b v Ăn hoÁ, th thao vÀ du l ch b giÁo d c vÀ Ào t o tr Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong...

260
BVĂN HOÁ, THTHAO VÀ DU LCH BGIÁO DC VÀ ĐÀO TO TRƯỜNG ĐẠI HC VĂN HOÁ HÀ NI NGUYN THPHƯƠNG THO VĂN HÓA VÙNG BIN ĐẢO QUNG NINH (QUA NGHIÊN CU CÁC LHI TRUYN THNG) LUN ÁN TIN SĨ VĂN HÓA HC HÀ NI - 2015

Upload: others

Post on 14-Feb-2020

4 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

(QUA NGHIÊN CỨU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2015

Page 2: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

(QUA NGHIÊN CỨU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG)

Chuyên ngành: Văn hóa học

Mã số: 62310640

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Trần Đức Ngôn

2. TS. Nguyễn Thị Việt Hương

HÀ NỘI - 2015

Page 3: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn

của PGS.TS. Trần Đức Ngôn và TS. Nguyễn Thị Việt Hương. Các kết quả nghiên cứu

và các kết luận trong luận án này là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một nguồn

nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được trích dẫn

và ghi xuất xứ theo đúng quy định.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Phương Thảo

Page 4: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

1

MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC 1

DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT 2 DANH MỤC BẢNG BIỂU 3 MỞ ĐẦU 4 Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

8

1.1. Tổng quan nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài 8 1.2. Cơ sở lý luận về vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền thống

17

1.3. Khái quát về lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh 33 Tiểu kết 48 Chương 2: YẾU TỐ NỘI ĐỒNG TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

49

2.1. Cộng đồng cư dân và cơ cấu tổ chức các làng nông nghiệp 49

2.2. Sự thể hiện yếu tố nội đồng trong lễ hội truyền thống 56 Tiểu kết 78 Chương 3: YẾU TỐ BIỂN TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

79

3.1. Cộng đồng ngư dân và cơ cấu tổ chức các làng biển đảo 79 3.2. Sự thể hiện yếu tố biển trong lễ hội truyền thống 83 Tiểu kết 115 Chương 4: ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH 117 4.1. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm yếu tố nội đồng và nhạt yếu tố biển

117

4.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm tính lịch sử 121 4.3. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt với các vùng biển đảo khác

142

4.4. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự dung hợp văn hóa các vùng miền

156

Tiểu kết 160 KẾT LUẬN 161

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

166

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 167 PHỤ LỤC 175

Page 5: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

A: Ảnh

â.l: âm lịch

GS: giáo sư

h: huyện

x: xã

tx: thị xã

TP: thành phố

Nxb: Nhà xuất bản

PL: phụ lục

QN: Quảng Ninh

TCN: trước Công nguyên

SCN: sau Công nguyên

TS: tiến sĩ

tr: trang

Page 6: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Stt Nội dung bảng thống kê Trang

1 Bảng 1.1: Thống kê số lượng lễ hội truyền thống vùng biển đảo

Quảng Ninh

37

2 Bảng 1.2: Thống kê không gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng biển

đảo Quảng Ninh

37

3 Bảng 1.3: Thống kê thời gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng biển đảo

Quảng Ninh

39

4 Bảng 1.4: Phân loại lễ hội truyền thống của cư dân vùng biển đảo

Quảng Ninh

42

Page 7: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nghiên cứu về biển đảo gần đây đã nhận được sự quan tâm của nhiều ngành

nghiên cứu như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội… Việt Nam có bờ biển dài hơn

3260 km, từ vùng ven biển đã mở ra vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế biển.

Trong môi trường biển đảo cộng đồng cư dân sáng tạo ra nhiều di sản văn hóa có giá

trị cần được bảo tồn và phát huy.

Vấn đề bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, trong đó có lễ hội

truyền thống của mỗi vùng miền, đã và đang đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng để

góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Từ trước đến nay, các nhà nghiên

cứu đều thống nhất nhận định rằng văn hóa giữ vị trí, vai trò nền tảng cho sự phát

triển của dân tộc. Những dấu ấn sâu đậm của lịch sử, của đời sống kinh tế - xã hội,

tâm lý cộng đồng, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... đều có thể tìm thấy trong văn

hóa, đặc biệt là trong các lễ hội truyền thống. Bước vào thế kỷ XXI, trước xu thế toàn

cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định văn hóa truyền thống là một nguồn lực

tạo nên động lực để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,

góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Tuy nhiên, ở

nhiều nơi, văn hóa truyền thống (trong đó có lễ hội truyền thống) không phải lúc nào

cũng được coi trọng đúng mức. Không ít nơi phục cổ một cách tùy tiện, thiếu định

hướng, làm biến dạng các di sản văn hóa quý giá đó, thậm chí quay lưng lại với các

giá trị văn hóa dân tộc, xem đó là cái bảo thủ, lỗi thời. Vì thế rất cần một thái độ

khách quan, khoa học đối với di sản văn hóa, trong đó có lễ hội.

Ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng, thế kỷ XXI là "Thế kỷ của đại dương".

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2-2007) về

"Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" cũng ghi nhận ý kiến trên và nêu lên mục

tiêu "vươn ra biển lớn". Và như thế, "con mắt cận duyên" phải được thay bằng "tầm

nhìn đại dương". Để có "tầm nhìn đại dương" ấy không thể không nghiên cứu địa

hình, khí hậu, môi trường sinh thái, phong tục, tập quán... của cư dân biển, là tác nhân

sinh thành và phát triển những vùng văn hóa khác nhau.

Page 8: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

5

Quảng Ninh (QN) là một vùng đất cổ. Các di chỉ khảo cổ học, các thư tịch cổ

sưu tầm được đã minh chứng rõ điều này. QN tập hợp đầy đủ đặc điểm của hệ sinh

thái nước ta, có đồi núi, đồng bằng, đặc biệt là có biển với sự đa dạng sinh học rất

đáng chú ý. QN có hơn 20 tộc người, mỗi tộc người lại có những nét văn hóa riêng,

tiêu biểu, tất cả tạo nên sự phong phú, đa dạng của một vùng văn hóa độc đáo.

Địa hình QN chủ yếu là đồi núi (chiếm 4/5 diện tích). Tuy nhiên, nói đến QN,

nhiều người lại nghĩ ngay đến biển, bởi vì nơi đây có một vùng biển đảo rộng lớn với

250 km bờ biển và hơn 2000 đảo lớn nhỏ trên vùng vịnh Hạ Long và Bái Tử Long.

Vịnh Hạ Long đã hai lần được Unesco công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, năm

2007 được vào danh sách bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới. QN không chỉ gắn

tên tuổi của mình với những bãi biển đẹp, những thắng cảnh hùng vĩ, nên thơ, mà QN

còn nổi tiếng với di tích lịch sử - văn hóa, các kiến trúc độc đáo, phong tục, tập quán,

tín ngưỡng, vốn văn hóa dân gian và hệ thống lễ hội truyền thống phong phú, đặc sắc,

tiêu biểu cho một vùng văn hóa biển đảo.

QN là một tỉnh ven biển nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà

Nội - Hải Phòng - QN), đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch của Việt Nam.

Điều đó cho thấy vị thế của QN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các

tỉnh phía Bắc nói riêng và của cả nước nói chung là rất lớn.

Chính vì vậy, từ góc nhìn địa - văn hóa, tác giả chọn đề tài Văn hóa vùng

biển đảo Quảng Ninh (qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống) để nghiên cứu.

Việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ hơn những nét đặc trưng, tính chất đa

dạng, phong phú của lễ hội truyền thống QN trong lịch sử và hiện tại. Kết quả

nghiên cứu của đề tài cũng sẽ là một căn cứ khoa học góp phần định hướng quy

hoạch phát triển văn hóa, tạo môi trường xã hội ổn định, bền vững, trong đó có

việc khai thác lễ hội truyền thống như là một nguồn lực văn hoá để phát triển kinh

tế - xã hội của QN nói riêng, của cả nước nói chung trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nhận thức sâu về các yếu tố cấu thành và đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo QN.

Page 9: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

6

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến vùng văn hóa biển đảo QN.

- Tiến hành khảo sát, điền dã vùng biển đảo QN, đặc biệt tham gia vào các lễ

hội truyền thống.

- Mô tả các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN ở cả ba nhóm: nội đồng, ven

biển và hải đảo để làm rõ các yếu tố nội đồng và yếu tố biển.

- Làm rõ những đặc trưng cơ bản của lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN

thông qua việc so sánh với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ và Trung Bộ.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu các lễ hội truyền thống ở vùng

biển đảo trên địa bàn tỉnh QN. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ đề cập

đến một số lễ hội tiêu biểu liên quan đến biển của các tỉnh, thành phố vùng duyên hải

Bắc Bộ như Hải Phòng, Thái Bình và một số địa phương ở Trung Bộ để tìm ra những

nét tương đồng và khác biệt với lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN.

- Về thời gian: Luận án khảo sát các lễ hội truyền thống vùng biển đảo hiện nay ở

QN. Tư liệu khảo sát được thực hiện trong 7 năm (từ năm 2007 đến năm 2013). Dựa vào

kết quả nghiên cứu, đối chiếu với các lễ hội truyền thống ven biển trước năm 1954 thông

qua tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước để thấy các yếu tố truyền thống còn được bảo

lưu trong các lễ hội hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp liên ngành: Tiếp cận vấn đề trên các phương diện địa lý, lịch sử,

kinh tế, văn hoá, xã hội... của tỉnh QN.

- Phương pháp điền dã dân tộc học: Tác giả đặc biệt coi trọng phương pháp điền

dã để quan sát, tham dự vào các sinh hoạt văn hoá của cư dân địa phương với mục đích

khảo tả một cách chân thực các hiện tượng trong các lễ hội truyền thống nhằm thu thập

nguồn tư liệu xác thực, cập nhật nhất. Bên cạnh đó, việc quan sát, phỏng vấn, trao đổi ý

kiến để thu thập thông tin về những vấn đề liên quan đến lễ hội truyền thống vùng biển

Page 10: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

7

đảo cũng được thực hiện.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp được dùng để nhận thức sâu đối tượng

nghiên cứu.

- Phương pháp so sánh để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa văn hóa vùng

biển đảo QN với văn hóa vùng biển đảo khác.

5. Những đóng góp mới của luận án

- Phân loại lễ hội truyền thống ven biển QN.

- Mô tả những yếu tố văn hóa nội đồng và văn hóa biển trong lễ hội truyền

thống vùng biển đảo QN.

- Ngoài việc tiếp cận với các tư liệu đã công bố, đề tài sẽ công bố một số tư

liệu mới.

- Nêu một số đặc điểm tiêu biểu của văn hóa vùng biển đảo QN và đối chiếu

với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ và Trung Bộ.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên

cứu về văn hoá vùng hoặc địa chí văn hóa.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính

của luận án được trình bày trong 4 chương:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về lễ hội truyền

thống vùng biển đảo Quảng Ninh

Chương 2: Yếu tố nội đồng trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh thể hiện qua

các lễ hội truyền thống

Chương 3: Yếu tố biển trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh thể hiện qua các

lễ hội truyền thống

Chương 4: Đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh

Page 11: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

8

Chương 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT

VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

1.1. Tổng quan nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Bắc Bộ

Có thể khẳng định rằng nghiên cứu lễ hội truyền thống vùng biển đảo Bắc Bộ

chưa được chú trọng như Trung Bộ và Nam Bộ. Vì vậy, tài liệu viết về vấn đề này

cũng không nhiều.

Năm 1985, tác giả Diệp Trung Bình có bài Vài nét về đời sống của ngư dân vùng

biển Đông Bắc Việt Nam [4]. Nội dung của bài gồm hai mục: sinh hoạt kinh tế và đời

sống văn hóa, xã hội. Bài viết đã chỉ ra các mối quan hệ về gia đình, dòng họ và ảnh

hưởng trực tiếp của các mối quan hệ này đến đời sống ngư dân (người Đản) ở Đông

Bắc Việt Nam trong đó có đề cập tới một số lễ hội truyền thống ven biển. Tác giả

khẳng định: “Trong đời sống đánh cá, ngư dân Đản đã sản sinh ra một nền văn hóa

biển khá đặc sắc và phong phú” [4, tr.20].

Năm 1996, tác giả Nguyễn Thanh có bài, Lễ hội trình nghề reo ống làng

Quang Lang [60]. Bài viết đã giới thiệu khá chi tiết nguồn gốc, thời gian, các nghi

thức tiến hành lễ hội của làng Quang Lang nay thuộc x. Thụy Hải, h. Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình, một làng ven biển mà dân làng sống chủ yếu nhờ vào nghề đánh cá và làm

muối. Tác giả đã giới thiệu những nét độc đáo của lễ hội trình nghề reo ống (chủ yếu là

phục dựng lại). Tuy nhiên, bài nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở mức giới thiệu và đưa ra

một số nhận định về lễ hội này.

Trải qua một thời gian sưu tầm, nghiên cứu lễ hội Thái Bình, đến năm 2000 tác

giả Nguyễn Thanh đã xuất bản cuốn Lễ hội truyền thống Thái Bình [61]. Tác giả khẳng

định: Thái Bình cùng chung đặc điểm với lễ hội ở vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ. Lễ

hội truyền thống ở Thái Bình được phân bố với mật độ cao vào những tháng nông nhàn

theo chu trình sản xuất của hai vụ lúa chiêm, lúa mùa với tâm thức “tháng tám giỗ cha

tháng ba giỗ mẹ” nhưng những hội làng lớn duy trì nhiều lễ thức cổ xưa lại tập trung

nhiều vào tháng tư và tháng chín. Tác giả cũng nghiên cứu về đặc điểm lễ hội ở Thái

Page 12: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

9

Bình: Ngoài tính phổ biến “sáng rối tối chèo” của nhiều hội, mỗi hội lại có những tục

thi riêng gắn với huyền thoại về sự tích, hành trạng của vị thần được thờ và những điệu

múa dân gian gắn với nghi thức tín ngưỡng” [61, tr.16]. Cùng với tục rước nước của hội

nhiều làng ven sông, ven biển, tục đua trải của các hội làng ở Thái Bình làm đậm thêm

sắc thái lễ hội truyền thống của một vùng sông nước.

Năm 2010, công trình của Đỗ Lan Phương Văn hóa vùng cửa sông Hồng như

một dạng thức của văn hóa biển Việt Nam (qua nghiên cứu hai xã ở Nam Định và

Thái Bình) [45]. Mặc dù chỉ khảo sát trường hợp cư dân hai xã Giao An ở Nam Định

và Đông Minh ở Thái Bình, nhưng tác giả đã đi sâu nghiên cứu đầy đủ về văn hóa

biển: Lịch sử hình thành; các nghề khai thác tài nguyên; các sinh hoạt văn hóa - tín

ngưỡng; ... Tác giả khẳng định: “văn hóa cửa sông Hồng không chỉ là một dạng thức

của văn hóa biển Việt Nam mà còn là biểu hiện của mối quan hệ giữa văn hóa với

phát triển, trong đó có mối quan hệ giữa văn hóa với môi trường sinh thái” [45, tr.21 -

22]. Rõ ràng, bài viết không chỉ có giá trị về mặt thực tiễn khảo cứu văn hóa biển ở

hai địa điểm cụ thể mà còn có giá trị trong việc hệ thống hóa các khái niệm công cụ để

chúng tôi có thể áp dụng vào quá trình nghiên cứu lễ hội truyền thống ven biển QN.

Năm 2011, Lê Thanh Tùng có bài Lễ hội cổ truyền của cư dân ven biển Hải

Phòng - bước đầu nhận diện [87]. Qua việc nghiên cứu các lễ hội ven biển ở Hải

Phòng, tác giả đã thống kê và phân loại lễ hội ven biển.

Năm 2012 Lê Thanh Tùng hoàn thành Luận án tiến sĩ Lễ hội cổ truyền cư dân

ven biển Hải Phòng và sự biến đổi trong giai đoạn hiện nay [88]. Trong luận án, tác giả

đã đưa ra được những nhận định có giá trị qua quá trình nghiên cứu về lễ hội ven biển

của Hải Phòng như:

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn có liên quan đến tục tế trâu và thần Độc Cước ở

vùng ven sông ven biển Thanh Hóa,… Để thích ứng và phù hợp với vùng

đất mới, ngư dân đã hòa nhập tín ngưỡng gốc với tín ngưỡng vùng đất mới,

địa phương hóa tín ngưỡng, để tạo nên tục thờ dấu chân thần vừa quen

thuộc, vừa mới lạ: thần Độc Cước - dấu chân, vết chân chim sẻ - thần

Điểm Tước Đại Vương. Đồng thời tục tế trâu và tín ngưỡng thờ thủy thần,

mặt trăng của dân chài ven biển Quảng Xương, Thanh Hóa đã gặp gỡ nhau

Page 13: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

10

trong một không gian thiêng, nơi cư trú mới để rồi hòa cùng, tạo ra hội

chọi trâu Đồ Sơn, Hải Phòng độc đáo nhưng rất quen thuộc [88, tr.89].

Nhưng nhìn chung luận án vẫn chưa tổng kết được những đặc trưng tiêu biểu nhất

của văn hóa biển Hải Phòng và sự khác biệt với các vùng ven biển khác trong cả nước.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Trung Bộ

Về mặt địa lý, Trung Bộ là vùng tiếp giáp với biển nhiều nhất trên lãnh thổ Việt Nam.

Chính vì vậy, các nghiên cứu về văn hóa biển đảo nói chung và lễ hội ven biển tập trung chủ

yếu ở vùng này.

Mục sản vật của tỉnh Bình Thuận trong Đại Nam nhất thống chí, tập 3 [47] có

ghi chép: “Cá voi: tương truyền ngày mùng 2 tháng 2 năm Nhâm Ngọ, người thôn

Sơn Hải, h. Yên Phước thấy một đoạn xương cá voi, một cái thùng gỗ thông từ ngoài

bến trôi vào, người trong thôn cùng nhau khiêng cái xương ấy bỏ vào thùng, muốn tìm

đất để chôn thì khiêng không thấy động đậy, rồi bỗng linh cá voi phụ vào người mà

nói rằng: Ta ở đây thôi, không nên chôn chỗ khác”. Người trong thôn cho là thần, bèn

chôn ở đấy và lập đền thờ. Đền ở phía nam đầm thôn ấy, có tượng đất, sau tượng có

quan tài sơn son, có hiệu là Nam hải cự tộc Ngọc lân chi thần. Theo chúng tôi, những

ghi chép này chứng tỏ các vị thần biển có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với

ngư dân ven biển. Phải chăng trong tâm thức của họ, thần biển mà cụ thể ở đây là cá

voi - sống nơi biển cả - đã có một sức mạnh lớn, là vật linh thiêng ?

Giai đoạn này, văn hóa biển được thể hiện qua sự ghi chép về các ngôi miếu,

đền thờ các vị thần biển. Trong Đại Nam nhất thống chí, tập 1 có ghi:

Miếu Nam Hải Long Vương: ở phía tả cửa biển Thuận An, xã Thái

Dương, huyện Hương Trà, thờ thần Nam Hải Long Vương. Trước kia

miếu ở x.Dương Xuân, h.Hương Thủy đầu niên hiệu Gia Long hằng

năm tế vào 4 tháng trọng, năm thứ 12 đổi dựng chỗ ở hiện nay, gọi là

đền thần cửa biển Thuận An; năm Minh Mệnh thứ 3 đổi tên như hiện

nay [48, tr.72-73].

Rõ ràng, các vị thần biển luôn có một sức mạnh lớn giúp ngư dân vượt qua

những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, là chỗ tựa vững chắc cho họ về mặt tinh

thần, giúp họ có niềm tin vững chắc khi vượt ra biển để kiếm kế sinh nhai.

Page 14: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

11

Ninh Viết Giao (1978) trong công trình, Sinh hoạt của ngư dân miền biển Nghệ

Tĩnh trước Cách mạng (qua tục ngữ, dân ca) [13], thông qua việc phân tích những câu

tục ngữ, ca dao vùng biển, tác giả đã cho người đọc thấy rõ văn hóa biển mà cụ thể là

những sinh hoạt văn hóa của ngư dân miền biển Nghệ Tĩnh. Đặc biệt quý giá hơn cả

trong kho tàng ca dao, tục ngữ ấy là những tri thức thực tiễn trong cuộc sống được đúc rút

ra từ thế hệ này qua thế hệ khác mà Ninh Viết Giao đã ghi chép được.

Năm 1982, tác giả Tôn Thất Bình có bài nghiên cứu Một số tín ngưỡng, tục lệ

của cư dân vùng biển từ Bình Trị Thiên đến Bình Thuận [5]. Qua 5 trang viết, tác giả

đã đề cập tới một số tục lệ, nghi lễ của cư dân vùng biển miền Trung: Tục thờ thần

Hoàng làng, tục thờ cá ông Voi và các loài hải tộc khác, cùng các hội hè, nghi lễ liên

quan đến sinh hoạt nghề biển. Ngoài ra, công trình còn đề cập tới tín ngưỡng vật linh

miền biển như Rùa biển được gọi là Bà, hiệu là “Đệ bát Thánh phi nương tôn thần”;

hay ông Sứa, ông Nược, ông Hèo... Đây là nguồn tư liệu quý, góp phần quan trọng đối

với những nhà nghiên cứu quan tâm tới văn hóa tâm linh của ngư dân ven biển.

Năm 1986 Võ Quang Trọng có bài viết Hội đua thuyền ở một làng biển [83].

Tác giả đã mô tả cụ thể về hội đua thuyền mang tính chất ngư nghiệp của làng biển

Nhượng Bạn (Hà Tĩnh). Cũng nghiên cứu về lễ hội miền Trung, còn phải kể tới

Huỳnh Tới (1996) với bài Lễ hội Dinh Cô [82], giới thiệu về một lễ hội độc đáo của

tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Năm 1997 Cao Đức Hải có công trình về Tín ngưỡng thờ Thuỷ thần của ngư dân

vùng cực Đông Trung Bộ [16]. Mặc dù tác giả mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về tín

ngưỡng thờ Thủy thần của ngư dân vùng Đông Trung Bộ, nhưng đây cũng là một tài

liệu tham khảo đáng tin cậy, giúp chúng tôi nghiên cứu về việc thờ cúng các vị thần

trong lễ hội truyền thống ven biển QN. Bên cạnh đó, năm 2000, tác giả Trương Minh

Hằng có bài viết về Văn hóa biển ở làng chài Nhượng Bạn [21] cũng đề cập tới các lễ

hội, tín ngưỡng, phong tục, tập quán có liên quan tới biển của một làng chài cụ thể.

Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử văn hóa và nghệ thuật của Nguyễn Đăng

Vũ về Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi, năm 2003 [99] đề cập tới

các vấn đề của văn hóa dân gian như tín ngưỡng, văn nghệ dân gian, ngữ văn dân

gian. Đặc biệt tác giả đã mô tả chi tiết lễ hội ven biển Quảng Ngãi, trong đó có lễ

Page 15: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

12

Khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ hội Đua thuyền.

Công trình của Viện Văn hóa Thông tin, Văn hóa cư dân Việt ven biển Phú

Yên, năm 2006 [93] đã cho thấy một số vấn đề về văn hóa biển (đời sống kinh tế,

văn hóa vật thể và phi vật thể; văn học và diễn xướng dân gian) của cư dân Việt ven

biển Phú Yên. Tuy nhiên, cuốn sách mới chỉ dừng lại ở việc mô tả và hệ thống hóa

văn hóa theo các mục, chưa làm rõ được những khái niệm công cụ và chưa thấy

được sự thống nhất cũng như các đặc trưng của đời sống tinh thần trong đó có lễ hội

truyền thống của cư dân ven biển ở Phú Yên. Cũng trong năm 2006, Hội Văn nghệ

Dân gian Việt Nam xuất bản cuốn Văn hóa sông nước miền Trung [26]. Cuốn sách

tập hợp các bài viết của hội thảo “Văn hóa sông nước miền Trung và văn hóa sông

nước Phú Yên”. Các tác giả đã khẳng định miền Trung có văn hóa sông nước và

được biểu hiện qua các thành tố văn hóa như: truyền thuyết dân gian, tục thờ cúng

cá Ông, ca dao, dân ca, hội đua thuyền…

Tác giả Nguyễn Xuân Hương đã xuất bản cuốn Tín ngưỡng cư dân ven biển

Quảng Nam - Đà Nẵng (hình thái, đặc trưng, giá trị) vào năm 2009 [29]. Tác giả đã

nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam, Đà

Nẵng. Trong đó, tác giả chú ý tới tín ngưỡng thờ cá Voi, tín ngưỡng thờ Mẫu và

những giá trị, đặc trưng trong tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam, Đà Nẵng.

Cũng viết về Quảng Ngãi có tác giả Nguyễn Thế Truyền (2010) giới thiệu về Hò

Quảng Ngãi [86]; ...

Công trình của Trần Hoàng (2010): Sinh hoạt văn hoá dân gian cổ truyền làng

biển Cảnh Dương [24]. Với độ dài 231 trang, tác giả giới thiệu những hình thức sinh hoạt

văn hóa dân gian cổ truyền ở làng biển này và nhấn mạnh tầm quan trọng của các lễ hội

ven biển. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy di sản văn hóa dân

gian cổ truyền làng xã. Công trình đã cung cấp những tư liệu có giá trị trên phương diện:

văn hóa, văn học dân gian cổ truyền ở làng biển Cảnh Dương.

Các công trình của Đặng Thị Thúy Hằng (2010) về Lễ hội đền Lê Khôi trong

đời sống văn hóa của cư dân ven biển Thạch Hà, Lộc Hà, Hà Tĩnh [20] và Lê Hồng

Khánh (2010) với Mộ gió, hình nhân và lễ khao lề thế lính Hoàng Sa [31], bước đầu

giới thiệu về văn hóa của người dân biển ở vùng đất mà tác giả đã tiếp cận.

Page 16: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

13

Tác giả Trịnh Sinh (2010) trong bài Người Sa Huỳnh và giao lưu văn hóa trên

biển [50] đã đưa ra các chứng tích khảo cổ học và một số nhận định về vai trò của

người Sa Huỳnh trong quan hệ giao lưu văn hóa trên biển. Ở góc độ lễ hội truyền

thống ven biển với phát triển du lịch, có công trình của tác giả Cao Kỳ Hương (2011)

về Văn hóa du lịch biển Nha Trang [28].

Có thể kể tới nhiều công trình khác nghiên cứu lễ hội truyền thống ven biển.

Tuy nhiên, nhóm tài liệu này nhìn chung chỉ mang tính chất giới thiệu. Chỉ có một số

ít công trình đi sâu nghiên cứu địa điểm cụ thể (làng) như công trình của Trương Duy

Bích, Lê Ngọc Canh, Nguyễn Phương Châm (2000), Văn hóa dân gian làng ven biển

[72]. Đa số các công trình đi theo một bố cục giống nhau là khái quát chung về địa lý,

lịch sử; giới thiệu các phương diện khác nhau của văn hóa dân gian cổ truyền ở các làng

ven biển trong đó có lễ hội truyền thống.

Năm 2011, có thể kể đến bài viết của Nguyễn Hữu Thông: Biển trong lịch sử Việt

Nam dưới góc nhìn của Charles Wheeler (dẫn liệu từ vùng Thuận Quảng) [81]. Tác giả

đã phân tích tư liệu, giải thích vì sao C. Wheeler và nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong

và ngoài nước đều cho rằng sự vắng mặt của biển trong lịch sử Việt Nam là do “bị những

định kiến khi đánh giá trên mặt hiện tượng các vấn đề liên quan đến địa hình, lịch sử,

kinh tế cũng như những hoạt động trong quá trình ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc” [81,

tr.35]. Bài viết của Nguyễn Hữu Thông cho chúng ta hiểu và có cái nhìn đúng hơn về văn

hóa biển miền Trung nói riêng, văn hóa biển Việt Nam nói chung.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Nam Bộ

Nghiên cứu về lễ hội truyền thống ven biển Nam Bộ chủ yếu là các công trình

khoa học đề cập tới các thành tố của lễ hội truyền thống ven biển, có thể kể tới một số

công trình tiêu biểu:

Năm 1994, công trình đáng quan tâm về lễ hội truyền thống ven biển, đó là

cuốn: Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác thảo của Nguyễn Phương Thảo [62].

Cuốn sách tập hợp những bài tiểu luận của tác giả về văn hóa dân gian, trong đó có

những bài đề cập tới lễ hội truyền thống ven biển như lễ hội thờ cá Voi của cư dân

ven biển Bến Tre.

Năm 1999, trong luận án tiến sĩ lịch sử: Lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ

Page 17: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

14

(khía cạnh giao tiếp văn hóa dân tộc), chuyên ngành dân tộc học, Huỳnh Quốc Thắng

[59] đã nghiên cứu các lễ hội cụ thể và phân loại lễ hội: lễ hội thờ cúng thần Thành hoàng

và các nhân vật lịch sử, lễ hội nghề nghiệp, lễ hội thờ Mẫu - nữ thần. Tác giả đã nghiên

cứu, làm nổi bật các đặc điểm lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ qua khía cạnh

giao tiếp văn hóa dân tộc, qua đó xác lập nhận thức khoa học về mối quan hệ văn hóa -

lịch sử giữa dân tộc Việt và các tộc người khác ở nơi đây.

Ngoài ra, trong nhóm tài liệu về vùng biển Nam Bộ còn có nhiều công trình

khác, có thể kể đến: Nguyễn Thanh Lợi (2000) với Tục thờ cá Ông ở Cần Thạch (Cần

Giờ) và ven biển Nam Bộ [37]; Trần Quốc Vượng (2000) với Hát cầu ngư - nét đẹp

văn hóa làng biển [104], hay Nguyễn Chí Bền (2002) với Lễ hội Nghinh Ông ở xã

Bình Thắng, một cách tiếp cận [2].

Năm 2003, Nguyễn Thanh Lợi viết tiếp bài Thờ cá Voi ở thành phố Hồ Chí

Minh [38]. Trong bài viết tác giả đã bổ sung thêm một số nét độc đáo của tục thờ cá

Voi và có sự so sánh với tục thờ cá Voi ở một số tỉnh Nam Bộ. Công trình của Đinh

Văn Hạnh, Phan An (2004), Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu [17] đã

nhấn mạnh đến tín ngưỡng thờ cá Ông (cá Voi) của ngư dân. Các lễ hội có liên quan

đến cá Ông được tác giả thống kê khá chi tiết và đầy đủ.

Năm 2008, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam kết hợp với Viện Nghiên cứu văn

hóa, Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi, Hội Văn học nghệ thuật Kiên Giang xuất

bản cuốn Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ [27]. Có thể nói đây

là một tài liệu đầu tiên khẳng định có văn hóa biển ở miền Trung và Tây Nam Bộ một

cách khoa học và khá đầy đủ. Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu còn băn khoăn chưa

dám khẳng định ở Việt Nam có văn hóa biển ? Với tài liệu này cùng các bài khoa học

của nhiều nhà nghiên cứu trong nước, đã minh chứng cho sự tồn tại văn hóa biển ở

miền Trung và Tây Nam Bộ từ lâu đời.

1.1.4. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh

Riêng về văn hóa biển QN, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về khảo cổ

học khá nhiều. Trong nhóm này, cần phải kể đến một số công trình như: “Báo cáo khai

quật đợt II di chỉ Ngọc Vừng, Xích Thổ (QN)” [18], của Nguyễn Văn Hảo viết năm

1971 được in trong Tư liệu Viện Khảo cổ học. Tiếp theo là công trình của Nguyễn Trúc

Page 18: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

15

Bình (1972): Về tộc danh Đản, Sín trong nhóm người Hoa ở vùng ven biển Quảng Ninh

[3]. Năm 1974, Nguyễn Văn Hảo, Hoàng Văn Sư, Nguyễn Đức Tùng có viết bài Di chỉ

Thoi Giếng (Quảng Ninh) - Phân tích thạch học và bào tử phấn hóa [19]. Trong các

công trình, bài viết này, nhóm tác giả đưa ra một số nhận định về niên đại thông qua các

kết quả phân tích thạch học và bào tử phấn hoa ở di chỉ Thoi Giếng, QN.

Nguyễn Lân Cường (1979), có nghiên cứu “Di cốt người ở hang Bái Tử Long

(QN)” và giới thiệu trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1978 [9]. Về mối

quan hệ của văn hóa Hạ Long trong hệ thống Phùng Nguyên - Đông Sơn, tác giả Hà

Văn Phùng có bài: Văn hóa Hạ Long trong hệ thống Phùng Nguyên - Đông Sơn in

trên tạp chí Khảo cổ học, số 1 năm 1983 [44].

Điển hình trong việc sử dụng phương pháp khảo cổ học, có nhà nghiên cứu

Nguyễn Khắc Sử, năm 1986, ông có bài viết Di chỉ Cái Bèo với tiền sử vùng ven biển

Đông Bắc Việt Nam [52]. Năm 1997 tác giả lại công bố công trình Văn hóa biển tiền

sử Việt Nam: mô hình và giả thiết [54]. Trong công trình này, tác giả đã đưa ra một

mô hình và giả thiết về sự hình thành, giao lưu, tiếp nối, lan tỏa và hội nhập của văn

hóa biển tiền sử Việt Nam. Đây là những công trình không chỉ có giá trị về khảo cổ

học mà còn có giá trị về lý luận văn hóa vùng biển đảo.

Nhiều công trình nghiên cứu về biển QN dưới góc độ khảo cổ học cũng đã phát

hiện ra nhiều giá trị văn hóa to lớn ở các vùng ven biển từ thủa sơ khai cho đến nay. Năm

1994, tác giả Cao Xuân Phổ công bố bài viết: Văn hóa biển Đông Nam Á. Trong tác

phẩm này, những chứng cứ lịch sử của Việt Nam liên quan đến QN được tác giả phân

tích khá cụ thể:

Năm 1149, cảng Vân Đồn được mở, tiếp nhận thương nhân của Trảo Oa,

Lộ Lạc, Xiêm La và buôn bán với các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông (Trung

Quốc) và cả Tam phật tề; vào thế kỷ XIII và XIV, các cảng ở Nghệ An,

Thanh Hóa bị cát đùn đầy, thuyền bè không vào được thì cảng Vân Đồn lại

càng quan trọng trên luồng hải thương của Đại Việt [43, tr.101].

Đây là một nghiên cứu khá sâu sắc về văn hóa biển trong mối tương quan, so

sánh với văn hóa biển của các nước thuộc khu vực Đông Nam Á, và cũng là căn cứ

khoa học để lý giải về lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN.

Page 19: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

16

Năm 1995, Nguyễn Khắc Sử có bài viết: Biển với cư dân tiền sử vùng Đông

Bắc. Tác giả đã chỉ rõ vai trò, vị trí của biển với cư dân tiền sử vùng Đông Bắc Việt

Nam. Ông nhận định:

Biển với văn hóa tiền sử vùng Đông Bắc Việt Nam là một điểm sáng

trong văn hóa Việt Nam. Chúng phát triển liên tục, kế thừa và giao lưu

với thế giới bên ngoài bằng đường biển. Có thể xem vùng biển Đông

Bắc Việt Nam là vùng văn hóa biển đậm nét nhất trong các nền văn hóa

tiền sử nước ta [53, tr.12].

Năm 1996, tác giả Điền Nam - Trần Nhuận Minh có bài Những lễ hội độc đáo

ở tỉnh Quảng Ninh đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian [39]. Tác giả giới thiệu khá chi

tiết về 3 lễ hội truyền thống của QN: lễ hội làng Quan Lạn (huyện Vân Đồn), lễ hội

Tiên Công (thuộc 7 xã vùng nam sông Bạch Đằng thuộc huyện Yên Hưng), hội hái

hoa trong lễ cưới. Bài viết đi sâu giới thiệu những nét độc đáo, màu sắc riêng biệt của

các lễ hội kể trên.

Sách Văn hóa dân gian làng Vân viết về đảo Quan Lạn, h. Vân Đồn, tỉnh QN

của tác giả Nguyễn Quang Vinh được xuất bản năm 2002 [96] cũng giới thiệu đôi nét

về lịch sử, vị thế và cư dân vùng văn hóa làng Vân - một làng quê lâu đời trên đảo,

cách đất liền khá xa. Cuốn sách đề cập đến cuộc sống lao động, các ngành nghề, một

số phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, đình, chùa, nghè, miếu và lễ hội, thơ ca

hò vè sưu tầm ở làng Vân.

Cuốn Dư địa chí Quảng Ninh xuất bản năm 2003 [42] gồm 3 tập. Trong đó tập

3, viết về Văn hóa xã hội, đề cập tới các vấn đề gia đình, dòng họ, làng xã, di tích,

danh thắng, văn học, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, phong

tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, lễ tết, tôn giáo, ăn, mặc, ở, y tế, thể dục thể thao, văn

hóa, báo, phát thanh truyền hình. Các nội dung trên đều được giới thiệu một cách khái

quát, cô đọng, giúp người đọc dễ nắm bắt được những ý cơ bản chứ không đi sâu

miêu tả tỉ mỉ. Giáo trình điện tử Lễ hội truyền thống tiêu biểu ở Quảng Ninh của Trường

Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Hạ Long, năm 2008 [14] là giáo trình phục vụ

cho sinh viên, bước đầu giới thiệu các loại hình lễ hội ở QN, nêu được nguồn gốc, bản

chất, các thành tố cơ bản của lễ hội truyền thống nơi đây.

Page 20: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

17

Năm 2009, Đàm Thị Uyên, Nguyễn Thanh Thủy có bài Tục thờ cúng trong đời

sống tâm linh của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, đăng trên

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á [92]. Tác giả nghiên cứu phong tục thờ cúng khá

phong phú của ngư dân đảo Quan Lạn vào các dịp lễ hội trong năm.

Luận văn thạc sĩ Văn hóa học của Nguyễn Thị Phương Thảo năm 2008 về “Di

tích lịch sử - văn hóa và lễ hội trên đảo Quan Lạn (huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh)” [63] đã nghiên cứu khá tỉ mỉ về hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa trên đảo

Quan Lạn và lễ hội đua thuyền (lễ hội Vân Đồn). Tác giả đã nêu ra được một số đặc

trưng cơ bản của người dân vùng biển nơi đây, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và

phát huy những giá trị văn hóa. Năm 2009 trên Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 300

tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo có bài viết về Lễ hội Quan Lạn, nét văn hóa độc đáo

của ngư dân biển đảo Vân Đồn [64]. Bài viết phân tích những giá trị cơ bản của lễ hội

Quan Lạn, từ đó khẳng định vị thế của vùng đất này không chỉ trong lịch sử mà trong

hiện tại vẫn là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, đậm đà bản sắc xứ sở.

Như vậy, có thể thấy rằng, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào về

văn hóa vùng biển đảo QN để tìm ra những đặc trưng cụ thể của tiểu vùng văn hóa

này qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống. Do vậy, vấn đề nghiên cứu của luận án là

có tính mới. Luận án có kế thừa những nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước,

đồng thời trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề văn hóa của

vùng biển đảo QN.

1.2. Cơ sở lý luận về vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền thống

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của một số học giả như Đinh Gia

Khánh, Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh, Tô Ngọc Thanh, Trần Ngọc Thêm...

chúng tôi trình bày một số khái niệm nhằm xác định cơ sở lý luận cho luận án. Đó là

các khái niệm vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền thống.

1.2.1. Vùng văn hóa

Vấn đề không gian văn hóa đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan

tâm từ cuối thế kỷ XIX. Các lý thuyết tiêu biểu của các nhà nghiên cứu thời kỳ này là:

L. Morgan và E. Taylor với thuyết Tiến hóa luận, A.L. Perxisk với thuyết Khuyếch

tán văn hóa của trường phái Tây Âu, các học giả Xô Viết như M. Lênin và N.N.

Page 21: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

18

Trêbôxarốp với thuyết Loại hình kinh tế - văn hóa, C.L. Wisler với lý thuyết Vùng văn

hóa. Các lý thuyết này phản ánh những bước phát triển của nhận thức con người về

không gian văn hóa hay nói cách khác về sự tương đồng và khác biệt văn hóa.

Ở Việt Nam nghiên cứu về văn hóa vùng cũng đã được quan tâm từ lâu. Nhiều

nhà nghiên cứu có đóng góp to lớn trong lĩnh vực này như Ngô Đức Thịnh, Trần Quốc

Vượng, Đinh Gia Khánh, Lương Văn Hy... Đáng chú ý hơn cả là cuốn Văn hóa vùng và

phân vùng văn hóa ở Việt Nam của GS. Ngô Đức Thịnh.

Khi nghiên cứu không gian văn hóa, không thể không đề cập tới vấn đề vùng

văn hóa, tức là tìm hiểu không gian nảy sinh, tồn tại, phát triển và diệt vong của các

nền văn hóa. Thông qua nghiên cứu văn hóa vùng, có thể thấy được sự đa dạng của

văn hóa các tộc người; sự giao lưu, tiếp biến văn hóa; sự tương đồng và khác biệt giữa

các hiện tượng văn hóa... Từ đó góp phần vào việc nhận thức, kế thừa và phát huy

truyền thống văn hóa địa phương.

Vùng văn hóa là sự hợp thành của nhiều yếu tố văn hóa xét cả trên phương

diện không gian và thời gian. Nhân tố không gian thông thường là sự biểu hiện

thống nhất và đa dạng của văn hóa, còn nhân tố thời gian là biểu hiện của truyền

thống và biến đổi văn hóa. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề này chúng tôi cố gắng tiếp

cận một số luận điểm quan trọng của lý thuyết vùng văn hóa như: ranh giới vùng,

vùng trung tâm...

Theo Huỳnh Khái Vinh:

Vùng văn hóa là một không gian văn hóa được tạo thành bởi các đơn vị địa

lý dân cư địa phương nằm kề nhau liên tục; ở đó có một tập hợp (có khi là

hệ thống) các cơ cấu và đặc trưng văn hóa được hình thành trên cơ sở

tương đồng về quan hệ nguồn gốc và lịch sử; có một “mức tự chủ” nhất

định và được phân biệt rõ ràng giữa các vùng văn hóa với nhau [95, tr.96].

Trần Ngọc Thêm trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tế đã đưa ra khái niệm:

Vùng văn hóa là một không gian lãnh thổ liên tục với hoàn cảnh tự nhiên

tương đối đồng nhất ở bên trong và khu biệt với các không gian lãnh thổ

liền kề bên ngoài, trong đó tồn tại một cộng đồng người thống nhất tương

đối (gồm một hay nhiều tộc/nhóm người), đã cùng cư trú và tiếp xúc giao

Page 22: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

19

lưu đồng hướng với nhau trong một thời gian đủ dài để tạo nên được một

hệ thống giá trị chung đặc thù cho phép khu biệt nó với các hệ thống giá

trị của những vùng có liên quan [67, tr.47].

Theo Ngô Đức Thịnh:

Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt hoàn

cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống, ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ

nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế -

xã hội, giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên

trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt

văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với

vùng văn hóa khác [75, tr.84].

Trần Quốc Vượng và các tác giả của giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam cũng

khẳng định: “Trong tâm thức dân gian Việt Nam, sự phân biệt về cái chung, nét riêng

giữa các vùng, miền luôn có một vị thế quan trọng. Cái chung, nét riêng này thường

được gắn với một địa danh, một giới hạn lãnh thổ nào đó” [101, tr.208]. Mỗi vùng,

miền, địa phương nhất định đều có môi trường tự nhiên, môi trường xã hội khác nhau.

Do đó, mỗi cá nhân văn hóa, hiện tượng văn hóa khi ra đời đều chịu sự tác động qua

lại lẫn nhau và tạo nên sắc thái văn hóa chung của vùng, tạo nên sự khác biệt của vùng

này so với vùng khác.

Như vậy, có thể nói vùng văn hóa do rất nhiều yếu tố hợp thành, các yếu tố đó

không tách rời nhau mà luôn gắn bó khăng khít, có khi cái nọ là tiền đề cho sự ra đời,

phát triển của cái kia và ngược lại. Tiêu biểu là các nhân tố: môi trường tự nhiên và các

hoạt động sản xuất của dân cư, tộc người và ngôn ngữ, trình độ phát triển kinh tế - xã hội,

giao lưu văn hóa. Xác định vùng văn hóa phải xác định nó là một vùng lãnh thổ có những

đặc điểm tương đối riêng biệt về đất đai, khí hậu, lịch sử, phong tục tập quán, tôn giáo, tín

ngưỡng, văn học dân gian, diễn xướng dân gian... trong đó diện mạo của văn hóa vật thể

và văn hóa phi vật thể có thể đem ra để khu biệt với các vùng văn hóa khác. Điều đó,

không có nghĩa là chỉ không gian lãnh thổ mới có thể giúp ta định vị được vùng văn hóa

mà các thành tố văn hóa mới là yếu tố quan trọng, quyết định. Thực tế này đã được các

nhà khoa học chứng minh rằng: có sự thống nhất trong đa dạng của các vùng văn hóa.

Page 23: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

20

Cách phân vùng văn hóa của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam có những điểm

trùng nhau và cũng có những điểm khác biệt, song cách chia nào cũng có những lý do

hợp lý. Ngô Đức Thịnh, trong công trình Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt

Nam chia nước ta thành 7 vùng văn hóa. Đinh Gia Khánh chia nước ta thành 9 vùng

văn hóa. Trần Quốc Vượng chia thành 6 vùng văn hóa. Cũng theo các tác giả trên thì

mỗi vùng văn hóa lại có thể chia ra làm nhiều tiểu vùng, giữa các tiểu vùng cũng có

những nét tương đồng và khác biệt.

Trong các tiêu chí để phân loại vùng văn hóa, không phải mọi tiêu chí đều có giá

trị như nhau, một số tiêu chí trong đó có vai trò quan trọng hơn các tiêu chí khác.

Những biểu hiện của văn hóa vùng vô cùng phong phú và đa dạng, thể hiện trên

tất cả các mặt hoạt động của con người như:

Lối sống, nếp sống của cư dân, như việc làm lụng, nếp ăn mặc, đi lại giao

tiếp, nếp vui chơi giải trí, phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng, lễ hội; các hoạt

động văn hóa - nghệ thuật, nhất là văn hóa nghệ thuật dân gian, âm nhạc,

dân ca, kiến trúc, trang trí dân gian, và chừng mực nào đó còn thấy ở

phong cách và tâm lý của con người...” [75, tr.92].

Khi nghiên cứu văn hóa vùng, những biểu hiện trên không phải lúc nào cũng rõ

ràng, mỗi vùng sẽ có những hiện tượng được coi là tiêu biểu nhất tạo nên đặc trưng văn

hóa riêng của vùng đó. Các cấp để phân vùng văn hóa có từ chung đến riêng, từ rộng

đến hẹp, nhưng nhìn chung phản ánh được sắc thái phong phú và đa dạng của tính

thống nhất và khác biệt của văn hóa vùng.

Theo Ngô Đức Thịnh, hệ thống các cấp bậc vùng văn hóa được phân chia với

mức độ rộng, hẹp như sau: miền (khu vực), tiểu khu vực, vùng, tiểu vùng... Tương ứng

với mỗi cấp bậc phân loại như vậy, lại có tập hợp các tiêu chí phân vùng ở phạm vi

chung và riêng khác nhau.

Văn hóa vùng về cơ bản là liên văn hóa, hình thành cơ bản trên sự giao lưu,

tiếp biến văn hóa giữa các tộc người và nhóm dân cư khác nhau. Vùng văn hóa bao

giờ cũng là một phạm vi không gian liền nhau liên tục.

Trong phân vùng văn hóa, ranh giới giữa các vùng bao giờ cũng là điều khó

phân định. Khi phân vùng, nhà khoa học phải xác định ranh giới chủ quan trên thực

Page 24: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

21

thể khách quan mà thực ra giữa chúng không có ranh giới rõ ràng. Nhiều trường hợp

ranh giới vùng văn hóa thường là các vùng chuyển tiếp rộng hẹp khác nhau, chứ

không giống như địa giới trên bản đồ hành chính. Do đó, vùng văn hóa không hoàn

toàn là vùng địa lý và càng không phải là vùng hành chính. Tuy nhiên cũng không thể

phủ nhận hoàn toàn vai trò của ranh giới hành chính, vì khi xem xét các nhân tố tác

động tới vùng văn hóa thì nhân tố hành chính một phần tạo nên sự khác biệt văn hóa

giữa các vùng, miền.

Vùng văn hóa thường gồm nhiều tiểu vùng. Tiểu vùng văn hóa thường dao

động trong một phạm vi địa giới nhất định, mặc dù không bao giờ trùng khít. Quy mô

của một tiểu vùng có thể là một xã, một huyện, một tỉnh hoặc lớn hơn. Ở đây tập trung

các hiện tượng văn hóa bản địa, hoặc được du nhập từ nơi khác đến nhưng đã được

"đồng hóa", thể hiện rõ nét đặc sắc riêng của tiểu vùng, tạo nên sự thống nhất trong đa

dạng của văn hóa vùng. Như vậy, trên cơ sở lý thuyết về vùng văn hóa của GS. Ngô

Đức Thịnh, tác giả luận án bước đầu đưa ra khái niệm văn hóa vùng biển đảo QN làm

cơ sở nghiên cứu:

Văn hóa vùng biển đảo QN là văn hóa của một vùng biển đảo có lịch sử lâu

đời, có sự tương đồng về dân cư, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, có sự giao lưu

văn hóa. Trải qua quá trình lao động và sáng tạo, cư dân vùng biển đảo QN đã tạo

nên những đặc điểm văn hóa tiêu biểu (đó là: đậm yếu tố nội đồng, đậm tính lịch sử,

nhạt yếu tố biển…). Những đặc điểm văn hóa này được thể hiện qua sinh hoạt văn

hóa vật chất và tinh thần (đặc biệt qua các lễ hội truyền thống), có thể phân biệt với

văn hóa biển đảo các vùng khác.

Nhắc tới văn hóa vùng biển đảo QN là nhắc tới một vùng văn hóa gắn với các

địa danh như Vân Đồn, Trà Cổ, Hà Nam…; gắn với các trận đánh lịch sử như Vân

Đồn, Bạch Đằng, Cửa Ông…và gắn với các lễ hội tiêu biểu như: lễ hội Vân Đồn, lễ

hội đền Cửa Ông, lễ hội Bạch Đằng, lễ hội Tiên Công…

Nghiên cứu văn hóa vùng biển đảo QN, nghĩa là nghiên cứu văn hóa vùng, giới

hạn là vùng biển đảo QN. Văn hóa biển đảo có thể được coi là 1 thành tố của văn hóa

vùng. Vì vậy, việc nghiên cứu và đưa ra khái niệm về văn hóa biển đảo ở vùng biển

đảo QN là mong muốn góp phần nhận diện đầy đủ hơn văn hóa của một vùng.

Page 25: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

22

1.2.2. Văn hóa biển đảo

Có thể nói, năm 1996, một loạt công trình về văn hóa biển có giá trị lý luận được

công bố. Trong số này, phải kể tới công trình do Trần Quốc Vượng và Cao Xuân Phổ

đồng chủ biên có tiêu đề Biển với người Việt cổ [102]. Cuốn sách gồm hai phần: phần 1

“Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa, cái nhìn về biển của người Việt Nam” và phần 2 “Các

nền văn hóa biển ở Việt Nam”. Trong công trình này, chúng tôi đánh giá cao phần lịch sử

cổ xưa, cái nhìn về biển của người Việt Nam. Các tác giả đã đưa ra những dẫn chứng rất

xác thực theo tiến trình lịch sử, từ đó giúp chúng ta có nhận thức sâu hơn về sự xuất hiện

của văn hóa biển đảo Việt Nam.

Năm 2006, Nguyễn Khắc Sử có bài: Văn hóa Hạ Long, văn hóa biển tiền sử Việt

Nam. Ngoài phần làm sáng tỏ những đặc trưng của văn hóa biển Hạ Long, bài viết còn

đưa ra khái niệm về văn hóa biển dưới góc độ khảo cổ học. Theo tác giả: “Văn hóa biển

là thuật ngữ khảo cổ dùng để chỉ các di tích hoặc văn hóa khảo cổ của các cộng đồng

người sống trong môi trường biển, khai thác biển và có mối giao lưu rộng rãi với xung

quanh, tạo dựng nên nền văn hóa mang đượm màu sắc biển” [55, tr.29].

Năm 2008, Nguyễn Khắc Sử tiếp tục hướng nghiên cứu khảo cổ học với bài:

Văn hóa biển tiền sử Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau những phác thảo, dẫn chứng khảo

cổ học, cuối bài viết, tác giả đưa ra kết luận về văn hóa biển tiền sử Cam Ranh:

Là một tiến trình chiếm lĩnh, khai phá và xác lập thế đứng của con

người trên vùng biển và hải đảo cực nam Trung Bộ. Đó là quá trình

thích ứng của con người với môi trường biển, nhất là sự dao động của

mực nước biển, sự thay đổi của sản vật biển. Quá trình ấy còn gắn liền

với sự tiến bộ về kỹ thuật chế tác công cụ lao động bằng đá, bằng đồng,

bằng sắt; kỹ thuật chế tạo đồ gốm và đặc biệt là kỹ thuật chế tạo thuyền

mảng và khai thác nguồn lợi của biển [56, tr.21].

Kết luận này đã thể hiện quan niệm của tác giả về văn hóa biển đảo. Tuy nhiên,

các khái niệm của Nguyễn Khắc Sử mới chỉ dừng lại ở góc độ khảo cổ học với những tập

hợp các chứng tích (chủ yếu mang tính vật thể), chưa đưa ra được khái niệm về văn hóa

biển đảo mang tính chất tổng hợp.

Page 26: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

23

Cũng đề cập tới khái niệm văn hóa biển, năm 2007, Nguyễn Duy Thiệu có bài Suy

ngẫm về văn hóa biển ở Việt Nam. Tác giả đưa ra khái niệm: “Nói văn hóa biển là nói về

lối sống của cộng đồng cư dân dọc theo ven biển khai thác (và tham gia khai thác) các

nguồn lợi thủy sinh ở sông, biển nói chung để sinh tồn” [69, tr.28]. Ở đây, khái niệm về

văn hóa biển đã nhấn mạnh yếu tố lối sống của ngư dân ven biển trong việc khai thác

nguồn lợi thủy sinh. Như vậy, khái niệm này mới chỉ đề cập tới văn hóa biển ở phạm vi

hẹp, đó là lối sống (có thể bao gồm phong tục, tập quán, tín ngưỡng) chưa đề cập tới văn

hóa vật thể của ngư dân ven biển. Khái niệm này cũng được tác giả sử dụng xuyên suốt

trong bài viết: Vài suy nghĩ về di sản văn hóa biển ở Việt Nam [70, tr.47].

Năm 2010, Ngô Đức Thịnh đưa ra khái niệm về văn hóa biển trong bài: Truyền

thống văn hóa biển cận duyên của người Việt. Tác giả định nghĩa:

Từ góc nhìn nhân học văn hóa, văn hóa biển được hiểu như là hệ thống

các tri thức của con người về môi trường biển, các giá trị và biểu trưng

rút ra từ những hoạt động sống trong môi trường ấy. Cùng với nó là

những cảm thụ hành vi ứng xử, những nghi lễ, tập tục, thói quen của con

người tương thích với môi trường biển [78, tr.15].

Đây là một khái niệm khá hoàn thiện bởi lẽ tác giả đã khái quát được văn hóa

biển với đầy đủ nội hàm của nó mà các định nghĩa khác chưa đề cập hoặc đề cập ở

góc độ hẹp hơn.

Tháng 6, năm 2011 tại Hội thảo khoa học toàn quốc Văn hóa biển đảo ở Khánh

Hòa diễn ra tại Nha Trang, Trần Ngọc Thêm đã có báo cáo đề dẫn “Văn hóa biển đảo

và văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa” [66]. Trong báo cáo này, tác giả đề cập tới hai vấn

đề chính: thứ nhất, văn hóa biển và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa biển (phần

này tác giả cho rằng cần phần biệt văn hóa biển với văn hóa đất liền, văn hóa biển cận

duyên, văn hóa đồng bằng… và phải có: nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc dựa trên luật

cung cầu và tiết kiệm của văn hóa); thứ hai, văn hóa biển ở Việt Nam nhìn từ chủ thể

và trong thời gian, không gian (phần này tác giả tập trung vào việc phân tích văn hóa

biển theo không gian, mà cụ thể là nhìn theo trục Bắc - Nam và Đông - Tây).

Công trình của Lê Ngọc Thắng, Đào Bá Dậu công bố năm 1983: Đôi nét về

làng biển ở nước ta [58] đã khái quát được những nét tiêu biểu nhất của làng biển Việt

Page 27: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

24

Nam về đặc điểm kinh tế, phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Bài viết là nguồn tư liệu quý

cho việc nghiên cứu sâu về văn hóa làng biển hiện nay.

Có thể nói cuốn Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam của Nguyễn Duy Thiệu, xuất

bản năm 2002 [68] là công trình đầu tiên đề cập khá đầy đủ cơ sở lý luận về đặc

trưng, tính chất của văn hóa biển Việt Nam. Cuốn sách đã đưa ra các nội dung khái

quát nhất về ngư dân Việt Nam như Quá trình hình thành các cộng đồng ngư dân, đời

sống vật chất, tinh thần của ngư dân... Và đặc biệt, trong công trình tác giả phân cộng

đồng ngư dân làm nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, tác giả chú tâm nghiên cứu khá

sâu về đời sống của ngư dân ven biển miền Trung và Nam Bộ, phần Bắc Bộ có đề cập

nhưng không nhiều.

Năm 2010, Nguyễn Thị Hải Lê với những bài viết về văn hóa biển, trong đó

nổi bật là bài: Đặc trưng văn hóa biển của người Việt [34]. Mặc dù, không nhắc tới

khái niệm văn hóa biển nhưng tác giả đã đưa ra và phân tích khá rõ nét 5 đặc trưng cơ

bản về văn hóa biển của người Việt là: Yếu tố biển xen lẫn yếu tố nông nghiệp - đồng

bằng và luôn tồn tại những cặp đối lập, song hành; Truyền thống biển trong văn hóa

của người Việt là truyền thống biển cận duyên; Xét theo trục không gian, chất biển từ

nhạt ở miền Bắc, trở nên đậm hơn ở miền Trung và lại ít đi khi vào Nam Bộ, theo trục

thời gian, chất biển ngày càng đậm đặc theo tiến trình lịch sử; Đã tiếp thu truyền

thống biển của các dân tộc khác trong quá trình tiếp xúc và giao lưu; Biểu tượng biển

thể hiện tâm hồn dân tộc. Cuối cùng, tác giả kết luận: “Người Việt sở hữu một nền

văn hóa biển” [34, tr.91].

Cùng năm 2010 có công trình của Trần Thị Mai An: Phác thảo yếu tố biển trong

văn hoá Việt Nam [1] đã phác thảo diện mạo văn hóa biển trong văn hóa Việt Nam.

Mặc dù trên phương diện nào đó, có sự tương đồng với các đặc trưng của văn hóa biển

trong văn hóa Việt Nam của Nguyễn Thị Hải Lê, nhưng Trần Thị Mai An đã hệ thống

hóa các vấn đề như khái niệm văn hóa, văn hóa biển, nguồn gốc của văn hóa biển; phân

tích các yếu tố biển trong tri thức dân gian của người Việt; các hình thức sinh kế sơ khai

trên biển và yếu tố đô thị biển trong lịch sử. Tác giả phân tích “yếu tố đô thị biển trong

lịch sử” ở một số địa điểm như Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An... các phố cảng như Thanh

Hà, Bao Vinh ở Thừa Thiên - Huế, Nước Mặn (Bình Định)... Tác giả còn đưa ra nhận

Page 28: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

25

định “một vài phố cảng nêu ở trên cũng đủ minh chứng rằng người Việt từ rất sớm đã

biết hướng ra biển để mở rộng giao lưu buôn bán với bên ngoài” [1, tr.94].

Nghiên cứu sâu về văn hóa vùng ven biển, có đề tài cấp nhà nước Đặc điểm cư

dân và văn hóa vùng ven biển trong quá trình phát triển đất nước hiện nay của Trần Văn

Hiệp, năm 2010 [23]. Công trình đã làm rõ được những đặc điểm cơ bản và vai trò của cư

dân cũng như vai trò của văn hóa vùng ven biển, hải đảo Việt Nam trong quá trình phát

triển đất nước. Tác giả cũng phân tích được những nhân tố cơ bản tác động tới cư dân và

văn hóa vùng ven biển, hải đảo Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất quan điểm, định

hướng và các giải pháp nhằm phát huy vai trò cư dân và văn hóa vùng ven biển, hải đảo

phù hợp với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.

Ngoài các tài liệu trên, trong nhóm tài liệu lý luận phải kể tới các bài của:

Phạm Ngọc Trung (2012), Sông, biển với văn hóa Việt Nam [84]; Nguyễn Văn Kim

(2012), Tri thức về biển và tư duy hướng biển qua một số trước tác của Lê Quý Đôn

[33]; Phạm Xuân Hoàng (2013), Văn hóa biển Việt Nam [25]... Tuy nhiên, các công

trình này cũng mới chỉ điểm qua vai trò của văn hóa biển đối với văn hóa Việt Nam,

chưa có những nội dung nổi bật về mặt lý luận trong nghiên cứu văn hóa biển.

Năm 2013, bài viết về Tính đa dạng và vai trò của văn hóa biển đối với sự

phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay [65] của Nguyễn Thị Phương Thảo đưa ra

một số đặc trưng cơ bản của văn hóa biển Việt Nam như: văn hóa biển của người

Việt về cơ bản vẫn là văn hóa nông nghiệp - mà ở đây là văn hóa tiểu nông, tức là

nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế nhưng lại luôn là thứ nông

nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, tự cấp tự túc; văn hóa biển của người Việt trước hết là

văn hóa của những người canh giữ biên giới; tính đa dạng của văn hóa biển Việt

Nam thể hiện qua việc hầu hết ở các địa phương ven biển đều kết hợp thờ cúng tổ

tiên, thờ thần Thành hoàng làng, thờ các hiện tượng tự nhiên với thờ các vị thần

liên quan tới biển (lễ Cầu Ngư, lễ hội Nghinh Ông...). Năm 1984, Ngô Đức Thịnh

có bài Tìm hiểu thuyền bè truyền thống Việt Nam [77]. Bài viết là công trình nghiên

cứu chuyên biệt về văn hóa vật chất vùng biển (thuyền bè).

Trong nhóm tài liệu lý luận về văn hóa biển, nổi bật hơn cả là công trình

Hiện tượng văn hóa biển và văn minh biển của E. Ju.Tereshchenko do Đoàn Tâm

Page 29: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

26

dịch (2011) [57]. Bài viết đã phân tích các nguyên tắc phương pháp luận nghiên

cứu văn hóa biển như một vùng lịch sử - văn hóa. Dựa trên các công trình nghiên

cứu của L.I. Mechnikov, F. Ratzel, Carl Schmitt (Carl Schmitt Dorotic), V.P.

Semenov - Tjan - Shanskji, tác giả đối sánh các hệ quan niệm về văn hóa biển và

văn minh biển, phân biệt văn hóa biển với văn minh biển như sau:

Văn hóa biển là một khái niệm đã được xác định vững chắc, nó giả định

có sự hiện diện của một quốc gia có phúc lợi gắn liền với Đại dương thế

giới; nền kinh tế và chính trị của quốc gia đó phụ thuộc sâu sắc vào hoạt

động ở vùng mặt nước Đại dương thế giới. Khác với văn minh biển, văn

hóa biển gắn liền với các lối thức thích nghi của cộng đồng đó vì sự

sống còn của mình trong môi trường cảnh quan [57, tr.44].

Ngoài ra, tác giả còn phân tích các công trình nghiên cứu có giá trị về văn

hóa biển và văn minh biển ở các cấp độ khác nhau.

Từ góc độ văn hóa biển với ẩm thực, năm 2012 có bài Yếu tố biển trong ẩm

thực của người Việt [35] của Nguyễn Thị Hải Lê. Tác giả cho rằng dấu ấn biển trong

cơ cấu bữa ăn của người Việt xuất phát từ 2 yếu tố tự nhiên như sau:

“Thứ nhất, biển Đông là một vùng biển rất giàu có. Sự dồi dào, phong phú của

các loài hải sản nơi đây đã là kho dự trữ thức ăn không bao giờ cạn.

Thứ hai, nhờ có biển Đông mà khí hậu nước ta mang đặc tính của khí hậu đại

dương, rất thuận lợi cho các loài thực vật phát triển. Biển đã góp phần quan trọng để

làm nên hằng số văn hóa Việt Nam, một thành phần không thể thiếu được trong cơ

cấu bữa ăn của người Việt (cơm - rau - cá)”.

Bài viết có giá trị trong việc chứng minh sự kết hợp ăn ý trong văn hóa ẩm thực

của cư dân sống trong điều kiện tự nhiên đa dạng, phong phú như nước ta.

Về sự gắn bó của yếu tố sông, biển trong văn hóa Việt Nam có nghiên cứu Phạm

Ngọc Trung (2012): Sông, biển với văn hóa Việt Nam [84]. Qua phân tích, tác giả nhận

định: sông, biển là môi trường sống, môi trường lao động sản xuất đồng thời cũng là

nhân tố tạo nên phong tục, tập quán độc đáo của người Việt; tác động đến văn hóa quân

sự, nghệ thuật Việt Nam. Cuối bài viết tác giả kết luận: “Hệ thống sông ngòi và biển

đảo Việt Nam, trải qua hàng ngàn năm, không chỉ gắn bó và trở thành môi trường sống

Page 30: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

27

của người Việt mà còn là những con đường chuyên chở văn hóa, văn minh tạo nên dấu

ấn của văn hóa sông biển trong văn hóa Việt Nam”.

Tổng hợp các ý kiến trên, tác giả luận án mạnh dạn bước đầu đưa ra khái niệm

văn hóa biển đảo như sau: văn hóa biển đảo là một hiện tượng văn hóa được bắt

nguồn dưới tác động của môi trường biển đảo lên cuộc sống của con người. Từ đó,

hình thành nên hệ thống những tri thức, các tục lệ, các giá trị, các biểu tượng văn

hóa… về biển đảo.

Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc trưng cơ bản của văn hóa biển đảo,

đó là: tính nhân sinh, tính lịch sử, tính tương tác... Giống như những hiện tượng văn

hóa khác, các biểu hiện cơ bản của văn hóa biển đảo (hay các thành tố của văn hóa biển

đảo) là: văn hóa ẩm thực, văn hóa mặc, lễ tết và lễ hội, tôn giáo và tín ngưỡng, phong tục,

tập quán… Sự phong phú của những thành tố văn hóa trên sẽ tạo nên mỗi bức tranh về

mỗi vùng văn hóa biển đảo đa sắc màu.

Tuy nhiên, giữa văn hóa đất liền và văn hóa biển có sự khác biệt khá lớn. Điều

tạo nên sự khác biệt, chính là quan hệ của con người với không gian. Đất liền vừa là

không gian sống, vừa là không gian để kiếm sống. Biển đối với con người không phải

là không gian sống, mà chỉ là không gian để kiếm sống. Giữa văn hóa biển với văn

hóa sông nước cũng có sự khác nhau. Sông nước nằm trên đất liền, thuộc về lục địa,

còn biển cả thì không. Đa số nước ở các dòng sông đều có thể phục vụ được hầu hết

hoạt động cuộc sống của con người nhưng trên biển cả thì không.

1.2.3. Lễ hội truyền thống

1.2.3.1. Khái niệm chung về lễ hội

Lễ hội dân gian là thuật ngữ dùng để chỉ một loại hình sinh hoạt văn hóa dân

gian tổng hợp bao gồm nhiều thành tố tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán, văn

học nghệ thuật dân gian... diễn ra tại một địa điểm, một thời gian nhất định mang tính

chu kỳ [70]. Lễ hội bao giờ cũng gắn bó với một cộng đồng cư dân. Nếu tết âm lịch là

sinh hoạt của cả cộng đồng thì ngày hội là ngày tết của một cộng đồng dân cư nhất

định nào đó. Lễ hội gắn bó với từng làng quê. Mặt khác, cũng mang tính tộc người rất

rõ. Các tộc người khác nhau sẽ có những lễ hội khác nhau.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Đinh Gia Khánh cho rằng:

Page 31: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

28

Trước hết hội lễ là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng tất yếu nảy

sinh trong xã hội loài người trên cơ sở một nhu cầu không thể không thỏa

mãn của con người sống thành xã hội. Danh từ hội lễ nên được dùng như

một thuật ngữ văn hóa. Có thể sơ bộ xác định ý nghĩa của thuật ngữ này theo

2 thành tố là hội và lễ. Hội là một tập hợp đông người trong một sinh hoạt

cộng đồng. Lễ là các nghi thức đặc thù gắn với sinh hoạt ấy [32, tr.172].

Để phân biệt hội lễ dân gian và hội lễ tôn giáo ông cũng đưa ra quan điểm: hội lễ

dân gian khác với hội lễ tôn giáo vì bao giờ cũng lôi cuốn đại đa số dân chúng tham gia

hơn. Vì thế, đi sâu nghiên cứu lễ hội dân gian thì có thể tìm hiểu tác động của hội lễ vào

đời sống dân chúng cũng như nhu cầu mà dân chúng muốn được thỏa mãn qua hội lễ.

Ngô Đức Thịnh nhận định:

Với cộng đồng làng xã, lễ hội còn là môi trường nhập thân và trao

truyền văn hoá giữa các thế hệ, không những đảm bảo sự thông cảm văn

hóa của cộng đồng, mà còn gìn giữ sự nhất quán, thống nhất văn hóa

cộng đồng giữa các thế hệ già và trẻ. Những trẻ thơ cảm nhận văn hóa

cộng đồng phần nhiều qua môi trường lễ hội, rồi từ đó kế thừa, phát huy

và trao truyền lại cho thế hệ kế tiếp [72, tr.129].

Ở Việt Nam, lễ hội gắn bó với làng xã như một thành tố có tính chất tổng hợp

trong các thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng. Lễ hội cổ truyền là

một “thời điểm mạnh của sinh hoạt cộng đồng” (chữ dùng của Đinh Gia Khánh) một

thành tố có tính chất tổng hợp trong các thành tố: tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật

biểu diễn dân gian...

Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi cho rằng khái niệm lễ hội cổ truyền của

Ngô Đức Thịnh là phù hợp với hướng nghiên cứu của luận án. Vì vậy chúng tôi sử

dụng khái niệm lễ hội cổ truyền theo những nội dung sau:

+ Là một hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp bao gồm nhiều hình thức

diễn xướng nhỏ, kết hợp hữu cơ với nhau tạo thành tổng thể thống nhất.

+ Là một hình thức biểu hiện tâm linh, không còn là thế giới hiện thực mà là thế

giới biểu tượng. Nó tái hiện lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội trong một thời điểm mạnh,

thời điểm có giá trị đặc biệt, thời điểm thiêng, khác với thời gian thường ngày.

Page 32: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

29

+ Lễ hội cổ truyền đạt tới hiệu quả xã hội nhiều mặt, nó tạo nên và biểu trưng

cho sức mạnh cố kết cộng đồng, nó là niềm cộng cảm và cộng mệnh của cộng đồng,

thỏa mãn ước vọng vươn tới sự hòa đồng giữa con người với thiên nhiên, với cội

nguồn [73, tr.36-40].

Trong khái niệm này, GS. Ngô Đức Thịnh dùng từ cổ truyền với ý nghĩa chỉ

thời gian là các lễ hội ra đời, lưu truyền, có nhiều yếu tố cổ từ trước Cách mạng tháng

Tám (1945). Nhưng trong luận án, những lễ hội vùng biển đảo QN được nghiên cứu

trong thời điểm hiện đại, có nhiều biến đổi so với các lễ hội cổ truyền trước đây, vì

vậy, tác giả chọn tính từ truyền thống thay cho tính từ cổ truyền. Tuy nhiên, lễ hội

truyền thống của vùng biển đảo QN vẫn có những yếu tố cổ, song không nhiều.

Nghiên cứu lễ hội truyền thống của vùng biển đảo QN với mong muốn vừa bảo tồn,

vừa phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp vùng phên giậu của tổ quốc.

1.2.3.2. Các thành tố của lễ hội

+ Lễ (nghi lễ)

Lễ (rite) là một thành tố trong lễ hội. Có lễ hội, phần lễ là chính, phần hội khá

mờ nhạt. Nhưng cũng có những lễ hội, phần hội lại là chính, phần lễ là phụ. Trong lễ

hội, lễ gắn với những nghi thức, nghi lễ (trong việc thờ cúng, tế lễ...) được con người

tiến hành theo những qui tắc nhất định mang tính biểu trưng có ý nghĩa cảm tạ hay tôn

vinh một nhân vật hoặc một sự kiện, cầu mong những điều may mắn, tốt lành.

Lễ là một hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của dân

làng đối với các thần linh, lực lượng siêu nhiên. Đồng thời, lễ cũng phản ánh những

nguyện vọng ước mơ chính đáng của con người. Lễ trong hội không đơn lẻ mà có một

hệ thống liên kết, có trật tự và cùng hỗ trợ nhau.

Nghi lễ là những nghi thức tiến hành theo những nguyên tắc, luật tục nhất định,

mang tính biểu trưng để đánh dấu, kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó nhằm mục

đích cảm tạ, tôn vinh, ước nguyện về sự may mắn, tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ

những đối tượng siêu hình đang được thờ cúng.

Nghi lễ cũng thể hiện trong vật dâng cúng. Vật dâng cúng chia làm 2 loại: vật

dâng cúng thông thường và vật dâng cúng đặc biệt. Vật dâng cúng đặc biệt gắn kết với

nhân vật phụng thờ. Trong các vật dâng cúng, có những vật được tạo ra từ một quan

Page 33: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

30

niệm và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, lan truyền từ vùng này sang

vùng khác như bánh chưng, bánh dày...

Nghi thức thờ cúng là phương tiện để con người giao tiếp với thần linh, bao

gồm: bài văn tế, trình tự buổi cúng tế và các động tác cúng tế. Nghi thức thờ cúng

thường diễn ra trong phạm vi không gian hẹp. Trong các yếu tố trên của nghi thức

thờ cúng thì bài văn tế có nhiều sự thay đổi qua từng năm còn trình tự thờ cúng và

động tác hành lễ thì giống nhau qua các lễ hội vì được thực hiện theo các quy định

cúng tế từ xưa.

Lễ thường diễn ra bên trong thần điện, cũng có khi được mở rộng ra ngoài thần

điện với đám rước hay diễn xướng sự tích về công lao của thần linh. Lễ được xem như

“bức thông điệp” của hiện tại gửi tới quá khứ, của thế giới hiện thực gửi tới thế giới

siêu nhiên.

Như vậy, lễ có thể hiểu là những nghi thức bao gồm những hành vi, động tác

theo những quy tắc nhất định, được thể chế hóa nhằm biểu đạt lòng tôn kính của con

người đối với vị thần mà họ thờ phụng, đồng thời thể hiện ước nguyện về một cuộc

sống bình yên, may mắn, tốt lành.

Trong phần lễ, nghi thức tiến hành với nhân vật phụng thờ là quan trọng

nhất. Nhân vật phụng thờ cũng có nhiều đối tượng khác nhau, có thể là nhiên thần,

hay nhân thần. Ở góc độ tín ngưỡng, nhiều làng là một vị Thành hoàng làng, hoặc

là một Phúc thần, vị thánh Mẫu, thậm chí là một loài vật ở ngoài khơi xa (cá

Ông/cá Voi). Ở góc độ cấp bậc, các triều đình phong kiến xưa thường phân thành:

Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng thần. Có hai cách mà người dân

thường thiêng hóa các nhân vật phụng thờ này: lịch sử hóa và huyền thoại hóa.

Nhân vật phụng thờ gắn với lễ hội truyền thống như là thành tố quan trọng nhất. Vì

không có tín ngưỡng, không có nhân vật được phụng thờ, không thành lễ hội.

+ Hèm

Hèm là một hành động nghi lễ nhằm diễn tả lại một quãng đời đặc biệt hoặc một

hoạt động tiêu biểu của thần lúc sinh thời. Hèm là việc kín, thường diễn ra ở hậu cung,

được giữ bí mật, do một số ít người được làm và không cho người ngoài làng biết.

Page 34: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

31

Không phải các lễ hội đều có tục hèm, mà chỉ ở lễ hội có sự tích không bình

thường về vị thần được thờ phụng. Những lễ hội đã có hèm thì không thể bỏ hèm, đó

là biểu hiện của lòng tôn kính đối với thần Thành hoàng, với những gì thần đã trải qua

từ thủa hàn vi.

+ Hội

Hội là yếu tố phát sinh trong lễ hội. Hội thường diễn ra bên ngoài thần điện,

xung quanh thần điện hay mở rộng ra toàn bộ lãnh thổ cộng đồng, diễn ra trong thời

gian lễ hoặc sau đó. Hội là một sinh hoạt văn hóa dân dã, phóng khoáng, diễn ra ngoài

trời để dân làng vui chơi với những trò hấp dẫn. Hội bao gồm hệ thống các trò chơi,

trò diễn phong phú và đa dạng. Bản chất của hội là vui chơi, chơi thoải mái, thỏa

thích, không phân biệt, không bị ràng buộc bởi lễ nghi, tôn giáo, đẳng cấp…

Hội là tập hợp những hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội của một cộng đồng

dân cư nhất định, là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người dự theo phong tục truyền

thống hoặc nhân những dịp đặc biệt. Những hoạt động diễn ra trong hội phản ánh điều

kiện, khả năng và trình độ phát triển của địa phương, đất nước ở vào thời điểm diễn ra

các sự kiện đó. Hội là sự vận động hối hả, liên tục của các trò chơi, trò diễn và cả các

trạng thái, hình thức, màu sắc, âm thanh. Song một điều kiện dễ nhận thấy, đó là hội

tuy ồn ào, náo nhiệt nhưng không hề hỗn độn, sa đà, thiếu quy củ bởi trong hội có lễ.

Như vậy, hội có thể hiểu là những hoạt động vui chơi, giao lưu nhân một sự kiện đặc

biệt hoặc theo chu kỳ sinh hoạt văn hóa dân tộc.

+ Diễn xướng dân gian, trò diễn dân gian

Diễn xướng trong lễ hội là sự tái diễn cuộc sống dưới hình thức nghệ thuật và

nghi lễ thông qua các trò tục nhằm làm cho trò tục ấy đẹp hơn. Diễn xướng dân gian

là hình thức biểu diễn văn hóa nghệ thuật và nghi lễ, bao gồm những hành động và lời

nói biểu đạt thông tin nào đó giữa những người, nhóm người tham gia vào lễ hội. Ở

một số lễ hội, diễn xướng dân gian được coi là các tục hèm (diễn xướng sự tích).

Toàn bộ lễ hội có thể coi là một sân khấu đặc biệt. Tại sân khấu này, tất cả loại

hình nghệ thuật dân gian… được diễn ra sinh động và thiêng liêng. Trong hầu hết lễ hội

đều có hình thức diễn xướng dân gian. Diễn xướng dân gian được biểu hiện bằng nhiều

hình thức, loại hình diễn xướng nhỏ, kết hợp hữu cơ tạo nên một tổng thể diễn xướng lễ

Page 35: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

32

hội, mục đích là diễn lại những câu chuyện, sự tích có liên quan đến các nhân vật, sự

kiện mà lễ hội tưởng niệm, thờ phụng… có những diễn xướng nặng về hành động, có

những diễn xướng nặng về lời nói, song phần lớn các lễ hội đều thể hiện sự kết hợp

giữa ‘‘diễn’’ (hành động) và ‘‘xướng’’ (lời nói).

Các hình thức diễn xướng trong lễ hội gồm tế lễ, lễ khai hội, lễ rã hội, đám rước,

diễn xướng sự tích, diễn xướng thi tài, diễn xướng tâm linh, diễn xướng vui chơi giải trí…

Các hình thức trò diễn trong hội rất phong phú và đa dạng. Việc diễn trò trong hội phải

thực hiện được hai yêu cầu: nghi thức và nghệ thuật. Hai yêu cầu này luôn song hành

cùng nhau, không tách rời, nghi thức phải được nghệ thuật hóa và nghệ thuật phải được

nghi thức hóa thì hoạt động diễn trò mới có giá trị.

+ Trò chơi dân gian

Trò chơi dân gian là những hoạt động trong phần hội, là dịp vui chơi giải trí,

xua đi những mệt nhọc sau ngày làm việc căng thẳng, là dịp để người dân được sống

với sự hồn nhiên, trong sáng, vui tươi, nhân bản nhất của mình.

Trò chơi dân gian là hoạt động không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt văn

hóa cộng đồng mỗi dân tộc và thể hiện rõ nét qua các lễ hội. Trò chơi dân gian thể

hiện cách ứng xử và mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng

đồng, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác, đồng thời còn thể hiện mối quan hệ

giữa con người với môi trường tự nhiên. Qua các trò chơi dân gian, niềm vui tinh

thần, sức khỏe và sức sáng tạo của con người được nhân lên, con người được hòa

mình vào không gian sinh hoạt văn hóa một cách tự nhiên, thoải mái.

Tóm lại, lễ hội truyền thống hay hội lễ dân gian là một loại hình sinh hoạt văn

hóa dân gian tổng hợp với các thành tố như nghi lễ, tục hèm, trò diễn, trò chơi... Bên

cạnh đó, lễ hội truyền thống còn có những tính chất cơ bản, đặc trưng, đó là: tính chu

kỳ, tính địa phương, tính đối ứng, tính cộng đồng, tính trang trọng - hoành tráng…

Trong đó, tính địa phương (hay còn gọi là địa phương hóa nhân vật được phụng thờ)

làm nên sự khác biệt trong lễ hội dân gian giữa các vùng, miền.

Trong phần văn hóa vùng biển đảo, chúng tôi đã trình bày lễ hội truyền thống là

một thành tố của văn hóa biển đảo. Lễ hội truyền thống lại có tính tổng hợp cao, tức là

bao gồm các tri thức, các tục lệ, các biểu tượng văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục,

Page 36: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

33

tập quán… của cư dân vùng biển đảo. Vì vậy, nghiên cứu lễ hội truyền thống của một

vùng biển đảo cũng có thể nói lên được những đặc trưng văn hóa cơ bản của vùng văn

hóa đó. Việc nghiên cứu lễ hội truyền thống của vùng biển đảo QN là nhận diện những

nét văn hóa đặc sắc của vùng biển đảo này qua các lễ hội truyền thống của cư dân.

1.3. Khái quát về lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh

1.3.1. Cơ sở tự nhiên, xã hội của vùng biển đảo Quảng Ninh

Môi trường tự nhiên tác động gián tiếp đến sự hình thành các thành tố văn hóa.

Sự thích nghi của các chủ nhân văn hóa với môi trường và ngược lại các chủ nhân văn

hóa có tác động làm thay đổi môi trường tự nhiên sẽ là cơ sở để tạo nên đặc trưng văn

hóa của một vùng đất.

Trong cuốn Đại Nam nhất thống chí có ghi chép về đất QN xưa như sau:

Đất, nhân thế núi làm thành, dựa chỗ cao mà giữ hiểm, có núi để tựa, có

biển vòng quanh, địa thế xa lánh mà hiểm yếu, trong thì giữ vững cương

vực, ngoài thì khống chế đất Thanh. Núi cao có Lôi Âm, sông lớn có Bạch

Đằng; 22 cửa biển, hơn 10 đồn ải, hải đảo quanh co, sông bến khuất khúc,

cũng là nơi then chốt ở ven biển [48, tr.13].

Như vậy, từ xưa QN đã là nơi đất trọng yếu, có địa hình đặc biệt đồng thời có vai

trò to lớn trong việc gìn giữ biên cương.

QN có đường bờ biển dài 250 km chạy qua các đơn vị hành chính: h. Yên Hưng,

TP. Hạ Long, TP. Cẩm Phả, TP. Cửa Ông, h. Hải Hà, h. đảo Vân Đồn, h. Đầm Hà. Bờ

biển có nhiều đoạn quanh co, khúc khuỷu, đầy cây cối rậm rạp (nhiều nhất là cây sú,

trang và vẹt). Nhiều nơi có cảnh quan hùng vĩ, một bên là núi đá, một bên là núi cao sừng

sững, có những đoạn bờ biển cát trắng đẹp tuyệt vời như bãi biển Minh Châu (đảo Quan

Lạn), bãi biển Trà Cổ, bãi biển Cô Tô, bãi biển Bãi Cháy…

Toàn tỉnh QN có 40.000 héc ta bãi triều và trên 20.000 héc ta eo vịnh, có 2

huyện đảo (cả nước có 12 huyện đảo) là Vân Đồn và Cô Tô với 2.077 hòn đảo. Diện

tích các đảo chiếm 11,5% diện tích đất tự nhiên. Vì vậy, QN không có đồng bằng rộng

lớn để cày cấy, địa hình các đảo và ven biển bị chia cắt nhỏ hẹp bởi các dãy núi đan

xen. Để sinh tồn, cư dân ở đây phải làm nhiều nghề như vừa trồng trọt, chăn nuôi lại

Page 37: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

34

vừa đánh bắt thủy hải sản hoặc vào thời điểm nhàn rỗi lại đi buôn bán, kinh doanh các

dịch vụ phục vụ khách du lịch.

Địa hình của tỉnh có thể chia thành 3 vùng: Vùng núi, trung du; đồng bằng

ven biển; vùng biển và hải đảo. Trong đó, địa hình đồng bằng khá khác biệt so với

các vùng khác. Theo nguồn gốc tạo thành thì đồng bằng ở QN có 3 loại: đồng bằng

tích tụ sông, đồng bằng tích tụ sông biển và đồng bằng tích tụ biển. Đồng bằng tích

tụ biển có đặc điểm là dải đất hẹp ven biển, phân bố khá rộng rãi, từ mũi Sa Vĩ (Trà

Cổ) đến Tiên Yên và một dải phân bố xung quanh Cửa Lục, tổng chiều dài hơn

100km. Do địa hình bờ biển giáp núi nhiều nên các đồng bằng tích tụ biển được cấu

tạo bởi cát, sạn, sỏi, ở vùng Tiên Yên là bùn cát và ở Bãi Cháy là sạn, cát lẫn bột sét.

Đáy biển QN có địa hình không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 30m, có nhiều lạch

sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi sinh trưởng các rạn

san hô rất đa dạng.

QN có 30 con sông, suối với chiều dài trên 10 km. Diện tích lưu vực thông thường

không quá 300 km2, trong đó có 4 con sông lớn là hạ lưu sông Thái Bình, sông Ka Long,

sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ. Tuy nhiên, hầu hết các sông, suối đều ngắn, nhỏ và độ

dốc lớn. Lưu lượng và lưu tốc rất khác biệt giữa các mùa. Vào mùa đông, các sông cạn

nước, có chỗ trơ ghềnh đá nhưng mùa hạ lại ào ào thác lũ, nước dâng cao rất nhanh. Lưu

lượng mùa khô 1,45 m3/s, mùa mưa lên tới 1500 m3/s, chênh nhau 1.000 lần.

Sông ngòi QN có độ dốc cao do địa hình đồi núi nhiều, mùa mưa lưu lượng

dòng chảy lớn, lại thường xảy ra triều cường, gió bão, mùa khô lại quá cạn kiệt nên

các cửa biển và những vùng ven cửa biển lại bị xói lở mạnh, làm thay đổi địa hình

thường xuyên, ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất của người dân.

QN là tỉnh giáp biển và có nhiều đảo, nhưng việc lựa chọn các đơn vị hành chính

ven biển và đảo lại có nhiều tiêu chí khác nhau. Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật

Biển năm 1982 quy định về nội thủy, lãnh hải, đảo và quần đảo như sau:

Điều 8, khoản 1 định nghĩa nội thủy là “các vùng nước ở phía bên trong đường cơ

sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”. Trong vùng nội thủy, các quốc gia ven biển có chủ

quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền của mình.

Page 38: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

35

Lãnh hải hay còn gọi là “vùng nước lãnh thổ” là một dải biển ven bờ nằm ngoài

và tiếp liền với lãnh thổ đất liền hoặc nội thủy của quốc gia ven biển, có chiều rộng nhất

định được tính từ đường cơ sở của quốc gia đó và thuộc chủ quyền hoàn toàn của quốc

gia ven biển. Chủ quyền này được mở rộng và áp dụng đối với cả vùng trời trên lãnh hải,

cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy của lãnh hải.

Điều 121 Công ước quy định: đối với các đảo riêng biệt, thuộc về một quốc gia

ven biển, nhưng nằm ngoài phạm vi lãnh hải chung của quốc gia đó, thì lãnh hải của

từng đảo này cũng được xác định như trên. Công ước cũng quy định chiều rộng lãnh

hải của quốc gia ven biển không quá 12 hải lý, kể từ đường cơ sở được vạch ra theo

đúng công ước.

Theo Điều 9, Điều 10 của Luật biển Việt Nam năm 2012 nêu rõ: nội thủy của Việt

Nam là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận của lãnh

thổ Việt Nam. Theo quy định thì nội thủy bao gồm cửa sông, vũng vịnh, cửa biển và

vùng nước ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển.

Toàn tỉnh QN có 14 huyện thị. Nhưng nếu căn cứ vào các tiêu chí trên thì chỉ

có 8 huyện, thị thuộc vùng biển đảo. Đó là thành phố: Móng Cái, Hạ Long, Cẩm Phả;

huyện: Yên Hưng (có đảo Hà Nam), Hải Hà, Đầm Hà, Vân Đồn, Cô Tô; 2 huyện có

một phần giáp biển là: Hoành Bồ và Tiên Yên [PL.1, tr.179]. Riêng Cô Tô là một

huyện đặc biệt của tỉnh QN: bao gồm gần 50 hòn đảo lớn, nhỏ chơi vơi ngoài tuyến khơi

xa bờ nhất, là huyện trẻ nhất (thành lập năm 1994), có diện tích nhỏ nhất, dân số ít nhất,

nhưng lại giữ vị trí tiền đồn hết sức quan trọng trước vùng biển đông bắc, có tiềm năng

kinh tế đa dạng, từng chịu những biến động quyết liệt nơi đầu sóng ngọn gió và hiện đang

phát triển nhanh về kinh tế, xã hội. Là huyện đảo mới, dân di cư từ trong đất liền ra sinh

sống nên trên đảo chưa có lễ hội và các di tích đình, chùa. Vì vậy, trong phạm vi nghiên

cứu của luận án chỉ xét 7 đơn vị hành chính vùng biển đảo có đời sống văn hóa phong

phú, đặc biệt là các lễ hội truyền thống.

Do biển QN có nhiều hòn đảo nhỏ trên biển chia cắt địa hình biển, cộng thêm tư

duy nông nghiệp của những người nông dân nhìn biển như sông, mang thế ứng xử của

sông ra biển nên sống giữa biển khơi mà vẫn đặt cho các cửa biển là sông như: sông

Lục Đầu (nơi bến phà Bãi Cháy cũ), sông Mang (đảo Quan Lạn, đảo Minh Châu)...

Page 39: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

36

Riêng huyện đảo Vân Đồn có đặc điểm là bao gồm nhiều hòn đảo nhỏ. Toàn

huyện có 600 hòn đảo, trong đó hơn 20 đảo có dân cư sinh sống với diện tích tự nhiên

59.676 héc ta. Lớn nhất là đảo Cái Bầu rộng 17.212 héc ta, ở giáp địa phận thị xã Cẩm

Phả. Các đảo thuộc huyện Vân Đồn chỉ là một phần trong quần đảo Tây Bắc vịnh Bắc

Bộ. Địa hình của các đảo đa dạng và phân ly. Một số đảo lớn thì địa hình vừa có núi

vừa bằng phẳng để có thể trồng rau, lúa, hoa màu như đảo Quan Lạn, đảo Minh Châu.

Dân số QN theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2010 là 1.159.463 người

trong đó nữ là 566,184 người. Tỷ lệ dân số sống ở thành thị cao thứ 3 Việt Nam (sau

TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng), dân số thành thị là 667.862 người (chiếm 58,1%). QN

thuộc diện tỉnh có số dân trung bình trong cả nước. Tỷ lệ tăng dân số bình quân từ

năm 1999 đến 2009 là 1,3% (trung bình cả nước là 1,2%), trong đó dân số vùng biển

đảo là 697.977 người. Mặc dù các gia đình làm nghề chài lưới vẫn sinh đông con, nhưng

những người chuyển nghề hoặc di cư đi các vùng khác cũng khá nhiều.

Mức độ đô thị hóa của vùng biển đảo QN phát triển khá nhanh. Đặc biệt là huyện

đảo Vân Đồn và TP Hạ Long. Các xã, huyện ở xa đất liền đã có điện lưới và các mạng

viễn thông như h. Cô Tô, x. Quan Lạn, x. Minh Châu... Hiện nay, vùng biển đảo QN có

hệ thống giao thông tương đối thuận lợi. Trên các đảo đều có đường bộ được rải nhựa

hoặc bê tông hóa.

Điểm nổi bật về kinh tế của vùng biển đảo là kinh tế du lịch. Bên cạnh đó

kinh tế cảng biển, khai thác nuôi trồng và chế biến hải sản cũng là những ngành

kinh tế có vị trí quan trọng của vùng. Hiện nay, tỉnh QN cũng đã có nhiều dự án

quy hoạch phát triển kinh tế vùng biển đảo như: Dự án phát triển nuôi trồng thủy

hải sản, dự án phát triển du lịch vùng Vịnh Hạ Long, dự án hình thành khu công

nghiệp tại Vịnh Cửa Lục...

Di sản văn hóa vùng biển đảo QN khá phong phú. Ngoài cảnh quan độc đáo

của vịnh Hạ Long còn có các di tích lịch sử, văn hóa, các loại hình nghệ thuật

truyền thống, các di chỉ khảo cổ học, phong tục tập quán... Đặc biệt, với gần 50 di

tích lịch sử, văn hóa là chùa, đình, đền, miếu có qui mô cấp tỉnh và cấp quốc gia,

hàng chục lễ hội truyền thống tiêu biểu đã tạo nên một bức tranh tổng thể về vùng

văn hóa đặc sắc này.

Page 40: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

37

1.3.2. Số lượng và sự phân bố lễ hội ở vùng biển đảo Quảng Ninh

Theo sự khảo sát của chúng tôi, hiện nay ở QN có khá nhiều lễ hội truyền

thống của cư dân vùng biển và hải đảo, cụ thể như sau:

Stt Đơn vị hành chính Tổng số

1 TP. Hạ Long 07

2 H. Yên Hưng 21

3 TP. Cẩm Phả 02

4 H. đảo Vân Đồn 07

5 TP. Móng Cái 07

6 H. Hải Hà 01

7 H. Đầm Hà 01

Tổng: 46

Bảng 1.1: Thống kê số lượng lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh

Tuy nhiên, sự phân bố lễ hội giữa các đơn vị hành chính có sự chênh lệch đáng

kể. Nhiều nhất là h. Yên Hưng, sau đó đến TP. Hạ Long, h. Vân Đồn, TP. Móng Cái và

rải rác ở h. Đầm Hà, h. Hải Hà và TP. Cẩm Phả.

Stt Đơn vị hành chính Không gian tổ chức lễ hội truyền thống

Miếu Nghè Đền Đình Chùa Nơi khác

1 TP Hạ Long - - 5 1 1 -

2 H. Yên Hưng 2 - 4 13 2 -

3 TP Cẩm Phả - - 1 1 - -

4 H. đảo Vân Đồn 1 1 2 1 2

5 TP Móng Cái 1 - 2 2 2 -

6 H. Hải Hà - - - 1 - -

7 H. Đầm Hà - - - 1 - -

Tổng cộng: 4 1 14 20 7 -

Bảng 1.2: Thống kê không gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng biển đảo

Quảng Ninh

Page 41: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

38

Từ bảng thống kê trên, chúng ta thấy không gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng

biển đảo QN phổ biến nhất là đình 41%; đền 32%; chùa 16%; miếu 9% và cuối cùng là

nghè 2%. Kết quả trên cũng phản ánh đúng quy luật nơi tổ chức lễ hội truyền thống của

ông cha ta. Trong tâm thức của người dân Việt Nam, đình vừa là biểu tượng văn hóa

vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cả làng, vì vậy lễ hội diễn ra ở đình là phổ biến.

Kết quả điều tra cho thấy địa điểm tập trung tổ chức lễ hội nhiều nhất là đình

làng chiếm hơn 41%, sau đó đến đình và chùa. Điều này vẫn chứng minh sức mạnh

của ngôi đình - biểu tượng làng quê truyền thống Việt Nam vẫn ẩn sâu trong tiềm thức

của người dân. Lễ hội tổ chức ở chùa vùng biển đảo được cư dân coi trọng. Không

gian tổ chức lễ hội ở nghè, miếu hay nơi khác là sự lan tỏa của lễ hội do các di tích

này gần nhau và thờ chung một vị thần. Điều đó lại thể hiện niềm tôn kính các vị thần

của người dân. Lễ hội Vân Đồn là lễ hội của cả vùng, không gian lễ hội được tổ chức

cả ở đình, đền, chùa, miếu, nghè trên đảo Quan Lạn (cụm di tích). Lễ hội ở Yên Hưng

gắn với nhân vật lịch sử Trần Hưng Đạo, vì vậy ngày tổ chức lễ hội Bạch Đằng (8/3)

cũng là ngày tổ chức lễ hội của nhiều ngôi đình trên địa bàn như đình Trung Cốc, đình

Trung Bản, đình Yên Giang, đền Mẫu, đình phố Yên Hưng...

Stt Đơn vị

hành chính

Thời gian tổ chức lễ hội Tổng

Mùa xuân Mùa hạ Mùa thu Mùa đông

1 TP. Hạ Long 3 1 1 2 07

2 H. Yên Hưng 19 1 1 0 21

3 TP. Cẩm Phả 1 1 0 0 02

4 H. đảo Vân Đồn 3 4 0 0 07

5 TP. Móng Cái 2 5 0 0 07

6 H. Hải Hà 1 0 0 0 1

7 H. Đầm Hà 1 0 0 0 1

Tổng cộng: 30 12 2 2 46

Bảng 1.3: Thống kê thời gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh

Qua bảng thống kê trên, thời gian tổ chức lễ hội của 46 lễ hội ven biển diễn ra

không đồng nhất trong năm. Trong bốn mùa thì mùa xuân lễ hội được tổ chức nhiều

Page 42: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

39

nhất với 30 lễ hội, chiếm hơn 65%, rồi đến mùa hạ với 12 lễ hội chiếm 26%, còn lại

mùa thu và mùa đông thì ít tổ chức lễ hội hơn, chỉ chiếm 8%. Như vậy cư dân ven

biển tổ chức lễ hội cũng không nằm ngoài quy luật của cư dân nông nghiệp trong nội

đồng. Các lễ hội chủ yếu diễn ra vào mùa xuân là thời điểm tốt nhất trong năm.

Tuy nhiên, số lượng lễ hội truyền thống ven biển được tổ chức tập trung vào

mùa hạ ở QN cũng khá lớn. Theo quy luật của thời tiết mùa hạ cũng là sự chuyển

dịch cơ cấu mùa lớn trong năm, nên việc tổ chức lễ hội còn là sự cầu an, cầu mát,

cầu mùa, cầu đảo... Không gian diễn ra lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN bao

giờ trung tâm cũng là di tích của lễ hội, sau đó lan tỏa ra cả làng, thậm chí cả các

làng xung quanh như lễ hội Vân Đồn, lễ hội Tiên Công... Ngoài ra lễ hội còn thu hút

đông đảo người dân từ khắp mọi nơi về dự hội.

1.3.3. Phân loại lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh

1.3.3.1. Căn cứ để phân loại

Để tiến hành phân loại lễ hội của cư dân ven biển QN, chúng tôi đã tham khảo

cách phân loại của các nhà nghiên cứu đi trước.

Lê Trung Vũ phân lễ hội thành 4 loại: lễ hội tái hiện sinh hoạt tiền nông

nghiệp; lễ hội tái hiện sinh hoạt nông nghiệp; lễ hội tái hiện sự kiện lịch sử; lễ hội

thuộc các đề tài khác... [97, tr.23]. Lê Thị Nhâm Tuyết dựa vào tính chất lễ thức, trò

diễn mang chức năng văn hóa - xã hội, chia lễ hội thành 5 loại: lễ hội nông nghiệp; lễ

hội phồn thực giao duyên; lễ hội văn nghệ, giải trí; loại hình “hội thi tài”; loại hình

“hội lịch sử” [89, tr.12].

Trịnh Cao Tưởng trong sách Kinh Bắc - Hà Bắc [91] đã dành một chương để

nói về những loại lễ hội xứ Bắc. Theo tác giả, lễ hội cổ truyền xứ Bắc có thể chia

thành 6 loại: hội liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp cổ truyền; hội mùa biểu hiện

các hình thức thượng võ; hội liên quan tới những anh hùng dựng nước, giữ nước và

nhân vật lịch sử; những ngày hội văn hóa; những ngày hội tập trung tại chùa lễ Phật;

những hội hè tế lễ ở các làng mang màu sắc Đạo giáo.

Tác giả Đinh Gia Khánh lại cho rằng có hai loại hội lễ:

+ Hội lễ mà nguồn gốc không phải là tôn giáo vốn có từ rất lâu như: hội lễ

nguyên thủy gắn với nghi thức phồn thực, với sản xuất nông nghiệp.

Page 43: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

40

+ Hội lễ có nguồn gốc tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp và

tôn giáo đã ra đời (Bà La Môn giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Do Thái giáo...).

Theo tác giả Đinh Gia Khánh hai loại lễ hội này có ảnh hưởng qua lại với nhau và

ông đã dẫn ra các lễ hội để minh chứng cho quan điểm của mình là: Hội đền Hùng, Hội

đền Gióng có nguồn gốc không phải là tôn giáo và hội chùa Keo có nguồn gốc tôn giáo.

Hội đền Hùng phản ánh ý thức và cội nguồn chung, về sự nghiệp khai sáng

của tổ tiên. Sự tích người anh hùng làng Gióng chắc chắn đã xuất hiện trước khi Phật

giáo được đưa vào nước ta, nhưng một số tình tiết của sự tích ông Gióng lại liên quan

đến chùa Kiến Sơ... Vì vậy, trong các nghi thức của Hội Gióng cần xem xét lại sự

thâm nhập của yếu tố Phật giáo.

Khác với Hội đền Hùng và Hội đền Gióng, tức là những hội lễ mà nguồn gốc

vốn không phải là tôn giáo, thì hội chùa Keo chắc là có nguồn gốc Phật giáo. Thế

nhưng lễ hội tôn giáo này lại thu hút rất nhiều yếu tố phi tôn giáo vốn có trong dân

gian. Rất nhiều tình tiết (lễ thức, rước, trò diễn) của hội này nhằm ca ngợi Nguyễn

Minh Không với tư cách là ông Khổng Lồ (trong thần thoại), làm tổ nghề đánh cá,

nghề làm thuốc, nghề đúc đồng” [34, tr.174-176].

Theo dõi các cách phân loại lễ hội trên, có thể thấy, mặc dù mỗi nhà khoa học

đều dựa vào các lễ hội cụ thể để nghiên cứu, song những kết quả phân loại vẫn biểu lộ

phần nào sự thiếu nhất quán. Hiện tượng này chính là do tính phức tạp của đối tượng

được khảo sát. Dù sao, khi tiến hành phân loại lễ hội dân gian người Việt ở Bắc Bộ,

việc đầu tiên vẫn nên căn cứ vào bản chất của lễ hội người Việt Bắc Bộ. Tiếp theo là

nghiên cứu đối tượng người được tôn thờ cùng lễ nghi, trình thức (vật phẩm, rước, trò,

phong tục, tục hèm...) của lễ hội và sau đó là các hoạt động chính yếu của diễn trường

trung tâm cùng mối quan hệ tôn giáo mà lễ thức và các công trình kiến trúc có liên

quan. Theo đó, có thể phân loại lễ hội theo nhiều tiêu chí khác nhau như theo vùng (lễ

hội đồng bằng, miền núi, ven biển...), theo dân tộc (lễ hội của người Việt, người Thái,

Mường...), theo di tích mở hội (lễ hội đình, đền, chùa, phủ, quán...), theo đối tượng

thờ (lễ hội thờ các nhân vật lịch sử, lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo...).

QN là tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh đặc sắc.

Đây là nơi Trời bày, đất đặt một kỳ quan (Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan) như

Page 44: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

41

Nguyễn Trãi đã miêu tả [41, tr.389]. Theo số liệu kiểm kê của Ban Quản lý di tích

danh thắng, hiện nay toàn tỉnh có 496 di tích với 19.418 hiện vật thuộc các thời Lý,

Trần, Lê, Mạc, Nguyễn. Tính đến hết năm 2007, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có

38 quyết định xếp hạng cấp quốc gia cho các di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ

thuật và danh lam thắng cảnh tiêu biểu ở QN. Uỷ ban Nhân dân tỉnh QN cũng đã quyết

định công nhận 9 di tích cấp tỉnh.

Lễ hội ở QN có nhiều nét tương đồng và khác biệt với lễ hội ở các vùng biển đảo

khác thuộc Bắc Bộ do những quy luật hình thành và phát triển chung. Song, do những

đặc điểm về tự nhiên và xã hội, đặc điểm tộc người và những diễn biến trong lịch sử vùng

Đông Bắc lễ hội vùng biển đảo QN lại có những nét riêng tiêu biểu như: đậm yếu tố nội

đồng, nhạt yếu tố biển và đậm yếu tố lịch sử.

Như vậy, lễ hội là một trong những thành tố tạo nên bản sắc văn hóa riêng của

văn hóa dân gian các làng vùng biển đảo ở QN. Tuy nhiên, trong mỗi lễ hội đều có

các lớp trầm tích của văn hóa cư dân biển đảo với văn hóa cư dân ngư nghiệp và nông

nghiệp, tạo nên sắc diện vùng văn hóa đặc thù của ngư dân biển đảo Việt Nam nói

chung và ngư dân vùng biển đảo QN nói riêng.

Theo khảo sát và thống kê của chúng tôi, tổng số lễ hội truyền thống ven biển

QN có 46 lễ hội [PL.2, tr.180]. Mỗi lễ hội lại có những nét riêng, mang đặc thù của loại

hình, tạo ra những đặc trưng của lễ hội vùng biển đảo QN, nhưng cũng có những đặc

điểm chung trong hệ thống lễ hội của người Việt.

Căn cứ vào vùng không gian của lễ hội QN chúng tôi tạm chia lễ hội truyền thống

vùng biển đảo QN thành 3 nhóm lễ hội tiêu biểu: nhóm lễ hội hải đảo, nhóm lễ hội ven

biển và nhóm lễ hội nội đồng.

Nhóm lễ hội hải đảo: là những lễ hội của cư dân sống trên các đảo xa đất liền và

các đảo gần đất liền.

Nhóm lễ hội ven biển: là những lễ hội của cư dân sống dọc ven theo bờ biển.

Nhóm lễ hội nội đồng: là những lễ hội của cư dân sống gần biển (chứ không giáp

biển) mà nghề nghiệp chủ yếu là làm nông nghiệp.

Sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương đối. Vì không gian văn hóa

biển gồm cả khu vực đồng bằng ven biển, vùng biển gần bờ, vùng biển xa bờ, các

Page 45: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

42

đảo xa đất liền... nên việc xác định ranh giới giữa các khu vực trong một vùng biển

đảo là rất khó khăn. Như một số nhà nghiên cứu đã nhận định, cư dân vùng ven

biển quay lưng lại với biển và ngày càng tiến sâu vào đất liền, gần với đồng bằng.

Quá trình này cũng phải mất một thời gian dài tương tác giữa con người với tự

nhiên và ngược lại. Như vậy, việc phân chia thành 3 nhóm lễ hội nêu trên cũng

phần nào phản ánh từng bước quá trình chuyển đổi từ ngư nghiệp sang nông

nghiệp của cư dân, đồng thời nhằm mục đích nhận diện đặc điểm văn hóa của của

vùng biển đảo QN.

1.3.3.2. Các loại lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh

Hiện nay, ở QN chưa có thống kê và phân loại các lễ hội truyền thống ven biển.

Vì vậy, qua nghiên cứu thực địa, tác giả đã chia các lễ hội ven biển thành ba nhóm lễ hội:

hải đảo, ven biển, nội đồng. Căn cứ để phân loại các nhóm lễ hội chính là những điểm

khác biệt song bên cạnh đó vẫn có những điểm chung. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn

gốc dân cư và địa bàn sinh sống.

Stt Đơn vị hành chính Nhóm LH hải đảo

Nhóm LH ven biển

Nhóm LH nội đồng

1 TP Hạ Long 1 5 1

2 H. Yên Hưng 12 4 5

3 TP Cẩm Phả 0 2 0

4 H. đảo Vân Đồn 7 0 0

5 TP Móng Cái 0 5 2

6 H. Hải Hà 0 1 0

7 H. Đầm Hà 0 0 1

Tổng cộng: 20 (43%) 17 (37%) 9 (20%)

Bảng 1.4: Phân loại lễ hội truyền thống của cư dân vùng biển đảo Quảng Ninh

+ Nhóm lễ hội hải đảo

Nhóm lễ hội hải đảo chiếm tổng số 20 lễ hội (43%) trong tổng số 46 lễ hội

truyền thống vùng biển đảo QN. Lễ hội hải đảo tập trung ở các đảo, có đảo ở xa đất

liền như đảo Vân Đồn (07 lễ hội), đảo Đầu Bê thuộc khu vực vịnh Hạ Long (01 lễ

hội), song cũng có đảo gần đất liền như đảo Hà Nam (12 lễ hội).

Page 46: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

43

Những lễ hội trên hải đảo chủ yếu diễn ra vào mùa xuân và mùa hạ. Đó là

những thời điểm quan trọng khi ngư dân làm nghề cá cầu mong một mùa cá bội thu và

ra khơi, vào lộng được an toàn. Vì vậy, những lễ hội trên đảo thường thể hiện sự gắn

bó của ngư dân với biển khơi qua các đối tượng phụng thờ.

Các vị thần được tưởng niệm trong lễ hội trên đảo rất đa dạng và phong phú,

có thể chia làm 3 nhóm: các vị thần là Thành hoàng làng, Tiên công; những nhân vật

lịch sử đã được huyền thoại hóa; các vị thần biển và Phật. Tuy nhiên nhóm thờ các vị

thần biển vẫn nhiều hơn cả:

- Thờ Thành hoàng làng, Tiên Công: Các vị tiên công là Hoàng Nông, Hoàng

Nênh, thần Nông (lễ hội xuống đồng trên đảo Hà Nam), 17 vị tiên công trong lễ hội

miếu Tiên Công (đảo Hà Nam)...

- Thờ các nhân vật lịch sử: QN là vùng đất phên giậu của Tổ quốc nên việc canh

giữ biên giới trên biển và trên đất liền là hết sức quan trọng. Ranh giới trên biển giáp

Trung Quốc khiến thời phong kiến, triều đình đã cử rất nhiều tướng lĩnh ra trông coi

vùng biên cương này và họ đã trở thành những vị thần của ngư dân, được nhân dân

tưởng niệm trong các lễ hội như Trần Hưng Đạo (hội đình làng Trung Bản, đảo Hà

Nam), Phạm Tử Nghi (lễ hội đình Hải Yến, đảo Hà Nam), Phạm Ngũ Lão, Đỗ Độ, Đào

Bá Niệm (lễ hội đình Lưu Khê trên đảo Hà Nam), vua Lý Anh Tông, Trần Khánh Dư,

Phạm Công Chính, Phạm Quý Công, Phạm Thuần Dụng (lễ hội Vân Đồn, lễ Thượng

nguyên ở đền thờ vua Lý Anh Tông trên đảo Vân Đồn).

- Thờ các vị thần biển và thờ Phật: Tiêu biểu trong nhóm này là các vị thần Tứ vị

Thánh nương hay còn gọi là Đại càn Thánh nương (lễ hội Xuống Đồng, lễ hội Đình Cốc

trên đảo Hà Nam, lễ hội Vân Đồn trên đảo Quan Lạn), Bà Chúa Hải Ngoại (lễ hội đền Bà

Men trên đảo Đầu Bê), Liễu Hạnh, Quỳnh Hoa, Quế Nương (lễ hội đền Mẫu trên đảo Hà

Nam, lễ hội chùa Quan Lạn), thần Không Lộ (lễ hội Vân Đồn trên đảo Quan Lạn), cô bé

Cửa Suốt, thần Quan Chánh (lễ hội đền Cặp Tiên trên đảo Vân Đồn).

Không gian diễn ra lễ hội trên đảo chủ yếu là đình, đền, miếu. Tất cả các di tích

này đều có một đặc điểm chung là mặt hướng ra biển. Đối với người Việt môi trường

đầu tiên mà mỗi cá nhân nhập thân văn hóa chính là ngôi làng nơi họ sinh ra. Trong

môi trường nhập thân văn hóa đó thì không gian lễ hội diễn ra hàng năm chính là một

Page 47: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

44

môi trường giáo dục phong tục tập quán cho các thế hệ. Lễ hội diễn ra không chỉ tại

ngôi đình, chùa, đền, miếu mà không gian lan tỏa ra từng ngõ xóm và lan tỏa tới từng

gia đình, dòng họ. Vì thế, lễ hội nhiều khi của cả làng, cả một vùng rộng lớn, nhất là

đối với các lễ hội trên đảo cách xa đất liền thì vị trí, không gian diễn ra lễ hội lại càng

linh thiêng hơn bao giờ hết. Lễ hội Vân Đồn không chỉ diễn ra trong đền thờ Trần

Khánh Dư mà còn lan sang cả các đình, đền, miếu, chùa trên đảo Quan Lạn, Minh

Châu và người dân ở huyện đảo Vân Đồn cũng đi tàu, thuyền đến để tham dự.

Cùng với các nghi thức khác trong lễ hội thì trò chơi, trò diễn của nhóm lễ hội

trên đảo cũng gắn với những sinh hoạt đi biển của cư dân và các sự kiện lịch sử đã diễn

ra trên những vùng biển đó. Đặc biệt, trò diễn phổ biến nhất phản ánh cuộc sống của

ngư dân đầu sóng ngọn gió là hội bơi trải. Hầu hết lễ hội trong nhóm hải đảo đều có hội

thi bơi trải. Tuy nhiên việc tổ chức cuộc thi bơi trải lại mang nhiều ý nghĩa khác nhau.

Có cuộc thi thể hiện tính chất nghề nghiệp (lễ hội Xuống đồng, lễ hội đền Bà Men), có

hội thi lại thể hiện tinh thần thượng võ (lễ hội đua thuyền Vân Đồn), nghệ thuật thủy

chiến (lễ hội Bạch Đằng, lễ hội Vân Đồn)...

Như vậy, nhóm lễ hội hải đảo có nhiều lớp văn hóa được bồi đắp bởi thời gian

và tạo nên những giá trị quý báu. Tiến trình lễ hội không chỉ có các nghi thức tế lễ các

vị thần mà còn có những trò chơi, diễn xướng mang đậm yếu tố văn hóa biển như hát

đối trên thuyền (làng chài trên vịnh Hạ Long), hát đúm (lễ hội Tiên Công). Đó là

những minh chứng để khẳng định lễ hội truyền thống trên đảo là sự kết tinh của văn

hóa vật chất và tinh thần của ngư dân.

+ Nhóm lễ hội ven biển

Những cư dân ven biển sống theo hai phương thức sinh tồn chủ yếu là khai thác

biển và khai thác nội đồng. Nơi họ sinh sống có thể đặc biệt hơn các vùng biển khác là

lưng dựa vào núi, mặt hướng ra biển. Địa hình QN vừa có núi đá, vừa có sông, biển sát

nhau. Vì vậy, các ngôi đình, đền, miếu, chùa ven biển đều có hướng nhìn ra biển khơi.

Trong tổng số 46 lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN có 17 lễ hội trực tiếp

ven biển, chiếm 37%, ít hơn so với nhóm lễ hội ở hải đảo. Theo thống kê của chúng

tôi thì TP Hạ Long có 5 lễ hội (lễ hội đền Bụt Đày, lễ hội đền Cậu Vàng, lễ hội đình

Giang Võng, lễ hội đền Đức Ông Trần Quốc Nghiễn, lễ hội đền Cái Lân), h. Yên

Page 48: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

45

Hưng có 4 lễ hội (lễ hội đền thờ Trần Hưng Đạo, lễ hội đình Đền Công, lễ hội Bạch

Đằng, lễ hội đình Yên Giang), TP Cẩm Phả có 2 lễ hội (lễ hội đền Cửa Ông, lễ hội

đình Cẩm Hải), TP Móng Cái có 5 lễ hội (lễ hội đình Trà Cổ, lễ hội đình Vạn Ninh, lễ

hội chùa Nam Thọ, lễ hội đền Thiên Hậu Thánh Mẫu, lễ hội Miếu Đôi), h. Hải Hà có

01 lễ hội (lễ hội đình làng My Sơn).

Thời gian diễn ra của nhóm lễ hội ven biển chủ yếu vào mùa xuân và mùa thu,

khác với lễ hội trên đảo chủ yếu là mùa xuân và mùa hạ. Thời gian diễn ra lễ hội của

cư dân ven biển đã chịu ảnh hưởng mùa vụ của cư dân nội đồng. Mùa xuân là mùa

gieo cấy, mùa thu là mùa bắt đầu thu hoạch vì vậy lễ hội chủ yếu diễn ra vào hai thời

điểm quan trọng trên.

Không gian tổ chức của nhóm lễ hội ven biển chủ yếu diễn ra ở đền, đình, miếu.

Lễ hội ở nhóm này tôn thờ các vị thần Đông Hải Đại Vương Trần Quốc Nghiễn, Trần

Hưng Đạo và bốn vị đại tướng quân (Cao Sơn Quý Minh, Nam Hải tôn thần, Phi Bồng

tướng quân, Bạch Thạch tướng quân), Trần Quốc Tảng, Hoàng Cần, Nguyễn Hữu Cần,

Lý Thường Kiệt, Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị Thành hoàng làng. Như vậy, lực

lượng thờ chính trong các lễ hội ven biển là các anh hùng dân tộc và những người có

công khai khẩn vùng đất ven biển. Do ảnh hưởng từ nội đồng nên việc thờ cúng các vị

thần biển ở nhóm lễ hội này không nhiều như đối với cư dân ngoài hải đảo. Mặc dù

người dân sống trực tiếp vẫn còn thờ các vị thần biển như Mẫu Thoải, Thiên Hậu Thánh

Mẫu, Bạch Điểm Tước tôn thần... nhưng không suy tôn là các vị thần chủ trong lễ hội.

Như vậy, nổi bật trong nhóm này là hiện tượng thờ Trần Hưng Đạo và các

danh tướng nhà Trần (được thờ ở 8 nơi gần các cửa biển). Lễ hội tưởng nhớ Trần

Hưng Đạo được tổ chức đồng loạt ở vùng Yên Hưng. Lễ hội Bạch Đằng hay còn gọi

là ngày giỗ trận, diễn ra hằng năm trong 4 ngày từ mùng 6 đến mùng 9 tháng 3 âl.

Không gian lễ hội diễn ra ở nhiều nơi: đền Trần Hưng Đạo, miếu vua Bà, đình Yên

Giang thuộc xã Yên Giang là trung tâm lễ hội; ngoài ra cùng ngày ở các đình Trung

Bản xã Liên hòa, đình Đền Công xã Điền Công, đền Trung Cốc xã Nam Hòa, nhân

dân địa phương đều tổ chức lễ hội Bạch Đằng. Hội đua thuyền trên sông Bạch Đằng

tổ chức trong lễ hội cũng tái hiện nghệ thuật thủy chiến của Đức Thánh Trần và khẳng

định tài năng quân sự của ông.

Page 49: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

46

Những trò diễn tiêu biểu của nhóm lễ hội này là đua thuyền (lễ hội đền thờ

Trần Hưng Đạo, lễ hội Bạch Đằng, lễ hội đình Yên Giang, lễ hội đền Cửa Ông, lễ hội

đình Trà Cổ, lễ hội đình Cẩm Hải), các trò diễn dân gian tái hiện chiến trận Bạch

Đằng 1288, chơi đu, thi vật, chọi gà, thi tổ tôm điếm, bịt mắt chém cá Chình, hát

Đúm, hát chèo đò, thi thổi cơm, nuôi ông Voi và thi ông Voi, thi têm trầu, thi đánh cờ,

kéo co, đẩy gậy... Có thể thấy các trò diễn của nhóm lễ hội ven biển gắn với nghề

đánh cá, nghề nông và các sự kiện lịch sử.

Nghi lễ tiêu biểu trong nhóm lễ hội ven biển thể hiện khát vọng của người dân

ven biển là lễ cầu nước trong lễ hội đình Giang Võng (thường gọi là đình Cái Đá) tổ

chức vào ngày mùng 9 tháng 11 âl. Tóm lại, trong nhóm lễ hội ven biển có thể nhận

thấy hai yếu tố nổi trội là yếu tố lịch sử và yếu tố biển. Các lễ hội một mặt thờ thần

Trần Hưng Đạo bảo trợ cho mảnh đất ven biển và các nhân vật lịch sử có công với vùng

đất, với tổ quốc; mặt khác, thờ thủy thần, thần biển bảo trợ cho họ đánh cá ven biển tốt

hơn và thờ các vị Thành hoàng làng. Đối với cư dân ven biển, yếu tố nông nghiệp và

đánh bắt hải sản là hai yếu tố chính trong đời sống kinh tế, vì vậy trong các lễ hội thuộc

nhóm này vẫn có lễ cầu nước, tục thi nuôi lợn (ông Voi)...

+ Nhóm lễ hội nội đồng

Nhóm này có 9 lễ hội, chiếm 20%, chủ yếu tập trung ở h. Yên Hưng, h. Đầm Hà

và TP Móng Cái. Mặc dù có không gian gần biển (không trực tiếp giáp biển) nhưng

trong các lễ hội này vẫn có yếu tố biển. So với hai nhóm lễ hội trên (hải đảo và ven

biển) nhóm lễ hội nội đồng có số lượng ít hơn và có đặc trưng riêng.

Đời sống kinh tế của cư dân gần biển chủ yếu vẫn là kinh tế nông nghiệp, ngoài ra

họ đánh bắt thêm tôm, cá. Theo quan niệm xưa, làm nông nghiệp thì “nhất nước, nhì

phân, tam cần, tứ giống”. Yếu tố nước đứng vị trí đầu tiên, quan trọng hàng đầu. Vì vậy,

lễ Đảo vũ thường được tổ chức đối với cư dân nông nghiệp và tín ngưỡng thờ Tiên Công

- những người có công lập làng là những đặc trưng nổi trội của nhóm lễ hội nội đồng.

Yên Hưng là một huyện nông nghiệp, ruộng đồng hầu hết do quai đê lấn biển mà

thành, nên lễ Đảo vũ (cầu mưa) đối với cư dân nơi đây rất quan trọng. Năm nào gặp hạn

hán thì người dân sẽ tổ chức lễ Đảo vũ. Lễ cầu mưa không chỉ diễn ra ở một làng, một

xã mà còn diễn ra cả tổng, cả huyện. Để làm lễ Đảo vũ, các làng rước tượng Phật Thích

Page 50: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

47

Ca và tượng Thành hoàng ra ngoài sân. Đây là một hiện tượng độc đáo: Thần - Phật

đồng đẳng trong tín ngưỡng thờ thần của người dân nơi đây. Xưa kia, chủ yếu cấy lúa

một vụ nên lễ cầu mưa thường diễn ra vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 âl. Nếu trung hạn

thì các làng trong xã rước Thành hoàng của làng về ngôi đình trung tâm xã làm lễ. Nếu

đại hạn thì làm lễ hội Đảo vũ (lễ Đảo vũ hàng tổng). Ở h. Yên Hưng các làng thường

rước Thành hoàng về đình Cốc thuộc làng Cốc, x. Phong Lưu để làm lễ Đảo vũ.

Tiêu biểu cho nhóm lễ hội nội đồng còn có lễ hội Tiên Công. Tín ngưỡng thờ

Tiên Công ở vùng đảo Hà Nam thuộc h. Yên Hưng, tỉnh QN được hình thành vào

những năm đầu thế kỷ XV bởi công cuộc quai đê, lấn biển, khai đất, lập làng của những

người dân đến từ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Để tưởng nhớ công lao của

những người đã có công đầu quai đê lấn biển lập nên vùng đảo Hà Nam, dân đảo Hà

Nam đã tôn vinh họ là Tiên Công và phụng thờ tại một đền, hai đình và một miếu.

Hằng năm mở hội để cúng tế.

Tín ngưỡng thờ Tiên Công được thể hiện qua những sinh hoạt tín ngưỡng như

chạp tổ, lễ ra cỗ họ, đặc biệt là lễ hội Tiên Công được tổ chức thường niên vào những

ngày đầu tháng Giêng. Với các nghi lễ chúc thọ, rước thọ, cúng, tế Tiên Công và nghi lễ

đắp đê tượng trưng, đấu vật tượng trưng, các trò diễn, trò vui, lễ hội Tiên Công là sự cúng

tế các vị tiền hiền khai khẩn, một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người Việt.

Đi đôi với lễ hội Tiên Công còn có một sinh hoạt văn hóa gia đình rất đặc biệt,

đó là lễ Thượng thọ được dòng họ tổ chức cho những người đạt tuổi 80, 90, 100. Sinh

hoạt này nhằm nhắc nhở mọi người về sự tôn kính những người lớn tuổi (trọng xỉ),

trân trọng những kinh nghiệm mà họ đã có để truyền lại cho con cháu. Đây cũng là

sinh hoạt văn hóa cộng đồng (huyết thống), gắn liền với lễ hội Tiên Công - tín ngưỡng

thờ Tiên Công ở vùng đảo Hà Nam. Lễ hội Tiên Công tuy là của cư dân ven biển nhưng

chủ yếu lại là nghi lễ nông nghiệp như lễ động thổ, nghi thức đấu vật…

Trong nhóm lễ hội nội đồng, yếu tố đồng bằng (nông nghiệp) đậm nét hơn, yếu

tố biển đã bị nhạt đi nhiều song vẫn còn một vài phong tục ẩn, hiện trong lễ hội. Tục

rước con long mã trong lễ hội Tiên Công là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố nông

nghiệp và yếu tố biển. Dùng sản vật của nông nghiệp để tạo nên một con vật của biển

Page 51: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

48

cả. Ngoài thờ các vị thần Nông là đối tượng thờ phụng chính thì các vị thần biển vẫn

được thờ phụng như Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thoải…

Tiểu kết

Lý thuyết về vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền thống là cơ sở lý

luận để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lễ hội truyền thống nói chung và lễ hội

truyền thống vùng biển đảo QN nói riêng. Các nhân tố của vùng văn hóa (môi trường tự

nhiên, trình độ kinh tế, xã hội, nhân tố tạo hệ thống...) sẽ tác động tạo nên đặc trưng văn

hóa riêng của mỗi vùng. Trong vùng văn hóa có tiểu vùng văn hóa, trung tâm văn hóa...

Lễ hội truyền thống là một hiện tượng văn hóa tổng hợp, là sự hội tụ và lan tỏa

của các giá trị văn hóa. Các thành tố của lễ hội (lễ, hội, các nhân vật phụng thờ, vật

dâng cúng, nghi thức thờ cúng, hèm, trò diễn dân gian, trò chơi dân gian) chuyển tải

các lớp văn hóa được bồi đắp qua thời gian.

Lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN khá phong phú và đa dạng. Bước đầu để

nhận diện lễ hội truyền thống ven biển QN, căn cứ vào phạm vi, không gian của lễ

hội, chúng tôi phân loại thành các nhóm: nhóm lễ hội hải đảo, nhóm lễ hội ven biển và

nhóm lễ hội nội đồng. Mỗi nhóm đều có những đặc trưng nổi bật riêng trong tính

thống nhất của lễ hội vùng biển đảo. Và những đặc trưng này sẽ là cơ sở để chúng tôi

trình bày tiếp những nghiên cứu ở các chương sau của luận án.

Page 52: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

49

Chương 2

YẾU TỐ NỘI ĐỒNG TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

Sắc thái văn hóa độc đáo của vùng châu thổ Bắc Bộ có thể cho rằng đó chính là

sự phong phú của lễ hội. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, có thể căn cứ vào nội dung

phản ánh của lễ hội để phân biệt các loại lễ hội như: lễ hội nội đồng; lễ hội lịch sử; lễ

hội tôn giáo, tín ngưỡng; lễ hội nghề nghiệp... Căn cứ vào quy mô để phân biệt hội

làng, hội của một vùng văn hóa, hội của quốc gia, dân tộc. Căn cứ vào thời gian, vào

các mùa trong năm để phân chia lễ hội thành lễ hội mùa xuân, mùa thu, mùa hạ, mùa

đông, vào nơi mở hội để gọi là hội đình, hội chùa, hội đền, hội miếu... Tuy nhiên,

trong kho tàng lễ hội dân gian vùng châu thổ Bắc Bộ có lễ hội qui mô lớn, có lễ hội

quy mô nhỏ, nhưng nguồn gốc ban đầu đều là hội làng, mang đậm tính chất lễ hội

nông nghiệp. Trải qua quá trình lịch sử hóa, địa phương hóa, huyền thoại hóa... mà lễ

hội đã bổ sung thêm những nội dung lịch sử, xã hội, văn hóa mới, tạo nên diện mạo

hòa quện, đan xen giữa những yếu tố căn nguyên với những yếu tố mới.

Khó có thể tìm thấy một lễ hội nào thuần túy là nông nghiệp hay thuần túy ngư

nghiệp, lịch sử... nhưng có thể thấy hầu như trong các lễ hội đều chứa đựng những

nghi lễ nông nghiệp. Đó là những lễ thức trình nghề, mà tùy theo từng địa phương với

những tên gọi khác nhau như trò tứ dân, trò bách nghệ, trò bách công... trong đó có

các tục rước lúa, bó lúa, té nước cầu đảo... Lễ hội truyền thống của vùng biển đảo QN

cũng không nằm ngoài quy luật trên. Yếu tố nội đồng được thể hiện rõ nét qua việc

thờ cúng các vị thần, qua nhiều nghi lễ và trò chơi ở phần hội.

2.1. Cộng đồng cư dân và cơ cấu tổ chức các làng nông nghiệp

2.1.1. Cộng đồng cư dân

Thành phần cư dân vùng biển đảo ở QN cũng khá phức tạp. Các dòng thiên di của

cư dân từ khắp nơi và qua nhiều thời kỳ lịch sử với những nguyên nhân, hoàn cảnh khác

nhau. Bóc tách các lớp văn hóa trong các lễ hội truyền thống sẽ thấy rõ những vấn đề trên.

Chủ nhân của các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN có nguồn gốc chủ yếu

là những người làm nông nghiệp. Có nhiều cuộc di dân đến QN sinh cơ lập nghiệp,

Page 53: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

50

nhưng chủ yếu là cư dân từ Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa... Mục đích

của họ là tìm mảnh đất mới để khai khẩn, lập nghiệp, hy vọng một cuộc sống tốt đẹp

hơn. Trong nhóm này đa số làm nông nghiệp, số còn lại tụ cư ở các vùng ven sông,

ven biển và những hòn đảo trong vùng làm nghề chài lưới đánh bắt thủy sản.

Trong cuốn Theo dòng lịch sử [100], cố GS Trần Quốc Vượng cho biết, đầu

thế kỉ XV, một loạt vùng ven biển Hải Phòng, QN được ngư dân châu thổ Bắc Bộ ra

khai phá. Trong quá trình di dân, các sinh hoạt văn hóa tinh thần cũng có sự kế thừa.

Vì thế, hát Đúm trong lễ hội Tiên Công ở vùng đảo Hà Nam nói riêng, QN nói chung

có thể có nguồn gốc từ trung tâm châu thổ sông Hồng. Hát Đúm là một trong những

biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực. Cầu mùa luôn là ước nguyện không chỉ của cư

dân nông nghiệp mà còn là của cư dân ngư nghiệp.

Trên đảo Quan Lạn, ngoài người Kinh còn có một số tộc người như người Hoa,

Sán Dìu... Theo gia phả của những dòng họ lớn, người dân Quan Lạn gốc, đa số từ

Thanh Hóa và Đồ Sơn ra đây lập nghiệp. Ngoài ra, còn có người từ những nơi khác đến

như: Hải Hưng, Hà Bắc cũ (nay là các tỉnh: Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang, Bắc

Ninh)... Những dòng họ còn lại hiện nay trên đảo không nhiều, chỉ có 16 dòng họ:

Phạm, Vũ, Nguyễn, Hoàng, Lê, Lưu, Đỗ, Bùi, Cao, Lý, Đàm, Lương, Châu, Trạc, Hứa,

Trình. Đây cũng là những dòng họ đến định cư sớm nhất. Tương truyền, nhiều dòng họ

sau khi đến định cư yên ổn, đã quay trở về quê cũ lấy trộm bát hương, cất bốc mồ mả

đem ra đây để thờ. Điều này chứng tỏ họ đã chọn được quê hương thứ hai của mình và

quyết tâm gắn bó với xứ sở mới - nơi mà bao mồ hôi, nước mắt đã thấm từng tấc đất.

Không giống như đảo Quan Lạn, trên đảo Hà Nam thành phần dân cư chủ yếu từ

Nam Định, Hải Dương, thành Thăng Long, Đồ Sơn... Nguyên nhân do nhà Lê khuyến

khích dân cư đi tìm đất hoang, đất bãi triều để khai hoang mở rộng đất đai canh tác

nên những cư dân từ thành Thăng Long đã tìm đến với mảnh đất này để lập nghiệp.

Vào thời vua Hồng Đức, người dân ly tán gặp đói kém cũng đến vùng đất này để khai

hoang, lập ấp, lập làng.

Những dân cư thiên di đến đảo Quan Lạn và đảo Hà Nam có nhiều người làm

nghề ngư nghiệp (ở vùng biển Đồ Sơn và biển Thanh Hóa). Trước đây trên đảo Cô Tô

có người Hoa ở với nghề truyền thống đánh cá có quy mô tương đối lớn. Bên cạnh đó,

Page 54: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

51

cũng có những người làm nghề nông nghiệp (nông dân ở Hải Dương, Nam Định...).

Nhưng trong lễ hội, lễ vật dâng cúng các vị thần vẫn chủ yếu là sản vật nông nghiệp.

Lý giải hiện tượng này nhiều nhà khoa học cho rằng: Về phương thức sinh sống, người

Việt vốn có phương thức sản xuất đa dạng, dù là sống bên cạnh biển. Họ không chỉ đơn

thuần đánh bắt cá, chế biến hải sản, làm muối, mà còn trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán...

Khi đã đặt vào thế “đứng trước biển” họ cũng dễ dàng thích nghi với môi trường biển,

nhưng không quên nguồn gốc của người làm ruộng lúa nước. Bởi lẽ, xét về truyền

thống, thì cả cộng đồng người Việt “không có nguồn gốc biển mà cơ bản họ là cư dân

sống ở vùng trước núi (gồm cả trung du) tràn xuống khai thác đồng bằng chiêm trũng,

rồi lấn biển và khai thác biển” [74, tr.21]. Phương thức sản xuất của cư dân trên đảo

Quan Lạn, Minh Châu, Hà Nam đã chứng minh nhận định trên.

Dân cư trên các đảo này vừa làm nghề đánh bắt hải sản vừa làm nông nghiệp,

thậm chí có thời kỳ nông nghiệp cực thịnh. Theo lời của các cụ già trên đảo Quan Lạn

kể lại, những năm 80, thuộc thế kỷ XX, trên đảo (còn gọi là làng Vân) trồng dâu,

trồng chè, nuôi tằm mang lại năng suất cao, đảo còn trồng được loại cam ngon quý

hiếm, vỏ mỏng, ngọt, vị thanh. Dấu ấn để lại còn được chạm khắc trên kiến trúc của

đình Quan Lạn là hình con ngài (con tằm) và lá dâu... Trong dân gian còn truyền nhau

câu ca:

Ra đi nhớ đất Cái Làng

Nhớ canh cá nướng - nhớ chè vị Vân

Tổ tiên của vùng biển Trà Cổ là từ vùng biển Đồ Sơn (Hải Phòng) sang. Vậy

mà trong lễ hội vẫn có tục nuôi ông Voi và thi ông Voi (con lợn) sau đó dâng tế thần.

Sống với biển nhưng lễ hội vẫn là lễ hội nông nghiệp.

Các vùng ven biển QN có địa hình bằng phẳng không nhiều, nhiều bãi sú, vẹt

dài rộng hàng kilômét. Vì vậy, khi định cư ở các vùng ven biển cư dân phần lớn đều

phải thau chua, rửa mặn như đảo Hà Nam, đảo Quan Lạn, đảo Minh Châu, đảo Cô

Tô... do đó người dân sống trên các đảo phải chăm chỉ, cần cù, dãi dầm mưa nắng.

Đảo Hà Nam đến nay vẫn có một hệ thống đê điều kiên cố để phục vụ cho nông

nghiệp. Điều khác biệt đối với các vùng biển khác như miền Trung và Nam Bộ là: Nếu

nhân lực lao động chính của họ là nam giới thì các làng ven biển QN nhân lực chủ

Page 55: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

52

yếu còn là nữ giới (nông nghiệp cổ truyền). Và trong các lễ hội, các đền miếu... vẫn

thờ nữ thần nhiều hơn.

Cư dân nông nghiệp từ lâu đời có truyền thống ưu tiên sử dụng đạm thủy sản, nên

bên cạnh việc trồng lúa còn phát triển nghề nuôi và đánh bắt thủy sản. QN có dải bờ biển

dài, bên cạnh những ngư dân chuyên nghề chài lưới, thì cơ bản vẫn là những cư dân kết

hợp làm ruộng với đánh bắt thủy sản, đáp ứng nhu cầu tự cấp, tự túc. Sông ngòi, ao, hồ,

đầm giúp họ nuôi và cung cấp nguồn thức ăn là cá, tôm... nên nhiều khi người nông dân

đã đưa lên vị trí hàng đầu “nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền” (nhất thả cá ao, nhì

làm vườn, ba làm ruộng). Như vậy, những cư dân nông nghiệp vẫn làm theo tâm thức của

họ, trồng lúa nước và nuôi thủy sản nước ngọt. Nghề khai thác hải sản trên biển vẫn

không được phát triển ở vùng biển QN. Nếu có, tầm khai thác hải sản cũng chỉ dừng lại ở

vùng biển cận duyên bằng những thuyền lưới thô sơ. Sản phẩm đánh bắt chỉ đáp ứng một

cách hạn chế những nhu cầu bữa ăn hàng ngày. Vì vậy, các lễ vật dâng cúng trong lễ hội

ven biển về cơ bản vẫn là lễ vật nông nghiệp. Hay trên các đơn nguyên kiến trúc của đình

làng Quan Lạn vẫn vừa thấy hình ảnh của con tôm rồng đồng thời vừa có hình ảnh của

con ngài (con tằm).

Đối với cư dân nông nghiệp, việc canh tác thường phụ thuộc vào thời tiết. Vì thế,

việc thờ cúng các vị thần tự nhiên là một tín ngưỡng truyền thống của người làm nông

nghiệp. Người Việt luôn có ước mong hòa hợp với thiên nhiên, tôn sùng thiên nhiên.

Ngôn ngữ hàng ngày của người Việt cũng thể hiện điều đó, chẳng hạn như: Lạy Trời, lạy

Phật/Ơn Trời mưa nắng phải thì/Nơi thì cày cạn, nơi thì bừa sâu; Nhờ trời mưa gió

thuận hòa/Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau…

Tâm lý sợ hãi trước sức mạnh tự nhiên không chỉ có trong người dân, mà còn có

trong cả các bậc vua chúa. Sự sùng bái môi trường tự nhiên có thể được coi là đặc tính

tâm lý cơ bản trong văn hóa ứng xử của người Việt trong quá trình mưu sinh, nó được

nảy sinh trên nền tảng của văn hóa nông nghiệp.

Với bản tính phụ thuộc vào tự nhiên nên khi đứng trước biển bao la, núi hùng vĩ

của mảnh đất phên giậu này, những chủ nhân văn hóa đầu tiên đã không dám chinh phục,

cải tạo biển cả mà chọn cách quay vào với đất liền và cải tạo đất ven biển để làm nông

nghiệp, đồng thời thờ Thần Nông, thần Thành hoàng làng, thờ Tiên Công để được che

Page 56: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

53

chở... Trong lễ hội biển đảo nhưng lại tổ chức thi cấy, thi nuôi lợn... là những công việc

quen thuộc của người nông dân nhưng lại sống ven biển và trên đảo.

Như vậy, xét về nguồn gốc dân cư ở vùng biển đảo QN đến từ nhiều con

đường, từ nhiều địa phương với các mốc thời gian khác nhau... thì chủ yếu vẫn là cư

dân gốc nông nghiệp. Họ có thể là những người: tìm kế sinh nhai, tìm vùng đất mới để

sinh sống; di dân do chính sách khai hoang, mở rộng của các triều đại phong kiến; là

những người tìm chốn nương thân, tránh sự áp bức bóc lột, truy lùng, săn đuổi của các

vương triều phong kiến, vùng đất cũ khi có sự biến động về chính trị, những cuộc

phản kháng, xung đột mà họ bị thất bại; là binh lính, quan cai trị... được điều động của

chính quyền đến xây dựng và cai quản vùng đất mới. Nhưng mỗi khi tổ chức lễ hội,

họ quên đi nguồn gốc thân phận mình và hòa chung vào không khí ngày hội với

những nghi thức của cư dân nông nghiệp.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của các làng nông nghiệp

Nhiều làng của vùng biển đảo QN vẫn có cơ cấu tổ chức giống các làng nông

nghiệp (trong đồng bằng). Vì vậy, lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN vẫn giữ khá

nhiều đặc trưng lễ hội của những cư dân nông nghiệp như lễ hội Xuống đồng, lễ Đảo

vũ trên đảo Hà Nam, lễ hội Trà Cổ ở Móng Cái…

Đại diện cho làng ven biển đậm chất nội đồng nhất là làng Trà Cổ. Làng Trà Cổ

nằm sát ven biển, đồng thời sát biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nét khác biệt nổi

bật nhất của làng Trà Cổ so với các nơi ở đồng bằng Bắc Bộ và trong tỉnh là tổ chức giáp.

Căn cứ vào lời xướng của hai phe thuộc 6 giáp trong ngày hội làng thì xưa kia, làng có

hai phe (phe Đông và phe Tây) sáu giáp. Tuy nhiên sau khi kể tên giáp thì có hai loại ý

kiến khác nhau. Đa số ý kiến cho rằng 6 thôn Ngọc Sơn, Bình La, Nam Thọ, Đông

Thịnh, Tràng Lộ và Sa Vĩ vốn là 6 giáp phát triển thành thôn. Theo ý kiến này thì ở Trà

Cổ có yếu tố địa vực, và từ giáp phát triển thành làng mới. Có lẽ chính vì đặc điểm nổi

bật này (giáp trùng với địa vực làng) mà cơ cấu tổ chức của các thôn làng ở Trà Cổ cũng

có nhiều nét độc đáo.

Trước hết, làng thay giáp quản lý nhân đinh. Nếu ở những nơi khác, một làng

có nhiều giáp, mỗi giáp có một số nhân đinh, ghi tên các thành viên là nam giới trong

giáp, căn cứ vào số đó, giáp phân bổ các nghĩa vụ đóng góp việc làng cho các thành

Page 57: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

54

viên. Hay một số nơi cả xã hoặc cả thôn có một sổ đinh ghi tên những người chịu sưu

thuế thì ở Trà Cổ mỗi thôn có một cuốn sổ bìa xanh ghi tên mọi nam giới trong thôn

từ 15 tuổi trở lên. Vào dịp hội làng, ngày mùng 1 tháng 6 âl có lễ thức đọc sổ bìa xanh

hay gọi tên nhân đinh theo sổ bìa xanh. Những người con trai đến tuổi 15 nghiễm

nhiên được ghi tên vào sổ làng trong dịp này, chính thức được hưởng các quyền lợi,

nhưng cũng phải thực hiện các nghĩa vụ với làng. Sổ này là căn cứ cắt đặt việc làng

mà quan trọng nhất là việc tổ chức lễ hội (cử người thay mặt làng tiến hành những

nghi lễ trọng đại của việc thờ cúng thần linh). Họ là các cai đám, đóng góp phần vật

chất quan trọng nhất cho lễ hội. Cai đám gọi theo danh sách ghi trong sổ bìa xanh tính

từ trên xuống. Người đến lượt làm cai đám mà có đại tang thì được hoãn đến hết tang,

song đến kỳ tiếp theo thì không được làm cai đám nhất, dù ông ta có đủ các tiêu chuẩn.

So với nhiều nơi, bộ máy quản lý làng xã ở Trà Cổ rất phức tạp vì có nhiều

chức danh khác nhau. Ngoài hội đồng kỳ mục như các làng khác, làng Trà Cổ còn có

chức danh sau: thứ nhất là thôn trưởng, lo việc hành chính trong thôn; thứ hai là thủ

khán hay thôn khán, gồm có 4 người lo việc chia phần trong dịp làng có lễ lạt, trợ

giúp lý trưởng, phó lý và thôn trưởng trong việc sưu thuế. Chỉ huy 4 người này là

khoán trưởng. Họ đều là người biết chữ, có gia sản và phải khao khi nhận nhiệm vụ.

Ngoài hai chức danh trên, còn chức danh thứ ba là văn thuộc, gồm 2 người làm nhiệm

vụ thông báo các cuộc họp ở đình, phục vụ việc tế lễ ở đình và phục vụ công việc

hành chính của các chức dịch. Họ được cắt cử từ những người nghèo, ai muốn làm thì

xin làng mà không phải mất tiền khao, nhiệm kỳ 6 năm, hết hạn cũng được chức

nhiêu. Ngoài đảm đương việc làng, thủ khoán còn phải tham gia điều hành công việc

của phường hiếu.

Tại các thôn làng Trà Cổ, ngoài các ông đám còn có các ông mo hay sư mo, lo

việc cúng tế ở đình. Sư mo do làng cử ra từ những người có chức thôn khán trở lên,

biết các nghi thức cúng tế, được dân làng tín nhiệm. Nhiệm kỳ của sư mo là 3 năm

hoặc hơn, nếu được dân làng bầu lại. Khi từ nhiệm, sư mo cùng ngôi thứ với cựu phó

lý. Ngoài các chức danh trên, lo việc tang còn có lễ đinh phục vụ lý trưởng khi tế lễ ở

đình, nhiệm kỳ của lễ đinh theo nhiệm kỳ của lý trưởng. Tất cả chức danh trên được

gọi là ban văn.

Page 58: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

55

Ngoài ban văn còn có ban võ, gồm khán thủ lo việc điều phu phen tạp dịch,

việc lính và những công việc thuộc tư pháp và hình sự. Về vai vế, người này tương

đương với thôn trưởng. Ông ta chịu sự điều hành của xã đoàn là người phụ trách công

việc an ninh của xã. Thủ giáp hay phiên tuần trực tiếp lo việc canh gác hay tuần

phòng, bảo vệ an ninh làng xóm, gồm có 6 người cắt cử từ những thanh niên tuổi từ

18 đến 30 (gọi lần lượt theo sổ bìa xanh). Đây là nhiệm vụ bắt buộc giống như người

cai đám, với nhiệm kỳ là 3 năm. Địa vị của thủ giáp tương đương như thủ khoán bên

văn. Thủ giáp chịu sự điều hành trực tiếp của trưởng lục giáp, người có vị thế giống

như trưởng khoán ở bên văn.

Ngoài hội đồng kỳ mục, điều hành việc hành chính, an ninh, tế tự ở từng

thôn, tại Trà Cổ còn có hội đồng lý dịch, tức là bộ máy chính quyền cấp xã. Hội

đồng lý dịch của mỗi xã có một lý trưởng và các phó lý ở các thôn; một xã đoàn phụ

trách việc an ninh, tư pháp; một hộ lại lo giấy tờ sổ sách về hộ khẩu; một chưởng bạ

lo giấy tờ sổ sách về ruộng đất; một thư ký và một thủ quỹ. Ngân sách của các thôn

và của xã chủ yếu dựa vào tiền bán ngôi thứ, còn chi phí cho các dịp lễ hội chủ yếu

lấy từ nguồn đóng góp của cai đám và tiền công đức. Bộ máy quản lý làng xã điều

hành trên cơ sở pháp lý là hương ước. Tại thôn Nam Thọ hiện nay, cụ Trần Huy

Liêm [PL10, tr.255] còn giữ được một bản sự lệ của làng ghi bằng chữ Hán, lập năm

Bảo Đại thứ tư (1929) gồm 15 điều về việc cắt cử cai đám, nghĩa vụ của cai đám, tổ

chức các kỳ tế lễ… đặc biệt trong lễ hội.

Việc quản lý, tổ chức lễ hội Trà Cổ hầu như giống các làng nông nghiệp truyền

thống. Trong lễ hội Trà Cổ cũng còn duy trì khá nhiều nghi thức và trò chơi của cư

dân nông nghiệp như: tục thi ông Voi (nuôi lợn - vật nuôi của cư dân nông nghiệp)

hay trò chơi bịt mắt chém cá chình…

Tuy nhiên trong các làng nông nghiệp, bên cạnh nông dân là thành phần chủ

yếu thì vẫn có những cư dân làm ngư nghiệp. Một số nơi họ thường tách ra khỏi cơ

cấu tổ chức của làng và ít có quan hệ mật thiết với cư dân nông nghiệp.

2.2. Sự thể hiện yếu tố nội đồng trong lễ hội truyền thống

2.2.1. Yếu tố nội đồng thể hiện qua các vị thần chủ được thờ

2.2.1.1. Thần Nông

Page 59: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

56

Thần Nông - một vị vua huyền thoại của Trung Hoa, còn được gọi là Viêm Đế

hay Ngũ Cốc Tiên Đế. Theo truyền thuyết, Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000

năm. Ông đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên làm lễ Tịch

điền (còn gọi là lễ Thượng điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc

Hạ điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cho nên trong dân gian có câu Thần Nông

giáo dân nghệ ngũ cốc (Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc).

Tại Việt Nam, Thần Nông được xem là thủy tổ của người Việt. Trong Đại Việt

sử ký toàn thư, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên, có chép: "Kể từ khi Kinh Dương vương,

họ Hồng Bàng nối dòng dõi Thần Nông, lấy con gái vua Động Đình, sang rõ đạo vợ

chồng, theo đúng nguồn phong hóa, vua thì lấy đức mà cảm hóa dân, giũ áo khoanh

tay" [36, tr.75].

Thời phong kiến, hằng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình

cũng như ở các địa phương. Nghi thức lễ tế Thần Nông thời Nguyễn được cử hành

vào ngày Lập xuân, bởi vậy nên lễ tế Thần Nông còn được gọi là tế xuân.

QN cũng có nhiều vùng ven biển làm nông nghiệp và hầu hết ruộng đồng do

quai đê, lấn biển mà thành. Nông nghiệp ở vùng cửa sông ven biển phải chịu nhiều

ảnh hưởng của thiên tai như bão gió, triều dâng, hạn hán, úng lụt, sâu bệnh. Do vậy,

cư dân rất coi trọng thời vụ, coi trọng thủ tục thờ Thần Nông, tế lễ Thần Nông.

Các lễ hội truyền thống ven biển QN thường thờ Thần Nông là thần chủ như: lễ

hội xuống đồng, lễ hội đình Cốc [PL.3.2.3, tr.187]. Còn ở các lễ hội khác Thần Nông

được phối thờ cùng thần Thành hoàng ở đình như: lễ hội đình Phong Hải, lễ hội đình

Cẩm La, lễ hội đình Yên Đông, lễ hội đình Trung Bản. Tất cả lễ hội trên đều ở h.Yên

Hưng - một huyện giáp biển. Hàng năm, các đình làng thường diễn ra các lễ tế liên

quan đến tín ngưỡng thờ Thần Nông như: lễ Khai ương (gieo mạ), lễ Hạ điền (xuống

đồng), lễ Thượng điền (cấy xong), lễ Thường tân (cơm mới - gặt lúa).

Lễ Thần Nông mang ý nghĩa cầu mong được mùa, được Thần Nông bảo trợ cho

nghề nông ngày càng phát đạt. Trong tâm thức dân gian, Thần Nông không chỉ dạy dân

làm nông nghiệp mà còn là thầy thuốc, là người dạy dân biết chữ (có phần giống với

thần Không Lộ)... Do đó, dân nhiều nơi thờ ông như Thành hoàng làng, vì vậy Thần

Nông còn có thêm ý nghĩa phù trợ cho muôn dân có đời sống ấm no, hạnh phúc.

Page 60: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

57

2.2.1.2. Thành hoàng

Thần Thành hoàng là vị thần che chở, bảo hộ cho một thành lũy cụ thể, xuất

hiện ở Trung Quốc từ năm 555 sau công nguyên. Kiến trúc một kinh thành thời trung

đại gồm: la thành, hoàng thành, tử cấm thành. Người Trung Quốc có một hệ thống

Thành hoàng từ trung ương xuống huyện.

Theo Lĩnh Nam chích quái và Việt Điện u linh thì ở Việt Nam thuật ngữ này

xuất hiện đầu tiên khi Cao Biền phong cho thần Tô Lịch làm thần Thành hoàng Thăng

Long vào thế kỉ IX. Từ đó trở đi, cả nước có hệ thống Thành hoàng từ trung ương đến

huyện, tỉnh theo mô hình Thành hoàng của Trung Hoa Quốc. Thành hoàng (chữ Hán:

城隍) mà người dân thờ ở các đình làng (được triều đình ban sắc phong) không phải

là vị thần Thành hoàng của thành quách mà chỉ là mượn danh xưng. Vị thần này dù có

hay không có họ tên và lai lịch, dù xuất thân từ tầng lớp nào, thì cũng là thần chủ của

làng và đều mang chức năng là hộ quốc tý dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương

đó. Thành hoàng thường được chia ra làm 2 loại: thiên thần, nhân thần. Thiên thần là

các vị thần có nguồn gốc từ các hiện tượng tự nhiên. Nhân thần được tôn làm Thành

hoàng là những vị thần hoặc nhân vật huyền thoại, hoặc nhân vật lịch sử có thật được

thần thánh hóa, được hư cấu.

Từ năm 1802 đến 1945 nhà Nguyễn cho xây dựng miếu Thành hoàng ở các

tỉnh (tức là thờ thần Thành hoàng của một thành quách cụ thể) trong đó có tỉnh QN.

Tại QN, miếu Thành hoàng được dựng năm Thiệu Trị thứ hai (1842) khi tỉnh còn

mang tên Quảng Yên và đóng tại đất x. Quỳnh Lâu, h. Yên Hưng ngày nay. Vị thế

miếu Thành hoàng ở phía tây bắc của tỉnh.

Ở nhiều lễ hội truyền thống ven biển QN Thành hoàng được tôn làm thần chủ

và có vị trí quan trọng đối với những ngư dân ven biển và trên biển (như lễ hội Vân

Đồn, Trà Cổ, lễ hội làng Yên Đông, làng Giang Võng, lễ hội đền Bụt Đày, đền Cậu

Vàng, lễ hội đình Cốc, đình Hải Yến). Ngoài ra, ở các lễ hội khác, Thành hoàng được

coi là vị thần phối thờ như lễ hội làng Hiệp Hòa, hội miếu Tiên Công, lễ hội đình

Trung Bản...

Tại đình Quan Lạn, huyện Vân Đồn, nơi hàng năm tổ chức lễ hội Vân Đồn,

hiện có 20 sắc phong cho các Thành hoàng làng. Tiêu biểu là các sắc phong sau:

Page 61: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

58

Sắc phong năm Thiệu Trị thứ 6, ngày 13/8/1846 có nội dung: “Sắc phong cho

vị Thành hoàng xã Quan Lạn bảo an, giúp nước, che chở cho dân rất linh ứng. Gia

tặng 4 chữ “Bảo an chính trực”; sắc phong cho thần Không Lộ Giác Hải, gia tặng

“Thành Xung Tuệ Trùng Tĩnh” [PL.6.2.1, tr.197], [PL.6.2.5, tr.199].

Sắc phong số 20 có nội dung ban cho 3 vị tướng quân họ Phạm (Phạm Công

Chính, Phạm Quý Công, Phạm Thuần Dụng) danh hiệu “Dực Bảo Trung Hưng linh

phù tôn thần”. Đây là 3 vị tướng có công giúp tướng Trần Khánh Dư trong trận chiến

chống quân Nguyên Mông trên dòng sông Mang [PL.6.2.4, tr.198]. Ngoài ra còn có

các sắc phong cho 4 vị thần biển phía nam là Hàm Hoằng, Quảng Đại, Chí Đức, Phổ

Bác là thượng đẳng thần [PL.6.2.2, 6.2.3, tr.197, 198].

Nhân vật chính của lễ hội Vân Đồn - vị thần được thờ trong đình, Thành hoàng

làng - là nhân vật lịch sử có thật gắn với công lao hoặc những chiến công hiển hách, đã

được nhân dân nơi đây tôn kính và thần thánh hóa. Đó là Trần Khánh Dư - tướng lĩnh

tài ba có công lớn đối với triều Trần - được vua Trần phong tước Nhân Huệ Vương,

chức Phiêu Kỵ đại tướng quân. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần

thứ ba, vua Trần đã giao trọng trách cho Trần Khánh Dư làm phó tướng, trấn giữ miền

biên hải đông bắc, đóng đại bản doanh tại Vân Đồn. Với công lao to lớn của Trần

Khánh Dư, sau khi ông mất, người dân đảo Quan Lạn đã tôn ông là Thành hoàng

làng như một sự tưởng nhớ trang trọng nhất vị dũng tướng tài ba có cá tính hơn

người. Cùng với hệ thống nhân thần và thiên thần được thờ trong đình, chùa, miếu,

nghè ở Quan Lạn, Trần Khánh Dư là một trong những vị thần trung tâm được nhân

dân làng chài sùng kính [PL.3.2.2, 6.2.3, tr.186, 198]. Hằng năm, mở đầu lễ hội

người dân cũng tổ chức lễ Nghênh thần (đón thần về dự hội), sau đó rước ảnh và

sắc phong của ông từ đình về nghè, hết hội lại làm lễ Xa giá hoàn cung (rước ông

trở lại đình) [PL.9.1, A.1,2,3,4 tr.235, 236]. Như vậy, mười ngày diễn ra lễ hội Vân

Đồn, ở đâu cũng thấy hình ảnh ông. Vai trò vị thần chủ của Trần Khánh Dư trong

lễ hội lại càng được khẳng định.

Lễ hội Trà Cổ của đình Trà Cổ cũng phối thờ nhiều vị Thành hoàng. Trong

đình Trà Cổ hiện còn 10 sắc phong với các nội dung sau: Bốn sắc phong thời Thiệu

Trị ngày 18/11/1880 (Tự Đức thứ 33) phong cho Không Lộ Giác Hải và Bạch Điểm

Page 62: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

59

Tước tôn thần; hai sắc phong ngày 20/5/1922 (Khải Định năm thứ 7) cho Bạch Điểm

Tước tôn thần; bốn sắc phong ngày 25/7/1924 (Khải Định năm thứ 9) cho Thuyền

Quốc Lữ thái úy tôn thần, Quảng Trạch đại vương, Không Lộ Giác Hải và Bạch Điểm

Tước tôn thần. Trà Cổ là nơi dân Đồ Sơn định cư, khởi nguồn từ sáu vị tiên công. Họ

được phối thờ nhưng không có cứ liệu nào khẳng định là được phong thần, cũng

không có tư liệu gì nói rằng họ được phong Thành hoàng. Hằng năm, vào ngày hội

đều tổ chức lễ rước thần mời các vị thần Thành hoàng làng về dự hội. Lễ rước được tổ

chức quy mô hoành tráng, đi dọc bờ biển Trà Cổ. Dưới biển các thuyền treo cờ hội

cũng đi theo để rước thần [PL9.1, A.5, tr.237].

Ở h. Yên Hưng có các dạng Thành hoàng sau: Bản cảnh Thành hoàng ở x. Bùi

Xã, Thành hoàng linh ứng chi thần ở x. Động Linh, tam vị Thành hoàng (Cao Sơn,

Quý Minh, Đông Phong) ở x. Khoái Lạc, Đương cảnh chủ sơn đại vương ở x. Cộng

Hòa, Bản thổ Thành hoàng Đại Hải Phạm chi thần, U Minh chi thần [PL.6.1.1,

tr.195], [PL.6.1.3, 6.1.4, tr.196] và Diệu cảm mặc phu [PL.6.1.2, tr.195] ở x. Hải Yến,

Thành hoàng Vũ Hoàng Đào ở x. Hưng Học...

Cũng như ở các địa phương khác trong cả nước, Thành hoàng làng ở các làng

ven biển QN khi vô danh xưng, khi hữu danh. Có nhiều sắc phong không ghi rõ tên

thần, đa số vào thời Nguyễn, thông thường tái phong những Thành hoàng đã được

phong từ thời Lê trước đó. Có một số Thành hoàng lần đầu tiên được phong trong thời

Nguyễn thì có tên thần ghi trong thần tích, làm theo sắc phong. Một số đình làng còn

dùng thần tích của cùng vị thần đã phát hiện ở nơi khác. Nhưng với những vị Thành

hoàng không có tên thì không thể xác định được. Cũng có thể những vị thần được dân

thờ làm Thành hoàng mà không có sắc phong. Việc tôn thờ thần Thành hoàng trong

các lễ hội ven biển QN có ý nghĩa giáo dục thế hệ trẻ truyền thống “uống nước nhớ

nguồn”, cũng là dịp để mỗi người dân được thể hiện niềm thành kính với các vị thần

đã bảo trợ cuộc sống cho họ trong suốt một năm qua.

2.2.1.3. Tiên Công

Tín ngưỡng thờ Tiên Công ở Việt Nam có từ lâu đời. Việc tưởng nhớ những

người có công đầu tiên khai phá các vùng đất mới trên khắp mọi miền văn hóa đã tạo

nên tín ngưỡng thờ Tiên Công.

Page 63: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

60

Ở QN, tín ngưỡng thờ Tiên Công tiêu biểu nhất là trên đảo Hà Nam. Theo

người dân kể lại: Thời vua Lê Thái Tông, niên hiệu Thiệu Bình năm 1434 có nhiều

nhóm dân cư đến đảo Hà Nam quai đê, lấn biển, khai đất, lập làng, trong đó có 17 vị ở

phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, phía nam thành Thăng Long. Họ là những người lao

động, kẻ sĩ sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp và kiếm cá ven hồ, ven sông Kim

Ngưu. Sau đó, nhà vua muốn mở rộng kinh thành, lấy đất của họ nên họ phải đi nơi

khác. Nhà vua cho phép họ đi tìm đất, lập làng ở bất cứ nơi đâu và miễn thuế trong

thời gian đầu.

Mười bảy gia đình xuôi dòng sông Hồng ra cửa sông Bạch Đằng cắm thuyền tìm

đất. Vào một đêm, họ lên trú ở một gò nổi của bãi triều, nghe tiếng ếch nhái kêu, biết

nơi này có nước ngọt, họ quyết định lên bãi triều để khai phá đất mới. Sau đó còn có

thêm hai gia đình khác quê ở Trà Lý, tỉnh Thái Bình cũng đến. Hai gò nổi được khai

phá đầu tiên được gọi tên là Cẩm La và Trung Bản. Hồ nước ngọt mà họ phát hiện ra

được đặt tên là Hồ Mạch. Các gia đình ăn ở hòa thuận, coi nhau như anh em. Về sau

con cháu gọi họ là “Thập cửu Tiên Công định cơ lập ấp”. Sau đó các nhóm cư dân khác

cũng đến định cư và lập nên làng đảo Hà Nam. Tổng số các vị Tiên Công có công lập

nên đảo Hà Nam là 24 vị. Để ghi nhớ công ơn, nhân dân đã lập đền thờ 24 vị như sau:

x. Phong Cốc có 11 vị (Vũ Song, Vũ Hồng Tiệm, Bùi Huy Ngoạn, Vũ Tam Tỉnh, Lê

Mở, Vũ Giai, Lê Khép, Ngô Bách Đoan, Nguyễn Phúc Cốc, Nguyễn Phúc Thắng,

Nguyễn Phúc Vinh), x. Yên Đông có 3 vị (Nguyễn Thực, Nguyễn Nghệ, Bùi Bách

Niên), x. Cẩm La có 3 vị (Phạm Việt, Dương Quang Tấn, Dương Quang Tín), xã Vị

Dương có 2 vị (Hoàng Kim Bảng, Hồng Đức Hấn), x. Bản Động có 2 vị (Hoàng Nông,

Hoàng Nênh), x. Lương Quy (Đỗ Độ, Đào Bá Lệ, Phạm Nhữ Lãm) [PL.3.2.2, tr.186].

Nhờ ơn mười bảy vị Tiên Công quai đê lấn biển lập nên ba thôn Cẩm La,

Phong Cốc, Yên Đông và hai vị Tiên Công lập nên thôn Trung Bản nên nhân dân xã

Phong Lưu đã lập miếu thờ Tiên Công ở thôn Cẩm La để tuần rằm, lễ tiết, tứ thời

phụng thờ [PL.3.2.1, tr.185]. Miếu Tiên Công có từ bao giờ, không ai rõ. Các cụ kể lại

rằng miếu Tiên Công có từ thời hậu Lê, ở vị trí hiện nay nhưng bằng tranh tre, vách

đất; còn miếu Tiên Công Hoàng Nông, Hoàng Nênh cũng bằng tranh tre vách đất ở xứ

đồng Vu Ván, thôn Đìa Đa. Đến thời Vua Gia Long năm thứ ba (1804), nhân dân xã

Page 64: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

61

Phong Lưu đã xây miếu Thập cửu Tiên Công bằng gạch ngói khang trang. Nhà tiền

đường rộng lớn năm gian có đầu đao góc mái, vừa là cổng miếu vừa là nơi các cụ

thượng thọ cùng con cháu nghỉ chân, chờ đến giờ Ngọ, sau lễ tế Tiên Công của tứ xã,

để vào hậu cung lễ Tiên Công. Trong hậu cung của miếu có bài vị thờ Thập thất Tiên

Công khai sáng hậu đồng và Nhị vị Tiên Công khai sáng tiền đồng (có thể hiểu đó là

những xứ đồng phía trước và những xứ đồng phía sau, lấy phía đông nơi mặt trời mọc

làm phía trước theo tư duy không gian của vùng cửa biển).

Vào năm Duy Tân nhị niên (1908), nhân dân thôn Trung Bản đã xây miếu thờ

Nhị vị Tiên Công Hoàng Nông, Hoàng Nênh bằng gạch ngói khang trang tại xóm

Thượng thôn Trung Bản và tổ chức lễ hội Tiên Công riêng vào ngày mồng 5 tháng

Giêng. Tại miếu Thập thất Tiên Công, lễ hội Tiên Công được tổ chức vào ngày mồng

7 tháng Giêng như cũ.

Ngoài việc xây miếu thờ các Tiên Công để mọi người dân trong thôn, xã,

phụng thờ, nhớ ơn những người có công đầu tiên trong việc quai đê lấn biển lập nên

làng xóm ruộng đồng, con cháu các dòng họ Tiên Công còn lập từ đường thờ các

thủy tổ là Tiên Công, vừa truy ơn tiên tổ, vừa giáo dục con cháu truyền thống khai

canh lấn biển. Đó là các nhà thờ như nhà thờ họ: họ Lê (Lê Mở, Lê Khép) - xóm

Công, xã Phong Cốc; họ Ngô (Ngô Bách Đoan) - xóm Thượng, xã Phong Cốc; họ

Nguyễn (Nguyễn Phúc Cốc, Nguyễn Phúc Thắng, Nguyễn Phúc Vinh) - xóm Cung

Đường, x. Phong Cốc; họ Vũ (Vũ Hồng Tiệm) - xóm cung Đường, x. Phong Cốc; họ

Dương (Dương Quang Tín) - xóm Dưới, x. Cẩm La; họ Phạm (Phạm Việt) - xóm

Ngoài, x. Cẩm La; họ Bùi (Bùi Huy Ngoạn) - xóm Nam Cầu, x. Phong Hải; họ Vũ

(Vũ Giai), họ Vũ (Vũ Tham Tỉnh), họ Bùi (Bùi Bách Niên), họ Nguyễn (Nguyễn

Thực, Nguyễn Nghệ) - xóm Đình, x. Yên Hải; Miếu Tiên Công (thờ Hoàng Nông -

Hoàng Nênh), họ Hoàng (Hoàng Nông, Hoàng Nênh) - xóm Đình, x. Liên Hòa.

Các vị Tiên Công được tôn vinh trong các lễ hội ven biển QN khá nhiều. Có

lễ hội là vị thần chủ, có nơi lại phối thờ như lễ hội Tiên Công, lễ hội làng Hiệp Hòa,

hội làng đình Trung Bản, lễ hội đình Yên Giang, lễ hội đình Trà Cổ. Song lễ hội

Tiên Công ở xã Cẩm La là lễ hội tiêu biểu cho cả vùng và có những đặc điểm, giá trị

mà không nơi nào có được.

Page 65: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

62

Việc phụng thờ các vị Tiên Công trong lễ hội Tiên Công trên đảo Hà Nam,

huyện Yên Hưng cùng các vị thần linh có ý nghĩa ước mong một năm mới làm ăn tốt

lành, cầu các Tiên Công phù hộ cho con cháu sức khỏe dồi dào để chống chọi với thiên

nhiên, bảo vệ đê điều, mùa màng, đời sống của cư dân ngày càng sung túc hơn.

Lễ hội Tiên Công là một lễ hội đặc sắc trên đảo Hà Nam. Lễ hội không chỉ có ý

nghĩa và giá trị đối với cư dân đảo Hà Nam mà còn ảnh hưởng tới cả vùng văn hóa

QN. Trong lễ hội có sự gắn kết hai lớp văn hóa tồn tại song song với nhau: tín ngưỡng

thờ Tiên Công và tôn vinh các cụ thượng thọ. Sự song tồn này là một phong tục tập

quán đẹp, riêng biệt của người dân Hà Nam mà không nơi nào có được.

Lễ hội Tiên Công phản ánh ý thức hệ của người dân Hà Nam về một niềm tin

thiêng liêng với người có công với dân làng. Lễ hội là dịp để các thế hệ tưởng nhớ về

lịch sử của địa phương mình, học tập ý chí và noi theo tinh thần lao động chinh phục

thiên nhiên của cha ông thuở trước. Những phong tục tập quán, những buổi tế long

trọng và nhiều trò chơi mang đậm tính dân gian trong ngày lễ đã ăn sâu vào tiềm

thức của nhân dân luôn nhắc nhở con cháu nhớ về cội nguồn tổ tiên.

2.2.2. Yếu tố nội đồng thể hiện qua nghi lễ

2.2.2.1. Lễ rước nước

Đối với cư dân nông nghiệp thì yếu tố nước đứng vị trí hàng đầu trong canh tác.

Vì vậy, tâm thức về “nước” của cư dân nông nghiệp lúa nước ven sông Hồng vẫn in

đậm trong tâm trí họ, mặc dù họ đã xa quê và đi đến một vùng đất mới. Thậm chí vùng

đất mới chính là biển cả mênh mông, họ phải làm bạn với nước cả ngày, cả đêm. Trong

môi trường mới, họ vẫn muốn giữ lại và tái hiện những phong tục như lễ rước nước, lễ

Đảo vũ... của tổ tiên mình trong các lễ hội truyền thống.

Tiêu biểu trong lễ hội vùng biển đảo ở QN là lễ rước nước trong lễ hội ở đình

Giang Võng. Lễ rước nước hằng năm được tổ chức từ 8 giờ 30 đến 10 giờ sáng ngày

mùng 10 tháng 11 âl và là một trong những nghi lễ quan trọng của lễ hội. Trước nghi

lễ rước nước là nghi lễ Tế thần trước cửa đình [PL.9.6, A.6, tr.237].

Đình làng Giang Võng được dựng ở phía Nam một bán đảo nhỏ (gọi là Cái Đá)

nhô ra vịnh Cửa Lục (sáu con sông cùng chảy về một chỗ) nay thuộc phường Hà

Khánh, TP Hạ Long. Lễ rước nước trong lễ hội truyền thống đình Giang Võng mang ý

Page 66: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

63

nghĩa mời thần thủy phủ và các vị thánh linh thiêng về đình dự hội; xin thần thánh phù

hộ cho người dân làng chài Hạ Long đánh bắt được nhiều tôm, cá, cuộc sống ấm no và

tránh được nhiều tai ương, hiểm họa.

Đội hình đoàn rước trên bờ thứ tự như sau: đội chèo bơi, đội bát biểu, đội nhạc

lễ, đội kiệu rước bài vị thủy phủ, đội tế, kiệu rước nước, đội tế và đội hát làng chài

Cửa Vạn, cuối cùng là dân làng và những người tham dự hội. Đoàn rước nước được

tập trung ở bến, sau đó xuống thuyền đi lấy nước [PL.9.1, A.7, tr.238].

Đội hình đoàn rước dưới sông: 2 thuyền trải lớn mang theo 2 con rồng, đôi trải

nhỏ, thuyền chở kiệu rước bài vị và kiệu rước nước, tiếp đến là 8 tàu mang cờ, nghi

trượng đi hai bên và tạo hình rẻ quạt phía sau [PL.9.1, A.8, tr.238].

Tuyến rước khởi đầu từ đình về hướng bến sông Bang để tập kết lên thuyền, ra

giữa dòng tới điểm làm lễ xin nước. Sau lễ dâng hương, ông chủ tế vào đình (hậu

cung) thắp hương, khấn lễ xin phép rước bài vị thủy phủ lên kiệu, chuẩn bị khởi lễ

rước [PL.3.1.2, tr.184]. Khi ra đến giữa dòng (cách 800m, nơi chọn lấy nước phải là

vùng giao hòa giữa hai dòng nước biển và nước sông), đoàn rước dừng lại xếp theo

hình vòng cung, trung tâm là thuyền rước kiệu. Trước khi lấy nước, chủ tế khấn thủy

thần [PL.3.1.1, tr.184] với nội dung xin đức vua Hà Bá (thuỷ phủ) và hai vị đức Ông

ban cho dân làng bình nước biển trong xanh tinh khiết. Sau đó rước nước về và dâng

lên hương án, chủ tế làm lễ an vị. Dân làng tổ chức tế lễ, cầu mong mưa thuận, gió

hòa, biển yên sóng lặng, đánh bắt được nhiều tôm cá [PL.3.1.3, tr.185].

Lễ rước nước là một loại hình văn hóa dân gian, một nghi thức tâm linh đặc

sắc biểu hiện tín ngưỡng cầu nước của những cư dân sống với nền văn minh lúa

nước ven sông Hồng. Vì vậy, dọc hai bên sông Hồng có nhiều xã tổ chức tục rước

nước như: x. Bình Minh, Mễ Sở, Dạ Trạch thuộc h. Châu Giang (Hưng Yên) thường

tổ chức lễ hội tưởng nhớ đức Thánh Chử Đồng Tử vào các ngày từ mùng 10 đến 12

tháng 2 âl hàng năm.

Như vậy, lễ rước nước của cư dân nông nghiệp thường được tổ chức trên sông,

nhưng lễ rước nước trong các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN lại lấy nước trên

biển. Tuy nhiên, bản chất của buổi lễ vẫn không thay đổi là cầu cho mưa thuận gió

hòa, mùa màng tốt tươi và mang ý nghĩa “uống nước nhớ nguồn”.

Page 67: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

64

2.2.2.2. Lễ Đảo vũ

Việc cầu mưa, cầu nước không chỉ có ở Việt Nam mà có ở hầu hết các nước

Đông Nam Á gốc nông nghiệp như Lào, Thái Lan, Campuchia... Ở nước ta, dưới các

triều đại phong kiến việc cầu Đảo vũ còn được tiến hành với quy mô quốc gia, nhà

vua là người trực tiếp đứng ra làm lễ (dấu tích Đàn Nam giao ở kinh thành Huế, Xã

Đàn ở kinh thành Thăng Long). Vào thời vua Minh Mạng, nhiều tài liệu còn ghi lại

rằng: “Mùa hạ tháng 4 năm Quý Tị (1833), thấy kinh đô không có mưa, vua Minh

Mạng lại sai các quan đi cầu đảo, làm lễ nhiều ngày mà trời chẳng mưa xuống cho,

Ngài liền cho lập đàn Tam thần ở trước Ngọ Môn, sai các hoàng tử cùng quan chức

trong 6 bộ là bộ Hình, bộ Lễ, bộ Công, bộ Hộ, bộ Lại và bộ Binh liên tục thay nhau

cầu khẩn. Đêm đó có mưa lớn, vua mừng quá bất chấp mưa gió tự mình đi đến điện

Trung Hòa đốt hương khấn vái, vì đi vội không kịp dùng kiệu, dùng ô lọng để che nên

mưa ướt cả áo ngự, làm lễ hồi lâu mới về cung nghỉ” [10].

Hiện nay, nhiều vùng trong đó có cả các tộc người thiểu số cũng tổ chức lễ cầu

mưa. Đối với người Chăm (Ninh Thuận) vào ngày 18 tháng 5 âl (nếu năm đó hạn hán

đe dọa), họ lại lên tháp Poklông Garai và Pôrôme thờ thần Nông để cầu mưa, lễ vật

dâng cúng có con trâu trắng.

Hội làng Kép (x. Hương Sơn, h. Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang) diễn ra vào

mùng 6 tháng Giêng có lễ Đảo vũ [98, tr.604-609]. Lễ Đảo vũ kéo dài trong 3 ngày và

có người đóng giả ông sấm, ông sét, giả làm mưa.

Ở QN, vào sâu hơn đất liền, đối với những cư dân quai đê, lấn biển, cần nước

ngọt để cày, để cấy thì Lễ Đảo vũ có ý nghĩa vô cùng quan trọng mỗi khi gặp hạn hán.

Ngược lại, ở huyện Yên Hưng, có năm ruộng đồng nằm dưới mức nước triều cường

tới 3,5m, vì vậy có những nơi cầu mưa để rửa mặn cho đất thì mới trồng trọt được.

Lễ Đảo vũ ở huyện Yên Hưng có đặc điểm sau:

Về chủ tế, nếu làng làm lễ Đảo vũ ở đình hoặc ở chùa làng thì chủ tế thường là

các tiên thứ chỉ. Nếu nhiều làng làm lễ ở đình làng trung tâm thì chủ tế thường là lý

trưởng, có khi là chánh tổng.

Lễ Đảo vũ thường diễn ra theo trình tự: Khi gặp hạn hán, các làng tổ chức tế

“Nghinh thần đảo vũ” ở đình làng, sau đó là nghi lễ “Tế thần Đảo vũ”, cầu ba ngày ba

Page 68: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

65

đêm, lễ tế trong đình làng. Nếu ba ngày ba đêm không mưa thì lại tế tiếp ba ngày nữa

ở đình làng gọi là “Tế thần tái Đảo vũ”. Nếu tế thần tái đảo vũ mà vẫn không mưa thì

làm lễ “Tế hội Đảo vũ”. Muốn làm lễ “Tế hội Đảo vũ”, phải lập đàn tế ngoài trời, đặt

Thành hoàng các làng ngồi theo ngôi thứ để tế cầu mưa. Sau khi tế đảo vũ hoặc hội

đảo vũ, nếu có mưa mà không đủ nước dùng cho sản xuất và sinh hoạt thì dân làng

làm lễ “đắc vũ vị chiêm tế” (đã mưa nhưng chưa đủ nước, cầu mưa thêm). Điều đặc

biệt ở lễ hội Đảo vũ của cư dân Yên Hưng là khi rước Thành hoàng của các làng tập

trung về đình Cốc để làm lễ thì phải đi qua những cánh đồng, sông ngòi khô cạn nứt

nẻ, gập ghềnh, kiệu nhiều lúc phải chao đảo để thần Thành hoàng thấu hiểu nỗi khổ

của chúng sinh.

Lễ Đảo vũ không chỉ của một làng, một xã mà có quy mô liên làng, liên xã,

khá tiêu biểu của huyện Yên Hưng. Những năm hạn hán lâu ngày, các làng Vị Khê, Vị

Dương, Lưu Khê, Quỳnh Biểu, Trung Bản, Cẩm La, Yên Đông, Hải Yến, Hương Học

đều rước Thành hoàng làng mình về đình Cốc làm lễ Đảo vũ. Ở một số địa phương

vùng biển khác người nông dân sống ven biển, cạnh biển cũng phải cải tạo biển để làm

nông nghiệp. Điều này đã tạo cho các lễ hội ven biển QN tuy có những nét chung phổ

quát nhưng vẫn có những nét riêng đặc sắc. Đó chính là tính thống nhất và đa dạng

trong văn hóa vùng ven biển QN so với các vùng, miền khác trong cả nước.

Lễ Đảo vũ của cư dân huyện Yên Hưng có nhiều điểm tương đồng và khác biệt với

lễ hội cầu mưa của cư dân huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Quy mô lễ hội ở huyện Tiên

Lãng cũng là liên làng, liên xã. Trong lễ hội cũng tập trung các vị thần Thành hoàng các

làng về đình Cựu Đôi để cầu mưa, nhưng lại không rước tượng Phật Thích Ca về cùng.

Vị trí cầu mưa ở Cựu Đôi là trong đình, còn vị trí của lễ Đảo vũ huyện Yên Hưng là ở

ngoài sân đình Cốc. Đường rước các vị Thánh trong lễ cầu mưa của huyện Tiên Lãng

không bắt buộc phải đi qua những cánh đồng, con sông khô hạn. Trong lễ hội cầu mưa ở

huyện Tiên Lãng còn có thêm hội đua thuyền (phần hội).

Hiện tượng rước Phật Thích Ca về làm lễ Đảo vũ không xa lạ trong các lễ hội

trên đất nước ta. Hội chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) mở vào ngày mùng 8 tháng

4 âl. Trước hết đó là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni (mùng 8 tháng 4 năm

565 TCN). Tuy nhiên trước khi đạo Phật được truyền vào nước ta thì người dân bản

Page 69: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

66

địa đã có tín ngưỡng thờ thần Nước, là vị thần nông nghiệp. Câu chuyện nàng Man

nương, cô gái Kẻ Mèn (nay thuộc xã Hà Mãn, Thuận Thành) mộ đạo Phật, nằm ngủ

quên giữa cửa; sư Khâuđàla vô tình bước qua mà thụ thai, được giải thích là sự mầu

nhiệm của “thiên nhân hợp khí”! Thực chất đó là cuộc hôn phối giữa đạo Phật với tín

ngưỡng bản địa [98]. Song ý nghĩa quan trọng nhất của hội Dâu là cầu cho mưa thuận gió

hòa, ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp. Hội Dâu được tiến hành vào đầu tháng

4, các nghi thức trong hội xét cho cùng đều là những hoạt động tín ngưỡng cầu thần

Nước của nông dân. Vì vậy các vị vua triều Lý thường rước Phật Pháp Vân về kinh đô

Thăng Long làm lễ cầu đảo. Người dân Yên Hưng rước Phật Thích Ca về làng phải

chăng do mong ước cộng cảm, cộng mệnh và cũng không nằm ngoài ước vọng truyền

thống của cư dân nông nghiệp.

Lễ Đảo vũ không mang tính chất là một tục lệ diễn ra trong lễ hội hàng năm,

thu hút đông đảo người xem, mà đây là một nghi lễ trọng đại, xuất phát trực tiếp từ

nhu cầu mong muốn có mưa của cư dân nông nghiệp để trồng trọt, cày cấy. Vì vậy,

nghi lễ này cũng chỉ được tổ chức khi năm đó bị hạn hán. Do đó, lễ Đảo vũ cũng hết

sức linh thiêng, trang nghiêm và thần thánh. Tuy mỗi nơi có cách tổ chức khác nhau,

nhưng đều chung một mong ước là cầu cho mưa thuận gió hòa.

2.2.2.3. Lễ xuống đồng

Cư dân trên đảo Hà Nam quai đê lấn biển để làm nông nghiệp nên lễ xuống đồng

và lễ thượng điền có vai trò quan trọng trong việc cầu cho mùa màng tốt tươi. Vào dịp

tháng 6 âl, trước khi toàn dân vào dịp cấy mùa, tại đình Cốc, người dân làm lễ tế Thần

Nông và nghi lễ cấy xứng đồng (cấy đầu tiên) hay còn gọi là lễ hạ điền (lễ xuống đồng).

Khi dân trong vùng cấy xong, cũng tại đình Cốc lại làm lễ thượng điền (lễ lên đồng) tế

Thần Nông và Thành hoàng, để các thần chứng và cầu mong phù hộ cho mùa màng tốt

tươi. Trong hai nghi lễ thì lễ hạ điền tổ chức lớn hơn, có cả hội thi bơi trải.

Lễ hội xuống đồng xưa kia được tổ chức ở các xã khu đảo Hà Nam: x. Phong

Cốc, Phong Hải, Cẩm La, Yên Đông, Trung Bản tổ chức ở đình Cốc; x. Lưu Khê tổ

chức ở đình Lưu Khê; x. Vị Dương tổ chức ở đình Vị Dương; x. Hải Yến tổ chức ở

đình Hải Yến; x. Hưng Học tổ chức ở đình Hưng Học. Các nghi lễ và nghi thức lễ hội

Xuống đồng ở các xã diễn ra cơ bản giống nhau. Công tác chuẩn bị cho lễ hội diễn ra

Page 70: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

67

trong tháng 5 âl. Căn cứ vào nông lịch hàng năm mà khu vực Hà Nam định ngày làm

lễ hạ điền. Các bậc tiên thứ chỉ, các trưởng họ họp tại đình Cốc, chọn người cấy lúa

xứng đồng. Người được chọn thường là cụ ông cao tuổi, đức độ, có uy tín với làng xã,

vợ chồng song toàn, con cái phương trưởng… Người chủ tế và các bồi tế, chấp sự

cũng được chọn vậy.

Phần lễ của lễ hội xuống đồng thường bắt đầu diễn ra vào ngày mùng 6 tháng 6 âl,

tùy theo vào thời vụ mùa của từng năm mà chọn ngày mở lễ hội. Sáng ngày mùng 5

tháng 6 âl, các tiên thứ chỉ trong làng làm lễ yết Tiên Công, Thần Nông và thần Thành

hoàng trong đình Cốc. Sau lễ yết Thần Nông là nghi lễ cấy xứng đồng.

Nơi diễn ra nghi lễ cấy xứng đồng là một thửa ruộng ở cánh đồng trước cửa

đình Cốc. Vị tiên thứ chỉ được chọn cấy xứng đồng mặc áo the, khăn xếp, lưng thắt

đai đỏ, cắm một cây nêu. Cây nêu được buộc tua đỏ và các hình con tôm, con cá, con

lợn, con gà, cây lúa… để xua đuổi tà ma, quỷ dữ, sâu bệnh làm ảnh hưởng đến đời

sống và mùa màng của người dân. Cây nêu được cắm giữa một thửa ruộng đã cày bừa

sẵn. Sau đó làng chuẩn bị một mâm lễ, người cấy xứng đồng làm lễ cáo thổ thần xứ

đồng rồi cấy những cây lúa đầu tiên xung quanh cây nêu. Nhân dân đứng trên bờ đánh

trống, đánh mõ, hò reo vui vẻ. Sau nghi lễ này, toàn xã mới được xuống đồng cấy vụ

lúa mùa. Không ai được cấy trước hội, nếu ai cấy trước thì khi mùa màng bị hạn hán,

ngập úng, sâu bệnh dẫn đến mất mùa, làng sẽ bắt vạ.

Lễ xuống đồng là nghi thức trong lễ cầu mùa nghề nông. Đây là nghi lễ thể

hiện ước vọng cầu mong mùa màng tốt tươi, ước vọng hòa hợp giữa con người với

thiên nhiên, thiết lập mối quan hệ giữa trần tục và thần thánh. Để bắt đầu một chu kỳ,

một vụ mùa mới, cư dân nông nghiệp làm lễ xuống đồng nhằm báo cáo với thần

thánh, mong sự bảo trợ, che chở từ thần thánh.

Nghi lễ xuống đồng đã được thực hiện dưới thời Lý, Trần với tinh thần trọng dân,

trọng nông và tổ chức lễ tịch điền hàng năm vào mùa xuân như một niềm tín kính và là

tấm gương cho dân chúng noi theo. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại rằng:

Mùa xuân, tháng Giêng năm 1117, vua nhà Lý “Vua lại ngự đến hành cung Ứng

Phong (nay là phủ Nghĩa Hưng) xem cày ruộng công” [35, tr.178].

Page 71: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

68

Lễ hội xuống đồng ở Hà Nam là một lễ hội độc đáo vào cuối mùa hạ. Phần lễ

ngoài tín ngưỡng thờ Thần Nông, thần Thành hoàng làng, Tiên Công còn là một nghi

lễ quy định lịch thời vụ nông nghiệp. Đây còn là một lễ hội mang đậm bản sắc văn

hóa của cư dân lúa nước vùng cửa biển.

2.2.2.4. Lễ Tiên Công

Giống cư dân nội đồng, luôn tôn trọng truyền thống “uống nước nhớ nguồn”,

người dân vùng biển đảo QN cũng luôn nhớ những người có công gây dựng nên mảnh

đất mà họ đang sinh sống. Mỗi dịp lễ hội, họ lại có những nghi lễ tưởng niệm hết sức

thành kính. Các vị Tiên Công trong hệ thống lễ hội ở Yên Hưng (một vùng thờ Tiên

Công), lễ hội Trà Cổ, lễ hội Vân Đồn… đã trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc cho

họ mỗi khi ra khơi, hay bắt đầu một vụ mùa mới, một sự kiện trọng đại của làng sắp

diễn ra...

Việc tưởng nhớ những người có công lập nên làng xã được tổ chức thành một

lễ hội đặc trưng riêng của cả vùng, đó là vùng đảo Hà Nam gắn với lễ hội Tiên Công

(thôn Cẩm La). Công tác chuẩn bị cho lễ hội phải trước đó mấy ngày thậm chí một

năm. Mở đầu lễ hội là lễ ra cỗ họ.

+ Lễ ra cỗ họ: Vào tối mùng 2 tháng Giêng, các cụ trong Hội đồng gia tộc của

các dòng họ túc yết tại từ đường họ để chuẩn bị nốt công việc cho ngày mùng 3 và tế

Tổ ngày mùng 4 tháng Giêng. Ngày mùng 3 tháng Giêng, các gia đình trong dòng họ

đều đem lễ vật đến cúng Tổ tại từ đường dòng họ mình, gọi là lễ ra cỗ họ.

Lễ ra cỗ họ là dịp thể hiện lòng thành kính đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.

Ngày ra cỗ họ thực sự là một ngày hội lớn trong vùng tứ xã. Từ 8 giờ sáng đến 11 giờ,

mỗi gia đình đều có một mâm cỗ hoặc gánh cỗ đến từ đường dòng họ để tế tổ. Đến 12

giờ trưa các dòng họ đều tổ chức tế Tổ, đây là một hình thức cúng tiễn tổ tiên trong

ngày Tết Nguyên Đán của từ đường dòng họ. Từ ngày làm lễ ra cỗ họ tới đêm ngày

mùng 5 tháng Giêng, gia đình có cụ thượng thọ 80 tuổi, 90 tuổi, 100 tuổi đều có lễ vật

tới từ đường báo cáo tiên tổ và báo cho hội đồng gia tộc biết gia đình đã có người

được hưởng phúc lộc của tổ tiên và trời ban tuổi thọ [PL.9.1, A.9, tr.238]. Tuy chỉ giới

hạn trong phạm vi dòng họ của mình nhưng đã góp phần tạo cho vùng đảo Hà Nam

trở thành một ngày hội lớn.

Page 72: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

69

+ Tế tổ ở các từ đường

Xưa kia, các dòng họ thường tế tổ vào hai lễ: Chạp tổ tháng Chạp và ra cỗ họ

từ mùng 3 đến mùng 5 tết Nguyên Đán, ngày nay thì chủ yếu tế vào ngày ra cỗ họ.

Trước ngày tế Tổ, Hội đồng gia tộc cùng Ban khánh tiết và các chi trưởng họp bàn tại

nhà thờ họ, chọn và phân công người vào các vai tế tổ.

Thành phần đoàn tế: Chủ tế: 1 người, Phân hiến: 2 người, Bồi tế: 2 người,

Xướng tế: 2 người (1 người xướng bên tây và 1 người xướng bên đông), Tứ phúc lộc: 1

người, Thị lập: 2 người, Dẫn rượu: 8 người (thường thay đổi người), Chấp sự: 4 người

(tây chiêng, đông trống), Dàn nhạc: 8 người (thường là tám loại nhạc cụ dân tộc, cũng

có đàn nhạc và thêm đoàn nữ xênh tiền cho thêm sinh động) [PL.9.1, A.10, tr.239].

Các dòng họ đều có Hội đồng gia tộc để chỉ đạo, điều hành mọi công việc. Hội

đồng gia tộc bầu ra ban khánh tiết chuyên lo sửa sang, sắm lễ, tiếp khách, tiếp nhận

công đức… Các chi trưởng lau chùi, dọn dẹp đồ tế tự, kê dọn ban thờ, bày hương án,

cờ, lọng, tàn, bát bửu ra sân, trang hoàng nhà thờ. Họ còn phân công giám thủ là

người của các chi trưởng chuyên lo việc mua bán, sắm lễ chung. Tiền mua sắm lễ này

là quỹ của dòng họ. Đồ lễ gồm bánh dày màu đỏ (sáu đến tám chiếc), gà hoặc đầu lợn,

rượu, tiền vàng, hương, trầu cau, hoa, quả, bánh… [PL.9.1, A.11, tr.239]. Thức ăn

được nấu nướng ngay tại nhà thờ họ.

Mọi công việc chuẩn bị phải hoàn tất từ chiều hôm trước. Buổi tối, trước khi diễn

ra lễ chính, những người được giao nhiệm vụ lo việc cho họ và đại diện cho các gia đình,

(chủ yếu là nam giới) ra nhà thờ họ để dự lễ cúng yết (lễ chung của cả họ) mời tiên tổ về

chứng hưởng. Lễ cúng này do chủ tế đọc văn cúng, quần áo phải chỉnh tề như hôm lễ

chính. Chủ tế là người được chọn lựa cẩn thận. Nếu ai được chọn làm chủ tế thì gia đình

thường sắm lễ ra từ đường lễ Tổ để tạ ơn, vì họ coi đó là hồng phúc của gia đình.

Sau khi các mâm cỗ được chuẩn bị xong, đại diện của các gia đình trang phục

chỉnh tề đội mâm lễ đến nhà thờ họ. Việc đội lễ này phải kết thúc trước giờ ngọ (12 giờ

trưa). Các mâm cỗ được bày dọc các gian thờ, cỗ nhiều hay ít tùy thuộc vào số lượng con

cháu trong dòng họ. Đúng giờ ngọ, ba hồi chiêng được thỉnh, sau đó là ba hồi trống,

thanh la, phường bát âm dạo nhạc. Sau lời khai mạc của ông tộc trưởng - đại diện hội

đồng gia tộc, đội tế vào phía trong nhà thờ để bái lạy tổ tiên. Sau đó buổi tế bắt đầu.

Page 73: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

70

Ngày mùng 4 tết, các dòng họ Tiên Công ở Cẩm La, Phong Cốc và Yên Đông họp

đại diện để cắt cử đoàn tế cho ngày mồng 6 tại miếu Tiên Công, gọi là tế tứ xã. Người

tham gia đoàn tế phải là người am hiểu nghi thức, nghi lễ của một cuộc tế. Chủ tế được

chọn luân phiên giữa các dòng họ Tiên Công, phải là người cao tuổi, ăn ở đức độ, có uy

tín với làng xã, đồng thời phải có sức khỏe. Cuộc họp này cũng chọn luôn 4 cụ thượng

tiêu biểu có sức khỏe để đắp đê và đánh vật tượng trưng ở cửa miếu vào ngày chính hội

(mùng 7 tháng Giêng).

Ngày mùng 4 tháng Giêng âl đúng giờ Ngọ, lễ tế Tiên Công được bắt đầu.

Trình tự của một cuộc tế cũng giống như quy định của triều đình phong kiến xưa như:

Ban lễ tế, tẩy uế, cân đai, tiến đăng nhang, nhập á, đăng ất, tam tuần, ẩm phước. Nội

dung tế Tiên Công và tế Tổ ở miếu Tiên Công hoặc các nơi thờ Tiên Công như đình,

nhà thờ họ cơ bản giống nhau.

Ngày mùng 5, mùng 6 tháng Giêng là những ngày chuẩn bị cho lễ hội. Chiều

ngày mùng 6, các cụ tiên thứ chỉ của các làng Yên Đông, Phong Cốc, Cẩm La và các

dòng họ làm lễ yết tại miếu thờ. Sau đó họp bàn cắt cử chủ tế, bồi tế, đông xướng, tây

xướng và những người chấp sự của đoàn tế tứ thôn. Lễ tế Tiên Công phải là những

người trong đội tế của các dòng họ. Sau đó, các thanh niên đắp một con đê bằng đất

tượng trưng ở miếu để các cụ thượng thọ thực hiện nghi lễ đắp đê trong ngày chính hội.

+ Lễ dâng hương

Cùng ngày 6 tháng Giêng, tại khu vực miếu Tiên Công, từ 11 giờ trưa làm lễ

dâng hương. Đây là thời điểm con cháu và nhân dân trong vùng đến Miếu Tiên Công

làm lễ tế tổ. Nhiều gia đình cũng tổ chức đoàn dẫn lễ đưa cụ Thượng lên miếu Tiên

Công lễ tổ vào thời gian này. Thành phần đoàn dẫn lễ: đi đầu là hai cháu trai (hoặc cháu

gái, con gái), tiếp đến là chữ Thọ được trang hoàng lộng lẫy [PL.9.1, A.12, tr.240], con

dâu cụ Thượng đội hai mâm lễ vật, 01 mâm có bánh dày, trầu cau, một chai rượu trắng,

một con gà luộc và mâm ngũ quả [PL.9.1, A.13, tr.240]. Cụ Thượng chống gậy cùng

con cháu, họ tộc, bà con làng xóm đi sau hai mâm lễ vật [PL.9.1, A.14, tr.241]. Đến

miếu Tiên Công người con trưởng thắp hương cho cụ Thượng lễ Tiên Công.

Ngày mùng 7 (ngày chính hội): lễ rước các cụ Thượng lên đền Tiên Công diễn

ra tấp nập, đông vui cả một vùng rộng lớn [PL.9.1, A.15,16, tr.242].

Page 74: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

71

+ Nghi lễ vượt thổ và đấu vật

Khi các cụ Thượng lễ Tiên Công xong, làng xã mời bốn cụ Thượng còn khỏe ra

trước cửa miếu Tiên Công làm nghi lễ “vượt thổ” (đắp đê). Các cụ Thượng được con

cháu và dân làng đưa cho những tảng đất đã được xẻ vuông vắn để đắp lên khúc đê trước

miếu. Đây gọi là lễ động thổ. Sau lễ này các gia đình, làng xã mới được đào mương, bồi

đê, cày cấy ruộng vườn, thậm chí những gia đình có người mất vào ngày tết cũng phải

chờ qua lễ động thổ mới dám tổ chức lễ tang và đào huyệt. Nếu ai vi phạm trong năm đó

làng xã có xảy ra việc gì, sẽ bị bắt phạt.

Sau khi làm nghi lễ vượt thổ các cụ Thượng tiếp tục thực hiện nghi thức đấu

vật. Các cụ Thượng quấn chỉ vào cổ tay nhau một hoặc hai vòng, cụ nào khỏe nhấc

bổng cụ Thượng kia lên khỏi mặt đất sẽ là người thắng cuộc. Đây là cuộc đấu vật

có một không hai trong các hội vật vùng Bắc Bộ. Các cụ Thượng cởi trần đóng khố

vào đấu trường trong tiếng reo hò động viên của nhân dân, con, cháu, chắt và bà

con trong họ. Các bô lão múa các miếng võ thường lệ trong đấu vật. Các cụ thắng

cuộc thì dòng họ và gia đình vẻ vang và biểu thị sự trường tồn, trường sinh của

dòng giống.

Nghi thức đấu vật là biểu trưng sức khỏe của những người quai đê lấn biển, lập

đất, lập làng, lập nên vùng đảo Hà Nam. Người dân ở đây cũng tin rằng, với nghi thức

này, các cụ sẽ ban sức khỏe cho con cháu.

Các nghi thức đắp đê, đấu vật tượng trưng trong lễ hội Tiên Công là sự cúng tế

các vị tiền hiền có công khai khẩn, một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ

biến của người Việt. Song đến nay chỉ vùng đảo Hà Nam còn lưu giữ được hình thức

sinh hoạt này với đầy đủ ý nghĩa là ca ngợi tinh thần lao động bền bỉ, ý chí kiên

cường, đề cao tình đoàn kết của những người dân lấn biển, tạo dựng vùng đất mới vì

sự nghiệp phát triển của cộng đồng.

Nghi lễ chúc thọ độc đáo và sống động với tục lễ sống và rước cụ Thượng vào

làm lễ tại nhà thờ họ, tại miếu Tiên Công là một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng

đồng - huyết thống nhằm tôn vinh các bậc lão niên, một hình thức mang tính giáo dục

cao, nhắc nhở mọi người tôn kính những người lớn tuổi, trân trọng những kinh nghiệm

mà họ đã có và truyền lại cho dòng tộc, con cháu [PL.9.1, A.17, tr.242].

Page 75: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

72

Sau nghi lễ: tế tổ, động thổ đắp đê, đánh vật, các nghi thức và nghi lễ tế Tiên

Công xem như được hoàn thành và làm lễ đốt văn tế báo cáo [PL.9.1, A.18, tr.243]. Các

gia đình họ tộc rước cụ Thượng về nhà, thứ tự đoàn rước như lúc rước đi. Xung quanh

khu vực miếu Tiên Công, các trò chơi trong ngày hội được tổ chức từ chiều hôm trước

vẫn được tiếp tục cho tới ngày mùng 7, ngày chính hội.

Nhận xét:

Tín ngưỡng thờ Tiên Công được thể hiện qua những sinh hoạt tín ngưỡng như

chạp tổ, lễ ra cỗ họ, nghi lễ chúc thọ, rước thọ, cúng, tế Tiên Công và nghi lễ đắp đê,

đấu vật. Lễ hội Tiên Công là sự cúng tế các vị tiền hiền khai khẩn, một hình thức sinh

hoạt văn hóa cộng đồng của người Việt.

Đi đôi với lễ hội Tiên Công còn có một sinh hoạt văn hóa gia đình rất đặc

biệt, đó là lễ Thượng thọ được dòng họ tổ chức cho những người đạt tuổi 80, 90,

100. Sinh hoạt này nhằm nhắc nhở mọi người về sự tôn kính những người lớn tuổi

(trọng xỉ), trân trọng những kinh nghiệm mà họ đã có để truyền lại cho con cháu.

Đây là sinh hoạt văn hóa cộng đồng (huyết thống) của những cư dân nội đồng nói

chung đồng thời gắn liền với lễ hội Tiên Công - tín ngưỡng thờ Tiên Công ở vùng

đảo Hà Nam nói riêng.

2.2.2.5. Lễ đóng cây cai đám và gọi sổ bìa xanh trong lễ hội Trà Cổ

Trước đây, lễ đóng cây cai đám được tổ chức từ chiều 30 tháng 5 âl, nhưng

hiện nay, lễ này được tiến hành vào khoảng 20 giờ ngày 1 tháng 6 âl.

Lễ vật dâng thánh là chè đỗ xanh. Cây cai đám được làm từ gỗ hoặc tre có

đường kính 15 đến 20 cm sơn đỏ, vẽ hoa văn, dài 3,5m bằng khoảng cách hai cột

chính ở cửa phía bên trong đình. Lễ do ông mo và 12 ông cai đám thực hiện, trước khi

đóng cai đám, ông mo đọc những lời chúc phúc có nội dung mời các vị thần về dự hội

và phù hộ cho dân làng mùa màng tốt tươi…

Cây cai đám được đặt vào hai cái hèm đã đóng sẵn trên hai cột đình. Độ cao

của cây cai đám cách mặt đất 1,5m. Từ khi cai đám được đóng xuống cũng tức là lúc

“nội nghiêm trang”, “ngoại nghiêm trang”, không ai được để xảy ra bất cứ điều gì làm

mất an ninh, trật tự. Mọi người bước vào trong đình lễ bái và dự lễ đều phải cúi đầu

Page 76: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

73

chui qua cây đám thể hiện lòng thành kính với thần linh. Từ lúc này hương đèn trên

ban thờ của đình phải có người thay phiên nhau trông, không được để tắt.

Sau nghi lễ đóng cây cai đám là đến tục gọi sổ bìa xanh. Thành phần là dân đinh

trên địa bàn với mục đích là kiểm tra lại đinh cũ, bổ sung dân đinh mới. Sổ bìa xanh ghi tên

nam giới trong làng từ 15 tuổi trở lên. Sổ này là căn cứ phân bổ việc làng và làm nhiệm vụ

cai đám trong năm. Sổ bìa xanh được gọi từ người cao tuổi trở xuống và cắt cử ông đám

mới. Ông đám mới vừa là nhiệm vụ của dân đinh, vừa là vinh dự của gia đình. Những

người có cùng độ tuổi, có kinh tế khá hơn thì được làm cai đám trước.

Nghi lễ đóng cây cai đám và gọi sổ bìa xanh trong lễ hội Trà Cổ mang đậm yếu

tố nông nghiệp. Đình Trà Cổ là một trong những ngôi đình đẹp và cổ của vùng duyên

hải Đông Bắc [PL.9.1, A.19, tr.243]. Vì vậy hội đình Trà Cổ cũng là hội lớn nhất của

vùng biên giới nhưng lại giáp biển ở QN, mang không khí tưng bừng, lành mạnh, góp

thêm một nét đẹp truyền thống cho văn hóa vùng biển Trà Cổ.

2.2.3. Yếu tố nội đồng thể hiện qua các hoạt động hội

Phần hội trong lễ hội của cư dân vùng biển đảo QN có nhiều trò chơi khá quen

thuộc mà các lễ hội dân gian vùng Bắc Bộ hay các vùng văn hóa khác cũng có như:

chơi cờ, đánh đu, bịt mắt bắt dê, chơi tổ tôm điếm... Tuy nhiên, những phong tục,

những cuộc thi của cư dân nông nghiệp được tiến hành trên nền cảnh của cư dân ngư

nghiệp, lại trong bối cảnh ven biển nên dấu ấn nông nghiệp lại càng thấy rõ ràng hơn.

Tiêu biểu cho các trò chơi là: tục nuôi và thi ông Voi trong lễ hội Trà Cổ; hội thi cấy,

thi bơi thuyền trong lễ hội xuống đồng ở Hưng Yên, thi bơi trải...

2.2.3.1. Tục thi ông Voi

Hội đình Trà Cổ tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 6 âl hàng năm theo tục “nhất

niên nhất lệ”, to nhỏ tùy theo mùa màng và sự sung túc ổn định của dân làng.

Lễ hội Trà Cổ được biết đến gắn với tục thi ông Voi. Hình thức nuôi lợn gọi là "

ông Voi" và đưa " ông Voi" đến chầu thần tượng trưng cho việc các vị Thành hoàng cưỡi

voi đi chinh chiến và làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm tra trên khu vực lãnh thổ, thể hiện sự

mong muốn cho vạn vật sinh sôi, mùa màng bội thu, dân làng no ấm, sung túc. Đây là

việc làm có ý nghĩa không chỉ về mặt tâm linh mà còn có ý nghĩa trong việc khuyến

khích chăn nuôi phát triển của cư dân nông nghiệp.

Page 77: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

74

Trong lễ hội, việc bầu ông Đám gắn với tục nuôi và thi ông Voi. Lợn (ông Voi)

được chọn nuôi, gọi là mớn, phải là lợn đực, tai to, mông nở, mình dài và phải có nước

ăn tốt. Bí quyết nuôi ông Voi được các ông cai đám giữ kín như là một bí quyết gia

truyền không được tiết lộ cho người ngoài biết. Nếu chẳng may ông Voi bị ốm thì cai

đám phải làm lễ ra đình khấn tạ, cầu cho ông Voi khỏe lại.

Ngày rước ông Voi ra đình thực sự là ngày hội của cả làng. Các ông Voi được tắm

rửa sạch sẽ và khiêng ra đình để thi trong những chiếc cũi sơn son rất đẹp. Ông Voi nào

to nhất, đẹp nhất, được chọn để tế thần [PL.9.1, A.20, tr.244]. Vinh dự cho ông Đám nào

nuôi ông Voi được chọn làm lễ tế thần. Họ tin rằng năm đó có nhiều điều may mắn, phúc

lộc đến với gia đình, hơn thế nữa, đó còn là niềm tự hào vẻ vang cho cả dòng họ.

Sau lễ rước hoa quả, đám trưởng làm lễ trầu cau, xin phép Thành hoàng cho

các cai đám trang trí ông Voi đem ra đình làm lễ chầu thần. Các ông Voi được tắm

nước lá thơm, trang điểm bằng cách bôi phẩm hoặc giấy đỏ vào da để được hồng hào.

Trước đây, các cai đám chỉ cần bưng tráp trầu cau đi trước, thì ông Voi sẽ theo ra

đình; nhưng ngày nay, ông Voi được cho vào cũi khiêng ra đình (cũi cũng phải sơn

màu đẹp). Tại sân đình, các ông Voi được xếp thành hai hàng chẵn lẻ theo thứ tự nhất

đông, nhị nam nghĩa là ông Voi của cai đám trưởng xếp đầu tiên ở phía đông, sau đó

là ông Voi của các cai đám khác theo thứ tự chẵn, lẻ. Ông Đám trưởng cắt một dúm

lông ở gáy các ông Voi bỏ vào đĩa, đặt lên bàn thờ để khấn thần. Lễ xong, các cụ được

bầu trong ban kiểm tra bắt đầu chấm các ông Voi. Cách chấm dựa trên các tiêu chí:

tướng mạo, da dẻ, vòng ức, chiều dài của ông Voi.

Các vị chức sắc trong làng, xem ông Voi nào có chỉ số vòng ức, chiều dài lớn

hơn (tức là to hơn, đẹp hơn) thì đạt giải, có 3 loại giải: đệ nhất đại trư, thưởng tam

mao, lục tiên (3 hào, 6 xu); đệ nhị đại trư, thưởng nhị mao, tứ tiên (2 hào, 4 xu); đệ

tam đại trư, thưởng nhất mao, nhị tiên (1 hào, 2 xu).

Ngày nay giải thưởng từ 100.000đ đến 300.000đ. Giải thưởng tuy không nhiều

nhưng là niềm vinh dự lớn đối với gia đình. Việc bàn xét, khen thưởng, ban lộc (trao

giải nhất, nhì, ba) gọi là lễ "thỉnh sinh". Các ông Voi ở lại đình suốt đêm, đến sáng

ngày mùng 1 tháng 6 làm lễ "tiến sinh", tiễn các ông Voi về nhà các ông Đám và có

thể bán hoặc mổ để khao làng.

Page 78: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

75

Con lợn là vật nuôi chính đối với cư dân nông nghiệp ở châu thổ Bắc Bộ. Việc

thi ông Voi không chỉ có ý nghĩa như trên mà còn có ý nghĩa đối với việc chăn nuôi,

tăng gia sản xuất của người làm nông nghiệp, dù họ ở gần biển hơn là gần ruộng

đồng. Chính vì vậy, ở QN, địa danh Trà Cổ - Móng Cái nổi tiếng là có giống lợn tốt,

phát triển nhanh, mang lại năng suất cao. Các xã, huyện khác trong tỉnh đều về đây

để mua lợn giống.

2.2.3.2. Thi cấy

Thi cấy là một hình thức trình nghề của xã hội nông nghiệp cổ truyền. Có thể

thấy cây lúa thuộc âm tính - nguồn gốc của sự sinh sôi và hiện thân của người phụ nữ.

Không chỉ cư dân Bắc Bộ cây lúa mới gắn với người phụ nữ mà trong lễ Hạ điền của

người Mường, nghi lễ rước mạ cũng có một phụ nữ được gọi là Mẹ lúa đi theo và Mẹ

lúa sẽ cấy lúa trong lễ Hạ điền.

Thi cấy được tổ chức trong lễ hội xuống đồng ở huyện Yên Hưng cũng có

nguồn gốc như trên. Sau nghi lễ cấy xứng đồng (5/6 âl) là hội thi cấy diễn ra ngay

trên thửa ruộng vừa làm lễ xong. Hai xã Phong Cốc và Phong Hải có 14 thôn, cử 14

người cấy giỏi của thôn là nữ ra thi. Các đường mạ đã được chia và rải mạ sẵn, chiều

rộng 1,6m, chiều dài 25m. Các thành viên tham gia thi cấy tập trung ở ruộng lúa,

nghe phổ biến thể lệ cuộc thi, bốc thăm theo số thứ tự từ 1 đến 14 để vào vị trí cấy.

Đúng 6 giờ hiệu lệnh trống của Ban tổ chức nổi lên, hội thi cấy được bắt đầu. Yêu

cầu đối với người thi cấy là phải nhanh, thẳng hàng, đều cây, trong phạm vi 1m2 có

thể cấy từ 52 đến 56 khóm, mỗi khóm từ 3 đến 4 cây lúa thì đạt chuẩn. Muốn cấy

được nhanh, cây lúa thẳng hàng, đòi hỏi mỗi người phải có kinh nghiệm và kỹ thuật

cấy cho riêng mình.

Hội thi cấy đánh giá cao vai trò của cá nhân, mà đặc biệt là vai trò của

người phụ nữ trong xã hội xưa. Điều này khác biệt đối với cư dân là ngư nghiệp.

Đối với họ người đàn ông mới là người có vai trò quyết định trong kinh tế. Còn cư

dân nông nghiệp người “Mẹ” vẫn có vai trò vô cùng quan trọng, nhất là trong sản

xuất cấy cày và chăn nuôi. Hội thi cấy trong lễ hội xuống đồng ở Yên Hưng có ý

nghĩa tôn vinh nghề trồng lúa, cây lúa đồng thời mong ước một cuộc sống no đủ,

yên vui.

Page 79: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

76

2.2.3.3. Thi bơi trải

Hội bơi trải thực ra là biểu hiện đặc sắc của tục cầu nước, cầu mưa. Có thể coi

việc bơi thuyền là thể hiện tinh thần thượng võ, sức khỏe của cha ông ta, song nguồn

gốc thực chất là một lễ thức, phong tục sinh ra từ hoạt động nông nghiệp như nghi

thức cầu mùa.

Điều làm nên sự khác biệt giữa lễ hội xuống đồng trên đảo Hà Nam với lễ hội

xuống đồng ở các nơi khác là hội bơi trải có cả đội nam và đội nữ. Hội bơi thuyền trải

diễn ra trong ba buổi, mỗi buổi bơi ba keo, mỗi keo bơi đều có thi chạy chèo để xuất

phát. Trong mỗi buổi có keo bơi bằng dầm, keo bơi bằng sào đan xen nhau.

Buổi thứ nhất: ngày 1 tháng 6 âl diễn ra ngay sau lễ yết thần Nông và nghi lễ cấy

Xứng đồng gọi là “bơi yết”.

Buổi thi thứ hai: vào sáng ngày hôm sau (mùng 2 tháng 6 âl) gọi là “bơi giải hà”.

Buổi thi bơi thứ ba: vào chiều ngày hội hôm sau (mùng 3 tháng 6 âl), bơi chung

cuộc gọi là “bơi giã hội”.

Thường thì trong mỗi buổi bơi: keo thứ nhất bơi bằng dầm, keo thứ hai bơi bằng

sào, keo thứ ba có thể bơi bằng dầm hoặc bằng sào tùy theo quy định của làng xã từng năm.

Để chuẩn bị cho hội thi bơi trải các thôn, xóm phải chọn tay chèo khỏe mạnh,

giỏi sông nước, chịu khó luyện tập. Biên chế mỗi trải: thường có từ 22 đến 24 người bơi

dầm hoặc bơi sào tùy từng năm do ban tổ chức quy định; một người điều khiển thuyền

lái, phải có kinh nghiệm sông nước; một người đánh mũi; một người cầm cờ hiệu hoặc

thanh la cầm trịch; một người đánh thanh la để bắt nhịp cho người bơi; hai người tát

nước. Tất cả những người tham gia bơi trải phải tập luyện trước đó hàng tuần. Trước

ngày thi phải ăn chay, tắm rửa sạch sẽ, cách ly thú vui trần tục và làm lễ cúng tế Tiên

Công, cúng thần Thành hoàng làng, thần Nông và Thổ thần bản xứ. Sở dĩ phải kiêng kị

như vậy, vì theo quan niệm của các cụ, người dự thi là được vào đất thánh thần nên phải

khác giới trần tục ngoài đời.

Thuyền trải được làm bằng gỗ dẻ trắng hoặc gỗ táu. Trải dài 13,7 m, rộng 1,2 m,

có 9, 11, hay 12 thang để người bơi dầm ngồi, hoặc người bơi sào có chỗ đứng. Mũi trải

được trang trí đầu rồng. Kỹ thuật đóng trải phải đạt yêu cầu khi bơi không cản nước,

càng bơi nhanh càng nổi cao và không tròng trành, hình dáng phải trau chuốt đẹp mắt.

Page 80: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

77

Khi hạ thủy thuyền trải các xóm đều mổ lợn làm lễ khấn Thủy thần và Thổ thần bản xứ.

Dầm bơi làm bằng gỗ dẻ hoặc táu, sào bơi làm bằng tre vườn thường là tre hóp dài

4,4m được uốn thẳng, vót nhẵn. Khi lễ hội xong, gác sào lên xà nhà để năm sau thi tiếp,

có người còn giữ được cây sào bơi hàng mấy chục năm.

Trình tự mỗi keo bơi diễn ra như sau:

Bơi yết: Mỗi trải dự bơi chọn một người khỏe, chạy nhanh, cầm một mái chèo

dài khoảng 5m dùng để lái trải tham dự thi chạy chèo. Người cầm trịch thắt lưng đai

đỏ, đầu quấn khăn rìu, tay cầm cờ hiệu để ra lệnh phát chạy chèo. Các trải thi, đỗ hàng

ngang dưới bến sông cửa đình Cốc, các vận động viên bơi trong tư thế sẵn sàng. Khi

người cầm trịch hô xuất phát và phất cờ hiệu, vận động viên chạy chèo, chạy nhanh từ

cửa đình nơi xuất phát xuống bến sông (khoảng 100m) đưa chèo cho người lái, cài vài

cọc chèo để lái trải. Trống đại thúc liên hồi, nhân dân xung quanh hò reo cổ vũ người

chạy chèo. Trải nào nhận được chèo lái của người chạy chèo thì được xuất phát. Do

vậy, tốc độ của người chạy chèo có vai trò quan trọng quyết định thời gian xuất phát

của trải dự thi. Sau khi nhận được chèo lái của vận động viên chạy chèo, người lái

khẩn trương thao tác nhanh và chính xác, cải chèo vào cọc chèo để lái trải; người cầm

cờ hiệu phất theo nhịp dầm hoặc nhịp sào để các vận động viên bơi dầm hoặc bơi sào

được đều cho trải đi nhanh hơn; người cầm thanh la vừa hô, vừa gõ động viên người

bơi. Toàn bộ 23 đến 27 người trong trải là một khối thống nhất trong từng nhịp dầm,

nhịp sào đẩy để trải lao về phía trước.

Sau ba keo buổi bơi yết, các thôn làng kéo trải về rút kinh nghiệm, sửa sang lại

trải, thui thuyền trải cho khô, bôi mỡ cho trơn, có xóm thấy trải mình bơi chậm còn

phá trải ra đóng lại cho trải bơi nhanh hơn để sáng hôm sau kịp bơi giải hà.

Bơi giải hà gồm ba keo như bơi yết vào sáng ngày hôm sau. Keo bơi dầm thì ngồi,

bơi sào thì đứng, mỗi keo có thể thay người chạy chèo, thay vận động viên bơi tùy ý miễn

là đủ số lượng tay dầm, tay sào. Cuộc thi giải hà này quyết định phần thưởng giải nhất

cho người thắng cuộc. Buổi chiều tiếp tục bơi ba keo cuối cùng gọi là bơi giã hội.

Về giải thưởng: các keo bơi yết và bơi giã hội, các đội nào thắng thường được

các làng, xóm thưởng tiền động viên. Keo bơi giải hà là quan trọng nhất (giải hà - chữ

Hán có nghĩa là đứng đầu sông nước - giải nhất hội bơi). Trải nào thắng trong keo bơi

Page 81: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

78

giải hà được lĩnh đỉnh hương hoặc câu đối, đại tự của tứ xã. Sau hội thi bơi các làng,

thôn kéo trải về làm lễ tạ thần hoàng, ăn mừng vui vẻ, rồi xuống đồng cấy vụ mùa,

hẹn năm sau lại về dự hội.

Thi cấy và thi bơi trải trong lễ hội xuống đồng ở Hà Nam biểu hiện mong muốn

sức khỏe của những cư dân nông nghiệp và giáo dục sự đoàn kết, nhất trí cao trong

cộng đồng để làm thủy lợi, chống chọi với thiên nhiên, bảo vệ đê điều, mùa màng,

làng xóm. Đây là một trong những lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của cư dân lúa

nước vùng cửa biển.

Trong cuộc thi bơi trải, đội nào giành giải nhất chứng tỏ là những người đứng đầu

sông nước. Nhưng sông, nước ở đây vẫn mang yếu tố nông nghiệp, lúa nước. Người chạy

chèo, người lái trải, người cầm thanh la, người cầm cờ… tất cả đều biểu dương sức mạnh,

sự đoàn kết của tập thể. Đây là tố chất cần thiết của người làm nông nghiệp.

Tiểu kết

Từ góc độ văn hóa vùng, giúp cho chúng ta thấy rõ hơn sự chi phối của các yếu tố:

địa lý, thành phần dân cư, cơ cấu tổ chức làng xã... tới lễ hội truyền thống vùng biển đảo

QN. Qua sự chi phối, thấy được sự dung hợp trong văn hóa và những giá trị văn hóa của

lễ hội. Từ đó, lý giải tại sao vùng biển đảo QN vẫn có các lễ hội nông nghiệp. Trong

các lễ hội trên đảo, ven biển vẫn có dấu ấn của nội đồng như đồ cúng vẫn phải có lợn,

gà, xôi... Lễ hội vẫn thực hiện nghi thức rước nước, nghi thức tế lễ nông nghiệp cầu

cho mưa thuận gió hòa quanh năm. Những cư dân khi đến định cư ở các đảo, nguồn

gốc của họ vẫn là nông nghiệp. Sống giữa bốn bề là biển khơi, với căn tính là hướng

nội người Việt vẫn quay trở lại với nghề nông của mình, vẫn quay trở lại đất liền quai

đê lấn biển để tìm sự an toàn hơn là đối đầu với sóng to, gió lớn ngoài biển khơi.

Các yếu tố nội đồng trong lễ hội ven biển ở QN cũng khá đậm nét và có những

đặc trưng riêng. Lễ rước nước trong lễ hội đình Giang Võng của cư dân vạn chài Hạ

Long, lễ Đảo vũ ở Hà Nam, lễ xuống đồng, lễ Tiên Công… là những nghi lễ của cư dân

nông nghiệp từ đời xa xưa vẫn được duy trì. Hội đua thuyền trải, hội thi cấy, hội thi ông

Voi, chơi đu, tổ tôm điếm, đánh vật, chọi gà… là những công việc quen thuộc trong lao

động sản xuất hàng ngày của những người làm nông nghiệp đã được đưa vào lễ hội một

cách tự nhiên, thỏa mãn nhu cầu “cộng mệnh, cộng cảm” của các chủ nhân văn hóa.

Page 82: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

79

Chương 3

YẾU TỐ BIỂN TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

Có thể nói vùng biển QN là vùng có nhiều đảo nhất trong cả nước, vì vậy di

tích trên các đảo cũng khá nhiều. Mỗi di tích lại thờ nhiều vị thần khác nhau. Trong

đó có những vị thần biển phổ biến ở các vùng biển khác nhưng đồng thời lại có những

vị thần biển là nhân vật lịch sử được nhân dân đồng hóa và có chức năng bảo trợ, che

chở cho người đi biển địa phương như: tướng Trần Hưng Đạo, Đức Ông Lục Đầu

Giang Trần Quốc Nghiễn, Đức Ông Cửa Suốt Trần Quốc Tảng… Bức tranh về văn

hóa biển của vùng biển đảo QN cũng khá đa dạng và đặc sắc bởi các nghi lễ như: lễ

hóa mã và giã hội, lễ giở mũi thuyền, lễ tế Thủy thần... và các cuộc thi đua thuyền ở lễ

hội đình Giang Võng, lễ hội đền Bà Men…

3.1. Cộng đồng ngư dân và cơ cấu tổ chức các làng biển đảo

3.1.1. Cộng đồng ngư dân

Qua các phát hiện khảo cổ học ở Hạ Long, Tràng Kênh, Việt Khê... đã chứng

minh một phần cư dân bản địa ở QN đã từng là chủ nhân của các nền văn hóa đá

mới và sơ kỳ kim khí. Ngoài ra, có những nhóm dân cư từ vùng trung du và đồng

bằng ra khai khẩn vùng biển Hải Đông mà nhân chứng ngày nay là các vị Tiên

Công, các vị Thành hoàng làng... được thờ phụng trong các lễ hội truyền thống. Bên

cạnh đó các nhóm nhỏ dân cư vượt biển từ phía bắc xuống hay từ phía nam lên cũng

định cư ở vùng biển này, nay đã đồng hóa với cư dân địa phương được thể hiện qua

các truyền thuyết, câu chuyện dân gian. Có những bộ phận dân cư chuyên nghề chài

lưới, tiêu biểu là dòng họ Trần, họ Mạc, vốn là những cư dân ven biển, sau định cư ở

Thái Bình, Nam Định và một phần ở biển QN. Những nhóm di dân này khi đến vùng

biển mới họ vẫn mang theo những dấu ấn văn hóa của quê hương họ và được tái

hiện thông qua các lễ hội truyền thống. Vì vậy, ở QN lễ hội truyền thống rất phong

phú và đa dạng. Có lễ hội vừa thờ thần biển, vừa thờ thần núi, lại vừa thờ thần sông,

thần đồng bằng. Phải chăng, đó cũng chính là sự hỗn dung của các cuộc thiên di đến

vùng đất mới.

Page 83: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

80

Như vậy, mặc dù có lịch sử phát triển lâu đời nhưng QN không phải là nơi tập

trung của nhiều cư dân nông nghiệp, bởi vùng đất này là nơi bồi đắp của các con sông

lớn, gần biển. Do đó không phù hợp với công việc nhà nông. Trong quá trình phát triển,

những cư dân nông nghiệp dần tiến ra biển để sinh nhai. Họ đã dần thích nghi với biển

hơn nhờ những ảnh hưởng nghề biển của tộc người Hoa đã có mặt ở đây từ trước. Họ

đến để đánh bắt cá rồi sau đó định cư ở lại. Trải qua quá trình phát triển của vùng đất,

yếu tố biển và nội đồng đã là nền tảng của những người đi biển thờ thần biển và những

người nông dân làm nông nghiệp thờ thần nước (như tục rước nước trong lễ hội đình

Giang Võng, lễ Đảo vũ trên đảo Hà Nam ở Hưng Yên…).

Với ưu thế về thiên nhiên ưu đãi, nên từ thời cổ QN đã có con người cư trú.

Theo các nhà khảo cổ học và dựa vào các di tích khảo cổ khai quật được thì cách đây

từ 3000 đến 5000 năm đã có một nền văn hóa tiền sử - văn hóa Hạ Long. Trước đó,

nhiều di chỉ khảo cổ học khác đã chứng minh con người ở QN còn có sớm hơn như di

chỉ Soi Nhụ (Trong nhóm di tích Soi Nhụ, J.G. Anderson đã phát hiện ra một loạt các

hang động chứa nhuyễn thể ốc núi và ốc nước ngọt ở khu vực vịnh Hạ Long và Bái

Tử Long). Lớp cư dân này có thể coi là cư dân bản địa đầu tiên. Ngoài người Việt cổ,

trải qua hàng ngàn năm lịch sử, QN vẫn là địa bàn thu hút người dân từ khắp nơi, đến

làm ăn, sinh sống.

QN giáp Trung Quốc, nên các tộc người thiểu số đầu tiên sinh sống phần lớn

có nguồn gốc từ phương Bắc. Họ di cư bằng nhiều con đường, từ nhiều địa phương

khác nhau, vào các thời điểm lịch sử khác nhau nhưng đều chung mục đích là tìm kế

sinh nhai và tìm chốn nương thân, tránh sự áp bức bóc lột, truy lùng của các vương

triều, các thế lực và các tộc người ở nơi đất cũ.

3.1.2. Cơ cấu tổ chức của các làng biển đảo

Ở QN, ngoài những xã ven biển vừa làm nông nghiệp vừa làm ngư nghiệp thì

cũng có những làng tụ cư khá đông đúc như các làng chài trên vịnh Hạ Long. Các làng

này chỉ làm ngư nghiệp, làm các nghề buôn bán, chế biến thủy hải sản, nghề đan lưới...

Đây chính là các vạn hoặc vạn chài, cũng có người gọi là làng “thủy sinh” (làng sống

trên nước). Đó là một tổ chức mang tính cộng đồng của ngư dân chuyên đánh bắt trên

biển. Ngày nay, dọc ven biển QN còn nhiều địa danh mang kèm chữ vạn như: Cửa Vạn,

Page 84: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

81

Vạn Ninh, Vạn Giã... Vạn tập hợp những ngư dân của một vùng, thường cùng một ngư

trường. Vào những thời gian không đi khơi, đi lộng đánh bắt thủy hải sản, họ neo

thuyền ở một cửa sông kín gió trong vùng và tạo nên một cộng đồng.

Các làng sống trên mặt nước ở QN không nhiều nhưng có những đặc trưng rất

riêng về gia đình, dòng họ, làng xã:

Gia đình là đơn vị xã hội cơ bản nhỏ nhất, cần có các điều kiện về môi trường và

xã hội để tồn tại, song mỗi gia đình ở các làng chài (đặc biệt là làng chài Cửa Vạn trên

vịnh Hạ Long hiện nay, xưa kia gọi là làng chài Giang Võng, Trúc Võng) chỉ là một cái

thuyền nhỏ [PL.9.2, A.21, tr.244]. Tuy nhiên trong các làng chài vẫn có các dòng họ. Vì

ít người biết chữ nên các dòng họ thông thường không có gia phả, do đó chỉ nhớ được 5

đời. Nếu không nhớ được ngày giỗ tổ, thì cúng giỗ vào cuối năm và không có quỹ

thường trực như cư dân nông nghiệp, khi cần họ sẽ cùng nhau đóng góp.

Một nét khác biệt nữa của dòng họ ở làng chài là họ không phải đơn vị để tổ

chức sản xuất, nhưng từng gia đình trong cùng một dòng họ thường đi làm ăn với

nhau trong những khu vực nhất định.

Cơ cấu tổ chức làng xã: Hầu hết các làng chài có ba dạng tổ chức làng xã:

+ Dạng mới là vạn, bao gồm dân chài sống trong các vụng không thành phe giáp,

không có bộ máy tự quản. Về bộ máy hành chính, họ phụ thuộc vào cư dân trên bờ. Khi tổ

chức lễ hội, dù đi đâu họ cũng về để tham dự. Tuy nhiên, họ chỉ tham gia thắp hương, cầu

khấn… không phải là người tổ chức lễ hội. Vai trò của chủ nhân văn hóa không được phát

huy và tính cộng cảm, cộng mệnh của lễ hội cũng vì thế mà bị giảm.

+ Cũng là vạn nhưng đã chuyển thành phường và đã có bộ máy tự quản, song

về mặt hành chính, vẫn phụ thuộc vào xã trên bờ. Đó là trường hợp của ngư dân Yên

Trì (Yên Hưng - Hà Nam). Trong các vạn chài này bắt đầu có sự gắn kết nhưng chưa

chặt chẽ. Vào dịp lễ hội, các ngư dân cũng thể hiện vai trò của mình dưới hình thức

tham gia vào các nghi lễ như tham gia đội tế, chuẩn bị lễ vật… Trong phần hội là

những người đua thuyền, người rước kiệu…

+ Dạng sống thành làng đông đúc, đôi khi phân tán, song đã có tổ chức tự

quản, có bộ máy hành chính riêng, có hội đồng kỳ mục riêng, tức là hình thành đơn vị

hành chính cấp xã với hệ thống lý dịch, có con dấu riêng, hoàn toàn tách biệt với cư

Page 85: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

82

dân trên bờ. Tiêu biểu cho mô hình này là hai làng Giang Võng và Trúc Võng ở khu

vực vịnh Cửa Lục thuộc vịnh Hạ Long. Cư dân các làng chài là chủ nhân của các lễ

hội truyền thống, họ hoàn toàn không phụ thuộc vào cư dân nội đồng. Họ tự đứng ra

tổ chức lễ hội và liên kết các thành viên của cộng đồng trong lễ hội. Thậm chí, mỗi

gia đình đều tự tổ chức cho mình những nghi lễ của ngư nghiệp như lễ giở mũi thuyền,

lễ phát mộc, lễ hạ thủy… Hương ước làng Giang Võng, Trúc Võng cũng quy định rất

chặt chẽ về việc tổ chức lễ hội của làng [PL.8, tr.212].

Về mặt tổ chức, đứng đầu mỗi chòm là một thôn trưởng, thường do lý trưởng

cắt cử từ những người tương đối khá giả, tuổi từ 30 trở lên. Ông ta chịu trách nhiệm

thu thuế, điều động phu dịch, quản lý nhân khẩu và các việc hành chính khác cùng

việc an ninh trong cụm dân cư của mình. Nhiệm kỳ của thôn trưởng là 3 năm, về cơ

bản ông ta không được hưởng quyền lợi gì. Hết hạn, nếu không vi phạm thì được tăng

thêm ngôi thứ cùng với xã đoàn cựu. Bên cạnh thôn còn có giáp, một thiết chế theo

lớp tuổi cũng giống như các làng nông nghiệp.

Cư dân vạn chài không có ruộng đất và sống nay đây mai đó, nên giáp ở đây có

nhiều khác biệt với giáp ở trong nội đồng. Nó không phải là một đơn vị để phân cấp và

quản lý công điền, càng không phải là nơi để người không có con trai gửi hậu. Giáp

cũng không phải là đơn vị thu thuế, nhiệm vụ này do các thôn trưởng đảm nhiệm. Giáp

ở đây chỉ duy nhất làm nhiệm vụ quản lý nhân đinh để cắt cử người đăng cai hay tế

đám, tức là những người phải chuẩn bị lễ vật vào các dịp tế thần, lễ hội trong năm.

Chẳng hạn, trong lễ hội Vân Đồn, mỗi năm làng cử một giáp chính lo cho

hội. Ngoài những lễ vật riêng của cá nhân, giáp chính phải chuẩn bị lễ vật gồm một

con lợn 80 kg, mâm xôi gà, thủ lợn làm lễ cúng ở miếu Đức Ông. Sau khi làm lễ tế

thần ở đây, lễ vật được đem về hàng giáp hưởng lộc, kể cả chức sắc cũng theo giáp

mà về dự đám. Ngoài ra, mọi chi phí chính cho ngày hội là do cai đám lo liệu. Đến

ngày hội thường có từ 10 đến 20 người cai đám sắm sửa lễ. Số tiền đóng góp của họ

tùy theo số lượng cai đám đông hay ít, vì thế mà số tiền đóng có khi lên tới 10 đồng,

từ đây mà có câu ca:

Sinh con ra chưa hề báo đáp

Mới lọt lòng đã phải thập nguyên (10 đồng)

Page 86: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

83

Cũng như làng nông nghiệp, trong một số làng chài trên bờ vẫn có sự xen cư

cư dân nông nghiệp nhưng không nhiều. Vì vậy bộ máy quản lý làng chài cũng không

có gì khác biệt so với làng nông nghiệp, gồm hai thiết chế kỳ mục và lý dịch. Nhưng

có một điều khác biệt nổi bật ở làng chài là số người có phẩm hàm không nhiều; do

đó, hội đồng kỳ mục chỉ gồm những người đã làm việc trong hội đồng chức dịch khi

từ nhiệm không mắc lỗi và một số người cựu binh đã khao vọng.

Như vậy, quan hệ sở hữu và giai cấp như trên sẽ dẫn đến việc ngư dân không có

một cơ cấu tổ chức làng xã chặt chẽ như trong nội đồng. Vì vậy, lễ hội không được coi

trọng, chủ yếu là tự phát nên cũng không có quy mô lớn, không có sự gắn kết của cả

cộng đồng. Trong lễ hội đền Bà Men vừa có ngư dân của làng chài Cửa Vạn, vừa có

ngư dân ở làng chài Đồ Sơn sang tham gia… Bản chất của sự giao lưu văn hóa giữa các

làng chài là do sự phân bố địa bàn cư trú không rõ ràng. Hơn nữa, quan niệm của ngư

dân là ở đâu có thần thánh linh thiêng thì họ sẽ thờ ở đó. Vì không có nhà ở cố định trên

đất liền, thuyền chính là ngôi nhà di động, nên họ coi trọng việc thờ cúng ở trên thuyền

hơn ở đình làng. Điều này khác biệt với ngư dân ở các vùng miền khác. Chẳng hạn, các

làng ven biển miền Trung là làng của các ngư dân đi biển. Khi những lao động chính đi

đánh bắt thủy hải sản thì vẫn có người thân ruột thịt của họ ở nhà chờ mong. Vì vậy, họ

cư trú ổn định thành làng xã và có thiết chế tổ chức, có trung tâm tôn giáo, tín ngưỡng.

Và lễ hội luôn mang đậm yếu tố biển, yếu tố ngư nghiệp, đồng thời cũng là dịp họ được

thể hiện tinh thần cộng mệnh, cộng cảm cao nhất như lễ hội ngư Ông ở Quảng Nam, lễ

Khao lề thế lính Hoàng Sa ở Quảng Ngãi, lễ cầu ngư ở Khánh Hòa…

3.2. Sự thể hiện yếu tố biển trong lễ hội truyền thống

3.2.1. Yếu tố biển thể hiện qua các vị thần chủ được thờ

Việc thờ thủy thần ở vùng biển đảo QN cũng rất được coi trọng. Các vùng ven biển

thường thờ các vị thần như: Đại Càn Quốc Gia Tứ Vị thượng đẳng thần, Nam Hải tôn thần,

Nam Hải trung đẳng thần, Hải Tế Hiển Liệt chi thần, Hải Khẩu Hùng Nghị chi thần, Đông

Hải Đại Vương thượng đẳng thần, Đông Hải Long Vương đại vương, Thủy Chung Quảng

Tế chi thần, Phạm Tử Nghi, Bạch Điểm Tước Đại Vương, Dương Không Lộ…

Đúng ra, các vị thần Đại càn Quốc gia Tứ vị Thượng đẳng thần, Nam Hải tôn

thần, Đông Hải Long vương Đại vương là các vị thần Nam Hải, tuy thần hiệu mỗi nơi

Page 87: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

84

kê khai khác, nhưng danh hiệu chung là “Đại càn Quốc gia Nam Hải Tứ vị tôn thần”.

Danh hiệu này được ghi trong sắc phong xã Quan Lạn và một trong số thần tích ở

nhiều xã ven biển. Ngoài ra một số vùng còn thờ Tứ vị Thánh nương, thờ chúa Thoải

(chúa Thủy)…

3.2.1.1. Các vị thần biển

Trong các đơn vị hành chính của vùng biển đảo ở QN thì huyện Yên Hưng hầu

hết các làng xã đều do quai đê lấn biển lập thành, toàn huyện có trên 140 km đê biển

thủy lợi và thủy sản. Khu đảo Hà Nam có 34 km đê biển bao quanh, hiện nay có 8 xã

với trên năm vạn dân, luôn phải chống chọi với triều dâng, gió bão để bảo vệ mùa

màng, nhà cửa. Do vậy cuộc sống của cư dân Yên Hưng luôn gắn bó với sông, biển,

gắn bó với nguồn lợi thủy hải sản, chống chọi với thiên tai sóng biển, triều dâng, bảo

vệ sự sống. Những đặc điểm trên đã ảnh hưởng đậm nét đến tín ngưỡng của cư dân

Yên Hưng, đặc biệt là tín ngưỡng thờ thần biển, thần sông.

Xưa Yên Hưng có 21 làng cổ. Cư dân của các làng, ngoài làm nông nghiệp

còn có nghề vận tải và đi biển đánh bắt hải sản. Do vậy, mỗi làng đều có một cống

kéo thuyền qua đê, hoặc một bến thuyền qua đê và bến thuyền thường ở gần cống tiêu

nước dưới đê, nơi có những con sông, con lạch sâu dẫn nước đổ ra sông biển. Trên

cống kéo thuyền hoặc ở bến thuyền của làng nào cũng đều có một miếu, trong đó thờ

một hay nhiều vị thần linh thiêng liên quan tới sông biển. Khi cư dân Yên Hưng kéo

thuyền ra sông, biển đánh cá, hoặc nhổ neo ra khơi đi vận tải, đều vào miếu thờ thắp

hương cầu xin các vị thần phù hộ cho yên bình và may mắn trong công việc. Thường

các vị thần được thờ ở đây là những người chết liên quan đến sông nước và hiển linh.

Các vị thần này đều được tôn thờ trong các lễ hội như: thần Long mã, thần biển Cửa

Hải, Đại Hải thần, Đức Thánh Niệm, Quan Quận, Phạm Tử Nghi, Thánh Mẫu, Nhị vị

Tiên Công, Đức Chúa Bản Thổ, Nam Hải Tôn Thần, Bà Chúa Cua, Bà Minh Hà,

Thủy Cung Thánh Mẫu… Những vị thần trên cũng được thờ ở các đơn vị hành chính

ven biển khác như Vân Đồn, TP Hạ Long, TP Cẩm Phả, TP Móng Cái…

- Tứ vị Thánh nương

Tứ vị Thánh nương (hay còn gọi Đại Càn Thánh nương) là nhân vật được phụng

thờ trong các lễ hội như: lễ hội xuống Đồng, lễ hội chùa giữa đồng, lễ hội Vân Đồn.

Page 88: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

85

Tín ngưỡng Tứ vị Thánh nương đã được nhiều sách sử ghi lại. Sách Đại Nam nhất

thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn có ghi:

Đền thần cửa Cờn (Nghệ An) với truyền thuyết là Thái hậu họ Dương cùng

3 công chúa nhà Tống đã chết đuối ở biển khi trên đường chạy giặc

Nguyên, xác trôi giạt vào cửa Cờn với nhan sắc vẫn như lúc còn sống,

nhân dân thấy lạ nên lập đền thờ và thấy linh ứng. Năm Hưng Long thứ 12

(1304), vua Trần Anh Tông đi đánh Chiêm Thành đã được Thần báo mộng

“Thiếp là cung phi nhà Tống, vì giặc bức bách, lênh đênh sóng gió, trôi dạt

đến đây, Thượng đế sắc phong làm thần biển đã từ lâu, nay xin giúp công

thánh thượng để giết giặc”; Năm Hồng Đức thứ nhất, vua Lê Thánh Tông

đi đánh Chiêm Thành cũng được thần phù giúp. Về sau nhà vua cho dựng

thêm nhiều đền miếu và thăng phẩm để thờ thần [48, tr.189].

Việc thờ Tứ vị Thánh nương - một dạng thần Mẫu của biển khơi được nhân dân

tôn thờ ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh từ miền Trung trở ra miền Bắc. Mỗi nơi thờ đều có

những truyền thuyết khác nhau nhưng vẫn chung một cốt chuyện là: Các thần đều xuất

thân là Thái hậu, công chúa nhà Nam Tống, bị chết trên biển trên đường chạy giặc

Nguyên Mông vào thế kỷ XIII, xác trôi dạt vào bờ biển của nước ta, được nhân dân vớt

lên mai táng, dựng đền cúng tế và có linh ứng phù hộ cho người đi biển.

Thực chất tín ngưỡng thờ Tứ vị Thánh nương có nhiều lớp văn hóa. Bóc tách các

lớp văn hóa chúng ta thấy lớp đầu tiên là thờ các thần sông biển mà trước đó nữa là tục

thờ thần cá của những người đi biển. Ngay tên gọi của ngôi đền thờ được coi là nơi phát

tích của tín ngưỡng này cũng phản ánh vấn đề trên: đền Cờn (Càn Hải Môn Từ) ở Nghệ

An. Từ Cờn/Càn có thể có nguồn gốc từ tiếng Mã Lai là Sakan có nghĩa là cá voi - một

loại linh vật dưới biển được những ngư dân phía Nam tôn thờ là thần hộ mệnh trên

biển. Tạ Chí Đại Trường cho rằng trong Việt điện u linh miêu tả: “cảnh thuyền đi biển

gặp sóng to gió lớn, nếu van vái với phu nhân thì được bình yên vô sự” là điều người

dân chài phía Nam ngày nay thường thấy và khấn với cá Ông (voi)… và cá Ông đã là

một vị thần quan trọng trong tâm trí người dân chài miền biển” [85, tr.177].

Lớp tín ngưỡng tiếp theo mà nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến là do những người

di thần bại vong triều Nam Tống mang theo trong cuộc chạy loạn quân Nguyên Mông thế

Page 89: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

86

kỷ XIII. Vì những lý do muốn lưu lại hình ảnh của vương triều Tống mà họ đã thêu dệt

nên câu chuyện về một nhân vật tiêu biểu của vương triều mình trên vùng đất mới.

Tứ vị Thánh nương cũng được thờ rộng rãi ở các tỉnh duyên hải Bắc Bộ như Hải

Phòng, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình… Ở Hải Phòng tín ngưỡng thờ Tứ vị Thánh

nương được thờ ở nhiều di tích và được truyền thuyết hóa theo nhiều cách khác nhau.

Ở QN tín ngưỡng thờ Tứ vị Thánh nương chủ yếu xuất hiện ở các vùng giáp

với biển, nhưng vẫn mang đậm yếu tố nông nghiệp. Lễ hội xuống Đồng, lễ hội giữa

Đồng ở Yên Hưng hay trong lễ hội Vân Đồn người ta vẫn cầu khấn các bà linh ứng

cầu cho mùa màng tốt tươi. Trong tâm thức dân gian Tứ vị Thánh nương đều là những

vị thần có thể cứu giúp, bảo trợ cho người dân ven biển có cuộc sống no đủ, yên bình.

Vì vậy, những di tích và lễ hội thờ các bà vẫn ngày đêm hương khói và càng được

kính trọng hơn trong các ngày lễ hội.

Như vậy, từ một vị thần biển của những người dân chài chuyên nghề đánh bắt

hải sản, thì ngày nay Tứ vị Thánh nương còn trở thành vị thần của những người nông

dân trong hoạt động nông nghiệp, bảo trợ họ trong cuộc sống thường ngày của cư dân

ven biển QN.

- Thờ Mẫu

Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam chúng ta thấy một hệ thống các vị

thần liên quan đến thủy thần. Trong cuốn Đạo Mẫu Việt Nam của GS. Ngô Đức Thịnh

đã liệt kê một loạt truyền thuyết về Mẫu Thoải:

Có nơi (làng A Lữ) cho rằng Mẫu Thoải có nguồn gốc chính là vợ của

Kinh Dương Vương, là con gái của Long Vương ở hồ Động Đình (sau

sinh ra Lạc Long Quân - thủy tổ của Lạc Việt). Cũng với nội dung trên

nhưng ở Nghệ Tĩnh gắn với địa phương vùng Ngàn Hống thì nơi gặp

nhau giữa Kinh Dương Vương với con gái Long Vương lại ở trên dòng

sông Lam. Lại có truyền thuyết dân gian khác cho rằng Mẫu Thoải

chính là 3 cô gái của Lạc Long Quân được chọn để trông coi vùng sông

biển nước Nam, đóng ở sông Nguyệt Đức [77, tr.63-64].

Trong Đạo Mẫu các nam thần đều là vua cha, các quan, ông hoàng và các cậu

đều thuộc dòng Long Vương - thủy thần. Vua Cha được xác định trong hệ thống thờ

Page 90: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

87

Mẫu là Bát Hải Đại Vương và Đức Thánh Trần. Bát Hải Đại Vương được thờ chính ở

đền Đồng Bằng thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, còn đền Kiếp Bạc

được coi là nơi thờ chính của Đức Thánh Trần. Nhận định về Đức Thánh Trần, GS.

Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Dòng dõi nhà Trần vốn là cư dân vùng sông nước, đã từng

lập chiến công thủy chiến với giặc Nguyên ở vùng sông nước. Trở thành vị thần, ông

cũng được quy về dòng thủy thần mà cội nguồn xa xưa là Long Vương” [77, tr.97].

Tín ngưỡng thờ Mẫu ở mỗi vùng miền cũng có sự khác nhau. Vào đến miền

Trung và miền Nam hệ thống tín ngưỡng này được hình thành trên cơ sở văn hóa tín

ngưỡng bản địa của người Chăm và giao lưu, tiếp biến với các dân tộc khác đã cho ra

đời các thần linh Thánh Mẫu với những tên gọi khác nhau như: Thiên Y A Na, Bà

Chúa Xứ, Bà Chúa Ngọc, Bà Đen… Miền Trung gắn liền với biển cả nên các nữ thần

ở đây ít nhiều cũng đều có liên quan đến sông nước như: Ngũ Hành Nương Nương,

Tứ vị Thánh nương, Phật Bà Quan Âm… đều là các vị thần biển hay có nhiệm vụ gắn

với biển khơi.

Ở QN có nhiều di tích ven biển thờ Mẫu Liễu Hạnh vì vậy lễ hội về thờ Mẫu

luôn có sức lan tỏa rất lớn như một số lễ hội tiêu biểu: đền Mẫu (Yên Hưng), chùa

Quan Lạn, chùa Long Tiên, hội làng La Khê, đình phố Yên Hưng. Các lễ hội về Mẫu

Thoải như: lễ hội đình phố Yên Hưng, lễ hội đền Cậu Vàng, lễ hội đền Cái Lân...

Tín ngưỡng thờ Mẫu thường có lễ hầu bóng, nhưng mỗi nơi mỗi khác. Ở QN lễ

hầu bóng tiến hành ở đền, miếu thờ Mẫu Liễu Hạnh - Tam tòa Thánh mẫu, tham gia là

các con Thánh, thường gọi là con nhang đệ tử, nhóm này gồm: ông Đồng, bà Đồng

còn gọi là Thanh Đồng (người trở thành ông Đồng, bà Đồng phải trải qua hai lễ Tôn

nhang và Đàn Tứ phủ). Nhóm cung văn gồm một người đánh nhạc và hát cung văn

(chủ yếu là hát chầu văn) có từ một đến hai người chủ yếu là nữ thể hiện bóng thánh,

vừa hát, vừa múa theo làn điệu chầu văn (không hát thì múa) xung quanh là các con

nhang đệ tử, thủ đền, thủ nhang. Lễ vật gồm các mâm hoa quả được bày đẹp khắp các

ban thờ. Trước ban thờ chính có cắm cành lộc để các Ngài về phát lộc, thường mâm

ngũ quả có cắm thuốc lá. Mâm quạt, lược, gương dâng cho cô Bơ phủ. Mâm hoa quả

là lộc sơn trang dâng cô bé Thượng Ngàn. Mâm kẹo lạc, chè tàu, thuốc lá dâng ông

Hoàng Bẩy. Mâm trứng, oản, thịt dâng Ngũ Hổ.

Page 91: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

88

Ở Yên Hưng, nội dung hát chầu văn trong hầu bóng chủ yếu là hát ba giá đồng

với nội dung về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Thánh Mẫu Thoải

và các giá quan lớn, giá ông hoàng, giá chầu bà, giá các cô, giá các cậu. Cách hát mỗi

giá trang nghiêm, duyên dáng, dịu dàng, nhí nhảnh hay vui tươi; lúc đem kiếm, lúc

cầm quạt hay chèo đò là tùy vào tính cách các vị thần mỗi giá. Nội dung các bài hát văn

kể lại sự tích các giá: trước hết là tam quan Thánh Mẫu, sau đến giá các quan, rồi đến

ông hoàng, bà hoàng và các cậu, các cô. Ở Yên Hưng còn có thêm nội dung hát văn về

Đức thánh trần và sông Bạch Đằng.

Tục thờ Mẫu ở Yên Hưng có nhiều nét giống tục thờ Mẫu ở châu thổ Bắc Bộ.

Tuy nhiên, thờ Mẫu ở Yên Hưng cũng có nét đặc thù của vùng cửa sông Bạch Đằng.

Đền miếu thờ Vương Mẫu không có, chỉ có thờ Quốc mẫu, Thánh Mẫu và Đức chúa

bản thổ. Những liệt nữ hy sinh vì dân làng hoặc khi chết hiển linh cũng đều được dân

Yên Hưng suy tôn để thờ không cần sắc phong của Vua.

Thủy Cung Thánh Mẫu được thờ ở Yên Hưng rất nhiều và nổi tiếng linh thiêng

như: Thủy Cung Thánh Mẫu miếu Cống Vông xã Cẩm La, miếu Thủy Cung Thánh

Mẫu ở bến Đò Lá (bên dòng sông Tranh). Truyện kể lại rằng: xưa kia làng sát biển nên

mỗi lần làm cống để thoát nước đều bị hỏng. Có người nói rằng phải hiến thủy thần 3

cô gái xinh đẹp và hát giỏi. Dân làng làm theo lời tiên tri thấy ứng nghiệm, nên đã lập

đền thờ 3 cô gái và gọi là Thủy Cung Thánh Mẫu (vị thủy thần giúp làng quai đê, lấn

biển). Mỗi khi dân làng đi sông, đi biển đều qua thắp hương cầu xin như ý.

Ngoài ra ở Yên Hưng còn thờ: Mãnh Cô Miếu Hưng Linh, Đức Chúa Bản Thổ

miếu Vòng Đê làng Hải Yến, bà Chúa Cua xã Hoàng Tân, nữ thần Minh Hà xã Phong

Hải. Miếu thờ có tượng của Thủy cung thánh mẫu theo tục thờ thần biển của cư dân

trên đảo Hà Nam. Bên cạnh còn thờ cả Hội đồng Trần Triều và Đức Thánh Trần Hưng

Đạo. Ngoài ra, ở QN trên đảo Quan Lạn còn có miếu Bà là di tích gắn với tín ngưỡng

phồn thực. Những người đàn ông nơi đây trước khi ra khơi thường đẽo một khúc gỗ

tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam làm lễ vật dâng cúng, để xin Bà phù hộ cho

đánh bắt được nhiều tôm, cá... Các cụ già kể lại rằng, trong lễ hội xưa đàn bà không

được vào trong miếu, chỉ có đàn ông không mặc gì, cầm một cành lá cây che phần

dưới vào làm lễ. Mặc dù miếu Bà nhỏ bé, sơ sài nhưng rất linh thiêng. Nhiều lần ngư

Page 92: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

89

dân định tu sửa nhưng xin ý kiến, Bà đều không đồng ý. Vì vậy miếu Bà trông khá lụp

xụp trên hòn đảo lịch sử oai hùng này.

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam đều thờ Năm Bà Ngũ

Hành. Ở Nam Bộ còn có cả thờ Bảy Bà. Đây là dạng thức đặc biệt cho thấy tư duy

tổng hợp của cư dân vùng đất mới. Huỳnh Tịnh Paulus Của đã cho rằng: “Đó là dạng

kết hợp Bà Chúa Tiên, bà Chúa Ngọc, bà Chúa Xứ, bà Chúa Động, bà Cố Hỉ, bà

Thủy, bà Hỏa” [8, tr.19]. Các làng ven biển ở QN không thờ nhiều Bà mà ngược lại

thờ đơn lẻ nhiều hơn. Tuy nhiên, vẫn thể hiện ước nguyện của nhân dân là được phù

hộ, che chở và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

- Bạch Điểm Tước Đại Vương

Thần Điểm Tước Đại Vương chủ yếu được thờ ở Đồ Sơn (Hải Phòng) và được

coi là vị thần chủ của vùng đất này. Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán

triều Nguyễn (thời Tự Đức) cũng có ghi về đền thờ thủy thần ở Đồ Sơn, với tục chọi

trâu hàng năm vì tương truyền có người bản thổ, đêm đi qua dưới đền, thấy hai con

trâu chọi nhau, nên hàng năm đến ngày 10 tháng 8 có tục chọi trâu để tế thần. Triều

đình phong cho thần là Điểm Tước Đại Vương. Nói về phong tục này của người địa

phương, Đại Nam nhất thống chí cho rằng tục chọi trâu ở đây là theo tục Đãn Hộ -

một chủng tộc Nam man, phần nhiều ở thuyền, chuyên làm nghề chài lưới [47]. Như

vậy thời bấy giờ qua phản ánh của sách đã cho ta thấy tín ngưỡng thờ thủy thần ở Đồ

Sơn là tín ngưỡng phổ quát của người dân vạn chài nơi đây.

Sách Đồng Khánh địa dư chí [80] của Quốc sử quán triều Nguyễn thời Đồng

Khánh (1886 - 1888), trong mục đền miếu của huyện Nghi Dương, tỉnh Hải Dương có

ghi về thần tích của thần Hùng Trấn Điểm tước được thờ ở đền thờ thủy thần bên chân

núi Tháp như sau:

Xưa, dân làng định lập đền thờ, có người chiêm bao thấy thần bảo hãy

dựng đền ở trên núi Tháp. Theo lời trong mộng, ngày hôm sau người ấy

lên núi Tháp, thấy một bầy chim công bay lượn quần tụ trên đỉnh núi

trong chốc lát rồi bay đi để lại những vết chân chim công, cho là ứng với

điềm trong mộng, bèn trở về nói lại với dân làng lập đền thờ nơi ấy để thờ

vị thần vết chân chim công (Điểm tước chi thần).

Page 93: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

90

Lại tương truyền: xưa có người trong làng đi qua đền, thấy hai con trâu

đang húc nhau. Về sau dân làng cứ đến ngày 10 tháng 8 hàng năm mở

hội tế thì bày trò chọi trâu để làm vui cho thần. Ngày hôm ấy thế nào

cũng có mưa gió to lớn, theo lời truyền thì đó là do thần làm ra (theo dã

sử) [80, tr.141].

Về hội chọi trâu ở Đồ Sơn được ghi lại theo nhiều nguồn sách cổ sử thì theo đó

ngày hôm trước khi diễn ra lễ hội (ngày 7 tháng 8 âl) là ngày dành cho các đình tổ

chức lễ rước nước từ đền, nghè về đình mỗi làng để cúng tế, xin phép thần cho xuất

quân (rước trâu ra sới chọi). Về tục chọi trâu gắn với lễ hội cúng tế thủy thần ở Đồ

Sơn, chúng ta cần xem xét, phân tích để có thể thấy được những lớp văn hóa tín

ngưỡng trầm tích xuất hiện sớm hơn trong trò chơi này của lễ hội.

Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi rằng: Tục chọi trâu ở Đồ Sơn là tục Đãn

Hộ - một chủng tộc Nam man, phần nhiều ở thuyền, chuyên làm nghề chài lưới. Phải

chăng chủng tộc Nam man ở đây là tộc người gốc Nam Đảo mà nghề nghiệp chính là

đánh bắt cá, tôm trên biển và họ đã từng có mặt ở vùng đất ven biển QN ngày nay.

Trong sách Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh thời Hậu Lê cũng có nói tới tộc người

Đản/Đãn nhưng nội dung thì nhuốm màu huyền thoại về xuất xứ gốc gác của tộc người

này. Trong hồi hai:

“Vờn biển sâu, Ngư tinh tỏ oai vệ/ Chém yêu tà, đức vua diệt ác hung”

(thời Hùng Vương thứ 2) có nhắc tới chuyện một giống cá Công sống

lâu thành tinh, mình dài mười tám trượng, móng trắng, vây biếc, vẩy

vàng, thường hóa thành người, lại nói sõi tiếng người. Dần dần giống cá

này sinh sản ra con trai, con gái và bỏ được thói hung ác làm hại người

trước đây, sau này trở nên lương thiện. Giống đó có tên là Đản Nhân, ở

miền duyên hải, trong hốc đá, sống về nghề cá, có biết ít nhiều lễ nghĩa,

cùng với các dân mán mường giao dịch buôn bán, đổi lấy gạo vải lụa

[49, tr.55].

Sách có chú giải rằng: Đản Nhân (Đản nghĩa đen là trứng chim), Đản Nhân là

tộc người có gốc tích Ma Lai cổ xưa, sống rải rác ở hai đảo và ven biển Đông, nay đã

đồng hóa theo dân địa phương từng vùng.

Page 94: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

91

GS. Ngô Đức Thịnh thì cho rằng:

Xét về mặt cộng đồng thì người Việt không có nguồn gốc biển mà cơ bản họ

là cư dân sống ở vùng trước núi tràn xuống khai thác đồng bằng lầy trũng, rồi

lấn biển và khai thác biển. Có cái gì tạm gọi là truyền thống “biển” ở người

Việt là lý do, hoặc là giao tiếp, tiếp thu từ các tộc láng giềng (cư dân Nam

Đảo) hay hình thành nên trong quá trìnhh họ lấn biển và khai thác biển sau

này [76, tr.699].

Nếu như vậy, phải chăng từ xa xưa ở QN đã có mặt của những người làm nghề

chài lưới trên biển, đã từng định cư hoặc đến từ những vùng đất xa xôi khác, mà cụ

thể ở đây là những ngư dân gốc Nam Đảo. Họ có thể là chủ nhân vùng đất này còn

trước cả những người nông dân bản địa, chỉ biết làm nghề nông cấy hái, sống ở những

vùng đất xa với biển hơn như với Đồ Sơn và chỉ ít những ngư dân gốc Nam Đảo đã

từng cư ngụ ở vùng đất này trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, đủ để họ

gieo mầm nên một tín ngưỡng thờ thần biển với hình thức hiến sinh truyền thống

trong văn hóa tín ngưỡng của họ. Ở đây chúng ta lại bắt gặp một sự trùng lặp của ý

nghĩa về tên gọi nhóm của người định cư ở miền duyên hải, sống về nghề đánh bắt

trên biển mà sách Lĩnh Nam chích quái có nói tới (giống Đản Nhân): Đản nghĩa đen là

trứng chim và như vậy nghĩa đen của Đản Nhân có nghĩa là giống người có nguồn gốc

họ hàng từ loài chim, và rất có thể tín ngưỡng thờ thần vết chân chim - Điểm Tước

thần vương (mà thực ra là thần chim) của cư dân cổ Đồ Sơn có nguồn gốc Nam Đảo

là thờ vị tổ thần dòng giống của mình chăng ?

Tục hiến sinh trâu - lễ ăn trâu của các tộc người gốc Nam Đảo còn được phản

ánh ở một dạng khác trong Đại Nam nhất thống chí mà ở đây sách gọi là người Man.

Ở Phú Yên có phong tục hiến sinh trâu gọi là lễ lượn cột. Về tháng Giêng họ

(người Man) tổ chức lễ hội với việc cột trâu vào cột và chuẩn bị cung tên.

Đêm đến họ đốt đuốc lượn quanh chiếc cột, vừa hát vừa bắn con trâu cho

đến chết, sau đó làm thịt con trâu để tế thần linh, rồi uống rượu vui chơi suốt

tháng để cầu được mùa, cầu cuộc sống hạnh phúc, no đủ [47, tr.65, 66].

Như vậy trong lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, chúng ta cũng tìm thấy nhiều di vết có

liên quan của tục hiến sinh trâu so với người Tây Nguyên hoặc với một số tộc người có

Page 95: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

92

nguồn gốc Nam Đảo ở miền Trung Việt Nam. Con trâu ở đây không phải là những con

trâu thường mà là những ông Trâu linh thiêng được người dân kính trọng, tôn thờ. Cũng

trải qua các bước tuyển chọn, nuôi nấng và huấn luyện, những ông Trâu này được đưa đi

làm lễ tế thần với những thủ tục truyền thống. Cuối cùng, sau lễ chọi trâu được tổ chức

làm đẹp lòng thần với các ngôi thứ phân định qua kết quả chọi chiến giữa các ông Trâu,

người ta cũng mang tất cả ông Trâu này đi làm lễ hiến sinh thần linh với mong muốn thần

linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, ngư dân đánh bắt được nhiều tôm

cá và bình an trong các chuyến đi biển, có cuộc đời ấm no, hạnh phúc.

Nhận định về mối dây liên quan giữa tục chọi trâu ở Đồ Sơn và văn hóa truyền

thống của các dân tộc người gốc Nam Đảo, GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng:

Ở các tộc người nói ngôn ngữ Nam Đảo ở Tây Nguyên nước ta cũng còn

giữ nhiều phong tục độc đáo gắn với con trâu, như trang trí hình đầu trâu,

sừng trâu, quan tài hình đầu trâu, nghi lễ hiến sinh trâu… Có thể nói

chính cư dân Việt ở Đồ Sơn còn may mắn lưu giữ được hình tượng con

trâu thần trong lễ hội chọi trâu, mà vốn đó là một di vết văn hóa rất cổ của

Đông Nam Á thời tiền sử [79, tr.372].

Như vậy, trải qua quá trình phát triển, giao lưu và tiếp biến, yếu tố văn hóa biển

và văn hóa đồng bằng đã hòa nhập với nhau và hình ảnh về con trâu và tục chọi trâu ở

Đồ Sơn cũng mang tính lưỡng nguyên của văn hóa biển và văn hóa nông nghiệp.

Ở QN, thần Điểm Tước được thờ ở đình Trà Cổ, cư dân gốc Trà Cổ là những

người di cư từ Đồ Sơn sang nên họ đã mang tín ngưỡng từ địa phương đến. Vì vậy,

trong lễ hội Trà Cổ vẫn có tục lệ đi thuyền sang Đồ Sơn để rước chân nhang về tổ

chức lễ hội. Tuy nhiên, lễ hội Trà Cổ không có tục chọi trâu như ở Đồ Sơn (Hải

Phòng) mà thay thế vào đó là tục nuôi và thi ông Voi (nuôi lợn). Yếu tố biển và nông

nghiệp lại hòa nhập trong cùng một lễ hội ven biển.

Đình Trà Cổ hiện nay có khoảng 20 sắc phong, trong đó có các sắc phong cho

Bạch Điểm Tước như sau: 4 sắc phong thời Thiệu Trị đều phong cho Bạch Điểm

Tước chi thần; 01 sắc phong cho Không Lộ Giác Hải và Bạch Điểm Tước tôn thần; 04

sắc phong cho Thuyền Quốc Lữ, Quảng Trạch Đại Vương, Không Lộ Giác Hải, và

Bạch Điểm Tước tôn thần. Trà Cổ là nơi dân Đồ Sơn định cư, khởi nguồn từ 6 vị tiên

Page 96: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

93

công. Duy thần Bạch Điểm Tước là mới, nhưng không lạ vì vốn từ Đồ Sơn được đưa

ra đây. Chỉ có một vị thần lạ là Thuyền Quốc Lữ thái úy chưa từng thấy ở các nơi,

mặc dù có một số thái úy được phong thần.

Sau khi đình Trà Cổ được xây dựng, các cụ già trong làng đã trở về Đồ Sơn xin

chân nhang của các vị Thành hoàng quê cũ rước về thờ tại đình Trà Cổ gồm Không

Lộ, Giác Hải, Bạch Điểm Tước, Nhân Minh, Huyền Quốc, Quảng Trạch, Ngọc Sơn.

Việc thờ thần Điểm Tước Đại Vương trong các lễ hội truyền thống ven biển

QN đã thể hiện đời sống tinh thần phong phú của cư dân ven biển. Đồng thời cũng

cho thấy quá trình giao thoa văn hóa vẫn diễn ra mạnh mẽ trong quá trình lịch sử của

các cư dân đến vùng đất mới.

- Thần Không Lộ (Khổng Lộ Giác Hải Đại Vương)

Khổng Lộ Giác Hải Đại Vương cũng được thờ ở nhiều nơi ven biển vùng

duyên hải Bắc Bộ. Dưới góc độ địa văn hóa, GS. Trần Quốc Vượng đã nhận định

“hiện tượng ông Minh Không - Dương Không Lộ là ông Khổng Lồ xứ Nam đi đơm

đó” [103]. Trong cuốn Linh thần Việt Nam [30] đã giới thiệu về đức Thánh Không Lộ

với tên gọi Nguyễn Chí Thành có nguồn gốc là gia đình đánh cá, theo đạo học thiền

sư với Thảo Đường, tu đắc đạo, có đạo hiệu là Không Lộ.

Thánh Không Lộ được thờ nhiều nhất ở vùng duyên hải Bắc Bộ trong các di

tích và lễ hội, phối hưởng với các tín ngưỡng khác như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,

tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, tín ngưỡng thờ thần biển… và

phối thờ thánh Trần Hưng Đạo, Nam Hải Đại Vương, Đông Hải Đại Vương… Có thể

nói thánh Không Lộ có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của cư dân các tỉnh

vùng duyên hải Bắc Bộ trong đó có QN.

Ở Nam Định, một số ngôi chùa nhỏ như chùa Thanh Am (huyện Nam Trực),

chùa Kim Quất (huyện Trực Ninh), thánh Không Lộ lại được thờ với ý nghĩa là vị

thần làm nghề chài lưới. Người dân nơi đây kể lại rằng: xưa kia Nam Trực là vùng

nước bạc, bãi nổi, thánh Không Lộ cùng thánh Giác Hải về dựng lều tranh, giảng đạo

và đăng đó tại đây.

Trong các lễ hội về thánh Không Lộ vùng duyên hải Bắc Bộ thường có nhiều

trò diễn liên quan đến cuộc đời của ông mà phổ biến nhất là trò bơi trải, múa ếch vồ

Page 97: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

94

(chùa Keo làng Dũng Nhuệ, Thái Bình), múa đầu rối chầu Thánh (chùa Cổ Lễ, huyện

Trực Ninh, Nam Định), múa rối hề dưới nước (chùa Nghĩa Xá, huyện Xuân Trường,

Nam Định),… Cuộc đời của thánh Không Lộ còn được truyền thuyết hóa qua những

câu chuyện về chinh phục tự nhiên (quai đê lấn biển), chinh phục thú dữ (chém đầu

ngư công, diệt trừ thủy quái), về đời sống kinh tế như: dạy dân đơm đó, trồng lúa, dạy

dân nghề đúc đồng hay chữa bệnh cho vua, phù giúp vua chống giặc ngoại xâm [15].

Như vậy hiện tượng thánh Không Lộ là một hiện tượng tổng hợp của văn hóa,

khi ra đến biển Hải Phòng và QN thì hiện tượng thờ thánh Không Lộ không còn nhiều.

Ở QN trong lễ hội Vân Đồn, lễ hội Trà Cổ thánh Không Lộ là vị thần phối hưởng và

cũng có một vị trí quan trọng trong đời sống của cư dân.

- Thần cá Voi

Danh xưng Nam Hải Đại Vương là danh xưng của thần cá Voi xuất hiện khá

phổ biến trong ngư dân các tỉnh duyên hải Trung Bộ và Nam Bộ. Đối với những ngư

dân vùng biển Trung Bộ và Nam Bộ, cá Voi được coi như là phúc thần và được gọi

với nhiều danh xưng thành kính như: Ông Lớn, Ông Lộng, Ông Khơi, Ông Sanh, Ông

Nam Hải…Và cá Voi còn được các vua nhà Nguyễn sắc phong tước hiệu là Nam Hải

Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần.

Ở Bắc Bộ, tín ngưỡng thờ cá Ông xuất hiện khi người Việt tiếp cận với biển và

tiếp cận với bộ tộc thuộc ngữ hệ Malayo - Indonesien (một số nhà nghiên cứu cho

rằng bộ tộc này vốn một thời sống dọc ven biển Việt Nam, từ vùng biển QN vào tận

các rẻo đất cuối phía Nam). Điều này minh chứng bằng dấu vết thờ cá voi ở hàng trăm

đền thờ dọc ven biển Bắc Bộ, ít nhất là từ Bần Yên Nhân dọc xuống tận Hải Phòng

như GS. Trần Quốc Vượng xác nhận [104, tr.226-227].

Theo quan niệm và cách gọi trước đây thì khu vực biển Đông ngày nay được

gọi là Nam Hải. Thế kỷ thứ 4 TCN, Trang Tử đã nói tới hình ảnh của biển Đông mà

ngày đó gọi là biển Nam (Nam Hải) trong cuốn Nam Hoa Kinh.

Bể Bắc có con cá tên là côn, bề lớn của côn, không biết có mấy nghìn

dặm! Hóa mà làm loài chim, nó tên là bằng. Lưng của bằng, không biết

nó mấy nghìn dặm ? Vùng dậy bay, cánh nó như đám mây rủ ngang

Page 98: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

95

trời…Loài chim ấy, bể động thì sắp dời sang bể Nam. Bể Nam là ao

trời….[90, tr.33].

Thời nhà Tần, sau khi bình định đất Lĩnh Nam (đất Lĩnh Nam phía bắc tới

Động Đình hồ, phía nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, đông

giáp biển Nam Hải - biển Đông) đã đặt tên cho vùng đất này là Nam Hải quận. Thủ

phủ của Nam Hải quận đặt tại Phiên Ngu. Nhà Tần đặt tên đất Lĩnh Nam là Nam Hải

quận với ý nghĩa là vùng đất này gần với biển Nam Hải, chính là tên gọi của biển

Đông ngày nay.

Vùng biển đảo QN cũng có miếu thờ cá voi ở nơi tiếp giáp với vùng biển Trung

Quốc. Theo sách Địa chí Quảng Ninh [42] thì ở vùng biển này cũng có những miếu nhỏ

thờ cá voi (nơi cá voi chết, trôi dạt vào nhưng không có lăng/đền lưu giữ ngọc cốt) như

những vùng khác và dĩ nhiên cũng không có tế lễ rầm rộ. Tuy nhiên, theo sự điều tra,

khảo sát của chúng tôi thì ở Quan Lạn có một số miếu nhỏ không có tên, vì vậy nhiều

người đoán rằng đó là thờ cá voi, nhiều người trên đảo lại cho rằng thờ cá heo (vì biển

QN trước đây nhiều cá heo hơn).

Tại Bảo tàng tỉnh QN có trưng bày một bộ xương cá voi khá lớn được tìm thấy

trên đảo Ngọc Vừng (vịnh Bái Tử Long). Một số bộ xương cá voi nhỏ hơn còn được tìm

thấy trên đảo Cô Tô. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, tộc người Hoa trước có khai

thác thủy sản trên đảo Cô Tô nhưng họ lại đánh bắt cá voi nên trong tín ngưỡng họ

không tôn sung cá voi là vị thần. Vì thế ở QN không có tục thờ cá voi là vị thần chủ.

Trong các báo cáo khảo cổ học cũng còn nói tới việc tìm thấy bộ xương cá voi trên đảo

Hoàng Tân ở Quảng Yên (h. Yên Hưng, tỉnh QN).

Cá voi ở QN là loài cá voi vây (Balaenoptera physalus). Tháng 10 năm 1994

trên đảo Ngọc Vừng (vịnh Bái Tử Long) phát hiện một con cá voi vây bị chết dạt vào

bờ. Cá dài trên 20m, đường kính gần 3m, nặng khoảng 50 tấn. Cá voi vây là một loài

thú lớn sống dưới biển. Cá cái đẻ mỗi lứa 1 con nặng 2-3 tấn và nuôi con bằng sữa.

Tuổi thọ của cá voi vây có thể tới 90 đến 100 năm. Cá voi vây thường sống theo đàn,

từ 6 đến 7 con, có đàn hơn 50 con. Chúng có thể bơi với vận tốc 40km/giờ, lặn sâu

600m trong vòng 20 đến 30 phút. Hàm trên của cá có hàng trăm thanh nhỏ như một

Page 99: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

96

tấm mành để lọc thức ăn. Khi ăn, cá há to mồm hút nước cùng tôm, cua, mực, sau đó

khép hàm và đẩy nước ra, hàm trên giữ lại thức ăn.

Ngoài cá voi vây, 3 loài thú lớn khác cũng được ghi nhận ở biển QN, đó là: cá

heo, cá voi lưng gù và bò biển. Ngư dân đảo Quan Lạn và Cô Tô thỉnh thoảng gặp

những đàn cá heo từ 5 đến 10 con. Tháng 9 năm 2013, một con cá voi bị mắc cạn trên

bãi biển đã được nhân dân Cô Tô đưa xuống biển. Cũng như các nơi khác ở Việt

Nam, ngư dân QN không đánh bắt các loài thú biển này. Với quan niệm chúng là ân

nhân có thể cứu người, ở một số nơi người ta lập miếu thờ cá voi, cá heo.

Hiện nay, một số nhà nghiên cứu văn hóa dân gian ở QN cho rằng đền Cửa Ông

có thể là cách gọi chỉ đền thờ cá voi (cá Ông) nên gọi là Cửa Ông. Giả thuyết này theo

chúng tôi không thuyết phục vì đền Cửa Ông thờ Trần Quốc Tảng, được dân gian gọi là

Đức Ông, lại thờ ở Cửa Sót (Cửa Suốt) nên mới gọi là đền Cửa Ông. Người dân QN

đánh cá chủ yếu trong vịnh, do đó ngư dân không có điều kiện tiếp xúc nhiều với cá

voi, vì vậy tín ngưỡng thờ cá voi cũng dường như vắng bóng.

Những thông tin trên đây là bằng chứng khẳng định tục thờ cá voi không chỉ

có ở Đèo Ngang trở vào mà có cả ở các tỉnh Bắc Bộ. Nếu dựa vào bản đồ khí

tượng có thể thấy bờ biển các tỉnh Bắc Bộ nước ta nằm sâu trong vịnh, được che

chắn bởi đảo Hải Nam nên ít bị bão tố như Trung Bộ trở vào. Điều này có thể suy

luận: việc dân Bắc Bộ không thờ cá voi long trọng như người dân Trung Bộ không

hẳn vì họ ở gần Trung Quốc, nơi dân chuyên đánh bắt cá voi mà rất có thể vì cá

voi không là phúc thần trên biển đối với ngư dân vùng ít chịu bão lớn. Trong thực

tế, với tấm thân khổng lồ, lại sống tập trung thành đàn, cá voi không ưa vào vùng

biển dày đặc những đảo đá nổi, đá chìm như vịnh Hạ Long.

Hiện tượng tôn thờ các nhân vật lịch sử thành các vị thần biển cũng nằm chung

trong dòng chảy văn hóa của dân tộc với xu hướng nhân hóa các nhiên thần trong văn hóa

tín ngưỡng của người Việt. Và thần cá voi cũng được ngư dân ở cả 3 miền đồng hóa vào

các nhân vật lịch sử. Tuy nhiên mỗi nơi lại gán cho thần những nhân vật lịch sử khác

nhau. Ở QN, các làng vùng biển đảo lại tôn thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn và Trần

Quốc Tảng, là những nhân vật lịch sử có thật làm thần Đông Hải Đại Vương. Ở Bắc Bộ

nói chung thần lại có tên gọi là Đông Hải Đại Vương và đến thời Lý - Trần được nhân

Page 100: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

97

hóa và hóa thân thành Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng). Còn với

người Việt ở phía Nam, việc thờ cá Voi cũng được lịch sử hóa (gắn với vận mệnh Nguyễn

Ánh), nhưng không hóa thân thành nhân vật lịch sử nào. Mà dẫu có hóa thân hay không,

thì nói chung tín ngưỡng này cũng bắt đầu từ tín ngưỡng thờ cá và sau đó ra biển là thờ cá

voi. Nó không phải của riêng người Chăm hay người Việt.

- Thần Long mã

Theo truyền thuyết, long mã là con vật dữ ở biển, đã quy y nhà Phật, được Phật

giao cho làm công việc trị thủy giúp dân. Thần Long mã được coi là biểu tượng của

vật thờ (lễ vật) trong lễ hội Tiên Công. Mỗi dòng họ, gia đình có người mừng thọ đều

chuẩn bị một con long mã để rước trên kiệu. Từ nhiều ngày trước, con cháu trong họ

đã phải chuẩn bị hoa, quả... các nguyên vật liệu để làm thành con Long mã đẹp và oai

phong nhất. Sáng sớm ngày rước thọ, những người khéo tay nhất được cắt cử làm

nhiệm vụ trang trí Long mã. Đây là một tác phẩm nghệ thuật dân gian độc đáo của

vùng biển đảo Hà Nam. Việc rước Long mã mang ý nghĩa giáo dục truyền thống trị

thủy của cư dân trên đảo, những người hàng năm luôn phải đối mặt với thiên tai để

tồn tại và phát triển. Việc rước Long mã cũng biểu hiện tín ngưỡng thờ thần biển của

cư dân nơi đây. Mặt khác, những sản vật hoa, lá, quả, củ… tạo nên con Long mã cũng

phản ánh một phần nền kinh tế nông nghiệp đã tồn tại và phát triển ở vùng đảo Hà

Nam trong gần 600 năm qua. Hình tượng con Long mã trong đoàn rước cho thấy sự

uy nghiêm, oai phong lẫm liệt và cả sự linh thiêng của ngày lễ hội truyền thống trên

đảo Hà Nam.

Tục thờ thần biển, thần sông trong các lễ hội ven biển ở QN có nhiều nét

khác biệt với tục thờ thần biển ở Trung Bộ và Nam Bộ. Ngoài các vị thần biển mà

nhiều nơi thờ như thủy cung Thánh mẫu, thần Biển Cửa Càn Hải, thần Nam Hải,

Đại Hải chi thần, thủy thần Hà Bá, ở QN còn có nét rất riêng là tục thờ thần Long

mã trong các lễ mừng thọ; tục thờ những người chết đuối hiển linh ở các cống kéo

thuyền qua đê ra sông biển của các làng. Nơi thờ thần biển thường ở đình làng, đền

miếu nơi bến sông hoặc ở đầu sông cửa biển, đặc biệt ở cống kéo thuyền qua đê của

các làng.

Page 101: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

98

3.2.1.2. Sự phụng thờ các vị thần được đồng hóa vào biển

Cư dân vùng biển đảo QN ngoài thờ các vị thần biển còn thờ các vị thần được

đồng hóa vào biển. Những vị thần này vốn không có nguồn gốc là thần biển nhưng trải

qua các lớp văn hóa đã mang một ý nghĩa mới là giống hoặc gần giống với thần biển.

- Phạm Tử Nghi

Do quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa nên trong các lễ hội truyền thống vùng

biển đảo QN còn thờ các nhân vật lịch sử có sự ảnh hưởng tới cả một vùng. Điển hình

cho nhóm nhân vật lịch sử này là thần Phạm Tử Nghi. Phạm Tử Nghi là một tướng

lĩnh tài giỏi dưới thời nhà Mạc. Quê hương ông ở Vĩnh Niệm, Hải Phòng. Ông còn

được gọi là Nam Hải Đại Vương Phạm Tử Nghi hay Đại Hải chi thần, Đức Thánh

Niệm tức là vị thần biển của phía nam. Một trong những nhóm cư dân vùng biển đảo

QN có nguồn gốc thiên di từ Hải Phòng sang. Chính vì vậy dũng tướng Phạm Tử

Nghi cũng được họ mang theo đến vùng đất mới để thờ phụng.

Phạm Tử Nghi xuất hiện trong chính sử thông qua các sách: Đại Việt sử ký toàn

thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh

địa dư chí lược và Lê triều thông sử với diện mạo một vị tướng nhà Mạc thời Mạc Phúc

Nguyên (1546 - 1561).

Sau khi Mạc Phúc Hải chết, con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi lên

thay, với quan điểm trong lúc nước còn loạn lạc nên lập vua lớn tuổi hơn

là Mạc Chính Trung (con Mạc Đăng Dung), nên ông đã tập hợp quân sĩ

chống lại triều đình. Sau một thời gian cùng Chính Trung chiếm giữ vùng

Yên Quảng và đánh vào cả vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Trung

Quốc bấy giờ, ông bị triều đình bắt và chém đầu, sau đó hiển linh và được

nhân dân khắp nơi thờ tự [36, tr.586].

Còn chiểu theo bản Nam Hải đại vương - Thánh tổ đại vương ngọc phả được

dịch và lưu giữ trong tập hồ sơ về di tích lịch sử Lăng Miếu Đôn Nghĩa của bảo tàng

TP Hải Phòng và theo bản Thần Tích - Thần sắc làng Đôn Nghĩa, x.Vĩnh Niệm, h. Hải

An, tỉnh Kiến An (kí hiệu: TT - TS FQ4018/X,12) của Viện Thông tin khoa học xã

hội thì Phạm Tử Nghi được sinh ra và lớn lên tại x.Vĩnh Niệm, tổng An Dương, h. An

Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân,

Page 102: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

99

TP Hải Phòng) [94]. Phạm Tử Nghi sinh vào khoảng 1509 đến 1515 (thời Lê Tương

Dực 1510 -1516) trong một gia đình nông dân nghèo, thủa nhỏ rất thông minh, ham

đọc sách và học hỏi, học một hiểu mười. Lớn lên là người cao to, khỏe mạnh, cường

tráng, võ nghệ song toàn. Với những thần tích chiến công như diệt voi dữ trừ họa cho

dân, đắp đê ngăn nước mặn (con đê ngày nay đã trở thành con đường mang tên Thiên

Lôi ở Hải Phòng), ông đã được nhà vua tin dùng, giao những trọng trách to lớn, gả

công chúa và phong cho chức Tứ Dương Hầu. Sau đó ông đã xin phép nhà vua mang

quân lên biên giới phía Bắc tiến đánh thu phục hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông

(Trung Quốc). Quân địch bị thua to, không chống đỡ nổi, họ mới cho một chiếc

thuyền nhẹ đến làng Vĩnh Niệm bắt cóc mẹ ông đưa về Trung Quốc. Sau đó cho sứ

giả cầm thư sang trách vua ta và bảo với Tứ Dương Hầu rằng: muốn cho tính mệnh

của mẹ được an toàn thì phải tự mình đến xin đầu hàng.

Mắc mưu, ông đã bị giặc bao vây và đã chiến đấu anh dũng hy sinh vì đại

nghĩa. Chúng chém, bêu đầu ông giữa chợ, đốt xác mà rắc tro hài cho gió thổi bay.

Ngay hôm đó, nhân dân trong vùng ấy mắc bệnh dịch lớn, súc vật chết hại nhiều.

Đúng ngày đó, ông đã hiển Thánh trên mây mà nói: “Muốn tử tế hãy mang đầu trả lại

cho ta”. Nước Trung Quốc náo động, xôn xao. Vua Tàu biết chuyện, bèn khẩn cấp ra

lệnh cho mài một cái hòm đá, trong quan, ngoài quách, đặt thủ cấp của ông vào trong,

rồi lấy lễ công hầu mà tế đưa, phong cho ông là Thượng đẳng thần của hai nước, cho

đặt hòm đá đó lên một cái bè nhỏ mà thả xuống dòng nước. Hòm đá của ông trôi trên

mặt nước đến đầm Hồng thì có một ông chài, đêm nằm thần mộng đem thuyền đến đón

tiếp, rước hòm đó lên thuyền. Không phải chèo chở, thuyền cứ thế trôi đi qua một đêm

thì cập bến sông Niệm (đoạn sông Lạch Tray chảy qua các phường Niệm Nghĩa và

Vĩnh Niệm, Hải Phòng ngày nay), bỗng dừng hẳn lại, sấm chớp, gió thổi ào ào. Trong

làng từ quan viên đến trai tráng, tề chỉnh ra đón rước hòm về đến chỗ lăng hiện nay thì

hạ xuống, làm lễ an táng, rồi xây miếu, làm đền thờ cúng, càng ngày càng linh ứng.

Phạm Tử Nghi là một dũng tướng dưới triều Mạc và khi chết đi, ông đã được

người dân quê hương nhiều nơi tôn thờ làm Thành hoàng làng. Cuộc đời Phạm Tử

Nghi đã được thể hiện cả trong chính sử và ngọc phả dân gian. Như trên đã nói, tính

riêng ở Hải Phòng ngày nay, ngoài khu vực Vĩnh Niệm là quê hương của ông còn có

Page 103: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

100

rất nhiều nơi thờ ông. Tương truyền rằng phàm hai bên bờ sông, chỗ nào mà hòm thủ

cấp của ông trôi qua thì dân ở đó đều lập đền thờ. Các tỉnh lân cận như Hải Dương,

Hưng Yên, Ninh Bình, Thái Bình, QN… đều có nơi thờ tự ông.

Ngày nay, xuân thu nhị kỳ, lễ hội được tổ chức đều đặn tại các di tích thờ tự

Nam Hải Đại vương Phạm Tử Nghi. Đó là ngày thánh đản từ 12 đến 14 tháng 2 âl và

ngày thánh hóa từ 12 đến 14 tháng 9 âl.

Sau khi Phạm Tử Nghi qua đời, nhiều làng ven biển lập đền thờ ông, các triều

đại phong kiến đều phong thần. Ở QN các làng ven biển cũng lập đền thờ và tổ chức lễ

hội như: nhân dân các làng Hải Triều (Hải Yến ngày nay) thì tôn ngài làm Thành hoàng

và thờ ở đình làng, hiệu là Đại Hải chi thần. Nhân dân làng Yên Đông thuộc xã Yên Hải

(h. Yên Hưng) cũng lập miếu thờ ngài ở miếu chợ Đông gọi là miếu Vu Linh hiệu là

Linh ứng Đại Vương (Phạm Tử Nghi) và thờ Trấn Đại Vương (Nguyễn Đông Đô) thờ

phối hưởng ở miếu Vu Linh. Nhân dân làng Quỳnh Biểu thuộc xã Lưu Khê xưa, nay

thuộc xã Liên Hòa cũng tạc tượng thần Phạm Tử Nghi, xưa kia ở ngoài đê ven sông

Tranh cạnh miếu thờ Quan Quận, sau làm đền thờ ngài ở cạnh chùa Quỳnh Biểu. Nay

dân làng Quỳnh Biểu đưa tượng ngài về thờ phối hưởng với thần hoàng của làng tại

đình Quỳnh Biểu.

Ở làng Lưu Khê x. Lưu Khê xưa, nay thuộc x. Liên Hòa (h. Yên Hưng) cũng

thờ Đức Thánh Niệm (tức Phạm Tử Nghi) tại đền thờ ở cống Lưu Khê, nay làm đền

thờ Ngài ở chùa Lưu Khê.

Dân làng Vị Khê thuộc x. Vị Dương nay là x. Liên Vị (h. Yên Hưng), từ lâu đã

tạc tượng Đức Thánh Niệm và Đức Thánh Trần Hưng Đạo, xin vua phong sắc cho các

ngài và thờ ở Chùa Lái.

Nhân dân làng Vị Dương, thuộc x. Vị Dương xưa, nay thuộc x. Liên Vị (h. Yên

Hưng) cũng tạc tượng Đức Thánh Niệm và Đức Thánh Trần Hưng Đạo, xin vua

phong sắc cho các ngài và phối thờ làm thần hoàng của làng ở đình Vị Dương, nay

thờ ở đền Trần Hưng Đạo, xóm Nam.

Dân làng Động Linh nay thuộc x. Minh Thành (h. Yên Hưng), thờ thần Phạm

Tử Nghi là thần Thành hoàng của làng tại đình Động Linh và miếu Cu Linh trên

đượng Cu Linh.

Page 104: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

101

- Các vị tướng nhà Trần

+ Đức Thánh Trần Hưng Đạo

Nổi bật trong số các thủy thần được nhân hóa bằng các nhân vật lịch sử được thờ

ở những nơi cửa sông ven biển là Hưng Đạo Đại Vương - một danh tướng nhà Trần đã

được nhân dân tôn lên thành hàng Đức thánh. Tên tuổi của ông được gắn liền với những

chiến công chống giặc ngoại xâm anh dũng, hào hùng của dân tộc. Những chiến công vĩ

đại của quân và dân ta trong ba lần kháng chiến chống giặc Nguyên Mông đều có hình

ảnh của vị tướng tài ba này với những trận đánh thủy chiến oanh liệt mà tiêu biểu là trận

Bạch Đằng năm 1288 trên vùng đất QN ngày nay. Trận chiến chống quân Nguyên

Mông lần thứ 3 đã đánh dấu chấm hết cho ý đồ xâm lược Đại Việt của các thế lực

phương Bắc với kết quả quân ta đại thắng, bắt được hơn 400 chiến thuyền, tướng giặc

là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Phạm Nhan bị bắt sống tại trận. Sau này Phạm Nhan đã bị

Trần Hưng Đạo cho chém bêu đầu trước ba quân.

Trong nhân gian, hình ảnh Trần Hưng Đạo không chỉ là một biểu tượng anh

hùng dân tộc điển hình mà ông còn được coi là người siêu phàm, có xuất xứ từ thiên

đình - giáng trần để cứu nhân độ thế. Mẹ ông nằm mộng thấy một đồng tử áo xanh sà

vào lòng, tỉnh dậy bà có thai rồi sinh ra ông [22, tr.223]. Vì vậy sau khi mất, nhân dân

tôn ông làm Đức Thánh Trần, là Cha trong dòng chảy tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/Tứ

Phủ. Ông mãi vẫn là một võ thánh trong tâm trí nhân dân, tiếp tục bảo trợ cuộc sống

của họ được an bình, hạnh phúc trong nơi trần gian.

Còn câu chuyện về việc Hưng Đạo Đại Vương trị tội giặc Phạm Nhan đã được

nâng lên thành hàng thần thuyết nhuộm màu sắc tín ngưỡng đạo giáo. Ông được coi là

hình ảnh của một vị thánh mang màu sắc đạo sĩ trừ tà ma, yêu quái qua nội dung được đề

cập tới trong sách Công dư tiệp ký của TS. Vũ Phương Đề (thế kỷ XVIII) khi nhắc tới

ngôi đền thờ Phạm Nhan ở x. An Bài, h. Đông Triều [11, tr.125].

Phân tích về mối liên hệ giữa việc thờ cúng Phạm Nhan và Đức Thánh Trần,

Tạ Chí Đại Trường cho rằng: danh xưng Phạm Nhan chẳng qua có ý nghĩa là một

Nhan bị tội. Tên “Nhan” là tên một tà thần ở khúc sông của x. An Bài đã được thờ

cúng bởi những người dân bao gồm x. An Sinh - vùng đất triều đình đã phong cho cha

Trần Hưng Đạo là Trần Liễu, ngày trước đã từng là quê hương của nhà Trần trước khi

Page 105: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

102

họ tiến sâu xuống phía Nam để định cư ở đất Tức Mặc (Nam Định ngày nay). Họ

Trần với gốc gác là những dân chài hẳn có lúc cũng thờ Phạm Nhan và uy thế là

người chiến thắng của Trần Quốc Tuấn, con của người chủ đất An Sinh, làm cho ông

có tư thế cao hơn nữa, xứng đáng là phúc thần của đất “hương hỏa”, đủ quyền áp đảo

các thần nhảm nhí ở địa phương, trong đó có thần Nhan [85]. Và như vậy, tà thần

Phạm Nhan giữ được việc thờ cúng trong nhân gian là nhờ có sự thờ cúng rộng rãi của

tín ngưỡng Đức Thánh Trần trong lòng dân chúng để đối lại những tà ma, yêu quỷ.

Đến đây nghiễm nhiên tín ngưỡng Đức Thánh Trần ngoài ý nghĩa là một dạng thức tín

ngưỡng phức hợp thì ông đã là một vị thần linh thiêng có uy quyền trấn áp những tà

thần vùng sông nước như Phạm Nhan.

Còn theo phân tích của TS. Nguyễn Quỳnh Phương dẫn theo gợi ý của GS.

Trần Quốc Vượng thì từ nhan là biến âm của từ Blam, Mnam, Ma nậm (ma nước).

Như vậy nhan có nghĩa là ma nước, ma quỷ dưới nước và là nỗi ám ảnh, nỗi sợ của

những người dân chài địa phương. Trong cuộc sống thường ngày của người dân chài

với việc sinh hoạt không hợp vệ sinh của môi trường sống sông nước thì nhiều người

trong đó nhất là phụ nữ có thể bị bệnh liên quan đến hậu sản, và như vậy thần Nhan đã

được gắn cho là nguyên nhân gây ra nỗi sợ hãi này và đương nhiên họ cần hơn bao

giờ hết một vị thánh bảo đảm, che chở cho vận mệnh sinh mạng của họ. Và lúc này,

chính những người con của dòng họ Trần với gốc gác là dân chài, đã nâng hình ảnh

một vị tướng tài có nhiều chiến công lẫy lừng chống giặc ngoại xâm Nguyên - Mông

lên hàng thánh để đối ứng trấn áp lại tà thần vùng sông nước mà bấy lâu nay là nỗi sợ

hãi của người dân chài lưới.

Ngày nay nhiều nơi thuộc các địa phương trong cả nước có các công trình tâm

linh tín ngưỡng như miếu, đền, am, đình, chùa,… thờ tự Đức Thánh Trần. Theo số liệu

tham khảo ở Nam Định và Hà Nam - vùng đất phát tích của nhà Trần có trên 200 di

tích; Thái Bình có gần 40 di tích; Hải Dương và Hưng Yên có gần 80 di tích, Hà Nội có

trên 50 di tích,… Ngoài ra còn có các địa phương như Hải Phòng, QN, Ninh Bình cũng

có nhiều di tích thờ ông.

Theo khảo sát của chúng tôi ở QN ngày nay có khoảng 25 đình, đền, chùa của

các làng gần cửa sông, cửa biển thờ Đức Thánh Trần. Việc thờ tự Đức Thánh Trần

Page 106: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

103

ngoài những truyền thuyết chung thì tại các công trình thờ tự ông đều có những truyền

thuyết riêng mang tính địa phương, có nội dung gắn với việc lúc sinh thời ông đã hoạt

động trên địa bàn QN cùng quân sĩ nhà Trần chống quân Nguyên - Mông. Dĩ nhiên

đây là những chi tiết địa phương hóa về Đức Thánh, và hình ảnh của ông ở đây chính

là sự nhân hóa các vị thủy thần vùng biển QN đã được nhân dân thờ tự ở hầu hết các

điểm trọng yếu ven biển.

Làng Trung Bản, Quỳnh Biểu, Lưu Khê, Vị Khê, Yên Hưng (Yên Giang) và

làng Điền Công đều thờ Thành hoàng làng là Trần Hưng Đạo. Tên chính của ông là

Trần Quốc Tuấn. Theo Ngọc phả đình Đền Công xã Điền Công, ông sinh ngày mồng

10 tháng 12 năm Mậu Tý (1228), nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh

Nam Định. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Hưng Long thứ tám, Canh Tý (1300) tại

phủ đệ riêng ở Vạn Kiếp, được vua phong tặng Thái sư Thượng phụ Thượng quốc

công Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương. Với công lao to lớn của Hưng Đạo Đại vương ba

lần giúp triều đình đánh bại quân xâm lược Mông - Nguyên, đặc biệt trận đại thắng

Bạch Đằng năm 1228, nên ngay từ lúc sinh thời Hưng Đạo đã được vua Trần cho lập

sinh từ (từ khi còn sống) ở phủ đệ. Vua Trần Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh

từ, ví ông với Thượng Phụ (tức Lã Vọng giúp Chu Vũ Vương giành được thiên hạn,

Vũ Vương tôn làm thầy gọi là Thượng Phụ).

Nhiều nơi thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo lấy ngày sinh làm ngày lễ Thánh đản,

lấy ngày chết làm ngày đại lễ Thánh hóa. Đặc biệt ở Yên Hưng còn lấy ngày mùng 8

tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày giỗ trận. Ở Yên Giang, Trung Bản, Đồng Cốc còn

tổ chức lễ hội Bạch Đằng để tế lễ Đức thánh Trần Hưng Đạo. Nhân dân tôn Ngài là

Thánh - Thần - Phật.

Làng Yên Giang thờ thần Trần Hưng Đạo làm thần Thành hoàng làng, ngoài ra

còn phối thờ thần Linh Thông, thần Long Hựu, thần Đôn Ngưng và lập miếu thờ Vua

Bà trên bến đò Rừng ngày xưa.

Làng Trung Bản thờ Trần Hưng Đạo làm thần Thành hoàng làng, ngoài ra còn

phối thờ thần Phò Mã.

Làng Vị Khê, Quỳnh Biểu thờ Trần Hưng Đạo làm thần Thành hoàng làng,

ngoài ra còn phối thờ thần Phạm Tử Nghi.

Page 107: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

104

Chúng ta đều biết rằng trong hệ thống đạo Mẫu Tam/Tứ Phủ, dòng vua cha là

dòng được coi là thuộc hệ thống thủy thần. Đức Thánh Trần ở đây càng được coi là

dòng thủy thần vì theo quan niệm dân gian xuất xứ gia tộc dòng họ Trần nói chung và

của Trần Hưng Đạo nói riêng chống giặc Nguyên - Mông hầu hết đều là những cuộc

thủy chiến, cho nên Trần Hưng Đạo là hình ảnh của sự nhân hóa các nhân thần là thủy

thần trong nhân gian.

Trong lễ hội Bạch Đằng có nhiều truyền thuyết liên quan đến vị tướng tài Trần

Hưng Đạo và những người đã giúp ông lập nên chiến công trên sông Bạch Đằng như

truyền thuyết về vua Bà, Tứ Đại Tướng Quân, Phạm Ngũ Lão. Những người giúp ông

sau này đều được lập miếu thờ.

+ Hai anh em Trần Quốc Nghiễn và Trần Quốc Tảng

Trần Quốc Nghiễn

Đức ông Trần Quốc Nghiễn là con trai cả của Hưng Đạo Đại Vương Trần

Quốc Tuấn, cháu đích tôn của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu ruột của vua Trần Thái

Tông. Ông là người đã có công đánh đuổi giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta

lần thứ hai. Năm 1287, quân Nguyên Mông lại sang xâm lược nước ta lần thứ ba, Trần

Quốc Nghiễn chỉ huy một cánh quân cùng với danh tướng Nguyễn Khoái làm nên kì

tích đại thắng trận Bạch Đằng. Căn cứ vào nội dung các văn bia của đền thờ Đức Ông

Trần Quốc Nghiễn thì tiền thân ngôi đền là một miếu nhỏ nhưng các chủ thuyền thấy

ngôi miếu linh thiêng nên đã góp tiền của, công sức xây dựng to đẹp hơn vào tháng 10

năm Quý Sửu (1913).

Trong đền thờ hiện nay vẫn còn một giếng nước cổ xưa, mặc dù nằm sát ngay

cạnh biển nhưng nước giếng rất trong và ngọt. Cũng theo truyền thuyết xưa kia, ngôi

đền này từng là nơi dừng chân của những người đi biển. Họ vào đây để lấy nước ngọt,

nhờ đó mà cuộc sống mưu sinh trên biển của họ được đảm bảo. Bởi vậy, ngôi đền

không chỉ có ý nghĩa tâm linh, mà còn có ý nghĩa quan trọng với những người đi biển,

giúp họ chuẩn bị tốt hơn cho những chuyến đi biển đầy khó khăn, sóng gió…. Chính

vì vậy, Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn cũng đã trở thành vị thần biển của ngư dân

làng chài Cửa Vạn, Giang Võng, Trúc Võng. Hàng năm, vào dịp lễ hội ngư dân ở các

làng chài đến làm lễ cầu xin Đức Ông phù hộ cho được mùa tôm cá. Đền thờ ông nằm

Page 108: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

105

sát ven biển nhìn ra phía cửa sông Lục Đầu Giang nên dân gian còn gọi ông bằng cái

tên thân mật, gần gũi hơn là Đức Ông Lục Đầu Giang. Còn tên đền thờ hiện nay là

Đông Hải Đại Vương Trần Quốc Nghiễn.

Lễ hội đền Đức ông Trần Quốc Nghiễn được tổ chức vào dịp 29 và 30 tháng 4 âl

hàng năm. Nếu đến đây vào đúng dịp lễ hội, buổi tối du khách còn có cơ hội được tham

gia vào một hoạt động hết sức ý nghĩa, đó là nghi lễ thả hoa đăng trên biển cầu mong

một năm mưa thuận gió hoà cho những người đi biển và những người sống ven biển.

Lễ hội đền Đức Ông Trần Quốc Nghiễn đã trở thành nét văn hoá truyền thống

của nhân dân TP.Hạ Long. Với mục đích bảo tồn truyền thống lịch sử và phát huy giá

trị văn hoá trong cụm di tích núi Bài thơ, lễ hội đồng thời giáo dục cho thế hệ trẻ nâng

cao lòng tự hào về quê hương và lịch sử vẻ vang của dân tộc. Vào thời điểm diễn ra lễ

hội, đền Đức ông Trần Quốc Nghiễn đã thu hút hàng vạn tăng ni, phật tử, người dân

và du khách đến tham quan.

Trần Quốc Tảng

Lễ hội đền Cửa Ông cũng gắn với sự kiện lịch sử Trần Quốc Tảng đánh thắng

quân Nguyên Mông lần thứ 2 và ông được vua nhà Trần cử ra trấn giữ Cửa Suốt.

Ngày xưa, đền Cửa Ông chỉ là một am (am cỏ), dựng dưới gốc cây cổ thụ, bên

bờ Cửa Suốt. Trong Bài ca nhập trình của người đi biển vùng Đông Bắc có câu:

Miếu Đức Ông là nơi Cửa Suốt

Khách vãng lai thường mộ cúng dâng.

Đức Ông được nói đến trên đây là Hoàng Cần - người con của vùng Đông Bắc

đã có công đánh giặc ngoại xâm. Miếu thờ Hoàng Cần đặt tại địa phận thị xã Cẩm Phả

gọi là Miếu Đức Ông. Các triều vua phong tặng cho Đức Ông tước hiệu Khâm Sai

Thái Bạch Xuyên Quốc Công Thần. Nhân dân trong châu và thuyền Bắc Nam qua lại,

cũng như quan quân chinh phạt đi qua cầu đảo đều linh ứng.

Sách Đại Nam nhất thống chí còn chép lại việc Hoàng Cần như sau:

Ngày xưa có giặc răng trắng, miệng vàng thường cướp bóc nhân dân

vùng ven biển Đông Bắc. Hoàng Cần là người Hải Lạng (Tiên Yên) tự

mình chiêu mộ trai tráng trong vùng, lập thành đội quân đánh đuổi giặc.

Với chiếc cọc tre trong tay, Hoàng Cần “tả xung hữu đột” đã đánh tan

Page 109: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

106

được quân giặc và đuổi bọn tàn quân chạy thục mạng lên biên giới phía

Bắc. Đuổi giặc đến xã Vô Ngại (nay thuộc huyện Bình Liêu - Quảng

Ninh), Hoàng Cần cắm ngược cọc tre xuống đất làm mốc giới. Từ đó trở

đi, tre nơi đây đều mọc ngược. Sau khi Hoàng Cần chết, vua ban sắc

phong cho Hoàng Cần làm Khâm Sai Đông Đạo Tiết Chế, người địa

phương lập Miếu thờ ông [46, tr.123].

Vị trí Miếu thờ Hoàng Cần xưa được đặt ở Cửa Suốt cách châu Tiên Yên 48

dặm về phía Tây Nam.

Ở những vị trí chiến lược của đất nước, nhất là vùng biên cương như Cửa Suốt,

các triều đại phong kiến Việt Nam thường giao việc trấn ải cho những tướng tài ba.

Vào giữa thời Trần, việc trấn ải được giao cho Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng

- con trai thứ ba của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Năm

Trùng Hưng thứ nhất (1285), quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, được tin quân đội

nhà Trần không chống cự nổi phải rút về Vạn Kiếp, Trần Quốc Tảng vội đưa quân từ

trang ấp của mình ở An Sinh (Đông Triều) cùng quân của các lộ ở Hà Đông, Vân Trà,

Bà Điểm xin làm lực lượng tiên phong để đánh giặc. Cuộc kháng chiến chống quân

Nguyên Mông lần thứ hai thắng lợi, Trần Quốc Tảng là một trong những dũng tướng

được vua Trần ban khen, cấp đất, lập trang ấp ở Tĩnh Bang (QN). Sau đó, Trần Quốc

Tảng hai lần được vua Trần cử ra trấn giữ Cửa Suốt và ông đã mất tại đây.

Đến lúc này, vai trò của Trần Quốc Tảng ngày càng nổi bật, được nhân dân

trong vùng ngưỡng mộ, đưa ông làm vị chủ thần và thờ trong đền Cửa Ông. Do công

lao to lớn với đất nước, với triều Trần nên Trần Quốc Tảng đã được vua Trần Anh

Tông truy tặng chức Thái úy, phong là Hưng Nhượng Đại Vương. Và trong nhiều

năm dưới thời Trần Anh Tông, Quốc Tảng được nhà vua trọng dụng theo truyền thống

vua Trần vẫn trọng dụng nhạc phụ.

Đền thờ Cửa Ông thờ vị tướng tài Trần Quốc Tảng, song trong quan niệm dân

gian các vị tướng quân vốn xa cách với dân chúng. Vì vậy, để Đức Ông gần gũi hơn,

linh thiêng hơn với mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với những cư dân vùng biển

Đông Bắc của tổ quốc, dân gian đã tạo nên những lớp văn hóa và đồng hóa ông trở

Page 110: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

107

thành vị thần của biển Đông bảo trợ cho những người làm ăn, buôn bán trên biển, cho

ngư dân, cho nhân dân cả vùng duyên hải Bắc Bộ.

Lớp văn hóa dân gian đầu tiên là câu chuyện về những ngày cuối đời của Trần

Quốc Tảng vẫn được lưu truyền sự việc như sau: Ông ra Cửa Suốt được ba ngày, tự

nhiên trời mưa to gió lớn, sấm sét nổ ầm ầm. Ông thấy một phiến đá to, bèn ngồi lên,

ngay lúc đó, sóng nổi cuồn cuộn, nước dâng lên cao, phiến đá tự nổi trên mặt nước,

Hưng Nhượng Đại Vương hóa thân vào đó, đó là ngày 16 tháng 8 năm 1313. Một lúc

sau mưa gió tĩnh lặng, dân chúng kéo đến xem thì thấy trên phiến đá có một cái mũ

đá, mũ đá trôi đi. Ngày mồng 1 tháng 9 năm ấy, mũ đá trôi đến địa giới Hàm Giang,

rồi đến bờ sông xã Trắc Châu, già trẻ gái trai trong xã hôm đó mơ thấy một người cân

đai, mũ áo chỉnh tề, đứng ở đình làng bảo rằng: “Ta là gia tướng nhà Trần, nay số đã

hết, lại trở về nơi đóng đồn cũ giữ yên dân nước”. Hôm sau, dân chúng ra đình xem

thấy một phiến đá, lại thấy một mũ đá trên bờ sông, đo phiến đá được 5 thước, 4 tấc,

ngang 2 thước, 3 tấc, có 5 màu huyền ảo như mây. Dân làm lễ, đưa mũ đá về lập

miếu, làm biểu tâu vua. Vua thấy Trần Quốc Tảng là người có công, lại linh ứng nên

truyền cho lập miếu thờ và phong cho làm Thượng Đẳng Phúc Thần, cho 800 quan

tiền cống hàng năm hai mùa cúng tế vào bậc nhà nước.

Như vậy, giấc mơ của người dân xã Trắc Châu cũng chính là mong ước của họ

về vị tướng quân linh thiêng. Lúc còn sống, ông là một dũng tướng, có công với nước

với dân; cho đến lúc qua đời, hồn của ông cũng nhập vào cây cỏ, núi non, trời biển nơi

đây cũng chỉ với một ước muốn là để “giữ yên dân nước”, để phù hộ cho muôn dân

vùng biển xa khơi.

Như vậy, vị trí đền thờ Trần Quốc Tảng và thờ Hoàng Cần là một. Ngày nay,

đền Đức Ông được xây dựng mặt hướng ra biển. Dù là ai khi ra khơi nhìn về phía đền

trong lòng cảm thấy yên tâm vì đã có Đức Ông dõi theo để che chở, phù hộ. Lúc này,

đối với người dân, Trần Quốc Tảng và Hoàng Cần cùng được gọi chung một cái tên

mộc mạc mà thành kính là Đức Ông.

Hiện nay, trong đền chính tại khu đền Thượng, cạnh pho tượng lớn có tượng

một quan võ mặc hồng bào, vạt áo trước đính hổ phù, có đôi câu đối ca ngợi chiến

công của vị anh hùng được thờ tại đình:

Page 111: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

108

Bạch Đằng hộ chiến công, lương tướng uy danh kinh Bắc địa

Hải Đông lưu linh tích, anh hùng tâm sự đối Nam thiên.

Tạm dịch là:

Giúp chiến thắng Bạch Đằng tướng giỏi uy danh lừng đất Bắc

Để dấu thiêng Đông Hải, anh hùng tâm sự giải trời Nam

Như vậy, với những chiến công lịch sử gắn với cửa biển là Cửa Suốt và quá

trình thiêng hóa trong dân gian, Đức Ông Trần Quốc Tảng đã trở thành vị thần biển có

chức năng giữ cho vùng biển phía Đông của đất nước được yên bình, đồng thời phù

hộ cho cư dân vùng biển có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

- Cô Bé Cửa Suốt (lễ hội đền Cặp Tiên)

Cô Bé Cửa Suốt là cháu gái của Hưng Đạo Vương, cùng với Đức Ông Đệ Tam

trấn ải, quyền cô thống lĩnh ba quân, thủy binh trấn giữ ở ngoài Cửa Suốt vậy nên được

gọi là Cô Bé Cửa Suốt (“Cô Bé” ở đây do thứ bậc của cô trong Hội Đồng Trần Triều,

chứ cô không giống với các Cô Bé trong hàng Tiên Cô của Tứ Phủ). Còn có sử ghi lại

cô vốn là Tĩnh Huệ công chúa, con gái của Đức Ông Phạm Ngũ Lão và Đệ Nhị Vương

Cô Đại Hoàng công chúa, nên còn gọi là Phạm Điện Súy Công nữ tử, sau này lại lấy

vua Trần Anh Tông vậy nên có danh hiệu là Anh Tông Hoàng Đế thứ phi.

Giá Cô Bé Cửa Suốt cũng thường hay được hầu, khi ngự về đồng cô cũng mặc

trang phục giống với Nhị Vị Vương Cô nhưng là màu trắng (cũng là do sự ảnh hưởng

của Tứ Phủ), thông thường cô hay cầm mái chèo và lá cờ lệnh, chèo thuyền ra trấn giữ

Cửa Suốt, nhưng khi đánh trận, về ngự đồng cô cũng múa kiếm và cờ lệnh.

Cô Bé Cửa Suốt được thờ trong đền Cửa Ông cùng với Đức Ông Đệ Tam,

nhưng cô cũng có ngôi đền nhỏ riêng ở gần đền Cửa Ông và được gọi tên là: đền Cô

Bé Cửa Suốt hay đền Cặp Tiên. Lễ hội đền Cặp Tiên được tổ chức vào ngày mùng 2

tháng 3 âl hằng năm. Vì sự linh thiêng của ngôi đền, cũng giống như Đức Ông Cửa

Suốt và Đức Ông Lục Đầu Giang, Cô Bé Cửa Suốt cũng được nhân dân vùng biển

Cửa Ông tôn làm vị thần của cửa biển nơi đây.

- Bà Đức Chúa hải ngoại (lễ hội đền Bà Men)

Lễ hội đền Bà Men được tổ chức vào các ngày 18, 19, 20 tháng Giêng hàng

năm trên dãy đảo Đầu Bê, là nơi ranh giới giữa khu vực vịnh Hạ Long và đảo Cát Bà

Page 112: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

109

(Hải Phòng). Lễ hội nhằm tưởng nhớ tới Bà Đức Chúa hải ngoại hay dân gian thường

gọi là Bà Men.

Hiện có nhiều truyền thuyết khác nhau về đền Bà Men, nhưng những người dân

chài tin vào truyền thuyết sau:

Ngày xưa, có 3 chị em theo Trần Hưng Đạo đánh quân Nguyên Mông.

Họ có nhiệm vụ tiếp tế lương thực cho quân lính. Một hôm, cả ba chị

em đi trên con thuyền to, chứa hàng chục tấn lương từ bể Cát Bà thì

không may gặp phong ba, thuyền bị đắm. Xác 2 người trôi dạt vào Làng

Da (bến Gia Luận, Cát Bà ngày nay), một người trôi vào khu vực Vạ

Giá [6, tr.80].

Vì vậy, lễ hội đền Bà Men bao giờ cũng có sự tham gia của ngư dân các làng

chài Cao Minh, Cát Bà ở Hải Phòng. Theo lệ mọi năm, tham gia cuộc thi bơi thuyền

gồm có 4 đội trải gồm: Cống Đầm - Vung Viêng, Cửa Vạn, Hà Nam (hồ Ba Hầm) và

Cao Minh (Cát Bà).

Lại có truyền thuyết khác cho rằng: “Xưa có người đàn bà tên tục là Men đi biển

không may chết đuối. Xác bà trôi về đây. Ngư dân thương cảm mới vớt đem mai táng và

lập ngôi đền nhỏ để thờ. Từ đó, hễ ai có việc cần kêu cầu lên đền thảy đều linh ứng, mọi

việc thuận lợi. Tàu bè qua lại nơi đây đều lên đền thắp hương, họ gọi đây là Cửa Bà”.

Hay những ngư dân xã Hùng Thắng (TP Hạ Long) lại tin rằng Bà Men là một

trong 5 công chúa con vua Thủy Tề. Khi có giặc ngoại xâm trên biển, các công chúa

đã chiến đấu dũng cảm và giành thắng lợi. Chiến tranh kết thúc, mỗi người lại về cai

quản một vùng biển, dạy dân đánh cá, quăng chài…có cuộc sống ấm no. Khi các bà

chết ngư dân đều lập đền thờ. Lớp văn hóa này giống với sự tích bà chúa Thoải của tín

ngưỡng thờ Mẫu. Những con số 3, 5 cũng nói lên quan niệm trong dân gian về sự sinh

tồn, sinh sôi nảy nở trong quan niệm âm dương ngũ hành.

Người dân thường gọi là Bà Men hay còn gọi với tên gọi thân thuộc khác là bà

Đức Chúa hải ngoại (tức bà Đức Chúa ngoài biển khơi). Vì sự linh ứng của Bà mà những

ngư dân ở vùng biển QN và Hải Phòng luôn đến đền cầu mong được bà phù hộ. Thay cho

các hình nộm voi, ngựa, xe như người ở trên bờ, người ta dâng lễ vật vào đền là hình nộm

con tàu, thuyền, với mong ước một năm đi biển gặp mọi sự thuận hoà, bình yên.

Page 113: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

110

Truyền thuyết về Bà Chúa hải ngoại (Bà Men) là một minh chứng cho tín

ngưỡng thờ thần biển với sự sùng bái sức mạnh siêu nhiên mà thiên nhiên mang lại

đối với con người. Hàng ngày, người dân làng chài Giang Võng, Trúc Võng… đã phải

lênh đênh trên những con thuyền mong manh để vượt muôn trùng sóng to, gió lớn đi

kiếm nguồn hải sản. Khi ở giữa biển khơi, ranh giới giữa cái sống và cái chết quá nhỏ

bé. Họ ước vọng về một sức mạnh siêu nhiên có thể đảm bảo an toàn cho họ trong

những chuyến đi biển và đánh bắt được nhiều tôm cá. Bà Men là đại diện cho hình

ảnh sức mạnh của siêu nhiên mà họ hướng đến.

- Vua Bà ở Yên Hưng: Theo tác giả Lê Đồng Sơn ghi trong cuốn Văn hóa Yên

Hưng, lịch sử hình thành và phát triển, đại ý như sau:

Xưa kia, có một hàng cơm bên dòng sông Bạch Đằng mà chủ quán là một

cô gái rất xinh đẹp, tính hạnh đoan trang lại thông minh khác thường. Vì

thế, trong vùng ai nấy cũng đều coi trọng và gọi là bà Quán. Khi quân

Mông Nguyên sang xâm lược nước ta, bà được Hưng Đạo Vương tin cậy

giao cho theo dõi các đạo thuyền binh và mọi động tĩnh của quân Nguyên

trên tuyến sông. Một hôm có một người khách lạ rẽ vào quán, bà dò la tin

tức và biết được đó là tướng Phạm Nhan. Nhờ tiệc rượu bà đã nắm được

toàn bộ thông tin của Phạm Nhan và cả vị nguyên soái đi cùng là Ô Mã

Nhi. Tin tức nhanh chóng được báo về cho Hưng Đạo Đại Vương. Không

bao lâu thì xảy ra trận Bạch Đằng và giành thắng lợi to lớn, quân ta bắt

sống nguyên soái Ô Mã Nhi và Phạm Nhan. Sau khi trừ được giặc, quay

lại khúc sông xưa thì bà Quán đã qua đời, Trần Hưng Đạo cho lập miếu

thờ Bà ngay trên nền quán hàng cơm cũ, xin vua Trần phong tặng bà là

“Thiên Hương Ngọc Trinh Công chúa” [51, tr.217-218].

Từ đó về sau, nhân dân trong vùng thường gọi là vua Bà.

Lại có truyền thuyết khác kể rằng: Bà là chủ quán hàng nước, do bán nước cho

khách qua sông Bạch Đằng lâu ngày nên bà nắm rất chắc lịch con nước triều, địa thế

lòng sông. Tháng Hai năm Mậu Tý Hưng Đạo Đại Vương đi thị sát địa hình sông

Bạch Đằng để tìm nơi cắm cọc gỗ, bày binh bố trận để tiêu diệt đoàn thuyền chiến của

Ô Mã Nhi. Ông dừng lại ở bến Đò Rừng và hỏi bà hàng nước. Bà cung cấp tỷ mỉ cho

Page 114: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

111

Trần Hưng Đạo lịch con nước triều và địa thế lòng sông. Bà còn bảo trại An Hưng có

nhiều cỏ cây dễ cháy hãy làm bè mảng mà thiêu đốt thuyền giặc. Nghe lời bà, Trần

Hưng Đạo đã lập trận địa cọc Bạch Đằng và làm bè mảng đốt thuyền giặc. Chỉ trong 1

ngày mùng 8 tháng 3 năm Mậu Tý hơn 600 chiến thuyền và hơn 4 vạn quân xâm lược

Nguyên Mông bị tiêu diệt và bắt sống toàn bộ.

Sau chiến thắng Trần Hưng Đạo quay lại tìm bà hàng nước nhưng không thấy

bà đâu, bèn cho lập miếu thờ và gọi là miếu Vua Bà. Hàng năm miếu Vua Bà lấy ngày

mùng 8.3 âl (là ngày giỗ trận vừa là ngày giỗ Mẫu) để tổ chức lễ hội. Vua Bà là người

nắm được lịch thủy triều, nên đối với người dân Yên Hưng Bà cũng đồng thời là vị

thần của ngư dân. Mỗi khi ra khơi họ đến cầu xin Bà phù hộ độ trì sóng yên biển lặng,

đánh bắt được nhiều tôm cá.

Ở QN những chiến công của Hưng Đạo Đại Vương và những người cộng sự của

ông được in dấu hầu hết khắp các vùng biển. Nghệ thuật thủy chiến của Trần Hưng Đạo

đã chứng minh tài năng và đức độ của ông, vì vậy khắp nơi khi tổ chức lễ hội đều quy

mô và náo nhiệt. Đó là các lễ hội: đình Trung Bản, đình Trung Cốc, đình phố Yên

Hưng, đền thờ Trần Hưng Đạo, đình Đền Công, đình Yên Giang, lễ hội Bạch Đằng.

Bên cạnh đó, các cộng sự của ông cũng được tôn vinh trong lễ hội như: Đức

Ông Lục Đầu Giang (Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn), tướng Trần Khánh Dư (lễ

hội Vân Đồn), Trần Quốc Tảng và Hoàng Cần (lễ hội đền Cửa Ông)... Và trải qua quá

trình đồng hóa họ đã trở thành những vị thần của ngư dân.

3.2.2. Yếu tố biển thể hiện qua nghi lễ

3.2.2.1. Lễ hóa mã và giã hội

Hầu hết lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN đều có lễ hóa mã và giã hội.

Điểm khác biệt với các nơi khác là trong lễ hóa mã và giã hội bao giờ cũng chuẩn bị

một chiếc thuyền giấy to.

Lễ hội Vân Đồn, lễ hội đền Cửa Ông, lễ hội Trà Cổ, lễ hội đình Giang Võng…

khi kết thúc hội, ông chủ tế, đoàn rước mã long trọng tổ chức lễ. Vào buổi chiều giã

đám, ông chủ tế ra hiệu lệnh, đội nhạc nổi lên 3 hồi trống, chiêng. Đội tế tiến vào hậu

cung rước mã. Mã là chiếc thuyền lớn được làm bằng giấy màu (do 4 thanh niên mặc áo

nâu đỏ khiêng). Đoàn rước mã chỉ gồm một số người trong ban tổ chức, đội tế và dân

Page 115: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

112

làng. Thuyền mã được rước ra lạch nước phía cầu tạm thả xuống và đốt. Thuyền mã từ

từ trôi, bốc cháy và lụi dần. Ngoài bến nước, thuyền bè của bà con ngư dân cũng dần

dần ra khơi cầu mong một mùa đánh bắt thắng lợi [PL.9.2, A.22, tr.245].

Sau lễ hóa mã là lễ giã hội hay còn gọi là lễ xa giá hoàn cung. Nhưng lễ hội

thật sự kết thúc là lễ hạ cờ hội [PL.9.2, A.23, tr.245]. Hiện nay một số lễ hội vẫn còn

tổ chức lễ xa giá hoàn cung như lễ hội Vân Đồn, nhưng nhiều lễ hội chỉ có lễ hóa mã

[PL.9.2, A.23, tr.245].

3.2.2.2. Lễ tế thủy thần

Lễ tế thủy thần được tiến hành hết sức linh thiêng trong lễ hội đình Giang

Võng được tổ chức vào sáng sớm ngày 10 tháng 11 âl. Vì là lễ trọng nên theo các cụ

trong làng phải được làm vào thời khắc linh của trời và đất. Các lễ vật cũng được ngư

dân chuẩn bị chu đáo như: cháo trắng, trứng, thịt, vàng hương, chuối, gà… Đặc biệt

phải có 2 chiếc thuyền được làm bằng bẹ chuối. Thuyền không mui, trên cắm 6 lá cờ

đuôi nheo bằng giấy xanh, đỏ trừ màu đen. Lòng thuyền trải một tờ giấy đỏ, đặt một

đĩa gạo, cắm 3 nén hương. Sau khi chuẩn bị đầy đủ lễ vật, chủ tế bắt đầu làm lễ. Lời

khấn xin phù hộ độ trì cuộc sống bình yên trên sông nước, làm ăn may mắn, chủ tế ra

phía lái thả thuyền xuống biển và đốt vàng mã coi như một chút lòng thành dâng tới

thủy thần. Sau khi thầy tế cúng xong, cháo, vàng hương đã đốt được đổ xuống biển.

Khi gặp các sự cố, tai nạn như đắm thuyền, ốm đau, chết người, cả những rủi ro như

đánh không được cá, vỡ đăng, kẹt lưới,… người dân chài cũng cầu khấn thủy thần

một cách thành tâm, mong tai qua nạn khỏi.

Với ngư dân vùng đảo, ven biển, trên biển trước hết là với những người dân

phải ra khơi vào lộng trong đó có các vạn chài, người dân đời nối đời lênh đênh trên

thuyền, sóng gió bão tố luôn rình rập. Mặt khác, nghề đánh cá biển thu hoạch cũng

thất thường, đầy tính may rủi, người dân lại càng trông chờ vào thần linh. Do đó, việc

thờ thủy thần ở vùng biển QN rất được coi trọng.

3.2.3. Yếu tố biển thể hiện qua các hoạt động hội

- Hội đua thuyền trong lễ hội đền Bà Men

Để chuẩn bị cho hội đua thuyền, đến trưa ngày 19 tháng Giêng, thuyền bè lớn

nhỏ đã tụ tập đông đúc trước cửa đền. Mọi người háo hức chờ đợi giờ phút cuộc thi

Page 116: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

113

bơi trải giữa các làng chài. Theo lệ từ xưa, cuộc thi có 4 đội trải gồm: Cống Đầm,

Vung Viêng (Cửa Vạn), Hà Nam (hồ Ba Hầm) và Cao Minh (Cát Bà). Mỗi trải gồm

14 tay chèo và 1 người cầm lái. Đường đua dài khoảng 500m, điểm xuất phát từ trước

cửa đền. Các trải đua 2 vòng, trải nào về đích trước sẽ thắng.

Theo quan niệm của ngư dân các làng chài, làng nào giành chiến thắng trong

đua trải thì năm ấy người dân trong làng đi biển gặp nhiều may mắn. Bởi vậy ai cũng

cố gắng để mang chiến thắng về cho làng.

- Hội bơi thuyền trong lễ hội đình Giang Võng

Ngày 10.11 âl là ngày chính hội của đình Giang Võng. Buổi sáng tổ chức lễ

rước nước, buổi chiều tổ chức hội đua thuyền trải. Đây là phần không thể thiếu trong

hội đình Giang Võng. Đua thuyền trải thể hiện khí phách của người dân sông nước,

tuy nhiên trong lễ hội đình Giang Võng đua thuyền lại thể hiện niềm mong ước, khí

phách của những người dân thủy cư.

Tham gia đua trải là giáp Đông (nay là đội bơi của khu 7, khu 8 phường Cao

Xanh) và giáp Tây (đội bơi của thôn 4, x. Lê Lợi, h. Hoành Bồ) tức 2 làng Giang

Võng và Trúc Võng xưa). Tuy nhiên, hội đua có thể mở rộng với đội bơi của các làng

chài Cửa Vạn, Hùng Thắng... là địa vực rộng hơn của làng Giang Võng xưa kia.

Thuyền đua đều được cất giữ vào bảo quản tại đình, được coi là vật linh thiêng, tài

sản chung của cả làng, được trang trí màu sắc rực rỡ, chạm trổ công phu. Đến ngày đua,

thuyền được mang ra trang trí cẩn thận lại. Trước khi bước vào cuộc đua, các tay chèo

phải làm lễ trong đình, được sự cho phép của thần linh mới được xuống bến đua thuyền.

Đúng giờ đẹp đã chọn, ban tổ chức phát lệnh đua thuyền. Các đội thi nhau vớt

nước, tay chèo thật nhanh để cán đích. Các tay chèo phải biết lợi dụng sức gió, sức

nước để lựa dòng, giữ sức và nhanh chóng lựa đường để vượt lên. Trên bờ, người

xem hội và người dân reo hò, cổ vũ hết sức nhiệt tình. Sau khi đua 3 vòng, đội nào

về đích trước là thắng cuộc. Thuyền thắng cuộc tưng bừng, phấn khởi vì ngoài phần

thưởng về vật chất, họ tin rằng trong năm, việc làm ăn sẽ may mắn, mọi sự được

bình an... Thuyền đua cũng tự hào vì đã góp phần cầu Thánh, cầu Tổ phù hộ cho

mưa thuận gió hòa, thuyền bè ra khơi luôn đầy ắp tôm cá... Nhiều nhà nghiên cứu

cho rằng: đua thuyền là lễ hội nước phổ biến của cư dân nông nghiệp ở vùng Đông

Page 117: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

114

Nam Á, mang nhiều ý nghĩa gắn với việc thờ thần nước, tục cầu nước và tín ngưỡng

phồn thực [7]. Hội đua thuyền của ngư dân ven biển QN cũng không nằm ngoài nội

dung trên.

- Trò chơi bịt mắt chém cá chình

Trong lễ hội Trà Cổ có một trò chơi không thể thiếu đó là bịt mắt chém cá chình.

Trò chơi thể hiện mong ước của ngư dân Trà Cổ là đánh bắt được nhiều tôm cá.

Để chuẩn bị cho trò chơi, cần có một cây nêu cao khoảng 5m, 1 con dao làm bằng

giấy hoặc gỗ, 1 sợi dây đầu trên buộc vào cây nêu, đầu dưới treo 1 vòng tròn (tượng trưng

cho trái đất), 2 chiếc khánh vàng biểu thị sự may mắn, và cuối cùng buộc một con cá

được làm bằng giấy, trên mỗi con cá dán một tờ giấy ghi tên phần thưởng.

Con cá buộc cách mặt đất khoảng 1,5m, người chơi bị bịt mắt bằng băng đỏ, đứng

cách con cá khoảng 5m, tay cầm dao đi thẳng về phía trước (phía có con cá). Người chơi

phải ước lượng được khoảng cách, khi đến gần con cá thì dùng dao chém, nếu trúng thì

được nhận giải thưởng, nếu 3 lần chém không trúng thì không được chơi nữa.

Trò chơi bịt mắt chém cá chình của cư dân Trà Cổ khiến chúng ta liên tưởng

đến các trò chơi dân gian quen thuộc, phổ biến của cư dân lúa nước vùng châu thổ

Bắc Bộ như: bịt mắt đập niêu, bắt chạch trong chum… Cá chình là loại cá biển có

hình dáng gần giống con chạch, con lươn ở nội đồng. Vùng biển QN nói chung và Trà

Cổ nói riêng, là nơi lý tưởng cho cá chình phát triển và có năng suất cao. Phải chăng

những cư dân nông nghiệp khi đến vùng biển này đã kế thừa và phát huy trên cở sở

những trò chơi dân gian của vùng đất cũ để sáng tạo ra một trò chơi mới của cư dân

sống ven biển.

Tiểu kết

Trong lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN, yếu tố biển được thể hiện không

chỉ trong đối tượng thờ cúng phong phú, trong lễ nghi, trong hội đua thuyền mà còn

trong các trò chơi, trò diễn xướng dân gian... Chỉ có một vùng biển giàu truyền thống

đấu tranh giữ nước và truyền thống lao động bền bỉ mới làm nên một văn hóa biển

giàu bản sắc đến như vậy.

Với ý nghĩa tôn vinh nghề nghiệp của ngư dân trên biển, hội đua thuyền Bà

Men và hội đua thuyền đình Giang Võng, các trò chơi trong lễ hội còn có ước vọng

Page 118: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

115

mà người xưa trao truyền lại là cầu nước, cầu mưa, cầu mùa, cầu an lành. Vì thế, hội

đua thuyền nghề nghiệp mang đậm tính tâm linh hơn, nên phần lễ nặng hơn, việc tế lễ

trước và sau khi đua thuyền được tiến hành hết sức chặt chẽ. Thông thường, mỗi làng

khi đua đều phải trình một, hai thần (thánh) như hội Bà Men, trình Bà nhưng trong hội

đua thuyền Giang Võng phải trình đa thần gồm: Đức vua Cao Sơn Thượng đẳng thần,

Đức vua Cao Minh, Đức vua Hà Bá Thủy Phủ, Đức thánh Trần Hưng Đạo Đại

Vương, Đức Ông Đông Hải Đại Vương - Đức Ông Cửa Suốt (Hưng Nhượng Vương

Trần Quốc Tảng), Đức Ông Lục Đầu Giang (Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn),

Quan cụ Hà Ráng...

Theo chúng tôi, ngoài lớp văn hóa đầu tiên là cầu nước, cầu mùa, thì hội đua

thuyền ven biển của ngư dân QN còn mang ý nghĩa một trò diễn vì những người đầu

tiên khai phá và xây dựng nên xóm làng của họ. Theo dòng lịch sử, làng Giang Võng,

Trúc Võng xưa kia được lập nên bởi 7 cụ tổ của 7 dòng họ: họ Nguyễn, họ Chu, họ

Đỗ, họ Phạm, họ Dương, họ Vũ, họ Bùi và 2 quan bá là cụ Nguyễn Bá Cắp, cụ Vũ

Văn Tỳ. Do đó, lễ hội ngư nghiệp ở QN còn là dịp ôn lại truyền thống, noi gương ý chí

của cha ông trong buổi đầu gây dựng cơ nghiệp trên vùng biển với nhiều khó khăn,

gian khổ. Với ý nghĩa này, hội đua thuyền ngư nghiệp cũng gần với hội đua thuyền

nông nghiệp (lễ hội xuống đồng Yên Hưng) tưởng nhớ đến những vị Tiên Công đầu

tiên từ Thăng Long xuống lập làng, lập ấp, quai đê lấn biển.

Như vậy, hội đua thuyền của ngư dân vùng biển đảo QN cũng có nhiều nét

chung, và cũng không ít nét riêng so với hội đua thuyền cả nước. Nét chung đặc trưng

nhất là hội đua thuyền nghề nghiệp vẫn nằm trong dòng chảy chung của một lễ hội

nước truyền thống của người Việt, thuần túy của cư dân nông nghiệp, dù họ đang

sống ở đảo hay ở ven biển, thậm chí trên biển.

Page 119: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

116

Chương 4

ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

QN là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc của Việt Nam và được ví như một Việt

Nam thu nhỏ, vì có cả biển, đảo, đồng bằng và núi. Sắc thái vùng văn hóa biển đảo QN là

phong phú và đa dạng cho nên trong các lễ hội truyền thống vùng biển đảo cũng có

những đặc điểm như trên. Chỉ có điều khác biệt là môi trường tự nhiên của biển đảo QN

đã tạo ra những đặc trưng riêng biệt của lễ hội truyền thống vùng biển đảo.

Đặc điểm lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN là nhạt yếu tố biển, đậm

yếu tố nội đồng và đậm tính lịch sử. Nhưng để giải thích những cơ sở cho việc

hình thành các đặc điểm trên, chúng tôi nhìn từ góc độ văn hóa vùng. Đó là hoàn

cảnh tự nhiên; dân cư sinh sống đã có quan hệ về nguồn gốc và lịch sử; sự phát

triển kinh tế, xã hội; giao lưu văn hóa giữa các vùng, giữa các yếu tố văn hóa để

hình thành nên những đặc trưng, những giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống

vùng biển đảo QN.

4.1. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm yếu tố nội đồng và

nhạt yếu tố biển

4.1.1. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm yếu tố nội đồng

Với tính chất địa lý đặc biệt và sự phong phú về thành phần cư dân dẫn đến sự

phong phú về nghề nghiệp. Vì vậy, QN từ lâu đã diễn ra quá trình hội tụ và hỗn dung

văn hóa giữa cư dân nông nghiệp, cư dân ngư nghiệp và cư dân lâm nghiệp. Là đầu

mối giao thông đường biển, từ khá sớm QN đã là nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa sầm

uất của cả nước từ Vân Đồn, Cửa Ông tới Hải Phòng mà dấu ấn là thương cảng Vân

Đồn. Quá trình đô thị hóa hình thành dần, nhất là thời cận đại với các trung tâm công

nghiệp, khai mỏ... đã tạo cho QN sắc thái văn hóa đa dạng, có độ mở lớn để tiếp nhận

những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài.

Văn hóa đồng bằng bản chất là văn hóa của những cư dân nông nghiệp. Khi

nông nghiệp là nguồn sống chính thì mọi ứng xử của con người với môi trường tự

nhiên, môi trường xã hội đều bị chi phối sâu sắc từ ăn, mặc, ở, đi lại, tôn giáo, tín

ngưỡng, phong tục, tập quán và lễ hội.

Page 120: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

117

Truyền thống văn hóa của làng quê luôn ẩn sâu trong tâm thức của những cư

dân nông nghiệp trồng lúa nước. Vì vậy đi đâu, đến với mảnh đất mới khai phá họ

cũng mang theo những giá trị văn hóa tốt đẹp và tái sinh nó trên mảnh đất mới. Đôi

khi miền đất mới không phải là đồng bằng, kể cả phương thức sinh sống cũng không

phải là trồng trọt, cày cấy thì những lớp văn hóa cổ xưa của cha ông vẫn được duy trì,

hòa nhập cùng những lớp văn hóa mới để truyền lại cho muôn đời sau.

Đối với cư dân vùng biển đảo QN cũng vậy, mặc dù họ sống trong môi trường

biển cả nhưng văn hóa đồng bằng vẫn hiện hữu cùng văn hóa biển trong đời sống vật

chất cũng như đời sống tinh thần.

Tục rước nước, cầu mưa của cư dân nông nghiệp vẫn được tái hiện với lớp văn

hóa mới trong các lễ hội ven biển như: lễ hội đình Giang Võng, lễ hội đình Trà Cổ, lễ

hội đình Cẩm Hải, lễ hội đền Bà Men, đền Bụt Đày, lễ cầu Đảo vũ (Yên Hưng)… Câu

thành ngữ quen thuộc của người nông dân “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”

đã minh chứng tầm quan trọng của yếu tố nước trong sản xuất nông nghiệp. Lễ rước

nước hình thành như một hành động thiêng liêng biểu trưng cho lòng mong ước mưa

thuận, gió hòa, được thực hiện hết sức thiêng liêng.

Trong các vị thần được thờ ven biển QN cũng có không ít vị thần là thần nông

nghiệp. Điển hình là vị thần Nông (lễ hội xuống đồng, đền Cốc, Hà Nam). Lễ xuống

đồng là nghi thức trong lễ cầu mùa nghề nông, mở đầu cho một chu kỳ cày cấy mới.

Đây là nghi thức bộc lộ mối quan hệ khăng khít giữa con người với môi trường tự

nhiên, vừa có tính tượng trưng nhưng cũng rất thực tế. Trong lễ hội xuống đồng, nhiều

nơi còn tổ chức lễ tịch điền (lễ cày cấy). Đối với cư dân ngư nghiệp các vị thần biển có

vai trò to lớn trong đời sống của họ, nhưng vốn gốc gác là cư dân nông nghiệp, lại quai

đê lấn biển để làm nông nghiệp, nên thần Nông vẫn có vị trí quan trọng đối với họ.

Ngoài ra một số vị thần khi ở trong đồng bằng là những vị thần nông nghiệp, nhưng khi

ra biển cả đã được ngư dân gán cho những quyền năng của vị thần biển như mẫu Liễu

Hạnh, bà chúa Thoải… cũng được thờ cúng hết sức trang trọng.

Phần hội còn có tục nuôi và thi ông Voi trong lễ hội Trà Cổ thể hiện đậm chất

nông nghiệp, chất đồng bằng. Có thể nói sau con trâu thì con lợn cũng là con vật chủ

đạo trong chăn nuôi của cư dân nông nghiệp. Vì vậy, trong lễ hội lợn được gọi một

Page 121: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

118

cách trang trọng là ông Voi và được tế thần linh. Trước khi mang đi thi và hành lễ ông

Voi còn được nuôi nấng hết sức cẩn thận, ông cai đám cũng phải thực hiện nghiêm

các nghi thức nuôi lợn. Nếu chẳng may ông Voi bị ốm thì ông cai đám phải ra đình

làm lễ báo cáo thần và xin thần phù hộ cho ông Voi mau lành bệnh. Không chỉ đối với

lễ hội đình Trà Cổ có tục thi ông Voi mà khi những cư dân ở Trà Cổ di cư đến vùng

đất mới là Cẩm Phả thì hàng năm tổ chức hội làng ở đình Cẩm Hải họ cũng tổ chức

thi và nuôi ông Voi. Như vậy, những cư dân nông nghiệp dù có đi đâu, về đâu họ vẫn

luôn giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

Sự dung hợp giữa văn hóa biển với văn hóa đồng bằng còn thể hiện qua hình

tượng Long mã trong đám rước của lễ hội Tiên Công trên đảo Hà Nam. Người dân nơi

đây đã dùng các sản vật nông nghiệp như các loại rau, củ, quả để tạo nên một vị thần

của biển cả. Đầu long mã được làm bằng quả dừa, bờm bằng cây móc và dâu dừa sau

đó được trang trí thêm 2 tai, 2 mắt. Thân long mã được làm bằng nhiều nải chuối xếp

lại, trang trí thêm bằng hoa cúc, hoa thược dược màu trắng, màu vàng, cài thêm các loại

quả khác như cam, quýt… Còn đuôi long mã được tết bằng cây móc dài, màu xanh

trông rất đẹp mắt [PL.9.3, A.24, tr.246]. Long mã được đặt trước chữ Thọ và rước trên

kiệu như một lễ vật dâng tiến thần linh với tất cả niềm thành kính.

4.1.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh nhạt yếu tố biển

QN là tỉnh có diện tích biển khá lớn và nhiều đảo (hơn 2000 hòn đảo lớn, nhỏ).

Dân cư sống ven biển và trên các đảo đông đúc nhưng lễ hội truyền thống của cư dân

lại nhạt yếu tố biển.

Trong các lễ hội, yếu tố biển được thể hiện rõ nhất qua việc thờ phụng các vị

thần biển. Nhưng ở QN các vị thần biển chủ yếu là phối thờ chứ không được là thần

chủ như thần Tứ vị Thánh nương, thần Không Lộ, thần Bạch Điểm Tước, thần Long

Mã, thần Phạm Tử Nghi, bà chúa Thoải... Nếu có thì lại là đồng hóa các nhân vật lịch

sử thành các vị thần như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng...

Các di tích để thờ các vị thần biển không có qui mô lớn như ở vùng biển Trung

Bộ và Nam Bộ. Trên đảo Quan Lạn miếu Bà vẫn còn là tranh tre vách đất, ở Yên

Hưng miếu thờ các bà chúa Cua, chúa Ốc… cũng chỉ trong các miếu nhỏ ở trên đê,

ven biển…

Page 122: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

119

Phần nghi lễ của cư dân biển đảo chỉ cho lễ hóa mã là có hình ảnh con thuyền,

lễ giở mũi thuyền của cư dân làng chài Cửa Vạn trên vịnh Hạ Long hay lễ tế thủy

thần. Nhưng lễ vật dâng tế chủ yếu vẫn là sản vật nông nghiệp như cháo, gà, xôi…

không thấy các sản vật của biển khơi như cá, tôm… Hiện nay cư dân làng chài Cửa

Vạn đã di dời lên bờ theo dự án của Ủy ban nhân dân tỉnh QN thì những phong tục

trên cũng khó được duy trì và bảo tồn.

Dọc theo vùng ven biển và trên các đảo chỉ có hội đua thuyền trong lễ hội đền

Bà Men, lễ hội đình Giang Võng… hay các trò chơi như bịt mắt chém cá chình, hội

thi tết long mã mang tính chất nghề nghiệp của ngư dân. Còn hội đua thuyền hoành

tráng như Vân Đồn, Bạch Đằng lại mang tính chất lịch sử.

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã cố gắng đi tìm các yếu tố biển trong các

lễ hội của vùng biển đảo QN nhưng kết quả cho thấy, các yếu tố biển vẫn có nhưng khá

mờ nhạt. Phải chăng còn lại là những mản văn hóa đã vỡ vì vậy rất khó đưa ra những giá

trị văn hóa biển đảo ở QN.

Có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến văn hóa vùng biển đảo QN “nhạt” yếu

tố biển. Một trong những nguyên nhân chính và chung nhất là sự chi phối của tính tiểu

nông trong văn hóa biển của người Việt.

Là một quốc gia nông dân và nông nghiệp, mặc dù hết sức tôn trọng biển,

nhưng văn hóa biển của người Việt về cơ bản vẫn là văn hóa nông nghiệp - ở đây là

văn hóa tiểu nông, tức là nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế nhưng

lại là thứ nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, tự cấp tự túc.

Cấu trúc của một làng biển về cơ bản không khác nhiều với cấu trúc của một

làng nông nghiệp, vẫn là một cộng đồng khép kín,… Tính chất tự cấp, tự túc và khép

kín của làng biển xưa luôn đòi hỏi cư dân tại đây vẫn phải đảm bảo được cuộc sống

hàng ngày của mình mà không cần tới sự can thiệp từ bên ngoài.

Thực tế cho thấy, tư tưởng phong kiến nho giáo “trọng nông ức thương”, “bế quan

tỏa cảng” đã khiến cho tư duy biển và văn hóa biển của người Việt có một bước lùi đáng

kể so với quan niệm về biển bản địa từ xã hội truyền thống. Điều này phần nào đã khiến

cho các cư dân vùng biển hướng về lục địa nhiều hơn là hướng ra biển, chú ý khai thác

thế mạnh của nông thôn nông nghiệp và đất đai ven biển nhiều hơn là khai thác biển.

Page 123: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

120

Vì vậy, trong định hướng phát triển chung, cư dân ven biển Việt Nam thường

không quay mặt ra biển mà hướng về đất liền. Họ không có những đội tàu vượt đại

dương, buôn bán hoặc đánh bắt xa bờ... Biển đã không được quan tâm chú ý đầy đủ để

trở thành một đối tượng cho những khát vọng khám phá và chinh phục. Người Việt

cũng có những cuộc chinh phục biển lớn nhưng lại là để lấn biển, khai hoang lấy đất

làm nông nghiệp. Do vậy văn hóa biển mang sắc thái biển chỉ là một phần, còn nền

tảng cơ bản của nó vẫn lại là văn hóa nông nghiệp.

Hòa chung với những sắc thái của truyền thống Việt, văn hóa của cư dân ven

biển cũng mang đầy đủ những nét văn hóa của cộng đồng, chẳng hạn như tính chất tự

cấp tự túc trong sản xuất, phương thức tổ chức các hoạt động lao động sản xuất và sinh

hoạt văn hóa theo kiểu làng xã, tính độc lập và tự quản cao trong hoạt động xã hội.

Theo GS. Trần Ngọc Thêm, một dân tộc có thể được coi là có văn hóa biển khi

và chỉ khi văn hóa biển là một thành tố hữu cơ không thể thiếu của văn hóa dân tộc.

Điều đó sẽ đạt được khi hội tụ đủ bốn điều kiện sau:

+ Về không gian, khu vực sinh tồn nhờ biển đủ lớn để cộng đồng biết đến

và thừa nhận.

+ Về chủ thể, cư dân sống bằng biển cả đủ đông để trở nên một trong những

lực lượng quan trọng không thể xem thường của cộng đồng.

+ Về hoạt động, đóng góp kinh tế - xã hội của nghề biển đủ nhiều để trở

thành nguồn sống chính của cộng đồng.

+ Về thời gian tồn tại của chủ thể ấy trong không gian ấy với những đóng

góp ấy đủ dài để trở thành truyền thống và đi vào tâm thức chung của cộng

đồng [66, tr.4].

Như vậy, không phải cứ sống ở cạnh biển thì đương nhiên sẽ có văn hóa biển.

Giá trị văn hóa là kết quả của sự lựa chọn xuất phát từ nhu cầu của con người và

những khả năng mà môi trường có thể cung cấp; nếu có nhiều lựa chọn, con người sẽ

lựa chọn cái hợp lý nhất, tiết kiệm nhất đối với mình.

Theo bốn điều kiện nêu trên để một dân tộc có thể được coi là có văn hóa biển

thì trong lịch sử, Việt Nam đã từng có một giai đoạn (thời Đông Sơn và sau đó, rất có

thể là đến hết thời chống Bắc thuộc) có văn hóa biển, thậm chí là một quốc gia (dân

Page 124: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

121

tộc) biển ở quy mô khu vực. Từ thế kỷ X trở lại đây thì Việt Nam chỉ có văn hóa sông

nước và những yếu tố của văn hóa biển. Trên lãnh thổ Việt Nam, có thể coi khu vực từ

Đà Nẵng đến Bà Rịa - Vũng Tàu là có văn hóa biển đậm nhất, còn chủ yếu là văn hóa

biển cận duyên. Tính “cận duyên” thể hiện ở chỗ: tuy sống cạnh biển và nhờ biển rất

nhiều, nhưng người dân miền Trung cũng không thoát khỏi tâm lý “sợ biển” chung của

cả dân tộc; hệ thống các thương cảng của Việt Nam (như Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An,

Đà Nẵng, Quy Nhơn, Sài Gòn, Óc Eo...) nổi tiếng chủ yếu là nơi đón nhận, là điểm dừng

chân của các thương thuyền quốc tế hơn là nơi xuất phát của những hải đoàn Việt Nam ra

nước ngoài.

Quy chiếu theo bốn điều kiện trên thì vùng biển đảo QN với hàng ngàn đảo đá

lớn và nhỏ không đủ không gian rộng lớn để được thừa nhận; ngư dân không sống đủ

đông để hình thành các làng chài; nghề đánh bắt thủy hải sản không phải là nghề chính

của cư dân và lịch sử tồn tại, nghề nghiệp truyền thống chưa đủ để đi vào tâm thức của

ngư dân. Điều này cũng lý giải tại sao trong các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN

yếu tố biển không thể “đậm” như yếu tố nội đồng.

4.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm tính lịch sử

Hầu như ở châu thổ Bắc Bộ những lễ hội gắn với nhân vật lịch sử, sự kiện lịch

sử, di tích lịch sử mới vững chắc và có sự lan tỏa ra khỏi phạm vi một làng, một vùng,

và có thể thành lễ hội quốc gia. Tiêu biểu cho loại lễ hội này là các lễ hội: lễ hội Đền

Hùng, hội Gióng, hội Kiếp Bạc... Vùng văn hóa Bắc Bộ vốn được coi là cái nôi của

văn hóa dân tộc Việt. Vì vậy, từ xa xưa đã gắn với các sự tích và nhân vật lịch sử

được tái hiện trong hệ thống lễ hội lịch sử như Vua Hùng, Thánh Gióng, Hai Bà

Trưng, Trần Hưng Đạo... Không nằm ngoài quy luật đó, lễ hội truyền thống vùng biển

đảo QN cũng mang đậm tính lịch sử.

Đặc điểm “đậm” tính lịch sử trong các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN cũng

do yếu tố địa hình tạo thành. QN là tỉnh duy nhất có đường biên giới giáp Trung Hoa cả

trên đất liền và trên biển. Giặc ngoại xâm phương Bắc luôn chọn con đường xâm lăng bắt

đầu từ vùng biển này. Vì vậy, QN luôn có vị trí trọng yếu trong việc bảo vệ bờ cõi đất

nước. Và với sự hy sinh anh dũng của các tướng lĩnh tài ba, các vị anh hùng dân tộc đã

trở thành những vị thánh bất tử trong lòng nhân dân và được tái hiện qua các lễ hội truyền

Page 125: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

122

thống với ý nghĩa tỏ lòng biết ơn sâu sắc và giáo dục thế hệ trẻ. Có lễ hội bản chất sâu xa

là nông nghiệp, nhưng do qúa trình bồi đắp các lớp văn hóa mà đã trở thành lễ hội lịch sử

như: lễ hội Vân Đồn, lễ hội đình Hải Yến, lễ hội đình Trung Bản... Trong lễ hội nông

nghiệp đua thuyền còn có ý nghĩa là cầu mưa, cầu nước nhưng sau này khi có các sự kiện

lịch sử thì hội đua thuyền còn có thêm lớp văn hóa mới là tái hiện lại các sự kiện lịch sử

như hội đua thuyền Vân Đồn nhằm diễn lại sự kiện Trần Khánh Dư đánh thắng quân

Mông Nguyên trên dòng sông Mang, hay hội đua thuyền trải Bạch Đằng...

4.2.1. Quá trình lịch sử

QN là tỉnh duy nhất có cả biên giới trên biển và đất liền giáp với Trung Quốc.

Đường biên giới trên bộ dài 118,825 km và đường biên giới trên biển dài trên 191 km.

Trong lịch sử nước ta khi quân phương Bắc xâm lược thì chủ yếu đi bằng đường biển từ

Lộ Hải Đông (tên gọi của QN dưới thời Trần) để tiến vào thành Thăng Long. Để chặn

quân địch, triều đình phong kiến cử các tướng giỏi xuống Lộ Hải Đông để trấn giữ biên

cương. Nhiều cuộc chiến thắng lẫy lừng của dân tộc đã diễn ra tại vùng biển này như:

trận chiến trên sông Bạch Đằng vào các năm 938, 981 và 1288, cuộc kháng chiến chống

xâm lược Tống dưới triều Lý... Do đó vùng biển đảo QN có nhiều lễ hội lịch sử hơn các

vùng biển đảo khác.

QN là vùng đất có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc từ xưa

tới nay. Có thể coi đây là vùng phên giậu cực Bắc của đất nước (mũi Sa Vĩ). Thời

phong kiến, QN là vùng đất thiêng liêng để các triều đại chiến đấu với quân xâm lược

phương Bắc. Vì vậy, có biết bao vị tướng tài và quân lính đã hy sinh nơi đây. Hệ

thống thủy thần được hình thành và phát triển trên cơ sở nhân hóa các vị tướng lĩnh

vào dạng thức thờ thủy thần để trấn yểm những nơi trọng yếu của vùng biển Đông

Bắc (Trần Quốc Tảng trấn giữ vùng Cửa Suốt, Trần Quốc Nghiễn trấn giữ vùng biển

Cửa Lục, Trần Hưng Đạo trấn giữ vùng cửa sông Bạch Đằng, Trần Khánh Dư trấn giữ

cửa sông Mang, Vân Đồn...). Trong lễ hội, các vị thần này được tôn thờ và có sự ảnh

hưởng tới cả một vùng rộng lớn. Đây có thể coi là một nét riêng biệt mà các tỉnh ven

biển khác chưa có được.

Trong lịch sử, QN đã nhiều lần đổi tên gọi. Thời tự chủ và nhà Ngô QN có tên

gọi là Lục Châu, đến thời nhà Lý là Lộ Đông Hải, thời nhà Trần là Lộ Hải Đông, thời

Page 126: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

123

nhà Lê là Trấn An Bang, thời nhà Nguyễn là tỉnh Quảng Yên. Năm 1963, trên cơ sở

khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh đã thành lập nên tỉnh QN. Tên tỉnh là ghép tên của

hai tỉnh Quảng Yên và Hải Ninh cũ (thị xã Móng Cái chuyển thành huyện Hải Ninh).

Và tên gọi QN được sử dụng từ đó cho đến ngày nay.

Thời kỳ phong kiến phương Bắc (179 TCN - 938 SCN) QN có tên gọi là Ninh

Hải - Lục Châu. Các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng Ninh Hải - Lục Châu không

chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, mà còn là một vị trí chiến lược về quân sự. Đặc biệt,

khu vực vịnh Hạ Long với hàng ngàn đảo đá, vùng vịnh kín đáo, dải Kênh Đồng nối

liền với các khu vực ven biển, chân núi đã thực sự trở thành một thiên la địa võng. Lê

Quý Đôn dẫn sách Bắc Mông Tỏa Ngôn nói:

Khoảng đất phía bắc Giao Chỉ cách Nam Hải có đường thủy, thuyền qua

đấy hay bị lật úp. Cao Biền đến đây coi, biết là có đá nằm ngáng ngầm

dưới nước, nhân tâu xin đào đá ấy đi để tiện cho việc giao thông ra Nam

Hải. Vua chuẩn y, Biền bèn gọi thợ phạt phẳng đá đi. Có người bảo

Biền giả sấm sét để phá đá [12, tr.149].

Sách Dư địa chí Quảng Ninh phần lịch sử có ghi:

Thời kỳ Bắc thuộc kinh tế Ninh Hải - Lục Châu vẫn có nét tự chủ

riêng... Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn không phải là thế mạnh của vùng

đất Ninh Hải - Lục Châu. Thế mạnh của vùng đất này chính là các

nguồn lợi biển, bao gồm các nghề làm muối, đánh bắt hải sản, mò ngọc

trai và thương mại biển [41, tr.439].

Thế kỷ XI - XV, để khẳng định chủ quyền, lãnh thổ ở phía Bắc, phía Tây, nhà Lý,

rồi nhà Trần đã thực thi nhiều biện pháp để ra khai phá vùng Đông Hải. Trong ý nghĩa

đó, "Biển Giao Chỉ”, "Biển Giao Châu” xưa đã thực sự trở về với người Việt, do người

Việt làm chủ. Việc vương triều Lý, vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) quyết định mở trang

Vân Đồn năm 1149, là một cống hiến to lớn đối với lịch sử dân tộc. Nhà Lý đã thiết lập

Vân Đồn thành một trung tâm kinh tế đối ngoại, bảo đảm an ninh ở vùng biển đảo Đông

Bắc, khẳng định chủ quyền của quốc gia Đại Việt trước đế chế Tống (960 - 1279) hùng

mạnh. Đích thân vua Lý Anh Tông đã nhiều lần đi tuần các hải đảo, xem khắp hình thế

núi sông, tìm hiểu cuộc sống cư dân vùng biển đảo, cho vẽ bản đồ và ghi chép phong vật.

Page 127: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

124

Đến năm 1226 nhà Trần lên thay thế nhà Lý - nguồn gốc là dân chài miền biển

(Nam Định - Thái Bình ngày nay) - có cái nhìn về biển rộng rãi, phóng khoáng hơn.

Ngoài Vân Đồn, thuyền buôn nước ngoài còn đến cửa Hội Triều (Thanh Hóa) cửa

Thơi, cửa Quèn, cửa Cờn (Càn Hải, Diễn Châu, Nghệ An), cửa Hội (Quỳnh Lưu,

Nghệ An)… nhưng về sau một số cửa biển bị cạn nên thương thuyền ngoại quốc phần

nhiều tụ tập ở Vân Đồn. Năm 1349, nhà Trần đã nâng vị trí trang (trang trại - làng xã)

Vân Đồn thời Lý thành một trấn (ngang cấp tỉnh, trực thuộc triều đình trung ương),

đặt các chức quan: Trấn quan (võ tướng chỉ huy), Lộ quan (quan văn cai trị) và Sát hải

sứ (quan kiểm soát mặt biển). Cử một đội quân đóng giữ ở Vân Đồn, gọi là Bình hải

quân. Vì vậy, Vân Đồn có vị trí xung yếu trên đường hải phận quốc tế và là trạm trung

chuyển giữa Trung Hoa - Đại Việt - Đông Nam Á - Ấn Độ, Ba Tư…

Vào thế kỉ XV, sau khi chiến thắng quân Minh, trên đất An Bang bên cạnh

vùng nông nghiệp Đông Triều, nổi lên vùng nông nghiệp mới là Yên Hưng. Từ thế kỉ

XII - XIII một số làng đánh cá và làm nông đã cư trú ở tả ngạn sông Chanh. Con

đường trao đổi buôn bán ra Vân Đồn, Vạn Ninh và vào trong nội địa có ảnh hưởng

đến sự phát triển ở đây. Về mặt văn hóa, tôn giáo, người dân đã xây dựng đình, chùa

tại các trung tâm, các làng mạc như chùa Lôi Âm, chùa Vạn Triều, chùa Sùng Đức ở

xã Yên Lập.

Như vậy, dưới thời phong kiến độc lập tự chủ (thế kỉ X đến thế kỉ XIX) đất Hải

Đông đã in dấu những chiến công lừng lẫy nhất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, với

ba lần chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Không những thế thời kỳ này thương cảng

Vân Đồn còn thể hiện là thời kỳ phát triển kinh tế phồn thịnh nhất dưới thời phong kiến.

Vì vậy, dấu ấn của nhà Trần gắn với các vùng ven biển và lễ hội ven biển QN rất sâu

đậm như: h. Yên Hưng (lễ hội Bạch Đằng), Cửa Ông (lễ hội đền Cửa Ông), TP Hạ

Long (lễ hội đền Trần Quốc Nghiễn), đảo Quan Lạn (lễ hội Vân Đồn),…

Lịch sử Ninh Hải - Lục Châu và sau này là Hải Đông là một thời kỳ dài liên tục

đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng, phát triển. Thời kỳ phong kiến, độc lập, tự

chủ, có lẽ hiếm có vùng đất nào mà hai nhiệm vụ, cũng là hai sự nghiệp ấy lại thể hiện

rõ ràng như trên mảnh đất địa đầu QN này. Thế kỷ X, XIII đất Hải Đông đã ghi dấu

những chiến công lừng lẫy với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông trên sông Bạch

Page 128: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

125

Đằng. Đặc biệt vùng đất này đã từng chứng kiến những công cuộc phát triển kinh tế

phồn vinh nhất dưới thời phong kiến với cảng Vân Đồn lịch sử. Nhưng QN không chỉ

có một cảng Vân Đồn, mà nơi đây còn có cả một hệ thống cảng biển, cảng sông nối

liền đất nước ta với thế giới bên ngoài.

4.2.2. Các sự kiện và nhân vật lịch sử là tiền đề trực tiếp của lễ hội lịch sử

vùng biển đảo Quảng Ninh

Bên cạnh các nhân vật lịch sử của cả nước thì các nhân vật lịch sử của địa

phương cũng được cư dân vùng biển đảo tôn thờ trong các lễ hội. Ở thời kỳ lịch sử nào,

khi có giặc ngoại xâm cũng có những người dân bình dị sẵn sàng hy sinh vì đất nước.

Điển hình là tướng quân Hoàng Cần (người Hải Lạng, Tiên Yên) đã đánh đuổi đội quân

“răng trắng, miệng vàng” cướp bóc cư dân vùng biển Đông Bắc. Hoàng Cần, trước đây

là vị thần chủ của đền Cửa Ông, vì vậy trong lễ hội đền Cửa Ông xưa, ông là người

được tôn thờ. Sau này khi Trần Quốc Tảng ra trấn giữ Cửa Suốt và hy sinh tại đây,

được nhân dân địa phương tôn thờ tại đền Cửa Ông và trở thành vị thần linh thiêng của

cả vùng cùng với tướng quân Hoàng Cần. Hiện nay, một số lễ hội sát vùng biên giới với

Trung Hoa vẫn tôn thờ Hoàng Cần như lễ hội Miếu Đôi ở thôn Nam Thọ, phường Trà

Cổ, thành phố Móng Cái.

Giúp tướng quân Trần Hưng Đạo còn có những người dân địa phương như Bà

hàng nước (sau Trần Hưng Đạo ban tước hiệu là Vua Bà) cũng được thờ trong lễ hội

đền Vua Bà. Bà Men có công vận chuyển lương thực cho quân lính (sau này tôn thờ

gọi là Đức Chúa Hải Ngoại) hàng năm đều được tôn thờ trong lễ hội đền Bà Men. Hay

trong lễ hội đình Yên Đông, làng An Đông, x. Yên Hải, h. Yên Hưng còn thờ ông

Nguyễn Văn Minh là người có công trấn ải xứ An Đông xưa. Trong phần này, chúng

tôi chỉ đề cập đến các sự kiện và nhân vật lịch sử có tính chất quốc gia đã ghi chiến

công ở vùng biển đảo QN.

4.2.2.1. Sự kiện Trần Khánh Dư đánh giặc trên sông Mang

Nhắc đến lễ hội Vân Đồn khiến chúng ta nhớ đến sự kiện Trần Khánh Dư

đánh giặc trên dòng sông Mang. Đầu tháng 2 năm 1288, trong cuộc chạm trán với đội

thuyền chiến của quân Nguyên Mông trên vịnh Hạ Long do Ô Mã Nhi cầm đầu, quân

Trần do Trần Khánh Dư chỉ huy bị thất bại. Trần Thánh Tông khi nghe tin đó nổi giận

Page 129: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

126

bèn sai trung sứ đến Vân Đồn xiềng Trần Khánh Dư về kinh chịu tội. Trần Khánh Dư

bình tĩnh nói với trung sứ rằng “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin

khất 2, 3 ngày, để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn” [36, tr.244].

Ít lâu sau, đội thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy tiến vào vịnh Hạ

Long, Trần Khánh Dư đã cho quân bao vây chặn đánh. Lợi dụng địa hình dòng sông

Mang và Cống Cái hẹp, dốc, Trần Khánh Dư cùng binh lính đã diệt sạch đội chiến

thuyền của giặc. Chiến thắng này đã tạo tiền đề quan trọng cho đại thắng của quân ta

trên sông Bạch Đằng vào tháng 4 năm 1288, quét sạch bóng quân thù trên bờ cõi,

chấm dứt ý đồ xâm lược nước ta lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng của triều đại

Nguyên Mông, giữ vững nền độc lập tự chủ của dân tộc.

Chín ngày sau đại thắng, ngày 18 tháng 4, hai vua Trần Thánh Tông và Trần

Nhân Tông đem đám tù binh gồm Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ, Phàn Tiếp và những tên thiên

hộ, vạn hộ về làm lễ mừng thắng trận trước lăng vua Trần Thái Tông. Trong buổi lễ

trang nghiêm, vua Trần Nhân Tông nhớ lại những ngày kham khổ đã cảm khái đọc:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà thiên cổ điện kim âu

Tạm dịch:

Xã tắc hai phen bon ngựa đá

Non sông ngàn thủa vững âu vàng [36, tr.245]

Với chiến thắng và chiến công vang dội ấy, vua Trần và triều đình đã ban

thưởng công trạng cho quân dân Vân Đồn và những tướng sĩ đã anh dũng hy sinh vì

nền độc lập tự chủ dân tộc, ngày đó là ngày 18 tháng 6 âl. Cũng từ đó đến nay cư dân

Vân Đồn nói chung và ngư dân sống trên đảo Quan Lạn nói riêng đã lấy ngày ban

thưởng công trạng là ngày trọng đại, mở hội ăn mừng.

Như vậy, trong lịch sử, trận chiến trên sông Mang là giữa hai đội thuyền chiến

dưới sự chỉ huy của hai vị tướng là Trương Văn Hổ và Trần Khánh Dư. Lễ hội ngày

nay tổ chức hội đua thuyền nhưng lại là đội thuyền đua của tướng Văn và tướng Võ

đại diện cho giáp Đông Nam và giáp Đoài Bắc. Hình tượng tướng Văn và tướng Võ

phải chăng là hình ảnh văn võ song toàn của tướng quân Trần Khánh Dư mà người

dân trên đảo ngưỡng mộ ông ? Trong truyền thống, người Trung Hoa luôn coi trọng

Page 130: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

127

tướng Văn và tướng Võ. Họ là những vị tướng giúp việc đắc lực cho nhà vua. Trên

đảo Quan Lạn xưa người Hoa sinh sống là chủ yếu. Vì vậy cư dân Quan Lạn ảnh

hưởng rất nhiều lối sống, phong tục, tôn giáo, tín ngưỡng của họ.

Dưới thời nhà Trần, sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi:

Trước đây, Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, tục ở đó lấy buôn bán làm

nghề nghiệp, sinh nhai, ăn uống, may mặc đều dựa vào khách buôn

phương Bắc, cho nên quần áo, đồ dùng theo tục người phương Bắc.

Khánh Dư duyệt quân các trang, ra lệnh: “Quân trấn giữ Vân Đồn là để

ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội

vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi (Ma Lôi là tên một hương

ở Hồng Lộ, hương này khéo nghề đan cật tre làm nón, cho nên lấy tên

hương làm tên nón), ai trái tất phải phạt” [36, tr.245].

Vì vậy, hình tượng tướng Văn và tướng Võ trong hội đua thuyền phản ánh một

phần sự giao lưu, tiếp biến văn hóa Trung Hoa của cư dân trên đảo Vân Đồn.

Trong lễ hội Vân Đồn còn có lễ cai đám với ý nghĩa là tuyển chọn các tay

chèo cho giáp Đông Nam Văn và giáp Đoài Bắc Võ. Xưa kia, lễ cai đám là lễ tuyển

chọn binh lính vào đội quân của tướng Trần Khánh Dư. Sau lễ cai đám là lễ nhận binh

khí gồm nhận vũ khí và trang phục trước khi ra trận.

Lễ cai đám

Cai đám là một nghi lễ chỉ thực hiện cho các thành viên là nam trong cộng

đồng. Đây là một nghi lễ quan trọng để người đàn ông Quan Lạn có quyền tham gia

vào hội bơi chèo khi đã đến tuổi trưởng thành.

Theo phong tục, lễ cai đám diễn ra từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 6 âl. Hằng năm

vào dịp này các giáp Văn và Võ thống kê số lượng các bé trai tròn 10 tuổi trong giáp

mình rồi cả giáp chung nhau làm một lễ lên đình yết bái các vị Thành hoàng làng về sự

hiện diện của các bé trai trong giáp. Đứng ra làm lễ là người cao niên có uy tín trong

giáp [PL.9.1, A.12, tr.240]. Sau khi làm lễ xong, các bé trai trở thành thành viên chính

thức của các giáp Văn, Võ. Nếu các bé trai không được làm lễ này, thì lớn lên sẽ không

được tham gia vào hội làng. Nghi lễ này cũng có ý nghĩa tương tự như lễ cấp sắc của

người Dao. Trước đây, nhiều gia đình vì quá nghèo không có tiền làm lễ cho con nên bị

Page 131: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

128

làng phạt tiền, thậm chí tháo cột buồm. Ngày nay thủ tục này vẫn còn nhưng đã giản

tiện đi nhiều và chỉ mang ý nghĩa tinh thần mà không ảnh hưởng đến điều kiện kinh tế

của các gia đình.

Lễ nhận binh khí (hay còn gọi là lễ tại miếu Đức Ông)

Lễ nhận binh khí là một nghi lễ đặc biệt trong lễ hội Vân Đồn. Để chuẩn bị

bước vào trận chiến (đua thuyền) tướng hai giáp Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ phải

ra miếu Đức Ông làm lễ nhận binh khí (ấn kiếm và trang phục). Đây cũng là lễ các vị

tướng báo cáo các vị thần và xin các vị thần phù hộ cho đội quân của họ.

Sáng sớm ngày 18 tháng 6 tướng quân hai bên Văn, Võ trang phục quần áo dân

binh kéo cờ xuất phát từ doanh trại đóng quân ra tập trung tại miếu Đức Ông, chủ tế

khấn lễ xong rồi hai tướng vào lễ thần xin lệnh bài ra trận [PL.9.3, A.25, tr.246],

[PL.3.3.1, tr.187]. Lúc này hai tướng mới được lĩnh áo giáp, cờ lệnh, lọng, tàn, dầm,

chèo... ở trong miếu còn quân lính trút bỏ quần áo dân thường mặc quần áo lính, nhận

vũ khí ở ngoài sân miếu [PL.9.3, A.26,27, tr.247].

Sau khi mặc xong quần áo, hai tướng làm thủ tục nhận kiếm lệnh do chủ tế ban

và lễ ba lễ trước ban thờ. Từ giờ phút này quân và tướng không được rời nhau, họ

phải luôn ở bên nhau trong doanh trại cho đến khi ra trận tức là hết cuộc đua bơi

thuyền vào chiều ngày 18 tháng 6.

Công việc này hai bên Văn, Võ làm trong hai giờ đồng hồ. Xong xuôi công

việc nhận lệnh, tướng dẫn quân về doanh trại nghỉ ngơi, ăn uống chờ lệnh xuất phát

của trung tâm [PL.9.3, A.28,29, tr.248]. Cuộc lễ này có ý nghĩa như một cuộc nhận

lệnh và tiếp nhận binh khí để ra quân chiến đấu.

Trong lễ hội còn có tục múa long đao quét đường. Đi đầu đội đua thuyền của

mỗi giáp tiến về đền để nhận binh khí là một người có nhiệm vụ múa long đao. Những

đường đao dũng mãnh, khỏe khoắn đã phản ánh được tinh thần của ngày hội, đồng

thời có ý nghĩa dẹp đường cho tướng quân và binh lính tiến nhanh nhất đến miếu Đức

Ông. Múa long đao trong lễ hội còn thể hiện truyền thống lâu đời của mảnh đất oai

hùng Vân Đồn.

Hội đua thuyền là phần được người dân mong chờ nhất trong lễ hội. Đua

thuyền vừa là nghi lễ lại vừa là hội. Đua thuyền trong lễ hội Vân Đồn vừa là diễn lại

Page 132: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

129

cảnh đánh giặc trên biển bằng cuộc đua thuyền giữa hai đội Đông Nam Văn và Đoài

Bắc Võ đồng thời thể hiện nghệ thuật thủy chiến trên biển tài ba của quân dân nhà Trần.

Có thể nói lễ hội Vân Đồn có sức hút đông đảo người xem nhất là hội đua

thuyền của người dân hay còn gọi là hội bơi trải truyền thống Vân Đồn. Cứ đến tháng

6 hằng năm, người ta lại hồ hởi, nô nức kéo nhau về dự hội không chỉ vì mục đích cầu

an mà mục đích chính là được hòa mình vào hội đua thuyền, được chứng kiến cảnh

tượng hùng vĩ, một thời oanh liệt của ông cha ta như đang diễn ra thật sống động.

Đua thuyền là một hình thức trò diễn dân gian thường được tổ chức trong lễ

hội ở những vùng sông nước, nơi cư dân quanh năm đánh bạn với biển. Từ xa xưa

người Việt cổ đã có tục đua thuyền. Ở nhiều nơi, đua thuyền trong dịp lễ hội là một

hoạt động tín ngưỡng mang ý nghĩa cầu ngư, cầu bình an, may mắn, no ấm, cầu được

mùa ra khơi mang nặng lưới cá cho những người đi biển. Còn ở Vân Đồn ngư dân tổ

chức đua thuyền chính là một hoạt động truyền thống tưởng nhớ đến vị tướng tài Trần

Khánh Dư chỉ huy trận chiến thắng oanh liệt trên dòng sông Mang lịch sử vào mùa

xuân năm 1288.

Hội đua thuyền thường bắt đầu từ 14 giờ đến 19 giờ ngày 18 tháng 6 âl (ngày

chính hội) vì lúc đó nước biển mới dâng cao. Vị trí tổ chức cuộc đua được lựa chọn ở

bến Đình trước khu di tích đình, chùa, miếu.

Lệnh của trung tâm được phát ra vào khoảng 14h30, tướng bên Văn dẫn quân

từ doanh trại phía trong đi ra ngoài, tướng bên Võ dân quân từ phía ngoài vào trong,

chạy diễu hành trên đường lớn để biểu dương lực lượng. Trống, cồng, phèng, la được

đánh liên tục. Hai tướng tuổi ngoài 60, cao to lực lưỡng, trang phục tướng thời Trần.

Mỗi khi hai bên gặp nhau tại điểm giữa trung tâm, tướng quân reo hò như sấm

dậy, binh khí chạm vào nhau tưởng như cuộc giao tranh trên chiến trường thực sự. Hai

phó tướng cầm đao dẫn đường khi tung người lên, khi né tránh đối phương, múa

những đường đao gia truyền trên làng đảo đã có hàng nghìn năm. Lễ hội ở các nơi

khác không có tiết mục múa đao quét đường như ở đây.

Khi diễu hành trên bộ ba vòng, hai tướng dẫn quân theo hai cổng chạy vào

trung tâm sân miếu Đức Ông, lượn ba vòng tròn khép kín [PL.9.3, A.30, tr.248]. Quân

Văn ở vòng trong, quân võ ở vòng ngoài. Quân tướng lượn tròn ở trong sân khác với

Page 133: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

130

việc diễu hành ngoài đường lớn. Ở đây bắt buộc chạy nhanh, người dẫn đường phải

thông thạo, không được nhầm lẫn, quân tướng hai bên phải theo sát nhau.

Sau khi diễu hành xong, hai hàng quân đứng trang nghiêm trước bàn thờ tưởng

niệm. Trống thu quân, cồng, pheng đánh liên tục, phát lệnh hai hồi trống báo hiệu tới

phần việc của các vị chức sắc trong làng. Lần lượt các quan chức, lên thắp nhang, tiếp

đến hai tướng vào lễ thần rồi đưa quân xuống thuyền rồng [PL.9.3, A.31, tr.248].

Việc đưa quân xuống thuyền giống như một cuộc hỗn chiến. Cách sắp xếp số

người tham gia trên mỗi thuyền thường được phân bổ như sau: 30 quân bơi dầm chèo, 4

quân cầm sào mũi lái, 2 quân cầm lái, một quân phất cờ. Mỗi tướng kèm theo ba người

phục vụ được gọi là: một quân cõng tướng, một quân cầm lọng, một quân phát đường.

Hai người đánh trống, phèng, la, cồng... để thúc quân. Chỉ số cầm chèo và tướng là cố

định, còn lại số kia thì tùy theo sự bố trí của các thuyền do các giáp tự tổ chức. Số

lượng khoảng 50 người mỗi thuyền [PL.9.3, A.32, tr.248].

Đường đua của hai thuyền trên biển dài khoảng 1500m. Ngoài biển có mốc

cắm hai lá cờ trắng làm ranh giới dành cho hai đội. Tại đây có hai trọng tài đứng chứng

kiến cuộc đua. Trong khi đua, hai thuyền chỉ được bơi trong khu vực hai hàng cờ. Mốc

bắt đầu là từ cây cờ trắng ngoài biển. Hai thuyền cùng hướng mũi về phía đó. Đến nơi,

họ nhổ cờ trắng trao cho nhau cùng nghỉ ngơi ít phút để chuẩn bị bước vào cuộc đua.

Thuyền của giáp Đông Nam Văn rẽ sang phía Đông (thuyền Đông), thuyền

của giáp Đoài Bắc Võ rẽ sang phía Tây (thuyền Tây). Thuyền Đông rẽ sang Đông

quay vòng về phía Tây, thuyền Tây rẽ sang Tây vòng về Đông, cứ như vậy ba vòng

rồi theo hướng miếu mà trở lại [PL.9.3, A.33,34,35, tr.249]. Trên bờ dân làng vẫy cờ,

vẫy tay, hò hét cổ vũ, hai tướng đứng ở mũi thuyền hiên ngang hùng dũng. Cờ tướng,

cờ trung phất lên liên tục, đuôi cờ trung luôn sát đầu hai hàng quân chèo, người có kỹ

thuật điêu luyện mới phất được loại cờ này. Sau ba vòng lượn, hai thuyền chèo vào

bến để đọc lời rao.

Nội dung lời rao của hai tướng trước mũi thuyền rồng chủ yếu là thông báo cho

bàn dân thiên hạ, cho quân sĩ biết lý do ngày hội. Lời rao còn mang tính căn dặn, kêu

gọi quân sĩ một lòng giành chiến thắng. Lời rao cũng đầy đủ ý nghĩa cầu mong tổ tiên,

ông cha phù hộ cho dân làng sức khoẻ, cầu cho trời yên biển lặng để cho các chàng trai

Page 134: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

131

làng Vân ra khơi đánh cá, cho các đội thương thuyền đi buôn bán ngược xuôi. Lời rao

cũng như lời hịch, lời cáo hoặc lời truyền, một hình thức bố cáo phổ biến và phù hợp

với thời đại nhà Trần xưa.

Lời rao bên Văn thì nhẹ nhàng, tình cảm, ca ngợi mảnh đất oai hùng nhiều

chiến công [PL.4.1, tr.191], [PL.9.3, A.36, tr.250]. Lời rao bên Võ khác lời rao bên

Văn mang khí thế sôi sục đánh giặc, mang ý chí đập tan mọi ý đồ xâm lược của bất kỳ

giặc ngoại xâm nào [PL.4.2, tr.191], [PL.9.3, A.37, tr.250]. Ngoài ra còn nhắc đến âm

vang chiến công trên dòng sông Mang.

Khi trống nổi, cờ ngũ sắc phất lên, tướng của Đông Nam Văn rao hịch trước,

sau đó đến phần rao hịch của Đoài Bắc Võ. Dứt lời rao của tướng bên Võ, lính chịu

trách nhiệm ở dưới biển quay thật nhanh hai mũi thuyền rồng ra phía trước. Trống

thúc quân, cồng, phèng, la được cùng một lúc đánh lên.

Trước khi hiệu lệnh xuất phát được ban ra, quân sĩ hai bên phải dựng toàn bộ

dầm, chèo lên be thuyền và ở tư thế chèo. Khi tiếng trống vang lên (hiệu lệnh xuất

phát), cờ trung quân phất tiến, hai thuyền lao như tên bắn để ra tới mục tiêu quy định

nhanh nhất. Lúc này quân tướng không một ai được nghỉ ngơi, ra sức đâm mái dầm thật

sâu, vớt nước thật nhanh, tất cả đều theo nhịp trống, theo tiếng hô “chèo”. Những người

điều khiển thuyền phải làm sao để khi quay thuyền, mặc chiều gió thuận hay nghịch,

phải lợi dụng được sức gió, chống sào và cầm lái quay thuyền cho nhanh. Đó chính là

bí quyết làm nên chiến thắng của mỗi chiến thuyền [PL.9.3, A.38, tr.251].

Điểm về đích là một sợi dây thừng chăng ngang, nếu đầu thuyền rồng của bên

nào chạm vào trước thì thuyền đó đạt giải nhất. Trong thời gian hai thuyền đua nhau, trên

bờ dân làng và những người xem hội reo hò, cổ vũ không ngớt. Nếu nhìn thấy thuyền nào

có khả năng vào trước thì tiếng reo hò cổ vũ cho bên đó lại càng vang dội hơn.

Khi thuyền thắng cuộc vào đến bờ thì tướng cùng quân lính chạy thật nhanh

vào miếu Đức Ông để làm lễ (thuyền nào chạm tới bến trước, theo lệ tướng sẽ được

quân cõng chạy tới cột treo giải ở miếu Đức Ông, vuốt vào khăn đỏ là chiến thắng

[PL.9.3, A.39, tr.251]. Nhưng để giản tiện hơn, lễ hội ngày nay, tướng chỉ kéo quân về

lễ đài miếu Đức Ông để ban tổ chức tiến hành lễ trao giải). Chạy theo cùng với họ là

những người cổ vũ cho đội đua. Tiếng bước chân rầm rầm, tiếng reo hò, tiếng hô

Page 135: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

132

chiến thắng ầm ầm tưởng như rung chuyển cả đất trời. Thường thường cả hai đội

thắng thua cũng chỉ chênh nhau ít phút mà thôi. Tuỳ theo từng năm, đua bao nhiêu lần

là do dân làng tự qui định. Trong những lần đua hoặc bơi giao ba vòng, thỉnh thoảng

có những đợt nghỉ khoảng nửa tiếng.

Dù thắng hay thua, hai tướng đều phải dẫn quân về đứng nghiêm trang trước miếu

Đức Ông để vào lễ thần, sau đó mới dẫn quân về doanh trại ăn uống, nghỉ ngơi cho lại sức.

Điều đặc biệt ở hội đua thuyền Quan Lạn là cả hai bên, dù thắng dù thua đều

có giải. Giải của cuộc đua chỉ là vấn đề rất phụ, theo hương ước làng quy định có hai

đồng (thời xưa), cuộc đua chủ yếu mang tính chất nghi lễ. Trong ý nghĩa sâu xa của

cuộc đua thuyền, tất cả đều diễn lại chiến thắng Vân Đồn - Cửa Lục năm 1288 do

tướng Trần Khánh Dư chỉ huy.

4.2.2.2. Sự kiện Trần Hưng Đạo đánh giặc trên sông Bạch Đằng

Sự kiện chiến thắng Bạch Đằng gắn với vị tướng quân tài ba Trần Hưng Đạo

không chỉ là dấu ấn của mảnh đất phên giậu ven biển QN mà còn là mốc son lịch sử của

nhà Trần và của cả dân tộc. Vì vậy, các vùng biển đảo QN đều tôn thờ ông và tôn thờ cả

các cộng sự của ông, những người đã góp phần tạo nên chiến thắng oai hùng đó. Không

chỉ là những vị tướng của ông như Trần Khánh Dư, Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng,

Phạm Ngũ Lão... được tôn thờ mà cả những người dân thường có công cũng được ông

cho lập đền, miếu để thờ như: Bà hàng nước, bà Men, Cô bé Cửa Suốt...

Hiện nay, trong các lễ hội vùng biển đảo QN tôn thờ tướng quân Trần Hưng Đạo

rất nhiều như: lễ hội Bạch Đằng, lễ hội đình Đền Công phối thờ cùng 4 vị đại tướng

quân: Cao Sơn Quý Minh, Nam Hải tôn thần, Phi Bồng tướng quân, Bạch Thạch tướng

quân. Ngoài ra Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão còn được thờ trong lễ hội đình Trung

Cốc, x. Nam Hà, h. Yên Hưng tưởng nhớ sự kiện hai ông đi thị sát trận địa để cắm cọc gỗ

xuống lòng sông Bạch Đằng chống quân Nguyên (1287 - 1288).

Dòng sông Bạch Đằng đời đời còn ghi chiến tích của những người anh hùng dân

tộc chống giặc ngoại xâm. Đó là: Ngô Quyền với trận địa cọc gỗ đánh tan quân Nam

Hán (năm 938); Lê Hoàn (năm 981) chống quân Tống; Hưng Đạo Vương Trần Quốc

Tuấn và các danh tướng nhà Trần (năm 1288) chống quân Nguyên Mông. Nhưng có lẽ

cuộc chiến thắng lần thứ ba của Trần Hưng Đạo với những sự kiện và nhân vật lịch sử

Page 136: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

133

là mốc son lịch sử đánh dấu đỉnh cao của nghệ thuật thủy chiến trong chiến tranh đánh

giặc ngoại xâm của dân tộc ta.

Những sự kiện và nhân vật lịch sử đã được tái hiện trong lễ hội Bạch Đằng. Lễ

hội Bạch Đằng còn được gọi là ngày giỗ trận, hằng năm được tổ chức vào ngày

mùng 6 đến ngày mùng 8 tháng 3 (âl), có năm kéo dài tới bốn ngày đêm. Không gian

lễ hội diễn ra ở những địa điểm gắn với chiến thắng Bạch Đằng: đền Trần Hưng Đạo,

miếu Vua Bà, đình Yên Giang thuộc trung tâm lễ hội, ngoài ra còn ở các đình Trung

Bản, đình Điền Công, đền Trung Cốc.

Phần lễ, có dâng hương tại đền thờ Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà. Dân làng

rước kiệu dọc bờ sông và giống như nghi lễ của cư dân sông nước, tục bơi trải là một

nghi lễ quan trọng. Trên dòng sông lớn, cuộc đua tài của nhiều thuyền đua hình lá tre

lao vun vút, tiếng hò reo của người dự hội trên bờ sông như làm sống dậy âm hưởng

của trận chiến năm xưa.

Cuộc đua trải bao giờ cũng có sự tham gia của cư dân huyện Thủy Nguyên,

Hải Phòng. Truyền thống này gắn với sự kiện lịch sử: Theo tiếng gọi của Trần Quốc

Tuấn, nhân dân các làng vùng sông Bạch Đằng và nhân dân trong toàn huyện Thủy

Nguyên phối hợp với quân Trần khẩn trương đi vào một cuộc chiến đấu gian khổ và

quyết liệt. Thóc gạo được chuẩn bị, sẵn sàng cung cấp cho quân đội, vũ khí được chế

tạo thêm để trang bị cho dân binh, thuyền bè được tu sửa để sử dụng trên chiến trường

sông nước. Đặc biệt trong trong chiến thắng ngày 8 tháng 4 trước trận chiến lịch sử

Bạch Đằng 1288 một ngày đã có sự đóng góp rất to lớn của dân binh và nhân dân

huyện Thủy Nguyên.

Có thể nói, hội đua thuyền trên sông Bạch Đằng hiện nay là một hình thức diễn

xướng nghi lễ mang tính tưởng nhớ sự kiện chứ không phải là trình diễn lại sự kiện

như hội đua thuyền Vân Đồn.

+ Vài nét về trận đánh trên sông Bạch Đằng

Lợi dụng địa thế tự nhiên, cùng với nỗ lực và tài trí Trần Hưng Đạo đã tạo dựng

nên một chiến trường đánh thủy độc đáo. Ông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt tiến hành

một cuộc chiến đấu anh dũng, được tổ chức khoa học, với nhiều lớp phòng ngự và tấn

công, có sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều cánh quân, mà chủ lực là thủy quân.

Page 137: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

134

Cửa sông Bạch Đằng, nơi được chọn làm điểm quyết chiến là một khu vực hiểm

yếu, có đủ những điều kiện đáp ứng được yêu cầu bố trí một trận địa mai phục trên sông

với quy mô lớn. Vận dụng những yếu tố đó, để tăng thế lợi hại của trận địa mai phục,

Trần Hưng Đạo đã cho đóng các cọc gỗ ngầm dưới lòng sông nhằm cản phá đường tháo

lui của thuyền chiến địch và tiêu diệt tại chỗ. Lợi dụng chế độ thủy triều, cùng với nghệ

thuật dẫn dắt thuyền giặc vào trận địa đúng lúc, đúng chỗ. Đồng thời, sự hiệp đồng tác

chiến chặt chẽ giữa quân chủ lực với quân địa phương, giữa thủy binh, bộ binh và kỵ binh

đã cho thấy nghệ thuật chiến tranh tài tình của Trần Hưng Đạo.

Trận Bạch Đằng là trận đánh mai phục kết hợp với vận động tiến công trên

sông nước với quy mô lớn, vừa phòng thủ vững chắc, vừa tấn công quyết liệt và

mưu trí, dồn địch lại mà đánh, chia tách ra mà tiêu diệt... Nhờ thông thuộc địa hình

mà quân Đại Việt di chuyển chủ động trên mặt nước, trong các bãi lầy và trên bờ,

trong khi quân Mông Nguyên dù đã phòng bị vẫn không thể thoát nổi trận thiên la

địa võng đã được tạo sẵn.

+ Hội đua thuyền

Về các thuyền đua: Tham dự hội đua thuyền trong lễ hội Bạch Đằng bao giờ cũng

có đội đua nfam và đội đua nữ. Có lẽ vì dấu ấn của vua Bà với truyền thuyết giúp Trần

Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông mà người dân đã tổ chức có cả đua thuyền nữ.

Thông thường có sự tham gia của các tay chèo ở thị x. Quảng Yên, h. Vân Đồn, TP. Hạ

Long (QN) và h. Cát Hải, h. Thủy Nguyên, tx. Đồ Sơn (TP. Hải Phòng).

Thuyền đua được trang trí tinh tế, đầu và đuôi được chạm trổ theo hình đầu

rồng, đuôi rồng. Thân thuyền cũng được trang trí thêm các hoa văn hình sóng nước.

Đầu rồng được sơn màu vàng, cổ rồng sơn màu xanh - vàng hoặc đỏ - vàng, chèo bơi

sơn màu đỏ. Chiều dài của thuyền đua tính từ đầu rồng đến đuôi rồng khoảng 6,8 m,

chỗ rộng nhất của thuyền khoảng 90cm, có 5 khoang chính, 2 khoang phụ (1 khoang

dành cho tổng lái, 1 khoang dành cho tổng khoang). Để có thuyền đua, ngoài sự hỗ trợ

của ban tổ chức, nhân dân các nơi còn tự nguyện đóng góp và thuê thợ ở về đóng

thuyền cũng như chạm trổ, trang trí.

Về biên chế đội thuyền đua gồm: 1 tổng lái, 1 tổng khoang (lo việc tát nước), 1

tổng mũi (là người chỉ huy đội thuyền, tay cầm cờ, hô theo nhịp đua) và 10 tay chèo. Có

Page 138: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

135

năm lên tới 20 tay chèo. Tất cả đều được tuyển chọn kỹ lưỡng. Vì đua thuyền là một

hình thức diễn xướng trước vị các vị thần, vì thần và cho thần nên trước và trong khi

diễn ra hội đua thuyền, tổng lái, tổng mũi, tổng khoang và các tay chèo đều phải cáo yết

với thần trước khi tham gia vào cuộc đua (trong lễ hội đua thuyền Vân Đồn cũng vậy)

[PL.9.3, A.40, tr.252].

Thời gian và trình tự đội đua thuyền: thời gian diễn ra hội đua thuyền là vào

chính hội, ngày mùng 8 tháng 3 âl (chiến thắng của nhà Trần vào mùng 8 tháng 3 năm

Mậu Tý (1288)). Lễ hội Bạch Đằng được tổ chức hằng năm vào ngày này mang ý nghĩa

như một ngày giỗ trận. Ngày nay, hội đua thuyền Bạch Đằng có tầm vóc, quy mô hơn,

có sự tham gia của cả các đội đua ở huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

Thời điểm các tay chèo thi thố trên đường đua thường diễn ra vào buổi sáng,

vào khoảng 12 giờ trưa là kết thúc và chặng đường đua trên biển khoảng 700m và

đua 2 vòng. Nếu sau 2 vòng đua, đội nào chạm đích trước sẽ là đội đoạt giải nhất.

Trên thuyền đua, tổng khoang hô theo nhịp để các tay đua chèo đều tay, đến vòng

cua tổng lái bẻ mái chèo, lấy cua, mũi thuyền sẽ quay gấp khúc, khi đó toàn đội

đua phải kết hợp với nhau để cho thuyền đua không bị lật. Để phát huy được sức

mạnh tập thể, vượt qua sóng gió sông Bạch Đằng đội đua phải tập luyện trước đó

cả tháng trời.

Phần thưởng cho các đội được giải tùy thuộc vào sự quyên góp của nhân dân,

các cá nhân, đơn vị tài trợ và sự ủng hộ của chính quyền. Đối với nhân dân Yên Hưng,

số tiền được thưởng nhiều hay ít không quan trọng mà đó là niềm vinh dự cho xóm

làng, là sự ban lộc của thần thánh.

+ Những nét riêng biệt trong hội đua thuyền Bạch Đằng

Hội đua thuyền Bạch Đằng là một hình thức sinh hoạt văn hóa lịch sử, nhằm

tưởng nhớ tới sự kiện Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông (1288). Khác

với hội đua thuyền Vân Đồn là tái hiện lại trận đánh của Trần Khánh Dư trên dòng

sông Mang. Ngoài ra, hội đua thuyền ở đây cũng còn mang tính chất biểu dương sức

mạnh, một tinh thần thể thao, một trò vui chơi nhưng nội hàm của nó vẫn mang tính

chất tâm linh là cầu cho quốc thái dân an. Do đó, người dân nơi đây luôn tự giác, tự

nguyện tham gia lễ hội để gìn giữ những giá trị tốt đẹp của lễ hội Bạch Đằng. Thậm

Page 139: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

136

chí trong lễ hội còn có tục trẻ em xếp hàng chui qua kiệu để được hưởng lộc của Ngài

ban cho học hành giỏi giang. Nhưng ý nghĩa sâu xa hơn là giáo dục truyền thống lịch

sử nước nhà [PL.9.3, A.41, tr.252].

Hội đua thuyền Bạch Đằng là một hội đua thủy chiến trên sông vậy mà có

đội đua thuyền nữ. Điều này cho thấy sự khác biệt rất lớn với các hội đua thuyền

khác trong vùng. Có lẽ cuộc chiến trên sông Bạch Đằng không chỉ có công sức của

các vị tướng quân là nam giới mà còn có sự góp sức vô cùng to lớn của một nhân

vật là nữ. Đó là vị vua Bà. Chính vì vậy trong cuộc đua có cả nam và nữ, thể hiện

một phần nào ý nghĩa tưởng nhớ tới công lao to lớn của phụ nữ trong thời chiến

cũng như trong thời bình.

Nhân dân địa phương, để ghi nhớ công lao của Đức Thánh Trần, đã xây dựng một

số trò diễn mô phỏng các sự kiện đáng ghi nhớ của chiến trận Bạch Đằng năm 1288 như:

Trò diễn Trần Hưng Đạo đọc Hịch tướng sĩ tiêu diệt giặc Mông - Nguyên

Để nâng cao ý chí căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu chống giặc ngoại xâm,

Trần Hưng Đạo đã soạn lời hịch kêu gọi tướng sĩ tiêu diệt giặc Mông - Nguyên. Lời

hịch gần gũi, nhẹ nhàng nhưng cũng đầy quyết tâm, quyết chiến khiến đồng loạt quân

sĩ đều nêu cao lời thề Sát thát. Bài Hịch tướng sĩ với những lời văn bất hủ, ôn lại

truyền thống lịch sử vẻ vang của cha ông ta đồng thời kêu gọi được tinh thần đoàn kết

chống giặc đã thể hiện tài năng tột bậc của Trần Hưng Đạo [PL.7.1, tr.200].

Trò diễn Lễ dâng lịch triều non nước

Trò diễn đã mô phỏng lại cảnh đất nước lầm than, bị lũ quân xâm lược Ô Mã

Nhi, giặc Thát cướp bóc, giết người, gây bao cảnh đau thương, tang tóc… Các tướng

nhà Trần là Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo cùng đi thị sát trại An Hưng, Hải Đông để tìm kế

đánh giặc. Dân chúng trại An Hưng (trong đó có bà hàng nước) đã kéo đến nghênh tiếp Đại

vương, thể hiện ý chí đồng lòng đánh giặc ngoại xâm. Bà hàng nước có kế đánh giặc, trình

lên Trần Hưng Đạo. Đó là kế:

Bến đò này là họng sông Bạch Đằng,

Hãy cắm cọc gỗ mà ngăn quân giặc,

Làm bè lửa mà thiêu đốt giặc [PL.7.2, tr.202].

Page 140: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

137

Sau đó bà hàng nước còn dâng lịch triều con nước trong vùng cho Trần Hưng Đạo.

Trò diễn còn diễn lại cảnh vác gỗ, đóng cọc, kẻ tay quốc, người tay vồ nhịp nhàng đóng

cọc xuống lòng sông Bạch Đằng.

Trò diễn Phát hỏa làm hiệu lệnh

Thần tích ở đình Đền Công ghi lại: “Sau khi chuẩn bị xong trận địa cọc, kế hỏa

công và quân mai phục hai bên bờ sông Bạch Đằng, Trần Hưng Đạo suy nghĩ thâu

đêm tìm địa điểm phát hỏa làm hiệu lệnh cho quân sĩ mai phục nhất loạt tiến công

đoàn binh thuyền của giặc. Có năm vị thần linh là: Cao Sơn Đại Vương, Qúy Minh

Đại Vương, Nam Hải tôn thần, Phi Bồng Tướng quân và Bạch Thạch Tướng quân đã

ứng mộng mách bảo Trần Hưng Đạo chọn địa điểm cây giêng cổ thụ ở Điền Công và

cây quyếch trên bến đò An Hưng làm nơi phát hỏa, góp phần làm nên chiến thắng

Bạch Đằng oanh liệt [PL.7.3, tr.208].

Bằng những trò diễn, những biểu tượng tái hiện lại các sự kiện lịch sử trong lễ

hội Bạch Đằng đã khiến cho lễ hội gắn bó, gần gũi với nhân dân. Đồng thời, đó cũng

chính là những bài học lịch sử có giá trị giáo dục thế hệ trẻ trân trọng, tự hào về lịch

sử hào hùng của cha ông ta. Hiện nay, vùng đảo Hà Nam và cư dân các làng xung

quanh bãi cọc Bạch Đằng đều tổ chức lễ hội vào ngày mùng 8 tháng 3 âl, là ngày giỗ

trận. Chỉ tính riêng vùng Yên Hưng đã có tới 9 lễ hội tưởng nhớ đến tướng quân tài ba

Trần Hưng Đạo. Đó là: lễ hội miếu Vua Bà, lễ hội đình phố Yên Hưng (thờ Trần

Hưng Đạo), hội làng đình Trung Bản, lễ hội đình đền Công, lễ hội đình phố Yên

Hưng, lễ hội Bạch Đằng, lễ hội đình Trung Cốc, lễ hội đình Trung Bản, lễ hội đình

Yên Giang. Các lễ hội này không chỉ tôn ông là vị thần chủ, là Thành hoàng làng mà

còn thờ ông với niềm kính vọng như là vị thần của ngư dân vùng cửa sông, ven biển.

Ông còn được phối thờ với các vị thần khác như mẫu Thoải, thần Phạm Tử Nghi, thần

Không Lộ Thiền Sư...

Có thể nói sự khác biệt lớn nhất trong các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN là

hội đua thuyền lịch sử. Hội đua thuyền là sự tái hiện lại các sự kiện lịch sử đã diễn ra trên

biển, thể hiện nghệ thuật thủy chiến của cha ông ta. Không phải chỉ riêng QN mới có đua

thuyền trên biển tái hiện sự kiện lịch sử mà ở nhiều nơi khác cũng có như: hội đua thuyền

Giang chiến (Nam Định) tưởng nhớ tướng quân Đặng Dung; lễ hội thuyền đua làng Đăm

Page 141: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

138

(x. Tây Tựu, h. Từ Liêm, Hà Nội) tưởng nhớ danh tướng Bạch Hạc Tam Giang thời vua

Hùng thứ XVI; hội đua thuyền Lý Sơn (Quảng Ngãi) nhằm tưởng nhớ những người lính

phải ra đảo Trường Sa dưới thời phong kiến... Tuy nhiên do địa hình biển QN có nhiều

đảo đá đan xen nên việc đua thuyền ở Vân Đồn, trên sông Bạch Đằng luôn khó khăn,

gian khổ hơn. Đó là sự thích ứng với môi trường mới (môi trường biển), mà không dễ gì

cư dân ở những vùng biển, những vùng ốc đảo khác trong cả nước thực hiện được.

4.2.2.3. Sự kiện Trần Quốc Tảng đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai

Gần bến Cửa Suốt còn có lễ hội đền Cửa Ông tôn thờ vị thần chủ là Trần Quốc

Tảng. Ông còn được thờ trong lễ hội đền Xã Tắc, phường Ka Long, thành phố Móng

Cái; Ở Cửa Lục có lễ hội đền Đức Ông Trần Quốc Nghiễn là anh trai của Đức Ông

Trần Quốc Tảng. Để giúp triều đình đuổi giặc xâm lăng hai anh em Trần Quốc

Nghiễn và Trần Quốc Tảng đã cùng nhau ra mảnh đất biên cương chiến đấu và sau

này được nhân dân thần thánh hóa thành những vị thần của biển khơi.

Trần Quốc Tảng là con thứ ba của Trần Quốc Tuấn, một vị tướng có nhiều công

lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Năm Trùng Hưng thứ nhất

(1285) quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ hai. Được tin đại quân nhà Trần

không chống nổi trước thế giặc đang mạnh, phải rút về Vạn Kiếp, Trần Quốc Tảng vội vã

mang quân từ trang ấp của mình ở An Sinh - Đông Triều, cùng quân các lộ: Hải Đông,

Vân Trà, Bà Điểm xin làm lực lượng tiên phong để đánh giặc. Cuộc kháng chiến lần thứ

hai chống Nguyên Mông thắng lợi. Trần Quốc Tảng là một trong những dũng tướng có

công được vua Trần ban khen và cấp đất, cho lập ấp ở Tĩnh Bang (QN ngày nay). Hưng

Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng là dũng tướng có công với dân, với nước, hai lần

được cử ra Cửa Suốt, một vị trí chiến lược của vùng Đông Bắc để trấn giữ.

Như vậy, lần đầu “bị tội” mà Quốc Tảng bị cha “đày” ra Cửa Suốt. Lần thứ hai,

lập công lớn trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, Quốc Tảng lại được vua Trần cử

ra Cửa Suốt trấn giữ. Tại một địa bàn Cửa Suốt, Quốc Tảng hai lần ra trấn giữ với hai

tư thế, hai thể thức trái ngược nhau nhưng thực chất chỉ là một, là giao trọng trách trấn

giữ một vùng quan yếu. Trong kỳ bình công khen thưởng vào cuối năm 1288 sau cuộc

kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, Trần Quốc Tảng được phong làm Tiết Độ

Sứ. Từ sau năm 1288 đến khi qua đời, phần lớn thời gian Trần Quốc Tảng dành cho

Page 142: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

139

việc trấn giữ miền Đông Bắc, nhưng cũng có lúc về triều phụng mệnh vua đi công cán

những miền biên ải khác. Uống nước nhớ nguồn, ghi nhớ công đức của ngài, nhân dân

lập đền thờ ngài tại Cửa Suốt (tức Cửa Ông). Cứ đến ngày mùng 3 tháng 2 và ngày

mùng 3 tháng 8 âl hằng năm đền Cửa Ông lại nhộn nhịp mở hội. Trong một năm đền

mở hội hai lần, phải chăng tượng trưng cho hai lần ông được cử ra Cửa Suốt trấn giữ

và đã giành thắng lợi ?

Trong lễ hội đền Cửa Ông, lễ rước kiệu là một nghi lễ hết sức quan trọng và

thu hút hàng ngàn lượt người tham gia. Nhưng lễ rước kiệu xưa và nay đã khác đi

nhiều và mang nhiều lớp văn hóa, ý nghĩa khác nhau.

Lễ rước kiệu Đức Ông

Rước kiệu thánh trong lễ hội cổ truyền cũng là một nội dung hết sức linh thiêng

trong lễ hội. Lễ rước là để nghênh đón thần về dự hội của làng, để dân làng được cúng

tế thần. Tuy nhiên nhiều cuộc rước hiện nay cũng đã bị mai một, tha hóa đi nhiều.

Trong lễ hội đền Cửa Ông có lễ rước kiệu Đức Ông hoành tráng và nhộn nhịp.

Cuộc rước kéo dài nhiều giờ, vừa đi lại vừa diễn lại các sự tích, sự kiện lịch sử liên

quan đến Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng [PL.9.3, A.42, tr.253].

Trong lễ rước xưa, thành phần do lý trưởng chọn từ 20 đến 30 trai tráng khỏe

mạnh hoặc các gia đình tốt phúc trong làng. Vào sáng ngày 3.2 âl đoàn rước do Lý

trưởng dẫn đầu mang võng, lọng, cờ quạt và đội lễ xuất phát từ đình Bình Chung đi

đến đền Cửa Ông. Đình Bình Chung thuộc Vườn Nhãn, Cửa Suốt, làng Cẩm Phả

trước đó, nay thuộc địa phận xóm Bình An, phường Cẩm Phú, Cẩm Phả. Đình đã bị

phá hủy trong chiến tranh chống Mỹ. Đoàn rước dâng lễ vật, ông thủ nhang làm thủ

tục dâng hương xin Đức Ông cho phép rước ngài về đình Bình Chung. Sau khi xong

thủ tục lễ, đoàn rước bài vị Đức Ông về đình Bình Chung để cúng tế.

Hôm sau, đoàn rước lại rước bài vị trở lại đền Cửa Ông để khách thập phương

cúng tế. Còn ở đình Bình Chung chỉ có dân địa phương, vùng xung quanh như Cái

Rồng, Cát Hải mới được vào đình tế.

Ngày nay, do đình Bình Chung không còn nữa nên tuyến rước thần cũng đã

khác và thành phần đoàn rước mang tính chất trình diễn hơn. Thành phần đoàn rước

hoành tráng, phong phú hơn xưa rất nhiều và mang tính chất hiện đại, khoảng 20 đoàn

Page 143: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

140

và hơn 500 người gồm: đội múa lân, rồng, sư tử; đoàn rước cờ ngũ hành; đoàn chiêng

trống; đoàn thủy thủ thuyền chiến; đoàn bát âm gồm 8 người của đội tế Cửa Ông;

đoàn chấp kích; đoàn đánh trống cà rồng; đoàn rước cờ vía; đoàn rước kiếm lệnh;

đoàn thổi kèn; đoàn nhạc bát âm; đoàn rước kiệu “Long đình” đặt hòm sắc thần; đoàn

đánh trống cà rồng; đoàn rước “Long kiệu” đặt linh vị; đoàn “sênh tiền”; đoàn rước

“kiệu vàng”, trên đặt khăn áo của Mẫu,…; đoàn đóng vai tướng lĩnh và gia thất nhà

Trần; các đoàn tế, đoàn lãnh đạo các ban, ngành, đoàn của Hội cựu chiến binh và nhân

dân tham dự hội.

Đoàn rước diễu hành qua phố chính của phường Cửa Ông và dừng chân tại sân

trường Kim Đồng với ý nghĩa điểm dừng là nơi đóng trại trong chuyến tuần du của

Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng khi xưa. Thời gian dừng chân cũng là thời

gian trình diễn các cảnh diễn, điệu nhạc, điệu múa dâng lễ, bày tỏ lòng thành kính với

các vị thần chủ [PL.9.3, A.42, tr.253]. Sau khi tiến hành xong các nghi thức sẽ rước

Đức Ông hoàn cung về Đền Thượng và tổ chức tế theo nghi thức trọng thể. Lễ rước

bài vị Đức Ông mô phỏng tượng trưng cuộc tuần du vùng biển Đông Bắc của Hưng

Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, mang ý nghĩa tôn vinh và ghi nhớ công đức của

ngài. Sau khi lễ rước Đức Ông hoàn cung ổn định, các đoàn tổ chức lễ tế với nghi

thức trọng thể, theo bài tế thống nhất.

Đoàn rước trong lễ hội đền Cửa Ông và đoàn rước trong lễ hội Bạch Đằng có

nhiều sự tương đồng. Đó chính là sự hóa trang thành các nhân vật lịch sử như Trần

Hưng Đạo và Trần Quốc Tảng [PL.9.3, A.43, tr.254]. Sự sáng tạo này làm cho lễ hội

vừa sinh động lại vừa linh thiêng.

Lễ hội đền Cửa Ông xưa do chủ tế là ông Chủ từ nên các bài cúng tế cũng bị

rút ngắn lại. Chủ lễ ở đình Bình Chung và đền Cửa Ông phải là Chánh tổng hoặc Phó

Chánh tổng, ít nhất là Bá hộ. Sau nghi thức tế, chủ tế đọc văn tế, tiếp đến các đoàn

khách, các chi, các họ lần lượt vào dâng lễ vật và cúng tế. Cuộc cúng tế diễn ra trong

suốt cả ngày mùng 3 tháng 2 âl.

Ngày nay phần nghi lễ cúng tế lại rất được coi trọng: một tuần trước khi mở hội,

nghi lễ mộc dục được các vị thủ nhang thực hiện. Trong thời gian diễn ra lễ hội đội tế

nam, đội tế nữ thực hiện các nghi thức cúng tế truyền thống. Về trang phục cũng được

Page 144: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

141

quy định rõ ràng: không được đeo gậy, vòng, cài trâm hoa, đeo yếm hoa,… để nghi thức

lễ được nghiêm túc. Các nhạc công cũng phải mặc đồng phục và ngồi ở vị trí được qui

định. Nghi thức cúng trong lễ hội đền Cửa Ông theo 33 bước [PL5, tr.193].

Gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Trần Quốc Tảng còn có truyền thuyết về

tảng đá và mũ đá trên bờ sông mà dân gian lưu truyền do ngài hóa vào. Nhờ sự linh

ứng nên ngài đã được vua phong cho làm Thượng Đẳng Phúc Thần. Câu chuyện

huyền thoại trên cũng thấy ở một số nơi thờ ông như: đền thờ Trần Quốc Tảng ở x.

Trắc Châu, h. Thanh Lâm (nay thuộc Nam Sách, Hải Dương), Văn Miếu (hoặc Văn

Chỉ Linh Khê) thuộc thôn Linh Khê, x. Thanh Quang, h. Nam Sách, gần nơi tổ chức

Hội nghị Bình Than của nhà Trần tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) [40, tr.52-53].

Việc gán cho ông một truyền thuyết như trên là mô típ khá quen thuộc trong dân gian

giống như việc khúc gỗ trôi vào bờ hay pho tượng trôi từ biển vào (đền thờ Thiên Hậu

Thánh Mẫu ở Trà Cổ). Song để một vị tướng quân gần gũi với người dân, là vị thần

của muôn dân thì khoác thêm lớp văn hóa dân gian trên là cần thiết. Do đó, Trần Quốc

Tảng không chỉ là vị thần bảo trợ cho người đi biển mà ông còn là vị thần bảo trợ cho

cả những người đi làm ăn xa, những người dân chân lấm tay bùn… của cả vùng duyên

hải Bắc Bộ. Vì vậy, mỗi khi lễ hội Đền Cửa Ông diễn ra, người dân từ khắp các tỉnh

Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội… đều đổ về dự hội, để tỏ lòng thành kính

và ngưỡng vọng ông.

Như vậy, những sự kiện gắn với cuộc đời Trần Quốc Tảng có hư, có thực

nhưng quy mô hoành tráng của lễ hội đền Cửa Ông đã chứng tỏ niềm tin mãnh liệt, sự

sùng bái, ngưỡng mộ của người dân vùng ven biển về một vị tướng tài ba vùng Đông

Bắc của tổ quốc. Tuy nhiên, từ một lễ hội mang ý nghĩa lịch sử thì nay đã trở thành lễ

hội mang nhiều lớp văn hóa, tín ngưỡng. Việc tổ chức đoàn rước hoành tráng, việc người

dân làm lễ vật dâng cúng hai bên đường, ném tiền lên kiệu rước khi đoàn rước đi qua hay

du khách về cầu làm ăn đã làm cho lễ hội Đền Cửa Ông thiên về tín ngưỡng sùng bái cầu

tài, cầu lộc hơn là một lễ hội lịch sử.

4.2.2.4. Sự kiện Lý Thường Kiệt đánh quân Tống

Vùng biển Móng Cái có các lễ hội lịch sử nổi tiếng như: lễ hội đình Vạn Ninh,

lễ hội đền Xã Tắc, lễ hội đình Tràng Vĩ…

Page 145: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

142

Lễ hội đình Vạn Ninh tại thôn Trung, x. Vạn Ninh, TP Móng Cái được tổ chức

vào ngày 10, 11 tháng Giêng. Là nơi Lý Thường Kiệt tập kết thủy quân trong trận

chiến chống quân Tống xâm lược, vì vậy người dân nơi đây tôn Lý Thường Kiệt làm

Thành hoàng làng. Theo sử sách ghi lại, vào cuối thế kỷ XI, nhà Tống âm mưu thôn

tính Đại Việt, chúng tập trung quân, lương thực, khí giới ở Ung Châu, Khâm Châu và

Liêm Châu để làm bàn đạp tiến quân xâm lược nước ta. Với tư tưởng tấn công để tự

vệ, Lý Thường Kiệt chủ trương tổ chức cuộc tập kích thẳng sang đất Tống nhằm tiêu

diệt các căn cứ xâm lược của kẻ địch rồi quay về bố trí phòng thủ đất nước. Mục tiêu

của cuộc tấn công là các trại biên giới của quân Tống, cửa biển Khâm Châu, Liêm

Châu và chủ yếu là thành Ung Châu. Ngày 27 tháng 10 năm 1075, cuộc tiến công của

quân ta bắt đầu. Đạo quân của các tù trưởng thiểu số chia thành nhiều mũi vượt biên

giới tiến đánh các trại quân Tống, đạo quân chủ lực của Lý Thường Kiệt vượt biển

đánh chiếm cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu với sức tiến công mãnh liệt. Chỉ trong

vòng 7 ngày, quân Đại Việt đã chiếm được Khâm Châu, Liêm Châu và có mặt ở thành

Ung Châu. Ngày mùng 1 tháng 3 năm 1076, quân ta hạ thành Ung Châu. Tháng 4 năm

đó, Lý Thường Kiệt cho quân rút về nước sau khi đã triệt phá thành, đánh tan viện

binh của giặc.

Lễ hội đình Vạn Ninh tôn thờ Lý Thường Kiệt là vị tướng tài bảo vệ vùng biên

viễn đông của tổ quốc đồng thời tôn thờ ông làm Thành hoàng làng cùng các vị thần

khác là: Lý Thường Kiệt, Không Lộ thiền sư, Giác Hải thiền sư, Trần Hưng Đạo, Trần

Thánh Tông, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Lê Lợi.

4.3. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt với

các vùng biển đảo khác

Lễ hội không thuần túy là một hình thức sinh hoạt hóa nhằm để vui chơi, giải

trí cho hàng vạn người mà còn là một hình thức sinh hoạt văn hóa vì thần linh, cho

thần linh, với những ước vọng hết sức nhân văn của người xưa trao truyền lại là cầu

nước, cầu mùa, cầu cho quốc thái dân an, người yên, vật thịnh. Mặc dù nằm trong

dòng chảy của lễ hội truyền thống ven biển Bắc Bộ nhưng lễ hội truyền thống vùng

biển đảo QN vẫn có những điểm khác biệt so với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ về

Page 146: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

143

tín ngưỡng, quy mô, thời gian, lễ thức, mục đích, nghệ thuật trình diễn… Và đối với

vùng biển Trung Bộ thì văn hóa vùng biển đảo QN lại càng có sự khác biệt nhiều hơn.

4.3.1. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt

với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ

4.3.1.1. Sự tương đồng và khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng

Chúng tôi xin tạm khái quát những tín ngưỡng chính của các tỉnh miền duyên

hải Bắc Bộ như sau:

Thái Bình: Ở Thái Bình đức Thánh Không Lộ được phụng thờ khá nhiều, đặc

biệt trong lễ hội chùa Keo. Ngoài ra còn có thờ các nhân vật lịch sử như Phạm Ngũ

Lão (Hội đền Hét và tục thi vật cầu), Nguyễn Hãng (là vị tướng phò Đinh Bộ Lĩnh dẹp

loạn, hóa thân thành cây ngô đồng trôi dạt về vùng biển Quang Lang, được thờ trong

lễ hội Quang Lang)… Thờ các vị thần có: Đông Hải Đại Vương, Nam Hải Đại

Vương, Tây Hải Đại Vương, bà chúa Muối,…

Hải Phòng: Về tín ngưỡng ở vùng biển đảo chủ yếu thờ các vị thần Đông Hải

Đại Vương (được thờ tự tại 141 đình, đền trong địa bàn Hải Phòng), Nam Hải Đại

Vương, Điểm Tước Đại Vương, Lão Đảo Thần Vương. Trong Lễ hội cầu mưa ở Đền

Bì, huyện Tiên Lãng còn thờ thần Kinh Sơn, Trí Minh, Bát Hải Đại Vương. Nhiều nơi

còn thờ Tứ vị Thánh nương.

Hải Phòng còn có 114 làng thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng (Đoàn

Thượng là một nhân vật lịch sử có thật). Các vị thần lịch sử được người dân thờ như: Ngô

Vương Quyền (lễ hội tưởng niệm Ngô Vương Quyền được tổ chức rộng rãi tại tổng

Lương Xâm nay là làng Xâm Bồ, phường Nam Hải, quận Hải An cho đến các làng gần

sông Bạch Đằng), Lê Chân, Hưng Đạo Đại Vương, Phạm Tử Nghi, Nguyễn Văn Giáp…

Ngoài ra còn thờ Lục vị Tiên Công được coi là sáu cụ tổ đầu tiên đại diện cho

các dòng họ có công khai phá Đồ Sơn.

Nam Định: Bao phủ không gian lễ hội Nam Định là tín ngưỡng thờ Mẫu, tín

ngưỡng thờ Đức Thánh Trần. Dân gian có câu “Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ”.

Bên cạnh đó tín ngưỡng thờ Đức Thánh Triệu (là một vị tướng giỏi, đã từng

đánh đuổi giặc Lương giành độc lập cho dân tộc vào thế kỉ VI). Về tín ngưỡng dân

gian của người Việt, việc Triệu Quang Phục tuẫn tiết tại khu vực cửa biển Đại Nha

Page 147: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

144

trở nên linh dị đối với cư dân miền sông, miền biển. Về sau, tại địa điểm Đại Nha

nhân dân đã lập đền thờ phụng. Đến nay có rất nhiều làng, xã khác ở các huyện: Ý

Yên, Nghĩa Hưng, Nam Trực, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu đến rước chân

nhang, linh vị đức Triệu Quang Phục về thờ, lâu dần trở thành vị hiệu chính của

đền, được các triều đại phong kiến ban cấp sắc phong, suy tôn là Thành hoàng

làng. Cho đến nay các lễ hội diễn ra tại di tích thờ Triệu Quang Phục đều được

diễn ra vào ngày mất của ông (14 tháng 8 âl), phong phú cả về nội dung, hình thức,

nghi lễ thể hiện, mà tiêu biểu là tục rước nước. Những lễ hội của tín ngưỡng thờ

Triệu Quang Phục đã chứng tỏ mối quan hệ nguồn gốc, truyền thống gắn bó, liên

kết chặt chẽ, giao lưu văn hóa và sinh hoạt tâm linh giữa cư dân các làng xã ven

sông, ven biển tỉnh Nam Định. Một số lễ hội khác ở Nam Định cũng thờ các tướng

lĩnh như tướng Đặng Dung (lễ hội đền Ngọc Chấn - x.Yên Trị, h.Ý Yên), Trần

Nhật Duật, Trần Hưng Đạo…

Trong các lễ hội ven biển ở Nam Định còn thờ các vị thánh thiền sư như

Thiền sư Dương Không Lộ (lễ hội chùa Keo làng Hành Thiện, x.Xuân Hồng, h.Xuân

Trường), Đức Thánh Tổ, pháp hiệu Minh Không (lễ hội chùa Cổ Lễ)…

Qua phần khái quát trên chúng tôi xin đưa ra một vài nhận xét chung:

Về tín ngưỡng thờ cá Ông (cá voi)

Vùng duyên hải Bắc Bộ, tín ngưỡng thờ cá voi dường như vắng bóng. Tuy

nhiên vùng biển đảo QN xưa kia cũng có thờ cá voi và có nét khác với tín ngưỡng thờ

cá voi ở các nơi khác. Những nơi cá voi vào bờ hoặc nơi cá voi chết ở vùng biển QN

thường được ngư dân thờ trong các miếu nhỏ. Điều này khác biệt so với một số nơi ở

ven biển miền Nam là thường thờ cá Voi trong các lăng, đồng thời lăng cũng là nơi

chôn cất hoặc lưu giữ xương cá voi. Nhưng thần cá voi ở vùng duyên hải Bắc Bộ lại

có tên gọi là Đông Hải Đại Vương và đến thời Lý - Trần được nhân hóa và hóa thân

thành Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng).

Việc thờ phụng các nhân thần

Vùng biển Bắc Bộ có một vai trò trọng yếu trong quân sự nước nhà. Vì

vậy, dưới các triều đình phong kiến xưa thường cử những tướng lĩnh tài ba xuống

canh giữ vùng biển này. Do đó, hầu hết lễ hội ven biển ở duyên hải Bắc Bộ đều

Page 148: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

145

thờ các nhân vật lịch sử có thật và sau này đã được thần thánh hóa thành các vị

thần linh thiêng.

Lễ hội duyên hải Bắc Bộ thờ phổ biến các tướng lĩnh như: Phạm Ngũ Lão (Hội

đền Hét và thi vật cầu), Nguyễn Hãng (hội miếu Ba thôn), Ngô Quyền (lễ hội tưởng

niệm Ngô Quyền), Đặng Dung (lễ hội đền Ngọc Chấn), Trần Hưng Đạo, Triệu Quang

Phục (lễ hội thờ Đức Thánh Triệu)...

Là quê hương đầu tiên của dòng họ nhà Trần, do đó vùng biển đảo QN thờ

khá nhiều các tướng lĩnh nhà Trần có công đánh đuổi giặc ngoại xâm. Đó là Trần

Khánh Dư, một tướng lĩnh tài ba có công lớn đối với triều Trần được vua Trần

phong tước Nhân Huệ Vương, chức Phiêu Kỵ đại tướng quân trong lễ hội Vân

Đồn. Hay Trần Quốc Tảng, người con thứ ba của Hưng Đạo Vương Trần Quốc

Tuấn và các tướng lĩnh nhà Trần được thờ tại đền Cửa Ông. Vì có công lớn trong

cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỉ XIII (1285, 1288) nên ông

được phong tước Đông Hải Đại Vương. Đây cũng là điều rất khác biệt của vùng

biển đảo QN.

Việc thờ cúng các vị tiền hiền có công khai hoang, lập ấp là tín ngưỡng tốt

đẹp của hầu hết các vùng trên cả nước, nhưng hiện thực hóa thành tín ngưỡng để

đời đời sau ghi nhớ và con cháu khắp mọi miền hướng về mỗi khi tổ chức lễ hội thì

không nơi đâu làm được như lễ hội Tiên Công ở đảo Hà Nam, Yên Hưng, QN.

Tín ngưỡng thờ Tiên Công ở vùng đảo Hà Nam được hình thành vào những

năm đầu thế kỷ XV bởi công cuộc quai đê, lấn biển, khai đất, lập làng của những

người dân đến từ vùng châu thổ sông Hồng. Những người có công đầu tiên chiêu

tập dân đến vùng cửa sông Bạch Đằng này quai đê lấn biển, lập đất lập làng, lập

nên vùng đảo Hà Nam là 24 vị (17 vị quê ở phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, thành

Thăng Long; 2 vị quê ở Trà Lý (thuộc tỉnh Nam Định); 3 vị quê ở xã Quang Lan

(thuộc Nam Định ngày nay); 2 vị quê ở Phủ Lý. Để tưởng nhớ công lao của những

người đã có công đầu quai đê lấn biển lập nên vùng đảo Hà Nam, dân đảo Hà Nam

đã tôn vinh họ là Tiên Công và phụng thờ tại một đền, hai đình và một miếu, hằng

năm mở hội để cúng tế.

Page 149: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

146

Tín ngưỡng thờ Mẫu

Cư dân ven biển duyên hải Bắc Bộ hết sức tin tưởng vào sự linh ứng, phù trợ của các

Mẫu, một số nơi gọi là “Bà”. Trải qua bao thăng trầm của thời gian nhưng trong các khu di

tích ven biển vẫn còn nhiều ngôi miếu cổ xưa thờ Bà. Để phù hợp với các vùng đất mới, tức

nó vừa nhập cư, vừa tích hợp từ đa nguồn, từ tín ngưỡng thờ nữ thần của người bản địa, tín

ngưỡng thờ Mẫu vẫn có vị trí vô cùng quan trọng trong tâm thức của người dân.

Ở Thái Bình trong lễ rước nước Quang Lang người ta còn thờ bà chúa Muối.

Lớp văn hóa thủa sơ khai đầu tiên của tín ngưỡng thờ Mẫu. Còn ở khắp các lễ hội ven

biển Bắc Bộ thì đều thờ Tứ vị Thánh nương.

Theo các tác giả trong cuốn Văn hóa dân gian làng ven biển [74] thì tục thờ Tứ

vị Thánh nương là một tục thờ tiêu biểu của nhân dân vùng Nghệ An, Thanh Hóa. Ở

Nghệ An có hơn 30 làng thờ vị thần này, ở Thanh Hóa có 81 nơi thờ. Huyền thoại về

họ đều xuất phát từ Trung Hoa. Truyền thuyết về Tứ vị Thánh nương ở Bắc Bộ và đặc

biệt trên đảo Quan Lạn đều kể rằng: Tống Hậu và các công chúa của nhà Tống vì chạy

giặc Nguyên Mông mà bị đắm thuyền ngoài biển Đông, sau đó, bị trôi về vùng biển

nước ta và hiển linh thành Nam Hải phúc thần.

Tín ngưỡng thờ Tứ vị Thánh nương có thể bắt đầu từ tín ngưỡng thờ thần biển

như Tạ Chí Đại Trường nhận định hay từ tín ngưỡng thờ cá - lớp đầu tiên của ngư dân

bản địa như tác giả Ngô Đức Thịnh đưa ra giả thuyết [76, tr.58] sau đó được linh

thiêng hóa thành nữ thần biển, để rồi trở thành hệ thống nhân thần mà các triều đại

phong kiến Việt Nam phong các tước Tứ vị Thánh nương, hoặc Đại Càn Quốc gia

Nam Hải Tứ vị Thánh nương. Nhưng dù nguồn gốc ở đầu, trong thực tế tục thờ Tứ vị

Thánh nương rất phổ biến ở các làng ven biển.

Có lẽ toàn tỉnh QN, trên đảo Quan Lạn tín ngưỡng thờ Tứ vị Thánh nương vẫn

còn được duy trì và vai trò quan trọng đối với người đi biển, đồng thời cũng là di tích

duy nhất gắn với tín ngưỡng phồn thực, đó là miếu Bà. Đây cũng là điểm rất khác biệt

so với các vùng biển khác trong khu vực. Những người đàn ông nơi đây trước khi ra

khơi thường đẽo một khúc gỗ tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam làm lễ vật dâng

cúng, để xin Bà phù hộ cho đánh bắt được nhiều tôm, cá... Các cụ già kể lại rằng,

trong lễ hội xưa đàn bà không bao giờ được vào trong miếu, chỉ có đàn ông không

Page 150: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

147

mặc gì, cầm một cành lá cây che phần dưới vào làm lễ. Mặc dù miếu nhỏ bé, sơ sài

nhưng rất linh thiêng. Nhiều lần ngư dân định tu sửa nhưng xin ý kiến, Bà đều

không đồng ý. Vì vậy miếu Bà trông khá lụp xụp trên hòn đảo lịch sử oai hùng

này. Như vậy, về hình thức tế lễ và nghi lễ thờ phụng cũng hết sức khác biệt so với

các vùng khác trong Bắc Bộ.

Từ tư liệu điền dã của chúng tôi cho thấy, trước đây Tứ vị Thánh nương ở QN

nói riêng và duyên hải Bắc Bộ nói chung chắc chắn đã được thờ phụng hết sức thành

kính. Nhưng do điều kiện sinh sống, sự biến đổi của thời cuộc mà tín ngưỡng Tứ vị

Thánh nương đã đơn giản hơn, hay nói cách khác là đã được giản lược hơn so với

nhiều nơi khác. Trong các lễ hội hiện nay thì hình ảnh của tín ngưỡng thờ Mẫu chỉ có

phần lễ mà ít có phần hội, cách bài trí thì sơ sài.

Thờ các vị thần

Hầu hết các làng ven biển duyên hải Bắc Bộ đều thờ thần Không Lộ, Bạch

Điểm Tước, Đại Càn quốc gia tứ vị thượng đẳng thần, Nam Hải tôn thần, Nam Hải

trung đẳng thần, Hải tế hiển liệt chi thần, Hải khẩu hùng nghị chi thần, Đông Hải đại

vương thượng đẳng thần, Đông Hải long vương đại vương, Thủy Chung quảng tế chi

thần, Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần...

Tuy nhiên trên đảo Hà Nam ở Yên Hưng, QN vẫn còn thờ thần Nông là vị thần

từng được thờ chính trên đảo, được coi như là tổ nghề. Ngày nay việc thờ cúng có

phần mờ nhạt.

Tục thờ thần biển, thần sông ở Yên Hưng có nhiều nét khác biệt với tục thờ

thần biển ở Trung Bộ. Ngoài các vị thần biển mà nhiều nơi thờ như Thủy cung Thánh

mẫu, thần Biển Cửa Càn Hải, thần Nam Hải, Đại hải chi thần, Thủy thần Hà Bá, ở

Yên Hưng còn có nét rất riêng là tục thờ Long mã trong các lễ mừng thọ; tục thờ

những người chết đuối hiển linh ở các cống kéo thuyền qua đê ra sông biển của các

làng. Nơi thờ thần Biển thường ở các đình làng, ở các đền miếu nơi bến sông hoặc ở

đầu sông cửa biển, đặc biệt ở các cống kéo thuyền qua đê của các làng.

Các vị thần này đều liên quan đến biển: Long mã, thần biển Cửa Hải, Đại Hải

thần, Đức Thánh Niệm, Quan Quận, Phạm Tử Nghi, Thánh mẫu, Nhị Vị Tiên Công,

Page 151: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

148

Đức Chúa Bản Thổ, Nam Hải tôn thần, bà Chúa cua, bà Minh Hà, cụ Lê Đình Vỹ,

Thủy Cung Thánh Mẫu…

Việc thờ thủy thần ở vùng biển QN cũng rất được coi trọng: các vùng ven biển

và hải đảo thường thờ các vị thần như Đại Càn Quốc Gia Tứ vị thượng đẳng thần,

Nam Hải Tôn thần, Đông Hải Long Vương Đại vương là các vị thần Nam Hải. Tuy

thần hiệu mỗi nơi kê khai khác nhưng danh hiệu chung là “Đại Càn Quốc Gia Nam

Hải tứ vị tôn thần”. Danh hiệu này được ghi trong sắc phong xã Quan Lạn và một

trong số thần tích ở nhiều xã ven biển.

Tóm lại, tín ngưỡng dân gian của người Việt trong các lễ hội truyền thống

vùng biển đảo QN cơ bản giống như các tỉnh đồng bằng: thờ bách thần, thờ Mẫu,

thờ Thành hoàng... “Tín ngưỡng dân gian ở QN ghi đậm công sức của những người

tiên phong mở đất rất lớn. Họ đã bằng ý chí và mồ hôi nước mắt để quai đê lấn

biển, san đồi, bạt núi, khai đất, lập làng, để đời sau con cháu tiếp tục một cách

thuận lợi và không quên tri ân với các vị tiền bối” [42, tr.451].

4.3.1.2. Sự tương đồng và khác biệt trong lễ hội

Các lễ hội ven biển Bắc Bộ còn là một sinh hoạt thể thao, là trò diễn để vui

chơi, giải trí… có quy mô lớn, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân trong và ngoài

vùng. Lễ hội ven biển là sự biểu dương sức mạnh, tinh thần vui chơi giải trí. Vì vậy,

người dân vùng biển đảo QN đã tự giác, tự nguyện gìn giữ lễ hội truyền thống một

cách nguyên vẹn cho đến ngày nay.

Xem xét lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN với các lễ hội ven biển Thái

Bình, Hải Phòng, Nam Định thì lễ hội truyền thống ở QN cũng có một vài nét tương

đồng, nhưng cũng có nhiều nét khác biệt:

Thông thường, nghi lễ đầu tiên của lễ hội vùng biển đảo (chủ yếu là lễ hội

đua thuyền) là nghi lễ mang tính chất tâm linh của lễ hội. Hầu như các lễ hội đều

có trình báo với thần, thánh trước và sau khi, hoặc là với ý nghĩa diễn cho thần linh

ngự lãm. Thông thường, mỗi làng khi tổ chức lễ hội chỉ trình báo với một hay hai

thần (hoặc thánh) như hội chùa Keo Thái Bình, hội đền Hét và thi vật cầu, hội

miếu Ba thôn… nhưng trong các lễ hội ven biển QN cũng là trình thần, hầu thần,

Page 152: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

149

nhưng không phải một hay hai thần mà là đa thần (lễ hội Tiên Công - 17 vị Tiên

Công, lễ hội Quan Lạn - 6 vị)…

Cũng qua tính chất diễn xướng tâm linh, thì ngoài ý nghĩa diễn hầu thần với

lớp nghĩa đầu tiên là cầu nước, cầu mùa, lễ hội vùng biển đảo QN còn có ý nghĩa là

một trò diễn vì các bậc tiền nhân của họ, những người khai phá và xây dựng nên

hòn đảo (lễ hội Tiên Công với trò đấu vật, đắp đê tượng trưng). Vì thế lễ hội Tiên

Công còn là dịp ôn lại truyền thống, noi gương ý chí của ông cha buổi đầu gây

dựng cơ đồ với biết bao gian khổ, khó khăn. Bên cạnh đó hội đua thuyền Bạch

Đằng và hội đua thuyền Quan Lạn diễn lại và tưởng nhớ đến người anh hùng Trần

Khánh Dư và chiến thắng Bạch Đằng năm xưa.

Cũng như các lễ hội trong cả nước, lễ hội vùng ven biển Bắc Bộ nói chung và lễ

hội vùng biển đảo QN nói riêng cũng không nằm ngoài mục đích cầu cho mưa thuận

gió hòa, nhân dân an cư lạc nghiệp, đất nước thái bình, thịnh trị. Vì vậy, trong lễ hội

Miếu Ba Thôn (Thái Bình) với tục rước nước và gieo ống đánh cá, lễ hội Cầu ngư (Hải

Phòng) với lễ rước nước (lấy nước ở vùng giao hòa giữa 2 dòng biển và sông), lễ hội

cầu mưa ở Đền Bì, huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) thờ thần Kinh Sơn… phản ánh phần

nào phong tục cầu nước của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á.

Ở vùng duyên hải Bắc Bộ trong các lễ hội có tục đua thuyền như lễ hội Bạch

Đằng (QN), lễ hội đền Cửa Ông (QN), lễ hội Quan Lạn (QN), lễ hội Trà Cổ (QN), lễ

hội Cầu ngư (Hải Phòng), lễ hội cầu mưa ở Đền Bì, huyện Tiên Lãng (Hải Phòng), lễ

hội làng Ngọc Chấn (Nam Định), lễ hội chùa Keo (Thái Bình), chùa Cổ Lễ (Nam

Định)… Nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng đua thuyền là lễ hội nước phổ biến của cư

dân nông nghiệp khu vực Đông Nam Á, mang nhiều ý nghĩa gắn với việc thờ thần

nước, tục cầu nước và tín ngưỡng phồn thực”. Tuy nhiên vùng duyên hải Bắc Bộ trong

đó có QN có tục đua thuyền không mang ý nghĩa như trên mà tái hiện lại các sự kiện

lịch sử của dân tộc như hội đua thuyền Giang chiến tưởng nhớ tướng quân Đặng Dung

đã cùng đồng đội, nghĩa sĩ làng Ngọc Chấn chặn đánh quân Minh (Nam Định); lễ hội

Bạch Đằng (QN) tái hiện lại chiến thắng Bạch Đằng, lễ hội Quan Lạn (lễ hội Vân Đồn)

diễn tả lại 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông của tướng Trần Khánh Dư…

Page 153: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

150

Điều hết sức đặc biệt trong các hội bơi trải ở duyên hải Bắc Bộ có cả 3 hình

thức bơi trải: bơi trải cạn, bơi trải đứng ở lễ hội chùa Keo (x. Xuân Hồng, h. Xuân

Trường, Nam Định), bơi trải ngồi ở hội chùa Cổ Lễ (thị trấn Cổ Lễ, h. Trực Ninh,

Nam Định). Có thể nói đây là điều khác biệt nhất của vùng duyên hải Bắc Bộ so

với các vùng văn hóa ven biển khác.

Trong phần hội của các lễ hội ven biển vùng duyên hải Bắc Bộ có rất nhiều diễn

xướng thể hiện tính dẻo dai, khéo léo, tinh thần thượng võ, thể thao của cư dân ven biển

như: thi vật cầu (hội Đền Hét), lễ hội vật cầu Kim Sơn (Hải Phòng) nhằm rèn luyện thể

lực cho quân sĩ; trình diễn nghề gieo ống đánh cá trong lễ hội Miếu Ba Thôn của làng

Quang Lang thực sự là một nghệ thuật nghề nghiệp đỉnh cao trên sông nước, thể hiện tài

trí của ngư dân; hội chèo bơi - đi kheo ở làng Quần Mục (Thái Bình), trò đi kheo ở vùng

biển Hải Hậu, Nghĩa Hưng đều thể hiện sự khéo léo, ôn lại cách đánh cá của cha ông xưa;

hội trận thi đánh cá trong lễ hội làng Diêm Điền, xã Bình Hòa, huyện Giao Thủy (Nam

Định) thể hiện niềm say mê nghề đi biển và ước vọng của người dân về một mùa bội thu.

Khác với Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, phần hội trong các lễ hội vùng

biển đảo QN lại trình diễn những phong tục, trò chơi không nơi nào có được như:

lễ động thổ, đấu vật tượng trưng cho quá trình quai đê lấn biển của các vị Tiên

Công (trong lễ hội Tiên Công); trò chơi bịt mắt chém cá chình, hội thi ông Voi và

nuôi ông Voi, múa cây bông (lễ hội Trà Cổ); tục múa long đao (lễ hội Quan Lạn)

thể hiện sự khéo léo, oai hùng của quân sĩ nhà Trần…

Trong lễ hội Tiên Công có phong tục rước kiệu người sống (các cụ Thượng

thọ trên đảo Hà Nam) lên miếu Tiên Công để tỏ lòng thành kính và cũng là niềm

vinh dự của dòng tộc khi có người thượng thọ. Đây là một phong tục đẹp mà hiếm

có nơi nào có được. Đó còn thực sự là một lễ hội gia đình, họ tộc. Người ta quan

niệm gia tộc nào có người thượng thọ nghĩa là gia tộc đó ăn ở phúc đức, làm nhiều

việc thiện, lao động sản xuất giỏi, bất kể ai dù chi trên hay chi dưới, người đạt đến

tuổi thượng thọ đều được gia tộc kính trọng. Đây cũng là một nét đẹp văn hóa cần

được lưu truyền và dạy dỗ cho thế hệ con cháu trong gia đình, dòng tộc. Được tham

dự, chứng kiến những lễ hội như vậy sẽ là phương tiện giáo dục hữu hiệu nhất đối với

các thế hệ trẻ ngày nay về giá trị gia đình người Việt.

Page 154: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

151

Về nghệ thuật trình diễn trong các lễ hội duyên hải Bắc Bộ, theo chúng tôi

có lẽ đây là vùng văn hóa đặc sắc, phong phú nhất. Nếu ở Thái Bình, Nam Định

trong những ngày mở lễ sáng rối, tối chèo vang cả một vùng thì ở Hải Phòng, QN

lại là hát đúm.

Hát đúm trong lễ hội ở Hải Phòng là hát trên cạn nhưng hát đúm ở QN có cả

hát trên cạn và dưới thuyền. Hát đúm là một loại hình diễn xướng của dân tộc Kinh có

trong lễ hội truyền thống ở địa phương (lễ hội Tiên Công) [PL.9.3, A.44, tr.254]. Hát

đúm còn gọi là hát ghẹo trai gái, là lối hát đối đáp giữa nam và nữ, có thể một nam và

một nữ, song thường là tốp nam với tốp nữ. Hát đúm thường diễn ra trên đất liền trong

các dịp lễ, tết, hội, song đôi khi cũng diễn ra trên sông, trên biển giữa các thuyền bên

nam và bên nữ trong các buổi lao động hay những lúc nghỉ ngơi hoặc trong các đám

cưới của dân vùng sông nước (làng chài Cửa Vạn, TP Hạ Long hiện nay) [PL.9.3,

A.45, tr.254]. Hát đúm là trò hát thường được hát trong các lễ hội truyền thống ở vùng

đảo Hà Nam, h. Yên Hưng, tỉnh QN.

Nói chung, về lễ hội truyền thống ven biển Bắc Bộ hiện nay nhiều nơi vẫn

còn giữ được lễ hội đua thuyền như ở vùng biển Hải Hậu, Nghĩa Hưng (Nam Định),

đảo Quan Lạn, đảo Hà Nam (QN).

Môi trường sản xuất ngư nghiệp và nông nghiệp, hay sự kết hợp chặt chẽ giữa

ngư nghiệp và nông nghiệp của cư dân ven biển QN đã sản sinh và bảo lưu lâu bền

nhiều hình thức tín ngưỡng và lễ hội khá phong phú và đa dạng, liên quan đến nghề

chài lưới, sản xuất nông nghiệp, các nghi lễ vòng đời người… trong phạm vi gia đình,

tộc họ, cộng đồng làng xã, mà trong đó nổi bật là tín ngưỡng và lễ hội Tiên Công, tín

ngưỡng thờ Mẫu, lễ hội Trà Cổ, lễ hội Bạch Đằng, lễ hội Quan Lạn…

4.3.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt

với các vùng biển đảo khác ở Trung Bộ

4.3.2.1. Sự tương đồng và khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng

Cư dân ven biển miền Trung hiện nay còn bảo lưu nhiều sinh hoạt văn hóa, tín

ngưỡng. Ngoài việc thờ cúng ông bà tổ tiên gắn với tín ngưỡng nghề nghiệp còn có

thờ cúng Thánh sư, Tổ nghề, thần Tài, cá Ông...; gắn với tín ngưỡng thờ thần, thánh,

có thờ cúng cá Ông, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các nữ thần, thờ cúng âm hồn...

Page 155: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

152

Vì vậy, miền Trung có một số hình thức lễ hội tiêu biểu của cư dân ven biển như: Lễ

hội thờ cúng cá Ông (cá voi); nghi lễ thờ Mẫu; lễ khao lề thế lính Hoàng Sa; lễ hội

đua thuyền; hội đám chay, lễ hội cầu ngư…

Tín ngưỡng thờ cá Ông (cá voi)

Tục thờ cá Ông tại ven biển Trung Bộ là tín ngưỡng lớn nhất, thiêng liêng, bền

chặt trong tâm linh cộng đồng ngư dân vùng ven biển, hải đảo; còn ở miền Bắc nói

chung và QN nói riêng thì tục thờ cá voi mờ nhạt và không còn được lưu giữ.

Trước hết phải kể đến miếu thờ cá voi ở vùng biển QN, nơi tiếp giáp với vùng

biển Trung Quốc. Theo sách Địa chí Quảng Ninh [42] thì ở vùng biển này cũng có

những miếu nhỏ thờ cá voi (nơi cá voi chết, trôi dạt vào nhưng không có lăng/đền lưu

giữ ngọc cốt) như những vùng khác và dĩ nhiên cũng không có tế lễ rầm rộ. Tuy nhiên,

theo sự điều tra, khảo sát của chúng tôi thì ở Quan Lạn có một số miếu nhỏ không có

tên, vì vậy nhiều người đoán rằng đó là thờ cá voi, nhiều người trên đảo lại cho rằng thờ

cá heo (vì biển QN trước đây nhiều cá heo hơn).

Tại Bảo tàng tỉnh QN có trưng bày một bộ xương cá voi khá lớn được tìm thấy

trên đảo Ngọc Vừng (vịnh Bái Tử Long). Một số bộ xương cá voi nhỏ hơn còn được

tìm thấy trên đảo Cô Tô. Trong các báo cáo khảo cổ học cũng có nói tới việc tìm thấy

bộ xương cá voi trên đảo Hoàng Tân ở Quảng Yên (huyện Yên Hưng, tỉnh QN).

Hiện nay, một số nhà nghiên cứu văn hóa dân gian ở QN cho rằng đền Cửa Ông

có thể là cách gọi chỉ đền thờ cá voi (cá Ông) nên gọi là Cửa Ông. Giả thuyết này theo

chúng tôi không thuyết phục vì đền Cửa Ông thờ Trần Quốc Tảng, được dân gian gọi là

Đức Ông, lại thờ ở Cửa Sót (Cửa Suốt) nên mới gọi là đền Cửa Ông. Người dân QN

đánh cá chủ yếu trong vịnh, do đó ngư dân không có điều kiện tiếp xúc nhiều với cá

voi. Mặt khác, vùng biển QN lại có nhiều đảo và đá ngầm do đó không phải là môi

trường biển rộng lớn cho cá voi sinh sống. Vì vậy tín ngưỡng thờ cá voi cũng dường

như vắng bóng.

Với người Việt ở Bắc Bộ thì tín ngưỡng cá Ông xuất hiện khi họ tiếp cận với

biển và tiếp cận với bộ tộc thuộc ngữ hệ Malayo - Indonesien (mà một số nhà nghiên

cứu còn cho rằng bộ tộc này vốn một thời sống dọc ven biển Việt Nam từ vùng biển

QN vào tận các rẻo đất cuối phía Nam). Điều này minh chứng bằng dấu vết thờ cá voi

Page 156: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

153

ở hàng trăm đền thờ dọc ven biển Bắc Bộ, ít nhất là từ Bần Yên Nhân dọc xuống tận

Hải Phòng như GS. Trần Quốc Vượng xác nhận. Nhưng thần cá voi ở đây có tên gọi

là Đông Hải Đại Vương, và để đến đời Lý - Trần được nhân hóa và hóa thân thành

Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng). Còn với người Việt ở phía Nam,

việc thờ cá voi cũng được lịch sử hóa (gắn với vận mệnh Nguyễn Ánh), nhưng không

hóa thân thành nhân vật lịch sử nào. Mà dầu có hóa thân hay không, thì nói chung tín

ngưỡng này cũng bắt đầu từ tín ngưỡng thờ cá và sau đó ra biển là thờ cá voi. Nó

không phải của riêng người Chăm hay người Việt.

Tục thờ cá Ông ở miền Trung mà tiêu biểu là Quảng Ngãi còn hội đủ các yếu

tố, lễ thức phong phú và độc đáo, bảo lưu được những giá trị của một tục thờ cúng

đặc biệt, tích hợp văn hóa từ đa nguồn, thu hút được nhiều yếu tố văn hóa văn nghệ

dân gian. Mặc dù cùng nằm trong dòng chảy thống nhất từ Bắc vào Nam, bắt nguồn

từ tín ngưỡng thờ cá (cá voi) của lưu dân người Việt phối hợp với tín ngưỡng thờ cá

voi của người Chăm Pa cổ (là sự hòa trộn của một loại hình tín ngưỡng thờ vật thiêng

của hai dân tộc từng sống cộng cư với nhau trong nhiều thế kỷ trước), nhưng tín

ngưỡng thờ cúng cá Ông ở Quảng Ngãi cũng có nhiều nét chung, riêng với tín

ngưỡng thờ cá Ông ở nhiều nơi khác. Nét chung thể hiện trên bình diện tổng quát, nét

riêng thể hiện trong các chi tiết. Đặc biệt nhiều lăng Ông ở Quảng Ngãi thực sự thay

thế đình làng, thực thi các chức năng của đình làng. Nhưng dẫu có nhiều hay ít nét

chung, nhiều hay ít nét riêng, thì tục thờ cúng cá Ông cũng là một mỹ tục, giàu tính

nhân văn, giàu tính hướng thiện.

Tín ngưỡng thờ Mẫu

Tín ngưỡng thờ Mẫu (thờ Bà) ở miền Trung là sự di cư từ Bắc Bộ song đã có

sự biến đổi cho phù hợp với vùng đất mới. Các bà Thánh mẫu Thiên Y A Na, Kim

Đức Thánh Phi, Thủy Đức Thánh Phi, Mộc Đức Thánh Phi, Hỏa Đức Thánh Phi, Thổ

Đức Thánh Phi hay Thủy Long Thần Nữ có thể là sự chuyển hóa hình tượng mẫu

Thoải ở vùng châu thổ Bắc Bộ.

Nhìn chung, về nghi lễ tế tự, hầu hết việc tế tự ở các dinh Bà ven biển miền

Trung chỉ có phần lễ mà ít có phần hội, trừ một vài nơi riêng lẻ và phần lễ cũng như

tế lễ ở đình nhưng có quy mô nhỏ hơn tế đình.

Page 157: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

154

Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung vẫn là tín ngưỡng nằm trong một dòng chảy

thống nhất từ Bắc vào Nam, vẫn là đạo thờ Tam phủ, Tứ phủ nhưng đã có ít nhiều biến

đổi để phù hợp với điều kiện môi trường sinh thái và xã hội ở địa phương.

Mặc dù trải qua những thăng trầm của lịch sử nhưng vùng ven biển miền

Trung vẫn còn hàng trăm dinh miếu thờ Mẫu/thờ Bà cổ xưa, có nhiều nơi còn khá

đậm đặc, và thường được đặt cạnh lăng Ông theo kiểu tư duy lưỡng hợp của người

Việt. Nhìn dưới góc độ phổ quát, người ven biển Quảng Ngãi chủ yếu thờ Thiên Y A

Na, Ngũ hành thượng giới và Thủy long Thần nữ, tạo nên một mô hình thờ Mẫu

“Tam phủ” khá đặc trưng (cũng là cách thờ Mẫu tam phủ của người Việt nhưng đã

biến hóa cho phù hợp với vùng đất mới, cũng là một bước phát triển trên cơ sở tục thờ

nữ thần). Ngoài ra, người Việt ven biển miền Trung còn thờ Tứ vị Thánh nương,

Thiên Hậu, Linh Sơn Thánh Mẫu, và cả các Mẫu có yếu tố Chăm khác, như Ngung

Man Nương, U Linh Sạ nữ vương... nhưng cũng đã bị vỡ vụn, hoặc không phổ biến.

Ở những vùng có người Hoa thì nơi thờ Mẫu bị pha tạp nhiều hơn so những vùng đất

khác trong tỉnh. Việc tế lễ, ở hầu hết các dinh Bà hiện nay chỉ được tế lễ “trầm trà”,

có phần lễ mà ít có phần hội, cách bài trí thờ phụng thì giản lược.

Các hiện tượng văn hóa dù có đa dạng như thế nào, thờ Thiên Y A Na, Bà

Thủy Long hay nữ thần nào khác, thì cái cốt lõi vẫn là suy tôn thần tượng Mẹ/Mẫu,

(suy tôn người phụ nữ Việt). Dân biển QN chủ yếu thờ Thánh Mẫu, có nơi là Mẫu

Thoải, có nơi là chúa Liễu Hạnh. Thậm chí có nơi còn thờ Mẫu dưới hình thức sơ khai

như Miếu Bà trên đảo Quan Lạn hay đền thờ Bà Men (trên vịnh Hạ Long)… Tuy

nhiên vì là vùng đất phên giậu của tổ quốc nên các Bà ở vùng biển đảo QN thường

gắn với sứ mệnh lịch sử là đấu tranh và bảo vệ quê hương. Như vậy, tín ngưỡng thờ

Mẫu ở miền Trung có sự giao thoa văn hóa với người Chăm nhưng tín ngưỡng thờ

Mẫu ở QN lại giữ được nhiều nét sơ khai, nguyên thủy.

4.3.2.2. Sự tương đồng và khác biệt trong lễ hội

Nếu vùng biển đảo QN nổi tiếng với lễ hội đua thuyền Vân Đồn, lễ hội Bạch

Đằng, lễ hội đền Bà Men... thì lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ hội cầu ngư... đã tạo

nên bản sắc văn hóa của vùng biển miền Trung.

Có thể nói hội đua thuyền vùng ven biển Trung Bộ có tầm vóc, quy mô lớn. Ý

Page 158: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

155

nghĩa của hội đua thuyền trên phạm vi cả nước là cầu cho mưa thuận, gió hòa thì ở

miền Trung cũng mang ý nghĩa truyền thống như vậy, tuy nhiên có chút thay đổi: Với

nông dân thì có thể là cầu mưa, nhưng nông dân đã thành ngư dân thì có thể là cầu

nắng. Vì chỉ có nắng lên mới mong đánh được nhiều cá.

Lễ hội đua thuyền ở miền Trung chủ yếu là lễ hội nghề nghiệp. Ở QN đua

thuyền lại mang tính chất tái hiện các sự kiện lịch sử (lễ hội Vân Đồn, lễ hội Bạch

Đằng, lễ hội đền Cửa Ông...). Ngoài ra, còn có một số lễ hội truyền thống ngày nay

được phục dựng lại như lễ hội đình Giang Võng (nay thuộc phường Hà Khánh, TP Hạ

Long) là lễ hội cổ truyền của làng chài thủy cư có tục rước nước.

Diễn xướng dân gian cũng là một trong những nhân tố tạo nên đặc sắc của lễ hội

vùng biển miền Trung và vùng biển đảo QN. Trong các lễ hội vùng biển miền Trung

thường có hát sắc bùa. Hát sắc bùa ở miền Trung có nhiều nét chung với hát sắc bùa ở

Mường Vang (Hòa Bình), ở Can Lộc (Hà Tĩnh)... Diễn xướng sắc bùa có một dòng

chảy thống nhất từ Bắc vào Nam mà Quảng Ngãi (miền Trung) chính là một điểm dừng

lại để lưu trữ, phát triển và cũng để tự tạo cho mình một sắc thái riêng.

Xem xét quá trình biến thiên của hát sắc bùa, từ sắc bùa Mường đến sắc bùa

Quảng Ngãi, sắc bùa Bến Tre... các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận định rằng:

Đây là loại hình hát có chung nguồn gốc từ nông nghiệp, liên quan chặt chẽ đến

những lễ nghi nông nghiệp. Tuy nhiên, vì tồn tại ở vùng ven biển nên sắc bùa Quảng

Ngãi đã có thêm màu sắc ven biển, tiêu biểu như: có thêm nhiều bài hát liên quan đến

nghề biển (các bài chúc nghề biển, các bài vè cá biển, các bài lý của vùng ven biển) và

cả hình thức chúc vạn chài (lễ vạn). Và một vấn đề nữa là hát sắc bùa Quảng Ngãi rất

đậm tính chất tâm linh.

Nếu trong các lễ hội ven biển miền Trung có hát sắc bùa thì ven biển QN lại

có hát đúm là tiêu biểu hơn cả. QN có hơn 20 tộc người cùng sinh sống lâu đời. Một

số dân tộc đã lưu giữ được đến ngày nay các làn điệu dân ca truyền thống của dân

tộc mình. Người Tày ở Bình Liêu có hát then, người Sán Chỉ ở Tiên Yên có hát

Soóng Cọ, người Sán Dìu ở Vân Đồn có hát Sọong Cô, còn người Kinh ở ven biển

có hát đúm hay còn gọi là hát ghẹo, hát giao duyên. Hát đúm có ở Vạn Ninh (Móng

Cái), Thắng Lợi (Vân Đồn), làng chài Cửa Vạn trên vịnh Hạ Long nhưng hát đúm

Page 159: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

156

mang tính địa phương, giữ được nguyên bản nhất thì chỉ có trong lễ hội Tiên Công

trên đảo Hà Nam.

Theo nghiên cứu của ông Nguyễn Thanh Sĩ (nguyên Giám đốc Sở Văn hóa

Thông tin QN) thì hát đúm Hà Nam tới nay có khoảng 2300 câu, chia thành 15 tiểu

mục căn cứ theo nội dung bài hát, như: Hát chào, hát gặp, hát hỏi, hát mời trầu, hát

đố, hát cưới... Hát đúm ở Hà Nam, tuy lối hát cơ bản không khác là mấy so với các

vùng miền khác nhưng căn cứ vào không gian, thời gian, mục đích trình diễn, có thể

chia làm ba loại hình chủ yếu: hát hội (hát trong dịp lễ hội, tết), hát trong lao động sản

xuất và hát đám cưới. Người xưa mượn câu hát để bày tỏ các ước vọng về thời tiết

(mưa thuận, gió hòa), để chào hỏi nhau, mời nước, mời trầu, đố nhau... Trai gái mượn

câu hát để làm quen, kết bạn: Tìm em khắp cả Hà Nam/Hưng Học, Hải Yến tìm nàng,

nàng ơi... hay tỏ tình Bây giờ anh mới gặp nàng/Anh xin kết nghĩa đá vàng từ đây/Em

về thưa với mẹ thầy/Cho anh đi lại chốn này hay không.... Thậm chí, khi ghen tuông,

người ta cũng mượn câu hát đúm giãi bày: Tôi làm cho tả cho tơi/Tôi làm cho nó bỏ

rời anh ra/Làm cho nát đám cỏ gà/Cho chim lìa tổ, cho hoa lìa cành. Tóm lại, cả hát

sắc bùa và hát đúm đều có nguồn gốc từ nông nghiệp nhưng khi ra đến biển vẫn được

ngư dân bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp đó.

Như vậy, lễ hội truyền thống của vùng biển miền Trung là một tổng thể trọn

vẹn của ngư dân, còn lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN lại là sự vỡ vụn của nhiều

thành tố văn hóa. Nguyên nhân chủ yếu là do biển miền Trung sâu, có nhiều dòng hải

lưu đem theo các luồng cá lớn vào gần bờ, vì vậy nghề đánh bắt thủy sản phát triển.

Do đó, văn hóa biển cũng được hình thành từ rất sớm, rõ nét và có vị trí quan trọng

trong đời sống ngư dân. Trong khi đó, biển QN nông, lại bị chia cắt bởi các đảo nhỏ,

dọc ven biển lại là các làng nông nghiệp nên văn hóa biển mờ nhạt hơn và có sự gắn

kết với nội đồng chặt chẽ.

4.4. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự dung hợp văn hóa các vùng miền

4.4.1. Dung hợp giữa văn hóa biển với văn hóa miền núi

QN là vùng đất vừa có “rừng vàng” lại có “biển bạc”. Địa hình khác với các

vùng khác là tiếp giáp với biển là núi, nhiều vùng tiếp giáp với biển là đồng bằng nên

lễ hội ven biển đa số là thờ thần biển và thần nông nghiệp nhưng nhiều lễ hội ven biển

Page 160: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

157

QN lại vừa thờ thần biển, vừa thờ thần Núi: lễ hội Trà Cổ, lễ hội đình Đền Công ở

huyện Yên Hưng, lễ hội đình Giang Võng…

Ven biển QN nhưng lại thờ sơn thần. Điều này hoàn toàn khác biệt so với các

vùng biển khác. Có lẽ biển QN có đặc trưng là gắn với những đảo núi đá bao la (trên vịnh

Hạ Long), còn dọc ven biển thì hầu hết một bên là biển, một bên là vách núi nên thần núi

và thần biển được thờ trong cùng một di tích như đền Bà Men, đình Đền Công.…

Sơn thần nước ta chủ yếu là hệ Tản Viên - Cao Sơn - Quý Minh. Truyện Sơn Tinh

- Thủy Tinh là một truyền thuyết liên quan đến thờ thần núi. Tục thờ sơn thần ở các làng

ven biển QN khá phổ biến như thần Cao Sơn, thần Quý Minh, thần Đông Phong Chi

thần, Đương Cảnh Chủ Sơn Đại Vương đều được thờ ở xã Khoái Lạc, riêng thần Cao

Sơn còn được thờ ở x. La Khê (h. Yên Hưng).

Ba vị Thành hoàng là Cao Sơn, Quý Minh, Đông Phong có sắc phong các năm

1846, 1880, 1887, 1889, 1909 (từ Thiệu Trị đến Duy Tân). Các thần Cao Sơn thuộc

các xã La Khê, Yên Cư, Yên Lập cũng có sắc phong các năm 1874, 1880, 1887, 1909

nhưng các vị này không được phong làm Thành hoàng. Tương truyền thần Cao Sơn là

người giỏi thuốc, thường hiện thân làm thầy lang chữa bệnh đậu mùa cho dân, lúc

sinh thời thần có hiệu là Tế Giang cư sĩ.

Ngoài ra còn có thần tích thần Cao Sơn, Qúy Minh là những người con trong

số 50 người con trai của Lạc Long Quân theo cha lên núi và là các vị thần được thờ ở

đền Tản Viên, trên núi Ba Vì thuộc Hà Tây cũ. Ở đây thờ 3 vị: Tản Viên ở giữa, bên

phải là Cao Sơn, bên trái là Quý Minh. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng núi Ba Vì có 3

ngọn nên huyền thoại hóa thành 3 vị thần: Cao Sơn, Tản Viên, Quý Minh. Đó là bộ ba hệ

thần Tản Viên - thần núi. Sau đó, sự tích đã đa dạng hóa thêm. Thần Cao Sơn được thờ

phổ biến trong cả nước, từ Bắc chí Nam, trong khi đó thần Quý Minh chỉ được thờ ở

đồng bằng Bắc Bộ. Ở QN ngoài Cao Sơn, Quý Minh ra còn có những sơn thần địa

phương khác như đã trình bày ở trên.

Lễ hội đình Đền Công ở Yên Hưng đều có nhắc đến 4 vị đại tướng quân: Cao

Sơn, Quý Minh, Nam Hải Tôn Thần, Phi Bồng Tướng quân, Bạch thạch tướng quân

trong các bài văn tế. Đình Trà Cổ cũng thờ Ngọc Sơn Trấn Hải Đại Vương. Đình Giang

Võng cũng thờ Đức Vua Cao Sơn Thượng đẳng thần... đều là thần núi linh thiêng.

Page 161: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

158

Việc thần Núi và thần biển đóng vai trò quan trọng trong đời sống của cư dân

ven biển QN có lẽ là điểm khác biệt lớn nhất của văn hóa biển QN mà không nơi nào

có được. Yếu tố địa văn hóa, môi sinh đã làm cho con người tự tái tạo, sáng tạo ra văn

hóa cho riêng mình. Đây là một điển hình của sự tái sinh, là đặc trưng của vùng văn

hóa biển đảo QN qua các lễ hội ven biển.

QN là tỉnh duy nhất có đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung Quốc. Do

đó, QN có sự giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa mạnh mẽ nhất. Không phải

thời kỳ nào cũng có sự giao lưu, tiếp biến, quá trình này nhiều khi bị ngắt quãng bởi

những nguyên nhân lịch sử.

4.4.2. Dung hợp giữa văn hóa biển đảo Quảng Ninh với văn hóa các vùng khác

QN là một vùng đất địa đầu của tổ quốc, có đường biên giới trên đất liền và cả

đường biên giới trên biển. Do đó, không chỉ có dung hợp giữa các vùng văn hóa trong

phạm vi lãnh thổ mà còn có sự giao thoa văn hóa vượt ra ngoài biên giới. Đó là sự

dung hợp với văn hóa của người Trung Quốc.

So sánh lễ hội đình Trà Cổ và đình Vạn Vĩ (Đông Hưng - Trung Quốc) có

nhiều sự tương đồng và khác biệt. Chúng tôi nhận thấy có nhiều sự giống nhau giữa lễ

hội đình Trà Cổ và lễ hội đình Vạn Vĩ (Vạn Vĩ là tên một làng biển - đảo thuộc trấn

Giang Bình, TP Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, cách cửa khẩu Móng Cái

khoảng 25 km. Ở Vạn Vĩ cũng có đình Vạn Vĩ và thường tổ chức lễ hội ở đình từ ngày

9 tháng 6 đến 15 tháng 6 âl hằng năm) như tục đóng và cất cây đám, ông đám nuôi

lợn thờ, múa bông… Như vậy trong quá trình mấy trăm năm giao lưu văn hóa Kinh -

Hoa ở Trà Cổ, không phải yếu tố văn hóa nào của người Kinh cũng có sự biến đổi sâu

sắc mà vẫn có những phong tục, nghi lễ còn mang đậm bản sắc dân tộc.

Đặc biệt hơn, trong lễ hội của người Dao ở Móng Cái có bài văn tế Quá hải,

thuật lại chuyến vượt biển đi tìm vùng đất mới làm ăn sinh sống của những cư dân

người Dao ở Giang Tô (Trung Quốc). QN tiếp giáp với Trung Quốc vì vậy có sự giao

thoa văn hóa mạnh mẽ giữa các cư dân sống gần nhau. Nếu như người Việt sống ven

biển chủ yếu đánh bắt cá trong vịnh thì người Hoa lại đánh bắt cá ngoài khơi xa, đóng

thuyền lớn mang lại hiệu quả cao.

Trong các lễ hội vùng biển đảo QN có sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ với cư

Page 162: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

159

dân Hải Phòng. Lễ hội Trà Cổ có tục chèo thuyền sang Đồ Sơn để rước chân nhang

mỗi khi vào hội. Còn lễ hội đền Bà Men là sự đoàn kết của ngư dân 2 làng: làng chài

Hà Nam (trên vịnh Hạ Long) và làng chài Cao Minh, Cát Bà (Hải Phòng). Cuộc thi

bơi thuyền trong lễ hội đền Bà Men bao giờ cũng có sự tham gia của các làng chài:

Cống Đầm - Vung Viêng, Cửa Vạn, Hà Nam (hồ Ba Hầm) và làng chài Cao Minh

(Cát Bà, Hải Phòng). Hội bơi thuyền trên sông Bạch Đằng cũng có sự tham gia của

các đội đua ở h. Thủy Nguyên (Hải Phòng).

Ở QN còn có lễ hội làng của xã Cẩm Hải - Cẩm Phả cũng giống lễ hội Trà Cổ.

Lễ hội được tổ chức từ ngày 29/5 đến 2/6 âm lịch hàng năm. Đình làng do những người

dân Trà Cổ (Móng Cái) di cư về xã Cẩm Hải xây dựng từ năm 1980 và lễ hội được tổ

chức hàng năm nhằm tôn vinh và tưởng nhớ công lao của 6 vị Thành hoàng là những

người đã có công khai sinh ra đất Trà Cổ (TP Móng Cái).

Tương truyền, có 12 vị Tiên Công từ Đồ Sơn (TP Hải Phòng) đi thuyền về

phương Bắc lập nghiệp. Đến vùng biển Móng Cái, họ gặp một cơn bão lớn, thuyền

trôi dạt vào vùng đất hoang vu không có bóng người. Cuộc sống ở vùng đất mới

khổ sở quá, 6 người trong đoàn người quyết định quay về Đồ Sơn. Sáu người ở lại

quyết định làm nghề chài lưới đánh cá và đã hình thành nên làng chài Trà Cổ. Sau

này, dân làng tôn 6 vị Tiên Công là Thành hoàng và thờ tại đình Trà Cổ. Năm

1979, người dân ở hai thôn Tràng Lộ, Tràng Vĩ của Trà Cổ di cư về thôn Cái Thấp

(x. Văn Châu, Vân Đồn - nay là x. Cẩm Hải, tx. Cẩm Phả) lập làng mới và góp

tiền, góp công xây dựng đình làng Cẩm Hải vào năm 1980. Cũng từ đó, lễ hội đình

Cẩm Hải được tổ chức hằng năm, trở thành một hoạt động văn hóa truyền thống

đầy ý nghĩa của người dân địa phương. Giống như lễ hội Trà Cổ, lễ hội đình Cẩm

Hải cũng có nghi lễ rước các “ông Voi”. Đây là cách gọi kính trọng của người dân

địa phương. Những con lợn này được dân làng lựa chọn và giao cho 6 người đàn

ông trong làng chăm sóc. Việc chọn lợn, chọn người nuôi cũng phải theo quy định

rất nghiêm ngặt.

Như vậy, lễ hội Trà Cổ không chỉ có sức lan tỏa trong tỉnh mà còn vượt ra

khỏi phạm vi của quốc gia, ảnh hưởng tới nhiều vùng văn hóa khác. Tuy nhiên

những cư dân ven biển không chỉ tạo ra sự dung hợp, giao lưu với các vùng văn

Page 163: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

160

hóa khác mà còn tiếp nhận sự ảnh hưởng văn hóa của các vùng xung quanh. Việc

ảnh hưởng mạnh mẽ văn hóa biển của vùng biển Hải Phòng như tục thờ thần Độc

Cước, thờ cùng các vị Thành hoàng, lễ cầu Đảo vũ… cũng thể hiện sự giao lưu và

tiếp biến trong văn hóa.

Tiểu kết

QN là tỉnh vừa có núi, biển, đồng bằng lại vừa có biên giới trên cả đất liền và trên

biển. Điều này đã tạo nên những đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo QN. Đó là văn hóa

biển đảo mang “đậm” yếu tố nội đồng, “nhạt” yếu tố biển nhưng lại “đậm” tính lịch sử,

trong đó lễ hội mang tính lịch sử là đặc trưng nổi bật nhất. Bên cạnh đó văn hóa vùng

biển đảo QN cũng có sự tương đồng và khác biệt với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ,

có sự dung hợp văn hóa với văn hóa các vùng miền khác trong cả nước.

Trong mỗi hiện tượng văn hóa, có thể thấy, đều tích hợp nhiều lớp văn hóa: văn

hóa của cư dân nội đồng, văn hóa biển, văn hóa của cư dân nông nghiệp từ đồng bằng

đan xen với văn hóa biển; văn hóa Việt đan xen với văn hóa Hoa... Vì vậy, muốn nghiên

cứu, giải mã một hiện tượng văn hóa của một vùng đất, phải phân tích, so sánh để bóc

tách các lớp văn hóa trong hiện tượng văn hóa đó, bởi nó vốn đa giá trị và đa biểu tượng.

Page 164: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

161

KẾT LUẬN

1. Căn cứ vào Luật biển Việt Nam năm 2012, vùng biển đảo QN bao gồm: cửa

sông, vũng vịnh, cửa biển và vùng nước ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển.

Trên thực tế, toàn tỉnh QN có 14 huyện thị thì trong đó đã có tới 8 huyện thị

thuộc vùng biển đảo. Đó là: TP Móng Cái, TP Hạ Long, TP Cẩm Phả, h. Yên Hưng

(có đảo Hà Nam), h. Hải Hà, h. Đầm Hà, h. đảo Vân Đồn, h. Cô Tô; 2 h. có một phần

giáp biển là: h. Hoành Bồ và h. Tiên Yên. Nhưng để xét vùng văn hóa biển đảo thì có

7 đơn vị, trừ h. Cô Tô là một huyện đảo mới, ít dân cư sinh sống và không có lễ hội

truyền thống nào được tổ chức trên đảo.

Văn hóa vùng biển đảo QN là văn hóa của một vùng biển đảo có lịch sử lâu

đời, có sự tương đồng về dân cư, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, có sự giao lưu

văn hóa. Trải qua quá trình lao động và sáng tạo, cư dân vùng biển đảo QN đã tạo nên

những đặc điểm văn hóa tiêu biểu (đó là: đậm yếu tố nội đồng, đậm tính lịch sử, nhạt

yếu tố biển…). Những đặc điểm văn hóa này được thể hiện qua sinh hoạt văn hóa vật

chất và tinh thần (đặc biệt qua các lễ hội truyền thống), có thể phân biệt với văn hóa

biển đảo các vùng khác.

2. QN là tỉnh có nhiều lễ hội truyền thống: phong phú về số lượng, đa dạng về

loại hình và hình thức tổ chức. Riêng vùng biển đảo có 46 lễ hội truyền thống thường

niên được tổ chức ở miếu, nghè, đình, đền, chùa.

Lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN được phân loại theo tiêu chí vùng

không gian. Kết quả phân loại được chia làm ba nhóm lễ hội: Nhóm lễ hội hải đảo

chiếm 43%, nhóm lễ hội ven biển chiếm 17%, nhóm lễ hội nội đồng chiếm 20%. Kết

quả này cũng chỉ mang tính chất tương đối.

3. Các yếu tố nội đồng được thể hiện trong lễ hội truyền thống vùng biển đảo

QN thông qua các vị thần chủ được thờ, các nghi lễ và các hoạt động hội.

Các vị thần chủ tiêu biểu được cư dân nông nghiệp vùng biển đảo QN tôn thờ

là: thần Nông, Thành hoàng làng và các vị Tiên Công. Các nghi lễ nông nghiệp cũng

được tái hiện trong lễ hội như: lễ rước nước, lễ Đảo vũ, lễ xuống đồng, lễ Tiên Công,

lễ đóng cây cai đám và gọi sổ bìa xanh trong lễ hội Trà Cổ. Các hoạt động hội trong lễ

Page 165: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

162

hội vùng biển đảo QN bao giờ cũng thu hút số lượng người tham gia đông nhất. Các

hoạt động này chủ yếu là các cuộc thi như: tục thi ông Voi trong lễ hội Trà Cổ, thi cấy

và thi bơi trải trong lễ hội xuống đồng.

4. Giống như yếu tố nội đồng, các yếu tố biển được thể hiện trong lễ hội vùng

biển đảo QN thông qua các vị thần chủ được thờ, các nghi lễ và các hoạt động hội.

Trong các lễ hội vùng biển đảo QN, các vị thần biển giữ một vị trí vô cùng

quan trọng của cư dân nơi đây. QN là vùng đất phên giậu của tổ quốc, phên giậu cả

trên đất liền và trên biển vì vậy các vị thần biển được tôn thờ khá nhiều. Các vị thần

biển tiêu biểu cho vùng biển biển đảo này là: Tứ vị Thánh nương, mẫu Liễu Hạnh,

Bạch Điểm Tước Đại Vương, Khổng Lộ Giác Hải Đại Vương, cá Voi, Long mã...

Yếu tố biển còn được thể hiện qua các nghi lễ trong các lễ hội nhưng không nhiều như

lễ hóa mã và giã hội, lễ tế thủy thần.

Hội đua thuyền trong lễ hội đền Bà Men, hội bơi thuyền trong lễ hội đình

Giang Võng, trò chơi bịt mắt chém cá chình trong lễ hội Trà Cổ là những hoạt động

hội có từ lâu đời, được truyền lại cho đến tận ngày nay.

5. Về mối quan hệ giữa yếu tố nội đồng và yếu tố biển trong lễ hội vùng biển

đảo QN được thể hiện qua quá trình khảo sát và phân tích. Kết quả cho thấy yếu tố nội

đồng đậm hơn yếu tố biển.

Sống ven biển và giữa biển nhưng những cư dân ở đây vẫn có những phong tục

của cư dân nông nghiệp như: tục rước nước, thi ông Voi (tức thi lợn - vật nuôi của cư

dân nông nghiệp), thờ thần Nông, lễ tịch điền... Nguyên nhân của những hiện tượng

này chủ yếu do sự di dân. Những cư dân vùng biển đảo QN có nguồn gốc là những cư

dân nông nghiệp mà đa số từ Thái Bình, Nam Định... Truyền thống văn hóa của làng

quê luôn ẩn sâu trong tâm thức của những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Vì vậy

đi đâu, đến với mảnh đất mới khai phá họ cũng mang theo những giá trị văn hóa tốt

đẹp và tái sinh nó trên mảnh đất mới.

Vùng biển đảo QN có diện tích khá lớn nhưng yếu tố biển trong văn hóa lại mờ

nhạt. Trong các lễ hội, yếu tố biển được thể hiện rõ nhất trong việc thờ cúng các vị

thần biển nhưng lại chủ yếu là phối thờ. Các di tích vùng biển đảo cũng có quy mô

khiêm tốn. Một số nghi lễ trong lễ hội có tính chất biển nhưng lễ vật dâng cúng vẫn là

Page 166: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

163

sản vật của nông nghiệp. Thậm chí thần Long mã là vị thần biển nhưng lại dùng các

loại hoa quả nông nghiệp để thi tết thần Long mã. Các lễ hội đua thuyền hoành tráng

của vùng biển đảo QN ít thể hiện tính chất ngư nghiệp mà lại tái hiện tính lịch sử của

vùng biển đảo.

Qui chiếu theo bốn điều kiện của GS. Trần Ngọc Thêm: về không gian, về chủ

thể, về hoạt động, về thời gian tồn tại thì vùng biển đảo QN chưa đủ điều kiện để có thể

gọi là văn hóa biển. Điều này cũng lý giải tại sao trong các lễ hội truyền thống vùng

biển đảo QN yếu tố biển không thể đậm như yếu tố nội đồng.

6. Tính lịch sử là một đặc điểm quan trọng trong lễ hội truyền thống vùng biển

đảo QN. Điều này được thể hiện qua các sự kiện và nhân vật lịch sử như: sự kiện Trần

Khánh Dư đánh giặc trên sông Mang, sự kiện Trần Hưng Đạo đánh giặc trên sông

Bạch Đằng, sự kiện Trần Quốc Tảng đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai...

Trong các di tích và lễ hội các nhân vật lịch sử còn được đồng hóa vào các vị

thần biển. Những vị thần này vốn không có nguồn gốc là thần biển nhưng trải qua các

lớp văn hóa đã mang một ý nghĩa mới là giống hoặc gần giống với thần biển. Trong

đó các vị tướng lĩnh nhà Trần chiếm đa số. Đó là các vị thần: Phạm Tử Nghi, Đức

Thánh Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Cô Bé Cửa Suốt, Đức

Chúa hải ngoại.

Đặc điểm đậm tính lịch sử trong các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN cũng

do yếu tố địa hình. QN là tỉnh có đường biên giới cả trên đất liền và trên biển vì vậy giặc

ngoại xâm phương Bắc luôn chọn con đường này xâm lăng nước ta. Trong lịch sử, các

triều đình phong kiến đã cử nhiều tướng lĩnh tài giỏi xuống trấn giữ vùng đất biên cương

này. Nhiều trận chiến đã diễn ra trên biển, tiêu biểu vào các năm 938, 981, 1288... Do đó,

vùng biển đảo QN có nhiều lễ hội mang tính lịch sử hơn các vùng biển đảo khác.

7. So với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ, lễ hội vùng biển đảo QN cũng có

sự tương đồng và khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng và trong lễ hội.

Trong tín ngưỡng thờ cúng, cư dân vùng biển đảo QN cùng với cư dân Bắc Bộ

vẫn thờ những vị thần phổ biến trong dân gian nhưng chỉ có khác về hình thức tế lễ và

nghi lễ thờ phụng thể hiện qua việc thờ các vị Tiên Công và Tứ vị Thánh nương... Các

cụ thượng thọ trong lễ hội Tiên Công thì được rước kiệu. Hầu hết trong các nghi lễ

Page 167: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

164

của lễ hội vùng biển đảo Bắc Bộ đều mang tính chất tâm linh và thờ một vị thần chủ

nhưng trong các lễ hội vùng biển đảo QN lại là đa thần (các vị Tiên Công).

Đua thuyền thực chất là một nghi thức cầu mưa của cư dân Bắc Bộ nhưng ở

vùng biển đảo QN, đua thuyền là tái hiện lại các sự kiện lịch sử. Nếu ở Hải Phòng có

hát đúm trên cạn thì ở QN lại có cả hát đúm trên cạn và dưới thuyền trong các lễ hội

truyền thống.

8. So với các vùng biển đảo ở Trung Bộ, lễ hội vùng biển đảo QN cũng có

nhiều điểm tương đồng như: cùng thờ cá voi, thờ Mẫu; có hội đua thuyền thu hút

đông đảo quần chúng tham gia. Nhưng điều khác biệt lớn nhất của vùng biển đảo QN

với vùng biển đảo Trung Bộ là về quy mô và tính chất của hoạt động hội.

Đối với ngư dân miền Trung, cá Ông là một vị thần thiêng liêng, cao cả được

họ tôn sùng và có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh. Ở QN cá voi hầu như vắng

bóng trong tín ngưỡng thờ cúng của cư dân vùng biển đảo.

Đua thuyền của ngư dân miền Trung thực sự là một hoạt động tôn vinh nghề

nghiệp, chứ không mang ý nghĩa nào khác như đua thuyền ở vùng biển đảo QN. Nếu

hát Sắc bùa là một hình thức diễn xướng dân gian tiêu biểu của ngư dân miền Trung

thì hát đúm lại là hình thức diễn xướng thường thấy trong các lễ hội của cư dân vùng

biển đảo QN.

9. Vùng biển đảo QN còn có sự dung hợp văn hóa giữa các vùng miền, thể hiện

qua giao lưu văn hóa giữa miền núi và miền xuôi, giữa người Hoa và người Việt.

Trong các di tích vùng biển đảo QN không chỉ có thờ các vị thần của biển, thờ

các vị thần của đồng bằng mà còn thờ cả các vị thần núi như: thần Cao Sơn, thần Quý

Minh... Có lẽ do địa hình biển QN sát núi và trên biển vẫn có núi đá (vịnh Hạ Long)

nên tâm thức cư dân phần nào vẫn mong ước được các vị thần núi che chở.

Biên giới vùng biển đảo QN phần lớn giáp với Trung Hoa. Do đó, trong các lễ

hội truyền thống có sự giao lưu văn hóa với người Hoa như lễ hội của người Dao ở

Móng Cái có bài văn tế “Quá hải”, lễ hội đình Trà Cổ và lễ hội đình Vạn Vĩ (ở Giang

Bình, Đông Hưng, Quảng Tây, Trung Quốc) có nhiều điểm tương đồng. Bên cạnh đó

vùng biển đảo QN cũng có sự giao thoa văn hóa với vùng biển đảo Hải Phòng và một

số vùng biển đảo khác trong khu vực.

Page 168: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

165

10. Lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN là một phức thể văn hóa. Luận án

này mới nhận diện được các thành tố và đặc trưng cơ bản của lễ hội truyền thống vùng

biển đảo QN. Việc phân tích sâu sự tương tác giữa các thành tố và sự giao lưu văn hóa

giữa các vùng miền trong lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN vẫn còn là một vấn

đề bỏ ngỏ, đang chờ ở các công trình nghiên cứu tiếp theo.

Page 169: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

166

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Phương Thảo (2009), “Lễ hội Quan Lạn - nét văn hóa độc đáo của ngư

dân biển đảo Vân Đồn”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch),

(300), tr.20 - 24.

2. Nguyễn Thị Phương Thảo (2013), “Giá trị và sự chuyển đổi giá trị văn hóa gia đình

của người Việt trong thời kỳ đổi mới, hội nhập (qua trường hợp lễ hội Tiên Công ở

Hà Nam)”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong đổi mới, hội

nhập, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tr.342 - 350.

3. Nguyễn Thị Phương Thảo (2013), “Tính đa dạng và vai trò của văn hóa biển đối với

sự phát triển của văn hóa Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục nghệ thuật (Trường

Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương), (9), tr.66 - 69.

4. Nguyễn Thị Phương Thảo (2014), “Mối tương quan giữa các lễ hội ven biển Quảng

Ninh với các lễ hội vùng duyên hải Bắc Bộ”, Tạp chí Di sản văn hóa (Cục Di sản văn

hóa), (3), tr. 78 - 83.

5. Nguyễn Thị Phương Thảo (2014), “Một số vấn đề nghiên cứu văn hóa biển Việt

Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội), (8), tr.83 - 92.

6. Nguyễn Thị Phương Thảo (2014), “Những đặc trưng của lễ hội truyền thống ven

biển Quảng Ninh”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch),

(361), tr.94 - 97.

7. Nguyễn Thị Phương Thảo (2014), “Một số vấn đề lý luận về vùng văn hóa”, Tạp chí

Nghiên cứu văn hóa (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội), (9), tr.87 - 91.

8. Nguyễn Thị Phương Thảo (2014), “Nhận diện lễ hội truyền thống ven biển Quảng

Ninh”, Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật (Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung

ương), (12), tr. 22 - 25.

9. Nguyễn Thị Phương Thảo (2014), “Phân loại lễ hội truyền thống ven biển Quảng

Ninh”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội), (10), tr.28 - 36.

10. Nguyễn Thị Phương Thảo (2015), “Hát Đúm trong các lễ hội mùa xuân ở Quảng

Ninh”, Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật (Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung

ương), (số Tết), tr.14 - 17.

Page 170: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

167

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị Mai An (2010), "Phác thảo yếu tố biển trong văn hóa Việt Nam",

Thông tin Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, (40), tr.70 - 78.

2. Nguyễn Chí Bền (2002), “Lễ hội Nghinh Ông ở xã Bình Thắng, một cách tiếp

cận”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (6), tr.21 - 40.

3. Nguyễn Trúc Bình (1972), “Về tộc danh Đản, Sín trong nhóm người Hoa ở

vùng ven biển Quảng Ninh”, Tạp chí Dân tộc học, (1), tr.90 - 96.

4. Diệp Trung Bình (1985), “Vài nét về đời sống của ngư dân vùng biển Đông

Bắc Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, (2), tr.15 - 20.

5. Tôn Thất Bình (1982), “Một số tín ngưỡng tục lệ của cư dân vùng biển từ Bình

Trị Thiên đến Bình Thuận”, Tạp chí Dân tộc học, (2), tr.39 - 44.

6. Cao Đức Bình - Hoàng Quốc Thái (đồng chủ biên - 2010), Di sản văn hóa

làng chài vịnh Hạ Long, Sở Văn hóa,Thể thao và Du lịch Quảng Ninh.

7. Phan Huy Chú (1977), Hoàng Việt địa dư chí, Phan Đăng dịch, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

8. Huinh Tịnh Paulus Của (1982), Đại Nam quấc âm tự vị, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí

Minh.

9. Nguyễn Lân Cường (1979), “Di cốt người ở hang Bái Tử Long (Quảng

Ninh)” trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1978, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

10. Lê Thái Dũng (2013), “Thú vị vua Minh Mạng trổ tài cầu mưa”,

http://kienthuc.net, truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.

11. Vũ Phương Đề (2001), Công dư tiệp ký, Đoàn Thăng dịch, Trần Nghĩa

giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội

12. Lê Quý Đôn (1962), Vân Đài loại ngữ, tập 1, Trần Văn Giáp dịch, Nxb Văn

học, Hà Nội.

13. Ninh Viết Giao (1978), “Sinh hoạt của ngư dân miền biển Nghệ Tĩnh trước

Cách mạng (qua tục ngữ, dân ca)”, Tạp chí Dân tộc học, (3), tr.84 - 95.

Page 171: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

168

14. Nguyễn Thị Hà (chủ biên - 2008), Giáo trình điện tử Lễ hội truyền thống tiêu

biểu ở Quảng Ninh, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch

Hạ Long.

15. Lê Thị Thu Hà (2012), Thánh Không Lộ trong đời sống văn hóa của cư dân

duyên hải Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn

hóa Hà Nội, Hà Nội.

16. Cao Đức Hải (1997), Tín ngưỡng thờ thuỷ thần của ngư dân vùng cực Đông

Trung Bộ, Luận văn thạc sĩ khoa học văn hóa, Trường Đại học Văn hóa

Hà Nội, Hà Nội.

17. Đinh Văn Hạnh, Phan An (2004), Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa - Vũng

Tàu, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

18. Nguyễn Văn Hảo (1971), “Báo cáo khai quật đợt II di chỉ Ngọc Vừng, Xích

Thổ (Quảng Ninh)” trong Tư liệu Viện Khảo cổ học, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

19. Nguyễn Văn Hảo, Hoàng Văn Sư, Nguyễn Đức Tùng (1974), “Di chỉ Thoi

Giếng (Quảng Ninh) - Phân tích thạch học và bào tử phấn hóa”, Tạp chí

Khảo cổ học, (16), tr.67 - 70.

20. Đặng Thị Thúy Hằng (2010), “Lễ hội đền Lê Khôi trong đời sống văn hóa

của cư dân ven biển Thạch Hà, Lộc Hà, Hà Tĩnh”, Tạp chí Nghiên cứu

Đông Nam Á, (8), tr. 68 - 72.

21. Trương Minh Hằng (2000), “Văn hóa biển ở làng chài Nhượng Bạn”, Tạp chí

Nghiên cứu Đông Nam Á, (4), tr.80 - 83.

22. Trần Công Hiến, Trần Huy Phác (2009), Hải Dương phong vật chí, Nguyễn

Thị Lâm giới thiệu và dịch, Nxb. Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn

ngữ Đông Tây, Hà Nội.

23. Trần Văn Hiệp (2010), Đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển trong quá

trình phát triển đất nước hiện nay của, Bộ Khoa học và Công nghệ, đề

tài khoa học cấp Nhà nước.

24. Trần Hoàng (2010), Sinh hoạt văn hóa dân gian cổ truyền làng biển

Page 172: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

169

Cảnh Dương, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

25. Phạm Xuân Hoàng (2013), “Văn hóa biển Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ

thuật, (345), tr.3 - 5, 14.

26. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2006), Văn hóa sông nước miền Trung, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Viện Nghiên cứu văn hóa, Sở Văn hóa -

Thông tin Quảng Ngãi, Hội Văn học Nghệ thuật Kiên Giang (2008), Văn

hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ, Nxb Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

28. Cao Kỳ Hương (2011), “Văn hóa du lịch biển Nha Trang”, Tạp chí Văn hóa

Dân gian, (2), tr. 55 - 64.

29. Nguyễn Xuân Hương (2013), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà

Nẵng (hình thái, đặc trưng, giá trị), Nxb Lao động, Hà Nội.

30. Vũ Ngọc Khánh (2002), Linh thần Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

31. Lê Hồng Khánh (2010), “Mộ gió, hình nhân và lễ khao lề thế lính Hoàng Sa”,

Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (317), tr. 49 - 52.

32. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Kim (2012), “Tri thức về biển và tư duy hướng biển qua một số

trước tác của Lê Quý Đôn”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (7), tr.3 - 16.

34. Nguyễn Thị Hải Lê (2010), “Đặc trưng văn hóa biển của người Việt”, Tạp chí

Văn hóa nghệ thuật, (315).

35. Nguyễn Thị Hải Lê (2012), “Yếu tố biển trong ẩm thực của người Việt”, Tạp

chí Văn hóa Nghệ thuật, (332), tr.70 - 73.

36. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê (2010), Đại Việt sử ký toàn thư, Phan Huy

Lê dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội - Công ty Văn hoá

Đông A, Hà Nội.

37. Nguyễn Thanh Lợi (2000), “Tục thờ cá Ông ở Cần Thạch (Cần Giờ) và ven

Page 173: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

170

biển Nam Bộ”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh

thế kỷ XX, những vấn đề lịch sử - văn hóa”, Viện Khoa học xã hội, Sở

Văn hóa thông tin TP Hồ Chí Minh.

38. Nguyễn Thanh Lợi (2003), “Thờ cá Voi ở thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí

Nghiên cứu Đông Nam Á, (6), tr.52 - 57.

39. Điền Nam - Trần Nhuận Minh (1996), "Những lễ hội độc đáo ở tỉnh Quảng

Ninh", Tạp chí Văn hoá dân gian, (3), tr.27 - 29.

40. Nguyễn Hữu Phách và Nguyễn Văn Đức, thuật lại theo Lê Mậu Cường

(2000), Truyện cổ Nam Sách, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

41. Nguyễn Hồng Phong, Vũ Khiêu (chủ biên - 2003), Dư địa chí Quảng Ninh,

tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.

42. Nguyễn Hồng Phong, Vũ Khiêu (đồng chủ biên - 2003), Dư địa chí Quảng

Ninh, tập 3, Nxb Thế giới, Hà Nội.

43. Cao Xuân Phổ (1994), “Văn hóa biển Đông Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông

Nam Á, (4), tr.99 - 110.

44. Hà Văn Phùng (1983), "Văn hóa Hạ Long trong hệ thống Phùng Nguyên -

Đông Sơn”, Tạp chí Khảo cổ học, (1), tr.36 - 46.

45. Đỗ Lan Phương (2010), “Văn hóa vùng cửa sông Hồng như một dạng thức

của văn hóa biển Việt Nam (Qua nghiên cứu hai xã ở Nam Định và Thái

Bình)”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, (2).

46. Quốc sử quán triều Nguyễn (1969), Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Phạm

Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Thuận Hoá, Huế.

47. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Phạm

Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Thuận Hóa, Huế.

48. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, Phạm

Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Vũ Quỳnh (1993), Tân đính: Lĩnh Nam chích quái (Bùi Văn Nguyên dịch

thuật, chú thích, dẫn nhập), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

50. Trịnh Sinh (2010), “Người Sa Huỳnh và giao lưu văn hóa trên biển”, Văn hóa

Page 174: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

171

Nghệ thuật, (317), tr. 32 - 33.

51. Lê Đồng Sơn (2008), Văn hóa Yên Hưng lịch sử hình thành và phát triển,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Nguyễn Khắc Sử (1986), “Di chỉ Cái Bèo với tiền sử vùng ven biển Đông

Bắc Việt Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, (2), tr.17 - 26.

53. Nguyễn Khắc Sử (1995), “Biển với cư dân tiền sử vùng Đông Bắc”, Tạp chí

Khảo cổ học, (4), tr.6 - 14.

54. Nguyễn Khắc Sử (1997), "Văn hóa biển tiền sử Việt Nam: mô hình và giả

thiết”, Tạp chí Khảo cổ học, (3), tr.16 - 28.

55. Nguyễn Khắc Sử (2006), “Văn hóa Hạ Long, văn hóa biển tiền sử Việt Nam”,

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (1).

56. Nguyễn Khắc Sử (2008) ,“Văn hóa biển tiền sử Cam Ranh (Khánh Hòa)”,

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (1).

57. E. Ju. Tereshchenko (2011), “Hiện tượng văn hóa biển và văn minh biển”,

Đoàn Tâm dịch, Thông tin Khoa học Xã hội, (8), tr. 45 - 53.

58. Lê Ngọc Thắng, Đào Bá Dậu (1983), “Đôi nét về làng biển ở nước ta”, Tạp

chí Dân tộc học, (2).

59. Huỳnh Quốc Thắng (1999), Lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ (khía

cạnh giao tiếp văn hóa dân tộc), Luận án tiến sĩ lịch sử, Trường Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.

60. Nguyễn Thanh (1996), “Lễ hội trình nghề reo ống làng Quang Lang”, Tạp chí

Văn hóa dân gian, (2), tr.82 - 84.

61. Nguyễn Thanh (2000), Lễ hội truyền thống Thái Bình, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

62. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác thảo, Nxb

Giáo dục, Hà Nội, 280 tr.

63. Nguyễn Thị Phương Thảo (2008), Di tích lịch sử - văn hóa và lễ hội trên đảo

Quan Lạn (huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh), Luận văn thạc sĩ Văn hóa

học, Trường Đại học văn hóa Hà Nội, Hà Nội.

Page 175: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

172

64. Nguyễn Thị Phương Thảo (2009), “Lễ hội Quan Lạn, nét văn hóa độc đáo của

ngư dân biển đảo Vân Đồn”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (300), tr 20 -24.

65. Nguyễn Thị Phương Thảo (2013), “Tính đa dạng và vai trò của văn hóa biển

đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục

nghệ thuật, (8), tr 66-69.

66. Trần Ngọc Thêm (2011), Văn hóa biển đảo và văn hóa biển đảo ở Khánh

Hòa, Báo cáo đề dẫn trình bày tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn hóa

biển đảo ở Khánh Hòa”.

67. Trần Ngọc Thêm (chủ biên - 2014), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Nxb

Văn hóa nghệ thuật, Thành phố Hồ Chí Minh.

68. Nguyễn Duy Thiệu (2002), Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam, Trung tâm khoa

học xã hội nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

69. Nguyễn Duy Thiệu (2007), “Suy ngẫm về văn hóa biển ở Việt Nam”, Tạp chí

Văn hóa Nghệ thuật, (10), tr. 28 - 30, 43.

70. Nguyễn Duy Thiệu (2007), “Vài suy nghĩ về di sản văn hóa biển ở Việt

Nam”, Tạp chí Di sản Văn hóa, (3), tr. 46 - 50.

71. Ngô Đức Thịnh (1984), “Tìm hiểu thuyền bè truyền thống Việt Nam”, Tạp

chí Nghiên cứu Lịch sử, (6).

72. Ngô Đức Thịnh (chủ biên - 1993), Lễ hội truyền thống trong đời sống hiện

đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

73. Ngô Đức Thịnh (1999), “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền”, Tạp chí Văn

hóa nghệ thuật, (11), tr.36-40.

74. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2000), Văn hóa dân gian làng ven biển, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

75. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,

Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

76. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam.

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Page 176: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

173

77. Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

78. Ngô Đức Thịnh (2010), “Truyền thống văn hóa biển cận duyên của người

Việt”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (317), tr. 15.

79. Ngô Đức Thịnh (2010), Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền, Nxb Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

80. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin biên tập (2003), Đồng

Khánh địa dư chí (tập 1), Nxb Thế giới, Hà Nội.

81. Nguyễn Hữu Thông (2011), “Biển trong lịch sử Việt Nam dưới góc nhìn của

Charles Wheeler (dẫn liệu từ vùng Thuận Quảng)”, Tạp chí Nghiên cứu

Lịch sử, (10), tr. 33 - 38.

82. Huỳnh Tới (1996), “Lễ hội Dinh Cô”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (1), tr. 14 -16.

83. Võ Quang Trọng (1986), "Hội đua thuyền ở một làng biển", Tạp chí Văn hoá dân

gian, (3), tr.78.

84. Phạm Ngọc Trung(2012), “Sông, biển với văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn

hóa Nghệ thuật, (333), tr. 22 - 26.

85. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

86. Nguyễn Thế Truyền (2010), “Hò Quảng Ngãi”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,

(317), tr. 56 - 58.

87. Lê Thanh Tùng (2011), “Lễ hội cổ truyền của cư dân ven biển Hải Phòng -

bước đầu nhận diện”, Nghiên cứu Đông Nam Á, (6), tr. 66 - 71.

88. Lê Thanh Tùng (2012), Lễ hội cổ truyền cư dân ven biển Hải Phòng và sự

biến đổi trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện

Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.

89. Lê Thị Nhâm Tuyết (1976), “Nghiên cứu về hội làng ở Việt Nam (II). Các loại

hình hội làng trước cách mạng”, Tạp chí Dân tộc học, (2), tr.34 - 41.

90. Trang Tử (2011), Nam Hoa Kinh, Nhượng Tống dịch và bình chú, Nxb Lao

động - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

91. Trịnh Cao Tưởng (1981), Kinh Bắc - Hà Bắc, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

Page 177: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

174

92. Đàm Thị Uyên, Nguyễn Thanh Thủy (2009), “Tục thờ cúng trong đời sống

tâm linh của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”,

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (11), tr.49 - 55.

93. Viện Văn hóa Thông tin Hà Nội (2006), Văn hóa cư dân Việt ven biển Phú

Yên, Nxb Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

94. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1995), Thần tích - Thần sắc (Làng Quan

Xuyên, tổng Phú Khê, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, ký hiệu: TT-

TS/FQ4018/XII,38), Hà Nội.

95. Huỳnh Khái Vinh (chủ biên), Nguyễn Thanh Tuấn (1995), Chấn hưng các vùng

và tiểu vùng văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

96. Nguyễn Quang Vinh (2002), “Văn hóa dân gian làng Vân”, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

97. Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương (1997), Lịch lễ hội, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

98. Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý (2005), Lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

99. Nguyễn Đăng Vũ (2003), Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi,

Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

100. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

101. Trần Quốc Vượng (chủ biên, 1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

102. Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Phổ (đồng chủ biên - 1996), Biển với người Việt

cổ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

103. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hóa, Nxb Văn hóa dân

tộc - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

104. Trần Quốc Vượng (2000), “Hát Cầu Ngư nét đẹp văn hóa làng biển”, Tạp chí

Văn nghệ dân tộc, (7).

Page 178: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

(QUA NGHIÊN CỨU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG)

PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2015

Page 179: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

175

MỤC LỤC CỦA PHỤ LỤC

Stt Tên phụ lục Nguồn Trang

1 Phụ lục 1: Bản đồ hành chính của tỉnh Quảng

Ninh

Tác giả sưu tầm 176

2 Phụ lục 2: Thống kê lễ hội truyền thống vùng

biển đảo Quảng Ninh

Tác giả thống kê 177

3 Phụ lục 3: Văn khấn Tác giả sưu tầm 181

4 Phụ lục 4: Lời rao trong lễ hội Quan Lạn Tác giả sưu tầm 188

5 Phụ lục 5: Nghi thức, trình tự tế trong lễ hội đền

Cửa Ông

Tác giả sưu tầm 190

6 Phụ lục 6: Sắc phong Tác giả sưu tầm 192

7 Phụ lục 7: Các trò diễn trong lễ hội Bạch Đằng Tác giả sưu tầm 200

8 Phụ lục 8: Hương ước Tác giả sưu tầm 212

9 Phụ lục 9: Một số hình ảnh Tác giả chụp và

sưu tầm

235

10 Phụ lục 10: Danh sách những người cung cấp

thông tin, tư liệu cho tác giả luận án

Tác giả thống kê 255

Page 180: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

176

Phụ lục 1 BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG NINH

(Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi-VN/Trang/defaultHome.aspx)

Page 181: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

177

Phụ lục 2

THỐNG KÊ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

(Nguồn: Tác giả luận án thống kê)

Stt Lễ hội Nơi diễn ra lễ hội Thời gian (ÂL)

Nhóm lễ hội

Đối tượng thờ cúng

1 Lễ hội đền Bà Men

Đền Bà Men thuộc khu làng chài Cửa Vạn, Vịnh Hạ Long, TP Hạ Long

19, 20/1 Hải đảo - Tượng 1: Quan của nhà ông Chúc (người trông coi đền). - Tượng 2, 3, 4 xếp cùng hàng phía sau: Bà Đức Chúa Hải Ngoại, bên trái là tượng cô Bồ Thoải, tượng bên phải là Quan Đệ Tam.

2 Lễ hội đền Bụt Đày

Đền Bụt Đày, thuộc khu làng chài Cửa Vạn, Vịnh Hạ Long, TP Hạ Long

20/8 Ven biển

3 vị quan lớn: Quan lớn Hồng, quan lớn Hoàng, quan lớn Thống.

3 Lễ hội đền Cậu Vàng

Đền Cậu Vàng dưới chân ngọn núi, thuộc khu làng chài Cửa Vạn, Vịnh Hạ Long, TP Hạ Long

19/11 Ven biển

- Thờ Cậu Vàng – Thành hoàng làng. - Thờ Mẫu Thoải và Đức chầu quan họ

4 Lễ hội đình Giang Võng (thường gọi là đình Cái Đá)

Đình Giang Võng, phường Hà Khánh, TP Hạ Long

9,10/11 Ven biển

- Thờ Thành hoàng và các thánh, các quan giúp việc cho các thánh, 7 cụ tổ của 7 dòng họ lập nghiệp đầu tiên.

5 Lễ hội đền Đức Ông Trần Quốc Nghiễn

Cửa Lục, phố Bến Đoan, Phường Hồng Gai, TP Hạ Long

24/3 Ven biển

Đông Hải Đại Vương Trần Quốc Nghiễn.

6 Lễ hội chùa Long Tiên

Phường Bạch Đằng, TP Hạ Long

15/4 Nội đồng

Ban giữa thờ Phật, bên trái thờ Đức Thánh Trần, bên phải thờ Thánh Mẫu

7 Lễ hội đền Cái Lân

Phường Bãi Cháy, TP Hạ Long

8/3 Ven biển

Mẫu Thoải

Page 182: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

178

8 Lễ hội Tiên Công

Làng Hiệp Hòa, x. Hiệp Hòa, h. Yên Hưng

4/1 Nội đồng

Các vị Tiên Công

9 Lễ hội Xuống Đồng (đình Cốc)

Xã Phong Cốc, h. Yên Hưng

6/6 Hải đảo Thành hoàng của làng Cốc (Tứ vị thánh nương hay còn gọi là Đại Càn Thánh Nương). Thần Nông

10 Hội làng Hiệp Hòa

Xã Hiệp Hòa, h. Yên Hưng

4/1 Nội đồng

12 vị Tiên Công

11 Hội làng đình Trung Bản

Xã Liên Hòa, h. Yên Hưng

8/3 Hải đảo 2 vị Tiên Công: Hoàng Nông, Hoàng Nênh; Trần Hưng Đạo

12 Hội Miếu Tiên Công

Xã Cẩm La, h. Yên Hưng

6,7/1 Hải đảo 17 vị Tiên Công có công lập làng

13 Lễ hội Chùa Giữa Đồng

Xã Nam Hòa, h. Yên Hưng

9/1 Hải đảo Thờ Phật

14 Lễ hội đền thờ Trần Hưng Đạo

Xã Yên Giang, h. Yên Hưng

Xưa: 20/8 Nay: 7,8,9/3

Ven biển

Trần Hưng Đạo

15 Lễ hội miếu Vua Bà

Xã Yên Giang, h. Yên Hưng

8/3 Nội đồng

Vua Bà

16 Lễ hội Đình Cốc

Xã Phong Cốc, h. Yên Hưng

10/1 Hải đảo Tứ Vị Thánh nương

17 Lễ hội đình Hải Yến

Xã Yên Hải, h. Yên Hưng

10/1 Hải đảo Thần Phạm Tử Nghi (hiệu Đại hải chi thần)

18 Lễ hội đình Đền Công

Xã Điền Công, h. Yên Hưng

14/1 20/8

Ven biển

Trần Hưng Đạo và 4 vị Đại tướng quân (Cao Sơn Quý Minh, Nam Hải tôn thần, Phi Bồng Tướng quân, Bạch thạch tướng quân)

19 Hội làng La Khê (đền – chùa La Khê)

Thôn La Khê, Xã Tiền An, h. Yên Hưng

26/2 Nội đồng

Đền Quan Đại thờ 2 quan đại thần nhà Nguyễn: Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai. Đền Mẫu thờ Liễu Hạnh

20 Lễ hội Đền Mẫu

Xóm Bắc, thôn Vị Dương, x. Liên Vị, h. Yên Hưng

8/3 Hải đảo Thờ Liễu Hạnh, ngọc nữ Quỳnh Hoa và Quế Nương

21 Lễ hội đình Phố Yên Hưng (hay còn gọi là đền

Phường Quảng Yên, thị xã Quảng Yên, h. Yên Hưng

8/3; 12/6; 20/8

Nội đồng

Trần Hưng Đạo, công chúa Liễu Hạnh, Mẫu Thoải

Page 183: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

179

Thủy cung Thánh Mẫu)

22 Lễ hội Bạch Đằng

Xã Yên Giang, h. Yên Hưng

8/3 Ven biển

Trần Hưng Đạo

23 Lễ hội đình Trung Cốc

Thôn Đồng Cốc, Xã Nam Hòa, h. Yên Hưng

8/3 Hải đảo Trần Hưng Đạo Phạm Ngũ Lão

24 Lễ hội đình Trung Bản

Xã Liên Hòa, h. Yên Hưng

8/3 Hải đảo Trần Hưng Đạo

25 Lễ hội đình Yên Giang

Xã Yên Giang, h. Yên Hưng

8/3 Ven biển

Trần Hưng Đạo 12 vị Tiên Công

26 Lễ hội đình Lưu Khê

Xã Liên Hòa, đảo Hà Nam, h. Yên Hưng

7/1 Hải đảo Phạm Tử Nghi làm thành hoàng (Đức Thánh Niệm), Đỗ Độ và Đào Bá Niệm

27 Lễ hội chùa Yên Đông

Làng An Đông, xã Yên Hải, h. Yên Hưng

5/1 Hải đảo Thờ Phật

28 Lễ hội đình Yên Đông

Làng An Đông, xã Yên Hải, h. Yên Hưng

17/1 Hải đảo Ông Nguyễn Văn Minh làm thành hoàng

29 Lễ hội đền Cửa Ông

Phường Cửa Ông, TP Cẩm Phả

3,4/2 Ven biển

Thờ Trần Quốc Tảng, Hoàng Cần và các cộng sự của ông.

30 Lễ hội đình Cẩm Hải

Xã Cẩm Hải, TP Cẩm Phả

29.5 đến 2.6

Ven biển

Thờ 6 vị thành hoàng làng khai sinh đất Trà Cổ, Móng Cái

31 Lễ hội Vân Đồn

Xã Quan Lạn, h. Vân Đồn

16 - 20/6 Hải đảo Thần Không Lộ, Lý Anh Tông, Trần Khánh Dư, Tứ Vị Thánh nương

32 Lễ hội chùa Quan Lạn

Xã Quan Lạn, quần đảo Vân Hải, h. Vân Đồn

18/6 Hải đảo Thờ Phật, công chúa Liễu Hạnh, cụ Hậu

33 Lễ hội Nghè Quan Lạn (còn gọi đền thờ Trần Khánh Dư)

Xã Quan Lạn, quần đảo Vân Hải, h. Vân Đồn

16/6 Hải đảo Trần Khánh Dư

34 Lễ hội miếu Đức Ông

Xã Quan Lạn, quần đảo Vân Hải, h. Vân Đồn

17/6 Hải đảo Thờ Phạm Công Chính, Phạm Quý Công, Phạm Thuần Dụng

35 Lễ hội đền Cặp Tiên

Xã Đông Xá, h. Vân Đồn

6/1 Hải đảo Cô bé Cửa Suốt Thần Quan Chánh

36 Lễ hội chùa Cái Bầu

Xã Hạ Long, h. Vân Đồn

14/1 Hải đảo Thờ Phật

Page 184: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

180

(Thiền Viện Trúc Lâm Giác Tâm)

37 Lễ Thượng nguyên, Đền thờ Vua Lý Anh Tông (Vân Hải linh từ)

Thị trấn Cái Rồng, h. Vân Đồn

16/1 Hải đảo Thờ vua Lý Anh Tông

38 Lễ hội đình Trà Cổ

Phường Trà Cổ, TP Móng Cái

29/5 3/6

Ven biển

6 vị tiên công lập nên làng

39 Lễ hội chùa Nam Thọ (chùa Vạn Ninh Khánh)

Thôn Nam Thọ, bán đảo Trà Cổ

8/4 17/11

Ven biển

Thờ Phật

40 Lễ hội chùa Xuân Lan

Phường Xuân Lan, TP Móng Cái

15/4 Nội đồng

Thờ Phật

41 Lễ hội đền Xã Tắc

Phường Ka Long, Tp. Móng Cái

2/5 16/8

Nội đồng

Thờ Tam thánh: Xã Tắc Đại Vương, Cao Sơn Đại Vương, Trần Quốc Tảng

42 Lễ hội đền Thiên Hậu Thánh Mẫu (đền Trà Cổ)

Làng Trà Cổ, TP Móng Cái

23/3 Ven biển

Thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu

43 Lễ hội Miếu Đôi

Thôn Nam Thọ, phường Trà Cổ, TP Móng Cái

30/5 Ven biển

Nguyễn Hữu Cần cùng các vị thần

44 Lễ hội đình Vạn Ninh

Thôn Trung, xã Vạn Ninh, TP Móng Cái

10, 11-1 Ven biển

Là nơi Lý Thường Kiệt tập kết thủy quân trong trận chiến chống quân Tống xâm lược vì vậy người dân nơi đây tôn Lý Thường Kiệt làm thành hoàng làng. Thờ 8 vị thần và thành hoàng là: Lý Thường Kiệt, Không Lộ thiền sư, Giác Hải thiền sư, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Lê Lợi.

45 Lễ hội đình làng My Sơn

Xã Phú Hải, h. Hải Hà

16.1 - 20.1 Ven biển

Thờ thành hoàng làng

46 Lễ hội đình Đầm Hà

Thị trấn Đầm Hà, h. Đầm Hà

16.1 - 20.1 Nội đồng

Thờ thành hoàng làng

Page 185: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

181

Phụ lục 3

VĂN KHẤN

(Nguồn: Tác giả luận án sưu tầm) 3.1. Văn khấn trong lễ hội đình Giang Võng năm 2009

3.1.1. Văn khấn xin nước biển

Con xin nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật.

Kim nguyên nhật nguyệt, tuế thứ bỉ đại, Việt Nam quốc, Quảng Ninh tỉnh, Hạ

Long thành phố, Hà Khánh phường, Giang Võng xã, Cái Đá xứ.

Tên con là………………….. thay mặt cho Ban Quản lý, Ban Tổ chức lễ hội và

nhân dân xã Giang Võng, con chắp tay lạy con lạy chín phương trời, con lạy mười

phương dất, con lạy chư phật mười phương.

Hôm nay là ngày mồng mười, tháng mười một, năm………, là ngày hội lễ đình

Giang Võng, tuân theo tục lệ, con ra tại cửa sông này, con tâu xin với đức vua Hà Bá

Thủy Phủ và hai vị Đức Ông ban cho dân làng chúng con xin bình nước biển trong

xanh tinh khiết, con rước về và dâng lên hương án, con xin kính thỉnh đức vua Hà Bá

Thủy Phủ, xin kính thỉnh Hưng Nhượng Vương, Đức Ông Đông Hải Đại Vương, Đức

Ông Cửa Suốt, Hưng Vũ Vương Đức Ông lục đầu giang, tối linh giáng hạ về ngự tại

hương án thờ đình Giang Võng, tại Cái Đá xứ, hội cùng với chư vị thành hoàng và tổ

tiên chúng con, để dân xã chúng con được thành tâm tế lễ.

Cẩn cáo.

3.1.2. Văn khấn trước khi tế lễ

Con dạ nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật.

Tuế thứ: Việt Nam quốc, Quảng Ninh tỉnh, Hạ Long thành phố, Hà Khánh

phường, Giang Võng xã, Cái Đá xứ.

Hôm nay là ngày mười, tháng 11, năm… … …, là ngày hội lễ Giang Võng,

tuân theo lễ tục, dân xã chúng con xin thành tâm kính cẩn dâng lên các vật phẩm tế lễ

gồm có:

- Bình nước biển trong xanh tinh khiết

- Kim ngân, tàu, thuyền, mũ, ngựa.

- Trầu, trà, hương, hoa, tửu, quả.

Page 186: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

182

- Trư nhạc, trư thành, xôi, kê, tạp bàn, vật phẩm chi nghi.

Dân làng chúng con xin kính thỉnh đức vu Cao Sơn thượng đẳng thần, Đức vua

Cao Minh, Đức vua Hà Bá Thủy Phủ, xin kính thỉnh đức thánh Trần Hưng Đạo Đại

Vương Trần Triều hiển thánh, Hưng Nhượng vương Đức Ông Đông Hải Đại Vương,

đức ông Cửa Suốt, Hưng Vũ Vương Đức Ông Lục đầu giang, quan cụ Hà Ráng cùng

chư vị tôn thần tả hữu văn võ giáng hạ về ngự tại bản điện. Xin kính thỉnh thất vị thủy

tổ, nhị vị quan bá an vị, để dân làng chúng con xin cử hành tế lễ.

Cẩn cáo.

3.1.3. Văn khấn khi kết thúc tế lễ

Con dạ nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật.

Tuế thứ: Việt Nam Quốc, Quảng Ninh tỉnh, Hạ Long thành phố, Hà Khánh

phường, Giang Võng xã, Cái Đá xứ.

Việc tế lễ tại hội lễ Đình Giang Võng đã xong, chúng con cầu xin tam vị Đức

vua, đức thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương, nhị vị Đức Ông, quan cụ Hà Ráng, nhị vị

quan lớn, tả hữu văn võ, thất vị thủy tổ, nhị vị quan bá chứng giám lòng thành của dân

làng chúng con và nhân dân các xã lân cận, phù hộ độ trì cho dân xã chúng con và

nhân dân các phường xã lân cận từ nay đến hết sang năm và sang năm mới gái trai

được mạnh khỏe, trẻ được bình an, ban tài, ban lộc cho chúng con tôm cá đầy khoang,

ra khơi vào lộng được thuận buồm xuôi gió, bảo hộ cho chúng con được an toàn khi

gặp giông bão trên sông biển và an toàn giao thông trên đường bộ, ai làm việc gì được

việc ấy, nói sao được vậy, còn việc gì vô tri, vô trách trần gian chúng con không biết

được, xin chư vị thánh thần và tiên tổ đại xá, vuốt ve che chở đi cho.

Cẩn cáo.

3.2. Văn khấn trong lễ hội Tiên Công năm 2013

3.2.1. Văn khấn Cáo Yết tại đình Cốc

“Duy!

Việt Nam tuế thứ Quý Tỵ niên, lục nguyệt, sơ thập nhất, Quảng Ninh tỉnh, An

Hưng huyện, Hà Nam tổng, Phong Cốc xã, đồng Phong Hải xã đại bái, hiệp dư Đảng

Bộ chính quyền Phong Cốc đồng Phong Hải, đoàn thể thân hào chức sắc kỳ lão nhị xã

đồng đẳng.

Page 187: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

183

Cẩn dĩ !

Sinh lễ thanh trước viên Bính tư thường hàn âm tùng thủ chư tộ cụ soạn kim

ngân phù quả thứ phẩm chi nghi cảm kiền cốc vu.

Hiển! Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh Nương hộ quốc tý dân lẫn lẫm

trứ công đức, kinh hữu lịch triều phong tặng kim gia tặng hàm hoằng quang đại phồ tề

anh linh phổ phó hiển hóa chí đức trang vi dực bảo trung hưng thượng đẳng thần.

Vị tiền viết! Vi hữu hạ điền nhập tịch cáo Yết tất tế lễ dã cung duy Thượng

đẳng thần khí trung Bắc địa danh chấn Nam thiên trạc quyết linh thiếp kính đào ư vạn

lý dương dương như tại phù ngạo cực ư ức niên phát dương ư thượng cảm ứng tự

nhiên tư thích Hạ điền nhập tịch lễ thiết chưng kiền nguyệt thùy giám cách tích dĩ an

toàn, niên ích tăng phú quý, nhân cộng lạc quản huyền, thực lại tôn thần chi vi đức hỹ

đãng hồ vô năng danh yên thượng hưởng.

Kính dĩ!

Khải thánh quyến Châu Hương Cát xã, Triệu công Dương thị, Bắc quốc Tống

Hoàng Đế kiến châu vương công Hoàng thị. Thập thất Tiên công khai sáng đồng điền,

khai khẩn phụ khẩn tiền đồng, hậu đồng, Cốc đồng; liệt vị Tiên Công, tả hữu bộ hạ

văn vũ quan liêu hàm tòng tự long mạch chi thần đồng giám cách”.

3.2.2. Văn khấn Giã hội tại đình Cốc

“Duy!

Việt Nam tuế thứ Quý Tỵ niên, lục nguyệt, sơ thập nhất nhật, Quảng Ninh tỉnh,

An Hưng huyện, Hà Nam tổng, Phong Cốc xã đồng Phong Hải xã đại bái, hiệp dư

Đảng Bộ quyền Phong Hải, đoàn thể thần hào chức sắc kỳ lão nhị xã đồng đẳng.

Cẩn dĩ!

Sinh lễ thanh trước viên Bính tư thiềng hàn ân tùng thủ chư tộ cụ soạn kim

ngân phù quả thứ phẩm chi nghi cảm chiêu cốc vu.

Hiển đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh nương hộ quốc tý dân lẫm trứ

công đức kinh hữu lịch triều phong tặng kim gia tặng hàm hoằng quang đại phổ tề an

linh phổ phó hiển hóa chí đức trang vi dực bảo trung hưng thượng đẳng thần.

Vị tiền viết! Vi hữu hạ điền nhập tịch cáo Yết tất tê lễ dã cung duy Thượng

đẳng thần khí trung Bắc địa danh chấn Nam thiên anh linh hách trạc công đức hiển

Page 188: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

184

dương mạc phù ấp lý trừ khử tai ương tư thích hạ tiết, hạ điền lễ thiết, hạ điền nguyện

thùy giám cách tích dĩ phong nhương lạc lợi tư đào ư ấp lý khuông phù thực lại ư Đại

vương cẩn ốc. Khải thánh quyền châu Hương Cáy xã, Triệu công Dương thị Bắc quốc

Tống Hoàng Đế kiến châu vương công hoàng thị. Thập nhất Tiên công khai sáng

đồng điền, khai khẩn phụ khẩn tiền đồng, hậu đồng, Cốc đồng, liệt vị Tiên Công tả

hữu bộ hạ văn võ quan liêu hàm tòng tự Long mạch chi thần đồng giám cách”.

3.2.3. Văn khấn Thần Nông tại đình Cốc trước nghi lễ cấy Xuống Đồng năm 2007

“Duy!

Việt Nam tuế thứ Quý Tỵ niên, lục nguyệt, sơ thập nhất nhật, Quảng Ninh tỉnh,

An Hưng huyện, Hà Nam tổng, Phong Cốc xã đồng Phong Hải xã đại bái, hiệp dư

Đảng Bộ chính quyền Phong Cốc đồng Phong Hải, đoàn thể thân hào chức sắc kỳ lão

nhị xã đồng đẳng.

Cẩn dĩ!

Sinh lễ thanh trước viên Bính chư tổ cụ soạn kim ngân phù quả thứ phẩm chi

nghi cảm kiền cốc vu.

Hiển! Tiên Thánh đế Thần Nông thị chi thần đôn bản hậu sinh dụ khánh Đế.

Vị tiền viết! Vi hữu Hạ điền tất tế lễ dã.

Cung duy Thánh Đế! Công tham hóa dục đức Đại vương tam nông khai thủy

vạn thế tư sinh, tư cung quá hạ tiết thuộc hạ điền tịnh cập nhương tống hoành trùng,

cẩn hành cẩn cáo. Phục vọng khúc thùy bảo hộ hạ giám chưng thành biến điền nhị khí

hòa thuận ngũ hành phong vũ thời nhược mâu bất kiến bang hòa ca tam bạch mẫu cáo

bách thanh thượng lại thánh đế vô cùng chi đức đãng đãng hô nam danh. Cẩn cốc.

Cung thỉnh!

Thập thất Tiên công khai sáng đồng điền, khai khẩn phụ khẩn tiền đồng, hậu

đồng, Cốc đồng, tân đồng liệt vị Tiên Công hàm tòng tứ chúa phong vũ điện lôi như

thần linh chúa hoàng trùng thử thước chư linh đồng lai giám cách”.

3.3. Văn khấn trong lễ hội Quan Lạn

3.3.1. Văn khấn sáng ngày 18/6 âm lịch hàng năm

Trống trận vang thiên quân hành dậy đất

Page 189: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

185

Thuyền rồng tấp nập trước cửa miếu đường

Giáp võ giương oai, giáp văn lập trận

Nam phụ lão ấu đồng gia trang phục

Thẩm miều mĩ ngọc chờ đón đến giờ

Hoàng đạo nước biển dâng cao kính cẩn

Dâng lễ vật vọng hái tâu qua hương quả

Hoa kim ngân, tửu nhất hồ, kê nhất

Đầu dân xã tâm thành cẩn di đăng chúc

Đặc tiến phụ quốc thuận hoá đạo Dực Bảo Trung Hưng thượng tướng đô

đông hầu đức ông Phạm Công Chính vi chứng,

Đặc tiến Đông Hồ miếu, phụ tướng kiểm sự đô thống binh đại tướng quân

Đức Ông Phạm Thuần Dụng vi chứng,

Đặc tiến phụ tướng Thuận hoá đạo đại tướng quân Đức Ông Phạm Quý Công

vi chứng,

Thượng hạ trung đẳng thần vi chứng

Dân chúng tụ tập lễ hội nhớ người có công

Sáng thực toả ngời lễ hội anh hùng dân tộc

Mở hội đua thuyền, đền công đức

Kính cẩn tâm thành tam vị, dương hành

Chấp chi thiết lễ, lộc thực yên lành

Đầu năm đến cuối, muôn nhà hoà thuận

(Ông Nguyễn Thanh Cấm cung cấp)

3.3.2. Văn tế ở đình trong ngày nghênh sắc phong tướng Trần Khánh Dư về

dự hội vào ngày 16/6 âm lịch hàng năm

Duy Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quảng Ninh tỉnh - Vân Đồn huyện -

Quan Lạn xã.

Tuế thứ ...... niên, lục nguyệt thập lục nhật đồng xã lão thành, lão mẫu, giới

thượng, giới hạ, chủ gia, chủ nhân đẳng cẩn dĩ phù lưu thánh trước kim ngân đẳng vật

đăng trúc chi nghi cảm chiếu cáo vu cung vọng: ...., Húy Lý Triều Bát Đế Vương,

Thiên Tộ Lục Đại Anh Tông vi chứng.

Page 190: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

186

Cung vọng Thành Hoàng Đường Cái Cao Minh Đại Vương vi chứng.

Cung vọng Quốc Mẫu Vua Bà Tứ Vị Hiền Lương vi chứng.

Cung vọng Đông Đạo Tiết Chế Tứ Dương Hầu Thành Quốc Công vi chứng.

Cung vọng Đại Càn Quốc Gia Nam Hải hàm hoằng quảng đại phả bác biến hóa

tang vi rực bảo trung hưng vi chứng.

Dĩ đức lưu truyền mở hội hằng năm nhân thần hào kiệt cùng tiên tổ dù ở nơi

đâu, ở Á ở Âu, trong Nam ngoài Bắc, nơi biển khơi hay rừng sâu, nơi núi cao vời vợi

nhớ ngày mở hội về góp khát vọng khí thế xa xưa, nổi trống vang hồi, thúc giục quân

sĩ cờ soái tung bay trước mũi thuyền rồng, chờ lệnh xông trận. Cung thừa bản xã chủ

tế thay dân kính cẩn tiến dâng phù lưu thánh trước, tạp bàn đẳng vật đăng trúc chi

nghi cung vọng chư vị bách thần tọa đáo cung đình lai lâm chứng giám độ trì dân xã

già trẻ gái trai nhà nhà thịnh vượng nghề nghiệp phát đạt, hòa cốc phong đăng sức

khỏe muôn dân đồng lai cát khánh.

Thượng hưởng

3.3.3. Văn khấn cầu bình tại đình Quan Lạn 10/1 âm lịch hàng năm

Hôm nay là ngày ......tháng....năm....., dân làng chúng tôi tập trung tại đình tổ

chức cầu bình trong năm: có tửu nhất hồ hê - đầu mễ nhất cơi - kim ngân vàng bạc

thanh bông hoa quả:

Xin cung thỉnh đức ngài:.....Ngũ miếu chi thần, Tống tào phán quan về tọa

đáo Đình Trung để lai lâm chứng giám.

Xin cung thỉnh Thiên lộ lục triều Hoàng Thượng Anh Tông về tọa Đình

Trung lai lâm chứng giám.

Xin cung thỉnh Cao Minh Đường Chí Đông Hải Đại Vương thượng đẳng thần

về tọa đáo Đình Trung để lai lâm chứng giám.

Xin cung thỉnh Quốc Mẫu Vua Bà Tứ Vị Hiền Lương về tọa đáo Đình Trung

để lai lâm chứng giám.

Xin cung thỉnh Đại Càn Quốc Gia Nam Hải về tọa đáo Đình Trung để lai lâm

chứng giám.

Xin cung thỉnh Bản Thổ Tiên Nhân về tọa đáo Đình Trung để lai lâm chứng giám.

Page 191: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

187

Xin cung thỉnh ba vị Đức Ông: Phạm Công Chính, Phạm Thuần Dụng, Phạm

Quý Công về tọa đáo Đình Trung để lai lâm chứng giám.

Xin cung thỉnh Văn Võ Bá Quan Tả Hữu, Võ Tướng thủy bộ Chư Dinh về tọa

đáo Đình Trung để lai lâm chứng giám.

Xin cung thỉnh các vị tiền bối tọa đáo gia tiên để lai lâm chứng giám.

Xin cung thỉnh Chư Phật, Chư Thánh về tọa đáo Đình Trung để lai lâm chứng giám.

Phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, trẻ bình an, cho dân khang quốc thịnh, làm

việc gì được việc đó, trước người, sau của, nhà thì nên, nghề nghiệp phong đăng phát

đạt hòa cốc, con cháu đi lên năm về lên mười, đi tươi về cười.

Vậy xin cung thỉnh chư vị bách thần về tọa đáo Đình Trung phù hộ độ trì như

lời cầu nguyện. Nếu Chư vị Bách Thần đã về đông đủ cho dân làng chúng tôi khất

nhất âm, nhất dương cho được. Nếu có trở ngại gì Chư vị cho đồng âm dương tiếu,

đừng cho cười. Người trần mắt thịt dân làng chúng tôi lấy âm dương làm tín cầu mong

bách thần phù hộ độ trì như lời cầu ước.

Page 192: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

188

Phụ lục 4

LỜI RAO TRONG LỄ HỘI QUAN LẠN

(Nguồn: Tác giả luận án sưu tầm) 4.1. Lời rao của tướng Văn

Hỡi quân dân Vân Đồn ta kia...

Đây tiền đồn của non sông đất Việt nhé...

Sương nắng ngàn năm trung dũng kiên cường nhé...

Ta đứng đây đất đảo oai hùng...

Còn ghi lại chiến công của Trần Khánh Dư giết giặc nhé...

Trận đánh Vân Đồn góp chung phần giữ nước cùng Bạch Đằng giang vùi xác

lũ quân Nguyên nhé...

Tiếng thơm xưa ta mãi mãi lưu truyền nhé...

Bớ trai Đông Nam văn ta kia

Đầu năm về giữa, nửa năm thường lệ

Trên thì đống đám thờ Trần, Ngũ vị đại vương nhé....

Hộ cho già sức khỏe, độ cho trẻ bình an, hộ cho dân khang quốc thịnh nhé...

Hãy rung chuông, gióng trống phất cao cờ

Để giục lòng quân dân thêm phấn khởi nhé...

Hôm nay Đông Nam văn ta xung trận

Quyết tâm giành chiến thắng trở về nhé...

4.2. Lời rao của tướng Võ

Bớ trai Đoài Bắc Võ ta kia

Hôm nay vui cùng ngày hội nhé....

Ôn lại chiến công vang dội oai hùng nhé.......

Hơn 700 năm núi trở non mòn. Chiến thắng Vân Đồn còn lưu truyền mãi mãi nhé...

Sông Mang xưa sóng nổi, gươm khua giáo dậy nhé….

Núi Liễu Mai trống thúc quân reo nhé…

Đã nhấn chìm thuyền chiến Nguyên Mông nhé…

Đập tan mộng xâm lăng của kẻ thù xâm lược nhé…

Bảo vệ tổ quốc Việt Nam, giàu mạnh hùng cường nhé….

Page 193: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

189

Cho Vân Đồn sáng ngời mãi mãi nhé….

Cho quê hương ta bốn mùa nở hoa kết trái nhé...

Bớ trai Đoài Bắc võ ta kia

Hãy rung chuông, gióng trống phất cờ cao để giục lòng quân dân thêm phấn

khởi nhé...

Hôm nay Đoài Bắc võ ta xung trận...

Quyết tâm giành chiến thắng trở về nhé...

Page 194: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

190

Phụ lục 5

NGHI THỨC TRÌNH TỰ TẾ TRONG LỄ HỘI ĐỀN CỬA ÔNG

(Nguồn: Tác giả luận án sưu tầm)

Stt Chủ lễ xướng Hành động lễ

1 Khởi chinh cổ Đánh 3 hồi chiêng, 3 tiếng trống

2 Nhạc sinh tựu vị Cử nhạc, trống rộn ràng một lúc

3 Củ soát lễ vật Hai chấp sự dẫn tế chủ vào cung kiểm soát

4 Chấp sự giả các tư kỳ sự Tế sự chuẩn bị vào việc

5 Nghệ quán tẩy sở Tế chủ, chấp sự đến chỗ rửa tay

6 Quán tẩy Tế chủ, chấp sự rửa tay

7 Thuế cân Tế chủ, chấp sự chỉnh lại quần áo

8 Bồi tế viên tựu vị Bồi tế bước vào chiếu của mình

9 Chủ tế viên tựu vị Chủ tế bước vào chiếu của mình

10 Thượng hương Chấp sự chuyển lư hương cho Tế chủ đốt, sau

đó vái rồi đặt lên hương án (cả Bồi tế cũng quỳ)

11 Nghênh thần cúc cung bái Chủ tế, Bồi tế lễ 4 lễ

12 Hành sơ hiến lễ Lễ dâng rượu lần đầu

13 Nghị tửu tôn sở Tế chủ ra hương án, chấp sự mở vải phủ đài rượu

14 Chuốc rượu Tế chủ rót rượu

15 Nghệ đại vương thần vị Tế chủ lên chiếu 1

16 Qụy Tế chủ và bồi tế quỳ xuống

17 Hiến tước Chấp sự đưa đài rượu cho tế chủ bái

18 Hiến tước Chấp sự dâng đài rượu vào nội điện

19 Hưng, bình thân phục vị Tế chủ, Bồi tế phục xuống rồi dậy

20 Đọc chúc 2 chấp sự vào nội điện lấy chúc ra

21 Nghị đọc chúc Tế chủ và 2 người bưng chúc lên chiếu 1

22 Đai qụy Tế chủ, Bồi tế và 2 chấp sự quỳ

23 Chuyển chúc Cho người chủ tế bái rồi chuyển cho người đọc

Page 195: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

191

24 Đai chúc Đọc xong, Tế chủ, Bồi tế lễ 2 lễ

25 Chướng trở lại để dâng 2

tuần rượu nữa

26 Ẩm phúc Tế chủ bưng rượu vái, lấy hai tay áo cho vào

miệng uống

27 Nghệ ẩm phúc vị Tế chủ lên chiều 2

28 Qụy Đưa rượu trầu cho chủ tế

29 Ẩm phúc Tế chủ bưng rượu vái. Lấy hai tay áo che uống

30 Thụ lộ Tế chủ cầm khay trầu vái rồi ăn tượng trưng,

sau đó Tế chủ, Bồi tế lễ 2 lễ

31 Tạ lễ cúc cung bái Tế chủ, Bồi tế lễ 4 lễ

32 Phần chúc Đốt chúc thư

33 Lễ tất Mọi người lễ 4 lễ

Page 196: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

192

Phụ lục 6

SẮC PHONG

(Nguồn: Ban quản lý di tích cung cấp)

6.1. Sắc phong Đình Hải Yến, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng

6.1.1. Sắc phong của vua Duy Tân

Nguyên văn chữ Hán: 敕旨廣安省興安縣海晏社從前奉事妙感默孚彰顯敦凝翊保中興城皇靈應之神翊保中興靈扶當境城皇威明之神節經頒給敕封準其奉事 維新元年晉光大禮經頒寶照覃恩禮龍登秩特準依舊奉事用志國慶而申祀典欽哉 維新三年八月十一日 Phiên âm:

Sắc chỉ Quảng Yên tỉnh, Yên Hưng huyện, Hải Yến xã tòng tiền phụng sự

Diệu cảm Mặc phu, Chương hiển Đôn ngưng, Dực bảo Trung hưng Thành hoàng

Linh ứng chi thần; Dực bảo trung hưng, Linh phù Đương cảnh thành hoàng Uy

minh chi thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự.

Duy Tân nguyên niên tấn quang đại lễ, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long

đăng trật, đặc chuẩn y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển.

Khâm tai!

Duy Tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho xã Hải Yến, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên từ xưa đã phụng thờ:

Diệu cảm Mặc phu Chương hiển Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng Thành hoàng Linh

ứng chi thần; Dực bảo Trung hưng, Linh phù Đương cảnh Thành hoàng Uy minh chi

thần. Các thần đã được ban cấp sắc phong, cho phép phụng thờ.

Năm Duy Tân nguyên niên (1907), tấn quang đại lễ (lễ lên ngôi) vậy ban bảo

chiếu ân lớn, lễ trọng nâng bậc, đặc chuẩn phụng thờ như cũ để ghi nhớ ngày quốc

khánh và tỏ rõ điển lệ thờ cúng. Kính thay!

Ngày 11 tháng 8 năm Duy Tân thứ 3 (1909).

Page 197: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

193

6.1.2. Sắc phong vua Tự Đức

Nguyên văn chữ Hán: 敕旨廣安省安興縣海晏社從前奉事妙 感 默 孚 彰 顯 敦凝城皇靈應之神節經頒給敕封準其奉事 嗣 德參拾 壹 年 正 值 朕 五 旬 大 慶 節護 國 庇 民經 頒 寶 詔 覃 恩 禮 隆 登 秩 特 準 許 依 舊 奉 事 用 誌 國 慶 而 申 祀 典 欽 哉 嗣 德 參拾參年拾壹月貳 拾 肆 日 Phiên âm:

Sắc chỉ Quảng Yên tỉnh, Yên Hưng huyện, Hải Yến xã tòng tiền phụng sự:

Diệu cảm mặc phu Chương hiển đôn ngưng Thành hoàng Linh ứng chi thần. Tiết

kinh ban cấp sắc phong, chuẩn kỳ phụng sự.

Tự Đức tam thập nhất niên, chính trị trầm ngũ tuần đại khánh tiết, kinh ban

bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, đặc chuẩn hứa y cựu phụng sự, dụng chí quốc

khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!

Tự Đức tam thập tam niên thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc chỉ cho xã Hải Yến, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên từ xưa đã phụng thờ:

Diệu cảm mặc phu Chương hiển đôn ngưng Thành hoàng Linh ứng chi thần. Thần

từng được ban cấp sắc phong cho phép phụng thờ.

Tự Đức năm thứ 31 (1878) đúng vào lúc ngũ tuần đại khánh tiết của trẫm, vậy

ban bảo chiếu ân lớn, lễ trọng nâng bậc, đặc chuẩn cho phụng thờ như cũ để ghi nhớ

ngày quốc khánh và tỏ rõ điển lệ thờ cúng. Hãy nhận.

Ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức thứ 33 (1880).

6.1.3. Sắc phong của vua Thành Thái cho thành hoàng xã Hải Yến

Nguyên chữ Hán: 敕廣安省安興縣海晏社奉事當境城皇威明之神稔著靈應向來未有預封肆今丕承耿命緬念神庥著封為翊保中興靈扶之神準依舊奉事神其相佑保我黎民欽哉

Page 198: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

194 成泰元年拾壹月拾捌日

Phiên âm:

Sắc Quảng Yên tỉnh, Yên Hưng huyện, Hải Yến xã phụng sự: Đương cảnh

Thành hoàng Uy minh chi thần. Nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị hữu dự phong.

Tứ kim phi thừa cảnh mệnh miến niệm thần hưu, trứ phong vi: Dực bảo

Trung hưng Linh phù chi thần, chuẩn y cựu phụng sự, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê

dân. Khâm tai!

Thành Thái nguyên niên thập nhất nguyệt thập bát nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho xã Hải Yến, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên phụng sự: Đương

cảnh Thành hoàng Uy minh chi thần. Thần tỏ rõ linh ứng, xưa nay chưa được

phong tặng.

Nay trẫm nối thừa mệnh lớn, nhớ đến công lao của thần, đáng phong là: Dực bảo

Trung hưng Linh phù chi thần, cho phép phụng thờ như cũ. Thần hãy phù hộ che chở

cho muôn dân của ta. Kính thay!

Ngày 18 tháng 11 năm Thành Thái thứ nhất (1889).

6.1.4. Sắc phong của vua Thành Thái cho thần Đại Hải Phạm

Nguyên văn chữ Hán: 敕廣 安 省 安 興 縣 海 晏 社 奉 事 本土城皇大海范 之神 稔 著 靈 應 向 來 未 有 預 封 肆 今 丕 膺 耿 命 緬 念 神 庥 著 封 為 翊 保 中 興 靈 扶 之 神 準依 舊 奉 事 神 其 相 佑 保 我 黎 民 欽 哉 成 泰 元 年 拾 壹 月 拾 捌 日

Phiên âm:

Sắc Quảng Yên tỉnh, Yên Hưng huyện, Hải Yến xã phụng sự: Bản thổ thành

hoàng Đại Hải Phạm chi thần. Nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị hữu dự phong.

Page 199: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

195

Tứ kim phi thừa cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, trứ phong vi: Dực bảo

Trung hưng Linh phù chi thần. Chuẩn y cựu phụng sự, thần kỳ tương hựu bảo ngã

lê dân. Khâm tai!

Thành Thái nguyên niên thập nhất nguyệt thập bát nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho xã Hải Yến, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên đã phụng thờ: Bản thổ thành

hoàng Đại Hải Phạm chi thần. Thần đã tỏ rõ linh ứng, xưa nay chưa được phong tặng.

Nay được nối ngôi báu, nhớ đến công lao của thần, đáng phong là: Dực bảo

Trung hưng Linh phù chi thần, cho phép phụng thờ thần như xưa. Thần hãy phù hộ

che chở cho muôn dân của ta. Kính thay!

Ngày 18 tháng 11 năm Thành Thái thứ nhất (1889).

6.2. Sắc phong đình Quan Lạn

6.2.1. Sắc phong thời Thiệu Trị thứ 6

Nguyên văn chữ Hán: 敕保安城皇之神護國庇民稔著靈應 明 命 貳 拾 壹 年 值 我 聖 祖 仁 皇 帝 五 旬 大 慶 節 欽 奉 寶 詔 覃 恩 禮 隆 登 秩 肆 今 丕 膺 耿 命 緬 念 神 庥可 加 贈 保安正直之神 仍 準 雲屯州觀爛社依 舊 奉 事 神 其 相 佑 保 我 黎 民 欽 哉 紹 治 陸 年 九 月 十 四 日 Phiên âm:

Sắc: Bảo an Thành hoàng chi thần. Hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng.

Minh Mệnh nhị thập nhất niên trị ngã Thánh tổ nhân Hoàng đế ngũ tuần đại

khánh tiết, khâm phụng bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, tứ kim phi ưng cảnh

mệnh miến niệm thần hưu, khả gia tặng: Bảo an Chính trực chi thần. Nhưng chuẩn

Vân Đồn Châu, Quan Lạn xã y cựu phụng sự, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân.

Khâm tai!

Thiệu Trị lục niên bát nguyệt thập tam nhật

Page 200: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

196

Dịch nghĩa:

Sắc cho: Bảo An Thành hoàng chi thần. Thần đã cứu nước giúp dân tỏ rõ

linh ứng. Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) đúng vào dịp đại lễ mừng Thánh tổ

Nhân Hoàng đế (Minh Mệnh) hưởng ngũ tuần, nên đã ban cho chiếu báu, lễ trọng

nâng bậc.

Nay trẫm nối ngôi báu, nhớ đến công lao của thần, đáng gia tặng: Bảo an

Chính trực chi thần. Lại chuẩn cho xã Quan Lạn, châu Vân Đồn phụng thờ thần như

xưa. Thần hãy phù hộ che chở cho muôn dân của ta. Kính thay.

Ngày 13 tháng 8 năm Thiệu Trị thứ 6 (1848)

6.2.2. Sắc phong thời Tự Đức năm thứ 3

Nguyên văn chữ Hán: 敕旨大乾國家南海四位尊神元贈含弘光大至德溥博顯化上等神護國庇民稔著靈應節蒙頒給贈敕準許奉肆今丕膺耿命緬念神庥可加贈含弘光大至德溥博顯化莊徽上等神仍準堯豐縣觀爛社依舊奉事神其相佑保我黎民欽哉 嗣德參拾參拾壹月拾伍日 Phiên âm:

Sắc chỉ: Đại kiền Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần, nguyên tặng: Hàm hoằng,

Quảng đại, Chí đức, Phổ bác, Hiển hóa Thượng đẳng thần. Hộ quốc tí dân, nẫm trứ

linh ứng. Tiết mông ban cấp tặng sắc, chuẩn hứa phụng sự.

Tứ kim phi ưng cảnh mệnh miếu niệm thần hưu, khả gia tặng: Hàm hoằng,

Quảng đại, Chí đức, Phổ bác, Hiển hóa Trang huy Thượng đẳng thần. Nhưng chuẩn

Nghiêu Phong huyện, Quan Lạn xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê

dân. Khâm tai.

Tự Đức tam niên thập nhất nguyệt thập ngũ nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho: Đại kiền Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần, nguyên được tặng: Hàm

hoằng, Quang đại, Chí đức, Phổ bác Hiển hóa Thượng đẳng thần. Thần đã giúp nước

cứu dân tỏ rõ linh ứng, từng được ban cấp sắc phong cho phép phụng thờ.

Page 201: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

197

Nay trẫm nối ngôi báu lớn nhớ đến công lao của thần, đáng gia tặng: Hàm

hoằng, Quang đại, Chí đức, Phổ bác, Hiển hóa Trang huy Thượng đẳng thần. Lại cho

phép xã Quan Lạn, huyện Nghiêu Phong phụng thờ thần như xưa. Thần hãy phù hộ

che chở cho muôn dân của ta. Kính thay!

Ngày 15 tháng 11 năm Tự Đức thứ 3 (1850).

6.2.3. Sắc phong thời Đồng Khánh năm thứ 2

Nguyên văn chữ Hán: 敕旨含弘廣大至德溥博顯化莊徽大乾國家南海四位上等神向來護國庇民稔著靈應節蒙頒給贈敕留祀肆今丕膺耿緬念神庥可家贈翊保中興上等神仍準許廣安省堯豐縣觀爛社依舊奉事神其相佑保我黎民欽哉 同慶貳年柒月初壹日 Phiên âm:

Sắc chỉ: Hàm hoằng, Quang đại, Chí đức, Phổ bác Hiển hóa Trang huy, Đại

kiền Quốc gia Nam hải tứ vị thượng đẳng thần. Hướng lai hộ quốc tí dân nẫm trứ linh

ứng tiết mông ban cấp tặng sắc lưu tự.

Tứ kim phi ứng cảnh mệnh miếu niệm thần hưu, khả gia tặng: Dực bảo Trung

hưng Thượng đẳng thần. Nhưng chuẩn hứa: Quảng Yên tỉnh, Nghiêu Phong huyện,

Quan Lạn xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai.

Đồng Khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho: Hàm hoằng, Quang Đại, Chí đức, Phổ bác, Hiển hóa Trang huy, Đại

kiền Quốc gia Nam hải tứ vị Thượng đẳng thần. Xưa nay các thần đã giúp nước giúp

dân tỏ rõ linh ứng, từng được ban cấp sắc cho thờ tự.

Nay trẫm nối ngôi báu nhớ đến công lao của thần, đáng gia tặng: Dực bảo Trung

hưng Thượng đẳng thần. Lại cho phép xã Quan Lạn, huyện Nghiêu Phong, tỉnh

Quảng Yên phụng thờ thần như xưa. Thần hãy phù hộ che chở cho muôn dân của ta.

Kính thay!

Ngày 1 tháng 7 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887).

Page 202: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

198

6.2.4. Sắc phong thời Thành Thái

Nguyên văn chữ Hán: 敕廣 安省堯豐縣觀爛社奉事輔國都統之神稔著靈應向來未有預封肆今丕承耿命緬念神庥著封為翊保中興靈扶之神準依舊奉事神其相佑保我黎民欽哉 成泰元年拾壹月拾捌日 Phiên âm:

Sắc: Quảng Yên tỉnh, Nghiêu Phong huyện, Quan Lạn xã phụng sự: Phụ

quốc Đô thống chi thần. Nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị hữu dự phong.

Tứ kim phi thừa cảnh mệnh miếu niệm thần hưu, trứ phong vi: Dực bảo

trung hưng Linh phù chi thần. Chuẩn y cựu phụng sự thần. Thần kỳ tương hựu bảo

ngã lê dân. Khâm tai.

Thành Thái nguyên niên thập nhất nguyệt, thập bát nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho xã Quan Lạn, huyện Nghiêu Phong, tỉnh Quảng Yên phụng thờ: Phụ

quốc đô thống chi thần. Thần đã tỏ rõ linh ứng, xưa nay chưa được dự phong.

Nay trẫm lên ngôi báu nhớ đến công lao của thần, đáng phong là: Dực bảo trung

hưng linh phù chi thần. Cho phép phụng thờ như xưa. Thần hãy phù hộ che chở cho

muôn dân của ta. Kính thay!

Ngày 18 tháng 11 năm Thành Thái thứ nhất (1889).

6.2.5. Sắc phong thời Duy Tân năm thứ ba

Nguyên văn chữ Hán: 敕廣安省橫蒲縣觀爛社從前奉事沖慧當竫圓凈端肅翊保中興空路覺海之神保安正直佑善敦凝中興城皇之神節經頒給敕封準其奉事維新元年晉光大禮經頒保照覃恩禮隆登秩特準依舊奉事用寶照覃恩禮龍登秩特準依舊奉事用志國慶而申祀典欽哉 維新參年捌月拾壹日

Page 203: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

199

Phiên âm:

Sắc: Quảng Yên tỉnh, Hoành Bồ huyện, Quan Lạn xã, tòng tiền phụng sự:

Xung tuệ Đang tĩnh Viên tịnh Đoan túc Dực bảo Trung hưng; Không Lộ, Giác Hải chi

thần; Bảo an Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng Trung hưng Thành hoàng chi thần. Tiết

kinh ban cấp, sắc phong chuẩn kỳ phụng sự.

Duy Tân nguyên niên tấn quang đại lễ, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long

đăng trật. Đặc chuẩn y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!

Duy Tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật

Dịch nghĩa:

Sắc cho xã Quan Lạn, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên từ xưa đã phụng thờ:

Xung tuệ Đang tĩnh Viên tịnh Đoan túc Dực bảo Trung hưng; Không Lộ, Giác Hải chi

thần; Bảo an Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng Trung hưng Thành hoàng chi thần. Các

thần đã từng được ban cấp sắc phong, cho phép phụng thờ.

Duy Tân năm đầu (1907) trẫm nối báu vậy ban bảo chiếu ân lớn, lễ trọng nâng

bậc. Đặc chuẩn cho phép phụng thờ như xưa để ghi nhớ ngày quốc khánh và tỏ rõ điển lệ

thờ cúng. Kính thay!

Ngày 11 tháng 8 năm Duy Tân thứ 3 (1909).

Viện Hán Nôm xác nhận

Bà: Mai Hương

Ông: Mai Ngọc Hồng là cán bộ của viện

Hà Nội, ngày 19 tháng 8 năm 2015

Phiên âm, dịch nghĩa: Mai Hương

Người hiệu đính: Mai Ngọc Hồng

Page 204: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

200

Phụ lục 7

CÁC TRÒ DIỄN TRONG LỄ HỘI BẠCH ĐẰNG

(Nguồn: Ông Lê Đồng Sơn cung cấp)

7.1. Trần Hưng Đạo đọc Hịch tướng sĩ tiêu diệt giặc Mông - Nguyên

Bài hát: (Các bài hát trong các trò diễn ở lễ hội Bạch Đằng theo các làn điệu hát

chèo phổ biến ở Hưng Yên)

Rạng rỡ trời Nam chí quật cường

Lừng vang chiến thắng đất Thăng Long

Nguyên Phong niên đại Nguyên Mông bại

Mãi mãi còn vang chiến công này…

(Hưng Đạo Vương và hai tùy tướng ra, quân lính hô)

Binh sĩ:

Kính chào Quốc công tiết chế

Người đến thăm quân sĩ luyện rèn.

Hưng Đạo:

Các ngươi bình thân.

Tai ta nghe quân sĩ hát

Lời ca chiến thắng lần thứ nhất Nguyên Mông

Mắt ta nhìn quân sĩ múa giáo khua gươm

Mà thấy sức mạnh non thiêng Đại Việt

Nay chúa Nguyên Mông Hốt Tất Liệt

Phá lời cam kết hai nước giao hòa

Lần thứ hai sang xâm lược nước ta

Quân sĩ hãy nghe lời hịch:

(Quân sĩ reo hò)

“Ta cùng các ngươi sinh phải thời rối ren, lớn gặp buổi khó nhọc, ngó thấy sứ

giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình,

đem thân dê chó mà bắt nạt tổ phụ. Thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa

lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vơ vét của kho

Page 205: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

201

có hạn. Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau. Ta thường

tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ hận không

ăn được thịt, vằm da, nuốt gan, uống máu quân thù, dù trăm thây ta phơi ngoài nội cỏ,

nghìn thây ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu Môn hạ, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo, không

có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta thăng chức, lương thấp thì ta cấp bổng; đi mạc

cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười, so với Công Kiên đãi kẻ tì

tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá nào có kém gì ?

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không

biết tức, nghe nhạc thái thường đãi yến ngụy mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi

gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc

quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên

việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang,

thì cựa gà trống không thể dâm thủng áo giáp giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm

mưu lược nhà binh, vườn ruộng giàu không chuộc được tấm thân ngàn vàng, vợ con

bận không ích gì cho việc quân quốc, tiền của dẫu nhiều không mua được đầu giặc,

chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không làm cho giặc điếc

tai. Lúc bấy giờ, chủ tôi nhà ta cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái

ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chằng những gia

quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị bắt đi; chẳng những thân ta kiếp này bị

nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các

người cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi

muốn vui chơi có được không ?”.

Binh sĩ: Thưa Quốc Công, quyết không thể được.

Hưng Đạo: Vậy thì, các ngươi nghe đây:

Hãy mài gươm cho sắc

Hãy nắm chặt tay cung

Hãy theo tấm gương những bậc bạch đầu quân

Bằng khí thế thì Hội nghị Diên Hồng

Page 206: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

202

Mà cùng cất cao lời thề “Sát Thát!”.

Binh sĩ: (Cùng hô vang) Sát Thát! Sát Thát! Sát Thát!

Đồng ca

Chí quyết tâm đồng

Nung nấu trong lòng

Hận thù Nguyên Mông

Gây hấn xâm lăng !

Tay ta thích - “Sát Thát”

Diệt cho hết giặc Thát

Ta dốc lòng nêu gương

Ái quốc trung quân.

Cùng nhau sẵn sàng hy sinh cho non sông

Múa gươm sông ra trận tuyến

Ta nuôi tinh thần quyết chiến

Tiêu diệt quân thù

Bảo vệ cõi bờ giang sơn

Tay ta thích “ Sát Thát!”

Lòng ta quyết liều chết

Chết vì non sông, đất nước, quê hương.

Hưng Đạo: Lên đường!...

(Âm nhạc, đoàn quân reo hò tiến quân)

7.2. Lễ dâng lịch triều non nước

(Mở trò, trống ngũ liên thúc liên hồi. Tiếng loa truyền khẩn cấp)

Loa…Loa…Loa…

Nước nhà có biến

Giặc Nguyên Mông xâm lấn nước ta

Theo lệnh của Nhà vua

Mọi người phải xông ra đánh giặc…

Dẫu thế giặc có mạnh

Page 207: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

203

Phải liều chết mà đánh

Cấm không được đầu hàng…

(Dân chúng chạy xuôi ngược trong lời bài hát)

Đồng ca:

Lửa cháy ngang trời

Khói bay nghi ngút

Giặc Nguyên Mông xâm lăng đất nước

Làng quê ta đau thương tang tóc

Lòng dân ta uất ức căm hờn!...

(Tất cả vào hết, chỉ còn ông lão)

Ông lão: Hỡi Ô Mã Nhi, hỡi bầy giặc Thát

Bay thẳng tay cướp bóc thảo lương

Bay nhẫn tâm cướp vợ, giết chồng

Gây bao cảnh đau thương tang tóc…

Dân trại An Hưng ghi tâm khắc cốt

Tội ác tày trời lũ giặc Nguyên Mông

Xin cầu trời khấn phật anh minh

Giúp dân An Hưng diệt bầy giặc ác

(Yết Kiêu vào phía sau ông lão)

Yết Kiêu: Mô phật!

Ông lão: Ôi! Xin kính chào tướng quân Yết Kiêu

Yết Kiêu: Kính chào người lính già trại An Hưng

Đã cùng Yết Kiêu

Năm Nguyên Phong lập công giết giặc

(Ôm nhau)

Ông lão: Thưa tướng quân, bao nhiêu năm trời xa cách

Mà tướng quân vẫn nhớ mặt tôi ư ?

Yết Kiêu: Nhớ chứ, quên sao được…

Ngâm:

Tuy rằng cách mặt đã lâu

Page 208: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

204

Nhưng tình quân sĩ in sâu dạ này

Nhớ khi luyện tập hăng say

Nhớ khi giáp chiến trận đầy cam go

Nhớ khi bữa đói, bữa no

Tiếng cười nuôi chí, câu ca giục lòng…

Cho dù đầu bạc răng long

Nghĩ về chiến thắng Nguyên Phong nhớ hoài

(Hai người cười khoan khoái)

Ông lão: Vậy tướng quân về thăm trại An Hưng

Hay vì việc quân, tướng quân đi thị sát ?

Yết Kiêu: Được vua giao trọng trách

Đi thị sát Hải Đông

Tôi hộ tống Hưng Đạo Vương

Về bến Rừng xem thế trận.

Ông lão: Ôi! Thật là sung sướng.

Xin tướng quân cho chúng tôi được đón Đại Vương

Yết Kiêu: Đại Vương cũng đang muốn gặp dân chúng nơi đây

Để tôi ra mời Đại Vương tới.

(Yết Kiêu đi. Ông lão với gọi dân chúng)

Ông lão: Mời dân chúng Trại An Hưng

Ra đón Quốc công Tiết chế

(Tiếng reo hò của dân chúng, bà hàng nước cùng các cô gái và dân chúng kéo đến…)

Bà hàng nước: Đâu, Quốc Công Tiết Chế đâu ?

Vị tướng anh hùng của nhà Trần đâu ?

Ông lão: Kia, Quốc Công Tiết Chế đang đến kìa…

(Dân chúng chuẩn bị nghênh tiếp, Trần Hưng Đạo xuất hiện)

Tất cả: Dân chúng trại An Hưng

Kính chào Quốc Công Tiết chế.

Hưng Đạo: Kính chào bô lão cùng tất cả dân làng

Tôi được biết

Page 209: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

205

Trại An Hưng bị giặc Thát tràn qua

Chúng giết người, cướp của, đốt nhà

Làm dân ta chịu nhiều thiệt hại

Tôi gửi lời thăm hỏi

Của triều đình tới dân làng.

Tất cả: Xin đội ơn Quốc Công Tiết Chế

Hưng Đạo: Nay giặc Thát ỷ vào nước lớn

Cố rắp tâm xâm chiếm nước ta

Đã có lệnh của nhà vua

Dân chúng An Hưng ta đã sẵn sàng đánh giặc ?

Tất cả: Sẵn sàng rồi ạ.

Bà hàng nước: Trình Đại vương Quốc Công Tiết Chế

Kẻ bề tôi như lá cây ngọn cỏ

Cư ngụ chốn quê mùa

Bắt ốc, mò cua kiếm ăn nuôi miệng

Lúc gió to bão lớn

Khi biển lặng sóng yên

Kẻ bề tôi chẳng quản nhọc nhằn

Giúp lương thảo nuôi quân

Bát chè xanh đỡ khát lòng lữ khách

Nay giặc Nguyên Mông xâm lăng đất nước

Tàn phá trại An Hưng mà tức mà căm

Nay bề tôi có kế đánh giặc, trình Đại Vương

Bến đò này là họng sông Bạch Đằng

Hãy cắm cọc gỗ mà ngăn quân giặc

Hưng Đạo: Hãy cắc cọc gỗ mà ngăn quân giặc ?

Bà hàng nước: Dạ thưa phải,

Để giặc Thát trận này đại bại

Cho lũ xâm lăng nhớ mãi ngàn đời

Hãy thu hết cỏ xăng của vùng An Hưng này

Page 210: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

206

Làm bè lửa mà thiêu đốt giặc

Hưng Đạo: Dùng bè lửa mà thiêu đốt giặc ?!

Hay, hay ! Qủa là trời giúp ta

Cho người đàn bà này đến mách

Vậy xin lão bà cho biết

Lịch con nước ở vùng này

Bà hàng nước: Xin mời Đại Vương

Xem lịch triều con nước

(Bà mở khăn lấy quạt chia cho bốn cô gái)

Thưa Đại Vương,

Ở vùng biển, nước theo tuần trăng mọc

Có con nước chết, có con nước cường

Lịch triều xin được dâng trình

Đại Vương thấu tỏ ngọn nguồn lạch sông

(Bà lần lượt đọc, các cô gái lần lượt dâng quạt cho

Hưng Đạo Vương xem…)

- Tháng Tám trâu bò ra…

- Tháng Ba trâu bò về…

- Triều cường lên tận lưng đê

- Phủ che đầu cọc đánh lừa giặc Mông

(Hết một mặt bốn chiếc quạt)

Nữ 1: Những con nước chết trong năm

Nữ 2: Từng ngày, từng tháng ghi trong lịch này…

(Hết mặt sau bốn chiếc quạt)

Đây tấm lòng người

Góp công chung giúp vua cứu nước diệt giặc thù

Tỏ lòng trung hiếu (của) trẻ già An Hưng

Chúng dân những mong đất nước khải hoàn

Hưng Đạo:

Hay, hay, hay, quả thật là hay

Page 211: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

207

Lịch triều con nước đã bày cho ta

Triều cường cao nhất tháng Ba

Đúng vào thất nhật, nửa giờ canh đêm

Hôm sau, nước chết cạn nhanh

Đúng vào giờ ngọ, bại thành tại đây. (Cười to)

Cảm tạ lão bà cùng dân chúng đã giúp Hưng Đạo tôi

Tìm được thế trận diệt thù

Mới hay câu “Giặc đã đến nhà

Thì tất thẩy đàn bà cũng đánh” (Lại cười)

Yết Kiêu, hãy huy động quân lính

Và chiêu mộ dân binh

Toàn Lộ Hải Đông

Vào rừng Trại An Hưng chặt lim làm cọc.

Yết Kiêu: Tuân lệnh (Hưng Đạo và Yết Kiêu ra)

Ông lão:

Nào, hỡi trai đinh vạm vỡ

Hỡi gái giỏi kiên cường

Hãy chung sức đồng lòng

Vào rừng lim chặt cây, đóng cọc.

(Tiếng reo trai gái. Âm nhạc mạnh mẽ diễn ra cảnh vác gỗ, đóng cọc, kẻ

tay đuốc, người tay vồ, nhịp nhàng làm theo bài hát “Đóng cọc Bạch Đằng”)

Lời bài hát:

Ta kéo xuống dòng sông này

Những chiếc cọc gỗ lim

Ta đóng xuống dòng sông này

Những chiếc cọc gỗ lim

Nhanh tay trai tráng An Hưng

Chúng em gái giỏi quê mình

Cùng đồng tâm giết giặc lập công

Thề lập công trên Bạch Đằng giang.

Page 212: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

208

7.3. Phát hỏa làm hiệu lệnh

Hưng Đạo: Dừng lại … dừng lại …

Chư vị cho tôi hỏi, chư vị là ai ?

Qúy Minh: Tôi là Qúy Minh Đại Vương

Cao Sơn: Tôi là Cao Sơn Đại Vương

Phi Bồng: Tôi là Phi Bồng Tướng Quân

Nam Hải: Tôi là Nam Hải Tôn Thần

Bạch Thạch: Còn tôi, tướng quân Bạch Thạch

Cả năm vị: Chúng tôi là Đại Vương âm sứ

Được lệnh lên đây là để gặp ngài

Hưng Đạo: Thưa ngũ vị Đại Vương

Hà cớ gì mà giữa đêm

Các vị thỉnh Hưng Đạo Vương tôi thức dậy ?

Qúy Minh: Thưa Quốc Công Tiết Chế, ngài đâu có ngủ

Trắng thâu đêm suy nghĩ việc quân

Ngài đang lo bày thủy trận dẹp quân Mông

Vì quá mệt mà thiếp đi ngay trên án võ

Hưng Đạo: Qủa tình tôi đang đăm chiêu nung nấu

Việc quân cơ chẳng giấu các chư thần.

Nam Hải: Chúng tôi hiểu, ngài đang sốt ruột nóng lòng

Mong sao tìm được chỗ phát hỏa tiến công

Để phối hợp các cánh quân

Bên kia Bến Rừng, Đá Bạc.

Phi Bồng: Chúng tôi biết

Khu bàn cờ đó đượng đất

Nằm ở độ thấp nhất vùng

Đượng đất này tên gọi Cu Linh

(tức cây Giêng)

Người lạ thổ lạ thung khó mà vào được

Hưng Đạo: Vậy ư ? Thưa ngũ vị Đại vương, Tôn thần

Page 213: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

209

Bạch Thạch: Ở nơi ấy như một ốc đảo

Cây cỏ che kín đáo rất dễ ẩn binh

Lại là điểm thắt nút nối giữa hai nhánh sông

Rất thuận tiện hỏa công, thủy chiến

Hưng Đạo: Thật vậy ư, Tướng quân ?

Cao Sơn: Nếu ngài muốn biết sự thật

Sớm mai thị sát nơi này

Cả năm vị: Ngài sẽ rõ ngay

Lời như Thần mách

(Dứt lời, Ngũ vị Đại vương, Tôn thần đi ra. Hưng Đạo Vương bừng tỉnh cơn mơ,

tìm kiếm xung quanh. Dã Tượng vào, vội hỏi)

Dã Tượng: Thưa Quốc công Tiết chế

Người cần gì ? Xin để Dã Tượng tôi lo.

Hưng Đạo: Dã Tượng, chuẩn bị thuyền

Dã Tượng: Thưa Đại Vương, trời chưa sáng rõ

Người vội vã đi đâu ạ ?

Hưng Đạo: Ta vừa qua một cơn mơ

Gặp các âm thần về phù trợ

Ngài chỉ cho nơi phát hỏa

Hãy kíp đi xem thử thật hư

Dã Tượng: Tuân lệnh (Mọi người hát)

Chẳng quản nhọc nhằn

Cứu muôn dân Đại Vương chẳng quản nhọc nhằn

Cả đời xông pha chiến trận một lòng hiếu trung

Sáng lung linh tài đức người anh hùng.

(Trong nền bài ca, ông già chèo thuyền chở Yết Kiêu đi trước. Thuyền sau Dã Tượng

chở Hưng Đạo Vương. Đến giữa sân khấu, ông lão và Yết Kiêu đỡ Hưng Đạo lên bờ).

Hưng Đạo: Đã đến chưa, Lão trượng?

Ông lão: Thưa Đại Vương,

Đã đến đượng Cu Linh rồi ạ.

Page 214: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

210

(Hưng Đạo đi một vòng)

Hưng Đạo: Qủa như lời thần linh báo mộng

Đây là nơi địa võng thiên la

Giặc Thát vào sẽ không có đường ra

Ơn chư vị Đại Vương giúp ta thế trận

(Cung kính chắp tay vái)

Dã Tượng, hãy điều ngay đội quân thiện chiến

Cùng nhiều cung tên phục sẵn nơi này

Chờ lũ giặc rút lui qua đây

Đánh tan tác hết bầy giặc Thát.

Dã Tượng: Tuân lệnh (Đi nhanh ra)

Hưng Đạo: Yết Kiêu

Yết Kiêu: Dạ

Hưng Đạo: Người hãy hỏa tốc về ngay Đá Bạc

Trình báo với Thái Thượng Hoàng và Thượng Hoàng phối hợp hai bên

Vào giờ Tý ngày Thất nhật phát hỏa tiến công

Dồn giặc Thát vào cửa Bạch Đằng mà diệt

Yết Kiêu: Tuân lệnh (ra nhanh)

(Âm nhạc reo lòng người dũng tướng)

Như vậy là có âm phù, dương trợ

Trận chiến này tất sẽ thành công … (cười to)

Ngâm:

Thế trận bày xong, đánh giặc nhàn

Chờ xem nổi sóng Bạch Đằng giang

Đất thiêng, khí dũng toàn dân tộc

Hun đúc lòng quân khí quật cường.

Tất cả hát:

Binh khí sẵn sàng,

Triều dâng con nước

Cả non sông

Page 215: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

211

Chờ mong náo nức

Này vinh quang

Khúc hát khải hoàn

Hưng Đạo phát lệnh

Hỡi tướng sĩ ba quân!

Hỡi thần dân Đại Việt!

Giặc Thát đã sa vào chỗ chết

Nổi lửa lên, diệt hết lũ xâm lăng

(Quân lính reo hò, trống trận giục giã, sân khấu diễn ra trận đánh: Lớp múa cờ, lớp

múa lửa vây lấy quân giặc. Trận chiến kết thúc trong lời bài ca chiến thắng)

(Tiếng reo và tiếng hát)

Bài hát:

Nước Bạch Đằng đêm ngày cuộn chảy

Mãi ngàn năm còn hát với núi sông

Mãi còn vang chiến công lẫy lừng

Sóng Bạch Đằng mồ chôn vùi giặc Thát xâm lăng

Chiến công lẫy lừng còn vang mãi non sông ta

Để ngày mai muôn đời con cháu

Sống thái bình bền vững dài lâu./.

Page 216: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

212

Phụ lục 8

HƯƠNG ƯỚC

(Nguồn: Bản đánh máy photo do Ban

Quản lý đình Giang Võng cung cấp)

8.1. Hương ước làng Giang Võng năm 1942

Phần thứ nhất

CÁC ĐIỀU LỆ TỔNG CỤC

Việc chính trị trong làng:

Điều thứ nhất: Việc chính trị trong làng thì phải tuân theo các Nghị định quan

Thống sứ Bắc Kỳ, hiện thi hành về việc cải lương hương chính. Những Nghị định ấy

ấn định cách cắt cử tộc biểu hay giáp biểu và kỳ mục, cách hành động và những chức

vụ của Hội đồng hương chính và Hội đồng kỳ mục cùng là chức vụ của Lý Phó

trưởng nữa.

Sổ chi thu:

Điều thứ 2: Làng không có sổ chi thu chính thức nhưng Lý trưởng phải giữ

một quyển sổ nhật ký để biên chép các khoản thu, khoản chi trong làng hàng năm.

Quyển sổ ấy phải có chữ quan bản hạt ghi sơ và ký tên từng tờ, cứ đến cuối năm thì

Chánh hội phải họp Hội đồng tính tục sổ rồi đưa viên Chánh Hội đồng kỳ mục xem.

Tiền lộ phí:

Điều thứ 3: Tiền lộ phí của Hương hội và Tổng lý đi việc quan thì làng phải

chịu và tính theo thể lệ như sau này:

Page 217: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

213

1. Đi việc quan vòng 5 cây số thì không được tiền lộ phí.

2. Đi ngoài vòng ấy thì mỗi ngày được hai hào và tiền lộ phí là một hào một

cây số vừa đi vừa về.

3. Đi việc quan mà không có lệnh quan sức hay là đi trong địa phận làng mình

thì không được lộ phí.

Bộ sưu thuế:

Điều thứ 4: Khi Lý trưởng tiếp được bài chỉ thuế thì tường Chánh hội biết để

họp Hội đồng quân bổ.

Điều thứ 5: Sưu thuế đã có ngạch của nhà nước, Hương hội phải theo đúng chỉ

bài mà quân bổ, không được phân biệt đàn anh hay đàn em mà bổ nhiều hay ít không đều.

Điều thứ 6: Trong kỳ hội đồng ấy Hương hội lại còn bàn định xem thu những

thứ thuế gì cho làng và khoản tiền ngoại phụ như là lương Lý trưởng, tiền giấy bút, …

Điều thứ 7: Trong bài bổ phải kê rõ những suất chịu bao nhiêu thuế sưu và các

tiền ngoại phụ khác thành tiền là bao nhiêu, không được hãm hỗn, bài bổ phải trích

lục yết thị ra đình suốt cả vụ thuế cho mọi người biết.

Điều thứ 8: Khi bổ thuế xong thì Lý trưởng hoặc Phó Lý hay các phần thu,

người nào phận ấy phải chiếu phận mà hành thu sưu thuế. Phó lý hay các phần thu

được bao nhiêu phải giao cho Lý trưởng phải lấy biên lai làm bằng, nếu Lý trưởng bạc

lực thì trong phần thu người nào tin cẩn và bật lực thì đừng nhận tiền để nộp quan ở

trên. Thu khoản gì phải có biên lai làm bằng, trong biên lai răng cưa biên cũng kê

đúng các khoản thuế theo như trong bài bổ.

Điều thứ 9: Muốn khỏi những sự nhũng nhiễu thì trong kì hạn thu thuế, các

chức dịch phải ra tại đình mà thu thuế chứ không được thu tại nhà, hết hạn mà còn có

người không đến tại đình mà nộp thuế thì phần thu có thể đến tận nhà người ấy mà

đốc thúc, kì hạn thu thuế từ ngày nào đến ngày nào chưa rõ trong bài bổ và cho mõ

rao để mọi người đều biết.

Điều thứ 10: Những người nào tuy có thể nộp được mà bỏ khiếm sưu thuế thì

Hương lí trình quan kết nghĩ, những người bỏ thiếu thuế sẽ không được dự tế tự trong

hai năm, xong lễ tộc biểu hay thân nhân những người ấy vẫn phải chịu trách nhiệm

nộp thuế đậy cho số thuế bỏ thiếu.

Page 218: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

214

Điều thứ 11: Lại còn những hạng cùng đinh bỏ làng đi tha phương không nộp

thuế, số thuế của hạng này thì cả làng phải chịu và phải đem san bổ cho các dân ở nhà

cùng chịu, những hạng này thì mất hết nơi an chốn ngồi trong làng, khi nào họ về thì phải

nộp giả vào công quỹ số thuế bỏ thiếu mà trong khi tha vãng làng đã phải san thu cho họ,

nếu họ muốn chuộc nơi ăn chốn ngồi như trước thì phải nộp vào công quỹ hai đồng.

Điều thứ 12 làng không có.

Điều thứ 13: Trong khi họp bổ thuế thì cấm hương hội không được bày đặt ra

ăn uống để nhân dân phải đóng góp thêm nặng ra.

Điều thứ 14: Khi nộp thuế thì mời cả hội đồng kì mục, Hội ban quân bổ.

Việc tuần phòng trong làng;

Mục đích;

Điều thứ 15: Tuần phòng là cốt giữ trật tự trị an trong làng, giữ tính mệnh và

tài sản của mọi người, tuần phòng để ngăn cấm trộm cắp, cờ bạc gian lận và những sự

phi pháp khác, khi xảy ra tội gì, hoặc về trọng tội hay về khinh tội thì tuần giờ phải

hết sức tầm nã thủ phạm giải trình quan trên cứu xét, tuần giờ phải trông coi cẩn thận

người bị tình nghi và bị quản thúc trong khi có đạo tặc hay tai nạn gì khác thì tuần giờ

phải ứng cứu ngay, tuần giờ phải săn sóc đến việc vệ sinh chung trong xã, nếu có ai

không tuân thể lệ nhà nước hay không tuân Hương ước mà làm trái phép vệ sinh thì

phải tường chức dịch nghĩ phạt. Khi nào có bệnh truyền nhiễm mà quan trên chỉ bảo

cách phòng thì tuần giờ phải trông coi cho thi hành y thức.

Điều thứ 16: Việc tuần phòng thì trách cứ vào Trương tuần.

Cách cắt cử trương tuần;

Điều thứ 17: Trương tuần thì cắt cử lần lượt trong các trang đinh từ 18 tuổi

đến 50 không có vị thứ gì trong làng, một nửa thì lấy trong các người già còn một nửa

thì lấy trong các người trẻ. Trương tuần thì cắt trong một năm, hết lấy ai đi cũng được.

Điều thứ 18: Cứ tháng Giêng đầu năm thị Hương lí hội họp cắt Giang tuần,

danh sách làm hai bản, 1 bản thì lưu vào công hàm của làng, còn một bản thì do Lí

trưởng đệ lên quan bản hạt duyệt y.

Điều thứ 19: Người nào mà dân đã cắt mà vì lí do gì không muốn đi thì có thể

mượn người khác thay hay là nộp vào công quỹ một số tiền là 5 đồng.

Page 219: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

215

Điều thứ 20: Làng có 4 người giang tuần song đến tháng củ mật hay vụ thuế

thì sẽ cắt thêm gấp đôi.

Điều thứ 21: Làng sắm các khí giới cho giang tuần.

Điều thứ 22: Làng ở trên mặt nước nên không có điếm canh Giang tuần lấy

thuyền của Xã đoàn làm điếm.

Điều thứ 24: Giang tuần phải tuân theo hiệu lệnh nhất định để báo dân làng

khi cướp hay báo quan chức về làng.

Trách nhiệm của Lí dịch và Giang tuần:

Điều thứ 25: Cứ chập tối khi xã đoàn gọi Giang tuần đi tuần phòng, Giang

tuần nào lười biếng hay khiếm thiếu thị phải phạt một hào.

Điều thứ 26: Không có.

Điều thứ 27: Những lí dịch Lý trưởng, Phó lí, Xã đoàn phải chịu trách nhiệm

trừng phạt khi xảy ra trộm cướp mà xét ra trễ nải viêc tuần tra.

Điều thứ 28: Khi phát xuất ra trộm cướp mà người nào hoặc chức dịch, Giang

phòng hay dân binh bắt được 1 tên cướp thì làng thưởng từ ba đến mười đồng.

Điều thứ 29, 30, 31, 32, 33, 34: Làng không có

Điều thứ 35: Giang tuần phải ngăn cấm không cho ai được làm hư hại đình,

miếu, ai can phạm thì trình quan trên xem xét, do ban hương hội trình, tên can phạm

lại phải truất ngôi đình trung từ 1 đến 3 năm.

Canh phòng về việc chính trị và trị an:

Điều thứ 36: Giang tuần và các hương lý phải trông coi rất cẩn thận, những

người bị quản thúc, những đứa bất hảo thành tích, những đứa can án, nhất là những

đứa phản nghịch, nếu tên nào bị quản thúc chưa hết hạn đã bỏ chốn thì Hương lí trình

lên quan trên xem xét. Nếu trong làng có những đứa bất hảo thành tích hay những đứa

can án thì Hương lí phải xem xét các hành động của chúng, hễ thấy sự gì khả nghi thì

trình quan trên đề phòng.

Điều thứ 37: Hương lý và Giang tuần phải kiểm soát các người lạ mặt đến

trong làng, người nào không có thẻ tùy thân hay giấy căn cước đáng ngờ thì phải giải

trình quan trên xem xét, kiểm soát xong thì các điều kiện của người lạ mặt phải biên

vào sổ kiểm soát người lạ mặt của làng.

Page 220: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

216

Cấp cứu:

Điều thứ 38: Khi khẩn cấp như có cháy, có cướp thì trừ những người 16 tuổi

và trên 60 tuổi còn dân binh ai nghe động hiệu đều phải ra ứng cứu, nếu không thì

phải phạt 5 hào, trước hết phải cứu những nười bị nạn, trông nom của cải của họ cho

khỏi mất mát rồi hết sức ngăn ngừa cho sự tai nạn khỏi lan ra.

Điều thứ 39: Khi xảy ra tai nạn khác (đắm tàu chết đuối) thì tuần giang hay

dân làng ai trông thấy phải ra cứu rồi tường cho Hương lý để trình quan, ai biết mà

không trình Hương lý hay không cấp cứu thì bị phạt từ 5 hào đến 2 đồng.

Điều thứ 40: Ai vì cấp cứu hoặc vì chữa cháy hay đánh cướp mà bị thương thì

làng cấp thuốc thang cho, bị thương thành tật thì làng cấp cho từ hai đến 5 đồng và

cho lên một vị thứ, nếu chết thì làng cấp cho tiền tử tuất cho vợ con từ năm đến hai

mươi đồng và cả làng phải đưa đám.

Lương tuần trang:

Điều thứ 41: Làng không lệ cấp lương cho Giang tuần.

Ngăn cấm các việc phi pháp:

Điều thứ 42: Những sự quan trên đã có lệnh cấm như rượu lậu, thuốc phiện,…

thì Hương lý và Giang tuần phải ngăn trừ .

Điều thứ 43: Nếu thấy làm điều phi pháp thì Hương lý tịch biên tang vật lập

biên bản giải trình quan trên trừng phạt, những người can phạm về làng phải truất

ngôi đình trung từ 1 đến 3 năm.

Điều thứ 46: Hương lý phải xem xét trong làng hàng đinh nào đáo thuế thì kê

khai vào sổ đinh để chịu sưu, kì lý nào ẩn lậu thì quan trên trừng phạt và truất đinh từ

1 đến 3 năm.

Sự vệ sinh:

Điều thứ 47: Làng không có.

Điều thứ 48: Nếu trong làng phát ra thứ bệnh truyền nhiễm hay là toi súc vật

thì thân nhân người bệnh hay người nào có súc vật toi phải trình Hương lý để trình

quan trên liệu định các cách để phòng, ai không tuân mà giấu giếm thì không những bị

tội mà lại còn phải làng phạt từ năm mươi hào đến một đồng nữa.

Page 221: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

217

Điều thứ 49: Khi có người chết về bệnh truyền nhiễm thì Hương lí phải bảo

tang gia chôn cất ngay chứ không được để lâu.

Điều thứ 50: Nếu quan trên có lệnh sắc chỉ bảo cách đề phòng bệnh truyền

nhiễm thì Hương lí hay Giang tuần phải săn sóc cho ai nấy đều tuân hành y thức .

Điều thứ 51: Nếu trong làng có người măc bệnh điên thành nguy hiểm cho dân

thì Lí dịch phải trình Quan tuần cho đi nhà thương điều trị.

Sự kiện cáo:

Điều thứ 53: Trong làng ai có sự cáo về dân sự hay thương sự thì trước hết

phải tường Hương hội hòa giải.

Điều thứ 54: Khi Chánh hội tiếp ai tường thì lập hội đồng để hòa giải hai bên,

nếu hóa giải xong thì trình giao Lí trưởng đệ biên bản đã lập lên trình quan .

Điều thứ 55: Nếu hòa giải bất thành mà Hương hộ vị nguyên bị đi làm chứng

trước tòa thì người thua kiện phải chịu tiền tổn phí.

Điều thứ 56: Trong làng cấm không ai được cãi cọ đánh đấm nhau, ai gây sự

cãi cọ thì phải phạt hai hào .

Điều thứ 57: Nếu cãi cọ. đánh đấm nhau to tát thì Hương hội giải trình quan

trên xét.

Ngụ cư và kỵ tang :

Điều thứ 58, 59, 60, 61 không có.

Phường, họ, hội thóc, hội tiền:

Điều thứ 62: Những người phường, họ, hội thóc, hội tiền để cho vay hay để tự

giúp nhau nếu các chân hội không quá 19 người có thể tự do thành lập và hoạt động

như thường. Nhưng Cai họ hay Trưởng hội phải kê tên các người trong phường hay

hội trình Hương lí biết đại khái mục đích và cách hành động của phường như thế nào,

nếu các chân hội quá 19 người thì phải thảo điều lệ xin phép quan trên duyệt y rồi mới

được thành lập và hành động.

Page 222: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

218

Phần thứ hai

CÁC TỤC LỆ RIÊNG

Hôn lễ:

Điều thứ 63 : Việc cưới xin theo ba lễ sau này.

1. Lễ vấn danh hay Lễ dạm vợ: Lễ này là lần đầu mà hai bên cha mệ hội kiến

để nói chuyện và so sánh ngày sinh tháng đẻ của các con mà định chuyện nhân duyên

cho đôi trẻ, lễ vật thì có cau, rượu, bánh trái.

2. Lễ ăn hỏi: Nhà giai cho chú rể đưa lễ sang nhà gái, hôm đó chú rể đi lễ nhà

thờ cùng ra mặt họ hàng nhà vợ, hai bên thông gia định ngày cưới và thách cưới, lễ

vật thì tùy ý theo nhà giàu nghèo .

3. Lễ cưới: Nhà giai cho lễ vật và tiền nong sang nhà gái đón dâu, bên nhà gái

cho bà con đưa dâu về nhà chồng, lễ vật tiền nong thì tùy theo nhà giàu nghèo

Điều 64 : Làng không có.

Điều thứ 65 : Trước hôm cưới 5 ngày thì hai bên thông gia phải nộp cheo cho

quỹ, giai làng lấy gái làng thì nộp năm hào, giai hàng tổng thì nộp hai hào, giai hàng

huyện thì nộp bốn đồng, giai biệt tỉnh hay biệt huyện thì nộp sáu đồng. Hai bên thông

gia lại còn phải theo luật lệ mà khai giá thú cho con với hộ lại .

Điều thứ 66: Trong làng ai thông dâm hoặc đàn ông hoặc đàn bà thì phải phạt

từ hai đến ba đồng và truy tố không kể.

Điều thứ 67: Người nào có con gái chửa hoang thì phải phạt từ ba đến năm

đồng, bố mẹ người đàn ông thông dâm cũng phải phạt như vậy, tên thông dâm còn

phải truất ngôi đình trung trong hai năm.

Tang lễ:

Điều thứ 68: Cái tục bắt tang gia phải cỗ bàn mời dân ăn uống khi cha mẹ về

già thì từ nay nhất thiết phải cấm chỉ.

Điều thứ 69: Nhưng tang gia được tùy ý đãi thân bằn cố hữu đến thăm viếng

hay đi đưa đám chứ không ai cấm đoán gì cả.

Điều thứ 70: Kỳ lí ai mà dân làng hạch sách tang gia sửa cỗ bàn, nếu xét quả

thực thì phải phạt ba đồng và phải truất ngôi đình trung trong 2 năm.

Page 223: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

219

Điều thứ 71: Ai có cha mẹ về già thì tùy ý mình xếp đặt các lễ nghi trong nhà

như tế thành phục, tế ngu,…

Điều thứ 72: Ai muốn mời kỳ lý Hương hội đi đưa thì phải nộp vào công quỹ

hai đồng, khi ấy Hương hội phải cắt phu dịch hộ tống cho vừa.

Điều thứ 73: Khi người có người mệnh một thì trong 3 ngày phải chôn cất ngay.

Quân cấp công điền, công thổ:

Điều thứ 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82 không có.

Bảng kê đối với các vị thứ trong làng:

Ngạch quan lại An Nam

Quan chức ngạch Tây học

Các người đỗ cựu học

Các người đỗ Tây học

Binh lính

Các chức dịch hương thôn

Khao Vọng

Thượng thư, tổng đốc, tuần phủ

Quan ba thống chế

30 đồng 15 đồng

Bố chánh án sát, đốc học

Đại khoa

Thạc sĩ, bác sĩ

Quan ba đề đốc

20 đồng 10 đồng

Các quan phủ huyện kiểm học

Các viên ngạch thượng

Cử nhân Đỗ bậc cao đẳng

Quan một lãnh binh

15 đồng 7 đồng

Giáo thụ phấn đạo

Viên chức trung đăng

Các người đỗ trung đẳng

Tú tài Quản đội Nghị viện, Chánh tổng, Phó tổng

Thông phán,

Sơ học thông sự lính lệ

Tuyển sinh yếu lược

Binh lính

Thư ký, Thủ quỹ, Hộ lại, Xã đoàn, tộc biểu.

3 đồng 1 đồng

Những nhà tư gia mà được thưởng phẩm hàm mà cứ theo hàm phẩm mà cắt đặt

và phải nộp tiền khao vọng như trong bảng kê trên này.

Vị thứ, bán vị thứ, khao vọng:

Điều thứ 83: Vị thứ đình trung thì tùy theo chức tước hàm phẩm hay văn bằng

từng người mà cắt đặt bản kê ở trên có thể làm mẫu để xếp đặt vị thứ trong đình.

Page 224: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

220

Điều thứ 84: Khi có việc gì công ích phải chi tiêu nhiều thì Hương hội có thể

bán vị thứ để lấy tiền chi dụng, nhưng chỉ có những vị thứ trong Hương ước mới có

thể bán được thôi. Trước khi bán phải xin phép quan trên đồng ý cho mới được, bán vị

thứ không xin phép thì coi như không vậy.

Điều thứ 85: Ban bao nhiêu vị thứ, những vị thứ gì và mỗi vị thứ bao nhiêu

tiền thì khi đến việc Hương hội sẽ họp nhau bàn định và kê vào đơn xin phép.

Điều thứ 86: Khao nghĩa là làm cỗ bàn mời dân làng hay là kỳ dịch ăn mừng

được bổ sung công chức trúng cử,… khao thì có thể nộp tiền theo như bảng kê ở trên

hay làm cỗ bàn mời dân tùy ý, những người nào có chức phận gì trong làng thì đều

phải khao mới được vị thứ trong đình.

Điều thứ 87: Người nào trước đã có dịp gì khao rồi mà sau lại được thăng hàm

hay thăng chức thì không phải khao nữa xong mời dân làng ăn uống thì mặc ý.

Điều thứ 88: Tiền vọng tức là tiền nhập tịch mà tất cả những người nào đã có

vị thứ trong đình đều phải nộp. Tiền vọng thì bắt buộc phải nộp và chiểu theo bảng kê

trong Hương ước này.

Điều thứ 89: Người nào trước đã có dịp gì nộp tiền vọng rồi mà sau được

thăng hàm thi không phải nộp vọng nữa, những người nào thăng chức được ngồi lên

hàng trên thì phải đổi tính số tiền vọng trước với số tiền vọng lên chức mới này mà

nộp bù.

Điều thứ 90: Lên lão thì không phải nộp tiền lệ phí gì cả.

Tế tự:

Điều thứ 91: Làng có 01 đình và 01 miếu.

Điều thứ 92: Hàng năm có hai sự lệ.

1. Ở đình mồng 10 tháng một ta (tháng mười một âm lịch).

2. Ở miếu 14 tháng 2 ta.

Điều thứ 93: Lệ vào đình không quá 07 ngày.

Điều thứ 94: Tiền phí tổn vào sự lệ ở đình thì ước độ năm mươi đồng còn tiền

phí tổn vào sự lệ ở miếu thì độ hai mươi đồng, các khoản ấy hàng năm do 10 người

cai đám chịu biện.

Điều thứ 95, 96: Làng không có.

Page 225: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

221

Điều thứ 97: Làng có hai giáp, trong năm mỗi lần cắt lần lượt 5 người cai đám

để chu biện các lễ vật ở đình và miếu. Mỗi người phải nộp 30 cân thịt, 20 cân xôi và

10 chai rượu.

Điều thứ 98, 99: Làng không có.

Điều thứ 100: Nhưng có tế tự thì làng cắt viên Kỳ mục hay chức dịch cao chức hơn

cả làm mạnh bái, còn Thông xướng, Văn xướng thì cắt trong các hàng tân cựu kỳ dịch.

Điều thứ 101: Lệ phần biếu thì như sau này:

Thủ lợn thì biếu tiên thứ chỉ, Chánh Phó hội và Chánh Phó lý, vai lợn thì biếu

Tộc biểu và các chức dịch khác, còn mình lợn thì quân phân cho đồng dân.

Điều thứ 102: Những điều khoản trong Hương ước này thì Hội đồng hương

chính đã bàn đi bàn lại mà ấn định cho được thích hợp với hiện tình trong dân.

Điều thứ 103: Hương ước làm thành 4 bản (01 bản chữ tây, 3 bản quốc ngữ

nhưng khi nào quan trên duyệt y mới đem thi hành).

Điều 104: Sau này tùy trình độ dân mà sửa đổi lại nhưng phải xin phép quan

trên duyệt y mới được.

Điều thứ 105: Ngoài các điều định trong Hương ước này dân làng còn phải

tuân theo luật lệ nhà nước nữa.

Các chức dịch Đường thư cùng các Kỳ mục ký tên.

Phụng sao (có dấu sao lục)

Le Lý trưởng

Khuyến

8.2. Hương ước làng Trúc Võng năm 1942

(Nguồn: Bản viết tay do ông Chu Văn Lợi - Trưởng Ban quản lý đình Giang Võng

cung cấp)

Phần thứ nhất

CÁC ĐIỀU LỆ TỔNG CỤC

Việc chính trị trong làng:

Điều thứ 1: Việc chính trị trong làng đều phải tuân theo các Nghị định quan

Thống sứ Bắc kỳ thi hành về việc cải lương hương chính.

Page 226: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

222

Những Nghị định ấy cắt cử Tộc biểu hay Giáp biểu và Kỳ mục. Cách hành

động và những chức vụ của Hội đồng hương chính và Hội đồng kỳ mục cùng là chức

vụ của Lý Phó trưởng nữa.

Điều thứ 2: Sổ chi thu (thi hành cho những làng có sổ chi thu) những khoản

thu và những khoản chi hàng năm thì phải giữ vào một quyển số chi thu. Cách lập sổ

chi thu, cách bàn định các khoản, cách duyệt y và việc thi hành sổ chi thu thì phải

chiểu Nghị định quan trên mà tuân hành (thi hành cho những làng không có sổ chi

thu, làng không có sổ chi thu chính thức, những Chánh hội hay Lý trưởng tùy chi)

phải giữ một quyển nhật ký để biên chép các khoản thu, khoản chi trong làng hàng

năm, quyển sổ ấy phải có chữ quan bản hạt, ghi số và ký tên từng tờ. Cứ đến cuối năm

thì Chánh hội phải họp Hội đồng tính tục sổ rồi đưa viên Chánh hội kỳ mục xem.

Tiền lộ phí:

Điều thứ 3: Tiền lộ phí của Hương hội và Tổng lý đi việc quan thì làng phải

chịu và tính theo lệ sau này:

1. Đi việc quan trong vòng 5 cây số thì không được lộ phí.

2. Nếu đi ngoài vòng ấy thì mỗi ngày được hai hào và tiền lộ phí một hào một

cây số vừa đi vừa về.

3.Đi việc quan trọng địa phận làng mình hay là đi đâu không có lệnh quan trên

thì không được tiền lộ phí.

Bổ sưu thuế:

Điều thứ 4: Khi Lý trưởng tiếp được bài bổ thuế thì phải tường Chánh hội biết

để lập Hội đồng quân bổ.

Điều thứ 5: Sưu thuế đã có ngạch của nhà nước, Hương hội phải theo đúng chỉ

bài mà quân bổ không được phân biệt đàn anh, đàn em. Ruộng nội canh hay phụ canh

mà bổ nhiều hay ít không đều.

Điều thứ 6: Trong kỳ hội đồng ấy Hương hội lại còn bàn định xem thu những

thứ thuế gì cho làng (như thuế trâu bò, nhà cửa,…) và khoản tiền ngoài phụ thu vào

quỹ làng là bao nhiêu để chi các việc hàng năm như là lương Lý trưởng, Lương tuần,

tiền lộ phí, tiền giấy bút, …

Page 227: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

223

Điều thứ 7: Trong bài bổ phải kê rõ mỗi suất phải chịu bao nhiêu thuế sưu, bao

nhiêu thuế điền thổ hay các thuế khác, thành tiền bao nhiêu, không được hàm hỗn, bài

bổ phải được trích lục yết thị ra đình trong suốt vụ thuế cho mọi người đều biết.

Điều thứ 8: Khi bổ thuế xong thì Lí trưởng hoặc Phó lí hoặc các phần thu

người nào việc ấy phải chiểu phận mà hành thu sưu thuế.

Phó lí và các phần thu được bao nhiêu phải nộp cho Lí trưởng để nộp kho bạc.

Khi giao tiền cho lí trưởng phải lấy biên lai làm bằng. Nếu lí trưởng bạc lực thì trong

phần thu người nào tin cẩn và bạc lực đứng nhận tiền để nộp kho bạc.

Thu khoản gì phải có biên lai răng cưa làm bằng, trong biên lai cũng kê đúng

các khoản thuế như trong bài bổ.

Điều thứ 9: Muốn khỏi những sự nhũng nhiễu thì trong thời hạn thu thuế chức

dịch hành thu phải ra tại đình hay phải ra một nơi công sở mà thu thuế chứ không

được thu tại nhà. Hết hạn mà còn có người không đến nơi công sở mà nộp thuế thì các

phần thu có thể đến các nhà người ấy mà đốc thu.

Kỳ hạn thu thuế từ ngày nào đến ngày nào phải chú rõ vào trong bài bổ và cho

mõ giao để mọi người đều biết.

Điều thứ 10: Những người nào tuy có thể nộp được mà bỏ thiếu sưu thuế thì

hương lí trình quan kết nghĩ. Những người thiếu sưu thuế sẽ bị mất khẩu phần và

không được dự tế tự trong 2 năm. Xong lệ những tộc biểu, biểu họ hay thân nhân

những người ấy vẫn phải chịu trách nhiệm nộp đủ số thuế bỏ thiếu.

Điều thứ 11: Lại còn những hạng cùng đinh bỏ làng đi tha phương không nộp

thuế, số thuế của hạng này thì cả làng phải chịu, mà phải đem san bỏ cho các dân binh

ở nhà phải chịu. Những hạng này thì vừa mất ruộng khẩu phần vừa mất hết nơi ăn

chốn ngồi trong làng nữa.

Khi nào họ về làng thì phải nộp giả vào công quỹ số thuế bỏ thiếu mà trong khi

lai vãng làng đã phải san phụ cho họ. Phả lại, nếu họ chuộc lại nơi ăn chốn ngồi như

trước thì phải nộp lệ hai đồng.

Điều thứ 12: Những ruộng khẩu phần của người bỏ thiếu sưu thuế thì để vào

ruộng lưu trữ (sẽ nói ở điều 75) đem đấu có bỏ vào công quỹ.

Page 228: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

224

Điều thứ 13: Trong khi họp bổ sưu thuế thì cấm hẳn không được bày ra ăn

uống để dân binh phải đóng góp nặng thêm.

Điều thứ 14: Khi bổ thuế mời cả Hội đồng kỳ mục.

Việc tuần phòng trong làng và ngoài đồng:

Mục đích tuần phòng:

Điều thứ 15: Tuần phòng là cốt để giữ trật tự và sự trị an trong làng, giữ tính

mạng và tài sản của mọi người. Tuần phòng để ngăn cấm trộm cướp, cờ bạc gian lận

và những sự phi pháp khác.

Khi xảy ra chuyện gì hoặc về trọng tội hoặc về khinh tội thì Tuần giờ phải hết

sức tuần giã tội phạm để giải trình quan cứ xét.

Tuần giờ phải trông coi cẩn thận những người bị tình nghi hoặc bị quản thúc.

Trong khi thủy họa đạo tặc và các tai nạn khác thì Tuần giờ phải ứng cứu ngay.

Tuần giờ phải trông nom đê đường, cầu cống cùng các công trình khác của

làng, hễ có khuyết liệt chỗ nào phải trình chức dịch để sửa chữa hay xin quan trên sức

sửa chữa.

Tuần giờ phải săn sóc đến cả việc vệ sinh chung của làng. Nếu có ai không

tuân thể lệ nhà nước hay không tuân Hương ước mà làm trái vệ sinh thì phải trình

chức dịch nghĩ phạt.

Khi nào có bệnh truyền nhiễm hay toi súc sản mà quan trên chỉ bảo cách đề

phòng thì Tuần giờ phải trông coi cho thi hành được y thức.

Điều thứ 16: Việc tuần phòng phải trách cứ vào việc thu tuần, nội hương ấp

nội đồng điền đều phải canh giữ cả.

Cách cắt cử phu tuần:

Điều thứ 17: Phu tuần cứ theo lần lượt mà cắt cử hoàng đinh trong làng. Nghĩa

là những người không có vị thứ gì từ 18 đến 50 tuổi tuần phu thì cứ cắt năm một cứ

một nửa thì cắt những người trẻ tuổi và một nửa cắt những người nhiều tuổi nhưng hết

hạn ai muốn đi cũng được .

Điều thứ 18: Cứ đến tháng Giêng ta thì hương lý hội họp để cắt tuần. Cất xong

làm thành hai bản danh sách, một bản lưu ở hội đồng một bản giao cho Lí trưởng đệ

trình quan sở tại duyệt y.

Page 229: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

225

Điều thứ 19: Người nào đến lượt đi phu tuần mà vì lẽ nào đó không muốn đi

có thể nhờ anh em bạn hữu đi thay, hay là nộp vào công quỹ một số tiền là mười đồng

cũng được.

Điều thứ 20: Ngạch tuần phu trong làng có người. Mỗi điếm ít nhất cũng phải

có 5 tuần phu kể cả đầu mục nhưng khi nào canh giờ ngặt trong vụ thuế hay tháng củ

mật chẳng hạn thì số phu tuần phải tăng lên gấp đôi.

Điều thứ 21: Khí giới trong canh phòng thì làng phải sắm cho tuần.

Điếm Canh:

Điều thứ 22. Làng trích tiền công làm điếm canh (tùy theo địa thế và làng to

hay nhỏ). Làng ở trên mặt nước chỉ đi tuần bằng thuyền, mỗi thuyền có một cái trống

và một lá cờ tam tài và bốn cái mác là đồ chiến đấu.

Điều thứ 23: Làng ở tản cư trên mặt nước nên không dùng điếm canh.

Hiệu lệnh tuần phòng:

Điều thứ 24: Phu tuần trong làng phải tuân theo hiệu lệnh nhất định. Hiệu lệnh

gọi Tuần khi có việc quan hoặc để ban báo trong làng khi có thủy, hỏa, đạo tặc hoặc

để báo khi có quan trên đến làng .

Trách nhiệm của Lí dịch và Tuần:

Điều thứ 25: Làng không có điếm thì không được dự.

Điều thứ 26: Tuần tráng phải chịu trách nhiệm về việc trộm cắp xảy ra trong

làng như trong làng có người mất trộm mà tuần làng xét không ra được thủ phạm thì

chiếu các đồ mất mát mà đền cho chủ sự một nửa. Khi phát xuất ra việc cướp mà xét

ra tuần tráng đã hết sức chống cự cùng quân gian thì được tha thứ .

Điều thứ 27: Những lí trưởng, phó lí hay trương tuần cùng phải chịu trách

nhiệm trừng phạt và đền tiền như tuần tráng về các việc trộm cướp xảy ra trong địa

hạt mình. Lý dịch trễ biếng việc canh phòng thì quan trên sẽ nghiêm phạt.

Điều thứ 28: Khi phát xuất ra trộm cướp mà người nào hoặc chức dịch hoặc

dân binh bắt được một tên trộm thì làng thưởng cho ba đồng, một tên cướp thưởng

năm đồng.

Điều thứ 29: Làng không có tiền thì làng không dự.

Điều thứ 30: Làng không có ruộng thì làng không dự

Page 230: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

226

Điều thứ 31 - 32: Không có ruộng không dự.

Việc canh phòng đê đường, cầu cống, công sở, …:

Điều thứ 33 và 34: Làng không có những đê đường, cầu cống sông ngòi.

Khoản này không dự.

Điều thứ 35: Tuần tráng phải trông giữ các đồ đạc để ở đình chùa hay các

công sở khác. Ngăn cấm không được để cho ai ném đá lên tàu hay xếp đá lên đường

sắt. Canh giữ không để trộm cắp dây nối hay dây thép,… Ai can phạm thì Tuần tráng

trình Hương hội để trình quan trên cứu xét. Quan trên xét phạt đi rồi về làng những

tên can phạm ấy còn truất hết ngôi vị đình trung từ một năm đến hai năm.

Canh phòng việc chính trị và trị an:

Điều thứ 36: Tuần tráng và nhất là Hương lí phải trông coi rất cẩn thận những

người bị quản thúc, những đứa bất hảo thành tích, những đứa can án và nhất là những

đứa có ý phản nghịch. Nếu người nào bị quản thúc mà chưa hết hạn đã bỏ trốn thì

Hương lí phải trình quan trên xét.

Những người tình nghi chính trị thì phải coi một cách rất cẩn thận và thấy họ

làm điều gì khả nghi phải trình ngay quan trên để liệu cách đề phòng.

Điều thứ 37: Làng ở tản cư trên mặt nước không thể dựng sổ kiểm người lạ

mặt được.

Cấp cứu:

Điều thứ 38: Khi khẩn cấp (thủy, hỏa, đạo, tặc) thì trừ những người ngoài 60

tuổi còn Tuần tráng và dân đinh nghe động hiệu đều phải ra ứng cứu. Nếu không tuân

thì phải phạt, phạt từ hai hào và truất ngôi thứ từ 1 đến 2 năm.

Trước hết phải cứu những người bị nạn trông coi của cải họ khỏi hủy hoại rồi

hết sức ngăn ngừa cho sự tai nạn khỏi lan ra như lúc thủy hỏa chẳng hạn.

Điều thứ 39: Khi xảy ra các tai nạn này khác (như là nạn ô tô, nạn tàu bay, nạn

đắm thuyền, chết đuối,…) thì Tuần tráng hoặc dân làng ai trông thấy phải lập tức ra

cấp cứu người bị nạn rồi liền cho tường Hương lý để họ trình quan trên xem có cần

liệu định các cách.

Page 231: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

227

Tuần tráng hay dân đinh ai trông thấy tai nạn gì xảy ra mà không đến cấp cứu

hay không báo Hương lý biết thì phải phạt từ hai hào và phải truất ngôi thứ đình trung

từ 1 năm vì đã trái nhân đạo.

Điều thứ 40: Ai vì cấp cứu hoặc chữa cháy hoặc đánh cướp,… mà bị thương

thì làng cấp tiền thuốc thay cho bị thương thành tật thì làng cấp cho ba đồng và cho

lên một vị trí. Nếu không may đến nỗi chết thì làng cấp cho vợ con tiền tử tuất mười

đồng và các Kỳ lý phải đưa đi đám.

Lương Trần tráng:

Điều thứ 41: Tuần tráng, lính dõng thì không có lương gì cả.

Tuần tráng thì cắt lượt trong các người dân đinh mà thôi chứ không có lương

và cũng không có vị thứ.

Ngăn cấm cờ bạc và các việc phi pháp:

Điều thứ 42: Những sự mà nước có lệnh cấm như rượu lậu, thuốc phiện lậu, cờ

bạc, … thì Hương lý và Tuần tráng phải ngăn ngừa.

Điều thứ 43: Ai làm điều gì phi pháp thì Hương lý tịch biên tang vật, lập biên

bản giải trình quan trên trừng phạt và truất ngôi từ một đến hai năm.

Điều thứ 44: Lý dịch phải bắt giải những người trực đem rượu lậu, thuốc phiện

lậu vào trong làng.

Điều thứ 45: Kỳ lý hay Tuần tráng mà dung túng cho người ta làm điều phi

pháp hay là biết mà không tố cáo phải phạt mười đồng, truất ngôi 2 năm.

Điều thứ 46: Hương lý phải xét trong làng mà hoàng đinh nào đáo thuế khai

vào sổ đinh chịu thuế.

Ai ẩn lậu đinh và quan trên phạt đã đành còn phải về làng truất ngôi từ 1 đến 3 năm.

Sự vệ sinh:

Điều thứ 47: Rác lớn, súc vật chết hay là các uế vật khác cấm không được vứt

xuống sông ngòi hay đường đi nhất là ao hay giếng nước, ai không tuân phải phạt hai hào.

Điều thứ 48: Nếu trong làng phát ra chứng bệnh truyền nhiễm hay là toi súc

sản phải tường Hương lý để trình quan trên liệu cách đề phòng. Ai không tuân mà

giấu giếm thì không những bị tội lại còn phải phạt năm hào đến một đồng nữa.

Page 232: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

228

Điều thứ 49: Khi có người nào chết về bệnh truyền nhiễm thì Hương lý phải

hiểu, báo cho tang gia chôn cất ngay không được để lâu.

Điều thứ 50: Nếu quan trên có lệnh sức chỉ bảo các cách đề phòng những bệnh

truyền nhiễm thì Hương lý và Tuần tráng phải săn sóc cho ai nấy đều tuân hành y thức.

Điều thứ 51: Nếu trong làng có người nào mắc bệnh điên thành nguy hiểm cho

dân làng thì Lý dịch phải giải trình quan trên xét cho đi nhà thương điều trị.

Điều thứ 52: Nếu trong làng có người nào mắc bệnh phong thì Lý dịch cũng

phải dẫn trình quan trên xét cho đi nhà thương điều trị.

Nếu họ được ở nhà điều dưỡng thì Lý dịch phải trông coi đừng để người bệnh

giao dịch với dân làng để khỏi truyền nhiễm.

Sự kiện cáo:

Điều thứ 53: Trong làng ai có kiện cáo về dân sự hay thương sự thì trước hết

phải tường Hương hội hòa giải.

Điều thứ 54: Khi Chánh hội tiếp ai trình thì lập Hội đồng để hòa giải hai bên.

Nếu hòa giải xong thì lập biên bản giao Lý trưởng trình quan sở tại.

Điều thứ 55: Nếu hòa giải bất thành mà Hương hội vì nguyên bị phải đi làm

chứng trước tòa thì người thua kiện phải chịu lộ phí.

Điều thứ 56: Trong làng cấm không ai được cãi cọ đánh đấm nhau. Ai gây sự

cãi đánh nhau thì phải phạt hai hào.

Điều thứ 57: Nếu cãi, đánh nhau to tát thì Hương lý lập biên bản giải trình

quan trên xét xử.

Ngụ cư và kỷ táng:

Điều thứ 58: Chỉ những người có nghề nghiệp và căn cước minh bạch mới

được ngụ cư trong làng.

Điều thứ 59: Những người ngụ cư thì phải nộp vào công quỹ số tiền là một đồng.

Nếu họ muốn dự tế tự thì phải trú ngụ ít ra là 3 năm và phải nộp đăng tịch

mười đồng.

Điều thứ 60: Người thiên hạ mà muốn ký táng ở làng, dù đã mua đất tư của ai

mặc cũng phải xin phép Hương lý trước đã và phải nộp tiền riểu cố vào quỹ là một hào.

Page 233: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

229

Điều thứ 61: Ai trước ký táng và nay cải táng cũng phải tường Trương lý biết,

nếu không tuân phải phạt năm hào.

Phường, họ, hội thóc, hội tiền,..:

Điều thứ 62: Những phường họ, hội thóc, hội tiền dễ cho vay hay là tự giúp

nhau nếu các chân hội không quá 19 người thì có thể tự do thành lập và hoạt động như

thường. Những người Cái họ, Trưởng họ, Trưởng phường cùng các chân hội phải kê

tên các người trong phường, trong hội đưa trình Hương lý biết đại khái mục đích và

cách hành động của phường hội thế nào. Nếu các người dự hội đông quá 19 người thì

phải thảo điều lệ xin phép quan trên duyệt y mới được thành lập và hoạt động.

Phần thứ hai

CÁC TỤC LỆ RIÊNG

Hôn lễ:

Điều thứ 63: Cưới xin ngày trước có 6 lễ nhưng nay chỉ theo có 3 lễ sau này:

Một: Lễ “Vấn danh” hay thường gọi là “Dạm vợ”. Lễ này là đầu tiên hai bên cha

mẹ hội kiến để nói chuyện và để so sánh tên tuổi, ngày sinh tháng sinh đẻ của các con

mà định cuộc nhân duyên của đôi trẻ. Lễ vật hoặc chè, cau, bánh trái đáng độ ba đồng.

Hai: Lễ ăn hỏi.

Hôm nay thì nhà giai cho chú rể cùng bà con xính lễ sang nhà gái. Hôm đó chú

rể đi lễ nhà thờ cũng là ra mắt họ hàng nhà vợ. Hai bên thông gia định ngày cưới và

thách cưới. Lễ vật thì tùy theo từng nhà giàu nghèo nhưng đáng giá ba đồng.

Ba: Lễ cưới.

Hôm đó chú rể đi cùng ông thân sinh và bà con sính lễ vật cùng tiền nong sang

nhà gái đón dâu. Bên nhà gái cũng cho bà con đưa dâu về nhà chồng.

Lễ vật tiền nong thì tùy theo từng nhà giàu nghèo, nhưng là tất cả đáng giá độ

ba mươi đồng hay năm mươi đồng chi đó.

Điều thứ 64: Chăng dây đám cưới thì nay nhất thiết cấm chỉ ai không tuân

hoặc thủ xướng hoặc can phạm thì phải phạt năm đồng.

Điều thứ 65: Trước hôm cưới 5 ngày thì hai bên thông gia phải nộp treo vào

quỹ: treo nội nộp năm hào, treo ngoại từ năm hào cho đến năm đồng.

Page 234: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

230

Hai bên thông gia lại còn phải theo lệ luật mà khai giá thú cho con với bộ lại.

Điều thứ 66: Trong làng ai thông dâm đàn ông hoặc đàn bà thì phải phạt hai

đồng mà lại phải truy tố không kể.

Điều thứ 67: Người nào có con gái chửa hoang thì phải phạt ba đồng, bố mẹ

người đàn ông thông gian cũng phải phạt như vậy, bên thông gian lại có thể bị truất

ngôi thứ đình trung trong 2 năm.

Tang lễ:

Điều thứ 68: Cái tục bắt buộc tang gia phải có cỗ bàn ăn uống khi cha mẹ về

già thì nay nhất thiết cấm chỉ.

Điều thứ 69: Nhưng tang gia thì được tùy ý làm cỗ bàn đãi thân bằng cố hữu

đến đưa đám hay thăm viếng chứ không ai cấm đoán bắt buộc gì cả.

Điều thứ 70: Ai có cha mẹ về già, ai hạch sách ăn uống phải phạt năm hào,

truất ngôi 2 năm.

Điều thứ 71: Ai có cha mẹ về già thì tùy ý mình sắp đặt các lễ nghi trong nhà

như là tế thành phục, tế ngu, …

Lúc hành tương cũng tùy ý tang gia hoặc mời giáp gốc mình hoặc mời 2, 3 giáp

hoặc mời cả làng đưa đám cũng được. Khi ấy thì tùy theo hoặc Trưởng giáp hoặc

Hương hội phải cắt phu dịch, thợ trống hay đô tùy để đi hộ tống cho vừa. Những

người nghèo không thể mời Giáp, mời làng được thì cũng tùy ý nhờ bà con bạn hữu

đưa với nhau thôi.

Điều thứ 72: (Lễ đám mà định sau này) Hạng nhất một đồng; hạng nhì: bảy

hào; hạng ba: năm hào.

Ai mời làng đưa thì nộp hạng nhất; ai mời 2, 3 giáp đưa thì nộp hạng nhì; ai mời

nguyên giáp gốc mình đưa thì nộp hạng 3; những người nghèo thì được miễn tiền lệ. Tùy

theo từng lệ nhất, nhì, ba ai nộp lệ nào thì hoặc làng giáp hoặc 2, 3 giáp hoặc Hương hội và

Kỳ dịch phải đi đưa đám cho trọng thể. Lệ này làng nào không có thì không dự.

Điều thứ 73: Khi có người nào mệnh một thì trong 3 ngày phải chôn cất. Nếu

chết vì bệnh truyền nhiễm thì nội nhật phải chôn ngay.

Quân cấp công điền, công thổ:

Page 235: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

231

Điều thứ 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82: vì làng ở mặt nước không có công

điền, công thổ, vườn đất, đình, chùa gì cả, không có phiếu quốc trái.

Bảng kê đối các vị thứ trong làng:

Ngạch quan lại An

Nam

Quan chức ngạch Tây

học

Các người đỗ cựu

học

Các người đỗ Tây

học

Binh lính

Các chức dịch hương thôn

Khao Vọng

Thượng thư, tổng đốc, tuần phủ

Quan ba thống chế

30 đồng

15 đồng

Bố chánh án sát, đốc học

Đại khoa

Thạc sỹ, bác sỹ

Quan hai đề đốc

20 đồng

10 đồng

Các quan phủ huyện kiểm học

Các viên ngạch thượng

Cử nhân

Đỗ bậc cao đẳng

Quan một lãnh binh

Nghị viện, Chánh tổng, Phó tổng

15 đồng

7 đồng

Giáo thụ huấn đạo, thông phán, thông sự lính lệ

Các viên ngạch trung

Tú tài Đỗ bậc trung đẳng

Quản

Hội viện Lý phó trưởng, Chánh phó hội

7 đồng

4 đồng

Lính lệ Các viên chức ngạch tùy phái

Khóa sinh, tuyển sinh

Đỗ bậc sơ đẳng, đỗ sơ học

Cai binh lính

Chưởng bạ, thư ký, thủ quỹ, hộ tịch, Trưởng xã tuần tộc biểu, các tạp chức

5 đồng

3 đồng

Những người tư gia mà được thưởng thì cứ theo hàm phẩm mà cắt đặt và phải nộp

tiền khao vọng theo như trong bảng kê này. Những người hội viên mà có chức tước, hàm

phẩm hay văn bằng gì thì cứ theo chức tước, hàm phẩm hay văn bằng mà ngồi.

Vị thứ, bán vị thứ, khao vọng và các lễ làng,…:

Điều thứ 83: Vị thứ đình trung thì theo chức tước, hàm phẩm hay văn bằng

từng người mà cắt đặt. Bảng đối kê vị thứ phụ đính ở trong Hương ước này có thể

dùng làm mẫu để xếp đặt các vị thứ trong đình.

Điều thứ 84: Khi có việc gì công ích phải chi tiêu nhiều thì hương hội có thể

bán vị thứ để lấy tiền chi dùng. Nhưng chỉ có những vị thứ trong Hương ước thì mới

Page 236: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

232

có thể bán được thôi. Trước khi bán phải xin phép quan trên y cho mới được. Bán vị

thứ mà không xin phép thì coi như không vậy.

Điều thứ 85: Bán bao nhiêu vị thứ, những vị thứ gì và mỗi vị thứ bán bao

nhiêu thì khi nào đến việc Hương hội sẽ họp bàn định rồi kê rõ vào đơn xin phép.

Điều thứ 86: Khao nghĩa là làm cỗ bàn mời dân làng hay là Kỳ dịch ăn mừng

được bổ sung công chức, trúng cử,… Khao thì có thể nộp tiền thế khao theo như bản

kê phụ đính trong Hương ước này cũng được hoặc làm cỗ bàn mời dân hoặc nộp tiền

thế khao cũng được. Như người nào đã có chức phẩm gì ở trong làng thì đều phải

khao mới được vị thứ trong đình.

Điều thứ 87: Người nào trước đã có dịp gì khao rồi hoặc làm cỗ bàn mời dân

hoặc nộp tiền lệ vào công quỹ cũng vậy mà sau lại được thăng hàm hay thăng chức thì

không phải khao nữa, nhưng muốn làm rượu mời dân làng bạn hữu mừng cũng mặc ý.

Điều thứ 88: Tiền vọng tức là tiền nhập tịch mà người nào đã có vị thứ trong

đình đều phải nộp. Tiền vọng thì bắt buộc phải nộp và chiểu theo bản đối kê phụ đính

theo Hương ước này.

Điều thứ 89: Người nào trước đó đã có dịp gì vọng rồi mà sau được thăng hàm

thì không phải nộp tiền vong nữa nhưng người nào được thăng chức ngồi lên hàng

trên thì phải đối tính số tiền vọng trước với số tiền vọng lên chức mới này mà nộp bù.

Điều thứ 90: Lên lão thì không phải nộp tiền lệ gì cả nhưng người nào muốn sửa lễ

yết thần cỗ bàn mời thân bằng kỳ lý cũng mặc ý không ai bắt buộc.

Điều thứ 91: Làng có 01 đình.

Điều thứ 92: Đại lễ vào đám ở đình ngày 10 tháng 11. Tiểu lệ vào đám ở đình

ngày 15 tháng 2. Lễ thường tân (cơm mới) ở đình vào ngày 10 tháng 10 ta.

Điều thứ 93: Những lệ vào đám thì chỉ được đến 7 ngày là cùng.

Điều thứ 94: Giầu, rượu, hương đăng những ngày sóc vọng thì Thủ từ, Thủ tự

phải chu biện rồi sau dân bổ tiền công dân mà chi dùng vào đấy vì làng ở trên mặt

nước không có công điền, công thổ hay ruộng nương gì cả.

Điều thứ 95: Làng không có chùa, chỉ có một ngôi đình làm nhờ ở bên bờ sông

Cái Lân cạnh sườn núi thuộc địa phận phố Rat Chay thôi không có ruộng nương gì cả.

Page 237: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

233

Điều thứ 96: Có làng có tục bắt buộc đăng cai hay tế đám tự xuất tiền chu biện

các lễ vật để kính thần, mời dân thì nay bỏ hẳn. Ai đến lượt đăng cai hay tế đám thì

làng phải giao cho một số tiền hoặc là ruộng lệ để cày cấy lấy lợi mà chu biện các lễ

vật. Ai đến lượt đăng cai hay tế đám mà không muốn làm thì có thể nộp tiền chuộc lệ

là năm đồng.

Điều thứ 97: Đăng cai, tế đám thì cứ lần lượt cắt cử người trong giáp đảm

nhận, hoặc cắt theo tuổi hay theo thứ tự từ ngày vào hàng giáp.

Điều thứ 98: Kê rõ làng có mấy vị (hậu giỗ vào ngày nào). Hiện thời làng

không có vị Hậu thần nào cả.

Điều thứ 99: Kê rõ ràng có mấy mẫu ruộng Hậu (Hiện thời không có ruộng

hậu gì cả).

Điều thứ 100: (Nói rõ cách cắt người mạnh bái và những người hộ lễ thế nào),…

Mạnh bái thì cắt vào những bậc Hương trưởng. Thông xướng, Văn xướng thì

cắt những người có chân Chánh, phó hương hội, Chánh, phó Lý trưởng, tân cựu và

chức sắc.

Điều thứ 101: Đại lễ ngày 10 tháng 11 hàng năm, có 6 xỏ lợn, 120 cân thịt, 70

cân xôi, 8 chai rượu, hoa quả đáng giá bảy hào.

Trích 2 xỏ lợn, 2 bàn xôi chia biếu các Hương trưởng, Lý Phó trưởng, Chánh,

Phó hội đương thứ. 1 xỏ, 1 bàn xôi biếu các chức sắc, nửa xỏ lợn, nửa bàn xôi biếu

các Cựu dịch, nửa xỏ lợn, nửa bàn xôi biếu các Tộc biểu. Còn bao nhiêu làm cỗ đồng

dân thượng hạ kiến diện ăn cỗ.

Tiểu lễ ngày 15 tháng 2. Lễ có 4 xỏ lợn, 80 cân thịt, 50 cân xôi, 12 chai rượu,

hoa quả đáng giá năm hào.

Trích 2 xỏ lợn, 2 bàn xôi biếu chức sắc Hương trưởng, Lý, Phó trưởng, Chánh,

Phó hội đương thứ. 1 xỏ lợn, 1 bàn xôi biếu các Cựu dịch. 1 xỏ lợn, 1 bàn xôi biếu các

Tộc biểu còn bao nhiêu làm cỗ đồng dân thượng hạ kiến diện ăn cỗ.

Những người có phần biếu thì dẫu có mặt hay vắng mặt cũng phải giao về

Trưởng giáp đem đến tận nhà biếu.

Lễ cơm mới là lễ nhỏ, chỉ ai đến dự lễ thì ăn cỗ chứ không có phần biếu.

Page 238: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

234

Các lệ này do các đăng cai từ 18 tuổi đến 60 tuổi lần lượt biện. Nếu người nào

không biện được thì phải nộp tiền năm đồng cho Hương trưởng nhận sửa lễ cho dân.

Nếu đến lần lượt người nào làm đăng cai mà bỏ đi xa thì làng trách cứ vào nhân thân

tên ấy phải biện lễ.

Các đăng cai chỉ phải biện lễ thôi. Nếu làng có muốn hát chèo hay hát ả đào thì

số tiền chi hát ấy phải gọi thêm đăng cai khác lấy tiền giả. Mỗi người năm hào thế là

năm sau không phải biện lễ nữa.

Điều thứ 102: Hương ước này thi hành thì Hương ước cũ bỏ đi. Những điều

khoản trong Hương ước này Hội đồng hương chính và Hội đồng kỳ mục đã bàn đi bàn

lại mà ấn định để cho được thích hợp với kiện tình trong dân.

Điều thứ 103: Hương ước này làm thành 3 bản nhưng khi nào quan trên duyệt

y mới được thi hành.

Điều thứ 104: Sau này có thể tùy trình độ dân mà sửa đổi lại nhưng phải xin

phép quan trên duyệt y mới được.

Điều thứ 105: Ngoài các thể lệ định trong Hương ước này thì dân làng còn

phải tuân theo luật lệ nhà nước nữa.

Điều thứ 106: Cứ mỗi năm làng trích hai đồng tiền công làm tiền cứu tế phòng

khi trong làng có người nghèo khổ thì cấp dưỡng mỗi người từ một đến hai đồng.

Hội đồng hương chính và Hội đồng kỳ mục cùng các kỳ dịch ký tên sau này.

Vu:chiểu

Le Tri huyên

(ký tên, đóng dấu)

Vu: et approuvé

Le Tuần Phủ

(Ký tên, đóng dấu)

Vu:et approuvé

Quảng Yên b 11 Fauvie 1938

(Amimitrater – Resodeut)

(Ký tên, đóng dấu)

Thừa sao Hương ước

Trúc Võng b 19 – Out 1942

Le Lý trưởng

Phạm Văn Tín

Page 239: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

235

Phụ lục 9

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LỄ HỘI VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH

(Nguồn: Trừ một vài ảnh của các tác giả khác được ghi chú cụ thể, các hình ảnh còn

lại do tác giả luận án chụp từ năm 2007 đến năm 2013)

9.1. Ảnh thể hiện yếu tố nội đồng trong các lễ hội truyền thống

Ảnh 1. Chuẩn bị cho lễ Nghênh thần (lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 2. Đón thần về dự hội (lễ hội Vân Đồn)

Page 240: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

236

Ảnh 3. Rước ảnh và sắc phong từ đình ra nghè thờ Trần Khánh Dư (lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 4. Lễ Xa giá hoàn cung (lễ hội Vân Đồn)

Page 241: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

237

Ảnh 5. Đoàn rước (lễ hội Trà Cổ)

Ảnh 6. Lễ tế thần trước cửa đình (lễ hội đình Giang Võng)

Page 242: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

238

Ảnh 7. Chuẩn bị đoàn rước (lễ hội đình Giang Võng)

Ảnh 8. Rước nước (lễ hội đình Giang Võng)

Ảnh 9. Các cụ Thượng thọ chuẩn bị làm lễ trong nhà thờ họ (lễ hội Tiên Công)

Page 243: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

239

Ảnh 10. Thành phần đoàn tế (lễ hội Tiên Công)

Ảnh 11. Lễ vật dâng cúng trong miếu Tiên Công

Page 244: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

240

Ảnh 12. Chữ Thọ của dòng họ Vũ (lễ hội Tiên Công)

Ảnh 13. Các cháu chuẩn bị rước thọ (lễ hội Tiên Công)

Page 245: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

241

Ảnh 14. Cụ ông thượng thọ (lễ hội Tiên Công)

Ảnh 15. Đoàn rước từ trong các ngõ xóm (lễ hội Tiên Công)

Page 246: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

242

Ảnh 16. Đoàn rước tiến về miếu Tiên Công (lễ hội Tiên Công)

Ảnh 17. Các cụ Thượng thọ (lễ hội Tiên Công)

Page 247: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

243

Ảnh 18. Đốt văn tế báo cáo Tiên Công

Ảnh 19. Đình Trà Cổ đang tu sửa

Page 248: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

244

Ảnh 20. Ông Voi chuẩn bị rước ra đình làng (lễ hội Trà Cổ)

Nguồn: Vân Sơn - Phóng viên Đài truyền hình QN

9.2. Ảnh thể hiện yếu tố biển trong các lễ hội truyền thống

Ảnh 21. Thuyền nan, lẵng - Phương tiện đi lại và kiếm sống chủ yếu của ngư dân làng chài Cửa Vạn

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch QN

Page 249: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

245

Ảnh 22. Đốt thuyền giấy (lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 23. Hạ cờ kết thúc hội (lễ hội Vân Đồn)

Page 250: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

246

9.3. Ảnh thể hiện đặc điểm văn hóa của vùng biển đảo Quảng Ninh

Ảnh 24. Con long mã (lễ hội Tiên Công)

Ảnh 25. Lễ tế tại Miếu Đức Ông (lễ hội Vân Đồn)

Page 251: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

247

Ảnh 26. Lễ nhận trang phục (lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 27. Nhận cờ và kiếm lệnh (lễ hội Vân Đồn)

Page 252: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

248

Ảnh 28. Đại bản doanh Đông Nam Văn

Ảnh 29. Đại bản doanh Đoài Bắc Võ

(Lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 30. Diễu hành 3 vòng trước miếu Đức Ông trước khi vào cuộc đua (lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 31. Làm lễ trước khi bước vào cuộc đua thuyền (lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 32. Xuống thuyền đua (lễ hội Vân Đồn)

Page 253: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

249

Ảnh 33, 34, 35. Ba lần giao nhau trên biển (lễ hội Vân Đồn)

Page 254: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

250

Ảnh 36. T−íng V¨n ®äc lêi rao (lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 37. Tướng Võ đọc lời rao (lễ hội Vân Đồn)

Page 255: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

251

Ảnh 38. Cuộc đua quyết thắng (lễ hội Vân Đồn)

Ảnh 39. Nụ cười chiến thắng (lễ hội Vân Đồn)

Page 256: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

252

Ảnh 40. Đua thuyền (lễ hội bạch Đằng)

(Nguồn: Vân Sơn - Phóng viên Đài truyền hình QN)

Ảnh 41. Trẻ em xếp hàng chui qua kiệu rước Trần Hưng Đạo (lễ hội Bạch Đằng)

Nguồn: Vân Sơn - Phóng viên Đài truyền hình QN

Page 257: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

253

Ảnh 42. Đoàn rước Đức Ông (lễ hội đền Cửa Ông)

Nguồn: Vân Sơn - Phóng viên Đài truyền hình QN

Ảnh 42. Diễn lại sự kiện Đức Ông đánh giặc (lễ hội đền Cửa Ông)

Nguồn: Vân Sơn - Phóng viên Đài truyền hình QN

Page 258: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

254

Ảnh 43. Đoàn rước (lễ hội Bạch Đằng)

Nguồn: Vân Sơn - Phóng viên Đài truyền hình QN

Ảnh 44. Hát đúm (lễ hội Tiên Công)

Ảnh 45. Phục dựng hát giao duyên trên thuyền Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch QN

Page 259: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

255

Phụ lục 10

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN, TƯ LIỆU CHO

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

TT Họ và tên Địa chỉ

1. Ông Hoàng Quốc Thái Nguyên Giám đốc Sở VH, TT và Du lịch QN

2. Ông Cao Đức Bình Sở VH, TT và Du lịch QN

3. Bà Nguyễn Thị Lan Sở VH, TT và Du lịch QN

4. Ông Vân Sơn Phóng viên Đài Truyền hình QN

5. Ông Chu Văn Lợi Trưởng ban Quản lý đình Giang Võng, phường Cao

Xanh, TP Hạ Long

6. Bà Trần Thị Nết X. Cẩm La, h. Yên Hưng

7. Ông Nguyễn Văn Mùng Thôn 2, x. Thắng Lợi, h. Yên Hưng

8. Ông Vũ Đình Nhật X. Cẩm La, huyện Yên Hưng

9. Ông Thanh Quyết X. Phong Hải, h. Yên Hưng

10. Ông Lê Đồng Sơn Nguyên Trưởng phòng Văn hóa, thông tin, h. Yên

Hưng

11. Ông Ngô Đình Dũng Phòng Văn hóa, thông tin, h. Yên Hưng

12. Ông Vũ Đình Nhật Phường Phong Cốc, thị xã Quảng Yên, h. Yên Hưng

13. Bà Bùi Thị Đáng Phường Phong Cốc, thị xã Quảng Yên, h. Yên Hưng

14. Bà Lê Thị Sánh Phường Phong Cốc, thị xã Quảng Yên, h. Yên Hưng

15. Ông Nguyễn Văn Y Phường Phong Cốc, thị xã Quảng Yên, h. Yên Hưng

16. Ông Vũ Đức Ban X. Quan Lạn, h. Vân Đồn

17. Ông Hoàng Văn Mận X. Quan Lạn, h. Vân Đồn

18. Ông Phạm Duyệt Cán bộ văn hóa x. Quan Lạn, h. Vân Đồn

19. Ông Trần Huy Liêm Thôn Nam Thọ, phường Trà Cổ, TP Móng Cái

20. Ông Bùi Bá Quảng Giám đốc Trung tâm Văn hóa thông tin - Thể thao

TP Móng Cái

21. Ông Lê Việt Cường Phó giám đốc Trung tâm Văn hóa thông tin - Thể

Page 260: B V ĂN HOÁ, TH THAO VÀ DU L CH B GIÁO D C VÀ ÀO T O TR Ư ...huc.edu.vn/userfiles/assets/tong hop 1.pdf · tr ˚ c+n ư!c b o t ˇn và phát huy. V n b o t ˇn, phát huy truy

256

thao TP Móng Cái

22. Ông Lê Chiến Trung Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch phường Trà Cổ, TP

Móng Cái

23. Ông Nguyễn Xuân Hồng Phó Bí Đảng ủy, Chủ tịch phường Trà Cổ, TP Móng

Cái

24. Ông Phạm Thành Trung Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Cửa Ông, TP

Cẩm Phả

25. Bà Hà Thị Thanh Thảo Cán bộ văn hóa thông tin, phường Cửa Ông, TP

Cẩm Phả

26. Ông Nguyễn Hữu Viển Chủ tịch Câu lạc bộ Bái Tử Long, phường Cửa Ông,

TP Cẩm Phả

27. Ông Trần Văn Cát Nguyên Trưởng khu phố 5, phường Cửa Ông, TP

Cẩm Phả