b ng chỈ sỐ - sacombank...cụ thể, sx công nghiệp 13,3% sv tháng 3 và 10,5% sv cùng...
TRANSCRIPT
1
Sự sụt giảm tiền gửi không kỳ hạn trong
Quý 1/2020 có thể chỉ trong thời gian ngắn,
mang tính thời vụ. Tuy nhiên, mục tiêu tăng
CASA (tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn trong
tổng tiền gửi khách hàng) trong năm nay là
khá thách thức với các ngân hàng. Có lẽ do
vậy nên các ngân hàng đang tìm cách để thu
hút tiền gửi thanh toán của người dân bằng
việc miễn, giảm phí dịch vụ. Hiện nay, 100%
các ngân hàng trong nước đã xác nhận
miễn/giảm phí chuyển tiền cho khách hàng
qua NAPAS. Trong đó, có 14 ngân hàng đưa
mức phí thu khách hàng về bằng 0, chiếm
49,1% lượng giao dịch miễn phí dịch vụ.
Tin nổi bật
Tiền gửi không kỳ hạn giảm mạnh tại nhiều
ngân hàng
Doanh nghiệp địa ốc 'khát vốn' ồ ạt vay trái
phiếu lãi cao, thị trường dấu hiệu bất ổn?
Dịch Covid-19 làm tăng nguy cơ nợ xấu, hàng
loạt ngân hàng trích lập dự phòng trong Q.I
Economist: Việt Nam nằm trong nhóm nền
kinh tế an toàn
Kinh tế tháng 4/2020: Còn nhiều điểm sáng
PMI toàn châu Á lao dốc
Thứ Ba, ngày 05/5/2020
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 04/5)
VN - Index 762,47 0,86%
HNX - Index 105,72 1,05%
D.JONES CK Mỹ 23.749,76 0,11%
STOXX CK C.Âu 2.816,48 3,81%
CSI 300 CK TQ 3.912,58 1,18%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 05/5)
SJC Ng.đ/L 48.450 0,10%
Quốc tế USD/Oz 1.688,74 0,00%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.262 0,06%
EUR/USD 1,0912 0,36%
Dầu
WTI USD/th 21,85 19,14% BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Tiền gửi không kỳ hạn giảm mạnh
tại nhiều ngân hàng
Nhiều NH đặt mục tiêu tăng CASA trong 2020 nhưng khởi đầu trong Q.I
không thuận lợi khi tiền gửi không kỳ hạn (TGKKH) sụt giảm khá mạnh.
Tại 3 NH có CASA lớn nhất hiện nay (Vietcombank, Techcombank, MBBank)
đều ghi nhận TGKKH sụt giảm khá mạnh trong Q.I do tác động của
Covid-19. Không chỉ 3 NH trên, hàng loạt NH khác cũng bị sụt giảm ở
nguồn tiền gửi này (TPBank, ACB, LienVietPostBank, Sacombank, Eximbank,
VIB...). Những năm gần đây và đặc biệt trong 2020, nguồn TGKKH càng
trở nên quan trọng với NHTM khi phải giảm mạnh LS cho vay. Nhiều NH
đặt mục tiêu củng cố và tăng CASA trong 2020. Sự sụt giảm TGKKH
trong Q.I có thể chỉ trong thời gian ngắn, mang tính thời vụ khi đúng cuối
năm Âm lịch, DN phải rút tiền để thanh toán chi phí và trả lương cho nhân
viên. Tuy nhiên, mục tiêu tăng CASA trong 2020 là khá thách thức với
các NH. Theo dự báo của nhiều chuyên gia, nếu tình hình dịch bệnh kéo
dài và hoạt động KD hồi phục chậm sẽ ảnh hưởng không chỉ tới tín dụng
mà còn tiền gửi. Thu nhập sụt giảm có thể khiến nhiều người dân gửi tiết
kiệm ít hơn, thậm chí rút tiền ra để chi tiêu, còn DN bị giảm doanh thu
cũng phải hạn chế để tiền thanh toán tại NH. Do vậy, NH đang tìm cách
để thu hút tiền gửi thanh toán của người dân bằng việc miễn, giảm phí
DV. Hiện nay 100% NH trong nước đã xác nhận miễn/giảm phí chuyển
tiền cho khách hàng qua NAPAS. Trong đó có 14 NH đưa mức phí thu
khách hàng về bằng 0, chiếm 49,1% lượng giao dịch miễn phí DV.
Doanh nghiệp địa ốc 'khát vốn' ồ
ạt vay trái phiếu lãi cao, thị trường
dấu hiệu bất ổn?
BC của SSI mới đây cho biết, trong Q.I, các DN địa ốc sẵn sàng chấp
nhận phát hành trái phiếu lãi cao. Cụ thể, nhóm DN BĐS dẫn đầu về khối
lượng phát hành với tỷ lệ 49%, #23.202 tỷ đồng. Đặc biệt, LS phát hành
BQ trong Q.I là 10,77%/năm, 43 điểm cơ bản sv BQ 2019, dù kỳ hạn
BQ ngắn hơn 1-2th. “Trong quý vừa qua, đã có có 33 DN BĐS phát hành
tổng cộng 23.200 tỷ đồng, 9,8% sv cùng kỳ và bằng 18,3% tổng lượng
phát hành cả năm ngoái… Mức chênh lệch LS giữa trái phiếu và tiền gửi
hiện tại lên tới 4%/năm đã hấp dẫn NĐT cá nhân tham gia nhiều hơn vào
thị trường”. Theo TS.Nguyễn Trí Hiếu, nhiều DN BĐS phát hành trái
phiếu là điều hiển nhiên khi họ khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay của
NH. TS.Vũ Đình Ánh cho rằng, khi NH siết tín dụng, DN buộc phải đặt ra
Tài chính – Ngân hàng
3
mức LS cao để gia tăng tính hấp dẫn, thu hút vốn. TS.Nguyễn Trí Hiếu
phân tích: “Thị trường tài chính đang bị tác động mạnh mẽ. Thị trường
cho vay của NH cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong khi đó, dịch
bệnh chưa hoàn toàn được kiểm soát và nguy cơ tác động mạnh đến nền
KT là không tránh khỏi”. Dấu hiệu này đang cảnh báo sự bất ổn của thị
trường khi DN địa ốc sẵn sàng chấp nhận phát hành trái phiếu LS cao.
Nguy cơ vỡ trận có thể xảy ra khi sự phục hồi của thị trường BĐS chưa
thể dự đoán, khả năng cầm cự và phát triển của DN còn khốn khó.
Dịch Covid-19 làm tăng nguy cơ
NX, hàng loạt ngân hàng mạnh
tay trích lập dự phòng trong Q.I
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ảnh hưởng nặng nề
đến KT toàn cầu cũng như VN khiến nhiều DN phải tạm dừng hoạt động,
nhất là DNVVN, nhiều người lao động không có việc làm. Do đó, nguy
cơ tiềm ẩn NX tăng nhanh, buộc NH phải mạnh tay trích lập dự phòng.
Thống kê từ BCTC Q.I của 24 NH cho thấy, tổng chi phí DPRR tín dụng
của NH 34% sv cùng kỳ 2019 với #21.400 tỷ đồng. Trong đó, có 19 NH
ghi nhận chi phí DPRR tín dụng tăng trong Q.I. Nhiều NH mạnh tay trích
lập dự phòng >100% như Techcombank (362%), MBBank (117%),
TPBank (109%), Kienlongbank (3.350%) và OCB (134%). Bên cạnh
đó, tại 1 số NH trong cùng kỳ 2019 không phát sinh hoặc hoàn nhập chi
phí DPRR tín dụng cũng có chi phí dự phòng tăng như Bản Việt (từ hoàn
nhập 3 tỷ đồng đến năm nay trích chi phí 153 tỷ đồng), ACB (93 tỷ đồng),
BacABank (44 tỷ đồng), NCB (40 tỷ đồng) và VietABank (4 tỷ đồng). Tại
nhóm các "ông lớn" NHTMNN, chi phí DPRR tín dụng tăng khá mạnh
như Vietcombank (43%), VietinBank (36%) và BIDV (17%).
4
Economist: Việt Nam nằm trong
nhóm nền kinh tế an toàn
Theo bảng xếp hạng của The Economist, VN xếp thứ 12/66 nền KT được
đánh giá dựa trên 4 tiêu chí tài chính gồm nợ công, nợ nước ngoài (cả
lĩnh vực công và tư nhân), chi phí đi vay và dự trữ ngoại hối. Thứ hạng của
1 nền KT được quyết định dựa trên điểm đánh giá trung bình 4 tiêu chí
này. Hầu hết nền KT ở nhóm nguy hiểm có quy mô nhỏ. 30 nền KT cuối
bảng chỉ chiếm 11% tổng GDP của cả bảng xếp hạng. Bảng xếp hạng
cho biết khác biệt giữa các nền KT và nguy cơ tiềm ẩn. Những nền KT
như Angola, Bahrain và Iraq có thể có nợ công vượt 100% GDP trong
2020. Khoảng ½ nền KT được đánh giá có nợ công <60% GDP, ngưỡng
giới hạn của các thành viên Eurozone nhưng ít bên thực hiện được. Trong
2020, 66 nền KT trên sẽ phải tìm kiếm hơn 4.000 tỷ USD để giải quyết
nợ nước ngoài và thâm hụt tài khoản vãng lai nếu có. Ngoại trừ TQ, con
số trên chỉ còn 2.900 tỷ USD. Đại dịch Covid-19 gây thiệt hại đến các
nền kinh tế mới nổi theo ba hướng là phong tỏa đi lại của người dân, giảm
nguồn thu từ xuất khẩu và gây trở ngại cho dòng vốn nước ngoài. Ngay
cả khi đại dịch suy giảm trong nửa cuối năm 2020, GDP tại các nền KT
đang phát triển, đo theo ngang giá sức mua (PPP), năm nay sẽ 6,6%
sv con số dự báo của IMF đưa ra hồi tháng 10...
Kinh tế tháng 4/2020: Còn nhiều
điểm sáng
Bức tranh KT tháng 4 cho thấy những tác động ngày càng rõ nét hơn của
đại dịch Covid-19 khi mà cả cung và cầu đều sụt giảm mạnh. Cụ thể, SX
công nghiệp 13,3% sv tháng 3 và 10,5% sv cùng kỳ 2019. LK 4th đầu
năm, chỉ số SX toàn ngành công nghiệp 1,8% sv cùng kỳ 2019. Tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu DV tiêu dùng tháng 4 ước 26% sv
cùng kỳ 2019. LK 4th, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu DV tiêu
dùng 4,3%. Kim ngạch XK hàng hóa tháng 4 ước đạt 19,7 tỷ USD,
18,4% sv tháng 3. LK 4th đầu năm, kim ngạch XK hàng hóa ước đạt
82,94 tỷ USD, 4,7% sv cùng kỳ 2019, Tính đến 20/4, tổng vốn đầu tư
nước ngoài đạt 12,3 tỷ USD, 15,5% sv cùng kỳ 2019; trong khi vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4th ước đạt 5,2 tỷ USD, 9,6% sv cùng
kỳ 2019. TTCK vẫn chứng kiến xu hướng bán ròng của NĐTNN. Điều đó
cho thấy tăng trưởng Q.II có lẽ sẽ chịu tác động mạnh hơn sv Q.I. Tuy
nhiên, bức tranh KT tháng 4 và 4th vẫn có nhiều điểm sáng trong đó nổi
Kinh tế Việt Nam
5
bật nhất là KTVM vẫn ổn định, lạm phát tiếp tục giảm tốc. Theo đó, CPI
tháng 4 1,54% sv tháng 3, mức thấp nhất trong 2016-2020; qua đó kéo
tốc độ tăng CPI BQ 4th sv cùng kỳ 2019 giảm còn 4,9% từ 5,56% của 3th
đầu năm. Ngân sách bội thu 18.700 tỷ đồng. XK duy trì được mức tăng
trưởng dương; cán cân thương mại thặng dư khoảng 3 tỷ USD trong 4th.
Thị trường tiền tệ vẫn vững vàng, ổn định trước các tác động tiêu cực từ
thị trường thế giới và trong nước. Hệ thống NH đang triển khai nhiều giải
pháp thiết thực như cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm LS,
phí, cho vay mới với LS thấp… để hỗ trợ người dân, DN. Thị trường ngoại
hối và tỷ giá trong nước được duy trì ổn định, dự trữ ngoại hối tăng cao,
lên tới 84 tỷ USD, gấp hơn 3 lần sv cuối năm 2015. Đây là 1 nguồn lực
quan trọng để hỗ trợ nền KT chống đỡ với các cú sốc từ bên ngoài. Hiện
dịch bệnh trong nước đã cơ bản được kiểm soát và Chính phủ đang nới
lỏng dần các biện pháp kiểm soát để tái khởi động lại nền KT. Vì thế,
tháng 4 sẽ là đáy của nền KT và sẽ phục hồi trở lại từ tháng 5.
Gấp rút tiếp sức cho cộng đồng
doanh nghiệp
Dự kiến cuối tuần này, Thủ tướng sẽ chủ trì Hội nghị với DN nhằm tháo
gỡ khó khăn, thúc đẩy SXKD, tái khởi động nền KT. Đây là Hội nghị đang
hết sức được trông đợi, trong bối cảnh theo thông tin mới nhất từ Tổng
cục Thống kê, chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, trong tháng
4, cả nước có 7,885 DN thành lập mới với số vốn đăng ký 93.900 tỷ đồng,
46,9% về số DN và 43,8% về vốn đăng ký sv cùng kỳ 2019. Mặc dù
vậy, trong tháng 4, cả nước có 3,810 DN quay trở lại hoạt động, 11,3%
sv tháng 3 và 40,4% sv cùng kỳ 2019. Tính chung 4th đầu năm, cả
nước có 37.600 DN đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là
445.200 tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 315.700 lao động,
13,2% về số DN, 17,9% về vốn đăng ký và 29,7% về số lao động
sv cùng kỳ năm trước. Trong tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt động có duy
nhất ngành SX phân phối điện, nước, gas có số DN thành lập mới tăng
với 527 DN, 40,5% sv cùng kỳ năm trước. Các ngành còn lại đều có số
doanh nghiệp thành lập mới giảm: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe
máy, XD, công nghiệp chế biến, chế tạo, khoa học, công nghệ, DV tư
vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác… Trong 4th, số DN tạm
ngừng KD có thời hạn là 22.700 DN, 33,6% sv cùng kỳ năm trước.
6
Đà sụt giảm của kinh tế toàn cầu
đã chạm đáy và đang trên đà hồi
phục!
Mới đây, các nhà KT của Goldman Sachs và Morgan Stanley cho biết,
đã có minh chứng cho thấy nền KT thế giới đang bắt đầu hồi phục từ sự
ảnh hưởng của dịch bệnh và các biện pháp hạn chế đối với DN, người
tiêu dùng. Theo KT gia trưởng Goldman Sachs: "Sự sụt giảm của hoạt
động KT đã chạm mức đáy. Các biện pháp phong toả và giãn cách XH
đang dần được nới lỏng khi nhiều quốc gia đang thận trọng mở cửa trở
lại nền KT". Dự đoán các nền KT phát triển sẽ ghi nhận mức giảm trung
bình 32% trong Q.I, trước khi hồi phục với mức 16% vào 3th tới và 13%
ở Q.IV/2020. Trong khi đó, KT gia trưởng Morgan Stanley cho biết trong
BC phát hành ngày 3/5 rằng: "1 số lượng lớn các chỉ báo chúng tôi theo
dõi đều cho thấy mức sụt giảm KT toàn cầu đang trong quá trình ghi
nhận mức đáy". Xu hướng tích cực này diễn ra sau khi tăng trưởng KT
chạm mức thấp và chi tiêu hộ gia đình đang sụt giảm với tốc độ chậm
hơn sv những tuần đầu tiên đại dịch bùng phát. "Chúng tôi cho rằng KT
TQ đã chạm đáy vào tháng 2 và Eurzone có thể là tháng 4, Mỹ cũng là
cuối tháng 4". Nhà KT trưởng Goldman Sachs nhận định: "Nguy cơ sụt
giảm lớn nhất đối với triển vọng của nền KT toàn cầu là số ca nhiễm tăng
mạnh trở lại, khi các hoạt động đã được tái khởi động. Phân tích gần đây
của chúng tôi xác nhận rằng những tiến bộ trong hoạt động chăm sóc
sức khoẻ có được là nhờ áp dụng lệnh phong toả và giãn cách XH”.
PMI toàn châu Á lao dốc
Sản lượng nhà máy ở 1 số quốc gia châu Á đã giảm xuống mức thấp kỷ
lục trong tháng 4, báo hiệu sự trì trệ sâu hơn ở TQ, ngay cả khi họ đã bắt
đầu khởi động lại 1 số hoạt động. Chỉ số quản lý mua hàng PMI trên khắp
ASEAN đã giảm xuống <50, để lộ những điểm yếu nhất của họ kể từ khi
đại dịch Covid-19 bắt đầu, dữ liệu do IHS Markit công bố ngày 04/5. Đài
Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc giảm xuống mức thấp nhất kể từ 2009. Dữ
liệu của các nhà máy là 1 lời nhắc nhở rằng: sự phục hồi KT toàn cầu từ
cuộc khủng hoảng Covid-19 có thể sẽ kéo dài và có tác động không đồng
đều. Trong khi TQ bắt đầu mở lại các nhà máy và đang tăng cường chi
tiêu CSHT để hỗ trợ nền KT trong nước, nỗi đau vẫn còn lan rộng ở nhiều
KV và toàn cầu có thể sẽ còn kéo dài trong thời gian. Dữ liệu PMI TQ
1,2 xuống 50,8 trong tháng 4. Chỉ số Caixin tập trung vào các công ty
Kinh tế Quốc tế
7
định hướng XK nhỏ, quay trở lại suy giảm. PMI Hàn Quốc giảm sâu nhất
trong tháng 4, mức thấp nhất kể từ 2008 đến nay. "Trong khi những tháng
tới vẫn còn nhiều thách thức, KV này có thể bắt đầu cải thiện vào tháng
5, khi các nền KT trong và ngoài châu Á bắt đầu dỡ bỏ các lệnh hạn chế
do virus gây ra. Chúng tôi dự báo sẽ có thêm chính sách nới lỏng", KT
trưởng KV châu Á của Bloomberg Economics cho biết. PMI của
Indonesia đã giảm mạnh nhất, xuống còn 27,5 trong tháng 4 (từ 45,3 trong
tháng 3), Malaysia giảm xuống 31,3 và Việt Nam giảm xuống còn 32,7.
8
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/
https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
https://goldprice.org/vi
http://www.sjc.com.vn/
https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=2045785475492
8577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4
Tin Tài chính - NH https://cafef.vn/tien-gui-khong-ky-han-giam-manh-tai-nhieu-ngan-hang-20200504113542638.chn
https://vietstock.vn/2020/05/doanh-nghiep-dia-oc-khat-von-o-at-vay-trai-phieu-lai-cao-thi-truong-
dau-hieu-bat-on-4220-755031.htm
https://vietnambiz.vn/dich-covid-19-lam-tang-nguy-co-no-xau-hang-loat-ngan-hang-manh-tay-
trich-lap-du-phong-trong-qui-i-20200504172907906.htm
Tin KT vĩ mô https://vietstock.vn/2020/05/gap-rut-tiep-suc-cho-doanh-nghiep-761-755073.htm
https://ndh.vn/quoc-te/economist-viet-nam-nam-trong-nhom-nen-kinh-te-an-toan-1267958.html
https://vietnambiz.vn/kinh-te-thang-4-con-nhieu-diem-sang-20200504220248084.htm
Tin KT Quốc tế https://cafef.vn/pmi-toan-chau-a-lao-doc-viet-nam-giam-xuong-con-327-nhung-van-la-kha-quan-
o-dong-nam-a-20200504121213716.chn
https://cafef.vn/goldman-sachs-morgan-stanley-da-sut-giam-cua-kinh-te-toan-cau-da-cham-day-
va-dang-tren-da-hoi-phuc-20200505074050482.chn
9
Danh mục viết tắt
B K
Ban lãnh đạo BLĐ Khách hàng DN KHDN
BH BH Khách hàng cá nhân KHCN
BH tiền gửi BHTG KT KT
BH y tế BHYT KT xã hội KTXH
BH thất nghiệp BHTN KT vĩ mô KTVM
BH xã hội BHXH Kiểm soát rủi ro KSRR
BH nhân thọ BHNT Kết quả KQ
BĐS BĐS Khu vực KV
Bình quân BQ Khu công nghiệp KCN
C
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD L
Chỉ số giá tiêu dùng CPI LS LS
Chính sách tiền tệ CSTT Liên NH LNH
Chính sách tín dụng CSTD Lợi nhuận trước thuế LNTT
Chứng khoán/CTCK CK/CTCK Lợi nhuận sau thuế LNST
Công nghệ thông tin CNTT
Công ty cổ phần CTCP M
Cổ phần hóa CPH Mua bán, sáp nhập M&A
Cơ sở hạ tầng CSHT
Cơ quan/Cơ quan quản lý CQ/CQQL N
Cơ quan Nhà nước CQNN NĐT NĐT
D NĐT nước ngoài NĐTNN
Dịch vụ DV NH NH
DN DN NH liên doanh NHLD
DN nhà nước DNNN NH Nhà nước NHNN
DN tư nhân DNTN NH quốc doanh NHQD
DN vừa và nhỏ DNVVN NH thương mại cổ phần NHTMCP
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NH thương mại Nhà nước NHTM NN
Dự trữ bắt buộc DTBB NH nước ngoài NHNNg
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI NH trung ương NHTW
Đầu tư gián tiếp FII NH chính sách xã hội NHCSXH
Định chế tài chính ĐCTC Ngân sách nhà nước NSNN
G Ngân sách địa phương NSĐP
Giấy chứng nhận GCN Nhập khẩu NK
Giá trị gia tăng GTGT Nợ xấu NX
Giám đốc GĐ Nợ quá hạn NQH
H
Hợp tác xã HTX
10
P V
Phòng giao dịch PGD Vốn điều lệ VĐL
Phó Giám đốc PGĐ Vốn tự có VTC
Vốn chủ sở hữu VCSH
Q Văn bản pháp luật VBPL
Quản lý rủi ro QLRR
Quỹ tín dụng nhân dân QTDND X
Xã hội XH
S Xuất khẩu XK
SX SX Xuất nhập khẩu XNK
SX kinh doanh SXKD Xây dựng XD
So với SV Xây dựng cơ bản XDCB
T Quốc gia/Tổ chức
Tài chính - NH TC-NH VN VN
Tài sản bảo đảm TSBĐ Kho bạc Nhà nước KBNN
TTTD TTTD Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Thanh toán quốc tế TTQT Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Thanh toán nội địa TTNĐ Tổng cục thống kê GSO (TCTK)
TTCK TTCK Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT
Thị trường mở OMO Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN
Thu nhập cá nhân TNCN Viện Nghiên cứu KT và Chính sách VERP
Thu nhập DN TNDN Cục dự trữ liên bang Mỹ FED
TCTD TCTD Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Tổng giám đốc TGĐ Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE
Tổng tài sản TTS Liên minh châu Âu EU
Tổng sản phẩm quốc nội GDP NH Thế giới (World Bank) WB
TP Chính phủ TPCP NH Phát triển châu Á ADB
TP DN TPDN NH trung ương châu Âu ECB
NH trung ương Trung Quốc PBOC
NH trung ương Nhật Bản BOJ
NH TTQT BIS
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức Hợp tác và Phát triển KT OECD
Trung Quốc TQ
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF