bẢn tin issn 1859-4174 17_vn.pdf · thủy sản. bài trình bày của ts chapell đã nhận...
TRANSCRIPT
Địa chỉ: Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh
Điện thoại: +84 3 827 3069; Fax: +84 3 827 3070
Email: [email protected] ; website: www.ria1.org
Tổng kết công tác năm 2016 và bàn kế hoạch năm 2017 tại Hội nghị CBVC-LĐ
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I
Bước đầu xác định nguyên nhân ngao chết hàng loạt tại Hải Hà, Quảng Ninh
Hệ thống lồng nuôi cá vùng biển mở quy mô công nghiệp
Khả năng phát triển nuôi cá Nhụ 4 râu (Eleutheronema tetradactylum Shaw, 1804)
BẢN TIN
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I
ISSN 1859-4174
Số 17
2016
2 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Giấy phép xuất bản số:37/GP-XBBT ngày 25/4/2011 của Cục Báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông
Bản quyền thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Cấm sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Ban biên tập
Trưởng ban
Phan Thị Vân
Ủy viên
Nguyễn Hữu Nghĩa
Mai Văn Tài
Nguyễn Thị Thu Hiền
Nguyễn Thị Diệu Phương
Vũ Thị Ngọc Liên
Hoàng Nhật Sơn
Trần Thị Kim Chi
Trần Anh Tuấn
Chu Chí Thiết
Thư ký
Hoàng Thu Thủy
Trang bìa: Nuôi cá lồng vùng biển mở
Ảnh: Vũ Thị Ngọc Liên
Trong số này
Thư ngỏ 4
Tin tức 5
Bước đầu xác định nguyên nhân ngao chết hàng loạt tại Hải Hà, Quảng Ninh 7
Hệ thống lồng nuôi cá vùng biển mở quy mô công nghiệp 8
Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất giống nhân tạo tôm tít Harpiosquilla harpax De Haan 1844 10
Khả năng phát triển nuôi cá Nhụ 4 râu (Eleutheronema tetradactylum Shaw, 1804) 14
Đề xuất giải pháp gia tăng tỷ lệ sống cho cá biển thương phẩm nuôi quy mô công nghiệp 14
Ảnh hưởng của Mannan oligosaccharide lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá chim vây vàng (Trachinotus blochii Lacepede, 1801) nuôi trong lồng 15
Viện I tiếp đón đoàn Đại học Gezira - Nước Cộng hòa Xu-đăng 17
Triển khai Dự án “Phát triển Nuôi trồng thủy sản tại Vê-nê-du-ê-la” 17
Viện I triển khai chương trình tập huấn khuyến nông tại Khánh Hòa 18
Chuyến thăm quan và học tập về nuôi trồng thuỷ sản tại Việt Nam của đoàn cán bộ thuỷ sản thuộc Bang Tamil Nadu Ấn Độ 18
4 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Thư ngỏ
Kính thưa quý độc giả,
Chia tay năm 2016 và
chào đón năm mới
2017, tôi thay mặt
Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng thủy sản I
và Ban biên tập xin
trân trọng gửi đến
quý độc giả những lời chúc tốt đẹp nhất.
Năm 2016 ngành thủy sản đối mặt với nhiều
khó khăn và thách thức như biến đổi khí hậu,
ô nhiễm môi trường nước ở miền Trung đã
gây tổn thất lớn cho ngành thủy sản cũng như
bà con ngư dân. Trước những khó khăn đó,
tập thể Ban Lãnh đạo Viện cùng toàn thể cán bộ
viên chức lao động Viện đã tập trung làm việc
nhằm góp phần tìm ra nguyên nhân và giải pháp
giảm thiểu thiệt hại nói trên. Năm vừa qua Viện
đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và đã có
kế hoạch cho những hướng phát triển mới trong
tương lai của Viện.
Sang năm mới tuy còn nhiều khó khăn nhưng tôi
tin rằng nếu chúng ta đồng lòng thì sẽ biến
những khó khăn đó thành cơ hội cho sự phát
triển chung của ngành và của Viện.
Kính chúc các quý vị độc giả một năm mới mạnh
khỏe, thành công và hạnh phúc
Phan Thị Vân
Trưởng ban Biên tập
.
Chuùc möøng naêm môùi
Xuaân Ñinh Daäu 2017
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016) 5
Tin tức
Lễ mít tinh kỷ niệm 85 năm Ngày thành
lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh
Hoàng Thuỷ
Hòa cùng không khí tưng bừng của thanh niên
cả nước hướng tới kỷ niệm 85 năm Ngày thành
lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
(26/3/1931 - 26/3/2016), sáng ngày 25/3, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng thủy sản I đã long trọng tổ chức
Lễ mít tinh kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập
Đoàn nhằm ôn lại truyền thống của Đoàn, tổng
kết các kết quả hoạt động của Đoàn Thanh niên
Viện (ĐTN) trong năm 2015 và phương hướng
nhiệm vụ 2016.
Tham dự Lễ mít tinh có đồng chí Phạm Thị Kim
Thoa, Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính, đồng
chí Nguyễn Thị Diệu Phương - đại diện Công
đoàn và đồng chí Trần Văn Chí - Chủ tịch Hội
cựu Chiến binh cùng toàn thể đoàn viên thanh
niên đang công tác trại trụ sở chính của Viện.
Đồng chí Nguyễn Thị Diệu Phương - đại diện Công đoàn phát biểu tại buổi lễ. Ảnh Phan Trọng Bình
Tại lễ mít tinh các đoàn viên ĐTN Viện đã cùng
nhau ôn lại những truyền thống vẻ vang của
Đoàn Thanh niên Cộng sản và được nghe các
kết quả hoạt động của ĐTN Viện trong năm
2015 và phương hướng hoạt động năm 2016
dưới sự trình bày của Bí thư Nguyễn Hùng Hải.
Trong năm 2015 các đoàn viên đã sôi nổi tham
gia nhiều hoạt động phong trào về thể thao, văn
hóa-văn nghệ kỷ niệm những ngày lễ lớn của
đất nước được tổ chức tại Viện. Các hoạt động
tình nguyện, phong trào giữ gìn, bảo vệ cảnh
quan môi trường, giao lưu với các đơn vị bạn
cũng được ĐTN Viện duy trì thường xuyên và
được Đảng ủy, Lãnh đạo Viện và Công đoàn
đánh giá cao.
Thay mặt Đảng ủy, Công đoàn Viện đại diện các
khách mời đã phát biểu chúc mừng ĐTN Viện
nhân kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đoàn,
đánh giá cao vai trò của ĐTN trong hệ thống tổ
chức chính trị của Viện, ghi nhận những kết quả
hoạt động của ĐTN trong năm vừa qua và
khẳng định ĐTN Viện luôn là một trong những
lực lượng xung kích trong các hoạt động của
Viện, và mong rằng ĐTN tiếp tục phát huy sức
mạnh và tinh thần của tuổi trẻ đóng góp cho sự
phát triển của Viện.
6 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Tin tức
Hội thảo “Công nghệ nuôi cá sông trong
ao”
Đàm Thị Mỹ Chinh
Ngày 19 tháng 4 năm 2016 tại khách sạn
Pullman, số 40, Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội -
Trung tâm Công nghệ sinh học Thủy sản (CAB),
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I kết hợp
với Hiệp hội xuất khẩu đậu tương Hoa Kỳ
(USSEC) đã tổ chức hội thảo “Công nghệ nuôi
cá sông trong ao” - In-pond Raceway
Aquaculture (IPA)”.
Quang cảnh Hội thảo. Ảnh Đàm Thị Mỹ Chinh
Đến dự Hội thảo có đại diện Vụ Nuôi trồng Thủy
sản - Tổng cục Thủy sản, Viện cơ điện và Công
nghệ sau thu hoạch, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực thủy sản. Sau lời phát biểu khai mạc của
Tiến sỹ Trần Thị Thúy Hà Giám đốc CAB, ông
Võ Hoàng Nguyên - Giám đốc kỹ thuật nuôi
trồng thủy sản của USSEC Việt Nam đã trình
bày về tổ chức, phương thức hoạt động và
những đóng góp của USSEC đến ngành chăn
nuôi nói chung và thủy sản nói riêng. Hội thảo
đã được nghe Tiến sỹ Jesse Chapell đến từ
trường Đại học Auburn - Hoa Kỳ, tác giả của
công nghệ IPA giới thiệu về chiến lược sử dụng
các nguồn tài nguyên và IPA trong nuôi trồng
thủy sản. Bài trình bày của TS Chapell đã nhận
được rất nhiều trao đổi từ phía các đại biểu như
làm thế nào để thiết kế hệ thống IPA trong các
ao có diện tích nhỏ, phương pháp thu gom chất
thải hòa tan và quản lý sức khỏe cá,…
Hội thảo cũng được nghe thông tin về dự án
“Công nghệ nuôi cá nước chảy trong ao tại An
Giang” do công ty TNHH Thương mại và Dịch
vụ Thuận An đang thực hiện. Dự án này áp
dụng công nghệ IPA trong ương giống cá Tra
nhằm nâng cao tỷ lệ sống
Kết thúc chương trình, TS Nguyễn Văn Tiến -
Phó Giám đốc CAB đã kết luận về triển vọng áp
dụng công nghệ IPA trong nuôi trồng thủy sản ở
Việt Nam. Ông tin tưởng rằng với những ưu thế
vượt trội, công nghệ này sẽ góp phần định
hướng phát triển nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam
một cách bền vững.
Hội thảo đã kết thúc thành công và để lại nhiều
ấn tượng tốt đẹp đối với các đại biểu tham dự
và mở ra một hướng đi mới cho ngành thủy sản
Việt Nam.
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016) 7
Tin tức
Hội thảo "Phát triển nuôi trồng thủy sản
biển" tại Nha Trang, Khánh Hòa
Phan Trọng Bình
Ngày 11 tháng 11 năm 2016, Dự án “Xây dựng
năng lực nghiên cứu, đào tạo và khuyến ngư
cho Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I” -
Pha 3: "Xây dựng năng lực nghề nuôi cá biển
Việt Nam" đã phối hợp với Tổng cục thủy sản tổ
chức “Hội nghị phát triển nuôi trồng thủy sản
biển” tại Tp. Nha Trang, Tỉnh Khánh Hòa.
Quang cảnh Hội thảo. Ảnh Phan Trọng Bình
Hội nghị thu hút gần 120 đại biểu đến từ nhiều
ngành nghề, lĩnh vực có liên quan đến nuôi biển,
bao gồm các thành viên của Diễn đàn công
nghệ nuôi trồng thủy sản; các nhà quản lý đến
từ Vụ Kế hoạch, Vụ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường, Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông
nghiệp và PTNT), Tổng cục Thủy sản, Cục Thú
y, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia; các cán bộ
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu NTTS I, II, III,
Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản; cán bộ đào
tạo của Học viện Nông nghiệp Việt Nam,
Trường Cao đẳng Thủy sản, Trường Đại học
Nha Trang, Đại học Huế, Đại học Cần Thơ, Đại
học Nông lâm TPHCM; đại diện của các Sở
NN&PTNT thuộc 28 tỉnh/thành ven biển, đại diện
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt
Nam (VASEP); Hội Nghề cá Việt Nam; các
doanh nghiệp, hộ nuôi biển; các phóng viên
thông tấn báo chí. Tại hội thảo, các đại biểu
tham dự đã rất quan tâm đến chủ đề hội thảo,
nhiều vấn đề đã được đặt ra để thảo luận sôi nổi
tại hội thảo như: thị trường xuất khẩu cá biển;
thức ăn cho nuôi cá biển, giống cá biển, công
nghệ nuôi biển, môi trường nuôi biển có xu
hướng ô nhiễm, quy hoạch nuôi biển, các văn
bản chính sách liên quan đến NTTS biển, các
tiêu chuẩn/quy trình kỹ thuật trong nuôi biển. Tất
cả các thắc mắc đã được giải đáp, các kiến nghị
đã được tiếp thu. Hội thảo kết thúc thành công
tốt đẹp với nhiều kiến nghị, đề xuất được đưa ra
nhằm thúc đầy nghề nuôi biển ngày càng phát
triển.
Tổng kết công tác năm 2016 và bàn kế
hoạch năm 2017 tại Hội nghị CBVC-LĐ
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I
Hoàng Thủy
Ngày 28/12/2016, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
thủy sản I đã tổ chức Hội nghị CBVC - LĐ nhằm
tổng kết công tác năm 2016 và bàn kế hoạch
công tác năm 2017. Đoàn Chủ tịch điều hành
Hội nghị gồm PGS.TS. Phan Thị Vân - Viện
trưởng, ThS Trần Thế Mưu - Phó Viện trưởng,
đại diện Công đoàn, TS. Nguyễn Quang Huy -
Phó Viện trưởng - đại diện Đảng ủy.
8 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Tin tức
Tham dự Hội nghị có Ban Lãnh đạo Viện, Đảng
ủy, cùng toàn thể cán bộ viên chức - lao động tại
trụ sở chính và các Trung tâm, Phân viện nằm ở
các địa bàn khác nhau cùng về dự.
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: Phan Trọng Bình
Tại Hội nghị, thay mặt Ban Lãnh đạo Viện, PVT.
Trần Thế Mưu đã trình bày báo cáo tổng kết
công tác năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ
năm 2017 của Viện. Năm 2016, ngành thủy sản
phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức
nhưng Viện đã phát huy được tinh thần đoàn
kết, chủ động, sáng tạo, tìm các giải pháp tích
cực nhằm hoàn thành tốt một khối lượng lớn
các nhiệm vụ được giao như nghiên cứu khoa
học, hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ,
tập huấn, v.v... . Bên cạnh đó công tác tổ chức
nhân sự, quản lý khoa học, xây dựng cơ bản,
hoạt động hợp tác quốc tế, đào tạo, xây dựng
các tổ chức Đảng, Công đoàn, Nữ công, Đoàn
Thanh niên của Viện cũng có những kết quả khả
quan. Ngoài ra báo cáo cũng nêu ra những mặt
còn hạn chế, tồn tại mà Viện cần khắc phục
trong thời gian tới. Cũng trong buổi Hội nghị
này, thay mặt BLĐ Viện, PVT Nguyễn Quang
Huy đã báo cáo kiểm điểm Lãnh đạo Viện và
thay mặt Ban chấp hành Công đoàn Viện, Bà
Nguyễn Thị Thiếu Anh - PCT Công đoàn đã báo
cáo tổng kết hoạt động Công đoàn năm 2016.
Buổi Hội nghị cũng dành thời gian để các đại biểu
thảo luận góp ý cho các báo cáo, bổ sung ý kiến
đề xuất kế hoạch phát triển cho Viện trong năm
2017 và định hướng dài hạn cho những năm tới.
Tiếp đó, Ông Nguyễn Hùng Hải - PTP Tổ chức -
Hành chính đã công bố các quyết định khen
thưởng đối với các đơn vị và cán bộ Viện đã có
thành tích xuất sắc trong công tác năm 2016.
Kết thúc Hội nghị, Viện trưởng TS. Phan Thị
Vân bày tỏ đồng tình về các Báo cáo và ý kiến
góp ý của các đại biểu, đồng chí đánh giá cao
những mặt đã đạt được trong thời gian qua
cũng như những tồn tại mà Viện cần khắc phục
trong thời gian tới. Bên cạnh đó Viện trưởng
cũng đưa ra một số yêu cầu về việc thực hiện
nhiệm vụ cấp thiết cần tập trung hoàn thành
năm 2017 và định hướng phát triển của Viện
trong thời gian tới.
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016) 9
Khoa học và Công nghệ
Bước đầu xác định nguyên nhân ngao
chết hàng loạt tại Hải Hà, Quảng Ninh
Trịnh Ngọc Tuấn và Đào Xuân Trường
Ngay sau khi nhận được thông tin ngao nuôi tại
huyện Hải Hà, Quảng Ninh có hiện tượng chết
hàng loạt vào đầu tháng 4/2016, Trung tâm
Quan trắc Môi trường và Bệnh Thủy sản miền
Bắc đã tới kiểm tra thực địa và thu mẫu hiện
trường. Sau khi thu mẫu (môi trường và bệnh)
và phỏng vấn nhanh người nuôi ngao tại xã
Quảng Minh, huyện Hải Hà, đoàn đã làm việc
với Ủy ban nhân dân xã Quảng Minh, Sở
NN&PTNT, Chi cục Thú y và Cơ quan Thú y
vùng 2. Tại cuộc họp, đại diện các bên liên quan
đã trao đổi thông tin, có những nhận định nhanh
nguyên nhân ngao chết, kịp thời khuyến cáo tới
người dân những việc nên làm ngay để hạn chế
tình trạng ngao tiếp tục chết.
Hình ảnh thu mẫu tại bãi nuôi ngao của hộ ông Đoàn, xã Quảng Minh, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh. Ảnh tác giả cung cấp
Kết quả khảo sát thực địa và xét nghiệm mẫu
bệnh, mẫu môi trường nuôi ngao cho thấy ngao
chết hàng loạt đầu tháng 4 không phải do bệnh
ký sinh trùng Perkinsus, vi khuẩn hay vi rút
Herpesvirus. Hiện tượng ngao chết là do một số
nguyên nhân tổng hợp như sau: 1) Chât lượng
ngao giống thả nuôi chưa qua kiểm dịch, mật độ
nuôi quá dày (bãi nuôi ngao nhà ông Đoàn tỷ lệ
chết trên 80% nhưng khi đoàn công tác kiểm tra
mật độ ngao là 285 con/m2); 2) Cạnh tranh các
yếu tố môi trường sống và thức ăn khiến ngao
gầy yếu, sức đề kháng kém; 3) Gặp điều kiện
bất lợi của môi trường như độ muối và nhiệt độ
thay đổi đột ngột khiến ngao chết; 4) Ngao chết
không được xử lý kịp thời, triệt để gây ô nhiễm
môi trường, lây lan sang các hộ nuôi khác khiến
tình trạng trở lên trầm trọng hơn; và 5) Một số
hộ nuôi tiếp tục thả nuôi ngao mới để bù vào
chỗ ngao đã chết.
Để giúp người dân sớm khôi phục sản xuất,
ngay sau khi có kết quả phân tích mẫu môi
trường và bệnh, đoàn công tác đã gửi kết quả
và khuyến cáo kịp thời tới địa phương và trực
tiếp người nuôi. Một số biện pháp khuyến cáo
gồm: 1) Người dân ngừng ngay việc thả nuôi
ngao mới, tiến hành thu tỉa ngao đã tới kỳ thu
hoạch để giảm mật độ ngao nuôi; 2) Xác ngao
chết phải được thu gom tới các bãi xử lý được
cấp phép, tránh tình trạng đổ luôn xuống cuối
bãi nuôi gây ra hiện tượng ô nhiễm vùng nuôi; 3)
Về lâu dài, để hạn chế rủi ro trong quá trình nuôi
cần rút ngắn thời gian của vụ nuôi bằng cách
10 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Khoa học và Công nghệ
thả ngao có kích cỡ lớn hơn với mật độ thưa.
Mật độ thả giống phù hợp là 500 con/m2 với cỡ
400-500 con/kg hoặc 400-450 con/m2 với cỡ
300-400 con/kg và 250-300 con/m2 với cỡ 300
con/kg; 4) Người dân cần tuân thủ theo vùng
quy hoạch nuôi của địa phương; 5) Chính quyền
địa phương cần phối hợp chặt chẽ với người
dân nhằm ngăn chặn việc nhập con giống có
chất lượng thấp, chưa qua kiểm dịch. Phản
biện TS. Đặng Thị Lụa
Hệ thống lồng nuôi cá vùng biển mở quy
mô công nghiệp
Chu Chí Thiết, Nguyễn Dương Đức
Với 3260 km đường bờ biển và hơn 1 triệu km²
vùng đặc quyền kinh tế, Việt Nam là quốc gia có
nhiều tiềm năng trong phát triển nuôi biển. Theo
Quyết định số 1532/QĐ-BNN-TCTS phê duyệt
quy hoạch phát triển nuôi cá biển đến năm 2015
và định hướng năm 2020, chỉ riêng mục tiêu sản
lượng cá biển nuôi trong hệ thống lồng nhỏ đạt
44.000 tấn (năm 2015) và 51.000 tấn (năm
2020); nuôi công nghiệp tập trung đạt 55.000 tấn
(năm 2015) và 111.000 tấn (năm 2020). Thực
tế, trong 30 năm trở lại đây, nghề nuôi cá biển
đã từng bước phát triển mạnh ở một số địa
phương ven biển như: Quảng Ninh, Hải Phòng,
Phú Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang. Tuy nhiên,
nuôi cá biển hiện mới chỉ tập trung phát triển
trong các vụng vịnh kín gió, hình thức nuôi chủ
yếu là nuôi truyền thống (lồng bè bằng gỗ, tre và
sử dụng thức ăn cá tạp, ...). Do phát triển lồng
bè với mật độ cao, hiện tượng ô nhiễm môi
trường xuất hiện đã ảnh hưởng tới sản lượng và
chất lượng cá biển nuôi, tác động xấu đến môi
trường sinh thái, giao thông, du lịch,... Thực tế
sản lượng cá biển nuôi đến nay là chưa đạt
được mục tiêu như đã đề ra.
Cũng tương tự nhiều nước có nghề nuôi cá biển
phát triển như: Na Uy, Trung Quốc, Nhật Bản,....
Việt Nam cần phát triển nuôi cá biển quy mô
công nghiệp tại các vùng biển mở là hướng đi
đúng đắn nhằm tạo ra sản lượng hàng hoá lớn
phục vụ tiêu dùng trong nước và tiến tới xuất
khẩu. Như vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện hệ
thống lồng nuôi cá biển với vật liệu mới có khả
năng thích ứng với điều kiện sóng, gió khắc
nghiệt vùng biển hở là việc hết sức cần thiết,
cần phải thực hiện đầu tiên.
Thông qua 2 nhiệm vụ Khoa học công nghệ
trọng điểm cấp Nhà nước: Đề tài KC.07.03/06-
10 và Dự án KC.07.DA07/11-15, Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản I đã thành công trong
thiết kế, chế tạo và lắp ráp hệ thống lồng nuôi cá
biển bằng vật liệu nhựa HDPE có khả năng
chống chịu với sóng, gió và thời tiết vùng biển
hở, thích hợp trong nuôi cá biển công nghiệp.
Bài viết dưới đây xin giới thiệu về hệ thống lồng
nuôi cá biển này.
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016) 11
Khoa học và Công nghệ
Đặc điểm hệ thống lồng nuôi cá biển mở
Kiểu dáng, cấu trúc lồng:
Khung lồng được cấu tạo gồm vành nổi phía
dưới (VN), thanh tay vịn phía trên (TV) và giá đỡ
khung lồng (T). Vành nổi phía dưới được tạo bởi
2 vòng tròn đồng tâm từ 2 ống có đường kính
250 mm, áp suất danh nghĩa (PN) =16, liên kết
bằng 25 đai liên kết, có tác dụng làm nổi lồng
trên bề mặt nước. Thanh tay vịn phía trên được
liên kết với vành nổi phía dưới qua hệ thống 25
giá đỡ (ống HDPE đường kính 110 mm, PN =
12,5) và khớp nối chữ “T”, tạo cấu trúc khung
lồng vững chắc (Hình 2). Lồng có cấu trúc hình
trụ tròn, đường kính 15 m, túi lưới (vật liệu PE)
có độ sâu 8 m, mắt lưới 2a=5 và 2a=7, tạo nên
thể tích thực của lồng là 1200 m3. (Hình 1).
Phương pháp vận hành:
Điều khiển lồng chìm: 1) túi lưới được thu, rút
gọn độ sâu còn 5 m tính từ khung lông xuống; 2)
chì lưới được tren vào vành lồng dưới để tăng
trọng lượng của lồng; 3) van nước được mở ra,
nước vào chiếm chỗ toàn bộ thể tích của khung
lồng (2 vành) phía dưới; 4) điều chỉnh dây và
phao cân bằng để lồng được cân bằng tại vị trí
chìm; 5) lồng từ từ chìm xuống nước theo
phương thẳng đứng.
Điều khiển lồng nổi: 1) mở van khí; 2) nén khí
vào khung lồng phía dưới tạo áp lực ép nước
thoát ra ngoài; 3) điều chỉnh dây neo, phao để
lồng được nổi cân bằng trên mặt nước; 4) đóng
van nước và van khí; 5) điều chỉnh khoảng cách
dây phao cân bằng.
Lồng nuôi cá vùng biển mở. Ảnh Nguyễn Dương Đức
Hệ thống van điều khiển lồng chìm/nổi: hệ thống
van được gia công, chế tạo bằng vật liệu nhựa
HDPE, gắn ở vành nổi phía trong và ngoài, ở vị
trí đối xứng nhau, có tác dụng nén khí – xả
nước vào, ra khỏi khung lồng để điều khiển lồng
chìm hay nổi. Thời gian điều khiển lồng chìm là
18 phút và nổi là 15 phút.
Chi tiết cấu tạo khung lồng. Ảnh Nguyễn Dương Đức
Vành nổi
Thanh tay vịn
Khớp nối chữ “T”
Đai liên kết
Giá đỡ khung lồng
12 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Khoa học và Công nghệ
Kết quả thử nghiệm nuôi cá biển vùng biển mở:
Hệ thống lồng nuôi cá vùng biển mở đã được
ứng dụng trong nuôi thương phẩm hai đối tượng
cá biển có giá trị kinh tế cao là cá chim vây vàng
(Trachinotus blochii), cá giò (Rachycentron
canadum), hình thức nuôi công nghiệp tại vịnh
Vân Phong, Khánh Hòa trong 2 năm 2014-2015.
Kết quả được tổng hợp như sau:
Các thông số kỹ thuật đã đạt:
- Lồng có khả năng chịu được bão cấp 12; có
khả năng điều khiển chìm tới độ sâu đến 10 m
trong 18 phút và thời gian điều khiển nổi trong
15 phút.
Thu hoạch cá tại lồng nuôi. Ảnh Nguyễn Dương Đức
Kết quả nuôi cá biển:
- Đối với cá giò: Tỷ lệ sống đạt 80,27%, cỡ cá
thương phẩm đạt 4,0-4,5 kg/con, năng suất đạt
14,98 tấn/lồng (12,48 kg/m3), hệ số chuyển đổi
thức ăn 2,6, chu kỳ nuôi 14 tháng.
- Đối với cá chim vây vàng: Tỷ lệ sống đạt
82,30%; cỡ cá thương phẩm đạt 0,6-0,7 kg/con;
năng suất đạt 17,45 tấn/lồng (14,9 kg/m3); hệ số
chuyển đổi thức ăn 1,8; chu kỳ nuôi 8 tháng.
Mô hình lồng nuôi biển mở đã được Dự án
SRV-11/0027 ứng dụng trong phát triển nuôi cá
biển tại vịnh Vân Phong, Khánh Hòa. Hiện trang
trại nuôi cá quy mô công nghiệp của Dự án là
điểm trình diễn về mô hình và công nghệ nuôi cá
biển tiên tiến tại Việt Nam. Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản I sẵn sàng chuyển giao cho
các doanh nghiệp, địa phương quy trình công
nghệ lắp đặt, vận hành hệ thống lồng nuôi và
quy trình nuôi cá biển, nhằm thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế biển trong thời gian tới. Phản
biện ThS. Hoàng Nhật Sơn
Nghiên cứu xây dựng quy trình công
nghệ sản xuất giống nhân tạo tôm tít
Harpiosquilla harpax De Haan 1844
Bùi Văn Điền, Phạm Đăng Tuấn, Phạm Văn
Hoàng, Hoàng Nhật Sơn và các tác giả
Tôm Tít (Harpiosquilla harpax De Haan 1844)
thuộc họ tôm Tít Squillidae có kích thước lớn, có
giá trị kinh tế cao và là đối tượng nuôi rất triển
vọng. Để tiến tới đưa loài tôm này trở thành đối
tượng nuôi đại trà thì việc nghiên cứu xây dựng
quy trình công nghệ sản xuất nhân tạo tôm tít là
việc làm rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu
thực tiễn người nuôi trong cả nước. Do đó, năm
2013, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
giao cho Viện Nghiên cứu NTTS1 đã thực hiện
đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình công
nghệ sản xuất giống nhân tạo tôm Tít”.
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016) 13
Khoa học và Công nghệ
Năm 2013, Đề tài đã tiến hành các nghiên cứu
từ tuyển chọn tôm Tít bố mẹ từ đàn tôm đánh
bắt từ tự nhiên về nuôi, tiến hành các nghiên
cứu sinh sản học sinh sản làm cơ sở khoa học
cho việc sản xuất giống nhân tạo. Tôm Tít được
tuyển chọn từ vùng biển Cát Bà Hải Phòng, tiến
hành nuôi nuôi thành thục trong bể ở độ mặn
28-300/00, pH 7,8-8,2, DO >5mg/l, nhiệt độ 26-
300C, mật độ nuôi 7-9con/m2 thức ăn là tôm ký
cư, hồng trùng và mực tươi. Tỷ lệ tôm thành
thục đạt trên 70%, tỷ lệ sống đạt >80%. Tôm mẹ
đẻ ở độ mặn 28-300/00 tôm mẹ ấp trứng trong
thời gian 9-12 ngày, ấu trùng trải qua 8 giai đoạn
biến thái (ấu trùng trôi nổi) trước khi thành tôm
giống. Thời gian phát triển của ấu trùng từ khi
mới nở đến con giống (2-3cm) từ 70-72 ngày.
Ương nuôi ấu trùng ở độ mặn 28-300/00, pH 7,8-
8,2, DO >5mg/l, nhiệt độ 26 -300C, mật độ thả
ấu trùng 50 -70con/lít, thức ăn ương nuôi ấu
trùng là artemia, thức ăn công nghiệp (Lansy,
Fripack), và thức ăn chế biển (tôm giống).
Năm 2014, Đề tài đã tiến hành triển khai sản
xuất giống tôm Tít ở quy mô sản xuất tại Trung
tâm Quốc gia giống hải sản miền Bắc với mục
đích vận hành và hiệu chỉnh quy trình ở quy mô
sản xuất. Kết quả đã tạo ra trên 200.000 con
giống (cỡ 2-3cm), quy trình sản xuất giống tôm
Tít đã từng bước ổn định các chỉ tiêu kỹ thuật
qua từng đợt sản xuất.
Để nhanh chóng đưa quy trình công nghệ ứng
dụng vào thực tiễn, năm 2015, đề tài đã phối
hợp với 02 Trại giống tại địa phương (Hải
Phòng) thực hiện mô hình sản xuất giống nhân
tạo tôm Tít. Kết quả sản xuất tại 02 mô hình đã
tạo ra được 180.000 con giống (cỡ 2-3cm).
Sau 03 năm triển khai Đề tài đã hoàn thành mục
tiêu và các nội dung nghiên cứu, đề tài đã xây
dựng được quy trình công nghệ sản xuất giống
nhân tạo tôm Tít với các chỉ tiêu kỹ thuật: tỷ lệ
sống của tôm bố mẹ đạt ≥80%, tỷ lệ tôm tham
gia sinh sản ≥70%, tỷ lệ sống ấu trùng từ mới
nở đến tôm giống đạt ≥10%. Sản phẩm của đề
tài đã tạo ra 200 cặp tôm bố mẹ (cỡ >100g/con),
sản xuất 345.000 con giống. Đề tài đã xây dựng
được 02 mô hình sản xuất tôm giống tại các trại
giống đạt 60.000 con giống/đợt, cơ sở tiếp nhận
công nghệ là Trại sản xuất giống hải sản Trung
Hiếu (Đồ Sơn-Hải Phòng) và Trại sản xuất giống
hải sản Tân Thành (Dương Kinh -Hải Phòng) đã
nắm bắt được toàn bộ quy trình công nghệ và tự
vận hành quy trình sản xuất giống nhân tạo tôm
Tít. Với những kết quả trên trong thời gian tới
các cơ sở sản xuất giống tôm Tít sẽ chủ động
sản xuất giống nhân tạo cung cấp cho nhu cầu
nuôi của bà con ngư dân các tỉnh ven biển nước
ta. Phản biện ThS. Trần Thế Mưu
14 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Khoa học và Công nghệ
Khả năng phát triển nuôi cá Nhụ 4 râu
(Eleutheronema tetradactylum Shaw,
1804)
Trần Thế Mưu
Cá Nhụ bốn râu (Eleutheronema tetradactylum
Shaw, 1804) gọi tắt là cá Nhụ là một trong
những đối tượng hải sản có giá trị không những
ở Việt Nam mà còn nhiều nước trên thế giới. Từ
lâu, cá Nhụ được biết là sản phẩm có chất
lượng dinh dưỡng tốt và có nguồn gốc từ khai
thác tự nhiên. Thành công trong nghiên cứu
thủy sản gần đây đã tạo điều kiện cho Cá Nhụ
có nguồn gốc từ nuôi thương phẩm từng bước
trở thành sản phẩm chính cung cấp cho thị
trường.
Cá Nhụ bốn râu (Eleutheronema tetradactylum Shaw,
1804)
Kết quả nghiên cứu của Dự án cho thấy có đầy
đủ cơ sở khoa học để cá Nhụ trở thành một
trong những đối tượng nuôi mới, giầu tiềm năng
cho nuôi phát triển thủy sản. Cá Nhụ có thể nuôi
trong điều kiện môi trường có độ mặn trong
khoảng 7 - 33‰, nhiệt độ 18 - 330C. Cá có thể
nuôi theo nhiều hình thức như nuôi ao, đầm
nước lợ, nước mặn hoặc lồng bè kích thước
lớn. Mặt khác thức ăn sử dụng cho nuôi thương
phẩm cá Nhụ có thể sử dụng hoàn toàn thức ăn
công nghiệp có độ đạm 42 - 45%. Kết quả
nghiên cứu cho thấy sau 18 tháng nuôi từ cỡ cá
giống 8 - 10g cá Nhụ có thể đạt 1200 - 1300g.
Cá nuôi khỏe mạnh, sản phẩm tạo ra đảm bảo
các chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm và được
thị trường chấp nhận.
Đề xuất giải pháp gia tăng tỷ lệ sống cho
cá biển thương phẩm nuôi quy mô công
nghiệp
Nguyễn Thị Thu Hiền, Phan Thị Vân, Nguyễn
Huy Hưng, Đỗ Xuân Hải
Nghiên cứu điều tra, khảo sát, giám sát các yếu
tố có khả năng là nguyên nhân gây chết thuộc
nhóm các yếu tố môi trường và ký sinh trùng
trên cá Giò (Rachycentron canadum), cá Chim
vây vàng (Trachinotus bloochi) và cá Nhụ bốn
râu (Eleutheronema tetradactylum ) cho thấy:
- Đối với cá Giò, loài cá nuôi ưa dòng nước
chảy, hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước
ở lồng nuôi < 1mg/l, nguy cơ cá Giò đạt cỡ
thương phẩm chết rất lớn. Giải pháp tăng tỷ lệ
sống cho cá Giò nuôi, nên nuôi cá Giò ở vùng
nước có dòng chảy tối thiểu 0,2m/s đồng nghĩa
với nồng độ DO không nhỏ hơn 2mg/l. Khi cá
đạt cỡ thương phẩm (3 - 4kg/con), mật độ nuôi
nên ở mức 0,5 - 0,6 con/m3 nước.
- Đối với cá chim vây vàng, loài cá có đặc tính
bơi lội không ngừng nghỉ nên nuôi ở những vị trí
có dòng chảy > 0,2m/s. Cá chim vây vàng giai
đoạn nhỏ thường dễ nhiễm ký sinh trùng (vào
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016) 15
Khoa học và Công nghệ
thời điểm chuyển mùa, trời mát), tắm nước ngọt
là giải pháp tối ưu được lựa chọn và đã thành
công. Giải pháp gia tăng tỷ lệ sống là nuôi trong
lồng rộng ( > 50m2, độ sâu lồng > 2,5m). Cá đạt
kích cỡ thương phẩm mật độ nuôi tối ưu 4
con/m3 nước (cỡ cá 1kg/con).
- Đối với cá nhụ bốn râu, với đặc tính cá nhạy
cảm với các tiếng động, và các hoạt động của
con người trong quá trình nuôi. 1) Đối với cá
nuôi lồng: Khi nuôi trong lồng nhỏ (27m3) nếu
gặp tác động, cá thường có biểu hiện lao thẳng
đầu vào lưới hoặc nhảy lên khỏi mặt nước với
tốc độ cao. Vì vậy, cá thường bị xây sát, tổn
thương da, miệng, mắt và khả năng cao chết
sau đó 1, 2 ngày. Trong trường hợp như vậy, ký
sinh trùng thường tấn công cá và gây chết cá.
Giải pháp gia tăng tỷ lệ sống cho cá nhụ nuôi
lồng đó là giai đoạn thương phẩm, nuôi trong
các lồng thể tích rộng tại Cát Bà (tối thiểu 54m3),
tốt nhất là nuôi trong lồng tròn 2500m3 (giống
mô hình của dự án tại Văn Phong - Khánh Hòa)
và hạn chế tác động đến cá nuôi. Mật độ nuôi tối
ưu của cá nhụ thương phẩm là 0,6 con/m3 nước
(cỡ cá 600g). 2) Đối với cá nuôi ao: Diện tích ao
cần rộng ( > 1000m2) để phù hợp đặc tính bơi lội
của cá, cá không bị chết do tổn thương. Tại
miền Bắc, khi nuôi trong ao, nhiệt độ nước thấp
hơn 18oC cá bỏ ăn và nếu nhiệt độ nước < 15oC
cá chết hàng loạt. Hiện tượng cá nhụ nuôi trong
ao chết do thời tiết lạnh đã diễn ra nhiều lần tại
Hải phòng (cả ao nuôi tại Dương Kinh và Cát
Bà). Giải pháp tăng tỷ lệ sống đối với cá nhụ
nuôi trong ao đó là có giải pháp chống rét, hoặc
thu hoạch trước các đợt rét đậm
Ảnh hưởng của Mannan oligosaccharide
lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá chim
vây vàng (Trachinotus blochii Lacepede,
1801) nuôi trong lồng
Mai Duy Minh, Phạm Đức Phương, Hồ Thị
Hà, Võ Văn Nha
Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii lacepede,
1801) là đối tượng thủy sản giàu tiềm năng nên
nghiên cứu hòan thiện quy trình nuôi đối tượng
này đang được quan tâm ở nhiều quốc gia.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá vai trò của
Mannan oligosaccharide (Mos) trong việc nâng
cao sinh trưởng của cá chim vây vàng giai đoạn
ương từ cá giống lên cỡ 70 g/con và nuôi từ cỡ
70 g/con lên cá thương phẩm. Nuôi cá giống cỡ
1 g/con trong lồng ở biển bằng 3 khẩu phần ăn
gồm thức ăn Skertting Stella BS (CN1); CN1
được bổ sung 4 kg Mos/tấn thức ăn (Mos4-1) và
CN1 được bổ sung 6 kg Mos/tấn thức ăn (Mos6-
1). Mỗi nghiệm thức được lập lại 2 lần. Sau 3
tháng nuôi, cá sử dụng CN1 bổ sung Mos có
tăng trưởng về khối lượng nhanh hơn và tỉ lệ
sống cao hơn so với cá ăn CN1 (p<0,05). Tăng
trưởng và tỉ lệ sống của cá là tương tự như
nhau khi ăn Mos4-1 và Mos6-1 (p>0,05). Nuôi
cá cỡ 70 g/con trong lồng nổi 2500 m3 ở mật độ
6 con/m3 bằng hai khẩu phần ăn gồm thức ăn
Skretting Stella BS 200 (CN2) và CN2 được bổ
sung 4 kg Mos/tấn thức ăn (Mos4-2). Mỗi
16 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Khoa học và Công nghệ
nghiệm thức được lập lại 2 lần. Sau 5 tháng
nuôi, cá ăn Mos4-2 có khối lượng lớn hơn so với
cá ăn CN2 (p<0,01). Tuy nhiên sai khác về tăng
trưởng của cá chỉ biểu hiện rõ ở 3 tháng nuôi
đầu (khi cá đạt 300 g/con) mà không biểu hiện
rõ ở hai tháng sau. Không có sai khác nhiều về
tỉ lệ sống của cá ở hai nghiệm thức. Kết quả
nghiên cứu cho thấy Mos có khả năng nâng cao
sinh trưởng của cá chim vây vàng và đề nghị bổ
sung mức 4 kg Mos/tấn thức ăn công nghiệp để
ương và nuôi cá chim vây vàng cỡ giống lên
300 g/con. Phản biện Thái Thanh Bình
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016) 17
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Viện I tiếp đón đoàn Đại học Gezira -
Nước Cộng hòa Xu-đăng
Hoàng Thuỷ
Ngày 15/4/2016, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
thủy sản I đã long trọng tổ chức tiếp đón đoàn
đại biểu thuộc Trường Đại học Gezira và Đại sứ
quán nước Cộng hòa Xu-đăng tại Hà nội.
Trưởng đoàn đại biểu là Giáo sư Mohammed
Warrag Omer Mohammed - Phó Hiệu trưởng
Trường Đại học Gezira và ngài Đại sứ Sayed
Altayeb Ahmed cùng các thành viên.
Tham gia tiếp đoàn phía Viện I gồm có Viện trưởng
- Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phan Thị Vân và Phó Viện
trưởng - TS Nguyễn Quang Huy cùng Lãnh đạo
các Phòng ban, Trung tâm tại trụ sở chính.
Quang cảnh buổi họp. Ảnh Phan Trọng Bình
Tại buổi tiếp đón, Trưởng phòng KH-HTQT-ĐT
Mai Văn Tài đã có bài trình bày giới thiệu lịch sử
hình thành và phát triển cũng như tiềm năng của
Viện. Tiếp theo đó đại diện Trường Đại học
Gezira đã giới thiệu về Trường các khoa, ngành
mà Trường đào tạo.
Ngay sau đó hai bên đã cùng thảo luận và trao
đổi những vấn đề có thể hợp tác trong lĩnh vực
đào tạo như gửi sinh viên tới Viện để thực tập
và đào tạo cho một số lĩnh vực liên quan.
Kết thúc buổi làm việc hai bên đã cùng nhau ký
kết Biên bản thỏa thuận hợp tác và hy vọng mối
quan hệ hợp tác giữa Viện và Trường sẽ có
những bước phát triển mới trong tương lai.
Triển khai Dự án “Phát triển Nuôi trồng
thủy sản tại Vê-nê-du-ê-la”
Hoàng Thủy
Dự án “Phát triển nuôi trồng thủy sản tại Vê-nê-
du-ê-la” đã xây dựng thành công và được phê
duyệt bởi hai Chính phủ Việt Nam và Vê-nê-du-
ê-la vào giữa năm 2016. Dự án sẽ triển khai
trong 3 năm tại các bang của Vê-nê-du-ê-la với
mục tiêu phát huy được tiềm năng nuôi trồng
thủy sản tại Vê-nê-du-ê-la một cách bền vững
nhằm từng bước đảm bảo an ninh lương thực
trong nước và xuất khẩu.
Nằm trong kế hoạch hoạt động của Dự án, đầu
tháng 11/2016 một đoàn chuyên gia quy hoạch
thủy sản bao gồm 08 chuyên gia sang Vê-nê-du-
ê-la thực hiện Dự án với thời gian dự kiến từ 02
đến 12 tháng với nhiệm vụ qui hoạch & mở rộng
trại giống và nuôi thương phẩm cá chim; trại
giống tôm; và trại nuôi tôm thương phẩm.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn,
nhưng đoàn cán bộ chuyên gia luôn cố gắng
hoàn thành nhiệm vụ của Dự án đề ra.
18 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Viện I triển khai chương trình tập huấn
khuyến nông tại Khánh Hòa
Hoàng Thủy
Từ ngày 22 - 27/8/2016, Viện I đã triển khai tổ
chức các lớp tập huấn về nghiệp vụ và kỹ thuật
chuyên ngành NTTS theo kế hoạch của Trung
tâm Khuyến nông Quốc gia tại Khánh Hòa với 2
lớp tập huấn với nội dung: “Bồi dưỡng phương
pháp khuyến nông, Kỹ thuật nuôi cá lồng biển
quy mô công nghiệp và Quản lý an toàn sinh
học, môi trường trong nuôi cá lồng bè trên biển”.
Có 60 học viên là cán bộ khuyến ngư, cộng tác
viên khuyến nông và ngư dân nuôi thủy sản biển
đến từ các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phú
Yên đã về tham dự.
Đại diện Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Khánh Hoà
đến tham dự và phát biểu khai mạc tại lớp tập huấn.
Tại buổi tập huấn, các giảng viên của Viện đã
giới thiệu tới các học viên kỹ thuật nuôi cá lồng
biển hiện đại quy mô công nghiệp được triển
khai tại Vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà. Các
giảng viên cũng đề cập đến vấn đề quản lý môi
trường khu nuôi biển, một số bệnh thường gặp
ở cá biển nuôi và cách phòng trị. Tại các buổi
tập huấn trên lớp và đi thực tế, giảng viên và
học viên đã tích cực thảo luận, trao đổi kinh
nghiệm, đề xuất, kiến nghị về một số vấn đề liên
quan đến chính sách và kỹ thuật. Kết quả thu
được từ phiếu đánh giá của 2 lớp tập huấn đã
đáp ứng được yêu cầu của học viên.
Học viên đi thực địa tại cơ sở nuôi cá lồng biển.
Chuyến thăm quan và học tập về nuôi
trồng thuỷ sản tại Việt Nam của đoàn cán
bộ thuỷ sản thuộc Bang Tamil Nadu Ấn
Độ
Hoàng Thuỷ
Từ ngày 5 đến 19 tháng 9 năm 2016, Viện I đã
tổ chức chuyến thăm quan và học tập về nuôi
trồng thuỷ sản tại Việt Nam cho 15 cán bộ thuỷ
sản thuộc Bang Tamil Nadu Ấn Độ do Ngân
hàng Thế giới tài trợ. Tại đây đoàn đã được giới
thiệu về sự phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản
của Việt Nam và thăm quan thực địa tại một số
tỉnh có tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản gồm
Khánh Hoà, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định,
v.v…
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016) 19
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Một số hình ảnh của đoàn tập huấn tại
Việt Nam
Tại Vịnh Vân Phong,tỉnh Khánh Hoà
Tại Vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà
Tại Vịnh Vân Phong,tỉnh Khánh Hoà
Tại Quý Kim, Hải Phòng
Tại TTQG giống hải sản miền Bắc
Tại khu nuôi lồng biển Vịnh Lan Hạ, Cát Bà
20 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 17 (2016)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Làm việc với Ban quản lý Vịnh Cát Bà
Thăm khu nuôi hầu tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Thăm quan mô hình NTTS tại Hải Dương
Nhận chứng chỉ sau khi kết thúc khoá học
Đoàn chụp ảnh lưu niệm với Lãnh đạo Viện
Kết thúc buổi thăm quan học tập đoàn đã có
nhiều chia sẻ kinh nghiệm về nuôi trồng thuỷ
sản giữa hai nước, đoàn cũng đánh giá cao và
cám ơn Viện I đã tổ chức chuyến thăm quan hết
sức ý nghĩa và rất mong khi trở về có thể áp
dụng một số kinh nghiệm nuôi trồng thuỷ sản tại
Ấn Độ.