bài 6 thẤt nghiỆp vÀ lẠm phÁt

46
Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát ECO102_Bai6_v2.0018102208 196 Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT Nội dung Mục tiêu Trình bày được các tác động (tích cực và tiêu cực) của lạm phát và thất nghiệp của nền kinh tế. Chỉ ra được các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát và hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ở các nước nói chung và Việt Nam nói riêng. Hướng dẫn học Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận các nội dung: Phân tích khái niệm lạm phát và thất nghiệp. Phân tích các tác động của lạm phát và thất nghiệp đến nền kinh tế. Chỉ ra các giải pháp nhằm kiềm chế mức lạm phát và hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp (đường Phillips, và các nhân tố làm dịch chuyển và di chuyển đường Phillips). Để học tốt bài này sinh viên cần: Đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo để chọn ra những tài liệu tham khảo hữu ích nhất. Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được cung cấp cho môn học này để biết được trình tự học tập.

Upload: others

Post on 17-Oct-2021

6 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

196

Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Nội dung Mục tiêu

Trình bày được các tác động (tích cực và

tiêu cực) của lạm phát và thất nghiệp của

nền kinh tế.

Chỉ ra được các giải pháp nhằm kiềm chế

lạm phát và hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ở các

nước nói chung và Việt Nam nói riêng.

Hướng dẫn học

Trong bài này, người học sẽ được tiếp

cận các nội dung:

Phân tích khái niệm lạm phát và

thất nghiệp.

Phân tích các tác động của lạm phát

và thất nghiệp đến nền kinh tế.

Chỉ ra các giải pháp nhằm kiềm chế

mức lạm phát và hạ thấp tỷ lệ thất

nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Phân tích mối quan hệ giữa lạm

phát và thất nghiệp (đường Phillips,

và các nhân tố làm dịch chuyển và

di chuyển đường Phillips).

Để học tốt bài này sinh viên cần:

Đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo để chọn

ra những tài liệu tham khảo hữu ích nhất.

Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu

được cung cấp cho môn học này để biết

được trình tự học tập.

Page 2: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

197

inh tế Việt Nam và các nước khác suy giảm mạnh giai đoạn 2008 và những tháng đầu

năm 2009 đã làm cho hàng triệu người lao động mất việc làm, lâm vào cảnh khó khăn

trong cuộc sống. Đã có hàng ngàn người đi xuất khẩu lao động phải quay về nước vì các

công ty thuê họ ngừng hoạt động, có hàng vạn công nhân ở các thành phố, khu công nghiệp đã

phải phá sản và hàng triệu lao động trong các làng nghề không có việc vì không ai đặt hàng. Đó

là dấu hiệu của thất nghiệp. Thất nghiệp là một vấn đề kinh tế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp đến đời

sống của con người. Những người bị mất việc làm đồng nghĩa với mức sống của họ bị sụt giảm

và suy sụp về tâm lý. Các nhà kinh tế nghiên cứu về thất nghiệp để xác định nguyên nhân và

giúp cải thiện được chính sách kinh tế nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Cuối năm 2008, dấu hiệu

khủng hoảng kinh tế thế giới lan sang các nước đang phát triển như Việt Nam. Lao động bị mất

việc làm dưới 3 hình thức: chủ sử dụng bỏ trốn; doanh nghiệp phá sản và doanh nghiệp thu hẹp

sản xuất, buộc phải cắt giảm nhân công. Với doanh nghiệp giải thể, phá sản, theo quy định lao

động được thanh toán lương, phụ cấp, giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc mỗi năm làm việc được

nửa tháng lương. Nguồn kinh phí thanh toán được lấy từ phần tài sản còn lại của doanh nghiệp.

Nhưng thực tế doanh nghiệp đã phá sản thì không có nguồn để giải quyền lợi cho lao động. Như

vậy, thất nghiệp gia tăng đã dẫn đến giảm thu nhập, giảm tiêu dùng, giảm khả năng sản xuất của

các doanh nghiệp, và cuối cùng các doanh nghiệp tiếp tục cắt giảm sản xuất, sa thải lao động và

đẩy thất nghiệp ngày càng tăng cao. Câu hỏi đặt ra là, có hay chăng loại hình thất nghiệp nào sẽ

mang lại lợi ích cho nền kinh tế? Nếu thất nghiệp gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thì

Chính phủ nên thực hiện những biện pháp gì để giảm tỷ lệ thất nghiệp?

Bên cạnh thất nghiệp thất gia tăng, trong năm 1998, ở Việt Nam, giá 1 kg gạo là 4.000

đồng, giá 1 căn hộ chung cư cũ 45 m2 là 50 triệu đồng, và giá 1 kg thịt lợn là 10.000 đồng. Năm

2018, giá 1 kg gạo là 18.000 đồng, giá 1 căn hộ chung cư cũ 45 m2 là 1,5 tỷ đồng, và giá 1 kg thịt

lợn là 80.000 đồng. Sự gia tăng giá này được gọi là lạm phát. Lạm phát là sự gia tăng liên tục của

mức giá chung. Một ví dụ khác, giữa năm 1988 và 1994, tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Brazil là

1.300%, 2.900%, 440%, 1.000%, 1.260%, và 1.740% tương ứng. Mức giá đã tăng khoảng 3,6

triệu lần khi chúng ta so sánh năm 1988 với năm 1994. Trong bài này, chúng ta sẽ xem xét lý

thuyết cổ điển về nguyên nhân, kết quả, và chi phí xã hội của lạm phát. Liệu lạm phát gây ra

những ảnh hưởng tiêu cực và tích cực gì cho người tiêu dùng, doanh nghiệp, và cả xã hội? Tại

sao lạm phát được dự đoán trước có thể tốt hơn lạm phát không được dự đoán trước?

Những ví dụ nêu trên miêu tả các tác động tiêu cực của lạm phát và thất nghiệp đến nền kinh tế?

Vậy, liệu có phải tất cả lạm phát và thất nghiệp sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế?

Nếu có, Chính phủ phải thực hiện những giải pháp gì để kiềm chế lạm phát và thất nghiệp? Giữa

lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ với nhau hay không trong ngắn hạn và dài hạn? Bài này

sẽ tập trung phân tích và làm rõ được hai vấn đề kinh tế vĩ mô thất nghiệp và lạm phát này. Nội

dung và mục đích của việc nghiên cứu được miêu tả sau đây.

6.1. Thất nghiệp

6.1.1. Khái niệm và phân loại thất nghiệp

a. Các khái niệm liên quan

Để có cơ sở xác định thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp, chúng ta cần phân biệt một vài

khái niệm sau đây:

K

Page 3: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

198

Biểu đồ 6.1. Phân biệt các đối tượng thuộc nguồn nhân lức

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2016)

Theo Tổng cục Thống kê (2016), Báo cáo lao động - việc làm điều tra năm 2016 đưa ra

các khái niệm và phân loại các khái niệm về nguồn nhân lực trong nền kinh tế bao gồm

các loại sau:

Hộ gia đình: Hộ bao gồm một người ăn ở riêng hoặc một nhóm người ở chung và ăn

chung. Đối với hộ có từ 2 người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hoặc không có

quỹ thu chi chung; có hoặc không có mối quan hệ ruột thịt, hôn nhân hay nuôi dưỡng;

hoặc kết hợp cả hai.

Tình trạng hoạt động: Theo dân số được phân thành hoạt động kinh tế và không hoạt

động kinh tế. Dân số hoạt động kinh tế: Bao gồm những người thỏa mãn các điều kiện

làm việc (có việc làm) hoặc thất nghiệp trong tuần nghiên cứu. Với thời kỳ nghiên cứu là

một tuần (hay 7 ngày), dân số hoạt động kinh tế còn được gọi là lực lượng lao động. Dân

số không hoạt động kinh tế: Bao gồm những người không phải là người có việc làm và

cũng không phải là người thất nghiệp trong thời kỳ nghiên cứu.

Những người trong độ tuổi lao động: là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền

lợi lao động theo quy định đã ghi trong Hiến pháp và phát luật Lao động. Độ tuổi lao

động đối với nam và nữ ở một số quốc gia là khác nhau, nó tuy thuộc và trình độ, năng

lực, sự cống hiến, và sức khỏe của người lao động. Ở Việt Nam, độ tuổi lao động đối với

nam là từ 15 – 60 tuổi, đối với nữ là từ 15 – 55 tuổi. Lực lượng lao động là số người

Page 4: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

199

trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc chưa có việc làm những đang tìm kiếm

việc làm. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ giữa lực lượng lao động và toàn bộ

những người trong độ tuổi lao động (dân số một quốc gia trong độ tuổi lao động).

Người có việc làm: là tất cả những người từ đủ 15 tuổi trở lên, trong thời gian tham

chiếu có làm bất cứ việc gì (không bị pháp luật cấm) từ 01 giờ trở lên để tạo ra các sản

phẩm hàng hóa hoặc cung cấp các dịch vụ nhằm mục đích tạo thu nhập cho bản thân và

gia đình. Người có việc làm bao gồm cả những người không làm việc trong tuần nghiên

cứu nhưng đang có một công việc và vẫn gắn bó chặt chẽ với công việc đó (vẫn được trả

tiền lương/tiền công trong thời gian không làm việc hoặc chắc chắn sẽ quay trở lại làm

sau thời gian không quá 01 tháng).

Những người làm việc để nhận tiền lương, tiền công hay lợi nhuận nhưng đang tham

gia các hoạt động tập huấn, đào tạo hoặc các hoạt động nâng cao kỹ năng do yêu cầu

của công việc trong đơn vị;

Những người học việc, tập sự (kể cả bác sĩ thực tập) làm việc và có nhận được tiền

lương, tiền công;

Những người làm việc trong các hộ/cơ sở kinh tế của chính họ để sản xuất ra các sản

phẩm hàng hóa và cung cấp dịch vụ;

Những người làm việc vì mục đích tiền công, tiền lương hoặc lợi nhuận nhưng các

khoản tiền lương, tiền công và lợi nhuận đó có thể không trả trực tiếp cho họ mà

được tích lũy vào thu nhập chung của gia đình họ. Những người này bao gồm: (i)

Người làm việc trong các đơn vị kinh doanh được tổ chức bởi một thành viên gia

đình đang sống cùng hộ hoặc khác hộ; (ii) Người thực hiện các phần việc, nhiệm vụ

của một công việc làm công ăn lương được tổ chức bởi một thành viên gia đình đang

sống cùng hộ hoặc khác hộ.

Người thiếu việc làm: là những người làm việc dưới 35 giờ một tuần, mong muốn và

sẵn sàng làm thêm việc.

Người thất nghiệp: Định nghĩa “thất nghiệp” căn cứ vào ba tiêu chuẩn sau: (i) hiện

không làm việc; (ii) đang tìm kiếm việc làm; và (iii) sẵn sàng làm việc. Các yếu tố này

phải được thỏa mãn đồng thời. Người thất nghiệp là những người trong tuần nghiên cứu

không làm việc, nhưng đã có những bước đi cụ thể để tìm việc làm và sẵn sàng làm việc.

Các hoạt động tìm việc bao gồm: đăng ký tìm việc tại văn phòng việc làm của Nhà nước

hoặc tư nhân; nộp đơn xin việc đến người sử dụng lao động/ông chủ; kiểm tra, đọc và trả

lời các mục quảng cáo tìm việc trên báo; tìm sự hỗ trợ từ những người bạn và người

thân... Những người không làm việc, sẵn sàng/có nhu cầu làm việc, nhưng trong thời

gian tham chiếu không tìm việc do: (i) Đã chắc chắn có được công việc hoặc hoạt động

sản xuất kinh doanh để bắt đầu sau thời kỳ tham chiếu; (ii) Phải tạm nghỉ (không được

nhận tiền lương, tiền công hoặc không chắc chắn quay trở lại làm công việc cũ) do cơ sở

bị thu hẹp hoặc ngừng sản xuất; (iii) Đang trong thời gian nghỉ thời vụ; (iv) Bận việc đột

xuất của gia đình hoặc ốm, đau tạm thời; cũng được phân loại là người thất nghiệp.

Người không hoạt động kinh tế: là những người không làm việc và cũng không phải là

người thất nghiệp trong tuần nghiên cứu. Những người này có thể được phân loại vào

các nhóm như “học sinh, sinh viên”, “nội trợ gia đình mình”, “không thể làm việc do

mất khả năng lao động”, “những người tàn tật”, "quá trẻ/quá già", và “những người

khác”. Nhóm “khác” bao gồm cả những người không cần hoặc không muốn đi làm do đã

Page 5: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

200

có nguồn tài trợ, trợ cấp của Nhà nước hoặc tư nhân, hoặc những người tự nguyện tham

gia các công việc của tôn giáo/từ thiện (nhân đạo) hoặc các tổ chức tương tự khác, và tất

cả những người khác không thuộc bất kỳ nhóm nào ở trên.

Lao động thoái chí: là những người không tham gia hoạt động kinh tế. Tuy muốn làm

việc nhưng không tìm việc vì họ cho rằng sẽ không thể tìm được việc, hoặc không biết tìm

việc bằng cách nào, ở đâu hoặc không có công việc nào phù hợp với khả năng của họ.

Vị thế việc làm: là vị trí hay tình trạng của một người có việc làm trong mối quan hệ với

những người khác trong đơn vị/tổ chức mà người đó làm việc. Vị thế việc làm được chia

thành các phân tổ sau:

Chủ cơ sở: là những người làm các công việc thuộc loại "Việc tự làm", tức là người

một mình hoặc kết hợp với những đối tác khác điều hành hoạt động của một đơn vị

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc chuyên môn và có tuyển hoặc thuê ít nhất một lao

động được trả lương/trả công.

Tự làm: là những người làm các công việc thuộc loại "Việc tự làm", tức là người một

mình hoặc kết hợp với những đối tác khác điều hành hoạt động của một đơn vị sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc chuyên môn và không tuyển hoặc thuê bất kỳ một lao

động được trả lương/trả công.

Lao động gia đình: là những người làm các công việc thuộc loại "Việc tự làm", tức là

lao động tự làm trong một cơ sở kinh tế và do ít nhất một thành viên gia đình quản

lý/điều hành để tạo ra thu nhập nhưng không được hưởng tiền lương, tiền công.

Trường hợp làm các công việc do thành viên gia đình tổ chức nhưng được trả tiền

lương, tiền công, thì không được tính là lao động gia đình mà phải tính là "làm công

ăn lương".

Làm công ăn lương: là những người đang làm việc thuộc loại "Việc làm được trả

công", tức là những người được các tổ chức, cá nhân khác thuê theo hợp đồng (hợp

đồng lao động, quyết định tuyển dụng,...) để thực hiện một hay một loạt các công

việc nhằm đạt được mục đích của tổ chức, cá nhân đó và được tổ chức, cá nhân đó

trả thù lao dưới dạng tiền lương, tiền công hoặc hiện vật.

Xã viên hợp tác xã: là những người làm các công việc thuộc loại "Việc tự làm", tức

là những người làm việc trong các hợp tác xã đã thành lập theo Luật Hợp tác xã.

Nghề nghiệp: Nghề nghiệp được phân loại theo Danh mục Nghề nghiệp Việt Nam ban

hành theo Quyết định 1019/QĐ-TCTK ngày 12 tháng 11 năm 2008. Danh mục Nghề

nghiệp này được soạn thảo dựa theo bảng phân loại chuẩn quốc tế về nghề nghiệp 2008

(ISCO 88) có kế thừa bảng Danh mục Nghề nghiệp ban hành theo Quyết định số

114/1998/QĐ-TCTK ngày 29 tháng 3 năm 1999 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống

kê và hệ thống chức danh hiện hành của Việt Nam. Có 10 nhóm nghề Cấp 1 như sau

(các số phía trước là mã nhóm nghề cấp 1):

1) Nhà lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị.

2) Nhà chuyên môn bậc cao.

3) Nhà chuyên môn bậc trung.

4) Nhân viên trợ lý văn phòng.

5) Nhân viên dịch vụ và bán hàng.

6) Lao động có kỹ năng trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.

7) Lao động thủ công và các nghề nghiệp có liên quan khác.

Page 6: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

201

8) Thợ lắp ráp và vận hành máy móc, thiết bị.

9) Lao động giản đơn.

10) Lực lượng quân đội.

Ngành kinh tế: Ngành kinh tế được phân loại theo Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam

2007 ban hành theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007. Hệ

thống này gồm các ngành cấp 1 sau (các chữ viết phía trước là ngành cấp 1):

1. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.

2. Khai khóang.

3. Công nghiệp chế biến, chế tạo.

4. Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí.

5. Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải.

6. Xây dựng.

7. Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác.

8. Vận tải kho bãi.

9. Dịch vụ lưu trú và ăn uống.

10. Thông tin và truyền thông.

11. Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.

12. Hoạt động kinh doanh bất động sản.

13. Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ.

14. Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ.

15. Hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị - xã hội, quản lý nhà nước,

an ninh quốc phòng; bảo đảm xã hội bắt buộc.

16. Giáo dục và đào tạo.

17. Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội.

18. Nghệ thuật, vui chơi và giải trí.

19. Hoạt động dịch vụ khác.

20. Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm.

21. vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình.

22. Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế.

Khu vực kinh tế bao gồm: Khu vực 1: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

(ngành cấp 1: A); Khu vực 2: Công nghiệp và xây dựng (bao gồm các ngành cấp 1 từ

B đến F); và Khu vực 3: Dịch vụ (bao gồm các ngành cấp 1 còn lại).

Số giờ đã làm: là thời gian trung bình của người lao động đã dành để làm một công việc nào

đó trong thời gian nghiên cứu. Số giờ làm việc thông thường bao gồm cả số giờ làm thêm

nhưng không bao gồm số giờ tuy không làm việc nhưng vẫn được trả công/trả lương.

Thu nhập từ việc làm bình quân tháng: Thu nhập từ việc làm gồm các loại như tiền

lương/tiền công, tiền thưởng và phụ cấp các loại có tính chất như lương (làm thêm giờ,

độc hại,...) của tất cả các công việc.

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: là tỷ lệ phần trăm những người thuộc lực lượng lao

động chiếm trong tổng số dân trong độ tuổi có khả năng lao động được quy định (ví dụ,

Luật Lao động quy định giới hạn tuổi tối thiểu là 15 tuổi, thì tuổi có khả năng lao động

được tính từ 15 tuổi trở lên) và hiện đang sống tại Việt Nam.

Page 7: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

202

Tỷ số việc làm trên dân số: là tỷ lệ phần trăm những người có việc làm (đang làm việc)

chiếm trong tổng số dân trong độ tuổi có khả năng lao động được quy định và hiện đang

sống tại Việt Nam.

Tỷ lệ thiếu việc làm: là tỷ lệ phần trăm những người thiếu việc làm chiếm trong tổng số

dân có việc làm trong độ tuổi có khả năng lao động được quy định.

Tỷ lệ thất nghiệp: là tỷ lệ phần trăm những người thất nghiệp chiếm trong lực lượng lao

động trong độ tuổi có khả năng lao động được quy định.

Bảng 6.1. Phân loại đối tượng lao động và ngoài độ tuổi lao động

Dân số

Trong độ tuổi lao động Ngoài độ tuổi

lao động

Lực lượng lao động Không tham gia lao động (ốm đau, nội trợ, không

muốn tìm việc)

Ngoài độ tuổi lao

động

Có việc làm Thất

nghiệp Không tham gia lao động ( ốm đau, nội trợ, không

muốn tìm việc)

Ngoài độ tuổi lao

động

b. Phân loại thất nghiệp

Phân loại theo đặc tính chủ thể thất nghiệp

o Theo giới tính: Tỷ lệ thất nghiệp ở nam giới cao hơn tỷ lệ thất nghiệp ở nữ giới.

o Theo lứa tuổi: Tỷ lệ thất nghiệp ở những người trẻ tuổi cao hơn tỷ lệ thất nghiệp ở

những người cao tuổi.

o Theo vùng lãnh thổ: Khu vực đô thị thường có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn nông

thôn ở các nước đang phát triển.

o Theo ngành nghề: Tùy thuộc vào từng giai đoạn, từng thời điểm, các ngành suy

thoái thì thất nghiệp đối với ngành đó gia tăng và ngược lại.

o Theo dân tộc, chủng tộc: Tình trạng thất nghiệp có thể phụ thuộc vào sự phân biệt

về chủng tộc, sắc tộc của một số quốc gia.

Phân loại theo lý do thất nghiệp

o Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp,

không hợp nghề, hợp vùng,…

o Mất việc: Các hãng cho thôi việc do những khó khăn trong kinh doanh,...

o Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh

niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác,…).

o Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm

việc nhưng chưa tìm được việc làm.

Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp

o Thất nghiệp tạm thời: Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số người lao động

đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm tốt hơn, phù hợp với ý

muốn riêng (lương cao hơn, gần nhà hơn,…) hoặc những người mới bước vào thị

trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm,… Mọi xã hội trong

bất kỳ thời điểm nào đều tồn tại loại thất nghiệp này. Chỉ có sự khác nhau về quy

mô số người và thời gian thất nghiệp.

Page 8: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

203

o Thất nghiệp theo mùa vụ: Thất nghiệp theo mùa vụ cũng là một phần của nền

kinh tế, và thường do thực tế là một số công việc chỉ thực hiện được theo mùa

nhất định như đánh cá, làm nông nghiệp, xây dựng, v.v...

o Thất nghiệp cơ cấu: Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi có sự mất cân đối cung cầu

giữa các loại lao động (giữa các ngành nghề, khu vực,…). Loại này gắn liền với

sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường lao

động (tổ chức đào tạo lại, môi giới,…). Khi sự biến động này là mạnh và kéo dài,

nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn. Thất

nghiệp do cơ cấu là sự mất việc kéo dài trong các ngành hoặc vùng có sự giảm

sút kéo dài về nhu cầu lao động do thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Ví dụ kinh điển là

sự dịch chuyển từ lực lượng lao động chiếm đa số trong nông nghiệp (70% số lao

động) năm 1900 đến hiện nay chỉ chiếm 3%.

Hình 6.1. Tỷ lệ thất nghiệp ở các nước OECD, quý 4 năm 2016

Nguồn gốc của những thay đổi trong cơ cấu bao gồm:

o Sự dịch chuyển của các ngành nghề xuất khẩu và nhập khẩu do thương mại quốc

tế tự do hơn.

o Những vi mạch máy tính rẻ dẫn đến sự nở rộ về tự động hóa và robot hóa. (Ví dụ

như có một sự sụt giảm lớn trong nhu cầu đối với nghề hướng dẫn trong ngân

hàng và người trực điện thoại, nhưng có sự tăng lớn nhu cầu về lập trình viên

máy tính, nhân viên nhập dữ liệu,...).

o Những thay đổi trong thị trường thế giới đối với các sản phẩm nông nghiệp.

o Có những lợi ích kinh tế của thất nghiệp do chuyển đổi nghề đối với cá nhân và

xã hội. Những công nhân trẻ đang trải qua thất nghiệp sẽ cố gắng tìm kiếm những

công việc phù hợp với khả năng và lợi ích của họ.

o Lợi ích của việc thay đổi công việc là làm thỏa mãn hơn và làm việc hiệu quả

hơn. Lợi ích xã hội do thay đổi công việc kèm theo với quá trình tìm kiếm công

Page 9: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

204

việc là cho phép những người lao động có thể tìm kiếm được những công việc mà

họ làm hiệu quả hơn.

o Mặt khác, những công nhân thất nghiệp do cơ cấu sẽ không tìm được công việc

mới nếu họ không đào tạo lại hoặc thay đổi nơi ở. Thực tế này có nghĩa là một

chi phí lớn hơn đối với người lao động và xã hội – ví dụ, những công nhân thất

nghiệp do cấu trúc không có việc làm trong nhiều giai đoạn. Những người lao

động này chiếm một chi phí lớn trong việc cơ cấu lại nền kinh tế của chúng ta,

mặc dù xã hội thu được lợi ích về dài hạn trong việc dịch chuyển đến những

ngành mới này.

Thất nghiệp do thiếu cầu: Loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu chung về lao

động giảm xuống. Nguồn gốc chính là ở sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được

gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy

thóai của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình

trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề.

Phân loại theo tiếp cận mô hình cung cầu:

o Thất nghiệp tự nguyện (người lao động tự nguyện thất nghiệp): Là số lượng

người lao động tự nguyện thất nghiệp do công việc và tiền công chưa phù hợp với

ý muốn của mình. Thất nghiệp tự nguyện chỉ một trong những người “tự nguyện”

không muốn làm việc, do việc làm và mức lượng tương ứng chưa phù hợp với mong

muốn của mình. Bao gồm những người: Mới bổ sung vào lực lượng lao động hoặc tự ý

bỏ việc, do chuyển vùng (chuyển công tác, chuyển nơi ở, di dân), do tính chất thời vụ

của công việc, do thay đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề; do can thiệp phi kinh tế.

Nghiên cứu điển hình

Thất nghiệp tự nguyện – Bài toán "lùi để tiến"

Không phải ai cũng có thể nhanh chóng tìm được việc làm phù hợp cũng không

phải ai có thể thích ứng và gắn bó lâu dài với công việc của mình. Vì một mức

lương chưa vừa ý, một môi trường làm việc không thuận lợi, có những người sẵn

sàng nghỉ việc để đeo đuổi những cơ hội tốt hơn. Thất nghiệp – với họ chưa bao giờ

là điều gì đó tồi tệ.

Lùi một bước …

Thừa kinh nghiệm cũng chẳng phải thiếu khả năng để tạo cho mình cái "mác hàng

hiệu" mà các công ty, doanh nghiệp sẵn sàng "rải thảm" chào đón nhưng những

người "thất nghiệp" thuộc diện này vẫn có thể tự tin… lắc đầu và đợi chờ những

điều họ muốn. Không vội vàng, cuống cuồng xin việc, không lo lắng trước "thảm

cảnh" đang hiển hiện giăng sẵn trước mắt mà những người thất nghiệp bình thường

vẫn luôn đối diện, những người này luôn chuẩn bị tâm thế để xếp mình vào đội

ngũ... tự nguyện không đi làm. Thất nghiệp, thiếu việc làm luôn đồng nghĩa với

không có thu nhập. Những người này, hơn ai khác, hiểu rõ những cơ hội sẽ đến và

đi. Nhưng cũng chính họ, hơn ai khác, biết rằng năng lực và "lịch sử thăng tiến" của

họ cho phép họ có quyền lựa chọn cơ hội nào là tốt nhất và phù hợp nhất với bản

thân. Trở về nước với tấm bằng thạc sĩ ngành Xây dựng, với gần chục năm giảng

dạy trên đất Mỹ, Tùng tất nhiên trở thành đích ngắm của các công ty cả trong lẫn

Page 10: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

205

ngoài nước đang trong một cuộc chiến tranh giành nhân sự cao cấp. Với mức lương

không dưới 1500 USD/ tháng, Tùng nhận lời làm cho một công ty sau khi đã có suy

tính kĩ càng. Thời gian đầu, Tùng làm việc rất nhiệt tình, có khó khăn nhưng lúc ấy

anh chỉ nghĩ đơn giản là do khác biệt về môi trường làm việc và anh có thể thích

nghi dần qua thời gian. Thế nhưng Tùng nhanh chóng chán ngán với chuyện họp

hành liên miên, những thủ tục hành chính phức tạp và phong cách làm việc khó có

thể thay đổi của các sếp và đồng nghiệp trong công ty, anh xin nghỉ việc và tiếp tục

đầu quân cho một công ty khác. Mọi chuyện vẫn không như mong muốn. Qua mấy

lần như vậy, Tùng rơi vào tình trạng thất nghiệp lúc nào không hay.

Nhiều người vẫn không thể hiểu nổi một người như anh Quang lại đang nằm trong

cảnh thất nghiệp dù anh đã nhiều năm làm việc cho các công ty nước ngoài trong

cương vị của nhà quản lý. Từ bỏ mức lương hàng ngàn đô, từ bỏ vị trí trưởng phòng

đang nắm giữ, anh lui về lo cho gia đình, con cái và tối tối lại đi học thêm tại trung

tâm ngoại ngữ, ôn thi cao học để xây dựng cho mình một con đường mới với nhiều

dự tính hoài bão.

Với những du học sinh mới trở về nước như Tuấn Anh, chịu thất nghiệp cũng bởi vì

mức lương không bao giờ được dưới 500 USD/tháng. Chi phí học hành ngốn hết

hàng ngàn đô suốt những năm tháng bên xứ người là lí do chính khiến họ cân nhắc

sẽ đầu quân cho công ty nào có thu nhập cao hơn để bù "vốn".

Để tiến mấy bước

Không vừa ý vì mức lương chưa làm thỏa mãn, vì chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng

với công sức họ bỏ ra, chấp nhận ra đi vì môi trường làm việc không phù hợp để

phát triển năng lực và thăng tiến, có những người đã chịu "thất nghiệp" để chờ đợi

những cơ hội và một tương lai như mình mong muốn. Đó là những cách không

giống nhau để người ta thực hiện những khát vọng của bản thân.

Với những người thất nghiệp kiểu này, công việc và sự săn đón của các công ty đôi

khi trở nên quá thừa vì bản thân họ biết rằng họ có sự chọn lựa cho riêng bản thân.

Họ biết nói không khi cảm thấy không phù hợp và "chưa phải lúc" để lao đầu vào

công việc.

Tùng dù thất nghiệp nhưng anh vẫn vừa nghiên cứu chuyên môn, tham gia những

dự án của một công ty hay một tổ chức phi Chính phủ nào đó, vừa chờ đợi những

cơ hội việc làm phù hợp với chuyên môn và năng lực của bản thân. Tùng muốn ứng

dụng những gì đã học được bên xứ người vào công việc, "không thì thật là lãng

phí", Tùng nói, không quên đề cập đến những tính toán mà bản thân đang theo đuổi.

Còn anh Quang sau những khóa học tiếng anh và ôn thi cao học ngành quan hệ

quốc tế đang dọn sẵn đường cho một kế hoạch công việc đúng với mơ ước mà anh

đã từng nung nấu: Ngành ngoại giao. Theo như anh Quang nói thì lương cao, môi

trường làm việc tốt với anh chưa phải là tất cả mà với anh bây giờ, đam mê công

việc, lĩnh vực ngành nghề nào mới là quan trọng.

Bỏ qua những lời mời chào có thể hấp dẫn với người khác, Tuấn Anh vẫn tự tin đưa

ra điều kiện để các công ty "chi đẹp" thì Tuấn Anh mới đồng ý về làm. Với mức

lương trên 500 USD/ tháng, Tuấn Anh mới mong mình hoàn được số vốn không hề

nhỏ đã bỏ ra khi du học. Bằng cấp quốc tế, năng lực và có sẵn kinh nghiệm dắt

Page 11: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

206

lưng, Tuấn Anh không cảm thấy lo lắng gì khi mình đang trong cảnh "ăn không

ngồi rồi". Sáng sáng đi cà phê, lên mạng, thỉnh thỏang cùng hội bạn theo xu hướng

làm việc tự do nhận vài dự án cho chân tay đỡ rảnh rang quá, Tuấn Anh tiếp tục

sàng lọc những lời mời từ phía các nhà tuyển dụng.

Tự tin với năng lực và kinh nghiệm sẵn có, những người thất nghiệp kiểu này đang

tự tìm lời giải cho bài toán lùi tiến của mình. Thất nghiệp để đón chờ những cơ hội

mới, thất nghiệp để nâng cao khả năng chuyên môn, và họ đang tạo cho mình những

"khoảng lặng" cần thiết cho những dự tính lớn lao trong sự nghiệp.

(Cập nhật lúc 14h00 ngày 5/7/2008 trên báo Kinh tế và Đô thị tại địa chỉ

http://www.ktdt.com.vn/newsdetail.asp?NewsId=26358&CatId=58)

o Thất nghiệp không tự nguyện (hay thất nghiệp chu kỳ): Do chu kỳ kinh tế gây

nên, còn gọi là thất nghiệp do thiếu cầu (theo trường phái Keynes).

o Thất nghiệp tự nhiên: Thất nghiệp tự nhiên là mức thất nghiệp xảy ra khi thị

trường lao động đạt trạng thái cân bằng. Nói cách khác, thất nghiệp tự nhiên là số

lượng người lao động không chấp nhận làm việc ở mức tiền công khi thị trường

lao động cân bằng. Số lượng người thất nghiệp tự nhiên sẽ là tổng số thất nghiệp tự

nguyện, những người chưa có những điều kiện mong muốn để tham gia vào thị

trường lao động.

Thất nghiệp tự nguyện chỉ một trong những người “tự nguyện” không muốn làm việc, do

việc làm và mức lương tương ứng chưa phù hợp với mong muốn của mình. Giả thiết này

là cơ sở để xây dựng đường cung: Một đường cung lao động nói chung chỉ ra quy mô của

lực lượng lao động xã hội tương ứng với các mức lương của thị trường lao động, một

đường cung chỉ ra bộ phận lao động chấp nhận việc làm với các mức lương tương ứng của

thị trường lao động. Khoảng cách giữa hai đường cung biểu thị con số thất nghiệp.

Tại mức tiền công W1 số người thực tế tham gia lao động là L1; số lượng người nằm

trong lực lượng lao động là L2 do đó xảy ra hiện tượng dư thừa lao động là đoạn EF =

L2 – L1, đây chính là con số thất nghiệp tự nguyện. Trên hình 6.2 dưới đây, đường DL

là đường cầu lao động, do nhu cầu lao động của các doanh nghiệp quyết định. Đường SL

là đường cung lực lượng lao động xã hội. Đường SL' là đường cung bộ phận lao động

sẵn sàng chấp nhận việc làm tương ứng với các mức lương của thị trường lao động. Tại

mức tiền công W1 số người thực tế tham gia lao động là L1; số lượng người nằm trong

lực lượng lao động là L2 do đó xảy ra hiện tượng dư thừa lao động là đoạn EF = L2 –

L1, đây chính là con số thất nghiệp tự nguyện.

Page 12: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

207

Hình 6.2. Thất nghiệp tự nhiên

Nếu Chính phủ quy định mức tiền lương tối thiểu, giả sử W2 cao hơn mức lương cân

bằng của thị trường lao động W0. Ở mức tiền lương W2, cung lao động sẵn sàng chấp

nhận việc làm SL' sẽ lớn hơn cầu lao động. Đoạn AB trên đồ thị biểu thị sự chênh lệch

này. Đó chính là số người thất nghiệp mà theo “Lý thuyết cổ điển” là bộ phận thất

nghiệp không tự nguyện bởi xã hội chỉ chấp nhận làm việc tại mức lương cao hơn W2.

Tổng số thất nghiệp tự nguyện trong trường hợp này sẽ là đoạn AC .

6.1.2. Nguyên nhân thất nghiệp

Kết cục của những người thất nghiệp không phải là vĩnh viễn. Có những người (bỏ việc,

mất việc,v.v.) sau một thời gian nào đó sẽ được gọi trở lại làm việc, nhưng cũng có một

số người không có khả năng đó và họ phải ra khỏi lực lượng lao động do không có điều

kiện bản thân phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động hoặc do mất hẳn sự hứng thú

làm việc hay có thể còn vì một nguyên nhân khác. Nguyên nhân của thất nghiệp rất

nhiều, có thể bao gồm:

Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp,

không hợp nghề, hợp vùng,...

Mất việc: Các hãng cho thôi việc do những khó khăn trong kinh doanh,v.v.

Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh

niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác,...)

Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc

nhưng chưa tìm được việc làm.

a. Thất nghiệp theo lý thuyết của trường phái cổ điển

Quan điểm của trường phái cổ điển cho rằng giá cả và tiền công linh hoạt, thị trường lao

động luôn đạt trạng thái cân bằng, còn có thất nghiệp là do ấn định mức tiền công cao

hơn mức tiền công cân bằng.

Nhìn vào đồ thị hình 6.3 cho thấy, thị trường lao động đạt trạng thái cân bằng tại E0 với

mức tiền công cân bằng là W0. Một bộ phận lớn lao động đạt mức tiền công W1 cao hơn

Page 13: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

208

mức tiền công cân bằng W0 trên thị trường lao động. Tại mức tiền công W1 cầu lao động

là L1, cung lao động là L2. Vì L1 > L2 cho nên xảy ra hiện tượng dư thừa lao động là

đoạn AB , hay xảy ra thất nghiệp. Áp lực để giảm tiền công xuống trạng thái cân bằng là

rất khó.

Hình 6.3. Mức tiền công tối thiểu cao hơn

b. Phân tích thất nghiệp theo lý thuyết của Keynes

Quan điểm của trường phái Keynes cho rằng giá cả và tiền công thường cứng nhắc,

không linh hoạt, do đó dẫn đến hiện tượng thất nghiệp.

LL2L10

W1

W

SL

D’L

E2

E0

E1W0

L0

DL

LL2L10

W1

W

SL

D’L

E2

E0

E1W0

L0

DL

Hình 6.4. Thất nghiệp do thiếu cầu

Giả sử trong nền kinh tế tổng cầu suy giảm, cầu lao động giảm từ DL đến DL’, do giá cả

và tiền công không linh hoạt nên tại mức tiền công W1 ta có cầu lao động là L1 cung lao

động là L2, nhìn vào đồ thị ta thấy L1 < L2, dẫn đến tình trạng thất nghiệp.

Lượng người thất nghiệp là: 2 0 2 1E E L L . Thất nghiệp loại này còn gọi là thất nghiệp

do thiếu cầu. Nguồn gốc chính là do ở sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được gọi là

thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy thóai của

chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp

xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề.

Page 14: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

209

6.1.3. Tác động của thất nghiệp

Thất nghiệp là tình trạng không có việc làm để sinh sống. Khi tình trạng này lan rộng

đến nhiều người trong xã hội, người ta gọi là “nạn thất nghiệp”. Nó là một vấn đề lớn

của mọi xã hội và mọi nền kinh tế, phát triển hay đang phát triển, cần phải tìm cách khắc

phục. Chúng ta có thể xem xét tác động của thất nghiệp thông qua các nội dung sau:

Thất nghiệp khiến cho nhiều người đành chấp nhận làm những công việc không đúng

nghề khiến họ không thể đóng góp hết khả năng cho xã hội. Điều này ngăn cản họ

phát triển toàn diện và thực sự.

Thất nghiệp khiến cá nhân người đó rơi vào tình trạng mất cân bằng tâm lý, do

những thay đổi lớn so với các thói quen làm việc trước đó. Tình trạng tâm lý bất ổn

này có thể lây lan sang hoặc tác động đến những người sống chung quanh. Đó là

chưa kể tới việc người bị thất nghiệp có thể trở nên sa sút về mặt đạo đức khi ở trong

tình trạng không có chuyện gì chính thức để làm.

Mất việc làm ổn định có thể đẩy một người vào tình thế tìm cách bù trừ qua việc

nhận đại một công việc mà đôi khi không trong sáng hoặc phạm pháp, không xứng

với nhân phẩm của họ. Các tay trùm xã hội đen rất biết tâm lý này và cũng biết cách

lôi kéo để có thêm người “cộng sự”.

Mất việc kéo dài cũng thường đưa đến tình trạng bất ổn trong gia đình của người bị

mất việc, không chỉ trong mức độ giảm thu nhập cho gia đình mà, hơn thế nữa, còn

có nguy cơ tạo ra hoặc làm bộc phát những xung đột gia đình. Đôi khi điều này dẫn

đến tình trạng tan vỡ gia đình, nếu cộng hưởng với nhiều mối mâu thuẫn khác.

Nhìn trong mức độ tác hại thì thấy như vậy, tuy nhiên, xét theo góc độ toàn nền kinh tế

xã hội, thì tình trạng mất việc làm tạm thời trên một tỉ lệ cho phép trong số những người

trong độ tuổi lao động sẽ là điều kiện để thị trường lao động tự cơ cấu hóa lại hoặc để xã

hội có thể tổ chức đào tạo lại hay đào tạo bổ túc tay nghề cho những người đang không

trực tiếp tham gia lao động vào thời kỳ đó. Một tỉ lệ thất nghiệp hợp lý cho phép xã hội

có được một lực lượng lao động dự phòng cần thiết và nhất là có điều kiện đào tạo lực

lượng lao động “dôi ra” đó theo hướng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và tay nghề

hơn nữa. Đây là điểm tích cực. Để cụ thể hơn, chúng ta có thể xem xét tác động của thất

nghiệp đối với từng đối tượng trong xã hội:

a. Đối với bản thân và gia đình

Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao động khác,

tiêu tốn thời gian vô nghĩa, áp lực tâm lý và tất nhiên là không có khả năng chi trả, mua

sắm vật dụng thiết yếu cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Yếu tố sau là vô cùng trầm

trọng cho người gánh vác nghĩa vụ gia đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên

cứu cụ thể chỉ ra rằng, gia tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử,

và suy giảm chất lượng sức khỏe.

Một số quan điểm cho rằng người lao động nhiều khi phải chọn công việc có thu nhập

thấp (trong khi đi tìm cho mình công việc phù hợp) bởi vì các lợi ích của bảo hiểm xã

hội chỉ cung cấp cho những ai có quá trình làm việc trước đó. Về phía người sử dụng lao

động thì sử dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép với những người làm công cho

mình (như không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất cao, trả lương thấp, hạn

Page 15: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

210

chế cơ hội thăng tiến,...). Cái giá khác của thất nghiệp còn thể hiện ở chỗ khi thiếu các

nguồn tài chính và phúc lợi xã hội, các cá nhân buộc phải làm những công việc không

phù hợp với trình độ, năng lực của mình. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc

dưới khả năng.

Những thiệt thòi khi mất việc dẫn đến trầm uất, suy yếu ảnh hưởng của công đoàn, công

nhân lao động vất vả hơn, chấp nhận thù lao ít ỏi hơn và sau cùng là chủ nghĩa bảo hộ

việc làm. Chủ nghĩa này đặt ra những rào cản với người muốn gia nhập công việc, hạn

chế di dân, và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình trạng thất nghiệp sẽ khiến cán

cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về giới chủ, tăng chi phí khi rời công việc và

giảm các lợi ích của việc tìm cơ hội thu nhập khác.

b. Ảnh hưởng của thất nghiệp tới xã hội và nền kinh tế

Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với GDP thấp – các nguồn lực con người không được

sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. Thất nghiệp có nghĩa là sản

xuất ít hơn, giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô.

Đối với xã hội:

Có thể đương đầu với các tệ nạn xã hội do người thất nghiệp gây ra.

Chi nhiều tiền hơn để giải quyết hậu quả từ phía thất nghiệp như y tế, trật tự an ninh

trong xã hội,...

Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu

dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình

trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà

cơ hội đầu tư cũng ít hơn.

6.1.4. Các giải pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp

Giải pháp của thị trường để giải quyết thất nghiệp theo mùa và thất nghiệp do thay đổi

công việc bao gồm việc tìm việc tư nhân, quảng cáo của các doanh nghiệp cũng như

người tìm việc, và các trung tâm tìm việc tư nhân.

a. Tạo ra công ăn việc làm mới

Có công ăn việc làm là một nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội, nhất là đối

với những người trong độ tuổi lao động. Do đó, tạo ra công ăn việc làm đáp ứng “đủ”

nhu cầu tham gia lao động của các thành viên trong xã hội là cần thiết để có thể có được

một xã hội ổn định và phát triển. Đây trước hết là trách nhiệm của Chính phủ các quốc

gia, xét về phương diện quản lý vĩ mô, thực hiện thông qua việc hoạch định các chính

sách và hệ thống luật pháp có liên quan.

Thứ đến, cũng cần đến tinh thần trách nhiệm của các thành viên trong xã hội, cụ thể là

các nhà đầu tư và các doanh nghiệp, xét trên bình diện tham gia sản xuất kinh doanh.

Thật vậy, chính việc mạnh dạn đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, công

cũng như tư, mà xã hội có thêm một số việc làm tương ứng. Đóng góp này, nếu nhìn

riêng lẻ thì không thấy quan trọng mấy, vì mỗi doanh nghiệp chỉ tạo ra được một số việc

làm, tùy theo ngành nghề và quy mô đầu tư của doanh nghiệp, nhưng nếu cộng tất cả lại

trong phạm vi toàn nền kinh tế thì thật đáng kể. Nói theo cách đảo ngược thì nếu trừ đi

Page 16: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

211

các đóng góp loại này của từng doanh nghiệp, cho dù các doanh nghiệp với quy mô nhỏ

và rất nhỏ, xã hội sẽ mất đi một số việc làm tương ứng và con số thất nghiệp dôi ra từ

đây đáng phải kể đến. Và, nếu điều này xảy ra đồng loạt ở nhiều doanh nghiệp – như

trong trường hợp hàng loạt công ty, xí nghiệp ở Nhật phá sản do biến động tiền tệ vào

những năm đầu thập niên 1990, với hàng ngày có đến khoảng 6.000 doanh nghiệp tuyên

bố phá sản (theo các bản tin thời sự vào thời kỳ đó) thì con số người thất nghiệp sẽ tăng

vọt gây ảnh hưởng đáng kể tới nền kinh tế nói chung, nếu tình trạng này kéo dài.

Nếu mỗi công việc làm thường đòi hỏi một trình độ tay nghề hoặc trình độ văn hóa

tương ứng, một vấn đề khác đặt ra là liệu những người muốn tham gia lao động có đáp

ứng được yêu cầu này không? Nói cách khác, cần phải có một hệ thống đào tạo phù hợp

và một tinh thần tự đào tạo tốt.

b. Đào tạo và tự đào tạo nghề nghiệp

Đào tạo là “quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những kinh nghiệm,

những tri thức, những kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng

những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống

lao động tự lập và góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước”.

Để có một nghề, người ta, nhất là những người thuộc thế hệ trẻ, cần phải trải qua thời kỳ

đào tạo cần thiết. Đặc biệt ngày nay, trong bối cảnh những thành tựu khoa học kỹ thuật

được phát minh và ứng dụng hầu như tức thì vào sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh

được tổ chức theo những quy trình chặt chẽ và khoa học, thì việc học cho thành thạo một

nghề và, hơn nữa, nắm vững được mối liên hệ giữa các ngành nghề cũng như giữa các

khâu khác nhau trong các quy trình sản xuất là điều thật sự cần thiết để một con người hội

đủ khả năng tham gia lao động góp phần xây dựng xã hội. Ngoài ra, trong khi đang tham

gia hoạt động sản xuất, mỗi người lao động cũng cần phải tự trau dồi và nâng cao tay nghề

sao cho phù hợp và đáp ứng được với trình độ sản xuất luôn được nâng cao trong xã hội.

Điều này sẽ đảm bảo cho người đó không bị tụt hậu hoặc bị thải loại vì lý do trình độ nghề

nghiệp. Ví dụ, trong lĩnh vực tin học, một lĩnh vực mới nhưng cũng thay đổi rất nhanh

trong việc phát minh và ứng dụng những kiến thức mới, chỉ cần “dậm chân tại chỗ” trong

một thời gian ngắn, không lo tự học hỏi thêm, tự cập nhật hóa kiến thức của mình, thì một

kỹ thuật viên hoặc lập trình viên, cho dù có chuyên môn khá cao, cũng sẽ trở thành người

tụt hậu không theo kịp các đồng nghiệp và bị đào thải bởi thị trường.

Đào tạo và tự đào tạo có vai trò quan trọng và cần thiết, nhưng phải đào tạo nghề nào,

đào tạo cho ai? Đấy lại là một vấn đề khác cũng cần quan tâm, vấn đề hướng nghiệp.

c. Vấn đề hướng nghiệp

Chọn đúng nghề, làm việc đúng khả năng là điều quan trọng cần phải lưu ý ngay từ

trong chương trình giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Thật vậy, một người khó có thể trở

thành chuyên nghiệp hay tinh thông một nghề nếu nghề đó không phù hợp với cá tính,

tâm lý, thể lý và sở thích của mình. Trong trường hợp đó, việc hành nghề không đem lại

cho bản thân người đó sự phấn khởi và niềm hạnh phúc, có chăng chỉ là khả năng thích

ứng hoặc nỗ lực làm việc của bản thân để hoàn thành công việc được giao. Điều này làm

cho hiệu quả do việc hành nghề của người đó mang lại không thể đạt tới mức tối đa. Ví

dụ: một người có cá tính trầm lặng sẽ không thể nào thích hợp được với một nghề đòi

Page 17: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

212

hỏi sự bao quát và tính hoạt bát, như nghề quản trị chẳng hạn. Với tính cách ít nói và

thích lặng lẽ làm việc, người loại này sẽ thích hợp hơn nhiều cho một công việc của

phòng thí nghiệm (dĩ nhiên, còn phải tính đến nhiều yếu tố chuyên môn khác nữa), vốn

là loại công việc đòi sự kiên trì tự giam mình lâu giờ trong phòng nghiên cứu với những

thí nghiệm lặp đi lặp lại để theo dõi quan sát. Với cá tính như vậy, người loại này mới

cảm thấy niềm vui trong loại công việc mà những người hiếu động khó có thể hoàn

thành cách xuất sắc.

Ngày nay, ta thường nghe nói nhiều đến các loại chuyên nghiệp trong thể thao như cầu

thủ chuyên nghiệp, cây vợt chuyên nghiệp, tay đua chuyên nghiệp,... Những người theo

các loại “nghiệp” này là những người vốn say mê và cảm thấy hạnh phúc khi làm những

công việc đó, đến nỗi những hoạt động ấy trở thành “lẽ sống” của họ (đương nhiên, từ

chuyên nghiệp ở đây còn diễn tả rằng những người này làm công việc đó vì tiền, để kiếm

sống). Chính nhờ sự chuyên nghiệp và với năng khiếu trời phú đặc biệt, họ mới thực

hiện được những thao tác thật nhuần nhuyễn và điêu luyện mà những người khác không

thể làm được cho dù có tập luyện nhiều đi nữa.

Việc định hướng nghề nghiệp cho con người nói chung, và nhất là người trẻ sắp vào đời

nói riêng, là điều cần thiết và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Nếu thực hiện tốt

khâu này, người ta có thể tận dụng được hết khả năng và năng khiếu trời cho của từng

thành viên trong xã hội phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung.

Có việc làm, có người lành nghề được đào tạo hoàn chỉnh và biết tự đào tạo tốt là một

trong những điều kiện nền tảng cho xã hội phát triển. Nhưng trên góc độ luân lý xã hội,

người ta còn được kêu gọi và yêu cầu hành nghề có đạo đức và theo lương tâm nghề

nghiệp nữa.

6.1.5. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam

a. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2015-2016

"Lao động tự làm" và "Lao động gia đình" là những nhóm lao động yếu thế, công việc

không ổn định và hầu như không được hưởng một loại hình bảo hiểm xã hội nào. Trong

toàn bộ nền kinh tế, tỷ trọng lao động tự làm và lao động gia đình chiếm tới 56,0% (29,8

triệu người), cao gần gấp rưỡi so với tỷ trọng người làm công ăn lương (41,2%). Đáng

chú ý, tỷ trọng lao động tự làm và lao động gia đình trong tổng số người có việc làm của

nữ cao hơn nam 12,4 điểm phần trăm. Có gần bốn phần năm số lao động tự làm và lao

động gia đình sống ở khu vực nông thôn, trong khi chỉ có khoảng một phần năm sống ở

khu vực thành thị.

Lao động làm công ăn lương trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ thường làm những

công việc có chất lượng cao hơn trong lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ trọng người làm công

ăn lương trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm 37,3% trong tổng số người có việc làm.

Tỷ trọng này của khu vực thành thị cao gấp gần hai lần của khu vực nông thôn (56,3%

so với 28,5%). Tương tự như vậy, số liệu cho nhóm thanh niên cao gấp 5,2 lần nhóm

tuổi từ 60 trở lên (49,0% so với 9,4%). Xem xét số liệu theo 6 vùng kinh tế - xã hội thì

tỷ trọng này cao nhất ở vùng Đông Nam Bộ (59,8%) và thấp nhất ở Tây Nguyên

(15,1%). Bên cạnh đó, trong tổng số người làm công ăn lương trong lĩnh vực phi nông

nghiệp, nam chiếm tỷ trọng nhiều hơn nữ (57,0% so với 43,0%).

Page 18: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

213

Thất nghiệp là những người không có việc làm, có các hoạt động tìm kiếm việc làm và

sẵn sàng làm việc ngay khi có cơ hội việc làm trong giai đoạn tham chiếu. Trong khi, lao

động thiếu việc làm được tính cho những người có việc đã có tổng số giờ làm cho tất cả

các công việc dưới 35 giờ/tuần, mong muốn và sẵn sang làm thêm giờ. Số liệu và phân

tích về tình trạng thất nghiệp sẽ giúp đánh giá tình trạng cân đối giữa cung và cầu của thị

trường lao động. Ở các nước đang phát triển, nơi mức độ thất nghiệp và an sinh xã hội

thường thấp, việc kết hợp xem xét các chỉ tiêu thiếu việc làm sẽ phản ánh đầy đủ hơn

tình trạng này, đồng thời còn đo lường được mức độ chưa sử dụng hết lực lượng lao

động của một nền kinh tế. Trong phần này, các chỉ tiêu thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ

được tính theo nhóm lao động từ 15 tuổi trở lên, trong độ tuổi lao động (nữ từ 15 đến 54

tuổi, và nam là từ 15 đến 59 tuổi) và thanh niên (từ 15 đến 24 tuổi).

Năm 2016, cả nước có hơn 1,1 triệu lao động thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên. Trong đó,

46,1% lao động thất nghiệp cư trú ở khu vực thành thị (tương đương 526,3 nghìn người).

Xét trên bình diện giới, lao động thất nghiệp nam hiện vẫn chiếm số đông. Điều này

đúng cho cả khu vực thành thị và khu vực nông thôn, lao động thất nghiệp nam cao hơn

nữ lần lượt là 11 và 9,7 điểm phần trăm. Đáng lưu ý, thanh niên thất nghiệp (từ 15-24

tuổi) hiện vẫn chiếm tới gần một nửa tổng số lao động thất nghiệp cả nước (48,9%).

Bảng 6.2. Cơ cấu lao động thất nghiệp theo nhóm tuổi, thành thị/ nông thôn và giới tính năm 2016

Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)

Cũng như nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, tình trạng thất nghiệp thường

cao hơn hẳn ở khu vực thành thị, trong khi vấn đề thiếu việc làm lại là phổ biến ở khu

vực nông thôn. Chính vì vậy, các chỉ tiêu về tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và tỷ lệ

thiếu việc làm ở khu vực nông thôn thường thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà

hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu và các nhà dùng tin khác. Bảng 6.2 trình bày về

tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động (nam từ 15-59 tuổi và nữ từ 15-54 tuổi) theo một

số đặc trưng cơ bản. Năm 2016, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi của Việt Nam không đổi

Page 19: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

214

(2,3%) so với năm 2015. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn

gần 1,8 lần (3,2% so với 1,8%). Mức độ thất nghiệp của nam và nữ trong độ tuổi lao

động chênh lệch không đáng kể (2,4% so với 2,2%).

So sánh giữa các vùng kinh tế - xã hội, Đồng bằng sông Cửu Long hiện vẫn là vùng có

tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi cao nhất (2,9%), tiếp theo là Bắc Trung Bộ và Duyên hải

miền Trung (2,8%). Tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thuộc về 2 khu vực - Tây Nguyên và

Trung du và miền núi phía Bắc (1,2%). Thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ thất nghiệp cao

hơn so với Hà Nội (2,7% so với 2,1%). Quan sát theo nhóm tuổi thì thấy rằng mức độ

thất nghiệp có xu hướng giảm dần khi tuổi tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất ở nhóm

20-24 tuổi (7,8%), tiếp đến là nhóm 15-19 tuổi (6,5%). Xu hướng này cũng đúng đối với

cả khu vực thành thị và nông thôn. Phân tổ tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ

thuật cho thấy nhóm những người có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp có tỷ lệ thất

nghiệp cao nhất (8,1%) và những người không có chuyên môn kỹ thuật là thấp nhất

(1,8%). Điều này phần nào phản ánh được chất lượng việc làm của thị trường lao động

Việt Nam hiện vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động có trình độ

chuyên môn kỹ thuật cao.

Bảng 6.3. Thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2016

Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)

Thanh niên được xem là một trong những nhóm lao động dễ bị ảnh hưởng nhất bởi các

biến động trên thị trường lao động. Vì vậy, thất nghiệp thanh niên luôn được xem là vấn

đề quan tâm của xã hội. Số liệu chỉ ra rằng năm 2016, thị phần của dân số thanh niên

Page 20: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

215

(tuổi từ 15-24) là khoảng 18,5% tổng dân số từ 15 tuổi trở lên trong cả nước, trong khi

đã chiếm tới 48,9% tổng số lao động thất nghiệp (tương đương khoảng 558,4 nghìn

người). So với năm 2015, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên tăng khoảng 0,4 điểm phần

trăm (7,4% so với 7,0%). Tỷ lệ này cũng cao hơn gần 6 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của

những người từ 25 tuổi trở lên. Trên bình diện chung của cả nước, tỷ lệ thất nghiệp của

nữ thanh niên cao hơn so với của nam. Tuy nhiên, số liệu bảng 6.3 cũng chỉ ra rằng khác

biệt về tỷ lệ thất nghiệp ở hai giới đã dần được thu hẹp (từ mức 1,6 và 0,5 điểm phần

trăm năm 2014 và 2015 xuống còn 0,1 điểm phần trăm năm 2016). Đây phần nào có thể

phản ánh thực tế hiện nay là bình đẳng giới trong học vấn ở các nhóm tuổi trẻ đã được

cải thiện và khi chưa bước vào tuổi lập gia đình và vướng bận con cái thì mong muốn

tìm kiếm việc làm là như nhau cho cả nam và nữ.

b. Giải pháp giảm thất nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới

Giải pháp để giảm thất nghiệp trong nền kinh tế bao gồm nhưng giải pháp chính sau đây:

Thứ nhất, nâng cao trình độ của người lao động thông qua tăng cường giáo dục – đào tạo.

Thứ hai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ hợp hợp tác xã tư nhân phát triển, tạo

thêm nhiều việc làm cho lao động trẻ.

Thứ ba, giải quyết việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề mũi nhọn.

Thứ tư, giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động.

Thứ năm, giải quyết việc làm qua việc phục hồi và mở rộng các làng nghề truyền thống.

Thứ sáu, tạo việc làm cho thanh niên từ khu vực nông nghiệp.

Đối với một quốc gia có số dân phát triển nhanh như nước ta, giải quyết việc làm luôn là

một vấn đề không thể một sớm một chiều. Tuy nhiên nếu Đảng và Nhà nước ta có chủ

trương, chính sách định hướng đúng và ngành giáo dục đào tạo, tổ chức Đoàn thanh

niên, Hội Liên hiệp thanh niên biết cách tuyên truyền vận động và mỗi gia đình có ý

thức trong việc lựa chọn ngành nghề cho con em thì vấn đề cũng sẽ dễ dàng hơn.

6.2. Lạm phát

6.2.1. Lạm phát và phân loại lạm phát

a. Khái niệm lạm phát

Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung theo thời gian. Lạm phát tồn tại ở

khắp mọi nơi trong nền kinh tế thị trường. Lạm phát xảy ra khi mức giá chung thay đổi,

khi mức giá tăng lên được gọi là lạm phát, khi mức giá giảm xuống được gọi là giảm phát.

Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện lạm phát

gọi là chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ hàng hóa cấu thành

tổng sản phẩm quốc dân. Nó chính là GNP danh nghĩa/GNP thực tế. Trong thực tế, phải

đến cuối năm mới có thể xác định được chỉ số điều chỉnh GNP, cho nên người ta thường

thay thế chỉ số này bằng một trong hai loại chỉ số giá thông dụng khác: Chỉ số giá tiêu

dùng hoặc chỉ số giá bán buôn (còn gọi là chỉ số giá cả sản xuất). Chỉ số giá tiêu dùng

phản ánh sự biến động giá cả của giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho nền kinh tế ở

một thời kỳ nào đó:

Page 21: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

216

t 0i it

0 0i i

p qCPI ( ) 100

p q

Trong đó: CPIt là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t. Chọn năm cơ sở và xác định giỏ hàng

cho năm cơ sở (qt) với t biểu thị năm hay thời kỳ thứ t năm hay thời kỳ thứ t, với t = 0 ở

năm cơ sở, và i là dạng viết gọn của mặt hàng tiêu dùng thứ i trong giỏ hàng cơ sở.

Thường người ta lựa chọn một thời kỳ cố định nào đó làm gốc để tính các chỉ số cá thể

và tỷ trọng mức tiêu dùng của các loại hàng hóa. Thời kỳ gốc để tính chỉ số cá thể và

thời kỳ gốc để tính tỷ trọng tiêu dùng có thể trùng nhau (cùng một năm gốc) và cũng có

thể lựa chọn khác nhau (năm gốc cho giá khác với năm gốc cho cơ cấu tiêu dùng). Khác

với chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn (giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động giá

cả của đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Xu hướng biến động giá

chi phí tất yếu sẽ tác động đến xu hướng giá cả hàng hóa trên thị trường. Hiện nay ở Việt

Nam, chỉ số được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng (được tính hàng

tháng, hàng quý, hàng năm).

b. Công thức tính tỷ lệ lạm phát

Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự biến

động của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát. Thước đo chủ yếu của lạm phát

trong một thời kỳ là tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ này phản ánh sự biến động cũng như mức độ

của lạm phát của thời kỳ đang nghiên cứu và được xác định bằng công thức:

t t 1t

t 1

CPI CPI100%

CPI

Trong đó: t là tỷ lệ lạm phát thời kỳ t, CPIt là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t, CPIt – 1 là

chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t – 1.

Nghiên cứu điển hình

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH LẠM PHÁT CƠ BẢN

Nguyễn Minh Huệ - Tổng cục Thống kê

Những năm gần đây lạm phát trở thành vấn đề thời sự được đề cập thường xuyên trên

phương tiện truyền thông. Lạm phát thường được hiểu là lạm phát giá mua hàng của

người tiêu dùng và được biểu thị bằng chỉ số giá người tiêu dùng, gọi ngắn gọn là chỉ

số giá tiêu dùng (CPI).

CPI được tính dựa trên một giỏ hàng cố định giữa kỳ báo cáo và kỳ gốc. Cơ cấu giá trị

của giỏ được sử dụng làm quyền số. Giỏ gồm các mặt hàng giống nhau cả về lượng và

phẩm cấp. Vì vậy, CPI phản ánh sự biến động chi phí để mua cùng một giỏ hàng giữa

hai kỳ. CPI được xây dựng để tính biến động sức mua của đồng tiền, chi phí sinh hoạt,

chứ không phải để tính lạm phát. Thế nhưng, không thể quan niệm sức mua, chi phí

sinh hoạt chỉ thể hiện qua CPI. Các yếu tố thuế thu nhập, lãi suất tiền gửi, tiền vay và

nhiều khoản chi khác không thể hiện qua CPI. Thêm vào đó, khi giá cả hàng hóa nào

đó tăng lên người tiêu dùng có khuynh hướng mua mặt hàng thay thế với mức giá thấp

hơn, trong khi CPI coi giỏ hàng là không đổi.

Page 22: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

217

Mặt khác lạm phát còn biểu hiện cả chi mua tài sản của doanh nghiệp, chi mua cho tiêu

dùng chính phủ, chi phí tiền lương. Các loại lạm phát này biểu hiện qua các chỉ số giá

đầu vào, đầu ra của người sản xuất, xuất khẩu, chỉ số tiền lương. Một số nước công bố

cả lạm phát chung cho các phần của GDP (GDP deflator). Tuy vậy chỉ số này trễ nên ít

được sử dụng.

CPI do Tổng cục Thống kê công bố hoàn toàn theo chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên CPI

được xây dựng dựa trên lý thuyết kinh tế vĩ mô về chi phí sinh hoạt, chứ không phải là

lý thuyết về chi phí lạm phát. Khi lý giải lạm phát là một hiện tượng tiền tệ, nghĩa là

với tốc độ lưu thông tiền tệ không đổi (V), lạm phát (P) không xảy ra nếu cung tiền (M)

không tăng (M = PQ/V). Trong khi đó CPI lại không chỉ phản ánh tác động của riêng

chính sách tiền tệ mà cả chính sách tài chính, tỷ giá, thời vụ, tác động bất thường, tâm

lý, thói quen, niềm tin người tiêu dùng, tăng dân số, cách tính lạm phát.

Chính sách tài chính: Để tác động đến tổng cầu Chính phủ có thể áp dụng các biện

pháp nới lỏng hay thắt chặt chi tiêu công cộng, tiền lương, tăng giảm thuế gián thu,

tăng giảm giá của khu vực kinh tế công (giá điện, sách giáo khoa, cước điện thoại), trợ

giá, phụ thu, bảo hiểm thất nghiệp, phát hành tín, trái phiếu hay dùng ngân sách mua dự

trữ để nâng đỡ giá cả. Các biện pháp này tác động trực tiếp đến tổng cầu, đến CPI.

Chính sách tiền tệ: Để đạt được mục tiêu ổn định giá, kích thích tăng trưởng, Ngân

hàng Trung Ương sử dụng hai công cụ là lãi suất và mức cung tiền bằng cách tăng,

giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, mua bán tín phiếu, trái phiếu ở thị trường

mở. Hai công cụ này tác động trực tiếp đến cầu tiền và tài sản tài chính khác, từ đó tác

động gián tiếp đến tổng cầu, đến CPI.

Tác động thời vụ: CPI cũng chịu ảnh hưởng mạnh của yếu tố thời vụ. Vào ngày Tết

âm lịch CPI thường gia tăng, giá gạo thời kỳ giáp hạt, lúc thu hoạch, giá hoa quả vào

đầu vụ, cuối vụ. Theo thông lệ dãy thời gian thì CPI, GDP thường được chỉnh mùa theo

phương pháp X-11,12.

Yếu tố bất thường: CPI cũng chịu tác động của hạn hán, lũ lụt, mưa nắng, hàng nhạy

cảm dễ biến động giá như hàng tươi sống, nhiên liệu. Ví dụ: Gần đến tết Tân Tỵ trời

nắng ấm nên người tiêu dùng quay sang dùng bia, làm cho giá bia nhích lên; nắng nóng

làm giá đá cây tăng; tắc nghẽn giao thông đường sắt làm giá hoa quả Nam Bộ bán ở Hà

nội tăng nhưng đây nhưng đây chỉ là mất "cân đối cung cầu nhất thời" hay sốc về "cung".

Cách tính lạm phát: Tỷ lệ lạm phát tháng, quý có thể so sánh với các kỳ gốc khác nhau.

Gọi kti,kti,ti,1k

it )/pp(pk là tốc độ biến động giá hàng i so với kỳ so sánh k.

Khi đó tỷ lệ lạm phát CPI là: n

k 1t i i,t i, t k i,t k

i 1

k . w (p p ) / p )

(1)

k thường nhận các giá trị 1, 3, 6, 12, 24, 36. Tỷ lệ lạm phát ở đây chính là số bình quân giản

đơn của các tỷ lệ lạm phát tháng của k tháng.

Giả sử rằng chúng ta có thể phân tách tỷ lệ lạm phát của nhóm hay mặt hàng i thành tỷ

lệ lạm phát trung bình (chung) và các sốc đối với giá mặt hàng i, ta có tiCPItti v ,, .

Khi đó tỷ lệ lạm phát mặt hàng i ở kỳ t so với kỳ k là:

k

1jt,j,i

CPI,kt

kt,i v

k

1

(2)

Page 23: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

218

Từ (2) có thể thấy k càng lớn thì độ biến thiên của tỷ lệ lạm phát càng bé, do các phần

nhiễu sẽ khử trừ lẫn nhau. Vì vậy việc công bố phân tích lạm phát tháng bình quân quý

(k=3), bình quân năm (k=12) sẽ cho thấy rõ xu thế lạm phát và ít bị nhiễu hơn với (k=1).

Cách tính này tương đương với tỷ lệ lạm phát so với tháng cùng kỳ chia cho 12 hoặc 3.

Một cách tính lạm phát khác là tỷ lệ (%) giữa bình quân CPI trong 12 tháng liên tục đến

tháng hiện tại và bình quân CPI các tháng cùng kỳ trừ đi 100. Các chỉ số này phải là chỉ

số định gốc hay chung gốc so sánh (1995=100). Cách tính này có ý nghĩa về thống kê.

Tỷ lệ lạm phát CPI có thể phân tách thành 2 cấu phần: Tác động xu thế lâu dài hay

thường trực, thường xuyên, ổn định ( Pt ) và tác động nhiễu nhất thời, tức thời T

t

Tt

Pt CPI

t Pt thể hiện xu thế lâu dài, thường trực do áp lực cầu được gọi là

lạm phát xu thế dài hạn hay lạm phát cơ bản.

Khi lạm phát CPI bị nhiễu cần chọn cách tách lọc khử nhiễu để lấy ra cấu phần xu thế

dài hạn Pt . Nếu nhiễu

Pt của biến động giá các nhóm hàng thuộc cấu phần CPI có

chung phân bố chuẩn N( 2) thì lạm phát CPI có thể coi là lạm phát cơ bản. Số bình

quân là ước lượng không chệch với phương sai bé nhất.

Khi CPI bị nhiễu nhất thời đến chừng mực mà Pit/Pit-k không tuân theo phân bố chuẩn

thì đồ thị phân bố tần suất thường lệch phải, đỉnh nhọn hơn phân bố chuẩn. Khi đó CPI

sẽ không còn là ước lượng tốt nhất và sẽ phản ánh sai lệch xu thế lâu dài của lạm phát.

Để hoạch định chính sách tiền tệ, NHNN cần một thước đo phản ánh xu thế lâu dài của

lạm phát. Chỉ tiêu này được gọi là lạm phát cơ bản hay lạm phát tiền tệ. Lạm phát cơ bản

là chỉ tiêu phản ánh tác động của chính sách tiền tệ, đo lường được các tác động hay áp

lực lâu dài ổn định của cầu đến sự biến động giá cả. Vì vậy chỉ tiêu này cần được tính

toán sao cho loại trừ được tác động của các sốc "cung" nhất thời, điều chỉnh giá không

đều, thuế gián thu, việc gán giá chờ (giá không đổi) khi hàng hóa vắng tạm thời.

Phương pháp xây dựng: Để tính lạm phát cơ bản, ở một số nước người ta sử dụng

một số phương pháp khác nhau như:

Loại trừ chủ quan: Đầu thập kỷ 70, nhiều nước bắt đầu áp dụng tính lạm phát cơ bản

theo "phương pháp loại trừ" một số nhóm/mặt hàng dễ bị sốc "cung" như hàng

LT-TP(F), nhiên liệu, điện năng (E), thuế (T). Cách tính này chỉ cần loại bỏ FET, tính

lại quyền số rồi tính bình quân gia quyền. Tuy vậy việc xác định mặt hàng loại trừ khá

máy móc và không có tính kiểm định. Hiện nay phương pháp này (CPI×FET) vẫn được

áp dụng tại nhiều nước trên thế giới.

Trung vị gia quyền (WM CPI): Là ước lượng thô nhất khi trung bình gia quyền

không còn là ước lượng tốt nhất cho xu thế trọng tâm. Trung vị là ước lượng tốt hơn

trung bình do nó không chịu ảnh hưởng của các sốc tăng giá tạm thời. Đây cũng là ước

lượng khoa học không tuỳ tiện như CPI×FET.

Trung bình lược bỏ (TM CPI trimmed mean): Cuối thập kỷ 80 trở lại đây phương

pháp tính giá trị trung bình lược bỏ ngày càng được sử dụng rộng rãi. Khi phân bố xác

suất của phần nhiễu của biến động giá của nhóm ngành hàng có chung kỳ vọng

nhưng lại có phương sai khác nhau ( 22ji ) thì trung bình mẫu (CPI) là ước lượng

không chệch với phương sai không bé nhất. Khi đó cần loại trừ các nhóm hàng rơi lệch

hẳn về hai phía của đồ thị phân bố tần suất của biến động giá của các nhóm hàng. Tỷ lệ

Page 24: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

219

(%) số nhóm lược bỏ () chia đều cả hai phía. Khi loại trừ xong trung bình mẫu được

tính cho các quan sát còn lại. TM CPI có thể là bình quân giản đơn hay gia quyền.

Chúng tôi không nêu kỹ cách tính toán ở đây. Nếu loại mỗi phía 50% thì quan sát còn

lại là trung vị và chính là WM CPI.

Tiêu chí so sánh: Căn cứ để chọn phương pháp tối ưu là trung bình trượt cân giữa 1,

trượt lùi và tiến 6,9,18 quan sát liền kề quan sát hiện tại còn quan sát này là điểm giữa.

Khi đó tối ưu là TM CPI có căn bậc hai của sai số bình phương trung bình

(RMSE)2 giữa các dãy kết quả TM – CPI với từng và dãy bình quân trượt tương ứng

nhỏ nhất. Trung bình trượt cân giữa là số trung bình hai phía quá khứ, tương lai nên

phản ánh xu thế lâu dài, lọc được nhiễu nhất thời tốt nhất.

Việc tính TM – CPI có thể tiến hành theo 2 trình tự ngược nhau. Có thể lấy tỷ lệ bình

quân 3 hoặc 6 tháng của biến động giá hay chỉ số giá rồi mới tính TM – CPI. Ngược lại

có thể tính TM – CPI ngay từ số liệu thô rồi mới tính lạm phát bình quân 3 – 6 tháng

(công thức 1, k=3).

Ngoài 3 phương pháp trên còn có phương pháp "bình quân quyền nghịch đảo độ lệch

chuẩn (SDI) hoặc phương sai (chỉ số Neo-edgeworth). Phương sai ở đây được tính

riêng cho từng nhóm hàng theo thời gian. Mô hình kinh tế lượng: Tự hồi quy véc tơ

VAR hay mô hình tính lạm phát Quah Vahey cũng đã được tính thử tại một số nước.

Mô hình này có ưu thế là dựa trên lý thuyết tiền tệ nhưng các giả thiết xây dựng mô

hình lại không sát thực tế.

Lượng hóa mục tiêu: Tại nhiều nước Ngân hàng TW đặt ra mục tiêu kiểm soát lạm

phát ở mức ổn định 2 – 3% /năm. Việc tính được lạm phát phản ánh chính sách tiền tệ

và dự báo được lạm phát là nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng TW. Vì vậy cần xúc

tiến phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước và TCTK để tính lạm phát cơ bản nhằm bảo

đảm tính khách quan trong tính toán. Nên tính thử, kiểm nghiệm bằng dự báo ngắn và

trung hạn cho 4 phương pháp CPI,TM CPI, CPIxFET & WM CPI. Nếu có thể cũng

nên áp dụng thử mô hình "lạm phát Quah-Vahey". "Lạm phát tháng bình quân năm" nên

được dùng làm chỉ tiêu lạm phát mục tiêu (xem công thức 1).

Khi lạm phát cơ bản được tính toán và dự báo được thì Ngân hàng Nhà nước có thể

lượng hóa mục tiêu hạ giảm lạm phát gắn với chính sách tiền tệ. Kiểm nghiệm kết quả

trước khi công bố lạm phát cơ bản cũng là bước đi cần thiết. Xu thế trái ngược giữa sự

tăng nhanh mức cung tiền và lạm phát CPI thấp hay âm trong 2 năm gần đây cho thấy

tính cấp thiết của việc tính lạm phát cơ bản. Xem xét nhân tố tác động đến CPI cho thấy

cần thận trọng hơn khi lý giải biến động CPI ngắn hạn một vài tháng. CPI có tăng hay

giảm vài tháng chưa thể nói lên gì nhiều. Lạm phát xu thế lâu dài do áp lực thực sự của

cầu mới có ý nghĩa đáng kể.

Chú giải:

1. TB trượt: m

1t t j

m

ˆ (2m 1)

2. * 2j j

ˆR M SE ( ) / n

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Page 25: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

220

c. Quy mô của lạm phát

Với những lần lạm phát xảy ra trong lịch sử, ta nhận thấy chúng thường xuất hiện với tỷ

lệ lạm phát là khác nhau và hình dạng khác nhau. Xét về quy mô, lạm phát sẽ xuất hiện

với 3 mức quy mô như sau: Lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã, siêu lạm phát:

Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%

một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây tác động đáng kể đến nền kinh tế.

Trong điều kiện lạm phát vừa phải và ổn định thì giá cả không khác nhiều so với

mức giá bình thường, do đó đồng tiền vẫn giữ được phần lớn giá trị của nó trong thời

gian tương đối dài, việc kinh doanh tương đối ổn định, thị trường không có những

cơn sốt hay sự đảo lộn lớn.

Lạm phát phi mã là loại lạm phát xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng tương đối nhanh, với tỷ lệ

2 hoặc 3 con số trong năm. Ví dụ: tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam năm 2008 là 12,63%.

Siêu lạm phát là loại lạm phát xảy ra khi tỷ lệ lạm phát từ 3 con số trở lên. Ví dụ:

Năm 2008, Zimbabwe hiện là quốc gia có tình trạng siêu lạm phát tồi tệ nhất trong

lịch sử của thế giới. Với tỷ lệ lạm phát vượt mức 40 triệu %, người dân Zimbabwe

lâm vào cuộc đấu tranh sinh tồn thực sự. Dòng người dài xếp hàng trước cửa ngân

hàng để chờ rút tiền đã trở thành cảnh tượng quen thuộc ở Zimbabwe thời gian này.

Muốn rút được tiền, người ta phải dậy từ rất sớm để “xí” chỗ. Tất cả những người

đến đây đều mang hy vọng rút một khoản tiền Zimbabwe tương đương với 1 – 2

USD. Đây là hạn mức rút tiền tối đa mà Chính phủ Zimbabwe mới công bố hồi tháng

trước. Dù ít ỏi như vậy nhưng không phải ai cũng có thể rút tiền, không ít người đã

phải ra về trong tuyệt vọng. Hạn mức rút tiền đã tăng lên vào ngày 28/9/2008, nhưng

với tỷ lệ lạm phát vượt mức 40 triệu %, giá trị của khoản tiền được rút cũng chỉ là

một con số rất nhỏ. Các chuyên gia kinh tế đều nói rằng, sự sụp đổ kinh tế của

Zimbabwe đang tăng tốc. Khi Chính phủ Zimbabwe in thêm nhiều tiền hơn bao giờ

hết, tỷ lệ lạm phát như con ngựa bất kham, tăng từ 1.000% vào năm 2006 lên đến

12.000% vào năm 2007. Đây là một con số quá cao đến nỗi Chính phủ phải bỏ đi 10

chữ số 0 trên tờ tiền Zimbabwe vào tháng 8/2008 để đảm bảo máy tính có thể tính

được. Nếu không có động thái này, 1 USD có thể tương đương với 10.000 tỷ

USD Zimbabwe.

Trên thế giới, dự kiến lạm phát cơ bản toàn cầu vẫn trong xu thế ổn định và giảm dần do

giá cả các mặt hàng nguyên, nhiên liệu (dầu thô, than đá, thực phẩm) vẫn đang giao động

ở mức thấp và sự sụt giảm tăng trưởng của các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Ấn Độ

kéo theo tổng cầu suy giảm đối với các hàng hóa là đầu vào sản xuất và tiêu dùng.

Page 26: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

221

Hình 6.5. Lạm phát ở một số đối tác nhập khẩu lớn của Việt Nam

Một khi lạm phát quá cao sẽ gây ra biến động lớn đối với một nền kinh tế như: Các hợp

đồng kinh tế đã được ký kết theo chỉ số giá cũ hoặc theo hợp đồng với đồng tiền chi trả

là đồng ngoại tệ mạnh nào đó, do vậy đã gây phức tạp cho việc tính toán hiệu quả của

hoạt động kinh doanh, lãi suất thực tế giảm tới mức âm dẫn đến thị trường tài chính

khủng hoảng. Giá trị của đồng bản tệ mất giá nghiêm trọng, dân cư giữ tiền ở mức tối

thiểu cần thiết và tích lũy nhiều hàng hóa gây ra tình trạng khan hàng giả tạo càng đẩy

mức lạm phát tăng cao.

6.2.2. Nguyên nhân của lạm phát

Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế, mà các yếu tố đưa

đến tăng giá lại rất đa dạng và phức tạp; mức độ tác động của chúng có thể rất khác

nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ thể của một nền kinh tế trước và trong quá trình xảy ra

lạm phát. Vì vậy, phần này sẽ đề cập đến một số lý thuyết và quan điểm nhằm lý giải

những nguyên nhân gây ra và duy trì thúc đẩy lạm phát.

Hình 6.6. Lạm phát cầu kéo

Page 27: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

222

a. Lạm phát cầu kéo

Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt

quá tiềm năng. Điều này được minh hoạ hình 6.6. Trong thực tế, khi xảy ra lạm phát cầu

kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng

đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm

phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có

thể sản xuất được, trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.

Hình 6.6 cho thấy, khi tổng cầu tăng, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2, mức

giá chung tăng lên từ P1 đến P2, lạm phát xảy ra. Tổng cầu tăng làm tăng mức giá và

GDP thực tế tăng.

Hình 6.7. Lạm phát cầu kéo

Hình 6.7 cho thấy, khi cầu tăng mạnh, đường AD0 dịch chuyển sang phải (AD1), mức

giá chung tăng lên từ 100 đến 103. Giả sử tiền công tăng, đường ASS dịch chuyển sang

trái, mức giá chung tăng cao hơn từ 100 đến 110, trong khi GDP thực tế giảm xuống,

mức giá chung ngày càng tăng cao, lạm phát càng tăng nhanh.

b. Lạm phát chi phí đẩy

Khi sản lượng chưa đạt tiềm năng vẫn có khả năng xảy ra lạm phát và trên thực tế đã xảy

ra lạm phát ở nhiều nước, kể cả ở các nước phát triển cao. Đó là đặc điểm của lạm phát

hiện đại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản

lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng còn gọi là “lạm phát đình trệ”.

Các cơn sốc giá cả thị trường đầu vào đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng dầu, điện,…) là

nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao. Theo hình 6.8, giá đầu vào tăng, tổng cung suy

giảm, đường ASS dịch chuyển sang trái từ ASS0 ASS1 làm cho sản lượng giảm từ

mức Y0 Y1, giá cả tăng lên từ mức P0 P1 gây nên tình trạng lạm phát. Tổng cầu

không thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng lại giảm xuống. Ví dụ: Giá cả sản

phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân sau: Thiên tai, chiến

tranh, sự biến động chính trị, kinh tế,… Đặc biệt sự biến động giá dầu lửa do OPEC

trong những năm 1970 hoặc giai đoạn 2007 – 2008, đã gây ra lạm phát đình trệ trầm

trọng trên quy mô thế giới.

Page 28: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

223

Hình 6.8. Lạm phát chi phí đẩy

c. Lạm phát dự kiến

Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng

tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều đều với một tỷ lệ

tương đối ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ, và vì mọi người đã có

thể dự tính trước mức độ của nó nên còn được gọi là lạm phát dự kiến. Mọi hoạt động

kinh tế sẽ trông đợi và ngắm vào nó để tính toán điều chỉnh (ví dụ điều chỉnh lãi suất

danh nghĩa, tiền lương danh nghĩa, giá cả trong các hợp đồng kinh tế, các khoản chi, tiêu

ngân sách,…).

Hình 6.9. Lạm phát được dự đoán trước

Sự gia tăng tổng cầu được dự đoán trước làm tăng lạm phát nhưng không làm thay đổi

GDP thực tế. Hình 6.9 cho thấy lạm phát dự kiến xảy ra như thế nào. Khi giá đầu vào

tăng, đường tổng cung trong ngắn hạn dịch chuyển từ ASS0 ASS1 ASS2, dịch

chuyển lên trên cùng một tốc độ. Khi đó Chính phủ sẽ dùng các biện pháp điều chỉnh và

làm tăng tổng cầu AD cùng từ AD0 AD1 AD2, chỉ số giá tăng từ 110 121

Page 29: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

224

133. Vì lạm phát đã được dự kiến nên chi phí sản xuất (kể cả tiền lương) và cả nhu cầu

chi tiêu cũng được điều chỉnh cho phù hợp với tốc độ lạm phát. Như vậy, sản lượng vẫn

giữ nguyên nhưng giá cả đã tăng đều đặn theo dự kiến.

Tỷ lệ lạm phát dự kiến một khi đã hình thành thì trở nên ổn định và tự duy trì trong một

thời gian. Những cú sốc mới trong nền kinh tế (có thể từ trong nước hoặc từ nước ngoài)

sẽ đẩy lạm phát khỏi tình trạng ì.

d. Lạm phát do lý thuyết số lượng tiền tệ

Khi nghiên cứu lý thuyết số lượng tiền tệ chúng ta đã biết đẳng thức MS/P = MD(r, Y)

khi thị trường tiền tệ cân bằng, không gây lạm phát.

Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (r) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng, nghĩa là

(r) và (Y) là ổn định (Y đạt mức tiềm năng), cầu tiền thực tế là không đổi và do vậy M/P

cũng sẽ không thay đổi. Điều đó có nghĩa là nếu lượng cung tiền danh nghĩa (M) tăng

lên thì giá cả (P) cũng sẽ tăng với tỷ lệ tương ứng, nói cách khác tỷ lệ lạm phát sẽ bằng

tỷ lệ tăng tiền. Như vậy, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Điều này xảy ra trong thực tế

khi nền kinh tế gặp phải một cơn sốc (ví dụ giá dầu tăng lên) làm cho lượng tiền thực tế

nhất thời giảm xuống. Chính phủ cần phải tăng mức cung tiền danh nghĩa để đảm bảo

nhu cầu tiền thực tế. Nhưng vì sản lượng và việc làm không đổi, lãi suất thực tế cũng

không đổi, chỉ có mức cung tiền danh nghĩa, giá cả cũng như tiền lương danh nghĩa tăng

lên. Lý thuyết này dựa trên giả định mức cầu tiền thực tế không đổi, một giả định chưa

có cơ sở chắc chắn và chưa phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, lịch sử lạm phát cũng chỉ ra

rằng, không có cuộc lạm phát cao nào mà không có sự tăng trưởng mạnh về tiền tệ.

Lượng tiền tăng càng nhanh thì lạm phát càng cao, và bất kỳ một chính sách vĩ mô nào

giảm được tốc độ tăng tiền cũng dẫn đến giảm tỷ lệ lạm phát và điều này đặc biệt phù hợp

với thời kỳ ngắn hạn.

Khi ngân sách thâm hụt lớn, các Chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh

nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát (như lạm phát cầu kéo). Và một khi giá

cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và

lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm

phát. Tuy nhiên, các Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân qua bán tín phiếu.

Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm lên nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu

thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in

tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát là một điều chắc chắn.

e. Lạm phát và lãi suất

Lãi suất thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho vay và người đi vay đều có

thể chấp nhận được. Nếu khác đi sẽ tạo ra mức dư cầu hoặc dư cung và sẽ đẩy lãi suất

này về mức ổn định. Nhưng lãi suất danh nghĩa lại biến động theo lạm phát. Khi lạm

phát thay đổi lãi suất danh nghĩa sẽ thay đổi theo, để duy trì lãi suất thực tế ở mức

ổn định. Vậy lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát.

Khi tỷ lệ lạm phát tăng, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ

tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát,

tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ gửi tiền vào Ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc

đẩy ra thị trường để mua về mọi hàng hóa có thể dự trữ, gây thêm mất cân bằng cung

cầu trên thị trường hàng hóa và tiếp tục đẩy giá lên cao.

Page 30: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

225

6.2.3. Tác động của lạm phát

Nếu giá cả của các loại hàng hóa tăng với tốc độ đều nhau thì loại lạm phát này thường

được gọi là lạm phát thuần tuý, loại lạm phát này hầu như không xảy ra. Trong thực tế

các cuộc lạm phát thường đều có hai đặc điểm đáng quan tâm sau đây:

Tốc độ tăng giá cả thường không đồng đều giữa các loại hàng hóa.

Tốc độ tăng giá và tăng lương cũng xảy ra một cách không đồng thời.

Hai đặc điểm trên đây dẫn đến sự thay đổi tương đối về giá cả (hay là giá cả tương đối

đã thay đổi). Tác hại chủ yếu của lạm phát không phải ở chỗ giá cả tăng lên mà ở chỗ giá

cả tương đối đã thay đổi. Những tác hại đó là:

Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân, tập

đoàn,... đặc biệt đối với những ai giữ nhiều tài sản có giá trị danh nghĩa cố định (ví

dụ tiền mặt) và những người làm công ăn lương. Tác động chính của lạm phát về mặt

phân phối sinh ra từ những sự khác nhau về quyền sở hữu và sử dụng các loại tài sản.

Khi các tác nhân trong nền kinh tế có những khoản nợ dài hạn với lãi suất cố định thì

việc tăng giá cả là một cái lợi tự nhiên đối với họ. Ngoài ra tác động của lạm phát về

mặt phân phối còn nảy sinh từ những tác động không được dự đoán trước đối với giá

trị thực tế của cải của các tác nhân trong nền kinh tế. Nói chung thì lạm phát có xu

hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất danh nghĩa cố định

sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố định. Sự giảm lạm

phát không được dự đoán trước sẽ có tác động ngược lại. Tóm lại, lạm phát chỉ làm

xáo trộn thu nhập và tài sản, phân phối lại một cách ngẫu nhiên của cải trong nhân dân

mà không có tác động riêng lẻ nào đối với một tác nhân trong nền kinh tế.

Tác động đối với sản lượng và công ăn việc làm: Có những biến dạng về cơ cấu sản

xuất và việc làm trong nền kinh tế, đặc biệt khi lạm phát tăng nhanh cùng với sự thay

đổi mạnh mẽ của giá cả tương đối. Có những doanh nghiệp, ngành nghề có thể

“phất” lên và trái lại cũng có những doanh nghiệp và ngành nghề suy sụp, thậm chí

phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Tác động đối với mức sản lượng nói chung

là trong thời kỳ lạm phát tăng lên bất ngờ thường là những thời kỳ công ăn việc làm

nhiều và sản lượng cao, lạm phát có thể làm thay đổi cơ cấu kinh tế và việc làm, đặc

biệt khi lạm phát tăng nhanh cùng sự thay đổi mạnh của giá cả tương đối, có những

hãng sản xuất – kinh doanh có thể phát triển và ngược lại có những hãng cũng bị phá

sản hoặc đổi hướng kinh doanh. Thế nhưng, trong thời gian dài không có mối quan

hệ tất yếu giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, không có mối quan hệ trực tiếp giữa

lạm phát với mức sản lượng và công ăn việc làm.

Tác động đối với phân bố tài nguyên: Lạm phát làm biến dạng giá cả tương đối, tỷ lệ

lạm phát càng cao thì sự biến dạng giá cả tương đối càng lớn. Một mặt hàng mà giá

trị biến dạng một cách trầm trọng do lạm phát là tiền tệ (tiền kim loại và tiền giấy).

Giá cả của đầu vào hoặc hàng hóa đã được định giá theo những quy tắc lâu dài cũng

có xu hướng tách xa hơn khỏi mức giá chung trong những thời kỳ lạm phát.

6.2.4. Giải pháp kiềm chế và kiểm soát lạm phát

Lạm phát là một trong những căn bệnh kinh niên của nền kinh tế. Lạm phát cao sẽ gây

nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế, do đó vấn đề đưa ra giải pháp để kiềm chế

lạm phát là một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia có lạm phát xảy ra ở

Page 31: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

226

tốc độ cao. Chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ thặt chặt

để kiềm chế lạm phát. Dưới đây là một số giải pháp cụ thể:

Cắt giảm cầu tiêu dùng.

Giảm chi tiêu của Chính phủ.

Kiểm soát tiền lương, tăng thuế (chủ yếu là thuế thu nhập) nhằm hạn chế chi tiêu có

thể của xã hội.

Tăng cung các loại hàng hóa và dịch vụ.

Giảm giá thành các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.

Gia tăng sản xuất bằng nhiều biện pháp như giảm thuế sản xuất, giảm lãi suất cho

vay, tăng chi tiêu cho đầu tư.

Giảm cung tiền, hạ lãi suất (tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hoặc bán trái phiếu trên thị

trường mở, hoặc tăng lãi suất chiết khấu,...).

6.2.5. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam

a. Giai đoạn trước năm 2010

Trong những năm đầu triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ

2001-2010 nền kinh tế nước ta đã thành công trong việc duy trì được tốc độ tăng giá hợp

lý và tương đối ổn định. Trong 6 năm 2001-2006, hàng năm chỉ số giá tiêu dùng so với

tháng 12 năm trước đều tăng một chữ số với mức tăng bình quân mỗi năm 5,3% (2001

tăng 0,8%; 2002 tăng 4,0%; 2003 tăng 3,0%; 2004 tăng 9,5%; 2005 tăng 8,4% và 2006

tăng 6,6%). Đây là kết quả quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh

xã hội. Từ năm 2007 do tác động của chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ

nới lỏng, lại chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thóai kinh tế

toàn cầu diễn ra từ năm 2008 và các nguyên nhân chủ quan khác đã làm cho giá hàng hóa

trong nước tăng nhanh và đứng ở mức cao. Tuy nhiên, nếu tính bình quân mỗi năm trong

mười năm 2001-2010 thì chỉ số giá tiêu dùng so với tháng 12 năm trước cũng chỉ tăng

7,1%/năm, không quá cao nếu so với tốc độ tăng 12,1%/năm trong mười năm 1991-2000.

Bảng 6.4. Chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2001 - 2010

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Page 32: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

227

Nếu tính theo chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm thì năm 2001 giảm 0,34%; năm 2002

tăng 3,90% và năm 2003 tăng 3,18%; sau đó duy trì mức tăng 7-8% mỗi năm liên tục

trong 4 năm 2004-2007; nhưng đến năm 2008 đột ngột tăng 22,97%; năm 2009 tăng

6,88% và năm 2010 tăng 9,19%. Tính chung mười năm 2001-2010, chỉ số giá tiêu dùng

bình quân tăng 7,6%/năm.

b. Giai đoạn sau năm 2010

Năm 2014, lạm phát ở Việt Nam chỉ tăng 1,84%. So với

mặt bằng giá năm 2013 thì lạm phát năm 2014 tăng

4,09%. Đáng lưu ý, CPI năm nay có 3 đợt giảm vào các

tháng 3, 11 và 12, các tháng còn lại cũng tăng rất thấp.

Theo số liệu của Tổng cục thống kê (2015), chỉ số giá

tiêu dùng (CPI) năm 2015 tăng 0,63% so với năm 2014;

bình quân mỗi tháng CPI chỉ tăng 0,05%. Đây là tốc độ

tăng tương đối thấp kể từ năm 2001.

Biểu đồ 6.2. Chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam 2011 - 2016

Tổng cục thống kê cho rằng, khi CPI ở mức thấp và ổn định sẽ tạo điều kiện cho các

chính sách tiền tệ tích cực, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển và tạo điều kiện cho

giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý được tính đầy đủ theo cơ chế thị trường. Bên

cạnh đó, Tổng cục thống kê cũng chỉ ra những nguyên nhân cơ bản khiến lạm phát năm

2015 có mức tăng tương đối thấp so với 14 năm trở lại. Thứ nhất, do nguồn cung về

lương thực, thực phẩm trong nước dồi dào; sản lượng lương thực thế giới tăng với sự

cạnh tranh từ các nước như Thái Lan, Ấn Độ nên việc xuất khẩu gạo của Việt Nam gặp

khó khăn hơn. Thứ hai, giá nhiên liệu trên thị trường thế giới gần đây giảm mạnh, giá

dầu Brent xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua. So với năm 2014, bình quân giá

dầu Brent năm 2015 giảm khoảng 45,6%. Thứ ba, mức độ điều chỉnh giá của các nhóm

hàng do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế thấp hơn so với năm trước.

Năm 2015 giá dịch vụ y tế được điều chỉnh với mức độ thấp chỉ tác động đến CPI

khoảng 0,07%; giá dịch vụ giáo dục tác động đến CPI khoảng 0,12% và giá điện điều

chỉnh tăng 7,5% cũng tác động đến CPI khoảng 0,19%. Thứ tư, trên cơ sở Nghị quyết

01/NQ-CP ngày 3/1/2015 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 của Chính

Page 33: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

228

phủ, năm 2015 là năm có ý nghĩa quan trọng, là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, là năm tiến hành đại hội Đảng các cấp nên các ngành

các cấp đã tích cực triển khai thực hiện các giải pháp nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô và

kiểm soát lạm phát. Thứ năm, trong hai năm gần đây, CPI tăng thấp còn do yếu tố tâm

lý, chi tiêu của người dân được tính toán kỹ hơn, cân nhắc hơn. Do đó, người cung cấp

hàng hóa, dịch vụ cũng không tăng giá cao vào dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán

hay các ngày lễ hội như những năm trước đây.

Dữ liệu của Tổng cục Thống kê (2016) cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của 2016

tăng 4,74%, bình quân mỗi tháng năm 2016 tăng 0,4%. CPI bình quân năm 2016 tăng

2,66% so với bình quân năm 2015. Tổng cục Thống kê cho biết, trong 11 nhóm hàng

hóa và dịch vụ chính, có 6 nhóm tăng giá. Cụ thể, thuốc và dịch vụ y tế tăng 5,3%; may

mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,25%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,21%; nhà ở và vật liệu

xây dựng tăng 0,19%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,1%; thiết bị và đồ dùng gia đình

tăng 0,08%. Bên cạnh đó, c 4 nhóm giảm giá, là giao thông – giảm 0,89%; bưu chính –

viễn thông, giảm 0,03%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống – giảm 0,03%; văn hóa, giải trí và

du lịch – giảm 0,02%. Nhóm Giáo dục không thay đổi so với tháng trước. Trong khi đó,

theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, lạm phát cơ bản (CPI sau khi loại trừ lương thực,

thực phẩm tươi sống; năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y

tế và dịch vụ giáo dục) tháng 12/2016 tăng 0,11% so với tháng trước, tăng 1,87% so với

cùng kỳ. Cả năm, lạm phát cơ bản tăng 1,83% so với năm 2015. Như vậy, bình quân

năm 2016 so với năm 2015, lạm phát chung có mức tăng cao hơn lạm phát cơ bản, điều

này phản ánh biến động giá do yếu tố thị trường có mức tăng cao, đó là giá lương thực

thực phẩm, giá xăng dầu và yếu tố điều hành giá cả qua việc điều chỉnh tăng giá dịch vụ

y tế và giáo dục. Mức tăng của lạm phát cơ bản từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2016 so

cùng kỳ có biên độ dao động trong khoảng khá hẹp từ 1,64% đến 1,88%, điều này thể

hiện chính sách tiền tệ đang được điều hành ổn định, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm

soát lạm phát.

Bảng 6.5. Chỉ số giá tiêu dùng của các nhóm hàng hóa ở Việt Nam

Chỉ tiêu 2011 2012 2013 2014 2015 2016

Chỉ số giá tiêu dùng 118,58 109,21 106,60 104,09 100,63 102,66

Lương thực, thực phẩm 126,49 108,12 102,68 104,00 101,48 102,36

Lương thực 122,80 103,26 97,86 103,80 98,94 101,65

Thực phẩm 129,34 108,14 103,11 104,16 102,03 102,79

Đồ uống và thuốc lá 111,70 106,58 104,20 103,73 102,15 102,21

May mặc, giày dép, mũ nón 112,10 109,98 107,88 104,33 103,29 102,11

Nhà ở và vật liệu xây dựng 119,66 110,64 104,72 103,74 98,38 102,50

Thiết bị và đồ dùng gia đình 108,83 107,60 105,01 102,96 102,02 101,13

Dược phẩm, y tế 105,65 116,34 145,63 105,36 102,14 128,52

Giao thông 115,97 108,22 104,49 101,61 88,08 92,69

Bưu chính viễn thông 95,94 98,89 99,52 99,61 100,33 99,34

Giáo dục 123,18 117,07 114,17 110,17 106,45 106,31

Văn hóa, thể thao, giải trí 107,57 105,64 103,90 102,41 101,64 101,52

Hàng hóa và dịch vụ khác 112,00 110,68 107,00 104,00 102,89 102,17

Lạm phát cơ bản 13,62 8,19 4,77 3,31 2,05 1,83

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Page 34: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

229

c. Giải pháp bình ổn giá cả ở Việt Nam thời gian qua

Để kiểm soát được lạm phát, ổn định được giá cả, giải pháp Quốc hội và Chính phủ Việt

Nam đưa ra trong thời gian qua bao gồm:

Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng các

công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng

phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản

của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Sử dụng linh hoạt

các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện

chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động

của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy

động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo

đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công: Điều hành chính sách tài khóa

theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân

sách; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, nhất là đầu tư vào

các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của doanh nghiệp; phấn

đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Thực hiện chính sách tiết kiệm đồng bộ, chặt chẽ,

nghiêm ngặt trong tất cả các cấp, các ngành, trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đưa

nội dung thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, trong sản xuất và đời sống vào

cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Ví dụ: Ở

Việt Nam, năm 2008, ngoài việc tiết kiệm bình quân 10% chi phí hành chính (trừ tiền

lương, phụ cấp lương, các khoản chi cho con người theo chế độ quy định) của các cơ

quan sử dụng ngân sách nhà nước, thực hiện cắt giảm những khoản chi mua sắm

chưa thật cần thiết, giảm tối đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại (nhất là đi

lại bằng máy bay); cắt giảm các khoản chi tiếp khách, các đoàn công tác nước ngoài

bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc ngân sách mà không thật thiết thực; tiết kiệm

năng lượng, phương tiện triệt để hơn nữa. Giảm các chi phí cho hoạt động lễ hội, lễ

kỷ niệm, đón nhận huân chương, danh hiệu thi đua,... gây tốn kém, lãng phí.

Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, đảm bảo cân

đối cung cầu về hàng hóa: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải trực tiếp chịu

trách nhiệm chỉ đạo rà soát cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu trên địa bàn;

tăng cường công tác chống đầu cơ, buôn lậu và kiểm tra, kiểm soát giá cả thị trường;

kịp thời xử lý những biến động bất lợi của cung cầu và giá cả, nhất thiết không để

xảy ra thiếu hàng, sốt giá đối với các loại hàng thiết yếu. Phát huy vai trò của các

Hiệp hội ngành hàng, Hiệp hội người tiêu dùng và cộng đồng dân cư trong việc giám

sát, quản lý thị trường, giá cả.

Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu: Bộ Công

Thương đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động

xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh

của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các

biện pháp nhập khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu,

kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Hỗ trợ công tác xúc

tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tại các thị

trường truyền thống và mở rộng thị trường mới để tăng xuất khẩu; tăng cường các

Page 35: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

230

giải pháp khuyến khích sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy

mạnh các hoạt động dịch vụ và du lịch.

Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng: Tình trạng lãng phí trong

sản xuất và tiêu dùng vẫn còn diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị, trong dân

cư, tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng rất lớn. Trước hết, Chính phủ chỉ

đạo việc triệt để thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà

nước. Các đơn vị phải chủ động sử dụng dự toán đã được giao để thực hiện các

nhiệm vụ, kể cả trong trường hợp giá cả tăng. Không bổ sung chi ngân sách ngoài dự

toán. Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và chi phí

lưu thông. Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp nhà

nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty 90, 91 để chấn chỉnh ngay

việc đầu tư kém hiệu quả, đầu tư ra ngoài ngành sản xuất chính và cơ cấu đầu tư bất

hợp lý trong thời gian qua của các đơn vị này. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà

triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng.

Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương

mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá: Bộ Công Thương chủ trì

triển khai các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa; đồng thời, tăng cường

chỉ đạo thực hiện quản lý thị trường, nhất thiết không để xảy ra tình trạng lạm dụng

các biến động về nguồn hàng, giá cả trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là đối

với các loại vật tư quan trọng như: Xăng, dầu, điện, xi măng, sắt, thép, phân bón,

thuốc trừ sâu và hàng tiêu dùng thiết yếu như: Lương thực, thuốc chữa bệnh,... Phối

hợp với chính quyền địa phương chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường các biện

pháp nhằm ngăn chặn tình trạng gian lận thương mại, trốn lậu thuế và buôn lậu qua

biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng, dầu, khóang sản, lương thực,... Bộ Tài chính

tăng cường kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá, xử lý nghiêm các

hành vi vi phạm. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải triệt để chấp

hành các quy định về quản lý giá, thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới

bán lẻ của doanh nghiệp. Các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong

việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ

thống bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ yêu cầu các hiệp hội

ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường,

giá cả.

Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở

rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội: Căn cứ trên các chức năng,

nhiệm vụ được giao, các Bộ, ban, ngành, địa phương và cơ quan liên quan tăng

cường các biện pháp hỗ trợ an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân thông qua đẩy

mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm, hỗ trợ bảo đảm

đời sống nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động

có mức thu nhập thấp.

Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền: Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức

chỉ đạo công tác thông tin tuyên truyền nhằm tạo ra sự đồng thuận cao trong tất cả

các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và trong các tầng lớp nhân dân để thực

hiện các mục tiêu và giải pháp đã đề ra nhằm đưa nền kinh tế nước ta vượt qua khó

Page 36: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

231

khăn, phát triển ổn định. Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức rất gay

gắt nhưng thời cơ, thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta còn rất

lớn và rất cơ bản.

6.3. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp

Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh nặng của nền kinh tế thị trường. Năm 1958, giáo

sư A.W.Phillips ở Học viện kinh tế London đã chứng minh rằng có một mối liên hệ

thống kê mạnh mẽ giữa tỷ lệ lạm phát hàng năm và tỷ lệ thất nghiệp hàng năm ở Anh.

6.3.1. Đường Phillips trong ngắn hạn

Khi ra đời lý thuyết về tỷ thất nghiệp tự nhiên (tại đó sản lượng đạt mức sản lượng tiềm

năng và lạm phát không đổi) đường Phillips được xây dựng hoàn chỉnh có dạng sau:

*u u

Trong đó: là tỷ lệ lạm phát

u là tỷ lệ thất nghiệp thực tế

u* là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên

là độ dốc của đường Phillips

Theo lý thuyết này gợi ra cho ta thấy rằng có thể đánh đổi lạm phát nhiều để có được lượng

thất nghiệp ít hơn và ngược lại. Nó được biểu thị bằng đường SPC0 trên đồ thị 6.10.

Hình 6.10. Đường Phillips trong ngắn hạn

Đường Phillips ban đầu cho thấy:

Lạm phát bằng không thì tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

Một mức thất nghiệp thấp tương ứng với một mức lạm phát cao và ngược lại.

Độ dốc quyết định rất lớn đến mối quan hệ đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp.

Đường Phillips đã gợi ý cho những nhà hoạch định chính sách để lựa chọn các chính

sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài khóa, tiền tệ phù hợp với từng thời kỳ nhất

định. Thực tế ngày nay giá cả đã không hạ xuống theo thời gian do có lạm phát dự kiến,

vì thế đường Phillips đã được mở rộng thêm bằng việc bao gồm cả tỷ lệ lạm phát dự

kiến (πe) và nó có dạng như sau:

Page 37: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

232

e u u *

Trong đó: e là lạm phát dự kiến.

Hình 6.11. Đường Phillips trong ngắn hạn khi có lạm phát dự kiến

Đường Phillips trong ngắn hạn ở hình 6.11 cho thấy, khi thất nghiệp bằng tỷ lệ thất

nghiệp tự nhiên thì lạm phát bằng tỷ lệ lạm phát dự kiến. Nếu thất nghiệp thực tế cao

hơn tỷ lệ tự nhiên thì lạm phát thấp hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến và ngược lại. Đường mô

tả mối quan hệ trên gọi là đường Phillips mở rộng.

Hình 6.12 mô tả sự vận động dọc theo đường Phillips trong ngắn hạn, sẽ có mối quan hệ

đánh đổi giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp được biểu thị ở sự vận động này.

Hình 6.12. Đường Phillips trong ngắn hạn

Trong thời kỳ này nếu có cơn sốt cầu, giả sử tổng cầu tăng lên nhanh, nền kinh tế sẽ đi

dọc đường Phillips lên phía trên, lạm phát tăng, thất nghiệp giảm. Nếu không có sự tác

động của các chính sách thì vì giá tăng lên mức cung tiền thực tế giảm xuống, lãi suất

tăng lên và tổng cầu dần dần được điều chỉnh trở lại mức cũ, nền kinh tế với lạm phát và

thất nghiệp sẽ quay trở về trạng thái ban đầu. Nhưng lạm phát đã được dự kiến, tiền

Page 38: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

233

lương và các chi phí khác cũng được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát nên giá cả dừng lại ở

tỷ lệ dự kiến và thất nghiệp trở lại mức tự nhiên, đường Phillips ngắn hạn nói trên dịch

chuyển lên trên (hình 6.13).

Hình 6.13. Sự dịch chuyển đường Phillips sang phải

Riêng các cơn sốc về phía cung, đẩy chi phí sản xuất giá cả lên cao, sản lượng và việc

làm giảm xuống, nền kinh tế rơi vào thời kì đình trệ lạm phát, không có sự đánh đổi giữa

lạm phát và thất nghiệp. Khi Chính phủ tăng mức cung tiền liên tục để giữ cho tổng cầu

không suy giảm và thất nghiệp không thể tăng, nền kinh tế vẫn đạt mức sản lượng như

cũ nhưng giá cả tăng theo tỷ lệ tăng tiền. Như vậy sự điều tiết bằng chính sách tiền tệ và

tài khóa để giữ cho nền kinh tế ổn định khi gặp cơn sốc về phía cung, chúng ta phải trả

giá bằng một mức lạm phát cao hơn. Lạm phát kỳ vọng giảm sẽ làm cho đường Phillips

trong ngắn hạn dịch chuyển xuống phía dưới (hình 6.14).

Hình 6.134. Sự dịch chuyển đường Phillips sáng trái

Page 39: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

234

6.3.2. Đường Phillips trong dài hạn

Trong ngắn hạn tỷ lệ lạm phát thực tế có thể bằng và không bằng tỷ lệ lạm phát dự kiến,

nhưng trong dài hạn do sự tác động của chính sách tài khóa – tiền tệ chúng sẽ bằng nhau.

Nghĩa là e . Như vậy, phương trình đường Phillips dài hạn có dạng:

0 = - (u – u*) hay u = u*

U* Tỷ lệ thất nghiệp

Tỷ

lệ l

ạm p

hát

00

LPCLPC

SPCSPC00

e

U* Tỷ lệ thất nghiệp

Tỷ

lệ l

ạm p

hát

00

LPCLPCLPCLPC

SPCSPC00

e

Hình 6.14. Đường Phillips trong dài hạn LPC

Hình 6.14 mô tả đường Phillips trong ngắn hạn SPC0 là đường dốc xuống về phía phải

có độ dốc âm, đường Phillips trong dài hạn LPC là đường thẳng đứng song song với trục

tung, cắt trục hoành tại mức thất nghiệp tự nhiên u*.

Như vậy trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cho

dù lạm phát thay đổi như thế nào. Trong dài hạn, do giá cả và tiền công là linh hoạt, lạm

phát và thất nghiệp không có mối quan hệ với nhau. Đường Phillips trong dài hạn là

đường thẳng đứng và cắt trục hoành tại điểm xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

Tóm lại: Trong ngắn hạn và trung hạn nền kinh tế vận động theo các đường PC có sự

đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp trong thời gian nền kinh tế đang tự điều

chỉnh bởi các cơn sốc về phía cầu, nhưng không có sự đánh đổi lạm phát và thất nghiệp

bởi các cơn sốc về phía cung. Còn trong dài hạn về cơ bản không tồn tại mối quan hệ

giữa lạm phát và thất nghiệp.

Page 40: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

235

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

Những người trong độ tuổi lao động: Là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao

động theo quy định đã ghi trong hiến pháp và phát luật Lao động. Lực lượng lao động là số

người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc chưa có việc làm những đang tìm kiếm việc

làm. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ giữa lực lượng lao động và toàn bộ những người

trong độ tuổi lao động (dân số một quốc gia trong độ tuổi lao động). Người thất nghiệp là người

hiện đang chưa có việc làm nhưng đang mong muốn tìm kiếm việc làm.

Phân loại thất nghiệp theo lý do thất nghiệp: Tự ý xin thôi việc, mất việc, mới vào lực lượng lao

động, quay lại lực lượng lao động.

Phân loại thất nghiệp theo nguồn gốc của thất nghiệp: Thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp theo

mùa vụ, thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp do thiếu cầu.

Thất nghiệp tự nguyện (người lao động tự nguyện thất nghiệp): Là số lượng người lao động tự

nguyện thất nghiệp do công việc và tiền công chưa phù hợp với ý muốn của mình. Thất nghiệp tự

nguyện chỉ một trong những người “tự nguyện” không muốn làm việc, do việc làm và mức lượng

tương ứng chưa phù hợp với mong muốn của mình. Thất nghiệp không tự nguyện (hay thất nghiệp

chu kỳ): Do chu kỳ kinh tế gây nên, còn gọi là thất nghiệp do thiếu cầu (theo trường phái

Keynes).

Thất nghiệp tự nhiên: Là mức thất nghiệp xảy ra khi thị trường lao động đạt trạng thái cân bằng.

Nói cách khác, thất nghiệp tự nhiên là số lượng người lao động không chấp nhận làm việc ở mức

tiền công khi thị trường lao động cân bằng.

Lạm phát: Là sự tăng lên liên tục của mức giá chung (mức giá trung bình) theo thời gian. Lạm

phát tồn tại ở khắp mọi nơi trong nền kinh tế thị trường. Lạm phát xảy ra khi mức giá chung thay

đổi, khi mức giá tăng lên được gọi là lạm phát, khi mức giá giảm xuống được gọi là giảm phát.

Nguyên nhân của lạm phát thường bao gồm: Lạm phát do cầu kéo (chi tiêu quá nhiều tiền để

mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được, trong điều kiện thị trường lao

động đã đạt cân bằng); lạm phát chi phí đẩy (Các cơn sốc giá cả thị trường đầu vào đặc biệt là

các vật tư cơ bản (xăng dầu, điện,…) là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao); Lạm phát dự

kiến (Giá cả trong trường hợp này tăng đều đều với một tỷ lệ tương đối ổn định. Tỷ lệ lạm phát

này được gọi là tỷ lệ lạm phát ì, và vì mọi người đã có thể dự tính trước mức độ của nó nên nó

còn được gọi là lạm phát dự kiến).

Tác động của lạm phát đến phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá

nhân, tập đoàn... Đặc biệt đối với những ai giữ nhiều tài sản có giá trị danh nghĩa cố định (ví dụ

tiền mặt) và những người làm công ăn lương, tác động đến sản lượng và công ăn việc làm trong

nền kinh tế, tác động đối với phân bố tài nguyên

Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh nặng của nền kinh tế thị trường. Mô hình Phillips chỉ ra

rằng có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn, tức là muốn tạo nhiều việc làm

hay là nhằm đạt tốc độ phát triển kinh tế cao thì cái giá phải trả là lạm phát cao. Trong ngắn hạn

và trung hạn nền kinh tế vận động theo các đường PC có sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và

thất nghiệp trong thời gian nền kinh tế đang tự điều chỉnh bởi các cơn sốc về phía cầu, nhưng

không có sự đánh đổi lạm phát và thất nghiệp bởi các cơn sốc về phía cung. Còn trong dài hạn về

cơ bản không tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.

Page 41: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

236

BÀI TẬP THỰC HÀNH

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Thất nghiệp là gì? Công thức xác định tỷ lệ thất nghiệp?

2. Hãy chỉ ra các cách thức phân loại thất nghiệp.

3. Thế nào là thất nghiệp theo lý thuyết của trường phái cổ điển?

4. Phân tích các tác động của thất nghiệp đến nền kinh tế - xã hội.

5. Lạm phát là gì?

6. Nêu một số nguyên nhân xảy ra lạm phát.

7. Phân tích một số tác động của lạm phát đến nền kinh tế.

8. Phân tích quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn.

CÂU HỎI ĐÚNG/SAI

1. Khái niệm thất nghiệp là chỉ những người không có việc làm.

2. Lạm phát và thất nghiệp không có mối quan hệ với nhau.

3. Lạm phát chi phí đẩy là do tăng chi tiêu gây ra.

4. Nếu Chính phủ tăng chi tiêu mà gây ra lạm phát thì đó là loại lạm phát cầu kéo.

5. Lạm phát cầu kéo xảy ra khi giá cả của các yếu tố đầu vào tăng nhanh.

6. Thất nghiệp tự nguyện được coi là thất nghiệp tự nhiên.

7. Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh kinh niên của nền kinh tế.

8. Lạm phát cao luôn đi kèm với thất nghiệp thấp và ngược lại.

9. Khi thấy giá vàng và thịt bò tăng lên chúng ta có thể kết luận rằng nền kinh tế đang bị lạm phát.

10. Khi giá xăng dầu tăng, chúng ta có thể kết luận rằng nền kinh tế đang bị lạm phát.

11. Khi chi phí đầu vào của tất cả các doanh nghiệp đều tăng lên thì nền kinh tế sẽ bị lạm phát.

12. Lạm phát và thất nghiệp cao đều gây những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM

1. Lạm phát chi phí đẩy là do nguyên nhân nào trong các nguyên nhân sau?

A. Chính phủ tăng thuế giá trị gia tăng lên mức quá cao và mở rộng tiền tệ quá mức cần thiết.

B. Các cú sốc cầu, làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải và sản lượng tăng.

C. Các cú sốc cung, làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.

D. Tiêu dùng của các hộ gia đình tăng nhanh.

2. Đường Phillips ngắn hạn mô tả sự đánh đổi giữa hai yếu tố nào trong các yếu tố sau?

A. Mức giá và tỷ lệ thất nghiệp.

B. Lạm phát và thất nghiệp.

C. Lạm phát và tổng cầu.

D. Tăng trưởng và lạm phát.

3. Những đối tượng nào được xếp vào lực lượng lao động?

A. Các cá nhân trong độ tuổi lao động.

Page 42: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

237

B. Các cá nhân hiện đang có việc làm.

C. Các cá nhân hiện đang thất nghiệp.

D. Các cá nhân trong độ tuổi lao động đang làm việc và những người đang tích cực tìm việc làm.

4. Trong trường hợp lạm phát do cầu kéo thì tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát thay đổi như

thế nào?

A. Lạm phát và thất nghiệp đều tăng.

B. Thất nghiệp tăng và lạm phát giảm.

C. Lạm phát tăng và thất nghiệp giảm.

D. Cả lạm phát và thất nghiệp đều giảm.

5. Theo đường Phillips, khi các yếu tố khác không đổi, lạm phát phụ thuộc tỷ lệ thuận vào tất cả

các yếu tố sau ngoại trừ yếu tố nào?

A. Lạm phát dự kiến.

B. Tỷ lệ thất nghiệp thực

C. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

D. Cú sốc cung nếu nó xảy ra.

BÀI TẬP VẬN DỤNG

Bài tập 1

Theo nguồn số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam, vào thời điểm 01/01/2008, dân số Việt

Nam là 93 triệu người. Số người trưởng thành có việc làm là 44 triệu người. Số người thất

nghiệp là 3 triệu người. Có 4 triệu người trưởng thành không nằm trong lực lượng lao động.

Hãy xác định:

a. Số người thuộc lực lượng lao động.

b. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.

c. Tỷ lệ thất nghiệp.

Bài tập 2

Chính phủ có thể có những chính sách gì để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên?

Bài tập 3

Trong năm 2019, thị trường lao động của một nước được biểu thị bằng các số liệu sau:

1 Lực lượng lao động đầu năm 40000

2 Số người thất nghiệp đầu năm 3000

3 Số công nhân thất vọng 800

4 Số người bị mất việc/sa thải 1000

5 Số người về hưu, tam thời rời bỏ lực lượng lao động 200

6 Số người bỏ việc 600

7 Số công nhân mới thuê/gọi lại 1000

8 Trở lại/mới tham gia lực lượng lao động 400

9 Số người mới có việc làm (trước đây không bị thất nghiệp 100

Dựa vào bảng số liệu hãy tính:

a. Số công nhân gia nhập và rời bỏ đội quân thất nghiệp trong năm.

Page 43: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

238

b. Số người gia nhập và rời bỏ lực lượng lao động trong năm.

c. Mức thay đổi của số người có việc trong năm.

d. Lực lượng lao động và số người thất nghiệp vào cuối năm.

Bài tập 4

Bảng số liệu sau đây giả định nền kinh tế chỉ có hai loại hàng tiêu dùng là gạo và thịt lợn.

Năm

Giá thịt lợn

(USD)

Lượng gạo

(kg)

Giá gạo

(USD)

Lượng gạo

(kg)

2018 2,0 100 1,00 100

2019 2,5 90 0,90 120

2020 2,75 105 1,00 130

a. Tính chỉ số CPI của các năm 2018, 2019, và 2020.

b. Tính lạm phát năm 2019 và 2020.

Bài tập 5

Giả sử ban đầu không có lạm phát, lãi suất danh nghĩa là 5% một năm và thuế thu nhập từ

tiền lãi là 30%. Với tư cách là người cho vay, điều đó ảnh hưởng đến lợi ích của bạn. Giả sử

bạn mua tín phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm với số tiền 100 triệu đồng. Hãy xác định:

a. Tổng thu nhập trước thuế mà bạn nhận được sau 1 năm.

b. Mức thuế phải nộp.

c. Thu nhập ròng và lãi suất thực tế sau thuế.

Bây giờ giả sử tỷ lệ lạm phát là 15% trong năm và lãi suất danh nghĩa là 20% (như vậy lãi

suất thực tế trước thuế vẫn là 5%). Hãy xác định:

d. Tổng thu nhập trước thuế và mức thuế phải nộp.

e. Thu nhập ròng và lãi suất thực tế sau thuế.

f. Bạn có nhận xét gì khi so sánh kết quả giữa hai trường hợp.

Page 44: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

239

ĐÁP ÁN

CÂU HỎI ĐÚNG/SAI

1. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Khái niệm thất nghiệp là chỉ những người không có việc làm.

2. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Lạm phát và thất nghiệp không có mối quan hệ với nhau.

3. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Lạm phát chi phí đẩy là do tăng chi tiêu gây ra.

4. Đáp án đúng là: Đúng.

Vì: Nếu Chính phủ tăng chi tiêu mà gây ra lạm phát thì đó là loại lạm phát cầu kéo.

5. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Lạm phát cầu kéo xảy ra khi giá cả của các yếu tố đầu vào tăng nhanh.

6. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Thất nghiệp tự nguyện được coi là thất nghiệp tự nhiên.

7. Đáp án đúng là: Đúng.

Vì: Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh kinh niên của nền kinh tế.

8. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Lạm phát cao luôn đi kèm với thất nghiệp thấp và ngược lại.

9. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Khi thấy giá vàng và thịt bò tăng lên chúng ta có thể kết luận rằng nền kinh tế đang bị

lạm phát.

10. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Khi giá xăng dầu trong nền kinh tế tăng, chúng ta có thể kết luận rằng nền kinh tế đang bị

lạm phát.

11. Đáp án đúng là: Đúng.

Vì: Khi chi phí đầu vào của tất cả các doanh nghiệp đều tăng lên thì nền kinh tế sẽ bị lạm phát.

12. Đáp án đúng là: Đúng.

Vì: Lạm phát và thất nghiệp cao đều gây những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM

1. Đáp án đúng là: C. Các cú sốc cung, làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.

Vì: Lạm phát do chi phí đẩy có nguyên nhân ở cú sốc cung, giá đầu vào tăng nhanh, làm dịch

chuyển đường tổng cung lên phía trên bên trái và gây ra tình trạng suy thoái.

2. Đáp án đúng là: B. Lạm phát và thất nghiệp.

Vì: Đường Phillips ngắn hạn mô tả sự đánh đổi giữa Lạm phát và thất nghiệp.

Page 45: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

240

π = −ε ( u – u*)

Trong đó: π là tỷ lệ lạm phát

u là tỷ lệ thất nghiệp thực tế

u* là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên

ε là độ dốc của đường Phillips.

3. Đáp án đúng là: D. Các cá nhân trong độ tuổi lao động đang làm việc và những người đang

tích cực tìm việc làm.

Vì: Lực lượng lao động là tổng số người trong độ tuổi lao động đang làm việc và những

người đang tích cực tìm việc làm.

4. Đáp án đúng là: C. Lạm phát tăng và thất nghiệp giảm.

Vì: Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh tới mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá

mức sản lượng tiềm năng. Điều này khiến tỷ lệ lạm phát tăng cao. Tuy nhiên do cầu tăng

nhanh, nên các nhà sản xuất sẽ có xu hướng tăng sản xuất, thuê thêm nhân công, khiến cho tỷ

lệ thất nghiệp giảm xuống.

5. Đáp án đúng là: B. Tỷ lệ thất nghiệp thực tế.

Vì: Trong ngắn hạn, lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ đánh đổi cho nhau. Thực tế

ngày nay giá cả đã không hạ xuống theo thời gian do có lạm phát dự kiến, vì thế đường

Phillips đã được mở rộng thêm bằng việc bao gồm cả tỷ lệ lạm phát dự kiến (gpe) và nó có

dạng như sau:

π = πe –ε (u – u*)

Trong đó πe là lạm phát dự kiến.

BÀI TẬP VẬN DỤNG

Bài tập 1

Lực lượng lao động = Số người có việc + Số người thất nghiệp = 48 triệu người.

Người trưởng thành = Lực lượng lao động + Người trưởng thành không nằm trong lực lượng

lao động = 44 + 3 + 4 = 51 triệu người.

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động = Lực lượng lao động/người trưởng thành × 100% =

(48/51) ×100% = 94,1%.

Tỷ lệ thất nghiệp = Thất nghiệp/lực lượng lao động × 100% = (3/48) ×100% = 6,25%

Bài tập 2

Hỗ trợ của Chính phủ đối với việc đào tạo lại và sắp xếp lại lao động.

Để cho thị trường lao động hoạt động theo cơ chế thị trường.

Cải cách các chương trình bảo hiểm thất nghiệp.

Sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định sản lượng của nền kinh tế như chính

sách tài khóa và chính sách tiền tệ.

Bài tập 3

1. Số người thất nghiệp đầu năm, số người bị mất việc/sa thải và số người bỏ việc (nhưng

chưa rời khỏi lực lượng lao động) sẽ gia nhập đội quân thất nghiệp trong năm. Vì vậy,

tổng số công nhân gia nhập đội quân thất nghiệp trong năm là: 4 + 6 + 8. Số công nhân

Page 46: Bài 6 THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 6: Thất nghiệp và lạm phát

ECO102_Bai6_v2.0018102208

241

thất vọng (những người thất vọng vì không tìm được việc làm, vì vậy không đăng ký thất

nghiệp và bị coi là không muốn tham gia lực lượng lao động) và số công nhân mới được

thuê/gọi lại rời bỏ đội quân thất nghiệp. Do đó, tổng số công nhân rời bỏ đội quân thất

nghiệp trong năm là 3 + 7.

2. Số người trở lại và mới tham gia lực lượng lao động cộng với những người mới có việc

làm mà trước đây chưa bị thất nghiệp là những người gia nhập lực lượng lao động trong

năm. Vì vậy, tổng số người gia nhập lực lượng lao động trong năm là 8 + 9. Những công

nhân thất vọng và những công nhân về hưu/tạm thời rời bỏ lực lượng lao động là những

người rời bỏ lực lượng lao động. Vì vậy, tổng số người rời bỏ lực lượng lao động trong

năm là 3 + 5.

3. Số người bị mất việc/ sa thải, về hưu, tạm thời rời bỏ lực lượng lao động và bỏ việc là

những người rời bỏ việc làm trong năm bằng 4 + 5 + 6; số công nhân mới thuê/gọi lại, số

người mới có việc làm là những người nhận được việc làm trong năm bằng 7 + 9. Vì vậy,

mức thay đổi của số người có việc làm trong năm là 4 + 5 + 6 - 7 - 9.

4. Lực lượng lao động vào cuối năm = lực lượng lao động đầu năm cộng với số người trở

lại/ mới tham gia lực lượng lao động (8 + 9) trừ đi số người rời bỏ lực lượng lao động (3

+ 5). Số người thất nghiệp cuối năm bằng số người thất nghiệp đầu năm (3000) cộng với

số người gia nhập đội quân thất nghiệp (4 + 6 + 8) trừ đi số người rời bỏ đội quân thất

nghiệp (3 + 7).

Bài tập 4

a. 100,0; 113,3; và 125,0

b. 13,3% và 10,3%

Bài tập 5

a. 5 triệu

b. 1,5 triệu

c. Thu nhập ròng là 3,5 triệu. Lãi suất thực tế sau thuế là 3,5%.

d. Tổng thu nhập trước thuế là 20 triệu đồng và thuế là 6 triệu đồng.

e. Thu nhập ròng là 14 triệu đồng và lãi suất thực tế sau thuế là 1%.

f. Luật thuế không tính đến tác động của lạm phát và coi lãi suất danh nghĩa chứ không phải

lãi suất thực tế là một khoản mục thu nhập chịu thuế. Chính vì vậy, lạm phát đã làm tăng

nghĩa vụ nộp thuế của người sở hữu vốn.