an lạc tập thích Đạo xước soạn - bodetam.org nhat chan/an lạc tập.pdf · thích...
TRANSCRIPT
- 1 -
An Lạc Tập
Thích Đạo Xước soạn
Thích Nhất Chân dịch
Bộ An Lạc Tập này trọn một bộ gồm 12 đại môn, môn nào cũng
đều trích dẫn các Kinh và Luận ra để chứng minh, nhằm khuyến
khích người học tin tưởng mà cầu nguyện vãng sinh [về tây
phương Cực Lạc thế giới.]
Đại môn thứ nhất
Giờ đây trước hết là vào trong đại môn thứ nhất. Đại môn này tuy
văn nghĩa dồi dào, song [trước hết] có thể phân thành chín môn
tóm lược [sau đây] để lọc lựa phân loại, rồi sau đó mới viết xuống
[thành phần trình bày giải rộng bên dưới:]
I. Thứ nhất là nói về lý do vì sao giáo pháp Tịnh Độ được nói lên:
xét theo thời, thích ứng theo căn cơ, mà khuyến khích quy hướng
về Tịnh Độ.
II. Thứ hai là căn cứ theo các bộ Kinh Luận Đại thừa để nêu rõ
lên các cách thức nói và nghe giáo pháp [một cách chân chính.]
III. Thứ ba là căn cứ theo thánh giáo của Đại Thừa để trình bày
về việc phát tâm lâu gần, cúng Phật nhiều ít, của các chúng sinh,
cũng vì muốn cho thính chúng ngay đương hội nỗ lực phát tâm.
IV. Thứ tư là bàn về sự khác nhau giữa tông chỉ của các Kinh.
V. Thứ năm là nói về việc các Kinh được tên khác nhau: Như
kinh Niết Bàn, Bát Nhã v.v... lấy pháp làm tên. Lại có Kinh theo
dụ mà lập tên. Hoặc có Kinh theo sự mà lập tên. Cũng có Kinh
theo thời theo xứ mà lập tên, không hề đồng nhất. Nay Quán Kinh
này y theo "người" và "pháp" mà lập tên. Phật là tên của người,
còn nói Quán Vô Lượng Thọ là tên của pháp.
VI. Thứ sáu là phân loại về người nói [Kinh gồm nhiều loại hữu
tình] sai khác nhau: Các kinh được nói lên không ngoài năm loại
[hữu tình:] 1) Phật tự nói, 2) thánh đệ tử nói, 3) chư thiên nói, 4)
thần tiên nói, 5) biến hóa nói. Trong năm loại [hữu tình] nói Kinh
ấy thì Quán Kinh này chính là do Thế Tôn tự nói vậy.
VII. Thứ bảy là lược nói về hai thân là Chân Thân và Ứng Thân,
cùng bàn về hai độ là Chân Độ và Ứng Độ.
VIII. Thứ tám là nêu rõ về địa vị [tu Đạo] của Di Đà Tịnh Quốc
bao trọn hết [mọi vị thứ] trên dưới, phàm và thánh cùng vãng sinh.
IX. Thứ chín là nói về việc Di Đà Tịnh Quốc thuộc hay không
thuộc về ba cõi [luân hồi.]
- 2 -
[Trong chín môn trên, hai môn V, VI, không được nói đến trong
phần giảng rộng dưới đây.]
I. Môn Thứ Nhất
Trong đại môn thứ nhất này, trình bày về nguyên do [Phật] nói lên
giáo pháp Tịnh Độ này. [Đó là Phật do] chiếu theo thời và thích
ứng theo căn cơ mà khuyến khích [chúng sinh] quy hướng về Tịnh
Độ. [Bởi vì] nếu giáo pháp mà theo đúng với thời và căn cơ, thì
[chúng sinh sẽ] dễ tu và dễ ngộ. Nếu căn cơ, giáo pháp, và thời lúc,
mà trái nhau, thì khó tu và khó nhập Đạo. Thế nên Chính Pháp
Niệm Kinh có nói: "Khi hành giả nhất tâm cầu đạo thì phải luôn
quán sát thời và phương tiện. Nếu không đúng thời và không có
phương tiện, thì gọi là thất bại, chứ không gọi là lợi ích. Tại sao
vậy? Như dùi cây ướt để lấy lửa, lửa sao có được, do không đúng
thời vậy. Nếu bẻ củi khô để tìm nước, nước nào có được, do không
có trí vậy."
Do đó Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh có nói: "Năm trăm năm thứ
nhất sau khi Phật diệt độ, đệ tử của ta học huệ được kiên cố. Năm
trăm năm thứ hai, học định được kiên cố. Năm trăm năm thứ ba,
học đa văn đọc tụng được kiên cố. Năm trăm năm thứ tư, tạo lập
chùa tháp, tu phúc sám hối được kiên cố. Năm trăm năm thứ năm,
bạch pháp ẩn mất, thường hay tranh cãi kiện tụng, ít có thiện
pháp, [các sự thể như thế ấy] được kiên cố."
Lại Kinh này còn nói: "Chư Phật xuất hiện nơi đời có bốn thứ
pháp để độ chúng sinh: (1) Một là từ chính miệng [các Ngài] nói
ra mười hai bộ kinh, tức là thí pháp để độ chúng sinh. (2) Hai là
chư Phật Như Lai có vô lượng tướng hảo quang minh, tất cả
chúng sinh chỉ cần chú tâm quán sát, không ai không được lợi ích,
đó là thân nghiệp độ chúng sinh. (3) Ba là có vô lượng đạo lực
thần thông diệu dụng công đức, đủ thứ biến hóa, tức là dùng thần
thông lực mà độ chúng sinh. (4) Bốn là chư Phật Như Lai có vô
lượng danh hiệu, hoặc danh chung hoặc danh riêng, bất cứ chúng
sinh nào chú tâm xưng niệm, thì không ai không trừ được chướng
ngại, đạt được lợi ích, và đều sinh về trước Phật, đó là dùng Danh
hiệu độ chúng sinh vậy."
Xét lại chúng sinh thời nay là đã ở vào giai đoạn năm trăm năm
thứ tư sau khi Phật qua đời rồi. Đúng là lúc để sám hối, tu phúc, và
phải xưng danh hiệu Phật. Nếu chỉ một niệm thôi mà xưng danh A
Di Đà Phật, tức thì sẽ trừ diệt được tội lỗi sinh tử trong tám mươi
- 3 -
ức kiếp. Một niệm thôi mà đã vậy thì huống gì là luôn luôn thường
tu niệm. Người ấy chính là người hằng sám hối vậy.
Lại nếu [ở vào giai đoạn] cách bậc Thánh [diệt độ] không xa, tức
là [hai giai đoạn một và hai] trước, lấy tu định và tu huệ làm sở
học chính yếu, và kiêm học luôn các lối tu [của hai giai đoạn] sau
[làm phụ]. Còn như đã cách xa bậc Thánh rồi, thì tu lối xưng danh
thuộc giai đoạn sau đó là chính, và kiêm tu các lối [trong giai
đoạn] trước [là phụ]. Cớ gì mà lại vậy? Bởi do chúng sinh cách xa
bậc Thánh quá rồi, thời căn cơ nhận hiểu rất nông cạn, ám độn.
Thế nên Vi Đề đại sĩ mới vì chính mình và vì thương xót cho
chúng sinh trong thời mạt năm trược luân hồi bao kiếp, uổng chịu
thiêu đốt đớn đau, nên mới có thể nhân cái duyên đau khổ [của
mình] mà mượn dịp thưa hỏi, mở ra con đường thênh thang
khoảng khoát. Bậc đại Thánh lại thương đến mà khuyên quy về
Cực Lạc. Nếu muốn hướng tiến về đó, [mà sợ] khó vươn tới quả
siêu việt ấy, thì duy chỉ có một môn Tịnh Độ này là có thể bằng
tâm nguyện của mình mà thể nhập vào đó. Nếu lại muốn tìm tòi
trong kinh điển [làm chứng], thời càng thấy các lời khuyên nhủ
[vãng sinh] càng nhiều. Thế nên tôi mới gom góp các lời chân thật
ấy lại, để giúp cho đường tu vãng sinh thêm được lợi ích. Tại sao
lại được thêm ích? Do bởi [làm thế là] muốn khiến cho người đời
trước dẫn người đời sau, người đi sau học theo người đi trước, [cứ
thế] liên tục không cùng, nguyện không ngưng nghỉ, để mà cho tận
cái biển sinh tử vô biên này vậy.
II. Môn Thứ Hai
Môn thứ hai là căn cứ theo các bộ kinh Đại Thừa để nói về các
nguyên tắc nói và nghe [pháp.] Môn này gồm sáu phần:
1) Thứ nhất là Đại Tập Kinh nói rằng: "Phải tưởng người nói
Pháp là y vương, là để cứu khổ; tưởng Pháp được nói là cam lồ, là
đề hồ; tưởng người nghe pháp tăng trưởng sự tin hiểu, được khỏi
bệnh. Nếu tưởng được như thế, thì kẻ thuyết người nghe đều có thể
làm hưng thịnh Phật pháp và thường sinh về trước Phật."
2)Thứ hai là Đại Trí Độ Luận nói rằng: "Người nghe Pháp chăm
chú theo dõi [Pháp được nói] như khát được uống, nhất tâm nhập
vào ý nghĩa của lời nói; [trong khi] nghe Pháp thời hớn hở, tâm
hân hoan xúc động. Người nào như thế mới nên nói cho."
3) Thứ ba là Luận này còn nói: "Có hai hạng người được phúc đức
vô lượng vô biên. Đó là hai hạng người nào? Một là người thích
- 4 -
nói Pháp, hai là người thích nghe Pháp. Thế nên A Nan bạch Phật
rằng: "Cớ sao trí huệ và thần thông do hai ngài Xá Lợi Phật và
Mục Liên đắc được lại là tối thù thắng trong hàng thánh đệ tử?"
Phật bảo A Nan: "Hai người ấy trong khi còn tu nhân, hễ cứ có
nhân duyên nào vì Pháp, mà [phải đi] ngàn dặm [để mà nghe, thì
với họ] cũng không có gì là khó. Thế nên ngày nay [pháp mà] họ
[đắc được] là tối thù thắng.""
4) Thứ tư là Vô Lượng Thọ Đại Kinh có nói: "Nếu ai không gốc
thiện, không được nghe Kinh này, người thanh tịnh có giới, mới
được nghe chính Pháp."
5) Thứ năm là: "Từng có gặp Thế Tôn, thì sẽ tin việc này; phụng
sự ức Như Lai, mới thích nghe giáo ấy."
6) Thứ sáu là Vô Lượng Thanh Tịnh Giác Kinh nói rằng: "Thiện
nam tử thiện nữ nhân nào nghe nói về pháp môn Tịnh Độ mà tâm
sinh hân hoan xúc động, trên thân lông dựng đứng lên như muốn
bứt ra, phải biết người ấy trong quá khứ đời trước đã từng thực
hành Phật đạo. Nếu lại có người nghe khai pháp môn Tịnh Độ mà
không hề sinh tín, thì phải biết người ấy mới từ tam ác đạo ra, tội
ác chưa tận, do đó mà không có tín hướng vậy. Ta nói kẻ ấy chưa
thể đắc giải thoát được." Thế nên Vô Lượng Thọ Kinh mới nói:
"Kiêu mạn che, lười biếng, khó tin được Pháp này."
III. Môn Thứ Ba
Môn thứ ba là căn cứ theo thánh giáo của Đại Thừa mà nói về việc
chúng sinh phát tâm lâu mau, cúng dường nhiều đời hay ít đời chư
Phật. Như Niết Bàn Kinh có nói: "Phật bảo với Ca Diếp Bồ Tát:
1. Nếu có chúng sinh nào đã từng phát Bồ Đề Tâm với số chư
Phật nhiều như số cát của sông Hi Liên, tức bằng nửa số cát
sông Hằng, thì sau đó mới có thể ở trong đời ác nghe kinh điển
Đại Thừa mà không sinh hủy báng.
2. Nếu có chúng sinh nào đã từng phát Bồ Đề Tâm với số chư
Phật nhiều như số cát của một sông Hằng, thì sau đó mới có
thể ở trong đời ác nghe Kinh mà đã không khởi hủy báng, [trái
lại] còn yêu thích không cùng.
3. Nếu có chúng sinh nào đã từng phát Bồ Đề Tâm với số chư
Phật nhiều như số cát của hai sông Hằng, thì sau đó mới có
thể ở trong đời ác đã không báng Pháp này, [trái lại] còn hiểu
đúng, tin thích, nhận giữ, đọc tụng.
- 5 -
4. Nếu có chúng sinh nào đã từng phát Bồ Đề Tâm với số chư
Phật nhiều như số cát của ba sông Hằng, thì sau đó mới có thể
ở trong đời ác đã không báng Pháp này, [trái lại] còn ghi chép
các kinh quyển, tuy có nói cho người khác nghe, song vẫn chưa
hiểu rõ được về thâm nghĩa."
Tại làm sao lại phải đối chiếu so sánh như thế? Vì cốt để cho thấy
rõ người ở dưới tòa nghe kinh hiện nay, là đều đã từng phát tâm
cúng dường nhiều Phật rồi, và cũng để nêu rõ cho thấy oai lực của
Kinh Đại Thừa là không thể nghĩ bàn vậy. Thế nên Kinh mới nói:
"Nếu có chúng sinh nào được nghe Kinh điển này, thời ức trăm
ngàn kiếp không đọa ác đạo. Tại sao vậy? Bởi bất cứ chỗ nào mà
Kinh điển vi diệu này được lưu truyền đến, thì phải hiểu đất chỗ ấy
trở thành kim cương, người ở chỗ ấy cũng như là kim cương." Như
thế đủ rõ là người nào nghe Kinh [Đại Thừa] mà sinh tin tưởng, thì
đều đạt được lợi ích không thể nghĩ bàn.
IV. Môn Thứ Tư
Môn thứ tư là bàn về sự khác nhau giữa tông chỉ của các Kinh:
Như nếu y theo Niết Bàn Kinh thì lấy Phật tính làm tông.
Nếu y theo Duy Ma Kinh thì lấy bất khả tư nghị giải thoát làm
tông.
Nếu y theo Đại Tập Kinh thì lấy đà la ni làm tông.
Còn như y theo Quán Kinh thì lấy quán Phật tam muội làm tông.
Nếu luận về đối tượng được quán sát [theo Kinh này] thì không
ngoài hai báo là y báo và chính báo, như phần dưới [của Kinh] là y
theo các quán mà bàn.
Còn nếu y theo Quán Phật Tam Muội Kinh thời nói rằng: "Phật
bảo phụ vương: chư Phật xuất thế có ba điều ích lợi: 1) Một là
miệng nói mười hai bộ kinh làm pháp thí để lợi ích, có thể trừ diệt
vô minh ám chướng của chúng sinh, khai mở mắt trí huệ, được
sinh về trước chư Phật để sớm được vô thượng Bồ Đề. 2) Hai là
chư Phật Như Lai có thân tướng quang minh, vô lượng diệu hảo,
nếu có chúng sinh nào xưng niệm quán sát, hoặc tổng tướng hoặc
biệt tướng, bất kể là thân của Phật hiện tại hay quá khứ, thì đều
trừ diệt được bốn tội trọng và năm tội nghịch của chúng sinh, vĩnh
viễn quay ra khỏi tam đồ, tùy ý mình thích mà thường sinh về Tịnh
Độ cho đến khi được thành Phật. 3) Ba là khuyên phụ vương thực
hành Niệm Phật tam muội.
- 6 -
"Phụ vương bạch Phật: Nào là quả đức của Phật địa, chân như,
thật tướng, đệ nhất nghĩa Không, tại sao không bảo đệ tử thực
hành các pháp ấy?
"Phật bảo phụ vương: Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh
giới thâm diệu, giải thoát, và thần thông, [quả đức ấy] không phải
là cảnh giới thực hành của phàm phu, thế nên mới khuyên phụ
vương thực hành Niệm Phật tam muội.
"Phụ vương bạch Phật: Công năng niệm Phật trạng thái thế nào?
"Phật bảo phụ vương: Như rừng cây y lan vuông vức bốn mươi do
tuần, có một hạt ngưu đầu chiên đàn tuy đã có rễ có mầm, song
chưa lú ra khỏi đất, nên rừng y lan kia chỉ hôi thối chứ không
thơm. Nếu có ai ăn hoa quả của rừng ấy thời phát cuồng mà chết.
Sau dần, mầm rễ của chiên đàn bắt đầu phát triển, sắp sửa thành
cây, mùi thơm nồng tỏa, mới biến đổi khu rừng ấy trở thành hoàn
toàn thơm tho. Chúng sinh ai thấy đều cho thật là hiếm có.
"Phật bảo phụ vương: Tâm niệm Phật của tất cả chúng sinh ở
trong sinh tử cùng y như vậy, nếu có thể gom hết tâm niệm [quán
tưởng đến Phật] không ngừng, chắc chắn sẽ sinh về đến trước
Phật. Một phen vãng sinh ắt sẽ biến đổi tất cả mọi điều ác thành
đại từ bi, như cây thơm kia làm thay đổi trọn cả khu rừng y lan.
Nói rừng y lan đó là dụ cho ba độc, ba chướng, vô biên trọng tội
trong tâm chúng sinh. Còn nói chiên đàn là dụ cho tâm niệm Phật
của chúng sinh. Sắp sửa thành cây là nói cho tất cả chúng sinh chỉ
cần chất chứa niệm không đứt đoạn là nghiệp đạo thành mãn vậy."
Hỏi: Nếu kể hết công năng niệm Phật của tất cả chúng sinh [hợp
lại] thì cũng có thể chấp nhận được tất cả [mọi sự việc như Kinh
vừa nói trên.] Song làm sao mà lực của chỉ một niệm lại có thể
đoạn trừ hết tất cả mọi chướng, như một cây thơm mà chuyển hết
cả một khu rừng y lan bốn mươi do tuần trở thành thơm tho được?
Đáp: [Nay xin] y theo các Kinh bộ Đại Thừa để mà nêu lên cho
thấy rõ công năng của Niệm Phật tam muội không thể nghĩ bàn
đến thế nào. Như Hoa Nghiêm Kinh có nói: "Ví như có người dùng
gân sư tử để mà làm dây đàn, thì khi tấu lên, tất cả các dây đàn
khác sẽ bị đứt hết. Nếu người nào hành Niệm Phật tam muội bằng
tâm Bồ Đề, thì tất cả các phiền não, tất cả các chướng ngại, đều
đoạn diệt hết. Cũng như có người lấy hết tất cả các loại sữa bò,
dê, lừa, ngựa, trộn lại để trong bát, nếu cho một giọt sữa sư tử vào
đó, thời [giọt sữa sư tử] sẽ xuyên qua [các loại sữa trộn chung
kia] không chút khó khăn, và tất cả các loại sữa kia đều sẽ tan ra
- 7 -
mà trở thành nước loãng. Nếu ai chỉ cần bằng Bồ Đề Tâm thực
hành Niệm Phật tam muội, thời sẽ xuyên thấu qua tất cả các ác
ma, chư chướng, không chút khó khăn."
Lại, Kinh ấy nói: "Ví như có người dùng thuốc ẩn thân đi lại chỗ
này chỗ kia, thời tất cả các người khác đều không thấy được. Nếu
ai có thể bằng Bồ Đề Tâm mà thực hành Niệm Phật tam muội, thời
tất cả ác thần, tất cả các chướng, đều không thấy được người ấy,
người ấy đến bất cứ đâu cũng không có gì ngăn ngại được. Cớ sao
được vậy? Do Niệm Phật tam muội này chính là vua của tất cả các
tam muội vậy."
V. Môn Thứ Bảy
Môn thứ bảy là nói qua về ý nghĩa của ba Thân và ba Độ.
1. Hỏi: Phật A Di Đà hiện giờ đây là thuộc về Thân nào [trong ba
Thân] vậy? Và Nước Cực Lạc kia là Độ nào [trong ba Độ]?
Đáp: Phật Di Đà hiện giờ là Báo Phật, và nước Cực Lạc trang
nghiêm chân thật kia là Báo Độ. Nhưng người xưa nay vẫn truyền
nói rằng A Di Đà Phật là hóa thân, và Độ cũng là Hóa Độ. Nói như
thế là sai lầm lớn. Bởi nếu mà đúng thế, thì uế độ cũng là nơi Hóa
Thân ở, mà Tịnh Độ cũng là nơi Hóa Thân ở, vậy không rõ Báo
Thân Như Lai phải y vào Độ nào đây?
Nay xin y theo Đại Thừa Đồng Tính Kinh mà bàn định về các vấn
đề Báo và Hóa, tịnh và uế vậy. Kinh này nói: "Thân thành Phật
trong Tịnh Độ ắt phải là Báo Thân, và Thân thành Phật trong uế
độ ắt phải là Hóa Thân." Kinh này lại nói: "1) Các bậc Như Lai
như A Di Đà Như Lai, Liên Hoa Khai Phu Tinh Vương Như Lai,
Long Chủ Vương Như Lai, Bảo Đức Như Lai v.v... là các bậc hiện
tại đắc đạo và sẽ đắc đạo ở trong các cõi Phật thanh tịnh. Tất cả
các ngài ấy đều là Báo Thân Phật vậy. 2) Còn thế nào là Hóa
Thân Như Lai? Như hiện giờ đây tất cả các bậc Như Lai như
Dũng Bộ Kiện Như Lai, Ma Khủng Bố Như Lai v.v...hiện đang
thành Phật và sẽ thành Phật trong đời uế trược, từ trời Đâu Suất
xuống, cho đến trụ trì qua suốt mọi giai đoạn chính Pháp, mọi giai
đoạn tượng Pháp, mọi giai đoạn mạt Pháp, các hóa sự ấy đều
thuộc về Hóa Thân Phật vậy. 3) Còn thế nào là Như Lai Pháp
Thân? Chân Pháp Thân của Như Lai không sắc, không hình,
không hiện, không dính, không thể thấy được, không thuộc ngôn
thuyết, không ở chỗ nào hết, không sinh không diệt. Đó là ý nghĩa
của chân Pháp Thân vậy."
- 8 -
2. Hỏi: Báo Thân của Như Lai vốn thường trụ, vậy tại sao Quán
Âm Bồ Tát Thọ Ký Kinh lại nói rằng: "Sau khi A Di Đà Phật nhập
niết bàn rồi, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ kế tiếp bổ khuyết vào chỗ
Phật."?
Đáp: Đó chỉ là tướng ẩn chìm đi do Báo Thân thị hiện ra vậy mà
thôi, không hề phải là diệt độ [thật] vậy. Như chính Kinh này có
nói: "Sau khi A Di Đà Phật nhập niết bàn rồi, sẽ có các chúng sinh
gốc thiện thâm sâu vẫn thấy Phật y như xưa." Thì đó chính là
chứng cớ vậy. Lại Bảo Tính Luận có nói: "Báo Thân có năm thứ
tướng: (1) nói Pháp và (2) thấy được; (3) các nghiệp không ngừng
nghỉ; cùng (4) ngừng nghỉ, (5) ẩn mất; thị hiện không thật thể."
Tức cũng là một bằng chứng nữa vậy.
3. Hỏi: Vậy còn Thích Ca Như Lai, Báo Thân và Báo Độ của Ngài
là ở đâu?
Đáp: Niết Bàn Kinh có nói: "Qua khỏi số cõi Phật nhiều bằng bốn
mươi hai lần số cát sông Hằng, có thế giới tên gọi là Vô Thắng.
Các sự trang nghiêm ở nơi cõi ấy cũng y như Cực Lạc thế giới ở
phương tây không hề sai khác. Ta từ nơi cõi ấy mà xuất hiện ra
trong đời này, vì để hóa độ chúng sinh mà đến nơi quốc độ Sa Bà
này, chứ không phải là ta xuất thân ở nơi cõi này. Tất cả chư Như
Lai trường hợp cũng y như vậy." Tức là bằng chứng vậy.
4. Hỏi: Cổ Âm Kinh có nói là "Phật A Di Đà có cha mẹ." Như thế
đủ rõ là không phải là Báo Phật và Báo Độ vậy?
Đáp: Ông chỉ nghe theo danh từ, chứ không chịu xét kỹ lấy ý chỉ
của Kinh, nên mới đến nỗi nghi như thế. Đúng là sai một hào ly lạc
cả ngàn dặm. Bởi A Di Đà Phật thì cũng có đủ cả ba Thân. Thân
xuất hiện nơi Cực Lạc tức là Báo Thân. Nay mà nói là có cha mẹ,
thì đó là thị hiện Hóa Thân có cha mẹ trong uế độ vậy. Như cũng
một Thích Ca Phật thôi, mà khi ở Tịnh Độ thì Ngài là Báo Phật,
khi ứng thân cõi này thì thị hiện có mẹ cha, thì Ngài là Hóa Phật.
Phật A Di Đà cũng thế, khi có mẹ cha là Ngài thị hiện ở uế độ. Lại
như Cổ Âm Kinh có nói: "Bấy giờ, A Di Đà Phật cùng chúng
Thanh Văn [ở nơi cõi] nước hiệu Thanh Thái, nơi Thánh Vương
trụ. Thành ấy dọc ngang mười ngàn do tuần. Cha của A Di Đà
Phật là Chuyển luân thánh vương, tên vua là Nguyệt Thượng, mẹ
tên Thù Thắng Diệu Nhan, Ma vương tên Vô Thắng, con Phật tên
Nguyệt Minh, Đề Bà Đạt Đa tên Tịnh Ý, đệ tử thị giả tên Vô Cấu
Xưng." Thì những gì trích dẫn ở đây đều là các tướng của Hóa
Thân, chứ nếu đã là Tịnh Độ, [tức Báo Độ,] thì làm gì có thành
- 9 -
quách, luân vương, và nữ nhân như thế. Các điều này văn nghĩa rất
rõ ràng, có đâu cần phải phân biệt gì nữa, chẳng qua đều do không
khéo xét suy, đến nỗi thành mê nơi danh tự mà thành chấp trước
vậy.
5. Hỏi: Nếu Báo Thân mà vẫn có các tướng ẩn chìm, ngưng nghỉ
như thế, thì Tịnh Độ phải chăng cũng có chuyện thành hoại hay
sao?
Đáp: Câu vấn nạn ấy, từ xưa đến nay vẫn khó mà đả thông cho
được ý nghĩa của nó. Tuy thế, giờ đây tôi dám xin trích dẫn Kinh
ra làm chứng, thì nghĩa ấy cũng có thể thấy rõ được. Ví như thân
Phật vốn thường trụ, mà chúng sinh thấy có Niết Bàn, thì Tịnh Độ
cũng vậy, thể [của Tịnh Độ] vốn không phải là thành hoại, song
tùy theo chúng sinh thấy mà có thành có hoại. Như Hoa Nghiêm
Kinh có nói: "Y như thấy Đạo Sư vô lượng đủ hình sắc; tùy tâm
hành chúng sinh, thấy cõi Phật cũng vậy." Thế nên Tịnh Độ Luận
mới nói: "Do một chất cũng không phải, nên có tịnh đầy uế vơi.
Khác chất cũng chẳng phải, nên xét tột nguồn thời rõ là một.
Không chất cũng chẳng phải, nên theo duyên khởi lên ắt thành vạn
hình." Mới rõ nếu căn cứ theo pháp tính Tịnh Độ thời chẳng luận
sạch dơ, còn nếu căn cứ theo Báo Hóa đại bi thì không phải là
không có tịnh uế vậy.
Lại nói tổng quát về Phật Độ thôi, thì đối với căn cơ [của chúng
sinh khác nhau mà chiêu] cảm [thành các Độ] khác nhau, [tổng
quát] có ba loại Độ khác nhau như sau:
(1) Từ Chân [độ] mà bày ra Báo [độ], thì gọi là Báo Độ, y như ánh
sáng mặt trời chiếu khắp bốn phương. Pháp Thân như mặt trời,
Báo Hóa như ánh sáng [của mặt trời].
(2) Hai là [đang] không có mà chợt [thành] có, thì gọi là Hóa [độ],
tức như trong Tứ Phần Luật có nói: "Định Quang Như Lai hóa ra
thành Đề Bà và thành Bạt Đề gần bên nhau, cùng nhau qua lại
thân giao. Sau đó bỗng lại hóa lửa thiêu rụi, khiến các chúng sinh
thấy rõ vô thường, nên ai cũng đâm chán ngán mà quy hướng về
Phật đạo." Nên trong Kinh có nói: "Hoặc hiện kiếp lửa thiêu, trời
đất đều rỗng sạch, chúng sinh nào tưởng thường, chiếu cho rõ vô
thường. Hoặc để tế bần khổ, hiện kho tàng vô tận, tùy duyên khắp
khai Đạo, khiến phát tâm Bồ Đề."
3) Ba là ẩn uế đi mà hiển rõ ra Tịnh như Duy Ma Kinh có nói Phật
ấn ngón chân xuống đất, thời trọn cõi ba ngàn này không đâu
không nghiêm tịnh. Tóm lại Vô Lượng Thọ quốc tức là Báo Độ
- 10 -
mà từ Chân [độ] hiện bày ra vậy. Như Quán Âm Thọ Ký Kinh có
nói: "Trong vị lai khi Quán Âm thành Phật sẽ thế vào chỗ của Phật
A Di Đà." Theo đó đủ rõ đó là Báo Độ vậy [bởi Quán Âm là chân
pháp thân Đại Sĩ hiện ra thành Phật tức Báo Thân vậy.]
VI. Môn Thứ Tám
Môn thứ tám là nói về việc Di Đà Phật Quốc bao gồm mọi căn tính
trên dưới, phàm thánh đều cùng vãng sinh. Nay tuy Vô Lượng Thọ
Quốc là Báo Tịnh Độ, song do nguyện lực của Phật nên bao gồm
cả các căn cao và thấp, đến mức hàng phàm phu làm thiện thôi
cũng đều được vãng sinh. Mà do gồm cả căn cơ cao, thế nên Thiên
Thân, Long Thụ, cùng các hàng địa thượng Bồ Tát cũng đều vãng
sinh. Thế nên Đại Kinh có nói: "Bồ Tát Di Lặc hỏi Phật: Chưa rõ
ở cõi này có bao nhiêu Bồ Tát bất thối được sinh về nước kia?
Phật bảo: Ở thế giới Sa Bà này có sáu mươí bảy ức Bồ Tát bất
thối đều sẽ vãng sinh [về nước kia.]" Ngoài ra các phương khác số
Bồ Tát vãng sinh cũng bằng như vậy.
Hỏi: Di Đà Tịnh quốc đã nói là địa vị bao gồm luôn cả trên và
dưới, bất kể phàm hay thánh đều cùng được vãng sinh. Song chưa
rõ là chỉ duy tu vô tướng mới được vãng sinh, hay ngay cả phàm
phu hữu tướng cũng được vãng sinh?
Đáp: Phàm phu trí cạn nên phần nhiều phải y theo tướng mà cầu
sinh, thì chắc chắn cũng được vãng sinh. Song do thiện mà y theo
tướng thì lực vốn nhỏ ít [so với lực thiện dựa trên vô tướng], nên
chỉ sinh vào Tướng Độ, tức chỉ thấy Báo Hóa Phật mà thôi. Thế
nên Bồ Tát Bổn Hành Phẩm trong Quán Phật Tam Muội Kinh có
nói: "Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Phải biết là con nhớ đến vô
lượng số kiếp trong quá khứ, khi còn là phàm phu, thuở ấy có Phật
hiệu Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai. Khi Phật ấy xuất hiện
không khác gì với hiện giờ, Phật ấy cũng cao trượng sáu, thân
mầu vàng kim, nói Pháp ba thừa, như Thích Ca Văn. Thời ấy nước
nọ có vị đại trưởng giả tên là Nhất Thiết Thí. Trưởng giả có người
con tên là Giới Hộ. Khi con còn trong thai mẹ, mẹ do kính tin
[Tam Bảo] nên đã thọ tam quy y trước cho con mình. Con sinh ra
đến năm tám tuổi, cha mẹ thỉnh Phật về nhà cúng dường. Đứa bé
thấy Phật, khi làm lễ Phật, tâm hết sức kính Phật, mắt nhìn không
rời. Do một phen thấy Phật như thế mà giảm bớt trăm vạn ức na
do tha kiếp tội sinh tử. Từ đó trở đi thường sinh về Tịnh Độ, nên
được gặp chư Phật nhiều bằng trăm ức na do tha lần số cát sông
- 11 -
Hằng. Các Thế Tôn này cũng dùng tướng đẹp độ thoát chúng sinh.
Đứa bé thuở ấy thân cận hầu hạ từng vị Phật một không hề bỏ lỡ,
lễ bái, cúng dường, chắp tay ngắm Phật. Do lực nhân duyên nên
lại được gặp trăm vạn lần vô số chư Phật. Các chư Phật này cũng
dùng sắc thân tướng đẹp hóa độ chúng sinh. Từ đó trở đi liền đắc
được trăm ngàn ức môn Niệm Phật tam muội, lại đắc được vô số
môn đà la ni. Đắc được các pháp như thế rồi, chư Phật mới hiện
ra trước mặt mà thuyết Pháp vô tướng cho nghe. Trong khoảng
chốc lát liền đắc được Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Đứa bé khi ấy
chỉ do có thọ tam quy, một phen lạy Phật, mê ngắm thân Phật, tâm
không mỏi mệt, mà do nhân duyên ấy gặp vô số Phật, thì huống gì
là gom hết tâm niệm, suy xét trọn vẹn, quán sắc thân Phật. Đứa bé
thuở ấy nào phải ai khác, chính là thân con vậy.
"Khi ấy Thế Tôn ca ngợi Văn Thù rằng: Hay thay, hay thay! Ông
do một lần lễ Phật mà được gặp vô số chư Phật, huống gì các đệ
tử trong vị lai của ta chăm chỉ quán Phật, chăm chỉ niệm Phật.
"Phật bảo A Nan: Ông ghi nhớ lấy lời của Văn Thù mà tuyên cáo
khắp hết cho đại chúng và chúng sinh đời vị lai, nếu có ai lạy
Phật, nếu có ai niệm Phật, nếu có ai quán Phật, phải biết là các
người ấy bằng ngang với Văn Thù Sư Lợi không chút sai khác. Khi
xả thân sinh đời khác, các Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi sẽ làm hòa
thượng của họ." Theo đoạn Kinh này làm chứng, thời thấy rõ Tịnh
Độ gồm luôn cả việc vãng sinh thuộc Tướng Độ [của phàm phu
hữu tướng,] điều này không còn nghi gì nữa.
Còn nếu biết vô tướng tuy lìa khỏi niệm làm thể [của sự tu hành,]
song vẫn ở trong duyên mà cầu sinh, thì phần nhiều phải là hàng
thượng phẩm sinh. Thế nên Luận của Thiên Thân Bồ Tát có nói:
"Nếu quán được hai mươi chín thứ trang nghiêm thanh tịnh, tức
tóm lược lại nhập vào một câu Pháp. Một câu Pháp này là câu
Thanh Tịnh. Một câu Thanh Tịnh này chính là trí huệ vô vi Pháp
Thân vậy." Tại sao lại cần phải quán rộng và quán lược nhập vào
nhau như vậy? Chỉ vì chư Phật và Bồ Tát có đến hai loại Pháp
Thân: Một là pháp tính Pháp Thân, hai là phương tiện Pháp Thân.
Do từ pháp tính Pháp Thân mà sinh ra phương tiện Pháp Thân, lại
từ phương tiện Pháp Thân mà hiển ra pháp tính Pháp Thân. Hai
loại Pháp Thân này khác nhau mà không phân hai được, là một mà
vẫn không đồng nhất. Hai mươi chín thứ trang nghiêm thanh tịnh,
tức hữu tướng, là nói rộng, tóm gom lại thành một Pháp duy nhất,
là Pháp thanh tịnh, tức là Pháp Thân vô vi thuộc trí huệ vậy. Vô vi
- 12 -
Pháp Thân này tức pháp tính Thân, do pháp tính tịch diệt nên tức
là Pháp Thân vô tướng vậy. Do Pháp Thân vô tướng nên không gì
lại không phải là tướng, thế nên tướng hảo trang nghiêm tức là
Pháp Thân vậy. Cũng như do Pháp Thân vô tri nên không gì không
biết, thế nên Trí biết tất cả tức là chân thật Trí huệ vậy. Do đó nói
rộng [tức hữu tướng] nhập vào nói lược [tức vô tướng], như thế
gọi là "quảng lược tương nhập", [nghĩa là rộng và lược hòa nhập
vào nhau.] Tuy biết rằng theo duyên mà quán thì có tổng quán và
biệt quán [khác nhau], song cả hai không thứ nào không phải là
thật tướng. Do biết được thật tướng, nên biết được tướng hư vọng
của chúng sinh ba cõi. Do biết tướng hư vọng của chúng sinh ba
cõi nên khởi lên chân thực từ bi. Do biết được chân thực từ bi, nên
khởi lên được chân thực quy y vậy.
Hành giả ngày nay bất kể là tăng hay tục chỉ cần biết được sinh và
vô sinh không hề mâu thuẫn với hai Đế, thì phần đông đều sinh
vào hàng thượng phẩm.
VII. Môn Thứ Chín
Môn thứ chín là nói về việc Di Đà Tịnh Độ thuộc về hay không
thuộc về ba cõi luân hồi.
Hỏi: An Lạc quốc độ ở trong ba cõi là thuộc về cõi nào?
Đáp: Tịnh Độ vi diệu siêu việt, thể tính vượt ra khỏi thế gian.
Trong khi ba cõi thật chỉ là căn nhà tối ám của phàm phu sinh tử.
Tuy [thế gian này] cũng có sướng khổ khác nhau đôi chút, cũng có
[tuổi thọ] dài ngắn chẳng đồng, song tổng quát lại mà xét, thì
không cái gì [của thế gian này mà lại] không phải là bến về của
hữu lậu. [Các pháp thế gian] nương tựa cậy nhờ vào nhau mà tuần
hoàn vô cùng tận. Sinh ra hỗn tạp chung đụng cảm thọ, là cả một
dòng điên đảo bốn thứ chạy dài, từ nhân đến quả đều giả dối huân
tạp lẫn nhau. Thật là đáng chán ngán hết sức vậy! Thế nên Tịnh
Độ không hề thuộc về ba cõi.
Lại y theo Trí Độ Luận có nói: "Do quả báo Tịnh Độ không có
dục, nên không phải là cõi Dục. Do sống trên mặt đất nên không
phải là cõi Sắc. Do có hình tướng nên không phải cõi Vô Sắc."
Tuy nói là sống trên mặt đất, song [mặt đất đây] rất là tinh vi siêu
thắng, vi diệu không cùng. Thế nên Thiên Thân Luận có nói:
"Quán tướng thế giới ấy, hơn hẳn đường ba cõi, cùng tột như hư
không, rộng lớn không bờ bến." Cũng thế nên bài tán Đại Kinh ca
ngợi như sau: "Diệu Độ rộng lớn ngoài số hạn; bảy báu tự nhiên
- 13 -
kết hợp thành; Phật bổn nguyện lực khởi trang nghiêm; khể thủ
thanh tịnh đại nhiếp thọ. Thế giới sáng rực đẹp tuyệt diệu; thích
thú lạc an không bốn thời; tự lợi lợi tha lực viên mãn; quy mệnh
phương tiện xảo trang nghiêm."
Đại môn thứ hai
Trong đại môn thứ hai này có đến ba phen cân nhắc phán định:
I. Nói về phát Bồ Đề Tâm.
II. Phá dị kiến tà chấp.
III. Cho mặc tình hỏi đáp, giải thích dẹp nghi tình.
I. Phát Bồ Đề Tâm Trong phần phát Bồ Đề tâm này lại có bốn phen phân loại:
1. Nói lên công dụng của Bồ Đề Tâm.
2. Nói lên danh và thể của Bồ Đề Tâm.
3. Nêu rõ việc phát tâm có khác với các giáo khác.
4. Hỏi đáp giải thích.
1. Công dụng của Bồ Đề Tâm
Thứ nhất là đưa ra công dụng của Bồ Đề tâm: Đại Kinh có nói:
"Hễ muốn vãng sinh Tịnh Độ thì cần phải phát tâm Bồ Đề làm đầu
nguồn."
Thế nào là tâm Bồ Đề này? Đó chính là tên gọi của Phật Đạo vô
thượng. Nếu muốn phát tâm làm Phật, [thì phải biết là:] (1) tâm
này rộng lớn bao trùm pháp giới, (2) tâm này cứu cánh bằng như
hư không, (3) tâm này dài lâu tận cùng vị lai, (4) tâm này có đủ sẵn
hết [mọi công đức] lìa hai thừa chướng. Nếu mà một phen phát
được tâm này, sẽ làm đảo lộn dòng sinh tử "hữu". Công đức có
được mà hồi hướng Bồ Đề, thì đều đến được quả Phật dù là lâu sau
này, chứ không hề bao giờ lại bị diệt mất đi.
2. Tên và thể của Bồ Đề Tâm
Thứ hai là đưa ra danh và thể của Bồ Đề. Bồ Đề có ba loại [theo ba
tên như sau:] (1) Pháp Thân Bồ Đề, (2) Báo Thân Bồ Đề, và (3)
Hóa Thân Bồ Đề.
[Thể của] Pháp Thân Bồ Đề là chân như thật tướng, đệ nhất nghĩa
Không. [Chân như thật tướng, đệ nhất nghĩa Không này] vốn là tự
tính thanh tịnh [của tất cả các pháp], [là bản] thể [vốn] không có uế
nhiễm [của tất cả các pháp], [là nguyên] lý xuất phát tự thiên nhiên
như thế, không cần phải mượn vào tu hành để mà tạo thành. Gọi
- 14 -
chung lại là Pháp Thân, [Pháp Thân này] là bổn thể của Phật Đạo
nên gọi là Bồ Đề.
[Thể của] Báo Thân Bồ Đề là [do] tu đầy đủ hết vạn hành mà cảm
được quả Báo Phật. Do quả ấy báo đáp lại với nhân nên gọi là Báo
Thân, [Báo Thân này] viên thông vô ngại nên gọi là Bồ Đề.
[Thể của] Hóa Thân Bồ Đề là từ Báo Thân khởi lên tác dụng
hướng đến ngàn vạn căn cơ [để đáp ứng mà thực hành hóa độ] gọi
là Hóa Thân, [Hóa Thân này] viên thông khắp nơi lợi ích vạn vật
nên gọi là Bồ Đề.
3. Phát tâm có khác
Thứ ba là hiển rõ ra việc phát tâm có khác nhau: Nghĩa là việc tu
nhân phát tâm [Bồ Đề] của hành giả hiện đây có đủ ba loại nhân
như sau: (1) Cần phải thấu rõ có và không có từ xưa đến nay tự
tính [vốn] thanh tịnh. (2) Theo duyên mà tu vạn hành, như tám vạn
bốn ngàn môn Ba la mật v.v... (3) Căn bổn là đại Từ Bi, luôn nghĩ
cách cứu độ [chúng sinh] là tâm nguyện. Ba nhân này tương ưng
với đại Bồ Đề, nên được gọi là phát Bồ Đề Tâm.
Lại căn cứ theo Tịnh Độ Luận có nói: "Nay nói phát Bồ Đề Tâm
tức chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật tức là
tâm độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh tức là tâm nhiếp thủ chúng
sinh sinh vào quốc độ có Phật." Nay đã nguyện sinh Tịnh Độ thì
trước hết phải phát Bồ Đề Tâm vậy.
4. Hỏi đáp giải thích
Thứ tư là hỏi đáp và giải thích.
Hỏi: Nếu tu đủ vạn hành cảm được Bồ Đề đắc thành Phật, tại sao
Chư Pháp Vô Hành Kinh lại nói rằng: "Nếu ai cầu Bồ Đề, tức
không có Bồ Đề, người ấy xa Bồ Đề, y như trời với đất!"?
Đáp: Chính thể của Bồ Đề theo lý mà cầu, thì vốn là vô tướng, nay
theo tướng cầu nên không đúng lý thật, nên mới gọi người ấy là xa
vời. Nên Kinh có nói: "Bồ Đề ấy không thể dùng tâm mà đắc, cũng
không thể dùng thân mà đắc." Nay ở đây có nghĩa là hành giả tuy
biết tu hành cầu vãng sinh, rành rành biết rõ [trên phương diện] lý
thể vốn không có cầu, song vẫn không hoại "giả danh" [mà cầu],
thế nên tu đủ vạn hành, nhờ vậy mà cảm được Bồ Đề.
Thế nên Đại Trí Độ Luận mới nói: "Nếu ai thấy Bát nhã, người ấy
bị trói cột, ai không thấy Bát nhã cũng vẫn bị trói cột. Nếu ai thấy
Bát nhã thì ấy là giải thoát, ai không thấy Bát nhã cũng là giải
thoát thôi." Long Thụ Bồ Tát giải thích như sau: "Trong nghĩa ấy,
nếu ai không lìa khỏi bốn câu thời người ấy bị trói cột, còn ai lìa
- 15 -
khỏi bốn câu thì người ấy được cởi thoát." Nay cầu Bồ Đề chỉ cần
tu hành như thế, tức là không hành mà hành, hành mà không hành,
không mâu thuẫn với đại đạo lý của hai Đế vậy.
Lại y theo Thiên Thân Tịnh Độ Luận có nói: "Hễ ai muốn phát
tâm thấu tỏ vô thượng Bồ Đề thời sẽ có hai nghĩa: (1) Trước hết
cần phải lìa ba loại pháp mâu thuẫn với cửa Bồ Đề, (2) hai là phải
biết ba loại pháp thuận với cửa Bồ Đề.
"Thế nào là ba? (1) Một là y theo cửa Trí Huệ, tức không cầu
sướng cho riêng mình, bởi [Trí Huệ này] lìa xa tâm [chấp] ngã,
tham đắm vào chính thân mình. (2) Hai là y vào cửa Từ Bi, tức
nhổ hết tất cả các khổ cho chúng sinh, do [Từ Bi này] lìa xa tâm
không làm cho chúng sinh được an lạc. (3) Ba là y theo cửa
Phương Tiện, tức là tâm thương xót tất cả chúng sinh, do bởi
[Phương Tiện này] lìa xa tâm [ham thích] cúng dường cung kính
cho bản thân mình vậy. Như thế gọi là lìa xa ba loại pháp mâu
thuẫn với cửa Bồ Đề.
"Còn thuận theo cửa Bồ Đề là Bồ Tát lìa xa ba loại pháp mâu
thuẫn với cửa Bồ Đề như thế rồi, thời sẽ đắc được ba loại pháp tùy
thuận với cửa Bồ Đề. Thế nào là ba?
"(1) Một là tâm thanh tịnh vô nhiễm, do vì [tâm y theo cửa Trí Huệ
nên] không cầu các sướng cho chính thân mình nữa." Bồ Đề là
chỗ thanh tịnh vô nhiễm, nếu cầu sướng cho bản thân mình tức đi
ngược lại với cửa Bồ Đề, thế nên tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận
theo cửa Bồ Đề.
"(2) Hai là tâm thanh tịnh an, do vì [tâm y theo cửa Từ Bi nên]
muốn nhổ hết tất cả khổ đau cho chúng sinh vậy." Bồ Đề là chỗ
thanh tịnh làm cho tất cả chúng sinh đều được an ổn, nếu không
phát tâm kéo hết tất cả chúng sinh lìa khỏi sinh tử khổ, thì sẽ đi
ngược lại với Bồ Đề, thế nên nhổ hết các khổ cho tất cả chúng sinh
là thuận với cửa Bồ Đề.
"(3) Ba là tâm thanh tịnh lạc, do vì [tâm y theo cửa Phương Tiện
nên] muốn khiến cho tất cả chúng sinh đắc đại Bồ Đề, muốn nhiếp
trọn chúng sinh cho sinh về cõi nước kia vậy." Bồ Đề là chỗ cứu
cánh thường an lạc, nếu không làm cho tất cả chúng sinh được
cứu cánh thường an lạc ắt sẽ đi ngược lại với cửa Bồ Đề. Cái an
lạc cứu cánh thường hằng này y theo đâu mà đắc được? Phải y
theo cửa đại nghĩa. Cửa đại nghĩa này chính là cõi Phật An Lạc
kia vậy. Thế nên khiến nhất tâm chuyên nhất nguyện sinh cõi nước
kia là muốn cho mau chứng vô thượng Bồ Đề vậy."
- 16 -
II. Phá dị kiến tà chấp
Thứ hai là nói về việc phá các dị kiến tà chấp. Trong phần này có
đến chín phen phân phán biện định:
1. Thứ nhất là phá dị kiến thiên chấp vào vô tướng trong Đại
Thừa.
2. Thứ hai là giải tỏa các nghi vấn về ái kiến đại bi của Bồ Tát.
3. Thứ ba là phá chuyên tâm quán rằng ngoài tâm không có pháp.
4. Thứ bốn là phá nguyện sinh uế quốc không nguyện vãng sinh
Tịnh Quốc.
5. Thứ năm là phá quan điểm cho rằng nếu sinh về Tịnh Độ phần
nhiều sẽ ham đắm vào hưởng lạc.
6. Thứ sáu là phá quan điểm cho rằng cầu sinh về Tịnh Độ là tiểu
thừa.
7. Thứ bảy là phá quan điểm cầu sinh Đâu Suất chứ không
khuyến khích sinh Tịnh Độ.
8. Thứ tám là giải tỏa khúc mắc nếu cầu sinh về mười phương
Tịnh Độ không bằng sinh về tây phương Tịnh Độ.
9. Thứ chín là phán xét về ý nghĩa "vào một lúc khác" [tức "biệt
thời ý".]
1. Phá vọng chấp về vô tướng trong Đại Thừa
Thứ nhất là phá vọng chấp về vô tướng trong [giáo lý của] Đại
Thừa. Tựu trung gồm hai phần: (1) Đưa ra vấn đề một cách tổng
quát: muốn khiến cho kẻ học đời sau thấu rõ được phải trái, bỏ tà
hướng chính. (2) Chiếu theo mọi chỗ tình chấp rồi hiển chỗ chính
ra để mà phá đi tình chấp.
1) Thứ nhất là vấn đề tổng quát: Trong tạng Đại Thừa thâm sâu,
danh nghĩa nhiều như cát bụi, thế nên Niết Bàn Kinh có nói: "Một
danh có vô lượng nghĩa, một nghĩa có vô lượng danh." Do đó cần
phải cứu xét hết mọi kinh điển thì mới sáng tỏ được ý chỉ của các
kinh, không phải như kinh sách của tiểu thừa cứ chiếu theo văn là
thấu nghĩa. Với ý gì mà nói như vậy? Do bởi Tịnh Độ thẳm sâu,
Kinh Luận thì ẩn hiển, đến nỗi phàm tình đủ thứ lượng độ, e sẽ lạc
theo lời lẽ dối gạt mà thành trăm thứ mù mịt chấp lệch, rối loạn
không tỏ, làm chướng ngại vãng sinh. Nay chỉ nêu ra vài trường
hợp để theo đó mà phá.
2) Thứ hai phá tình chấp, thì trước hết là phá vọng chấp về vô
tướng trong Đại Thừa:
- 17 -
Hỏi: Như có người cho rằng nghĩa vô tướng của Đại Thừa là đừng
niệm đây kia. Nếu nguyện sinh Tịnh Độ thời chính là giữ lấy
tướng, càng làm tăng thêm sự trói buộc thuộc hữu lậu, thì cầu sinh
mà làm chi?
Đáp: Quan niệm như thế, xin nói là không được chuẩn lắm. Vì
sao? Tất cả chư Phật khi nói về pháp yếu đều có đủ hai duyên: (1)
một là y thật lý thuộc Pháp tính, (2) hai là phải thuận theo hai Đế.
Người kia chấp vào vô niệm của Đại Thừa, chỉ y theo Pháp tính,
song lại bài báng sự cầu sinh vốn thuộc về nhân duyên, thì như thế
tức là không thuận theo hai Đế. Người thấy như thế là đọa vào
hạng diệt không. Thế nên Vô Thượng Y Kinh mới nói: "Tất cả
chúng sinh mà khởi ngã kiến như núi Tu Di ta cũng không sợ. Tại
sao vậy? Vì các người ấy tuy chưa được xuất ra [khỏi luân hồi]
ngay, song họ luôn không hoại nhân quả, không mất quả báo. Còn
như khởi lên cái thấy Không dù chừng như hạt cải, ta không bao
giờ chịu chấp nhận. Tại sao vậy? Cái thấy ấy phá mất [đi lý] nhân
quả, phần nhiều là đọa ác đạo, vị lai sinh ra nơi đâu cũng đều
chối bỏ không chịu ta hóa độ." Nay xin khuyên các hành giả, lý
tuy là vô sinh, song theo đạo lý của hai Đế thì không phải là không
có cầu [sinh] theo nguyên tắc nhân duyên... tất cả đều được vãng
sinh vậy (câu này dường như lạc lõng, chắc do văn bị sót mất mà
ra.) Thế nên Duy Ma Kinh có nói: "Tuy quán chư Phật Quốc, cùng
chúng sinh đều Không, song thường tu Tịnh Độ, giáo hóa các
quần sinh." Kinh ấy còn nói: "Tuy thực hành vô tác song vẫn thị
hiện thọ thân, đó là sự thực hành của Bồ Tát. Tuy thực hành vô
khởi song vẫn khởi lên tất cả các sự thực hành thiện, đó là sự thực
hành của Bồ Tát vậy." Đó là những chứng cớ rõ ràng nhất.
Hỏi: Nay trong thế gian có người thực hành lý vô tướng của Đại
Thừa, họ cũng chẳng giữ đây kia, hoàn toàn không giữ gìn giới
tướng. Sự việc ấy như thế nào?
Đáp: Quan niệm như thế, thật là hết sức tai hại! Tại sao vậy? Như
Đại Phương Kinh có nói: "Phật đặt ra giới cho Ưu Bà Tắc không
cho phép đến nhà quả phụ, gái tơ, hàng quán rượu, hàng thợ
nhuộm, hàng ép dầu, hàng thuộc da, mọi hàng quán ấy đều không
được lai vãng.
"A Nan bạch Phật rằng: Thế Tôn vì những người loại nào mà đặt
ra các giới như vậy?
"Phật bảo A Nan: Hành giả có hai loại. Một là thực hành ngay tại
thế gian, hai là thực hành ra khỏi thế gian. Đối với người thực
- 18 -
hành ra khỏi thế gian, ta không đặt các giới ấy cho họ làm chi.
Song với người thực hành tại thế gian, thời nay ta mới đặt ra. Tại
sao vậy? Tất cả chúng sinh đều là con của ta, Phật là cha mẹ của
tất cả chúng sinh. Ngăn chặn câu thúc là để cho họ sớm ra khỏi
thế gian mà đắc được Niết bàn vậy."
2. Giải tỏa vấn đề ái kiến đại bi của Bồ Tát
Thứ hai là giải tỏa nghi vấn về ái kiến Đại Bi của Bồ Tát:
Hỏi: Theo như thánh giáo của Đại Thừa, Bồ Tát đối với chúng
sinh nếu lại khởi lên đại bi thuộc về ái kiến, thì phải tức thời xả bỏ
ngay. Nay khuyên chúng sinh cầu sinh về Tịnh Độ, thì đó không
phải là ái nhiễm chấp tướng hay sao, làm sao tránh khỏi trần lụy?
Đáp: Pháp mà Bồ Tát thực hành có hai công dụng. Hai công dụng
nào? Một là chứng Bát Nhã thuộc Không huệ, hai là đủ trọn Đại
Bi.
Một do lực tu không huệ Bát Nhã nên tuy nhập vào sáu đường sinh
tử mà không bị trần nhiễm trói buộc. Hai do Đại Bi tưởng đến
chúng sinh nên không trụ vào Niết bàn. Bồ Tát tuy ở [một lúc] cả
hai Đế, song thường vi diệu xả cả có không, lấy bỏ, [nhờ đó] đắc
được Trung [đạo], nên không trái gì với đại Đạo lý vậy. Thế nên
Duy Ma Kinh có nói: "Ví như có người muốn xây dựng nhà cửa
nơi khoảng đất trống, thì cứ tùy theo ý mình mà xây không gì trở
ngại. Nếu lại ở trong không mà xây, thì rồi ra sẽ không thể nào
xây lên nổi. Bồ Tát cũng như vậy, vì muốn thành tựu chúng sinh
nên mới nguyện [đảm nhận] lấy Phật quốc. Nguyện [đảm nhận]
lấy Phật quốc, thời không phải ở nơi không [mà nhận lấy Phật
quốc được] vậy."
3. Phá ngoài tâm không có pháp.
Thứ ba là phá chuyên tâm quán bên ngoài không có pháp nào hết.
Tựu trung gồm hai phần: (1) Phá quan điểm thuộc tình chấp, (2)
hỏi đáp để giải thích.
1) Hỏi: Có người cho rằng cảnh tịnh mà chúng ta quán ấy là chiếu
theo nội tâm [mà xác định là có cảnh, thế nên cảnh giới] Tịnh Độ
dung thông chẳng qua chính là do tâm chúng ta tịnh mà thôi.
Ngoài tâm ấy ra chẳng có pháp gì, thì cần chi phải thể nhập về cõi
Tây?
Đáp: Nếu chỉ nói về Pháp Tính Tịnh Độ mà thôi, thời trên mặt lý
vốn không hư dung khắp, nơi bản thể lại không hề thiên tư cục
- 19 -
hạn. Với cõi đó thời chính là cái sinh của không sinh, phải là bậc
thượng sĩ mới thể nhập vào nổi. Thế nên Vô Tự Bảo Khiếp Kinh
có nói: "Thiện nam tử, lại có một pháp là pháp Phật giác. Đó là
các pháp không đi không lại, không nhân không duyên, không sinh
không diệt, không tư không không tư, không tăng không giảm."
[Nói rồi] Phật bảo La Hầu La: Ông nay có thọ trì cái ý nghĩa của
chính pháp do ta vừa nói đó không?
"Lúc ấy có chín ức Bồ Tát trong khắp mười phương liền bạch Phật
rằng: Chúng con đều có thể trì giữ được pháp môn này, và sẽ vì
chúng sinh mà lưu thông pháp môn ấy đến không cùng.
"Thế Tôn đáp rằng: Các thiện nam tử này như thế là đưa hai vai ra
mà gánh vác lấy Bồ Đề. Các vị ấy sẽ được biện tài không dứt, sẽ
khéo thanh tịnh được [thế giới của riêng mình để trở thành] thế
giới chư Phật. Vào lúc mạng chung sẽ được thấy rõ A Di Đà Phật
và chư thánh chúng hiện ngay trước mặt, tức được vãng sinh vậy."
[Đó là sự vãng sinh của các hàng thượng sĩ.] Song vốn còn có các
hàng căn tính trung và hạ chưa thể phá tướng được, nên cần phải y
theo nhân duyên tin Phật mà cầu sinh Tịnh Độ. Tuy đến cõi nước
kia rồi song vẫn còn ở nơi Tướng Độ.
Lại xin nói thêm rằng: Nếu gom hết duyên lại để quy theo gốc,
thời ngoài tâm quả thật không có pháp. Song nếu phân hai Đế ra
để nói rõ về nghĩa, thời Tịnh Độ là pháp ngoài tâm hoàn toàn
không có gì trở ngại.
2) Hai là hỏi đáp để giải thích. Hỏi: Ở trên có nói là cái lý "sinh
thuộc không sinh" thì chỉ có các bậc thượng sĩ mới có thể thể nhập
được, còn hàng trung và hạ thì không kham nổi. Nói như thế là do
căn cứ thẳng nơi người rồi chiếu theo pháp mà phán, hay là cũng
có thánh giáo nào đó làm chứng cho chăng?
Đáp: Y theo Luận Trí Độ có nói: "Bồ Tát khi vừa mới phát tâm
[Bồ Đề], căn cơ và kiến giải còn yếu ớt, nên tuy nói là phát tâm
song phần nhiều là nguyện sinh Tịnh Độ. Như thế là ý nghĩa gì
vậy? Ví như con trẻ nếu chẳng ở gần cha mẹ nuôi dưỡng, thì hoặc
sẽ ngã xuống hố rơi vào giếng, gặp rắn gặp lửa các nạn, hoặc do
thiếu sữa mà chết. Nên cần phải nhờ nơi cha mẹ tắm rửa chăm
nuôi mới có thể lớn khôn mà tiếp nối gia nghiệp. Bồ Tát cũng vậy,
nếu đã có thể phát Bồ Đề tâm, thì phần nhiều nguyện sinh Tịnh Độ
để gần gũi chư Phật, tăng trưởng Pháp thân, thì mới có thể tiếp
nối gánh vác gia nghiệp của Bồ Tát được, mà ra công cứu tế khắp
mười phương. Vì ích lợi ấy nên phần nhiều là nguyện sinh vậy."
- 20 -
Luận ấy lại nói: "Ví như chim con lông cánh chưa thành, thì không
thể nào ép buộc bay lên cao được. Trước hết phải nương theo
rừng, truyền theo cây. Khi lông cánh đã đủ, sức lực có thừa, thì
mới có thể lìa rừng mà dạo bay trong không. Bồ Tát vừa phát tâm
cũng vậy, trước hết cần phải theo nguyện mà cầu sinh về trước
Phật. Pháp thân trưởng thành rồi thì mới tùy theo cơ cảm mà tìm
đến làm lợi ích."
Lại như A Nan bạch Phật: "Vô Tướng Ba la mật này được nói ở
chỗ nào?" Phật nói: "Pháp môn như thế được nói trong tầng bậc A
tì bạt chí. Tại sao vậy? Có các Bồ Tát vừa phát tâm mà nghe môn
Vô Tướng Ba la mật này, thời bao nhiêu thiện căn thanh tịnh mà
họ có được sẽ tiêu tán mất hết."
Lại chỉ cần đến được nước kia thì mọi sự đều trọn thành, thì việc
gì cứ phải tranh cãi mãi cái lý nông sâu này mà làm gì!
4. Phá quan điểm nguyện sinh uế độ chứ không nguyện sinh Tịnh
Độ
Thứ tư là phá quan điểm nguyện sinh uế độ giáo hóa chúng sinh,
chứ không nguyện sinh Tịnh Độ:
Hỏi: Hoặc có người cho rằng nguyện sinh uế độ để giáo hóa chúng
sinh, chứ không nguyện vãng sinh Tịnh Độ. Vấn đề ấy là thế nào?
Đáp: Các hạng người này [không phải là ít, mà] cũng có cả một
giới với nhau vậy. Đó là hạng người nào? Nếu là các bậc thân ở
[vào địa vị] từ [tầng bậc] không còn thối chuyển nữa trở lên, thì vì
để giáo hóa các chúng sinh tạp ác, thời mới có thể ở trong nhiễm
mà không nhiễm, hội ngộ ác mà không biến đổi, như vịt ngỗng vào
nước mà nước không làm ướt được. Các người như thế mới có thể
ở trong uế độ mà cứu khổ được.
Còn nếu vốn thật là phàm phu, thì chỉ e là tự mình thực hành còn
chưa xong, gặp khổ là biến chuyển, muốn cứu chúng kia [trong uế
độ], mà rồi cùng nhau chìm lỉm, như bắt gà mà cho vào nước thì
không ướt làm sao được. Thế nên Trí Độ Luận có nói: "Nếu phàm
phu phát tâm mà tức thì nguyện tại uế độ cứu tế chúng sinh, thì
thánh ý không chấp nhận như vậy." Như thế là nghĩa thế nào?
Long Thụ Bồ Tát giải thích: "Như một khối băng vuông vức bốn
mươi dặm, một người lấy một thăng nước sôi đổ lên đó. Thoạt đầu
dường như băng có giảm bớt, nhưng qua đêm cho đến sáng thì chỗ
ấy băng đóng còn nhô cao hơn các chỗ khác. Phàm phu ở [uế độ]
đây mà phát tâm cứu khổ cũng y như vậy, do cảnh giới nghịch
- 21 -
thuận khơi dậy tham sân quá nhiều, thế nên tự khởi phiền não mà
lại thành đọa ác đạo vậy."
5. Phá quan điểm cho rằng sinh Tịnh độ sẽ đắm vào lạc
Thứ năm là phá quan điểm cho rằng nếu sinh Tịnh Độ thì vì nhiều
vui nên sẽ đắm vào hưởng lạc:
Hỏi: Hoặc có người cho rằng ở trong Tịnh Độ chỉ có hưởng lạc,
vui nhiều nên đắm vào hưởng lạc, làm trở ngại, bỏ bê việc tu Đạo,
thì cần gì phải nguyện vãng sinh vậy?
Đáp: Đã nói là Tịnh Độ thì có đâu ra các uế nữa. Nếu bảo [ở Tịnh
Độ mà] tham đắm các lạc, thì thành ra là phiền não tham ái rồi,
còn gì là Tịnh nữa. Thế nên Đại Kinh mới nói: "Người trời ở nước
kia qua lại, tiến dừng, không chút trói buộc trong tình [thức]." Lại
Nguyện thứ bốn mươi tám có nói: "Người trời ở mười phương mà
khi đến nước ta rồi, nếu còn khởi tưởng niệm tham chấp vào thân,
thời ta không chịu nhận lấy chính giác." Đại Kinh lại nói: "Người
trời ở nước kia [đối với mình] không có gì là thân hay sơ hết." thì
lẽ nào lại có chuyện đắm vào lạc được.
6. Phá quan điểm cho rằng sinh Tịnh Độ là tiểu thừa
Thứ sáu là phá quan điểm cầu sinh Tịnh Độ tức là tiểu thừa:
Hỏi: Hoặc có người cho rằng cầu sinh Tịnh Độ chính là tiểu thừa
vậy, thì cần gì phải tu Tịnh Độ nữa?
Đáp: Nói thế không chuẩn tí nào. Tại sao vậy? Bởi vì giáo lý tiểu
thừa hoàn toàn không hề nói gì về Tịnh Độ hết.
7. Giải tỏa nghi vấn nguyện sinh Đâu Suất, không về Tịnh Độ.
Thứ bảy là giải tỏa nghi vấn nguyện sinh Đâu Suất chứ không
khuyên quy về Tịnh Độ:
Hỏi: Hoặc có người cho rằng nguyện sinh Đâu Suất chứ không
nguyện quay về Tây. Vấn đề ấy ra sao?
Đáp: Ý nghĩa ấy không được chuẩn. [Thoạt nghe mà so sánh thời
sinh về hai nơi ấy] dường như cũng có ít phần giống nhau, song
nếu căn cứ nơi bản thể [của sự việc mà xét] thì khác nhau rất xa.
Có bốn điểm không được hoàn thiện lắm [nếu nguyện sinh về Đâu
Suất chứ không sinh Tịnh Độ.] Đó là những điểm nào?
(1) Di Lặc Thế Tôn vì các thiên chúng ở đó mà chuyển Pháp Luân
bất thối. Người nào nghe Pháp mà sinh lòng tin thì được lợi ích.
[Điểm này nếu so với người sinh về Tịnh Độ thì có thể] gọi là tín
- 22 -
đồng. Song số người đam mê hưởng lạc không tin Pháp không
phải là ít. Lại những người ấy tuy sinh Đâu Suất, song địa vị vẫn
còn ở chỗ thối thất, thế nên Kinh mới nói: "Ba cõi không yên y
như nhà lửa."
(2) Vãng sinh về Đâu Suất tuổi thọ có được chính thức [chỉ] là bốn
ngàn năm. [Lại nữa] sau khi mạng chung không tránh khỏi phải
thối đọa.
(3) Trên trời Đâu Suất tuy cũng có nước, chim, cây rừng, hòa reo
êm ái, song đó chỉ là duyên cho chư thiên sinh hoan lạc, thuận theo
năm dục chứ không trợ cho Thánh Đạo.
Trong khi nếu hướng về Di Đà lạc quốc mà một phen được sinh
rồi, thì đều là A tì bạt chí, [tức bậc không còn thối chuyển nữa,] và
sẽ không bao giờ còn ở chung với hạng người còn thối chuyển
nữa. Lại nữa địa vị khi ấy chính là vô lậu, vượt ra khỏi ba cõi,
không còn luân hồi nữa. Nói đến tuổi thọ thì lâu dài bằng ngang
với Phật, chẳng phải toán số có thể biết được. Còn chim, nước, cây
rừng, thì đều nói pháp được, khiến người [nghe] sinh ngộ giải mà
chứng hiểu lý vô sinh.
(4) Căn cứ theo Đại Kinh, thì cứ lấy riêng phần âm nhạc ra để mà
so sánh [giữa Tịnh Độ và các cõi trời thì cũng sẽ thấy.] Trong bài
tán Kinh ca ngợi như sau: "Từ vua cõi thế đến sáu trời; tám bậc
âm nhạc mỗi càng hay; càng cao càng tuyệt hơn ức bội; âm cây
báu hơn gấp đó lần; lại có âm nhạc tự nhiên trổi, tiếng pháp trong
êm sảng khoái thần; thanh tao dìu dặt siêu mười cõi; thế nên khể
thủ nhạc thanh tịnh."
8. So sánh sinh về mười phương Tịnh Độ không bằng về Tây
phương
Thứ tám là so sánh cho thấy sinh về mười phương Tịnh Độ không
bằng quy về Tây phương:
Hỏi: Hoặc có người cho rằng nguyện sinh về Tịnh quốc trong
mười phương chứ không nguyện quay về Tây phương. Ý nghĩa ấy
thế nào?
Đáp: Ý nghĩa ấy không được chuẩn. Ở đây có ba điểm không
được hoàn thiện lắm. Ba điểm gì?
(1) Mười phương Phật quốc không phải là bất tịnh, song cảnh rộng
quá thời tâm tưởng sẽ mù mờ, [ngược lại, sinh về Tây phương]
cảnh hẹp thì tâm ý sẽ chuyên chú hơn. Thế nên Thập Phương Tùy
Nguyện Vãng Sinh Kinh có nói: "Phổ Quảng Bồ Tát bạch Phật
- 23 -
rằng: Thế Tôn, Mười phương Phật độ đều rất nghiêm tịnh mà tại
sao các Kinh lại cứ hay ca ngợi tây phương A Di Đà quốc, khuyến
khích vãng sinh về đó?
"Phật bảo Phổ Quảng Bồ Tát: Tất cả chúng sinh phần nhiều là kẻ
trược loạn, phần ít mới là người chính niệm. [Các Kinh do vì]
muốn cho chúng sinh có chỗ chuyên chí, thế nên mới tán thán
nước kia một cách riêng rẽ như thế. Nếu có thể y theo nguyện mà
tu hành thì không ai không được lợi ích."
(2) Mười phương Tịnh Độ tuy đều là tịnh, song nông sâu khó biết
được. Trong khi Di Đà tịnh quốc lại chính là cửa ngỏ đầu tiên để
bước vào Tịnh Độ. Sao biết được là như vậy? Theo Hoa Nghiêm
Kinh nói: "Một kiếp ở thế giới Sa Bà bằng một ngày một đêm ở thế
giới Cực Lạc. Một kiếp ở thế giới Cực Lạc bằng một ngày một đêm
ở thế giới Ca Sa Tràng..." Cứ thế mà đối chiếu hơn kém với nhau,
thì có đến cả mười a tăng kỳ [cõi Phật hơn lên nữa.] Nên đủ thấy
rõ Cực Lạc là cửa đầu tiên để vào Tịnh Độ, thế nên chư Phật hay
khuyên sinh về đó. [Chính vì vậy] Phật quốc ở các phương khác
đều không được nhiệt thành nhắc nhở đến như thế. Cho nên là
người có lòng tin thì phần nhiều hay nguyện vãng sinh về Cực
Lạc.
(3) Di Đà tịnh quốc đã là cửa đầu tiên để vào Tịnh Độ, thì Sa Bà
thế giới tức chính là chỗ cuối cùng của uế độ. Sao biết được là như
vậy? Như Chính Pháp Niệm Kinh có nói: "Từ đây đi theo hướng
đông bắc có một thế giới tên là Tư Ha, ruộng vườn toàn là sỏi đá
ba góc. Một năm có ba kỳ mưa, mỗi kỳ thấm ướt không quá năm
tấc. Chúng sinh cõi ấy chỉ ăn trái cây, vỏ cây làm áo, cầu sống
chẳng xong mà cầu chết cũng chẳng được. Lại có một thế giới, tất
cả mọi loài cọp sói cầm thú, cho đến rắn rết cũng đều có cánh bay
qua bay lại, gặp là nuốt sống lẫn nhau chẳng kể thiện ác." Đó
không phải là các chỗ khởi đầu của uế độ đó hay sao. Trong khi y
báo của Sa Bà là ở chung cùng với hiền thánh. Theo đó thì chính là
chỗ cuối cùng của uế độ rồi. An Lạc thế giới đã là cửa đầu tiên vào
Tịnh Độ thì dĩ nhiên phải tiếp giáp với biên cảnh của cõi này, [nếu
thế thời] vãng sinh rất là tiện, thì tại sao lại không đi?
9. Phán xét về câu nói "ngụ ý một lúc khác"
Thứ chín là căn cứ sự mâu thuẫn giữa Nhiếp Luận và [Quán] Kinh
này để cân nhắc phán định về câu nói "ngụ ý một lúc khác":
- 24 -
Nay trong Quán Kinh Phật có nói: "Người sinh vào hạ phẩm hiện
tại tạo tội nặng, đến lúc mạng chung gặp thiện tri thức, mười niệm
thành tựu, liền được vãng sinh." Trong khi y theo Nhiếp Luận lại
nói: "Phật nói như thế là có ý nói vào một lúc khác [mới được
vãng sinh chứ không thể vãng sinh liền được.]"
Lại các nhà luận giải xưa nay phần nhiều cân nhắc phán định đoạn
văn này như sau: Mười niệm vào lúc lâm chung chỉ tạo thành được
cái nhân vãng sinh mà thôi, chứ chưa sinh [Tịnh Độ ngay] liền
được. Thế nên [lời nói đó của Quán Kinh] mới được gọi là câu nói
với "ngụ ý vào một lúc khác." Sao biết được là như vậy? [Nhiếp]
Luận có nói: "Như dùng một đồng vàng buôn bán đổi chác mà
thành ngàn đồng vàng, đâu phải một ngày là được ngay đâu." Nên
thấy rõ là "mười niệm thành tựu" [trong Quán Kinh] chỉ mới
thành được nhân, chứ chưa sinh liền được, do đó mới gọi là câu
nói với "ngụ ý vào một lúc khác."
Giải thích như thế tôi cho rằng chưa hẳn đã là vậy. Bởi sao? Thông
thường khi Bồ Tát làm Luận hay giải thích Kinh ý đều nhằm muốn
phò trợ ý của Phật, và khế hợp với tình Thánh. Nếu lại có văn luận
nào đi ngược lại với Kinh, điều này không thể có vậy. [Thế nên]
nay xin giải thích câu nói với "ngụ ý vào một lúc khác" đó như
sau:
Lối thuyết pháp thông thường của đức Phật đều chỉ rõ là trước
nhân sau quả, lý lẽ, số hạng gì đều rõ ràng mạch lạc. Nay trong
Kinh này chỉ nói là một đời tạo tội, vào lúc lâm chung mà thành
tựu được mười niệm thời liền được vãng sinh, bất kể là quá khứ có
nhân hay không có nhân. [Nếu thế thì] đúng là Thế Tôn dẫn tiếp
các hạng tạo ác trong tương lai, khiến họ lâm chung bỏ ác quay về
thiện, theo niệm mà vãng sinh, thế nên mới ẩn các nhân đời trước
của họ đi [mà không nói ra.] Đó là Thế Tôn ẩn đầu mà hiển cuối,
che nhân mà luận quả, thì [như thế được] gọi là câu nói "ngụ ý vào
một lúc khác."
Sao biết được là vậy? Bởi chỉ cần mười niệm thành tựu, [thì thành
tựu được như thế] đều là do đã có nhân trong quá khứ rồi. Như
Niết Bàn Kinh có nói: "Nếu ai ở trong quá khứ đã từng cúng
dường chư Phật nhiều bằng một nửa số cát sông Hằng, lại từng
phát tâm [với bằng đó số chư Phật] thì mới có thể ở trong đời ác
nghe nói về kinh giáo Đại Thừa, song chì có thể không khởi hủy
báng chứ chưa đạt được công dụng gì khác. Nếu từng cúng dường
chư Phật nhiều bằng số cát của một sông Hằng và từng phát tâm
- 25 -
[với bằng đó số chư Phật] thì sau đó nghe kinh giáo Đại Thừa mới
không phải chỉ không hủy báng mà còn rất là thích thú nữa..."
Đem các Kinh như thế ra mà nghiệm, thời đủ rõ là mười niệm
thành tựu đều phải có nhân trong quá khứ, điều này không hề hư
dối. Nếu kẻ ấy không có sẵn nhân trong quá khứ, thì đến thiện tri
thức cũng chẳng thể gặp được, chứ nói gì đến mười niệm mà mong
thành tựu nổi.
Còn trong Luận nói lấy một đồng vàng đem buôn đổi thành ngàn
đồng vàng, đâu phải là trong một ngày mà thành tựu được, thì nếu
căn cứ theo ý Phật là muốn khiến cho chúng sinh tích góp nhiều
nhân thiện, rồi liền theo niệm mà vãng sinh. Còn nếu chiếu theo
luận chủ thì nhằm khai ra nhân trong quá khứ, thì lý cũng không
có gì sai trái. Nếu hiểu như thế thì trên thuận theo Kinh Phật dưới
hợp với Luận ý, như thế tức Kinh và Luận phù trợ cho nhau, con
đường vãng sinh trở nên thông suốt, không còn nghi hoặc gì nữa.
III. Hỏi Đáp Để Giải Thích Trừ Bỏ Nghi Tình Thứ ba là nói về phần hỏi đáp giải thích rộng rãi. Dưới đây là thể
theo Đại Trí Độ Luận mà cho ra đủ các hỏi đáp [thắc mắc].
I. Hỏi: Song tất cả chúng sinh từ biết bao kiếp nay tạo đủ hết các
nghiệp hữu lậu trói buộc vào ba cõi [luân hồi], thì tại sao nay
không đoạn nghiệp trói buộc vào ba cõi ấy mà chỉ cần trong ít phút
giây niệm A Di Đà Phật là được vãng sinh ngay và thoát khỏi ba
cõi? Vậy thì cái nghiệp trói buộc kia là muốn nêu lên ý nghĩa gì
vậy?
Đáp: Có hai cách giải thích [để trả lời câu hỏi này:] (1) Một là dựa
trên pháp mà phá [cái nghi ấy]. (2) Hai là mượn thí dụ để hiển [rõ
ra ý nghĩa vãng sinh.]
1) Nói dựa trên pháp nghĩa là chư Phật Như Lai có Trí không thể
nghĩ bàn, là Trí đại thừa rộng lớn, là Trí siêu thắng tối thượng
không gì ngang không gì bằng. Năng lực của Trí không thể nghĩ
bàn này có thể khiến ít thành nhiều, khiến nhiều thành ít, khiến gần
thành xa, khiến xa thành gần, khiến nặng thành nhẹ, khiến nhẹ
thành nặng. Chư Phật có các loại Trí như thế đến mức độ vô lượng
vô biên, không thể nghĩ bàn được.
2) Phần hai trở xuống gồm có bảy lượt đều mượn thí dụ để hiển rõ
nghĩa như sau:
1- Thí dụ thứ nhất, như có trăm người tích tụ củi khô trong trăm
năm trời cao cả ngàn thước, chỉ cần một đốm lửa nhỏ chừng
- 26 -
như hạt đậu cháy trong nửa ngày là tiêu sạch hết. [Trường hợp
như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là "củi khô chứa
cả trăm năm thì không thể hết trong vòng nửa ngày" hay
không?
2- Thí dụ thứ hai, như người có tật chân mượn thuyền người khác
chở, lại nhân nơi sức của gió và buồm, nên trong một ngày mà
vượt qua cả ngàn dặm. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có
thể nào nói được rằng là "kẻ tật chân thì làm sao một ngày
vượt được ngàn dặm" hay không?
3- Thí dụ thứ ba, như kẻ nghèo nàn hạ tiện bắt được một vật quý
đem hiến cống vua. Vua mừng được vật quý nên trọng thưởng
cho người kia. Người ấy trong bỗng chốc phú quý tràn ngập.
[Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói được rằng là
"Người có học mấy chục năm ra hết sức cần khổ mà còn chẳng
đạt được gì về, thì nói gì kẻ nghèo hèn kia mà giầu có trong
phút chốc, làm gì có chuyện ấy!" hay không?
4- Thí dụ thứ tư, như kẻ yếu đuối tự mình lên lừa còn chưa nổi,
song nếu theo Luân Vương mà đi, thì nương hư không mà bay
lượn tự tại. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói
được rằng là "Với sức kẻ yếu thì không thể nào bay lên hư
không được" hay không?
5- Thí dụ thứ năm, như dây cuốn mười vòng ngàn người cũng
chịu [không làm gì nổi,] song đứa bé vung kiếm thì thoáng cái
đã đứt đôi. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói
được rằng là "sức của đứa bé thì bứt gì nổi dây" hay không?
6- Thí dụ thứ sáu, như loài chim chậm mà bơi vào nước, thì cá sò
gì cũng lật ngược ra mà chết, sừng tê mà cho vào bùn thì kẻ
chết rồi cũng còn sống lại. [Trường hợp như thế thì chúng ta]
có thể nào nói được rằng là "tính mạng một khi chết rồi thì
không thể sống lại được nữa" hay không?
7- Thí dụ thứ bảy, như chim hoàng hộc gọi Tử An mà Tử An
sống dậy. [Trường hợp như thế thì chúng ta] có thể nào nói
được rằng là "ngàn năm trong mộ rồi thì chắc chắn không thể
sống lại được nữa" hay không?
Tất cả vạn pháp đều có [đủ hết mọi trường hợp] tự lực, tha lực, tự
nhiếp, tha nhiếp, ngàn [trường hợp] khai [mở thông được,] vạn
[trường hợp] bế [tắc chẳng thông,] vô lượng vô biên [trường hợp
sai khác nhau như thế.] Thì ông lẽ nào lại đem cái thức chướng
ngại ra mà nghi cái pháp vô ngại kia được.
- 27 -
Lại trong năm pháp không thể nghĩ bàn thì Phật Pháp là pháp
không thể nghĩ bàn tối thượng. Ông cho nghiệp trói buộc vào ba
cõi là nặng mà nghi chỗ niệm Phật trong chốc lát của người kia là
nhẹ, nên [cho rằng người ấy] không được vãng sinh An Lạc quốc
nhập vào tụ chính định. Sự việc này thật đâu phải như [ông nghĩ]
vậy.
II. Hỏi: Đại Thừa Kinh có nói: "Nghiệp đạo như bàn cân, bên nào
nặng thì kéo sang bên đó trước." Tại sao chúng sinh trong suốt
một đời hoặc trăm năm hoặc mười năm, cho đến ngay ngày hôm
nay, ác nào cũng tạo, thì sao lại khi lâm chung gặp thiện tri thức,
rồi liên tục mười niệm, là liền được vãng sinh. Nếu quả đúng như
thế, thì cái ý nghĩa "nghiệp nặng kéo trước" ở trên làm sao tin
được đây?
Đáp: Ông cho rằng nghiệp ác một đời là nặng và cho chỗ thiện
mười niệm của người hạ phẩm là nhẹ. Nay tôi xin theo nghĩa so
sánh cái nghĩa nặng nhẹ này để cho thấy rõ là [nặng với nhẹ vốn]
do tại tâm, tại duyên, tại quyết định [dứt khoát], chứ không do tại
thời tiết, xa gần, nhiều ít vậy.
1) Tại tâm là thế nào? Nghĩa là người kia khi tạo tội là do tự họ y
chỉ theo tâm điên đảo hư vọng mà sinh. Trong khi mười niệm này
là y theo thiện tri thức phương tiện an ủi và nghe pháp thật tướng
mà sinh. Một đàng thật một đàng hư, thì lẽ nào lại đem so sánh với
nhau được. Tại sao? Ví như phòng tối đã ngàn năm song ánh sáng
chỉ tạm chiếu vào là lập tức sáng chưng, thì có thể nói được rằng
tối đã ở trong phòng cả ngàn năm rồi nên sẽ không tan biến vậy
được không? Thế nên Di Nhật Ma Ni Bảo Kinh mới nói: "Phật
bảo Ca Diếp Bồ Tát: Chúng sinh tuy là đã bao ngàn vạn ức kiếp ở
trong ái dục, bị tội lỗi che chùm, nếu nghe được Phật kinh mà chỉ
một niệm quay trở về thiện, thì bao tội lập tức tiêu diệt hết." Như
thế đó gọi là [nặng nhẹ] tại tâm.
2) Tại duyên là thế nào? Nghĩa là khi người kia tạo tội là do tự họ
y chỉ theo vọng tưởng, và y theo phiền não, quả báo, chúng sinh,
mà sinh. Nay mười niệm này là y chỉ theo tâm tín vô thượng, và y
theo danh hiệu có vô lượng công đức, vừa chân thật vừa thanh
tịnh, của A Di Đà Như Lai, mà sinh. Ví như có người bị tên độc
bắn trúng thấu gân thấu cốt, nếu được nghe tiếng trống thuốc diệt
trừ [độc] thì lập tức tên [tự động] nhổ ra và độc [tự] trừ diệt. Có
thể nào lại nói được rằng tên kia sâu độc rất nguy hiểm thì nghe
- 28 -
tiếng trống không thể nhổ được tên và trừ được độc hay không?
Như thế gọi là [nặng nhẹ] tại duyên.
3) Tại quyết định [dứt khoát] là thế nào? Khi người kia tạo tội là tự
họ y chỉ theo tâm có tiếp sau và tâm có gián đoạn mà sinh. Nay
mười niệm này là y chỉ theo tâm không tiếp sau nữa và tâm không
gián đoạn mà khởi. Như thế gọi là quyết định [dứt khoát.] Lại Trí
Độ Luận có nói: "Tất cả chúng sinh vào lúc lâm chung thời gió
đao làm rã thân, khổ chết đến bức bách, thật hết sức sợ hãi." Thế
nên gặp thiện tri thức phát đại dũng mãnh, tâm tâm liên tục trong
vòng mười niệm, đó chính tức là thiện căn tăng thượng, liền được
vãng sinh. Lại như có người đối địch lâm trận, nên vận hết sức cả
một đời ra mà tận dụng. Mười niệm thiện này cũng y như vậy. Lại
nếu người nào khi lâm chung mà sinh một niệm tà kiến, thì đó là
ác tâm tăng thượng, tức thì có thể làm sụp đổ cả phúc đức ba cõi
mà nhập ngay vào ác đạo vậy.
III. Hỏi: Đã nói lâm chung mười niệm thiện có thể lật đổ sạch ác
nghiệp cả một đời mà được sinh Tịnh Độ. Song chưa rõ khoảng
bao lâu là mười niệm?
Đáp: Như Kinh có nói: "Một trăm lần sinh diệt là một sát na. Sáu
mươi sát na lấy là một niệm." Đó là y theo Kinh Luận mà giải
thích tổng quát về niệm vậy.
Còn giải thích ở đây về niệm thời không căn cứ theo thời gian như
thế, mà chỉ cứ nghĩ tưởng tới A Di Đà Phật, hoặc tướng tổng quát
hoặc tướng riêng tư của Ngài. [Lấy tướng ấy] làm duyên cho tâm
tùy theo đó mà quán, trải qua mười niệm mà không niệm tưởng gì
khác xen tạp vào, thì đó là nghĩa "mười niệm" vậy.
Lại xin nói là "mười niệm liên tục" đó chỉ là một con số [tượng
trưng] của bậc thánh [nói ra] vậy thôi. Miễn sao có thể tích góp
niệm lại, ngừng hết tư lự không duyên theo bất cứ sự gì khác,
khiến cho nghiệp đạo hoàn tất là được rồi, không cần gì phải nhọc
công ghi nhớ cho đủ [mười] số. Lại xin nói thêm là nếu người nào
thực hành đã lâu rồi thì khi niệm cứ nên y theo đó mà hành, còn
người mới thực hành thì nhớ đủ số cũng rất tốt. Điều này cũng là y
theo thánh giáo mà nói.
IV. Hỏi: Nay như muốn nghe theo lời khuyên mà thực hành Niệm
Phật tam muội, song chưa rõ tướng trạng hoạt động của niệm ấy là
như thế nào?
- 29 -
Đáp: Ví như có người đang ở giữa nơi hoang vắng xa lạ bỗng gặp
giặc cướp rút đao hung hăng xông tới giết mình. Người ấy chạy
thẳng một mạch thấy có con sông đàng trước phải vượt qua. Chạy
chưa đến sông đã nghĩ như sau "đến bờ sông ta cởi áo bơi qua hay
cứ để nguyên áo mà lội. Nếu cởi áo để bơi thì e là không kịp, còn
nếu để nguyên áo mà lội thì chỉ sợ là đầu cổ khó an toàn." Khi ấy
người kia chỉ có một tâm niệm là tìm cách nào qua sông mà không
có một tâm tưởng nào khác xen vào. Hành giả cũng thế, khi niệm
A Di Đà Phật thì cũng giống như người kia niệm qua sông, niệm
niệm liên tục không có tâm tưởng nào khác xen vào. Hoặc niệm
Pháp Thân của Phật, hoặc niệm thần lực của Phật, hoặc niệm Trí
huệ của Phật, hoặc niệm hào tướng của Phật, hoặc niệm tướng hảo
của Phật, hoặc niệm bổn nguyện của Phật. [Hay trường hợp] xưng
danh [hiệu của Phật] cũng y như vậy, miễn sao có thể chuyên nhất
liên tục không đoạn, thì chắc chắn sẽ sinh về trước Phật.
Nay xin khuyên các người học đời sau nếu muốn hiểu ra lý lẽ của
hai Đế, thì cần phải hiểu rằng "niệm niệm không sao có được" thì
đó là cửa Trí huệ, song còn "gom hết tâm niệm liên tục không
đoạn" thì đó là cửa công đức. Thế nên Kinh mới nói: "Bồ tát Ma
ha tát luôn dùng công đức và trí huệ để tu tâm mình." Nếu là
người mới học chưa phá được tướng, thì cứ y theo tướng mà
chuyên chí [nhất tâm] thời không ai là không vãng sinh. Điều này
không nên nghi ngờ vậy.
V. Hỏi: Vô Lượng Thọ Đại Kinh có nói: "Mười phương chúng
sinh hết lòng tin tưởng thích thú muốn sinh về nước tôi, thì cho đến
mười niệm thôi mà không sinh được, xin nguyện không nhận lấy
chính giác." Nay có người đời nghe thánh giáo này, trọn một cuộc
sống hoàn toàn chẳng để ý, tính là đến khi lâm chung mới hầu tu
niệm. Sự việc ấy là thế nào?
Đáp: Luận như thế không được chuẩn. Tại sao vậy? Kinh nói
"mười niệm liên tục" nghe dường không khó, song các phàm phu
tâm như ngựa hoang, thức tựa khỉ vượn, theo đuổi sáu trần có bao
giờ ngưng. Thế nên mỗi người cần phải phát khởi tín tâm, chuẩn bị
tự mình chế phục tâm niệm, khiến niệm ấy tích tập thành tính, [trở
thành] gốc thiện kiên cố vậy. Như Phật bảo đại vương: "Con người
tích tập các việc làm thiện, khi chết mà không có niệm ác, thì như
cây nghiêng trước rồi, thì khi đổ ắt tùy theo hướng nghiêng ấy [mà
đổ]." Nếu một phen gió đao thổi đến, trăm khổ kéo đến thân, nếu
- 30 -
huân tập [thiện] trước không có, thì ôm giữ niệm cũng có làm
được gì. Thế nên mỗi người cần phải cùng năm ba vị đồng một chí
hướng với nhau chuẩn bị giao kết thiết yếu rằng khi có người
mạng chung thì thay họ mà nhắc nhở cho họ, xưng danh hiệu Di
Đà cho họ, nguyện họ sinh An Lạc quốc, từng âm thanh liên tiếp
làm cho [tâm họ] thành mười niệm. Ví như ấn bằng sáp ấn vào đất
bùn, ấn tuy hoại mà văn thành, khi mạng họ chấm dứt cũng tức là
lúc sinh về nước An Lạc vậy. Một phen nhập vào tụ chính định thì
còn gì phải lo nữa. Mỗi người phải nên cân nhắc kỹ cái lợi ích lớn
ấy, [và đã cân nhắc rồi,] thì sao không chuẩn bị mà khắc chế niệm
của mình đi.
VI. Hỏi: Các Kinh Luận lớn đều nói: "Tất cả chúng sinh mà xét
cho cùng cực thì đều không có sinh y như hư không." Thế thì tại
sao Thiên Thân, Long Thụ Bồ Tát lại đều nguyện vãng sinh vậy?
Đáp: Nói "chúng sinh xét cho cùng thời không có sinh y như hư
không" đó thời gồm có hai nghĩa: (1) Một là như người phàm phu
nhìn thấy, thật sự có chúng sinh, thật sự có sinh tử v.v... Song nếu
nhìn theo Bồ Tát thì vãng sinh xét cho cùng thời y như hư không,
như sừng thỏ. (2) Hai là "sinh" mà nói ở đây chính là sinh do nhân
duyên. Do nhân duyên sinh, thế nên sinh này [là giả chứ không có
thật, chỉ có danh từ "sinh" mà thôi, được gọi] giả danh sinh. Do chỉ
giả danh sinh nên tức chính là [không có sinh, hay gọi là] vô sinh.
Như thế thì "sinh" này không hề mâu thuẫn gì với lý của đại Đạo,
và không hề phải như phàm phu cho là có thật chúng sinh, có thật
sinh tử vậy.
VII. Hỏi: Thường thì sinh là nền tảng của các cõi "hữu", nên chính
là nguồn gốc của mọi buộc ràng. Nếu ai biết được sinh có lỗi như
thế nên bỏ sinh mà cầu vô sinh thì mới mong có ngày thoát được.
Giờ đây lại khuyên sinh Tịnh Độ, tức là bỏ [vô?] sinh mà cầu sinh,
thì sinh làm sao hết được?
Đáp: Song [sinh] Tịnh Độ kia chính là cái sinh mà không sinh do
bổn nguyện thanh tịnh của A Di Đà Như Lai [mà khởi], không
phải như cái sinh của chúng sinh trong ba cõi do ái nhiễm, hư
vọng, chấp trước, nên sinh. Tại sao vậy? Thường thì thể tính của
Pháp vốn thanh tịnh, xét cho cùng không hề có sinh mà vẫn nói là
sinh như thế, [thì chẳng qua] là thể theo phương diện "tình" của
người sinh mà nói vậy.
- 31 -
VIII. Hỏi: Như trên có nói nếu ai biết rõ sinh vốn không hề có
sinh thì sẽ sinh thượng phẩm. Nếu vậy thì người sinh hạ phẩm do
nương theo mười niệm vãng sinh kia không phải là người sinh
theo lẽ thật có sinh đó hay sao? Nếu người ấy là thật có sinh, thời
không khỏi sẽ kẹt vào hai mối nghi như sau: một là sợ không được
vãng sinh, hai là cái thiện theo tướng ấy không thể nào làm nhân
cho vô sinh được.
Đáp: Có ba cách giải thích. (1) Một là ví như ngọc ma ni trong
suốt mà đặt vào trong nước đục, do năng lực của ngọc nước lập tức
lắng trong. Người ta tuy có vô lượng tội sinh tử đục ngầu, song
nếu nghe được danh hiệu như ngọc báu thanh tịnh cùng cực vô
sinh của A Di Đà Như Lai bỏ vào trong tâm đục kia, thì trong từng
niệm một tội sẽ diệt tâm được tịnh, và lập tức được vãng sinh.
(2) Hai là như ngọc ma ni trong sạch mà lấy khăn huyền hay vàng
bọc lại, rồi bỏ vào trong nước, nước sẽ thành mầu huyền hay vàng
y hệt mầu của khăn. Cõi Phật thanh tịnh kia có danh hiệu như ngọc
báu vô thượng của A Di Đà Như Lai, và dùng khăn vô lượng công
đức đã thành tựu mà bọc lại, rồi bỏ vào trong nước tâm của người
vãng sinh kia, thì không thể chuyển sinh kia thành ra trí vô sinh
được hay sao?
(3) Ba là cũng như trên băng mà đốt lửa, lửa mạnh ắt băng tan,
băng tan ắt lửa tắt. Người hạ phẩm vãng sinh kia tuy không biết
rằng thể tính của pháp vốn không có sinh, song do lực xưng danh
Phật, khởi ý vãng sinh nguyện sinh cõi kia. Khi đã đến cõi vô sinh
rồi, thì cái lửa thấy [là có] sinh kia sẽ tự nhiên mà diệt.
IX. Hỏi: Y theo thân nào mà nói nghĩa vãng sinh này?
Đáp: Ở cõi này, nơi con người giả [không thật, chỉ có] danh [tự
thôi] mà tu các môn thực hành. Niệm trước làm nhân cho niệm
sau. Cái người giả danh ở uế độ và người giả danh ở Tịnh Độ
không được dứt khoát nói là một, không được dứt khoát nói là
khác nhau. Tâm trước và tâm sau cũng y như vậy. Tại sao vậy?
Nếu dứt khoát là một ắt không có nhân quả nữa. Nếu dứt khoát là
khác thời không còn là liên tục nữa. Do vì ý nghĩa này nên ngang
dọc có khác nhau, song trước sau chỉ là một hành giả mà thôi.
- 32 -
X. Hỏi: Nếu người ta chỉ cần xưng danh hiệu Phật là có thể trừ các
chướng được, nếu đúng thế thời ví như có người dùng ngón tay chỉ
mặt trăng, thì ngón tay này cũng phải phá tối ám được vậy.
Đáp: Các pháp có muôn vàn sai khác, không thể lấy một [trường
hợp] mà áp dụng cho tất cả [các trường hợp khác] được. Tại sao?
Vốn có các danh tức chính cũng là pháp [mà danh ấy chỉ cho],
cũng vốn có các danh song lại khác với các pháp [mà nó chỉ cho.]
Có các danh tức chính là pháp là như danh hiệu của chư Phật và
Bồ Tát, các âm từ chú cấm, các câu cú của Tu đa la v.v... chính là
các danh này vậy. Như lời cấm chú nói rằng: "Mặt trời mọc
phương đông chợt đỏ chợt vàng, giả như dậu hợi hành cấm, thì
bệnh hoạn cũng khỏi." Hay như có người bị chó cắn thời cứ hơ
nóng xương hổ lên mà chườm thì chỗ đau sẽ hết. Hoặc lúc nào
không có xương thì cứ lấy tay xoa lên, miệng vừa gọi "Hổ tới! Hổ
tới!", thì cũng hết đau. Hoặc có người nào chân bị vọp bẻ, hơ nóng
cành đu đủ rồi chườm lên thời sẽ lành ngay. Hoặc nếu không có
cành đu đủ, thì hơ nóng tay rồi xoa lên chỗ đau, miệng vừa gọi "đu
đủ! đu đủ!" thì đau cũng hết. Cái công hiệu ấy chính tôi đã từng
trải qua. Tại sao lại có công hiệu như thế? Do bởi [trong các
trường hợp này] danh tức chính là pháp vậy.
Còn danh khác với pháp là như trường hợp lấy tay mà chỉ mặt
trăng vậy.
XI. Hỏi: Nếu người ta chỉ cần xưng niệm danh hiệu Di Đà là có
thể trừ diệt hết vô minh đen tối của mười phương chúng sinh mà
được vãng sinh, song có chúng sinh xưng danh ức niệm mà vô
minh vẫn còn, không được như nguyện, là nghĩa gì vậy?
Đáp: Do tu hành không đúng như thật, không tương ưng được với
danh và nghĩa. Cớ sao như vậy? Nghĩa là không biết được rằng
Như Lai là thân thật tướng, mà cho là thân vật chất.
Lại có ba trường hợp không được tương ưng: (1) Một là do tín tâm
không thuần khi còn khi mất. (2) Hai là do tín tâm không như nhất,
nghĩa là không dứt khoát vậy. (3) Ba là do tín tâm không liên tục,
nghĩa là có niệm khác xen tạp vào. Ba tính chất này thu nhiếp lẫn
nhau: Nếu liên tục được thì sẽ thành nhất tâm, chỉ cần nhất tâm thì
tức chính là thuần tâm. Đủ ba tâm ấy mà không vãng sinh thì
không có lẽ nào như thế được.
Đại môn thứ ba
- 33 -
Trong đại môn thứ ba này trước sau gồm bốn lần cân nhắc phán
định:
I. Lần thứ nhất bàn về đạo khó hành và đạo dễ hành.
II. Lần thứ hai nói về thời kiếp lớn nhỏ khác nhau.
III. Lần thứ ba nói về việc từ vô thủy thế kiếp đến nay ở trong năm
nẻo thuộc ba cõi luân hồi, nương theo hai nghiệp thiện ác, thọ hai
báo khổ và sướng, luân hồi không cùng, chịu sinh vô số.
IV. Lần thứ tư đem thánh giáo ra chứng rõ để khuyên đời sau sinh
tín mà cầu vãng sinh.
I. Bàn Về Đạo Khó Hành Và Đạo Dễ Hành
Thứ nhất là bàn về đạo khó hành và đạo dễ hành. Trong mục này
gồm có hai phần: (1) Một là đưa ra hai loại đạo. (2) Hai là hỏi đáp
để giải thích.
1) Tôi vốn đã ở trong cõi lửa [thiêu đốt,] thật sự nghĩ đến mà hãi
hùng. Nhờ trên đại thánh với ba xe an ủi vời về. Song xe dê, xe nai
mà chuyên chở, thì chỉ tạm thời ngơi nghỉ, chứ chưa phải là [thật
sự] đến nơí đến chốn. Phật mắng các tà chấp làm chướng ngại việc
trên cầu Bồ Đề, dù sau đó có quay lại hướng về [Bồ Đề], thì vẫn bị
coi như là xa tắp mù xa. Nếu noi theo xe lớn, thì cũng chỉ là đi
theo một đường. Chỉ sợ hiện ở địa vị còn thối chuyển, thì vẫn chỉ
là trên đường hiểm nghèo tít xa. Chính mình đức lập còn chưa
xong, thì khó mà có thể thăng tiến được. Thế nên Long Thụ Bồ Tát
có nói:
"Có hai con đường đạo để cầu A tì bạt chí. Một là con đường đạo
khó hành và hai là con đường đạo dễ hành.
"1) Con đường đạo khó hành là ở trong đời năm trược, lúc không
có Phật mà cầu a tì bạt chí thì rất là khó. Cái khó này rất nhiều
mặt, nói tóm lại gồm năm điều. Năm điều là những gì?: (1) Một là
các thiện sự thuộc về tướng của ngoại đạo làm loạn pháp [thiện
thuộc thật tính] của Bồ Tát. (2) Hai là hướng tự lợi của Thanh Văn
làm chướng ngại đại Từ Bi [của Bồ Tát.] (3) Ba là các kẻ ác
không có đại nguyện phá mất công đức thù thắng của người khác.
(4) Bốn là các thứ thiện quả điên đảo thuộc cõi trời người hoại
mất phạm hành [thanh tịnh] của người [tu.] (5) Năm là chỉ có tự
lực, chứ không có tha lực chống đỡ cho. Như năm điều này [ngày
nay] nhìn đâu cũng thấy. Ví như đường bộ mà lại còn đi bộ thì rất
- 34 -
là khổ cực, nên mới gọi là "con đường khó đi" hay con đường đạo
khó hành.
2) Con đường đạo dễ hành là dùng nhân duyên tin Phật mà
nguyện sinh Tịnh Độ, khởi tâm nguyện ấy lập thành đức hạnh của
mình mà tu các hành nghiệp [thiện.] Do nhờ lực bổn nguyện của
Phật mà lập tức được vãng sinh. [Vãng sinh rồi, lại] do nhờ lực
Phật chống giữ được vững chắc, nên nhập ngay vào tụ chính định
của Đại Thừa. Tụ chính định ấy chính là địa vị a tỳ bạt chí không
thối chuyển vậy. Ví như đường thủy mà lại đi thuyền thì rất là
sướng thích, nên mới gọi là "con đường dễ đi" hay con đường đạo
dễ hành."
2) Hỏi: Bồ Đề vốn là một, nên khi tu nhân cũng không hề có hai.
Tại sao ở cõi này tu nhân hướng về Phật quả thì gọi là khó hành,
còn vãng sinh Tịnh Độ cầu đại Bồ Đề thì mới gọi là đạo dễ hành
vậy?
Đáp: Tất cả các hành pháp được trình bày trong các kinh Đại Thừa
đều có [đủ hai phương diện] tự lực và tha lực, tự nhiếp và tha
nhiếp.
Thế nào là tự lực? Ví như có người sợ hãi sinh tử nên phát tâm
xuất gia, tu định phát thần thông dạo khắp bốn phương, thì gọi là
tự lực.
Thế nào là tha lực? Như có kẻ yếu đuối, tự sức mình leo lên lừa
còn chưa nổi, song nếu theo Luân Vương thì có thể bay trên không
mà dạo khắp bốn phương. Thì đó chính là oai lực của Luân
Vương, nên gọi là tha lực.
Chúng sinh cũng vậy, ở cõi này khởi tâm lập hành, nguyện sinh
Tịnh Độ, thì đó là tự lực. Vào lúc lâm chung, A Di Đà Như Lai với
đài sáng đến nghinh tiếp, liền được vãng sinh, thì đó chính là tha
lực. Nên Đại Kinh có nói: "Người trời ở mười phương mà muốn
sinh về nước ta, thì không ai lại không do lực nghiệp đại nguyện
của A Di Đà Như Lai làm duyên tăng thượng." Nếu không đúng
thế, thì bốn mươi tám nguyện đặt ra chẳng để làm gì. Nên xin nói
cùng các kẻ học sau này rằng: Đã có tha lực để nương theo rồi, thì
không được cứ bo bo phận mình, ở trong nhà lửa chẳng ích gì vậy.
II. Nói Về Kiếp Số Đại Và Tiểu Thứ hai là nói về kiếp số lớn nhỏ: Như Trí Độ Luận có nói: "Kiếp
có ba loại: một là tiểu, hai là trung, ba là đại. Như một cái thành
vuông vức, mỗi bề bốn mươi dặm, cao thấp gì cũng đồng đều như
- 35 -
vậy. Trong thành chứa đầy hạt cải. Có chư thiên ở cõi trời trường
thọ cứ ba năm thì lấy đi một hạt cải, cho đến khi lấy hết không còn
sót hạt cải nào, thì [khoảng thời gian ấy] gọi là một kiếp. Hoặc
một thành cao thấp vuông vức mỗi bề đồng đều dài tám mươi dặm,
chứa đầy hạt cải, chư thiên như trước lấy hết hạt cải, thì [khoảng
thời gian đó] gọi là một trung kiếp. Hoặc một thành cao thấp
vuông vức mỗi bề đồng đều dài một trăm hai mươi dặm, chứa đầy
hạt cải, rồi cũng theo cách trên mà lấy cho sạch, thì [khoảng thời
gian ấy] mới gọi là một đại kiếp.
"Hoặc có khối đá cao thấp đồng đều tám mươi dặm dài, có chư
thiên trời trường thọ cứ ba năm dùng y trời phất một cái trên khối
đá. Y trời nặng chỉ ba thù (24 thù là một lạng). Cứ thế phất mãi
[cho đến khi] khối đá phải mòn hết, thì gọi [khoảng thời gian ấy]
là một trung kiếp. Khối đá thuộc tiểu kiếp hay đại kiếp thời cứ
chiếu theo trường hợp trung kiếp này mà luận, không cần phải kể
ra hết chi cho nhọc."
III.
Trong môn thứ ba này có đến năm phần:
1) Thứ nhất nói về [chúng sinh] từ vô thủy kiếp cho đến nay, ở
trong cõi này luân hồi không cùng, chịu vô số thân vậy. Như Trí
Độ Luận có nói: "Ở trong cõi người hoặc thuộc nhà họ Trương
chết, lại sinh vào nhà họ Vương. Ở nhà họ Vương chết, lại sinh
vào nhà họ Lý. Cứ thế [mà sinh] khắp hết [mọi nhà của] cõi Diêm
Phù Đề. Hoặc sinh trở lại họ trước hoặc sinh vào nhà họ khác,
hoặc chết ở nam Diêm Phù Đề lại sinh về tây Câu Gia Ni. [Chết
rồi sinh] ở Diêm Phù Đề ra sao, thì [chết và sinh ở] ba cõi thiên
hạ kia cũng y như vậy. Như chết sinh ở bốn thiên hạ này ra sao, thì
[chết sinh ở] trời Tứ Thiên Vương cũng y như vậy. Hoặc ở trời Tứ
Thiên Vương chết rồi sinh lên trời Đao Lợi. Ở trời Đao Lợi chết
sinh ra sao, thì bốn trời cao hơn chết rồi sinh cũng y như vậy. Cõi
Sắc có đến mười tám tầng trời, cõi Vô Sắc có bốn tầng trời, chết
đây sinh kia mọi thứ mọi nơi đều y như thế. Hoặc chết ở cõi Sắc
mà sinh vào địa ngục A tỳ. Chết ở địa ngục A tỳ rồi sinh vào các
địa ngục nhẹ tội hơn. Lại chết trong địa ngục nhẹ tội hơn, rồi sinh
vào loài súc sinh. Chết trong loài súc sinh lại sinh vào đường ngạ
quỷ. Chết trong đường ngạ quỷ hoặc sinh vào cõi trời người. Cứ
thế sáu đường luân hồi, chịu hai báo sướng và khổ, sinh tử không
cùng."
- 36 -
Thai sinh đã thế, ba sinh kia cũng chẳng khác gì. Thế nên Chính
Pháp Niệm Kinh có nói: "Bồ Tát hóa sinh bảo các thiên chúng
rằng: Người phàm trải sinh trăm ngàn lần, ham sướng buông lung
chẳng tu Đạo, nào hay phúc xưa cạn dần hết, lại đọa ba đồ chịu
mọi khổ." Thế nên Niết Bàn Kinh cũng nói: "Thân này là các khổ
tích tập lại [mà thành.] Mọi thứ của thân đều bất tịnh, là gốc gác
của các trói buộc, lở lói v.v.., chẳng có ý nghĩa hay ích lợi gì, lên
đến thân của các cõi trời cũng đều y như thế." Thế nên Kinh ấy lại
nói: "Khuyên hãy nên tu đừng buông thả. Tại sao vậy? Thường thì
phóng dật buông thả là gốc của mọi điều ác. Không buông thả
phóng dật mới là mạch nguồn của các thiện. Như ánh sáng của
mặt trời mặt trăng là sáng nhất trong các ánh sáng, pháp không
phóng dật cũng giống như vậy, là tối thượng hơn hết trong các
thiện pháp. Tại sao vậy? Tất cả các pháp ác là do phóng dật mà
sinh, còn tất cả thiện pháp thời lấy không phóng dật làm gốc."
2) Thứ hai. Hỏi rằng: Tuy nói [chúng sinh] từ vô thủy kiếp nay
luân hồi khắp sáu đường không hạn cuộc thời gian, song chưa rõ là
trong một kiếp phải chịu số thân là bao nhiêu mà nói là lưu
chuyển?
Đáp: Như Niết Bàn Kinh có nói: "Lấy hết cỏ cây trong tam thiên
đại thiên thế giới cắt ra làm các thẻ dài bốn tấc để đếm số cha mẹ
mà mình thọ thân, mà đếm còn không hết." Hoặc nói: "Số sữa mẹ
mình uống trong một kiếp còn nhiều hơn nước của bốn biển lớn."
Hoặc nói: "Xương cốt của thân mà tích tụ lại trong một kiếp thì
cao như núi Tỳ Phú La." Cứ thế bao kiếp lâu nay uổng chịu sinh tử
cho đến ngày nay mà vẫn cứ phải mang thân phàm phu, có bao giờ
biết nghĩ đến mà cảm thương thở than hay chăng?!
3) Thứ ba. Hỏi: Đã nói là bao đại kiếp nay chịu thân vô số, [thì nói
thế] là cứ một cách tổng quát như thế mà nói nhằm khiến cho
người ta sinh chán [ngán kiếp sinh tử,] hay là cũng có kinh văn nào
đó để làm chứng hay không?
Đáp: Nói thế vốn đều có các văn từ của thánh giáo minh chứng.
Những thánh giáo nào? Như Pháp Hoa Kinh có nói: "Cả đại kiếp
trong quá khứ lâu xa không thể nói được có đức Phật xuất thế hiệu
là Đại Thông Trí Thắng Như lai. Ngài có mười sáu vị vương tử.
Mỗ vị đều lên pháp tòa giáo hóa chúng sinh. Mỗi một vương tử
giáo hóa số chúng sinh nhiều bằng sáu trăm vạn ức na do tha số
cát sông Hằng." Phật ấy sau khi diệt độ đến nay vô cùng lâu xa
không thể đếm hết mà biết được. Sao lại vậy? Như Kinh nói: "Lấy
- 37 -
hết đất đai trong ba ngàn đại thiên thế giới mài ra làm mực. Phật
nói: cho người cứ đi qua khỏi một ngàn cõi nước thời mới chấm
một chấm lớn bằng một bụi nhỏ. Cứ thế mà đi lần lượt chấm hết
chỗ mực từ đất đai mài ra ấy. Phật lại nói: Giờ lại gom hết các cõi
nước có chấm mực và không có chấm mực ấy mài hết ra làm bụi
nhỏ. Lấy một bụi làm một kiếp. Từ lúc Phật kia diệt độ đến nay
còn lâu hơn cả con số đó." Chúng sinh ngày nay chính là các
chúng sinh từng thọ giáo pháp dưới tòa của mười sáu vương tử
thuở ấy. Thế nên Kinh nói: "Do vì nhân duyên ấy nên [Phật] mới
vì họ mà nói Pháp Hoa Kinh." Niết Bàn Kinh còn nói: "Một người
là vương tử, một người là kẻ bần hàn. Hai người như thế hỗ tương
qua lại." Nói vương tử ấy chính là Thích Ca Như Lai ngày nay,
cũng chính là vị vương tử thứ mười sáu của thời ấy. Còn nói kẻ
bần hàn thì chính là các chúng sinh ngày nay.
4) Thứ tư. Hỏi: Các chúng sinh kia đã nói là lưu chuyển nhiều
kiếp, song trong ba cõi ấy nẻo luân hồi nào [chúng sinh] thọ thân
nhiều nhất?
Đáp: Tuy nói là lưu chuyển, song thường là thọ thân trong ba ác
đạo là nhiều hơn hết. Như Kinh nói: "Ở giữa hư không đo lấy một
khoảng vuông tròn tám khuỷu tay. Rồi từ mặt đất này lên cho đến
trời Sắc Cứu Cánh, chúng sinh có thể nhìn thấy được trong
khoảng không ấy còn nhiều hơn là thân người trời trong khắp cả
ba ngàn đại thiên thế giới." Do đó đủ biết là thân chúng sinh trong
ác đạo là nhiều. Tại sao lại như vậy? Chẳng qua vì ác pháp dễ
khởi, thiện tâm khó sinh vậy. Hiện tại chúng ta đều thấy là các
chúng sinh được giầu sang thời chỉ toàn phóng dật phá giới. Trong
cõi trời thì các kẻ ham hưởng thụ là nhiều. Thế nên Kinh mới nói:
"Các chúng sinh mà lưu chuyển thì luôn lấy ba đường ác làm nhà.
Cõi người trời thì chỉ tạm đến rồi đi, nên gọi là khách trọ là vậy."
Y theo Đại Trang Nghiêm Luận có khuyên tất cả chúng sinh
thường tu gom hết tâm niệm vào ngay trước mặt qua bài kệ như
sau: "Gặp năm sung không bệnh, giải đãi chẳng tinh tiến, ham
kinh doanh sự nghiệp, chẳng tu thí, giới, thiền, khi chết đến nuốt
trọn, mới hối cầu tu thiện. Người trí phải quán sát, đoạn trừ năm
dục tưởng, tinh cần tu tập tâm, phút cuối chẳng hối hận. Tâm ý đã
chuyên chí, không còn niệm rối sai, người trí chăm chú tâm, lâm
chung ý chẳng tán. Không tập tâm chuyên chí, lâm chung hẳn tán
loạn, khi tâm mà tán loạn, như dùng cối điều ngựa, như khi ngựa
lâm chiến, lòng vòng không tiến thẳng."
- 38 -
5) Thứ năm. Hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, lại bao kiếp
lâu nay phải gặp nhiều Phật, thì nhân gì mà đến nay chính mình
vẫn luân hồi sinh tử, không ra khỏi nhà lửa?
Đáp: Y theo thánh giáo của Đại Thừa thì giai do là không có được
hai loại thắng pháp để gạt ngang sinh tử, thế nên không ra khỏi nhà
lửa. Những pháp nào là hai? (1) Một là Thánh Đạo, (2) hai là vãng
sinh Tịnh Độ.
Loại pháp Thánh Đạo này thời nay khó mà chứng được. Một là do
đã cách bậc Đại Thánh quá xa rồi, hai là do lý quá thâm sâu hiểu
quá vi tế. Thế nên Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh có nói: "trong giai
đoạn thời mạt pháp của Ta, ức ức chúng sinh khởi sự thực hành tu
Đạo, thì chẳng có được một người chứng đắc."
Nay đúng lúc đương mạt pháp, lại hiện là đời ác năm trược, thì
duy chỉ một môn Tịnh Độ này mới có thể là con đường thông thoát
nhập Đạo. Thế nên Đại Kinh mới nói: "Nếu có chúng sinh cho dù
một đời tạo ác, vào lúc lâm chung mà [có thể] xưng danh tự của
Ta liên tục mười niệm, nếu người ấy không sinh [về cõi của Ta,]
thì ta không nhận lấy chính giác." Lại nữa tất cả chúng sinh đều
không biết tự lượng [sức mình]. Nếu căn cứ theo Đại Thừa, thì
[các vần đề như] chân như, thật tướng, đệ nhất nghĩa Không, họ
chưa từng bao giờ để tâm. Nếu luận theo Tiểu Thừa, thì nào [các
pháp như] là tu nhập vào kiến đế, rồi hành tu đạo, cho đến [các
thánh quả A] na hàm, La hán, đoạn năm hạ [phần kết sử], trừ năm
thượng [phần kết sử] v.v... thì chẳng kể là đạo hay tục, chẳng ai
trong họ có phần. Dầu đến quả báo trời người chăng nữa, thì đều
do năm giới mười thiện mới chiêu cảm được quả báo ấy, mà người
trì giới thiện lại thật là hiếm hoi. Còn nói đến khởi ác tạo tội thì
chẳng khác gì cuồng phong bão táp. Thế nên chư Phật đại từ
khuyến quay về Tịnh Độ, cho dù một đời tạo ác, chỉ cần trói ý
mình lại, chuyên tinh thường chăm niệm Phật, thì tất cả các
chướng tự nhiên tiêu trừ, chắc chắn được vãng sinh. Tại sao không
chịu suy xét mà đều không có tâm đi [về Tịnh Độ] vậy?!
IV. Dẫn Thánh Giáo Chứng Rõ, Khuyên Cầu Vãng Sinh Từ đây trở xuống là phần thứ tư dẫn thánh giáo chứng rõ khuyên
cầu vãng sinh. Y theo Quán Phật Tam Muội Kinh có nói: "Lúc ấy
trong hội có Tài Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn, con nhớ lại
quá khứ cách đây vô lượng kiếp. có Phật ra đời cũng tên là Thích
Ca Mâu Ni Phật. Sau khi Phật ấy diệt, có một vương tử tên là Kim
- 39 -
Tràng, kiêu mạn tà kiến không tin chính pháp. Có vị Tỳ khưu thiện
tri thức tên là Định Tự Tại bảo vương tử rằng: Trong đời này có
một tượng Phật hết sức là đẹp. Vương tử tạm thời ghé vào trong
tháp để ngắm hình tượng Phật ấy. Thời vị vương tử kia mới nghe
theo lời bạn tốt ấy vào tháp ngắm tượng Phật. Thấy tượng tướng
rất đẹp mới bạch Tỳ Khưu rằng: Đến tượng Phật mà còn đẹp như
thế, thì huống gì là thân Phật thật. Tỳ Khưu liền nói rằng: Vương
tử nay thấy tượng Phật mà nếu không lễ bái được thì hãy xưng
nam mô Phật. [Vương tử làm theo lời, sau đó] về cung cứ nhớ
tưởng mãi đến tượng Phật trong tháp. Đến đêm khuya mộng thấy
tượng Phật, lòng rất hoan hỉ. [Nhờ đó] nên xả bỏ tà kiến, quy y
Tam Bảo. Đến khi mạng chung, do trước đó vào tháp xưng Phật
công đức, nên mới được gặp gỡ chín trăm ức na do tha chư Phật.
Ở nơi chư Phật thường chăm tinh tiến, luôn được Niệm Phật tam
muội. Do lực của Niệm Phật tam muội nên chư Phật hiện tiền
trước mặt đều thọ ký cho. Từ đó trở đi trong trăm vạn a tăng kỳ
kiếp không bị đọa ác đạo, cho đến ngày nay đạt được Thủ Lăng
Nghiêm tam muội. Vị vương tử thuở ấy chính là Tài Thủ con ngày
nay vậy.
"Lúc ấy trong hội có các chư đại Bồ Tát ở khắp mười phương, số
đến vô lượng, mỗi vị đều nói về bổn duyên của mình đều do y nơi
niệm Phật mà được. Phật bảo A Nan: Quán Phật tam muội này là
thuốc chữa bệnh cho tất cả chúng sinh phạm tội, là hộ trì giới cho
những kẻ phá giới, là người dẫn đạo cho những kẻ lạc đường, là
cặp mắt sáng cho những kẻ mù lòa, là trí huệ cho những kẻ ngu si,
là ngọn đèn soi cho những kẻ tăm tối, là bậc tướng đại dũng mãnh
giữa bọn giặc phiền não, là nơi du hí của chư Phật Thế Tôn, là
chỗ khởi thủy phát sinh ra các đại tam muội khác như Thủ Lăng
Nghiêm v.v...
"Phật bảo A Nan: Nay ông hãy giữ gìn cho khéo [Niệm Phật tam
muội này,] cẩn thận đừng để mất đi. Ba đời chư Phật quá khứ hiện
tại vị lai đều nói lên Niệm Phật tam muội này vậy. Ta cùng mười
phương chư Phật, và cùng ngàn Phật hiền kiếp, vào lúc bắt đầu
phát tâm đều do nhân nơi năng lực của Niệm Phật tam muội này
mà đắc được Trí biết được tất cả muôn loài."
Lại như Mục Liên Sở Vấn Kinh có nói: "Phật bảo Mục Liên: Ví
như vạn con sông hun hút chảy trôi, có các cây cỏ nổi trôi theo,
cái trước chẳng ngó sau, cái sau chẳng nhìn trước, tất cả đều gặp
nhau trong biển lớn. Thế gian này cũng vậy, tuy có giầu sang phú
- 40 -
quý sung sướng gì nữa, thì rốt cuộc cũng không khỏi sinh lão bệnh
tử chỉ do không tin kinh Phật. Làm người đời sau lại càng nguy
hơn nữa, không thể nào sinh vào quốc độ của ngàn Phật được. Thế
nên ta nói nước của Phật Vô Lượng Thọ là dễ vãng sinh, dễ có
được, mà ai lại còn chẳng chịu vãng sinh, ngược lại lại theo phụng
sự chín mươi lăm thứ ngoại đạo. Ta nói kẻ ấy là kẻ không mắt, là
kẻ không tai."
Kinh giáo đã nói như thế, thì sao không chịu xả bỏ con đường khó
mà y theo con đường dễ hành đi thôi!
An Lạc Tập Quyển Thượng hết
*****
An Lạc Tập Quyển Hạ
Đại Môn Thứ Tư
Trong đại môn thứ tư này có ba phen cân nhắc phán định:
I. Thứ nhất, y theo các Tam Tạng Pháp sư tại trung quốc (tức Ấn
Độ) và các bậc đại đức tại xứ này, đều cùng nhau thẩm xét tường
tận thánh giáo, ca ngợi quy hướng về Tịnh Độ. Nay cũng theo đó
mà khuyên [mọi người] nương về [Tịnh Độ.]
II. Thứ hai, căn cứ theo tông chỉ của Kinh [Quán Vô Lượng Thọ]
này cùng với các bộ kinh Đại Thừa khác, cho thấy phàm hay thánh
tu chứng nhập Đạo phần đông đều lấy Niệm Phật tam muội làm lối
nhập môn ách yếu nhất.
III. Thứ ba là hỏi đáp để giải thích, cho thấy rõ người niệm Phật
được đủ hết mọi công năng lợi ích không thể nghĩ bàn được.
I. Các Thực Hành Của Các Đại Đức Ở Trung Quốc Và Xứ
Này Tôi năm căn bị che mờ như đối trước tường vách, có đâu mà dám
tự tiện cân nhắc phán định [về Tịnh Độ,] chẳng qua chỉ là lấy
những gì mình đã trải qua mà nghiệm xét, cùng kính vâng theo sự
truyền thừa của chư Sư. Chư Sư là những ai?
1. Chính là đại thừa pháp sư Bồ Đề Lưu Chi tam tạng của trung
quốc, tức Ấn Độ (Cao tăng thiên trúc triều Bắc Ngụy, người bắc
Thiên Trúc, thông tam tạng, giỏi chú thuật. Đầu năm Vĩnh Bình
- 41 -
đến Trung Quốc, Tuyên Vũ Đế sắc trụ Vĩnh Ninh Tự. Ngài dịch rất
nhiều kinh và là bậc thầy của nhiều cao tăng Trung Quốc).
2. Kế đến có bậc đại đức chê trách và tránh xa danh lợi, thì phải kể
là có Huệ Sủng pháp sư.
3. Kế đến có bậc đại đức thường mỗi lần phô diễn [diệu pháp] là
cảm ứng chư thánh tăng đến nghe, thì phải kể là có Đạo Tràng
pháp sư (Cao tăng triều Bắc Ngụy, còn gọi là Đạo Trường. Xuất
gia với Huệ Quang, sau theo làm môn hạ của Bồ Đề Lưu Chi. Gặp
biến cố lánh về ẩn cư ở Tung Sơn, tinh nghiên Đại Trí Độ Luận
suốt mười năm trời, thấu suốt tông chỉ. Từ đó xuất hiện ở Lạc
Dương chuyên giảng Trí Luận tại Nghiệp Hạ Đại Tập Tự. Người
đương thời tôn làm "Học giả chi tông").
4. Kế đến có bậc đại đức hòa đồng cùng kẻ ngu ngơ, được [chúa]
hai nước [Lương và Ngụy] ngưỡng mộ, thì phải nói là có Đàm
Loan pháp sư (476-542, cao tăng triều Đông Ngụy, người Nhạn
Môn, tức Sơn Tây Đại Huyện. Thuở thiếu thời xuất gia tại Ngũ
Đài, nghiên cứu về Phật tính, chú giải Đại Tập Kinh được nửa bộ
thì phát bệnh, nên muốn học đạo trường sinh để hoằng pháp. Vào
năm đại thông, đến Lương quốc luận về thâm nghĩa của Phật tính,
được Vũ Đế hết sức ca ngợi. Sau đó gặp Đào Ẩn Cư được Tiên
Kinh mười quyển, định vào núi thiêng tu luyện. Vừa đến Lạc Hạ,
gặp Bồ Đề Lưu Chi, Lưu Chi trao Quán Vô Lượng Thọ Kinh cho
và nói: Đây mới là phương thuốc thần tiên chân thật. Ngài bèn cúi
đầu thọ nhận, rồi đốt tiên kinh đi mà chuyên tu tịnh nghiệp.).
5. Kế đến có bậc đại đức thiền quán độc nhất thấu suốt, ắt phải kể
là có Đại Hải thiền sư.
6. Kế đến có bậc đại đức thông suốt trí huệ, giữ giới, ắt có ngài
Thượng Thống của triều Tề (tức Huệ Quang luật sư (468-537) tại
Tung Sơn Thiếu Lâm Tự xuất gia năm mười ba tuổi, có hiệu là
Thánh Sa Di. Sau khi thọ giới cụ túc lưu tâm học luật. Lại theo
Đạo Phúc nghiên tập kinh luận, và nghiên cứu Tăng Kỳ Luật. Khi
Lặc Na Ma Đề mới dịch Thập Địa xong, ngài làm sớ giải nói lên
áo chỉ của luận, hoằng dương mạnh mẽ. Nam đạo Địa Luận Sư
phái coi ngài là Tổ Sư. Đầu tiên ngài ở tại Lạc Thị nhậm chức
Quốc Tăng Đô, sau vào Nghiệp chuyển thành Quốc Thống. Ngài
giảng rộng về Tứ Phần Luật Nghĩa, người theo học đông như chợ).
Sáu bậc đại đức kể trên đều là các gương thần [soi sáng] hai Đế,
thật đúng là giềng mối của Phật Pháp, chí tu và hành ngiệp không
ai sánh bằng, cổ kim hiếm có. Các ngài đều thấu xét Đại Thừa và
- 42 -
đều ca ngợi sự quy hướng về Tịnh Độ chính là cửa ngỏ ách yếu vô
thượng để mà vào Đạo.
Hỏi: Đã nói các ngài ca ngợi quy hướng về Tịnh Độ là cửa ngỏ
ách yếu nhất để vào Đạo, song chưa rõ là các bậc tôn đức ấy vào
lúc lâm chung có điềm gì linh nghiệm hay không?
Đáp: Thật sự đều có hết. Như Đàm Loan pháp sư, lúc còn sức
khỏe thường tu Tịnh Độ. Cứ mỗi phen có người thế tục đến trách
Pháp Sư rằng: "Mười phương Phật quốc đều là Tịnh Độ, pháp sư
cớ gì lại chỉ chú tâm về Tây? Như vậy không phải là sinh thiên
kiến hay sao?" Pháp Sư trả lời: "Tôi đã là phàm phu, trí huệ cạn
cợt, chưa nhập vào Địa, nên cần phải giữ lực niệm cho đều đặn.
Giống như bỏ cỏ dẫn trâu về, thì luôn phải chú tâm hướng về
chuồng máng, chứ có đâu lại hoàn toàn thả lỏng chả có chỗ nào
để quay về hết được sao?"
Tuy biết bao nhiêu kẻ bắt bẻ như thế, nhưng Pháp Sư vẫn cứ dứt
khoát đường hướng của riêng mình. Thế nên bất kể là người tu hay
kẻ tục, tất cả chỉ cần một phen diện kiến Pháp Sư mà nếu chưa
sinh chính tín, thì ngài khích lệ cho sinh tín, nếu đã sinh chính tín
rồi, thì ngài đều khích lệ cho quy về Tịnh quốc. Thế nên khi Pháp
Sư vào lúc lâm chung, người tu lẫn kẻ tục ở hai bên chùa đều thấy
cờ phướn hương hoa sáng rực cả viện. Mọi người ai cũng ngửi
thấy hương thơm ngào ngạt, và nghe có tiếng âm nhạc nghinh tiếp.
Pháp Sư khi ấy liền vãng sinh vậy.
Các bậc đại đức kia vào lúc lâm chung cũng đều có điềm lành vi
diệu. Nếu phải nói rõ hết mọi đìềm lành vãng sinh, thì mọi thứ đều
không thể nghĩ bàn vậy.
II. Các Kinh Thường Lấy Niệm Phật Làm Tông Thứ hai là nói về các Kinh này khác phần nhiều đều cho thấy là
đồng lấy Niệm Phật tam muội làm tông, [tức là nền tảng và ý
hướng để tu hành.] Trong phần này lần lượt lại có đến tám lượt cân
nhắc phán định. Hai lượt đầu nói về Nhất Tướng tam muội, sáu
lượt sau chiếu theo duyên, y theo tướng, mà nói về Niệm Phật tam
muội:
1) Thứ nhất là y theo Hoa Thủ Kinh nói rằng: "Phật bảo Kiên Ý Bồ
Tát: Tam muội có hai loại. Một thời có Nhất Tướng tam muội; hai
thời có Chúng Tướng tam muội.
"Nhất Tướng tam muội là như có Bồ Tát nghe nói ở thế giới nào
đó có đấng Như Lai nào đó hiện giờ đang nói pháp. Bồ Tát bèn
- 43 -
nhận lấy tướng của Phật ấy [mà quán tưởng] như hiện đang ở
trước mặt mình, hoặc [quán] Ngài đang ngồi đạo tràng, hoặc
đang chuyển pháp luân với đại chúng bao quanh. Nhận giữ lấy
các tướng như thế, rồi thu nhiếp các căn lại, giữ tâm không chạy
tán, chuyên chú niệm tưởng một Phật ấy thôi, không bỏ duyên
[quán tưởng Phật và thế giới] này. Bồ Tát nhờ thế sẽ thấu tỏ ra
rằng tướng của Như Lai và tướng của thế giới kia đều là không có
tướng. [Tiếp tục] cứ quán mãi như thế, cứ thường hành như vậy,
không lìa bỏ duyên [quán Phật và thế giới] ấy. Thì khi ấy hình
tướng của Phật sẽ hiển hiện ra ngay trước mặt mà nói pháp cho
nghe. Bồ Tát lúc ấy sẽ khởi tâm cung kính không cùng mà lắng
nghe thọ nhận pháp ấy, dù pháp sâu hay cạn cũng đều gia tâm tôn
trọng. Bồ Tát trụ trong tam muội này, nghe Phật nói các pháp đều
là tướng phải hoại diệt. Nghe rồi thọ nhân vâng giữ. Sau khi từ
tam muội khởi thời sẽ vì bốn chúng mà diễn nói pháp ấy.
"Phật bảo Kiên Ý: Đó gọi là Bồ Tát theo cửa ngỏ Nhất Tướng tam
muội để nhập vào Đạo."
2) Thứ hai là y theo Văn Thù Bát Nhã Kinh để nói về Nhất Hành
tam muội vậy: "Khi ấy Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Thế Tôn,
thế nào gọi là Nhất Hành tam muội?
"Phật nói: Nhất Hành tam muội là hoặc có thiện nam tử, thiện nữ
nhân nào chọn một chỗ yên tĩnh vắng vẻ, rồi xả bỏ hết mọi ý tưởng
tạp loạn. Sau đó tùy theo nơi chốn của Phật mà ngồi ngay ngắn
hướng về hướng đó. Không [cần phải] giữ lấy tướng mạo của
Phật, mà cứ chú tâm vào một Phật thôi, chuyên chú xưng danh tự
của Phật ấy, niệm tưởng đến Phật không hề ngừng nghỉ. Thì rồi
trong khi niệm [tưởng như thế] sẽ thấy được ba đời chư Phật quá
hiện vị lai. Tại sao được vậy? Niệm tưởng về công đức của một
Phật là vô lượng vô biên, thì hoàn toàn không khác gì hết với công
đức của vô lượng chư Phật khác. Như thế gọi là Nhất Hành tam
muội của Bồ Tát."
3) Thứ ba là y theo Niết Bàn Kinh nói rằng: "Phật nói: Nếu có ai
chỉ cần cứ chí tâm thường tu Niệm Phật tam muội, thì mười
phương chư Phật luôn nhìn thấy người ấy như đang ở ngay trước
các Ngài." Thế nên Niết Bàn Kinh nói: "Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào mà thường hay chí tâm
chuyên niệm đến Phật, thì hoặc người ấy ở tại rừng núi hay ở tại
xóm làng, hoặc ngày hay đêm, hoặc [người ấy] ngồi hay nằm, chư
- 44 -
Phật Thế Tôn luôn thấy người ấy như đang ở ngay trước các Ngài,
các Ngài luôn ở cùng chỗ với người ấy để mà thọ thí."
4) Thứ tư là y theo Quán Kinh cùng các Kinh khác thì vạn thứ thực
hành mà mình tu tập chỉ cần hồi hướng phát nguyện [vãng sinh,]
thì không ai mà lại không sinh vậy. Song riêng môn thực hành
niệm Phật này luôn được coi là con đường quan yếu nhất. Cớ sao?
Nếu xét kỹ các thánh giáo thì [thực hành niệm Phật] có hai sự ích
lợi khởi đầu và chung cục như sau:
Nếu muốn phát sinh điều thiện và phát khởi thực hành, thì [thực
hành môn niệm Phật này] sẽ bao gồm hết trọn [sáu] độ. Nếu bảo là
diệt ác và tiêu tai, thì [thực hành môn niệm Phật này] sẽ trị một lúc
trọn hết các chướng. Thế nên phần dưới Kinh có nói: "Chúng sinh
nào niệm Phật thì [Phật A Di Đà] sẽ gom nhiếp lấy chúng sinh ấy
không bao giờ xả bỏ. Đến khi thọ tận họ sẽ được vãng sinh." Đó là
ích lợi khởi đầu.
Còn nói ích lợi chung cục là y theo Quán Âm Thọ Ký Kinh nói
rằng: "A Di Đà Phật trụ thế rất là lâu dài. Song dù có triệu năm
kiếp kiếp đi nữa thì cũng có lúc diệt độ. Khi Ngài bát Niết Bàn rồi,
thì chỉ còn Quan Âm và Thế Chí trụ trì cõi An Lạc để tiếp dẫn
mười phương. Thời gian Phật ấy diệt độ cũng dài y như khi Ngài
trụ thế. Tuy tất cả chúng sinh cõi ấy không ai còn thấy được Phật
nữa, song chỉ những người xưa nay chuyên niệm A Di Đà Phật để
mà vãng sinh thì vẫn thường thấy A Di Đà Phật hiện còn không
diệt." Đó tức là ích lợi sau cùng hết vậy.
Còn tu các hạnh khác rồi hồi hướng thì đều được vãng sinh, thì khi
Thế Tôn [A Di Đà] diệt độ sẽ tùy có người thì thấy, có người
chẳng thấy. Xin khuyên người sau hãy suy xét kỹ để mà hưởng
được ích lợi dài lâu vậy.
5) Thứ năm là y theo Ban Châu Kinh nói rằng: "Lúc ấy có Bạt Đà
Hòa Bồ Tát ở cõi nước này nghe nói có Phật A Di Đà, thì thường
luôn cột [tâm] niệm [tưởng đến Phật ấy.] Nhân niệm như thế nên
thấy Phật A Di Đà [hiện ra.] Khi thấy Phật rồi thì hỏi Phật rằng:
Phải hành pháp nào thì được sinh về cõi nước ấy?
"Bấy giờ A Di Đà Phật nói với Bồ Tát kia rằng: Ai muốn sinh về
nước Ta thì phải thường niệm danh hiệu của Ta đừng có ngừng
nghỉ. Được vậy thì sẽ được sinh về cõi nước của Ta. Lại phải niệm
thân Phật có đủ trọn hết ba mươi hai tướng, sáng rực chói lọi, đẹp
không gì bằng..."
- 45 -
6) Thứ sáu là y theo Đại Trí Độ Luận thời có đến ba lượt giải
thích: (1) Thứ nhất Phật là bậc Vua Pháp không ai cao hơn nữa,
còn Bồ Tát là bầy tôi thuộc Pháp. Bầy tôi mà tôn mà trọng thì chỉ
tôn trọng duy Phật Thế Tôn mà thôi, thế nên cần phải thường niệm
Phật vậy. (2) Thứ hai là có các Bồ Tát tự nói: "Chúng ta từng bao
kiếp lâu xa đến nay nhờ được Thế Tôn nuôi dưỡng lớn mạnh pháp
thân, trí thân và đại từ bi thân của chúng ta. Thiền định, trí huệ, vô
lượng hành nguyện đều do nơi Phật mà được thành tựu. Do để báo
ân ấy nên thường nguyện được gần Phật." Cũng như các đại thần
được hưởng ân sủng của vua nên thường niệm tưởng đến chúa của
mình. (3) Ba là có các Bồ Tát lại nói như vầy: "Ta lúc còn trong
giai đoạn gieo nhân do gặp ác tri thức nên hủy báng Bát Nhã, đọa
vào ác đạo qua vô lượng kiếp. [Nay] tuy tu các thực hành khác mà
chưa ra khỏi được. Sau đó chỉ được một lúc y theo thiện tri thức
dạy chúng ta thực hành Niệm Phật tam muội. Ngay lúc ấy lập tức
trừ hết các chướng, nên mới được giải thoát. [Niệm Phật ấy] có
đại lợi ích như thế nên nguyện không bao giờ lìa xa Phật."
7) Thứ bảy là y theo Hoa Nghiêm Kinh nói rằng: "Thà là vô lượng
kiếp, chịu đủ mọi thứ khổ, quyết không xa Như Lai, không thấy Tự
Tại Lực." Kinh này lại nói: "Niệm Phật tam muội ắt thấy Phật,
mạng chung sau đó sinh gặp Phật. Thấy kẻ lâm chung khuyên
niệm Phật, còn đưa tôn tượng cho ngưỡng kính." Lại Thiện Tài
đồng tử khi đi cầu thiện tri thức, đến gặp Công Đức Vân tỳ khưu
bạch rằng: "Đại sư, làm thế nào để tu Bồ Tát Đạo, để quay về với
sự thực hành của Phổ Hiền vậy?" Lúc ấy Tỳ Khưu bảo Thiện Tài
rằng: "Trong biển trí huệ của Thế Tôn, ta chỉ biết có một pháp, đó
là môn Niệm Phật tam muội. Gì là môn này? Vào trong môn tam
muội này sẽ thấy được hết tất cả chư Phật cùng với quyến thuộc
của các Ngài và các cõi Phật thanh tịnh tuyệt đẹp. [Thấy như thế]
làm cho chúng sinh lìa xa mọi điên đảo. Môn Niệm Phật tam muội
này khiến trong cảnh giới vi tế thấy được các cảnh giới tự tại của
tất cả chư Phật, và đắc được bao kiếp không điên đảo. Môn Niệm
Phật tam muội này làm khởi lên tất cả các cõi Phật mà không có
gì có thể phá hoại được, thấy khắp hết chư Phật, và được ba đời
không điên đảo." Lúc ấy Công Đức Vân tỳ khưu bảo Thiện Tài
rằng: "Biển cả Phật Pháp thâm sâu, rộng lớn vô bờ. Những gì ta
biết được chỉ được mỗi một môn Niệm Phật tam muội này mà thôi.
Còn có các cảnh giới thâm diệu khác nhiều quá số lượng ta thật
chưa biết vậy."
- 46 -
8) Thứ tám là y theo Hải Long Vương Kinh nói rằng: "Bấy giờ Hải
Long Vương bạch Phật rằng: Thế Tôn, đệ tử cầu sinh cõi Phật A
Di Đà thì phải tu các sự thực hành nào để được sinh về cõi ấy?
Phật bảo Long Vương: Nếu muốn sinh về nước kia, phải thực hành
tám pháp. Tám pháp là những gì? (1) Một là thường niệm tưởng
đến chư Phật, (2) hai là cúng dường chư Như Lai, (3) ba là ca
ngợi chư Thế Tôn, (4) bốn là tạo hình tượng Phật để tu các công
đức, (5) năm là hồi hướng nguyện vãng sinh, (6) sáu là tâm không
khiếp nhược, (7) bảy là nhất tâm tinh tiến, (8) tám là cầu Huệ chân
chính của Phật.
Phật bảo Long Vương: Tất cả các chúng sinh mà có đủ tám pháp
ấy thì luôn luôn không bao giờ lìa xa Phật vậy."
Hỏi: Nếu không đủ tám pháp thì có được sinh về trước Phật không
lìa xa Phật được chăng?
Đáp: Được sinh không có gì phải nghi. Cớ sao biết được vậy?
Như khi Phật nói Bảo Vân Kinh cũng có nói về mười điều thực
hành hội đủ thì được sinh về Tịnh Độ, không bao giờ lìa xa Phật
nữa. Bấy giờ có Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Không
đủ mười thực hành có được sinh hay không?" Phật nói: "Được
sinh. Chỉ cần thực hành trọn vẹn viên mãn được một điều trong
mười điều thực hành ấy, thì chín thực hành kia đều được coi là
thanh tịnh." [Do đó] chẳng nên nghi ngờ vậy.
Lại Đại Thụ Khẩn Na La Vương Kinh có nói: "Bồ Tát thực hành
bốn loại pháp như sau thì thường luôn ở trước Phật. Những gì là
bốn? (1) Một là tự mình đã tu thiện pháp, còn khuyên chúng sinh
tác ý vãng sinh để gặp Như Lai. (2) Hai là tự khuyến chính mình
và khuyến người khác ưa thích tìm nghe chính pháp. (3) Ba là tự
khuyến chính mình và khuyến người khác phát Bồ Đề tâm. (4) Bốn
là một lòng chuyên nhất thực hành Niệm Phật tam muội. Có đủ
bốn thực hành này, thì sinh bất cứ đâu cũng đều luôn ở trước
Phật, không lìa xa chư Phật."
Lại Kinh có nói: "Phật nói pháp mà Bồ Tát thực hành có ba mươi
hai khí. Là những gì? Bố thí là khí cụ thành đại phú. Nhẫn nhục là
khí cụ làm đẹp đẽ. Trì giới là khí cụ thành thân thánh. Năm nghịch
bất hiếu là khí cụ thành núi đao, rừng kiếm, chảo sôi. Phát Bồ Đề
tâm là khí cụ để thành Phật. Thường hay niệm Phật để vãng sinh
Tịnh Độ là khí cụ để gặp Phật..." Tóm nêu lên sáu môn thôi, còn
các môn khác không ghi ra hết.
- 47 -
Thánh giáo đã nói như thế, thì hành giả nguyện sinh mà không
thường niệm Phật thì sao được vậy. Lại y theo Nguyệt Đăng Tam
Muội Kinh có nói: "Niệm tưởng về tướng đẹp và đức hành của chư
Phật làm cho các căn không loạn động và tâm không mê hoặc,
[nhờ thế] hợp với chính pháp, nên đắc được đa văn và được trí
huệ như biển cả. Người trí trụ trong tam muội này thực hành nhiếp
niệm lại. Thời trong lúc kinh hành sẽ thấy được ngàn ức chư Như
Lai, và cũng gặp được vô lượng hằng sa Phật."
III. Hỏi Đáp Giải Thích Nêu Rõ Lợi Ích Thứ ba là hỏi đáp giải thích để cho thấy rõ là Niệm Phật tam muội
có biết bao là lợi ích. Phần này có đến năm lần hỏi đáp như sau:
1) Câu hỏi thứ nhất: Ở đây nói thường phải tu Niệm Phật tam
muội, tức là sẽ không thực hành các tam muội khác sao?
Đáp: Nói thường niệm ở đây không hề nói là không thực hành các
tam muội khác. Song do vì đa phần thực hành Niệm Phật tam
muội, thế nên mới nói là thường niệm, chứ không phải là hoàn
toàn không thực hành các tam muội khác vậy.
2) Câu hỏi thứ hai: Nếu khuyên là thường thực hành Niệm Phật
tam muội, thì phải chăng là có cấp bậc cao thấp so với các tam
muội khác hay không?
Đáp: Các điểm vượt trổi của Niệm Phật tam muội này quả là
không thể nghĩ bàn. Điều ấy do đâu mà biết? Như trong Ma Ha
Diễn có nói: "Các tam muội khác không loại nào lại không phải là
tam muội (Văn dường như thiếu sót ở đây). Tại sao vậy? Hoặc có
tam muội chỉ trừ được tham, chứ không trừ được sân si. Hoặc có
tam muội chỉ trừ được sân, chứ không trừ được si tham. Hoặc có
tam muội chỉ trừ được si, chứ không trừ được tham sân. Hoặc có
tam muội chỉ trừ được chướng trong hiện tại, chứ không trừ được
hết các chướng trong quá khứ và vị lai. Song nếu thường tu Niệm
Phật tam muội, thì bất kể là hiện tại, quá khứ, hay vị lai, tất cả mọi
chướng đều được tiêu trừ."
3) Câu hỏi thứ ba: Niệm Phật tam muội đã có thể trừ được chướng,
đạt được phúc đức, lợi ích rất lớn, song chưa rõ là có thể nào giúp
ích cho hành giả khiến được tuổi thọ kéo dài năm tháng hay
không?
Đáp: Dĩ nhiên là được. Bởi sao? Như Duy Vô Tam Muội Kinh có
nói: "Có hai anh em nọ, anh thì tin nhân quả, còn em thì không có
tâm tín song lại rất giỏi về nghề coi tướng. Nhân thấy trong gương
- 48 -
mặt mình có tướng chết hiện lên, không quá bảy ngày nữa là sẽ
chết. Thời có người trí khuyên đi hỏi Phật. Phật xác nhận rằng:
Đúng thật không quá bảy ngày sẽ chết. Song nếu có thể một lòng
niệm Phật tu giới, thì có thể sẽ qua được nạn ấy. Người em lập tức
y theo lời dạy, gom hết tâm niệm [niệm Phật.] Thời đến ngày thứ
sáu có hai quỉ sứ lại, song khi tai nghe tiếng người kia niệm Phật
thì không sao tiến đến gần được. Nên quay trở về báo cáo với
Diêm La Vương. Diêm La Vương bèn dở sổ bộ ra xem, thì đã thấy
ghi chú là do công đức trì giới niệm Phật, nên được sinh từng trời
Diễm Thiên thứ ba."
Lại trong Thí Dụ Kinh có nói: "Có vị trưởng giả không tin có tội
phúc, tuổi đã năm mươi. Bỗng đêm nằm mơ thấy sát quỉ cầm phù
đến đòi bắt đi trong vòng mười ngày nữa không hơn. Người ấy
tỉnh dậy sợ hãi không cùng. Đến sáng đi hỏi thầy tướng đoán
mộng. Thầy tướng gieo quẻ phán là có quỉ sát muốn hại mạng
trong vòng không quá mười ngày. Người ấy vô cùng sợ hãi, đến
Phật cầu khẩn. Phật mới bảo rằng: Nếu muốn tránh được, thì từ
nay trở đi phải chuyên tâm niệm Phật, trì giới, thắp hương, đốt
đèn, treo cờ lọng bằng lụa, tin tưởng hướng về Tam Bảo, thì có thể
tránh được cái chết này. Người ấy bèn y theo pháp này chuyên tâm
tin tưởng. Khi sát quỉ đến cửa thấy người kia tu công đức như thế,
nên không làm hại được mà phải bỏ đi. Người kia do duyên công
đức ấy mà thọ đến trăm năm, khi chết được sinh cõi trời.
"Lại có một trưởng giả tên là Chấp Trì thối giới trả lại cho Phật,
hiện bị ác quỉ đánh đập."
4) Câu hỏi thứ tư: Niệm Phật tam muội này phải chăng chỉ có thể
đối trị các chướng, chỉ được quả báo thế gian, hay còn có thể chiêu
cảm được quả vô thượng Bồ Đề xuất thế về sau này nữa hay
chăng?
Đáp: Cảm được. Vì sao? Như Thập Địa Phẩm trong Hoa Nghiêm
Kinh có nói: "Khởi đầu từ địa thứ nhất cho đến địa thứ mười,
trong mỗi địa một đều có nói về con đường nỗ lực thực hành để
nhập vào địa. Khi hoàn mãn [một] địa, công đức lợi ích xong xuôi
rồi, thì không nói đến việc trụ trên con đường ấy nữa, mà đều kết
thúc nói rằng Các Bồ Tát này tuy tu các thực hành khác, song đều
không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, với các vật dụng tốt
đẹp thượng diệu để cúng dường Tam Bảo." Do lời văn ấy làm
chứng mà biết được là các Bồ Tát cho đến bậc thượng địa đều
thường học niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, thì mới thành tựu
- 49 -
được vô lượng hành nguyện và thành mãn được biển công đức.
Thì huống gì là hàng nhị thừa và phàm phu cầu sinh Tịnh Độ mà
lại không học niệm Phật hay sao. Tại sao vậy? Bởi Niệm Phật tam
muội này vốn gồm đủ hết cả các bốn nhiếp và sáu độ, là sự thực
hành chung, là sự trợ lực chung, [cho tất cả các sự thực hành khác]
vậy.
5) Câu hỏi thứ năm: Bồ Tát từ địa thứ nhất trở lên cùng chứng lý
chân như cùng với Phật, được gọi là sinh vào nhà Phật, tự có thể
làm Phật tế độ chúng sinh, thì cần gì phải học Niệm Phật tam
muội, nguyện được gặp Phật nữa?
Đáp: Luận về chân như thì [chân như] vốn rộng lớn bao la vô bờ,
y như hư không, khó mà đo lường nổi. Ví như một căn phòng lớn
tối ám, thắp lên một ngọn hai ngọn đèn, ánh sáng không đủ tỏa
khắp hết được, nên vẫn còn là tối. Dần dà thắp lên nhiều đèn, tuy
gọi là sáng rồi, nhưng làm sao mà so với ánh sáng mặt trời được.
Trí mà Bồ Tát chứng tuy so sánh các địa với nhau thì có cao thấp
hơn thua, song đâu có thể so với trí của Phật ví như ánh sáng mặt
trời vậy.
Đại Môn Thứ Năm
Trong cửa lớn thứ năm này có bốn phen cân nhắc phán định như
sau:
I. Thứ nhất bàn qua về tu Đạo có kéo dài ra, có thu ngắn lại, nhằm
khiến mau đạt được địa vị không thối chuyển nữa.
II. Thứ hai so sánh về thiền quán giữa cõi này và cõi kia, cốt
khuyên vãng sinh.
III. Thứ ba so sánh hai cảnh tịnh uế hay cũng gọi là vô lậu và lậu
giữa kia và đây.
IV. Thứ tư dẫn thánh giáo chứng rõ, khuyên đời sau sinh tín mà
cầu sinh.
I. Bàn Về Tu Đạo Co Dãn Thứ nhất bàn qua về tu đạo có co có dãn. Phần này có hai lần cân
nhắc phán định: (1) Một là nói về sự co dãn của tu đạo. (2) Hai là
hỏi đáp giải thích.
1) Nói về co dãn: Tất cả chúng sinh không ai lại không ớn khổ cầu
sướng, sợ trói cầu thoát, ai cũng đều muốn mau chứng vô thượng
Bồ Đề. [Song nếu đã muốn thế thì] trước hết là phải phát tâm Bồ
Đề làm đầu. Song tâm này khó mà ý thức rõ, khó mà phát khởi
- 50 -
được. Cho dù có phát được tâm ấy, thì y theo kinh rồi ra còn cần
phải tu mười loại thực hành như sau: (1) tín, (2) tiến, (3) niệm, (4)
giới, (5) định, (6) xả, (7) hộ pháp, (8) phát nguyện, (9) hồi hướng,
(10) tiến đến Bồ Đề. Và thân tu Đạo phải liên tục không đoạn, trải
qua một vạn kiếp như thế thì mới chứng được địa không thối
chuyển nữa.
Trong khi phàm phu thời nay được gọi là tin tưởng nhẹ như lông,
cũng gọi là giả dối chỉ có danh tự thôi, cũng gọi là nhóm không cố
định, cũng gọi là phàm phu ở ngoài Đạo, chưa ra khỏi nhà lửa. Sao
biết được là vậy? Căn cứ theo Bồ Tát Anh Lạc Kinh thời thực hiện
đủ hết các pháp thực hành thuộc các địa vị mà nhập Đạo thì gọi là
Đạo khó thực hành. Lại chỉ trong một kiếp mà còn không thể đếm
biết được số thân phải chịu sinh tử, thì huống gì là trong một vạn
kiếp uổng chịu thiêu đốt đau đớn. Nên nếu mà có thể tin tưởng rõ
ràng được kinh Phật, nguyện sinh Tịnh Độ, thì chỉ một đời, tùy
tuổi thọ dài hay ngắn, lập tức đến ngay địa vị không thối chuyển
nữa, cùng với một vạn kiếp tu Đạo kia công năng ngang bằng.
Các Phật tử sao không chịu xét suy mà bỏ cái khó đi để cầu cái dễ.
Như trong Câu Xá Luận cũng có nói về hai con đường khó thực
hành và dễ thực hành. Khó thực hành là như Luận trình bày:
"Trong suốt ba đại a tăng kỳ kiếp, thì mỗi một kiếp [Bồ Tát] đều
phải thành tựu đầy đủ tất cả các thực hành thuộc sáu ba la mật để
làm tư lương về cả hai mặt phúc và trí. Mỗi một nghiệp thực hành
ấy đều có cả trăm vạn con đường khó thực hành, thì mới hoàn tất
một địa vị. Như thế là con đường khó thực hành vậy." Còn con
đường dễ thực hành là như Luận kia nói rằng: "Nếu do có phương
tiện đặc biệt nào đó mà đạt được giải thoát, thì gọi là con đường
dễ thực hành." Nay đã khuyên quay về Cực Lạc, thì tất cả mọi
nghiệp thực hành trọn đều hồi hướng về đó, chỉ cần chuyên chí,
khi tuổi thọ hết thì sẽ sinh. Được sinh nước ấy rồi thì cuối cùng đạt
được mát rượi giải thoát. Như thế không phải là con đường dễ
hành hay sao? Cần phải biết rõ ý nghĩa này vậy.
2) Hai là hỏi đáp. Hỏi: Đã nói là nguyện vãng sinh Tịnh Độ, thì tùy
theo khi thọ tận liền được vãng sinh. Nói thế có thánh giáo gì làm
chứng hay không?
Đáp: Có bảy phen trích dẫn Kinh Luận ra để chứng rõ: (1) Một là
y theo Đại Kinh nói rằng: "Phật bảo A Nan: Như có chúng sinh
nào ở vào đời nay mà muốn gặp Vô Lượng Thọ Phật, thì phải phát
tâm vô thượng Bồ Đề, rồi tu hành các công đức, nguyện sinh về
- 51 -
nước kia, thì sẽ được vãng sinh [ để mà gặp Phật.]" Thế nên bài
Tán Đại Kinh mới nói: "Nếu nghe đức hiệu A Di Đà, hoan hỉ tán
ngưỡng tâm quy y, ít ra một niệm cũng ích lợi, nhờ đó trọn đủ báu
công đức. Dù cho lửa cháy khắp đại thiên, cũng băng qua thẳng
nghe Phật danh, nghe A Di Đà đâu còn thối, thế nên chí tâm khể
thủ lễ."
(2) Hai là y theo Quán Kinh trong chín phẩm vãng sinh đều có nói:
"Khi lâm chung mà niệm tưởng vẫn chân chính thì sẽ được vãng
sinh."
(3) Ba là y theo Khởi Tín Luận nói rằng: "Dạy cho chúng sinh thì
khuyên quán về chân như bình đẳng là một và là thật. Song cũng
có các Bồ Tát mới phát tâm, thì tâm họ còn yếu ớt, tự thấy là
không thể thường gặp chư Phật để mà chính mình được cúng
dường, nên muốn thối thất. [Với trường hợp này thời] phải biết là
Như Lai có phương tiện rất thù thắng để giữ vững và bảo hộ tín
tâm. Đó là do nhân duyên chuyên tâm niệm Phật mà tùy theo
nguyện được vãng sinh. Do thường gặp Phật như thế nên được lìa
xa ác đạo."
(4) Bốn là y theo Cổ Âm Đà La Ni Kinh nói rằng: "Bấy giờ Thế
Tôn bảo các Tỳ Khưu rằng: Ta sẽ vì các ông mà diễn nói về thế
giới An Lạc ở phương tây, hiện nay có Phật hiệu A Di Đà. Như
trong bốn chúng có ai mà có thể chân chính thọ trì danh hiệu của
Phật ấy, giữ tâm kiên cố, nhớ niệm mãi không quên. Nếu được
mười ngày mười đêm như thế, trừ bỏ các tán loạn, tinh cần tu tập
Niệm Phật tam muội, nếu có thể khiến được niệm niệm không
ngừng, thì trong vòng mười ngày chắc chắn sẽ thấy được Phật A
Di Đà kia, và đều được vãng sinh."
(5) Năm là y theo Pháp Cổ Kinh nói rằng: "Nếu ai vào lúc lâm
chung mà không thể niệm tưởng gì được, thì chỉ cần biết là
phương kia có Phật, rồi tác ý muốn vãng sinh, thì cũng được vãng
sinh."
(6) Sáu là như Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sinh Kinh nói
rằng: "Nếu có người nào khi lâm chung hay chết đọa địa ngục, thì
người thân thuộc trong nhà vì người mất ấy mà niệm Phật hay
tụng kinh, trai tăng, làm phúc. Người mất nhờ đó sẽ ra khỏi địa
ngục vãng sinh Tịnh Độ. Huống gì là ngay hiện giờ chính mình tu
niệm, thì cớ gì lại không được vãng sinh." Thế nên Kinh ấy mới
nói: "Hiện tại thân thuộc vì người mất mà tìm làm phúc đức, thì
- 52 -
cũng như hiến tặng đồ ăn cho người ở xa, thì cố nhiên là họ được
ăn."
(7) Bảy là dẫn đủ mọi Kinh để chứng rõ. Như Đại Pháp Cổ Kinh
nói rằng: "Thiện nam tử thiện nữ nhân nếu có thể thường luôn tập
trung ý tưởng, xưng niệm danh hiệu của chư Phật, thì mười
phương chư Phật và tất cả các hiền thánh thường luôn thấy người
ấy như ở ngay trước mặt. Thế nên Kinh này có tên là Đại Pháp
Cổ. Phải biết là người ấy tùy nguyện mà vãng sinh về mười
phương Tịnh Độ."
Lại Đại Bi Kinh có nói: "Thế nào gọi là đại bi? Nếu chuyên niệm
Phật liên tục không đoạn, thì tùy khi lâm chung chắc chắn được
sinh An Lạc. Nếu lại có thể khuyến khích người khác thực hành
niệm Phật, thì các người ấy đều được gọi là người thực hành đại
bi vậy." Thế nên Niết Bàn Kinh có nói: "Phật bảo đại vương: Giả
như mở kho tàng lớn ra trong vòng một tháng bố thí cho chúng
sinh, thì công đức có được cũng không bằng của người chỉ một lần
mở miệng xưng [danh hiệu] Phật. Công đức người này vượt quá
hơn công đức trước đến mức không thể so sánh được."
Lại Tăng Nhất A Hàm Kinh có nói: "Phật bảo A Nan: Như có
chúng sinh cúng dường y phục, ẩm thực, đồ nằm, và thuốc men
cho khắp người ở một châu Diêm Phù Đề này, thì công đức có
được có nhiều hay không?
"A Nan bạch Phật rằng: Thế Tôn, rất nhiều, rất nhiều vậy. Không
thể đếm hết được.
"Phật bảo A Nan: Nếu có chúng sinh tâm thiện liên tục xưng danh
hiệu Phật trong khoảng vắt sữa bò thôi, thì công đức có được vượt
quá khỏi công đức trước đến mức không thể lượng được, và không
ai lượng được vậy."
Đại Phẩm Kinh nói rằng: "Nếu có người [dù là] tán tâm niệm
Phật, thì cho đến khi chấm dứt khổ, phúc đức của họ vẫn không hề
tận. Nếu có người rải hoa [cúng dường] niệm Phật, thì cho đến khi
chấm dứt khổ, phúc đức của họ cũng vẫn không tận." Thế nên mới
biết niệm Phật ích lợi rất lớn đến mức không thể nghĩ bàn vậy.
Thập Vãng Sinh Kinh cùng các Kinh Đại Thừa đều có các văn làm
chứng, không thể nào trích dẫn hết ra được vậy.
II. So Sánh Thiền Quán Thứ hai là so sánh giữa cõi này và cõi kia để khuyến khích vãng
sinh: Cõi này chỉ toàn là cảnh uế, tưởng thì loạn, khó mà nhập
- 53 -
Đạo. Cho dù có tu đắc, thì cũng chỉ đạt được định thuộc về sự mà
thôi, phần nhiều bị nhiễm trước bởi thích thú cái [hương] vị [của
thiền định.] Lại nữa chỉ có thể điều phục được nghiệp báo để sinh
lên cõi trên hơn nữa, song hưởng thọ hết rồi thì phần đông lại thối
chuyển trở lại. Thế nên Trí Độ Luận mới nói: "Nghe nhiều, trì
giới, thiền, [mà] chưa đắc pháp vô lậu, [thì] tuy có được công
đức, song chưa đủ tin được."
Trong khi nếu muốn quy hướng về Tây phương mà tu tập, thời các
sự cảnh sáng suốt thanh tịnh, định quán dễ thành, trừ được tội lỗi
trong hằng bao kiếp, vĩnh viễn cố định tinh tiến mau lẹ, cuối cùng
đạt được mát rượi giải thoát, như trong Đại Kinh có nói đủ.
Hỏi: Nếu cảnh giới ở Tây phương là hơn hẳn mà vẫn do thiền định
chiêu cảm được, thì các trời thuộc cõi sắc ở cõi [Sa Bà] này[so với
cảnh giới Tịnh Độ] vốn là thua kém, đúng lẽ ra không thể do thiền
định mà chiêu vời được?
Đáp: Nếu luận về tu định [theo phương diện như là tu] nhân, thì tu
định ấy là chung luôn cho cả cõi này và cõi kia. Song cõi kia thuộc
địa vị không thối chuyển nữa, lại thêm có tha lực trì giữ cho, thế
nên mới nói là "hơn hẳn". Trong khi ở cõi này tuy là ra sức tu
định, song chỉ có phần của riêng mình làm nhân mà thôi, thiếu hẳn
tha lực nhiếp trì, nên nghiệp [tu thiền định ấy mà] tận hết rồi, thì
không khỏi phải thối đọa. Do điểm này mà nói là không bằng [tu ở
cõi kia.]
III. So hai cảnh tịnh và uế, lậu và vô lậu Thứ ba là căn cứ theo hai cảnh tịnh và uế của cõi này và cõi kia,
cũng có nghĩa là lậu và vô lậu. Nếu luận cảnh giới của cõi này, thì
nào là ba cõi ác, rồi là gò vực, núi khe, cát muối, gai góc, cỏ nước,
cuồng phong chà xát, chớp nháng sấm sét, hổ sói thú dữ, trộm
cướp hung ác, con cái ngỗ nghịch, hoang vu trống vắng, ba tai họa
phá hoại hết. Còn luận về chính báo thì ba độc tám đảo, buồn lo,
ganh ghét, bệnh nhiều, mạng ngắn, đói khát, lạnh nóng, thường bị
quỉ chủ hại mạng theo đuổi bắt bớ, thật hết sức uế ác không thể nói
hết được Thế nên mới gọi là "hữu lậu", vô cùng là đáng chán.
Còn vãng sinh về cõi kia thời hơn hẳn là căn cứ theo Đại Kinh có
nói: "Người trới ở mười phương chỉ cần sinh về nước đó thì không
ai là không đạt được đủ mọi lợi ích." Tại sao vậy? Bởi một phen
sinh về cõi kia rồi thời bước đi là có hoa sen đỡ gót, ngồi thời có
tòa báu đỡ thân, đi ra là có Đế Thích trước mặt, đi vào là có Phạm
- 54 -
vương theo sau. Tất cả thánh chúng là thân hữu của mình, Phật A
Di Đà là đại sư của ta. Dưới cây báu trong rừng báu tùy ý mình
dạo chơi thỏa thích, trong ao tám đức rửa chân thả hồn. Thân hình
thì đồng mầu vàng kim, tuổi thọ thì bằng ngang với Phật. Học thì
mọi môn cùng tiến, ngừng thì hai Đế trống rỗng dung nhau. Đến
mưới phương cứu tế thì thể theo đại thần thông, tạm thời an nghỉ
thì ngồi nơi ba cửa Không, dạo chơi thì vào con lộ "bát chính", nơi
đến thì đến đại Niết Bàn. tất cả chúng sinh chỉ cần đến được nước
kia thì đều chứng được các ích lợi ấy. Sao không suy xét mà mau
đi đi!
IV. Dẫn Thánh Giáo Làm Chứng Thứ tư là trích dẫn thánh giáo ra để làm chứng cho thấy rõ và
khuyên người đời sau phát sinh tín tâm mà cầu nguyện vãng sinh:
Y theo Quán Phật Tam Muội Kinh có nói: "Bấy giờ trong hội có
mười vị Phật ở mười phương, mỗi ngài đều ở trên hoa đài hiện
giữa hư không mà ngồi kiết già, với Thiện Đức Như Lai ở phương
đông dẫn đầu, nói với đại chúng rằng: Các ông cần phải biết rằng
ta nhớ lại trong quá khứ vô lượng đời về trước có Phật tên là Bảo
Oai Đức Thượng Vương. Khi Phật ấy ra đời thì cũng như nay đây
nói đủ pháp ba thừa. Sau khi Phật ấy diệt vào đời mạt có một tỳ
khưu dẫn chín người đệ tử đi đến chỗ tháp Phật để lễ bái tượng
Phật. Họ thấy một tượng báu oai nghi nhìn rất đẹp, họ chiêm
ngưỡng rồi kính lễ. Trong khi mắt nhìn chăm chăm, mỗi người nói
lên một bài kệ để mà ca ngợi. Sau đó tùy theo tuổi thọ dài ngắn
của mình, mỗi người đều qua đời. Ngay sau khi mạng chung lập
tức sinh về ngay trước Phật. Từ đó trở đi luôn được gặp vô lượng
chư Phật, theo các chư Phật ấy mà tu đủ hết các phạm hành và
đắc được biển Niệm Phật tam muội. Khi đắc tam muội này rồi thì
thấy chư Phật hiện ra ngay trước mắt mà thọ ký cho mình sẽ tùy ý
thích mà thành Phật [ở bất cứ phương nào] trong mười phương.
Phật Thiện Đức ở phương đông tức chính là thân Ta vậy. Còn chư
Phật ở chín phương kia chính là chín người đệ tử của ta khi xưa
vậy. Mười phương Phật Thế Tôn xưa nhân do lễ tháp cùng một bài
kệ ca ngợi mà được thành là Phật, nào phải ai xa lạ mà chính là
mười phương Phật chúng Ta đây vậy.
"Nói rồi, mười phương chư Phật từ trên hư không hạ xuống,
phóng ra ngàn ánh sáng, hiển hiện sắc thân, quang tướng bạch
hào. Rồi mỗi Ngài đều ngồi lên giường tòa của Thích Ca Phật, nói
- 55 -
với A Nan rằng: Ông phải biết là Thích Ca Văn Phật phải tinh tiến
vô số, trăm ngàn khổ hành, để cầu trí huệ Phật mới được quả báo
thân ngày hôm nay. Nay vì ông mà nói pháp này, nên ông phải gìn
giữ lấy lời Phật, mà vì bốn bộ đệ tử đại chúng trời rồng trong đời
vị lai, nói lên các pháp quán tướng đẹp của Phật cùng Niệm Phật
tam muội này.
"Nói lời ấy xong rồi, sau đó hỏi thăm Thích Ca Văn Phật. Hỏi
thăm xong rồi, mỗi Ngài đều quay trở về cõi nước của mình."
Đại môn thứ sáu Trong đại môn thứ sáu này có ba phen cân nhắc phán định:
I. Thứ nhất là đem hết mười phương Tịnh Độ ra mà cùng so sánh
[với A Di Đà Tịnh Độ.]
II. Thứ hai là suy luận về nghĩa.
III. Thứ ba là luận về sự trụ và diệt của các Kinh.
I. So Sánh Với Mười Phương Tịnh Độ Thứ nhất là mười phương Tịnh Độ cùng đem ra để so sánh [với A
Di Đà Tịnh Độ,] phần này có đến ba phen so sánh:
(1) Một là như Tùy Nguyện Vãng Sinh Kinh có nói: "Mười
phương Phật quốc trọn đều đẹp đẽ thanh tịnh, tùy theo nguyện
[mà chúng sinh] đều được vãng sinh." Tuy nhiên tất cả đều không
bằng được nước của Phật Vô Lượng Thọ ở phương tây. Ý gì mà
nói như vậy? Chỉ vì A Di Đà Phật cùng với Quan Âm và Đại Thế
Chí khi mới phát tâm là từ cõi này mà phát, nên đối với chúng sinh
ở đây các Ngài có duyên hơn hết. Do đó nên Thích Ca Phật trong
kinh bao giờ cũng đều ca ngợi khuyên quay về [Tịnh Độ của các
Ngài.]
(2) Hai là căn cứ theo Đại Kinh thì Pháp Tạng Bồ Tát trong khi
gieo nhân, đã ở trước Thế Nhiêu Vương Phật (tức Thế Tự Tại
Vương Phật) phát trọn các thệ nguyện bao la sẽ nhận lấy Tịnh Độ.
Lúc đó Phật kia vì Pháp Tạng Bồ Tát mà nói về hai trăm mười ức
cõi nước của chư Phật cùng nói về các cõi nước tinh thô thuộc
thiện ác trời người, và tất cả trọn đều hiện ra cho thấy. Lúc ấy
Pháp Tạng Bồ Tát nguyện nhận lấy [Tịnh Độ cho riêng Ngài ở]
phương Tây mà thành Phật. Nay Ngài hiện đang ở cõi ấy. Đó là
chứng cớ thứ hai.
(3) Ba là y theo Quán Kinh này thì Vi Đề phu nhân lại xin thỉnh
Tịnh Độ. Như Lai vì Vi Đề phu nhân mà trong ánh sáng bạch hào
- 56 -
hiện ra tất cả Tịnh Độ khắp mười phương. Vi Đề phu nhân bạch
Phật rằng: "Các cõi Phật này tuy đều thanh tịnh, đều rực ánh sáng.
Song nay con muốn là sinh về nơi của A Di Đà Phật là Cực Lạc
thế giới." Đây là chứng cớ thứ ba. Nên đủ rõ là trong các Tịnh Độ
thế giới An Lạc là tối thắng vậy.
II. Xét Về Mặt Nghĩa Lý
Hỏi: Tại sao lại phải mặt hướng về hướng tây mà ngồi, lễ, niệm,
hoặc quán vậy?
Đáp: Do ở Diêm Phù Đề nơi mặt trời mọc thì gọi là sinh, nơi mặt
trời lặn thì gọi là tử. Mượn nơi chỗ chết là chỗ ánh sáng "thần
minh" đi vào để trợ giúp cho nhau được đắc lực, thế nên Pháp
Tạng Bồ Tát nguyện thành Phật tại phương Tây, thương xót mà
tiếp dẫn chúng sinh. Còn ngồi, quán, lễ, niệm v.v... hướng về phía
Phật là tùy theo lễ nghi của thế gian. Nếu là thánh nhân được quả
báo tự tại muốn bay đâu là bay rồi, thì không cần phải bàn đến
phuơng hướng. Song là người phàm phu thời thân tâm theo nhau,
nên nếu hướng về phương khác thì về Tây ắt phải khó.
Thế nên Trí Độ Luận có nói [về việc A Di Đà Phật trợ giúp lúc
lâm chung như sau]: "Có một tỳ khưu khi còn khỏe mạnh mỗi ngày
đều tụng A Di Đà Kinh và niệm Bát Nhã Ba La Mật. Đến lúc mạng
chung bảo các đệ tử rằng: A Di Đà Phật cùng chư thánh chúng
hiện đang ở trước mặt ta. Nói xong chắp tay quy y, trong thoáng
chốc là xả thân. Sau đó đệ tử y theo phép hỏa táng, dùng lửa thiêu
thân. Mọi thứ thuộc thân đều cháy tiêu hết, duy có chiếc lưỡi vẫn
còn y nguyên như xưa nay. Đệ tử mới thu nhặt lấy mà cất tháp
cúng dường." Long Thụ Bồ Tát giải thích rằng: "Do tụng A Di Đà
Kinh cho nên lúc lâm chung Phật tự đến đón. Do niệm Bát Nhã Ba
La Mật cho nên chiếc lưỡi không tiêu." Do các văn này làm chứng
đủ rõ là tất cả các nghiệp tu hành chỉ cần hồi hướng về cõi kia, thì
không ai không sinh về vậy.
Thế nên Tu Di Tứ Vực Kinh mới nói [về việc hướng mặt về hướng
Tây như sau]: "Vào lúc trời đất mới mở ra, chưa có mặt trời, mặt
trăng, sao trời các thứ. Người cõi trời lúc ấy có xuống thì cũng chỉ
dùng ánh sáng trên đỉnh đầu mình mà chiếu thấy. Bấy giờ người
dân cõi này phần nhiều phải chịu khổ não. Do đó mà A Di Đà
Phật sai hai Bồ Tát một tên Bảo Ứng Thanh, hai tên Bảo Cát
Tường, tức chính là Phục Hy và Nữ Oa vậy. Hai Bồ Tát này bàn
tính với nhau đến trời Phạm thiên thứ bảy lấy bảy thứ báu ở đấy,
- 57 -
đem đến cõi này tạo thành mặt trời, mặt trăng, và hai mươi tám vì
tinh tú, để chiếu sáng cho thiên hạ. Rồi phân định thành bốn thời
xuân. thu, đông, hạ. Đâu đó rồi, hai vị Bồ Tát mới nói cùng nhau
là: Sở dĩ mà mặt trời, mặt trăng, hai mươi tám tinh tú này mà đi
theo hướng Tây là vì tất cả các người trời và dân gian đều cùng
dập đầu lạy A Di Đà Phật, thế nên mặt trời, mặt trăng, và tinh tú
đều phải chuyển tâm hướng về Phật ấy, thế nên mới lưu chuyển
theo hướng Tây vậy."
III. Sự Trụ Diệt Của Các Kinh
Thứ ba là luận bàn về sự trụ và diệt của các Kinh. Nghĩa là một
thời chính Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật kéo dài năm trăm năm,
tượng Pháp kéo dài một ngàn năm, và mạt Pháp kéo dài mười ngàn
năm. Chúng sinh diệt tận thì các Kinh ắt phải diệt hết. Như Lai
thương xót các chúng sinh bị thiêu đốt đớn đau, thế nên mới đặc
biệt lưu giữ Kinh này trụ lại trăm năm nữa. Lấy lời văn này làm
chứng, thì đủ rõ là nước kia tuy là Tịnh Độ, song bản thể thì chung
luôn cho cả các phẩm thượng hạ. Biết rõ tướng là vô tướng thì sẽ
sinh địa vị thượng phẩm, còn phàm phu trong nhà lửa thì luôn cứ
theo tướng mà vãng sinh vậy.
Đại môn thứ bảy Trong đại môn thứ bảy này gồm có hai phen cân nhắc phán định:
I. Trong môn cân nhắc phán định thứ nhất, lấy tướng của cõi này
và cõi kia để cân nhắc phán định về trói buộc và giải thoát.
II. Kế đến thứ hai là nói về sự tu Đạo giữa cõi này và cõi kia, ra
công nặng nhẹ, và được báo chân ngụy ra sao, nên mới khuyên
quy hướng về cõi kia.
I. Theo Tướng Phán Định Trói Buộc Và Giải Thoát
Thứ nhất chọn lấy tướng của cõi này và cõi kia để cân nhắc phán
định về trói buộc và giải thoát: Nếu chọn lấy tướng thanh tịnh của
phương Tây thì mau được giải thoát, thuần hưởng cực lạc, mắt trí
mở sáng. Còn nếu thọ nhận lấy tướng ô uế của cõi này thì chỉ có
cái sướng do vọng tưởng mà nên, si mù, trói buộc, lo âu sợ hãi.
Hỏi: Theo các Kinh Đại Thừa đều nói rằng: "Không có tướng mới
là con đường ra khỏi ách yếu nhất, còn chấp tướng là câu thúc trở
ngại, không tránh khỏi vướng trần." Nay lại khuyên chúng sinh xả
uế thích tịnh, thì nghĩa ấy là sao?
- 58 -
Đáp: Nghĩa của ông không được chuẩn. Tại sao vậy? Thường thì
tướng có hai loại:
(1) Một là theo cảnh năm trần thuộc cõi dục mà vọng ái [cảnh mà
thành cái] tham ô nhiễm, tùy theo cảnh mà chấp bám. Các thứ
tướng như thế được gọi là trói buộc.
(2) Hai là ái công đức của Phật nên nguyện sinh Tịnh Độ. Tuy đó
cũng gọi là tướng, song lại là giải thoát. Cớ sao biết là vậy? Như
Thập Địa Kinh có nói: "Chính ngay Bồ Tát thuộc địa thứ nhất mà
còn phải quán riêng hai Đế. Vận tâm tác ý trước hết phải theo
tướng mà cầu, sau cùng mới thành vô tướng. Do từ từ tăng tiến mà
thể nhập vào đại Bồ Đề. Cho đến tâm sau hết của địa thứ bảy thì
tâm dựa theo tướng mới chấm dứt. Khi nhập vào địa thứ tám thời
dứt tuyệt không còn theo tướng cầu nữa, và mới được gọi là sự
thực hành không cần ra công sức (vô công dụng hành)." Thế nên
Luận có nói: "Từ địa thứ bảy trở lại, thì có chướng ngại là ác
tham, và có thiện tham để đối trị. Đến địa thứ tám trở lên thì thiện
tham là chướng ngại mà vô tham là đối trị." Huống gì giờ đây
nguyện sinh Tịnh Độ, hiện tại tuy là phàm phu ngoài Đạo, song
thiện căn mình tu đều là do ái công đức của Phật mà sinh, thì lẽ
nào lại là trói buộc được. Nên Niết Bàn Kinh có nói: "Tất cả chúng
sinh có hai loại ái. Một là thiện ái, hai là bất thiện ái. Bất thiện ái
duy chỉ các kẻ ngu mới cầu [ái ấy], còn thiện pháp ái là [ái mà]
chư Bồ Tát cầu." Thế nên Tịnh Độ Luận mới nói: "Vị thanh tịnh
quán cõi nước Phật, vị Đại Thừa nhiếp thọ chúng sinh, vị theo sự
khởi hành nguyện lấy Phật độ, vị trụ trì đến cùng không thành
uổng dở..." Có vô lượng vị Phật đạo như thế, nên tuy là giữ lấy
tướng nhưng không phải là loại chấp trước trói buộc. Lại nữa
tướng mà Tịnh Độ kia nói tức chính là tướng vô lậu, là tướng vô
tướng vậy.
II. So Sánh Về Sự Dụng Công Tu Đạo
Trong đoạn thứ hai này nói về sự dụng công tu Đạo nặng và nhẹ
giữa cõi này và cõi kia và có được quả báo chân và ngụy: Nếu
muốn phát tâm quay về Tây chỉ cần một ít thời lễ lạy, quán tưởng
và niệm v.v..., thì tùy theo tuổi thọ dài ngắn, đến khi lâm chung
đều có đài sáng nghinh tiếp, về ngay phương kia, vào địa vị không
thối chuyển nữa. Thế nên Đại Kinh mới nói: "Người trời mười
phương sinh về nước tôi, nếu không đến trọn cùng chỗ diệt độ mà
vẫn còn thối chuyển, thì nguyện không nhận lấy chính giác."
- 59 -
Trong khi ở phương này có nhiều phen tu đủ cả thí, giới, nhẫn,
tiến, định, huệ, đi nữa, mà chưa đủ mười ngàn kiếp trở lại, thì vẫn
chưa thoát khỏi nhà lửa cùng điên đảo đọa lạc. Nên mới gọi là
dụng công thì hết sức nặng mà được báo thì vẫn là giả ngụy.
Đại Kinh lại nói: "Người sinh về nước ta cắt ngang đoạn hết năm
đường ác." Đó là chiếu theo cõi tịnh của Di Đà, thì năm đường
luân hồi của Sa Bà đều gọi là đường ác. Địa ngục, ngạ quỉ, súc
sinh, là nơi chúng sinh thuần ác quy về, nên gọi là đường ác.
Người, trời của Sa Bà là do tạp nghiệp mà hướng về, nên cũng gọi
là đường ác.
Nếu y theo phương này mà tu trị đoạn trừ, thì trước tiên là đoạn
kiến hoặc, lìa bỏ nhân của ba đường ác, diệt hết quả của ba đường
ác. Sau đó đoạn trừ tu hoặc, lìa bỏ nhân của trời người, tuyệt dứt
quả của trời người. Đó đều là theo cách tuần tự đoạn trừ, không
được gọi là "cắt ngang". Còn nếu được vãng sinh về tịnh quốc của
Di Đà, thì năm đường luân hồi của Sa Bà đồng một lúc cùng xả bỏ
hết, nên gọi là "cắt ngang" năm đường ác, có nghĩa là cắt mất quả
của năm đường ác vậy. Đường ác tự nhiên đóng lại, nghĩa là đóng
ngăn nhân của năm đường ác vậy. Đó là nói rõ về những gì được
lìa bỏ [khi sinh về Cực Lạc.] Còn nói con đường thù thắng không
cùng cực là nêu rõ lên những gì đắc được [khi sinh về cõi ấy.]
Nếu có thể tác ý hồi nguyện hướng về Tây thì thượng phẩm là suốt
một đời cho đến hạ phẩm chỉ mười niệm, không ai không được
sinh. Một khi đến nước kia rồi, thì nhập ngay vào tụ chính định, so
với mười ngàn kiếp tu Đạo ở cõi này, công bằng ngang nhau vậy.
Đại môn thứ tám
Trong môn thứ tám gồm ba phen cân nhắc phán định:
I. Thứ nhất là nêu qua các Kinh để làm chứng, khuyến khích bỏ
cõi này chuộng cõi kia.
II. Thứ hai là so sánh giữa hai Phật Di Đà và Thích Ca.
III. Thứ ba là giải thích về ý nguyện vãng sinh.
I. Lấy Kinh Làm Chứng
Thứ nhất là lược đưa ra các Kinh Đại Thừa để làm chứng khuyến
khích xả bỏ cõi này thích cầu cõi kia: Một là Đại Kinh gồm hai
quyển được nói trên núi Kỳ Xà Quật. Hai là Quán Kinh một bộ
chính thức được nói ở hai hội tại vương cung và núi Kỳ Xà. Ba là
Vô Lượng Thọ Kinh tiểu quyển được nói một lần tại Xá Vệ. Bốn
- 60 -
lại có Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sinh Kinh làm chứng cớ rõ
ràng. Năm lại có Vô Lượng Thanh Tịnh Giác Kinh gồm hai quyển
chính thức nói trong một hội. Sáu còn có Thập Vãng Sinh Kinh
một quyển. Còn có rất nhiều chỗ nói đến ca ngợi ở trong các Kinh
Luận Đại Thừa khác, như Thỉnh Quán Âm Đại Phẩm Kinh v.v...
Lại như các bộ Luận của Long Thụ, Thiên Thân v.v... ca ngợi
khuyến sinh không phải là ít. Tịnh Độ các phương khác đều không
được nhắc nhở dặn dò như thế.
II. So Sánh Hai Phật Thích Ca Và Di Đà
Thứ hai là so sánh hai Phật Di Đà và Thích Ca: Tức là Phật Thích
Ca Như Lai ở cõi này trụ thế tám mươi năm, tạm hiện ra rồi đi
mất, đi rồi không trở lại nữa. So với chư thiên ở Đao Lợi thời
không đến một ngày. Lại khi Thích Ca Phật còn tại thế, duyên cứu
độ cũng rất yếu, như câu chuyện cứu người bệnh hoạn ở nước Tỳ
Xá Ly v.v... Chuyện như thế nào? Lúc ấy nhân dân ở Tỳ Xá Ly
mắc phải sáu thứ bệnh dữ: Một là mắt đỏ như máu, hai là hai tai
chảy mủ, ba là mũi tuôn máu ra, bốn là lưỡi cứng lại nói không ra
tiếng, năm là ăn gì vào cũng thành ra thô cứng, sáu là tâm thức bế
tắc y như người say. Có năm dạ xoa còn gọi là Ngật Noa Ca La,
mặt đen như mực, có đến năm mắt, răng nanh chĩa lên, chuyên hút
tinh khí người. Lương y Kỳ Bà ra hết tài nghệ mà vẫn không sao
cứu chữa được. Bấy giờ có Nguyệt Cái trưởng giả cầm đầu dẫn dắt
các bệnh nhân đồng đến nơi Phật, khấu đầu cầu Phật xót thương.
Lúc ấy Thế Tôn khởi lòng thương xót không cùng, bảo các bệnh
nhân rằng: "Ở phương Tây có A Di Đà Phật, hai Bồ Tát Quán Thế
Âm và Đại Thế Chí. Các ông phải một lòng chắp tay cầu gặp."
Thế nên mọi người đều làm theo Phật khuyên, chắp tay cầu xin.
Bấy giờ Phật kia phóng ánh sáng lớn, Quán Âm và Thế Chí đồng
thời hiện đến, nói đại thần chú. Tất cả mọi người bệnh khổ tiêu trừ,
bình phục như xưa.
Đúng ra thần lực của hai Phật hoàn toàn ngang nhau, song Thích
Ca Như Lai không hiện khả năng của mình ra là cốt để cho thấy
chỗ hay của Phật kia, ý Ngài muốn khiến tất cả chúng sinh ai cũng
đều quy về Phật kia vậy. Thế nên Thích Ca Phật chỗ nào trong
Kinh cũng ca ngợi khuyên quy về, phải hiểu là ý này vậy. Do đó
Đàm Loan pháp sư do ý chính là quy về Tây, nên kèm bên Đại
Kinh mà dâng lời ca ngợi rằng: "An Lạc Thanh Văn Bồ Tát chúng,
người trời trí huệ đều đạt thông, thân tướng trang nghiêm không
- 61 -
sai khác, chỉ thuận phương khác mà nêu danh. Dung nhan đẹp đẽ
không gì sánh, vóc hình tuyệt diệu vượt nhân thiên, thân vốn hư vô
thể vô cực, nên con đảnh lễ Bình Đẳng Lực."
III. Giải Thích Tâm Ý Vãng Sinh
Thứ ba là giải thích về tâm ý muốn vãng sinh. Trong đây gồm hai
giải thích: (1) Một là giải thích về tâm ý vãng sinh. (2) Hai là hỏi
đáp giải thích.
1) Thứ nhất hỏi rằng: Nay nguyện sinh Tịnh Độ, chưa rõ phải tác ý
như thế nào?
Đáp: Chỉ muốn sao cho mau thành được việc lợi mình lợi người,
lợi vật sâu rộng, mười [bậc thuộc địa vị] Tín [và ba mươi bậc
thuộc] ba [địa vị] Hiền, nhiếp thọ chính Pháp, khế hội [lý] không
hai, thấy chứng Phật tính, hiểu rõ thật tướng, quán chiếu tỏ tâm, có
không hai Đế, nhân quả trước sau, mười địa hơn thua, ba nhẫn ba
đạo, kim cương vô ngại, chứng đại Niết Bàn, chuyển Đại Thừa
khắp, muốn trụ không thời hạn, để tận hết biển sinh tử vô biên.
2) Hai là hỏi đáp. Phần hỏi này có ba câu [trả lời]: Hỏi: Nguyện
sinh Tịnh Độ là muốn đem lại ích lợi cho vạn vật. Nếu đúng vậy,
thì chúng sinh mà mình phải cứu bạt hiện đang ở ngay cõi này, đã
phát được tâm ấy thì phải ở cõi này mà cứu bạt chúng sinh khổ
mới phải, chứ tại sao đã được tâm ấy rồi mà trước hết lại nguyện
sinh Tịnh Độ? Tợ như là bỏ chúng sinh mà tự cầu lấy niềm an lạc
của Bồ Đề vậy?
Đáp: (1) Nghĩa ông nói ấy không được chuẩn. Tại sao? Như Trí
Độ Luận có nói: "Ví như hai người đều thấy cha mẹ quyến thuộc
mình bị chìm dưới khe sâu. Một người chạy thẳng đến ra hết sức
cứu, song sức không cứu nổi nên cũng bị chìm theo. Còn người kia
bỏ chạy đi xa tìm một chiếc thuyền chèo đến cứu vớt, khiến đều
được thoát nạn." Bồ Tát cũng vậy, khi chưa phát tâm thì cũng lưu
chuyển trong sinh tử chẳng khác gì chúng sinh. Song khi đã phát
Bồ Đề tâm rồi thì trước hết nguyện vãng sinh Tịnh Độ để lấy
thuyền Đại Bi, chèo biện tài vô ngại, mà vào trong biển sinh tử để
cứu độ chúng sinh.
(2) Hai là Đại Luận lại nói: "Bồ Tát sinh Tịnh Độ có đủ hết các đại
thần thông, biện tài vô ngại, mà khi giáo hóa chúng sinh còn
không thể khiến chúng sinh sinh thiện diệt ác, [không thể khiến
cho chúng sinh được] nẻo đạo tăng trưởng, địa vị thăng tiến, đúng
như ý của Bồ Tát. [Thì huống gì] nếu lại ở ngay trong uế độ mà tế
- 62 -
bạt, thì sẽ thiếu hẳn không thể có lợi ích đó được. Giống như bắt
gà mà cho vào nước thì lẽ nào lại không ướt cho được."
(3) Ba là bài tán Đại Kinh nói rằng: "Cõi Phật An Lạc chư Bồ Tát;
khi phải tuyên thuyết tùy trí huệ; với mình, vạn vật, bặt ngã sở;
sạch tợ đóa sen chẳng nhiễm trần; tiến dừng qua lại như thuyền
xuôi; lo việc lợi an bỏ xa gần; người, ta, như không, dứt hai
tưởng; đuốc huệ thắp lên chiếu đêm trường; ba minh sáu thông
đều đã đủ; vạn hành Bồ Tát quán trong tâm; công đức thế ấy vô
biên lượng; thế nên chí tâm nguyện sinh về."
Đại môn thứ chín
Trong đại môn thứ chín này gồm hai phen cân nhắc phán định:
I. Thứ nhất là khổ và sướng, thiện và ác, đối nhau.
II. Thứ hai là so sánh về tuổi thọ dài ngắn giữa cõi này và cõi kia.
I. Khổ Sướng, Thiện Ác Tương Đối
Trong đoạn thứ nhất này lại gồm hai phần: (1) Một là khổ và
sướng, thiện và ác, đối nhau. (2) Hai là dẫn Đại Kinh làm chứng.
1) Trước hết nói khổ và sướng, thiện và ác, đối nhau là: Ở trong
thế giới Sa Bà này tuy có cả hai báo khổ và sướng, song luôn luôn
sướng thì ít mà khổ thì nhiều. Nặng thì ắt ba đường thiêu đốt đớn
đau, nhẹ thì trong cõi trời người đao binh, tật bệnh, liên tục đổ đến.
Bao kiếp lâu xa đến nay không có lúc nào ngưng dứt. Cho dù có
chút cái sướng của trời người, thì cũng y như bọt nước, chớp
nháng, lóe lên rồi diệt liền. Thế nên mới được gọi là "chỉ duy có
khổ, chỉ duy có ác" mà thôi. Trong khi cõi tịnh của Di Đà, nước,
chim, cây rừng, thường phát ra âm pháp, tuyên rõ lên đạo giáo đầy
đủ minh bạch, khiến cho [người nghe được] ngộ nhập.
2) Hai là dẫn thánh giáo để làm chứng, như Tịnh Độ Luận có nói:
"Mười phương trời người sinh về nước ấy, tức sẽ không khác gì
với hàng tịnh tâm Bồ Tát. Tịnh tâm Bồ Tát tức cùng với thượng địa
Bồ Tát rồi ra sẽ đồng đắc được tịch diệt nhẫn, thế nên sẽ không
còn thối chuyển nữa."
Lại trích dẫn trong bốn mươi tám nguyện của Đại Kinh ra năm ích
lợi lớn như sau: (1) Thứ nhất Đại Kinh nói rằng: "Người trời trong
mười phương khi sinh về nước ta, nếu không phải một sắc vàng
ròng hết, thì ta nguyện không nhận lấy chính giác." (2) Thứ hai lài:
"Người trời trong mười phương khi sinh về nước ta, nếu hình sắc
không đồng nhau, có người đẹp kẻ xấu, thì ta nguyện không nhận
- 63 -
lấy chính giác" (3) Thứ ba là: "Người trời trong mười phương khi
sinh về nước ta, mà không đắc túc mệnh trí, không biết được các
sự việc của ít ra là trăm ngàn ức na do tha kiếp, thì ta nguyện
không nhận lấy chính giác." (4) Thứ tư là: "Người trời trong mười
phương khi sinh về nước ta, mà không đắc được thiên nhĩ thông,
không nghe được những điều của ít ra là trăm ngàn ức na do tha
chư Phật nói ra, không thọ trì hết được, thì ta nguyện không nhận
lấy chính giác." (5) Thứ năm là: "Người trời trong mười phương
khi sinh về nước ta, mà nếu không đắc được tha tâm trí, không biết
được tâm niệm của các chúng sinh trong ít ra là trăm ngàn ức na
do tha các cõi Phật, thì ta nguyện không nhận lấy chính giác."
Nếu muốn luận về các điều lợi ích của cõi kia, thì khó mà kể ra hết
được. Song chỉ cần nguyện sinh về là ắt hẳn cũng không thể nghĩ
bàn rồi. Thế nên phương kia "chỉ duy là thiện, chỉ duy là lạc,"
không khổ, không ác vậy.
II. Tuổi Thọ Dài Ngắn
Thứ hai là nói về tuổi thọ dài ngắn: Phương này tuổi thọ mà nhiều
nhất không quá trăm năm. Trong vòng trăm năm ấy ít người sống
lâu hơn, mà phần đông sống ngắn hơn. Hoặc còn trẻ đã chết yểu,
cho đến còn bé đã mất mạng, hoặc là sảy thai mà tổn thương. Tại
sao lại ra cớ ấy? Giai do là vì chúng sinh khi gieo nhân rất là tạp,
thế nên lúc thọ báo không thể nào giống như nhau được. Do đó
Niết Bàn Kinh có nói: "Khi tạo nghiệp là đen, thì quả báo cũng là
đen. Khi tạo nghiệp trắng, thì quả báo cũng trắng. Tịnh và tạp
[nghiệp] cũng giống như vậy." Lại căn cứ theo Tịnh Độ Bồ Tát
Kinh có nói: "Con người thọ trăm năm, thì đêm đen đã chiếm mất
một nửa, tức là giảm mất năm mươi năm rồi. Lại ngay trong năm
mươi năm ấy, thì mười lăm trở lại chưa biết gì thiện ác, và tám
mươi trở lên thì đã lú lẫn yếu suy, nên phải chịu cái khổ già lão.
Trừ hết các năm ấy ra thì chỉ còn lại mười lăm năm mà thôi.
Trong mười lăm năm ấy, ngoài thì vua quan ép bức phải trường
chinh ải xa hoặc bị nhốt trong lao ngục, trong thì gia đình lành
dữ, đủ chuyện lao phiền, lo lắng ưu sầu, cầu mãi cũng không đủ.
Cứ thế mà suy, thì có thể có được bao lúc để mà tập tu đạo
nghiệp?" Xét kỹ như thế lẽ nào không thấy thê thảm hay sao mà
còn không biết chán? Lại Kinh kia còn nói: "Thế gian người đời
này, thường cứ trải qua một ngày một đêm là có đến tám ức bốn
ngàn vạn niệm. Mỗi niệm khởi ác là thọ một ác thân, mười niệm
- 64 -
mà niệm ác là chịu mười đời ác thân, trăm niệm niệm ác là thọ
trăm ác thân. Nếu tính trong một đời chúng sinh mà trăm năm
niệm ác, thì ác sẽ biến cùng hết quốc độ ba ngàn mà thọ các ác
thân. Ác pháp đã vậy thì thiện pháp cũng thế: Một niệm khởi thiện
thì thọ một thiện thân, trăm niệm niệm thiện, thì thọ trăm thiện
thân. Nếu tính chúng sinh ở trong một đời mà trăm năm niệm
thiện, thì thiện thân cũng vậy, biến khắp quốc độ ba ngàn." Nếu
được năm, mười năm, niệm A Di Đà Phật, hoặc nhiều năm hơn
nữa, thì sau đó sinh về Vô Lượng Thọ quốc, sẽ thọ pháp thân Tịnh
Độ đến hằng sa vô tận, không thể nghĩ bàn vậy.
Nay đã ở uế độ ngắn ngủi, mạng báo chẳng bao xa. Nếu sinh vào
tịnh quốc của A Di Đà, thời tuổi thọ lâu dài không thể nghĩ bàn.
Thế nên Vô Lượng Thọ Kinh mới nói: "Phật bảo Xá Lợi Phất:
Phật ấy cớ gì hiệu A Di Đà? Xá Lợi Phất, người trời mười phương
vãng sinh nước kia, tuổi thọ dài lâu trăm ngàn ức kiếp, bằng
ngang với Phật, nên mới hiệu là A Di Đà." Mỗi vị hãy cân nhắc
cái lợi to lớn này mà đều nên nguyện vãng sinh vậy.
Lại Thiện Vương Hoàng Đế Tôn Kinh có nói: "Như có người học
đạo muốn vãng sinh về A Di Đà Phật quốc ở phương tây, nên ngày
đêm ức niệm hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc
bốn ngày, hoặc năm ngày, cho đến sáu ngày, bảy ngày. Nếu trong
khoảng ấy mà còn hối muốn hoàn, thì nghe ta nói công đức của
Thiện Vương này, vào lúc gần mạng chung sẽ có tám Bồ Tát đều
cùng bay lại nghinh đón người ấy, đưa đến A Di Đà Phật quốc ở
phương tây, rốt không ngừng ở giữa." Từ đây trở xuống lại dẫn kệ
tán Đại Kinh làm chứng. Kệ tán rằng: "Nếu chúng sinh nào sinh
An Lạc; đều sẽ có đủ băm hai tướng; trí huệ mãn túc nhập thâm
pháp; cứu thông Đạo yếu không chướng ngại; tùy căn lợi độn
thành tựu nhẫn, ba nhẫn cho đến không thể nói; túc mệnh năm
thông thường tự tại; đến Phật không còn tạp ác thú; trừ sinh
phương khác đời năm trược; thị hiện đồng như đại Mâu Ni; sinh
An Lạc quốc thành đại lợi, thế nên chí tâm nguyện sinh về."
Đại môn thứ mười
Trong đại môn thứ mười này gồm hai phen cân nhắc phán định:
I. Thứ nhất là y theo Đại Kinh dẫn chứng để chứng thành.
II. Thứ hai là giải thích về ý nghĩa hồi hướng.
I. Y Đại Kinh Dẫn Chứng
- 65 -
Thứ nhất là y theo Đại Kinh dẫn loại để chứng thành là: Mười
phuơng chư Phật không ai không khuyên quy hướng về phương
Tây, mười phương Bồ Tát không ai không đồng sinh, mười
phương người trời mà có ý [nguyện vãng sinh] thì cùng quy về.
Nên mới biết sự việc [vãng sinh phương Tây] ấy là không thể nghĩ
bàn, thế nên lời tán Đại Kinh rằng: "Thần lực không cùng A Di
Đà; mười phương vô lượng Phật ngợi ca; phương đông hằng sa
chư Phật quốc; Bồ Tát vô số đến ngưỡng chiêm; và còn cúng
dường An Lạc quốc; Bồ Tát Thanh Văn chư đạo chúng; nghe nhận
kinh pháp tuyên Đạo hóa; chín phương còn lại cũng y vậy."
II. Giải Thích Nghĩa Hồi Hướng
Thứ hai là giải thích ý nghĩa hồi hướng: Do bởi tất cả chúng sinh
đã có Phật tính, người người đều có tâm nguyện thành Phật. Song
y theo nghiệp tu hành chưa mãn mười ngàn kiếp trở lại, thì vẫn
chưa xuất ra khỏi cõi lửa, không miễn khỏi luân hồi. Thế nên
thánh giả thương cho phải chịu khổ lâu dài như vậy, mà khuyên
hồi hướng phương Tây để thành tựu được đại lợi ích. Song công
năng hồi hướng này không ra khỏi sáu thứ. Sáu là gồm những gì?
(1) Một là đem hết bao nhiêu nghiệp tu hành hồi hướng về Di Đà.
Khi đã về đến nước kia rồi, thì sẽ có được sáu thần thông mà đi
khắp cứu tế chúng sinh. Như thế chính là nghĩa "không trụ Đạo"
vậy. (2) Hai là hồi nhân hướng về quả. (3) Ba là hồi hạ hướng về
thượng. (4) Bốn là hồi chậm hướng về mau, đây là do không trụ ở
thế gian nữa vậy. (5) Năm là hồi tâm bi niệm thí cho chúng sinh
hướng về thiện. (6) Sáu là hồi nhập [trở lại cõi này, và như vậy là]
trừ bỏ đi tâm phân biệt [cõi này cõi kia.] Công năng hồi hướng chỉ
gồm trong sáu nghĩa ấy. Thế nên Đại Kinh có nói: "Hễ chúng sinh
nào mà sinh nước ta, thì tự nhiên mà tiến lên vượt hẳn ra khỏi các
thực hành của các địa vị thông thường, cho đến tận mức thành tựu
Phật đạo, không hề bị nạn lùi lại." Nên kệ tán Đại Kinh nói rằng:
"An Lạc Bồ Tát Thanh Văn chúng; thế giới phương này không
sánh được; Thích Ca vô ngại đại biện tài; nêu các thí dụ thấy ít
phần; ăn mày cùng khổ so đế vương; đế vương lại so kim luân
vương; cứ thế so lên hết sáu trời; tuần tự hơn nhau như dụ đầu;
đem sắc tướng trời dụ chúng kia; ngàn vạn ức phần chẳng sánh
nổi; đều do nguyện lực Pháp Tạng thành; khể thủ đảnh lễ Đại Tâm
Lực."
- 66 -
Đại môn thứ mười một
Trong đại môn thứ mười một này tóm lược có hai phen cân nhắc
phán định như sau:
I. Thứ nhất là khuyên tất cả chúng sinh nương vào thiện tri thức
mà tác ý nguyện hướng về Tây.
II. Thứ hai là luận về duyên sinh sau khi chết hơn kém nhau ra
sao.
I. Khuyên Nương Thiện Tri Thức
Thứ nhất là khuyên nương vào thiện tri thức: Y theo Pháp Cú Kinh
[nói về tư cách] làm thiện tri thức cho chúng sinh: "Có Bảo Minh
Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn, thế nào gọi là thiện tri thức?
Phật nói: Thiện tri thức là người có thể nói về pháp thâm sâu, tức
các pháp không, vô tướng, vô nguyện, các pháp bình đẳng, không
nghiệp không báo, không nhân không quä, cho đến chỗ cùng cực
thời như như, trụ nơi thật tế. Song ở chỗ cùng cực hết là Không ấy
mà bừng lên kiến lập tất cả các pháp. Thì như thế gọi là thiện tri
thức. Thiện tri thức ấy là cha mẹ của các ông, do nhờ [thiện tri
thức] nuôi dưỡng nên thân Bồ Đề của các ông vậy. Thiện tri thức
ấy là con mắt của các ông, do [nhờ thiện tri thức mà các ông mới]
thấy được tất cả các con đường thiện và ác vậy. Thiện tri thức ấy
là chiếc thuyền lớn cho các ông, bởi [chính thiện tri thức này]
chuyển vận các ông ra khỏi biển sinh tử vậy. Thiện tri thức ấy là
dây thừng bện chắc cho các ông, do [thiện tri thức] có thể kéo
nhấc các ông ra khỏi sinh tử vậy."
Lại xin khuyên thêm là tuy làm thiện tri thức cho chúng sinh,
nhưng cũng phải quy hướng về Tây. Tại sao vậy? Do ở trong cõi
lửa này các cảnh thuận nghịch rất nhiều, phần đông đều bị lui sụt
khó mà ra khỏi. Thế nên Xá Lợi Phất ở cõi này phát tâm tu Bồ Tát
hành đã được sáu mươi kiếp, mà do nhân duyên ác tri thức xin
mắt, đến phải thối chuyển. Mới thấy là cõi lửa này tu Đạo khó vô
cùng. Do đó mà khuyên quay về phương Tây. Một phen được vãng
sinh là ba học tự nhiên tiến vượt lên, ngàn vạn pháp thực hành đều
sẵn đủ hết. Nên Đại Kinh mới nói: "Di Đà tịnh quốc không có chỗ
nào để tạo ác hết, dù chỉ ác nhỏ như cọng lông tóc mà thôi."
II. Luận Về Sinh Duyên Hơn Kém
Thứ hai là luận về sau khi chết chúng sinh thọ sinh hơn kém ra
sao: Chúng sinh cõi này khi hết tuổi thọ mạng chung, thì không ai
- 67 -
không nương theo hai nghiệp thiện ác, luôn bị thần chủ mạng dẫn
đi, rồi theo phiền não vọng ái mà nương nhau thọ sinh. Cứ thế đã
từng vô số kiếp nay mà không sao miễn khỏi. Nếu có thể sinh tín
mà quy hướng về Tịnh Độ, đốc thúc tâm ý, chuyên chú tinh cần,
thì vào lúc mệnh chung, A Di Đà Phật, Quán Âm cùng thánh
chúng đem đài vàng đến nghinh đón. [Lúc ấy] hành giả mừng vui
đi theo, chắp tay ngồi trên đài, trong khoảng khắc là đến. [Đến rồi,
mọi thứ] không gì không khoan khoái an lạc, cho đến khi thành
Phật.
Lại nữa tất cả chúng sinh tạo nghiệp khác nhau, gồm có ba loại,
gọi là thượng, trung, và hạ. Loại nào thì cũng phải đến trước Diêm
La mà chịu xử phán. Nếu có thể do nhân duyên tín Phật mà
nguyện sinh Tịnh Độ, cùng bao nhiêu nghiệp tu hành đều đem hồi
hướng, thì đến lúc mạng chung, Phật sẽ đích thân đến nghinh đón,
khỏi phải qua Tử Vương vậy.
Đại môn thứ mười hai
Trong đại môn thứ mười hai chỉ có một phen cân nhắc phán định
thôi, chính là y theo Thập Vãng Sinh Kinh làm chứng để khuyên
vãng sinh vậy. Như [khi] Phật nói về việc sinh A Di Đà Phật quốc,
thì vì chư đại chúng mà Phật nói đến [pháp môn giải thoát do nhờ
niệm tưởng chân chính quán về thân này gọi là] "quán thân chính
niệm giải thoát." Thập Vãng Sinh Kinh nói: "A Nan bạch Phật
rằng: Thế Tôn, pháp quán thân của tất cả chúng sinh, pháp ấy ra
sao? Xin Phật nói cho con được biết.
"Phật bảo A Nan: Thường thì pháp quán thân ấy là chẳng quán
đông, tây, chẳng quán nam, bắc, chẳng quán bốn phương phụ, và
trên với dưới, chẳng quán hư không, chẳng quán các duyên bên
ngoài, chẳng quán các duyên bên trong, chẳng quán mầu sắc của
thân, chẳng quán mầu sắc, âm thanh, chẳng quán các hình tướng
thuộc sắc, chỉ duy quán "không duyên", thì đó là pháp quán thân
chân chính nhất. Trừ cách quán thân này ra, có ra sức tìm cầu
khắp hết mười phương, bất cứ nơi đâu, bất cứ chốn nào, cũng
không có pháp nào khác hơn để được giải thoát.
"Phật lại bảo A Nan: Chỉ cần quán lấy chính thân mình, lực thiện
tự nhiên [sẵn nơi thân ấy,] chính niệm tự nhiên [sẵn nơi thân ấy,]
giải thoát tự nhiên [sẵn nơi thân ấy] vậy. Bởi tại sao? Ví như có
người tinh tiến với tâm thuần trực mà đắc được giải thoát chân
- 68 -
chính, thì người ấy không cần phải cầu giải thoát nữa, mà giải
thoát tự đến.
"A Nan lại bạch Phật rằng: Thế Tôn, nếu chúng sinh ở thế gian
này mà có được chính niệm giải thoát như thế, thì sẽ không còn
mọi thứ địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, thuộc ba đường ác nữa.
"Phật bảo A Nan: Chúng sinh ở thế gian không đắc được giải
thoát là tại sao vậy? Tất cả chúng sinh đều do vì hư dối thì nhiều
mà chân thật thì ít, không có một chính niệm nào. Do nhân duyên
ấy nên kẻ địa ngục thì nhiều, người giải thoát thời ít. Ví như có
người đối với cha mẹ của mình cùng với sư tăng, ngoài thì ra vẻ
hiếu thuận, trong thì ôm lòng bất hiếu; ngoài hiện vẻ như tinh tiến,
trong thì hoàn toàn chẳng thật. Các kẻ ác ấy tuy quả báo chưa
đến, song có xa đâu ba đường ác. Không có chính niệm thì giải
thoát sao được.
"A Nan lại bạch Phật rằng: Nếu đã như thế, thì họ phải tu các
thiện căn nào để đắc được chân chính giải thoát?
"Phật bảo A Nan: Nay ông hãy nghe cho kỹ, giờ đây tôi sẽ vì ông
mà nói. Có mười pháp vãng sinh có thể [khiến cho chúng sinh]
đắc được giải thoát. Mười là những gì?
"(1) Một là quán thân chính niệm luôn với lòng vui vẻ dùng ẩm
thực, y phục, thí cúng cho Phật cùng Tăng, [nhờ đó được] vãng
sinh A Di Đà Phật quốc.
"(2) Hai là chính niệm dùng các thuốc tốt bổ dưỡng mà thí cho
một tỳ kheo bệnh cùng tất cả chúng sinh, [ nhờ đó được] vãng sinh
A Di Đà Phật quốc.
"(3) Ba là chính niệm không hại bất cứ một sinh mạng nào, từ bi
đối với tất cả, [nhờ đó được] vãng sinh A Di Đà Phật quốc.
"(4) Bốn là chính niệm theo các sư trưởng mà thọ giới, với trí huệ
thanh tịnh mà tu phạm hành với tâm luôn hoan hỉ, [nhờ đó được]
vãng sinh A Di Đà Phật quốc.
"(5) Năm là chính niệm hiếu thuận với cha mẹ, kính phụng với sư
trưởng, không khởi tâm kiêu mạn, [nhờ đó được] vãng sinh A Di
Đà Phật quốc.
"(6) Sáu là chính niệm đi đến các tăng phòng, cung kính đối chùa
tháp, mà nghe pháp hiểu một nghĩa [thôi, nhờ đó được] vãng sinh
A Di Đà Phật quốc.
"(7) Bảy là chính niệm trong một ngày một đêm thọ trì tám giới
trai, không phá một giới nào, [nhờ đó được] vãng sinh A Di Đà
Phật quốc.
- 69 -
"(8) Tám là chính niệm hoặc vào tháng trai hay ngày trai, lìa xa
phòng xá mình, thường lui tới các bậc thầy tốt, [nhờ đó được]
vãng sinh A Di Đà Phật quốc.
"(9) Chín là chính niệm thường hay trì tịnh giới, chăm tu các thiền
định, hộ pháp chẳng ác khẩu. Nếu thực hành được vậy sẽ vãng
sinh A Di Đà Phật quốc.
"(10) Mười là chính niệm hoặc đối Đạo vô thượng không khởi tâm
hủy báng, tinh tiến trì tịnh giới, còn dạy kẻ vô trí, lưu truyền kinh
pháp này, giáo hóa vô lượng chúng sinh. Những người như thế ấy
trọn đều được vãng sinh.
"Khi ấy trong hội có một Bồ Tát tên gọi là Sơn Hải Huệ bạch Phật
rằng: Thế Tôn, A Di Đà Phật quốc kia có những diệu lạc tốt đẹp
vượt bậc nào mà tất cả chúng sinh đều nguyện vãng sinh về đó?
"Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát: Nay ông phải nên đứng dậy, chắp
tay đứng ngay ngắn, hướng về phía tây, chính niệm mà quán A Di
Đà Phật quốc, nguyện thấy được A Di Đà Phật.
"Bấy giờ tất cả đại chúng đều cùng đứng dậy chắp tay, cùng quán
A Di Đà Phật. Lúc đó A Di Đà Phật hiện đại thần thông, phóng
đại quang minh chiếu ngay vào thân của Sơn Hải Huệ Bồ Tát. Lúc
ấy Sơn Hải Huệ Bồ Tát và mọi người liền thấy quốc độ của A Di
Đà Phật với mọi thứ trang nghiêm tuyệt đẹp, trọn đều bằng bảy
thứ ngọc báu, núi bảy báu, cõi nước bảy báu... Nước, chim, cây
rừng, thường trổi pháp âm. Nước ấy ngày ngày thường chuyển
pháp luân. Nhân dân nước ấy không học tập chuyện ngoài, mà chỉ
tu tập nội sự. Miệng họ nói lời phương đẳng, tai họ nghe tiếng
phương đẳng, tâm họ hiểu nghĩa phương đẳng.
"Bấy giờ Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn, chúng
con giờ đây đã thấy được nước kia với bao lợi ích vi diệu thù
thắng, không thể nghĩ bàn. Con nay nguyện cho tất cả chúng sinh
đều được vãng sinh, sau đó chúng con cũng nguyện sinh về nước
ấy.
"Phật thọ ký cho rằng: Chính quán, chính niệm, đắc chính giải
thoát, thì trọn đều được sinh về nước kia. Nếu có thiện nam tử
thiện nữ nhân nào chính tín Kinh này, yêu thích Kinh này, khuyến
khích dẫn dắt chúng sinh [theo Kinh này,] thì kẻ thuyết cũng như
người nghe, trọn đều vãng sinh về nước của Phật A Di Đà. nếu có
các người [thực hành] như thế, ta sẽ từ ngày hôm nay sai hai mươi
lăm vị Bồ Tát thường luôn hộ trì người đó, thường khiến cho người
đó không bệnh tật, không phiền não, hoặc loài người hoặc loài
- 70 -
chẳng phải người cũng không làm hại gì được người đó. Người ấy
đi, đứng, nằm, hay ngồi, bất kể ngày hay đêm, luôn được an lành.
"Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn, con nay đội đầu
thọ nhận lời dạy của Thế Tôn, không dám có gì nghi ngại. Song
thế gian có các chúng sinh phần nhiều hay hủy báng, không tin
Kinh này. Những người thế ấy thì sau này ra sao?
"Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát: Sau này ở Diêm Phù Đề hoặc có
tỳ khưu hay tỳ khưu ni thấy ai đọc tụng Kinh này mà hoặc giận
ghét người ấy, trong lòng ôm niệm hủy báng, thì do hủy báng
chính pháp như thế mà kẻ ấy, ngay trong hiện đời này, thân thể
phải chịu đủ các thứ trọng bệnh độc ác như các căn không đủ,
điếc, mù, câm ngọng, phù thũng, quỉ mị ám hại, ngồi nằm chẳng
yên, cầu sống chẳng được mà cầu chết cũng chẳng xong. Hoặc
cho đến khi chết đọa vào địa ngục, trong tám vạn kiếp chịu mọi
khổ não không cùng, trăm ngàn vạn đời chẳng từng nghe tên đồ ăn
thức uống. Mãi sau mới được ra, thì sinh vào thành trâu, ngựa,
lợn, dê, bị người giết thịt, chịu khổ cùng cực. Sau mới được làm
người, thì thường sinh vào chỗ thấp kém, trăm ngàn vạn đời chẳng
được thoải mái, vĩnh viễn chẳng được nghe đến danh tự Tam Bảo.
Thế nên với kẻ không có trí và không có tin thì đừng nói Kinh này
vậy."
Soạn tập lưu thông đức
Phổ thí cho tất cả,
Trước phát Bồ Đề tâm,
Đồng quay về Tịnh Quốc,
Đều cùng thành Phật đạo.
An Lạc Tập Quyển Hạ Hết