a vĂn phÒng chÍnh phỦ cỤc kiỂm soÁt thỦ tỤc hÀnh...
TRANSCRIPT
Bộ, ngành
1. Thông qua 23 phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Bộ Y tế
2. Cẩm nang Cơ chế một cửa quốc gia và Một cửa ASEAN
3. Cải cách hành chính, giảm chi phí để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
4. Nâng cao năng lực cạnh tranh thuế để thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam
5. Chậm giải ngân vốn và hệ lụy khó lường
6. Nên để doanh nghiệp tự do bán hàng
7. Có cần tem chống sách lậu?
8. Chặn "giấy phép con": Chỉ Chính phủ quyết liệt thôi thì chưa đủ
9. Giảm chi phí DN và những trở ngại: Kỳ I: con dấu và sự phức tạp mang tên... thủ tục
10. Giảm chi phí DN và những trở ngại (Kỳ II): Lời giải không thuộc về DN
Địa phương
11. Ngăn chặn tình trạng vượt biên đi lao động trái phép
12. Bình Phước xây dựng không gian đối thoại mở
13. Đồng Nai đưa ứng dụng Zalo vào thủ tục hành chính công như thế nào?
1. Thông qua 23 phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Bộ Y tế
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 60/NQ-CP thông qua Phương
án đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến
quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Y tế.
Chính phủ vừa ban hành NQ thông qua phương án đơn giản hóa thủ
tục về cấp và cấp lại Giấy chứng nhận là lương y được quy định tại
Thông tư số 29/2015/TT-BYT ngày 12/10/2015
Theo Nghị quyết, có 23 nội dung phương án đơn giản hóa thủ tục hành
chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi
chức năng quản lý của Bộ Y tế đã được Chính phủ thông qua gồm:
Thủ tục về cấp và cấp lại Giấy chứng nhận là lương y được quy định tại
Thông tư số 29/2015/TT-BYT ngày 12/10/2015; các thủ tục về khám sức
khỏe được quy định tại Thông tư số 14/2013/TT-BYT ngày 6/5/2013; các
thủ tục về xuất khẩu, nhập khẩu thuốc theo đường phi mậu dịch được
quy định tại Thông tư số 39/2013/TT-BYT ngày 15/11/2013;
Thủ tục đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,
thủ tục đề nghị thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được quy
định tại Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/1/2015; các thủ tục xét
tặng danh hiệu thầy thuốc được quy định tại Nghị định số 41/2015/NĐ-
CP ngày 5/5/2015...
Chính phủ giao Bộ Y tế căn cứ nội dung Phương án đơn giản hóa được
Chính phủ thông qua, trong phạm vi thẩm quyền chủ trì, phối hợp với bộ,
ngành, cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm sửa đổi, bổ sung, thay thế
hoặc hủy bỏ, bãi bỏ thủ tục hành chính quy định tại văn bản quy phạm
pháp luật để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền
ban hành phù hợp với thời điểm Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được
hoàn thành, vận hành và có thể khai thác được đầy đủ 15 trường thông
tin của công dân Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện, nếu có văn bản quy phạm pháp luật mới sửa
đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ, hủy bỏ các thủ tục hành chính có
phương án đã được phê duyệt tại Nghị quyết này thì Bộ Y tế chủ động
triển khai, thực thi phương án theo nội dung quy định tại văn bản quy
phạm pháp luật mới, đồng thời thông báo đến Ban Chỉ đạo Đề án 896.
Theo infonet.vn
2. Cẩm nang Cơ chế một cửa quốc gia và Một cửa ASEAN
Tổng cục Hải quan vừa ban hành “Cẩm nang về Cơ chế một cửa
quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN”, nhằm đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ về lợi ích, cách
thức tham gia cơ chế một cửa tới người dân và doanh nghiệp (DN).
Cơ chế một cửa sẽ loại bỏ được hoạt động giải quyết hành chính thủ
công, tiết giảm được thời gian, chi phí cho DN. Ảnh: Hải Anh
Theo Tổng cục Hải quan “Cẩm nang về Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ
chế một cửa ASEAN” không chỉ mang lại lợi ích cho DN mà còn là tài
liệu tham khảo, phục vụ đắc lực các bộ, ngành trong quá trình triển khai
Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN thời gian tới.
Về cơ bản, nội dung của cẩm nang chia làm 2 phần:
Phần 1 giới thiệu chung về lịch sử ra đời, khái niệm, mô hình; quy trình
thực hiện thủ tục hành chính thông qua Cơ chế một cửa quốc gia và
ASEAN; lợi ích khi triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một
cửa ASEAN.
Phần 2 giới thiệu về kết quả, mục tiêu triển khai Cơ chế một cửa quốc
gia và Cơ chế một cửa ASEAN của Việt Nam; Lộ trình thực hiện các thủ
tục hành chính đến năm 2020. Những việc DN và các bộ, ngành cần
thực hiện để triển khai Cơ chế một cửa quốc gia.
Cuốn cẩm nang này cũng đã dành hẳn một mục nói về sự hỗ trợ của
Tổng cục Hải quan với người dân và DN trong quá trình thực hiện các
thủ tục hành chính trên Cổng thông tin một cửa quốc
gia: https://vnsw.gov.vn./.
Theo thoibaotaichinhvietnam.vn
3. Cải cách hành chính, giảm chi phí để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí cho doanh nghiệp…
Đó là những vấn đề được Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh tại
nhiều phiên họp, hội nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, để môi trường kinh doanh thuận lợi và năm 2017 trở thành
năm giảm chi phí cho doanh nghiệp thì còn rất nhiều việc phải làm. TS
Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, nhìn nhận:
Những điểm còn hạn chế của môi trường kinh doanh Việt Nam có thể
nhìn nhận từ bản tổng hợp kết quả 1 năm thực hiện Nghị quyết số
35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm
2020. Việc hỗ trợ doanh nghiệp đã đạt nhiều kết quả tích cực về: cải
cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; tạo môi trường thuận
lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; bảo đảm quyền kinh doanh,
quyền bình đẳng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh
nghiệp… Tuy nhiên, công tác cải cách thủ tục hành chính mặc dù đã
được thực hiện tốt nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp,
nhà đầu tư. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức làm công tác giải
quyết thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, nhà đầu tư có trình độ, năng
lực còn hạn chế; tình hình gây phiền hà, nhũng nhiễu còn diễn ra, gây
bức xúc cho doanh nghiệp. Cùng với đó, doanh nghiệp đối mặt với hàng
loạt khó khăn trong hoạt động do liên quan đến chi phí như: chi phí
logistics, chi phí vốn vay, chi phí thuê mặt bằng kinh doanh, chi phí
không chính thức…
TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Phóng viên: Vậy theo ông, để cải thiện tình hình nêu trên cần các giải
pháp gì?
TS VŨ TIẾN LỘC: Để hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, đầu tiên, tôi
cho rằng cần bổ sung nhóm giải pháp liên quan đến hoàn thiện thể chế
kinh tế vĩ mô. Trong đó, tập trung vào việc rà soát, loại bỏ các quy định
cho phép các cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào các thị trường
như: thị trường đất đai, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường
công nghệ, thị trường công nghiệp. Cụ thể, đó là xem xét đề xuất với
Quốc hội sửa đổi Luật Đất đai, theo hướng xác lập quyền tài sản của
người dân đối với đất đai; bảo đảm việc chuyển đổi công năng sử dụng
đất một cách nhanh chóng; hỗ trợ tích tụ đất đai với cơ chế giá do thị
trường quyết định; không hành chính hóa các tổ chức kinh doanh như
Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số nghị định quy định chi
tiết thi hành Luật Đất đai (hiện đang khoác cho các doanh nghiệp đầu tư
kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp trách nhiệm như một cấp
quản lý hành chính đất đai trung gian mà đáng lẽ đó là việc của cơ quan
quản lý nhà nước)...
Bên cạnh đó là thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như cải cách hành
chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước cần có giải
pháp mạnh mẽ hơn, mang tính chất đột phá để cải cách thủ tục hành
chính cũng như trong việc tổ chức, triển khai, giám sát thực hiện mô
hình một cửa, trung tâm hành chính công; cải tiến hình thức tổ chức đối
thoại giữa doanh nghiệp với chính quyền địa phương; nghiên cứu thấu
đáo và giải quyết triệt để các vướng mắc của doanh nghiệp một cách kịp
thời, thỏa đáng, tránh tình trạng bao biện “giải thích” nhiều mà “không
giải quyết”.
Tiếp đến là tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng
tạo. Đề nghị các địa phương phải thực sự coi trọng và tiến hành có hiệu
quả hoạt động khởi sự doanh nghiệp, đồng thời hạn chế những hoạt
động có tính chất “phong trào”. Cần đa dạng hóa và sáng tạo trong phát
triển các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển kinh doanh; nhanh
chóng quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp quy mô nhỏ tại các
khu vực, địa phương…
Giải pháp tiếp theo là bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp
cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể, đề
nghị các bộ, ngành và cơ quan có liên quan cần tăng cường đối thoại
chính sách giữa doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước; tăng cường
chất lượng và sự tham gia của cán bộ pháp chế các bộ ngành trong xây
dựng pháp luật; hoàn thiện cơ chế quản lý để thúc đẩy nhanh tiến độ
giải ngân Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đảm bảo công
khai, minh bạch…
Song song với đó là giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Đề nghị
Quốc hội xem xét ra nghị quyết ban hành một số giải pháp về thuế
nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của doanh
nghiệp. nâng cao tay nghề cho người lao động để tăng năng suất, giảm
chi phí lao động, nhất là đối với các ngành đang sử dụng nhiều lao động
hiện nay như dệt may, da giày… Cuối cùng là tiếp tục rút ngắn thời gian,
thủ tục phá sản doanh nghiệp; xây dựng các chế tài đủ mạnh để răn đe
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm bản quyền sở hữu trí
tuệ…
Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2020 có 1 triệu doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả, theo ông, giải pháp cụ thể nào để hiện thực hóa điều
này?
Nhằm hướng tới mục tiêu đất nước có 1,5 - 2 triệu doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả vào năm 2020, theo tôi, có hai việc cần làm ngay.
Thứ nhất là có những giải pháp chính sách và hành chính quyết liệt để
giảm mạnh rủi ro và chi phí, đặc biệt là chi phí không chính thức để bảo
đảm an toàn và “khoan sức” được cho doanh nghiệp. Hiện các doanh
nghiệp Việt Nam đang phải chịu nhiều rủi ro và gánh nặng chi phí cả
chính thức và không chính thức khá lớn. Trước tiên là các rủi ro và chi
phí về hành chính (giao dịch, gia nhập thị trường, tuân thủ luật pháp…)
đang ở mức cao so với các nước láng giềng. Bên cạnh đó là giảm chi
phí vốn cho doanh nghiệp.
Thứ hai là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường với những đổi mới, động
lực mới, vừa tháo gỡ khó khăn, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi,
thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Nước ta hiện có gần 5 triệu hộ kinh
doanh phi nông nghiệp, trong đó có gần 2 triệu hộ kinh doanh có đăng
ký. Đó là lực lượng tiềm năng của đội ngũ doanh nghiệp trong tương lai
gần. Nếu có chính sách khuyến khích họ chuyển sang mô hình tổ chức
doanh nghiệp thì mục tiêu có được 1,5 - 2 triệu doanh nghiệp trước năm
2020 là trong tầm tay. Hơn thế, con đường chính thức hóa hoạt động
kinh doanh lại là cứu cánh cho các hộ kinh doanh trước sức ép của hội
nhập. Bởi chúng ta đều biết, nhỏ lẻ, “tiểu nông”, “tiểu công”, không minh
bạch rất khó vươn tới chuẩn mực quốc tế, rất khó tạo ra năng suất và
hiệu suất cao và rất khó trụ vững trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh
gay gắt. Chính sách hỗ trợ chuyển dịch hộ kinh doanh thành doanh
nghiệp như một mũi tên có thể trúng cả hai đích.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nhân tố quan
trọng, đóng góp vào việc tạo thêm việc làm, tăng sản lượng công nghiệp
và đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, như ông đã nhiều lần
nhấn mạnh, sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong
nước còn rất hạn chế. Rõ ràng, để doanh nghiệp trong nước phát triển,
tăng năng lực cạnh tranh, mối liên kết này cần phải được tăng cường
hơn, thưa ông?
Đúng vậy. Khối FDI đang ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế. Song dường như Việt Nam vẫn chưa tận dụng được hết những lợi
ích từ các dòng vốn FDI. Gần 30 năm sau khi Luật Đầu tư nước ngoài
có hiệu lực, một thực trạng phải thừa nhận là kết nối cộng sinh trong
kinh doanh giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn còn mờ nhạt,
hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động từ các đối tác
nước ngoài đến các doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế. Điều này
đặc biệt đúng trong lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực được chào đón,
được Chính phủ kỳ vọng. Theo kết quả điều tra Chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh 2016, chỉ có khoảng 14% doanh nghiệp tư nhân đang có
khách hàng là các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Con
số này có dấu hiệu cải thiện theo thời gian, nhưng rất chậm chạp. Từ
phía các doanh nghiệp FDI, liên kết hàng dọc với các công ty trong nước
rất yếu (chỉ 26,6% đầu vào của FDI được mua tại Việt Nam).
Để tăng mức độ kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp FDI và khu vực tư
nhân hơn nữa, chúng tôi kiến nghị các giải pháp chính gồm: cần cải
thiện hiệu quả các hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực; có giải pháp đột phá để cải thiện và thu hẹp khoảng cách về trình độ
công nghệ của các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI
(thông qua việc cung ứng dịch vụ tư vấn công nghệ, vận hành quỹ phát
triển công nghệ, sử dụng các chính sách về thuế, tài chính để khuyến
khích đầu tư công nghệ cao...); tăng cường kết nối về mặt địa lý giữa
FDI với doanh nghiệp trong nước. Trong đó, việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực là chìa khóa quan trọng nhất thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa
của doanh nghiệp FDI.
Xin cảm ơn ông!
Theo sggp.org.vn
4. Nâng cao năng lực cạnh tranh thuế để thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam
Theo nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), chính sách thuế có
tác động đến tới nguồn vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu là vốn đầu
tư trực tiếp; đồng thời tác động không nhỏ tới việc phân bổ nguồn
lực tài chính. Để thu hút nguồn vốn đầu tư thì năng lực cạnh tranh
thuế, chính sách thuế có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi
quốc gia, Việt Nam cũng không nằm ngoài bối cảnh đó.
Có thể hiểu, cạnh tranh thuế là việc một nước ban hành chính sách thuế
có lợi thế so sánh nhằm thu hút nguồn lực, lao động và các yếu tố kinh
tế khác từ bên ngoài vào nước mình hoặc (đồng thời) hạn chế di chuyển
các nguồn lực trong nước ra nước ngoài. Có rất nhiều hình thức cạnh
tranh về thuế như cắt giảm thuế suất, áp dụng ưu đãi thuế, cho phép
chuyển lỗ với thời gian dài, đơn giản và rút ngắn thu tục hành chính
thuế…
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh thuế quốc tế
Hiện nay, Ngân hàng Thế giới (WB) sử dụng các tiêu chí định lượng để
đánh giá năng lực cạnh tranh thuế của các nước như sau:
- Tiêu chí 1: Thời gian doanh nghiệp (DN) làm các thủ tục về thuế với
nhà nước trung bình trong một năm. Đó là thời gian chuẩn bị, điền hồ sơ
và nộp thuế. Thời gian chuẩn bị bao gồm cả thời gian thu thập thông tin
cần thiết để tính toán thuế phải nộp. Thời gian điền hồ sơ gồm thời gian
hoàn thiện các mẫu biểu và tính toán. Thời gian nộp thuế gồm thời gian
thanh toán thuế qua mạng hoặc tại cơ quan thuế, thời gian chờ đợi. Thời
gian càng ít thì càng tốt cho DN và nó cũng chứng tỏ thủ tục hành chính
đơn giản, thuận tiện.
- Tiêu chí 2: Số lần trung bình DN phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế trong
một năm. Số lần thanh toán thuế phản ánh số lần thuế được trả, phương
pháp thanh toán, tần suất thanh toán. Số lần thanh toán ghi nhận cả
thanh toán điện tử. Chỉ tiêu này cành nhỏ thì càng tốt cho DN.
- Tiêu chí 3: Tổng mức thuế suất: Đây là tỷ lệ % giữa tổng thuế và các
nghĩa vụ khác DN phải thực hiện với nhà nước trên tổng lợi nhuận kinh
doanh.
Ba tiêu chí trên được xếp hạng riêng lẻ cho từng nước theo thứ tự từ
thấp đến cao, sau đó sẽ tổng hợp lại thành chỉ số xếp hạng năng lực
cạnh tranh về thuế giữa các nước bằng cách tính bình quân. Thứ tự
càng thấp thì năng lực cạnh tranh thuế càng cao và ngược lại. Ngân
hàng Thế giới thông qua công ty kiểm toán KPMG để điều tra, thu thập
số liệu từ các công ty có quy mô vừa ở 189 nền kinh tế trên thế giới.
Năng lực cạnh tranh thuế của Việt Nam
Ngân hàng Thế giới đánh giá năng lực cạnh tranh thuế của các nước
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng qua các báo cáo hàng năm
(PwC) của tổ chức này. Theo đó, Việt Nam được đánh giá là có sự thay
đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây về năng lực cạnh tranh thuế.
Đặc biệt, khi Việt Nam ngày càng tham gia hội nhập sâu rộng vào kinh tế
quốc tế, thực hiện các cam kết về thuế khi ký kết các hiệp định thương
mại tự do và đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh. Điều này đã
được nhiều tổ chức quốc tế và cộng đồng DN trong và ngoài nước ghi
nhận, đánh giá cao.
Tuy nhiên, so với một số nước trong khu vực châu Á Thái Bình Dương
thì các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh thuế của Việt Nam đều ở
mức cao hơn, đặc biệt là tiêu chí số giờ tuân thủ về thuế trung bình của
một DN còn cao so với yêu cầu của DN. Thủ tục hành chính liên quan
đến thuế, hải quan đã được Bộ Tài chính quyết liệt thực hiện cắt giảm
nhưng đòi hỏi của DN cần tiếp tục đơn giản hóa hơn nữa. Đáp ứng yêu
cầu này, thời gian qua, Chính phủ, Bộ Tài chính đã có nhiều động thái
tiếp tục cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực
thuế trong thời gian tới, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện
môi trường kinh doanh.
Đặc biệt, với quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh, liên tục từ năm
2014 đến nay, Chính phủ đã có ban hành các Nghị quyết 19 nhằm cải
thiện môi trường kinh doanh Việt Nam. Báo cáo thường niên về chỉ số
thuận lợi kinh doanh 2017 do Ngân hàng Thế giới công bố cho thấy, Việt
Nam xếp hạng 82 trên tổng số 190 nền kinh tế được đánh giá, tăng 9
bậc so với năm 2016. So với bảng xếp hạng năm trước, Việt Nam đã
thăng hạng 9 bậc (năm 2016, Việt Nam xếp thứ 91 với điểm số
61,11/100). Đóng góp quan trọng vào sự thăng hạng này là sự cải cách
mạnh mẽ về thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế cũng như những đổi
mới về chính sách thuế theo xu thế hội nhập.
Một số vấn đề cần tiếp tục quan tâm
Liên tục từ năm 2014 đến năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
các Nghị quyết số 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia, trong đó chỉ rõ những định hướng cấp bách
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về thuế. Thực hiện Nghị quyết 19
của Chính phủ, Bộ Tài chính đã vào cuộc với tinh thần quyết quyết tâm
cao và đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào cải
thiện môi trường kinh doanh Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội
nhập đặt ra việc hoàn thiện các công cụ chính sách và quản lý thuế phù
hợp cần tiếp tục thực hiện. Theo đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh
thuế của Việt Nam, cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút dòng vốn
đầu tư từ nước ngoài, cần tiếp tục quan tâm đến một số nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính. Rà
soát và rút gọn các thủ tục hành chính thuế; các biểu mẫu, thành phần
hồ sơ đơn giản; quy định rõ trách nhiệm của từng phòng ban, công chức
quản lý thuế trong việc tiếp nhận và giải quyết; bổ sung và sửa đổi các
quy định về thuế cho phù hợp với những nội dung thay đổi thủ tục hành
chính và giảm tần suất kê khai thuế để giảm gánh nặng tuân thủ cho
người nộp thuế.
Thứ hai, tăng cường hỗ trợ người nộp thuế, cần tăng cường hơn nữa
việc tổ chức tập huấn chính sách thuế mới cho người nộp thuế; tăng
cường tiếp xúc, đối thoại, tư vấn qua đường dây nóng hay hộp thư thoại;
khuyến khích phát triển các đại lý thuế.
Thứ ba, thay đổi chính sách thuế theo hướng phù hợp với thông lệ
chung của quốc tế như thống nhất một mức thuế suất thuế giá trị gia
tăng; bên cạnh thực hiện lộ trình giảm thuế suất thuế TNDN, cần xây
dựng chính sách thuế khuyến khích đặc biệt cho các dự án khởi nghiệp
như áp dụng thuế suất thấp, miễn thuế TNDN trong những năm đầu kể
từ năm kinh doanh có lãi; thống nhất một phương pháp tính thuế thu
nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập từ chuyển nhượng bất động
sản, chuyển nhượng chứng khoán…
Thứ tư, hoàn thiện hiện đại hóa quản lý thuế, tập trung xây dựng hạ tầng
truyền thông hiện đại, có tính bảo mật cao trong công tác thu thuế; sớm
hoàn thiện hệ thống dịch vụ thuế điện tử để triển khai trong các DN; hợp
tác và trao đổi thông tin với các tổ chức quốc tế.
Theo tapchitaichinh.vn
5. Chậm giải ngân vốn và hệ lụy khó lường
Vốn đầu tư công được giải ngân chậm kỷ lục, khiến lãnh đạo Chính
phủ tỏ ra sốt ruột. Giải ngân chậm đang ảnh hưởng trực tiếp tới
tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm. Ngoài tác động xấu khiến
GDP khó cán đích 6,7% như mục tiêu, giải ngân chậm còn khiến
Chính phủ phải gánh lãi vay của dân.
Giải ngân trong 6 tháng đầu năm mới đạt 25,6% kế hoạch Quốc hội
duyệt. Ảnh: Hồng Vĩnh.
Lỗi tại ai?
Cập nhật báo cáo bức tranh kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm cho thấy:
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện nửa đầu năm 2017 đạt hơn 674
nghìn tỷ đồng (bằng 32,8% GDP). Trong đó: Vốn khu vực Nhà nước đạt
242 nghìn tỷ đồng; Khu vực ngoài Nhà nước đạt hơn 260 nghìn tỷ đồng;
Khu vực FDI đạt 171 nghìn tỷ đồng. “Mặc dù đầu tư khu vực Nhà nước
vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội,
song xu hướng co hẹp của khu vực này là rõ ràng”, Cty Chứng khoán
MB nhận định.
Tại buổi họp Tổ giải ngân vốn đầu tư công do Phó Thủ tướng Vương
Đình Huệ chủ trì (4/7), đại diện Bộ KH&ĐT cho hay: Đối với vốn trái
phiếu Chính phủ (TPCP), qua 6 tháng mới giao được 5.197 tỷ đồng vốn
kế hoạch năm 2017, chiếm 10,4%. Còn vốn TPCP chuyển nguồn mới
giao được hơn 6.200 tỷ đồng (38,2%). Như vậy, vốn TPCP chưa giao
còn gần 55.000 tỷ đồng.
Trước tình hình này, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu Bộ
trưởng Bộ KH&ĐT tổ chức kiểm điểm trách nhiệm các cá nhân, tập thể
báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30/7/2017. “Cần thiết sẽ yêu
cầu Thanh tra Chính phủ làm rõ trách nhiệm của ai giao vốn chậm”, Phó
Thủ tướng Vương Đình Huệ nói.
Trao đổi với PV Tiền Phong về vấn đề liên quan, lãnh đạo Bộ KH&ĐT
khẳng định: Bộ đang nghiêm túc thực hiện yêu cầu của Phó Thủ tướng
Vương Đình Huệ trong việc rà soát trách nhiệm của cá nhân, cục vụ có
nhiệm vụ liên quan. “Chúng tôi đã giao vụ tổng hợp kinh tế quốc dân rà
soát trách nhiệm của cục, vụ theo chỉ đạo của phó thủ tướng. Khi có kết
quả, chúng tôi sẽ báo cáo”, lãnh đạo Bộ KH&ĐT nói.
Theo một chuyên viên Bộ KH&ĐT, việc giải ngân chậm có nhiều nguyên
nhân từ khâu chuẩn bị dự án (DA) đến triển khai thực hiện. Sau khi có
quyết định đầu tư, DA sẽ được bố trí kế hoạch vốn. Tuy nhiên, đa số
quyết định đầu tư DA hiện nay của nước ta chuẩn bị chưa tốt. Thậm chí
một số dự án phê duyệt quyết định đầu tư còn mang tính hình thức. DA
được bố trí vốn mới thực hiện các bước thiết kế cơ sở, xây dựng
phương án giải phóng mặt bằng, đánh giá tác động của DA liên quan
đến việc thu hồi đất… “Có chủ tịch tỉnh từng nói với tôi, thủ tục hành
chính rườm rà, tiền sẵn có nhưng phải soi rất kỹ mới dám trình ký. Thà
chậm còn hơn mắc sai sót dù vô tình hay cố ý”- một lãnh đạo Bộ
KH&ĐT tiết lộ.
Luẩn quẩn huy động vốn
Trước thực tế này, chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ đề xuất: Bộ KH&ĐT
cần tìm cách tháo gỡ thủ tục để thực hiện giải ngân vốn đầu tư cho các
DA nhanh hơn. Ngoài ra, chủ đầu tư DA là địa phương, bộ ngành cũng
cần cố gắng, tích cực hơn trong thực hiện. “Tôi cho rằng, tình trạng này
lỗi từ 2 phía. Ngoài lỗi do Bộ KH&ĐT, còn lỗi do năng lực kém của chủ
đầu tư DA. Từ đó mới xảy ra tình trạng tiền sẵn có nhưng không giải
ngân được”, ông Hồ nói.
Thông tin từ Bộ Tài chính cho biết, kết quả giải ngân trong 6 tháng đầu
năm rất thấp, đạt xấp xỉ 91.400 tỷ đồng, bằng 25,6% kế hoạch Quốc hội
quyết định (trong khi cùng kỳ năm 2016 đạt 26,8%). Số liệu của Kho bạc
Nhà nước cho thấy, sau nửa năm đã phát hành được 3/4 số lượng
TPCP để huy động vốn cho thực hiện các công trình, dự án nhưng việc
giải ngân lại đang chậm trễ như nêu trên.
Cập nhật bức tranh kinh tế, đến hết năm 2017, nợ công của Việt Nam sẽ
tăng lên mức 65% GDP chạm trần mức 65% mà Quốc hội đề ra. “Nợ
công chạm trần, Chính phủ sẽ phải tính đến vay nợ trong nước. Để vay
nợ, bù đắp bội chi, các công cụ điều hành vĩ mô như công cụ lãi suất, tỷ
giá... sẽ được sử dụng. Điều này sẽ gây áp lực lên lạm phát và toàn bộ
nền kinh tế”, một chuyên gia ngân hàng bày tỏ quan ngại. Ông cũng cho
rằng, huy động từ phát hành TPCP xong rồi không tiêu được lại quay
nằm ở ngân hàng, là luẩn quẩn.
Hiện nay, Bộ KH&ĐT chỉ bố trí tổng vốn đầu tư phát triển cho địa
phương, bộ ngành. Số vốn này được cấp cho các dự án bao nhiêu là do
lãnh đạo bộ ngành, địa phương quyết định. Bộ KH&ĐT là đơn vị tổng
hợp, rà soát quá trình thực hiện.
Đại diện Bộ KH&ĐT cho hay, tới đây các địa phương phải tăng cường
khâu chuẩn bị DA. Với các nước trên thế giới, thời gian chuẩn bị DA
trung bình 3 năm. Với một số DA vốn đầu tư lớn có thể kéo dài 7-10
năm. Khi có quyết định đầu tư, các DA thi công rất nhanh, chỉ 15-20
tháng là hoàn thành.
Tại hội nghị ngành Bộ Tài chính (5/7), Phó Thủ tướng Vương Đinh Huệ
nói: Việc giải ngân vốn đầu tư công quá chậm, chỉ đạt 25% dự toán, làm
ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế; vốn ngân sách từ năm trước chuyển
sang năm 2017, tính đến nay chưa giải ngân được là 300.000 tỷ đồng.
“Số vốn mang tính chất “mồi” này nếu giải ngân kịp thời, có thể thu hút
khoảng 700.000 tỷ đồng vốn đầu tư của xã hội cho phát triển kinh tế. Dù
trách nhiệm chính là của Bộ KH&ĐT nhưng cũng có phần trách nhiệm
của Bộ Tài chính trong phối hợp”, Phó Thủ tướng nói.
Theo tienphong.vn
6. Nên để doanh nghiệp tự do bán hàng
Quan điểm mới nhất của cơ quan quản lý với câu chuyện trần
khuyến mãi là tiếp tục giữ nguyên quy định có từ năm 2006 với việc
doanh nghiệp không được khuyến mãi giảm giá quá 50% giá trị
hàng hóa, dịch vụ (trừ những chương trình tập trung hoặc xúc tiến
thương mại do Thủ tướng Chính phủ quyết định). Với bối cảnh các
hình thức kinh doanh phát triển mạnh mẽ; hệ thống pháp luật ngày
càng hoàn thiện như hiện nay, có lẽ cơ quan quản lý cần... nghĩ lại
về quan điểm này của mình.
Liên quan đến trần khuyến mãi, từ mấy năm trước, doanh nghiệp lẫn cơ
quan quản lý hoạt động xúc tiến thương mại ở các tỉnh thành đã nhiều
lần kiến nghị Bộ Công Thương xem xét dỡ bỏ quy định. Lý lẽ của các
bên liên quan đưa ra là quy định có từ năm 2006 không còn phù hợp với
bối cảnh thị trường đã phát triển, số lượng doanh nghiệp trong mỗi
ngành nghề, lĩnh vực gia tăng và phải cạnh tranh gay gắt để giành và
giữ chân khách hàng. Quy định này là “vòng kim cô” bó buộc doanh
nghiệp không thể bán hàng để thu hồi vốn trong những thời điểm như
kinh tế khó khăn, sức mua của người tiêu dùng xuống thấp, hàng hóa
tồn kho cao, dòng tiền bị ngưng trệ. Trong khi đó, cơ quan quản lý thì
gặp khó trong việc thực thi. Nói như vị phó phòng xúc tiến thương mại
của một sở công thương ở phía Nam thì mỗi năm có hàng ngàn chương
trình khuyến mãi, chỉ riêng việc ngồi đọc đăng ký từ doanh nghiệp, so
sánh đối chiếu mặt hàng, chủng loại là đã hết thời gian; nhân lực lại
thiếu nên việc quản lý trên thực tế là không thể. Chưa hết, cũng vì thấy
quy định bất cập nên chính cơ quan thực thi chấp nhận “ngó lơ” để
doanh nghiệp tự do khuyến mãi, giảm giá tùy thích.
Ở thời điểm hiện tại, bối cảnh thị trường còn khác hơn rất nhiều. Thứ
nhất, số lượng doanh nghiệp ở mỗi lĩnh vực, ngành hàng ngày càng
đông đảo. Mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng ngày càng khốc liệt.
Quan trọng hơn, với sự phát triển của công nghệ, đã có thêm nhiều hình
thức thương mại xuất hiện và phát triển mạnh mẽ, vượt ra ngoài những
phương thức quản lý truyền thống. Thương mại điện tử (mua bán trên
mạng Internet) là một ví dụ. Người tiêu dùng có thể mua bán xuyên biên
giới, có rất nhiều công cụ để so sánh, đối chiếu giá cả, chất lượng sản
phẩm, dịch vụ...
Và để thu hút người tiêu dùng trong một thị trường cạnh tranh, các
doanh nghiệp đã và đang phải dùng đến rất nhiều hình thức khuyến mãi.
Chẳng hạn tại các siêu thị, với hóa đơn mua hàng từ 500.000 đồng trở
lên, khách hàng sẽ được mua một sản phẩm nào đó với giá chỉ bằng
một phần năm, một phần bảy giá bình thường. Khách hàng có thẻ thành
viên còn được giảm giá thêm vài phần trăm, tích điểm để cuối năm nhận
khuyến mãi khác. Các trung tâm điện máy thì giảm giá thêm 10% cho
khách hàng thanh toán bằng thẻ ghi nợ của các ngân hàng có liên kết
đồng thời với việc đã giảm giá trên từng sản phẩm. Rất nhiều doanh
nghiệp cũng chọn cách trưng biển khuyến mãi với giá bán tuyệt đối, thay
vì tỷ lệ phần trăm và nếu tính cụ thể, mức giảm có khi lên 70-80%... Đó
là chưa kể những chương trình khuyến mãi kiểu như giá bán chỉ là
11.000 đồng/sản phẩm (trong khi giá bình thường là hàng triệu đồng)
nhân sinh nhật 11 năm thành lập công ty, bán cho 11 khách hàng nhận
được thông báo qua tin nhắn, điện thoại... Nếu đối chiếu với quy định
hiện hành, những khuyến mãi dạng này trong nhiều trường hợp đã vượt
ngoài khuôn khổ và các cơ quan quản lý hoàn toàn không thể kiểm tra,
kiểm soát, không chỉ vì thiếu nhân sự mà còn vì không đủ công cụ, khả
năng.
Dẫn chứng như vậy để thấy, đến lúc này, công cụ trần khuyến mãi vốn
được ra đời từ năm 2005-2006 đã không còn phù hợp với bối cảnh thị
trường mới cũng như không thể thực thi trong thực tế. Vì vậy, cơ quan
quản lý nên gỡ bỏ quy định đã lỗi thời này và để doanh nghiệp tự do bán
hàng, tận dụng mọi cơ hội kinh doanh có thể có trong cuộc cạnh tranh
ngày càng gay gắt mà họ đang phải đối mặt hàng ngày khi thị trường mở
cửa, công nghệ phát triển và có khả năng làm thay đổi mọi thứ liên tục.
Việc này cũng giúp gỡ bỏ trách nhiệm, gánh nặng quản lý cho chính cơ
quan thực thi, giảm tải thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.
Còn để bảo vệ doanh nghiệp khi bị đối thủ có tiềm lực kinh tế, dùng hình
thức giảm giá mạnh để thu hút người tiêu dùng nhằm mục tiêu giành giật
thị phần, thậm chí triệt hạ, loại bỏ thì cơ quan quản lý cần kích hoạt Luật
Cạnh tranh. Bởi lẽ, các hành vi kiểu này là cạnh tranh không lành mạnh
và đã có chế tài xử lý trong Luật Cạnh tranh 2004. Luật này cũng đang
được Bộ Công Thương chủ trì sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình
hình mới cũng như có thể áp dụng vào thực tế, điều còn rất hạn chế
trong 10 năm vừa qua.
Theo thesaigontimes.vn
7. Có cần tem chống sách lậu?
Thông tin về việc Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và
Truyền thông) đang tổng hợp ý kiến liên quan đến việc xây dựng
Thông tư quy định về "Dán tem phòng, chống in lậu, in giả, sao
chép trái phép xuất bản phẩm" đang được các đơn vị xuất bản -
chủ thể chịu sự điều chỉnh, đặc biệt quan tâm. Chia sẻ với Báo
Hànộimới, đại diện một số đơn vị liên kết xuất bản băn khoăn về
tính hiệu quả của việc dán tem chung để chống sách lậu...
Các đơn vị liên kết xuất bản đang đề nghị tăng hậu kiểm để quản lý
sách. Ảnh: Thái Hiền
Bà Trần Phương Thảo - Phó Tổng Giám đốc điều hành Công ty cổ phần
Sách Thái Hà (Thái Hà Books):
Đi ngược với xu thế
Tất cả đơn vị xuất bản, bao gồm các nhà xuất bản và đơn vị liên kết như
Thái Hà Books, đều chịu ảnh hưởng lớn bởi văn bản này. Việc Cục Xuất
bản, In và Phát hành không lấy ý kiến của các đơn vị liên kết là không
hợp lý vì hiện nay, cả nước có gần 200 đơn vị xuất bản, đa số là đơn vị
liên kết. Như vậy, nếu không lấy ý kiến của các đơn vị liên kết thì sẽ
không thể có được quan điểm tổng quát, nhiều chiều và thực tế.
Việc tìm cách ngăn chặn và phòng ngừa sách lậu, sách giả đòi hỏi
những biện pháp khả thi. Tôi cho rằng ý kiến in tem chống giả chung là
đi ngược với xu thế. Mỗi công ty sách, nhà xuất bản hầu như đều có tem
chống giả, đừng để họ phải gánh thêm một con tem, một giấy phép con
nữa!
Trong dự thảo, Cục Xuất bản yêu cầu thông tin trên tem cần có 4 thông
số: Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN); số xác nhận đăng ký xuất bản
của Cục; số quyết định xuất bản của giám đốc nhà xuất bản; số thứ tự
theo sốlượng xuất bản phẩm được in. Như vậy sẽ phải có tem riêng vì
mỗi một tựa sách có một số ISBN và số xác nhận đăng ký khác nhau.
Trong khi đó, số lượng in hiện tại của các đơn vị làm sách hầu như
không quá 5.000 cuốn một lần in, nếu đánh số thứ tự theo số lượng xuất
bản phẩm được in sẽ chẳng khác gì in tem đặc biệt, mỗi con tem là một
số!
Việc sử dụng tem chung không giúp chống được sách lậu mà chỉ gây
cản trở cho các đơn vị xuất bản. Luật Xuất bản đã có rồi, để chống in lậu
thực sự hiệu quả thì các đơn vị chức năng phải thực hiện luật nghiêm
túc trong tất cả các khâu của hoạt động xuất bản.
Ông Trịnh Tuấn - Giám đốc Công ty cổ phần Sách và Truyền thông
Quảng Văn (Quảng Văn Books):
Đừng loay hoay với việc dán tem!
Tôi thực sự rất buồn vì Cục Xuất bản, In và Phát hành không lấy ý kiến
của đối tác liên kết phát hành khi xây dựng dự thảo Thông tư dù theo
Điều 23 Luật Xuất bản thì nhà xuất bản được liên kết với tổ chức, cá
nhân (tức đối tác liên kết) để xuất bản đối với từng xuất bản phẩm.
Trong thực tế, trừ sách giáo khoa thì đa phần sách bày bán ngoài thị
trường là của các đối tác liên kết. Do vậy, về bản chất, dự thảo Thông tư
có tác động đến các công ty sách tư nhân không kém gì so với các nhà
xuất bản.
Theo tôi, Thông tư sẽ có những tác động không có lợi đối với các nhà
xuất bản và công ty sách. Thứ nhất, làm gia tăng chi phí cho sản phẩm,
dẫn đến việc tăng giá bìa, làm ảnh hưởng đến sức mua của độc giả.
Thứ hai, thêm thủ tục hành chính đối với các nhà xuất bản và công ty
sách, không loại trừ nguy cơ giấy phép con, nảy sinh tâm lý xin - cho.
Thứ ba, lãng phí nguồn lực, vì hiện tại hầu hết các nhà xuất bản và các
công ty sách đều có ISBN, có mã vạch tiêu chuẩn, có đăng ký sở hữu trí
tuệ thương hiệu, nhãn hiệu công ty, có tem chống làm giả...
Để phòng, chống có hiệu quả tình trạng xâm phạm bản quyền cả với
sách in và sách điện tử, trước hết cần thay đổi tư duy. Dự thảo Thông tư
dán tem phòng, chống in lậu, in giả và sao chép trái phép xuất bản phẩm
thể hiện cơ chế quản lý doanh nghiệp theo tư duy “tiền kiểm”, sẽ đặt
gánh nặng lên vai doanh nghiệp. Cần quản lý theo tư duy “hậu kiểm”,
tức là Cục Xuất bản, In và Phát hành cùng với các nhà xuất bản, các
công ty sách đưa ra những tiêu chuẩn và quy chuẩn dựa trên thông lệ
quốc tế.
Hiện nay, trên các xuất bản phẩm đều có trang bản quyền, có ISBN, có
mã vạch, tem chống giả… Đó là những tiêu chuẩn và quy chuẩn giúp
phòng, chống in lậu, in giả và sao chép xuất bản phẩm trái phép. Mấy
năm trước, gần như toàn bộ các tựa sách của chúng tôi bị in lậu, in giả,
nhưng nay đã không còn tình trạng đó vì ngoài việc tuân thủ tiêu chuẩn
và quy chuẩn nêu trên, chúng tôi cùng các nhà phân phối/bán lẻ đưa
thêm các điều khoản, ví dụ nhà sản xuất cam kết không phát hành sách
không có bản quyền; nhà phân phối/bán lẻ cam kết không bán sách lậu.
Trong hợp đồng sử dụng tác phẩm với tác giả trong nước và các nhà
xuất bản nước ngoài cũng đều có điều khoản về việc hai bên cùng
chống hành vi in lậu. Rõ ràng đó là trách nhiệm và quyền lợi sát sườn
của các nhà xuất bản và công ty sách, chúng tôi không thể không làm.
Tôi nghĩ, với tinh thần của Chính phủ kiến tạo, Cục Xuất bản, In và Phát
hành cần đồng hành, hướng dẫn và giám sát các doanh nghiệp trong
lĩnh vực xuất bản tuân theo tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc tế, để cùng
kiến tạo ngành Xuất bản Việt Nam phát triển lành mạnh, xứng đáng với
tiềm năng hiện có, chứ không chỉ loay hoay với việc dán tem để phòng,
chống in lậu.
Theo hanoimoi.com.vn
8. Chặn "giấy phép con": Chỉ Chính phủ quyết liệt thôi thì chưa đủ
Luật sư Trương Thanh Đức: "Một khi không giải quyết được vấn đề
tổng thể, không thay đổi tư duy và có sự phối hợp thì điều kiện
kinh doanh vẫn khó khăn".
Nút thắt từ bộ, ngành
Kinh tế chỉ phát triển khi người dân được tự do kinh doanh, thuận tiện
trong thành lập và vận hành doanh nghiệp. Cởi trói về mặt chính sách,
để đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân là mục tiêu Chính phủ
đang hướng đến.
Báo cáo rà soát điều kiện kinh doanh và quyền tự do kinh doanh ở Việt
Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp
với Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, ngành nghề kinh doanh có điều
kiện đã giảm từ 267 xuống còn 243.
Điều này thể hiện được tinh thần cải cách, thúc đẩy quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp, nhất quán với các chính sách tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh của Chính
phủ.
Kinh tế chỉ phát triển khi người dân được tự do kinh doanh, thuận tiện
trong thành lập và vận hành doanh nghiệp và không bị phiền hà bởi
giấy phép con - ảnh minh họa/ nguồn Vietnamnet.
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến theo hướng tích cực, trong hệ
thống pháp luật vẫn còn chứa đựng nhiều rào cản khiến cho việc hiện
thực hóa quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp gặp
khó khăn.
Trao đổi với phóng viên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam về điều kiện
kinh doanh, Luật sư Trương Thanh Đức - Trọng tài viên của Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) cho rằng, điều kiện kinh doanh không
phù hợp (thường được gọi là “giấy phép con”) là một trong những vấn
đề quan trọng nhất, nhưng cũng phức tạp và khó nhất khi xây dựng các
quy định cụ thể nhằm thực thi nguyên tắc “tự do kinh doanh” đã được
hiến định.
Theo ông Đức, con số ngành nghề kinh doanh có điều kiện giảm từ 267
xuống còn 243 (giảm 24 ngành, nghề) là quá ít. Trong khi đó vẫn có tới
5.719 điều kiện kinh doanh liên quan đến 243 ngành, nghề kinh doanh
hiện nay là con số tương đối lớn.
Mặt khác, nguyên nhân việc giảm danh mục ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện đã giảm từ 267 xuống còn 243 là do sắp xếp lại, thay đổi từ
ngữ và sáp nhập một số ngành vào nhau chứ không hẳn đã giảm được
24 ngành, nghề có điều kiện kinh doanh.
“Trong nhiều lĩnh vực thực hiện cải cách đã giảm giấy phép con và mang
lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong một số lĩnh vực giấy
phép con 'giảm 10 tăng 7', giảm về mặt hình thức còn nội hàm vẫn gây
khó cho doanh nghiệp”, Luật sư Đức cho biết.
Luật sư Đức cho rằng, thời gian qua Chính phủ quyết liệt đưa ra nhiều
chỉ đạo, giải pháp để giảm giấy phép con nhưng lại bị hạn chế ở cấp bộ,
ngành do các quan điểm cải cách "nửa vời, thỏa hiệp".
“Giải quyết vấn đề này phải có tính hệ thống, đồng bộ, quyết tâm cao, có
sự giám sát kiểm tra chặt chẽ, xử lý kiên quyết, kịp thời”, ông Đức nhấn
mạnh.
Phải định nghĩa lại điều kiện kinh doanh
Để giải quyết vấn đề giấy phép con theo Luật sư Đức cần xây dựng luật
chi tiết, cụ thể giảm bớt nghị định, thông tư hướng dẫn bởi sau khi luật
ban hành là hàng loạt nghị định, thông tư.
Hiện nay việc hiểu nội dung nghị định, thông tư là cụ thể hóa điều kiện
kinh doanh đã được quy định trong luật, hay lại "đẻ" thêm điều kiện kinh
doanh ngoài luật vẫn còn những tranh cãi.
Luật sư Đức cho biết, điều kiện nhập khẩu ô tô dưới 9 chỗ ngồi quy định
tại Thông tư 20/2011/TT-BCT của Bộ Công Thương là ví dụ điển hình.
Thực tế quy định tại Thông tư 20 là điều kiện kinh doanh với doanh
nghiệp nhập khẩu ô tô.
Dù Bộ Công Thương đã sửa đổi và bãi bỏ quy định nộp bổ sung giấy
chứng nhận cơ sở bảo hành, bảo dưỡng ô tô đủ điều kiện do Bộ Giao
thông vận tải cấp như quy định cũ.
Tuy nhiên, các điều kiện khác của Thông tư 20 vẫn được áp dụng như
các doanh nghiệp muốn nhập ô tô vẫn phải có giấy chỉ định hoặc ủy
quyền là nhà nhập khẩu, phân phối chính hãng; hoặc hợp đồng đại lý
chính hãng theo quy định.
Luật sư Trương Thanh Đức - Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài
quốc tế Việt Nam (VIAC) - ảnh nhân vật cung cấp.
“Lý giải về vấn đề này Bộ Công Thương cho rằng, nhằm hạn chế nhập
khẩu vì đường xá, vì doanh nghiệp ô tô trong nước. Tuy nhiên nếu hạn
chế phải bằng bằng điều kiện kinh tế như tăng thuế chứ không phải điều
kiện mất công bằng.
Những điều kiện này chỉ gây khó cho doanh nghiệp nhập khẩu ô tô trong
nước còn doanh nghiệp ô tô nước ngoài nhập khẩu thỏa mái vì dễ dàng
đáp ứng điều kiện mình đặt ra”, ông Đức cho hay.
Giải thích về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, khoản 1, Điều
7 Luật Đầu tư nêu rõ: “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là
ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong
ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”.
Luật đầu tư cũng giải thích điều kiện đầu tư kinh doanh là điều kiện mà
cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh, nghị
định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh trong các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
“Những cách lý giải của luật về điều kiện kinh doanh, ngành nghề kinh
doanh có điều kiện còn mơ hồ và chưa phản ánh hết những khó khăn,
rào cản những thứ na ná như điều kiện kinh doanh, bản chất là điều kiện
kinh doanh mà doanh nghiệp phải vượt qua nếu muốn hoạt động sản
xuất kinh doanh”, ông Đức cho nói.
Dẫn chứng cụ thể ông Đức cho biết, khi thành lập doanh nghiệp phải
vượt qua nhiều rào cản:
Thứ nhất là quy hoạch, quy hoạch là biểu hiện rõ của điều kiện kinh
doanh.
Theo đó trước khi kinh doanh doanh nghiệp phải đáp ứng kế hoạch kinh
doanh đó có nằm trong quy hoạch hay không.
Nếu không doanh nghiệp phải tìm cách luồn lách để làm sao phù hợp và
nằm trong quy hoạch đó.
Thứ hai, thủ tục hành chính trước khi sản xuất kinh doanh. Nếu hiểu đơn
thuần khi hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được
hướng dẫn nộp ở đâu, giấy tờ gồm những gì… Tuy nhiên, trên thực tế
rất nhiều cái “đẻ” thêm ra đó chính là điều kiện kinh doanh.
Thứ ba, quy chuẩn, tiêu chuẩn với sản phẩm hàng hóa của doanh
nghiệp. Ví dụ nước mắm với những chỉ số tối đa như asen là bao nhiêu,
nó không nằm trong luật, nghị định mà nằm trong thông tư hướng dẫn ở
cấp bộ, thủ tục hành chính cũng vậy.
“Tư duy quản lý hiện nay dù tiền kiểm nhưng lại mang nặng hình thức
giấy tờ, trong khi đáng lẽ ra quản lý tiêu chuẩn, quy chuẩn phải là kiểm
soát chất lượng sản phẩm, tức là muốn làm thế nào thì làm, miễn là sản
phẩm phải đáp ứng được quy chuẩn”, ông Đức đánh giá.
Nêu ví dụ khác về điều kiện kinh doanh, ông Đức cho biết, quy định về
điều kiện sản xuất, kinh doanh mũ bảo hiểm cho người đưa ra quy định
như phải có nhà xưởng, có thiết bị ép, có khuôn mẫu phù hợp để sản
xuất vỏ mũ; thiết bị ép (đúc) và khuôn mẫu phù hợp để sản xuất lớp hấp
thụ xung động; thiết bị dập đinh tán…
“Tóm lại Chính phủ quyết tâm thôi thì chưa đủ nếu các bộ, ngành vẫn “tự
tung tự tác” dẫn đến một loạt quy định quá thừa thãi.
Một khi không giải quyết được vấn đề tổng thể không thay đổi tư duy
phương pháp và có sự phối hợp đồng bộ thì điều kiện kinh doanh sẽ khó
giảm”, Luật sư Đức nói.
Theo giaoduc.net.vn
9. Giảm chi phí DN và những trở ngại: Kỳ I: con dấu và sự phức tạp mang tên... thủ tục
Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định: 2017 là năm giảm chi phí cho
DN. Nhưng chỉ cần các công chức cấp dưới nhũng nhiễu thì mọi nỗ
lực giảm chi phí kinh doanh cho DN sẽ trở nên vô nghĩa.
Những khúc mắc trên đã trở thành câu cửa miệng của nhiều lãnh đạo
cấp cao và cũng được giới truyền thông nói ròng rã nhiều năm nay
nhưng không mấy chuyển biến. Vụ việc Cty TNHH Thương mại và dịch
vụ Đồng Phú (Cty Đồng Phú) bị các cán bộ Phòng Đăng ký kinh doanh
(Sở KH-ĐT Thái Nguyên) gây khó dễ khi xin bổ sung con dấu là minh
chứng về điều đó.
Lòng vòng... thông báo
Ông Đặng Đình Quý - GĐ cty cho biết, từ ngày 16/6/2016 đến nay, Cty
Đồng Phú được cấp Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh lần thứ 8 với
Hội đồng thành viên gồm 3 người: ông Đặng Đình Quý – Giám đốc,
người đại diện pháp luật Cty, sở hữu 71% vốn; ông Mai Tiến Minh – sở
hữu 19% vốn; bà Phan Thị Phương Hằng – sở hữu 10% vốn.
Tuy nhiên, hơn hai tháng qua, DN đã thực hiện rất nhiều thủ tục hành
chính, gặp gỡ cán bộ Phòng Đăng ký kinh doanh... cả chục lần chỉ để
tiếp nhận một tờ thông báo thay đổi đăng ký và bổ sung con dấu nhưng
đều không thành. Mặc dù, theo Luật DN và các văn bản hướng dẫn, thời
gian để Phòng Đăng ký kinh doanh thực hiện thủ tục hành chính này chỉ
tối đa là 3 ngày.
Luật DN 2014 đã có những quy định rất cởi mở với mục tiêu đơn giản thủ
tục hành chính và tiết giảm chi phí cho DN. Ảnh: S.T
Luật DN 2014 đã có những quy định rất cởi mở với mục tiêu đơn giản
thủ tục hành chính và tiết giảm chi phí cho DN. Theo Điều 44 Luật DN
2014 về con dấu của DN có quy định: DN có quyền quyết định về hình
thức, số lượng và nội dung con dấu của DN. Trước khi sử dụng, DN có
nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để
đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN”.
Nghe ra thì thủ tục thật đơn giản. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, Phòng
Đăng ký kinh doanh phải có công văn trả lời đã tiếp nhận thông báo của
DN, đồng thời đăng thông báo lên Cổng thông tin điện tử quốc gia về
đăng ký DN.
Sự nhũng nhiễu nằm ở thủ tục tưởng rất đơn giản. Theo phản ánh của
Cty Đồng Phú, lần đầu tiên đến Phòng Đăng ký kinh doanh thì cán bộ
hướng dẫn đóng dấu vào một bên tờ khai. Lần sau DN đến lại hướng
dẫn và ra công văn một kiểu... cứ hết hướng dẫn này lại viện lý do kia để
không làm thủ tục tiếp nhận thông báo của DN. Tại Công văn số 80 ngày
19/5/2017 của Phòng Đăng ký kinh doanh gửi DN, cơ quan này lại đề
nghị Cty Đồng Phú nộp bổ sung các tài liệu của Hội đồng thành viên về
việc quyết định số lượng, hình thức, nội dung và mẫu con dấu, việc quản
lý và sử dụng con dấu theo quy định.
Mặc dù, theo hướng dẫn Luật DN về thủ tục nộp hồ sơ thông báo không
có quy định này. Tuy vậy, để chiều lòng cơ quan quản lý, DN nộp hồ sơ
bổ sung đồng thời đóng mẫu con dấu vào các ô theo đúng hướng của
công văn. Vậy cũng không xong, Phòng Đăng ký kinh doanh lại tiếp tục
ra các công văn đề nghị bổ sung hồ sơ, trong đó có cả công văn... gửi
Công an tỉnh Thái Nguyên đề nghị phối hợp thay đổi số lượng con dấu.
Những đòi hỏi vô lý
Theo LS Đặng Thành Chung – GĐ Cty Luật An Ninh (Đoàn LS Hà Nội),
những yêu cầu của Phòng Đăng ký kinh doanh đều mang tính nhũng
nhiễu và không có căn cứ pháp luật. Sau khi Cty nộp các tài liệu của Hội
đồng thành viên gồm Biên bản họp HĐTV, Nghị quyết của HĐTV và
Điều lệ của Cty về quản lý và sử dụng con dấu, Phòng Đăng ký kinh
doanh lại gửi công văn sang công an là không cần thiết và không đúng
thẩm quyền. Vô lý hơn, cơ quan này lại căn cứ vào văn bản của bà Phan
Thị Phương Hằng – thành viên sở hữu 10% vốn góp của Cty để làm việc
đó.
Theo thông tin của DN cung cấp, bà Hằng đã từng được giao làm Giám
đốc Cty Đồng Phú, nhưng vì không được hội đồng thành viên tín nhiệm
nên đã thay đổi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh giao lại chức giám
đốc Cty và người đại diện pháp luật cho ông Đặng Đình Quý (người sở
hữu 71% vốn DN). Trong khi, Phòng Đăng ký kinh doanh lại căn cứ vào
văn bản của của bà Hằng với nội dung: “Từ khi thành lập Cty đến nay,
Cty chỉ sử dụng một con dấu. Việc quản lý con dấu cho đến nay vẫn do
bà Phan Thị Phương Hằng quản lý và sử dụng. Công ty khẳng định con
dấu của công ty chưa bao giờ giao cho ông Đặng Đình Quý”.
Theo LS Chung, việc Phòng Đăng ký kinh doanh căn cứ vào văn bản do
bà Phan Thị Phương Hằng để đề nghị công an giải quyết là gây khó dễ
cho DN. Cách làm như vậy là trái quy định tại Điều 4 Nghị định
78/2015/NĐ-CP hướng dẫn nguyên tắc áp dụng giải quyết thủ tục đăng
ký DN và trái với Luật DN. Bởi vì, cơ quan này căn cứ vào một thành
viên sở hữu 10% vốn để tước quyền quyết định của các thành viên sở
hữu 90% vốn.
Mặt khác, tại hướng dẫn số 179/PC64 Công an tỉnh Thái Nguyên ngày
15/01/2016 đã khẳng định: Cơ quan Công an và trực tiếp là PC64 không
có thẩm quyền giải quyết về việc quản lý và sử dụng con dấu. Kể từ khi
Luật DN và Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực, đây là vấn đề tự chủ của DN
và xác nhận của Phòng Đăng ký kinh doanh.
LS Chung cho rằng, việc đến thời điểm hiện tại Phòng Đăng ký Kinh
doanh thuộc Sở KH-ĐT tỉnh Thái Nguyên chưa thực hiện việc đăng tải
mẫu con dấu trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN là trái quy định
pháp luật về Đăng ký DN. Cty Đồng Phú có quyền khiếu nại theo Luật
Khiếu nại hoặc khởi kiện ra Tòa án theo quy định về tố tụng hành chính
và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Theo enternews.vn
10. Giảm chi phí DN và những trở ngại (Kỳ II): Lời giải không thuộc về DN
Đây là bài toán cho DN. Nhưng lời giải lại không chỉ nằm ở họ, mà
nó còn liên quan đến các chủ thể khác không thực hiện chức năng
đầu tư, kinh doanh.
Năm ngoái, trong “chiến dịch” cắt giảm các điều kiện kinh doanh, các DN
nhỏ kinh doanh gas ở nhiều địa phương đã phải “than trời” vì quy định
buộc mỗi DN phải có 50.000 vỏ bình và bồn chứa gas 300m3. Lý do
được đưa ra là để đảm bảo DN đủ điều kiện cung ứng cho thị trường,
tránh tình trạng sang chiết gas lậu, cưa tai vỏ bình.
Những chi phí... tuân thủ
Nhưng thực tế lại không hẳn là vậy. Bởi nhu cầu gas ở mỗi địa phương
là rất khác nhau. Có những DN miền núi phía Bắc than rằng: chỉ 20.000
vỏ bình đã thừa đáp ứng nhu cầu tại tỉnh. Hơn nữa, chỉ với 20.000 vỏ
bình này, thì DN lại phải thuê đất, dựng nhà xưởng chỉ để làm kho chứa.
Chi phí tăng lên rất nhiều. Với 50.000 vỏ bình gas, thì đương nhiên mỗi
DN, dù lớn hay nhỏ, đã phải bỏ ra tới 25 tỷ đồng chỉ để đáp ứng cái tiêu
chuẩn không phù hợp với quy luật thị trường này. Chi phí tuân thủ quy
định này của DN là rất lớn. Hay những quy định về nhà xưởng, kho bãi,
máy xay xát đối với các DN xuất khẩu gạo trước đây là một ví dụ kinh
điển khác. Bởi lẽ với các điều kiện này, cùng với quy hoạch 150 thương
nhân xuất khẩu gạo, đã bóp chết nhiều DN vì chi phí tuân thủ khá lớn.
Chi phí vận chuyển 1 container từ cảng Hải Phòng - Hà Nội gấp 3 lần so
với chi phí từ Hàn Quốc, Trung Quốc về Việt Nam
Mới đây nhất, cuộc chiến giữa taxi và Grab, Uber taxi đã lộ ra một vấn
đề. Các hãng taxi truyền thống cho rằng sở dĩ không thể cạnh tranh
được với loại hình kinh doanh mới là Grab và Uber không phải bởi nội
lực không có. Mà bởi vì nội lực ấy đã phải dùng để tuân thủ các điều
kiện kinh doanh của ngành này.
Kho bãi, máy móc, nhà xưởng, văn phòng… rõ ràng trong nền sản xuất
theo chuỗi giá trị không còn phải là điều kiện tiên quyết. Nhưng vẫn còn
hàng trăm văn bản yêu cầu DN sản xuất, kinh doanh phải hội tụ đủ những
điều kiện về kho bãi, máy móc, nhà xưởng, diện tích văn phòng. Trong khi
đó, trong xu thế phát triển, thì những vấn đề trên hoàn toàn có thể trở
thành dịch vụ chuyên nghiệp để liên kết sản xuất. Điều đáng bàn là, trong
khi các cơ quan hữu quan luôn nói DN phải giảm chi phí, hạ giá thành…
nhưng chính họ lại đang đặt ra nhiều điều kiện kinh doanh làm cho chi phí
tuân thủ tăng lên. Hạ giá thành vì vậy là bài toán không có lời giải.
DN phải đối phó, tuân thủ hàng chục nghìn điều kiện kinh doanh hiện tại
đã là một gánh nặng. Trong số hàng chục nghìn điều kiện kinh doanh ấy,
như nhiều chuyên gia đã bình luận, có những điều kiện hết sức vô lý, phi
thị trường và chỉ làm cho chi phí tuân thủ của DN ngày càng chồng chất.
Trong khi đó, nếu có thể bỏ được hàng nghìn điều kiện kinh doanh vô lý,
thì rõ ràng DN sẽ bớt đi được những khoản chi cho việc tuân thủ những
điều kiện không cần thiết. Bởi xét cho đến cùng, những điều kiện kinh
doanh sẽ luôn buộc các DN phải gồng mình đáp ứng những thứ không
phải là thị trường.
Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc lúc phát biểu trong cuộc gặp của Thủ tướng
với cộng đồng DN ngày 17/5 đã từng ví von rằng: với những điều kiện
kinh doanh ấy thì đến Boeing cũng bó tay không thể kinh doanh được ở
Việt Nam.
Và những trở ngại mang tên... không chính thức
Chia sẻ tại Diễn đàn Phát triển DN Việt Nam 2017, ông Đậu Anh Tuấn -
Trưởng Ban pháp chế Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
(VCCI) cho biết,"50-60% DN chi trả chi phí không chính thức vì cho rằng
để giảm phiền hà, duy trì quan hệ, né tránh nghĩa vụ...".
Theo Trưởng Ban pháp chế của VCCI, chi phí không chính thức DN
không chỉ là nạn nhân còn là tác nhân, coi đây như lợi thế cạnh tranh
của mình, thể hiện môi trường kinh doanh không minh bạch.
Thừa nhận thực tế này, ông Võ Trí Thành - nguyên Phó Viện trưởng
Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) đánh giá, ngoài chi phí chính
thức như phí logistic, hạ tầng, tuân thủ pháp lý, ngăn ngừa khủng hoảng
rủi ro,..., các DN Việt còn đang phải trả chi phí không chính thức.
Băn khoăn về những rào cản đổi với DN tư nhân, ông Hồ Sỹ Hùng - Cục
trưởng Cục phát triển DN (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, quy mô vốn
hạn chế là một trong các trở ngại lớn khiến các DN tư nhân không tận
dụng được hiệu quả kinh tế.
Việc không năng lực tài chính khiến DN khó khăn trong việc đầu tư vào
máy móc công nghệ để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, ông
Hùng nhận định.
Theo Báo cáo khảo sát của Jetro năm 2016, tốc độ tăng lương tối thiểu
thời gian qua từ 8-12%, đem lại lợi ích cho người lao động, nhưng tốc độ
tăng năng suất lao động lại chỉ đạt 4-5%; mức đóng bảo hiểm 22%
lương tháng là cao, so với Malaysia chỉ là 13%, Philippines là 10% .
Giảm chi phí, hạ giá thành để tăng tính cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận
luôn là chiến lược của bất kể một DN nào. Nhưng chiến lược ấy, dù có
vẫy vùng thế nào, cũng khó có thể thành công nếu động lực bị triệt tiêu
bởi hàng chục nghìn điều kiện kinh doanh vô lý, phi thị trường.
Ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương đã từng nhận định: trong khi pháp luật thì đắt đỏ, chi phí
tuân thủ các điều kiện kinh doanh và chi phí không chính thức đã giết
chết những nỗ lực hạ giá thành, nâng cao tính cạnh tranh của DN. Bởi
vậy, vấn đề giảm chi phí cho DN, như đã nói ở trên, thường không phụ
thuộc vào bản thân chính sách của DN.
Theo enternews.vn
11. Ngăn chặn tình trạng vượt biên đi lao động trái phép
Tình trạng vượt biên trái phép sang Trung Quốc lao động tạo ra
nhiều hệ lụy ở các thôn, bản vùng sâu, vùng xa của tỉnh Cao Bằng.
Cuộc sống nơi đất khách quê người không như mong đợi, người
lao động bị lừa, bị cướp tiền; có trường hợp còn trả giá bằng cả
mạng sống. Thực tế này cho thấy, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ
hơn từ cơ quan chức năng để tuyên truyền, hướng nghiệp giúp
người dân không chọn phương án tha hương đầy rủi ro.
Chúng tôi đến gặp gia đình ông Lý Văn Eng và bà Hoàng Thị Minh trú tại
xóm Sộc Sơn Ðinh (xã An Lạc, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng). Cách
đây ít lâu ông bà phải tổ chức tang lễ cho người con trai còn "xanh" tóc
là anh Lý Văn Cương. Anh Cương đã xuất cảnh trái phép sang Trung
Quốc làm thuê tại một nhà máy mía đường, không may bị tai nạn lao
động qua đời. Bà Hoàng Thị Minh rơm rớm nước mắt kể: Nó mới sang
làm được 10 ngày thì gia đình bất ngờ nghe tin đã chết vì bị thanh kim
loại lao vào người. Mãi mấy hôm sau mới đưa được thi thể từ bên kia
biên giới về. Là lao động chính trong gia đình, bất chấp nguy hiểm, anh
Cương vẫn chọn đi làm trái phép ở Trung Quốc với mong muốn đỡ đần
bố mẹ. Mẹ anh Cương không ngờ ngày anh đi cũng là lần cuối cùng
được nhìn thấy con trai mình...
Câu chuyện xảy ra với anh Cương là hệ quả đáng tiếc từ tình trạng lao
động vượt biên trái phép ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Chị Vương Thị Ðẹo,
trú tại xóm Lũng Tàn (xã Ða Thông, huyện Thông Nông) do gặp tai nạn
lao động, bị chấn thương nặng vùng xương chậu, hiện nay không ngồi
dậy được, mọi sinh hoạt đều phải nhờ người thân trong gia đình. Trong
khi đó, chấp nhận vượt biên trái phép vì khó khăn kinh tế, thế nhưng vợ
chồng anh Nông Văn Thích (xã Hồng Trị, huyện Bảo Lạc) lại bất hòa,
hạnh phúc gia đình tan vỡ vì chồng không tin tưởng vợ đi làm xa. Hay
như chị Thẩm Thị Nghinh, trú tại xóm Bản Chao (xã An Lạc, huyện Hạ
Lang), từ ngày bị bắt nhốt và đuổi về nước đến giờ vẫn còn hoảng loạn
tinh thần. Người phụ nữ này luôn trong tình trạng sợ hãi, mất trí nhớ,
không trò chuyện với ai, không tiếp xúc với người lạ. Một số người khác
lại bị cướp hết tiền khi trên đường về nhà qua các lối mòn đầy bất trắc...
Thực tế nêu trên cho thấy, người lao động vượt biên trái phép luôn trong
trạng thái "thân cô thế cô" nơi đất khách, chịu nhiều thiệt thòi. Không ít
trường hợp sang đến nơi thường xuyên bị chủ ép lao động với thù lao rẻ
mạt, bị "quỵt" tiền công và đối xử tệ bạc. Hơn nữa, vượt biên trái phép
khiến chính quyền không thể bảo vệ công dân khi xảy ra các vấn đề về
an toàn lao động. Theo thống kê của cơ quan chức năng, từ năm 2012
đến nay, trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có 10 công dân vượt biên trái phép
đi lao động bị chết do tai nạn.
Chủ tịch UBND huyện Bảo Lạc Nguyễn Ích Chánh cho rằng, vấn đề tạo
việc làm cho người dân vùng biên giới chưa hiệu quả là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng vượt biên trái phép để lao động. Hầu
hết người lao động dạng này đều chọn lúc nông nhàn, thời điểm cuối
năm hoặc tìm một công việc với mức lương cao. Người dân sang đất
khách cũng chỉ lao động phổ thông như thu hoạch mía, thu hái nông
sản... nhưng có mức thu nhập tốt hơn so với làm trong nước, khoảng
300 nghìn đồng/ngày/người. Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác
như nhận thức về luật pháp của người dân còn hạn chế; lực lượng chức
năng thiếu nhân lực, khó kiểm soát đường biên giới dài, lại nhiều lối mòn
sang nước bạn. Thủ tục pháp lý để xuất cảnh lao động còn rườm rà dẫn
đến việc người dân tự ý vượt biên trái phép, không được bảo đảm
quyền lợi…
Theo thống kê của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Cao Bằng, từ năm
2016 đến nay, toàn tỉnh có 18.017 lượt công dân xuất cảnh trái phép
sang Trung Quốc làm thuê. Trong đó tập trung nhiều nhất tại các huyện:
Phục Hòa, Hạ Lang, Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Bảo Lạc... Tình trạng vượt
biên trái phép để lao động ngày càng gia tăng và chưa có dấu hiệu dừng
lại.
Ðể hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng nêu trên; các cấp ủy, chính
quyền địa phương cần phối hợp với lực lượng liên ngành như: Công an,
biên phòng, các đoàn thể... tăng cường công tác quản lý, ngăn chặn trên
nhiều lĩnh vực; thực hiện tốt công tác quản lý tạm trú, tạm vắng, tổ chức
nắm tình hình, phát hiện và xử lý những trường hợp cố tình vi phạm. Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội cần mở thêm các lớp dạy nghề, tư
vấn, giới thiệu tạo việc làm mới cho lao động; hỗ trợ các trường hợp
được trao trả về vay vốn ưu đãi lập các mô hình kinh tế, vươn lên thoát
nghèo, ổn định cuộc sống... Cơ quan chức năng cần xử lý nghiêm các
trường hợp cò mồi, môi giới người dân xuất cảnh trái phép sang Trung
Quốc làm thuê; cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo điều kiện
thuận lợi nhất trong việc cấp giấy thông hành, hộ chiếu nhằm hạn chế
tình trạng xuất, nhập cảnh trái phép…
Có thể nói, tìm việc làm tạo thu nhập là nhu cầu chính đáng, nhất là với
đồng bào vùng nông thôn, miền núi còn khó khăn. Nhưng, đi lao động
bằng cách vượt biên trái phép là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng lớn đến
an ninh trật tự và quy chế bảo vệ biên giới. Hằng ngày, vẫn còn nhiều
người dân bất chấp hệ lụy để tiếp tục đi lao động "chui" ở nước ngoài.
Ðiều này cho thấy các giải pháp của cơ quan chức năng đề ra chưa
thực hiện quyết liệt, thiếu đồng bộ dẫn đến kém hiệu quả. Nếu không
sớm cải thiện, bài toán lao động vượt biên trái phép tại Cao Bằng chưa
thể giải, dù đã tồn tại nhiều năm.
Theo nhandan.com.vn
12. Bình Phước xây dựng không gian đối thoại mở
Lãnh đạo tỉnh Bình Phước sẽ cùng “cà phê sáng” với doanh nghiệp
để tiếp nhận phản ánh và kịp thời tháo gỡ khó khăn.
Lãnh đạo UBND tỉnh Bình Phước cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành sẽ
tạo ra một không gian mở để thường xuyên lắng nghe các phản ánh,
hiến kế của người dân qua doanh nghiệp (DN). Trên cơ sở đó, lãnh đạo
sẽ kịp thời nắm bắt khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ tốt nhất cho DN đầu tư
vào tỉnh nhà.
Bà Phạm Thị Ánh Hoa, Chánh Văn phòng UBND tỉnh Bình Phước, đã
thông tin như thế và khẳng định tỉnh Bình Phước đã và đang nỗ lực
mạnh mẽ để cải thiện môi trường, thu hút đầu tư tốt nhất cho tỉnh nhà.
Ăn sáng, cà phê với DN
Bà Phạm Thị Ánh Hoa cho biết mô hình “Cà phê sáng” được thực hiện
dưới hình thức xã hội hóa do Hội DN trẻ của tỉnh Bình Phước đầu tư xây
dựng trong khuôn viên của trung tâm hành chính công tỉnh với tinh thần
cùng nhau trao đổi, cùng hiến kế, tháo gỡ… Hiện không gian cà phê đặc
biệt này đang được hoàn thành.
“Đây là một không gian cởi mở, gần gũi, thân thiện để lãnh đạo tỉnh cũng
lãnh đạo các sở, ban ngành thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ DN, người
dân theo định kỳ. Qua đó kịp thời nắm bắt các khó khăn, vướng mắc
cũng như tiếp nhận những đề xuất, kiến nghị của các đơn vị DN để có
phương án giải quyết, xử lý kịp thời” - bà Hoa cho hay.
Cán bộ ở Trung tâm hành chính công tỉnh Bình Phước niềm nở hướng
dẫn doanh nghiệp, người dân việc giải quyết thủ tục tại đây.
Bên cạnh đó, không gian “Cà phê sáng” cũng là nơi trao đổi tình hình
sản xuất kinh doanh, tìm hiểu đời sống của người dân trong tỉnh, học tập
những cách làm hay, những tấm gương tốt.
Theo chánh Văn phòng UBND tỉnh Bình Phước, tỉnh cũng có chủ trương
thành lập hai tổ công tác tháo gỡ khó khăn cho DN và thu hút đầu tư do
lãnh đạo UBND tỉnh làm tổ trưởng. Hiện tỉnh giao Sở Nội vụ phối hợp
với Sở KH&ĐT tỉnh nghiên cứu, tham mưu cụ thể.
Thời gian giải quyết thủ tục bằng 1/3 so với quy định
Thời gian qua, ngoài việc thành lập đường dây nóng để tiếp nhận phản
ánh của DN, định kỳ hằng tháng lãnh đạo tỉnh Bình Phước cũng đều tổ
chức gặp gỡ DN để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng cũng như các
vướng mắc để kịp thời tháo gỡ. Cùng đó Bình Phước cũng ban hành
nhiều chính sách thu hút đầu tư.
Ông Nguyễn Đức Thành, Trưởng phòng Kinh tế đối ngoại (thuộc Sở
KH&ĐT tỉnh Bình Phước), cho biết từ đầu năm 2016, tỉnh đã ban hành
nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh để thay
thế chính sách cũ ban hành năm 2013.
Theo đó, hiện nay trên địa bàn tỉnh có 10 huyện/ thị xã thuộc địa bàn ưu
đãi đầu tư với năm huyện thuộc địa bàn đặc biệt ưu đãi đầu tư. Trong
đó, danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư cũng chú trọng vào nông nghiệp,
nông thôn; lĩnh vực xã hội hóa; đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
còn được hưởng các ưu đãi trong thuê đất và các hạng mục về hạ tầng
kỹ thuật.
Ông Thành khẳng định ngoài các chính sách khuyến khích và ưu đãi do
trung ương quy định, tỉnh còn hỗ trợ về quảng cáo, cung cấp thông tin,
tư vấn pháp luật miễn phí; hỗ trợ xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch,
hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động. Tỉnh cam kết hằng năm sẽ bố trí
nguồn ngân sách địa phương để duy tu, sửa chữa, nâng cấp, xây dựng
mới các công trình hạ tầng thiết yếu ngoài hàng rào khu công nghiệp,
khu kinh tế.
“Đặc biệt, tỉnh cam kết rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính
xuống chỉ còn bằng 1/3 thời gian so với quy định của trung ương và áp
dụng nhận hồ sơ theo cơ chế một cửa” - ông Thành nhấn mạnh.
Theo vị đại diện Sở KH&ĐT tỉnh Bình Phước, tỉnh đã thực hiện được
cam kết đó bằng cách đưa vào hoạt động trung tâm hành chính công từ
tháng 5-2017 vừa qua. Đây là đầu mối duy nhất tiếp nhận việc giải quyết
thủ tục hành chính cho DN và các nhà đầu tư ở tất cả lĩnh vực có liên
quan như chủ trương đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường...
Sở KH&ĐT tỉnh Bình Phước cũng cho biết thêm tỉnh đang thành lập Hội
Phát triển DN tỉnh Bình Phước trên cơ sở hợp nhất ba hội: Hiệp hội DN
nhỏ và vừa tỉnh, Hội DN trẻ, Hội Nữ doanh nhân... Mục tiêu của việc hợp
nhất này là để thống nhất việc liên kết các DN trong tỉnh, hỗ trợ cho
nhau, đầu mối tổng hợp những kiến nghị của DN.
Tỉnh cũng đang xúc tiến thành lập Quỹ Khởi nghiệp nhằm hỗ trợ nguồn
vốn ban đầu cho các DN mới thành lập, thực hiện dự án đầu tư nhằm
góp phần thúc đẩy phát triển số lượng DN của tỉnh.
Thu hút vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ
Với những nỗ lực trên, tình hình thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh sáu
tháng đầu năm 2017 có chiều hướng khả quan; nhiều nhà đầu tư có tiềm
năng đến nghiên cứu và đề xuất các dự án như: Dự án điện năng lượng
mặt trời, dự án sản xuất giống của Tập đoàn Newhoep, các dự án chế
biến cao su…; số DN thành lập mới tăng cao so với cùng kỳ năm 2016.
Một số kết quả cụ thể như sau: Thu hút đầu tư trong nước được 77 dự
án với tổng vốn đăng ký là 5.000 tỉ đồng; so với cùng kỳ tăng 2,2 lần về
số dự án, tăng 4,5 lần về số vốn đăng ký. Thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) được tám dự án, tổng vốn đầu tư 31,8 triệu USD, so với cùng
kỳ, số dự án cấp mới bằng 100%, vốn đầu tư tăng 49%.
Sáu tháng đầu năm thành lập mới 420 DN, đạt 52,5% kế hoạch năm,
tổng số vốn đăng ký 3.477 tỉ đồng, tăng 15,07% về số DN, tăng 72,66%
về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016.
Theo plo.vn
13. Đồng Nai đưa ứng dụng Zalo vào thủ tục hành chính công như thế nào?
Khi nộp hồ sơ, người dân nhận lại một giấy hẹn, trên đó có mã QR. Khi
mở ứng dụng Zalo trên điện thoại lên, quét vào mã này, người dân sẽ
nhận được các thông tin về tiến độ xử lý hồ sơ.
UBND tỉnh Đồng Nai ngày 6.7 đã chính thức khai trương Trung tâm
hành chính công của tỉnh (đặt tại tầng 6, cao ốc Sonadez (thuộc P.An
Bình, TP.Biên Hòa, Đồng Nai) sau gần 2 tháng hoạt động thử nghiệm.
Tại lễ khai trương, UBND tỉnh Đồng Nai đã ký kết hợp tác ứng dụng
Zalo để triển khai thêm kênh giải quyết thủ tục hành chính.
Trao đổi thêm với PV Thanh Niên ngày 7.7, ông Tạ Quang Trường, Phó
giám đốc Sở Nội vụ Đồng Nai, kiêm Phó ban cải cách hành chính tỉnh
Đồng Nai, nhận định rằng việc áp dụng Zalo vào quản lý, giải quyết thủ
tục hành chính sẽ rất có ích cho người dân và mang lại hiệu quả cao.
Theo ông Trường, khi đến Trung tâm hành chính công nộp hồ sơ, người
dân được phát giấy hẹn, trên đó có một mã QR. Khi người dân mở ứng
dụng Zalo trên điện thoại, quét vào mã này, sẽ nhận được đầy đủ các
thông tin về tiến độ xử lý hồ sơ. Ngoài ra, nếu có thắc mắc gì, người dân
có thể trao đổi ngay với cán bộ trung tâm thông qua tính năng chat trên
ứng dụng Zalo.
Tại Trung tâm hành chính công Đồng Nai có hệ thống wifi miễn phí, khi
đăng nhập vào, người đến làm thủ tục sẽ nhận được lời mời “quan tâm”
Zalo và hướng dẫn cách sử dụng chức năng như nộp hồ sơ, tra cứu kết
quả…
Tìm hiểu cách ứng dụng Zalo hỗ trợ thủ tục hành chính
công tại Đồng Nai
1. Biên nhận điện tử: Sau khi nộp hồ sơ, người dân nhận biên
nhận điện tử trên Zalo
2. Tra cứu trạng thái xử lý hồ sơ: Quét mã QR hoặc nhập mã
biên nhận trên Zalo
3. Thay đổi trạng thái xử lý hồ sơ: Người dân sẽ nhận được tin
nhắn thông báo trên Zalo khi hồ sơ thay đổi trạng thái xử lý
4. Đánh giá dịch vụ: Người dân đánh giá thái độ và kết quả giải
quyết công việc của cán bộ, nhân viên trung tâm
5. Hệ thống chat: Trao đổi trực tiếp giữa người dân và Trung
tâm hành chính công trên Zalo
6. Wifi miễn phí: Người dân đăng nhập wifi của trung tâm sẽ
nhận được tin mời "quan tâm" Zalo và hướng dẫn sử dụng các
chức năng
Theo thanhnien.vn