa cần phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định:

Đầu tiên, Chủ nghĩa Tư bản và Chủ nghĩa Xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa Tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về các tư liệu sản xuất; dựa trên chế độ áp bức và bóc lột. Chủ nghĩa Xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể; không còn các giai cấp đối kháng, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một thời kỳ lịch sử nhất định.

Thứ hai, Chủ nghĩa Xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao. Quá trình phát triển của Chủ nghĩa Tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật nhất định cho Chủ nghĩa Xã hội, nhưng muốn có cơ sở vật chất – kỹ thuật đó cần phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại sao cho hợp lý, khoa học nhất.

Page 12: BTT2

Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá tiến lên Chủ nghĩa Xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho Chủ nghĩa Xã hội có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hoá – hiện đại hoá Chủ nghĩa Xã hội.

Tiếp đến, các quan hệ xã hội của Chủ nghĩa Xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng Chủ nghĩa Tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo Xã hội Chủ nghĩa. Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội Xã hội Chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển các quan hệ đó.

Cuối cùng, công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để từng bước làm quen với những công việc đó. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối vơi những nước đã trải qua Chủ nghĩa Tư bản phát triển ở trình độ cao thì khi tiến lên Chủ nghĩa Xã hội, thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển Chủ nghĩa Tư bản ở mức độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội là sự tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của Chủ nghĩa Xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa) của đời sống xã hội.

Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định không thể theo ý muốn nóng vội, chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

c) Tấm gương từ sự sụp đổ CNXH ở các nước đi trước và bài học cho VN

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu hay được phương Tây gọi Cuộc cách mạng năm 1989 (cũng được gọi là Mùa thu của Cộng sản, Sự sụp đổ của Cộng sản, Các cuộc cách mạng ở Đông Âu và Mùa thu của Quốc gia) là sự sụp đổ của các nhà nước cộng sản theo kiểu Liên Xô ở Đông Âu. Những sự kiện này bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989 và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bungary, Tiệp Khắc và România. Một tính năng phổ biến cho hầu hết các sự phát triển này là việc sử

Page 13: BTT2

dụng rộng rãi các chiến dịch của lực lượng đối lập chống lại chế độ độc đảng và góp phần gây áp lực với sự thay đổi. Romania là nước Đông Âu duy nhất lật đổ chế độ Cộng sản của mình bằng bạo lực. Sự kiện Thiên An Môn đã không thành công trong việc kích thích sự thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của các sự thách thức dũng cảm trong những cuộc biểu tình đó đã giúp gây ra các sự kiện ở những phần khác của thế giới. Trong số các cuộc cách mạng chống Cộng nổi tiếng nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin, đã phục vụ như là cửa ngõ tượng trưng để thống nhất nước Đức vào năm 1990.

Nguyên nhân của sự sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới là do bản thân các nước cũng như tác động từ bên ngoài: Nguyên nhân sâu xa nằm trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp thay cho cơ chế thị trường, kế hoạch hóa cao độ. Mô hình đó đã có những phù hợp nhất định trong thời kì đặc biệt trước đây, nhưng không còn phù hợp trong bối cảnh toàn cầu hóa, không sáng tạo và không năng động, ngày càng bộc lộ sự thiếu tôn trọng các quy luật phát triển khách quan về kinh tế - xã hội, chủ quan, duy ý chí, làm nảy sinh tình trạng thụ động xã hội, thiếu dân chủ và công bằng, vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xét về mặt kinh tế, khiếm khuyết và hạn chế của mô hình cũ là đã không chú trọng đầy đủ tới đặc điểm kinh tế hàng hóa và quy luật giá trị, tới cơ cấu đa dạng của sản phẩm hàng hóa có chất lượng và giá trị cao để cạnh tranh. Kĩ thuật công nghệ chậm đổi mới, bị lạc hậu. Xét về mặt chính trị, hạn chế của mô hình này biểu hiện ở chỗ hệ thống tổ chức và bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc, dễ dẫn tới tình trạng quan liêu hóa, xa rời thực tiễn, xa dân, kém hiệu quả, không phân biệt rõ ràng, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động giữa Đảng và Nhà nước cũng như các tổ chức khác trong hệ thống tổ chức chính trị, dẫn tới sự chồng chéo dẫm chân lên nhau. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm. Quyền làm chủ của người lao động, sự tham gia của quần chúng vào hoạt động quản lí Nhà nước và đời sống chính trị - xã hội nói chung còn bị hạn chế và ít tác dụng do tính chất dân chủ hình thức, quan liêu, tham nhũng gây nên. Xét về mặt văn hóa – xã hội và đời sống tinh thần, những khiếm khuyết của mô hình cũ biểu hiện ở sự vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân, sự thiếu nghiêm minh trong việc thực thi pháp luật, thiếu dân chủ và công bằng xã hội. Tính hình thức và bệnh giáo điều đã làm cho công tác giáo dục hệ tư tưởng và ý thức xã hội xa rời thực tế cuộc sống. Lí luận tách rời thực tiễn. Các lĩnh vực văn hóa tinh thần rơi vào sự đơn điệu, nghèo nàn. Sự giao lưu văn hóa quốc tế không được khuyến khích. Những thiếu sót, khuyết tật lâu ngày chậm được khắc phục, sửa chữa càng làm cho các nước xã hội chủ nghĩa xa rời những tiến bộ, văn minh của thế giới, nhất là sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại, đưa tới tình trạng trượt dài từ trì trệ đến khủng hoảng nặng nề về kinh tế - xã hội. Sự thực, không phải các nhà lãnh đạo nhiều nước chủ nghĩa xã hội trước đây không nhận thấy những trì trệ đó, nhưng mọi

Page 14: BTT2

cố gắng cải cách đều không thu được kết quả trong khuôn khổ cơ chế mô hình cũ.  Sau này khi tiến hành cải tổ, cải cách, những người lãnh đạo ở Liên Xô lại liên tiếp phạm thêm nhiều sai lầm nghiêm trọng về bước đi, nội dung, phương pháp, trong đó điều chủ yếu là buông lỏng chuyên chính vô sản, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, hiện thực dân chủ hóa, công khai hóa cao độ, mơ hồ về chính trị, giai cấp; bị các thế lực phản động, đễ quốc lợi dụng tiến công chủ nghĩa xã hội. Cải tổ là tất yếu, khách quan xuất phát từ bản chất của chủ nghĩa xã hội, là nhu cầu chin muồi của các nhân tố chủ quan, khách quan. Vấn đề là phải cải tổ như thế nào. Cuộc cải tổ của Goócbachốp được các nước phương Tây ngàn lần cổ vũ, hậu thuẫn… Cải tổ kiểu như thế mà chế độ xã hội chủ nghĩa không sụp đổ mới là điều đáng ngạc Như vậy, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Những tuyên bố ban đầu: “cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều chủ nghĩa xã hội hơn”, “chúng ta sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài nó”, “chúng ta tìm trong khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra”..., rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông ngụy trang cho ý đồ phản bội. Có thể thấy sai lầm của cải tổ biểu hiện chủ yếu ở những điểm sau:  Thứ nhất, sự dao động về tư tưởng, lập trường chính trị dẫn tới mất phương hướng chính trị và từ bỏ nguyên tắc ở những thời điểm bước ngoặt, chấp nhận đa nguyên hệ tư tưởng và đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận tập trung dân chủ là nguyên tắc cốt tử của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, làm cho Đảng không còn là một tổ chức chính trị cầm quyền mà trở thành một câu lạc bộ bàn suông. Nhà nước không còn quyền lực điều hành và không kiểm soát nổi tình hình đất nước. Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.  Thứ hai, không giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Khi cải cách kinh tế tiến triển thì không kịp thời tiến hành cải cách chính trị. Đến khi cải cách kinh tế gặp khó khăn thì lại chuyển trọng tâm sang cải cách chính trị.  Thứ ba, phiêu lưu mạo hiểm trong chính sách, bước đi và biện pháp cải tổ. Đó là tăng tốc kinh tế - kĩ thuật thời kì đầu, cấm bia rượu… là những tính toán chủ quan duy ý chí gây rối loạn kinh tế, mất ổn định xã hội. Cải tổ chính trị không dựa trên thực trạng kinh tế, tiến hành “dân chủ công khai” một cách mơ hồ, mở đường cho các thế lực phản động tấn công vào Đảng, vào chủ nghĩa xã hội, thao túng xã hội, kích động, mị dân, lừa bịp quần chúng. Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử

Page 15: BTT2

hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.  Thứ tư, không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục tình hình ngày một xấu đi nghiêm trọng về đời sống vật chất, tinh thần tối thiểu của quần chúng, gây nên sự thờ ơ về chính trị, thậm chí chống lại công cuộc cải tổ. Mất cơ sở xã hội và bị phân liệt về tổ chức nên Đảng đã mất sức chiến đấu và mất vai trò lãnh đạo.  Thứ năm, các quan điểm mơ hồ, hữu khuynh, xét lại xung quanh vấn đế “tư duy chính trị mới”, phủ nhận đấu tranh giai cấp và cách mạng, tuyệt đối hóa lợi ích toàn cầu nhân loại, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản, tạo mảnh đất thuận lợi cho âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô  Thứ sáu, để xảy ra xung đột, nội chiến dân tộc, sắc tộc ngày càng gay gắt, dẫn tới tan rã của Nhà nước Liên bang Xô viết.  Ngoài ra, sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô còn do những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước, đặc biệt là âm mưu “diễn biến hòa bình”, “cách mạng nhung”, “chiến thắng không cần chiến tranh” của chủ nghĩa đế quốc.  Nguyên nhân cuối cùng là do yếu kém về năng lực, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào đảng, vào chế độ. Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, xét lại, phản bội lí tưởng của chủ nghĩa xã hội ở một số nhà lãnh đạo cải tổ là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự tan rã của chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong và từ trên chóp bu của cơ quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân trực tiếp làm cho chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu trong những năm 1989 – 1991 đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là một tổn thất chưa từng có trong lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại nữa. Từ đây, trật tự thế giới hai cực cũng đã kết thúc. Thế giới bước vào một thời kì mới với các xu thế mới đang vận động. Tuy nhiên, đây chỉ là sự tan rã của một mô hình chủ nghĩa xã hội chưa khoa học chứ không phải là sự tan rã của chủ nghĩa xã hội như một hình thái kinh tế - xã hội mới mà Mác và Ăngghen đã nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Hơn nữa, như Lênin đã viết: “Nếu người ta nhận xét thực chất của vấn đề, thì có bao giờ người ta thấy rằng trong lịch sử có một phương thức sản xuất mới nào lại đứng vững ngay được mà lại không liên tiếp trải qua nhiều thất bại, nhiều sai lầm và tái phạm không?”. 

Page 16: BTT2

Từ những cơ sở ấy, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam đã rủt ra được nhiều bài học kinh nghiệm xương máu, đưa công cuộc cải cách - đổi mới đi tới thắng lợi, nhằm xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa đúng với bản chất nhân văn vì giải phóng và hạnh phúc con người, phù hợp với hoàn cảnh và truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc.

Một là, xuất phát từ chính mình trên cơ sở nhận thức đầy đủ, đúng đắn về đất nước và thời đại hiện nay. Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đồng thời từ chế độ dân chủ nhân dân, là một thực tế lịch sử. Người ta thường quan niệm rằng, chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hòa bình, nhưng ở Việt Nam thì trái lại, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện tiến hành đồng thời với cuộc chiến tranh giải phóng. Đó là nét đặc thù thứ hai. Rõ ràng, với toàn bộ tình hình và đặc điểm đó, trên con đường đưa đất nước tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối đầu với không ít nguy cơ, thách thức hết sức to lớn và nặng nề. Xuất phát từ cách nhìn đó, không chủ quan, ảo tưởng, không hoang mang, dao động, nhìn ra thế giới và nghiêm túc soát xét nội lực, nắm bắt thời cơ, Đảng ta ra những quyết sách chính trị thực thi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, kiên định lập trường nguyên tắc xã hội chủ nghĩa và đổi mới sáng tạo. Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam cũng như cải cách hay cải tổ theo ý nghĩa chân chính, đích thực của nó chính là một tất yếu, một mệnh lệnh của chủ nghĩa xã hội trên con đường phát triển. Nói cách khác, ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lê-nin - học thuyết cách mạng, khoa học và đúng đắn nhất, ngay từ rất sớm đã trở thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc của công cuộc đổi mới, mà thực chất là kiên trì sự lựa chọn con đường phát triển gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội của cách mạng nước ta, trên cơ sở tuân theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là nguồn gốc, là cơ sở để Việt Nam từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội

Ba là, mục tiêu, hướng đi chỉ có một, nhưng hình thức, bước đi phải đa dạng và biện pháp phải phong phú, cụ thể; và Nhân dân là mục tiêu, là chủ thể, là động lực của công cuộc đổi mới. Trên thực tế, đổi mới phải trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà rường cột là tinh thần đại đoàn kết toàn dân, trong đó nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân lên sức mạnh nội sinh dân tộc và những thành tựu mà cách mạng đã đạt được. Mặt khác, coi trọng tiếp thu, sử dụng phù hợp những thành tựu và kinh nghiệm của thời đại, thậm chí

Page 17: BTT2

phải hành động với ý thức rất rõ rằng, học tập và vận dụng các hình thức kinh tế, các phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường của các nước tư bản chủ nghĩa là những “bước lùi” tất yếu, để đẩy tới công cuộc đổi mới đất nước. Ở đây, Việt Nam đã nỗ lực phát huy tinh thần độc lập sáng tạo, lường tránh hai khuynh hướng rập khuôn giáo điều và thực dụng trên phương diện này, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, giữ vững độc lập, tự chủ và tích cực chủ động hội nhập quốc tế hiệu quả là động lực quan trọng góp phần đưa Việt Nam vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không phải là một thế giới tồn tại biệt lập, khép kín. Một đất nước phồn thịnh và phát triển thì không thể đóng cửa, khép kín. Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam không chỉ xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, mà còn là sự đáp lại yêu cầu và phù hợp với sự thúc bách của thời đại. Cho nên, việc mở rộng không ngừng quan hệ đối ngoại, hội nhập với thế giới vì mục tiêu hòa bình, độc lập và phát triển đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ, giữ vững bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trở nên như một tất yếu đẩy tới công cuộc đổi mới.

Năm là, giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm việc giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Nói cách khác, giữ vững và nâng cao sự lãnh đạo của Đảng là một biểu hiện cơ bản nhất, nổi bật nhất và tập trung nhất của sự kiên định với các quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời chính là một tất yếu lịch sử, một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa quyết định sự tồn vong của đất nước ta trong thời đại ngày nay. Chính bởi vậy, Đảng ta luôn nỗ lực rèn luyện bản lĩnh chính trị, học tập toàn diện kiến thức, tự phê phán nghiêm khắc những mặt non kém; đồng thời, lường trước, nhận diện và đẩy lùi những nguy cơ làm cho Đảng đánh mất vị trí, vai trò lãnh đạo của mình. Việt Nam sẽ không thể đi tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội, trước mắt không thể vượt qua cuộc khủng hoảng mà đất nước đã từng lâm vào, nếu Đảng không tự vươn lên, tự đổi mới và chỉnh đốn mình nhằm ngăn chặn những mầm họa khủng hoảng từ trong Đảng: lợi ích nhóm, dấu hiệu sự phân hóa trong Đảng, nguy cơ xa rời cơ sở chính trị - xã hội, sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên giữ trọng trách... Trên thực tế, quan niệm đó đã biến thành hành động một cách chủ động, thận trọng và hiệu quả trong toàn Đảng. Đảng ta đã và đang tiếp tục tìm tòi những câu trả lời một cách nghiêm túc, đầy trách nhiệm trước lịch sử và trước nhân dân, dẫn dắt đất nước từng bước vượt qua khó khăn, thử thách, tự tin và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.