bÀi bÁo khoa hỌc cÁc giẢi phÁp Đo ĐẠc vÀ quan trẮc
TRANSCRIPT
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 51 (12/2015) 92
BÀI BÁO KHOA HỌC
CÁC GIẢI PHÁP ĐO ĐẠC VÀ QUAN TRẮC CHUYỂN VỊ CỦA MỐ CẦU
Lương Minh Chính1
Tóm tắt: Bài báo giới thiệu các giải pháp đo đạc quan trắc chuyển vị của mố cầu đang được ứng dụng trên thế giới. Mố cầu là một kết cấu phức tạp, trực tiếp chịu các tổ hợp tải trọng lớn từ kết cấu phần trên trong quá trình khai thác cũng như tải trọng do áp lực của đất đắp sau mố. Thiết kế mố cầu là công việc khó khăn và hết sức quan trọng, vì mọi chuyển vị cũng như biến dạng của mố sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các kết cấu còn lại trong suốt quá trình khai thác và vận hành. Vì vậy công tác quan trắc mố cầu trong quá trình khai thác là hết sức cần thiết, nhằm sớm phát hiện các chuyển vị và biến dạng có thể dẫn đến giảm khả năng làm việc của kết cấu mố nói riêng và cả công trình cầu nói chung. Trong bài báo tác giả thống kê, giới thiệu các phương pháp đo đạc quan trắc chuyển vị của mố cầu nhằm đưa ra các giải pháp hữu hiệu có thể áp dụng trong hệ thống quan trắc công trình cầu BHMS (Bridge Health Monitoring System) phục vụ công tác quan trắc, giám sát và khai thác công trình cầu một cách hiệu quả, giảm thiểu tối đa các rủi ro có thể xẩy ra đồng thời tối ưu hóa công tác duy tu bảo trình công trình một cách hợp lý, kéo dài tuổi thọ của công trình cầu (Lương Minh Chính, 2013), Lương Minh Chính, 2014). Từ khóa: Mố cầu, chuyển vị, quan trắc, đo đạc, BHMS
1. GIỚI THIỆU CHUNG1 1.1 Mố cầu Như chúng ta đã biết mố cầu được xây dựng
ở vị trí tiếp giáp giữa đường và cầu, ngoài nhiệm vụ kê đỡ kết cấu nhịp nó còn có vai trò của một tường chắn đảm bảo ổn định cho nền đường đầu cầu. Do đó ngoài các phản lực truyền từ kết cấu nhịp, mố còn chịu tác dụng của áp lực đất. Là kết cấu nối tiếp giữa đường và cầu nên mố phải được cấu tạo sao cho:
không xảy ra hiện tượng thay đổi độ cứng của tuyến đường một cách đột ngột,
đảm bảo xe chạy êm thuận khi qua cầu, đất đắp có tác dụng hướng dòng chảy được
êm thuận, tránh xói lở bờ sông. Ngoài ra mố cầu phải đảm bảo: Chịu được các tải trọng ngang từ áp lực đất
đắp sau mố, tải trọng bản thân, hoạt tải chất thêm cũng như các tải trọng khác từ kết cấu phần trên truyền xuống bệ mố và lên móng.
Ổn định cho kết cấu phần trên làm việc, cho phép kết cấu phần trên biến dạng một cách thích hợp dưới tác động của các tải trọng khai thác.
Đảm bảo êm thuận chuyển động của xe
1 Bộ môn Công trình Giao thông, Khoa Công trình, Trường Đại học Thủy lợi
khi xe di chuyển từ phần đường lên cầu và ngược lại.
Mố cầu trực tiếp chịu các tổ hợp tại trọng từ kết cấu phần trên xuống kết cấu móng. Công tác thiết kế móng sẽ bắt đầu từ bước khảo sát địa chất để xác định các tính chất địa vật lý của đất nền. Nhưng từ thực tế cho thấy, có rất nhiều sai sót trong quá trình khảo sát tới thiết kế và thi công mố cầu, dẫn đến nhiều hư hại hay sự cố trong quá trình khai thác (Rymar S.). Các loại tải trọng và cơ cấu làm việc của mố cầu được thể hiện trong hình 1.1.
Hình 1.1. Sơ đồ tải trọng tác động lên mố cầu (TCVN 272-05)
1.2 Các chuyển vị của mố cầu Trong phân tích hình học của mố cầu các loại
chuyển vị của mố cầu có thể chia làm hai loại:
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 51 (12/2015) 93
sự dịch chuyển và xoay. Đối với các kết cấu không gian 3 chiều như mố cầu thì có 3 dạng dịch
chuyển và 3 dạng xoay (Bażyński J. et all, 1999): Chuyển vị thẳng đứng đều do lún đều của
bệ mố. Chuyển vị thẳng đứng không đều do lún
không đều của bệ mố theo phương ngang cầu. Chuyển vị thẳng đứng không đều do lún
không đều của bệ mố theo phương dọc cầu. Chuyển vị ngang của mố theo phương dọc
cầu. Chuyển vị ngang của mố theo phương
ngang cầu. Chuyển vị đứng không đều kết hợp chuyển
vị ngang không đều theo phương dọc cầu. Chuyển vị đứng không đều kết hợp chuyển
vị ngang không đều theo phương ngang cầu. Theo cơ cấu làm việc của mố cầu thì ta có
thể phân ra các loại chuyển vị cơ bản như sau, bao gồm (Łyszkowicz A):
Hình 1.2. Chuyển vị góc của mố cầu tạo bởi tổng hợp các chuyển vị
Loại chuyển vị Nguyên nhân dẫn đến chuyển vị
Chuyển vị theo phương
thẳng đứng (lún đều)
do bệ mố lún và dẫn đến thay đổi cao độ trắc dọc của cầu, tạo nên
các gờ khi xe lên cầu.
Chuyển vị góc theo hai phương - sang bên cạnh
và đổ về phía trước mố
do lún không đều của bệ mố, dẫn đến thay đổi cao độ của trắc dọc và làm thay đổi điều kiện làm việc của gối trên mố (hình 1.3)
Chuyển vị dọc theo
phương dọc của cầu song
song với trắc dọc của cầu
do áp lực của đất đắp sau mố tác động lên tường thân mố, dẫn đến
thay đổi cao độ của trắc dọc cầu, tạo nên gờ ở khu vực khe co dãn và
làm khép các khe co dãn lại.
Chuyển vị ngang vuông
góc với trắc dọc của cầu
Do áp lực của phần tư tứ nón lên mố không đều, hay do lún không
đều của mố theo phương ngang của cầu, dẫn đến thay đổi trắc dọc của cầu, và làm thay đổi vị trị của gối cũng như điều kiện làm việc
của gối cầu.
Chuyển vị tổng hợp Chuyển vị của mố tạo bởi tổ hợp các chuyển vị khác
2. CÁC GIẢI PHÁP ĐO ĐẠC CHUYỂN VỊ 2.1 Đo đạc lún đều của mố Giá trị lún trong quá trình đo đạc mố là một
trong những thông tin quan trọng nhất. Có rất
nhiều cách đo đạc độ lún của mố cầu, về cơ bản thì được chia thành cách nhóm sau (Bażyński J.
et all, 1999): phương pháp địa kỹ thuật
phương pháp trắc dọc phương pháp đồng hồ
phương pháp áp dụng chênh lệch áp suất phương pháp quét laser
2.1.1 Phương pháp địa kỹ thuật Một trong những nhóm phương pháp đo đạc
độ lún của công trình hay được áp dụng nhất là phương pháp địa kỹ thuật. Công tác khảo sát địa
kỹ thuật được thực hiện với các công trình bắt đầu từ bước khảo sát, thiết kế, để nắm được các
chỉ số cơ lý của đất nền nhằm tính toán mức độ lún của công trình. Có rất nhiều phương pháp
địa kỹ thuật được áp dụng, nhưng về cơ bản được chia làm hai dạng: thực hiện trong phòng
thí nghiệm và tại hiện trường. 2.1.2 Phương pháp trắc dọc
Nhóm phương pháp thứ hai là nhóm đo cao độ trắc dọc cũng là nhóm được áp dụng nhiều
trong đo đạc lún của công trình. Phương pháp này cho phép xác định cao độ của các điểm đo
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 51 (12/2015) 94
đạc, nên phương pháp này cho phép áp dụng cả trong đo đạc và quan trắc. Chúng ta có thể chia
nhóm này như sau (Muszyński Z. Rybak J., 2011): phương pháp hình học (geometric method),
phương pháp lượng giác (trigometric method), phương pháp khí áp (barometric method),
phương pháp thủy tĩnh (hydrostatic method), phương pháp vệ tinh (satelite method).
Phương pháp hình học (geometric method) Phương pháp này ứng dụng một cách thức đo
rất đơn giản, đó là xác định cao độ trên các mia cắm bằng các máy thủy bình (hình 2.1). Có rất
nhiều loại máy thủy bình có thể áp dụng cho phương pháp (hình 2.2).
Hình 2.1. Phương pháp hình học đo đạc bằng máy thủy bình
Hình 2.2. Một số hình ảnh các loại máy thủy
bình, (tính từ trái sang): máy thủy bình quang
học HP I32, máy thủy bình laser Topcon RL-
SV25, máy thủy bình điện tử Leica DNA 03.
Phương pháp này cho phép nhận được các
kết quả chính xác, nhưng cần được chuẩn bị rất
kỹ lưỡng trước khi thực hiện đo đạc, để đảm bảo
độ chính xác.
Phương pháp lượng giác (trigometric method)
Phương pháp lượng giác cho phép đo đạc cao
độ các điểm không cần các mia. Trong trường
hợp này cần phải áp dụng máy kinh vĩ tích hợp
chức năng đo khoảng cách và đo góc - hay còn
gọi là máy toàn đạc (hình 2.4). Phương thức đo
được thể hiện ở sơ đồ hình 2.3 (Muszyński Z.
Rybak J., 2011).
Hình 2.3. Phương pháp lượng giác và máy kinh vĩ – (từ trái sang) Topcon DT-205, laser DT-207L
Hình 2.4. Ví dụ hệ thống quan trắc bằng máy toàn đạc của Leica TM30 + thấu kính GRZ 122
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 51 (12/2015) 95
Phương pháp khí áp (barometric method) Đây là một phương pháp rất ít được áp
dụng vì công tác chuẩn bị và thao tác khó khăn, phức tạp. Phương pháp này áp dụng
nguyên lý giảm áp suất khi độ cao tăng lên. Nhưng các điều kiện giả thuyết cho phương
pháp này thường không được đáp ứng, khi tỉ số thay đổi của cột thủy ngân đối với sự thay
đổi của cao độ là 0.01% (Karsznia K., 2014).
Phương pháp thủy tĩnh (hydrostatic method) Phương pháp này được ứng dụng khá rộng
rãi trên thế giới nhằm xác định cao độ - đó
chính là nguyên tắc bình thông nhau - xác định sự chênh lệch về thể tích của hai bình thông
nhau qua một ống nối ở hai cao độ khác nhau (hình 2.5) (Karsznia K., 2014).
Hình 2.5. Phương pháp thủy tĩnh và Sơ đồ lắp đặt thiết bị cảm biến dây rung
và các phao thép nằm trong ống chất lỏng
Phương chính xác hơn đó là áp dụng các
phao thép treo trên các dây thép nhỏ, khi mực nước thay đổi thì áp suất tác động lên phao
thép sẽ thay đổi, dẫn đến lực căng của các dây thép nhỏ thay đổi làm thay đổi tần số rung của
các dây thép đó. Và tần số rung này dùng để đo sự thay đổi của cao độ. Trong biện pháp này
cần phải có một vị trí so sánh với cao độ không thay đổi (hình 2.6). Bằng phương pháp này
chúng ta có thể áp dụng cả trong quan trắc lún các mố cầu.
Phương pháp vệ tinh (satelite method). Phương pháp này áp dụng các hệ thống định
vị toàn cầu GPS hay GLONASS để xác định độ
lún của công trình. Trong phương pháp này ta phải đặt ở vị trị cần đo đạc các thiết bị thu tín
hiệu vệ tinh gọi là trạm lưu động (để đo đạc) – rover station, ngoài ra cũng cần thiết lập trạm
thu tín hiệu so sánh ở vị trí không bị ảnh hưởng lún gọi là trạm cố định (để so sánh) – reference
station. Đo đạc bằng phương pháp này cho phép chúng ta thực hiện trong mọi điều kiện thời tiết
và mọi thời điểm trong ngày và có thể áp dụng được trong quan trắc liên tục. Nhưng phương
pháp này đòi hỏi phải mua những thiết bị đặc biệt và đắt tiền (Lương Minh Chính, 2014).
Hình 2.6. Đo chuyển vị bằng hệ thống GPS và các thiết bị thu tín hiệu GNSS của Leica
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 51 (12/2015) 96
2.1.3 Phương pháp cảm biến đồng hồ Phương pháp này áp dụng các cảm biến đồng
hồ cơ hoặc cảm biến đồng hồ điện tử. Để áp dụng biện pháp này ta cần phải thiết lập một
tấm thép mỏng bằng phẳng gần mặt đất, sau đó lắp cảm biến đồng hồ vào qua một thanh nam
châm. Trên bề mặt đất cần phải thiết lập một vị trí so sánh cũng bằng một tấm thép và một đầu
đo của cảm biến đồng hồ sẽ phải chạm vào tấm thép ở vị trí so sánh đó. Mọi sự chuyển dịch theo
phương thẳng đứng của mố cầu sẽ được thể hiện qua kim chỉ của cảm biến đồng hồ (hình 2.7).
Hình 2.7. Cảm biến đồng hồ
2.1.4 Phương pháp đo áp dụng chênh lệch
áp suất Phương pháp này cho phép đo lún của mố qua
hệ thống cảm biến đo áp suất kết nối với một bình chất lỏng được lắp đặt trên nền đất ổn định.
Cảm biến được lắp với bình chất lỏng bằng hai ống song song. Sự thay đổi áp suất trong ống sẽ
được cảm biến xác nhận và thể hiện bằng sự chênh lệch cao độ giữa điểm đo đạc và điểm so
sánh (hình 2.8) (Karsznia K., 2014).
Hình 2.8. Sơ đồ đo đạc lún áp dụng phương
pháp chênh lệch áp suất
2.1.5 Phương pháp quét laser Phương pháp này dựa trên cơ sở thu thập các
tín hiệu laser phản lại từ điểm phát. Thiết bị sẽ thu thập cả thời gian phản lại của tín hiệu laser
cũng như góc phản lại của tín hiệu để xác định
khoảng cách cũng như vị trí của kết cấu trong không gian. Phương pháp này có một ưu điểm rất
lớn đó là độ chính xác cao, thực hành nhanh và rất hiệu quả. Phương pháp quét laser rất đơn giản
và tự động bằng thiết bị như hình 2.9, nhưng công tác chuẩn bị ban đầu và hiệu chỉnh kết quả
sau khi quét mới mất nhiều thời gian. Cũng vì lý do này mà giải pháp ít được áp dụng trong quan
trắc mố trụ cầu, khi mà công suất tính toán của hệ thống máy tính hiện đại chưa đạt được tốc độ
cần thiết. Đây cũng là một trong những phương pháp tốn kém nhất (Karsznia K., 2014).
Hình 2.9. Thiết bị quét laser FARO
2.2 Lún không đều của mố Các chuyển vị của mố theo phương thẳng
đứng khác nhau ở các vị dẫn đến mố bị lún không đều. Điều này có thể xảy ra theo hai
phương: theo phương dọc của cầu (theo hướng di chuyển của xe) hoặc theo phương ngang của
cầu (vuông góc với hướng di chuyển của xe). Để gián tiếp xác định lún không đều của mố ta
có thể áp dụng những phương pháp tương tự như trong xác định lún đều của mố. Nhưng khi
đó công tác đo đạc phải được thực hiện ở các vị trí khác nhau, quanh bệ mố để xác định góc
xoay của cả mố. Ngoài ra cũng có một số biện pháp trực tiếp xác định chuyển vị góc của mố
cầu bằng hai dạng thiết bị, đó là: bằng cảm biến góc nghiêng hay các inclinometer (Godlewski
T.), (Karsznia K., 2014). 2.2.1 Đo đạc ứng dụng cảm biến góc nghiêng
Cảm biến góc nghiêng là thiết bị để đo góc nghiêng của kết cấu/ công trình, phương thức đo
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 51 (12/2015) 97
dựa trên cơ sở lực hấp dẫn của trái đất. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều dạng thiết bị loại
này, từ những dạng đơn giản nhất tới những thiết bị điện tử phức tạp được dùng trong quân
sự, có đầy đủ khả năng để ứng dụng vào trong hệ thống quan trắc công trình. Ngoài ra gần đây
mới xuất hiện những thiết bị hiện đại mới dựa trên công nghệ MEMS (Lương Minh Chính,
2015) (hình 2.10).
Hình 2.10. Cảm biến góc nghiêng Sisgeo MEMS
tiltmeter S5MA
2.2.2 Đo đạc bằng các cảm biến đo độ
nghiêng (inclinometer) Inclinometer được áp dụng rất rộng rãi trong
địa kỹ thuật. Phần lớn các thiết bị đo độ nghiêng (inclinometer) yêu cầu phải đo tại chỗ
bên trong công trình (in situ) bằng các thiết bị chuyên dụng. Các thiết bị inclinometer có thể
ứng dụng được vào trong hệ thống quan trắc liên tục của công trình cầu bằng cách đặt các
thiết bị này vào trong một ống quan trắc và kết nối với thiết bị thu thập dữ liệu của hệ thống
(Muszyński Z. Rybak J., 2011), (Karsznia K., 2011), (Karsznia K., 2014) (hình 2.11).
Hình 2.11. Sơ đồ hoạt động của inclinometer
và cách thức đọc dữ liệu từ inclinometer
2.3 Đo đạc chuyển vị ngang Một trong những nhiệm vụ của mố cầu là
kháng lại áp lực của đất đắp sau mố, tránh cho đất tràn vào dầm cầu. Chính vì thế mố cầu chịu
áp lực ngang của đất sau mố, áp lực của hoạt tải chất thêm sau mố. Nếu như mố cầu có chuyển
vị ngang lớn về phía dầm cầu sẽ làm giảm độ mở của khe co giãn, đồng thời tạo một góc xoay
với trục xoay ở khe co giãn. Để sớm phát hiện và có thời gian để xử lý các hiện tượng trên ta
có thể áp dụng các thiết bị như: cảm biến đo độ mở của khe co giãn hay cảm biến đo áp lực của
đất đắp lên kết cấu. 2.3.1 Cảm biến đo độ mở khe co giãn
Là cảm biến được lắp ở giữa mố và kết cấu phần trên của cầu (dầm cầu) và có khả năng đo
được độ mở của khoảng cách giữa hai kết cấu này. Kết quả đo được cần phải tính đến ảnh
hưởng của nhiệt độ, vì dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ trong ngày kết cấu phần trên của cầu
cũng có sự biến dạng làm thay đổi độ mở của khe co giãn (hình 2.12) (Karsznia K., 2011).
2.3.2 Đo đạc áp lực của đất đắp lên kết cấu Để giám sát và đo đạc các tải trọng ngang tác
động lên mố ta có thể áp dụng một loại thiết bị chuyên dụng đo đạc áp lực của đất đắp sau mố
lên kết cấu mố. Thiết bị này cần được lắp đặt trong quá trình thi công mố ở mặt sau của tường
thân mố. Sau khi lấp đầy đất đắp sau mố sẽ không còn khả năng tác động hay thay thế khi
thiết bị có sự cố, vì vậy công tác lắp đặt và chuẩn bị cần được thực hiện hết sức chặt chẽ
bởi các nhân sự chuyên nghiệp (Godlewski T), (Karsznia K., 2014).
Hình 2.12. Thiết bị đo độ mở khe co giãn
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 51 (12/2015) 98
3. QUAN TRẮC CHUYỂN VỊ 3.1 Quan trắc và đo đạc định kỳ Những phương pháp đo đạc được nêu ở phần
trên có thể phân làm thành hai nhóm, một là
nhóm áp dụng trong công tác đo đạc định kỳ, các phương pháp nêu ở mục 2.2 có thể được áp
dụng trong hệ thống quan trắc cầu liên tục (BHMS - Bridge Health Monitoring System).
Cần phải hiểu rõ hai khái niệm "đo đạc định kỳ" và "quan trắc liên tục", trong đó "quan
trắc liên tục" có thể hiểu là các công tác nhắm tới mục tiêu phát hiện các mối đe dọa đến công
trình. Sự khác biệt giữ quan trắc liên tục và đo đạc kiểm tra định kỳ được thể hiện ở hình 3.1.
Cần phải xác định trước các mối đe dọa có thể xảy ra để thiết lập hệ thống quan trắc thích
ứng. Vì thế hệ thống quan trắc cần phải có hai cấu phần chính - hệ thống thiết bị giám sát và
hệ thống cảnh báo (Lương Minh Chính, 2015). Hệ thống quan trắc về cơ bản có nhiệm vụ xác
định trạng thái nguy hiểm trước khi xảy ra các hư hại không muốn và không có nhiệm vụ
giám sát các hư hại đã xảy ra mà có nhiệm vụ phát hiện, cảnh báo khi các nguy cơ hư hại
vượt quá các ngưỡng đã được thiết lập thiết lập để sớm có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu
(Lương Minh Chính, 2013).
Hình 3.1. Sự khác biệt giữa quan trắc liên tục
và đo đạc đinh kỳ
3.2 Các tiêu chí lựa chọn phương pháp đo đạc phục vụ hệ thống quan trắc
Hệ thống quan trắc như nêu ở mục 3.1 phải đạt được các tiêu chí cơ bản sau đây (Lương
Minh Chính, 2014), (Lương Minh Chính, 2015): Tự động thu thập dữ liệu. Không lệ thuộc
vào phương pháp đo đạc chuyển vị mố cầu, các thiết bị cảm biến phải đo đạc một cách liên tục và
tự động trong những khoảng thời gian nhất định. Lưu trữ dữ liệu và cho phép truy cập on-
line. Một phần không thể thiếu của hệ thống là khả năng thu thập và lưu trữ dữ liệu từ các thiết
bị cảm biến và cho phép truy cập on-line vào dữ liệu thông qua một giao diện phần mềm riêng.
Cảnh báo khi các dữ liệu thu thập vượt ngưỡng cho phép. Hệ thống phải tự động cảnh
báo khi các ngưỡng đã được thiết lập trước cho từng thiết bị bị vượt quá.
4. KẾT LUẬN Mố cầu là một kết cấu phức tạp, trực tiếp
chịu các tổ hợp tải trọng lớn từ kết cấu phần trên trong quá trình khai thác cũng như tải trọng do
áp lực của đất đắp sau mố. Do đó công tác quan trắc mố cầu trong quá trình khai thác là hết sức
cần thiết, nhằm sớm phát hiện các chuyển vị và biến dạng có thể dẫn đến giảm khả năng làm
việc của kết cấu mố nói riêng và cả công trình cầu nói chung. Trong bài báo tác giả thống kê,
giới thiệu các phương pháp đo đạc quan trắc chuyển vị của mố cầu nhằm đưa ra các giải pháp
hữu hiệu có thể áp dụng trong hệ thống quan trắc công trình cầu BHMS (Bridge Health
Monitoring System) phục vụ công tác quan trắc, giám sát và khai thác công trình cầu một cách
hiệu quả, giảm thiểu tối đa các rủi ro có thể xẩy ra đồng thời tối ưu hóa công tác duy tu bảo trình
công trình một cách hợp lý, kéo dài tuổi thọ của công trình cầu (Lương Minh Chính, 2014),
(Lương Minh Chính, 2015).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Rymar S. “Geotechnika i geologia inżynierska w świetle uwarunkowań norm UE Eurokod”,
Państwowa Wyższa Szkoła Zawodowa im. S. Pigonia w Krośnie.
Bażyński J. Drągowski A. Frankowski Z. Kaczyński R. Rybicki S. Wysokiński L., 1999) “Zasady porządzania dokumentacji geologiczno-inżynierskich”. Ministerstwo Środowiska, Warszawa 1999.
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 51 (12/2015) 99
Łyszkowicz A. “Niwelacja – instrumenty i metody” Katedra Geodezji Szczegółowej UWM w Olsztynie.
Muszyński Z. Rybak J., 2011) “Zastosowanie geodezyjnych metod pomiarowych w badaniach
nośności pali”, Górnictwo i geoinżynieria Rok 35 Zeszyt 2 2011 str. 441-450.
Godlewski T. “Praktyczne wykorzystanie badań dylatometrycznych” Biuletyn Państwowego Instytuty Geologicznego.
Karsznia K., 2011) “Geodezyjny monitoring obiektów mostowych”, Mosty 6/2011 str. 36-42.
Karsznia K., 2014) “Współczesna technologia skanowania laserowego 3D w monitorowaniu
przemieszczeń i deformacji obiektów mostowych”, Mosty 1/2014 str. 32-36.
Lương Minh Chính (2013). “Hệ thống quan trắc Công trình cầu lớn”. Hội nghị khoa học thường niên 2013. Trường Đại học Thủy Lợi. 2013
Lương Minh Chính (2014). “Long term structural health monitoring system for cable stayed bridge
in Vietnam”. Journal of Water Resources & Environmental Engineering No 44 (3/2014). ISSN 1859-3941. P.11-16.
Lương Minh Chính (2015). “Các phương pháp quan trắc và xác định chuyển vị trụ tháp cầu dây
văng của hệ thống quan trắc công trình cầu (BHMS)”. Tạp chí khoa học Thủy Lợi & Môi trường Số 48 (3/2015). ISSN 1859-3941. P. 57-63.
Abstract:
METHODS OF MEASUREMENT AND MONITORING ABUTMENTS DISPLACEMENTS
This paper presents the methods and solutions to measurement and monitoring displacements of
abutments being applied worldwide. Abutment is a complex structure, directly under the huge load
combination from the superstructure on the extraction process as well as by the pressure load of the
fill behind abutment. Design of abutment is very important, because every motion and deformation
of abutment will impact significantly on the structure during exploitation and operation. In the
article the author introduce statistical methods of measurement and monitoring displacements of
abutments in order to devise effective solutions can be applied in monitoring systems for bridge -
BHMS (Bridge Health Monitoring System) to minimize the risks which may occur at the same time
optimizing the maintenance maintain the works in a reasonable manner, prolonged longevity of
bridges (Lương Minh Chính, 2014) (Lương Minh Chính, 2015).
Keywords: Abutments, displacements, monitoring, measurement, BHMS.
BBT nhận bài: 02/12/2015
Phản biện xong: 21/12/2015