hÃy cẢnh giÁc vỚi bỆnh ung thƯ -...
Post on 09-Sep-2019
1 Views
Preview:
TRANSCRIPT
HÃY CẢNH GIÁC
VỚI BỆNH UNG THƯ
Tiến sỹ Y khoa Nguyễn Thanh Đạm
Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
Vật lý trị liệu Bộ Y tế
Tổng thư ký Hội phòng chống Ung thư Việt
Nam
Bệnh viện K, 43 Quán Sứ, Hà Nội, Việt Nam
Fax: (84-4) 7.181.636
ĐT: (84-4) 9.346.49643
DĐ: 0913.228.665
Email: nguyenthanhdam1@yahoo.com
Công ty cổ phần tập đoàn liên kết
Việt Nam
Phòng tư vấn VINA-LINK GROUP
Số 16 ngõ 183 Đặng Tiến Đông, quận Đống Đa,
Hà Nội, Việt Nam
ĐT: (84-4) 5.377.052
Email: duclientct@yahoo.com
AVG
6 HÃY CẢNH GIÁC V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Số 164B, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (04) 722 6237 |35 |36 - Fax: (04) 722 6237
E-mail: publication@alphabooks.vn
http://www.alphabooks.vn
LỜI GIỚI THIỆU
ng thư là vấn đề sức khỏe được quan tâm ở nhiều
nước trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế
giới, hàng năm trên thế giới có khoảng 10 triệu người mắc
bệnh ung thư và 5 triệu người chết do ung thư. Ở Việt Nam
theo ước tính mỗi năm có khoảng 100.000 đến 150.000 bệnh
nhân ung thư mới mắc và 70.000 người chết vì ung thư. Con
số này có xu hướng ngày càng gia tăng.
Các nhà khoa học đã khẳng định một phần ba số bệnh
ung thư có thể phòng ngừa, một phần ba có thể chữa khỏi
nếu được chẩn đoán sớm và cùng với điều trị chăm sóc hỗ
trợ sẽ làm tăng chất lượng sống cho một phần ba số bệnh
nhân ung thư còn lại. Vì vậy vấn đề phòng bệnh, phát hiện
sớm bệnh ung thư ngày càng là vấn đề cấp bách, rất cần
thiết đối với mọi người dân.
Cuốn sách Hãy cảnh giác với bệnh ung thư do Công ty Cổ
phần sách Alpha xuất bản đáp ứng nhu cầu phòng bệnh và
U
8 HÃY CẢNH GIÁC V ỚI B ỆNH UNG THƯ
phát hiện sớm bệnh ung thư của người dân trong cộng
đồng. Tác giả cuốn sách đã diễn đạt dưới hình thức rất đơn
giản Hỏi và Đáp về bệnh ung thư để mọi người dễ dàng liên
hệ với bản thân mình khi đọc; phù hợp cho việc hướng dẫn,
thông tin và tuyên truyền, giúp hiểu rõ hơn về căn bệnh ung
thư.
Xin trân trọng giới thiệu với các độc giả.
Chủ tịch Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam
Chủ nhiệm UB KHCN&MT của Quốc hội
G S . V S . Đ Ặ N G V Ũ M I N H
MỤC LỤC
Lời tựa ............................................................................................. 13
Hỏi và đáp về ung thư phổi .................................................... 17
Hỏi và đáp về ung thư đại-trực tràng .................................... 30
Hỏi và đáp về ung thư cổ tử cung ......................................... 40
Hỏi và đáp về ung thư bàng quang ......................................... 57
Hỏi và đáp về ung thư tuyến giáp ......................................... 70
Hỏi và đáp về ung thư không Hodgkin ................................ 77
Hỏi và đáp về ung thư tinh hoàn ........................................... 89
Hỏi và đáp về ung thư tuyến nước bọt ................................. 97
Hỏi và đáp về ung thư thanh quản ........................................111
Hỏi và đáp về ung thư âm hộ ................................................126
Hỏi và đáp về ung thư buồng trứng ......................................142
Hỏi và đáp về ung thư trung mô ..........................................151
10 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Hỏi và đáp về sác-côm mô mềm ...........................................164
Hỏi và đáp về ung thư hắc tố ................................................183
Hỏi và đáp về ung thư đầu cổ ...............................................197
Hỏi và đáp về ung thư vú nam .............................................202
LỜI TỰA
hi chứng kiến nỗi đau của gia đình bệnh nhân ung thư
mất đi những người thân yêu nhất của mình vì căn
bệnh hiểm nghèo này, tôi lại trăn trở một vấn đề chiến lược
của ngành ung thư: Cần phải tiêu diệt ung thư ngay khi còn
trứng nước. Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay tại bệnh
viện K Hà Nội, nơi tôi làm việc, hầu hết các bệnh nhân đến
bệnh viện đã vào giai đoạn muộn, các nỗ lực của ngành y
lúc này chỉ có thể kéo dài cuộc sống từ vài tháng đến vài
năm.
Nhiều người con hiếu thảo, nhiều người vợ hiền chung
thủy nói với chúng tôi rằng dù có phải bán đi mọi tài sản của
mình họ vẫn sẵn sàng, chỉ mong sao cứu được người thân của
mình. Chúng tôi đã gặp vô vàn cảnh ngộ rất cảm động, và
thực sự chúng tôi cũng dốc hết tâm lực của mình để cùng
bệnh nhân và gia đình họ chiến đấu chống lại bệnh tật, nhưng
lực bất tòng tâm, khi mà căn bệnh đã đến giai đoạn di căn.
Tại sao chúng ta cứ để mãi xảy ra tình trạng bệnh nhân
ung thư đến muộn? Tại sao chúng ta cứ để mất đi không
biết bao nhiêu của cải, sức lực để rồi vẫn phải chịu thất vọng
và thêm mất mát?
K
14 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Đã đến lúc chúng ta phải quyết tâm thay đổi mạnh mẽ,
phải làm sao cho người dân trong cộng đồng luôn cảnh giác
với căn bệnh ung thư để phát hiện được bệnh sớm. Không ai
có thể nhận ra được những thay đổi của bạn tốt hơn bạn, và
cũng không ai có thể thay bạn đến gặp các chuyên gia y tế
để hỏi về những vấn đề của chính bạn. Hãy cảnh giác với
bệnh ung thư, và nếu phát hiện bệnh sớm thì có thể chữa
khỏi bệnh hoàn toàn như nhiều căn bệnh thông thường
khác. Đó chính là thông điệp của cuốn sách này.
Việc phát hiện sớm các dấu hiệu ung thư là vấn đề rất
phức tạp, nó vẫn lúc ẩn lúc hiện tùy theo sức khỏe của mỗi
người, nó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác với bệnh
ung thư. Chúng ta đang thiếu vắng những tài liệu khoa học
phổ thông đơn giản có thể phổ biến cho hàng triệu người
dân, những cuốn sách có tác động xã hội to lớn vừa trực tiếp
tới từng người dân vừa có tính chất lâu dài. Nhưng làm sao
cuốn sách đến được với các bạn đọc là vô cùng khó khăn vì
sách mang tải các nội dung khoa học thường không hấp dẫn
người đọc. Tác giả cuốn sách đã cố gắng chuyển tải thông
tin dưới dạng những câu hỏi đáp rất đơn giản, dễ hiểu với
mong muốn giúp mọi người tìm lời giải đáp về căn bệnh
ung thư.
Việc phòng bệnh ung thư phải là một chiến lược lớn của
ngành ung thư phối hợp với các bộ ban ngành để đảm bảo
những vấn đề lớn hơn như giữ cho môi trường trong sạch, an
toàn thực phẩm, xây dựng lối sống lành mạnh, tập luyện đều
đặn để nâng cao sức khỏe. Một hướng mới mà trên thế giới
đã thành công là đưa thực phẩm chức năng vào phòng bệnh
LỜ I TỰA 15
ung thư, tim mạch, bệnh mạn tính. Việt Nam có trên 3.800 cây
làm thuốc trên tổng số hơn 10.600 loài thực vật, vì vậy nước ta
được coi là nơi có nguồn dược liệu phong phú và đa dạng,
chắc chắn sẽ có các sản phẩm chức năng của riêng mình.
Công ty cổ phần tập đoàn liên kết Việt Nam (VINA-LINK
GROUP) đã thành công bước đầu trong việc đưa ra các sản
phẩm thực phẩm chức năng đảm bảo an toàn, là sự kết hợp
hoàn hảo giữa tinh hoa của y học Việt Nam và sức mạnh của
công nghệ hiện đại thế giới, làm tăng cường kích thích hệ
miễn dịch bẩm sinh, nâng cao sức đề kháng của cơ thể để
phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh suy giảm miễn dịch
cũng như sẽ đóng góp vào việc phòng bệnh ung thư.
Hãy cảnh giác với bệnh ung thư là lời tâm huyết mà tác
giả cuốn sách muốn gửi gắm tới bạn đọc với kinh nghiệm
của hơn 40 năm làm việc trong ngành Y.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Công ty Cổ phần sách Alpha đã
tạo điều kiện cho cuốn sách đến được với đông đảo bạn đọc,
để góp một phần nhỏ vào cuộc chiến chống lại căn bệnh
hiểm nghèo của thế kỷ.
Hy vọng rằng cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn đọc những
thông tin bổ ích, để làm tăng thêm cơ hội phát hiện sớm bệnh
ung thư. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn
đọc.
T¸c gi¶
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Phổi
1. Ung thư phổi là gì?
Ung thư phổi được chia làm hai loại chính: ung thư
phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ,
tuỳ thuộc vào hình dạng tế bào dưới kính hiển vi. Mỗi loại
ung thư phát triển và lan theo những cách khác nhau và
được điều trị khác nhau.
Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ thường gặp hơn ung
thư phổi tế bào nhỏ và nó thường phát triển và lan chậm
hơn. Có ba loại ung thư không phải tế bào nhỏ chủ yếu.
Chúng được đặt tên theo tuýp tế bào từ đó ung thư phát
triển: ung thư biểu mô tế bào vẩy (còn được gọi là ung thư
dạng biểu bì), ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô tế
bào lớn.
Ung thư phổi tế bào nhỏ ít gặp hơn ung thư phổi không
phải tế bào nhỏ. Loại ung thư này phát triển nhanh hơn và
hay lan sang các bộ phận khác trong cơ thể hơn
18 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư phổi là gì?
Các nhà nghiên cứu đã tìm ra một vài nguyên nhân dẫn
đến ung thư phổi, hầu hết là có liên quan tới việc sử dụng
thuốc lá.
Thuốc lá. Hút thuốc lá là nguyên nhân gây ung thư phổi.
Các chất độc hại, được gọi là những tác nhân gây ung thư,
có trong thuốc lá làm tổn hại tới các tế bào ở trong phổi. Dần
dần, những tế bào này có thể trở thành ung thư. Xác suất
một người hút thuốc bị ung thư phổi phụ thuộc vào độ tuổi
bắt đầu hút thuốc, thời gian hút thuốc, lượng thuốc lá hút
trong một ngày và mức độ hít khói thuốc. Ngừng hút thuốc
lá có thể làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư phổi.
Xì gà và thuốc lá tẩu. Những người hút xì gà và hút thuốc
lá tẩu có nguy cơ mắc ung thư cao hơn những người không
hút thuốc. Số năm hút thuốc, số lượng xì gà và thuốc lá tẩu
hút mỗi ngày, mức độ hít khói thuốc đều ảnh hưởng đến
nguy cơ bị ung thư phổi. Thậm chí những người hút xì gà và
thuốc lá tẩu không hít khói thuốc cũng có nguy cơ mắc ung
thư phổi, ung thư miệng và các loại ung thư khác cao hơn.
Khói thuốc lá trong môi trường. Nguy cơ bị ung thư
phổi tăng lên khi có tiếp xúc với khói thuốc trong môi
trường. Tiếp xúc với khói thuốc trong môi trường, hay khói
thuốc gián tiếp được gọi là hút thuốc không tự nguyện hay
hút thuốc lá thụ động.
Radon. Radon là một chất khí phóng xạ không màu,
không mùi vị và không nhìn thấy bằng mắt thường trong
tự nhiên có trong sỏi và đá. Nó có thể làm tổn hại tới phổi
và từ đó có thể dẫn đến ung thư phổi. Những người làm
UNG THƯ PHỔI 19
việc trong hầm mỏ có thể tiếp xúc với khí radon và ở một
số vùng ở Mỹ người ta còn tìm thấy khí radon ở trong các
ngôi nhà. Hút thuốc lá còn làm nguy cơ mắc bệnh ung thư
phổi tăng lên cao hơn ở những người đã có nguy cơ mắc
căn bệnh này do tiếp xúc với khí radon. Một bộ dụng cụ có
bán ở các cửa hàng kim khí cho phép những người chủ gia
đình đo mức độ khí radon trong nhà họ. Kiểm tra mức độ
khí radon trong nhà là một công việc tương đối dễ dàng và
ít tốn kém. Một khi vấn đề về khí radon đã được xử lý thì
sự đe dọa của nó sẽ biến mất mãi mãi.
Amiăng. Amiăng là tên gọi của một nhóm các chất
khoáng, có trong tự nhiên dưới dạng sợi và được sử dụng
trong một số ngành công nghiệp. Sợi amiăng có thể dễ dàng
bị đứt đoạn thành các hạt nhỏ bay lơ lửng trong không khí
và dính vào quần áo. Khi hít phải những hạt này chúng sẽ
cư trú ở phổi, làm tổn hại tới tế bào và tăng nguy cơ ung thư
phổi. Theo kết quả của các nghiên cứu những công nhân
phải tiếp xúc với một lượng lớn chất amiăng có nguy cơ mắc
ung thư phổi cao hơn gấp 3-4 lần so với những công nhân
không phải tiếp xúc với chất này. Sự tiếp xúc này đã được
thấy trong các ngành như đóng tàu, khai thác và sản xuất
amiăng, sản xuất vật liệu cách điện và sửa chữa phanh.
Nguy cơ mắc ung thư phổi ở những công nhân phải tiếp xúc
với chất amiăng và hút thuốc còn cao hơn nữa. Những công
nhân phải tiếp xúc với amiăng nên sử dụng những thiết bị
bảo hộ lao động và tuân thủ những quy định về thực hành
và an toàn lao động.
20 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Ô nhiễm. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra mối liên hệ giữa
bệnh ung thư phổi và sự tiếp xúc với một số chất gây ô
nhiễm không khí nhất định, ví dụ như các sản phẩm phụ
sinh ra trong quá trình đốt dầu diesel và những nhiên liệu
hóa thạch khác. Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn chưa được
xác định một cách rõ ràng và vẫn đang được tiếp tục nghiên
cứu.
Các bệnh phổi. Một số bệnh phổi như bệnh lao làm tăng
nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Ung thư phổi có xu hướng
phát triển ở những vùng phổi bị sẹo do bệnh lao gây ra.
Tiền sử bản thân. Một người đã mắc ung thư phổi một
lần có nguy cơ mắc ung thư phổi lần hai cao hơn so với một
người chưa bao giờ mắc bệnh ung thư phổi. Bỏ hút thuốc
sau khi được chẩn đoán ung thư phổi có thể ngăn ngừa
nguy cơ bị ung thư phổi lần hai.
Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm hiểu những nguyên
nhân gây bệnh ung thư phổi và tìm kiếm những cách thức
để phòng chống căn bệnh này. Chúng ta đã biết rằng cách
tốt nhất để phòng chống ung thư phổi là bỏ hút thuốc lá
(hoặc đừng bao giờ hút). Càng bỏ hút thuốc lá sớm thì càng
tốt. Thậm chí nếu bạn đã hút thuốc lá trong nhiều năm thì
việc bỏ hút thuốc cũng vẫn không bao giờ là quá muộn.
3. Ung thư phổi được phát hiện như thế nào? Triệu
chứng của ung thư phổi là gì?
UNG THƯ PHỔI 21
Những dấu hiệu và triệu chứng thường gặp của bệnh
ung thư phổi gồm có:
- Ho không khỏi và ngày càng nặng hơn
- Thường xuyên thấy đau ngực
- Ho ra máu
- Khó thở, ngạt mũi, khàn giọng
- Viêm phổi và viêm phế quản tái đi tái lại
- Phù nề vùng mặt và cổ
- Mất cảm giác ngon miệng hoặc giảm cân
- Mệt mỏi
Những triệu chứng này có thể do ung thư phổi gây ra
hoặc cũng có thể do các bệnh khác gây ra. Điều quan trọng
là phải đến bác sĩ khám bệnh.
4. Ung thư phổi được chẩn đoán như thế nào?
Để tìm ra nguyên nhân gây ra những triệu chứng, bác sĩ
phải xem xét tiền sử của người bệnh, tiền sử hút thuốc, tiếp
xúc với các chất ở môi trường tự nhiên và môi trường lao
động, tiền sử ung thư của gia đình. Bác sĩ khám bệnh và có
thể cho chụp X quang lồng ngực và làm các xét nghiệm
khác. Nếu nghi ngờ ung thư phổi thì xét nghiệm tế bào
trong đờm (quan sát dưới kính hiển vi những tế bào lấy từ
mẫu dịch nhầy ở phổi khi ho) là một xét nghiệm đơn giản
mà có thể có ích cho việc phát hiện ra bệnh ung thư. Để chẩn
đoán xác định ung thư phổi, bác sĩ phải nghiên cứu mô
22 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
phổi. Sinh thiết tức là lấy một mẫu mô nhỏ ở phổi để chuyên
gia mô bệnh học quan sát dưới kính hiển vi. Sinh thiết có thể
cho biết một người có bị ung thư hay không.
Một số thủ thuật được thực hiện để có thể lấy được mẫu
bệnh phẩm này:
Nội soi phế quản. Bác sĩ đưa một ống soi phế quản (một
ống nhỏ có nguồn sáng) vào miệng hoặc mũi và luồn xuống
khí quản để quan sát các đường hô hấp. Qua ống này bác sĩ
có thể lấy các mẫu tế bào hoặc mẫu mô nhỏ.
Chọc hút bằng kim. Một mũi kim được đâm xuyên qua
thành ngực vào khối u để lấy mẫu mô.
Chọc dịch màng phổi. Dùng kim lấy mẫu dịch bao quanh
phổi để tìm tế bào ung thư.
Mở lồng ngực. Đôi khi cần phải tiến hành phẫu thuật mở
lồng ngực để chẩn đoán ung thư phổi. Đây là một đại phẫu
thuật được thực hiện ở bệnh viện.
Phân giai đoạn
Nếu đã chẩn đoán là ung thư thì bác sĩ cần biết giai đoạn
(hoặc là phạm vi) của bệnh. Tiến hành phân giai đoạn để
biết được ung thư đã lan rộng chưa và nếu đã lan thì đến bộ
phận nào của cơ thể. Ung thư phổi thường lan lên não hoặc
vào xương. Biết được bệnh đang ở giai đoạn nào sẽ giúp cho
bác sĩ lập kế hoạch điều trị.
Một số xét nghiệm được sử dụng để xác định mức độ lan
của ung thư gồm:
UNG THƯ PHỔI 23
Chụp cắt lớp vi tính. Một máy vi tính được nối với một
máy chụp X quang cho một loạt những bức tranh chi tiết về
các bộ phận bên trong cơ thể.
Chụp cộng hưởng từ hạt nhân. Một nam châm mạnh được
nối với một máy vi tính cho những bức tranh chi tiết về các
bộ phận bên trong cơ thể.
Xạ hình bằng đồng vị phóng xạ. Phương pháp xạ hình có
thể cho thấy ung thư đã lan sang các bộ phận khác chẳng
hạn như gan. Bệnh nhân được cho uống hoặc tiêm một chất
phóng xạ nhẹ. Một máy (máy quét) đo và ghi lại mức độ
phóng xạ ở một số cơ quan nhất định để phát hiện ra những
vùng bất thường.
Xạ hình xương. Xạ hình xương là một cách ghi hình
xương bằng đồng vị phóng xạ, có thể cho biết ung thư đã
lan vào xương. Một lượng nhỏ chất phóng xạ được tiêm vào
tĩnh mạch. Nó đi qua mạch máu và tập trung lại ở những
vùng xương phát triển không bình thường. Một dụng cụ
được gọi là máy quét đo mức độ phóng xạ trong những
vùng này và ghi lại trên phim X quang.
Nội soi trung thất/mở trung thất. Nội soi trung thất có
thể giúp phát hiện ra ung thư đã lan vào các hạch bạch
huyết trong lồng ngực hay chưa. Sử dụng một dụng cụ soi
có nguồn sáng, gọi là ống soi, bác sĩ xem xét vùng trung tâm
của lồng ngực (trung thất) và các hạch lân cận. Trong nội soi
trung thất, ống soi được đưa vào qua một vết rạch nhỏ ở cổ;
trong thủ thuật mở trung thất, vết rạch được thực hiện ở
24 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
ngực. Trong cả hai quá trình trên đều sử dụng ống soi để lấy
mẫu mô. Bệnh nhân được gây mê toàn thân.
5. Ung thư phổi được điều trị như thế nào?
Điều trị ung thư phổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao
gồm loại ung thư phổi (ung thư phổi không phải tế bào nhỏ
hay ung thư phổi tế bào nhỏ), kích thước, vị trí và phạm vi
của khối u, tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân. Có thể
áp dụng nhiều phương pháp điều trị khác nhau hoặc kết hợp
các biện pháp để kiểm soát bệnh ung thư phổi, hoặc là cải
thiện chất lượng cuộc sống bằng cách làm giảm các triệu
chứng.
Phẫu thuật là mổ để cắt bỏ khối u. Loại phẫu thuật mà
bác sĩ tiến hành phụ thuộc vào vị trí của khối u trong phổi.
Mổ để cắt bỏ chỉ một phần nhỏ của phổi được gọi là thủ
thuật cắt bỏ phân thuỳ hay cắt hình nêm. Khi bác sĩ phẫu
thuật cắt bỏ toàn bộ một thuỳ phổi thì gọi là thủ thuật cắt bỏ
thuỳ. Cắt bỏ phổi là lấy đi toàn bộ một lá phổi. Một số khối
u không thể mổ được (không thể loại bỏ bằng phẫu thuật)
do kích thước hoặc vị trí của khối u và một số bệnh nhân
không thể tiến hành phẫu thuật vì những lí do về sức khỏe
khác.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc chống ung
thư để diệt các tế bào ung thư trên toàn cơ thể. Thậm chí
sau khi ung thư được loại bỏ khỏi phổi thì các tế bào ung
thư vẫn có thể xuất hiện ở những mô lân cận hoặc ở một
UNG THƯ PHỔI 25
vùng nào đó trong cơ thể. Có thể áp dụng hóa trị liệu để
kiểm soát sự phát triển của tế bào ung thư hoặc là để giảm
nhẹ triệu chứng. Hầu hết các loại thuốc chống ung thư
được đưa vào cơ thể bằng đường tiêm tĩnh mạch trực tiếp
hoặc qua một ống thông đưa vào một tĩnh mạch lớn và
được lưu lại cho đến khi không cần nữa. Một số loại thuốc
điều trị ung thư ở dạng viên.
Điều trị bằng tia phóng xạ là phương pháp sử dụng tia có
năng lượng lớn để tiêu diệt tế bào ung thư. Tia phóng xạ
hướng vào một vùng giới hạn và chỉ tác dụng lên tế bào ung
thư ở vùng đó. Có thể sử dụng tia phóng xạ trước khi phẫu
thuật để làm co khối u lại hoặc là sau khi phẫu thuật để tiêu
diệt tất cả những tế bào ung thư còn sót lại ở vùng phẫu
thuật. Bác sĩ còn có thể sử dụng tia phóng xạ, thường là kết
hợp với hóa trị liệu để điều trị ban đầu thay cho phẫu thuật.
Tia phóng xạ còn có thể được áp dụng để làm giảm triệu
chứng như khó thở. Trong điều trị ung thư phổi thường sử
dụng xạ ngoài. Ngoài ra còn có thể đưa nguồn phóng xạ
(hộp nhỏ chứa chất phóng xạ) trực tiếp vào khối u hoặc gần
khối u (xạ áp sát).
Liệu pháp quang động học (PDT) là phương pháp điều trị
bằng tia lazer, sử dụng một hóa chất đặc biệt tiêm trực tiếp
vào mạch máu và được các tế bào trên toàn cơ thể hấp thụ.
Chất này nhanh chóng rời khỏi tế bào thường nhưng tồn tại
trong tế bào ung thư trong khoảng thời gian lâu hơn. Ánh
sáng lazer chiếu vào vị trí ung thư sẽ kích thích hóa chất này
để tiêu diệt những tế bào ung thư đã hấp thụ nó. Có thể sử
26 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
dụng liệu pháp quang động học để điều trị triệu chứng ung
thư phổi, ví dụ để kiểm soát hiện tượng chảy máu hoặc
giảm nhẹ những triệu chứng về hô hấp do tắc nghẽn đường
dẫn khí khi không thể cắt bỏ khối u được nữa. Liệu pháp
quang động học còn có thể được sử dụng để điều trị những
khối u rất nhỏ ở những bệnh nhân mà những phương pháp
điều trị ung thư phổi thông thường không phù hợp.
Thử nghiệm lâm sàng để đánh giá những phương pháp
điều trị ung thư mới là một sự lựa chọn dành cho nhiều
bệnh nhân ung thư phổi. Trong một số nghiên cứu tất cả các
bệnh nhân đều được điều trị bằng phương pháp mới. Trong
những nghiên cứu khác, bác sĩ so sánh các phương pháp
điều trị khác nhau bằng cách áp dụng phương pháp mới cho
một nhóm bệnh nhân và áp dụng phương pháp điều trị
thông thường cho một nhóm khác. Thông qua nghiên cứu
các bác sĩ sẽ tìm ra những phương pháp điều trị mới và có
thể là hiệu quả hơn trong việc điều trị bệnh ung thư phổi.
Điều trị ung thư không phải tế bào nhỏ
Bệnh nhân bị ung thư không phải tế bào nhỏ có thể được
điều trị theo một vài phương pháp. Lựa chọn phương pháp
nào phụ thuộc chủ yếu vào kích thước, vị trí và phạm vi của
khối u. Phẫu thuật là phương pháp phổ biến nhất để điều trị
loại ung thư này. Phẫu thuật lạnh, phương pháp điều trị gây
đông và phá huỷ mô ung thư, có thể được sử dụng để kiểm
soát triệu chứng ở những giai đoạn muộn của ung thư
không phải tế bào nhỏ. Điều trị bằng tia phóng xạ và hóa trị
UNG THƯ PHỔI 27
liệu có thể được sử dụng để làm chậm quá trình phát triển
của bệnh và kiểm soát triệu chứng.
Điều trị ung thư tế bào nhỏ
Ung thư tế bào nhỏ có thể lan rất nhanh. Trong nhiều
trường hợp, tế bào ung thư có thể đã lan sang các bộ phận
khác của cơ thể khi bệnh được chẩn đoán. Để tiếp cận tế bào
ung thư trên toàn bộ cơ thể hầu như các bác sĩ luôn luôn sử
dụng hóa trị liệu. Quá trình điều trị còn có thể bao gồm việc
áp dụng tia phóng xạ chiếu vào khối u trong phổi hoặc
những khối u ở những bộ phận khác trong cơ thể (chẳng hạn
như ở trong não). Một số bệnh nhân được điều trị bằng tia
phóng xạ ở não ngay cả khi không tìm thấy ung thư ở vùng
này. Phương pháp điều trị này, còn được gọi là liệu pháp
chiếu xạ sọ não dự phòng, được áp dụng để ngăn ngừa sự
hình thành khối u trong não. Phẫu thuật là một phần trong kế
hoạch điều trị đối với một số ít bệnh nhân bị ung thư phổi tế
bào nhỏ.
6. Tác dụng phụ của điều trị ung thư phổi là gì?
Tác dụng phụ của việc điều trị ung thư phụ thuộc vào
phương pháp điều trị và có thể khác nhau đối với mỗi cá
thể. Tác dụng phụ thường là tạm thời. Bác sĩ và y tá có thể
giải thích những tác dụng phụ có thể xuất hiện trong quá
trình điều trị và họ cũng có thể gợi ý những cách thức giúp
làm giảm triệu chứng có thể phát sinh trong hoặc sau khi
điều trị.
28 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Phẫu thuật ung thư phổi là một đại phẫu thuật. Sau khi phẫu
thuật phổi, không khí và dịch có xu hướng tụ lại trong lồng
ngực. Bệnh nhân thường cần phải có người giúp đỡ khi trở
mình, ho và thở sâu. Những hoạt động này đóng vai trò
quan trọng trong quá trình hồi phục bởi vì chúng giúp mở
rộng mô phổi còn lại và loại bỏ khí và dịch thừa. Đau hoặc
thấy khó chịu ở ngực và tay cũng như khó thở là những tác
dụng phụ thường gặp trong phẫu thuật ung thư phổi. Bệnh
nhân có thể cần vài tuần hoặc vài tháng để lấy lại năng
lượng và sức mạnh của cơ thể.
Hóa trị liệu tác dụng lên cả tế bào thường và tế bào ung thư.
Tác dụng phụ sẽ phụ thuộc chủ yếu vào loại thuốc và liều
lượng cụ thể. Tác dụng phụ thường gặp của hóa trị liệu
bao gồm buồn nôn và nôn, rụng tóc, đau miệng và mệt
mỏi.
Điều trị tia xạ, cũng giống như hóa trị liệu, ảnh hưởng tới
cả tế bào thường và tế bào ung thư. Tác dụng phụ của tia
phóng xạ chủ yếu phụ thuộc vào bộ phận được chiếu tia và
liều chiếu. Tác dụng phụ thường gặp của tia phóng xạ là
khô và đau họng, khó nuốt, mệt mỏi, thay đổi da ở vùng
điều trị, mất cảm giác ăn ngon. Bệnh nhân được chiếu xạ
vào não có thể bị đau đầu, thay đổi ngoài da, mệt mỏi, buồn
nôn và nôn, rụng tóc hoặc là có vấn đề với trí nhớ và quá
trình tư duy.
Liệu pháp quang động học làm cho da và mắt trở nên nhạy
cảm với ánh sáng trong vòng sáu tuần hoặc là lâu hơn sau khi
điều trị. Bệnh nhân nên tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời
trực tiếp và ánh đèn quá sáng ở trong nhà ít nhất trong vòng
UNG THƯ PHỔI 29
sáu tuần. Nếu bệnh nhân phải đi ra ngoài thì họ cần phải mặc
quần áo bảo vệ và mang kính râm. Những tác dụng phụ tạm
thời khác của phương pháp điều trị quang động học có thể
bao gồm hiện tượng ho, khó nuốt, đau khi thở hoặc khó thở.
Bệnh nhân nên thảo luận với bác sĩ về những việc cần phải
làm khi da bị phồng rộp, tấy đỏ hoặc sưng lên.
7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi sau khi điều trị ung thư phổi là rất quan trọng.
Kiểm tra định kỳ để đảm bảo phát hiện ra những thay đổi
trong sức khỏe và nếu ung thư xuất hiện trở lại hay ung thư
mới phát triển nó có thể được điều trị một cách sớm nhất.
Kiểm tra bao gồm việc khám sức khỏe, chụp X quang, hay
xét nghiệm cận lâm sàng. Giữa những cuộc hẹn khám định
kỳ, bệnh nhân ung thư phổi cần thông báo bất kỳ vấn đề nào
về sức khỏe của mình với bác sĩ càng sớm càng tốt.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Đại-Trực Tràng
1. Ung thư đại-trực tràng là gì?
Ung thư bắt đầu ở đại tràng được gọi là ung thư đại
tràng, còn ung thư bắt đầu ở trực tràng được gọi là ung thư
trực tràng. Ung thư ảnh hưởng tới cả hai phần này được gọi
là ung thư đại-trực tràng
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư đại-trực tràng là
gì?
Nguyên nhân chính xác gây ra ung thư đại-trực tràng vẫn
chưa được xác định. Tuy nhiên các nghiên cứu chỉ ra các yếu
tố nguy cơ dưới đây có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh:
Độ tuổi. Ung thư đại-trực tràng có nhiều khả năng xuất
hiện hơn khi người ta già đi. Bệnh này thường gặp ở
những người trên 50 tuổi. Tuy nhiên, ung thư đại-trực
UNG THƯ ĐẠI -TR ỰC T R ÀNG 31
tràng có thể xuất hiện ở những người ít tuổi hơn, thậm
chí, trong một số trường hợp hiếm gặp, xuất hiện ở lứa
tuổi thanh niên.
Chế độ ăn. Ung thư đại-trực tràng dường như có liên
quan tới chế độ ăn có hàm lượng mỡ và calo cao, hàm lượng
chất xơ thấp. Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu vai trò của
những yếu tố này và các yếu tố dinh dưỡng khác trong quá
trình phát triển ung thư đại-trực tràng.
Pôlyp. Pôlyp là các u lành tính ở thành trong của đại
tràng và trực tràng. Chúng khá phổ biến ở những người
trên 50 tuổi. Một số loại pôlyp làm tăng nguy cơ phát triển
ung thư đại-trực tràng. Một tình trạng bệnh di truyền,
hiếm gặp, được gọi là bệnh pôlyp gia đình, gây ra hàng
trăm pôlyp ở đại tràng và trực tràng. Nếu không được điều
trị, bệnh pôlyp gia đình gần như chắc chắn sẽ dẫn tới ung
thư đại-trực tràng.
Tiền sử cá nhân. Theo kết quả nghiên cứu những phụ nữ
có tiền sử ung thư buồng trứng, tử cung, hay ung thư vú có
nguy cơ phát triển ung thư đại-trực tràng cao hơn. Hơn nữa,
người đã bị ung thư đại-trực tràng có thể mắc lại bệnh này
lần thứ hai.
Tiền sử gia đình. Những người thân mức độ 1 (bố mẹ,
anh chị em ruột, con cái) của người đã bị mắc ung thư đại-
trực tràng có vẻ có nhiều khả năng phát triển loại ung thư
này hơn, đặc biệt là nếu người thân đó bị ung thư lúc còn
trẻ. Nếu nhiều thành viên trong gia đình bị ung thư đại-trực
tràng, thì nguy cơ mắc bệnh thậm chí còn cao hơn.
32 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Viêm loét đại tràng. Viêm loét đại tràng là tình trạng
niêm mạc đại tràng bị viêm. Tình trạng này sẽ làm tăng
nguy cơ phát triển ung thư đại-trực tràng.
3. Ung thư đại-trực tràng được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư đại-trực tràng là gì?
Bác sĩ có thể gợi ý một hoặc một vài xét nghiệm dưới đây.
Những xét nghiệm này được tiến hành để phát hiện ra
pôlyp, ung thư hoặc các bất thường khác ngay cả khi chưa
có triệu chứng lâm sàng. Bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho bạn
có thể giải thích thêm về từng xét nghiệm.
Xét nghiệm máu trong phân là một xét nghiệm được sử
dụng để tìm máu ẩn trong phân. Đôi khi ung thư hay pôlyp
có thể gây chảy máu, và xét nghiệm tìm máu trong phân
được sử dụng để phát hiện khi chảy máu rất ít.
Soi đại tràng sigma là thủ thuật thăm dò trực tràng và đoạn
dưới đại tràng (đại tràng sigma) bằng một dụng cụ có nguồn
sáng được gọi là ống soi đại tràng sigma.
Soi đại tràng là thủ thuật thăm dò trực tràng và toàn bộ
đại tràng bằng ống soi đại tràng.
Chụp X quang có bari cản quang kép là phương pháp chụp
X quang đại tràng và trực tràng. Bệnh nhân được thụt một
dung dịch có chứa bari, dung dịch này sẽ làm hiện hình đại
tràng và trực tràng trên phim X quang.
Thăm trực tràng khi bác sĩ dùng một ngón tay đi găng và
được bôi trơn để khám những vùng bất thường trong trực
tràng.
UNG THƯ ĐẠI -TR ỰC T R ÀNG 33
Nhận biết triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng thường gặp của ung thư đại-
trực tràng bao gồm:
- Thay đổi thói quen đại tiện
- Ỉa lỏng, táo bón, hay có cảm giác đi ngoài không hết
- Đi ngoài ra máu (hoặc đỏ tươi hoặc đen sẫm)
- Phân có khẩu kính hẹp hơn bình thường
- Cảm thấy khó chịu khắp bụng (thường bị đau bụng vì
trướng hơi, cổ trướng, đầy bụng và/hoặc co thắt)
- Giảm cân không rõ nguyên nhân
- Thường xuyên mệt mỏi
- Nôn
Những triệu chứng này có thể do ung thư đại-trực tràng
hoặc có thể do các bệnh khác gây ra. Điều quan trọng là phải
đến bác sĩ kiểm tra.
4. Ung thư đại-trực tràng được chẩn đoán như thế
nào?
Để giúp tìm ra nguyên nhân gây các triệu chứng này
bác sĩ phải xem xét tiền sử của bệnh nhân. Bác sĩ tiến
hành thăm khám và thực hiện một hoặc nhiều xét nghiệm
chẩn đoán.
- Chụp X quang đại tràng, ví dụ như phương pháp cản
quang kép, có thể phát hiện ra pôlyp và các thay đổi khác.
34 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
- Soi đại tràng sigma cho phép bác sĩ quan sát bên trong
trực tràng và phần dưới đại tràng, có thể cắt pôlyp hoặc mô
bất thường để quan sát dưới kính hiển vi.
- Soi đại tràng cho phép bác sĩ quan sát bên trong trực
tràng và toàn bộ đại tràng, cắt pôlyp hoặc mô bất thường để
quan sát dưới kính hiển vi.
- Cắt pôlyp là phương pháp cắt bỏ pôlyp trong khi soi đại
tràng sigma hoặc soi đại tràng
- Sinh thiết là thủ thuật lấy mẫu mô để bác sĩ giải phẫu
bệnh quan sát dưới kính hiển vi và đưa ra chẩn đoán.
Các giai đoạn ung thư đại-trực tràng
Nếu ung thư được chẩn đoán bác sĩ cần phải biết giai
đoạn (hoặc phạm vi) của bệnh. Phân giai đoạn là việc xác
định xem ung thư đã lan chưa và nếu đã lan thì đến bộ phận
nào của cơ thể. Có thể cần phải thực hiện nhiều xét nghiệm
để xác định giai đoạn ung thư. Biết giai đoạn bệnh sẽ giúp
bác sĩ lập phác đồ điều trị. Mô tả tổn thương theo giai đoạn
được trình bày dưới đây:
Giai đoạn 0. Ung thư ở giai đoạn rất sớm. Nó chỉ mới xuất
hiện ở lớp niêm mạc trên cùng của đại tràng hoặc trực tràng.
Giai đoạn I. Ung thư lan rộng ra thành trong của đại tràng
hoặc trực tràng.
Giai đoạn II. Ung thư đã lan ra bên ngoài đại tràng hoặc
trực tràng tới các mô lân cận, nhưng chưa tới hạch.
Giai đoạn III. Ung thư đã lan sang các hạch lân cận, nhưng
chưa tới các bộ phận khác của cơ thể.
UNG THƯ ĐẠI -TR ỰC T R ÀNG 35
Giai đoạn IV. Ung thư đã lan sang các bộ phận khác của cơ
thể. Ung thư đại-trực tràng có xu hướng lan tới gan và/hoặc
phổi.
Tái phát. Ung thư tái phát có nghĩa là ung thư xuất hiện
trở lại sau khi điều trị. Bệnh có thể xuất hiện trở lại ở đại
tràng hoặc trực tràng hoặc ở một bộ phận khác trong cơ thể.
5. Ung thư đại-trực tràng được điều trị như thế nào?
Việc điều trị chủ yếu phụ thuộc vào kích thước, vị trí,
phạm vi của khối u và tình trạng sức khỏe chung của bệnh
nhân. Bệnh nhân thường được một đội ngũ các bác sĩ
chuyên khoa điều trị, trong đó có thể có bác sĩ chuyên khoa
tiêu hóa, bác sĩ ngoại khoa, bác sĩ ung thư nội khoa và bác sĩ
tia xạ ung thư. Một vài phương pháp điều trị ung thư được
sử dụng để điều trị ung thư đại-trực tràng. Đôi khi bác sĩ
điều trị bằng phương pháp phối hợp.
Phẫu thuật để cắt bỏ khối u là phương pháp phổ biến nhất
để điều trị ung thư đại-trực tràng. Thông thường, bác sĩ
phẫu thuật cắt bỏ khối u cùng với một phần đại tràng hoặc
trực tràng và các hạch lân cận. Trong hầu hết các trường
hợp, bác sĩ có thể nối lại những phần còn lành của đại tràng
hoặc trực tràng. Khi không thể nối lại những phần còn lành,
cần phải thực hiện phẫu thuật mở thông đại tràng tạm thời
hoặc vĩnh viễn. Mở thông đại tràng là một phẫu thuật tạo
đường thông từ đại tràng ra thành bụng để tạo ra một con
đường mới đưa chất thải ra ngoài. Sau phẫu thuật mở thông
đại tràng, bệnh nhân cần mang một túi đặc biệt để đựng
chất thải. Một số bệnh nhân cần phẫu thuật mở thông đại
36 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
tràng tạm thời để cho phép đại tràng dưới và trực tràng liền
lại sau khi phẫu thuật. Khoảng 15% bệnh nhân ung thư đại-
trực tràng cần phải được mở thông đại tràng vĩnh viễn.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc chống ung thư
để tiêu diệt tế bào ung thư. Hóa trị liệu có thể được sử dụng
để tiêu diệt tất cả những tế bào ung thư còn sót lại trong cơ
thể sau phẫu thuật, để kiểm soát sự phát triển của khối u
hoặc để giảm bớt triệu chứng của bệnh. Hóa trị liệu là
phương pháp điều trị toàn thân, có nghĩa là thuốc đi vào
mạch máu và lưu thông trong toàn bộ cơ thể. Hầu hết các
loại thuốc điều trị ung thư đều được tiêm trực tiếp vào tĩnh
mạch hoặc qua một ống thông luồn vào tĩnh mạch lớn và
lưu lại đó khi cần thiết. Một số loại thuốc ung thư ở dạng
viên.
Tia xạ trị liệu, còn được gọi là phương pháp phóng xạ, sử
dụng tia X có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Tia
xạ trị liệu là phương pháp điều trị tại chỗ, có nghĩa là nó chỉ
ảnh hưởng tới tế bào ung thư ở vùng chiếu xạ. Phương pháp
điều trị này thường được áp dụng nhất cho các bệnh nhân
ung thư trực tràng. Bác sĩ có thể sử dụng tia xạ trị liệu trước
khi phẫu thuật (để làm khối u co lại và dễ dàng cắt bỏ hơn)
hoặc sau khi phẫu thuật (để tiêu diệt tất cả tế bào ung thư
còn sót lại trong vùng điều trị). Tia xạ trị liệu còn được sử
dụng để làm giảm triệu chứng. Phóng xạ có thể do một máy
chiếu từ ngoài (chiếu xạ ngoài) hoặc từ một vật được đưa
vào bên trong cơ thể và đặt trực tiếp lên khối u hoặc gần đó
(chiếu xạ trong). Một số bệnh nhân được điều trị bằng cả
chiếu xạ trong và chiếu xạ ngoài.
UNG THƯ ĐẠI -TR ỰC T R ÀNG 37
Liệu pháp sinh học, còn được gọi là liệu pháp miễn dịch, sử
dụng hệ thống miễn dịch của cơ thể để chống lại ung thư.
Hệ thống miễn dịch của cơ thể tìm kiếm tế bào ung thư
trong cơ thể và tiêu diệt chúng. Các liệu pháp sinh học được
sử dụng để sửa chữa, kích thích hoặc tăng cường chức năng
chống lại ung thư tự nhiên của hệ thống miễn dịch. Có thể
điều trị bằng liệu pháp sinh học trước khi phẫu thuật, đơn
độc hoặc phối hợp với hóa trị liệu hoặc tia xạ trị liệu. Hầu
hết các loại thuốc sử dụng trong liệu pháp sinh học được
tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch.
Các thử nghiệm lâm sàng để đánh giá các phương pháp
điều trị mới là một lựa chọn điều trị phù hợp với nhiều bệnh
nhân ung thư đại-trực tràng. Trong một số nghiên cứu, tất
cả bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp mới. Trong
những nghiên cứu khác bác sĩ so sánh các phương pháp
điều trị khác nhau bằng cách áp dụng một phương pháp
điều trị mới đã cho kết quả khả quan trong phòng thí
nghiệm cho một nhóm bệnh nhân và phương pháp điều trị
thường quy (phương pháp chuẩn) cho một nhóm bệnh nhân
khác.
Nghiên cứu đã mang lại nhiều thành tựu trong điều trị
ung thư đại-trực tràng. Qua nghiên cứu bác sĩ tìm ra các
phương pháp điều trị ung thư mới có thể hiệu quả hơn
phương pháp điều trị chuẩn.
6. Tác dụng phụ của điều trị ung thư đại-trực tràng là gì?
38 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Tác dụng phụ của điều trị ung thư phụ thuộc vào kiểu
điều trị và khác nhau ở từng bệnh nhân. Thông thường tác
dụng phụ mang tính tạm thời. Bác sĩ và y tá có thể giải thích
về các tác dụng phụ có thể xảy ra. Bệnh nhân nên thông báo
những tác dụng phụ nghiêm trọng với bác sĩ. Bác sĩ có thể
gợi ý các cách để giảm nhẹ triệu chứng có thể xảy ra trong
hoặc sau khi điều trị.
Phẫu thuật gây đau và nhạy cảm tạm thời ở vùng phẫu thuật.
Phẫu thuật ung thư đại-trực tràng có thể gây ỉa lỏng hoặc
táo bón tạm thời. Bệnh nhân được phẫu thuật mở thông đại
tràng có thể bị kích thích ở vùng da quanh lỗ mở. Bác sĩ, y tá
và bác sĩ chuyên khoa về mở thông ruột sẽ hướng dẫn bệnh
nhân cách vệ sinh tại chỗ và phòng chống hiện tượng kích
thích và nhiễm khuẩn.
Hóa trị liệu tác dụng cả lên tế bào lành và tế bào ung thư. Tác
dụng phụ tuỳ thuộc vào loại thuốc và liều lượng cụ thể. Tác
dụng phụ thường gặp của hóa trị liệu là buồn nôn và nôn,
rụng tóc, đau miệng, ỉa lỏng và mệt mỏi. Các tác dụng phụ
nghiêm trọng có thể xảy ra nhưng ít hơn, ví dụ như nhiễm
khuẩn hoặc chảy máu.
Tia xạ trị liệu, giống như hóa trị liệu, tác động đến cả tế bào
lành và tế bào ung thư. Tác dụng phụ của tia xạ trị liệu chủ
yếu phụ thuộc vào liều lượng và bộ phận được điều trị. Các
tác dụng phụ thường gặp là mệt mỏi, thay đổi da ở vùng
chiếu xạ, mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn và ỉa lỏng.
Đôi khi tia xạ trị liệu có thể gây chảy máu trực tràng (hiện
tượng phân có máu).
UNG THƯ ĐẠI -TR ỰC T R ÀNG 39
Liệu pháp sinh học có thể gây ra các tác dụng phụ khác
nhau tuỳ theo từng loại điều trị. Thông thường phương
pháp điều trị này gây ra các triệu chứng giống cảm cúm,
như rét run, sốt, mệt mỏi và buồn nôn.
7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi sau khi điều trị ung thư đại-trực tràng là rất
quan trọng. Khám định kỳ giúp phát hiện ra tất cả những
thay đổi về sức khỏe. Nếu ung thư xuất hiện lại hay ung thư
mới phát triển, nó có thể được điều trị ngay. Các thăm khám
bao gồm khám lâm sàng, xét nghiệm máu trong phân, soi
đại tràng, chụp X quang lồng ngực và các xét nghiệm cận
lâm sàng. Giữa các lần khám định kỳ, bệnh nhân ung thư
đại-trực tràng nên thông báo ngay với bác sĩ về tất cả những
vấn đề sức khỏe khi chúng xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Cổ Tử Cung
1. Ung thư cổ tử cung là gì
Ung thư cổ tử cung, một loại ung thư thường gặp ở phụ
nữ, là một căn bệnh mà những tế bào ung thư ác tính xuất
hiện trong mô cổ tử cung. Cổ tử cung là đoạn mở của tử
cung. Tử cung là một bộ phận có hình quả lê, rỗng nơi bào
thai phát triển. Cổ tử cung nối tử cung với âm đạo (ống sinh
sản).
Ung thư cổ tử cung thường phát triển chậm. Trước khi
phát hiện ra tế bào ung thư ở cổ tử cung, các mô ở cổ tử
cung trải qua những thay đổi trong đó các tế bào bất thư-
ờng bắt đầu xuất hiện (hiện tượng loạn sản). Những tế bào
ung thư này thường được phát hiện nhờ việc làm phiến đồ
âm đạo (xét nghiệm Pap). Muộn hơn, tế bào ung thư bắt
đầu phát triển và lan sâu thêm vào cổ tử cung và những
vùng xung quanh.
Do ung thư cổ tử cung thường không có triệu chứng, bác
sĩ phải tiến hành xét nghiệm hàng loạt để tìm bệnh. Xét
UNG THƯ CỔ TỬ CUNG 41
nghiệm đầu tiên là làm phiến đồ âm đạo Pap, được tiến
hành bằng cách dùng một miếng bông, một bàn chải, hoặc
một que gỗ nhỏ để cạo nhẹ bên ngoài cổ tử cung để lấy tế
bào.
Nếu phát hiện ra tế bào bất thường bác sẽ phải cắt một
mẫu mô (gọi là sinh thiết) ở cổ tử cung và quan sát dưới
kính hiển vi để xem có tế bào ung thư không. Sinh thiết
mảnh mô nhỏ có thể được thực hiện tại phòng khám của bác
sĩ. Nếu cần lấy một mảnh lớn hơn (cắt hình nón) bệnh nhân
có thể phải đến bệnh viện.
Tiên lượng (khả năng hồi phục) và việc lựa chọn phương
pháp điều trị được quyết định dựa trên giai đoạn ung thư
(ung thư còn trong cổ tử cung hay đã lan sang bộ phận khác
của cơ thể) và tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư cổ tử cung là gì?
Bằng cách nghiên cứu một số lượng lớn phụ nữ trên toàn
thế giới, các nhà nghiên cứu đã xác định được một số yếu tố
nguy cơ nhất định làm tăng khả năng chuyển tế bào bình
thường ở cổ tử cung thành bất thường hay ung thư. Họ tin
rằng, trong nhiều trường hợp, ung thư cổ tử cung phát triển
khi có từ hai yếu tố trở lên hoạt động cùng một lúc.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ bắt đầu có quan hệ tình dục
trước 18 tuổi và những phụ nữ có nhiều bạn tình có nguy cơ mắc
ung thư cổ tử cung cao hơn. Người phụ nữ cũng có nguy cơ
mắc ung thư cổ tử cung cao hơn nếu bạn tình bắt đầu quan hệ
42 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
tình dục lúc còn quá trẻ, đã có nhiều bạn tình, hoặc trước đây
kết hôn với người bị ung thư cổ tử cung.
Các nhà nghiên cứu không biết chính xác tại sao việc
quan hệ tình dục của người phụ nữ và bạn tình của họ lại
ảnh hưởng tới nguy cơ phát triển bệnh ung thư cổ tử cung.
Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng một số loại vi rút lây
nhiễm qua đường tình dục có thể khiến tế bào trong cổ tử
cung trải qua hàng loạt thay đổi từ đó có thể dẫn tới ung
thư. Phụ nữ có nhiều bạn tình hoặc có quan hệ với những
người đã từng có nhiều bạn tình có nguy cơ mắc ung thư cổ
tử cung cao hơn ít nhất một phần bởi vì khả năng nhiễm vi
rút lây qua đường tình dục cao hơn.
Các nhà nghiên cứu đang tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng
của loại vi rút lây qua đường tình dục có tên là vi rút papilloma ở
người (HPV). Một số loại HPV lây nhiễm qua đường tình
dục gây ra mụn cơm ở vùng sinh dục. Bên cạnh đó, các nhà
khoa học còn cho rằng một số loại vi rút này có thể gây ra sự
phát triển của những tế bào bất thường ở cổ tử cung và góp
phần vào quá trình phát triển ung thư. Họ phát hiện ra rằng
phụ nữ mang HPV hoặc những người có bạn tình mang
HPV có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung cao hơn bình th-
ường. Tuy nhiên, hầu hết phụ nữ bị nhiễm HPV không bị
ung thư cổ tử cung, và loại vi rút này cũng không có mặt ở
tất cả những phụ nữ bị ung thư cổ tử cung. Vì vậy, các nhà
khoa học tin rằng còn có những yếu tố khác tác động cùng
với HPV, ví dụ như vi rút Herpes sinh dục cũng có thể góp
phần. Cần phải tiếp tục nghiên cứu để biết chính xác vai trò
UNG THƯ CỔ TỬ CUNG 43
của những loại vi rút này và phương thức chúng hoạt động
cùng với các yếu tố khác đối với sự phát triển của bệnh ung
thư cổ tử cung.
Hút thuốc lá cũng làm tăng nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung,
mặc dù vẫn chưa biết rõ là như thế nào và tại sao. Nguy cơ
này dường như tăng tỷ lệ thuận với lượng thuốc lá mà ngư-
ời phụ nữ hút hàng ngày và số năm hút thuốc.
Những phụ nữ có mẹ uống diethylstilbestrol (DES) trong khi
mang thai để ngừa sẩy thai cũng có nguy cơ mắc ung thư cổ tử
cung cao hơn. (Thuốc được sử dụng cho mục đích này
khoảng từ năm 1940-1970). Một loại ung thư âm đạo và cổ
tử cung hiếm gặp được phát hiện thấy ở một số ít những
bệnh nhân có mẹ đã sử dụng DES.
Một số báo cáo cho biết những phụ nữ có hệ thống miễn
dịch bị suy yếu cũng có nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử cung
cao hơn những người khác. Ví dụ, phụ nữ bị nhiễm vi rút
suy giảm miễn dịch ở người (HIV) gây bệnh AIDS có nguy
cơ ung thư cao hơn. Những bệnh nhân được ghép tạng
phải dùng thuốc ức chế hệ thống miễn dịch chống thải
ghép có nguy cơ bị tổn thương tiền ung thư cao hơn
những người khác.
Một số nhà nghiên cứu tin rằng nguy cơ mắc ung thư cổ
tử cung tăng lên ở những phụ nữ uống thuốc tránh thai . Tuy
nhiên, các nhà khoa học chưa tìm ra được liệu thuốc tránh
thai có trực tiếp gây ra ung thư cổ tử cung không. Mối
quan hệ này rất khó chứng minh bởi vì hai nguy cơ chính
gây ung thư cổ tử cung là quan hệ tình dục khi còn trẻ và
44 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
có nhiều bạn tình cũng có thể thường gặp hơn ở những
phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai so với những phụ nữ
không sử dụng thuốc tránh thai. Như vậy, các nhãn dán
trên thuốc tránh thai cũng cảnh báo nguy cơ này và
khuyên những phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai nên làm
phiến đồ Pap hàng năm.
Một số nghiên cứu cho thấy vitamin A đóng một vai trò
quan trọng trong việc ngăn chặn hoặc phòng chống những thay
đổi tiền ung thư trong những tế bào giống như những tế bào
trên bề mặt cổ tử cung. Những nghiên cứu tiếp theo về các
dạng của vitamin A có thể giúp các nhà khoa học hiểu rõ
hơn về việc phòng chống ung thư cổ tử cung.
Hiện nay, việc phát hiện sớm và điều trị biến đổi tiền ung
thư vẫn là những cách thức phòng chống ung thư cổ tử cung
hiệu quả nhất. Thông tin về phát hiện sớm trình bày chi tiết
trong mục riêng ở dưới đây. Phụ nữ nên nói chuyện với bác
sĩ của họ về lịch khám kiểm tra phù hợp. Lời khuyên của bác
sĩ sẽ dựa trên cơ sở những yếu tố như độ tuổi, tiền sử bệnh
sử, và các yếu tố nguy cơ.
3. Ung thư cổ tử cung được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư cổ tử cung là gì?
Nhiều năm qua, các bác sĩ đã sử dụng những thuật ngữ
khác nhau để nói tới những thay đổi bất thường ở những tế
bào trên bề mặt cổ tử cung. Một thuật ngữ được sử dụng hiện
nay là tổn thương trong biểu mô tế bào vảy (SIL). (Từ tổn
thương đề cập tới vùng có mô bất thường; trong biểu mô có
UNG THƯ CỔ TỬ CUNG 45
nghĩa là những tế bào bất thường mà chỉ có trên lớp tế bào bề
mặt). Những thay đổi ở những tế bào này có thể phân chia
thành hai loại:
SIL mức độ thấp đề cập tới những thay đổi còn sớm về
kích thước, hình dáng, và số lượng tế bào tạo nên bề mặt cổ
tử cung. Một số tổn thương mức độ thấp có thể tự biến mất.
Tuy nhiên, theo thời gian, một số tổn thương khác có thể
phát triển rộng hơn hoặc trở nên bất thường hơn, tạo nên
tổn thương mức độ cao. Tổn thương tiền ung thư mức độ
thấp có thể gọi là hiện tượng loạn sản nhẹ hoặc hiện tượng
tân tạo trong biểu mô cổ tử cung 1 (CIN 1). Những thay đổi
ban đầu như vậy thường xảy ra nhất ở những phụ nữ tuổi
từ 25-35 nhưng cũng có thể xuất hiện ở những nhóm tuổi
khác.
SIL mức độ cao có nghĩa là có một số lượng lớn tế bào có
dấu hiệu tiền ung thư; chúng trông rất khác những tế bào
thường. Giống như SIL mức độ thấp, những thay đổi tiền ung
thư này chỉ liên quan tới những tế bào trên bề mặt cổ tử cung.
Những tế bào này sẽ không trở thành ung thư và không xâm
lấn vào những lớp tế bào sâu hơn của cổ tử cung trong nhiều
tháng, có thể trong nhiều năm. Tổn thương mức độ cao còn
được gọi là hiện tượng loạn sản mức độ vừa hoặc nặng, CIN
2 hoặc 3, hay ung thư biểu mô nông tại chỗ. Chúng thường
xuất hiện nhiều nhất ở những phụ nữ trong độ tuổi từ 30 đến
40 nhưng cũng có thể xảy ra ở những độ tuổi khác.
Nếu những tế bào bất thường lan sâu hơn vào cổ tử cung
hoặc tới các mô khác hoặc các cơ quan khác, bệnh được gọi
AVG
46 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
là ung thư cổ tử cung, hay ung thư cổ tử cung thể xâm lấn.
Nó thường xảy ra nhất ở những phụ nữ ở độ tuổi ngoài 40.
Phát hiện sớm
Nếu tất cả phụ nữ được thăm khám vùng chậu và làm
nghiệm pháp Pap định kỳ thì hầu hết các điều kiện tiền ung
thư sẽ được phát hiện và được điều trị trước khi ung thư
xuất hiện. Bằng cách đó, hầu hết các loại ung thư thể xâm
lấn có thể phòng ngừa được. Tất cả các loại ung thư thể xâm
lấn xảy ra có thể được phát hiện ra ở giai đoạn sớm và có thể
chữa khỏi được.
Khi khám vùng chậu, bác sĩ kiểm tra tử cung, âm đạo,
buồng trứng, vòi trứng, bàng quang, và trực tràng. Bác sĩ sẽ
khám những cơ quan này để phát hiện ra những bất thường
về hình dáng và kích thước. Bác sĩ có thể phải sử dụng một
mỏ vịt để mở rộng âm đạo giúp nhìn thấy phần trên cao của
âm đạo và cổ tử cung.
Nghiệm pháp Pap là một xét nghiệm đơn giản, không
đau để phát hiện ra những tế bào bất thường ở trong và
xung quanh cổ tử cung. Phụ nữ nên làm nghiệm pháp này
ngoài những ngày có kinh nguyệt; thời gian tốt nhất là
khoảng 10 đến 20 ngày sau ngày thứ nhất của chu kỳ kinh
nguyệt. Trong khoảng hai ngày trước khi tiến hành nghiệm
pháp Pap, nên tránh tắm vòi hoa sen hoặc sử dụng bọt, kem,
hay gel diệt tinh trùng hoặc đặt thuốc âm đạo (trừ những
loại được bác sĩ chỉ định), những loại thuốc này có thể rửa
trôi hoặc giấu đi các tế bào bất thường.
UNG THƯ CỔ TỬ CUNG 47
Nghiệm pháp Pap có thể tiến hành ở phòng khám hoặc
trong bệnh viện. Dùng một cái nạo bằng gỗ (cái bay) hoặc
một bàn chải nhỏ để lấy tế bào cổ tử cung và phần trên âm
đạo. Những tế bào này được đặt lên một phiến kính và gửi
tới phòng thí nghiệm để kiểm tra nhằm phát hiện ra những
thay đổi bất thường.
Cách thức miêu tả kết quả nghiệm pháp Pap đang thay
đổi. Phương pháp mới nhất là phương pháp sử dụng hệ
thống Bethesda. Những thay đổi được mô tả theo SIL mức độ
thấp hoặc là SIL mức độ cao. Nhiều bác sĩ cho rằng hệ thống
Bethesda cung cấp nhiều thông tin bổ ích hơn hệ thống cũ, hệ
thống cũ sử dụng các con số từ hạng 1 đến hạng 5. (Trong
hạng 1, tế bào trong mẫu xét nghiệm là bình thường, còn
hạng 5 là ung thư thể xâm lấn). Phụ nữ nên đề nghị bác sĩ giải
thích hệ thống mô tả kết quả cho nghiệm pháp Pap của họ.
Phụ nữ nên đi khám định kỳ, bao gồm khám vùng chậu và
làm nghiệm pháp Pap, nếu họ ở độ tuổi hoặc đã ở độ tuổi có
hoạt động tình dục hay nếu họ >18 tuổi. Những người có nguy
cơ ung thư cổ tử cung tăng cao cần đặc biệt tuân theo lời
khuyên của bác sĩ về việc khám định kỳ. Những phụ nữ đã đ-
ược cắt tử cung (phẫu thuật cắt tử cung và cả cổ tử cung) nên
hỏi ý kiến bác sĩ về việc khám vùng chậu và làm nghiệm pháp
Pap.
Những thay đổi tiền ung thư ở cổ tử cung thường không
gây đau đớn. Thực tế là chúng thường không gây ra bất kỳ
triệu chứng nào và sẽ không được phát hiện nếu người phụ
nữ không đi khám và làm nghiệm pháp Pap.
48 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Triệu chứng thường không xuất hiện cho đến khi tế bào
bất thường ở cổ tử cung trở thành ung thư và xâm lấn vào
các mô bên cạnh. Khi điều này xảy ra thì hiện tượng thường
gặp nhất là ra máu một cách bất thường. Hiện tượng ra máu
có thể bắt đầu và ngừng ở giữa chu kỳ kinh nguyệt, hoặc có
thể xảy ra sau khi quan hệ tình dục, tắm vòi hoa sen, hoặc là
khám vùng chậu. Kinh nguyệt có thể kéo dài hơn và với số
lượng nhiều hơn bình thường. Ra máu sau khi mãn kinh có
thể là một triệu chứng của ung thư cổ tử cung. Hiện tượng
ra nhiều khí hư là một triệu chứng khác của ung thư cổ tử
cung.
Những triệu chứng này có thể do ung thư hoặc các bệnh
khác gây ra. Chỉ có bác sĩ mới có thể khẳng định được. Điều
quan trọng là người phụ nữ phải đến khám bác sĩ ngay khi
có bất kỳ triệu chứng nào trong số này.
4. Ung thư cổ tử cung được chẩn đoán như thế nào?
Khi phát hiện ra ung thư cổ tử cung bệnh nhân sẽ phải
làm thêm các xét nghiệm để xem tế bào ung thư đã lan sang
các bộ phận khác của cơ thể chưa. Việc thăm dò này là quá
trình phân giai đoạn. Để lên kế hoạch điều trị bác sĩ cần phải
biết bệnh đang ở giai đoạn nào. Ung thư cổ tử cung được
chia thành những giai đoạn sau:
Giai đoạn 0 hay ung thư biểu mô nông tại chỗ
Ung thư biểu mô nông tại chỗ là giai đoạn ung thư rất
sớm. Tế bào bất thường được tìm thấy trong lớp tế bào đầu
UNG THƯ CỔ TỬ CUNG 49
tiên của niêm mạc cổ tử cung và không xâm lấn vào những
lớp mô sâu hơn.
Giai đoạn I
Ung thư chỉ gây tổn thương cổ tử cung mà chưa lan sang
khu vực lân cận.
Giai đoạn IA: Một lượng nhỏ tế bào ung thư ở sâu hơn
trong lớp mô cổ tử cung nhưng chỉ được phát hiện ra trên
kính hiển vi.
Giai đoạn IB: Một lượng lớn tế bào ung thư được phát hiện
ra trong lớp mô cổ tử cung.
Giai đoạn II
Ung thư đã lan sang những vùng lân cận nhưng còn giới
hạn trong vùng chậu.
Giai đoạn IIA: Ung thư đã lan hết cổ tử cung tới 2/3 trên
âm đạo.
Giai đoạn IIB: Ung thư đã lan sang mô xung quanh cổ tử
cung.
Giai đoạn III
Ung thư đã lan ra ngoài vùng chậu. Tế bào ung thư có thể
lan tới phần dưới âm đạo. Những tế bào này có thể lan sang
và làm tắc nghẽn niệu quản.
Giai đoạn IV
Ung thư đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
50 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Giai đoạn IVA: Ung thư đã lan sang bàng quang hay trực
tràng (những cơ quan gần cổ tử cung).
Giai đoạn IVB: Ung thư đã lan sang các cơ quan ở xa nh-
ư phổi.
Ung thư tái phát
Bệnh tái phát có nghĩa là ung thư xuất hiện trở lại sau khi
đã được điều trị. Nó có thể xuất hiện lại ở cổ tử cung hoặc ở
một vị trí khác.
5. Ung thư cổ tử cung được điều trị như thế nào?
Ba phương pháp điều trị được áp dụng cho điều trị ung
thư cổ tử cung.
- Phẫu thuật (cắt bỏ ung thư bằng phẫu thuật)
- Tia xạ trị liệu (dùng tia X liều cao hoặc tia có năng lượng
cao khác để tiêu diệt tế bào ung thư).
- Hóa trị liệu (sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư)
Bác sĩ có thể sử dụng một trong vài phương pháp phẫu
thuật đối với ung thư biểu mô nông tại chỗ để tiêu diệt mô
ung thư:
- Phẫu thuật lạnh là phương pháp tiêu diệt tế bào ung thư
bằng cách làm đông lạnh nó.
- Phẫu thuật bằng tia lazer là phương pháp dùng chùm
tia hẹp có cường độ ánh sáng mạnh để diệt tế bào ung thư.
Bác sĩ có thể loại bỏ ung thư bằng cách áp dụng một
trong ba dạng phẫu thuật sau:
UNG THƯ CỔ TỬ CUNG 51
- Thủ thuật cắt bỏ mô hình nón là phương pháp lấy ra
một mảnh mô hình nón ở nơi phát hiện ra sự bất thường. Có
thể áp dụng thủ thuật cắt hình nón để sinh thiết một mảnh
mô. Nhưng phương pháp này chỉ được áp dụng để điều trị
ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm.
- Bác sĩ có thể áp dụng phương pháp khác là cắt bằng
vòng dây điện (LEEP) để loại bỏ mô bất thường. Phương
pháp LEEP sử dụng một dòng điện truyền qua một vòng
dây kim loại mảnh đóng vai trò như một con dao.
- Chùm tia lazer có thể được sử dụng như một con dao
để loại bỏ mô ung thư.
- Thủ thuật cắt tử cung là phẫu thuật cắt bỏ tử cung và cổ
tử cung cùng với ung thư. Nếu tử cung được lấy ra qua âm
đạo thì phẫu thuật đó được gọi là thủ thuật cắt tử cung qua
âm đạo. Nếu tử cung được lấy ra qua vết mổ ở bụng thì
phẫu thuật đó được gọi là thủ thuật cắt toàn bộ tử cung qua
ổ bụng. Đôi khi buồng trứng và vòi trứng cũng được cắt bỏ,
loại phẫu thuật này được gọi là thủ thuật cắt buồng trứng và
vòi trứng hai bên.
- Thủ thuật cắt tử cung triệt để là loại phẫu thuật mà
trong đó cổ tử cung, tử cung và một phần âm đạo được cắt
bỏ. Các hạch bạch huyết trong vùng này cũng được vét bỏ.
- Nếu ung thư đã lan ra ngoài cổ tử cung hay những cơ
quan sinh dục, bác sĩ có thể cắt bỏ đoạn dưới đại tràng, trực
tràng, hoặc bàng quang (tuỳ vào vị trí mà ung thư đã lan tới)
cùng với cổ tử cung, tử cung và âm đạo. Phương pháp này
được gọi là cắt bỏ nội tạng và hiếm khi được sử dụng. Có
52 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
thể sau đó phải tiến hành phầu thuật tạo hình để tạo âm đạo
giả.
Tia xạ trị liệu là việc sử dụng tia X hay những tia có năng
lượng cao khác để tiêu diệt tế bào ung thư và làm khối u nhỏ
lại. Tia phóng xạ có thể xuất phát từ một máy bên ngoài cơ
thể (chiếu xạ ngoài) hay từ những nguyên liệu phát xạ (các
chất đồng vị phóng xạ) được đưa vào vùng có tế bào ung
thư qua những ống nhựa nhỏ (chiếu xạ trong). Có thể sử
dụng tia phóng xạ đơn độc hoặc bổ sung cho phẫu thuật.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế
bào ung thư. Thuốc có thể ở dạng uống như viên nang hoặc
có thể được đưa vào cơ thể bằng cách tiêm vào tĩnh mạch.
Hóa trị liệu còn được gọi là phương pháp điều trị hệ thống
hay toàn thân bởi thuốc đi vào mạch máu tới khắp cơ thể và
có thể tiêu diệt tế bào ung thư ở ngoài cổ tử cung.
Điều trị theo giai đoạn
Điều trị ung thư cổ tử cung phụ thuộc vào giai đoạn
bệnh, kích thước khối u, độ tuổi của bệnh nhân, tình trạng
chung, và nguyện vọng sinh con.
Điều trị ung thư cổ tử cung đối với bệnh nhân đang mang
thai có thể được trì hoãn tuỳ theo giai đoạn ung thư và bệnh
nhân đang mang thai tháng thứ mấy.
Phương pháp điều trị chuẩn có thể được xem xét bởi tính
hiệu quả của nó đối với những bệnh nhân trong những
nghiên cứu trước đây hoặc có thể xem xét khả năng tham
gia vào một thử nghiệm lâm sàng. Không phải tất cả bệnh
nhân đều được chữa khỏi bằng phương pháp điều trị chuẩn
UNG THƯ CỔ TỬ CUNG 53
và một số phương pháp điều trị chuẩn có thể có nhiều tác
dụng phụ hơn mong muốn. Vì những lý do này mà thử
nghiệm lâm sàng được tiến hành để tìm ra phương pháp
điều trị hiệu quả hơn cho các bệnh nhân ung thư dựa trên
những thông tin mới nhất. Thử nghiệm lâm sàng được tiến
hành ở nhiều nơi cho hầu hết các giai đoạn ung thư cổ tử
cung.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn 0
Ung thư cổ tử cung giai đoạn 0 đôi khi còn được gọi là
ung thư biểu mô nông tại chỗ.
Có thể điều trị bằng một trong những phương pháp
dưới đây:
(1) Thủ thuật cắt hình nón
(2) Phẫu thuật bằng lazer
(3) Thủ thuật cắt bằng vòng dây điện (LEEP)
(4) Phẫu thuật lạnh
(5) Phẫu thuật cắt bỏ vùng ung thư, cổ tử cung, và tử
cung (cắt tử cung toàn bộ qua đường âm đạo hoặc
qua đường ổ bụng) cho những phụ nữ không thể
hoặc không muốn có con nữa.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn I
Có thể điều trị theo một trong những phương pháp điều
trị sau tuỳ theo độ sâu mà tế bào ung thư xâm lấn vào mô
lành:
Ung thư giai đoạn IA:
54 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
(1) Phẫu thuật cắt bỏ ung thư, tử cung, và cổ tử cung (cắt
tử cung toàn bộ qua đường ổ bụng). Hai buồng trứng
cũng có thể bị cắt bỏ (cắt buồng trứng, vòi trứng hai
bên), nhưng thường không được tiến hành ở các phụ
nữ trẻ.
(2) Cắt hình nón
(3) Đối với những khối u đã xâm lấn sâu hơn (3 - 5mm):
Phẫu thuật cắt ung thư, tử cung và một phần âm đạo
(cắt tử cung triệt để) cùng với các hạch ở vùng chậu
(phương pháp vét hạch).
(4) Điều trị bằng tia phóng xạ trong.
Ung thư giai đoạn IB:
(1) Điều trị tia phóng xạ trong và ngoài
(2) Cắt tử cung triệt để và vét hạch.
(3) Cắt tử cung triệt để và vét hạch sau đó bổ sung bằng
điều trị tia phóng xạ và hóa chất.
(4) Điều trị tia phóng xạ và hóa chất.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn II
Có thể điều trị bằng một trong những phương pháp sau:
Ung thư giai đoạn IIA:
(1) Điều trị tia phóng xạ trong và ngoài.
(2) Cắt tử cung triệt để và vét hạch.
(3) Cắt tử cung triệt để và vét hạch sau đó bổ sung bằng
điều trị tia phóng xạ và hóa chất.
UNG THƯ CỔ TỬ CUNG 55
(4) Điều trị tia phóng xạ và hóa chất
Ung thư giai đoạn IIB:
(1) Điều trị tia phóng xạ trong và ngoài cộng với hóa
chất.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn III
Có thể điều trị bằng một trong những phương pháp sau
đây.
(1) Điều trị tia phóng xạ trong và ngoài cộng với hóa
chất.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn IV
Có thể điều trị bằng một trong những phương pháp sau:
Ung thư giai đoạn IVA:
(1) Điều trị tia phóng xạ trong và ngoài cộng với hóa chất.
Ung thư giai đoạn IVB:
(1) Điều trị tia phóng xạ làm giảm triệu chứng của bệnh
ung thư
(2) Hóa trị liệu
Ung thư cổ tử cung tái phát
Nếu ung thư xuất hiện trở lại ở vùng chậu, điều trị có thể là:
(1) Điều trị tia phóng xạ phối hợp với hóa chất
(2) Hóa trị liệu giảm triệu chứng ung thư
56 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Nếu ung thư xuất hiện trở lại ở ngoài vùng chậu, bệnh
nhân có thể chọn lựa một thử nghiệm lâm sàng dùng hóa
chất điều trị toàn thân.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Khám theo dõi định kỳ bao gồm khám vùng chậu, làm
nghiệm pháp Pap và các xét nghiệm cận lâm sàng khác.
Khám định kỳ là rất quan trọng đối với tất cả phụ nữ đã đ-
ược điều trị những thay đổi tiền ung thư hoặc ung thư cổ tử
cung. Bác sĩ sẽ tiến hành làm những xét nghiệm này và
khám định kỳ trong vài năm để kiểm tra những dấu hiệu
báo hiệu bệnh lý tái phát.
Điều trị ung thư có thể gây ra tác dụng phụ sau nhiều
năm. Vì lý do này bệnh nhân nên tiếp tục khám định kỳ và
thông báo ngay với bác sĩ những vấn đề bất thường về sức
khỏe.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Bàng Quang
1. Ung thư bàng quang là gì?
Ung thư chỉ giới hạn ở các tế bào nằm trong niêm mạc
bàng quang được gọi là ung thư bàng quang nông. Bác sĩ có
thể gọi là ung thư biểu mô nông tại chỗ. Loại ung thư này
thường tái phát sau khi điều trị. Khi đó bệnh thường tái phát
dưới dạng một u nông khác ở bàng quang.
Ung thư bắt đầu từ một khối u nông có thể phát triển
xuyên qua niêm mạc và xâm nhập vào thành cơ của bàng
quang. Tình trạng này được gọi là ung thư xâm lấn. Ung thư
xâm lấn có thể lan qua thành bàng quang. Nó có thể xâm lấn
vào các cơ quan lân cận như tử cung hoặc âm đạo (ở nữ giới)
hoặc tuyến tiền liệt (ở nam giới). Nó còn có thể xâm lấn vào
thành bụng.
Khi ung thư bàng quang lan ra bên ngoài bàng quang
thì tế bào ung thư thường xuất hiện ở các hạch bạch huyết
lân cận. Nếu tế bào ung thư đã xâm lấn vào những hạch
này thì có nghĩa là tế bào ung thư cũng có thể đã lan tới
58 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
những hạch khác hoặc các cơ quan khác như phổi, gan
hoặc xương.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư bàng quang là gì?
Các nghiên cứu đã tìm ra các yếu tố nguy cơ sau:
Độ tuổi. Nguy cơ mắc ung thư bàng quang tăng lên khi
người ta già đi. Những người dưới 40 tuổi hiếm khi mắc căn
bệnh này.
Thuốc lá. Sử dụng thuốc lá là một yếu tố nguy cơ chính.
Người hút thuốc lá có nguy cơ mắc ung thư bàng quang cao
hơn người không hút thuốc hai đến ba lần. Người hút thuốc
lá tẩu hoặc xì gà còn có nguy cơ cao hơn.
Nghề nghiệp. Một số công nhân có nguy cơ mắc ung thư
bàng quang cao hơn do tiếp xúc với các tác nhân gây ung
thư ở nơi làm việc. Công nhân trong ngành cao su, hóa chất
và thuộc da có nguy cơ cao. Nhân viên làm đầu, thợ máy,
công nhân kim khí, thợ in, họa sĩ, công nhân ngành dệt may
và tài xế lái xe tải cũng có nguy cơ cao.
Nhiễm khuẩn. Bị nhiễm một số loại kí sinh trùng nhất
định có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư bàng
quang. Những loại kí sinh trùng này thường phổ biến ở
những vùng nhiệt đới.
Chế độ điều trị có sử dụng cyclophosphamid hoặc
arsenic. Những loại thuốc này được sử dụng để điều trị ung
thư và một số tình trạng bệnh khác. Chúng làm tăng nguy
cơ mắc ung thư bàng quang.
UNG THƯ B ÀNG QUANG 59
Chủng tộc. Người da trắng có nguy cơ mắc ung thư bàng
quang cao gấp hai lần người Mỹ gốc Phi và người Tây Ban
Nha. Tỷ lệ mắc thấp nhất là ở người châu Á.
Giới nam. Nguy cơ mắc ung thư bàng quang ở nam giới
cao hơn ở nữ giới hai đến ba lần.
Tiền sử gia đình. Những người có thành viên trong gia
đình bị ung thư bàng quang có vẻ có nguy cơ mắc bệnh cao
hơn. Các nhà nghiên cứu đang nghiên cứu những thay đổi
trong một số gen nhất định có thể gây tăng nguy cơ mắc ung
thư bàng quang.
3. Ung thư bàng quang được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư bàng quang là gì?
Những triệu chứng thường gặp của ung thư bàng quang
bao gồm:
- Đi tiểu ra máu (làm cho nước tiểu có màu từ hồng nhạt
đến đỏ thẫm).
- Đái buốt.
- Đái nhiều lần hoặc đái rắt.
Những triệu chứng này không phải là những dấu hiệu
chắc chắn của ung thư bàng quang. Tình trạng nhiễm
khuẩn, u lành tính, sỏi bàng quang hoặc các tình trạng bệnh
khác có thể gây ra những triệu chứng này. Tất cả những
người có các triệu chứng này nên đến gặp bác sĩ để được
chẩn đoán và điều trị các vấn đề bất thường một cách sớm
nhất. Những người có các triệu chứng này có thể gặp bác sĩ
gia đình hoặc một bác sĩ chuyên khoa tiết niệu
60 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
4. Ung thư bàng quang được chẩn đoán như thế nào?
Nếu một bệnh nhân có triệu chứng nghi ung thư bàng
quang, bác sĩ có thể kiểm tra các dấu hiệu về sức khỏe nói
chung và có thể chỉ định một số xét nghiệm cận lâm sàng.
Có thể tiến hành một hoặc vài xét nghiệm dưới đây:
Khám lâm sàng. Bác sĩ khám bụng và hố chậu để tìm
khối u. Khám lâm sàng có thể bao gồm thăm trực tràng hoặc
âm đạo.
Xét nghiệm nước tiểu. Phòng xét nghiệm sẽ tìm xem có
máu, tế bào ung thư và các dấu hiệu bệnh khác trong nước
tiểu hay không.
Chụp thận-niệu quản có tiêm thuốc cản quang vào tĩnh
mạch. Bác sĩ tiêm một loại thuốc cản quang vào mạch máu.
Thuốc này tích tụ lại trong nước tiểu, làm hiện lên hình ảnh
của bàng quang trên phim X quang.
Soi bàng quang. Bác sĩ sử dụng một ống nhỏ có nguồn
sáng (ống nội soi bàng quang) để quan sát trực tiếp bên
trong bàng quang. Bác sĩ đưa ống soi vào trong bàng quang
qua niệu đạo để quan sát niêm mạc bàng quang. Bệnh nhân
có thể cần được gây tê khi thực hiện thủ thuật này.
Bác sĩ có thể tiến hành sinh thiết - tức lấy một mẫu mô -
qua ống nội soi. Sau đó, bác sĩ giải phẫu bệnh quan sát mẫu
mô đó dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư. Đối với một
số ít bệnh nhân, bác sĩ cắt bỏ toàn bộ vùng ung thư khi tiến
hành sinh thiết. Đối với những bệnh nhân này, ung thư bàng
UNG THƯ B ÀNG QUANG 61
quang được chẩn đoán và điều trị chỉ trong một lần can
thiệp
5. Ung thư bàng quang được điều trị như thế nào?
Phẫu thuật: là một phương pháp điều trị ung thư bàng
quang phổ biến. Loại phẫu thuật phụ thuộc chủ yếu vào giai
đoạn và cấp độ của khối u. Bác sĩ có thể giải thích từng loại
phẫu thuật và thảo luận để tìm ra phương pháp điều trị phù
hợp nhất cho bệnh nhân.
Thủ thuật cắt bỏ u bàng quang qua niệu đạo: Bác sĩ có thể
điều trị ung thư bàng quang sớm (nông) bằng thủ thuật cắt
bỏ u bàng quang qua niệu đạo (TUR). Trong khi tiến hành
TUR, bác sĩ đưa một ống nội soi vào bàng quang qua niệu
đạo. Sau đó, bác sĩ sử dụng một dụng cụ có một vòng dây
điện nhỏ ở đầu để cắt bỏ ung thư và đốt toàn bộ tế bào ung
thư còn sót lại bằng một dòng điện. (Đây gọi là phương
pháp đốt tia điện). Bệnh nhân có thể cần nằm viện và gây
mê. Sau TUR, bệnh nhân cũng có thể sử dụng hóa chất hoặc
liệu pháp sinh học.
Thủ thuật cắt bỏ bàng quang triệt để: Đối với ung thư bàng
quang thể xâm lấn, loại phẫu thuật thường được sử dụng
nhất là cắt bỏ bàng quang triệt để. Bác sĩ cũng có thể chọn loại
phẫu thuật này khi ung thư nông lan rộng khắp một phần lớn
bàng quang. Phẫu thuật cắt bỏ bàng quang triệt để là cắt bỏ
toàn bộ bàng quang, các hạch lân cận, một phần niệu đạo và
các cơ quan lân cận có thể chứa các tế bào ung thư. Ở nam
giới, các cơ quan lân cận được cắt bỏ là tuyến tiền liệt, túi tinh
và một phần ống dẫn tinh. Ở phụ nữ, tử cung, buồng trứng,
vòi trứng và một phần âm đạo được cắt bỏ.
62 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Thủ thuật cắt bỏ bàng quang bán phần: Trong một số trường
hợp, bác sĩ có thể chỉ cắt bỏ một phần bàng quang, gọi là phẫu
thuật cắt bỏ bàng quang bán phần. Bác sĩ lựa chọn loại phẫu
thuật này khi bệnh nhân có ung thư cấp độ thấp đã xâm lấn
vào thành bàng quang nhưng mới chỉ khu trú ở một vùng.
Liệu pháp chiếu xạ. Một số lượng nhỏ bệnh nhân có thể
được chiếu xạ trước khi phẫu thuật để làm co khối u. Một số
bệnh nhân khác có thể được chiếu xạ sau khi phẫu thuật để
tiêu diệt nốt các tế bào ung thư còn sót lại trong khu vực.
Đôi khi, bệnh nhân có thể được điều trị bằng tia phóng xạ
khi không còn khả năng phẫu thuật.
Bác sĩ sử dụng hai cách chiếu xạ để điều trị ung thư
bàng quang:
Chiếu xạ ngoài: Một máy chiếu lớn bên ngoài cơ thể hướng
tia vào vùng khối u. Hầu hết bệnh nhân chiếu xạ ngoài được
điều trị ngoại trú 5 ngày một tuần trong thời gian 5-7 tuần.
Phác đồ điều trị này giúp bảo vệ các tế bào và mô lành tránh
sự lan toả của tổng liều phóng xạ. Thời gian điều trị có thể
ngắn hơn khi kết hợp chiếu xạ ngoài với chiếu xạ áp sát.
Chiếu xạ trong: Bác sĩ đặt một dụng cụ nhỏ chứa chất
phóng xạ vào trong bàng quang qua niệu đạo hoặc qua một
vết rạch ở vùng bụng. Bệnh nhân cần nằm viện vài ngày
trong thời gian điều trị. Để bảo vệ những người khác tránh
khỏi tiếp xúc với phóng xạ, bệnh nhân thường không được
có người tới thăm hoặc chỉ được gặp họ trong một thời gian
ngắn khi nguồn xạ còn trong cơ thể. Khi nguồn xạ được lấy
ra thì phóng xạ không còn ở lại trong cơ thể.
UNG THƯ B ÀNG QUANG 63
Một số bệnh nhân ung thư bàng quang được điều trị
bằng cả hai cách chiếu xạ.
Hóa trị liệu sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư.
Bác sĩ có thể sử dụng một hoặc kết hợp nhiều loại thuốc.
Đối với bệnh nhân có ung thư bàng quang nông, bác sĩ có
thể đưa hóa chất vào trong bàng quang sau khi cắt bỏ ung
thư qua đường niệu đạo. Đây là phương pháp điều trị tại
chỗ. Bác sĩ đưa một ống thông vào bàng quang qua niệu đạo
và qua đó bơm thuốc ở dạng nước vào bàng quang. Các loại
thuốc này lưu lại trong bàng quang dăm bảy giờ. Chúng chủ
yếu ảnh hưởng tới những tế bào trong bàng quang. Thông
thường, bệnh nhân được điều trị như vậy một lần một tuần
trong dăm bảy tuần. Đôi khi, người ta điều trị một hoặc vài
lần mỗi tháng và kéo dài như vậy tới một năm.
Nếu ung thư đã xâm lấn sâu vào bàng quang hoặc lan tới
các hạch bạch huyết hay các cơ quan khác, bác sĩ có thể đưa
thuốc vào cơ thể qua đường tĩnh mạch. Đây là phương pháp
điều trị toàn thân, thuốc đi vào mạch máu tới hầu hết các bộ
phận trong cơ thể. Các loại thuốc thường được điều trị theo
chu kỳ để có một thời gian nghỉ hồi phục tiếp theo sau một
đợt điều trị.
Bệnh nhân có thể được điều trị bằng hóa chất đơn độc
hoặc hóa chất kết hợp với phẫu thuật, xạ trị hoặc với cả hai.
Thông thường, bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất ngoại
trú ở một bệnh viện, phòng khám hoặc phòng khám tư. Tuy
nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc được sử dụng và tình trạng
sức khỏe chung của bệnh nhân, bệnh nhân có thể cần nằm
viện trong một thời gian ngắn.
64 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Liệu pháp sinh học sử dụng khả năng tự nhiên của cơ
thể (hệ thống miễn dịch) để chống lại ung thư. Liệu pháp
sinh học thường được sử dụng sau khi cắt bỏ ung thư qua
niệu đạo đối với ung thư bàng quang nông. Phương pháp
này giúp ngăn ngừa ung thư tái phát. Bác sĩ có thể sử dụng
liệu pháp sinh học bằng cách đưa vào trong bàng quang
dung dịch BCG. Dung dịch BCG là dung dịch có chứa các vi
khuẩn sống đã bị làm suy yếu. Những vi khuẩn này kích
thích hệ thống miễn dịch tiêu diệt tế bào ung thư ở bàng
quang. Bác sĩ đưa dung dịch vào trong bàng quang qua một
ống thông. Giữ dung dịch này trong bàng quang bệnh nhân
khoảng hai giờ. Điều trị bằng BCG thường được tiến hành
một lần mỗi tuần trong sáu tuần.
6. Tác dụng phụ của điều trị ung thư bàng quang như thế nào?
Tác dụng phụ của phẫu thuật
Trong một vài ngày sau khi tiến hành phẫu thuật qua
niệu đạo, bệnh nhân có thể có đái máu, đái khó hoặc đái
buốt. Tuy nhiên, phương pháp phẫu thuật này thường gây ít
triệu chứng khó chịu.
Sau khi cắt bỏ bàng quang, hầu hết bệnh nhân thường bị
đau trong vài ngày đầu. Tuy nhiên, có thuốc làm giảm đau.
Bệnh nhân được bác sĩ hoặc y tá thảo luận về cách làm giảm
đau. Hơn nữa, bệnh nhân thường cảm thấy mệt mỏi hoặc
yếu trong một thời gian. Thời gian bình phục sau phẫu thuật
ở mỗi một người là khác nhau.
UNG THƯ B ÀNG QUANG 65
Sau khi cắt bỏ bàng quang bán phần, bệnh nhân có thể
không giữ được lượng nước tiểu trong bàng quang nhiều
bằng lúc trước phẫu thuật và họ có thể cần phải đi tiểu
thường xuyên hơn. Trong hầu hết các trường hợp, vấn đề
này là tạm thời, nhưng một số bệnh nhân có thể có những
thay đổi lâu dài về lượng nước tiểu mà họ có thể nhịn được.
Nếu bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ bàng quang, bệnh nhân cần
một bộ phận mới để chứa đựng nước tiểu và đưa nước tiểu
ra ngoài cơ thể. Một phương pháp thường được bác sĩ sử
dụng là lấy một đoạn ruột non để tạo một ống dẫn nước
tiểu mới. Bác sĩ phẫu thuật gắn một đầu ống vào niệu quản
và nối đầu kia vào một lỗ mở trên thành bụng. Người ta
gắn một túi dẹt bằng keo dính đặc biệt lên trên lỗ mở thông
để hứng nước tiểu. Phương pháp phẫu thuật này được gọi
là thủ thuật mở thông đường tiết niệu và phải thường
xuyên giữ sạch lỗ mở thông.
Đối với một số bệnh nhân, bác sĩ có thể sử dụng một
phần ruột non để tạo thành một túi chứa trong cơ thể. Nước
tiểu được tích lại trong túi chứa này thay vì đi vào túi nhựa.
Bác sĩ nối túi này với niệu đạo hoặc với một lỗ mở thông.
Nếu bác sĩ phẫu thuật nối túi với lỗ mở thông thì bệnh nhân
phải sử dụng một ống thông để dẫn lưu nước tiểu ra ngoài.
Phẫu thuật ung thư bàng quang có thể ảnh hưởng tới
chức năng sinh dục của người bệnh. Do bác sĩ phẫu thuật cắt
bỏ tử cung và buồng trứng trong phẫu thuật cắt bỏ bàng
quang triệt để nên bệnh nhân nữ không thể mang thai được
nữa. Hơn nữa, hiện tượng mãn kinh sẽ xuất hiện ngay lập
tức. Bốc hoả và các triệu chứng khác của thời kỳ mãn kinh
66 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
do phẫu thuật gây ra có thể nghiêm trọng hơn các triệu
chứng do mãn kinh tự nhiên gây ra. Nhiều phụ nữ được chỉ
định liệu pháp hoóc-môn thay thế để làm giảm những triệu
chứng này. Nếu bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ một phần âm đạo
trong phẫu thuật cắt bỏ bàng quang triệt để thì quan hệ tình
dục có thể trở nên khó khăn.
Trước kia, hầu như tất cả nam giới đều bị liệt dương sau
phẫu thuật cắt bỏ bàng quang triệt để, nhưng những tiến bộ
trong phẫu thuật ngày nay đã giúp nam giới có thể tránh
được vấn đề này. Bệnh nhân ung thư bị cắt tuyến tiền liệt và
túi tinh không còn sản xuất được tinh dịch, nên họ đạt cực
khoái “khô”. Bệnh nhân nam muốn có con có thể xem xét
việc dự trữ tinh trùng bằng phương pháp lạnh trước khi
phẫu thuật hoặc phục hồi tinh trùng sau đó.
Bệnh nhân thường lo lắng về ảnh hưởng của phẫu thuật
ung thư bàng quang đối với đời sống tình dục. Bệnh nhân
thường được thảo luận với bác sĩ về tác dụng phụ có thể xảy
ra và thời gian kéo dài của các tác dụng phụ này. Cho dù
triển vọng như thế nào thì bệnh nhân và bạn đời của họ nên
trao đổi với nhau về những suy nghĩ của mình và giúp nhau
tìm ra cách chia sẻ đời sống riêng tư trong và sau khi điều
trị.
Tác dụng phụ của xạ trị
Tác dụng phụ của xạ trị phụ thuộc chủ yếu vào liều chiếu
xạ và bộ phận được chiếu xạ. Bệnh nhân có thể rất mệt mỏi
trong khi chiếu xạ, đặc biệt là các tuần điều trị cuối. Nghỉ
UNG THƯ B ÀNG QUANG 67
ngơi là rất quan trọng, nhưng bác sĩ thường khuyên bệnh
nhân cố gắng hoạt động khi có thể.
Chiếu xạ ngoài có thể làm da vùng chiếu xạ bị đen hoặc
như bị cháy nắng vĩnh viễn. Bệnh nhân thường bị rụng lông
ở vùng được chiếu xạ và da có thể trở nên đỏ, khô, nhạy
cảm và ngứa. Những vấn đề này thường chỉ tạm thời và bác
sĩ sẽ gợi ý các cách để giảm nhẹ chúng.
Xạ trị ở vùng bụng có thể gây buồn nôn, nôn, ỉa lỏng hoặc
đái buốt. Bác sĩ có thể chỉ định thuốc để làm giảm những
triệu chứng này.
Xạ trị cũng có thể làm giảm lượng bạch cầu là những tế
bào giúp bảo vệ cơ thể chống lại nhiễm khuẩn. Khi số lượng
bạch cầu thấp, bác sĩ hoặc y tá sẽ gợi ý các cách phòng tránh
nhiễm khuẩn. Nếu thấp hơn nữa thì bệnh nhân có thể được
ngừng chiếu xạ cho đến khi bạch cầu tăng lên. Bác sĩ sẽ kiểm
tra công thức máu của bệnh nhân định kỳ và thay đổi phác
đồ điều trị nếu cần thiết.
Đối với cả nam và nữ giới, xạ trị bàng quang có thể ảnh
hưởng tới đời sống tình dục. Bệnh nhân nữ có thể bị khô âm
đạo, còn bệnh nhân nam có thể bị khó cương dương.
Mặc dù tác dụng phụ của xạ trị có thể rất khó chịu nhưng
bác sĩ thường có thể điều trị hoặc giúp người bệnh kiểm soát
chúng. Các bạn cũng nên biết rằng trong hầu hết các trường
hợp, tác dụng phụ không kéo dài vĩnh viễn.
Tác dụng phụ của hóa trị liệu
68 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Tác dụng phụ của hóa chất phụ thuộc chủ yếu vào loại
thuốc, liều lượng cũng như đường dùng thuốc. Bên cạnh đó,
giống như các phương pháp điều trị khác, tác dụng phụ là
khác nhau ở mỗi bệnh nhân.
Thuốc chống ung thư được đặt trong bàng quang có thể
gây kích thích, làm bệnh nhân thấy đau hoặc bị chảy máu
trong vài ngày sau khi điều trị. Một số loại thuốc có thể gây
phát ban khi chúng tiếp xúc với da hoặc cơ quan sinh dục.
Hóa trị liệu toàn thân ảnh hưởng tới các tế bào phân chia
nhanh trong cơ thể, bao gồm cả tế bào máu. Tế bào máu
giúp cơ thể chống lại nhiễm khuẩn, làm cho máu đông và
vận chuyển ôxy tới tất cả các bộ phận của cơ thể. Khi thuốc
điều trị ung thư phá huỷ các tế bào máu, bệnh nhân có thể
dễ bị nhiễm khuẩn, có thể bị chảy máu và dễ dàng bầm tím
và có thể có ít năng lượng hơn. Tế bào ở chân tóc và tế bào
lót niêm mạc ống tiêu hóa cũng phân chia nhanh. Kết quả là,
bệnh nhân có thể bị rụng tóc và có các tác dụng phụ khác
như chán ăn, buồn nôn và nôn hoặc đau miệng. Thông
thường, những tác dụng phụ này sẽ dần dần biến mất trong
các giai đoạn nghỉ hồi phục giữa các đợt điều trị hoặc sau
khi kết thúc điều trị.
Một số loại thuốc sử dụng trong điều trị ung thư bàng
quang cũng có thể gây tổn thương thận. Để bảo vệ thận,
bệnh nhân cần rất nhiều dịch. Bệnh nhân được truyền dịch
trước và sau khi điều trị. Đồng thời phải uống nhiều nước
trong khi điều trị bằng những loại thuốc này.
UNG THƯ B ÀNG QUANG 69
Một số loại thuốc điều trị ung thư còn có thể gây đau
buốt ở các ngón tay, ù tai hoặc giảm thính lực. Những vấn
đề này có thể dần mất đi sau khi điều trị kết thúc.
Tác dụng phụ của liệu pháp sinh học
Liệu pháp BCG có thể gây kích thích ở bàng quang.
Bệnh nhân có thể bị đái rắt hoặc phải đi tiểu nhiều lần và
bị đau, đặc biệt là khi đi tiểu. Thường có cảm giác mệt
mỏi. Một số bệnh nhân có thể đi tiểu ra máu, buồn nôn, sốt
nhẹ hoặc rét run.
7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi sau khi điều trị ung thư bàng quang là rất quan
trọng. Ung thư bàng quang có thể xuất hiện trở lại ở bàng
quang hoặc ở bất kỳ vị trí nào khác. Vì vậy, bác sĩ sẽ thảo
luận với bệnh nhân về nguy cơ tái phát của bệnh này.
Nếu ung thư bàng quang không được cắt bỏ, bác sĩ sẽ
tiến hành nội soi bàng quang và cắt bỏ tất cả các khối u nông
mới phát hiện thấy. Bệnh nhân còn có thể được xét nghiệm
nước tiểu để tìm dấu hiệu ung thư. Khám theo dõi có thể
bao gồm xét nghiệm máu, chụp X. quang hoặc các xét
nghiệm khác.
Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bác sĩ sẽ phát hiện
ra những thay đổi để có thể điều trị tất cả các vấn đề một
cách sớm nhất. Khi đến khám và trong thời gian theo dõi
bệnh nhân nên thông báo ngay các vấn đề sức khỏe mới
xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Tuyến Giáp
1. Ung thư tuyến giáp là gì?
Tại Việt Nam ung thư tuyến giáp đứng hàng thứ 13 trong
các loại ung thư.
Hàng năm, có khoảng hơn 12.000 người Mỹ được phát
hiện mắc ung thư tuyến giáp; căn bệnh này chiếm khoảng
1% tổng số các loại ung thư. Ung thư tuyến giáp thường đáp
ứng tốt với điều trị và nhiều bệnh nhân được chữa khỏi.
Các loại ung thư tuyến giáp
Có bốn dạng chính ung thư tuyến giáp là: dạng nhú,
dạng nang, dạng tuỷ và dạng không biệt hóa. Các bác sĩ có
thể gọi tên dạng ung thư theo týp tế bào quan sát được trên
kính hiển vi hoặc theo kiểu phát triển của khối u.
- Ung thư dạng nhú phát triển từ các tế bào sản xuất các
hoóc-môn tuyến giáp chứa iốt. Các tế bào ung thư phát triển
rất chậm và tạo thành nhiều cấu trúc nhỏ hẹp hình nấm
trong khối u. Các bác sĩ thường điều trị thành công các khối
UNG THƯ TUYẾ N GIÁP 71
u này thậm chí ngay cả khi các tế bào u đã lan sang các hạch
bạch huyết lân cận. Các khối u dạng nhú chiếm khoảng 60%
toàn bộ các dạng ung thư tuyến giáp.
- Các khối u dạng nang cũng phát triển từ các tế bào tạo
hoóc-môn chứa iốt. Những khối u này có một lớp mô mỏng
bao quanh được gọi là vỏ. Nhiều u dạng nang có thể được
chữa khỏi. Tuy nhiên, bệnh có thể khó kiểm soát được nếu
khối u xâm lấn vào mạch máu hoặc tăng trưởng xuyên qua
vỏ sang các cấu trúc vùng cổ lân cận. Khoảng 17% ung thư
tuyến giáp là các u dạng nang.
- Các khối u dạng tuỷ ảnh hưởng các tế bào tuyến giáp sản
xuất hoóc-môn không chứa iốt. Mặc dù những khối u này phát
triển chậm nhưng chúng khó kiểm soát hơn so với các u dạng
nang và dạng nhú. Các tế bào ung thư có xu thế lan sang các
bộ phận khác của cơ thể. Chỉ có khoảng 5% các loại ung thư
tuyến giáp là các khối u dạng tuỷ. Người ta dự đoán rằng cứ
10 người bị ung thư tuyến giáp dạng tuỷ thì có người là do di
truyền.
- Các khối u không biệt hóa là loại tăng trưởng nhanh nhất
trong tất cả các loại khối u tuyến giáp. Các tế bào ung thư,
đặc biệt bất thường, lan rất nhanh sang các bộ phận khác
của cơ thể. Các khối u không biệt hóa chiếm khoảng 18%
trong tổng số ung thư tuyến giáp và thường xuất hiện ở
những người trên 60 tuổi.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tuyến giáp là gì?
Các bác sĩ chưa biết nguyên nhân nào gây ra hầu hết các
trường hợp ung thư tuyến giáp. Tuy nhiên, các nhà khoa
72 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
học đã nhận ra rằng ung thư tuyến giáp xuất hiện ở phụ nữ
nhiều hơn gấp hai đến ba lần so với nam giới và thường gặp
ở người da trắng hơn người da đen. Các nhà khoa học cũng
chưa hiểu đầy đủ về nguyên nhân gây ra những điều này và
họ vẫn tiếp tục nghiên cứu về ung thư tuyến giáp để cố
gắng tìm hiểu xem điều gì có thể làm tăng nguy cơ mắc
bệnh.
Một yếu tố nguy cơ được biết là sự tiếp xúc với tia phóng
xạ trong suốt thời tuổi thơ. Trước khi các bác sĩ biết được các
mối nguy hại của tia phóng xạ thì tia xạ đã được dùng để
điều trị mụn trứng cá và để làm giảm phù nề và nhiễm
khuẩn trong các cơ quan như tuyến ức, amyđan và các hạch.
Những người được điều trị bằng tia xạ vùng đầu và cổ khi
còn nhỏ thì có nguy cơ bị ung thư tuyến giáp cao hơn trung
bình sau nhiều năm. Các nhà khoa học đang thực hiện các
nghiên cứu để xác định xem liệu sự tiếp xúc với các loại bức
xạ khác có gây ung thư tuyến giáp hay không.
3. Ung thư tuyến giáp được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư tuyến giáp là gì?
Bất cứ ai được điều trị bằng tia xạ vùng đầu và cổ khi còn
nhỏ phải được bác sĩ khám định kỳ 1-2 năm một lần. Đồng
thời, thành viên trong gia đình bị ung thư tuyến giáp dạng
tuỷ sẽ cần đến bác sĩ khám. Phần quan trọng nhất của việc
kiểm tra sức khỏe là khám thật cẩn thận vùng cổ, tìm các
khối u ở tuyến giáp và các hạch bạch huyết lân cận bị to ra.
Chụp hình tuyến giáp (scintogram) hoặc siêu âm tuyến giáp
UNG THƯ TUYẾ N GIÁP 73
có thể được chỉ định cho những người có nguy cơ mắc ung
thư tuyến giáp.
Triệu chứng phổ biến nhất của ung thư tuyến giáp là cảm
thấy có một khối hoặc sờ thấy một nhân ở vùng cổ. Các triệu
trứng khác hiếm gặp. Đau hiếm khi là dấu hiệu cảnh báo
sớm của ung thư tuyến giáp. Tuy nhiên, một số bệnh nhân
có cảm giác đầy hoặc tắc ở cổ, khó thở hoặc khó nuốt, khản
giọng hoặc sưng các hạch bạch huyết. Những triệu chứng
này có thể là do ung thư tuyến giáp hoặc những bệnh khác ít
nghiêm trọng hơn gây nên. Chỉ bác sĩ mới có thể xác định
được nguyên nhân gây các triệu chứng ở một người bệnh.
4. Ung thư tuyến giáp được chẩn đoán như thế nào?
Bác sĩ có thể sử dụng một vài thử nghiệm để biết về kích
cỡ và vị trí của một nhân giáp hoặc để xác định xem khối u là
lành tính (không ung thư) hay ác tính (ung thư). Ví dụ, bác sĩ
có thể cho làm các xét nghiệm máu để kiểm tra chức năng
tuyến giáp của bệnh nhân. Cũng như vậy, xạ hình tuyến giáp
với iốt phóng xạ có thể phác họa các vùng bất thường của
tuyến giáp. Để ghi xạ hình người ta đưa vào cơ thể bệnh nhân
một một lượng rất nhỏ chất phóng xạ (thường là iốt l-131
hoặc technetium TC-99m), chất này tập trung tại tuyến giáp.
Một dụng cụ được gọi là máy quét (scanner) có thể phát hiện
các “ổ lạnh” trong tuyến giáp, đó là những vùng không hấp
thụ iốt như bình thường. Bởi vì các ổ lạnh này có thể là lành
tính hoặc ác tính nên cần phải làm thêm các xét nghiệm khác
nữa.
74 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Siêu âm là một phương pháp khác để có được một bức
tranh về tuyến giáp. Trong phương pháp này, các sóng âm
tần số cao mà con người không thể nghe thấy truyền vào
tuyến giáp. Các thành phần âm dội từ những sóng âm này
được chuyển thành hình ảnh (sonogram) nhờ một máy vi
tính. Dựa vào đó các bác sĩ có thể kết luận các nhân là nang
dịch (thường là u lành) hay chúng là các u rắn (có thể là u ác
tính).
Cách chắc chắn duy nhất để nói một bệnh nhân bị ung
thư tuyến giáp là quan sát tế bào tuyến giáp trên kính hiển
vi. Có hai cách để lấy mẫu của mô tuyến giáp, một là bằng
kim hút tế bào (sinh thiết bằng kim) hoặc cắt bỏ khối u bằng
phẫu thuật (sinh thiết phẫu thuật). Trong mỗi trường hợp,
bác sĩ mô bệnh học nghiên cứu mô lấy được dưới kính hiển
vi để tìm kiếm các tế bào ung thư.
Nếu sinh thiết bằng kim hút không cho thấy ung thư thì
bác sĩ có thể cho bệnh nhân dùng các hoóc-môn tuyến giáp.
Những hoóc-môn này làm cho tuyến giáp không cần sản
xuất các hoóc-môn của chính bản thân nó và tuyến giáp, bao
gồm cả các nhân, co lại và trở nên bất hoạt. Nếu sinh thiết
bằng kim không thể làm sáng tỏ chẩn đoán hoặc nếu các
hoóc-môn tuyến giáp không hiệu quả thì bệnh nhân đó
thường phải làm phẫu thuật sinh thiết .
Khi ung thư tuyến giáp được chẩn đoán , các bác sĩ có thể
tiến hành nhiều xét nghiệm hơn để xem bệnh đang ở giai
đoạn nào. Những kết quả của các xét nghiệm này giúp các
bác sĩ lập kế hoạch điều trị phù hợp
UNG THƯ TUYẾ N GIÁP 75
5. Ung thư tuyến giáp được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Phẫu thuật là phương thức điều trị phổ biến nhất đối
với loại ung thư tuyến giáp còn chưa lan sang các phần
khác của cơ thể. Bác sĩ phẫu thuật thường cắt bỏ một phần
hoặc toàn bộ tuyến giáp và các mô bị ảnh hưởng khác, như
các hạch bạch huyết. (Nếu bệnh nhân được sinh thiết bằng
phẫu thuật thì có thể tiến hành đồng thời sinh thiết và cắt
bỏ tuyến giáp).
Các bệnh nhân bị ung thư tuyến giáp tại chỗ dạng nang
hoặc nhú có thể được điều trị bằng I-131 (với liều lớn hơn so
với liều dùng để chụp tuyến giáp). Iốt được bệnh nhân uống
vào sẽ tập trung tại các tế bào ung thư còn sót lại trong cơ
thể sau phẫu thuật. Bằng cách huỷ hoại những tế bào ung
thư này, iốt phóng xạ giúp phòng chống bệnh tái phát trở
lại. Các bệnh nhân phải nằm viện trong một vài ngày trong
khi hoạt tính phóng xạ còn cao nhất. Liệu trình điều trị có
thể được lặp lại sau đó.
Các hoóc-môn thường được dùng cho các bệnh nhân
đã được phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp hoặc đã điều trị
bằng iốt phóng xạ. Các hoóc-môn thay thế cho những loại
được tuyến giáp sản xuất trong điều kiện bình thường.
Việc điều trị này cũng làm giảm sự tăng trưởng của các tế
bào ung thư tuyến giáp còn sót lại trong cơ thể. Bác sĩ có
thể cần phải tiến hành một số xét nghiệm theo dõi để xem
bệnh nhân đã có một lượng phù hợp các hoóc-môn cần
thiết hay chưa.
76 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Phẫu thuật không được chỉ định cho các bệnh nhân bị
ung thư tuyến giáp đã lan rộng. Việc điều trị thông thường
bao gồm phương pháp điều trị hệ thống (diệt tế bào ung thư
hoặc làm chậm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư tuyến
giáp trong toàn cơ thể), chẳng hạn như hóa trị liệu, iốt
phóng xạ trị liệu hoặc hoóc-môn trị liệu.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Việc theo dõi định kỳ sau điều trị ung thư tuyến giáp là
rất quan trọng. Theo dõi bao gồm khám lâm sàng toàn thân,
chụp X quang, chụp xạ hình, xét nghiệm máu định kỳ.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Không Hodgkin
1. Ung thư không Hodgkin là gì?
U lymphô không Hodgkin là một loại ung thư. U lymphô
là một thuật ngữ chung chỉ các loại ung thư phát triển trong
hệ bạch huyết. Bệnh Hodgkin là một loại u lymphô. Tất cả
các loại u lymphô khác được gọi là u lymphô không
Hodgkin. U lymphô chiếm 5% tổng số các trường hợp ung
thư ở Mỹ.
Hệ bạch huyết là một phần trong hệ thống miễn dịch của
cơ thể. Hệ thống này giúp cơ thể chống lại bệnh tật và nhiễm
khuẩn. Hệ bạch huyết là một mạng lưới các ống nhỏ, giống
như mạch máu, lan toả vào các mô trên toàn cơ thể. Mạch
bạch huyết có chứa bạch huyết, một loại dịch dạng nước,
không màu. Dịch này có chứa các tế bào chống nhiễm
khuẩn, được gọi là tế bào lymphô. Dọc theo mạng lưới mạch
bạch huyết này là các hạch bạch huyết. Các đám hạch bạch
78 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
huyết nằm ở nách, bẹn, cổ, ngực và ổ bụng. Các bộ phận
khác của hệ bạch huyết là lách, tuyến ức, amiđan và tuỷ
xương. Mô bạch huyết có thể tìm thấy ở những bộ phận
khác trong cơ thể, bao gồm dạ dày, ruột và da.
Trong bệnh u lymphô không Hodgkin, tế bào trong hệ
bạch huyết trở nên không bình thường. Chúng phân chia và
phát triển không theo trật tự và không thể kiểm soát được
hoặc những tế bào già không chết đi giống như các tế bào
bình thường. Bởi vì mô bạch huyết có mặt ở nhiều bộ phận
của cơ thể, u lymphô không Hodgkin có thể bắt đầu ở bất kỳ
bộ phận nào trong cơ thể. U lymphô không Hodgkin có thể
xuất hiện ở một hạch đơn độc, ở một nhóm hạch hoặc ở một
bộ phận khác. Loại ung thư này có thể lan sang hầu hết tất
cả các bộ phận cơ thể, bao gồm gan, tuỷ xương và lách.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư không Hodgkin
là gì?
Bằng cách nghiên cứu các dạng ung thư trong cộng đồng,
các nhà nghiên cứu đã tìm ra một số yếu tố nguy cơ nhất
định thường xuất hiện nhiều hơn ở những người bị u
lymphô không Hodgkin. Tuy nhiên, hầu hết những người có
các yếu tố nguy cơ này không bị u lymphô không Hodgkin
và nhiều người bị bệnh lại không có yếu tố nguy cơ nào
trong số đã được biết đến.
Dưới đây là một số yếu tố nguy cơ liên quan tới bệnh
này:
UNG THƯ K HÔNG HODGKIN 79
Độ tuổi/Giới tính. Nguy cơ bị u lymphô không Hodgkin
tăng lên theo tuổi và thường gặp ở nam giới hơn là ở nữ
giới.
Hệ thống miễn dịch bị suy yếu. U lymphô không Hodgkin
thường gặp hơn ở những người bị suy giảm miễn dịch di
truyền, các bệnh tự miễn hoặc HIV/AIDS và ở những người
uống các loại thuốc ức chế miễn dịch sau khi ghép tạng.
Virút. Virút HTLV-1 và virút Epstein-Barr là hai tác
nhân nhiễm trùng làm tăng nguy cơ phát triển u lymphô
không Hodgkin.
Môi trường. Những người làm việc quá nhiều hoặc tiếp
xúc với một số hóa chất nhất định, như thuốc trừ sâu, dung
môi, phân hóa học, có nguy cơ phát triển u lymphô không
Hodgkin cao hơn.
Những ai quan tâm tới u lymphô không Hodgkin nên
thảo luận với bác sĩ về bệnh tật, triệu chứng cần theo dõi và
lịch khám theo dõi phù hợp. Lời khuyên của bác sĩ sẽ dựa
vào độ tuổi, tiền sử bệnh và các yếu tố khác.
3. Ung thư không Hodgkin được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư không Hodgkin là gì?
Triệu chứng thường gặp nhất của u lymphô không
Hodgkin là hiện tượng sưng to các hạch ở cổ, nách hoặc bẹn
nhưng không đau.
Các triệu chứng khác có thể là:
- Sốt không rõ nguyên nhân
80 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
- Ra mồ hôi ban đêm
- Thường xuyên mệt mỏi
- Giảm cân không rõ nguyên nhân
- Ngứa ngoài da
- Các mảng đỏ ngoài da
Khi những triệu chứng như vậy xuất hiện, chúng không
phải lúc nào cũng là do u lymphô không Hodgkin gây ra.
Chúng có thể do các bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra
như cảm cúm hay các hiện tượng nhiễm khuẩn khác. Chỉ có
bác sĩ mới có thể đưa ra chẩn đoán. Khi bạn có những triệu
chứng này, hãy đến gặp bác sĩ để bệnh sớm được chẩn đoán
và điều trị. Không được đợi đến khi cảm thấy đau; u
lymphô không Hodgkin giai đoạn sớm không gây ra đau
đớn.
4. Ung thư không Hodgkin được chẩn đoán như thế nào?
Nếu nghi có u lymphô không Hodgkin, bác sĩ sẽ hỏi về
tiền sử bệnh nhân và tiến hành thăm khám. Việc thăm khám
bao gồm sờ xem hạch ở cổ, nách hoặc bẹn có bị to lên không.
Bên cạnh việc kiểm tra sức khỏe chung bác sĩ có thể tiến
hành xét nghiệm máu.
Bác sĩ cũng có thể yêu cầu làm thêm các thăm dò khác để
làm hiện hình các bộ phận trong cơ thể. Những thăm dò này
có thể bao gồm:
UNG THƯ K HÔNG HODGKIN 81
- Chụp X quang: Hiện hình các bộ phận trong cơ thể bằng
tia X có năng lượng cao.
- Chụp cắt lớp vi tính: Chụp hàng loạt phim chi tiết các bộ
phận trong cơ thể bằng một máy chụp X quang nối với một
máy vi tính.
- Chụp cộng hưởng từ hạt nhân: Phim chụp chi tiết các bộ
phận trong cơ thể bằng một trường nam châm mạnh nối với
một máy vi tính.
- Chụp bạch mạch: Chụp X quang hệ bạch huyết sau khi
tiêm một loại chất màu đặc biệt để làm hiện hình các hạch
và mạch bạch huyết.
Bác sĩ sẽ tiến hành sinh thiết để chẩn đoán, tức là cắt một
mẫu mô để bác sĩ giải phẫu bệnh có thể quan sát dưới kính
hiển vi và phát hiện ra tế bào ung thư. Đối với u lymphô
không Hodgkin người ta thường sinh thiết hạch để chẩn
đoán, nhưng cũng có thể sinh thiết những vị trí khác. Đôi
khi có thể phải tiến hành phẫu thuật mở bụng. Trong khi
tiến hành phẫu thuật, bác sĩ phẫu thuật mở ổ bụng và cắt lấy
một mẫu mô để quan sát dưới kính hiển vi.
5. Ung thư không Hodgkin được điều trị như thế nào?
Hóa trị liệu và xạ trị liệu là những phương pháp điều trị
u lymphô không Hodgkin thông dụng nhất, mặc dù phương
pháp ghép tuỷ xương, liệu pháp sinh học hoặc phẫu thuật
thỉnh thoảng cũng được sử dụng.
82 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế
bào ung thư. Hóa trị liệu trong điều trị u lymphô không
Hodgkin thường là phối hợp nhiều loại thuốc. Bệnh nhân có
thể được điều trị hoặc chỉ bằng hóa chất hoặc phối hợp với
tia phóng xạ.
Hóa trị liệu thường được tiến hành theo chu kỳ: một đợt
điều trị tiếp đến giai đoạn nghỉ phục hồi, sau đó đến một
đợt điều trị khác và cứ tiếp tục như vậy. Hầu hết các loại
thuốc điều trị ung thư được tiêm vào tĩnh mạch; một số loại
thuốc khác ở dạng uống. Hóa trị liệu là phương pháp điều
trị toàn thân bởi vì thuốc đi vào mạch máu và đi tới khắp cơ
thể.
Bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất thường là bệnh
nhân ngoại trú (bệnh viện, phòng khám bác sĩ hoặc ở nhà).
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc điều trị và tình trạng
sức khỏe chung của bệnh nhân, họ có thể phải nằm viện
trong một thời gian ngắn.
Tia xạ trị liệu là phương pháp sử dụng những tia có năng
lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Điều trị bằng tia xạ có
thể tiến hành đơn độc hoặc phối hợp với hóa trị liệu. Xạ trị
là phương pháp điều trị tại chỗ; nó chỉ ảnh hưởng tới các tế
bào ung thư ở vùng chiếu xạ. Tia phóng xạ điều trị u
lymphô không Hodgkin do một máy bên ngoài cơ thể
hướng vào một vùng nhất định của cơ thể. Không còn
phóng xạ trong cơ thể khi kết thúc điều trị.
Đôi khi bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất và/hoặc
tia phóng xạ để tiêu diệt tế bào ung thư không phát hiện ra
nhưng có thể có mặt trong hệ thần kinh trung ương. Trong
UNG THƯ K HÔNG HODGKIN 83
phương pháp điều trị này, được gọi là phương pháp điều trị
dự phòng hệ thần kinh trung ương, bác sĩ tiêm thuốc điều trị
ung thư trực tiếp vào dịch não tuỷ.
Ghép tuỷ xương (BMT) cũng có thể là một lựa chọn điều
trị, đặc biệt là đối với bệnh nhân có u lymphô không Hodgkin
tái phát. BMT cung cấp cho bệnh nhân những tế bào mầm
khỏe mạnh (những tế bào còn rất non sản xuất tế bào máu) để
thay thế cho những tế bào đã bị tổn thương hay phá huỷ bằng
hóa chất liều cao và/hoặc tia phóng xạ. Tuỷ xương khỏe mạnh
có thể được một người khác cho hoặc là được lấy từ chính
bệnh nhân rồi được xử lý để tiêu diệt tế bào ung thư, được
bảo quản và sau đó được đưa trở lại bệnh nhân sau điều trị
liều cao. Bệnh nhân cần được bảo vệ cẩn thận để tránh nhiễm
khuẩn cho đến khi tuỷ xương ghép bắt đầu sản xuất đủ bạch
cầu. Bệnh nhân thường phải nằm viện trong vài tuần.
Liệu pháp sinh học (còn được gọi là liệu pháp miễn dịch)
là một dạng điều trị sử dụng hệ thống miễn dịch của cơ thể
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp để chống lại ung thư hoặc để
làm giảm tác dụng phụ do điều trị ung thư gây ra. Phương
pháp này sử dụng các chất do cơ thể sản xuất ra hoặc được
tạo ra trong phòng thí nghiệm để thúc đẩy, điều khiển hoặc
để phục hồi khả năng tự nhiên của cơ thể chống lại bệnh tật.
Liệu pháp sinh học đôi khi còn được gọi là liệu pháp điều
biến đáp ứng sinh học.
Phẫu thuật có thể được tiến hành để cắt khối u. Mô xung
quanh khối u và các hạch lân cận cũng có thể được vét bỏ
trong khi phẫu thuật.
84 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
6. Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Điều trị u lymphô không Hodgkin có tác dụng rất mạnh.
Khó có thể hạn chế tác dụng của điều trị để chỉ loại bỏ hoặc
phá huỷ tế bào ung thư. Bởi vì điều trị cũng phá huỷ mô và
tế bào lành nên nó thường gây ra tác dụng phụ.
Tác dụng phụ của điều trị ung thư chủ yếu phụ thuộc
vào loại và phạm vi điều trị. Tác dụng đối với mỗi bệnh
nhân là khác nhau và chúng có thể thay đổi tuỳ theo từng
phương pháp điều trị. Bác sĩ và y tá giải thích cho người
bệnh về tác dụng phụ. Họ còn có thể làm giảm hoặc kiểm
soát tác dụng phụ có thể xảy ra trong và sau khi điều trị.
Tác dụng phụ của hóa trị liệu là gì?
Hóa trị liệu chủ yếu phụ thuộc vào loại thuốc và liều
lượng bệnh nhân sử dụng. Cũng giống như các phương
pháp điều trị khác, tác dụng phụ ở từng bệnh nhân là khác
nhau.
Thuốc điều trị ung thư thường tác dụng lên các tế bào
phân chia nhanh. Bên cạnh những tế bào ung thư, đó là
những tế bào máu là những tế bào giúp cơ thể chống lại
nhiễm khuẩn, làm đông máu hoặc vận chuyển ôxy tới tất cả
các bộ phận của cơ thể. Khi tế bào máu bị ảnh hưởng, bệnh
nhân dễ bị nhiễm khuẩn hơn, dễ bị bầm tím và chảy máu
hơn và có thể thường cảm thấy rất mệt và yếu. Cần phải
theo dõi sát số lượng tế bào máu của bệnh nhân trong khi
điều trị bằng hóa chất và nếu cần, bác sĩ có thể quyết định
hoãn điều trị để chờ số lượng tế bào máu hồi phục.
UNG THƯ K HÔNG HODGKIN 85
Tế bào ở chân tóc cũng phân chia nhanh; vì vậy, hóa chất
có thể gây rụng tóc. Bệnh nhân có thể có các tác dụng phụ
khác như chán ăn, buồn nôn và nôn, đau môi và đau miệng.
Bệnh nhân còn có thể bị chóng mặt, xạm da và móng tay.
Hầu hết các tác dụng phụ dần dần biến mất trong giai
đoạn nghỉ hồi phục giữa các đợt điều trị hoặc sau khi kết
thúc điều trị. Tuy nhiên, một số loại thuốc điều trị ung thư
có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư thứ hai về sau.
Ở một số bệnh nhân cả nam và nữ, hóa trị liệu có thể gây
vô sinh. Tình trạng vô sinh có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn,
tuỳ thuộc vào loại thuốc sử dụng và độ tuổi của bệnh nhân.
Đối với nam giới lưu trữ tinh trùng bằng phương pháp lạnh
trước khi điều trị có thể là một lựa chọn. Chu kỳ kinh nguyệt
ở nữ giới có thể dừng lại và họ có thể bị bốc hoả và khô âm
đạo. Chu kỳ kinh nguyệt có thể trở lại ở những phụ nữ trẻ.
Tác dụng phụ của tia xạ trị liệu
Tác dụng phụ của xạ trị phụ thuộc vào liều lượng và bộ
phận của cơ thể được chiếu xạ. Trong khi điều trị bằng tia
phóng xạ, bệnh nhân có thể cực kỳ mệt mỏi, đặc biệt là các
tuần cuối của các đợt điều trị. Nghỉ ngơi là rất quan trọng,
nhưng bác sĩ thường khuyên bệnh nhân cố gắng hoạt động
khi có thể.
Bệnh nhân thường bị rụng lông tóc ở vùng chiếu xạ, còn
da có thể bị tấy đỏ, khô, đau hoặc ngứa. Da vùng chiếu xạ
cũng có thể bị đen xạm lại.
86 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Khi chiếu xạ vùng cổ hoặc vùng ngực, bệnh nhân có thể
bị đau hoặc khô cổ và khó nuốt. Một số bệnh nhân có thể có
cảm giác kim châm hoặc tê bì ở tay, chân và ở thắt lưng.
Chiếu xạ ở vùng bụng có thể gây buồn nôn, nôn, ỉa lỏng hay
đái buốt. Thông thường, thay đổi chế độ ăn uống và thuốc
có thể làm giảm những vấn đề này.
Xạ trị có thể làm giảm số lượng bạch cầu là những tế bào
bảo vệ cơ thể chống lại nhiễm khuẩn. Nếu điều đó xảy ra,
bệnh nhân cần phải thận trọng tránh các nguồn có thể gây
nhiễm khuẩn. Bác sĩ theo dõi công thức máu của bệnh nhân
trong thời gian chiếu xạ. Trong một số trường hợp, cần phải
hoãn điều trị để cho số lượng tế bào máu hồi phục.
Mặc dù tác dụng phụ của tia xạ có thể nghiêm trọng
nhưng chúng thường có thể điều trị hoặc kiểm soát được.
Cũng nên biết rằng, trong hầu hết các trường hợp tác dụng
phụ không kéo dài vĩnh viễn. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể
muốn thảo luận với bác sĩ về tác dụng lâu dài có thể của xạ
trị đối với khả năng sinh con và nguy cơ mắc ung thư thứ
hai tăng lên sau khi kết thúc điều trị.
Tác dụng phụ của ghép tuỷ xương
Bệnh nhân được ghép tuỷ xương có nguy cơ nhiễm
khuẩn, chảy máu cao hơn và các tác dụng phụ khác do
dùng hóa chất và tia phóng xạ liều cao. Bên cạnh đó, phản
ứng mảnh ghép chống lại vật chủ có thể xảy ra ở những
bệnh nhân nhận tuỷ từ một người khác. Khi xảy ra phản
ứng, tuỷ xương của người cho sẽ tấn công các mô của bệnh
nhân (thường gặp nhất là gan, da và ống tiêu hóa). Phản
AVG
UNG THƯ K HÔNG HODGKIN 87
ứng thải mảnh ghép có thể ở nhiều mức độ từ nhẹ đến
nặng và nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào sau khi ghép (thậm
chí vài năm sau đó). Bác sĩ có thể chỉ định thuốc để làm
giảm nguy cơ thải mảnh ghép và xử lý vấn đề nếu xảy ra
hiện tượng thải ghép.
Tác dụng phụ của liệu pháp sinh học
Tác dụng phụ của liệu pháp sinh học khác nhau tuỳ theo
từng loại điều trị cụ thể. Những cách điều trị này có thể gây
ra các triệu chứng giống cảm cúm như rét run, sốt, đau cơ,
mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, nôn và ỉa lỏng. Bệnh nhân có
thể dễ bị chảy máu và thâm tím, phát ban ngoài da hoặc giữ
nước. Những triệu chứng này có thể trầm trọng, nhưng
chúng thường mất đi sau khi kết thúc điều trị.
Tác dụng phụ của phẫu thuật
Tác dụng phụ của phẫu thuật phụ thuộc vào vị trí của
khối u, kiểu phẫu thuật, tình trạng sức khỏe chung của bệnh
nhân và các yếu tố khác. Mặc dù bệnh nhân thường cảm
thấy đau trong vài ngày đầu sau khi phẫu thuật, nhưng có
thể dùng thuốc giảm đau. Có thể trao đổi với bác sĩ hoặc y tá
về các cách giảm đau. Bệnh nhân thường cảm thấy mệt mỏi
hoặc yếu trong một thời gian. Thời gian phục hồi sau phẫu
thuật ở mỗi bệnh nhân là khác nhau.
7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân u lymphô không Hodgkin nên khám theo dõi
định kỳ sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan
trọng trong phác đồ điều trị. Khám theo dõi định kỳ đảm
88 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
bảo việc bệnh nhân được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay
đổi nào về sức khỏe cũng cần được thảo luận, ung thư mới
hoặc ung thư tái phát có thể được phát hiện và điều trị sớm
nhất. Giữa các đợt khám theo dõi định kỳ, bệnh nhân u
lymphô không Hodgkin nên thông báo với bác sĩ tất cả
những vấn đề về sức khỏe mới xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Tinh Hoàn
1. Ung thư tinh hoàn là gì?
Ung thư tinh hoàn là một căn bệnh trong đó các tế bào trở
thành ác tính ở một hoặc cả hai bên tinh hoàn.
Tinh hoàn là một trong số các tuyến sinh dục nam có
nhiệm vụ sản xuất và chứa tinh dịch, đồng thời cũng là nơi
sản xuất chính của các hoóc-môn nam. Các hoóc-môn này
kiểm soát sự phát triển của các cơ quan sinh sản và các đặc
tính nam. Tinh hoàn nằm trong bìu ở dưới dương vật.
Ung thư tinh hoàn có thể phân thành hai loại chính: u tinh
và không phải u tinh. U tinh chiếm khoảng 30% các trường
hợp ung thư tinh hoàn. Ung thư tinh hoàn không phải u tinh
là một nhóm các loại ung thư trong đó có ung thư biểu mô
màng đệm, ung thư biểu mô dạng bào thai, u quái và u túi
noãn. Ung thư tinh hoàn có thể phối hợp cả hai loại u này.
Ung thư tinh hoàn là loại ung thư phổ biến nhất ở nam
giới trẻ ở độ tuổi 15 - 35. Bệnh thường gặp ở nam giới da
trắng hơn nam giới da đen.
90 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tinh hoàn là gì?
Người ta chưa biết nguyên nhân gây ung thư tinh hoàn.
Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy có một số yếu tố có thể
làm tăng nguy cơ mắc bệnh ở nam giới.
Tinh hoàn lạc chỗ (tinh hoàn ẩn): Thông thường, tinh
hoàn hạ xuống bìu trước khi trẻ sinh. Nam giới có tinh hoàn
không hạ xuống bìu có nguy cơ bị ung thư tinh hoàn cao
hơn, ngay cả khi đã được phẫu thuật để kéo tinh hoàn
xuống bìu.
Phát triển tinh hoàn không bình thường: Nam giới có
tinh hoàn phát triển không bình thường cũng bị tăng nguy
cơ ung thư.
Hội chứng Klinefelter: Nam giới có hội chứng Klinefelter
(một rối loạn nhiễm sắc thể giới tính có đặc điểm là nồng độ
hoóc-môn nam thấp, vô sinh, vú to và tinh hoàn nhỏ) có
nguy cơ ung thư tinh hoàn cao hơn.
Tiền sử bị ung thư tinh hoàn: Nam giới trước đó đã bị
ung thư ở một bên tinh hoàn có nguy cơ bị ung thư tinh
hoàn còn lại cao hơn.
3. Ung thư tinh hoàn được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư tinh hoàn là gì?
Hầu hết các trường hợp ung thư tinh hoàn là do bệnh nhân
tự phát hiện. Bên cạnh đó, bác sĩ thường kiểm tra tinh hoàn khi
khám sức khỏe định kỳ. Giữa các lần khám sức khỏe định kỳ,
nếu thấy bất kỳ một điều gì bất thường ở tinh hoàn thì cần đến
UNG THƯ T INH HO ÀN 91
khám bác sĩ. Khi ung thư tinh hoàn được phát hiện sớm thì
việc điều trị ít xâm lấn hơn và ít gây ra tác dụng phụ hơn.
Nên đến khám bác sĩ nếu thấy có các triệu chứng dưới
đây:
- Một khối u không đau hoặc sưng tinh hoàn;
- Tinh hoàn to lên hoặc thay đổi so với bình thường;
- Cảm giác nặng ở bìu;
- Đau âm ỉ ở bụng dưới hoặc vùng bẹn;
- Đột ngột có tràn dịch ở bìu;
- Đau hoặc khó chịu ở tinh hoàn hoặc ở bìu.
Các triệu chứng này có thể do ung thư hoặc do các tình
trạng bệnh lý khác gây ra. Điều quan trọng là phải đến bác sĩ
khám để xác định nguyên nhân gây ra các triệu chứng đó.
4. Ung thư tinh hoàn được chẩn đoán như thế nào?
Để tìm nguyên nhân của triệu chứng, bác sĩ phải đánh giá
tình trạng sức khỏe chung của người bệnh. Bác sĩ cũng phải
khám và chỉ định một số xét nghiệm thăm dò. Nếu nghi
bệnh nhân bị ung thư, bác sĩ có thể chỉ định sinh thiết khi
phẫu thuật cắt tinh hoàn.
Các xét nghiệm máu được thực hiện để đo nồng độ các
chất chỉ điểm khối u là các chất thường có nồng độ cao hơn
bình thường khi có ung thư. Các chất chỉ điểm khối u như
alpha-fetoprotein (AFP), chất hướng sinh dục màng đệm
92 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
người (HCG) và lactat dehydrogenase (LDH) có thể giúp
phát hiện những khối u quá nhỏ không thể phát hiện được
trên lâm sàng hoặc chẩn đoán hình ảnh.
Siêu âm là một xét nghiệm chẩn đoán sử dụng sóng âm
tần số cao đập vào các mô và các cơ quan nội tạng. Sóng âm
dội lại tạo nên hình ảnh siêu âm. Siêu âm bìu có thể thấy
được khối u và đo được kích thước u trong tinh hoàn. Siêu
âm cũng giúp loại trừ các bệnh khác ở tinh hoàn như sưng
nề do nhiễm khuẩn.
Sinh thiết. Xét nghiệm vi thể mô tinh hoàn là cách chắc
chắn duy nhất để xác định có ung thư hay không. Đối với
hầu hết các trường hợp nghi ngờ, người ta lấy đi toàn bộ
tinh hoàn bị tổn thương qua đường rạch ở bẹn. Thủ thuật
này được gọi là cắt tinh hoàn đường bẹn. Trong một số
trường hợp hiếm gặp (ví dụ, khi người nam giới chỉ có một
tinh hoàn), bác sĩ phẫu thuật tiến hành sinh thiết qua đường
bẹn, lấy một mẫu mô ở tinh hoàn qua một vết rạch ở bẹn và
tiếp tục cắt tinh hoàn nếu bác sĩ giải phẫu bệnh tìm thấy tế
bào ung thư. (Bác sĩ phẫu thuật không mở bìu để lấy mô, vì
nếu có ung thư thì thủ thuật này có thể làm bệnh lan đi)
Nếu có ung thư tinh hoàn, cần tiếp tục tiến hành các xét
nghiệm để xác định ung thư đã lan chưa. Xác định giai đoạn
bệnh giúp bác sĩ lập kế hoạch điều trị phù hợp.
5. Ung thư tinh hoàn được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Hầu hết các trường hợp ung thư tinh hoàn đều có thể
chữa khỏi bằng phẫu thuật, chiếu xạ và/hoặc hóa chất. Tác
UNG THƯ T INH HO ÀN 93
dụng phụ tuỳ thuộc vào biện pháp điều trị và có thể khác
nhau đối với mỗi bệnh nhân khác nhau.
U tinh và ung thư tinh hoàn không phải u tinh phát triển
và lan đi theo cách khác nhau, mỗi loại ung thư cần có
phương pháp điều trị riêng. Việc lựa chọn phương pháp
điều trị còn phụ thuộc vào giai đoạn của ung thư, tuổi và
tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân và các yếu tố khác.
Bệnh nhân thường được một nhóm bác sỹ chuyên khoa điều
trị, trong đó có bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ ung thư nội khoa và
bác sĩ tia xạ ung thư.
Phẫu thuật cắt tinh hoàn qua đường bẹn là một phẫu
thuật triệt để. Bệnh nhân có thể lo lắng là mất tinh hoàn sẽ
ảnh hưởng đến khả năng quan hệ tình dục của họ hoặc gây
vô sinh. Tuy nhiên, một nam giới còn một bên tinh hoàn
bình thường vẫn có thể có khả năng cương và sản xuất tinh
dịch bình thường. Do đó, phẫu thuật cắt một bên tinh hoàn
không làm bệnh nhân bị liệt dương và hiếm khi ảnh hưởng
đến khả năng sinh con. Bệnh nhân cũng có thể cấy tinh hoàn
nhân tạo vào trong bìu. Vật cấy có trọng lượng tương đương
và giúp bệnh nhân có cảm giác bình thường.
Một số hạch nằm sâu trong ổ bụng cũng có thể được vét
bỏ. Phẫu thuật này không ảnh hưởng đến khả năng cương
hoặc đạt cực khoái, nhưng có thể gây vô sinh vì ảnh hưởng
đến sự phóng tinh. Bệnh nhân có thể muốn trao đổi với bác sĩ
về khả năng vét hạch bằng kỹ thuật phẫu thuật bảo tồn dây
thần kinh đặc biệt giúp bảo vệ khả năng phóng tinh bình
thường.
94 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Chiếu xạ sử dụng các tia có năng lượng cao để tiêu diệt
tế bào ung thư và làm co nhỏ khối u. Chiếu xạ là một
phương pháp điều trị tại chỗ và chỉ ảnh hưởng tới tế bào
ung thư trong vùng được điều trị. Nguồn tia được phát ra
từ một máy ở ngoài cơ thể (chiếu xạ ngoài) và thường
nhằm vào các hạch trong ổ bụng. U tinh thường rất nhạy
với tia xạ. Ung thư tinh hoàn không phải u tinh ít nhậy với
tia xạ nên bệnh nhân có loại ung thư này thường không
được điều trị bằng chiếu xạ.
Chiếu xạ ảnh hưởng tới cả tế bào thường và tế bào ung
thư. Tác dụng phụ của chiếu xạ chủ yếu phụ thuộc vào liều
điều trị. Tác dụng phụ thường gặp gồm có mệt mỏi, thay đổi
ngoài da vùng chiếu tia, mất cảm giác ngon miệng và ỉa
lỏng. Chiếu xạ can thiệp vào quá trình sản xuất tinh dịch,
nhưng hầu hết bệnh nhân khôi phục được khả năng sinh
con trong một vài tháng.
Hóa chất là dùng thuốc tiêu diệt tế bào ung trên toàn bộ
cơ thể. Hóa chất được dùng bổ trợ để tiêu diệt tế bào ung
thư có thể còn lưu lại trong cơ thể sau khi phẫu thuật. Hóa
chất có thể là biện pháp điều trị ngay từ ban đầu nếu ung
thư ở giai đoạn muộn, có nghĩa là khi ung thư đã lan ra
ngoài tinh hoàn. Hầu hết các thuốc điều trị ung thư đều
được tiêm vào tĩnh mạch.
Hóa chất là liệu pháp điều trị toàn thân, thuốc đi qua
đường máu và tác dụng lên cả tế bào bình thường và cả tế
bào ung thư trong cơ thể. Tác dụng phụ chủ yếu phụ thuộc
vào loại thuốc và liều dùng. Các tác dụng phụ thường gặp là
buồn nôn, rụng tóc, mệt mỏi, ỉa lỏng, nôn, sốt, rét run,
UNG THƯ T INH HO ÀN 95
ho/khó thở, đau miệng, ban ngoài da. Các tác dụng thường
gặp khác gồm chóng mặt, tê bì, mất phản xạ hoặc nặng tai.
Một số thuốc điều trị ung thư ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất tinh dịch. Một số bệnh nhân bị giảm lượng tinh dịch
vĩnh viễn, nhưng nhiều bệnh nhân hồi phục được khả năng
sinh con.
Bệnh nhân bị ung thư tinh hoàn cần thảo luận với bác sỹ
những vấn đề liên quan đến chức năng tình dục và sinh đẻ.
Nếu việc điều trị bệnh có thể dẫn đến hậu quả vô sinh, bệnh
nhân có thể tìm hiểu về việc lưu giữ tinh trùng để có thể có
con về sau.
6. Có cần khám theo dõi không? Khám theo dõi
gồm những gì?
Khám theo dõi định kỳ có vai trò cực kỳ quan trọng đối
với bệnh nhân ung thư tinh hoàn đã được điều trị. Giống
như tất cả các loại ung thư, ung thư tinh hoàn có thể tái
phát. Bệnh nhân ung thư tinh hoàn cần đến khám bác sĩ
định kỳ và cần thông báo ngay các triệu chứng bất thường.
Các xét nghiệm theo dõi có thể khác nhau tuỳ thuộc vào
tuýp và giai đoạn ung thư tinh hoàn. Thông thường, bệnh
nhân được bác sĩ kiểm tra thường xuyên và làm các xét
nghiệm máu định kỳ để đo nồng độ các chất chỉ điểm khối
u. Bệnh nhân còn được chụp X quang và chụp cắt lớp vi tính
định kỳ. Bệnh nhân bị ung thư một bên tinh hoàn có nguy
cơ phát triển ung thư ở tinh hoàn còn lại cao. Những bệnh
nhân này cũng bị tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư máu
và một số loại ung thư khác. Việc theo dõi định kỳ giúp tìm
96 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
nguyên nhân các bất thường về sức khỏe và phát hiện sớm
ung thư tái phát để điều trị ngay.
7. Hiện có thử nghiệm lâm sàng nào cho bệnh nhân
ung thư tinh hoàn không?
Có. Tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng là một lựa
chọn điều trị quan trọng cho nhiều bệnh nhân ung thư tinh
hoàn. Để hoàn thiện được các phương thức điều trị mới hiệu
quả hơn và cách áp dụng các biện pháp điều trị hiện có tốt
hơn, Viện nghiên cứu Ung thư Quốc gia Hoa kỳ đang tài trợ
cho các thử nghiệm lâm sàng ở nhiều bệnh viện và trung
tâm trên cả nước. Thử nghiệm lâm sàng là một bước quan
trọng trong việc tìm kiếm các phương thức điều trị mới.
Trước khi đưa ra khuyến cáo sử dụng bất kỳ một biện pháp
điều trị mới nào, các bác sĩ phải tiến hành thử nghiệm lâm
sàng để đánh giá về tính an toàn và hiệu quả của biện pháp
đó đối với người bệnh.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Tuyến Nước Bọt
1. Ung thư tuyến nước bọt là gì?
U tuyến nước bọt phát triển từ các tuyến nước bọt lớn
(tuyến mang tai, tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi) hoặc
các tuyến nước bọt nhỏ nằm dưới niêm mạc đường hô hấp
trên và đoạn trên ống tiêu hóa. Các khối u này rất được
quan tâm đồng thời gây nhiều tranh cãi vì chúng ít gặp, có
hình ảnh mô bệnh học khác nhau và về những biểu hiện lâm
sàng.
U tuyến nước bọt chiếm 3-6% các trường hợp ung thư
vùng đầu cổ ở người lớn, có tần suất mắc bệnh từ 1-3
người/100.000 người/năm. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân
bị ung thư tuyến nước bọt là 55 đến 65 tuổi, còn u lành tính
thường xuất hiện sớm hơn 10 năm, ở độ tuổi trung bình 45
tuổi.
98 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Vị trí thường gặp nhất của u tyến nước bọt là tuyến mang
tai, chiếm 70-85% các trường hợp. Các vị trí khác gồm tuyến
dưới hàm (8-15%), tuyến dưới lưỡi (< 1%) và các tuyến nước
bọt nhỏ thường tập trung nhiều nhất ở vòm cứng (5-8%). Theo
quy luật chung, ở người trưởng thành, tuyến nước bọt càng
nhỏ thì khả năng khối u ở đó là ác tính càng lớn. Ví dụ, u
tuyến mang tai có 15-25% là ác tính, u tuyến dưới hàm có 37-
43% là ác tính còn u các tuyến nước bọt nhỏ có tới trên 80% là
ác tính.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tuyến nước bọt là
gì?
Các yếu tố gây ung thư tuyến nước bọt chưa được hiểu
biết đầy đủ. Trong một số loại u tuyến nước bọt người ta ghi
nhận được mối liên hệ giữa sự tiếp xúc phóng xạ, quá trình
phát triển các u tuyến nước bọt lành tính và ác tính và nhiễm
virút Epstein-Barr. Ví dụ, tần suất bị u tuyến nước bọt được
nghiên cứu trong một nhóm có 2945 người được chiếu xạ
trong khoảng thời gian từ năm 1939 đến 1962 (khi còn nhỏ)
để điều trị viêm amiđan, trứng cá hoặc bệnh tai mạn tính. 89
bệnh nhân (3%) phát triển 91 khối u tuyến nước bọt, hầu hết
là u lành tính đơn độc (64) và u ác tính đơn độc (22); trên 90%
các trường hợp có u ở tuyến mang tai. Ung thư biểu mô dạng
biểu bì-nhầy là loại u ác tính thường gặp nhất và u tuyến hỗn
hợp (biến hình) là loại u lành tính thường gặp nhất.
So với hầu hết các loại ung thư vùng đầu cổ khác, tiếp
xúc với khói thuốc lá và uống nhiều rượu không liên quan
tới các u tuyến nước bọt ác tính. (Xem “Yếu tố nguy cơ và
UNG THƯ TUYẾ N NƯỚC B ỌT 99
sinh bệnh học của ung thư vùng đầu cổ”). Tuy nhiên, u
tuyến nang nhú lành tính (u Warthin) gặp ở người hút thuốc
lá nhiều hơn hẳn so với người không hút thuốc.
Các yếu tố khác, bao gồm tố bẩm gen, tiếp xúc với bụi
silic đioxit hoặc với dầu hỏa và các yếu tố liên quan đến chế
độ ăn, như ăn ít rau và trái cây, có thể liên quan tới sự phát
triển u tuyến nước bọt. Có một số bằng chứng cho thấy
nguy cơ mắc bệnh ở phụ nữ bị ung thư vú tăng, mặc dù cơ
sở của mối liên hệ này vẫn chưa xác định rõ.
3. Ung thư tuyến nước bọt được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư tuyến nước bọt là gì?
Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán u tuyến nước bọt được
xác định một phần theo vị trí của khối u.
U tuyến mang tai
Phần lớn bệnh nhân có u đơn kín đáo, tiến triển chậm và
không triệu chứng. Khi u ở các thuỳ sâu, khối có thể không
có ranh giới rõ ràng, do vậy có thể giống với sự phì đại của
toàn bộ tuyến. Các nang của khe nang đầu tiên, các nang
nước bọt và bệnh sác-cô-ít (sarcoidosis) là những nguyên
nhân khác gây ra khối u đơn không triệu chứng.
Khi bệnh nhân có tuyến mang tai phì đại trên lâm sàng
cần phân biệt khối u với các bệnh viêm nhiễm và thâm
nhiễm. Bước quan trọng đầu tiên là cần tìm hiểu tiền sử và
khám lâm sàng kỹ càng kết hợp với khám toàn bộ vùng
miệng. Cần quan sát kỹ vùng hầu họng và hố amiđan để tìm
xem khối u có lan hay không hoặc để phát hiện khối u
100 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
nguyên phát ở thuỳ sâu tuyến mang tai. Khám vùng đầu, cổ
và da có thể giúp phát hiện ra ung thư ở da là những khối u
có thể di căn vào các tuyến nước bọt.
Liệt dây thần kinh mặt đi kèm với khối u tuyến mang tai
hầu như đều liên quan tới u ác tính. Một ngoại lệ đáng chú ý
là sác-cô-ít thâm nhiễm vào tuyến mang tai và gây liệt dây
thần kinh mặt, được gọi là hội chứng Heerfordt.
Khoảng 30 đến 50% bệnh nhân bị hội chứng Sjogren ở
một thời điểm nào đó trong quá trình bệnh có phì đại tuyến
nước bọt, thường là do sự tăng sinh tế bào biểu mô lành tính
và rõ nhất ở tuyến mang tai. Các tuyến này thường cứng,
lan toả và không đau. Tuyến có thể to lên từng đợt, kéo dài
vài tuần rồi nhỏ lại, nhưng có thể to mạn tính. Những bệnh
nhân bị bệnh này có nguy cơ bị u lymphô tăng rất cao. Phì
đại tuyến mang tai và tuyến dưới hàm lan toả cũng có thể
gặp ở bệnh nhân có bệnh tuyến nước bọt do HIV, đó thường
là các tổn thương đa nang lành tính.
Nếu sờ thấy hạch to, có thể đó là di căn từ các ung thư
vùng đầu cổ hoặc từ các vị trí xa khác (ví dụ thận, vú, phổi).
Nhiễm khuẩn da đầu vùng trán hoặc thái dương, vùng mí
mắt và kết mạc hoặc vùng mũi-hầu cũng có thể làm sưng
hạch ở vùng mang tai, còn các bệnh viêm thường gây ra phì
đại lan toả hoặc phù nề tuyến từng đợt.
U tuyến dưới hàm
U tuyến dưới hàm thường là một khối u không triệu
chứng. Các nguyên nhân phổ biến nhất gây sưng tuyến dưới
UNG THƯ TUYẾ N NƯỚC B ỌT 101
hàm là sỏi và viêm và hiếm khi là do khối u. Khối u dưới
hàm cũng có thể là di căn hạch hoặc do các tổn thương lành
tính như tăng sản nang dạng bạch huyết lành tính, nhiễm
khuẩn mycobacterium không điển hình và bệnh sác-cô-ít.
Khi khám lâm sàng, bác sĩ cần sờ sàn miệng bằng hai tay.
Việc làm này cho phép xác định tổn thương xương hoặc
mức độ lan của khối u vào khoang miệng. Tuyến dưới hàm
to lên từ từ kèm theo giảm cảm giác của dây thần kinh lưỡi
hoặc liệt dây mặt rất có ý nghĩa gợi ý là ung thư.
U tuyến nước bọt nhỏ
U tuyến nước bọt nhỏ trong khoang miệng có thể là một
khối u không đau nằm dưới niêm mạc vòm họng, môi hoặc
ở niêm mạc miệng. Chúng có thể bị loét và cần được phân
biệt với dị sản nước bọt hoặc ung thư biểu mô tế bào vẩy.
Những khối u nằm ở khoang mũi hoặc xoang hàm có thể
gây ra các triệu chứng như tắc mũi, sung huyết gây ngạt
mũi, thay đổi thị giác hoặc cứng khít hàm.
4. Ung thư tuyến nước bọt được chẩn đoán như thế
nào?
Sinh thiết bằng kim hút nhỏ là một thủ thuật đơn giản có
thể phân biệt tổn thương ung thư hay không ung thư; và
nếu chẩn đoán là ung thư thì có thể tư vấn cho bệnh nhân và
chuẩn bị cho bác sĩ ngoại khoa tiến hành phẫu thuật triệt để
hơn, tức có thể phải cắt dây thần kinh mặt hoặc vét hạch cổ.
Độ chính xác của sinh thiết bằng kim hút phụ thuộc vào
kinh nghiệm của người làm thủ thuật và kĩ năng phân tích
102 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
kết quả của bác sĩ tế bào bệnh học. Với những chuyên gia có
kinh nghiệm, độ nhạy chung để phát hiện tế bào ung thư là
87-94% và độ đặc hiệu là 75-98%. Nếu kết quả sinh thiết
bằng kim hút của tuyến nước bọt nghi ngờ là âm tính thì cần
tiến hành sinh thiết triệt để.
Nghiên cứu hình ảnh
Chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ là những
công cụ tuyệt vời để đánh giá u tuyến nước bọt, cung cấp
thông tin chẩn đoán quan trọng về kích thước chung, sự
thâm nhiễm vào các mô lân cận và sự xâm lấn vào mạch
hoặc xung quanh thần kinh. Nhu mô tuyến mang tai chứa
tương đối nhiều mỡ, do vậy chúng ta có thể dễ dàng làm
hiện hình tuyến bằng chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ
có tiêm thuốc cản quang. Chụp cắt lớp là phương pháp tốt
nhất để phát hiện ra huỷ hoại xương thái dương hoặc xương
hàm dưới, còn chụp cộng hưởng từ cho phép đánh giá chi
tiết hơn sự thâm nhiễm vào mô mềm, sự xâm lấn vào vùng
xung quanh thần kinh và tổn thương lan vào nội sọ. Sự xâm
lấn vào vùng xung quanh dây thần kinh là yếu tố báo trước
tiên lượng xấu và tỷ lệ tái phát tại chỗ cao hơn.
Hình ảnh khối u tuyến dưới hàm hoặc tuyến mang tai di
động, nông trên phim X quang không làm thay đổi phương
thức phẫu thuật chung. Tuy nhiên, cần xem xét các chỉ định
điều trị đặc biệt trong nhiều trường hợp, như:
- U ở thuỳ sâu tuyến mang tai hoặc u đã lan vào vùng
quanh hầu họng
UNG THƯ TUYẾ N NƯỚC B ỌT 103
- U tái phát
- Xâm lấn trực tiếp vào dây thần kinh mặt, tổn thương da
hoặc lan vào xương
- Tổn thương rộng tại chỗ
- Có hạch cổ bệnh
Phân giai đoạn
Hệ thống phân giai đoạn TNM được sử dụng để phân
giai đoạn ung thư tuyến mang tai, tuyến dưới hàm và tuyến
dưới lưỡi. U các tuyến nước bọt nhỏ được phân loại và phân
giai đoạn theo cách khác, theo vị trí giải phẫu (ví dụ, môi).
Hai biến số lâm sàng được sử dụng để phân loại khối u (T-
Tumor): kích thước và mức lan rộng tại chỗ. Tình trạng hạch
(N-Node) và di căn xa (M-Megastar) được phân giai đoạn
tương tư như các loại ung thư vùng đầu cổ khác. Tất cả các
nhóm được tiếp tục chia nhỏ, tuỳ theo việc đã có lan rộng tại
chỗ hay chưa, đánh giá qua tình trạng xâm lấn đại thể vào
da, mô mềm, xương hoặc thần kinh.
5. Ung thư tuyến nước bọt được điều trị như thế
nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Điều trị u tuyến nước bọt phụ thuộc vào việc khối u là
lành tính hay ác tính; và nếu khối u là ác tính thì phụ thuộc
vào vị trí nguyên phát và các yếu tố khác.
U lành tính
104 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
U lành tính tuyến mang tai được điều trị bằng thủ thuật
cắt tuyến mang tai hoặc nông trên bề mặt hoặc toàn bộ, tuỳ
theo vị trí và phạm vi của khối u. Mặc dù không cần cắt
rộng nếu khối u là lành tính, ví dụ như u tuyến biến hình,
nhưng cũng không nên chỉ thực hiện thủ thuật bóc nhân
đơn giản vì có tần suất tái phát tại chỗ cao. Cắt tuyến mang
tai nông toàn bộ có thể không cần thiết nếu khối u nhỏ có
thể cắt bỏ đến phạm vi mô lành.
Khi tiến hành cắt tuyến mang tai để điều trị tổn thương
lành tính, bác sĩ phẫu thuật không bao giờ cắt dây thần kinh
mặt. Bóc tách khối u lành tính ra khỏi dây thần kinh mặt
hiếm khi dẫn đến tái phát tại chỗ. Tuy nhiên, đôi khi các bác
sĩ phải cắt dây thần kinh mặt hoặc một số nhánh của nó nếu
bệnh nhân đã có rối loạn chức năng dây thần kinh mặt trước
phẫu thuật hoặc có nhiều ổ tái phát tại chỗ. Nếu có thể, cần
đồng thời tiến hành tái tạo dây thần kinh bằng cách ghép.
Tổn thương tuyến nước bọt nhỏ lành tính ở vòm hoặc ở môi
cần được cắt bỏ sao cho mép cắt đến mô lành và cần được
bóc tách khỏi phần xương nếu cần thiết.
U lành tính tuyến dưới hàm được điều trị bằng thủ thuật
cắt tuyến đơn giản. Cần bảo tồn nhánh hàm dưới của dây
thần kinh mặt, dây thần kinh dưới lưỡi và dây thần kinh
lưỡi bằng kĩ thuật phù hợp. Tuy nhiên, khi có nhiều ổ tái
phát của u tuyến biến hình đôi khi phải cắt các dây thần
kinh để có được mép cắt không chứa tế bào ung thư.
Mặc dù hầu hết bệnh nhân có u tuyến nước bọt lành tính
có thể chữa khỏi bằng phẫu thuật ban đầu nhưng một số
UNG THƯ TUYẾ N NƯỚC B ỌT 105
tổn thương có thể tái phát tại chỗ và cần được xử lí bằng
phẫu thuật nếu có thể. Tia xạ có thể là phương pháp bổ trợ
hữu ích cho phẫu thuật ở bệnh nhân có u tuyến biến hình
tái phát đa ổ.
U ác tính
Điều trị u tuyến nước bọt ác tính phụ thuộc vào vị trí
nguyên phát, tuýp mô học, độ biệt hóa, tình trạng bị liệt
hoặc không bị liệt dây thần kinh mặt và phạm vi xâm lấn tại
chỗ của khối u. Phẫu thuật là phương thức điều trị ban đầu
trong hầu hết các trường hợp. Cần cắt rộng khối u để có
mép cắt không chứa tế bào ung thư, vì vậy có thể phải cắt
đến da ở mặt và cổ, phần mô mềm và cơ tiếp giáp và xương
hàm dưới hoặc xương thái dương. Thông thường, nếu
không có tổn thương dây thần kinh mặt trước phẫu thuật thì
nó được bảo tồn ngay cả trong các trường u ác tính ở cấp độ
cao. Nếu có tổn thương dây thần kinh mặt trước phẫu thuật,
sẽ phải cắt bỏ nó và bác sĩ phẫu thuật sẽ tiến hành tái tạo lại
dây thần kinh ngay. Nên bảo tồn các dây thần kinh khác
trong vùng trừ khi chúng bị khối u gây tổn thương trên đại
thể. Tuỳ vào vị trí nguyên phát, típ mô học, kích thước khối
u, có hạch hay không có hạch trên lâm sàng hoặc X quang
mà bác sĩ sẽ quyết định việc có cần vét hạch cổ hay không.
Tuyến mang tai
Đối với các khối u T1 và T2 cấp độ thấp có thể cắt bỏ
tuyến mang tai nông hoặc toàn bộ và bảo tồn dây thần kinh
mặt. Khối u T1 và T2 cấp độ cao được điều trị bằng cắt
tuyến mang tai toàn bộ và bảo tồn dây thần kinh mặt nếu có
106 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
khoảng cách giữa khối u và dây thần kinh và nếu chức năng
của dây thần kinh không bị tổn thương trước phẫu thuật.
Xét nghiệm các mẫu hạch từ mức độ II của chuỗi hạch
cảnh được thực hiện thường quy. Nếu kết quả phân tích lát
cắt lạnh dương tính các bác sĩ sẽ tiến hành vét hạch cổ triệt
để có cải tiến. Do tỷ lệ ung thư lan vào hạch trên vi thể cao
nên cần tiến hành vét hạch cổ chọn lọc vị trí trên vai-xương
móng cho tất cả các trường hợp ung thư cấp độ cao và cho
các ung thư kích thước lớn cấp độ thấp. Nếu ung thư đã lan
vào xương thì có thể phải tiến hành cắt xương thái dương
bên hoặc gần toàn bộ hoặc cắt xương hàm dưới.
Tuyến dưới hàm
Ung thư tuyến dưới hàm T1 và T2 cấp độ thấp (ví dụ,
ung thư dạng biểu bì-nhầy và ung thư tế bào dạng nang cấp
độ thấp) có thể điều trị bằng phẫu thuật cắt rộng tại chỗ. Vét
toàn bộ hạch ở tam giác dưới hàm đồng thời với cắt toàn bộ
tuyến thường được coi là phương thức phẫu thuật tối thiểu
để điều trị u ác tính.
Các tổn thương T1 và T2 cấp độ cao được điều trị triệt để
hơn. Phương pháp phẫu thuật cắt rộng hơn tại chỗ được
khuyến cáo, trong đó sẽ vét hạch dưới hàm, hạch dưới cằm
và hạch cảnh. Bác sĩ sẽ phải tiến hành xét nghiệm hạch vùng
bằng lát cắt lạnh trong khi phẫu thuật để hướng dẫn cách xử
trí tiếp theo đối với hạch cổ và một số tác giả khuyên nên vét
hạch cổ trên vai-xương móng đối với các u ác tính cấp độ
cao. Các khối u T3 và T4 cấp độ cao thường được cắt rộng
tại chỗ bao gồm cắt bỏ da, cơ xung quanh và các dây thần
UNG THƯ TUYẾ N NƯỚC B ỌT 107
kinh lưỡi và dưới lưỡi. Những bệnh nhân này sẽ được vét
hạch cổ cải tiến.
Các tuyến nước bọt nhỏ
Việc phẫu thuật các khối u tuyến nước bọt nhỏ phụ thuộc
vào vị trí và cấp độ mô học. Khi phẫu thuật cần cắt tới mô
lành. Nếu ung thư lan vào xương hàm dưới hoặc xương
hàm trên thì sẽ phải cắt vòm họng hoặc cắt xương hàm dưới.
Đối với các khối u ác tính có cấp độ cao hoặc có kích thước
lớn hơn, sẽ phải phẫu thuật cắt rộng hơn và vét hạch cổ.
Chiếu xạ
Quan điểm chung đối với việc điều trị bệnh nhân có u T1
và T2 cấp độ thấp là phẫu thuật đơn độc. Do ung thư biểu
mô nang dạng tuyến có ái tính với dây thần kinh, nhiều bác
sĩ khuyên nên chiếu xạ sau phẫu thuật thường quy đối với
các khối u này. Nói chung, chiếu xạ sau phẫu thuật được sử
dụng để điều trị các u ác tính trong các trường hợp dưới
đây:
- U tuyến mang tai ở thuỳ sâu
- Còn sót tế bào ung thư trên đại thể hoặc trên vi thể
- Mép cắt hẹp hoặc mép cắt có tế bào ung thư theo mô
học
- U ác tính cấp độ cao
- U ác tính tái phát
- Tổn thương xương và mô liên kết
AVG
108 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
- Di căn vào hạch vùng ở cổ
- Tổn thương vùng quanh dây thần kinh
- Bị lan tế bào ung thư trong khi phẫu thuật
- U nang dạng tuyến
Chiếu xạ sau phẫu thuật cho bệnh nhân có tế bào ung thư
ở hạch, có bệnh ở giai đoạn III hoặc IV hoặc tổn thương ở
cấp độ cao, đã cải thiện được khả năng kiểm soát khối u tại
chỗ và tỷ lệ sống sót. Ví dụ, trong một nghiên cứu hồi cứu,
bệnh nhân ung thư tuyến nước bọt giai đoạn III-IV được
điều trị bằng phẫu thuật kết hợp với chiếu xạ có tỷ lệ kiểm
soát tại chỗ cao hơn (51% so với 17%) và tỷ lệ sống sót 5 năm
ước tính cao hơn (51% so với 10%) so với nhóm chứng trước
đó chỉ được điều trị bằng phẫu thuật đơn độc. Liệu pháp
phối hợp không mang lại lợi điểm gì cho những bệnh nhân
ở giai đoạn I và II.
Chiếu xạ bằng chùm neutron nhanh là lựa chọn điều trị
sau phẫu thuật cho u tuyến nước bọt giai đoạn muộn.
Phương pháp này cũng là cách điều trị duy nhất cho các
khối u không thể cắt bỏ hoặc cho những bệnh nhân ở tình
trạng không thể phẫu thuật được. Chiếu xạ phối hợp với
thấu nhiệt tại chỗ có thể đóng một vai trò quan trọng trong
điều trị một số u tuyến nước bọt tái phát.
Hóa chất
Hóa chất toàn thân được dùng để điều trị ung thư tuyến
nước bọt giai đoạn muộn đã có di căn, ung thư giai đoạn
UNG THƯ TUYẾ N NƯỚC B ỌT 109
muộn tại chỗ và không thể cắt bỏ. Việc sử dụng hóa chất để
điều trị bổ sung sau khi cắt u tuyến nước bọt chỉ được dùng
trong một phần thử nghiệm lâm sàng.
Ung thư tuyến nước bọt thường nhạy cảm với hóa chất,
nhưng thời gian tác dụng thường ngắn. Phác đồ điều trị
được sử dụng nhiều nhất là cyclophosphamid,
doxorubicin và cisplatin (CAP). Các nghiên cứu đã công
bố cho thấy tỷ lệ đáp ứng trung bình 40-50% với thời gian
đáp ứng 3-7 tháng. So với các loại ung thư giống ung thư
biểu mô tuyến, ung thư dạng biểu bì-nhầy cấp độ cao có
thể đáp ứng tốt hơn với các chế độ điều trị nhằm vào ung
thư biểu mô tế bào vẩy, là loại ung thư thường gặp nhất
trong các khối u vùng đầu cổ.
Một số chế độ điều trị khác cũng đã được đánh giá ở
bệnh nhân ung thư tuyến nước bọt giai đoạn muộn hoặc tái
phát:
- Bổ sung fluorouracil vào phác đồ CAP ở 17 bệnh nhân
ung thư tuyến nước bọt giai đoạn muộn cho tỷ lệ đáp ứng
50% với thời gian đáp ứng trung bình 8 tháng; chế độ điều
trị này có độc tính cao.
- Cisplatin phối hợp với fluorouracil có thể kiểm soát rõ
rệt triệu chứng ở bệnh nhân có ung thư biểu mô nang dạng
tuyến của tuyến nước bọt giai đoạn muộn. Đây là một loại
ung thư thường không đau và có tỷ lệ di căn xa cao. Trong
một nghiên cứu có 11 bệnh nhân, chế độ điều trị này kiểm
soát được triệu chứng ở bảy bệnh nhân, nhưng không một
bệnh nhân nào giảm được kích thước khối u xuống hơn
110 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
50%. Điều này gợi ý là chỉ nên chỉ định điều trị hóa chất cho
các khối u nang dạng tuyến giai đoạn muộn tại chỗ hoặc đã
di căn khi có triệu chứng.
- Vinorelbin cũng là một hóa chất có tác dụng ở mức
trung bình đối với bệnh nhân ung thư tái phát giai đoạn
muộn.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Việc theo dõi định kỳ sau điều trị ung thư tuyến nước bọt
là rất quan trọng. Theo dõi bao gồm khám lâm sàng toàn
thân, chụp X quang, chụp xạ hình, xét nghiệm máu định kỳ.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Thanh Quản
1. Ung thư thanh quản là gì?
Ung thư thanh quản có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào
trong thanh quản, thanh môn (vị trí của dây thanh âm),
vùng trên thanh môn (vùng trên dây âm thanh) hoặc dưới
thanh môn (vùng nối thanh quản với khí quản).
Nếu ung thư lan ra ngoài thanh quản, đầu tiên nó thường
lan vào hạch vùng cổ. Nó còn có thể lan tới phía sau lưỡi,
các phần khác ở cổ và họng, phổi và đôi khi các bộ phận
khác trên cơ thể. Đó là ung thư thanh quản di căn.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư thanh quản là gì?
Ung thư thanh quản thường xuất hiện ở những người trên
55 tuổi. Ở Mỹ, bệnh gặp ở nam giới nhiều gấp bốn lần so với
nữ giới và thường gặp ở người Mỹ da đen hơn người Mỹ da
trắng. Các nhà khoa học ở bệnh viện và các trung tâm y tế trên
cả nước đang nghiên cứu về căn bệnh này và tìm hiểu thêm về
nguyên nhân cũng như cách phòng chống căn bệnh này.
112 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Nhưng chúng ta có thể chắc chắn một điều là không ai lây ung
thư từ một người khác. Ung thư không phải là căn bệnh lây
nhiễm.
Một nguyên nhân đã được biết đến gây ung thư thanh quản
là hút thuốc lá. Những người hút thuốc là có nguy cơ phát
triển loại ung thư này cao hơn người không hút. Nguy cơ này
thậm chí cao hơn ở những người hút thuốc và uống nhiều
rượu.
Những người bỏ hút thuốc lá có thể làm giảm hẳn nguy cơ
phát triển ung thư thanh quản, cũng như ung thư phổi,
miệng, tuyến tuỵ, bàng quang và thực quản. Hơn nữa, bỏ
thuốc lá còn giúp những người đã bị ung thư thanh quản
giảm nguy cơ mắc ung thư thanh quản lần thứ hai hoặc một
loại ung thư mới ở một vị trí khác. Các nhóm tư vấn đặc biệt
hoặc tự giúp đỡ rất hữu ích đối với những người đang cố
gắng bỏ hút thuốc. Một số bệnh viện có lập các nhóm người
muốn bỏ hút thuốc. Làm việc với amiăng có thể tăng nguy cơ
mắc ung thư thanh quản. Công nhân làm việc với amiăng
phải tuân theo các quy định về an toàn lao động và tránh hít
phải sợi amiăng.
Những người cho rằng mình có nguy cơ phát triển ung
thư thanh quản nên thảo luận với bác sĩ của họ. Bác sĩ có thể
gợi ý các cách để làm giảm nguy cơ và đề xuất một kế hoạch
khám phù hợp.
3. Ung thư thanh quản được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư thanh quản là gì?
UNG THƯ THANH QUẢ N 113
Triệu chứng của ung thư thanh quản phụ thuộc chủ yếu
vào kích thước và vị trí của khối u. Hầu hết các trường hợp
ung thư thanh quản đều bắt đầu ở dây thanh âm. Những
khối u này hiếm khi gây đau đớn nhưng chúng hầu như luôn
gây ra hiện tượng khàn giọng hoặc thay đổi giọng nói. Khối u
ở vùng phía trên dây thanh âm có thể gây nổi cục ở cổ, đau
họng hoặc đau tai. Khối u vùng phía dưới dây thanh âm
thường hiếm gặp. Chúng có thể gây khó thở hoặc thở có tiếng
ồn.
Ho kéo dài hoặc cảm giác có cục ở cổ họng có thể là
những dấu hiệu báo động của ung thư thanh quản. Khi khối
u phát triển, nó có thể gây đau, giảm cân, khó thở và hay bị
nghẹn thức ăn. Trong một số trường hợp, khối u ở thanh
quản có thể gây khó nuốt.
Tất cả những triệu chứng này có thể do ung thư thanh
quản hoặc do các tình trạng bệnh khác ít nghiêm trọng hơn
gây ra. Chỉ có bác sĩ mới có thể khẳng định được chắc chắn.
Những người có các triệu chứng kể trên nên đến gặp bác sĩ
chuyên khoa tai mũi họng.
4. Ung thư thanh quản được chẩn đoán như thế
nào?
Để tìm nguyên nhân gây ra những triệu chứng này, bác sĩ
sẽ hỏi về tiền sử bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám
lâm sàng đầy đủ. Bên cạnh việc kiểm tra những dấu hiệu
sức khỏe chung, bác sĩ khám kĩ vùng cổ để tìm u cục, sự phù
114 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
nề, vị trí nhạy cảm đau và các thay đổi khác. Bác sĩ có thể
quan sát thanh quản bằng hai cách:
Soi thanh quản gián tiếp. Bác sĩ quan sát họng bằng một
gương cầm tay nhỏ để tìm những vùng bất thường và sự di
động của dây thanh âm. Khám nghiệm này không gây đau
đớn, nhưng người ta có thể xịt thuốc tê vào cổ họng để
phòng hiện tượng oẹ. Có thể thực hiện thủ thuật này ở
phòng khám của bác sỹ.
Soi thanh quản trực tiếp. Bác sĩ đưa một ống có nguồn
sáng (ống nội soi thanh quản) qua mũi hoặc miệng của bệnh
nhân. Khi ống này đi xuống họng, bác sĩ có thể quan sát
được những vùng không thể nhìn thấy qua gương soi đơn
giản. Việc gây tê tại chỗ giúp làm giảm bớt sự khó chịu và
phòng hiện tượng oẹ. Bệnh nhân có thể được cho uống
thuốc an thần nhẹ. Đôi khi, bác sĩ có thể gây mê toàn thân để
làm cho bệnh nhân ngủ. Có thể soi thanh quản ở phòng
khám của bác sĩ, ở một phòng khám ngoại trú hay ở bệnh
viện.
Nếu bác sĩ phát hiện ra những vùng bất thường, bệnh
nhân cần phải được sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất
chắc chắn để khẳng định ung thư. Để tiến hành sinh thiết,
bệnh nhân được gây tê tại chỗ hoặc gây mê toàn thân và bác
sĩ lấy một mẫu bệnh phẩm qua ống nội soi thanh quản. Sau
đó, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ quan sát mẫu mô này dưới kính
hiển vi để tìm tế bào ung thư. Nếu phát hiện ra ung thư, bác
sĩ giải phẫu có thể cho biết đó là loại ung thư gì. Hầu hết các
trường hợp ung thư thanh quản là ung thư biểu mô tế bào
UNG THƯ THANH QUẢ N 115
vẩy. Loại ung thư này bắt đầu từ các tế bào dẹt dạng vẩy lót
nắp thanh quản, dây thanh âm và các bộ phận khác của
thanh quản.
Nếu bác sĩ giải phẫu bệnh phát hiện ra ung thư, bác sĩ của
bệnh nhân cần biết giai đoạn (phạm vi) của bệnh để lập kế
hoạch điều trị tốt nhất. Để biết được kích thước của khối u
và để xem ung thư đã lan chưa, bác sĩ thường chỉ định thêm
một số thăm dò khác như chụp X quang, chụp cắt lớp vi tính
và/hoặc chụp cộng hưởng từ để có được những hình ảnh chi
tiết của những vùng trong cơ thể.
5. Ung thư thanh quản được điều trị như thế nào?
Ung thư thanh quản thường được điều trị bằng tia xạ
hoặc bằng phẫu thuật. Đây là các phương pháp điều trị tại
chỗ; có nghĩa là chúng chỉ ảnh hưởng tới tế bào ung thư ở
vùng được điều trị. Một số bệnh nhân có thể được điều trị
bằng hóa chất, được gọi là điều trị toàn thân, có nghĩa là
thuốc được vận chuyển đi khắp các mạch máu. Chúng có
thể đến được các tế bào ung thư trên toàn bộ cơ thể. Bác sĩ có
thể chỉ sử dụng một phương pháp hoặc có thể kết hợp các
phương pháp, tuỳ thuộc vào nhu cầu của bệnh nhân.
Trong một số trường hợp, bệnh nhân được giới thiệu đến
bác sĩ chuyên điều trị các loại ung thư khác nhau. Thông
thường, có nhiều chuyên gia cùng làm việc trong một đội.
Đội ngũ bác sĩ điều trị có thể bao gồm một bác sĩ phẫu thuật,
bác sĩ tai mũi họng, bác sĩ ung thư, bác sĩ tia xạ ung thư, bác
116 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
sĩ chuyên về phát âm, y tá và chuyên gia dinh dưỡng. Nha sĩ
cũng có thể là một thành viên quan trọng trong đội ngũ này,
đặc biệt là đối với bệnh nhân được điều trị bằng tia xạ.
Liệu pháp tia xạ sử dụng những tia có năng lượng cao để
tiêu diệt tế bào ung thư và ngăn chặn chúng phát triển. Tia
được chiếu vào khối u và vùng xung quanh nó. Bất cứ khi
nào có thể, bác sĩ thường gợi ý phương pháp điều trị này vì
nó có thể phá huỷ khối u mà không làm bệnh nhân mất
tiếng. Liệu pháp chiếu xạ có thể kết hợp với phẫu thuật; nó
có thể được sử dụng để làm co nhỏ khối u trước khi phẫu
thuật hoặc tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại sau khi phẫu
thuật. Hơn nữa, phương pháp chiếu xạ có thể được sử dụng
để điều trị những khối u không thể cắt bỏ được hoặc những
bệnh nhân không thể phẫu thuật vì những lý do khác. Nếu
khối u tái phát sau phẫu thuật, nói chung người ta thường
điều trị nó bằng tia xạ.
Phẫu thuật hoặc phẫu thuật kết hợp với tia xạ được chỉ
định cho một số bệnh nhân mới được chẩn đoán ung thư.
Hơn nữa, phẫu thuật là phương pháp điều trị thường được
áp dụng nếu khối u không đáp ứng với liệu pháp chiếu xạ
hoặc phát triển trở lại sau khi chiếu xạ. Khi bệnh nhân cần
phẫu thuật, kiểu phẫu thuật phụ thuộc chủ yếu vào kích
thước và vị trí chính xác của khối u.
Nếu khối u ở trên dây thanh âm rất nhỏ, bác sĩ phẫu
thuật có thể sử dụng tia laser, một chùm ánh sáng mạnh.
Chùm sáng này có thể cắt bỏ khối u theo cách giống như
dùng một dao mổ.
UNG THƯ THANH QUẢ N 117
Phẫu thuật để cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ thanh quản
được gọi là thủ thuật cắt thanh quản bán phần hoặc toàn bộ.
Trong cả hai loại phẫu thuật, bác sĩ phẫu thuật phải mở khí
quản, tạo ra một lỗ thoát ra phía trước cổ. (Lỗ thoát có thể
tạm thời hoặc vĩnh viễn). Không khí đi vào và ra khỏi khí
quản và phổi qua lỗ mở khí quản này. Một ống mở thông
khí quản giữ cho đường dẫn khí mới này ở trạng thái mở.
Phẫu thuật cắt bỏ thanh quản bán phần có thể bảo toàn
giọng nói. Bác sĩ phẫu thuật chỉ cắt bỏ một phần hộp âm
thanh - chỉ cắt một dây thanh âm hoặc một đoạn dây thanh
âm hoặc chỉ cắt nắp thanh quản - và lỗ mở khí quản chỉ là
tạm thời. Sau một thời gian hồi phục ngắn, ống mở thông
khí quản được rút ra và lỗ thông đóng lại. Bệnh nhân có thể
thở và nói chuyện như bình thường. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp, giọng nói có thể bị khàn hoặc yếu đi.
Trong phẫu thuật cắt bỏ thanh quản toàn bộ, toàn bộ hộp
âm thanh được cắt bỏ và lỗ thoát được mở vĩnh viễn. Người
bị cắt thanh quản thở qua lỗ mở khí quản. Người có thanh
quản bị cắt phải học nói theo cách mới.
Nếu bác sĩ cho rằng ung thư có thể đã bắt đầu lan thì các
hạch ở cổ và một số mô ở quanh chúng được cắt bỏ. Những
hạch này thường là những vị trí đầu tiên ung thư lan tới.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc điều trị ung
thư để tiêu diệt tế bào ung thư. Bác sĩ có thể gợi ý một loại
thuốc hoặc kết hợp nhiều loại thuốc. Trong một số trường
hợp, các thuốc chống ung thư được sử dụng để làm co nhỏ
khối u trước khi bệnh nhân được phẫu thuật hoặc chiếu xạ.
118 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Hơn nữa, hóa chất có thể được sử dụng để điều trị ung thư
đã lan.
Thuốc điều trị ung thư thanh quản thường được tiêm vào
mạch máu. Thông thường thuốc được điều trị theo chu kỳ -
một đợt điều trị được nối tiếp bằng một đợt nghỉ hồi phục,
sau đó là một đợt điều trị khác và một đợt nghỉ hồi phục và
tương tự như vậy. Một số bệnh nhân được điều trị hóa chất
ngoại trú tại bệnh viện, văn phòng bác sĩ hoặc tại nhà. Tuy
nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc, kế hoạch điều trị và tình
trạng sức khỏe chung, bệnh nhân có thể cẩn phải nằm viện
trong một thời gian ngắn.
Các nghiên cứu điều trị
Nhiều thử nghiệm lâm sàng về các phương pháp điều trị
ung thư thanh quản mới hiện đang được tiến hành. Bác sĩ
đang nghiên cứu các tuýp và các phác đồ điều trị mới bằng
tia xạ, các loại thuốc mới và các phương pháp mới kết hợp
các tuýp điều trị khác nhau. Các nhà khoa học đang cố gắng
để làm tăng hiệu quả của xạ trị bằng cách chiếu tia hai lần
trong một ngày thay cho một lần. Hơn nữa, họ cũng đang
nghiên cứu các loại thuốc mới được gọi là “chất nhạy cảm
phóng xạ”. Những loại thuốc này làm cho tế bào ung thư trở
nên nhạy cảm hơn với tia phóng xạ.
Bệnh nhân ung thư thanh quản có nguy cơ mắc một loại
ung thư mới ở thanh quản hoặc ở phổi, miệng hoặc họng cao
hơn.
Bác sĩ đang khám phá các phương pháp để phòng chống
các loại ung thư mới này. Một số nghiên cứu đã chỉ ra một
UNG THƯ THANH QUẢ N 119
loại thuốc có liên quan tới vitamin A có thể bảo vệ bệnh
nhân tránh mắc các loại ung thư mới.
6. Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Các phương pháp được sử dụng để điều trị ung thư rất
mạnh. Rất khó giới hạn ảnh hưởng của điều trị để chỉ có tế
bào ung thư bị cắt bỏ hoặc phá huỷ; tế bào lành cũng có thể
bị phá huỷ. Đó là nguyên nhân tại sao điều trị ung thư
thường gây ra các tác dụng phụ khó chịu.
Tác dụng phụ của điều trị ung thư khác nhau. Chúng
phụ thuộc chủ yếu vào loại và phạm vi của điều trị. Hơn
nữa, mỗi bệnh nhân lại có những phản ứng khác nhau. Bác
sĩ cố gắng lập kế hoạch điều trị sao cho có ít tác dụng phụ
nhất. Bác sĩ, y tá, chuyên gia dinh dưỡng và bác sĩ chuyên
khoa phát âm có thể giải thích tác dụng phụ của điều trị và
gợi ý các cách để đối phó với chúng. Bệnh nhân cũng nên
nói chuyện với một người bệnh khác. Trong nhiều trường
hợp, một người làm công tác xã hội hoặc một thành viên
khác trong đội ngũ nhân viên y tế có thể sắp xếp cho bệnh
nhân đến gặp một người cũng được điều trị bằng phương
pháp giống mình.
Tác dụng phụ của liệu pháp chiếu xạ
Trong khi chiếu xạ, quá trình lành sẹo sau khi điều trị
răng có thể là vấn đề. Đó là nguyên nhân tại sao bác sĩ muốn
bệnh nhân của họ bắt đầu điều trị khi răng và lợi ở tình
trạng tốt nhất. Bác sĩ thường khuyên bệnh nhân khám toàn
bộ răng và điều trị tất cả các vấn đề về răng trước khi xạ trị
120 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
bắt đầu. Điều quan trọng là bệnh nhân phải đến nha sĩ khám
răng định kỳ vì miệng có thể nhạy cảm và dễ bị kích thích
trong thời gian điều trị ung thư.
Trong nhiều trường hợp, miệng có thể bị nhạy cảm đau
trong khi điều trị và một số bệnh nhân có thể bị đau miệng.
Bác sĩ có thể gợi ý một loại nước súc miệng đặc biệt để làm
tê miệng và làm giảm sự khó chịu.
Xạ trị thanh quản gây ra những thay đổi ở nước bọt và
làm giảm lượng nước bọt. Vì thông thường nước bọt bảo vệ
răng nên bệnh nhân có thể bị sâu răng sau khi điều trị.
Chăm sóc răng tốt có thể giữ cho răng và lợi khỏe mạnh và
có thể làm cho bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn.
Bệnh nhân phải cố gắng hết sức để giữ cho răng sạch. Rất
khó để đánh bóng răng hoặc đánh răng theo cách bình
thường, bệnh nhân có thể sử dụng gạc, một loại bàn chải
đánh răng mềm hoặc một bàn chải đánh răng đặc biệt có
đầu làm bằng bọt xốp thay cho sợi cước. Một loại nước súc
miệng làm từ peroxid loãng (nước ôxy già), nước muối và
bột sôđa có thể giữ cho miệng sạch và giúp bảo vệ răng
không bị sâu. Bệnh nhân cũng nên sử dụng kem đánh răng
có florua và/hoặc là nước súc miệng có florua để làm giảm
nguy cơ bị sâu răng. Bác sĩ nha khoa có thể gợi ý một
chương trình dùng florua đặc biệt để giữ cho miệng khỏe
mạnh.
Nếu hiện tượng giảm số lượng nước bọt làm cho miệng
khô đến mức khó chịu, bệnh nhân nên uống nhiều nước.
UNG THƯ THANH QUẢ N 121
Một số bệnh nhân sử dụng một loại thuốc xịt đặc biệt (nước
bọt nhân tạo) để làm giảm nhẹ chứng khô miệng.
Bệnh nhân được điều trị bằng tia xạ thay cho phẫu thuật
không phải mở khí quản. Họ có thể thở và nói chuyện bình
thường mặc dù giọng nói của họ có thể thay đổi do điều trị.
Hơn nữa, giọng nói của họ có thể yếu đi về cuối ngày và
thường bị ảnh hưởng do thay đổi thời tiết. Sự thay đổi giọng
nói và cảm giác có cục ở họng có thể do hiện tượng phù nề
thanh quản vì chiếu xạ. Điều trị có thể gây đau họng. Bác sĩ
có thể chỉ định thuốc để giảm phù nề hoặc giảm đau.
Trong khi chiếu xạ, bệnh nhân có thể rất mệt mỏi, đặc
biệt là những tuần cuối. Nghỉ ngơi là rất quan trọng nhưng
bác sĩ thường khuyên bệnh nhân là cố gắng vận động khi có
thể. Hiện tượng thường gặp là da ở vùng điều trị có thể bị
đỏ hoặc khô. Da có thể tiếp xúc với không khí nhưng phải
tránh ánh nắng mặt trời và bệnh nhân nên tránh mặc các loại
quần áo cọ sát vào vùng được điều trị. Trong thời gian điều
trị tia xạ lông tóc thường không mọc ở vùng được điều trị;
nếu mọc, thì nam giới không nên cạo. Chăm sóc da cẩn thận
là rất quan trọng ở thời điểm này. Bệnh nhân sẽ được hướng
dẫn cách giữ cho vùng da điều trị được sạch và không nên
bôi bất kỳ loại kem hoặc thuốc mỡ nào lên da trước khi
chiếu xạ. Hơn nữa, bệnh nhân cũng không nên sử dụng bất
cứ loại nước rửa hoặc kem nào vào các thời điểm khác mà
không có lời khuyên của bác sĩ.
Một số bệnh nhân than phiền về việc chiếu xạ làm cho lưỡi
của họ bị nhạy cảm. Họ có thể mất vị giác hoặc khứu giác
hoặc miệng có vị đắng. Uống nhiều nước có thể làm giảm vị
122 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
đắng trong miệng. Thông thường, bác sĩ, y tá có thể gợi ý các
cách khác để làm giảm những vấn đề này. Và nên nhớ rằng,
mặc dù những tác dụng phụ của chiếu xạ có thể không biến
mất hoàn toàn nhưng hầu hết chúng sẽ giảm dần và bệnh
nhân thường cảm thấy khỏe hơn khi điều trị đã kết thúc.
Tác dụng phụ của phẫu thuật
Giữ cho bệnh nhân thoải mái là một phần quan trọng
trong điều trị thường quy ở bệnh viện. Nếu bệnh nhân bị
đau thì có thể sử dụng thuốc để giảm đau. Bệnh nhân nên
thảo luận cởi mở với bác sĩ về các biện pháp giảm đau.
Trong vài ngày sau khi phẫu thuật, bệnh nhân có thể
không ăn, uống được. Trước hết, sử dụng một đường truyền
tĩnh mạch để cung cấp dịch. Trong một hoặc hai ngày, ống
tiêu hóa sẽ trở lại bình thường, nhưng bệnh nhân vẫn chưa
thể nuốt được do họng vẫn chưa lành. Dịch và chất dinh
dưỡng được đưa vào cơ thể qua một ống xông dạ dày (được
đặt trong khi phẫu thuật qua đường mũi). Khi họng hết phù
nề và vùng điều trị đã lành sẹo thì có thể rút ống xông ra.
Lúc đầu, bệnh nhân có thể khó nuốt và bệnh nhân có thể cần
hướng dẫn của y tá hoặc bác sĩ chuyên khoa phát âm. Dần
dần, bệnh nhân sẽ quay trở lại với chế độ ăn bình thường.
Sau khi phẫu thuật, phổi và khí quản tiết ra rất nhiều
dịch nhầy (đờm). Để lấy sạch đờm, y tá sẽ nhẹ nhàng hút
bằng một ống nhựa nhỏ luồn qua lỗ mở khí quản. Sau đó,
bệnh nhân học cách ho và hút dịch nhầy qua lỗ mở khí quản
mà không cần sự trợ giúp của y tá. Trong một thời gian
ngắn, bệnh nhân cũng có thể cần được hút bớt nước bọt vì
họ bị khó nuốt do họng bị phù nề.
UNG THƯ THANH QUẢ N 123
Thông thường, không khí được làm ẩm bằng các mô ở mũi
và họng trước khi vào khí quản. Sau khi phẫu thuật, không khí
trực tiếp đi vào khí quản qua lỗ mở khí quản và không được
làm ẩm như bình thường. Trong bệnh viện, bệnh nhân được
làm dễ chịu bằng một thiết bị đặc biệt làm ẩm không khí.
Trong vài ngày sau phẫu thuật cắt thanh quản bán phần,
bệnh nhân thở qua lỗ mở khí quản. Một thời gian ngắn sau
đó ống thông khí quản được lấy ra; Khoảng vài tuần tiếp
theo, lỗ mở khí quản sẽ đóng lại. Như vậy, bệnh nhân có thể
thở và nói chuyện bình thường mặc dù tiếng nói có thể
không giống y như trước khi phẫu thuật.
Sau phẫu thuật cắt bỏ thanh quản toàn bộ, lỗ mở khí
quản sẽ tồn tại vĩnh viễn. Bệnh nhân thở, ho, “hắt xì hơi”
qua lỗ mở đó và phải học nói theo cách mới. ống thông khí
quản được lưu lại ít nhất trong vài tuần (cho đến khi da ở
xung quanh lỗ mở khí quản lành trở lại) và một số bệnh
nhân tiếp tục sử dụng ống liên tục hoặc từng lúc. Nếu ống
được rút ra, người ta thường thay thế bằng một núm mở
thông khí quản nhỏ hơn. Sau một thời gian, một số bệnh
nhân có thanh quản bị cắt có thể không cần sử dụng ống
hoặc là núm mở thông khí quản nữa.
Sau phẫu thuật cắt thanh quản, một phần họng hoặc cổ có
thể bị tê vì các dây thần kinh bị cắt. Hơn nữa, sau khi phẫu
thuật để nạo vét hạch cổ, vai và cổ có thể bị yếu và cứng.
Tác dụng phụ của hóa trị liệu
Tác dụng phụ của hóa trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào loại
thuốc được điều trị. Nói chung, thuốc điều trị ung thư ảnh
124 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
hưởng tới các tế bào phân chia nhanh, như tế bào máu, tế
bào lót niêm mạc ống tiêu hóa và tế bào ở nang lông tóc.
Như vậy bệnh nhân có thể có các tác dụng phụ như khả
năng chống nhiễm khuẩn giảm, chán ăn, buồn nôn, nôn
hoặc đau miệng. Họ có thể cảm thấy yếu hơn và có thể bị
rụng tóc.
Ảnh hưởng của điều trị đối với việc ăn uống
Mất cảm giác ăn ngon miệng có thể là vần đề đối với
bệnh nhân được điều trị ung thư thanh quản. Bệnh nhân có
thể không cảm thấy đói khi họ thấy khó chịu hoặc mệt mỏi.
Những người bị cắt thanh quản có thể chán ăn bởi vì
phẫu thuật làm thay đổi khứu giác và vị giác. Xạ trị cũng có
thể ảnh hưởng tới vị giác. Tác dụng phụ của hóa chất cũng
làm cho bệnh nhân khó ăn ngon. Tuy nhiên, bổ sung dinh
dưỡng đầy đủ là rất quan trọng. Ăn tốt có nghĩa là lấy đủ
lượng calo và prôtêin để ngăn chặn giảm cân, lấy lại sức
mạnh và tái tạo lại các mô thường.
Sau khi phẫu thuật, bệnh nhân có thể phải học nuốt trở
lại với sự trợ giúp của một y tá hoặc một bác sĩ chuyên gia
phát âm. Một số bệnh nhân thấy thức ăn dạng lỏng dễ nuốt
hơn; những bệnh nhân khác lại thấy nuốt thức ăn ở dạng rắn
dễ hơn. Nếu khó ăn vì miệng bị khô do chiếu xạ, bệnh nhân
có thể muốn thử các loại thức ăn trộn, mềm được làm ẩm
bằng nước sốt hoặc nước thịt. Một số bệnh nhân khác lại
thích ăn súp đặc, bánh mềm và sữa bột có hàm lượng
protein cao. Y tá và chuyên gia dinh dưỡng sẽ giúp bệnh
nhân lựa chọn loại thức ăn phù hợp. Hơn nữa, nhiều bệnh
UNG THƯ THANH QUẢ N 125
nhân thấy ăn nhiều bữa ăn nhỏ và bữa ăn nhẹ trong ngày tốt
hơn ăn ba bữa chính.
7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi thường xuyên là rất quan trọng sau khi điều trị
ung thư thanh quản. Bác sĩ thường kiểm tra chặt chẽ để
đảm bảo ung thư không xuất hiện lại. Khám theo dõi bao
gồm kiểm tra lỗ mở khí quản, cổ và họng. Thỉnh thoảng,
bác sĩ tiến hành khám lâm sàng toàn thân, xét nghiệm máu
và nước tiểu và chụp X.quang. Bệnh nhân được chiếu xạ
hoặc phẫu thuật cắt thanh quản bán phần sẽ được nội soi
thanh quản.
Những đối tượng đã được điều trị ung thư thanh quản có
nguy cơ phát triển một loại ung thư khác ở miệng, họng
hoặc các vùng khác ở đầu và cổ cao hơn bình thường. Điều
này đặc biệt đúng đối với những người hút thuốc. Hầu hết
các bác sĩ đều nhấn mạnh với bệnh nhân là cần phải bỏ hút
thuốc để giảm nguy cơ phát triển loại ung thư mới và giảm
nguy cơ bị các vấn đề phiền toái khác, như ho.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Âm Hộ
1. Ung thư âm hộ là gì?
Ung thư âm hộ chủ yếu là ung thư biểu mô gai sừng hóa,
chiếm trên 80%.
Ung thư âm hộ có khả năng chữa khỏi cao khi được
chẩn đoán ở giai đoạn sớm. Tỷ lệ sống sót phụ thuộc chủ
yếu vào tình trạng giải phẫu bệnh học của hạch bẹn. Ở
những bệnh nhân có thể phẫu thuật và ung thư chưa lan
vào hạch, tỷ lệ sống sót chung là 90%. Tuy nhiên, khi ung
thư đã lan vào hạch thì tỷ lệ sống thêm 5 năm chung chỉ
vào khoảng 50-60%.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư âm hộ là gì?
Các yếu tố nguy cơ gây di căn hạch là tình trạng hạch
trên lâm sàng, độ tuổi, mức độ biệt hóa, giai đoạn của
khối u, chiều sâu của khối u, mức độ xâm xâm lấn vào mô
đệm và sự xuất hiện xâm lấn vào khoang mao mạch - bạch
UNG THƯ ÂM HỘ 127
huyết. Nói chung, khoảng 30% bệnh nhân phẫu thuật
được có bệnh lan vào hạch. Một phân tích đa yếu tố về các
yếu tố nguy cơ trong ung thư âm hộ tế bào vẩy cho thấy
tình trạng hạch và đường kính của tổn thương ban đầu,
khi được xem xét cùng nhau, là các biến duy nhất liên
quan tới tiên lượng. Bệnh nhân chưa có di căn hạch bẹn và
kích thước của tổn thương < 2cm có tỷ lệ sống thêm 5 năm
là 98%, trong khi đó bệnh nhân có kích thước tổn thương
bất kì và ung thư đã lan tới > 3 hạch cùng bên hay > 2
hạch hai bên có tỷ lệ sống thêm 5 năm là 29%. Nhóm có
tiên lượng trung bình được xác định là có tỷ lệ sống thêm
ở mức trung bình. Những phân biệt này có ích nhất đối
với ung thư giai đoạn III theo FIGO. Ung thư âm hộ là căn
bệnh xảy ra chủ yếu ở phụ nữ có tuổi nhưng bệnh cũng có
thể gặp ở những phụ nữ tiền mãn kinh. Tuýp mô học
thường gặp là ung thư biểu mô tế bào vẩy nhưng cũng có
tác tuýp mô học khác.
Trong nhiều trường hợp, ung thư âm hộ thường phát
triển sau condylom hoặc loạn sản tế bào vẩy. Đa số các bằng
chứng đều cho rằng vi rút Papilloma ở người (HPV) là yếu
tố gây ung thư biểu mô đường sinh dục. Vị trí tổn thương
thường gặp nhất là môi lớn (chiếm khoảng 50% các trường
hợp). Tổn thương môi nhỏ chiếm 15-20% các trường hợp.
âm vật và tuyến Bartholin ít bị tổn thương hơn.
Các cơ quan ngoài âm hộ mà ung thư có thể lan tới là âm
đạo, niệu đạo và hậu môn hoặc qua đường bạch huyết lan
vào hạch bẹn và hạch đùi sau đó vào các hạch sâu trong hố
chậu. Di căn theo đường máu hiếm gặp.
128 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
3. Ung thư âm hộ được chẩn đoán như thế nào?
Chẩn đoán ung thư âm hộ dựa vào kết quả sinh thiết.
Sinh thiết có thể tiến hành ngoại trú, khi cần có thể gây tê.
Các thăm dò như soi bàng quang, soi trực tràng, chụp X
quang phổi và chụp hệ tiết niệu có tiêm thuốc cản quang
tĩnh mạch có thể là cần thiết để phân giai đoạn. Khi nghi
ung thư lan tới bàng quang hoặc trực tràng bác sĩ sẽ xác
định bằng sinh thiết.
Giai đoạn được xác định theo phân loại TNM của Hiệp
hội sản-phụ khoa quốc tế (FIGO) và Hiệp hội Ung thư Mỹ
(AJCC). Hiện nay, quá trình phân giai đoạn được dựa trên
phẫu thuật nhiều hơn là dựa vào lâm sàng. Hệ thống phân
loại của FIGO năm 1988 giúp phân biệt tỷ lệ sống sót giữa
các giai đoạn tốt hơn nhiều so với hệ thống phân loại theo
lâm sàng của FIGO năm 1970.
Các định nghĩa TNM
Khối u nguyên phát (T)
TX: Không thể đánh giá khối u nguyên phát
T0: Không có bằng chứng về khối u nguyên phát
Tis: Ung thư biểu mô nông tại chỗ (ung thư biểu mô tiền
xâm lấn)
T1: Khối u chỉ giới hạn ở âm hộ và/hoặc tầng sinh môn,
có kích thước lớn nhất 2cm
T1a: Khối u được giới hạn ở âm hộ và/hoặc tầng sinh
môn, có kích thước lớn nhất 2cm và độ sâu xâm lấn
vào mô đệm < 1mm*
UNG THƯ ÂM HỘ 129
T1b: Khối u giới hạn ở âm hộ và/hoặc tầng sinh môn,
có kích thước lớn nhất 2cm và độ sâu xâm lấn vào
mô đệm > 1mm*
T2: Khối u giới hạn ở âm hộ và/hoặc tầng sinh môn, có
kích thước lớn nhất > 2 cm
T3: Khối u kích thước bất kỳ, đã lan vào đoạn dưới niệu
đạo và/hoặc âm đạo hay hậu môn.
T4: Khối u xâm lấn vào bất kì bộ phận nào trong số sau:
niêm mạc đoạn trên niệu đạo, niêm mạc bàng quang, niêm
mạc trực tràng hoặc ăn vào xương mu
* Chú ý: Độ sâu xâm lấn của khối u được tính từ đường
nối mô đệm - biểu mô của nhú da nông nhất lân cận tới
điểm xâm lấn sâu nhất.
Các hạch vùng (N)
NX: Không thể đánh giá được các hạch vùng
N0: Chưa di căn hạch vùng
N1: Di căn hạch vùng một bên
N2: Di căn hạch vùng hai bên
Di căn xa (M)
MX: Không thể đánh giá di căn xa
M0: Chưa di căn xa
M1: Di căn xa (bao gồm cả di căn hạch vùng chậu)
Phân nhóm giai đoạn theo AJCC
Giai đoạn 0
Tis, N0, M0
130 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Giai đoạn IA
T1a, N0, M0
Giai đoạn IB
T1b, N0, M0
Giai đoạn II
T2, N0, M0
Giai đoạn III
T1, N1, M0
T2, N1, M0
T3, N1, M0
T3, N1, M0
Giai đoạn IVA
T1, N2, M0
T2, N2, M0
T3, N2, M0
T4, N bất kì, M0
Giai đoạn IVB
T bất kì, N bất kì, M1
Phân nhóm giai đoạn theo FIGO
Giai đoạn 0
Là ung thư biểu mô nông tại chỗ, ung thư biểu mô trong
biểu mô.
UNG THƯ ÂM HỘ 131
Giai đoạn I
Tổn thương có kích thước 2cm, giới hạn ở âm hộ hoặc
tầng sinh môn. Không có di căn hạch
Giai đoạn IA: Tổn thương có đường kính 2cm, giới hạn
ở âm hộ hoặc tầng sinh môn, có độ sâu xâm lấn vào mô đệm
< 1mm. Không có di căn hạch.
Giai đoạn IB: Tổn thương có đường kính 2cm, giới hạn
ở âm hộ hoặc tầng sinh môn, có độ sâu xâm lấn vào mô đệm
> 1mm. Chưa có di căn hạch.
Giai đoạn II
Khối u giới hạn ở âm hộ và/hoặc tầng sinh môn, có kích
thước lớn nhất > 2cm, chưa có di căn hạch.
Giai đoạn III
Khối u kích thước bất kỳ xuất hiện ở âm hộ và/hoặc tầng
sinh môn và:
(1) đã lan vào các bộ phận lân cận như đoạn dưới niệu
đạo và/hoặc âm đạo hoặc hậu môn; và/hoặc
(2) có di căn hạch vùng một bên
Giai đoạn IV
Ung thư âm hộ giai đoạn IV được chia thành giai đoạn
IVA và IVB.
Giai đoạn IVA: Khối u xâm lấn vào bất kì bộ phận nào
trong số dưới đây: đoạn trên niệu đạo, niêm mạc bàng
quang, niêm mạc trực tràng, xương chậu và/hoặc di căn
hạch vùng hai bên.
132 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Giai đoạn IVB: Có di căn xa bất kỳ bao gồm cả vào hạch
vùng chậu.
Chú ý: Độ sâu xâm lấn của khối u được tính từ đường nối
mô đệm - biểu mô của nhú da nông nhất lân cận tới điểm
xâm lấn sâu nhất.
4. Ung thư âm hộ được điều trị như thế nào? Tác
dụng phụ của điều trị là gì?
Phương pháp điều trị ung thư âm hộ chuẩn là phẫu
thuật, đối với hầu hết các bệnh nhân giai đoạn III/IV điều trị
là phẫu thuật kết hợp với chiếu xạ ngoài bổ sung. Các chiến
lược điều trị mới hơn kết hợp các lợi thế có thể của phẫu
thuật, chiếu xạ và hóa chất đồng thời điều chỉnh phương
pháp điều trị phù hợp với phạm vi của bệnh theo lâm sàng
và theo giải phẫu bệnh. Do các ảnh hưởng đối với tâm lý
tình dục và khiếm khuyết đáng kể liên quan tới thủ thuật cắt
bỏ âm hộ chuẩn triệt để, xu hướng rõ ràng hiện nay là bảo
tồn âm hộ và xử trí phù hợp cho từng bệnh nhân ung thư
giai đoạn sớm. Do các khối u tân tạo thể tiền xâm lấn và xâm
lấn ở âm hộ có thể do HPV gây ra và ảnh hưởng của các tác
nhân gây ung thư có thể lan rộng trong biểu mô âm hộ, việc
theo dõi bệnh nhân chặt chẽ là cần thiết để có thể phát hiện
sớm khối u tái phát và các khối u khác. Do chỉ có một vài
bệnh nhân có ung thư ở giai đoạn muộn và thường là họ đã
già nên chỉ thu thập được rất ít dữ liệu về đáp ứng và vì thế
không có phương pháp điều trị bằng hóa chất chuẩn cho
những bệnh nhân ở giai đoạn này. Các bác sĩ sẽ xem xét đưa
các bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn III và IV vào thử nghiệm
UNG THƯ ÂM HỘ 133
lâm sàng đánh giá các phương pháp điều trị bổ trợ cho phẫu
thuật chuẩn dưới đây: chất nhạy cảm phóng xạ, hóa chất
trong thử nghiệm giai đoạn II và nghiên cứu các phương
pháp điều trị kết hợp. Hội ung thư phụ khoa đang nghiên
cứu tính khả thi của hóa trị liệu tiền phẫu thuật kết hợp với
chiếu xạ làm phương pháp điều trị bổ trợ mới cho ung thư
âm hộ giai đoạn muộn.
Ung thư âm hộ giai đoạn 0
Thủ thuật cắt bỏ âm hộ đơn giản cho tỷ lệ sống thêm 5
năm 100% nhưng hiếm khi được chỉ định. Các phương pháp
phẫu thuật khác, giới hạn hơn, mang lại kết quả tương
đương và ít gây biến dạng hơn. Khối u tân tạo trong biểu mô
âm hộ ở các vùng không có lông che phủ có thể được coi là
bệnh biểu mô; tuy nhiên, những khối u như vậy ở vùng có
lông che phủ thường liên quan tới nang lông-tuyến bã nhờn
và đòi hỏi phải được loại bỏ hoặc phẫu thuật sâu hơn. Với
bất cứ thủ thuật can thiệp nào thì một số lượng lớn bệnh
nhân vẫn bị tái phát ở các vị trí thường gặp như vùng da
quanh hậu môn, vùng trước xương cùng và nắp âm vật. Sử
dụng fluorouracil ngoài da không phải là lựa chọn điều trị
đầu tay đáng tin cậy.
Các lựa chọn điều trị chuẩn
Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào phạm vi của bệnh:
(1) Phẫu thuật cắt rộng tại chỗ hoặc chiếu tia lazer hoặc
kết hợp cả hai phương pháp.
(2) Thủ thuật cắt bỏ âm hộ kết hợp với ghép da hoặc
không ghép da.
134 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
(3) Dùng kem fluorouracil 5% (tỉ lệ đáp ứng 50-60%).
Ung thư âm hộ giai đoạn I
Phẫu thuật cắt âm hộ triệt để cho tỷ lệ sống thêm 5 năm
trên 90%. Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào các yếu tố của
khối u và của bệnh nhân.
Các lựa chọn điều trị chuẩn
(1) Đối với các tổn thương xâm lấn vi thể (độ sâu xâm
lấn < 1mm) không kèm theo loạn sản âm hộ nặng thì
thường được các bác sĩ chỉ định phương pháp phẫu
thuật cắt rộng (5-10mm). Đối với tất cả các tổn
thương khác thuộc giai đoạn I, nếu nằm ở một bên,
không có loạn sản nghiêm trọng lan toả và chưa lan
có hạch trên lâm sàng thì bác sĩ sẽ tiến hành phẫu
thuật cắt tại chỗ triệt để kết hợp với vét bỏ toàn bộ
hạch bạch huyết một bên. Những bệnh nhân có thể
được tiến hành can thiệp này phải có tổn thương với
đường kính 2cm và độ sâu xâm lấn 5cm, chưa có
xâm lấn vào khoang mao mạch-bạch huyết và chưa
có hạch trên lâm sàng. Theo một tài liệu tổng quan
trong y văn, tỷ lệ tái phát tại chỗ sau phẫu thuật cắt
bỏ tại chỗ triệt để là 7,2% so với 6,3% sau phẫu thuật
cắt bỏ âm hộ triệt để.
(2) Phẫu thuật cắt bỏ âm hộ triệt để kết hợp với vét hạch
đùi và bẹn hai bên. Tỷ lệ gây tổn thương của phương
pháp phẫu thuật này có thể được làm giảm xuống
bằng cách thực hiện một vết rạch riêng biệt ở bẹn và
vét bỏ hạch một bên hoặc hạch nông đối với một số
UNG THƯ ÂM HỘ 135
tổn thương sớm. Một nghiên cứu cho thấy việc mép
cắt có tế bào ung thư hay không là yếu tố dự báo tốt
nhất cho tái phát tại chỗ. Tất cả các trường hợp tái
phát có mép mô lành cắt được < 8mm.
(3) Đối với một số ít bệnh nhân không thể dung hòa với
phẫu thuật cắt bỏ âm hộ triệt để hoặc không thể phẫu
thuật do vị trí hoặc phạm vi của bệnh, thì được chiếu
xạ triệt để và có thể cho thời gian sống thêm dài.
Ung thư âm hộ giai đoạn II
Phẫu thuật cắt bỏ âm hộ triệt để kết hợp với vét hạch đùi
và bẹn hai bên, đồng thời đảm bảo các mép cắt đủ rộng để
không bỏ sót tế bào ung thư, là phương pháp điều trị chuẩn
và cho tỷ lệ sống thêm 5 năm 80 - 90%, tuỳ thuộc vào kích
thước của khối nguyên phát.
Các lựa chọn điều trị chuẩn
(1) Phẫu thuật cắt bỏ âm hộ triệt để có cải tiến kết hợp
vét hạch đùi và hạch bẹn hai bên. Các đường cắt phải
cách khối u 10mm. Tỷ lệ gây tổn thương của loại
phẫu thuật này có thể được làm giảm xuống bằng
cách thực hiện một đường cắt ở bẹn riêng biệt và
phẫu thuật vét hạch một bên hoặc hạch nông để tìm
các tổn thương sớm. Chiếu xạ tại chỗ bổ trợ có thể
được chỉ định khi mép cắt cách rìa khối u < 8mm, đã
có xâm lấn vào khoảng mao mạch-bạch huyết và độ
dầy > 5mm, đặc biệt là nếu bệnh nhân có hạch. Theo
một nghiên cứu ngẫu nhiên của Hội Nghiên cứu Ung
thư Phụ khoa (GOG), việc chiếu xạ vào vùng bẹn cho
136 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
bệnh nhân thuộc nhóm N0 trên lâm sàng làm giảm
thời gian sống thêm do tỷ lệ điều trị thất bại tăng cao
hơn so với vét hạch bẹn và chiếu xạ bổ trợ vào các
hạch bẹn. Không may, do phác đồ điều trị này không
mô tả rõ về liều chiếu phù hợp theo độ sâu của các
hạch bẹn, câu hỏi liệu chiếu xạ hạch chọn lọc có tiên
lượng tốt hơn vét hạch hay không chưa được nghiên
cứu GOG đưa ra câu trả lời thỏa mãn. Một nghiên
cứu hồi cứu tiến hành với số lượng bệnh nhân tương
tự và phương thức chiếu xạ siêu trội cho kết quả trái
ngược với các dữ liệu của GOG và công bố vét hạch
bẹn không làm tăng thời gian sống sót một cách có ý
nghĩa so với chiếu xạ bẹn. Vì vậy, chiếu xạ bẹn cho
các bệnh nhân nhóm N0 là một phương pháp điều trị
thay thế cho vét hạch bẹn ở những phụ nữ không
đồng ý vét hạch hoặc không thể tiến hành vét hạch
bẹn được.
(2) Đối với một số ít bệnh nhân không dung hợp với
phẫu thuật cắt bỏ âm hộ triệt để hoặc không thích
hợp với phẫu thuật do vị trí hoặc phạm vi của bệnh,
thì được chiếu xạ triệt để có thể cho thời gian sống
thêm dài.
Ung thư âm hộ giai đoạn III
Phẫu thuật cắt bỏ âm hộ triệt để kết hợp với vét hạch
đùi và bẹn là liệu pháp điều trị chuẩn. Định nghĩa phẫu
thuật cắt bỏ âm hộ triệt để đang được mở rộng do tác
dụng hạn chế của phẫu thuật triệt để khi mép cắt hẹp,
không cắt được toàn bộ âm hộ. Tổn thương hạch là yếu tố
UNG THƯ ÂM HỘ 137
then chốt quyết định tỷ lệ sống sót. Tỷ lệ sống thêm 5 năm
của bệnh nhân có tổn thương hạch một bên là 70% và giảm
xuống 30% ở những bệnh nhân có từ 3 hạch trở lên ở một
bên bị tổn thương.
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên của Hội Nghiên cứu
Ung thư Phụ khoa, bệnh nhân có từ hai hạch bẹn trở lên
dương tính theo giải phẫu bệnh học có tỷ lệ sống sót cao hơn
rõ rệt khi được điều trị bằng tia xạ vùng chậu và vùng bẹn
so với tỷ lệ sống sót sau vét hạch vùng chậu. Bệnh nhân ở cả
hai phương thức điều trị trong thử nghiệm lâm sàng đều
được phẫu thuật cắt âm hộ triệt để kết hợp với vét hạch đùi
và bẹn hai bên. Tỷ lệ điều trị hạch bẹn thất bại giảm đáng kể
khi bệnh nhân được chiếu xạ vùng bẹn và hố chậu so với khi
vét hạch vùng chậu.
Các lựa chọn điều trị chuẩn
(1) Phẫu thuật cắt âm hộ triệt để có cải tiến kết hợp với
vét hạch đùi và hạch bẹn. Cần tiến hành chiếu xạ
vùng bẹn và vùng chậu nếu các hạch bẹn dương tính.
(2) Phẫu thuật cắt âm hộ triệt để kết hợp với vét hạch đùi
và bẹn, sau đó chiếu xạ âm hộ ở bệnh nhân có tổn
thương nguyên phát lớn và mép cắt hẹp. Liệu pháp
chiếu xạ tại chỗ bổ trợ với liều 45-50 Gy cũng có thể
chỉ định khi có xâm lấn vào khoang mao mạch-bạch
huyết và độ dầy > 5mm, đặc biệt nếu có tổn thương
hạch. Phải tiến hành chiếu xạ vùng bẹn và vùng chậu
nếu có tổn thương từ 2 hạch bẹn trở lên.
138 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
(3) Chiếu xạ tiền phẫu thuật có thể được sử dụng ở một
số trường hợp để cải thiện khả năng phẫu thuật và
giảm phạm vi phẫu thuật cần thiết. Liều chiếu xạ lên
tới 55 Gy đồng thời với việc sử dụng 5-FU.
(4) Đối với bệnh nhân không dung hợp được với phẫu
thuật cắt âm hộ triệt để hoặc không phù hơp với
phẫu thuật do vị trí hoặc phạm vi của bệnh, liệu pháp
chiếu xạ triệt để có thể cho thời gian sống thêm dài.
Khi liệu pháp chiếu xạ được thử nghiệm để điều trị
triệt để ban đầu ung thư âm hộ, một số bác sĩ muốn
bổ sung đồng thời 5-FU hoặc 5-FU và cisplatin. Bốn
thử nghiệm giai đoạn II kết hợp đồng thời chiếu xạ
với 5-FU kèm theo hoặc không kèm theo cisplatin cho
tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn là 53 - 89% đối với các khối u
nguyên phát không thể cắt bỏ hoặc đối với những
bệnh nhân cần được phẫu thuật cắt bỏ nội tạng. Với
thời gian theo dõi trung bình 37 tháng, hai nghiên
cứu công bố tỷ lệ sống sót không mắc bệnh là 47%
đến 84%. Các biến chứng do phóng xạ như xơ hóa
muộn, teo đét, giãn mao mạch và hoại tử giảm xuống
mức tối thiểu nếu phần liều chiếu xạ từ 180 cGy trở
xuống và không sử dụng tổng liều quá lớn. Nên sử
dụng các liều từ 54Gy tới 65Gy.
Ung thư âm hộ giai đoạn IV
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên của Hội Nghiên cứu
Ung thư Phụ khoa, bệnh nhân có từ hai hạch bẹn trở lên
dương tính theo kết quả giải phẫu bệnh học sẽ có tỷ lệ sống
UNG THƯ ÂM HỘ 139
sót cao hơn rõ rệt khi được điều trị bằng chiếu xạ vùng chậu
so với tỷ lệ sống sót sau vét hạch vùng chậu. Bệnh nhân ở cả
hai phương thức điều trị trong thử nghiệm lâm sàng đều
được phẫu thuật cắt âm hộ triệt để kết hợp với vét hạch bẹn
nông và sâu ở cả hai bên. Tỷ lệ điều trị hạch bẹn thất bại
giảm đáng kể khi bệnh nhân được chiếu xạ vùng bẹn và hố
chậu so với khi vét hạch vùng chậu mà không chiếu xạ.
Các lựa chọn điều trị chuẩn
(1) Phẫu thuật cắt âm hộ triệt để kết hợp với cắt bỏ nội
tạng vùng chậu.
(2) Phẫu thuật sau đó chiếu xạ âm hộ cho các tổn thương
được cắt bỏ lớn với mép cắt hẹp. Liệu pháp chiếu xạ
tại chỗ bổ trợ với liều 45Gy tới 50Gy cũng có thể được
chỉ định khi có xâm lấn vào khoang mao mạch-bạch
huyết và độ dày > 5mm, đặc biệt nếu có tổn thương
hạch. Nên tiến hành chiếu xạ vùng bẹn và vùng chậu
nếu có từ hai hạch bẹn trở lên bị tổn thương.
(3) Chiếu xạ đối với tổn thương nguyên phát có kích
thước lớn để tăng khả năng phẫu thuật, sau đó phẫu
thuật triệt để. Liều chiếu xạ lên tới 55Gy dùng đồng
thời với flourouracil (5-FU).
(4) Đối với bệnh nhân không dung hợp được với phẫu
thuật cắt âm hộ triệt để hoặc không phù hơp với
phẫu thuật do vị trí hoặc phạm vi của bệnh, liệu
pháp chiếu xạ triệt để có thể cho thời gian sống thêm
dài. Khi liệu pháp chiếu xạ được thử nghiệm để điều
140 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
trị triệt để ban đầu ung thư âm hộ, một số bác sĩ
muốn bổ sung đồng thời 5-FU hoặc 5-FU và
cisplatin. Hội Nghiên cứu Ung thư Phụ khoa đang
nghiên cứu tính khả thi của hóa trị liệu trước phẫu
thuật cộng với tia xạ bổ sung sau phẫu thuật để điều
trị ung thư âm hộ giai đoạn muộn. Bốn thử nghiệm
giai đoạn II kết hợp đồng thời chiếu xạ với 5-FU kèm
theo hoặc không kèm theo cisplatin cho tỷ lệ đáp
ứng hoàn toàn là 53-89% đối với các khối u nguyên
phát không thể cắt bỏ hoặc đối với những bệnh nhân
cần được phẫu thuật cắt bỏ nội tạng. Với thời gian
theo dõi trung bình 37 tháng, hai nghiên cứu công
bố tỷ lệ sống sót không mắc bệnh là 47% đến 84%.
Các biến chứng do phóng xạ như xơ hóa muộn, teo
đét, giãn mao mạch và hoại tử giảm xuống mức tối
thiểu nếu phần liều chiếu xạ từ 180 cGy trở xuống và
không sử dụng tổng liều quá lớn. Nên sử dụng các
liều từ 54Gy tới 65Gy.
Ung thư âm hộ tái phát
Bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ để phát hiện sớm
sự tái phát bệnh. Cách điều trị và tiên lượng phụ thuộc vào
vị trí và phạm vi tái phát. Phẫu thuật cắt triệt để u tái phát
khu trú cho tỷ lệ sống thêm khoảng 5 năm là 56% khi chưa
có tổn thương hạch vùng. Liệu pháp chiếu xạ giảm triệu
chứng được sử dụng cho một số bệnh nhân. Chiếu xạ kết
hợp hoặc không kết hợp với 5-FU có thể chữa khỏi bệnh ở
một số bệnh nhân có khối u nhỏ tái phát tại chỗ. Khi tái phát
UNG THƯ ÂM HỘ 141
tại chỗ xảy ra sau hơn 2 năm điều trị ban đầu, phương pháp
điều trị phối hợp chiếu xạ và phẫu thuật có thể cho tỷ lệ
sống thêm 5 năm là trên 50%.
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
(1) Phẫu thuật cắt rộng tại chỗ kết hợp hoặc không kết
hợp với chiếu xạ cho bệnh nhân tái phát tại chỗ.
(2) Phẫu thuật cắt âm hộ triệt để kết hợp với cắt bỏ nội
tạng trong khung chậu.
(3) Chiếu xạ đồng bộ với sử dụng hóa chất gây độc tế
bào có kèm theo hoặc không kèm theo phẫu thuật.
(4) Không có phương pháp điều trị bằng hóa chất chuẩn
hoặc phương pháp điều trị toàn thân có hiệu quả cho
bệnh nhân di căn. Những bệnh nhân như vậy cần
được xem xét để tham gia vào thử nghiệm lâm sàng
5. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân ung thư âm hộ nên khám theo dõi định kỳ sau
khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan trọng trong
phác đồ điều trị và bệnh nhân nên thảo luận ngay với bác sĩ.
Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bệnh nhân được giám
sát cẩn thận và thảo luận khi có bất kỳ thay đổi nào về sức
khỏe, ung thư mới hoặc ung thư tái phát có thể được phát
hiện và điều trị sớm nhất. Giữa các đợt khám theo dõi định
kỳ, bệnh nhân ung thư âm hộ nên thông báo với bác sĩ tất cả
những vấn đề về sức khỏe ngay khi chúng xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Buồng Trứng
1. Ung thư buồng trứng là gì?
U ác tính xuất hiện từ buồng trứng được gọi là ung thư
buồng trứng. Có một vài loại ung thư buồng trứng. Ung thư
buồng trứng xuất hiện trên bề mặt buồng trứng (ung thư tế
bào biểu mô) là loại phổ biến nhất. Đây là loại ung thư sẽ
được trình bày chi tiết trong bài. Ung thư buồng trứng bắt
đầu từ tế bào sản xuất trứng (u tế bào mầm) và ung thư
buồng trứng bắt đầu ở mô đệm xung quanh buồng trứng (u
mô đệm) là những loại ung thư ít gặp và không được trình
bày trong tập thông tin này.
Tế bào ung thư buồng trứng có thể tách ra khỏi buồng
trứng và lan sang các mô và cơ quan khác trong một quá
trình được gọi là “rụng”. Khi tế bào ung thư buồng trứng
rụng xuống, nó có xu hướng “gieo mầm” (tạo thành những
khối u mới) lên màng bụng và lên cơ hoành. Dịch có thể tích
tụ lại trong ổ bụng. Tình trạng này được gọi là hiện tượng cổ
trướng. Nó có thể làm cho người phụ nữ cảm thấy bị phù nề
hoặc bụng có thể bị trướng lên.
UNG THƯ B UỒNG TR ỨNG 143
Tế bào ung thư buồng trứng cũng có thể đi vào trong
mạch máu hay hệ bạch huyết. Khi đã xâm nhập vào mạch
máu hoặc hệ bạch huyết, tế bào ung thư có thể di chuyển và
tạo nên khối u mới ở những bộ phận khác cuả cơ thể.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư buồng trứng là
gì?
Chúng ta vẫn chưa biết nguyên nhân chính xác gây ra
ung thư buồng trứng. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy
những yếu tố dưới đây có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh:
Tiền sử gia đình. Những người thân có quan hệ gia đình
cấp I (mẹ, con gái, chị hoặc em gái) với người phụ nữ bị ung
thư buồng trứng có nguy cơ bị bệnh cao hơn. Khả năng mắc
bệnh đặc biệt cao nếu có từ hai người thân cấp I trở lên bị
mắc căn bệnh này. Nguy cơ mắc bệnh có phần ít hơn, nhưng
vẫn cao hơn mức trung bình, nếu những người thân khác
(bà, cô, chị em họ) mắc ung thư buồng trứng. Tiền sử gia
đình có ung thư vú hoặc ung thư đại tràng cũng gắn với
tăng nguy cơ ung thư buồng trứng.
Độ tuổi. Nguy cơ mắc ung thư buồng trứng tăng lên khi
người phụ nữ già đi. Hầu hết các trường hợp ung thư buồng
trứng xuất hiện ở những phụ nữ trên 50 tuổi, nguy cơ mắc
bệnh cao nhất là ở những phụ nữ trên 60 tuổi.
Sinh con. Những phụ nữ chưa bao giờ sinh con có vẻ
mắc bệnh nhiều hơn những phụ nữ đã sinh con. Thực tế cho
thấy phụ nữ càng có nhiều con thì nguy cơ mắc bệnh ung
thư buồng trứng càng ít.
144 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Tiền sử cá nhân. Phụ nữ đã bị ung thư vú hoặc đại tràng
có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn những phụ nữ
không bị ung thư vú hay ung thư đại tràng.
Thuốc kích thích sinh sản. Thuốc kích thích rụng trứng
có thể làm tăng nhẹ nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Các
nhà nghiên cứu đang xem xét mối quan hệ có thể này.
Bột tan. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng những phụ nữ sử
dụng bột tan (phấn) ở vùng sinh dục trong nhiều năm có thể
có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
Điều trị hoóc-môn thay thế. Một số bằng chứng cho thấy
phụ nữ sử dụng hoóc-môn sau thời kỳ mãn kinh có nguy cơ
mắc ung thư buồng trứng tăng nhẹ.
3. Ung thư buồng trứng được phát hiện như thế
nào? Triệu chứng của ung thư buồng trứng là gì?
Nếu ung thư buồng trứng được phát hiện và điều trị càng
sớm thì khả năng hồi phục của bệnh nhân càng cao. Nhưng
khó có thể sớm phát hiện ra ung thư buồng trứng. Nhiều
trường hợp, bệnh nhân không có triệu chứng hay chỉ có
những triệu chứng nhẹ cho đến khi bệnh đã ở giai đoạn
muộn. Các nhà khoa học đang nghiên cứu những cách thức
để phát hiện ra ung thư buồng trứng trước khi triệu chứng
lâm sàng xuất hiện. Họ đang nghiên cứu lợi ích của việc định
lượng CA 125, một chất được gọi là chất chỉ điểm khối u, chất
này sẽ xuất hiện với nồng độ cao hơn bình thường trong máu
của những phụ nữ bị ung thư buồng trứng. Họ còn đang
đánh giá hiệu quả của phương pháp siêu âm qua âm đạo,
UNG THƯ B UỒNG TR ỨNG 145
một xét nghiệm giúp phát hiện ung thư buồng trứng ở giai
đoạn sớm.
Nhận biết triệu chứng
Ung thư buồng trứng thường không có dấu hiệu và triệu
chứng rõ ràng cho đến khi nó đã ở giai đoạn muộn. Dấu
hiệu và triệu chứng ung thư buồng trứng có thể bao gồm:
- Khó chịu và/hoặc đau khắp bụng (trướng hơi, không
tiêu, bị đè, trướng lên, phù nề, co thắt).
- Buồn nôn, ỉa lỏng, táo bón hoặc đái rắt.
- Mất cảm giác ngon miệng
- Cảm thấy đầy bụng thậm chí chỉ sau bữa ăn nhẹ
- Tăng hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân
- Ra máu âm đạo bất thường.
Những triệu chứng này có thể do ung thư buồng trứng
hoặc do những bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra. Điều
quan trọng là phải đến bác sĩ kiểm tra khi có những triệu
chứng này.
4. Ung thư buồng trứng được chẩn đoán như thế nào?
Bác sĩ sẽ tiến hành khám lâm sàng và chỉ định các xét
nghiệm chẩn đoán. Một số thăm dò và xét nghiệm chẩn
đoán hữu ích được trình bày dưới đây:
Khám vùng chậu bao gồm khám tử cung, âm đạo, buồng
trứng, ống dẫn trứng, bàng quang và trực tràng để phát hiện
146 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
ra bất thường về hình dạng và kích thước của những bộ
phận này.
Siêu âm là phương pháp sử dụng sóng âm có tần số cao.
Tai người không thể nghe được những sóng âm này. Sóng
âm được hướng vào buồng trứng và dội lại tạo hình ảnh
siêu âm. Mô lành, u nang và khối u biểu hiện khác nhau
trên ảnh siêu âm.
Xét nghiệm CA-125 là một xét nghiệm máu để đo nồng
độ CA-125, một chất chỉ điểm khối u xuất hiện với một
lượng cao hơn bình thường trong máu của những phụ nữ bị
ung thư buồng trứng.
Thụt baryt là phương pháp chụp X quang đại tràng và
trực tràng. Phim được chụp sau khi bệnh nhân được thụt
một dung dịch như phấn trắng có chứa bari. Bari hiển thị
hình ảnh đại tràng và trực tràng trên tia X quang, làm cho
khối u và những khu vực bất thường khác dễ quan sát hơn.
Chụp cắt lớp vi tính là phương pháp sử dụng một máy X
quang nối với máy vi tính để chụp chi tiết những bộ phận
bên trong cơ thể.
Sinh thiết là phương pháp lấy mô để quan sát dưới kính
hiển vi. Bác sĩ giải phẫu bệnh nghiên cứu mô và đưa ra chẩn
đoán. Để lấy được mô tiến hành xét nghiệm, bác sĩ tiến hành
phẫu thuật mở bụng. Nếu nghi bị ung thư, bác sĩ phẫu thuật
tiến hành cắt bỏ buồng trứng. Điều này rất quan trọng, bởi
vì nếu có ung thư, việc lấy một mẫu mô bằng cách cắt xuyên
qua lớp ngoài buồng trứng sẽ cho phép tế bào ung thư thoát
ra và làm bệnh có thể lan đi.
UNG THƯ B UỒNG TR ỨNG 147
Nếu ung thư buồng trứng được chẩn đoán, bác sĩ có thể
muốn biết ung thư đang ở giai đoạn nào. Phân giai đoạn là
một cố gắng để phát hiện ra ung thư đã lan chưa và nếu đã
lan thì lan đến bộ phận nào của cơ thể. Phân giai đoạn có thể
liên quan đến phẫu thuật, X quang và các thăm dò hình ảnh
khác và các xét nghiệm cận lâm sàng. Biết được giai đoạn
của bệnh giúp bác sĩ lập phác đồ điều trị.
5. Ung thư buồng trứng được điều trị như thế nào?
Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Việc điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm giai
đoạn ung thư và tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân.
Bệnh nhân thường được điều trị bởi một đội ngũ các bác sĩ
chuyên khoa. Đội ngũ này bao gồm bác sĩ phụ khoa, bác sĩ
ung thư phụ khoa, bác sĩ ung thư nội khoa và/hoặc bác sĩ tia
xạ ung thư. Nhiều phương pháp điều trị và phối hợp các
phương pháp điều trị được sử dụng để điều trị ung thư
buồng trứng.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị ban đầu thường
được sử dụng để điều trị cho bệnh nhân được chẩn đoán
ung thư buồng trứng. Buồng trứng, vòi dẫn trứng, tử cung
và cổ tử cung thường được cắt bỏ. Phẫu thuật này được gọi
là phẫu thuật cắt tử cung cùng với buồng trứng-vòi dẫn
trứng hai bên. Thôngthường, bác sĩ phẫu thuật còn cắt bỏ
mạc nối và hạch trong ổ bụng.
Phân giai đoạn trong khi phẫu thuật (để phát hiện xem
ung thư đã lan chưa) thường liên quan tới việc vét hạch, lấy
mẫu mô ở cơ hoành và các cơ quan khác trong ổ bụng và
148 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
dịch cổ trướng. Nếu ung thư đã lan, bác sĩ thường cố gắng
cắt bỏ hết tế bào ung thư trong một quá trình gọi là phẫu
thuật cắt bỏ tối đa khối u. Phẫu thuật cắt bỏ tối đa khối u
làm giảm lượng tế bào ung thư phải điều trị sau này bằng
hóa chất hoặc tia phóng xạ.
Hóa trị liệu là dùng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư. Có
thể áp dụng hóa trị liệu để tiêu diệt các tế bào ung thư còn
sót lại trong cơ thể sau khi phẫu thuật, để kiểm soát sự tăng
trưởng của khối u hoặc làm giảm nhẹ triệu chứng của bệnh.
Hầu hết các loại thuốc điều trị ung thư được tiêm vào
tĩnh mạch. Thuốc có thể tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc
qua catheter, một ống mảnh. Đặt ống thông vào một tĩnh
mạch lớn và lưu lại tại chỗ trong thời gian cần thiết. Một số
loại thuốc điều trị ung thư ở dạng viên uống. Dù những loại
thuốc này được tiêm vào tĩnh mạch hay uống cũng đều đi
vào mạch máu và tuần hoàn khắp cơ thể.
Một cách khác để thực hiện hóa trị liệu là đưa thuốc trực
tiếp vào ổ bụng qua một ống thông. Bằng phương pháp này,
được gọi là hóa trị liệu trong phúc mạc, hầu hết các thuốc
được giữ lại trong ổ bụng.
Sau khi hóa trị liệu kết thúc, có thể tiến hành phẫu thuật
xét nghiệm lần hai để quan sát ổ bụng trực tiếp. Bác sĩ phẫu
thuật có thể lấy dịch và mẫu mô để xem thuốc điều trị ung
thư có tác dụng không.
Tia xạ trị liệu, còn được gọi là liệu pháp phóng xạ, là
phương pháp sử dụng tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế
bào ung thư. Tia xạ trị liệu chỉ ảnh hưởng tới tế bào ở vùng
UNG THƯ B UỒNG TR ỨNG 149
chiếu xạ. Tia phóng xạ có thể xuất phát từ một máy (phóng
xạ ngoài). Một số bệnh nhân được điều trị bằng tia phóng xạ
trong màng bụng trong đó dung dịch phóng xạ được đưa
trực tiếp vào ổ bụng qua một ống thông.
Thử nghiệm lâm sàng để đánh giá các phương pháp điều
trị ung thư mới là một lựa chọn điều trị quan trọng cho
nhiều bệnh nhân ung thư buồng trứng. Trong một số nghiên
cứu tất cả bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp mới.
Trong những nghiên cứu khác bác sĩ so sánh các phương
pháp điều trị khác nhau bằng cách áp dụng phương pháp
điều trị mới khả quan cho một nhóm bệnh nhân và phương
pháp điều trị thông thường (phương pháp chuẩn) cho một
nhóm bệnh nhân khác. Qua những nghiên cứu này bác sĩ
tìm ra phương pháp điều trị ung thư mới hiệu quả hơn.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi sau khi điều trị ung thư buồng trứng là rất quan
trọng. Khám định kỳ thường bao gồm khám lâm sàng
chung, khám vùng chậu và nghiệm pháp Pap. Bác sĩ còn tiến
hành các xét nghiệm bổ sung như chụp X quang lồng ngực,
chụp cắt lớp vi tính, phân tích nước tiểu, xét nghiệm công
thức máu và CA-125.
Bên cạnh việc khám theo dõi để phát hiện bệnh tái phát,
bệnh nhân có thể muốn hỏi bác sĩ về việc khám thăm dò để
phát hiện ra các loại ung thư khác. Bệnh nhân ung thư
buồng trứng có nguy cơ ung thư vú và đại tràng cao hơn.
Bên cạnh đó, điều trị bằng một số loại thuốc nhất định có thể
150 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
làm tăng nguy cơ mắc loại ung thư thứ hai, chẳng hạn như
bệnh ung thư tế bào máu.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Trung Mô
1. Ung thư trung mô là gì?
U trung mô ác tính là một loại ung thư tiến triển âm thầm
có tiên lượng xấu và thời gian sống trung bình từ 6 đến 18
tháng. Khối u có nguồn gốc từ mặt trung mô của khoang
màng phổi và phúc mạc, lớp tinh mạc hoặc màng ngoài tim.
2. Ung thư trung mô được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư trung mô là gì?
U trung mô màng phổi
Hiện nay, triệu chứng thường gặp và đáng ngại nhất của
u trung mô màng phổi là khó thở dai dẳng do tràn dịch
màng phổi một bên ồ ạt.
U trung mô phúc mạc
Đây là một dạng u trung mô hiếm gặp và có tần suất cao
hơn ở những công nhân tiếp xúc với amiăng. Đặc điểm lâm
sàng là trướng hơi và đau bụng, cổ trướng, có khối u ở bụng
152 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
hoặc hố chậu và tăng tiểu cầu. Bệnh nhân có u trung mô
phúc mạc có tiên lượng tốt hơn so với bệnh nhân có u trung
mô màng phổi, có thể là do kỹ thuật truyền hóa chất vào
phúc mạc dễ thực hiện hơn, cũng như có thể phẫu thuật
nhiều lần và cắt bớt các khối u ở phúc mạc. Trong nghiên
cứu giai đoạn II của Viện ung thư Dana-Farber, 1/3 trong số
25 bệnh nhân có u trung mô được lựa chọn tham gia vẫn
duy trì được tình trạng không có bệnh sau điều trị 2 -3 năm.
Tuy nhiên, đối với hầu hết bệnh nhân, u trung mô phúc
mạc là một dạng bệnh ác tính âm thầm tại chỗ, rất khó điều
trị hoặc giảm nhẹ triệu chứng.
Các vị trí khác
U trung mô ở lớp tinh mạc hoặc màng ngoài tim cũng
liên quan đến tình trạng tiếp xúc với amiăng. Chưa có liệu
pháp điều trị hiệu quả cho các loại u trung mô này, tiên
lượng bệnh cũng tồi như u trung mô màng phổi.
4. Ung thư trung mô được điều trị như thế nào? Tác
dụng phụ của điều trị là gì?
Các phương thức phẫu thuật
Mặc dù phẫu thuật gây nhiều biến chứng nhưng đây lại
là biện pháp điều trị u trung mô đã có những bước tiến lớn
làm giảm nhẹ những triệu chứng chính của bệnh và kéo dài
thêm cuộc sống cho bệnh nhân. Nội soi lồng ngực ngày càng
phổ biến và làm tăng số lượng bệnh nhân u trung mô được
chẩn đoán sớm, khi còn có khả năng phẫu thuật xâm lấn để
chữa khỏi bệnh.
UNG THƯ TR UNG M Ô 153
Gây dính màng phổi
Hiện nay, triệu chứng thường gặp và đáng ngại nhất của
u trung mô màng phổi là khó thở dai dẳng do tràn dịch
màng phổi một bên ồ ạt. Dẫn lưu toàn bộ dịch (bằng ống
thông hoặc qua nội soi) và đưa một tác nhân kích thích vào
khoang màng phổi để làm dính màng phổi là phương pháp
điều trị triệu chứng thích hợp.
Hiện nay, phức chất thường được dùng nhất để gây dính
màng phổi là bột talc không chứa amiăng vô khuẩn, ở dạng
bột hoặc hơi lỏng. Đưa hợp chất gây dính vào màng phổi
qua nội soi thường hiệu quả hơn so với các phương pháp
gây dính màng phổi khác nhưng khi khối u trong khoang
màng phổi lớn hoặc phổi bị kẹt trong lớp lá tạng của màng
phổi bao quanh khối u thì hiệu quả của phương pháp bị
giảm sút đáng kể.
Cắt màng phổi
Phẫu thuật mở ngực để bóc màng phổi và màng ngoài
tim từ đỉnh phổi đến cơ hoành - tức là cắt lớp lá thành của
màng phổi, có thể làm giảm nguy cơ tràn dịch màng phổi tái
phát ở bệnh nhân có u trung mô màng phổi tốt hơn so với
gây dính màng phổi bằng bột talc. Tuy nhiên, phẫu thuật cắt
màng phổi đơn độc không kéo dài được đời sống. Gần đây,
người ta đã áp dụng phương pháp gây dính màng phổi qua
nội soi lồng ngực và đạt kết quả tương tự với phẫu thuật mở
ngực, nhưng biến chứng ít hơn.
Một số nhà nghiên cứu ở một trung tâm đã đánh giá chế
độ điều trị phối hợp cắt màng phổi thành với liệu pháp đưa
154 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
thuốc vào màng phổi sau phẫu thuật và/hoặc chiếu xạ ngoài.
ở nhóm nghiên cứu gồm 27 bệnh nhân được lựa chọn với
chẩn đoán chủ yếu là u biểu mô, thời gian sống sót trung
điểm là 22,5 tháng và tỷ lệ sống sau 2 năm là 41%. Mặc dù
đây là một nghiên cứu không có đối chứng nhưng các kết
quả thu được tốt hơn so với thông thường khi thời gian sống
trung điểm chỉ từ 6 đến 18 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ sống thêm
không tăng lên khi tiếp tục theo dõi để so sánh nhóm bệnh
nhân được cắt màng phổi với nhóm bệnh nhân được phẫu
thuật cắt phổi ngoài màng phổi.
Cắt phổi ngoài màng phổi
Cắt phổi ngoài màng phổi (EPP) là phẫu thuật triệt để,
trong đó bệnh nhân được cắt toàn bộ một bên phổi cùng với
màng phổi thành và tạng, màng ngoài tim và một đoạn dây
thần kinh hoành và phần lớn một bên cơ hoành. Đây là một
biện pháp hữu hiệu để cải thiện tình trạng khó thở nặng và
khó thở khi thay đổi tư thế ở những bệnh nhân bị rối loạn
trầm trọng quá trình thông khí và tưới máu phổi do khối u
chèn ép, nhưng phương pháp điều trị này không cải thiện
được đáng kể thời gian sống thêm cho bệnh nhân nếu không
có điều trị bổ trợ.
- Một nghiên cứu đánh giá phác đồ phối hợp EPP với hóa
chất dùng lần lượt sau phẫu thuật (doxorubicin,
cyclophosphamid và cisplatin trong 4 đến 6 đợt) và chiếu xạ
bổ trợ sau phẫu thuật với liều lên tới 5500cGy vào một nửa
lồng ngực.
- Một số nghiên cứu khác đánh giá phác đồ sử dụng hóa
chất đưa vào trong khoang hoặc chiếu xạ sau phẫu thuật.
UNG THƯ TR UNG M Ô 155
- Một vài nghiên cứu đánh giá liệu pháp quang động học
sau phẫu thuật kèm theo hoặc không kèm theo hóa
chất/miễn dịch bổ trợ.
Trong các phác đồ nêu trên, EPP được tiến hành với mục
đích làm giảm kích thước khối u chứ không phải để chữa
khỏi bệnh và có tỷ lệ biến chứng đáng kể; tỷ lệ tử vong trong
khi phẫu thuật dao động từ 5% đến 35% tuỳ thuộc vào kinh
nghiệm của trung tâm và tình trạng trước khi mổ của bệnh
nhân. Vì vậy cần lựa chọn kỹ những bệnh nhân được chỉ
định điều trị như vậy.
Những bệnh nhân có thể được điều trị theo các phác đồ
phối hợp như vậy cần phải được đánh giá trước phẫu thuật
đầy đủ, gồm chụp cộng hưởng từ lồng ngực với các trục cắt
dọc theo đường giữa để đánh giá tổn thương ở trung thất và
cơ hoành, đánh giá toàn bộ chức năng phổi thông qua các
hình ảnh lượng giá tình trạng thông khí-tưới máu cho
những bệnh nhân có FEV1 giới hạn và siêu âm tim để đánh
giá tình trạng xâm lấn vào trung thất và đánh giá chức năng
tâm thất (đây là xét nghiệm tối quan trọng trước khi điều trị
bằng anthracyclin). Bệnh nhân trên 55 tuổi có thể không phù
hợp với EPP, ngay cả khi họ đáp ứng được các tiêu chuẩn
khác, lý do là những bệnh nhân cao tuổi hơn có nguy cơ tử
vong trong khi phẫu thuật cao hơn.
Một nhóm nghiên cứu đã chứng minh được thời gian
sống thêm ngắn hạn và dài hạn đều được cải thiện ở những
bệnh nhân có u trung mô được điều trị bằng các phương
thức phối hợp EPP với chiếu xạ và hóa chất bổ trợ.
156 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
- Tỷ lệ tử vong trong khi phẫu thuật là 4% và tỷ lệ có biến
chứng nặng là 24%.
- Tỷ lệ sống sót chung là 36% sau 2 năm và 14% sau 5 năm.
- Tỷ lệ sống sót tương ứng sau 2 năm và 5 năm của bệnh
nhân có u tuýp tế bào biểu mô là 52% và 21%; còn đối với u
dạng sác-côm hoặc hỗn hợp, tỷ lệ này tương ứng là 16% và
0%.
- Tổn thương hạch ngoài màng phổi là một yếu tố tiên
lượng xấu có ý nghĩa: tỷ lệ sống sót tương ứng sau 2 năm
và 5 năm là 42% và 17% khi bệnh chưa lan vào hạch ngoài
màng phổi và 23% và 0% khi bệnh đã lan vào hạch ngoài
màng phổi.
- Bệnh nhân có mép cắt không còn tế bào ung thư có tỷ lệ
sống tương ứng sau 2 năm và 5 năm là 44% và 25%; khi mép
cắt còn tế bào ung thư, tỷ lệ này tương ứng là 33% và 9%.
- Bệnh nhân có u trung mô chưa lan vào hạch trung thất,
không có tế bào ung thư ở mép cắt phổi-màng phổi có tỷ lệ
sống 5 năm khá cao là 46%.
Mặc dù có các kết quả khả quan như vậy, đa số bệnh
nhân bị tái phát ngay cả sau khi được điều trị xâm lấn bằng
chế độ phối hợp ba phương thức. 1/3 số bệnh nhân tái phát
một bên lồng ngực, 1/3 tái phát ở ổ bụng, hiếm có di căn xa.
Chiếu xạ
Chiếu xạ nhằm làm giảm triệu chứng khi toàn bộ bề mặt
màng phổi bị tổn thương rất khó thực hiện về mặt kỹ thuật
và thường gây viêm phổi, viêm tuỷ xương, viêm gan và
UNG THƯ TR UNG M Ô 157
viêm cơ tim do chiếu xạ. U trung mô nhạy cảm với tia xạ
hơn ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, nhưng kém nhạy
cảm với tia hơn so với ung thư biểu mô tế bào nhỏ. Chiếu xạ
là phương pháp điều trị giảm triệu chứng tại chỗ có hiệu
quả cho 50% bệnh nhân.
Một số nghiên cứu đơn lẻ đã thông báo về khả năng kéo
dài thời gian sống thêm sau chiếu xạ ngoài liều cao và cả khi
đưa đồng vị phóng xạ vào trong màng phổi. Phần lớn các
nghiên cứu không thấy tỷ lệ sống nói chung tăng rõ rệt. Tuy
nhiên, chiếu xạ có thể phòng ngừa tái phát ở thành ngực sau
nội soi lồng ngực hoặc mở lồng ngực và giúp cho việc kiểm
soát tại chỗ được hiệu quả hơn sau cắt màng phổi hoặc cắt
phổi ngoài màng phổi.
Hóa chất
Mặc dù đã có nhiều thử nghiệm đơn hóa chất và đa hóa
chất cho bệnh nhân u trung mô tiến hành trong hai thập kỷ
vừa qua, nhưng hiện nay chưa có chế độ điều trị nào thật sự
ưu việt để sử dụng đầu tay cho căn bệnh này. Hóa chất đơn
độc cho tỷ lệ đáp ứng thấp, dao động từ 0 đến 20%.
Doxorubicin là hóa chất cho tỷ lệ đáp ứng cao nhất, những
thuốc khác như methotrexat, cisplatin và ifosfamid có ít hiệu
quả. Một nghiên cứu dùng vinorelbin đơn độc
(30mg/m2/tuần) thấy tỷ lệ đáp ứng 24% trong số 29 bệnh nhân.
Liệu pháp đa hóa chất
- Một số phác đồ dùng đa hóa chất có tác dụng không
đáng kể đối với u trung mô giai đoạn muộn:
158 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
- Một nghiên cứu trên 47 bệnh nhân có u trung mô ác tính
(41 bệnh nhân u trung mô màng phổi và 6 bệnh nhân u
trung mô phúc mạc) dùng doxorubicin phối hợp cisplatin
thấy tỷ lệ đáp ứng là 83%
- Một phân tích hồi cứu 17 bệnh nhân không phẫu thuật
được do bệnh xâm lấn tại chỗ hoặc tình trạng chung xấu để
đánh giá hiệu quả của methotrexat phối hợp vinblastin, kèm
theo hoặc không kèm theo cisplatin; tỷ lệ đáp ứng là 53% và
tỷ lệ sống sót đối chiếu sau 2 năm là 35%. Trong số 11 bệnh
nhân được điều trị bằng cả ba loại thuốc, 8 bệnh nhân (73%)
có đáp ứng.
- Trong một nghiên cứu khác, 21 bệnh nhân có u trung
mô giai đoạn muộn được điều trị bằng cisplatin và
gemcitabin. 10 bệnh nhân có đáp ứng một phần và trung
điểm của giai đoạn đáp ứng là 25 tuần. 90% số bệnh nhân
đáp ứng cải thiện đáng kể các triệu chứng lâm sàng.
- Mười lăm bệnh nhân có u trung mô màng phổi chưa
được điều trị trước đó dùng phối hợp cisplatin và irinotecan.
4 trường hợp có đáp ứng một phần với trung điểm của giai
đoạn đáp ứng là 26 tuần, 39% bệnh nhân còn sống sau 1 năm.
- Phác đồ phối hợp cisplatin, fluorouracil, mitomycin và
etoposid được đánh giá ở 45 bệnh nhân có u trung mô giai
đoạn II. 17 bệnh nhân (38%) có đáp ứng một phần và trung
điểm của giai đoạn đáp ứng là 12 tháng.
- Theo các nghiên cứu sơ bộ phác đồ phối hợp
raltitrexed và oxaliplatin có thể có hiệu quả ở bệnh nhân u
trung mô giai đoạn muộn. Trong một thử nghiệm phối
UNG THƯ TR UNG M Ô 159
hợp giai đoạn I/II có raltitrexed, 15/47 bệnh nhân (32%) có
đáp ứng một phần.
- Một nghiên cứu trên 24 bệnh nhân có u trung mô giai
đoạn muộn dùng methotrexat liều cao phối hợp với
interferon alpha và interferon gamma. Bảy bệnh nhân (29%)
có đáp ứng một phần và tỷ lệ sống sót tương ứng sau một
năm và 2 năm là 62% và 31%.
Liệu pháp miễn dịch
Việc sử dụng chất kích thích đáp ứng miễn dịch kháng
ung thư trong u màng phổi xuất phát từ quan sát thấy
những bệnh nhân bị viêm mủ màng phổi sau mở lồng ngực
để điều trị ung thư biểu mô phổi nguyên phát có tỷ lệ sống
sót cao hơn. Tiếp theo đã có những nghiên cứu về vai trò
của việc tiêm BCG vào trong màng phổi để bổ trợ cho phẫu
thuật, nhưng không thấy có tác dụng đáng kể. Một số dạng
liệu pháp miễn dịch toàn thân đã được áp dụng cho những
bệnh nhân có u trung mô, trong đó có interleukin-2 (IL-2) và
interferon-gamma (IFN-gamma), cả hai tác nhân này có hiệu
quả hạn chế và có nhiều tác dụng phụ. Tiêm IFN-alpha-2a
dưới da có một số tác dụng - một bệnh nhân có đáp ứng
hoàn toàn và ba bệnh nhân có đáp ứng một phần trong số 25
bệnh nhân được nghiên cứu và được dung nạp tốt.
Một số trường hợp bệnh nhân u trung mô có đáp ứng rõ
rệt với việc đưa vào trong khoang màng phổi các thuốc kích
thích đáp ứng miễn dịch như GM-CSF, IL-2 và IFN-gamma.
Các bệnh nhân có u trung mô giai đoạn sớm (giai đoạn I và II
160 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
theo Butchard) cho kết quả ấn tượng nhất khi dùng IFN-
gamma.
- 89 bệnh nhân được điều trị trên 46 tháng với tỷ lệ đáp
ứng chung là 20%.
- 8 bệnh nhân (9%) có đáp ứng hoàn toàn trên mô học và
9 bệnh nhân (10%) có đáp ứng một phần và kích thước khối
u giảm hơn 50%.
- Nhìn chung, bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn I có tỷ lệ
đáp ứng là 45%.
Những thử nghiệm về liệu pháp miễn dịch mới ở
Australia nhận thấy có sự thuyên giảm bệnh đáng kể khi
tiêm GM-CSF trực tiếp vào khối u lặp đi lặp lại.
Ranpirnase
Ranpirnase là một ribonuclease chống ung thư bào chế
từ trứng cóc và có hoạt tính đối với u trung mô. Theo một
báo cáo sơ bộ, 157 bệnh nhân giai đoạn muộn được chỉ định
ngẫu nhiên hoặc vào nhóm được điều trị bằng ranpirnase
(480 mg/m2 tĩnh mạch hàng tuần) hoặc vào nhóm dùng
doxorubicin (60 mg/m2 tĩnh mạch ba tuần một lần). Mặc dù
không có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ sống trung bình, tỷ lệ
sống thêm một năm và hai năm giữa hai nhóm, nhưng bệnh
nhân ở hai nhóm không tương đồng nhau. Nhóm điều trị
bằng ranpirnase có số bệnh nhân có tiên lượng xấu nhiều
gấp đôi so với nhóm điều trị bằng doxorubicin. Khi phân
tích các dưới nhóm đã được loại trừ những bệnh nhân có
tiên lượng xấu, thời gian sống sót trung bình ở nhóm điều trị
UNG THƯ TR UNG M Ô 161
bằng ranpirnase dài hơn một cách đáng kể so với nhóm điều
trị bằng doxorubicin (11,6 tháng so với 9,6 tháng).
Lovastatin
Các số liệu sơ bộ cho thấy lovastatin-một chất ức chế cạnh
tranh với enzym khử hydrôxymethylglutaryl CoA được
dùng để điều trị tăng cholesterol máu, có thể có tác dụng
diệt tế bào ung thư đối với tế bào u trung mô. Trong một
nghiên cứu, người ta nhận thấy nồng độ dược lý học của
thuốc có hoạt tính gây chết tế bào ở các dòng tế bào trung
mô trơ với các tác nhân khác. Tác dụng này không liên quan
đến quá trình tổng hợp cholesterol mà có thể là do tương tác
với quá trình sản xuất và chức năng của các protein điều hòa
tăng trưởng. Các đáp ứng đáng khích lệ in vitro này còn
đang cần được xác nhận trên lâm sàng.
Gen trị liệu
Các nhà nghiên cứu ở Trung tâm y tế của Viện đại học
Pensylvania hiện đang tiến hành một thử nghiệm lâm sàng
giai đoạn I về gen trị liệu trong điều trị u trung mô ác tính.
Đây là một thử nghiệm đầu tiên về gen trị liệu được Hoa Kỳ
thông qua để điều trị mọi loại ung thư ngay từ đầu. Phương
thức điều trị này được tiến hành bằng cách nhỏ vào trong
màng phổi adenovirút tái tổ hợp được sao chép thiếu (rAd)
và đã được chế biến về mặt gen để mang gen thymidine
kinase của virút herpes simplex (HSVtk).
Người ta hi vọng rằng phương thức này sẽ mang lại các
tác dụng dưới đây:
162 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
- Đưa AdHSVtk vào trong khoang màng phổi của bệnh
nhân có u trung mô sẽ tải nạp các tế bào ung thư, cho phép
chúng trình diện tk của virút và làm các tế bào này trở nên rất
nhạy cảm với ganciclovir (GCV) là thuốc chống virút không
độc.
- Tk của virút, không giống các enzym kinases của loài
động vật có vú, có thể xúc tác thúc đẩy giai đoạn hạn chế
tốc độ sản xuất GCV-triphosphate (GCV-PPP) - một độc tố
tế bào mạnh có tác dụng ức chế chức năng của enzym
polymerase DNA.
- Cái gọi là “tác dụng của người quan sát” có thể cho phép
GCV-PPP và các chất chuyển hóa độc hại khác đi qua khoảng
trống liên kết giữa tế bào ung thư đã tải nạp và không tải nạp.
Phương pháp điều trị này có thể loại bỏ thành công các u
trung mô đã hình thành trên một số mô hình súc vật. 21
bệnh nhân đã được điều trị thành công trong nghiên cứu
giai đoạn I với tác dụng phụ ở mức tối thiểu và một số dấu
hiệu chuyển đổi gen tk rõ ràng.
Một phương thức điều trị tương tự đang được nghiên
cứu ở Viện Đại học bang Lousiana. Các nhà nghiên cứu
dùng tế bào ung thư buồng trứng đã được biến đổi gen (có
mang HSF -TK) và tiếp đó là dùng ganciclovir toàn thân.
Các phương thức gen trị liệu khác trong điều trị u trung
mô hiện đang được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
khác bao gồm:
- Virút vaccinia tạo IL-2 tiêm trực tiếp vào khối u.
UNG THƯ TR UNG M Ô 163
- U trung mô đi kèm với một loạt bất thường của các gen
ức chế khối u. Người ta đang tiến hành nghiên cứu các
phương thức gen trị liệu nhằm vào các bất thường này. Ví
dụ, một Ad tái tổ hợp có mang gen p53 nguyên gốc có thể
tải nạp các tế bào u trung mô, làm cho p53 nguyên gốc bị
trình diện quá mức và gây chết tế bào theo chương trình.
Người ta cũng mô tả một phương thức điều trị tương tự
dùng sự chuyển đổi gen Bak (môt thành viên của gia đình
Bcl-2) qua trung gian adenovirút để làm cho các dòng tế bào
u trung mô bị chết theo chương trình.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân U trung mô nên khám theo dõi định kỳ sau
khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan trọng trong
phác đồ điều trị và bệnh nhân nên thảo luận ngay với bác sĩ.
Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bệnh nhân được giám
sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào về sức khỏe cũng được
thảo luận, ung thư mới hoặc ung thư tái phát có thể được
phát hiện và điều trị sớm nhất. Giữa các đợt khám theo dõi
định kỳ, bệnh nhân bị khối u trung mô nên thông báo với
bác sĩ về tất cả những vấn đề sức khỏe ngay khi chúng xuất
hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Sác-Côm Mô Mềm
1. Sác-côm mô mềm là gì?
Sác-côm mô mềm là các u ác tính có thể xuất hiện ở tất cả
các mô có nguồn gốc từ lớp lá phôi giữa ở chi (50%), thân và
khoang sau phúc mạc (40%) hoặc là vùng đầu cổ (10%).
Hiếm khi những khối u này xuất hiện ở ống tiêu hóa hoặc
mô đệm của ống tiêu hóa, một phần nhỏ của các khối u này
còn được gọi là u mô đệm ống tiêu hóa. Các khối u ác tính
của mô đệm ống tiêu hóa có thể xuất hiện từ thực quản tới
trực tràng, nhưng thường gặp nhất là ở dạ dày và ruột non.
Sác-côm mô mềm xuất hiện với tần suất cao hơn ở những
bệnh nhân có bệnh Recklinghausen (u xơ thần kinh), hội
chứng Gardner, hội chứng Werner, xơ não đa u, hội chứng
nevus tế bào đáy và hội chứng Li-Fraumeni (đột biến gen
p53).
2. Các yếu tố nguy cơ và tiên lượng của Sác-côm mô mềm là gì?
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 165
Tiên lượng của các bệnh nhân sác-côm mô mềm người lớn
phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm độ tuổi của bệnh nhân
và kích thước, cấp độ theo mô học và giai đoạn của khối u.
Tuổi trên 60, khối u trên 5cm, u có cấp độ theo mô học cao có
tiên lượng tồi hơn. Các khối u có cấp độ theo mô học thấp
thường có thể chữa khỏi bằng phẫu thuật đơn độc; bệnh nhân
sác-côm ở cấp độ cao hơn (được xác định dựa trên chỉ số gián
phân và hiện tượng xuất huyết và hoại tử) có tỷ lệ thất bại và
khả năng di căn cao hơn nếu chỉ điều trị tại chỗ. Trong chừng
mực có thể, việc phẫu thuật cắt rộng đến mép mô lành nhưng
bảo tồn được chức năng của bộ phận là mấu chốt để điều trị
có hiệu quả. Phương pháp phẫu thuật Mohs có thể là một
cách khác ngoài cách phẫu thuật cắt rộng ra mép khối u và
được dành cho các sác-côm kích thước nhỏ và biệt hóa cao,
khi yêu cầu về thẩm mỹ là quan trọng; vì phương pháp này
đảm bảo mô lành có trong mép cắt là ít nhất. Sác-côm mô
mềm cấp độ cao ở chi có thể được điều trị hiệu quả mà vẫn
bảo tồn được các chi bằng phương pháp điều trị kết hợp việc
chiếu xạ trước hoặc sau khi phẫu thuật để giảm khả năng tái
phát tại chỗ. Ở người lớn có thể kiểm soát tại chỗ sác-côm mô
mềm cấp độ cao ở thân và vùng đầu cổ bằng phẫu thuật,
thường kết hợp với chiếu xạ, có thể kèm theo hoặc không
kèm theo hóa trị liệu. Để điều trị hiệu quả sác-côm sau phúc
mạc cần phải cắt bỏ khối u trên đại thể trong khi đó vẫn phải
giữ lại các cơ quan nội tạng kề cận chưa bị khối u xâm lấn.
Tiên lượng của bệnh nhân sác-côm sau phúc mạc cấp độ cao
tồi hơn so với các khối u như vậy ở những vị trí khác, một
phần là do khó cắt bỏ được hoàn toàn những khối u này và
hạn chế khi chiếu xạ với liều cao. Phẫu thuật là phương pháp
166 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
điều trị hiệu quả nhất cho bệnh nhân u mô đệm ống tiêu hóa.
Đối với những bệnh nhân này các bằng chứng ban đầu cho
thấy imatinib mesylate - một chất ức chế tyrosine kinase mới,
có thể có tác dụng lên các khối u còn lại ở những bệnh nhân
có khối u không thể cắt bỏ được hoặc đã di căn.
Một số thử nghiệm tiến cứu ngẫu nhiên không xác định
được chắc chắn rằng liệu điều trị hóa chất bổ trợ bằng
doxorubicin có hiệu quả với bệnh nhân sác-côm mô mềm dã
được cắt bỏ hay không. Đa số các nghiên cứu này được tiến
hành trên một số ít bệnh nhân nên không chứng minh được
tác dụng của hóa trị liệu bổ trợ đối với thời gian sống thêm
không có bệnh và thời gian sống thêm nói chung của bệnh
nhân. Có một nghiên cứu nhỏ cho thấy hóa trị liệu bổ trợ
sau phẫu thuật có thể có những tác dụng có lợi này. Có sự
khác nhau lớn giữa các thử nghiệm, bao gồm sự khác nhau
về chế độ điều trị, liều lượng thuốc, cỡ mẫu nghiên cứu, vị
trí khối u và cấp độ khối u theo mô học. Phân tích về số
lượng các dữ liệu thu được từ 1568 bệnh nhân trong 14 thử
nghiệm dùng doxorubicin cho hóa trị liệu bổ trợ đã thấy
rằng hiệu quả tuyệt đối của liệu pháp bổ trợ là tăng khoảng
thời gian không bị tái phát bệnh tại chỗ lên 6% (khoảng tin
cậy (CI) 95% là 1-10), tăng khoảng thời gian không tái phát
bệnh ở xa lên 10% (95% CI là 5-15) và tăng khoảng thời gian
sống sót không bị tái phát bệnh lên 10% (95% CI là 5-15).
Tuy nhiên, phương pháp điều trị này tỏ ra không tác động
tới tỷ lệ sống sót nói chung sau 10 năm. Bệnh nhân có khối u
cấp độ cao (độ 3 hoặc 4) với đường kính lớn hơn 5cm có khả
năng di căn cao nhất và vì vậy nên tham gia vào các thử
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 167
nghiệm lâm sàng nghiên cứu triển vọng của việc điều trị
bằng hóa chất bổ trợ.
Với các di căn xa (giai đoạn IV), phẫu thuật nhằm chữa
khỏi bệnh có thể thực hiện được cho một số bệnh nhân bị di
căn phổi, những bệnh nhân như vậy có thể đã hoặc đang
được thực hiện phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn khối u nguyên
phát (ví dụ, bệnh nhân có số lượng u di căn ít, khoảng thời
gian sống thêm không có bệnh dài,và khối u phát triển chậm
trên lâm sàng). Điều trị bằng doxorubicin đơn độc hoặc kết
hợp với dacarbazin được coi là chế độ điều trị bằng hóa chất
tốt nhất cho bệnh nhân sác-côm giai đoạn muộn. Một thử
nghiệm ngẫu nhiên được tiến hành trên 340 bệnh nhân sác-
côm giai đoạn muộn cho thấy bệnh nhân có tỷ lệ đáp ứng cao
hơn (32% so với 17%, p<0,002) và khoảng thời gian tiến triển
bệnh dài hơn (6 tháng so với 4 tháng, p<0,02) khi điều trị theo
chế độ thuốc bao gồm doxorubicin, dacarbazin, ifosfamid và
mesna (MAID) so với điều trị đơn độc bằng doxorubicin và
dacarbazin. Mức tăng tỷ lệ đáp ứng của phác đồ MAID có thể
bị thay đổi nếu điều trị trước mổ cho những bệnh nhân trẻ
tuổi hơn và có khối u mà mép có thể cắt bỏ được, nhưng do
tác dụng độc cao hơn nên không áp dụng phác đồ điều trị
này với các bệnh nhân có tuổi. Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn
thường khó thực hiện với bệnh nhân sác-côm sau phúc mạc
do kích thước đã lớn trước khi phát hiện ra và vị trí giải phẫu
của khối u. Các thử nghiệm lâm sàng tiến cứu ngẫu nhiên
không đưa ra được kết luận chắc chắn về khả năng cải thiện
thời gian sống sót khi điều trị bổ trợ bằng hóa chất trước hoặc
sau phẫu thuật đối với nhóm bệnh nhân này.
168 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
3. Sác-côm mô mềm được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của Sác-côm mô mềm là gì?
Triệu chứng của sác-côm mô mềm nghèo nàn. Khối u
thường xuất hiện ở dưới da hoặc trong cơ ở giai đoạn sớm
nhầm với u lành tính. Sau đó khối u phát triển rộng xâm lấn tổ
chức xung quanh, có thể vỡ loét gây chảy máu, nhiễm trùng.
Sác-côm mô mềm được phân loại theo mô học dựa vào
nguồn gốc tế bào mô mềm mặc dù loại tế bào không thuộc
vào hệ thống tiên lượng theo giai đoạn. Các nghiên cứu bổ
sung, như hiển vi điện tử, hóa mô, đếm dòng tế bào, di
truyền học tế bào và các nghiên cứu nuôi cấy mô cho phép
nhận dạng một số dưới loại đặc hiệu trong các loại chính
theo mô học. Cấp độ về mô học phản ánh khả năng di căn
của những khối u này chính xác hơn so với việc phân loại tế
bào kinh điển được liệt kê dưới đây. Về tổng thể, u sợi mô
bào ác tính là loại ung thư thường gặp nhất theo phân loại
mô học (chiếm 40%), tiếp đến là sác-côm mô mỡ (25%), tuy
nhiên tần suất theo loại mô học phụ thuộc vào vị trí. Các nhà
giải phẫu bệnh học phân cấp khối u theo số lượng gián phân
trên một vi trường năng lượng cao, sự có mặt của hiện
tượng hoại tử, hình thái tế bào và nhân và mức độ về số
lượng tế bào; sự khác biệt ý kiến giữa các nhà giải phẫu
bệnh học có thể lên tới 40% khi kiểm tra lại về sau.
U mô đệm ống tiêu hóa có nguồn gốc trung mô và
thường được phân biệt với sác-côm cơ trơn, u tế bào Schwan
và sác-côm sợi bằng kỹ thuật hóa miễn dịch mô. Chúng có
thể được phân biệt dựa vào sự có mặt của CD34 và CD117.
Những khối u này trình diện thụ thể của yếu tố tăng trưởng
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 169
có hoạt tính của tyrosine kinase được gọi là c-kit (CD117).
Các u mô đệm ở thành dạ dày được coi là ác tính khi chúng
có đường kính từ 5-10cm, có chỉ số gián phân cao hoặc đã di
căn. Các u mô đệm ở ruột non được coi là ác tính nếu chúng
có bất kỳ một gián phân nào hoặc có đường kính hơn 2cm.
Các bằng chứng hiện nay cho thấy đột biến c-kit thường
được phát hiện ra ở các u mô đệm ác tính hơn là ở các u lành
tính. Cũng cần lưu ý là các u mô đệm ác tính thường có
CD34 dương tính.
Sác-côm mô mềm dạng nang
Sác-côm mạch
Sác-côm lồi dạng sợi ngoài da
Sác-côm dạng biểu mô
Sác-côm sụn ngoài khung xương
Sác-côm xương ngoài khung xương
Sác-côm sợi
U mô đệm ống tiêu hóa
Sác-côm cơ trơn
Sác-côm mô mỡ
U sợi mô bào ác tính
U tế bào quanh mao mạch ác tính
U trung mô ác tính
U tế bào Schwan ác tính
170 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
U bao thần kinh ngoại vi ác tính
U ngoại bì thần kinh ngoại vi
Sác-côm cơ vân
Sác-côm bao hoạt dịch
Sác-côm khác
4. Sác-côm mô mềm được chẩn đoán như thế nào?
Chuẩn đoán và phân giai đoạn có vai trò quan trọng trong
việc chọn lựa phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho sác-côm
mô mềm. Giai đoạn được xác định dựa vào kích thước khối u,
cấp độ theo mô học và việc tế bào ung thư đã lan sang hạch
hoặc các vị trí xa hay chưa. Việc sác-côm ở chi lan vào bên
trong hoặc bên ngoài các khoang cơ thể cũng quan trọng để
giúp quyết định phẫu thuật. Để xác định giai đoạn một cách
đầy đủ cần phải tiến hành khám lâm sàng kỹ càng, chụp X-
quang, xét nghiệm cận lâm sàng và nghiên cứu kỹ các tiêu bản
sinh thiết (kể cả những tiêu bản lấy từ khối u nguyên phát, các
hạch hoặc từ các tổn thương đáng ngờ khác). Bệnh nhân nên
được chỉ định chụp cắt lớp vi tính lồng ngục nếu sác-côm có
đường kính trên 5cm (T2) hoặc có độ biệt hóa vừa đến thấp (độ
2-4). Di căn hạch hiếm gặp, chỉ gặp ở dưới 3% bệnh nhân bị
sác-côm.
Uỷ ban liên kết của Hoa kỳ về ung thư đã đưa ra 4 tiêu
chí để phân giai đoạn: kích thước khối u, tình trạng hạch,
cấp độ và di căn (TNGM).
Các định nghĩa cấp độ và TNM
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 171
Cấp độ khối u (G)
GX: Độ biệt hóa không thể xác định được
G1: Biệt hóa cao
G2: Biệt hóa vừa
G3: Biệt hóa thấp
G4: Không biệt hóa
Khối u nguyên phát (T)
TX: Không đánh giá được khối u nguyên phát
T0: Không có bằng chứng của u nguyên phát
T1: U có đường kính lớn nhất dưới 5cm
T1a: U nông
T1b: U sâu
T2: U có đường kính lớn nhất trên 5cm
T2a: U nông
T2b: U sâu
Chú ý: U nông chỉ khu trú ở bên trên lớp bề mặt và
không xâm lấn vào lớp này; khối u sâu hoặc nằm hoàn toàn
dưới lớp bề mặt hoặc nằm bên trên nhưng có xâm lấn hoặc
xuyên qua lớp này hoặc nằm cả phía trên và phía dưới lớp
bề mặt. Các sác-côm sau phúc mạc, trong trung thất và trong
hố chậu được phân loại là u sâu.
Hạch bạch huyết vùng (N)
NX: Không xác định được hạch vùng
172 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
N0: Không có di căn vào hạch vùng
N1: Có di căn vào hạch vùng
Di căn xa (M)
MX: Không xác định được di căn xa
M0: Không có di căn xa
M1: Có di căn xa
Giai đoạn IA
U cấp độ thấp, nhỏ, nông và sâu.
G1, T1a, N0, M0
G1, T1b, N0, M0
G2, T1a, N0, M0
G2, T1b, N0, M0
Giai đoạn IB
U cấp độ thấp, to và nông.
G1, T2a, N0, M0
G2, T2a, N0, M0
Giai đoạn IIA
U cấp độ thấp, to và sâu.
G1, T2b, N0, M0
G2, T2b, N0, M0
Giai đoạn IIB
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 173
U cấp độ cao, nhỏ, nông và sâu.
G3, T1a, N0, M0
G3, T1b, N0, M0
G4, T1a, N0, M0
G4, T1b, N0,M0
Giai đoạn IIC
U cấp độ cao, to và nông.
G3, T2a, N0, M0
G4, T2a, N0, M0
Giai đoạn III
U cấp độ cao, to và sâu
G3, T2b, N0, M0
G4, T2b, N0, M0
Giai đoạn IV
Bất kỳ di căn nào vào hạch hoặc di căn xa.
G bất kỳ, T bất kỳ, N1, M0
G bất kỳ, T bất kỳ, N0, M1
5. Sác-côm mô mềm được điều trị như thế nào ? Tác dụng phụ của điều trị là gì ?
Sác-côm mô mềm người lớn giai đoạn IA, IB và IIA
Cấp độ thấp
174 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Sác-côm mô mềm cấp độ thấp (cấp 1 hoặc 2) ít có khả
năng bị di căn, nhưng chúng có thể tái phát tại chỗ nếu
không được điều trị phù hợp. Do đó, lựa chọn điều trị cho
những bệnh nhân bị sác-côm giai đoạn sớm là cắt bỏ khối
u ra ngoài mép mô lành ít nhất là 2 cm về mọi hướng. Đối
với các khối u không thể cắt bỏ được hay những khối u đã
cắt bỏ nhưng nghi ngờ có nhiều khả năng còn sót mô ung
thư (chẳng hạn khi mép mô chỉ cắt được dưới 2cm, hay khi
đáng lẽ cần phải cắt mép rộng hơn nhưng điều này đòi hỏi
phải cắt cụt chi hay cắt bỏ một cơ quan sống quan trọng)
có thể sử dụng tia phóng xạ với liều cao một cách thận
trọng với kỹ thuật chiếu lên trường thu hẹp. Do khả năng
di căn của những khối u này thấp nên thường không chỉ
định hóa trị liệu. Kỹ thuật phẫu thuật Mohs có thể là
phương pháp thay thế cho phẫu thuật cắt rộng ra mép mô
lành dành cho các u sác-côm nhỏ, biệt hóa cao, khi yêu cầu
thẩm Mỹ là rất quan trọng bởi có thể bảo đảm mép cắt có
lượng mô lành ít nhất.
Các lựa chọn điều trị
(5) Phẫu thuật cắt ra mép mô lành khoảng vài cm theo
mọi hướng
(6) Phẫu thuật bảo tồn kết hợp với chiếu xạ trước hoặc
sau khi phẫu thuật.
(7) Đối với khối u không thể cắt bỏ được có thể chiếu xạ
liều cao trước phẫu thuật, tiếp đến là phẫu thuật và
chiếu xạ sau phẫu thuật.
(8) Đối với khối u ở sau phúc mạc, thân và vùng đầu cổ:
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 175
− Phẫu thuật kết hợp với chiếu xạ sau phẫu thuật nếu
không cắt bỏ được khối u đến mép mô lành. Phẫu
thuật cắt rộng mép mô thường ít áp dụng cho các
khối u ở những vị trí này và tia xạ thường được chỉ
định cho những khối u có vị trí nguyên phát ở thân
và vùng đầu cổ.
− Chiếu xạ trước khi phẫu thuật, tiếp theo là phẫu thuật
cắt bỏ tối đa. Chiếu xạ thường được chỉ định để tăng
tối đa khả năng kiểm soát tại chỗ do không thể cắt
rộng mép mô được.
Sác-côm mô mềm giai đoạn IIB, IIC và III
Cấp độ cao, không có di căn hạch hoặc di căn xa
Sác-côm mô mềm khu trú cấp độ cao có khả năng di căn
cao hơn. Đối với sác-côm ở chi, phẫu thuật bảo tồn chi gồm
cắt rộng tại chỗ phối hợp chiếu xạ trước hoặc sau phẫu thuật
và trong một số trường hợp kèm theo hóa chất có thể cho kết
quả tại chỗ tương tự như phẫu thuật cắt cụt chi.
Một số các thử nghiệm tiến cứu ngẫu nhiên không thể
khẳng định chắc chắn được lợi ích của hóa trị liệu bổ trợ
bằng doxorubicin đối với các u sác-côm mô mềm người lớn
đã được cắt bỏ. Đa số các nghiên cứu này được tiến hành
trên một số ít bệnh nhân và không chứng minh được tác
dụng của hóa trị liệu bổ trợ trong việc kéo dài thời gian
không di căn và thời gian sống thêm nói chung. Có nhiều
khác biệt trong các nghiên cứu, như khác biệt về chế độ điều
trị, liều lượng thuốc, cỡ mẫu nghiên cứu, vị trí khối u và cấp
độ theo mô học. Một phân tích về lượng các dữ liệu thu
176 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
được từ 1568 bệnh nhân trong 14 thử nghiệm dùng
doxorubicin để điều trị bổ trợ cho thấy hiệu quả tuyệt đối
của liệu pháp bổ trợ là tăng 6% thời gian không tái phát
bệnh tại chỗ (khoảng tin cậy 95% là 1-10), tăng 10% thời gian
không tái phát bệnh ở các vị trí xa (khoảng tin cậy 95% là 5-
15) và tăng 10% thời gian sống thêm không tái phát bệnh
(khoảng tin cậy 95% là 5-15). Tuy nhiên, phương pháp điều
trị này không cải thiện thời gian sống thêm nói chung sau 10
năm. Bệnh nhân có khối u cấp độ cao (độ 3 hoặc 4) với
đường kính trên 5cm có nguy cơ di căn cao nhất và nên
tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng nghiên cứu triển
vọng điều trị của hóa chất bổ trợ.
Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u thường khó thực hiện với
các u sác-côm sau phúc mạc do kích thước khi phát hiện ra đã
lớn và vị trí giải phẫu của khối u. Trái với sác-côm mô mềm ở
đầu chi, tái phát tại chỗ là nguyên nhân gây tử vong chủ yếu
nhất ở những bệnh nhân có u sác-côm mô mềm sau phúc
mạc. Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u là yếu tố quan trọng
nhất để ngăn chặn tái phát tại chỗ, trong nhiều trường hợp
cần phải cắt bỏ các cơ quan nội tạng kế cận. Các thử nghiệm
lâm sàng tiến cứu ngẫu nhiên không cho thấy tác dụng kéo
dài thời gian sống thêm khi điều trị bằng hóa chất bổ trợ
trước và sau phẫu thuật đối với tiểu nhóm bệnh nhân này.
Các lựa chọn điều trị:
(1) Phẫu thuật cắt ra mép mô lành vài cm theo mọi hướng.
(2) Nếu khối u có đường kính trên 5cm cần chiếu xạ bổ sung
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 177
(3) Nếu khối u không thể cắt bỏ thì có thể chiếu xạ liều
cao nhưng khả năng kiểm soát tại chỗ có thể tồi.
(4) Trong một số trường hợp có thể chiếu xạ và trong
một số trường hợp có thể sử dụng hóa chất trước khi
phẫu thuật để chuyển khối u ác tính cần cắt bỏ đến
mép mô thành khối u có thể cắt bỏ một cách hợp lý
mà vẫn bảo tồn được chi; Sau phẫu thuật có thể chiếu
xạ.
Sác-côm mô mềm người lớn giai đoạn IV
Di căn hạch
Sác-côm giai đoạn IV là những khối u đã di căn vào các
hạch vùng hoặc đã lan sang các cơ quan ở xa. Loại sác-côm
mô mềm có khuynh hướng lan vào hạch bao gồm sác-côm tế
bào hoạt dịch, sác-côm dạng biểu mô và sác-côm cơ vân. Đối
với sác-côm giai đoạn IV, việc kiểm soát khối u nguyên phát
tại chỗ có lẽ là nhờ phẫu thuật cắt bỏ u đến mép mô lành,
vét hạch khi thích hợp và chiếu xạ ngoài sau phẫu thuật. Đối
với u mô đệm ống tiêu hóa các bằng chứng ban đầu cho
thấy imatinib mesylat, một chất ức chế tyrosin kinase mới,
có tác dụng lên các khối u còn lại ở những bệnh nhân có
khối u không thể cắt bỏ hoặc đã di căn.
Các lựa chọn điều trị:
(1) Phẫu thuật và vét hạch cho những bệnh nhân có hạch
dương tính trên lâm sàng, chiếu xạ sau phẫu thuật
vào vị trí u nguyên phát hoặc không chiếu xạ.
178 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
(2) Ở một số trung tâm, chiếu xạ có thể được thực hiện
trước và sau phẫu thuật.
(3) Hóa trị liệu bổ trợ có thể được xem xét cho những
bệnh nhân được tham gia vào thử nghiệm lâm sàng.
Di căn nội tạng
Khi có di căn xa (giai đoạn IV), phẫu thuật để điều trị
khỏi bệnh có thể thực hiện cho những bệnh nhân di căn phổi
có giới hạn đang được hoặc đã được phẫu thuật cắt bỏ hoàn
toàn khối u nguyên phát. Vai trò của hóa trị liệu bổ trợ đối
với các hạch ở phổi đang được đánh giá trên lâm sàng. Giá
trị của phẫu thuật đối với di căn gan chưa được xác định rõ.
Điều trị bằng doxorubicin đơn độc hoặc kết hợp với
dacarbazin được coi là một trong những chế độ điều trị bằng
thuốc thường được sử dụng nhất đối với sác-côm giai đoạn
muộn. Khi được sử dụng đơn độc, chỉ có doxorubicin và
ifosfamid cho tỷ lệ đáp ứng trên 20%; các loại thuốc ít hiệu
quả hơn bao gồm dacarbazin, cisplatin, methotrexat và
vinorelbin. Một thử nghiệm ngẫu nhiên với 340 bệnh nhân
sác-côm giai đoạn muộn cho thấy bệnh nhân có tỷ lệ đáp
ứng cao hơn (32% so với 17%, p< 0,002) và thời gian để bệnh
tiến triển dài hơn (6 tháng so với 4 tháng, p<0,02) khi được
điều trị bằng doxorubicin, dacarbazin, ifosfamid và mesna
(MAID) so với phác đồ điều trị bằng doxorubicin và
dacarbazin đơn độc. Đối với bệnh nhân nhiều tuổi, sử dụng
theo thứ tự từng loại thuốc riêng rẽ mỗi lần bệnh tái phát là
chiến lược điều trị hiệu quả hơn để điều trị triệu chứng
nhằm làm giảm bệnh. Theo các kết quả nghiên cứu đã được
công bố cho tới hiện nay thì việc dùng hóa chất liều cao (có
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 179
hoặc không ghép tạng) không ảnh hưởng tới thời gian sống
thêm không có bệnh hoặc thời gian sống thêm nói chung,
nhưng nó vẫn đang được đánh giá lâm sàng đối với bệnh
nhân di căn ở đợt bệnh ổn định hoàn toàn đầu tiên, sau khi
cắt bỏ các hạch phổi hoặc đối với các khối u nguyên phát lớn
không thể phẫu thuật được. Đối với u mô đệm ống tiêu hóa,
các bằng chứng ban đầu cho thấy imatinib mesylat, một chất
ức chế tyrosin kinase mới, có thể có tác dụng lên các khối u
còn lại ở những bệnh nhân có khối u không thể cắt bỏ được
hoặc đã di căn.
Các lựa chọn điều trị:
(1) Phẫu thuật cắt khối u nguyên phát kết hợp với chiếu
xạ. Cắt bỏ các tổn thương ở phổi có thể tiến hành sau khi
thực hiện liệu pháp dứt điểm dành cho khối u nguyên phát.
- Phẫu thuật cắt khối u nguyên phát đến mép mô lành.
- Nếu khối u có thể cắt bỏ nhưng không thể cắt mép mô
rộng thì tiến hành chiếu xạ.
- Nếu khối u không thể cắt bỏ, có thể chiếu xạ liều cao,
thường kết hợp với hóa trị liệu.
- Đối với khối u ở sau phúc mạc, thân và vùng đầu cổ,
phẫu thuật kết hợp với chiếu xạ trước và/hoặc sau phẫu
thuật và đôi khi có thể kết hợp với hóa chất.
(2) Để làm giảm triệu chứng bệnh cho những bệnh nhân
có ung thư di căn vào nội tạng không thể cắt bỏ, sử dụng
hóa chất dưới đây:
180 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
doxorubicin
doxorubicin + dacarbazin
doxorubicin + ifosfamid
doxorubicin + dacarbazin + ifosfamid + mesna
Chế độ điều trị với ifosfamid liều cao
Sác-côm mô mềm người lớn tái phát
Điều trị sác-côm mô mềm tái phát phụ thuộc vào dạng
khối u nguyên phát và phương pháp điều trị ban đầu. Bệnh
nhân tái phát tại chỗ thường chỉ có thể cứu chữa bằng liệu
pháp điều trị tại chỗ xâm lấn: phẫu thuật tại chỗ kết hợp với
chiếu xạ sau khi đã điều trị tối thiểu trước đó hoặc phẫu
thuật cắt cụt chi sau khi đã tiến hành phẫu thuật xâm lấn
trước đó. Đối với một số bệnh nhân đã được chiếu xạ, chiếu
xạ trước khi phẫu thuật và phẫu thuật cắt rộng tại chỗ có thể
thay thế cho phẫu thuật cắt cụt chi. Di căn vào phổi khi bệnh
tái phát lần đầu thường xảy ra trong vòng 2-3 năm sau khi
chẩn đoán ban đầu và nên được điều trị theo các phương
pháp điều trị ung thư giai đoạn IV. Có thể đạt được tỷ lệ
sống thêm ba năm đến 30% nếu di căn phổi được giới hạn
và có thể cắt bỏ.
Điều trị bằng doxorubicin đơn độc hoặc kết hợp với
dacarbazin được coi là một trong những chế độ điều trị bằng
thuốc thường được sử dụng nhất đối với sác-côm giai đoạn
muộn. Khi được sử dụng đơn độc, chỉ có doxorubicin và
ifosfamid cho tỷ lệ đáp ứng trên 20%; các loại thuốc ít hiệu
quả hơn bao gồm dacarbazin, cisplatin, methotrexat và
SÁC-CÔM MÔ MỀ M 181
vinorelbin. Một thử nghiệm ngẫu nhiên trên 340 bệnh nhân
sác-côm giai đoạn muộn cho thấy bệnh nhân có tỷ lệ đáp
ứng cao hơn (32% so với 17%, p< 0,002) và thời gian để bệnh
tiến triển dài hơn (6 tháng so với 4 tháng, p<0,02) khi được
điều trị bằng doxorubicin, dacarbazin, ifosfamid và mesna
(MAID) so với khi được điều trị bằng doxorubicin và
dacarbazin đơn độc. Sử dụng doxorubicin và tiếp đến là
ifosfamid hoặc các loại thuốc khác với từng vị trí tái phát là
phương pháp điều trị thường được sử dụng. Các thuốc được
dùng trong các pha I và II trong các thử nghiệm lâm sàng
nên được xem xét chỉ định mỗi khi bệnh tái phát. Theo các
kết quả nghiên cứu đã được công bố cho tới hiện nay thì hóa
trị liều cao (có hoặc không kèm theo ghép tạng) không ảnh
hưởng tới thời gian sống thêm không có bệnh hoặc thời gian
sống thêm nói chung, nhưng nó vẫn đang được đánh giá
trên lâm sàng đối với bệnh nhân di căn ở giai đoạn bệnh ổn
định hoàn toàn đầu tiên sau khi cắt bỏ các di căn ở phổi hoặc
đối với các bệnh nhân có khối u nguyên phát lớn không thể
phẫu thuật được.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân sác-côm mô mềm nên khám theo dõi định kỳ
sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan trọng
trong phác đồ điều trị và bệnh nhân nên thảo luận ngay với
bác sĩ. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bệnh nhân
được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào về sức khỏe
cũng được thảo luận, ung thư mới hoặc ung thư tái phát có
182 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
thể được phát hiện và điều trị sớm nhất. Giữa các đợt khám
theo dõi định kỳ, bệnh nhân sác-côm mô mềm nên thông
báo cho bác sĩ tất cả những vấn đề về sức khỏe ngay khi
chúng xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Hắc Tố
1. Ung thư hắc tố là gì
U hắc tố là một loại ung thư da. Nó xuất phát từ tế bào da
gọi là tế bào hắc tố. Để hiểu biết về u hắc tố cần phải tìm
hiểu về da và các tế bào hắc tố. Chúng có chức năng gì,
chúng phát triển như thế nào và điều gì xảy ra khi chúng trở
thành tế bào ung thư da.
Da là bộ phận lớn nhất của cơ thể. Nó bảo vệ cơ thể
chống lại hơi nóng, ánh nắng mặt trời, tổn thương và nhiễm
khuẩn. Da giúp điều hòa nhiệt độ cơ thể, dự trữ nước và mỡ
và sản xuất vitamin D. Da có hai lớp chính: lớp biểu bì ngoài
và lớp chân bì trong.
Lớp biểu bì chủ yếu được cấu tạo từ những tế bào dẹt
giống vẩy, được gọi là tế bào vẩy. Các tế bào hình tròn được
gọi là tế bào đáy nằm ở dưới các tế bào vẩy trong lớp biểu
bì. Phần dưới của lớp biểu bì còn có tế bào hắc tố.
Chân bì có chứa các mạch máu, mạch bạch huyết, nang
lông và các tuyến. Một số trong các tuyến này tiết mồ hôi
184 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
giúp điều hòa thân nhiệt và một số tuyến tiết ra chất nhờn -
là một chất dầu làm cho da không bị khô. Mồ hôi và chất
nhờn được đưa lên bề mặt da qua những lỗ nhỏ, gọi là lỗ
chân lông.
Tế bào hắc tố và nốt ruồi
Tế bào hắc tố có mặt ở toàn bộ phận dưới của lớp biểu bì.
Chúng tiết ra melanin, một loại sắc tố làm cho da có màu tự
nhiên. Khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, tế bào hắc tố
tiết ra nhiều sắc tố hơn làm cho da bị rám nắng hoặc đen đi.
Đôi khi các đám tế bào hắc tố và mô lân cận hình thành
nên các mụn lành tính (không phải ung thư) được gọi là nốt
ruồi (bác sĩ còn gọi là nevus). Nốt ruồi rất phổ biến. Hầu hết
mọi người có từ khoảng 10-40 mụn có màu tươi, hồng, rám
nắng hoặc là màu nâu này trên da. Nốt ruồi có thể phẳng
hoặc lồi. Chúng thường có hình tròn hoặc oval và thường
nhỏ hơn đầu tẩy bút chì. Chúng có thể xuất hiện từ lúc mới
sinh ra hoặc về sau này - thường là trước tuổi 40. Thông
thường các nốt ruồi phát triển và thay đổi rất ít theo thời
gian. Chúng có xu hướng mờ đi ở người già. Khi được cắt bỏ
nốt ruồi thường không xuất hiện trở lại.
U hắc tố
U hắc tố xuất hiện khi tế bào hắc tố trở thành ác tính. Hầu
hết tế bào hắc tố nằm trong da; khi u hắc tố xuất hiện ở da
thì loại ung thư này được gọi là u hắc tố da. U hắc tố có thể
xuất hiện ở nhãn cầu và được gọi là u hắc tố nhãn cẫu. Hiếm
khi u hắc tố xuất hiện ở màng não, ống tiêu hóa, hạch hoặc
các vùng khác nơi có tế bào hắc tố. U hắc tố xuất phát từ
UNG THƯ HẮC T Ố 185
những vùng khác ngoài da không được đề cập tới trong tập
thông tin này.
U hắc tố có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên bề mặt
da. ở nam giới, nó thường xuất hiện ở phần thân (giữa vai
và hông) hoặc là vùng đầu và cổ. Ở nữ giới, u hắc tố thường
xuất hiện ở phần dưới chân. U hắc tố hiếm khi xuất hiện ở
những người da đen và những người có da sẫm màu. Khi nó
xuất hiện ở những người da sẫm màu thì thường ở dưới
móng tay hoặc móng chân hoặc ở lòng bàn tay hoặc là gan
bàn chân. Nguy cơ phát triển u hắc tố tăng lên theo độ tuổi,
nhưng loại ung thư này có thể gặp ở mọi lứa tuổi. U hắc tố
là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở thanh niên.
Khi u hắc tố lan, tế bào ung thư xuất hiện ở hạch. Nếu
ung thư lan vào hạch thì có nghĩa là ung thư đã lan tới các
bộ phận khác của cơ thể như gan, phổi hoặc não. Trong
những trường hợp như vậy tế bào ung thư trong khối u mới
vẫn là tế bào u hắc tố và bệnh này được gọi là u hắc tố di căn
chứ không phải là ung thư gan, phổi hay não.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư hắc tố là gì?
Hiện nay, nguyên nhân gây ra u hắc tố vẫn chưa được
hiểu biết đầy đủ. Tuy nhiên, rõ ràng đây không phải bệnh
truyền nhiễm; không ai bị lây ung thư từ một người khác.
Bằng cách nghiên cứu các dạng ung thư trong cộng đồng,
các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một số yếu tố nguy cơ nhất
định thường gặp ở những bệnh nhân u hắc tố hơn so với
những người không mắc bệnh. Tuy nhiên, điều quan trọng
186 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
là cần phải biết rằng hầu hết những người có các yếu tố
nguy cơ này không bị u hắc tố và nhiều người bị bệnh này
lại không có yếu tố nguy cơ nào trong số được kể ra sau đây.
Dưới đây là một số yếu tố liên quan tới căn bệnh này:
Tiền sử gia đình có u hắc tố. Có hai hay nhiều người
thân ruột thịt bị bệnh là một yếu tố nguy cơ vì u hắc tố đôi
khi lan truyền trong gia đình. Khoảng 10% tổng số bệnh
nhân u hắc tố có người thân trong gia đình cũng bị loại ung
thư này. Khi u hắc tố lan truyền trong gia đình, các thành
viên gia đình nên đến bác sĩ khám định kỳ.
Nevi loạn sản. Nevi loạn sản có khả năng phát triển
thành ung thư cao hơn nốt ruồi thông thường. Nhiều người
chỉ có một vài nốt ruồi bất thường này; càng có nhiều nevi
loạn sản thì nguy cơ phát triển u hắc tố càng cao. Nguy cơ
này đặc biệt cao đối với những người có cả tiền sử gia đình
bị u hắc tố và cả nevi loạn sản.
Tiền sử u hắc tố. Những bệnh nhân đã được điều trị u
hắc tố có nguy cơ phát triển u hắc tố lần thứ hai cao hơn.
Hệ thống miễn dịch bị suy yếu. Những người có hệ
thống miễn dịch bị suy yếu do một số loại ung thư nhất
định, bởi các loại thuốc điều trị sau khi ghép tạng hoặc do
bệnh AIDS có nguy cơ phát triển u hắc tố cao hơn.
Nhiều nốt ruồi thông thường (hơn 50). Bởi vì u hắc tố
thường xuất phát từ tế bào hắc tố của một nốt ruồi đã có,
việc có nhiều nốt ruồi làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Tia cực tím. Các chuyên gia tin rằng việc gia tăng tỷ lệ số
người phát triển u hắc tố trên toàn thế giới có liên quan tới
UNG THƯ HẮC T Ố 187
thời gian con người tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Bệnh này
cũng thường gặp hơn ở những người sống trong các vùng
tiếp nhận một lượng lớn tia cực tím. Ví dụ ở Mỹ tỷ lệ người
có u hắc tố ở Texas cao hơn ở Minnesota, nơi mà ánh nắng
mặt trời không mạnh bằng. Tia cực tím từ mặt trời có thể
gây ra hiện tượng lão hóa sớm ở da và sự huỷ hoại da từ đó
có thể dẫn đến u hắc tố. (Có hai loại tia cực tím - UVA và
UVB - được giải thích trong từ điển). Các nguồn sản sinh ra
tia cực tím nhân tạo như đèn mặt trời và phòng tắm nắng
nhân tạo cũng có thể gây huỷ hoại da và làm tăng nguy cơ
phát triển u hắc tố.
Để giúp phòng chống và giảm nguy cơ phát triển u hắc tố
do tia cực tím gây ra nên tránh tiếp xúc với tia nắng mặt trời
vào buổi trưa (từ 10 giờ sáng tới 3 giờ chiều) khi có thể. Một
nguyên tắc đơn giản khác là bảo vệ cơ thể của bạn tránh
những tia nắng mặt trời khi bóng của bạn ngắn hơn người.
Cũng có thể đội mũ và mặc áo dài tay để bảo vệ cho bạn.
Hơn nữa, thuốc mỡ, kem dưỡng da hoặc gel có chứa kem
chống nắng có thể giúp bảo vệ da. Nhiều bác sĩ cho rằng
kem chống nắng có thể giúp phòng chống u hắc tố, đặc biệt
là những loại kem phản chiếu, hấp thụ hoặc phân tán cả hai
loại tia cực tím. Kem chống nắng được đánh giá mức độ
mạnh theo yếu tố chống mặt trời (SPF). SPF càng cao thì khả
năng chống lại tia nắng mặt trời càng lớn. Kem chống nắng
có mức độ SPF từ 2 đến 11 có khả năng chống lại ánh mặt
trời thấp nhất. Kem chống nắng có mức độ SPF từ 12 đến 29
có khả năng chống lại ánh mặt trời ở mức trung bình.
Những loại kem có SPF từ 30 trở lên có khả năng chống lại
ánh nắng mặt trời cao. Nên đeo kính râm có mắt kính có thể
188 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
hấp thụ tia cực tím. Nhãn hiệu trên kính nên ghi rõ mắt kính
có thể ngăn lại ít nhất 99% tia cực tím UVA và UVB.
Các vết bỏng nắng nghiêm trọng. Những người có một
hoặc nhiều vết bỏng nắng bị phồng rộp nghiêm trọng khi
còn nhỏ tuổi có nguy cơ phát triển u hắc tố cao hơn. Do vậy
bác sĩ khuyên nên bảo vệ da trẻ em tránh tia nắng mặt trời,
họ hi vọng rằng việc này sẽ giúp phòng chống hoặc ít ra là
làm giảm nguy cơ phát triển u hắc tố của trẻ em sau này.
Bỏng nắng ở người lớn cũng là một yếu tố nguy cơ của u
hắc tố.
Da trắng. U hắc tố xuất hiện nhiều ở những người có
nước da trắng có thể dễ bị cháy nắng hoặc tàn nhang
(những người này thường có tóc màu vàng hoặc màu đỏ và
mắt màu xanh) hơn là những người có nước da sẫm màu.
Người da trắng thường bị u hắc tố nhiều hơn nhiều so với
người da đen, có lẽ bởi vì da sáng màu dễ bị ánh mặt trời
huỷ hoại hơn.
3. Ung thư hắc tố được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư hắc tố là gì?
Thông thường dấu hiệu đầu tiên của u hắc tố là sự thay
đổi về kích thước, hình dạng, màu sắc hoặc cảm giác ở một
nốt ruồi đã có từ trước. Hầu hết u hắc tố có màu đen hoặc
màu xanh thẫm. U hắc tố có thể xuất hiện như một nốt ruồi
mới, màu đen, không bình thường hoặc trông rất kỳ dị xấu xí.
Bạn hãy tìm những dấu hiệu sau đây khi quan sát:
UNG THƯ HẮC T Ố 189
- Không đối xứng. Hình dạng của hai nửa không giống
nhau.
- Ranh giới. Mép nốt ruồi thường lởm chởm, có vết khía,
không rõ hoặc đường bao quanh mụn không đồng đều; sắc
tố có thể lan tới vùng da xung quanh.
- Màu sắc. Màu sắc không đồng đều. Có thể có nét màu
đen, nâu và rám nắng. Cũng có thể nhìn thấy những vùng
có màu trắng, xám, đỏ, hồng hoặc xanh lơ.
- Đường kính. Có sự thay đổi về kích thước, thường là
tăng lên. U hắc tố thường lớn hơn đầu tẩy bút chì (5mm).
Hình dạng của u hắc tố có thể rất khác nhau. Nhiều u hắc
tố biểu hiện tất cả các đặc tính mô tả ở trên. Tuy nhiên, một
số u hắc tố biểu hiện sự thay đổi hoặc bất thường chỉ ở 1
hoặc hai đặc tính đó.
Có thể phát hiện sớm u hắc tố khi nốt ruồi đã có từ trước
thay đổi chút ít, chẳng hạn như tạo thành một vùng màu
đen mới. Những phát hiện thường gặp khác là các vẩy nhỏ
mới tạo thành hoặc ngứa ở nốt ruồi. Đối với u hắc tố giai
đoạn muộn, kết cấu của nốt ruồi có thể thay đổi. Ví dụ, nó
có thể bị cứng lại hoặc nổi cục. Mặc dù u hắc tố có thể cho
cảm giác khác và u hắc tố giai đoạn muộn hơn có thể ngứa,
chảy mủ, chảy máu nhưng các u hắc tố thường không gây
đau.
U hắc tố có thể được chữa khỏi nếu được chẩn đoán và
điều trị khi khối u còn nông và vẫn chưa xâm lấn sâu vào
da. Tuy nhiên, nếu u hắc tố không được cắt bỏ ở giai đoạn
190 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
sớm, tế bào ung thư có thể phát triển từ bề mặt da sâu
xuống dưới, xâm lấn vào mô lành. Khi u hắc tố trở nên dày
và sâu, bệnh thường lan sang các bộ phận khác của cơ thể
và khó kiểm soát.
4. Ung thư hắc tố được chẩn đoán như thế nào?
Nếu bác sĩ nghi nốt trên da là u hắc tố thì bệnh nhân sẽ
cần được tiến hành sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất để
đưa ra chẩn đoán chắc chắn. Trong khi thực hiện sinh thiết
bác sĩ cố gắng cắt bỏ toàn bộ nốt nghi ngờ này. Nếu nó quá
lớn và không thể cắt bỏ toàn bộ thì bác sĩ sẽ cắt một mẫu mô.
Sinh thiết thường có thể thực hiện trong văn phòng bác sĩ
bằng cách gây tê tại chỗ. Sau đó bác sĩ giải phẫu bệnh quan
sát mẫu mô dưới kính hiển vi để kiểm tra phát hiện tế bào
ung thư. Đôi khi nhiều bác sĩ giải phẫu nên cùng quan sát
mẫu mô để xác định xem có u hắc tố không.
Nếu phát hiện ra u hắc tố thì bác sĩ cần phải biết phạm vi
hoặc giai đoạn của bệnh trước khi lập kế hoạch điều trị. Kế
hoạch điều trị phải tính đến vị trí và độ dày của khối u, mức
độ xâm lấn của u vào da và liệu tế bào ung thư đã lan sang
các hạch hoặc các bộ phận khác của cơ thể hay chưa. Đôi khi
cần phải lấy hạch lân cận để quan sát dưới kính hiển vi
(phẫu thuật này cũng được coi là một phần của điều trị vì có
thể giúp kiểm soát được bệnh). Bác sĩ cũng phải thăm khám
kỹ lưỡng và tuỳ thuộc vào độ dày của khối u có thể yêu cầu
chụp X quang lồng ngực; xét nghiệm máu; chụp cắt lớp vi
tính gan, xương và não.
UNG THƯ HẮC T Ố 191
5. Ung thư hắc tố được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Phẫu thuật
Phẫu thuật để cắt bỏ u hắc tố là phương pháp điều trị
chuẩn cho loại ung thư này. Cần phải cắt bỏ không chỉ có
khối u mà còn phải cắt cả một phần mô lành xung quanh nó
để giảm khả năng tế bào ung thư còn sót lại trong vùng đó
xuống mức thấp nhất.
Độ rộng và chiều sâu của lớp da xung quanh cần phải cắt
bỏ phụ thuộc vào độ dày của u hắc tố và độ sâu u xâm nhập
vào da. Trong những trường hợp u rất nhỏ và có thể cắt bỏ
tất cả mô ung thư trong quá trình sinh thiết, thì không cần
tiến hành phẫu thuật nữa. Nếu không thể cắt bỏ toàn bộ u
hắc tố trong quá trình tiến hành sinh thiết thì bác sĩ sẽ cắt bỏ
mô ung thư còn sót lại khi tiến hành phẫu thuật. Trong hầu
hết các trường hợp, phẫu thuật sau khi tiến hành sinh thiết
được thực hiện để cắt bỏ mô trông có vẻ như lành xung
quanh khối u (được gọi là mép của khối u) nhằm đảm bảo
tất cả tế bào ung thư được loại bỏ. Việc làm này là cần thiết
ngay cả khi khối u rất nông. Đối với u hắc tố dầy có thể cần
phải phẫu thuật rộng hơn để lấy mép mô lớn hơn.
Nếu cắt bỏ một mảng mô lớn thì có thể phải tiến hành
ghép da đồng thời. Trong quá trình này bác sĩ lấy da ở bộ
phận khác của cơ thể để thay thế cho lớp da đã được cắt bỏ.
Hạch bạch huyết ở gần khối u cũng có thể được cắt bỏ
trong khi phẫu thuật bởi vì ung thư có thể lan vào hệ bạch
huyết. Nếu bác sĩ giải phẫu bệnh tìm thấy tế bào ung thư
192 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
trong hạch điều đó có nghĩa là bệnh đã lan sang các bộ phận
khác của cơ thể.
Nói chung phương pháp phẫu thuật không còn hiệu quả
đối với u hắc tố đã lan tới các bộ phận khác của cơ thể.
Trong những trường hợp như vậy, bác sĩ có thể sử dụng các
phương pháp điều trị khác như hóa trị liệu, liệu pháp sinh
học, tia xạ trị liệu hoặc phối hợp các phương pháp. Khi một
phương pháp điều trị được tiến hành sau khi phẫu thuật
(phương pháp chủ đạo) để loại bỏ mô ung thư thì phương
pháp đó được gọi là phương pháp bổ trợ. Mục đích của
phương pháp bổ trợ là để tiêu diệt tất cả những tế bào ung
thư chưa được phát hiện còn sót lại trong cơ thể.
Hóa trị liệu
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế
bào ung thư. Nói chung đây là phương pháp điều trị toàn
thân, có nghĩa là nó có thể ảnh hưởng tới các tế bào ung thư
trên toàn bộ cơ thể. Trong hóa trị liệu, một hoặc nhiều thuốc
điều trị ung thư được đưa vào cơ thể bằng cách uống hoặc
tiêm vào mạch máu. Cho dù thuốc được đưa vào cơ thể
bằng con đường nào thì nó cũng đi vào mạch máu và tuần
hoàn trên toàn cơ thể.
Hóa trị liệu thường được điều trị theo đợt: một đợt điều
trị sau đó là một thời gian nghỉ hồi sức, sau đó là một đợt
điều trị khác và cứ tiếp tục như vậy. Bệnh nhân được điều
trị bằng hóa chất thường là bệnh nhân ngoại trú (ở bệnh
viện, ở văn phòng bác sĩ hoặc ở nhà). Tuy nhiên, tuỳ thuộc
vào loại thuốc điều trị và tình trạng sức khỏe chung bệnh
nhân có thể phải nằm viện trong một thời gian ngắn.
UNG THƯ HẮC T Ố 193
Một cách đưa thuốc vào cơ thể hiện đang được nghiên
cứu được gọi là truyền thuốc vào chi. Nó đang được thử
nghiệm đối với u hắc tố chỉ xuất hiện ở một tay hoặc một
chân. Khi tiến hành truyền thuốc vào chi người ta dùng garô
để ngăn dòng máu tới chi và rời khỏi chi trong một khoảng
thời gian. Sau đó thuốc điều trị ung thư được truyền vào
mạch máu ở chi. Bệnh nhân tiếp nhận liều thuốc cao trực
tiếp vào vùng có u hắc tố. Vì hầu hết các loại thuốc điều trị
ung thư chỉ lưu hành ở một chi nên phương pháp này
không hẳn là một phương pháp điều trị toàn thân.
Liệu pháp sinh học
Liệu pháp sinh học (còn gọi là liệu pháp miễn dịch) là
một phương pháp điều trị bằng hệ thống miễn dịch của cơ
thể, dù là trực tiếp hay gián tiếp, nhằm chống lại ung thư
hoặc làm giảm tác dụng phụ do việc điều trị ung thư gây ra.
Liệu pháp sinh học cũng là một phương pháp điều trị toàn
thân và liên quan tới việc sử dụng các chất được gọi là chất
điều biến đáp ứng sinh học. Cơ thể thường sản xuất ra một
lượng nhỏ những chất này khi có nhiễm khuẩn và bệnh tật.
Nhờ vào các kỹ thuật trong phòng thí nghiệm hiện đại, các
nhà khoa học có thể sản xuất ra một lượng lớn các chất điều
biến đáp ứng sinh học để sử dụng trong điều trị ung thư.
Trong một số trường hợp, liệu pháp sinh học có thể được sử
dụng sau khi phẫu thuật để ngăn ngừa u hắc tố tái phát. Đối
với bệnh nhân có u hắc tố đã di căn hoặc có nguy cơ tái phát
bệnh cao bác sĩ có thể chỉ định interferon-alfa và interleukin-2
(còn được gọi là aldesleukin) sau phẫu thuật. Các loại thuốc
kích thích dòng tế bào (CSF) và các loại vaccin chống ung
194 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
thư là những ví dụ của các chất điều biến đáp ứng sinh học
hiện đang được nghiên cứu.
Tia xạ trị liệu
Trong một số trường hợp, tia phóng xạ được sử dụng để
làm giảm triệu chứng của u hắc tố. Xạ trị là phương pháp sử
dụng các tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư.
Đây là phương pháp điều trị tại chỗ; nó chỉ ảnh hưởng tới tế
bào trong vùng chiếu xạ. Xạ trị là phương pháp được sử
dụng nhiều nhất để kiểm soát ung thư đã lan vào não,
xương và các bộ phận khác của cơ thể.
Thử nghiệm lâm sàng
Nhiều bệnh nhân u hắc tố tham gia vào thử nghiệm lâm
sàng. Bác sĩ tiến hành thử nghiệm lân sàng để đánh giá hiệu
quả và tác dụng phụ của các phương pháp điều trị mới.
Trong một số thử nghiệm lâm sàng, tất cả các bệnh nhân
được điều trị bằng phương pháp mới. Trong các nghiên cứu
khác, bác sĩ so sánh các phương pháp điều trị khác nhau
bằng cách điều trị một nhóm bệnh nhân theo phương pháp
mới và một nhóm bệnh nhân khác theo phương pháp điều
trị chuẩn; hoặc họ có thể so sánh một phương pháp điều trị
chuẩn với một phương pháp điều trị chuẩn khác. Những
nghiên cứu như vậy đã mang lại nhiều thành tựu đáng kể
trong điều trị u hắc tố. Điều này lại đưa các nhà nghiên cứu
tiến lại gần khả năng kiểm soát tối ưu u hắc tố hơn.
Một thủ thuật mới đang được nghiên cứu là sinh thiết
những hạch có nguy cơ bị di căn nhất bằng chỉ thị màu hoặc
phóng xạ, nhờ đó có thể làm giảm số lượng hạch cần được
UNG THƯ HẮC T Ố 195
sinh thiết và giảm mức độ phù bạch huyết. Người ta tiêm
một chất chỉ thị màu xanh hoặc một chất phóng xạ vào gần
khu vực có khối u. Chất này đi vào các hạch có khả năng bị
ung thư lan vào đầu tiên. Bác sĩ phẫu thuật nhờ vào sự chỉ
thị màu hoặc nhờ một máy quét để tìm các hạch có nguy cơ
và lấy hạch làm xét nghiệm mô bệnh học. Nếu các hạch có
nguy cơ cao này chứa tế bào ung thư thì các hạch lân cận
còn lại cũng sẽ được vét sạch; nếu không có tế bào ung thư
có thể không cần vét sạch các hạch còn lại.
Bác sĩ cũng đang nghiên cứu các con đường mới để dùng
hóa chất, thuốc điều biến sinh học và chiếu xạ; các loại thuốc
mới và phối hợp các loại thuốc; và các cách phối hợp các
phương pháp điều trị khác nhau. Một số thử nghiệm lâm
sàng được tiến hành để khám phá những biện pháp mới
nhằm làm giảm tác dụng phụ của điều trị và cải thiện chất
lượng cuộc sống.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Để tăng khả năng phát hiện ra u hắc tố mới một cách sớm
nhất bệnh nhân nên thực hiện lịch khám theo dõi định kỳ
của bác sĩ. Điều đặc biệt quan trọng đối với các bệnh nhân
có nevi loạn sản và có tiền sử gia đình bị u hắc sắc tố là phải
đi khám định kỳ. Bệnh nhân nên khám da hàng tháng và
làm theo lời khuyên của bác sĩ về cách làm giảm nguy cơ
phát triển u hắc tố mới.
Nguy cơ tái phát bệnh ở những bệnh nhân có u hắc tố
xuyên sâu hoặc đã lan tới mô lân cận lớn hơn so với các
196 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
bệnh nhân có u nhỏ. Các xét nghiệm theo dõi những bệnh
nhân có nguy cơ bệnh tái phát cao có thể bao gồm chụp X
quang; xét nghiệm máu; chụp cắt lớp vi tính lồng ngực,
gan, xương và não.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Đầu Cổ
1. Ung thư đầu cổ là gì?
Ung thư vùng đầu và cổ có thể được phân chia thành
nhóm nhỏ hơn tuỳ thuộc vào vị trí khối u nguyên phát theo
cấu trúc giải phẫu của vùng đầu và cổ. Những vị trí này bao
gồm hố mũi, xoang quanh mũi, nền sọ, mũi hầu, khoang
miệng, miệng-hầu, tuyến nước bọt, thanh quản và cổ.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư đầu cổ là gì?
- Nguyên nhân liên quan đến việc sử dụng thuốc lá được
xác nhận đối với các khối u ở tất cả các vị trí, vì mỗi loại
thuốc lá đều gây ra những tổn thương loạn sản và sinh ung
thư. Rượu được coi là đóng vai trò hợp lực với thuốc lá
trong việc gây ung thư, tuy nhiên vai trò của rượu đơn độc
cũng chưa rõ là có liên quan đến việc làm hư hại tế bào và
sinh khối u ác tính hay không.
- Các yếu tố di truyền chưa được xác định rõ ràng
198 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
- Các yếu tố nguy cơ bao gồm nghiện thuốc lá và nghiện
rượu nặng (cả hai đều có mối tương quan tỷ lệ thuận giữa
liều sử dụng và nguy cơ gây ung thư, trong đó thời gian
quan trọng hơn là số lượng); nhiễm virút Epstein-Barr
(EBV), trong ung thư mũi hầu; thiếu vitamin và suy dinh
dưỡng, vệ sinh răng miệng kém, viêm nhiễm mạn tính trong
ung thư thanh quản; tia nắng mặt trời đối với ung thư môi.
3. Ung thư đầu cổ được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư đầu cổ là gì?
- Bệnh sử: Nhìn chung là giảm cân và có khối u dai dẳng
khi bệnh ở giai đoạn muộn, nhưng các triệu chứng thay đổi
tuỳ thuộc vào vị trí giải phẫu liên quan.
- Khoang miệng: sưng lợi, đau, chảy máu, răng lung lay
- Mũi và xoang mũi: tắc mũi một bên, chảy máu cam
- Mũi hầu: đau, thay đổi thính giác, tắc mũi
- Miệng hầu: đau âm ỉ, khó nuốt, đau tai có liên quan,
cứng khít hàm
- Vùng thanh quản: thay đổi giọng nói, khó nuốt, nuốt
đau, khó thở
- Tuyến nước bọt: các triệu chứng một bên, khả năng vận
động của hàm bị ảnh hưởng
4. Ung thư đầu cổ được chẩn đoán như thế nào?
Khám lâm sàng: thường thì khối u cục có thể sờ thấy hoặc
nhìn thấy, cũng có thể liên quan đến các tổn thương dây
UNG THƯ ĐẦU CỔ 199
thần kinh sọ não, tăng sản lợi, các vết loét hoặc tổn thương
sùi ở miệng không liền, loạn sản mảng đỏ, khó thở do các
khối u thanh hầu lớn.
Xét nghiệm cận lâm sàng: không có nhiều giá trị trong
chẩn đoán.
Chụp X quang: phim X quang thẳng, CT, MRI là tốt nhất
cho việc xác định độ sâu xâm lấn của khối u và phân biệt
thay đổi ác tính với viêm nhiễm, chụp mạch phụ thuộc vào
vị trí khối u, chụp đoạn ống tiêu hóa trên.
Các thăm dò chẩn đoán: soi mũi hầu bằng ống soi mềm và
sinh thiết, soi thanh quản trực tiếp kết hợp với nội soi thực
quản, nội soi thanh quản có sinh thiết để xác định chẩn
đoán.
5. Ung thư đầu cổ được điều trị như thế nào?
Giai đoạn sớm
Phẫu thuật đơn độc là phương pháp điều trị tiêu chuẩn
đối với ung thư giai đoạn sớm
Điều trị tia xạ đơn độc cũng có thể được chấp nhận cho
các khối u ác tính giai đoạn I và II mặc dù các tế bào vảy chỉ
nhạy cảm với tia xạ ở mức độ vừa phải.
- Đối với các bệnh nhân ung thư biểu mô trên thanh
quản giai đoạn N0 hoặc N1 có thể kiểm soát khối u tại
chỗ tới 86% các trường hợp nhưng tỷ lệ tái phát cũng cao
tới 79%.
200 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
- Các ưu điểm của phương pháp này so với phẫu thuật là
cải thiện được chức năng và thẩm mỹ.
- Điều trị tia xạ áp sát và đưa vào mô kẽ đôi khi được sử
dụng cho các khối u lưỡi, môi, sàn miệng, da và niêm mạc má.
Giai đoạn muộn
Phẫu thuật là một phần của một phương thức điều trị
phối hợp, được tiến hành trước hoặc sau các phương
thức khác.
- Phẫu tích cổ triệt để hoặc cải tiến nếu u lan vào hạch cổ.
- Các thủ thuật tái tạo hình rất quan trọng bổ trợ cho việc
cắt bỏ khối u.
Điều trị tia xạ có vai trò đối với các khối u lớn không thể
cắt bỏ nhằm điều trị tạm thời và bảo tồn tiếng nói cũng như
các chức năng nuốt.
Các hóa chất phối hợp vẫn chưa chứng tỏ được là có thể
kiểm soát khối u hay thời gian sống sót tốt hơn khi sử dụng
đơn độc. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn
muộn có nguy cơ di căn kín đáo và/hoặc tái phát, vì vậy hóa
trị liệu vẫn đóng một vai trò trong điều trị.
- Áp dụng hóa trị liệu đối với bệnh di căn hoặc tái phát
làm giảm tỷ lệ di căn xa khi được so sánh với các bệnh nhân
không được điều trị bằng hóa chất.
- Các phác đồ điều trị ung thư bổ trợ gồm cisplatin và 5-
FU cho đáp ứng rất tốt với tỷ lệ các di căn xa thấp hơn so với
các bệnh nhân không được điều trị. Tuy vậy, thời gian sống
UNG THƯ ĐẦU CỔ 201
sót vẫn không có gì thay đổi so với những bệnh nhân được
điều trị với tia xạ và phẫu thuật thông thường.
- Hóa chất - tia xạ khi bệnh ở giai đoạn II hoặc III nhằm
hiệp đồng làm tăng đáp ứng của khối u với điều trị, nhưng
có độc tính cao.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Vú Nam
1. Ung thư vú nam là gì?
Khác với ung thư vú ở nữ giới là một loại ung thư phổ
biến nhất và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng
hàng thứ hai ở nữ giới, ung thư vú ở nam giới là một bệnh
hiếm gặp. Bệnh có nhiều điểm giống với ung thư vú ở nữ
giới, nhưng cũng có một số điểm rất khác biệt.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư vú nam là gì?
Một phân tích ngược các nghiên cứu về ca lâm sàng có
đối chứng nhận thấy các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú ở
nam giới có thể là chưa bao giờ kết hôn, có nguồn gốc Do
thái, đã có bệnh tuyến vú lành tính, chứng vú to, tiền sử có
bệnh tinh hoàn hoặc bệnh gan, tiền sử gia đình bị ung thư
vú hoặc đã chiếu xạ thành ngực trước đó. Các tình trạng
bệnh ở tinh hoàn làm tăng nguy cơ ung thư vú ở nam giới là
viêm tinh hoàn, tinh hoàn lạc chỗ và tổn thương tinh hoàn.
Một số tổn thương gan mạn tính đi kèm với ung thư vú ở
nam giới là xơ gan, bệnh gan do rượu và bệnh sán máng.
UNG THƯ VÚ NAM 203
Chứng vú to ở đàn ông thường liên quan đến việc sử
dụng một số loại thuốc. Đây có thể không phải là tình trạng
tiền ung thư vú ở nam giới nhưng có liên quan đến căn bệnh
này bởi các yếu tố nguy cơ về hoóc-môn cũng tương tự.
Thay đổi tỷ lệ estrogen/testosteron
Một số tình trạng bệnh làm tăng nguy cơ ung thư vú ở
nam giới có thể gây ra hoặc đi kèm với tình trạng thừa
estrogen hoặc thiếu androgen tương đối. Ví dụ, đàn ông bị
bệnh gan sẽ tăng sản xuất androstenedion ở tuyến thượng
thận, tăng quá trình tạo nhân thơm từ androstenedion thành
estron và tăng chuyển estron thành estradiol. Mặt khác,
androgen còn có tác dụng bảo vệ mô vú bằng cách ức chế quá
trình tăng sinh tế bào. Mối liên hệ giữa ung thư vú ở nam giới
và u tiết prolactin là một tình trạng bệnh thường có nồng độ
testosteron huyết tương thấp phù hợp với giả thuyết này.
Từ đó người ta cho rằng những thay đổi tương đối về
hoóc-môn nam và nữ nội sinh có thể có vai trò nguyên nhân
gây ung thư vú ở nam giới. Tuy nhiên người ta không phát
hiện được các bất thường về hoóc-môn ở máu ngoại vi
những bệnh nhân nam bị ung thư vú. Hơn nữa, những bệnh
có tăng tỷ lệ estrogen/testosteron và/hoặc chứng vú to ở đàn
ông như béo phì, bệnh tuyến giáp, dùng cần sa, dùng
estrogen ngoại sinh (ví dụ, chuyển đổi giới tính, điều trị ung
thư tuyến tiền liệt) còn có ít quan hệ với ung thư vú ở nam
giới hơn.
Hội chứng Klinefelter
204 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Yếu tố nguy cơ mạnh nhất gây ung thư vú ở nam giới là
hội chứng Klinefelter, đây là một căn bệnh hiếm gặp khi có
thừa một nhiễm sắc thể X. Những người đàn ông này có
nguy cơ ung thư vú cao gấp 50 lần so với những người đàn
ông mang kiểu gen bình thường. Hội chứng Klinefelter gây
teo tinh hoàn, vú to, tăng nồng độ các chất hướng sinh dục
(hoóc-môn kích thích nang, hoóc-môn tạo hoàng thể) huyết
thanh và giảm nồng độ testosteron huyết thanh, từ đó dẫn
đến tăng tỷ lệ estrogen/testosteron.
Tố bẩm di truyền
Khoảng 5 - 10% các trường hợp ung thư vú ở nữ giới có
thể liên quan đến tố bẩm di truyền. Người ta ước tính có
khoảng 80% các gia đình có nhiều người bị ung thư vú di
truyền theo tính trạng trội trên nhiễm sắc thể thường có
mang các gen gây ung thư vú/buồng trứng BRCA1 và
BCRA2. Theo số liệu hiện có, 4 - 35% bệnh nhân nam bị ung
thư vú có đột biến gen BRCA2, các trường hợp có đột biến
gen BRCA1 còn ít hơn. Dưới đây là các kết quả đã tìm được:
- Hai dòng họ có đột biến mầm gen BRCA1 và có nhiều
trường hợp nữ giới ung thư vú thì mỗi dòng họ có một nam
giới bị ung thư vú.
- Trong một nghiên cứu tiến hành trên 50 trường hợp
nam giới bị ung thư vú, 14% số bệnh nhân này có đột biến
mầm gen BRCA2 mà trong đó 85% (6 trong số 7 bệnh nhân)
có người thân trong gia đình bị ung thư vú là nam hoặc là
nữ. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng quan sát được điều
này về sau vì những người mang đột biến mầm gen BRCA2
UNG THƯ VÚ NAM 205
có thể không biểu hiện kiểu hình ung thư (hay, mức ngoại
hiện khác nhau).
- Trong hai nghiên cứu riêng rẽ, người ta đã phát hiện
được các đột biến gen BRCA2 ở khoảng 1/3 các trường hợp
nam giới ung thư vú; tuy nhiên, không một ai trong số này
có tiền sử gia đình bị ung thư vú nam hoặc nữ.
- Trong một nghiên cứu có 54 bệnh nhân nam ung thư vú
được phân tích để tìm đột biến mầm gen BRCA1 và BRCA2,
9 trường hợp (17%) có ít nhất một người thân cấp độ I bị
ung thư vú và/hoặc ung thư buồng trứng. Không phát hiện
được trường hợp nào bị đột biến gen BRCA1 trong nhóm
này. Hai bệnh nhân nam có đột biến mầm gen BRCA2, chỉ
có 1 người trong số này có một thành viên trong gia đình bị
ung thư buồng trứng.
- Trong một nghiên cứu tiến hành trên 17 bệnh nhân nam
ung thư vú, 6 bệnh nhân (35%) có đột biến gen BRCA2 và 2
bệnh nhân (12%) có đột biến gen BRCA1.
- Bệnh nhân có đột biến mầm gen BRCA2 có nguy cơ ung
thư vú trong cả cuộc đời ước tính là 6%; cao hơn 100 lần so
với nguy cơ ở nam giới trong cộng đồng nói chung.
3. Ung thư vú nam được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư vú nam là gì?
Ung thư vú ở nam giới điển hình là các khối u rắn,
không đau, thường ở vùng quầng núm vú hoặc ít gặp hơn
là ở 1/4 trên ngoài của vú. Có vẻ u hay xuất hiện bên trái
206 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
hơn chút ít, dưới 1% các trường hợp có u cả hai bên. Độ
tuổi trung bình tại thời điểm bệnh được chẩn đoán là
khoảng 66 tuổi.
Các phát hiện khác khi bệnh nhân đến khám gồm có co
kéo núm vú, loét đầu vú hoặc da, dính da vào lớp cơ phía
dưới, đau và có hạch nách. Chảy máu-thanh dịch hoặc chảy
máu núm vú là những biểu hiện không thường gặp.
4. Ung thư vú nam được chẩn đoán như thế nào?
Khi nghi ngờ có khối u ở vú người bệnh cần được chẩn
đoán mô học. Bác sĩ sẽ chẩn đoán phân biệt ung thư vú ở
nam giới với chứng vú to, áp xe tuyến vú, ung thư di căn
vào tuyến vú hoặc các bệnh ung thư nguyên phát không
phải từ tuyến vú khác (ví dụ sác-côm). Khác với ung thư
vú, chứng vú to điển hình là to vú cân đối cả hai bên và có
bờ không rõ ràng, không dính vào các mô phía dưới và
không có hạch nách.
Chụp tuyến vú
Chụp tuyến vú cho kết quả bất thường ở 80-90% bệnh
nhân nam bị ung thư vú và thường có thể giúp phân biệt
ung thư vú với và chứng vú to. Các đặc điểm X quang gợi ý
đến ung thư là núm vú không nằm ở trung tâm, bờ hình
ngôi sao và các nốt vôi hóa nhỏ. Trái lại, chứng vú to thường
có dạng một vùng hình tròn hoặc hình tam giác tăng đậm độ
cân đối ở vùng sau quầng núm vú. Tuy nhiên, trong một số
các trường hợp hiếm gặp, các dấu hiệu của chứng vú to
đồng thời có thể che lấp tổn thương ung thư.
UNG THƯ VÚ NAM 207
Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ
Cần lấy đủ lượng bệnh phẩm để có thể khẳng định chẩn
đoán và xét nghiệm tìm ER và PR. Chọc hút tế bào bằng kim
nhỏ có thể cung cấp đủ bệnh phẩm để chẩn đoán cho nhiều
trường hợp mà không cần phải tiến hành sinh thiết mở.
Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ tỏ ra là một phương pháp
chẩn đoán chính xác đối với ung thư vú ở nam giới, nhưng
có đến 1/4 số mẫu bệnh phẩm là không đủ. Ví dụ, trong một
nghiên cứu trên 507 bệnh nhân được chọc hút tế bào bằng
kim nhỏ, 23% số mẫu bệnh phẩm không đạt yêu cầu, trong
số những mẫu bệnh phẩm đạt yêu cầu không có trường hợp
nào bị dương tính giả hay âm tính giả. Nếu chọc hút tế bào
bằng kim nhỏ không lấy được đủ bệnh phẩm hoặc không
thể thực hiện được, có thể sinh thiết bằng kim cắt mở.
Phân giai đoạn
Hệ thống phân giai đoạn ung thư vú ở nam giới cũng
giống với hệ thống phân giai đoạn ung thư vú ở nữ giới
(theo Hiệp Hội Ung thư Hoa kỳ AJCC), bao gồm các tiêu
chuẩn theo khối u (T - Tumor), hạch (N - Node) và di căn (M
- Metastasis), kèm chia theo các nhóm có tiên lượng tương
tự. Cũng như ung thư vú ở nữ giới, giai đoạn theo AJCC,
kích thước khối u và tình trạng hạch nách là các yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh.
5. Ung thư vú nam được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
208 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Điều trị ung thư vú nam giới chưa di căn cũng tuân theo
các nguyên tắc chung như điều trị ung thư vú ở nữ giới.
Bệnh giai đoạn khu trú thường được điều trị bằng phẫu
thuật và tuỳ từng trường hợp có thể xem xét chỉ định điều
trị bổ trợ.
Phẫu thuật cắt khối u
Phương thức phẫu thuật truyền thống đối với bệnh khu
trú là cắt vú triệt để có cải tiến. Một số ít bệnh nhân có tổn
thương rộng ở cơ thành ngực hoặc có hạch Rotter có thể
được cắt vú triệt để. Mặc dù phẫu thuật bảo tồn vú (cắt khối
u sau đó chiếu xạ) là phù hợp đối với hầu hết bệnh nhân nữ
có ung thư vú giai đoạn sớm, bệnh nhân nam thường không
cần phải cân nhắc vì khối lượng mô vú ít và phần lớn các
khối u thường nằm ở trung tâm.
Sinh thiết hạch có nguy cơ di căn đầu tiên (hạch nhạy
cảm)
Sinh thiết hạch nhạy cảm là một phương thức điều trị ít
gây biến chứng thay thế cho vét hạch nách ở bệnh nhân nữ
ung thư vú. Với những phẫu thuật viên có kinh nghiệm, sinh
thiết các hạch này có thể dự báo chính xác tình trạng của các
hạch vùng còn lại, giúp bệnh nhân tránh được phẫu thuật vét
hạch nách. Phương pháp này đối với bệnh nhân nam cũng có
giá trị như ở bệnh nhân nữ. Trong một nghiên cứu tiến hành
trên 16 bệnh nhân nam ung thư vú khu trú, người ta thấy có
từ 1 hạch nhạy cảm trở lên dương tính trong số 15 hạch khi
dùng biện pháp nhuộm màu phối hợp bằng phóng xạ keo và
phẩm xanh. 6 trong số 10 bệnh nhân có hạch nhạy cảm âm
UNG THƯ VÚ NAM 209
tính được vét hạch nách toàn bộ và tất cả đều có hạch âm
tính.
Tiên lượng sau phẫu thuật
Cũng như bệnh nhân nữ ung thư vú, kích thước khối u,
tổn thương hạch và số lượng hạch tổn thương là các yếu tố
tiên lượng quan trọng nhất đối với bệnh nhân nam ung thư
vú. Người ta đã thông báo tỷ lệ sống 10 năm của 335 bệnh
nhân nam ung thư vú được ghi nhận trong 20 năm như sau:
- Hạch âm tính trên mô học - 84%
- Có 1 đến 3 hạch dương tính - 44%
- Từ 4 hạch trở lên dương tính trên mô học - 14%
Vai trò của giai đoạn khối u đối với tỷ lệ sống 5 năm
được công bố ở một nhóm 42 bệnh nhân nam ung thư vú
thể xâm lấn:
- Giai đoạn I - 100%
- Giai đoạn II - 83%
- Giai đoạn III - 60%
- Giai đoạn IV - 25%
Trước kia, ung thư vú ở nam giới được coi là một bệnh ác
tính thường phát hiện ở giai đoạn muộn và có tiên lượng
xấu hơn rất nhiều so với nữ giới. Các số liệu gần đây hơn
không hoàn toàn như vậy. Ví dụ, trong hai nghiên cứu
người ta phát hiện thấy có 43 - 50% bệnh nhân có bệnh ở giai
đoạn 0 hoặc 1 khi đến khám và 45 - 62% không có tổn
210 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
thương hạch. Hơn nữa, các báo cáo gần đây về bệnh nhân
ung thư vú cả nam và nữ tương đồng về giai đoạn bệnh và
cấp độ khối u đều không thấy có sự khác biệt nào đáng kể
về tiên lượng ở hai giới.
Sự tương đồng về giới một phần có thể là do sự cải thiện
tỷ lệ sống 5 năm ở bệnh nhân nam ung thư vú đã được mô
tả ở hầu hết các nghiên cứu. Trong số 217 bệnh nhân nam
ung thư vú được điều trị tại 18 cơ sở ở Wisconsin từ 1953
đến 1995 người ta thấy rằng những bệnh nhân được chẩn
đoán sau năm 1986 có xu hướng đến khám khi bệnh còn ở
giai đoạn sớm hơn và hay được phẫu thuật triệt để có cải
tiến rồi tiến hành điều trị toàn thân bổ trợ hơn. So với giai
đoạn trước đó, sự khác biệt này trùng hợp với sự cải thiện tỷ
lệ sống 5 năm.
Một nghiên cứu khác đánh giá 54 bệnh nhân được điều
trị tại 3 bệnh viện khác nhau. Khi đến khám, một nửa số
bệnh nhân có u ở giai đoạn T0 hoặc T1, 62% không có tổn
thương hạch và 57% bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn IIA trở
xuống theo AJCC. Bệnh nhân có bệnh giai đoạn từ 0 đến IIA,
có tỷ lệ sống cao hơn cả sau 5 năm (100% so với 71%) và 10
năm (71% so với 20%) so với những bệnh nhân có bệnh ở
giai đoạn muộn hơn. Các kết quả này còn tốt hơn so với kết
quả của các nghiên cứu trước đó.
Một nghiên cứu trên 229 bệnh nhân nam ung thư vú đến
khám ở Bệnh viện Công nương Margaret từ 1955 đến 1996
lại cho các kết quả khác. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ sống và
tiên lượng có vẻ không khác nhau sau một thời gian mặc dù
ngày càng có nhiều bệnh nhân được điều trị bằng phẫu
UNG THƯ VÚ NAM 211
thuật chuẩn từ đầu rồi tiến hành điều trị hóa chất và hoóc-
môn sau phẫu thuật.
Các chất chỉ điểm khối u
Ngoài giai đoạn, kích thước khối u và tình trạng di căn
hạch, các yếu tố khác không có vai trò tiên lượng rõ ràng ở
bệnh nhân nam bị ung thư vú; căn bệnh này hiếm gặp và có
rất ít nghiên cứu đủ lớn hoặc tiến cứu để đánh giá một cách
đầy đủ một chất chỉ điểm bệnh học hoặc phân tử đặc hiệu.
Những mối tương quan giữa tiên lượng bệnh và sự trình
diện một số chất chỉ điểm phân tử như bội thể ADN, biệt
hóa nhân, tình trạng MIB-1 dương tính và cathepsin D đã
được đề xuất nhưng chưa được khẳng định.
Trái lại, sự trình diện c-erbB-2 và p 53 có vẻ có ảnh hưởng
đến tiên lượng. Trong một nghiên cứu, 50 bệnh nhân nam bị
ung thư biểu mô ống xâm lấn được phẫu thuật cắt vú; 35
bệnh nhân dùng thêm hóa chất bổ trợ sau phẫu thuật. Sau
trung bình 59 tháng theo dõi các kết quả thu được như sau:
- Bệnh nhân nam có u với c-erbB-2 dương tính có thời
gian sống ngắn hơn so với bệnh nhân có u với c-erbB-2 âm
tính (39 tháng so với 96 tháng).
- Bệnh nhân nam có u với p 53 dương tính có thời gian
sống ngắn hơn so với bệnh nhân nam có p 53 âm tính (33
tháng so với 100 tháng).
- Tất cả 9 bệnh nhân có u không trình diện c-erbB-2 hoặc
p 53 còn sống còn tất cả 14 bệnh nhân có u trình diện cả hai
chất chỉ điểm này đều tử vong sau 58 tháng.
212 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Điều trị bổ trợ
Chưa có các nghiên cứu so sánh để hướng dẫn điều trị
sau phẫu thuật cho bệnh nhân nam bị ung thư vú. Tần suất
ung thư vú nam giới thấp làm cản trở sự xây dựng và hoàn
thành đúng thời gian các thử nghiệm lâm sàng đánh giá
hiệu quả của liệu pháp bổ trợ. Tuy nhiên, cũng như ung thư
vú ở nữ giới, cần xem xét chỉ định điều trị bổ trợ cho những
bệnh nhân có bệnh còn khu trú là những người có nguy cơ
tái phát cao sau phẫu thuật ban đầu.
Có nhiều chiến lược điều trị bổ trợ rất khác nhau dành
cho bệnh nhân ung thư vú cả nam và nữ. Một nghiên cứu
so sánh 4755 bệnh nhân nam với 624174 bệnh nhân nữ ung
thư vú trong đó các bệnh nhân được chọn tương đồng về
tuổi (chênh lệch trong khoảng 5 năm), dân tộc, mức thu
nhập và giai đoạn bệnh lấy theo dữ liệu của Viện Ung thư
Quốc gia Mỹ đã cho thấy rõ điều này. So với bệnh nhân
nữ, số bệnh nhân nam được chiếu xạ sau phẫu thuật cắt
tuyến vú nhiều hơn nhưng con số này lại ít hơn sau phẫu
thuật cắt khối u (54% so với 68%). Bệnh nhân nam thường
ít dùng hóa chất sau phẫu thuật hơn bệnh nhân nữ (27% so
với 41%).
Liệu pháp điều trị toàn thân bổ trợ
Các khuyến cáo về liệu pháp nội tiết và/hoặc hóa chất bổ
trợ chủ yếu là dựa trên kết quả điều trị của bệnh nhân nữ bị
ung thư vú giai đoạn sớm. Một số nghiên cứu không ngẫu
nhiên với cỡ mẫu nhỏ cũng nhận thấy điều trị bổ trợ có thể
cải thiện tỷ lệ sống cho bệnh nhân nam bị ung thư vú.
UNG THƯ VÚ NAM 213
Tamoxifen
Tỷ lệ bệnh nhân nam ung thư vú có trình diện thụ thể
hoóc-môn cao nên tỷ lệ đáp ứng với hoóc-môn cũng cao. Do
đại đa số bệnh nhân nam ung thư vú có u với ER dương tính
nên người ta thường khuyến cáo dùng tamoxifen bổ trợ
trong 5 năm. Khi so sánh 39 bệnh nhân nam được điều trị
bằng tamoxifen với nhóm chứng hồi cứu các tác giả nhận
thấy tamoxifen cải thiện được tỷ lệ sống thực 5 năm (61% so
với 44%) và tỷ lệ sống không bị bệnh (56% so với 28%).
Tamoxifen thường được các bệnh nhân nam dung nạp tốt.
Trong số 24 bệnh nhân nam dùng tamoxifen bổ trợ đã gặp
các tác dụng phụ như sau:
- Giảm ham muốn tình dục - 29%
- Tăng cân - 25%
- Bốc hoả - 21%
- Thay đổi tâm tính - 21%
- Trầm cảm - 17%
Bệnh nhân nam ung thư vú cũng có thể không dung nạp
tamoxifen như bệnh nhân nữ. Trong số những nghiên cứu
trên, 21% bệnh nhân nam phải ngừng dùng tamoxifen trong
quá trình điều trị do tác dụng phụ; tỷ lệ này cao hơn so với
tỷ lệ được công bố ở bệnh nhân nữ (4%-7%) dùng tamoxifen.
Hóa chất toàn thân
Hiện cũng chưa có đủ số liệu về tác dụng của hóa chất bổ
trợ trong điều trị ung thư vú nam giới. Trong một nghiên
214 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
cứu, 11 bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn II hoặc III được điều
trị bổ trợ bằng cyclophosphamid, methotrexat và 5 -
fluorouracil (CMF) sau điều trị tại chỗ. So với các nhóm
chứng không được điều trị trước đó, CMF bổ trợ có làm
giảm nguy cơ tái phát và tăng tỷ lệ sống.
Trong một nghiên cứu khác, 21 bệnh nhân nam ung thư
vú giai đoạn II có di căn hạch nách được điều trị bổ trợ theo
phác đồ CMF. Chỉ có 17 trong số 24 bệnh nhân có thể hoàn
thành toàn bộ 12 đợt điều trị theo phác đồ, nhưng các bệnh
nhân này có tỷ lệ sống 5 năm khá cao (> 80%) và trung vị
thời gian sống nói chung ở nhóm này là 98 tháng cho thấy
điều trị là có tác dụng.
Người ta khuyến cáo điều trị tamoxifen bổ trợ kèm theo
hoặc không kèm theo hóa chất cho những bệnh nhân nam có
u trình diện các thụ thể hoóc-môn steroid. Hóa chất toàn thân
đơn độc phù hợp với bệnh nhân nam bị u không mang thụ
thể hoóc-môn. Cũng như bệnh nhân nữ dùng hóa chất bổ trợ,
bệnh nhân nam có thể chọn phác đồ có anthracyclin, phối
hợp hoặc không phối hợp với paclitaxel hoặc phác đồ CMF.
Chiếu xạ bổ trợ
Chưa có thử nghiệm ngẫu nhiên tiến cứu đánh giá hiệu
quả lâm sàng của chiếu xạ bổ trợ sau phẫu thuật cắt tuyến
vú. Kết quả của một nghiên cứu hồi cứu nhỏ cho thấy chiếu
xạ sau phẫu thuật cắt tuyến vú làm giảm tỷ lệ tái phát tại
chỗ ở bệnh nhân nam ung thư vú nhưng không cải thiện tỷ
lệ sống chung. Có ít nhất hai thử nghiệm nhận thấy tỷ lệ
sống của bệnh nhân nữ bị ung thư vú giai đoạn II được
UNG THƯ VÚ NAM 215
chiếu xạ sau phẫu thuật được cải thiện. Tác dụng của chiếu
xạ đối với bệnh nhân nam chưa chắc chắn.
Điều trị bệnh giai đoạn muộn
Bệnh nhân có bệnh giai đoạn muộn có thể lựa chọn hoặc
hoóc-môn hoặc hóa chất toàn thân.
Liệu pháp hoóc-môn
Lần đầu tiên cắt tinh hoàn hai bên để điều trị ung thư vú ở
nam giới được công bố vào năm 1942; các nghiên cứu tiếp
theo thông báo tỷ lệ đáp ứng của bệnh nhân sau cắt tinh hoàn
để điều trị ban đầu ung thư di căn đạt khoảng 32 - 67%. Tuy
nhiên, do nhiều bệnh nhân nam không muốn cắt tinh hoàn vì
những lý do về tâm lý, tamoxifen đã trở thành liệu pháp
hoóc-môn được lựa chọn để điều trị bệnh giai đoạn muộn.
Tamoxifen cho đáp ứng khách quan ở 81% bệnh nhân
nam ung thư vú giai đoạn muộn có ER dương tính. Các liệu
pháp nội tiết khác, trong đó có aminoglutethimid, estrogen,
megestrol acetat, androgen, các hoóc-môn steroid giới tính
và các chất tương tự hoóc-môn giải phóng hoóc-môn tạo
hoàng thể cho đáp ứng ít nhất ở 40% bệnh nhân bị ung thư
có ER dương tính; các tác dụng phụ có xu hướng nặng hơn
so với khi dùng tamoxifen.
Có thể xem xét liệu pháp nội tiết thay thế ở bệnh nhân
ung thư có ER dương tính và bệnh tiến triển sau khi dùng
tamoxifen đồng thời không có tổn thương cơ quan nội tạng
nguy hiểm đến tính mạng. Bệnh nhân có tổn thương nội
tạng nguy hiểm cần được xem xét chỉ định hóa chất toàn
216 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
thân. Các chất ức chế aromatase chọn lọc như anastrozol,
exemestan và letrozol còn chưa được nghiên cứu trên bệnh
nhân nam bị ung thư vú.
Hóa chất toàn thân
Cần xem xét chỉ định hóa chất cho những bệnh nhân ung
thư có ER âm tính, có bệnh tiến triển nhanh hoặc có di căn
nội tạng gây nguy hiểm đến tính mạng. Các nguyên tắc điều
trị cũng tương tự như các nguyên tắc điều trị cho bệnh nhân
nữ ung thư vú giai đoạn muộn.
Nhiều báo cáo đơn lẻ miêu tả hoạt tính của các chế độ
đơn hóa chất hoặc đa hóa chất trong điều trị ung thư vú
nam. Mặc dù chưa có chế độ điều trị hóa chất tối ưu cho
nam giới, người ta có thể áp dụng các hướng dẫn điều trị
như đối với bệnh nhân nữ.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi sau khi điều trị ung thư Vú là rất quan trọng.
Kiểm tra định kỳ để đảm bảo phát hiện ra những thay đổi
trong sức khỏe và nếu ung thư xuất hiện trở lại hay ung thư
mới phát triển nó có thể được điều trị một cách sớm nhất.
Kiểm tra bao gồm việc khám sức khỏe, chụp X quang, hay
xét nghiệm cận lâm sàng. Giữa những cuộc hẹn khám định
kỳ, bệnh nhân ung thư vú cần thông báo bất kỳ vấn đề nào
về sức khỏe của mình với bác sĩ càng sớm càng tốt.
top related