bÀi 3: phÁp luẬt vỀ hỢp ĐỒng trong kinh...

40
Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh v1.0 39 BÀI 3: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH Nội dung Khái niệm hợp đồng Các yếu tố cấu thành hợp đồng Hiệu lực của hợp đồng Nội dung của hợp đồng Chế tài do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh Mục tiêu Hướng dẫn học Trang bị cho học viên kiến thức về các yếu tố cấu thành hợp đồng và các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực Giúp học viên hiểu được những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng. Giúp học viên vận dụng kiến thức pháp luật về hợp đồng để thực hiện giao kết hợp đồng và giải quyết các tranh chấp về hợp đồng trong thực tế. Thời lượng 15 tiết Để học tốt bài này, học viên cần thực hiện các công việc sau: Đọc kỹ Bài 3 – Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh trong giáo trình Luật Kinh tế của Chương trình TOPICA. Tích cực thảo luận với giáo viên và học viên qua mạng Internet. Tham khảo thông tin có trên trang web của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam www.vibonline.com.vn Đọc Bộ luật Dân sự 2005, đặc biệt những chú ý đến những nội dung quy định về giao dịch dân sự, nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự.

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

6 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 39

BÀI 3: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH

Nội dung

Khái niệm hợp đồng

Các yếu tố cấu thành hợp đồng

Hiệu lực của hợp đồng

Nội dung của hợp đồng

Chế tài do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh

Mục tiêu Hướng dẫn học

Trang bị cho học viên kiến thức về các yếu tố cấu thành hợp đồng và các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực

Giúp học viên hiểu được những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng.

Giúp học viên vận dụng kiến thức pháp luật về hợp đồng để thực hiện giao kết hợp đồng và giải quyết các tranh chấp về hợp đồng trong thực tế.

Thời lượng

15 tiết

Để học tốt bài này, học viên cần thực hiện các công việc sau:

Đọc kỹ Bài 3 – Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh trong giáo trình Luật Kinh tế của Chương trình TOPICA.

Tích cực thảo luận với giáo viên và học viên qua mạng Internet.

Tham khảo thông tin có trên trang web của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam www.vibonline.com.vn

Đọc Bộ luật Dân sự 2005, đặc biệt những chú ý đến những nội dung quy định về giao dịch dân sự, nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

40 v1.0

TÌNH HUỐNG KHỞI ĐỘNG BÀI

Tình huống

Công ty BTN kinh doanh trong lĩnh vực bán lẻ và có chuỗi siêu thị rộng khắp toàn quốc. Để thuận tiện cho khách hàng khi mua sắm, tất cả các mặt hàng trong siêu thị của công ty đều được niêm yết giá bán lẻ.

Tháng 10 năm 2008, một trận lụt rất lớn xảy ra trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh lân cận khiến cho rau xanh trở nên đặc biệt khan hiếm. Do đã có hợp đồng với nhà cung cấp từ trước nên siêu thị vẫn có một lượng rau nhất định để bán với giá tăng ít hơn nhiều so với các chợ truyền thống. Chính vì lý do này nên số lượng người dân vào siêu thị để mua rau tăng đột biến. Khách hàng X muốn mua 10kg rau ngót được niêm yết giá bán là10.000đ/kg. Tuy nhiên, siêu thị chỉ còn 7kg rau ngót nên không thể đáp ứng đề nghị của kháchhàng này. Khách hàng X lập luận rằng việc siêu thị niêm yết giá bán hàng hóa chính là lời đềnghị giao kết hợp đồng. Hơn nữa, siêu thị không nói rõ số lượng hàng sẽ bán là bao nhiêu nênviệc khách hàng đồng ý mua với một số lượng nhất định thì được coi là khách hàng đã chấpnhận đề nghị giao kết hợp đồng. Do đó giữa siêu thị và khách hàng đã hình thành một hợp đồngmua bán rau, vì vậy, siêu thị có nghĩa vụ cung cấp đủ hàng cho khách theo đúng hợp đồng đãthỏa thuận. Tuy nhiên, phía siêu thị cho rằng, việc niêm yết giá bán hàng hóa không phải là đềnghị giao kết hợp đồng nên siêu thị không có nghĩa vụ phải cung cấp đủ lượng hàng theo yêucầu của khách.

Câu hỏi gợi mở

Ý kiến của anh (chị) về vấn đề này như thế nào?

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 41

3.1. Khái niệm hợp đồng

3.1.1. Định nghĩa hợp đồng Hợp đồng là một trong những phương tiện hữu hiệu để thực hiện các giao lưu dân sự trong đời sống xã hội. Hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận và có hiệu lực ràng buộc các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng. Nói các khác, hợp đồng là “luật” do các bên tự hình thành nên và được nhà nước thừa nhận. Các hợp đồng đều mang bản chất dân sự, bởi đó là thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.

Định nghĩa này cho thấy, để tồn tại một hợp đồng thì phải có sự thỏa thuận giữa các bên. Sự thỏa thuận đó được hình thành từ hai phía, theo đó một bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng và một bên đưa ra chấp nhận đề nghị giao kết đó. Đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết được coi là điều kiện cần và đủ để hình thành nên một hợp đồng.

Hợp đồng = Thỏa thuận = Đề nghị giao kết hợp đồng + Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Hợp đồng dân sự phát sinh trong hoạt động kinh doanh thì gọi là hợp đồng kinh doanh. Nói cách khác, hợp đồng kinh doanh là hợp đồng dân sự phát sinh trong quá trình chủ thể kinh doanh thực hiện các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận. Điều này lý giải vì sao các quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng dân sự cũng được áp dụng đối với các hợp đồng kinh doanh. Trong trường hợp các hợp đồng kinh doanh chuyên biệt có văn bản riêng điều chỉnh thì ưu tiên áp dụng các luật chuyên ngành trước. Chẳng hạn như Luật Thương mại 2005 có quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh thì những quy định này sẽ được ưu tiên áp dụng trước. Nếu những vấn đề nào chưa được điều chỉnh bằng Luật Thương mại thì sẽ áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự.

3.1.2. Đặc điểm của hợp đồng trong kinh doanh

Về chủ thể

Chủ thể của hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng kinh doanh nói riêng có thể là cá nhân hoặc tổ chức với điều kiện các chủ thể này phải có năng lực hành vi dân sự. Chủ thể hợp đồng có thể trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng hoặc thông qua người đại diện. Có hai trường hợp đại diện là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.

Trong giao kết hợp đồng kinh doanh, đại diện theo pháp luật thường xảy ra khi chủ thể hợp đồng là các doanh nghiệp. Khi đó giám đốc doanh nghiệp hoặc người mà theo quy định của Điều lệ doanh nghiệp là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đó sẽ giao kết hợp đồng.

Đại diện theo ủy quyền xảy ra khi chủ thể hợp đồng hoặc người đại diện theo pháp luật ủy quyền cho người khác thay mình thực hiện giao kết hợp đồng. Người được

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

42 v1.0

ủy quyền chỉ được ủy quyền lại nếu được người ủy quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định cho phép ủy quyền lại.

Những phân tích trên cho thấy chủ thể của hợp đồng chưa chắc đã là chủ thể giao kết hợp đồng trên thực tế. Do đó không thể đồng nhất hai loại chủ thể này trong quan hệ hợp đồng. Quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng chỉ phát sinh với chủ thể hợp đồng mà không phát sinh với chủ thể giao kết hợp đồng.

Thực tế có thể xảy ra trường hợp một bên giao kết hợp đồng nhưng không phải đại diện theo ủy quyền hoặc vượt quá phạm vi ủy quyền. Trong trường hợp này, bên đã thực hiện giao dịch với người đó có quyền lựa chọn các phương thức giải quyết hợp đồng đã giao kết như sau:

o Thông báo cho người được đại diện biết và nếu người được đại diện đồng ý thì hợp đồng có hiệu lực giữa người được đại diện và bên đã giao dịch với người đại diện.

o Thông báo cho người được đại diện biết và nếu người được đại diện không đồng ý thì hợp đồng đã ký hoặc phần hợp đồng ký vượt quá phạm vi ủy quyền vẫn có hiệu lực giữa người đại diện và người đã giao dịch với người đại diện.

o Đơn phương chấm dứt hoặc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng hoặc phần hợp đồng được giao kết vượt quá phạm vi đại diện và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Về hình thức

Hợp đồng kinh doanh là hợp đồng dân sự phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể nên cũng giống như hợp đồng dân sự thông thường, hợp đồng kinh doanh có thể tồn tại dưới hình thức bằng văn bản, bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong thực tế, hợp đồng bằng văn bản có thể được thể hiện dưới dạng các tài liệu giao dịch hoặc thông điệp dữ liệu điện tử. Hơn nữa, hợp đồng bằng văn bản có thể được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật hoặc theo ý chí của các bên.

Về mục đích của các bên trong hợp đồng

Hợp đồng kinh doanh phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể nên ít nhất phải có một bên chủ thể có mục đích lợi nhuận khi giao kết hợp đồng. Nếu cả hai bên chủ thể đều không có mục đích lợi nhuận, hợp đồng được coi là hợp đồng dân sự đơn thuần. Ngược lại, nếu cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận thì hợp đồng được coi là hợp đồng kinh doanh hay hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn nếu một bên có mục đích lợi nhuận và một bên không có mục đích này. Trường hợp này gọi là giao dịch hỗn hợp.

Để xác định xem đây là hợp đồng dân sự hay thương mại, Luật Thương mại Việt Nam sử dụng phương pháp như sau:

o Nếu bên có mục đích lợi nhuận không phải là thương nhân thì hợp đồng đã giao kết là hợp đồng dân sự.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 43

o Nếu bên có mục đích lợi nhuận là thương nhân thì việc xác định hợp đồng dựa vào ý chí của bên không có mục đích lợi nhuận, cụ thể là:

Bên không có mục đích lợi nhuận chọn áp dụng quy định của Bộ luật Dân

sự 2005 thì đó là hợp đồng dân sự.

Bên không có mục đích lợi nhuận chọn áp dụng quy định của Luật Thương mại 2005 thì đó là hợp đồng kinh doanh.

3.1.3. Phân loại hợp đồng Hợp đồng được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí

khác nhau, cụ thể như sau:

Dựa vào hình thức, có hai loại là hợp đồng bằng văn bản và hợp đồng không bằng văn bản.

Hợp đồng bằng văn bản bao gồm hợp đồng dưới dạng tài liệu giao dịch hoặc thông điệp dữ liệu điện tử. Hợp đồng không bằng văn bản là hợp đồng được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng hành

vi cụ thể của các bên.

Dựa vào sự đối ứng về cam kết giữa các bên, có hai loại hợp đồng là hợp đồng có

đền bù và hợp đồng không có đền bù.

o Hợp đồng có đền bù (còn gọi là hợp đồng có đối ứng) là hợp đồng mà các bên đều đưa ra những cam kết thực hiện lợi ích cho nhau. Ví dụ, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng có đền bù bởi vì bên bán cam kết chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua còn bên mua cam kết trả tiền theo thỏa thuận cho

bên bán.

o Hợp đồng không có đền bù (còn gọi là hợp đồng không có đối ứng) là hợp đồng mà chỉ một bên đưa ra cam kết thực hiện lợi ích cho bên kia nhưng không nhận được cam kết lợi ích đối ứng nào. Chẳng hạn như trong hợp đồng tặng, cho tài sản, một bên hứa tặng bên kia tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng không có được bất cứ lợi ích nào từ phía người nhận tặng cho.

Pháp luật của các nước theo truyền thống luật Anh – Mỹ không thừa nhận hợp

đồng không có đền bù bởi quan niệm cho rằng không thể có “sự cho không”. Một

người đưa ra cam kết thực hiện lợi ích cho người khác thì luôn tính đến phải được

bù đắp lại bằng một lợi ích nhất định. Tính toán này có thể được biểu lộ hoặc

không được biểu lộ ra ngoài nhưng luôn tồn tại. Vì lý do đó, một lời cam kết chỉ

có hiệu lực ràng buộc người đã cam kết nếu nó được bảo đảm bằng một cam kết

đối ứng. Nói cách khác, hợp đồng chỉ tồn tại dựa trên tính chất “có đi có lại”.

Ngược lại, các nước thuộc hệ thống luật thành văn cho rằng hợp đồng có thể tồn

tại dưới hình thức “cho không” từ một phía. Do đó, nếu lời cam kết của một bên

được thực hiện thì sẽ làm phát sinh hợp đồng và pháp luật bảo hộ cho sự tồn tại

của hợp đồng đó. Hợp đồng đó gọi là hợp đồng không có đền bù, tồn tại dưới các

dạng như hợp đồng cho mượn tài sản, hợp đồng cho vay tài sản không lấy lãi, hợp

đồng gửi giữ tài sản miễn phí…

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

44 v1.0

Dựa vào mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên, có hai loại hợp đồng là hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ.

o Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng chỉ một bên có nghĩa vụ, bên có quyền không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia. Trong thực tế, hợp đồng đơn vụ chiếm số lượng rất nhỏ trong giao lưu dân sự do tính chất đặc biệt của nó.

Hợp đồng đơn vụ có thể tồn tại dưới dạng như hợp đồng cho vay tài sản được các bên thỏa thuận thời điểm có hiệu lực là khi tài sản vay đã được chuyển giao cho bên vay. Kể từ thời điểm có hiệu lực, chỉ bên vay tài sản có nghĩa vụ hoàn trả cho bên vay cả gốc và lãi đúng thời hạn như đã thỏa thuận, trong khi đó bên cho vay không phải thực hiện nghĩa vụ gì đối với bên vay.

o Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên đều có nghĩa vụ đối với nhau. Trong thực tế, các hợp đồng chủ yếu tồn tại dưới dạng hợp đồng song vụ, chẳng hạn như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng tín dụng…

Hợp đồng song vụ và đơn vụ không hoàn toàn đồng nhất với hợp đồng có đền bù và không có đền bù. Thông thường, hợp đồng có đền bù tồn tại dưới dạng hợp đồng song vụ. Tuy nhiên, có trường hợp hợp đồng song vụ nhưng không có đền bù như hợp đồng cho mượn tài sản. Trong hợp đồng này, bên cho mượn không nhận được lợi ích nào từ bên mượn. Tuy nhiên, bên cho mượn có nghĩa vụ bảo đảm cho bên mượn được sử dụng tài sản theo đúng công dụng và thời gian như đã thỏa thuận. Bên cho mượn không được đòi lại tài sản trước hạn trừ trường hợp có nhu cầu đột xuất và cấp bách nhưng phải báo cho bên mượn biết với thời gian hợp lý.

Dựa vào mối quan hệ hiệu lực giữa các hợp đồng, có hai loại hợp đồng là hợp đồng chính và hợp đồng phụ.

o Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ.

o Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực của nó phụ thuộc vào hợp đồng chính.

Trong thực tế, hợp đồng chính – phụ thường xuất hiện liên quan đến các giao dịch bảo đảm. Chẳng hạn hợp đồng tín dụng có sử dụng các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp. Trong trường hợp này, hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng cầm cố, thế chấp là hợp đồng phụ.

3.2. Các yếu tố cấu thành hợp đồng Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một hợp đồng sẽ được hình thành nếu giữa các bên đạt được sự thỏa thuận. Sự thỏa thuận đó được hình thành trên cơ sở của đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 45

3.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng Khái niệm

Đề nghị giao kết hợp đồng là sự biểu đạt bằng lời nói hoặc hành động nhằm thể hiện ý chí của người đề nghị trong việc mong muốn giao kết hợp đồng và chấp nhận chịu ràng buộc bởi những đề nghị mà họ đã đưa ra đối với bên đã được xác định cụ thể.

Đề nghị giao kết hợp đồng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng có thể là bản chào hàng được đưa ra bởi người bán gọi là chào bán hàng hoặc được đưa ra bởi người mua gọi là chào mua hàng. Trong đấu giá, đề nghị giao kết tồn tại dưới hình thức bỏ giá mua của các chủ thể tham gia đấu giá.

Đề nghị giao kết hợp đồng là sự biểu đạt ý chí của bên đề nghị đối với bên được đề nghị. Sự biểu đạt này chỉ được coi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu thỏa mãn các điều kiện sau:

Được chuyển tới chủ thể xác định, đó là người được đề nghị. Điều kiện này cho thấy pháp luật loại trừ khả năng trở thành đề nghị giao kết hợp đồng của những lời nói hoặc hành động đưa ra cho nhiều người nhưng không xác định đối tượng cụ thể. Lời nói hoặc hành động trong trường hợp này thường tồn tại dưới dạng quảng cáo hoặc thông báo hứa thưởng và được Bộ luật Dân sự Việt Nam xác định là hành vi pháp lý đơn phương chứ không phải là đề nghị giao kết hợp đồng.

Tuy nhiên, một số nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ lại thừa nhận khả năng đề nghị giao kết hợp đồng có thể được đưa ra cho những người chưa xác định. Nếu có chủ thể thực hiện đúng yêu cầu của bên đưa ra đề nghị thì sẽ hình thành một hợp đồng và các bên có nghĩa vụ tuân thủ hợp đồng đó.

Mặc dù có sự khác nhau về việc xác định có hay không tồn tại một hợp đồng trong trường hợp này, tuy nhiên, cả hai trường phái pháp luật có sự tương đồng ở chỗ đều xác định nghĩa vụ phát sinh đối với chủ thể đã có hành vi pháp lý đơn phương hoặc có đề nghị giao kết hợp đồng.

Ví dụ Một cơ sở luyện thi đại học thông báo tuyển sinh và cam kết nếu học sinh nào đi học đầy đủ và làm tất cả các bài tập về nhà được giáo viên giao cho liên tục trong 3 tháng mà không đỗ đại học thì sẽ được hoàn trả tiền học và bồi thường số tiền tương ứng với học phí đã đóng. Học sinh A đã thực hiện đúng những yêu cầu trên nhưng thi trượt đại học. A yêu cầu cơ sở luyện thi thực hiện nghĩa vụ như đã hứa. Trong trường hợp này không có hợp đồng giữa A và cơ sở luyện thi bởi vì thông báo của cơ sở đó chỉ có tính chất quảng cáo tới tất cả học sinh có nhu cầu ôn thi đại học mà không xác định học sinh cụ thể nào. Chính vì vậy, thông báo đó là hành vi pháp lý đơn phương của cơ sở luyện thi chứ không phải là đề nghị giao kết hợp đồng. Trong trường hợp này, cơ sở luyện thi đã công khai thông báo bồi thường nên có nghĩa vụ phải bồi thường cho học sinh A. Đây là nghĩa vụ phát sinh do hành vi pháp lý đơn phương mà không phải do hợp đồng giữa A và cơ sở luyện thi.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

46 v1.0

Thể hiện mong muốn giao kết hợp đồng và chấp nhận chịu ràng buộc bởi những đề nghị đã đưa ra. Đây là điều kiện thể hiện ý chí của chủ thể hợp đồng và nhờ đó mà đề nghị giao kết hợp đồng được phân biệt với lời đề nghị (lời mời) thương lượng và thông tin báo giá.

o Đề nghị thương lượng là hình thức một bên đưa ra lời mời tới chủ thể khác với mong muốn chủ thể được mời sẽ đưa ra một đề nghị giao kết hợp đồng.

Về mặt hình thức, đề nghị thương lượng khá giống với đề nghị giao kết hợp đồng, tuy nhiên đề nghị thương lượng chỉ thể hiện sự sẵn sàng của chủ thể đề nghị trong việc xem xét các đề nghị giao kết mà chưa thể hiện mong muốn giao kết hợp đồng.

Đề nghị thương lượng thường tồn tại dưới dạng mời đấu giá hoặc mời đấu thầu. Đây là những hoạt động mang tính chất mời gọi tất cả những chủ thể quan tâm đưa ra đề nghị giao kết, tức là đưa ra thương lượng để đàm phán hợp đồng. Bởi vậy, lời mời thầu hoặc mời đấu giá không được xem là đề nghị giao kết hợp đồng mà chỉ là đề nghị để một bên khác đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng. Việc đưa ra giá bỏ thầu hoặc giá đấu giá chính là đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp này. Nếu những đề nghị này thỏa mãn yêu cầu của một cuộc đấu thầu hoặc đấu giá và được bên mời thầu hoặc mời đấu giá chấp nhận thì một hợp đồng sẽ được hình thành.

Đề nghị thương lượng cũng tồn tại dưới dạng niêm yết giá bán hàng hóa. Chủ cửa hàng thường niêm yết giá bán hàng hóa để khách hàng biết. Tuy nhiên, việc niêm yết giá không phải là đề nghị giao kết hợp đồng mà chỉ đơn thuần là lời mời xem hàng. Chủ cửa hàng chưa thể hiện ý định mong muốn giao kết hợp đồng mà mới chỉ dừng ở việc đề nghị khách hàng tham khảo hàng hóa về mặt chất lượng, giá cả và sau đó đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Chính vì vậy, việc khách hàng đồng ý mua và đề nghị thanh toán mới

Ví dụ X tìm giấy tờ bị thất lạc bằng cách dán thông báo ở các địa điểm công cộng. Y nhặt được giấy tờ và trả lại cho X. Trong trường hợp này, thông báo hứa thưởng của X được pháp luật Việt Nam xác định là hành vi pháp lý đơn phương mà không phải đề nghị giao kết hợp đồng do thông báo đó được đưa ra cho tất cả mọi người chứ không hướng đến một đối tượng cụ thể. Vì vậy, nghĩa vụ trả thưởng của X đối với Y không phải là nghĩa vụ theo hợp đồng mà là nghĩa vụ phát sinh do hành vi pháp lý đơn phương của X. Tuy nhiên, nếu theo pháp luật Anh – Mỹ thì thông báo hứa thưởng của X là đề nghị giao kết hợp đồng. Do đó, giữa X và Y hình thành một hợp đồng hứa thưởng. X có nghĩa vụ trả thưởng cho Y theo hợp đồng này.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 47

được coi là đề nghị giao kết hợp đồng. Cửa hàng chấp nhận thanh toán được coi là chấp nhận giao kết và khi đó hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên được hình thành.

o Đề nghị giao kết hợp đồng cũng khác biệt với thông tin báo giá. Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thường thực hiện hoạt động báo giá theo yêu cầu của bạn hàng nhằm cung cấp danh mục hàng hóa sẵn có và giá cả tương ứng cho từng sản phẩm.

Tuy nhiên, báo giá không phải là đề nghị giao kết bởi nó không thể hiện mong muốn giao kết hợp đồng mà chỉ đơn thuần cung cấp thông tin nhằm cho đối tác biết rằng bên báo giá sẵn sàng tham gia giao kết nếu có

một đề nghị giao kết được đưa ra.

Hơn nữa, trên cơ sở báo giá đã được đưa ra, các bên có thể thỏa thuận về một mức giá phù hợp hơn trong thực tế khi thực hiện giao dịch mà không bắt buộc phải tuân

theo giá đã được thông báo.

Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng

Đề nghị giao kết hợp đồng ràng buộc người đề nghị nên, về nguyên tắc, đề nghị giao

kết đã gửi đến người được đề nghị thì không thể rút lại, thay đổi hoặc hủy bỏ.

Điều đó có nghĩa là người đề nghị phải giữ lời hứa của mình trong suốt thời gian đề nghị giao kết có hiệu lực. Chính vì lý do này nên khi đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng, bên đề nghị thường ấn định một thời hạn trả lời nhất định. Nếu hết thời hạn đó mà bên được đề nghị không trả lời thì đề nghị giao kết hợp đồng không còn hiệu lực và bên đề nghị được giải phóng khỏi sự ràng buộc của những đề nghị đó. Cũng chính vì chịu sự ràng buộc này nên trong thời hạn đã được ấn định, bên đề nghị không được giao kết hợp đồng với chủ thể khác. Nếu hợp đồng giao kết với chủ thể khác được thiết lập khiến cho bên được đề nghị bị thiệt hại do không giao kết được hợp đồng thì bên đề nghị giao kết phải bồi thường.

Ví dụ Công ty A muốn trang bị máy tính cho văn phòng mới thành lập nên gọi điện đến

công ty kinh doanh máy tính B đề nghị gửi báo giá về các loại máy tính mà B có.

Sau khi nhận được báo giá của B, công ty A gửi fax đồng ý mua loại máy tính X

với giá như đã được thông báo. Tuy nhiên, sau đó công ty B từ chối bán máy tính

cho A. Công ty A khởi kiện công ty B về hành vi vi phạm hợp đồng. Đơn kiện này

không được tòa án chấp nhận bởi vì báo giá của B không được coi là đề nghị giao

kết hợp đồng. Vì vậy, không thể coi bản fax của A đồng ý mua máy tính là chấp

nhận đề nghị giao kết. Về thực chất, chính bản fax của A mới là đề nghị giao kết

hợp đồng và bị công ty B từ chối. Do vậy, giữa hai công ty này không có quan hệ hợp đồng nên công ty A đã thất bại trong vụ kiện này.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

48 v1.0

Nguyên tắc nêu trên có một số ngoại lệ nhất định. Trong trường hợp bên đề nghị xác định rõ trong đề nghị giao kết hợp đồng những điều kiện có thể rút lại, thay đổi hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết và nếu những yếu tố đó xảy ra thì việc rút lại, thay đổi hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết được chấp nhận. Xét đến cùng đây cũng là biểu hiện của việc chịu sự ràng buộc bởi đề nghị giao kết vì việc rút lại, thay đổi hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết chỉ được thực hiện nếu đề nghị đã có quy định về các trường hợp này.

Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng

Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau:

Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận đề nghị;

Hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghị không trả lời chấp nhận đề nghị giao kết.

Bên đề nghị rút lại, thay đổi hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng theo đúng quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận giữa các bên trong khi chờ bên được đề nghị trả lời.

3.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng.

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu thỏa mãn các điều kiện sau:

Được đưa ra trong thời hạn theo quy định của đề nghị giao kết hợp đồng;

Chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng.

Nếu đề nghị giao kết hợp đồng được đưa ra khi đã hết thời hạn do người đề nghị giao kết ấn định hoặc không chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị thì được coi là một đề nghị giao kết mới. Điều đó dẫn đến khả năng, vai trò của các bên khi đàm phán hợp đồng sẽ thay đổi liên tục từ vị trí người đề nghị giao kết sang vị trí người được đề nghị và ngược lại.

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thể bằng văn bản, bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể. Điều cần lưu ý là im lặng không được coi là sự đồng ý trong giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự đồng ý thì hợp đồng được mặc nhiên thừa nhận là đã hình thành nếu hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng.

Vấn đề đặt ra là khi một bên đưa ra đề nghị giao kết và có ấn định bên được đề nghị phải đưa ra trả lời chấp nhận đề nghị dưới một hình thức cụ thể nhưng bên đề nghị không tuân thủ hình thức này thì sẽ xử lý ra sao.

Ví dụ Trong một cuộc đấu giá, một người đã bỏ giá mua sản phẩm. Trong khi chờ đợi người điều hành phiên đấu giá gõ búa xác nhận giá mua của người đó là giá thắng cuộc thì người này đổi ý rút lại giá chào mua của mình. Việc rút lại đó sẽ không được chấp nhận bởi vì hành động bỏ giá chào mua chính là đề nghị giao kết hợp đồng. Về nguyên tắc đề nghị giao kết

này không thể được rút lại khi đã được đưa ra, tức là được gửi đến cho bên bán.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 49

Pháp luật chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên, nếu theo suy luận thì có thể coi bên được đề nghị đã không chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết và do đó bản trả lời của bên được đề nghị trở thành đề nghị giao kết mới và hợp đồng chưa được hình thành.

Ngoài ra, pháp luật cũng chưa có quy định về việc nếu đề nghị giao kết hợp đồng không quy định về hình thức trả lời chấp nhận đề nghị giao kết thì bên được đề nghị có bắt buộc phải sử dụng hình thức giống như đề nghị giao kết hay không. Chính vì chưa có quy định nên có thể suy luận rằng bên được đề nghị có thể sử dụng bất cứ hình thức nào theo ý riêng của mình mà không bắt buộc phải sử dụng hình thức giống như hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng.

Nếu bên đề nghị đã nhận được chấp nhận đề nghị giao kết thì bên được đề nghị không được rút lại chấp nhận đề nghị giao kết. Việc này chỉ được thực hiện nếu chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đã được đưa ra nhưng người đề nghị chưa nhận được hoặc nhận được cùng thời điểm với thông báo rút lại chấp nhận đề nghị giao kết.

3.2.3. Hệ quả của việc xác định các yếu tố cấu thành hợp đồng Khi quy định về các yếu tố cấu thành hợp đồng, pháp luật của Việt Nam có nhiều nét tương đồng với pháp luật của các nước theo truyền thống luật thành văn như Pháp, Đức và nhiều nước thuộc châu Âu lục địa. Theo đó, một hợp đồng được coi là hình thành nếu có đủ hai yếu tố: đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết. Tuy nhiên, theo pháp luật của các nước thuộc trường phái luật Anh – Mỹ thì bản thân sự thỏa thuận giữa các bên chưa đủ để khẳng định đã có một hợp đồng được hình thành mà còn phải xác định giữa các bên tồn tại một cam kết đối ứng, hay còn gọi là giá trị đền bù.

Chính vì vậy, nếu trong thỏa thuận giữa các bên chỉ có sự cam kết từ một phía mà không có cam kết đối ứng của phía bên kia thì thỏa thuận đó chưa được coi là hợp đồng ràng buộc các bên. Bên đưa ra cam kết không có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện lời cam kết của mình. Chẳng hạn như A có thỏa thuận hứa tặng cho B một tài sản và có lập văn bản ghi nhớ về việc tặng cho này. Văn bản tặng cho không thể được coi là hợp đồng giữa A và B mà chỉ là một thỏa thuận đơn thuần vì B không cam kết thực hiện một nghĩa vụ đối ứng nào cho A. Như vậy, những thỏa thuận không có đền bù thì không hình thành nên hợp đồng.

Ví dụ Sau khi nhận được báo giá từ cửa hàng vật liệu xây dựng Hoa Mai, công ty Bình Minh gửi

fax đề nghị mua 10 tấn xi măng theo giá như đã được thông báo. Trong bản chào mua

hàng, công ty Bình Minh đề nghị Hoa Mai giao hàng tại chân công trình mà Bình Minh

đang xây dựng. Hoa Mai gửi fax trả lời đồng ý với nội dung mà Bình Minh đề xuất nhưng

có đề nghị Bình Minh cho xe đến kho của Hoa Mai lấy hàng do xe tải của công ty này đang

chở hàng đi ngoại tỉnh không về kịp. Trong trường hợp này, bản fax của Hoa Mai không

phải là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mà là một đề nghị giao kết mới do không đồng

ý toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

50 v1.0

Ngược lại, theo pháp luật của các nước thuộc hệ thống luật thành văn, hợp đồng được

coi là hình thành từ khi có thỏa thuận giữa các bên. Do đó, trong trường hợp trên, đã

có hợp đồng tặng cho giữa A và B và hợp đồng này được gọi là hợp đồng không có

đối ứng hay hợp đồng không có đền bù. Điều đó có nghĩa là những thỏa thuận không

có đền bù vẫn có thể hình thành nên hợp đồng. Chính vì lý do này mà trong lý thuyết

phân loại hợp đồng của các nước thuộc hệ thống luật châu Âu lục địa và Việt Nam

đều xác định hai loại hợp đồng là hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù,

trong khi đó các nước thuộc hệ thống luật Anh – Mỹ không có sự phân loại này.

Việc xác định yếu tố cấu thành hợp đồng còn có ảnh hưởng đến trường hợp hợp đồng

được giao kết vì lợi ích của người thứ ba.

Chẳng hạn như, X ký hợp đồng mua xe máy với Y để tặng chiếc xe này cho Z. Vậy Z

có quyền yêu cầu X thực hiện nghĩa vụ đối với mình hay không?

Pháp luật của các nước thuộc hệ thống Anh – Mỹ không cho phép Z thực hiện quyền

này bởi xuất phát từ quan điểm cho rằng Z không

cung cấp cho X bất kỳ lợi ích đối ứng nào. Lập luận

này dẫn đến một nguyên tắc là chỉ các bên trong

hợp đồng mới được khởi kiện nhau. Ngược lại, theo

pháp luật của các nước không yêu cầu xác định yếu

tố đối ứng trong cấu thành hợp đồng thì Z có quyền

trực tiếp yêu cầu X thực hiện nghĩa vụ đối với

mình. Hơn nữa, hợp đồng đã được giao kết và

người thứ ba đồng ý hưởng lợi ích thì các bên

không được sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng. Điều đó

cho thấy, bên thứ ba có quyền khởi kiện để bảo vệ

lợi ích của mình theo hợp đồng nếu hợp đồng không đòi hỏi phải có yếu tố đối ứng

trong cấu thành hợp đồng.

3.3. Hiệu lực của hợp đồng

3.3.1. Hợp đồng có hiệu lực và hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng có hiệu lực

Hợp đồng có hiệu lực là hợp đồng được pháp luật thừa nhận có giá trị ràng buộc

các bên trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được thỏa thuận.

Một hợp đồng chỉ được coi là có hiệu lực nếu đồng thời thỏa mãn các dấu hiệu sau:

o Các bên phải hoàn toàn tự nguyện khi giao kết hợp đồng;

o Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và

không trái đạo đức xã hội;

o Chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự;

o Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật nếu pháp luật

có yêu cầu hợp đồng phải được xác lập bằng một hình thức nhất định.

Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng sẽ được phân tích kỹ ở phần 3.3.2.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 51

Hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không có hiệu lực trên thực tế, các bên không phải chịu ràng buộc về quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng.

Hợp đồng vô hiệu có thể tồn tại dưới dạng vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối.

o Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối (còn gọi là vô hiệu mặc nhiên) là hợp đồng mặc nhiên bị coi là vô hiệu khi không thỏa mãn điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

Hiện nay, Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam quy định các trường hợp vô hiệu tuyệt đối xảy ra trong hai trường hợp:

Mục đích và nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.

Hợp đồng được xác lập giả tạo để che dấu cho một hợp đồng khác thì hợp đồng giả tạo sẽ bị vô hiệu tuyệt đối.

Trong nhiều trường hợp, nếu hợp đồng đã vô hiệu tuyệt đối nhưng các chủ thể vẫn cố tình thực hiện sẽ bị coi là vi phạm pháp luật và phải chịu các hình thức trách nhiệm pháp lý như trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự nếu việc thực hiện đó đủ yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật hành chính và vi phạm pháp luật hình sự.

o Hợp đồng vô hiệu tương đối (còn gọi là vô hiệu theo yêu cầu) là hợp đồng chỉ bị coi là vô hiệu nếu có yêu cầu của một trong các bên hợp đồng và được tòa án thừa nhận. Điều đó cho thấy nếu các bên không có yêu cầu hoặc yêu cầu của các bên không được tòa án thừa nhận thì hợp đồng vẫn được thực hiện trên thực tế và vẫn có giá trị ràng buộc các bên.

Như vậy, trong trường hợp này, bản thân hợp đồng không hội tụ đủ các điều kiện có hiệu lực nhưng không bị coi là mặc nhiên vô hiệu mà chỉ coi là có thể bị vô hiệu.

Tính hiệu lực của nó phụ thuộc vào ý chí của các bên. Chỉ khi nào các bên có yêu cầu và được tòa án thừa nhận thì hợp đồng mới bị coi là vô hiệu trên thực tế và mất đi tính ràng buộc đối với các bên.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, hợp đồng vô hiệu tương đối tồn tại trong các trường hợp sau:

Hợp đồng được giao kết bởi người chưa thành niên; người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự nếu pháp luật có yêu cầu hợp đồng này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.

Hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn;

Hợp đồng được giao kết do bị lừa dối, đe doạ ;

Chủ thể giao kết hợp đồng không nhận thức được hành vi của mình.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

52 v1.0

Những phân tích ở trên cho thấy, hợp đồng không đồng thời thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực như sự đồng thuận của các bên, năng lực hành vi dân sự của chủ thể, tính hợp pháp của hợp đồng và hình thức của hợp đồng thì bị vô hiệu (trong trường hợp vô hiệu tuyệt đối) hoặc có thể bị vô hiệu (trong trường hợp vô hiệu tương đối).

Điều cần lưu ý là đối với trường hợp vô hiệu tương đối, nếu không có yêu cầu của các bên và không có tuyên bố của tòa án thì hợp đồng vẫn có hiệu lực trên thực tế ngay cả khi bản thân nó chứa đựng các yếu tố của một hợp đồng vô hiệu. Khi đó, các bên vẫn phải thực hiện hợp đồng cho đến khi tòa án tuyên hợp đồng đó vô hiệu. Bởi lẽ, nếu hợp đồng không bị tòa tuyên vô hiệu thì khi đó bên tự ý không thực hiện hợp đồng sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng. Ngược lại, đối với hợp đồng vô hiệu tuyệt đối, các bên có quyền không tiếp tục thực hiện hợp đồng nếu phát hiện ra tính vô hiệu của nó.

Hậu quả của hợp đồng vô hiệu

Khi hợp đồng được các bên xác định hoặc được tòa án tuyên là vô hiệu thì hợp đồng đó không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết.

Lý do xác định thời điểm vô hiệu của hợp đồng như vậy là vì các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đều phát sinh từ thời điểm hợp đồng được giao kết. Sự tồn tại của những yếu tố này là khách quan trong suốt quá trình hợp đồng được thực hiện. Chính vì vậy, thời điểm hợp đồng bị xác định hoặc bị tuyên vô hiệu có thể sớm hay muộn nhưng yếu tố làm cho hợp đồng vẫn tồn tại từ khi giao kết.

Hợp đồng vô hiệu không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết dẫn đến hệ quả là các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không trả được bằng hiện vật thì trả bằng tiền. Tuy nhiên, nếu hợp đồng được xác lập có vi phạm pháp luật thì tài sản của các bên có thể không được hoàn trả cho nhau mà bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

Trong trường hợp chỉ có một phần của hợp đồng vô hiệu và không ảnh hưởng đến các phần còn lại (hợp đồng vô hiệu một phần) thì các phần khác vẫn có hiệu lực pháp luật. Việc xử lý phần hợp đồng vô hiệu giống như đối với hợp đồng vô hiệu toàn bộ như đã phân tích ở trên.

3.3.2. Các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực

3.3.2.1. Sự đồng thuận của các bên Sự đồng thuận của các bên là yếu tố bắt buộc phải xác định khi xem xét hợp đồng có hiệu lực hay không. Điều này xuất phát từ bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nên sự đồng thuận là yêu cầu tiên quyết để hình thành hợp đồng. Đồng thuận của các bên tham gia hợp đồng phải dựa trên sự tự nguyện, trung thực và bình đẳng.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 53

Bộ luật Dân sự của Việt Nam khi quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng không yêu cầu về “sự đồng thuận” mà chỉ đòi hỏi “sự tự nguyện” của các bên khi giao kết hợp đồng (Điểm c, Khoản 1, Điều 122).

Quy định như vậy có lẽ chưa đầy đủ bởi nếu chỉ đòi hỏi có sự tự nguyện, tức là tự do bày tỏ ý chí khi giao kết hợp đồng, thì sẽ không thể bao quát hết được các trường hợp hợp đồng vô hiệu do một bên bị lừa dối hoặc bị người khác lợi dụng vị trí cá nhân để gây ảnh hưởng.

Tuy nhiên, mặc dù trong quy định chung về hợp đồng vô hiệu, Bộ luật Dân sự của nước ta chỉ đòi hỏi yếu tố tự nguyện nhưng khi quy định các trường hợp vô hiệu cụ thể, sự lừa dối cũng được thừa nhận là yếu tố làm cho hợp đồng vô hiệu (Điều 132 Bộ luật Dân sự 2005). Điều đó có nghĩa là pháp luật thừa nhận cả những trường hợp vô hiệu do vi phạm yếu tố đồng thuận. Đây có thể xem là hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của pháp luật hợp đồng Việt Nam và cần được sửa đổi cho hoàn thiện hơn.

Nếu tổng hợp tất cả các quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu thì có thể thấy, Bộ luật Dân sự Việt Nam vẫn đòi hỏi yếu tố đồng thuận giữa các bên trong hợp đồng chứ không chỉ dừng lại ở sự tự nguyện. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều trực tiếp quy định đồng thuận là yêu cầu bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực.

Bất cứ yếu tố nào vi phạm sự tự nguyện, bình đẳng và trung thực khi giao kết hợp đồng đều bị coi là yếu tố “phản đồng thuận” và sẽ dẫn đến khả năng hợp đồng bị vô hiệu.

Trong thực tế, các yếu tố “phản đồng thuận” thường tồn tại dưới dạng trình bày sai sự thật, cưỡng ép, gây ảnh hưởng không chính đáng và nhầm lẫn:

Trình bày sai sự thật

Giao kết hợp đồng là quá trình đàm phán giữa các bên. Việc đàm phán được thực hiện bằng cách các bên đưa ra những biểu đạt bằng lời nói, bằng hành vi hoặc bằng văn bản nhằm thỏa thuận về các vấn đề liên quan đến hợp đồng. Kết thúc quá trình đàm phán, sẽ có những biểu đạt được đưa vào hợp đồng và trở thành điều khoản của hợp đồng ấy. Nếu những biểu đạt này có nội dung không đúng sự thật thì coi như bên đưa ra biểu đạt đã vi phạm hợp đồng và sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm đó.

Tuy nhiên, có rất nhiều lời biểu đạt không được ghi vào hợp đồng nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hợp đồng. Về nguyên tắc, những lời biểu đạt này không phải là điều khoản của hợp đồng nên không có hiệu lực ràng buộc các bên. Mặc dù vậy, xuất phát từ nguyên tắc sự đồng thuận phải dựa trên yếu tố trung thực nên nếu những lời biểu đạt sai sự thật của một bên làm cho bên kia hiểu nhầm về nội dung của hợp đồng thì người đưa ra biểu đạt sai sự thật vẫn phải chịu trách nhiệm về sự không trung thực đó.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

54 v1.0

Thực tế cho thấy, việc biểu đạt nội dung sai sự thật có thể được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Trong trường hợp biểu đạt sai sự thật do lỗi vô ý của một bên khiến cho bên kia bị nhầm lẫn thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó. Nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Nếu một bên cố ý biểu đạt sai sự thật để lừa dối bên kia khi giao kết hợp đồng thì bên bị lừa dối có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và được bồi thường thiệt hại nếu có.

Về nguyên tắc, trình bày sai sự thật phải được thể hiện ra bên ngoài bằng lời nói, hành vi hoặc chữ viết. Vì vậy, sự im lặng của một bên không bị coi là trình bày sai sự thật. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các bên có thể lợi dụng sự im lặng, không thông tin cho bên kia biết về những bất lợi hoặc khiếm khuyết của đối tượng hợp đồng nhằm trục lợi.

Ví dụ như trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên bán biết rõ hàng hóa có khuyết tật nhưng không thông báo cho bên mua biết. Sự im lặng của bên bán không rơi vào trường hợp trình bày sai sự thật nhưng có thể làm cho bên kia bị nhầm lẫn. Do vậy, nếu bên bị nhầm lẫn có yêu cầu thì tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Cưỡng ép, đe dọa

Cưỡng ép, đe dọa là việc một bên hoặc người thứ ba sử dụng áp lực buộc bên kia phải giao kết hợp đồng. Bên bị cưỡng ép không có sự tự do lựa chọn và tự do bày tỏ ý chí của mình do đó yếu tố đồng thuận trong giao kết hợp đồng không được đảm bảo. Nếu bên bị cưỡng ép có yêu cầu, tòa án có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Liên quan đến cưỡng ép, đe dọa khi giao kết hợp đồng, Điều 132 Bộ luật Dân sự 2005 thừa nhận đây là trường hợp vô hiệu tương đối và hành vi cưỡng ép, đe dọa có thể xảy ra đối với tính mạng, sức khỏe của con người hoặc nhằm vào tài sản. Hơn nữa, việc cưỡng ép, đe dọa được pháp luật thừa nhận không chỉ xảy ra đối với bản thân người giao kết hợp đồng mà còn có thể xảy ra với cha, mẹ, vợ, chồng, con của người đó.

Trong thực tế, hành động cưỡng ép, đe dọa có thể được thực hiện bằng nhiều

Ví dụ A muốn bán xe ô tô cho B và đã nói rằng tất cả phụ tùng của xe đều là nguyên gốc, chưa bị thay thế bằng phụ tùng mới. Tin điều này, B đã đồng ý ký hợp đồng mua xe ô tô của A. Sau khi sử dụng, B phát hiện ra, rất nhiều phụ tùng đã bị thay thế khiến cho chất lượng của xe giảm sút rất nhiều. B khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Trong trường hợp này B sẽ thắng kiện bởi vì A đã biểu đạt sai sự thật về tình trạng chiếc xe của mình. Yếu tố đồng thuận trên cơ sở tự nguyện và trung thực khi giao kết hợp đồng không được bảo đảm nên hợp đồng bị coi là vô hiệu. A có lỗi nên phải bồi thường thiệt hại nếu có.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 55

hình thức như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng địa vị của mình để gây ảnh hưởng với người khác.

Nhầm lẫn:

Nhầm lẫn là một khái niệm pháp lý để chỉ việc một bên hoặc tất cả các bên trong hợp đồng nhận thức không đúng về các yếu tố thỏa thuận hình thành nên hợp đồng. Đây là trường hợp nhầm lẫn xuất phát từ chính nhận thức của người tham gia giao kết hợp đồng chứ không phải nhầm lẫn do lỗi của bên kia gây ra. Đó là sự khác biệt giữa “nhầm lẫn” và “trình bày sai sự thật”.

Khoa học pháp lý phân biệt ba loại “nhầm lẫn” liên quan đến giao kết hợp đồng là:

o Nhầm lẫn chung giữa các bên.

Đây là trường hợp các bên cùng hiểu sai giống nhau về đối tượng của hợp đồng hoặc về các yếu tố thực tế hình thành nên hợp đồng.

Nhầm lẫn chung giữa các bên có thể tồn tại một cách vô ý hoặc cố ý nhưng trong cả hai trường hợp hợp đồng được giao kết đều không thể hiện được mong muốn thực sự của các bên. Sự mong muốn của các bên không đạt được là do có nhầm lẫn giữa thực tế tồn tại và nhận thức chủ quan. Do đó, hợp đồng có thể bị vô hiệu.

Tuy nhiên, hợp đồng giao kết trong trường hợp này không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ vô hiệu nếu có yêu cầu của một bên. Điều đó có nghĩa là nếu các bên đã phát hiện ra sự nhầm lẫn nhưng không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng vẫn có giá trị ràng buộc thi hành.

BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 QUY ĐỊNH: Các bên có thể nhầm lẫn một cách vô ý về sự tồn tại của đối tượng hợp đồng. Trong thực tế, đối tượng hợp đồng không tồn tại khi hợp đồng được giao kết nhưng các bên đều không nhận thức được điều này. Khi đó, hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu “Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện

được vì lý do khách quan thì hợp đồng này vô hiệu”. (Khoản 1 Điều 411).

Ngoài ra, sự nhầm lẫn chung giữa các bên cũng có thể do các bên cố ý tạo ra. Chẳng hạn như các bên ký một hợp đồng giả tạo để che dấu một hợp đồng khác. Trường hợp này thường xảy ra với các hợp đồng mua bán nhà ở hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Giá trị mua bán của hợp đồng có khi rất cao nhưng để trốn thuế các bên ghi giá trị hợp đồng khi công chứng với mức thấp hơn rất nhiều. Như vậy, giữa các bên tồn tại hai hợp đồng, một hợp đồng ghi giá trị thực theo thỏa thuận và một hợp đồng ghi giá trị nhầm lẫn (nhầm lẫn cố ý theo thỏa

Ví dụ A ký hợp đồng mua chiếc đồng hồ do B đang sở hữu. Cả A và B đều cho rằng chiếc đồng hồ này được sản xuất ở Thụy Sĩ vào thế kỷ 18. Sau khi giao dịch mua bán đã được thực hiện, A phát hiện ra rằng chiếc đồng hồ này được sản xuất vào giữa thế kỷ 19. Trong trường hợp này, cả A và B đều có chung nhầm lẫn về niên đại của chiếc đồng hồ.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

56 v1.0

thuận của các bên). Nếu trường hợp này xảy ra thì hợp đồng giả tạo sẽ mặc nhiên vô hiệu do có yếu tố giả tạo còn hợp đồng bị che dấu vẫn có hiệu lực trừ trường hợp

hợp đồng bị che dấu cũng vô hiệu theo quy định của pháp luật (Điều 129).

o Các bên cùng nhầm lẫn.

Đây là trường hợp các bên trong hợp đồng cùng hiểu sai về các yếu tố thỏa

thuận tạo nên hợp đồng. Tuy nhiên, khác với nhầm lẫn chung là trường hợp các bên

có sự hiểu sai giống nhau, ở đây các bên có sự hiểu sai nhưng không giống nhau.

o Nhầm lẫn một bên.

Đây là trường hợp chỉ có một bên có nhận thức không đúng về thực tế còn bên kia biết hoặc phải biết về nhầm lẫn đó của đối tác nhưng vẫn giao kết hợp đồng. Về nguyên tắc, một bên bị nhầm lẫn thì có nghĩa là bên đó không có sự bày tỏ ý chí đúng với mong muốn của họ khi giao kết hợp đồng. Do đó, hợp

đồng sẽ bị coi là vô hiệu nếu người nhầm lẫn có yêu cầu.

Nguyên tắc này đã được Bộ luật Dân sự 1995 quy định tại Điều 144, theo đó bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng; nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là nguyên tắc này đã không được quy định tại Bộ luật Dân sự 2005. Khi sửa đổi luật, có lẽ nhà làm luật Việt Nam đã đồng nhất giữa nhầm lẫn do nhận thức của chính chủ thể tham gia hợp đồng với nhầm lẫn là hệ quả của sự biểu đạt sai lệch của đối

tác (trường hợp trình bày sai sự thật).

Chính vì vậy, mặc dù Điều 141 của Bộ luật Dân sự 1995 đã được sửa đổi thành Điều 131 của Bộ luật Dân sự 2005 với cùng tiêu đề “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn”, nhưng nội dung của điều luật này theo Bộ luật Dân sự 2005 là bàn đến vô hiệu do trình bày sai sự thật chứ không phải do nhầm lẫn của một bên. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự sửa đổi đã loại bỏ đi một trường hợp hợp đồng vô hiệu rất quan trọng. Đây được xem là một quy định có tính chất thụt lùi của Bộ luật Dân sự sau khi được sửa đổi.

Ví dụ Doanh nghiệp A ký hợp đồng thuê doanh nghiệp B thiết kế và lắp đặt gian hàng tham gia hội trợ triển lãm. Trong thực tế, A tham gia triển lãm đồng thời ở hai địa điểm là triển lãm Giảng Võ và triển lãm Vân Hồ. Tại triển lãm Giảng Võ, Ban tổ chức cung cấp dịch vụ lắp đặt gian hàng cho tất cả các doanh nghiệp. Vì vậy, công ty A chỉ có ý định thuê công ty B thực hiện công việc tại triển lãm Vân Hồ và cho rằng công ty B biết điều này. Tuy nhiên, công ty B lại cho rằng công việc sẽ được thực hiện tại triền lãm Giảng Võ. Đây là sự nhầm lẫn của cả hai phía về công việc phải thực hiện theo hợp đồng. Về nguyên tắc, hợp đồng này được giao kết không có sự đồng thuận thực sự của hai bên nên sẽ bị coi là vô hiệu.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 57

3.3.2.2. Năng lực hành vi dân sự của chủ thể hợp đồng Chủ thể của hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng kinh doanh nói riêng là mọi cá nhân, tổ chức có năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, năng lực hành vi dân sự của cá nhân phát sinh từ khi cá nhân đủ 6 tuổi. Tuy nhiên, cá nhân chỉ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu đủ 18 tuổi và có khả năng nhận thức bình thường. Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có năng lực hành vi dân sự một phần (không đầy đủ). Ngoài ra, người đủ 18 tuổi trở lên có thể bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Như vậy, về mặt nguyên tắc những người từ đủ 6 tuổi trở lên đều có thể trở thành chủ thể của hợp đồng. Tuy nhiên, đối với hợp đồng kinh doanh, chủ thể của hợp đồng chủ yếu là những pháp nhân hoặc cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Hơn nữa, rất nhiều trong số những chủ thể này là thương nhân, hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại 2005.

Thực tế cho thấy, việc không đáp ứng điều kiện năng lực hành vi thường liên quan đến khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng hơn là liên quan đến yếu tố độ tuổi.

Pháp luật quy định nếu hợp đồng được giao kết bởi người chưa thành niên, người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng không mặc nhiên bị vô hiệu mà Tòa án phải dựa trên yêu cầu của người đại diện cho người đã giao kết hợp đồng để xem xét tuyên bố hợp đồng vô hiệu (Điều 130 Bộ luật Dân sự 2005). Tương tự như vậy, nếu người giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự nhưng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình ở vào thời điểm giao kết thì hợp đồng có thể bị tòa án tuyên vô hiệu theo yêu cầu của người đó (Điều 133 Bộ luật Dân sự 2005).

CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT Ngày 19-9-2003, ông Đỗ Văn Tịch đến Phòng công chứng ký hợp đồng tặng một căn nhà cho bà Đỗ Thị Hồng Nga. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án cho rằng: “theo xác nhận của Trung tâm y tế quận 9 đề ngày 29-7-2005 thì ông Đỗ Văn Tịch có đến khám và điều trị ngoại trú tại phòng khám bệnh tâm thần quận 9 từ ngày 19-6-2000 đến ngày 03-9-2003 với chẩn đoán là bệnh rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu”; và theo xác nhận của Bệnh viện tâm thần thành phố Hồ Chí Minh đề ngày 28-7-2005 thì ông Đỗ Văn Tịch có khám và điều trị tại Khoa Khám bệnh 1, Bệnh viện tâm thần thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 04-9-2003 đến ngày 05-7-2005. Điều này thể hiện ông Tịch đã có một quá trình dài bị bệnh tâm thần phải điều trị liên tục từ năm 2000. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố ông Đỗ Văn Tịch mất năng lực hành vi dân sự, do đó mọi giao dịch dân sự do ông Tịch thực hiện đều vô hiệu. Như vậy, hợp đồng tặng cho nhà ở giữa ông Đỗ Văn Tịch và bà Đỗ Thị Hồng Nga lập ngày 19-9-2003 tại Phòng công chứng nhà nước số 1 thành phố Hồ Chí Minh là vô hiệu.

(Nguồn: Bản án số 941/2006/DS-ST ngày 01-9-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, trích lại từ sách Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, trang 149-150)

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

58 v1.0

Điều cần lưu ý là hợp đồng được xác lập trong trường hợp ủy quyền nhưng một bên không có thẩm quyền giao kết hoặc giao kết vượt quá phạm vi ủy quyền thì hợp đồng đó vẫn có hiệu lực ràng buộc giữa các bên đã tham gia giao kết. Lý do là vì, điều kiện để hợp đồng có hiệu lực chỉ phụ thuộc vào năng lực hành vi dân sự của chủ thể giao kết và chủ thể hợp đồng. Nếu tất cả các bên đều có năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng vẫn có hiệu lực ràng buộc các bên. Hợp đồng này chỉ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện mà thôi. (Hệ quả của những hợp đồng trong trường hợp này được phân tích ở phần 3.1.2).

3.3.2.3. Tính hợp pháp và hợp đạo đức của hợp đồng Mục đích và nội dung của hợp đồng không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không được trái đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người và người trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Nếu hợp đồng không thỏa mãn điều kiện này thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu.

CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT

Bản án số 42/2006/DSST ngày 21-9-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nhận định như sau: “Căn cứ vào giấy vay tiền (bản phô tô) do bà Tính xuất trình có nội dung: Giấy vay tiền. Tôi tên Tuyết con của bố Bằng có vay của cô Tính ba nghìn đô la Mỹ, số chứng minh thư 010260616, tôi ở 69 Lò Sũ. Vay từ 17 tháng 4 ta năm 2005, vay trong năm rưỡi. Tính từ ngày 18 tháng 4 trở đi. Theo bà Tính thì bản gốc của giấy vay tiền chị Tuyết đã xé đi nên chỉ còn bản phô tô và chị Tuyết cũng thừa nhận giấy vay tiền đó là do chị viết và ký, nên có đủ cơ sở khẳng định chị Tuyết đã vay của bà Tính 3000 USD. Nhưng theo quy định của Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối” nên giao dịch trên giữa bà Tính và chị Tuyết đã vi phạm điều cấm của pháp luật, nên giao dịch đó là vô hiệu”.

(Nguồn: trích từ sách Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, trang 312-313).

3.3.2.4. Hình thức của hợp đồng Về nguyên tắc, hợp đồng có thể tồn tại dưới dạng hợp đồng miệng, hợp đồng văn bản hoặc hợp đồng bằng hành vi cụ thể. Các bên căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của mình mà lựa chọn hình thức cho phù hợp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật có ấn định một hình thức bắt buộc cho từng loại hợp đồng thì các bên phải triệt để tuân thủ quy định đó. Nếu vi phạm về hình thức của hợp đồng sẽ dẫn đến khả năng làm cho hợp đồng bị vô hiệu.

Một số loại hợp đồng có hình thức bắt buộc phải tuân theo quy định của pháp luật như:

Hợp đồng phải bằng văn bản: hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thuê nhà ở…

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 59

Hợp đồng phải bằng văn bản và có công chứng hoặc chứng thực: hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê nhà ở từ 6 tháng trở lên…

Hợp đồng vi phạm về hình thức không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ bị coi là chưa có giá trị pháp lý và không được công nhận trên thực tế. Tòa án cho phép các bên được sửa đổi hình thức của hợp đồng cho phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu bên nào có trách nhiệm nhưng không tiến hành sửa đổi hình thức hợp đồng thì bên đó bị coi là có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu nên phải bồi thường thiệt hại phát sinh.

3.3.3. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng Hợp đồng có hiệu lực sẽ ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên, tức là có tính bắt buộc thực hiện trên thực tế. Tính bắt buộc thực hiện của hợp đồng có thể phát sinh từ thời điểm giao kết hoặc từ thời điểm một bên thực hiện lời cam kết đã thỏa thuận. Thông thường, hợp đồng có đối ứng phát sinh hiệu lực kể từ khi giao kết. Tuy nhiên, thời điểm này có thể thay đổi theo thỏa thuận của các bên, theo đó có thể chỉ phát sinh hiệu lực kể từ khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng. Hợp đồng không có đối ứng có hiệu lực kể từ khi lời cam kết do một bên đưa ra được thực hiện trên thực tế.

Thời điểm giao kết hợp đồng

Hợp đồng chỉ được coi là hình thành khi có đủ hai yếu tố cấu thành là có đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Vậy thời điểm giao kết hợp đồng chính là thời điểm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được xác nhận trên thực tế, cụ thể như sau:

o Đối với hợp đồng bằng lời nói thì thời điểm giao kết là khi các bên đã thỏa thuận được nội dung chủ yếu của hợp đồng.

o Đối với hợp đồng bằng văn bản được ký xác nhận bởi các bên thì thời điểm giao kết là khi bên sau cùng ký vào văn bản hợp đồng.

o Đối với hợp đồng bằng văn bản dưới dạng tài liệu giao dịch thì thời điểm giao kết hợp đồng là khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận đề nghị giao kết.

o Trong trường hợp các bên thỏa thuận im lặng là sự đồng ý thì thời điểm giao kết hợp đồng là khi hết thời hạn trả lời được đưa ra trong đề nghị giao kết hợp đồng.

Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không có đối ứng

Hợp đồng không có đối ứng chỉ phát sinh hiệu lực kể từ khi lời cam kết do một bên đưa ra được thực hiện trên thực tế. Như vậy, bên đã cam kết không có nghĩa vụ phải thực hiện cam kết của mình cho đến tận khi lời cam kết được thực hiện.

Nếu đối tượng của hợp đồng là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm lời cam kết được thực hiện là khi quyền sở hữu tài sản được cấp giấy chứng nhận đăng ký. Điều này là vì hợp đồng không có đối ứng được xác lập chủ yếu dựa trên tính tự nguyện của một bên. Nói một cách đơn giản, đây là thỏa thuận theo đó một bên cam kết “cho không” bên kia một lợi ích nhất định mà không đòi hỏi phải

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

60 v1.0

được trả lại bằng một lợi ích đối ứng. Chính vì vậy, không thể yêu cầu bên cam kết thực hiện nghĩa vụ của họ mà việc thực hiện là hoàn toàn tự nguyện.

Tuy nhiên, khi lời cam kết đã thực hiện trên thực tế thì hợp đồng phát sinh và từ thời điểm đó những nghĩa vụ của người cam kết đối với bên kia sẽ có tính bắt buộc phải thực hiện. Chẳng hạn như, hợp đồng cho vay có kỳ hạn nhưng không có lãi là hợp đồng không có đền bù. Đối với hợp đồng này, bên cho vay không có nghĩa vụ phải đảm bảo chắc chắn cho bên kia vay ngay cả khi hợp đồng đã được ký kết. Lý do là vì hợp đồng này chỉ có hiệu lực kể từ khi bên cho vay đã giao cho bên kia khoản tiền vay theo thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu việc cho vay đã xảy ra thì khi đó hợp đồng phát sinh hiệu lực. Kết quả là bên cho vay phải thực hiện nghĩa vụ theo đúng thỏa thuận về thời hạn vay. Theo đó, bên cho vay không thể đòi lại tài sản trước kỳ hạn, trừ khi được bên vay đồng ý.

CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT

Tại Quyết định số 37/2007/DS-GĐT của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhận định về hợp đồng mua bán nhà giữa ông Nguyễn Văn Long và cụ Nguyễn Thị Lê như sau:

“Hợp đồng tặng cho nhà, đất giữa cụ Lê và ông Nguyễn Văn Long đã được công chứng, nhưng đến ngày 16/10/2002, ông Nguyễn Văn Long mới có đơn đề nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi UBND thị trấn Gò Dầu và UBND thị trấn Gò Dầu xác nhận “Đủ điều kiện”. Tuy nhiên, việc ông Nguyễn Văn Long có đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên được tiến hành sau khi cụ Lê đã có đơn khởi kiện vào ngày 04/9/2002 xin hủy hợp đồng tặng cho nhà đất và đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Long mới được thị trấn xác nhận (chưa phải là UBND cấp huyện theo quy định của pháp luật). Như vậy, hợp đồng tặng cho nhà đất giữa cụ Lê và ông Nguyễn Văn Long chưa có hiệu lực do ông Nguyễn Văn Long chưa đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thì cụ Lê đã thay đổi ý chí không cho ông Nguyễn Văn Long nữa”.

(Nguồn: trích từ sách Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, trang 478).

3.4. Nội dung của hợp đồng

3.4.1. Yếu tố cấu thành nội dung của hợp đồng Trong quá trình đàm phán để giao kết hợp đồng, các bên có thể đưa ra nhiều lời biểu đạt khác nhau nhằm giải thích các vấn đề thực tế hoặc thuyết phục nhằm tạo lòng tin cho đối tác.

Những biểu đạt đó có thể được ghi vào hợp đồng để trở thành điều khoản của hợp đồng. Các điều khoản đó tạo thành nội dung của hợp đồng. Nếu điều khoản của hợp đồng không được các bên tuân thủ, tức là nội dung của hợp đồng bị vi phạm thì bên vi phạm sẽ phải gánh chịu những chế tài theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 61

Tuy nhiên, có rất nhiều lời đàm phán không được các bên ghi vào hợp đồng mà chỉ tồn tại dưới dạng những biểu đạt đơn thuần. Trong trường hợp những lời biểu đạt khi đàm phán không được ghi vào hợp đồng nhưng có sự sai lệch so với thực tế thì sẽ bị coi là “trình bày sai sự thật” và có thể làm cho hợp đồng bị vô hiệu (xem phần 3.3.2).

Thông thường nội dung của hợp đồng được hình thành dựa trên sự đàm phán của các bên. Tuy nhiên, có những trường hợp chỉ một bên xây dựng điều khoản của hợp đồng và nếu bên kia chấp nhận những điều khoản đó thì gia nhập hợp đồng mà không có sự đàm phán như thông thường. Trong trường hợp này, mặc dù không có đàm phán nhưng giữa các bên vẫn có sự đồng thuận về nội dung của hợp đồng, do vậy hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp luật. Những hợp đồng như vậy gọi là hợp đồng theo mẫu.

Đối với những hợp đồng theo mẫu, bên đưa ra điều khoản sẽ phải gánh chịu những bất lợi khi giải thích những điều khoản không rõ ràng hoặc điều khoản theo mẫu có thể sẽ không có hiệu lực nếu chứa đựng nội dung miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ lợi ích chính đáng của bên gia nhập hợp đồng.

3.4.2. Các loại điều khoản của hợp đồng Điều khoản bắt buộc

Điều khoản bắt buộc là những điều khoản căn bản, nhất thiết phải có trong hợp đồng. Nếu thiếu những điều khoản này hợp đồng không được hình thành. Chính vì lý do này nên điều khoản bắt buộc còn được gọi là điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Chẳng hạn như, Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải có những điều khoản sau thì mới được coi là hình thành:

o Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng;

o Đối tượng bảo hiểm;

o Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản;

o Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm;

o Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;

o Thời hạn bảo hiểm;

Ví dụ Chẳng hạn đối với hợp đồng bảo hiểm thương mại, doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng trước các điều khoản của hợp đồng. Những điều khoản này được quy định trong các điều lệ bảo hiểm của từng doanh nghiệp, như điều lệ bảo hiểm nhân thọ, điều lệ bảo hiểm tài sản, điều lệ bảo hiểm cháy nổ… Những cá nhân, tổ chức có nhu cầu giao kết hợp đồng bảo hiểm sẽ nghiên cứu các điều lệ này và nếu chấp nhận thì thực hiện giao kết hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm có thể tồn tại dưới hình thức giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm cấp. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm chính là những điều khoản theo mẫu được quy định trong các điều lệ bảo hiểm.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

62 v1.0

o Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;

o Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường;

o Các quy định giải quyết tranh chấp;

o Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.

Việc xác định những điều khoản nào là bắt buộc phải có trong hợp đồng phụ thuộc vào quy định của pháp luật và không phải hợp đồng nào cũng đòi hỏi phải có loại điều khoản này. Hiện nay, pháp luật không có quy định chung về những điều khoản bắt buộc đối với tất cả các loại hợp đồng mà tùy từng trường hợp cụ thể những quy định này mới tồn tại.

Nếu thỏa thuận giữa các bên không bao gồm những điều khoản bắt buộc thì thỏa thuận đó không được coi là hợp đồng. Khi đó, các bên sẽ phải hoàn trả cho nhau những gì đã được thực hiện trước đó. Như vậy, hậu quả của thỏa thuận thiếu điều khoản bắt buộc tương đối giống với hợp đồng vô hiệu.

Tuy nhiên, giữa hai trường hợp này có sự khác biệt về bản chất. Đối với hợp đồng vô hiệu, thỏa thuận của các bên đã tạo thành hợp đồng nhưng hợp đồng đó không có giá trị ràng buộc các bên. Đối với hợp đồng vô hiệu tương đối thì nếu không có yêu cầu của một bên và không có sự thừa nhận của tòa án thì hợp đồng, mặc dù có yếu tố vô hiệu, vẫn có hiệu lực ràng buộc các bên. Đối với trường hợp thỏa thuận thiếu điều khoản bắt buộc thì hoàn toàn không hình thành hợp đồng, tức là không có bất cứ yếu tố nào ràng buộc các bên.

Điều khoản tùy nghi

Điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản được đưa vào hợp đồng căn cứ vào khả năng, nhu cầu và sự thoả thuận của các bên.

Đây là những điều khoản mà sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể hợp đồng. Các bên thấy cần thiết thì sẽ đưa vào hợp đồng để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của nhau.

Điều khoản tùy nghi tồn tại phụ thuộc vào ý chí của các bên nhưng nội dung của điều khoản không được vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Nếu vi phạm điều này hợp đồng sẽ bị vô hiệu.

Điều khoản thường lệ

Điều khoản thường lệ là những điều khoản mà nội dung của nó được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, các tập quán thương mại hoặc thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên.

Nếu như điều khoản bắt buộc tồn tại hiện hữu

trong hợp đồng và rất dễ nhận biết thì điều

khoản thường lệ là những điều khoản ẩn, không

được thể hiện trong hợp đồng nhưng vẫn là một

bộ phận cấu thành hợp đồng. Đó là vì điều khoản thường lệ là những “lệ thường”,

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 63

“lẽ thường” đã được thừa nhận bởi pháp luật và bởi chính các bên tham gia hợp

đồng. Những ”lệ thường” này là các quy định mặc nhiên được thừa nhận nên có

giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Nếu các bên không muốn sử dụng những

lệ thường đó cho quan hệ hợp đồng của mình thì phải có thỏa thuận khác và phải

ghi vào hợp đồng. Khi đó những thỏa thuận khác trở thành điều khoản tùy nghi

của hợp đồng.

Những “lệ thường” tạo thành nội dung của hợp đồng tồn tại trong các quy định của

pháp luật, trong các tập quán thương mại hoặc trong thói quen đã được hình thành

giữa các bên.

o “Lệ thường” theo quy định của pháp luật.

Pháp luật thường quy định quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia hợp

đồng hoặc đưa ra những quy định cho từng loại hợp đồng cụ thể. Những quy

định đó trở thành điều khoản thường lệ của hợp đồng nếu các bên không có

thỏa thuận khác.

Như vậy, điều khoản thường lệ có vai trò là quy định dự phòng cuối cùng giúp

các bên xác định quyền và nghĩa vụ của mình trong trường hợp vô tình hoặc cố

ý không thỏa thuận về một nội dung nhất định. Chẳng hạn như, liên quan đến

việc thực hiện hợp đồng, pháp luật quy định những “lệ thường” như sau:

Về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng: Đối với hợp đồng song vụ, các bên phải

đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau. Nếu không thể thực hiện đồng

thời thì nghĩa vụ nào thực hiện mất nhiều thời gian hơn phải được thực hiện

trước (Điều 414 Bộ luật Dân sự 2005).

Về hoãn thực hiện nghĩa vụ: Bên thực hiện nghĩa vụ sau có quyền hoãn

thực hiện nghĩa vụ đến hạn nếu bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực

hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Ngược lại, bên thực hiện nghĩa vụ

trước cũng có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ nếu tài sản của bên kia bị

giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã

cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có

người bảo lãnh (Điều 415 Bộ luật Dân sự 2005).

Ngoài ra, trong từng hợp đồng cụ thể, pháp luật cũng có quy định về các lệ

thường như trong hợp đồng mua bán hàng hóa, phương thức giao tài sản theo

lệ thường là bên bán phải giao trực tiếp cho bên mua và giao một lần toàn bộ

hàng hóa. Đối với hợp đồng ủy quyền thì thời hạn ủy quyền là một năm nếu

các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.

o “Lệ thường” theo thói quen đã hình thành giữa các bên hoặc theo tập quán

thương mại

Pháp luật thừa nhận cho các bên được áp dụng thói quen trong hoạt động

thương mại đã được thiết lập giữa họ nếu các bên đã biết hoặc phải biết nhưng

không được trái với quy định của pháp luật. Trường hợp không có thói quen đã

được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được

trái với quy định của pháp luật.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

64 v1.0

CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT

Quyết định số 93/GĐT-DS ngày 27-5-2002 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

có nhận định về việc bà Chiêm Thị Mỹ Loan yêu cầu đòi lại địa điểm khai thác

đánh bắt hải sản từ ông La Văn Thanh ở huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Bà Loan cho rằng địa điểm ông Thanh đang khai thác thuộc quyền sở hữu của bà vì

bà là người đã làm cây chà đặt tại địa điểm khai thác đang có tranh chấp. Tuy nhiên,

tòa án cho rằng đây là vùng biển xa bờ và pháp luật chưa quy định về quyền ưu tiên

khai thác nên quyền ưu tiên phải xác định theo tập quán. Theo xác minh của chính

quyền địa phương và cơ quan chuyên môn (Ban Hải sản thị trấn Long Hải) thì tài

công là người có quyền chọn và cho người khác điểm đánh bắt; địa điểm đã bị bỏ

hơn ba tháng không khai thác thì có quyền khai thác. Như vậy, việc ông Thanh sử

dụng điểm đánh bắt hải sản hiện nay (địa điểm tranh chấp) là phù hợp với tập quán,

không trái pháp luật, không vi phạm quyền lợi hợp pháp của bà Loan.

(Nguồn: Bản án 93/GĐT-DS ngày 27-5-2002 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối

cao, trích lại sách Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Đỗ Văn

Đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, trang 44-45).

Nếu các bên không muốn áp dụng “lệ thường” thì phải có thỏa thuận dưới dạng điều khoản tùy nghi.

3.5. Chế tài do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh Vi phạm hợp đồng là hành vi có lỗi của một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều khoản của hợp đồng. Chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng có thể phải chịu các hình thức chế tài như buộc phải thực hiện đúng hợp đồng, chịu phạt hợp đồng, buộc bồi thường thiệt hại phát sinh, buộc phải chấp nhận tạm ngừng hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc chấp nhận hủy hợp đồng.

CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT

Ngày 29-3-2003, công ty Khang Hưng và công ty Pargan ký kết một hợp đồng theo đó

công ty Khang Hưng mua của công ty Pargan 500 tấn hạt điều thô với giá 720USD/tấn.

Ngày 27-11-2003, bên bán đề nghị bên mua ký một phụ lục hợp đồng theo đó giá tăng lên

là 750USD/tấn. Yêu cầu này không được bên mua chấp nhận. Ngày 02-12-2003, bên mua

gửi thông báo yêu cầu bên bán giao hàng đợt một 200 tấn và đề nghị sau khi giao hàng đợt

một sẽ gặp nhau để thỏa thuận. Tuy nhiên, sau đó bên bán đã không giao hàng theo thỏa

thuận. Khi có tranh chấp, bên mua yêu cầu tòa án buộc bên bán trả tiền phạt vi phạm.

Yêu cầu của bên mua được chấp nhận bởi vì Tòa án cho rằng “theo sự xác nhận của các

bên đương sự trong quá trình thụ lý hồ sơ cũng như tại phiên tòa hôm nay, đến hạn giao

hàng bên bán đã từ chối giao hàng cho công ty Khang Hưng vì lý do bên mua không chấp

nhận đề nghị tăng giá của bên bán. Như vậy, đã có đủ cơ sở để xác minh bên bán là công ty

Pargan đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng và phụ lục hợp đồng

đã ký giữa hai bên”.

(Nguồn: Bản án số 113/KTST ngày 20-4-2004 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,

trích lại từ sách Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Đỗ Văn Đại, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, trang 544-545).

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 65

3.5.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng

Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện

đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi

phạm phải chịu chi phí phát sinh.

Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một hình thức chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đã được áp dụng nhưng bên vi phạm vẫn không có hành vi sửa chữa thì có thể tiếp tục áp dụng các chế tài khác như hủy hợp đồng, đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc buộc bồi thường thiệt hại.

Chẳng hạn như theo quy định tại Điều 550 Bộ luật Dân sự 2005 về hợp đồng gia công thì nếu sản phẩm được gia công không đảm bảo chất lượng thì bên đặt gia công có quyền yêu cầu bên nhận gia công sửa chữa theo đúng thỏa thuận. Nếu hết thời hạn sửa chữa mà bên nhận gia công không thực hiện thì bên đặt gia công có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Điều cần lưu ý là nếu hành vi vi phạm hợp đồng gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm thì đồng thời với việc phải thực hiện đúng hợp đồng, bên vi phạm vẫn phải bồi thường thiệt hại đã phát sinh cho bên bị vi phạm. Hơn nữa, nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì khi có vi phạm phát sinh, chế tài phạt sẽ được áp dụng ngay cả khi bên vi phạm đã có những biện pháp sửa chữa để thực hiện đúng hợp đồng.

3.5.2. Phạt hợp đồng Phạt hợp đồng là việc bên vi phạm trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền do đã có hành vi vi phạm. Phạt hợp đồng chỉ được áp dụng nếu trong hợp đồng đã có thỏa thuận về vấn đề này.

Chế tài phạt hợp đồng được quy định nhằm mục đích răn đe, để buộc các chủ thể phải triệt để tuân thủ nghĩa vụ theo hợp đồng. Chính vì mục đích này nên chế tài phạt hợp đồng không thể được áp dụng trong mọi trường hợp mà chỉ được áp dụng nếu trong hợp đồng đã có thoả thuận trước về chế tài này.

Đối với hợp đồng kinh doanh, mức phạt do các bên tự thoả thuận nhưng không được vượt quá 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận mức phạt cao hơn 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt quá đó

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

66 v1.0

bị coi là vi phạm điều cấm của pháp luật nên vô hiệu. Đây là trường hợp hợp đồng bị vô hiệu một phần, do đó chỉ phần có hiệu lực pháp luật mới được thừa nhận. Chính vì vậy, các bên sẽ chỉ được phạt với mức 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm ngay cả khi trong hợp đồng có ghi nhận mức phạt cao hơn.

Điểm cần lưu ý là mức phạt 8% được xác định dựa trên phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm chứ không phải toàn bộ giá trị hợp đồng.

3.5.3. Bồi thường thiệt hại Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.

Bồi thường thiệt hại là chế tài có mục đích nhằm bù đắp những tổn thất đã phát sinh trong thực tế. Chính vì vậy, chế tài này chỉ được áp dụng nếu thỏa mãn những điều kiện sau:

Có hành vi vi phạm hợp đồng;

Có lỗi của bên vi phạm;

Có thiệt hại thực tế phát sinh và thiệt hại đó là hậu quả trực tiếp của hành vi vi phạm hợp đồng.

Như vậy, chế tài bồi thường thiệt hại không nhất thiết phải được thoả thuận trong hợp đồng mà được áp dụng trong mọi trường hợp có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Ngược lại, phạt vi phạm chỉ được áp dụng nếu các bên đã có thoả thuận trước trong hợp đồng. Sự khác biệt này xuất phát từ mục đích của mỗi hình thức chế tài, theo đó chế tài phạt là nhằm răn đe còn chế tài bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp những tổn thất đã phát sinh trên thực tế.

3.5.4. Tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng

Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng.

Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm bị đình chỉ.

Hủy bỏ hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết.

Ví dụ Công ty X ký hợp đồng mua 100 tấn gạo của công ty Y. Giá mỗi tấn gạo theo thỏa thuận là 15 triệu đồng. Như vậy tổng giá trị hợp đồng là 1,5 tỷ đồng. Hai bên thỏa thuận mức phạt hợp đồng nếu một bên có hành vi vi phạm là 8% giá trị hợp đồng (120 triệu). Khi thực hiện hợp đồng, Y đã giao cho X 80 tấn gạo và còn thiếu 20 tấn. Y đã vi phạm điều khoản hợp đồng về giao hàng đúng thời hạn. Trong trường hợp này X không thể yêu cầu Y nộp tiền phạt 120 triệu mà chỉ được yêu cầu nộp 8% giá trị của 20 tấn, tức là 8% x 20 x 15 triệu = 24 triệu đồng.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 67

Như vậy, sự khác nhau cơ bản giữa đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng là ở thời điểm hợp đồng bị mất hiệu lực. Trong trường hợp đình chỉ thực hiện hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng bị triệt tiêu kể từ khi một bên nhận được thông báo đình chỉ. Ngược lại, hủy bỏ hợp đồng làm triệt tiêu hiệu lực của hợp đồng kể từ khi giao kết. Điều đó dẫn đến hệ quả là những nghĩa vụ đã được thực hiện trong hợp đồng trước khi bị đình chỉ vẫn có giá trị. Tuy nhiên, trong trường hợp hủy bỏ hợp đồng, các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Nếu các bên không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì có thể hoàn trả bằng tiền.

Như vậy, hợp đồng bị hủy bỏ và hợp đồng vô hiệu có hậu quả pháp lý giống nhau. Sự khác nhau căn bản của hai hình thức này là nguyên nhân dẫn đến hợp đồng vô hiệu và hợp đồng bị hủy bỏ. Hợp đồng vô hiệu là do các bên “vi phạm giao kết hợp đồng” còn nguyên nhân dẫn đến hủy bỏ hợp đồng là do các bên “vi phạm hợp đồng”.

NGHIÊN CỨU TÍNH HỢP LÝ CỦA ĐIỀU 573 BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VỀ NGHĨA VỤ THÔNG TIN CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM

Khoản 2 điều luật này quy định như sau: “Trong trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai nhằm giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và có quyền thu phí bảo hiểm đến hết thời điểm chấm dứt hợp đồng”. Như vậy, điều luật này cho phép áp dụng chế tài đình chỉ hợp đồng nếu một bên không cung cấp thông tin trung thực khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Quy định này không hợp lý bởi vì về nguyên tắc những “vi phạm khi giao kết hợp đồng” thì sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu. Chế tài đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng chỉ được áp dụng đối với “vi phạm hợp đồng” xảy ra trong quá trình hợp đồng được thực hiện. Vì vậy, trong trường hợp này, quy định hợp lý phải là hợp đồng bảo hiểm sẽ bị vô hiệu và bên mua bảo hiểm có lỗi nên phải bồi thường thiệt hại cho bên bảo hiểm, nếu có thiệt hại thực tế phát sinh.

Theo quy định của Điều 425 Bộ luật Dân sự 2005 và các Điều 308, 310 và 312 của Luật Thương mại 2005 thì các chế tài tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng có thể được áp dụng trong ba trường hợp sau:

Có hành vi vi phạm hợp đồng và vi phạm hợp đồng là điều kiện tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận.

Có hành vi vi phạm hợp đồng và vi phạm đó là điều kiện tạm ngừng, định chỉ, hủy bỏ hợp đồng do pháp luật có quy định. Dưới đây là một số ví dụ về việc hợp đồng có thể bị hủy theo quy định của pháp luật:

o Trong hợp đồng song vụ, khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia thì có quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 417 Bộ luật Dân sự 2005).

o Trong trường hợp bên bán không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin cần thiết cho bên mua mặc dù đã có yêu cầu của bên mua thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng (Điều 442 Bộ luật Dân sự 2005).

o Hợp đồng mua bán tài sản có thể bị hủy bỏ nếu tài sản được giao không đúng số lượng, chủng loại hoặc không đồng bộ (các Điều 435, 436 và 437 Bộ luật Dân sự 2005).

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

68 v1.0

o Trong hợp đồng gia công, sản phẩm gia công không đảm bảo chất lượng và bên đặt gia công yêu cầu bên nhận gia công sửa chữa nhưng điều này không được thực hiện trong thời hạn đã thỏa thuận thì bên đặt gia công có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Ngoài ra, tùy từng loại hợp đồng mà pháp luật có những quy định về hủy bỏ hợp đồng. Điều này đòi hỏi các bên phải có sự nghiên cứu kỹ về các quy định của pháp luật khi tham gia vào quan hệ hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể.

Có sự vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng. Vi phạm cơ bản được hiểu là hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.

CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT

Ngày 15-9-2000, công ty Thái Hải ký với công ty Thanh Nhàn một hợp đồng mua bán 144 xe máy Trung Quốc nhãn hiệu Lifan-Honda. Ngày 18-9-2000, công ty Thanh Nhàn đã giao cho công ty Thái Hải 72 chiếc xe máy Trung Quốc nhãn hiệu máy Sino-Honda. Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao nhận thấy công ty Thanh Nhàn đã cung cấp cho công ty Thái Hải loại xe không đúng với hợp đồng đã ký mặc dù công ty Thanh Nhàn cho rằng việc ghi nhãn hiệu xe trong hợp đồng là do sơ suất, nhầm lẫn. Tuy nhiên, tòa án không chấp nhận lý do này và đã quyết định buộc công ty Thanh Nhàn phải nhận lại 72 chiếc xe máy đã giao cho công ty Thái Hải và công ty Thái Hải có trách nhiệm hoàn trả lại 352.638.000 đồng cho công ty Thanh Nhàn.

(Nguồn: Bản án số 01/PTKT ngày 07-01-2002 của Tòa Phúc thẩm, Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội).

Như vậy, trong trường hợp này Tòa án đã áp dụng chế tài hủy hợp đồng do công ty Thanh Nhàn đã có hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 69

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

Hợp đồng là một trong những công cụ hữu hiệu để thực hiện các hoạt động kinh doanh trong thực tế. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, mọi chủ thể kinh doanh đều phải tham gia vào rất nhiều quan hệ hợp đồng, từ những hợp đồng đơn giản tồn tại dưới hình thức bằng lời nói đến những hợp đồng phức tạp có mức độ yêu cầu cao về mặt hình thức để đảm bảo tính an toàn về mặt pháp lý như hợp đồng bằng văn bản hoặc hợp đồng có công chứng, chứng thực. Phần 1 của bài này giúp các bạn có được khái niệm về hợp đồng và các loại hợp đồng dựa trên nhiều tiêu chí phân loại khác nhau.

Giao kết hợp đồng là một quá trình đòi hỏi các bên có sự cân nhắc và đàm phán kỹ lưỡng để đi đến một thỏa thuận chung. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau như sơ suất, thiếu kiến thức pháp lý hoặc thiếu kỹ năng đàm phán đã dẫn đến nhiều tình huống nằm ngoài mong đợi của các bên như hợp đồng vô hiệu, hoặc không có quan hệ hợp đồng được hình thành. Phần 2, 3 và 4 của bài này trình bày các vấn đề liên quan đến các yếu tố cấu thành hợp đồng, hiệu lực và nội dung của hợp đồng nhằm giúp các bạn biết cách xác lập quan hệ hợp đồng và tránh được các tình huống ngoài mong đợi như đã nói ở trên.

Nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng thì bị coi là vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu các biện pháp chế tài bao gồm buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt hợp đồng hoặc buộc bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, một bên cũng có quyền đơn phương tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng do bên kia có hành vi vi phạm. Phần 5 của bài trình bày các nội dung liên quan đến khái niệm và điều kiện áp dụng các biện pháp chế tài nói trên.

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

70 v1.0

CÂU HỎI CUỐI BÀI

1. Phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với đề nghị thương lượng và thông tin báo giá?

2. Trình bày các điều kiện có hiệu lực của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

3. So sánh hủy bỏ hợp đồng với đình chỉ thực hiện hợp đồng?

4. So sánh trường hợp hợp đồng bị hủy và hợp đồng vô hiệu?

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 71

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Trong trường hợp hợp đồng dân sự có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích hợp đồng dân sự đó được thực hiện theo:

A. Theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập hợp đồng

B. Theo nghĩa phù hợp với mục đích của hợp đồng

C. Theo tập quán nơi hợp đồng được xác lập

D. Cả A, B và C

2. Khi các bên xác lập hợp đồng dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng khác thì:

A. Hợp đồng giả tạo vô hiệu

B. Hợp đồng bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp hợp đồng đó cũng vô hiệu theo quy định của pháp luật

C. Trường hợp xác lập hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì hợp đồng đó vô hiệu

D. Cả A, B và C

3. Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng dân sự mà xác lập hợp đồng thì:

A. Bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng đó

B. Bên bị nhầm lẫn có quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu

C. Bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

D. Cả A và C

4. Khi một bên tham gia hợp đồng dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe doạ thì có quyền

A. Yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng đó

B. Yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

C. Tuyên bố hợp đồng vô hiệu

D. Cả A và C

5. Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền:

A. Yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng đó

B. Tuyên bố hợp đồng vô hiệu

C. Yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

D. Cả A và B

6. Hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần khi:

A. Hợp đồng vô hiệu

B. Một phần của hợp đồng vô hiệu

C. Một phần của hợp đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp đồng

D. Theo thoả thuận của các bên

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

72 v1.0

7. Thông thường, thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu là:

A. Hai năm, kể từ ngày hợp đồng dân sự được xác lập

B. Không bị hạn chế

C. Theo thoả thuận của các bên

D. Cả A và B

8. Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc

người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì:

A. Theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

B. Theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Toà án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu

C. Theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Toà án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu nếu

theo quy định của pháp luật hợp đồng này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện

D. Cả A, B và C

9. Trong trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự

sau khi trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì:

A. Việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng không có giá trị

B. Việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị

C. Hợp đồng vô hiệu

D. Cả B và C

10. Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau

khi bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì:

A. Đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị

B. Đề nghị giao kết hợp đồng không có giá trị

C. Hợp đồng vô hiệu

D. Cả B và C

11. Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự có thể là:

A. Địa điểm do các bên thoả thuận

B. Nơi cư trú của cá nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng

C. Trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng

D. Cả A, B và C

12. Việc thực hiện hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc nào sau đây:

A. Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn,

phương thức và các thoả thuận khác

B. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo

đảm tin cậy lẫn nhau

C. Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp

pháp của người khác

D. Cả A, B và C

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 73

13. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là:

A. Hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm

B. Không bị hạn chế

C. Theo thoả thuận của các bên

D. Cả A và B

14. Trong hợp đồng kinh doanh thương mại, mức phạt do vi phạm hợp đồng tối đa:

A. Do các bên tự thoả thuận

B. Là 8% giá trị của nghĩa vụ bị vi phạm trong hợp đồng

C. Là 8% giá trị toàn bộ nghĩa vụ trong hợp đồng

D. 10% giá trị toàn bộ nghĩa vụ trong hợp đồng

15. Sự vô hiệu của hợp đồng chính:

A. Làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính

B. Không làm chấm dứt các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

C. Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập

D. Cả A, B và C

16. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản mua bán:

A. Quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác

B. Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó

C. Trong trường hợp tài sản mua bán chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên bán

D. Cả A, B và C

17. Thời điểm chuyển rủi ro về tài sản:

A. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản mua bán cho đến khi tài sản được giao cho bên mua, còn bên mua chịu rủi ro đối với tài sản mua bán kể từ khi nhận tài sản

B. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản

C. Do các bên thoả thuận

D. Cả A, B và C

18. Khi mua bán tài sản, bên bán không chịu trách nhiệm về khuyết tật của vật trong các trường hợp sau đây:

A. Khuyết tật mà bên mua đã biết hoặc phải biết khi mua

B. Vật bán đấu giá, vật bán ở cửa hàng đồ cũ

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

74 v1.0

C. Bên mua có lỗi gây ra khuyết tật của vật

D. Cả A, B và C

19. Trong trường hợp mua bán quyền tài sản thì:

A. Bên bán phải chuyển giấy tờ và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua

B. Bên mua phải trả tiền cho bên bán

C. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với quyền tài sản là thời điểm bên mua nhận được giấy tờ xác nhận về quyền sở hữu đối với quyền về tài sản đó hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển quyền sở hữu

D. Cả A, B và C

20. Trong thời hạn bảo hành nếu bên mua phát hiện được khuyết tật của vật mua bán thì:

A. Có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa không phải trả tiền

B. Có quyền yêu cầu bên bán giảm giá

C. Có quyền yêu cầu bên bán đổi vật có khuyết tật lấy vật khác hoặc trả lại vật và lấy lại tiền

D. Cả A, B và C

21. Hợp đồng vận chuyển tài sản có thể là:

A. Lời nói hoặc bằng văn bản

B. Vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển tương đương khác là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng giữa các bên

C. Bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thoả thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển

D. Cả A và B

22. Nếu không có thoả thuận khác, Bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ

A. Giao tài sản cho bên vận chuyển đúng thời hạn, địa điểm và đóng gói theo đúng quy cách đã thoả thuận

B. Bảo đảm vận chuyển tài sản đầy đủ, an toàn đến địa điểm đã định, theo đúng thời hạn

C. Phải chịu chi phí xếp, dỡ tài sản lên phương tiện vận chuyển

D. Cả A và C

23. Bên nhận tài sản trong hợp đồng vận chuyển tài sản có thể là:

A. Bên thuê vận chuyển tài sản

B. Người thứ ba được bên thuê vận chuyển chỉ định nhận tài sản

C. Bên vận chuyển tài sản

D. Cả A và B

24. Sự kiện bất khả kháng là:

A. Sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép

B. Những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 75

C. Sự kiện xảy ra trong tình thế cấp thiết làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình

D. Cả A, B và C

25. Trong trường hợp mua bán quyền tài sản là quyền đòi nợ và bên bán cam kết bảo đảm khả năng thanh toán của người mắc nợ thì:

A. Bên mua phải chịu trách nhiệm thanh toán, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ không trả

B. Bên bán phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ không trả

C. Bên bán không chịu trách nhiệm thanh toán, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ không trả

D. Cả A và B

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

76 v1.0

CÂU HỎI THƯỜNG GẶP

1. Khi nào một hợp đồng được coi là hình thành giữa các bên?

2. Niêm yết giá bán hàng hóa trong cửa hàng có phải là đề nghị giao kết hợp đồng không?

3. Nếu bên được đề nghị giao kết hợp đồng im lặng đối với đề nghị giao kết hợp đồng thì có được chấp nhận là đồng ý với lời đề nghị hay không?

4. Hợp đồng không đồng thời thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực theo quy định của Bộ luật Dân sự thì bị coi là hợp đồng vô hiệu?

5. Các bên được tự do thỏa thuận về mức phạt hợp đồng?

6. Tại sao chỉ được áp dụng chế tài phạt hợp đồng nếu các bên đã có thỏa thuận trước?

7. Các bên chỉ phải tuân thủ những điều khoản hiện hữu trong hợp đồng?

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

v1.0 77

BÀI TẬP TÌNH HUỐNG

1. Ngày 15/7/2008, doanh nghiệp H gửi một đề nghị giao kết hợp đồng tới công ty phần mềm máy tính M. Đề nghị này yêu cầu công ty M cung cấp 5 phần mềm quản lý doanh nghiệp theo tiêu chuẩn nội bộ của doanh nghiệp H. Sau khi nhận được đề nghị này vào ngày 16/7/2008, công ty M yêu cầu doanh nghiệp H chờ một thời hạn là 10 ngày để công ty tiến hành thử nghiệm sản phẩm. Doanh nghiệp H đồng ý.

Đến ngày 24/7/2008, doanh nghiệp H gửi một đề nghị có nội dung giống hệt nội dung của bản đề nghị giao kết hợp đồng với công ty M cho công ty máy tính K. Công ty K ngay lập tức đã chấp nhận giao kết hợp đồng.

Doanh nghiệp H đã thông báo ngay cho công ty M về việc huỷ đề nghị giao kết hợp đồng với lý do đã ký kết hợp đồng với công ty K.

Doanh nghiệp H có được phép huỷ đề nghị giao kết hợp đồng với công ty M không? Vì sao?

2. Doanh nghiệp P ký một hợp đồng bán 50 tấn gạo tám thơm cho công ty xuất nhập khẩu gạo S. Trong hợp đồng có quy định cụ thể thời gian giao nhận hàng hoá là vào ngày 4/3/2008.

Ngày 4/3/2008, công ty S không thấy doanh nghiệp P giao hàng cho mình dẫn đến việc chậm lô hàng xuất khẩu. Công ty S yêu cầu doanh nghiệp P phải bồi thường thiệt hại và nộp phạt vi phạm hợp đồng.

Trong tình huống trên, địa điểm thực hiện hợp đồng được xác định như thế nào? Công ty S có thể yêu cầu doanh nghiệp P bồi thường thiệt hại và nộp phạt vi phạm không? Vì sao?

3. Ông T, Giám đốc Công ty cổ phần HT thuê căn hộ 1 tầng của ông C làm địa điểm kinh doanh. Thời hạn thuê nhà là 3 năm tính từ ngày 12/1/2007. Tháng 12/2007, ông C ra nước ngoài thăm họ hàng 3 tháng.

Cuối năm, công việc kinh doanh của công ty ông T phát triển mạnh. Để gia tăng diện tích của địa điểm kinh doanh này, ông T đã thuê xây thêm một gác xép làm nơi chứa hàng.

Tháng 3/2008, ông C về nước và nhận thấy căn hộ cho thuê bị xây thêm mà không có sự cho phép của ông. Ông C tuyên bố chấm dứt hợp đồng và yêu cầu ông T phải bồi thường thiệt hại. Ông T không chấp nhận và cho rằng việc xây sửa lại căn hộ là làm tăng thêm giá trị của căn hộ. Ông T cũng viện dẫn điều khoản tuỳ ý sử dụng căn hộ cho việc kinh doanh mà hai bên đã thoả thuận. Đồng thời, ông T cũng yêu cầu ông C phải hoàn trả những chi phí xây sửa đã làm tăng giá trị của căn hộ.

Pháp luật điều chỉnh hợp đồng nói trên là gì? Hợp đồng này có hình thức gì đặc biệt không? Cơ sở pháp lý cho yêu cầu của ông C là gì? Ông T có thể viện dẫn điều khoản đã nêu trong hợp đồng để thực hiện việc xây sửa của mình không? Vì sao?

4. Công ty TNHH Hoà Vũ ký hợp đồng vận chuyển lô hàng máy vi tính với công ty vận tải Hà Hải. Thời điểm giao nhận hàng là vào ngày 16/9/2007, nhưng phải đến ngày 26/9/2007 lô hàng mới tới nơi.

Công ty Hoà Vũ yêu cầu công ty Hà Hải phải nộp phạt vi phạm hợp đồng 25 triệu do giao hàng chậm và bồi thường thiệt hại do việc chậm hàng khiến công ty phải huỷ một hợp đồng với đối tác G.

Công ty Hà Hải không chấp nhận, cho rằng việc chậm giao hàng do sự kiện bất khả kháng là trời mưa lớn nên không thể chuyên chở đúng hạn và công ty cũng đã gửi thông báo ngay cho

Bài 3: Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh

78 v1.0

bên Hòa Vũ rồi. Đồng thời, công ty Hà Hải cũng cho rằng hợp đồng không có thoả thuận phạt vi phạm nên bên Hoà Vũ không có quyền yêu cầu.

Cơ sở pháp lý cho yêu cầu của công ty Hoà Vũ là gì? Viện dẫn sự kiện bất khả kháng của công ty Hà Hải có căn cứ pháp lý không? Công ty Hoà Vũ có quyền vừa đòi bồi thường thiệt hại vừa đòi nộp phạt vi phạm không? Vì sao?

5. Ngày 12/6/2008, công ty thương mại Gia Vũ (Hà Nội) ký hợp đồng mua 100 tấn đường tinh khiết RE loại 1 với công ty sản xuất đường mía La Ngà (Đồng Nai). Bên mua là công ty Gia Vũ có trách nhiệm vận chuyển hàng.

Công ty Gia Vũ đã ký hợp đồng vận tải với công ty Bắc Hà. Khi kiểm tra lô hàng, công ty Gia Vũ nhận thấy 30 bao hàng bị hỏng do ngấm nước.

Công ty Gia Vũ từ chối nhận lô hàng và yêu cầu bên Bắc Hà phải bồi thường thiệt hại do không đảm bảo an toàn cho hàng hoá khi vận chuyển.

Công ty Bắc Hà không chấp nhận, cho rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ vận chuyển. Việc lô hàng bị ngấm nước là do công ty La Ngà không đóng gói đúng tiêu chuẩn, vì vậy bên Gia Vũ không thể đòi Bắc Hà bồi thường thiệt hại.

Thời điểm chuyển rủi ro của lô hàng trên là khi nào? Công ty Bắc Hà có phải bồi thường thiệt hại không? Vì sao?