luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

272
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cây ngô (Zea mays L.) là một trong ba cây cốc quan trọng cung cấp lương thực cho con người và thức ăn cho vật nuôi. Ngô còn là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp lương thực - thực phẩm - dược phẩm và công nghiệp nhẹ. Hiện nay, ngô đang được quan tâm đặc biệt với vai trò là nguồn nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học. Với ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế, cùng với tính thích ứng rộng và tiềm năng năng suất cao, cây ngô được hầu hết các quốc gia trên thế giới gieo trồng (166 nước) và diện tích ngày càng mở rộng. Năm 2007, sản xuất ngô thế giới đạt kỷ lục cả 3 chỉ tiêu: Diện tích 158,0 triệu ha (chỉ sau lúa mì - 214,2 triệu ha, vượt qua lúa nước - 155,8 triệu ha), năng suất 50,1 tạ/ha (lúa nước 42,3 tạ/ha, lúa mì 28,3 tạ/ha) và sản lượng 791,8 triệu tấn - chiếm gần 40% trong tổng sản lượng 3 cây lương thực hàng đầu trên thế giới (lúa nước: 659,6 triệu tấn, lúa mì: 606 triệu tấn) (FAOSTAT, 2009) [67]. 1

Upload: cang-nguyentrong

Post on 01-Jun-2015

377 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cây ngô (Zea mays L.) là một trong ba cây cốc quan trọng cung cấp

lương thực cho con người và thức ăn cho vật nuôi. Ngô còn là nguồn nguyên

liệu cho ngành công nghiệp lương thực - thực phẩm - dược phẩm và công

nghiệp nhẹ. Hiện nay, ngô đang được quan tâm đặc biệt với vai trò là nguồn

nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học.

Với ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế, cùng với tính thích ứng rộng

và tiềm năng năng suất cao, cây ngô được hầu hết các quốc gia trên thế giới

gieo trồng (166 nước) và diện tích ngày càng mở rộng. Năm 2007, sản xuất

ngô thế giới đạt kỷ lục cả 3 chỉ tiêu: Diện tích 158,0 triệu ha (chỉ sau lúa mì -

214,2 triệu ha, vượt qua lúa nước - 155,8 triệu ha), năng suất 50,1 tạ/ha (lúa

nước 42,3 tạ/ha, lúa mì 28,3 tạ/ha) và sản lượng 791,8 triệu tấn - chiếm gần

40% trong tổng sản lượng 3 cây lương thực hàng đầu trên thế giới (lúa nước:

659,6 triệu tấn, lúa mì: 606 triệu tấn) (FAOSTAT, 2009) [67].

Hạn chế về mặt dinh dưỡng của ngô là một số axit amin không thay thế

như lysine, triptophan, methionine có hàm lượng thấp. Cải thiện chất lượng

protein ở ngô là một trong những hướng được đầu tư nghiên cứu nhiều của các

nhà chọn tạo giống trên thế giới. Với sự nỗ lực của các nhà khoa học ở Trung

tâm Cải lương Ngô và Lúa mì quốc tế (CIMMYT), các giống ngô chất lượng

protein cao (QPM - Quality Protein Maize) với nội nhũ cứng có năng suất và

các đặc tính nông sinh học tương đương nhưng hàm lượng các axit amin

không thay thế cao gấp đôi ngô thường đã được tạo ra và đang trở thành một

xu hướng chính trong chọn tạo giống ngô của thế giới hiện nay.

Ở Việt Nam, ngô tuy chỉ chiếm 12,9% diện tích cây lương thực có hạt,

nhưng có ý nghĩa quan trọng thứ hai sau cây lúa. Gần 30 năm qua, nhất là từ

1

Page 2: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

những năm sau 1990, sản xuất ngô nước ta đã đạt được những thành tựu đáng

ghi nhận. Năm 2008 là năm đạt diện tích (1125,9 nghìn ha), năng suất

(40,2 tạ/ha) và sản lượng (4531,2 nghìn tấn) cao nhất từ trước đến nay. So với

năm 1990, diện tích và năng suất tăng 2,6 lần, còn sản lượng tăng 7 lần (Tổng

cục Thống kê, 2009) [45]. Đạt được những kết quả trên là nhờ sự định hướng

đúng đắn và đầu tư cao độ của Nhà nước đối với ngành ngô, cũng như sự nỗ

lực vượt bậc của những người làm công tác nghiên cứu và khuyến nông đối

với cây ngô. Đó cũng là kết quả từ sự giúp đỡ có hiệu quả của các tổ chức

quốc tế, trong đó có CIMMYT. Chương trình phát triển ngô QPM đã được

CIMMYT tạo mọi điều kiện để Việt Nam tiếp nhận được những kết quả mới

nhất. Viện Nghiên cứu Ngô đã nghiên cứu lai tạo, thử nghiệm một số giống

ngô lai QPM và thành công bước đầu tạo ra được giống ngô lai HQ2000.

Giống HQ2000 là sản phẩm khởi đầu của chương trình tạo giống ngô QPM ở

nước ta. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất ở các vùng miền khác nhau

trong cả nước, cần thiết phải chọn tạo ra được nhiều giống ngô QPM mới,

trong đó có giống ngô QPM thụ phấn tự do (TPTD) cho vùng Trung du và

miền núi phía Bắc.

Mặc dầu đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng sản lượng ngô

nước ta vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày một tăng

nhanh. Hiện nay, nước ta phải nhập khoảng 600.000 – 800.000 tấn/năm để

làm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi. Để đáp ứng nhu cầu về ngô, có

thể giải quyết bằng hai hướng: Một là mở rộng diện tích và đầu tư thâm canh

các giống ngô lai có năng suất cao; hai là tăng diện tích các giống ngô có hàm

lượng và chất lượng protein cao (QPM).

Thái Nguyên là một tỉnh đại diện cho vùng Trung du và miền núi phía

Bắc có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Nhiều vùng

sản xuất ngô đã trồng bằng các giống ngô lai, nhưng do điều kiện đất đai,

2

Page 3: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

nước tưới, khả năng đầu tư, trình độ của người dân chưa đáp ứng được yêu

cầu thâm canh nên hiệu quả của các giống ngô lai không cao. Trong những

điều kiện như vậy, các giống ngô TPTD cải tiến sẽ phù hợp hơn. Đặc biệt là

các giống ngô QPM TPTD sẽ rất có ý nghĩa khi mà một bộ phận đáng kể

đồng bào dân tộc thiểu số đang sử dụng ngô làm lương thực chính. Tuy nhiên,

cho đến nay các giống ngô QPM TPTD thích hợp cho vùng miền núi phía

Bắc là chưa có.

Điều kiện môi trường và các biện pháp kỹ thuật canh tác khác nhau ảnh

hưởng đến năng suất ngô nhưng có làm thay đổi hàm lượng và chất lượng

protein (các axit amin không thay thế) của giống ngô QPM hay không. Yếu tố

phân bón có góp phần cải thiện chất lượng protein của giống ngô QPM và ngô

thường hay không. Đây là những vấn đề chưa được nghiên cứu sâu trên thế

giới cũng như ở Việt Nam. Đã có nhiều nghiên cứu về phân bón trên ngô

thường ở nước ta và trên ngô QPM cũng mới chỉ bắt đầu. Cho đến nay,

nghiên cứu xác định ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali qua các mùa

vụ khác nhau đến năng suất hạt, hàm lượng và chất lượng protein của giống

ngô QPM TPTD so sánh với ngô lai thường chưa được công bố trên thế giới

và ở Việt Nam.

Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành

nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm, lân, kali

đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng của giống ngô chất

lượng protein cao có triển vọng tại Thái Nguyên".

2. Mục tiêu của đề tài

- Xác định được giống ngô QPM TPTD triển vọng cho tỉnh Thái Nguyên

cũng như các tỉnh miền núi phía Bắc.

- Xác định lượng phân đạm, lân và kali tối ưu cho giống ngô QPM

TPTD triển vọng.

3

Page 4: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

- Xác định được ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến năng

suất, hàm lượng và chất lượng protein đối với giống ngô QPM TPTD so sánh

với giống ngô lai thường.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học

- Đề tài đã bổ sung thêm dữ liệu khoa học về các giống ngô QPM TPTD

ở điều kiện miền núi phía Bắc.

- Đề tài đã xác định được ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali

đến sinh trưởng, phát triển và năng suất ngô QPM TPTD so sánh với giống

ngô lai thường.

- Đề tài đã xác định được ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali

đến hàm lượng và chất lượng protein của giống ngô QPM TPTD so sánh với

giống ngô lai thường.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Đề tài đã chọn được một giống ngô QPM TPTD có khả năng sinh

trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao và ổn định, có hàm lượng và chất

lượng protein cao, thích nghi với điều kiện Thái Nguyên và miền núi

phía Bắc.

- Đề tài đã xác định được công thức phân bón thích hợp cho giống ngô

QPM TPTD QP4 và giống ngô lai thường LVN10 trồng tại Thái Nguyên và

miền núi phía Bắc.

4

Page 5: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

Với vai trò làm lương thực cho người (17%), thức ăn cho chăn nuôi

(gần 70%) và làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp thực phẩm, dược

phẩm và công nghiệp nhẹ khác (khoảng 10%) (Ngô Hữu Tình, 2009) [42],

ngô đã được hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới gieo trồng và

liên tục mở rộng sản xuất.

Tất cả các nước trồng ngô nói chung đều ăn ngô với các mức độ khác

nhau. Toàn thế giới (giai đoạn 1995 - 1997) sử dụng 17% sản lượng ngô làm

lương thực cho người, trong đó ở các nước đang phát triển là 30%, các nước

phát triển khoảng 4%. Các nước ở Trung Mỹ, Nam Á và châu Phi sử dụng

ngô làm lương thực chính. Các nước Đông Nam Phi sử dụng 72% sản lượng

ngô làm lương thực cho người, Tây Trung Phi 66%, Bắc Phi 45%, Tây Á

23%, Nam Á 75%, Đông Nam Á và Thái Bình Dương 43%, Đông Á 12%,

Trung Mỹ và vùng Caribe 56%, Nam Mỹ 9%, Đông Âu và Liên Xô cũ 7%,

Tây Âu, Bắc Mỹ và các nước phát triển khác 4% (Ngô Hữu Tình, 2009) [42].

Vì vậy, ngô là một cây trồng rất quan trọng đảm bảo an ninh lương thực trên

phạm vi toàn thế giới.

Việt Nam là quốc gia có truyền thống lúa nước lâu đời, lương thực chính

là gạo, song người dân cũng rất thích ăn ngô dưới dạng ngô luộc, ngô nướng,

ngô rang, bỏng ngô. Trước kia còn nghèo đói và do mất mùa, nông dân vẫn

thường ăn ngô dưới dạng độn với cơm hoặc ngô bung. Hiện nay, đồng bào

một số dân tộc thiểu số vùng cao như H'mông, Dao... vẫn ăn ngô như nguồn

lương thực chính theo truyền thống và vì điều kiện kinh tế còn nghèo dưới

dạng mèn mén.

5

Page 6: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Do chất lượng protein ở ngô không cao vì hàm lượng một số axit amin

không thay thế như lysine, triptophan, methionine thấp nên việc sử dụng ngô

nhiều có ảnh hưởng đến dinh dưỡng cho người và vật nuôi. Trước thực tế đó,

các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu chọn tạo ra các giống ngô QPM

với hàm lượng protein cao hơn và đặc biệt có hàm lượng lysine, triptophan,

methionine gấp đôi ngô thường. Hiện nay có nhiều giống ngô lai QPM đã

được đưa vào sản xuất, còn giống TPTD QPM ít hơn. Giống lai QPM có năng

suất cao chủ yếu phù hợp cho các vùng trồng ngô thâm canh, còn đối với các

vùng đồi núi còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật canh tác, giống ngô

TPTD QPM khả thi hơn.

Miền núi phía Bắc nước ta là vùng khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh

tế - xã hội. Người dân vùng này còn rất nghèo, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất

nông nghiệp. Ở một số vùng khó khăn những người dân nghèo đói vẫn phải

sử dụng ngô làm lương thực và một số đồng bào dân tộc có tập quán sử dụng

ngô làm lương thực chính từ lâu đời. Vì vậy, việc sử dụng giống ngô QPM là

một nhu cầu thiết thực và cấp bách, góp phần giảm chi phí đầu tư cho sản

xuất, đồng thời đạt được năng suất và chất lượng protein cao, đem lại hiệu

quả kinh tế, đặc biệt có thể giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cho người dân miền

núi, đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao chất lượng dinh dưỡng trong thức

ăn chăn nuôi, đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã

hội nông thôn miền núi.

Đất canh tác ở vùng miền núi rất ít, vì vậy việc mở rộng diện tích trồng

ngô là rất khó khăn đồng thời việc tăng năng suất ngô gặp trở ngại do dinh

dưỡng đất ở vùng này nghèo kiệt và khả năng thâm canh đầu tư của người dân

thấp. Cho nên việc sử dụng giống ngô TPTD QPM vừa cho năng suất cao vừa

đạt chất lượng protein cao là rất phù hợp và hiệu quả.

6

Page 7: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Hiện nay, việc nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh, môi

trường canh tác đến chất lượng của ngô QPM trên thế giới còn rất ít. Ở Việt

Nam, nghiên cứu về vấn đề này mới chỉ bắt đầu. Vấn đề được đặt ra là giống

ngô QPM có chất lượng protein cao nhưng liệu nó có thay đổi chất lượng ở

những điều kiện ngoại cảnh, môi trường canh tác khác nhau không. Liệu

trong cùng một điều kiện môi trường canh tác giống nhau, sự thay đổi về chất

lượng protein của giống ngô QPM so với ngô thường có khác nhau không. Ở

nước ta đến nay những nghiên cứu về phân bón ảnh hưởng đến năng suất thì

nhiều nhưng chưa có nghiên cứu nào về ảnh hưởng của phân đạm, lân, kali

đến năng suất và chất lượng protein của giống ngô TPTD QPM và so sánh với

giống ngô lai thường.

Xuất phát những cơ sở khoa học trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện

đề tài này.

1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới

Ngô là cây ngũ cốc lâu đời và phổ biến trên thế giới, không cây nào sánh

kịp với cây ngô về tiềm năng năng suất hạt, về quy mô, hiệu quả ưu thế lai.

Ngô còn là cây điển hình được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học về

các lĩnh vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện

khí hoá và tin học vào công tác nghiên cứu và sản xuất.

Ngành sản xuất ngô thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Theo

số liệu của Tổ chức Nông - Lương Liên Hợp Quốc (FAO), năm 2007 diện tích

ngô đã vượt qua lúa nước, với 158,0 triệu ha, năng suất 50,1 tấn/ha và sản

lượng đạt kỷ lục 791,8 triệu tấn. Trong hơn 40 năm qua, ngô là cây trồng có tốc

độ tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các cây lương thực chủ yếu. So với

năm 1961, năm 2007 năng suất ngô trung bình của thế giới tăng thêm hơn 31,1

tạ/ha (từ 19 lên 50,1 tạ/ha), lúa nước tăng hơn 23,3 tạ/ha (từ 19 lên 42,3 tạ/ha),

còn lúa mì thêm 17,3 tạ/ha (từ 11 lên 28,3 tạ/ha) (FAOSTAT, 2009) [67].

7

Page 8: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 1.1. Sản xuất ngô, lúa mì, lúa nước thế giới giai đoạn 1961-2007

Năm

Ngô Lúa mì Lúa nước

D. tích

(triệu

ha)

NS

(tạ/ha)

Sản

lượng

(triệu

tấn)

D. tích

(triệu

ha)

NS

(tạ/ha)

Sản

lượng

(triệu

tấn)

D. tích

(triệu

ha)

NS

(tạ/ha)

Sản

lượng

(triệu

tấn)

1961 104,8 19,0 204,2 200,9 11,0 219,2 115,3 19,0 215,3

2004 145,0 49,0 714,8 217,2 29,0 625,1 150,6 40,0 595,8

2005 145,6 48,0 696,3 218,5 28,0 621,5 152,6 41,0 622,1

2006 148,6 47,0 704,2 212,3 28,0 593,2 153,0 41,0 622,2

2007 158,0 50,1 791,8 214,2 28,3 606,0 155,8 42,3 659,6

Nguồn: FAOSTAT, 2009 [67]

Kết quả trên có được, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế

lai trong chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ

thuật canh tác. Đặc biệt, từ 10 năm nay cùng với những thành tựu trong chọn

tạo giống lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống và công nghệ sinh học thì

việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác đã góp phần đưa sản lượng ngô

thế giới vượt lên trên lúa mì và lúa nước. Những thành tựu mà ngành ngô thế

giới đạt được trong những năm gần đây có thể nói là đã vượt ngoài mọi dự

đoán lạc quan nhất. Năm 1995, sản lượng ngô thế giới là 517 triệu tấn, năm

1998 đã đạt 615 triệu tấn, năm 2000 do điều kiện khí hậu khó khăn giảm

xuống còn 593 triệu tấn, vậy mà vào năm 2007 đã đạt tới 792 triệu tấn. Tức là

chỉ sau có 12 năm, sản lượng ngô thế giới đã tăng thêm hơn 50%. Riêng 7

năm gần đây đã tăng thêm gần 300 triệu tấn. Và giá ngô thế giới vẫn ở mức

cao. Trong khi đó, vào năm 2003, Viện Nghiên cứu Chương trình lương thực

thế giới (IFPRI) dự báo nhu cầu ngô trên thế giới vào năm 2020 chỉ lên đến

852 triệu tấn (dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2009) [42].

8

Page 9: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, trong khi đó diện tích đất canh tác

ngày càng thu hẹp do sa mạc hóa và xu thế đô thị hóa. Nền nông nghiệp thế

giới ngày nay luôn phải trả lời làm thế nào để giải quyết đủ năng lượng cho 8

tỷ người vào năm 2021 và 16 tỷ người vào năm 2030. Để giải quyết được câu

hỏi này, ngoài biện pháp phát triển nền nông nghiệp nói chung thì phải nhanh

chóng chọn ra những giống cây trồng trong đó có các giống ngô năng suất

cao, ổn định có khả năng chống chịu tốt với điều kiện khí hậu ngày càng biến

đổi phức tạp. Một trong những thành tựu quan trọng trong chọn tạo giống sinh

vật nói chung và cây ngô nói riêng là việc nghiên cứu thành công và phát triển

nhanh giống biến đổi gen. Với cây ngô, chỉ sau 12 năm áp dụng, năm 2008,

diện tích trồng ngô chuyển gen trên thế giới đã đạt 37,3 triệu ha, riêng ở Mỹ

đã lên đến 30 triệu ha, chiếm 85% trong tổng số 35,2 triệu ha ngô của nước

này (GMO-COMPASS, 2009) [68]. Nhờ chuyển gen kháng thuốc trừ cỏ và

kháng sâu đục thân, việc sản xuất ngô được thuận tiện hơn, giảm thuốc bảo vệ

thực vật từ đó giảm sự ô nhiễm môi trường và tăng hiệu quả kinh tế. Những

nghiên cứu về chuyển gen chịu hạn, chịu rét, chịu chua, chịu mặn, chịu đất

nghèo đạm và kháng một số bệnh do virut ở ngô cũng đã những kết quả bước

đầu. Khi những nghiên cứu trên được ứng dụng vào thực tiễn sẽ góp phần

khai thác tối đa tiềm năng năng suất ở ngô. Điều đó sẽ có một ý nghĩa vô cùng

lớn đối với ngành sản xuất ngô thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển

việc sản xuất ngô phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên, trong đó có Việt Nam.

1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam

Ngô là cây lương thực quan trọng thứ 2 sau cây lúa ở nước ta. Ngô được

đưa vào Việt Nam cách đây khoảng 300 năm (Ngô Hữu Tình, 2009) [42]. Do

có vai trò quan trọng đối với kinh tế xã hội cộng với điều kiện khí hậu nhiệt

đới gió mùa nên ngô đã nhanh chóng được mở rộng, trồng khắp các vùng

miền cả nước.

9

Page 10: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Cùng với sự tiến bộ của toàn thế giới, việc phát triển sản xuất ngô ở Việt

Nam trong vài thập kỷ cuối thế kỷ 20 cũng đã thu được những kết quả quan

trọng. Đạt được thành tựu lớn trong sản xuất ngô ở nước ta trong những năm

gần đây là nhờ có những chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước

trong việc áp dụng thành công những tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, kỹ

thuật canh tác vào sản xuất nên cây ngô đã có những bước tiến mạnh về diện

tích, năng suất và sản lượng.

Năng suất ngô Việt Nam đến cuối những năm 1970 chỉ đạt 10 tạ/ha do

trồng các giống ngô địa phương với kỹ thuật canh tác lạc hậu. Từ giữa những

năm 1980, nhờ hợp tác với CIMMYT, nhiều giống ngô cải tiến đã được trồng

ở nước ta, góp phần đưa năng suất lên gần 15 tạ/ha vào đầu những năm 1990.

Tuy nhiên, ngành sản xuất ngô nước ta thực sự có những bước tiến nhảy vọt

là từ đầu những năm 1990 đến nay, gắn liền với việc mở rộng giống lai và cải

thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác. Năm 1991, diện tích trồng giống lai

chưa đến 1% trên hơn 400 nghìn ha trồng ngô, năm 2007 giống lai đã chiếm

khoảng 95% trong số hơn 1 triệu ha. Năm 1994, sản lượng ngô Việt Nam

vượt ngưỡng 1 triệu tấn, năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn và năm 2008 có

diện tích, năng suất và sản lượng cao nhất từ trước đến nay: Diện tích 1.125,9

nghìn ha, năng suất 40,2 tạ/ha, sản lượng vượt ngưỡng 4 triệu tấn - 4,5 triệu

tấn (Tổng cục Thống kê, 2009) [45].

Bảng 1.2. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn 1961 – 2008

Năm

Chỉ tiêu1961 1975 1990 1994 2000 2005 2007 2008

Diện tích (1000 ha) 229,20 267,0 432,0 534,6 730,2 1052,6 1096,1 1125,9

Sản lượng (1000 tấn) 260,10 280,60 671,0 1143,9 2005,9 3787,1 4303,2 4531,2

Năng suất (tạ/ha) 11,4 10,5 15,5 21,4 27,5 36,0 39,3 40,2

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009 [45]

10

Page 11: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Năm 1961, năng suất ngô nước ta bằng 60% trung bình thế giới (11,4/ 19

tạ/ha). Suốt gần 20 năm sau đó, trong khi năng suất ngô thế giới tăng liên tục

thì năng suất của ta lại giảm, và vào năm 1979 chỉ còn bằng 29% so với trung

bình thế giới (9,9/33,9 tạ/ha). Mặc dầu là cây lương thực thứ hai sau lúa nước,

song do truyền thống lúa nước, cây ngô không được chú trọng nên chưa phát

huy hết tiềm năng ở Việt Nam.

Từ năm 1980 đến nay, năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với tốc

độ cao hơn trung bình của thế giới. Năm 1980, bằng 34% so với trung bình

thế giới (11/32 tạ/ha); năm 1990 bằng 42% (15,5/37 tạ/ha); năm 2000 bằng

65,5% (27,5/42 tạ/ha); năm 2005 bằng 75% (36/48 tạ/ha) và năm 2007 đã đạt

78,4% (39,3/50,1 tạ/ha).

Cây ngô có khả năng thích ứng rộng, có thể được trồng nhiều vụ trong

năm và trồng ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Tiềm năng phát triển

cây ngô ở nước ta là rất lớn cả về diện tích và thâm canh tăng năng suất.

Các giống ngô lai có tiềm năng năng suất cao đã và đang được phát triển

ở những vùng ngô trọng điểm, vùng thâm canh, có thuỷ lợi, những vùng đất

tốt như: Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ,

Tây Nguyên để đạt năng suất cao. Tuy nhiên, ở các tỉnh miền núi, những

vùng khó khăn, canh tác chủ yếu nhờ nước trời, đất xấu, đầu tư thấp thì giống

ngô thụ phấn tự do chiến ưu thế và chiếm một diện tích khá lớn.

1.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở vùng Đông Bắc

Đông Bắc là vùng núi và trung du, nó được phân cách với vùng Tây Bắc

bởi dãy Hoàng Liên Sơn, bao gồm 10 tỉnh (Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn,

Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ).

Ở vùng Đông Bắc, ngô là cây lương thực chính chỉ đứng sau cây lúa.

Năm 2008, diện tích lúa là 498,4 nghìn ha, diện tích ngô là 243,9 nghìn ha.

Trong vùng có khoảng 115 nghìn ha ruộng bậc thang hàng năm trồng 1 vụ lúa

11

Page 12: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

mùa nhờ nước trời - bỏ hoá vụ Xuân (Tổng cục Thống kê, 2009) [45]. Đây là

quỹ đất cần được khai thác để trồng ngô vụ Xuân bằng giống ngắn ngày

chịu hạn.

Nhìn chung, vụ ngô chính trong vùng là vụ Xuân Hè, gieo cuối tháng 2

hoặc đầu tháng 3 và thu hoạch vào cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7. Vụ ngô này

chiếm 65 – 70% tổng diện tích gieo trồng ngô. Ngô Thu Đông trong vùng

được gieo vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8 và thu hoạch vào tháng 11

chiếm 10 – 15%. Ngoài hai vụ trên thì còn vụ ngô Đông được trồng sau khi

thu hoạch lúa mùa sớm. Diện tích trồng ngô vụ này chiếm khoảng 15 – 20%

(được trồng nhiều ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ)

Ba tỉnh Hà Giang, Cao Bằng và Lào Cai có diện tích ngô lớn hơn diện

tích lúa. Tại Hà Giang, năm 2008 diện tích ngô là 46,4 nghìn ha trong khi

diện tích lúa là 36,7 nghìn ha; tương tự Cao Bằng có diện tích ngô là 38,4

nghìn ha trong khi diện tích lúa chỉ có 31,2 nghìn ha; Lào Cai có diện tích ngô

là 28,8 nghìn ha, diện tích lúa là 28,5 nghìn ha (Tổng cục Thống kê, 2009)

[45]. Nghĩa là ở ba tỉnh này, ngô là cây trồng quan trọng số một.

Khác với cây lúa, cây ngô có thể phát triển ở cả những vùng đất có độ

dốc 15 – 20% nên nó có vị trí quan trọng, góp phần tích cực thay đổi cơ cấu

cây trồng trên đất dốc, thay thế nhanh chóng diện tích trồng cây lúa nương và

cây sắn trong sản xuất nông nghiệp.

Ngô là cây trồng truyền thống của đồng bào các dân tộc miền núi, mặt

khác do dễ trồng, dễ bảo quản và tiêu thụ hơn các cây trồng khác nên diện

tích ngô vùng Đông Bắc tăng dần hàng năm (diện tích ngô năm 2000 là 160

nghìn ha, năm 2008 là 243,9 nghìn ha). Diện tích ngô tăng chủ yếu do tăng vụ

trên đất một vụ lúa mùa (ruộng bậc thang) và tăng diện tích trồng ngô vụ 2.

Do sử dụng giống ngô lai và tăng đầu tư phân bón đã giúp năng suất ngô tăng

và lợi nhuận của nông dân trồng ngô tăng dần (năng suất ngô năm 2000 là

12

Page 13: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

24,9 tạ/ha, năm 2008 là 34,3 tạ/ha). Sản lượng ngô trong vùng cũng tăng dần

hàng năm, năm 2000 đạt 412,6 nghìn tấn, năm 2008 đạt 798 nghìn tấn. Tỉnh

Lạng Sơn có năng suất ngô đạt cao nhất 46 tạ/ha (năm 2008). Hà Giang là

tỉnh có sản lượng ngô lớn nhất trong vùng, đạt 112,9 nghìn tấn (năm 2008)

(Tổng cục Thống kê, 2009) [45].

Việc mở rộng diện tích được tưới chủ động cho cây trồng ở vùng núi cao

là vấn đề khó khăn vì địa hình canh tác trên nền đất dốc, nương rẫy và sườn

núi, nguồn nước tưới ở xa; nông dân nghèo thiếu vốn đầu tư; chi phí xây dựng

công trình tưới nước lớn hơn nhiều so với vùng đồng bằng. Như vậy, chủ yếu

diện tích ngô trong vùng được trồng ở vùng cao nhờ nước trời, chỉ có một

phần nhỏ diện tích ở vùng thấp là có tưới. Vì vậy, giải pháp tối ưu cho việc

nâng cao năng suất và sản lượng ngô ở vùng này là sử dụng các giống ngô

chịu hạn, các giống ngô TPTD QPM và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới,

trong đó có kỹ thuật bón phân.

1.2.4. Tình hình sản xuất ngô ở Thái Nguyên

Cùng với sự phát triển ngô trong cả nước, tỉnh Thái Nguyên trong những

năm gần đây cũng rất quan tâm phát triển sản xuất ngô và đã thu được nhiều

kết quả khả quan. Nhờ có các thành tựu khoa học kỹ thuật mới, được nông

dân ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất ngô nên diện tích, năng suất và sản

lượng ngô ở Thái Nguyên tăng nhanh trong những năm gần đây.

Qua bảng 1.3 cho thấy: Từ năm 2000 đến 2004, diện tích ngô của tỉnh

Thái Nguyên tăng từ 10,7 nghìn ha lên 15,9 nghìn ha, năm 2005 diện tích

không tăng, đến năm 2006 thì diện tích giảm nhẹ (15,3 nghìn ha). Nhưng đến

năm 2008 diện tích trồng ngô của tỉnh tăng vọt, đạt 20,6 nghìn ha. Năng suất

ngô của tỉnh tăng đều từ năm 2000 đến năm 2006 (28,8 - 35,2 tạ/ha). Năm

2007, năng suất ngô của tỉnh đạt cao nhất từ trước đến nay, đạt 42,0 tạ/ha cao

hơn trung bình cả nước (39,3 tạ/ha). Năm 2008 do thời tiết khí hậu bất thường

13

Page 14: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

(ngô bị ngập lụt trong vụ Đông) nên năng suất giảm hơn so với năm 2007 (đạt

41,1 tạ/ha). Sản lượng ngô năm 2008 đạt cao nhất từ trước đến nay (84,7

nghìn tấn). Điều này chứng tỏ ở tỉnh Thái Nguyên, cây ngô đã được Đảng và

Chính quyền địa phương chú trọng đầu tư phát triển. Và đạt được thành tựu

như vậy là nhờ áp dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất

ngô như giống mới, kỹ thuật canh tác. Tuy nhiên, sản xuất ngô ở tỉnh cần

được đầu tư phát triển nhiều hơn nữa như tăng vụ, mở rộng diện tích, sử dụng

giống mới, giống TPTD QPM, thâm canh tăng năng suất nhằm khai thác tối

đa tiềm năng sẵn có của tỉnh.

Bảng 1.3. Diện tích, năng suất và sản lượng ngô của tỉnh Thái Nguyên

giai đoạn 2000 - 2008

NămDiện tích

(1000 ha )

Năng suất

( tạ/ha)

Sản lượng

(1000 tấn )

2000 10,7 28,8 30,8

2001 9,7 30,6 29,7

2002 11,6 32,8 38,0

2003 13,4 32,6 43,7

2004 15,9 34,3 54,6

2005 15,9 34,7 55,1

2006 15,3 35,2 53,9

2007 17,8 42,0 74,9

2008 20,6 41,1 84,7

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009 [45]

Ngoài việc thâm canh ngô lai ở những vùng thuận lợi, cần tăng cường sử

dụng các giống ngô thụ phấn tự do cải tiến ở những vùng khó khăn, nhằm

tăng năng suất, sản lượng và chất lượng ngô, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp

phần xoá đói giảm nghèo cho nông dân. Đặc biệt phải tiến hành nghiên cứu

khả năng thích ứng của các giống ngô TPTD có chất lượng protein cao và mở

14

Page 15: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

rộng các giống mới ra sản xuất nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực, đồng thời

nâng cao được chất lượng lương thực cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao

và góp phần giảm giá thành sản phẩm ngành chăn nuôi, nâng cao hiệu quả

kinh tế. Ở những vùng thuận lợi trong tỉnh thì thâm canh sản xuất những

giống ngô lai chất lượng protein cao. Còn những vùng khó khăn, vùng cao thì

cần tiến hành nghiên cứu thử nghiệm, xây dựng mô hình trình diễn để xác

định những giống ngô TPTD QPM thích hợp nhất. Đồng thời việc xác định

các biện pháp kỹ thuật chính, trong đó có chế độ phân bón thích hợp cho

giống ngô TPTD QPM triển vọng là rất cần thiết.

1.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô QPM trên thế giới và ở Việt Nam

1.3.1. Lợi ích dinh dưỡng và kinh tế của ngô QPM

Hiện nay trên hành tinh của chúng ta có hàng tỷ người đang thiếu đói:

Đói tinh bột, đói dinh dưỡng protein và vitamin. Ngô là nguồn lương thực

chính cho người nghèo đói. Người đã nghèo khó thường chẳng được ăn nhiều,

khẩu phần ăn thường ngày của họ thiếu protein và những dinh dưỡng quan

trọng khác, ảnh hưởng tới sức khoẻ và sự phát triển. Trong vài thập kỷ gần

đây, các nhà khoa học của CIMMYT đã tạo ra các giống ngô QPM có hình

dạng và mùi vị giống như ngô thường, năng suất bằng hoặc cao hơn, khả năng

chống chịu sâu, bệnh tương đương hoặc khá hơn, đồng thời hàm lượng lysine,

triptophan và methionine gần như gấp hai lần ngô thường, các axit amin thiết

yếu khác cho dinh dưỡng con người tương đương ngô thường (CIMMYT,

2001) [62].

Sử dụng ngô QPM có ý nghĩa to lớn đối với dinh dưỡng con người và

động vật – đặc biệt là động vật dạ dày một khoang. Đối với con người, ngô

QPM đóng vai trò rất quan trọng, nhất là ở những nước đang phát triển và ở

những nơi sử dụng ngô làm lương thực chính.

15

Page 16: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Sự nổi bật về ý nghĩa sinh học và dinh dưỡng của ngô QPM đã được

chứng minh nhiều ở chuột, lợn, trẻ em ở lứa tuổi nhỏ, vị thành niên và người

lớn. Từ kết quả nghiên cứu thí nghiệm ở lợn, Maner đã rút ra kết luận rằng chỉ

dùng ngô opaque-2 cũng cung cấp đủ protein cho lợn trong giai đoạn vỗ béo,

trước và trong thời kỳ có chửa. Ở Guatemala, Bressani đã chỉ ra rằng, ngô

opaque-2 đạt 90% giá trị dinh dưỡng của protein trong sữa ở trẻ nhỏ. Ở

Colombia, trẻ em mắc bệnh thiếu protein trầm trọng (Kwashiorkor) được

chữa khỏi và có lại được sức khoẻ bình thường bằng những bữa ăn mà chỉ có

ngô opaque-2 là nguồn protein duy nhất (Vasal, 2001) 94.

Giống như trẻ em, người lớn cũng có thể có lợi rất lớn khi sử dụng QPM

do hàm lượng lysine và triptophan cao. Graham và CS đã trình bày những kết quả

rất thú vị là trẻ từ tuổi thứ hai được nuôi bằng QPM – nguồn protein duy nhất

trong thành phần bữa ăn mà vẫn phát triển bình thường (Vasal, 2001) 94.

QPM ưu việt hơn ngô thường là có giá trị sinh học và mức sử dụng

protein thực. Bressani đã tổng kết lại những nghiên cứu ở trẻ em đã khỏi bệnh

suy dinh dưỡng và thấy rằng QPM là nguồn protein cho những đứa trẻ đó.

Điều này đã dẫn đến sự cân bằng đạm và cải thiện điều kiện về sức khoẻ. Tác

giả đã đưa ra lời khuyên: QPM là giải pháp có tính thực tế đối với thức ăn

được chế biến tại nhà cho trẻ mới cai sữa (Vasal, 2001) 94.

Theo lời của Norman Borlaug – Nguyên Tổng giám đốc CIMMYT, “Tôi

cho rằng đã đến lúc phải có những nỗ lực nghiêm túc để đưa ngô này vào

việc sử dụng thương mại để phục vụ nhu cầu của con người”. QPM có thể

đóng vai trò quan trọng hơn nhiều khi được sử dụng làm thức ăn cho động

vật. Tăng cường việc sử dụng ngô làm thức ăn trong chăn nuôi trên toàn cầu

có thể có lợi gián tiếp đối với con người và tạo nên ảnh hưởng lớn (Vasal,

2001) 94].

16

Page 17: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Sử dụng ngô QPM thay thế cho ngô thường làm tăng được chiều cao và

trọng lượng của trẻ em: 12% (95% IC: 7 - 18%) tăng thêm trọng lượng cơ thể,

9% (95% IC: 6 - 15%) tăng thêm chiều cao (Pixley, 2008) [80].

Việc phát triển sản xuất các giống ngô QPM đặc biệt có ý nghĩa trong

việc xoá đói giảm nghèo ở những nước đang phát triển và những vùng khó

khăn. Khi đời sống của các nước đang phát triển trong những thập kỷ tới được

cải thiện, thì nhu cầu protein động vật sẽ tăng nhanh chóng, đòi hỏi nguồn

nguyên liệu ngô làm thức ăn gia súc ngày một lớn.

1.3.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô QPM trên thế giới

1.3.2.1. Lịch sử phát triển ngô mang gen opaque-2 nội nhũ xốp

a. Khái niệm gen opaque-2

Gen opaque-2 được phát hiện đầu tiên bởi Emerson và cộng sự (1935).

Nhưng đến năm 1963, Mertz (1964) (Đại học Tổng hợp Purdue) mới phát

hiện ra gen đột biến opaque-2 quy định hàm lượng lysine, triptophan cao

trong nội nhũ ngô. Các nhà khoa học đã liên tục có sự tìm tòi các cặp alen đột

biến mới có thể quy định chất lượng protein tốt hơn, tăng hàm lượng lysine và

triptophan (2 axit amin cần thiết có hàm lượng hạn chế trong protein nội nhũ

của ngô) (Vasal, 2002) [95].

Trong hơn 30 năm qua, nhiều nhà khoa học đã phát hiện ra vài gen đột

biến khác có thể thay đổi theo hướng có lợi về đặc tính protein nội nhũ của

ngô nhưng chưa tìm thấy thể đột biến nào tốt hơn opaque-2. Các đột biến khác

như floury-2 (fl2), opaque-7 (o7), opaque-6 (o6), floury-3 (fl3), mucronate (Mc) và

nội nhũ khuyết thiếu (De-B30). Hai thể đột biến như vậy được tìm ra bởi Nelson

(1981) là opaque 7749 và opaque 7455 (o11). Opaque 7749 là một dạng quý vì

lysine trong đó không cao bằng opaque-2 nhưng cao hơn một cách đáng kể so

với dạng ngô thường và tỷ lệ prolamin cao hơn (Vasal, 2002) [95].

17

Page 18: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Ngày nay, ngô mang gen opaque-2 có hàm lượng protein là 11 - 13%,

lysine/protein là 4% và triptophan/protein từ 0,8 - 0,9% trong khi ngô thường

tương ứng là 9%, 2 - 2,2% và 0,4 - 0,5% (Vasal, 2002) [95].

b. Thành phần hoá sinh

Ở hầu hết các loại ngô thương phẩm, nội nhũ chiếm 80 - 85%, còn phôi

chiếm khoảng 8 - 10% tổng khối lượng chất khô của hạt. Mặc dù có sự dao

động giữa các lớp ngô, kiểu gen và môi trường, nhưng ước tính lượng protein

trong nội nhũ chiếm tới 80% tổng hàm lượng protein trong hạt. Protein trong

nội nhũ bao gồm các dạng khác nhau. Dựa vào độ bền vững của nó mà chúng

có thể phân loại thành albumin (tan trong nước), globulin (tan trong dung dịch

muối), zein hoặc prolamine (tan trong rượu mạnh) và glutelin (tan trong

kiềm). Trong nội nhũ ngô thường, tỷ lệ trung bình của các dạng protein như

sau: Albumin 3%, globulin 3%, zein 60% và glutelin 34%. Trái lại, protein

trong phôi có nhiều albumin hơn (60% tổng protein của phôi). Dạng tan trong

rượu chỉ chiếm một phần nhỏ (5 - 10%). Hàm lượng lysine trong prolamine

(zein trong ngô) thấp, chỉ khoảng 0,1g/100g protein, không đủ nuôi sống

chuột. Nếu thêm vào lượng triptophan và lysine (0,5%) thì sẽ làm cho chuột

sinh trưởng gần như bình thường. Tương tự, triptophan cũng chiếm tỷ lệ rất ít

trong zein. Lysine trong glutelin của ngô cao hơn đáng kể, chiếm khoảng 3

đến 2g/100g protein, thậm chí cao hơn (Vasal, 2001) [94].

Dạng đột biến opaque-2 có hàm lượng lysine và triptophan tăng lên là do

sự tổng hợp zein bị ức chế. Tỷ lệ các dạng protein có mặt trong protein của

ngô đột biến gen opaque-2 thay đổi thành 13,2% albumin, 3,9% globumin,

22,8% zein và 50,0% glutein. Vậy khi tỷ lệ zein giảm (thành phần chứa ít

lysine) thì tỷ lệ những thành phần khác có lysine và triptophan cao hơn được

tăng lên (Vasal, 2001) [94].

18

Page 19: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

c. Cơ sở di truyền của ngô mang gen opaque-2

Đột biến opaque-2 nằm trên nhiễm sắc thể số 7 (vị trí 16), floury-2 nằm

trên nhiễm sắc thể số 4 (vị trí 63), opaque-7 nằm trên nhiễm sắc thể số 10 (vị

trí 87), floury-3 nằm trên nhiễm sắc thể số 8 (cánh dài) và De-B30 trên nhiễm

sắc thể số 7 (cánh ngắn). Các dạng đột biến o2, o6, o7 và o11 chỉ gây ảnh hưởng

sinh hoá đối với sự tổng hợp của zein chỉ khi thể hiện trong điều kiện đồng

hợp tử lặn. Đây là thuận lợi căn bản để chọn lọc các dạng ngô mang gen

opaque ở các thế hệ tự phối cũng như backcrossing. Hai thể đột biến (fl2 và

fl3) trội không hoàn toàn và có biểu hiện không cố định đối với chất lượng

protein và tính dục của hạt phụ thuộc vào sự có mặt của một hay nhiều gen

lặn trong nội nhũ tứ bội. Vì vậy, ngày nay fl2 và fl3 không được sử dụng nữa.

Đột biến De-B30 tác động như một gen trội về ảnh hưởng liều lượng đối với

tính dục và hàm lượng zein trong hạt. Trừ opaque-6 được coi là gen cấu trúc,

các dạng khác là gen điều tiết. Tất cả những biến thể này có một đặc tính

chung là thành phần prolamine thấp, nội nhũ dạng bột phấn xốp và sự thiếu

hụt lượng chất khô được tạo ra, vì vậy cũng không được quan tâm hơn (Vasal,

2002) [95].

d. Những hạn chế của giống ngô opaque-2 nội nhũ xốp

Vào giai đoạn 1964 - 1970, các nhà chọn tạo giống ngô trên thế giới cố

gắng truyền các gen đột biến opaque-2 và floury-2 vào những giống ngô có

nền di truyền rộng. Khi các gen đột biến được truyền thành công vào giống

ngô nào đó thì giống đó được gọi là giống ngô opaque-2. Đầu năm 1970, các

giống ngô opaque-2 nội nhũ xốp đã sẵn sàng để đưa vào sản xuất thương mại

tại Braxin, Columbia, Ấn độ và một số nước khác. Sau đó những nước này

cùng với Mỹ đã có xu hướng tăng trưởng trong việc sản xuất ngô opaque-2.

Tiếp đến là Nga và Hungary cũng tiến hành sản xuất ngô opaque-2 nhưng

chưa có một thống kê chính xác nào về diện tích gieo trồng. Vào giữa năm

19

Page 20: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

1970, mặc dù sản xuất ngô opaque-2 mới bắt đầu ở những nước trên nhưng đã

gặp phải những hạn chế của ngô mang gen opaque-2 so với ngô không mang

gen opaque-2 (ngô thường) như sau: Năng suất hạt giảm 10 - 15% so với các

giống ngô thường cùng gốc do sự ngừng tích luỹ chất khô vào hạt sớm hơn so

khoảng 7 – 10 ngày; dạng hạt khó chấp nhận: Tất cả những đột biến chất

lượng protein cao (bao gồm cả opaque-2) có đặc tính chung là có kiểu hình

hạt đục, dạng bột phấn xốp. Theo Bjarnason và Vasal (1992) [60] rất có thể

nguyên nhân của dạng hạt xốp là do sự sắp xếp lỏng lẻo của các hạt tinh bột

gây ra các khoảng trống không khí, sự phân bố khác nhau của protein và sự

tăng các chất cơ bản không kết tinh của protein; bệnh thối bắp nặng hơn do sử

dụng nguồn cung cấp gen o2 dễ nhiễm bệnh thối bắp. Ngoài ra, loại ngô này

còn bị nứt vỏ hạt và chín chậm hơn; côn trùng trong kho gây hại mạnh hơn;

ẩm độ cao khi thu hoạch; nảy mầm kém ở những khu vực khí hậu lạnh, vào

thời điểm gieo trồng nhiệt độ thấp thì ngô mang gen opaque-2 có thể nảy

mầm kém và cây con sinh trưởng yếu; hạt dễ vỡ: Trong điều kiện nhiệt đới

ẩm, hạt dễ vỡ là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nhiễm bệnh cao

(Alexander (1966) [56]; Harstead (1969) [69]; Vasal (1975) [93]; Vasal

(2001) [94]; Vasal và CS (1980) [96]; Vasal và CS (1984) [97]).

1.3.2.2. Lịch sử phát triển ngô opaque-2 nội nhũ cứng

a. Phát hiện về ngô opaque-2 nội nhũ cứng

Trong khi các vấn đề trở ngại của opaque-2 đang được tìm cách khắc

phục, các nhà nghiên cứu ở CIMMYT thấy trong chương trình biến đổi có

nhiều hạt ngô được sửa chữa từng phần, nghĩa là nội nhũ của một số hạt trở

nên cứng không hoàn toàn. Lúc đó ý nghĩa của các hạt kiểu như vậy chưa

được hiểu rõ và hầu hết các nhà chọn giống loại bỏ. Vào năm 1969, Paez và

cộng sự đã công bố tầm quan trọng của các loại hạt như vậy, John Longquist

và Asnani tách riêng gửi về phân tích nghiên cứu ảnh hưởng của việc sửa

20

Page 21: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

chữa đến các đặc tính sinh hoá. Nhưng các hạt được sửa chữa như vậy lại

nghèo dinh dưỡng đến 25% so với khi chưa biến đổi. Các nhà khoa học đã

phát hiện ra một số quần thể đang chuyển đổi thành opaque-2 và các tổ hợp

lai giữa những quần thể như vậy có tần số cao các hạt sửa chữa và giữ được

đặc tính chất lượng protein như ngô opaque-2 (Vasal, 2002) [95].

b. Khái niệm về ngô QPM

QPM là ngô mang gen lặn opaque-2 nhưng đã được sửa chữa một số đặc

tính như sau: Nội nhũ cứng, có tính chống chịu sâu bệnh và các điều kiện bất

thuận như hạn, đổ, úng như ngô thường, phẩm chất dinh dưỡng hạt thương

phẩm tốt, ít bị sâu mọt phá hại khi bảo quản và nảy mầm như ngô bình

thường. Việc sửa chữa này thành công nhờ sử dụng hệ gen biến đổi trong quá

trình lai truyền opaque-2. Như vậy, ngô QPM có đầy đủ ưu điểm như ngô

thường về năng suất và chống chịu nhưng hàm lượng protein cao hơn và chất

lượng protein, đặc biệt hàm lượng lysine và triptophan gấp đôi ngô thường.

Có được giống ngô QPM như hiện nay là nhờ có thêm một hệ gen gọi là

hệ gen biến đổi (modifying gene system). Hệ gen biến đổi là một loạt các gen

mà bản thân chúng không quy định một tính trạng nào nhưng khi tương tác

với gen đột biến opaque-2 thì làm thay đổi sự biểu hiện kiểu hình của đột biến

này. Hiệu quả của tương tác này có thể ảnh hưởng đến bất kỳ tính trạng nào

nhưng rõ nhất là thay đổi dạng hạt. Một số nghiên cứu đã tổng kết rằng cấu

trúc hạt ngô sửa chữa do hệ gen di truyền số lượng với hiệu ứng gen cộng giữ

vai trò quan trọng (Bjarnason, Vasal, 1992) [60].

Theo kinh nghiệm của các nhà khoa học CIMMYT, chất lượng protein

và sự thay đổi dạng hạt nhờ hệ gen biến đổi nhìn chung có tương quan nghịch

với nhau. Tức là các hạt càng được sửa chữa nội nhũ thì chất lượng protein

càng giảm. Ta chỉ có thể chờ đợi trường hợp ngoại lệ (hạt sửa chữa nhưng

duy trì chất lượng protein) nhờ những phân tích chất lượng mẫu. Nghĩa là nhà

21

Page 22: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

chọn giống phải luôn dung hoà giữa nội nhũ của hạt được sửa chữa và chất

lượng thay đổi đến mức nào. Trong một chu kỳ chọn lọc đầu tiên của quá

trình cải tạo, lai truyền gen opaque-2, số lượng mẫu cần loại bỏ nhiều, tiếp

theo khi có sự tích luỹ các gen cải tiến có lợi thì số mẫu cần loại sẽ ít đi.

Trong quá trình chọn lọc, nhà chọn giống thu được kiểu gen mong muốn phụ

thuộc vào các vật liệu khác nhau. Sự biểu hiện kiểu hình của hệ gen biến đổi

có thể bị ảnh hưởng của cây mẹ. Vì mô nội nhũ ngô ở dạng tam bội, cây mẹ

đóng góp 2 alen trong nội nhũ, cây bố đóng góp 1 alen, nên ta có thể chờ đợi

cây mẹ góp phần ảnh hưởng nhiều hơn cây bố (Vasal, 2002) [95].

1.3.2.3. Thực trạng về áp dụng tiến bộ kỹ thuật ngô QPM trên thế giới

Từ 1963 đến 1969, ngô mang gen opaque-2 nội nhũ xốp không mang lại

hiệu quả trong sản xuất đã gây cho nhiều chương trình ngô ở các quốc gia thất

vọng, chán nản. Sau đó những thành công của CIMMYT trong việc phát hiện,

phát triển QPM đã tái tạo lại mối quan tâm và làm sống lại những hoạt động

tạo giống QPM ở một số nước. Có hơn 20 nước đang phát triển (Benin,

Braxin, Burkina Faso, Colombia, Ấn Độ, El Sanvadorr, Peru, Ethiopia,

Ghana, Guatemala, Guinea, Mali, Mehico, Nam Phi, Nicaragoa, Trung Quốc,

Việt Nam) phụ thuộc vào các hoạt động tạo giống QPM ở CIMMYT. Những

nước này đã và đang sử dụng các quần thể QPM, các dòng, các giống hỗn hợp

và tổng hợp được phát triển tại CIMMYT. Thậm chí ở Mỹ, một số trường đại

học theo đuổi về QPM cũng đã sử dụng nguyên liệu của CIMMYT làm

nguyên liệu ban đầu để tăng cường việc tạo những dòng và giống lai QPM.

Đặc biệt ở trường Đại học Illinois, Urbana, Texas, Công ty hạt giống lai

Crow, một số nước Braxin, Trung Quốc, Cộng hòa Nam Phi và những nước

khác chủ yếu sử dụng nguyên liệu QPM của CIMMYT chứ chưa nghiên cứu

tạo nguồn nguyên liệu QPM của mình. Bên cạnh nguồn nguyên liệu ban đầu

(vốn gen và quần thể QPM) có sự thích nghi, thời gian sinh trưởng, màu sắc

22

Page 23: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

và kết cấu hạt khác nhau, CIMMYT đã tạo ra hàng trăm giống thí nghiệm

tổng hợp. Từ năm 1985, sự phát triển giống lai QPM đã được tiến hành và đã

tạo ra các giống tổng hợp, dòng tự thụ và giống lai. Nhiều tổ hợp lai đã được

mở rộng diện tích ở các nước khác nhau.

Các nước rất quan tâm đến trồng ngô QPM. Ở Trung Mỹ thử nghiệm

QPM làm thức ăn cho người và gia súc. Guatemala đã mở rộng giống TPTD

QPM tên là Nutricta từ Tuxpeno QPM. Chương trình quốc gia ở Guatemala

và các nước Trung Mỹ khác đang đánh giá những dòng và giống lai QPM

vàng và trắng của CIMMYT và thử nghiệm riêng ngô vàng làm thức ăn gia súc.

Một số nước ở Nam Mỹ đã được mở rộng giống QPM. Năm 1988,

Braxin tạo ra giống thụ phấn tự do BR 451 – giống này tỏ ra thích ứng tốt với

môi trường Braxin và rất thuận lợi cho việc sản xuất ngô bột. Năm 1990,

1410 tấn hạt giống đã được cung cấp cho nông dân, đủ trồng cho 70.500 ha

(Magnavaca, 1992) [74]. Ở Ghana năm 1997, ba giống ngô lai QPM đã được

công nhận là: GH-110-5, GH-2328-88. Thành công trong việc đưa ra giống

của Ghana vào sản xuất đã dấy lên mối quan tâm của các nước lân cận của

Châu Phi như Benin, Togo và các nước miền Nam và miền Đông châu Phi.

Nhiệm vụ toàn cầu năm 2001 là phải thúc đẩy sản xuất loại ngô QPM ở

Ghana và các nước Châu Phi khác. Hiện nay các nước này đang trong quá

trình nhân nhanh hạt giống cho vài nghìn ha sản xuất.

Ở châu Á, Trung Quốc có chương trình tạo giống ngô QPM mạnh nhất.

Một số giống thụ phấn tự do và giống lai đã được tạo ra như Zhongdan 206,

Zhongdan 3850, Zhongdan 3710 đang được trồng ở phía Bắc. Năm 1998,

chương trình ngô ở Ấn độ đã cho ra đời giống Shaski-1 năng suất cao, dạng

hạt cải tiến chấp nhận được.

Trong 2 năm 1999 - 2000, 14 nước đang phát triển đã phối hợp với

CIMMYT nghiên cứu và đưa ra sản xuất rộng những giống ngô lai và ngô thụ

23

Page 24: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

phấn tự do QPM và một số nước đã nâng chương trình phát triển QPM thành

chương trình trọng điểm. Năm 2000, hơn 730.000 ha ở những nước đang phát

triển gieo trồng QPM và tiềm năng cho việc đẩy mạnh sử dụng QPM là rất

lớn (CIMMYT, 2001) 62].

Về năng suất, các giống ngô lai và ngô thụ phấn tự do QPM ưu tú đã

được xác định qua khảo nghiệm ở nhiều địa điểm đã được đánh giá tại 40

nước ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ - La Tinh. Kết quả các giống lai QPM

cho năng suất cao hơn ít nhất 1 tấn/ha so với các giống ngô lai thường tốt

nhất, năng suất của các giống thụ phấn tự do QPM đã và đang được đánh giá

là tương đương hoặc lớn hơn các giống thụ phấn tự do thường. Các chuyên

gia CIMMYT đã và đang thiết lập hàng ngàn thí nghiệm cải tạo các giống thụ

phấn tự do QPM để khảo nghiệm và sử dụng trong tương lai. Việc chuẩn bị

đã được đặt ra bằng việc sử dụng những phân tử đánh dấu ADN giúp cho việc

chuyển những gen chất lượng protein vào những giống ngô thường ưu tú. Các

giống ngô tổng hợp QPM có những tính trạng đặc biệt đặc trưng như độ cao

đóng bắp đều và thấp, chống chịu sâu đục bắp và đổ rễ và đáng chú ý nhất là

hàm lượng tryptophan (0,11% toàn hạt), lysine (0,475% toàn hạt) và protein

(11,0% toàn hạt) cao hơn rất nhiều so với hàm lượng của những chất này

trong ngô thường (0,05; 0,225 và 9,0%). Những đặc trưng này làm cho các

giống tổng hợp QPM trở lên hấp dẫn với nông dân, sẽ giúp họ tăng năng suất

và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng (CIMMYT, 2001) [62].

Với những ưu điểm của giống QPM và với những thành tựu mà các nhà

khoa học đã đạt được trong những thập kỷ qua trong nghiên cứu tạo giống

QPM, ngày 12 tháng 10 năm 2000, Tổ chức lương thực thế giới đã trao giải

thưởng cho CIMMYT và nhà tạo giống ngô Surinder Kumar Vasal, nhà hoá

sinh ngũ cốc Evangelina của CIMMYT ghi nhận về những cống hiến của họ

tại CIMMYT suốt từ năm 1970 đến những năm 80 trong việc tạo giống QPM.

24

Page 25: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Hàng năm giải thưởng được trao cho những cá nhân đã thúc đẩy sự phát triển

của loài người bằng việc cải tiến số lượng, chất lượng hoặc tạo thêm nguồn

lương thực cho thế giới. Tiến sĩ Vasal tập trung vào phương pháp tạo giống

truyền thống để tuyển một loạt những gen đặc biệt, loại bỏ ảnh hưởng không

mong muốn của gen opaque-2. Để khẳng định giá trị gia tăng của protein vẫn

được duy trì trong quá trình lai tạo và chọn lọc, Villegas và nhóm cộng sự đã

tiến hành phân tích hàm lượng axit amin trong protein của khoảng 20.000

mẫu ngô hạt mỗi năm (CIMMYT, 2001) 62.

Về chất lượng protein, đã phân tích các enzime trong việc tạo giống ngô

QPM ở Trung Quốc, Ấn Độ và Zimbabwe cho thấy các giống lai QPM có

hàm lượng lysine và triptophan cao hơn các giống ngô thường làm đối chứng

từ 70 - 100%. Vài giống ngô lai mới có chứa protein cao đến 13,5% và

tryptophan cao đến 4,5%. Qua vài năm thử nghiệm trên đồng ruộng cho thấy

sự lẫn phấn từ ngô thường sang ngô QPM là không đáng kể, chỉ ở những hàng

biên của cánh đồng QPM trồng cạnh cánh đồng ngô thường chỉ bị giảm 10%.

Còn ở giữa ruộng QPM thì chất lượng protein giảm rất ít hoặc không bị giảm.

Do vậy, khi chọn hạt giống để gieo những vụ sau thì nên chọn những ô giữa

cánh đồng (CIMMYT, 2001) 62.

Những giống QPM cả thụ phấn tự do lẫn giống lai đều có thể tạo ra cho

sản xuất thương mại trên đồng ruộng của nông dân. Sự chọn lựa các giống thụ

phấn tự do hoặc giống lai thay đổi từ nước này sang nước khác phụ thuộc một

số yếu tố bao gồm sức mạnh của chương trình quốc gia, lực lượng con người

được đào tạo và hạ tầng cơ sở của việc sản xuất hạt giống của cả tư nhân lẫn

Nhà nước. Nhìn chung các giống lai thông dụng hơn ở các nước phát triển. Ở

những nước đang phát triển, gieo trồng cả giống lai lẫn giống thụ phấn tự do;

riêng một số nước như Argentina, Brazil, El Salvadol, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ,

Thái Lan, Trung Quốc và Zimbabwe hầu hết trồng giống lai. Vấn đề trồng

25

Page 26: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

giống QPM opaque xốp và opaque kết cấu nội nhũ cải tiến đều quan trọng

như nhau. Ở những nước ngô được trồng làm thức ăn cho chăn nuôi thì có thể

sử dụng ngô nội nhũ cứng hoặc xốp. Còn ở những nước đang phát triển, nơi

mà ngô được sử dụng chủ yếu làm lương thực cho người, thì dạng ngô đá và

răng ngựa cứng được ưa chuộng hơn. Vì vậy nhu cầu về ngô nội nhũ cứng

hay xốp phụ thuộc vào mục đích sử dụng (làm lương thực, thức ăn chăn nuôi

hoặc các mục đích công nghiệp) (Vasal, 2001) 94.

Với một số lượng lớn vật liệu QPM, CIMMYT tạo ra hàng trăm giống

thí nghiệm tổng hợp bằng cách tái tổ hợp 10 gia đình tốt nhất được chọn lọc

trên cơ sở thí nghiệm quốc tế thử nghiệm đời con cháu. Bắt đầu từ năm 1985,

sự phát triển giống lai QPM đã được chú trọng và đã tạo ra được các giống

tổng hợp, dòng tự thụ và giống lai. Đa số các nguồn nguyên liệu này đã được

đánh giá trong các thí nghiệm giống thí nghiệm chuẩn (EVT) hoặc thí nghiệm

giống lai. Gần đây, những dòng tự thụ QPM có kí hiệu từ CML140 đến

CML194 đã được công bố và có sự thích ứng cả ở vùng nhiệt đới lẫn cận

nhiệt đới. Trong những năm gần đây việc thử nghiệm những giống ngô QPM

đã được tăng cường và kết quả là đã xác định được những giống tốt nhất cho

một số nước đang phát triển.

Hoạt động phát triển QPM đã và đang được chú trọng, quan tâm với

mức độ tăng dần ở nhiều nước trong những năm gần đây. Thành tích có thể

chấp nhận được của các nguồn nguyên liệu QPM với chất lượng protein như

là một phần thưởng thúc đẩy các chương trình quốc gia thay thế ngô thường

trong nhu cầu lương thực cho con người và làm thức ăn cho chăn nuôi ở Mỹ

và các nước sản xuất ngô khác để giảm giá thành protein động vật. Sự khích

lệ sản xuất thương mại và sử dụng QPM nên được ưu tiên; ít nhất là những

nước mà QPM đã cho kết quả tốt (Vasal, 2001) 94.

26

Page 27: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Một số giống ngô QPM mới được đưa vào sản xuất ở châu Phi những

năm gần đây: Lishe-K1, Lishe-H1, Lishe-H2 (2000); BHQP-542 Longe-5

(Nalongo) (2001), WSQ104, KH500Q, KH631Q (2005), TAN611 (2007),

BHYQP-545, Pool15QPM, NASECO (2008). Một số giống ngô QPM mới

được đưa vào sản xuất ở các nước châu Á: IPB Var 6 của Philippin năm 2008;

Jawari Mughazi-08 của Ápganixtan - 2008; 2 OPVs của Indonesia - 2004;

BHM5 của Băngladet - 2007; HQPM-1 (2005), Shaktiman-3, -4 (2006),

HQPM-5 (2007), HQPM-7 & Vivek-9 QPM (2008) của Ấn độ (Pixley, 2008) [80].

Tại Indonesia, Giống QPM Srikandi Putih-1 cho năng suất 7,91 tấn/ha

hay tăng 13,4% so với ngô thường tốt nhất (MS-2) và giống QPM Srikandi

Kuning-1 cho năng suất 7,92 tấn/ha hay tăng 2% so với đối chứng ngô thường

Bisma. Ngô trắng và Ngô vàng QPM có hàm lượng lysine 0,36% và 0,459%;

hàm lượng tryptophan 0,071% và 0,085% (Yasin và CS, 2007) [101].

Hai giống ngô QPM mới của Indonesia là Srikandi Kuning-1 và

Srikandi Putih-1 có những đặc điểm sau: Giống Srikandi Kuning-1 có hàm

lượng protein là 10,38%, lysine 0,477%, triptophan 0,093%, năng suất 7,9

tấn/ha; giống Srikandi Putih-1 có hàm lượng protein là 10,44%, lysine 0,41%,

triptophan 0,087%, năng suất 8,1 tấn/ha. So sánh với giống ngô thường

Lamuru thì số liệu tương ứng là 8,49%; 0,278%; 0,064%; 7,6 tấn/ha (Made và

CS, 2008) [73].

1.3.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô QPM ở Việt Nam

Ở Việt Nam, vào năm 1989, giống ngô QPM nội nhũ cứng Pop63 đã

được khu vực hoá và một số địa phương đã trồng, tuy nhiên do năng suất

không cao bằng giống thường (VM1) và hạt trắng nên đã không mở rộng được.

Mặc dù còn nhiều khó khăn về tài chính, cơ sở vật chất song xuất phát từ

những nhu cầu sử dụng và lợi ích của ngô QPM, Viện Nghiên cứu Ngô đã

nhập nội một số nguyên liệu QPM (1998) và hợp tác với CIMMYT lai tạo

thành công giống lai đơn, đặt tên là HQ2000, có năng suất cao tương đương

27

Page 28: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

với ngô lai thường nhưng hàm lượng protein cao hơn ngô thường. Hàm lượng

protein là 11,0% (ngô thường 8,5 – 9,0%), trong đó lysine/protein là 4,0%,

triptophan/protein là 0,82% (ngô thường là 2,0% và 0,5%) (Lê Quý Kha, Trần

Hồng Uy, 2002) 21. Tháng 4/2004, giống HQ2000 đã được Hội đồng khoa

học - Bộ NN&PTNT cho phép công nhận chính thức (Lê Quý Kha và CS,

2004) [22]. Vào năm 2004, diện tích sử dụng giống HQ2000 trên toàn quốc

đã lên tới hơn 10 ngàn ha. Năm 2003, giống HQ2000 đã tham gia thị trường

xuất khẩu Băngladet và Lào được 30 tấn.

Giống ngô HQ2000 đã được triển khai mô hình ở các vùng sinh thái

khác nhau trên toàn quốc, thích nghi tốt, cũng như LVN10, đạt năng suất 5 -7

tấn/ha là không khó khăn nếu áp dụng đúng quy trình kỹ thuật. Hạt ngô thịt

HQ2000 đã được đưa vào sử dụng thử như: Cho người ăn, làm mèn mén ở

Bắc Hà – Lào Cai, chất lượng ngon (được người H'Mông chấp nhận); thử

nghiệm chăn nuôi lợn sữa xuất khẩu ở HTX Trung Châu – Đan Phượng – Hà

Nội đạt kết quả tốt; thử nghiệm chăn nuôi gà ở Trạm Thử nghiệm thức ăn gia

súc Thụy Phương – Viện Chăn nuôi; thử nghiệm chăn nuôi gà ở Lạc Thuỷ -

Hoà Bình; bước đầu thử nghiệm chăn nuôi bò sữa ở Trung tâm Bò sữa và

Đồng cỏ Ba Vì – Hà Tây và HTX Nông nghiệp Phù Đổng – Gia Lâm – Hà

Nội. Các mô hình sử dụng HQ2000 làm lương thực đã được thử nghiệm tại

Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng đều cho thấy mèn mén bằng ngô HQ2000 có vị

đậm và ngậy hơn, bột mịn – dễ ăn hơn các loại ngô lai thường khác.

Trong năm 2001, Viện Nghiên cứu Ngô cũng đã xác định được 2 tổ hợp

lai QPM mới cho năng suất cao hơn HQ2000 đó là: CML166 x CML168 x

CML172 cho năng suất vượt HQ2000 18% và tổ hợp lai CLQ6601 x

CML172 vượt HQ2000 11% (Phan Xuân Hào, Vũ Đức Quang, 2002) [15].

Hiện nay, Viện đang gửi các giống ngô QPM đi khảo nghiệm quốc gia để

đánh giá khả năng thích ứng, sinh trưởng phát triển, chống chịu, năng suất và

chất lượng của các giống ngô QPM ở nhiều địa phương, nhiều vùng trong cả nước.

28

Page 29: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Từ năm 2001 - 2005, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên phối hợp

với Viện Nghiên cứu Ngô đã tiến hành khảo nghiệm một số giống ngô chất

lượng protein cao và thu được kết quả như sau: Thí nghiệm ở vụ Xuân và vụ

Thu Đông 2002 cho kết quả hai giống QP2 và QP3 khá đồng đều và ổn định

qua hai vụ, có thời gian sinh trưởng ngắn, có khả năng chống chịu sâu bệnh

tốt, có năng suất thực thu tương đương với hai giống đối chứng (Q2 và

HQ2000). Đặc biệt, hai giống này có hàm lượng protein đạt 11,1 và 11,4%

tương đương HQ2000 (11,3%) và cao hơn hẳn Q2 (8,2%); hàm lượng

lysine/protein đạt 4,1 và 4,3% cao hơn hẳn hai đối chứng (2,6 và 3,9%) (Phan

Xuân Hào, Trần Trung Kiên, 2004) [16].

So sánh 6 giống ngô TPTD QPM với đối chứng HQ2000 vụ Xuân 2005

tại Tuyên Quang cho kết quả giống QP4 có thời gian sinh trưởng trung bình,

thấp cây, cho năng suất cao nhất (đạt 39,22 tạ/ha) nhưng thấp hơn đối chứng

(57,29 tạ/ha) (Dương Văn Sơn, 2007) [37].

Trong số 60 dòng QPM đánh giá ở vụ Thu Đông 2007 tại Đan Phượng -

Hà Nội chọn ra được 10 dòng (D3, D6, D8, D21, D22, D24, D42, D58 và

D59) có năng suất khá cao (23,37 - 45 tạ/ha), chống đổ, ít nhiễm bệnh ở thân

và bắp, trong đó 3 dòng đạt năng suất vượt đối chứng 2 (32,3 tạ/ha) là D2

(38,6 tạ/ha), D24 (37,6 tạ/ha), D31 (44,7 tạ/ha) (Châu Ngọc Lý và CS, 2008) [25].90 dòng thuần QPM được phát triển từ 8 dòng ngô thường (C2, C4,

C135, C154, C164, C172, T2, T5) và 4 giống lai thường (SC1614, SC18161,

SC7114, C919) và HQ2000 (giống lai QPM) có khả năng kết hợp chung cao

đã lai với phôi và cây trồng tái tạo phản ứng dây chuyền dòng AC24 và

CML161 (QPM). Sau 4 vụ chọn lọc, sử dụng SSR primers phi057 và phi112

phát hiện ra 30 dòng thuần có gen o2o2. Bằng phương pháp chuyển đổi

backerossing truyền thống với dòng CML161 và CML165 (QPM) cùng với

sự chọn lọc dưới đèn huỳnh quang, 8 dòng ngô thuần QPM mới được phát

29

Page 30: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

triển từ hai dòng ngô thuần thường (TCH1 và DF7) có năng suất và khả năng

kết hợp chung cao (Chau Ngoc Ly và CS, 2008) [61].

Ba mươi tám dòng QPM mới phát triển, 6 dòng QPM từ CYMMYT và 1

dòng ngô thường (đối chứng) được đánh giá năng suất và đặc điểm nông sinh

học vụ Xuân 2008 tại Đan Phượng - Hà Nội. Thông qua đánh giá và áp dụng

chỉ số chọn lọc (SI), 6 dòng QPM thể đơn bội kép: V62, V64, V66, V68, V72

và C141 (SI = 14,34 - 17,52), 7 dòng QPM chuyển đổi theo phương pháp

truyền thống: Q1, Q5, Q11, Q16, Q18, Q21, KQ1 (SI = 15,0 - 17,85),

CML161 và CML161/422 đã được chọn. Những dòng này có khả năng chống

chịu tốt với bệnh thối bắp (8,3 - 33,7%), lá xanh bền, trạng thái cây và bắp tốt

(điểm 2 - 3), năng suất từ 25,48 - 46,89 tạ/ha. Những dòng này tạo ra nhiều

giống lai nhiều triển vọng (Chau Ngoc Ly và CS, 2008) [61].

Trong điều kiện Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng ngô

QPM và chọn tạo được nhiều giống ngô QPM phục vụ sản xuất. Chương trình

tạo giống và triển khai ngô QPM sẽ phát triển nhanh chóng và có hiệu quả ở

Việt Nam, vì nó là xu hướng tất yếu của khoa học công nghệ thế kỷ XXI, vì

nó có lợi cho dân và hợp lòng dân.

1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hàm lượng và chất lượng protein ở ngô

Tổng hợp protein liên quan chặt chẽ với việc thu nhận và tích lũy N

trong cây ngô, hai quá trình này không cùng tốc độ như nhau trong quá trình

sinh trưởng phát triển của cây ngô. Tốc độ tổng hợp protein cao nhất trong

cây ngô ở giai đoạn đầu cho đến khi ngô được 6 lá, protein trong mô ở giai

đoạn này đạt 24 – 25% trong tổng số chất khô. Giai đoạn tiếp theo hình thành

mạnh nhất sinh khối chung thì hàm lượng protein giảm nhanh (còn 12%).

Giai đoạn trỗ cờ phun râu đến cuối giai đoạn sinh trưởng của cây ngô thì hàm

lượng protein gần như ở mức ổn định trong khoảng 5 – 7%. Trong hạt ngô

cũng biến động tương tự như các cơ quan sinh dưỡng khác, ở giai đoạn đầu

30

Page 31: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

protein 15 – 18%. Cùng với sự phát triển của hạt tăng tích lũy cacbonhydrat

thì hàm lượng protein ở giai đoạn chín hoàn toàn hạ xuống còn 8 – 9%, trong

một số giống lai còn thấp hơn (Tomov, 1984) [90].

Hàm lượng protein cũng như các thành phần axit amin bị thay đổi bởi

những tác động của các yếu tố di truyền, môi trường canh tác. Thường những

thay đổi về lượng protein thì cũng thay đổi thành phần axit amin. Tác động

mạnh nhất đến hàm lượng và chất lượng ptotein của ngô là những yếu tố di

truyền (giống), tiếp đến là yếu tố môi trường gồm khí hậu (ẩm độ, nhiệt, ánh

sáng) và kỹ thuật nông học (phân bón, tưới nước, mật độ). Trong nhiều

trường hợp, môi trường tương quan với giống ảnh hưởng đến hàm lượng và

chất lượng protein. Vì vậy, về mặt tổng hợp protein cần thiết ngô được trồng

trong điều kiện tối ưu về giống và kỹ thuật canh tác (Tomov, 1984) [90].

- Yếu tố di truyền (giống): Nhiều nghiên cứu cho thấy đồng thời với

việc tăng hàm lượng protein thì năng suất giảm. Giống lai có năng suất cao thì

hàm lượng protein thấp, giảm từ 9 - 10% còn 7 - 8% so với giống gốc ban

đầu. Lý do là trong các giống lai tốc độ tích luỹ cacbonhydrat nhanh hơn tích

luỹ protein. Từ đó nảy sinh ra vấn đề khó khăn, khi đưa được những giống lai

năng suất cao thì cũng khó nâng cao được hàm lượng lysine và triptophan,

ngay cả khi Mezt phát hiện ra gen opaque (Zuber và CS, 1980) [102].

- Yếu tố khí hậu: Ảnh hưởng cúa các giống lai khác nhau đến thay đổi

hàm lượng protein phụ thuộc vào tổng lượng mưa. Những năm ít mưa thì hàm

lượng protein cao hơn. Yếu tố nước là tác động nghịch, cùng với tăng lượng

mưa thì hàm lượng protein giảm. Yếu tố nhiệt độ là tác động thuận, tăng tổng

tích ôn hữu hiệu thì hàm lượng protein tăng. Như vậy, hàm lượng protein thay

đổi khác nhau ở những điều kiện khí hậu khác nhau, protein tăng ở vùng phía

Nam, giảm ở vùng phía Bắc do lạnh hơn (Zuber và CS, 1980) [102].

31

Page 32: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

- Yếu tố kỹ thuật canh tác:

+ Tưới nước: Tác động bằng tưới nhân tạo cung cấp nước tối ưu làm

tăng năng suất nhưng làm giảm protein trong hạt. Các nghiên cứu chỉ ra rằng

hàm lượng protein giảm trong điều kiện có tưới mạnh hơn trong điều kiện đất

xấu, không đảm bảo dinh dưỡng cho cây ngô. Trong trường hợp đủ nước

nhưng thiếu đạm hay dinh dưỡng nói chung thì năng suất chung có thể tăng

nhưng lại giảm hàm lượng protein (dẫn theo Tomov, 1984) [90].

Trong điều kiện có tưới, hàm lượng protein trong mô giảm đồng thời

giảm hàm lượng zein (thành phần chứa ít lysine) và tăng tương đối hàm lượng

albumin, globumin và glutein (có chứa nhiều lysine và triptophan). Với kết

quả đó, chất lượng protein được cải thiện. Như vậy, trong điều kiện mưa

nhiều hoặc có tưới đầy đủ thì hàm lượng protein có thể giảm nhưng làm tăng

chất lượng protein (Mertz, 1964) [76].

+ Mật độ: Mật độ tác động đến chất lượng protein tương tự như tưới

nước, tăng mật độ làm giảm hàm lượng protein, đồng thời giảm zein và tăng

hàm lượng albumin, globumin và glutein, tức là tăng chất lượng protein

(Mertz, 1969) [75].

+ Phân bón: Phân N ảnh hưởng lớn nhất đến tích lũy protein trong ngô.

Cùng với việc tăng liều lượng phân bón, đặc biệt là phân N thì sẽ giảm tỷ suất

năng suất ngô trên đơn vị phân N nhưng làm tăng khối lượng protein trong

hạt cũng như trong tổng sinh khối nói chung, dẫn đến tăng nồng độ protein

trong các mô của cây và đảm bảo tăng năng suất protein trên đơn vị diện tích

gieo trồng (Tomov, 1984) [90].

Bón N tăng làm tăng sản lượng protein, nhưng chủ yếu là tăng zein. Với

liều lượng phân bón trung bình thì không thay đổi đáng kể hàm lượng zein và

vẫn đảm bảo tăng chất lượng protein. Khi bón không cân đối các loại phân,

32

Page 33: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

với liều lượng 300N làm giảm chất lượng (khối lượng axit amin không thay

thế) và một số chất khác trên đơn vị diện tích (Tomov, 1984) [90].

Vấn đề nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi hàm lượng

protein là rất phức tạp. Vì hàm lượng protein bị ảnh hưởng rất nhiều nhân tố

di truyền và không di truyền, tác động của những nhân tố đó rất phức tạp và

trong một số trường hợp theo các hướng khác nhau. Thực tế cho thấy thông

qua chọn giống và điều kiện kỹ thuật nông học có thể tác động để thu được

những giống lai năng suất cao, đồng thời nâng cao được hàm lượng protein

với các thành phần axit amin được cải thiện. Vì vậy, nghiên cứu các yếu tố

riêng rẽ ảnh hưởng đến hàm lượng protein phải được nghiên cứu một cách

đồng bộ. Tóm lại, tăng năng suất và chất lượng protein bằng chọn giống và kỹ

thuật canh tác là khả thi và mở ra triển vọng lớn trong tương lai (Tomov,

1984) [90].

1.4. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới và ở Việt Nam

1.4.1. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới

Cây ngô là một cây ngũ cốc quang hợp theo chu trình C4, là cây ưa

nhiệt, có hệ thống rễ chùm phát triển (FAO, 1995) [66].

Cây ngô là cây có tiềm năng năng suất lớn. Trong các biện pháp thâm

canh tăng năng suất ngô, phân bón giữ vai trò quan trọng nhất. Theo Berzeni

và Gyorff (1996) [5] thì phân bón ảnh hưởng tới 30,7% năng suất ngô còn các

yếu tố khác như mật độ, phòng trừ cỏ dại, đất trồng có ảnh hưởng ít hơn.

Sự hút các chất dinh dưỡng thay đổi theo các giai đoạn sinh trưởng, phát

triển của ngô. Dựa vào biến đổi hình thái của cây để xác định nhu cầu dinh

dưỡng từng thời kỳ cho ngô.

Viện Kỹ thuật Cây ngũ cốc và Thức ăn gia súc (Pháp) chia quá trình sinh

trưởng phát triển của cây ngô ra làm 4 giai đoạn:

33

Page 34: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

- Giai đoạn tăng trưởng chậm: Từ khi mọc đến khi 7 – 8 lá: Đây là giai

đoạn hình thành và phát triển bộ rễ. Đây cũng là giai đoạn phân hoá tạo bông

cờ. Giai đoạn này lượng dinh dưỡng cây hút không lớn chỉ bằng 1 – 4% tổng

lượng dinh dưỡng so với cả vòng đời cây hút.

Sự hút chất dinh dưỡng ở thời kỳ đầu tuy chậm nhưng rất quan trọng cho

ngô, bao gồm các dạng dễ hấp thu của các hợp chất chứa NPK so với tổng

lượng dinh dưỡng và tổng chất khô đã tích luỹ được. Sau mọc 20 – 30 ngày

ngô tích luỹ được 4% chất khô, 9% lân, 10% đạm, 14% kali; sau 60 ngày:

45% chất khô, 57% lân, 66% đạm, 92% kali.

- Giai đoạn tăng trưởng nhanh: Từ 7 – 8 lá đến sau trỗ 15 ngày: Ở giai

đoạn này các bộ phận trên mặt đất (thân lá) và dưới mặt đất đều tăng trưởng

rất nhanh. Các cơ quan sinh trưởng phát triển mạnh, lượng tinh bột và chất

khô trong bắp tăng nhanh. Đây là giai đoạn cây hấp thu tối đa dinh dưỡng

bằng 75 – 95% tổng lượng dinh dưỡng so với cả vòng đời cây hút. Thiếu chất

dinh dưỡng ở thời kỳ 8 – 11 lá sẽ cản trở sinh trưởng của lá và giảm từ 10 –

20% năng suất, đặc biệt ở thời kỳ trỗ cờ phun râu cây đòi hỏi dinh dưỡng rất

gay gắt, nếu thời kỳ này một nửa số lá héo khô lúc này sẽ làm giảm 25 – 30%

năng suất.

- Thời kỳ nở hoa, ngô đã hút gần như toàn bộ số kali cần thiết và lượng

lớn đạm và lân.

- Giai đoạn chín: Quá trình tích luỹ chất khô đã hoàn thành, ngô bắt đầu

mất nước nhanh, các bộ phận sinh trưởng sinh dưỡng chuyển sang màu vàng.

Hầu hết các giống đều cần khoảng 60 ngày để hoàn thành hạt; trong đó các

giống ngắn ngày cần ít hơn, khoảng 35 – 40 ngày trong thời gian hình thành

hạt, mỗi ngày bình quân tạo thành 2,5 – 3% trọng lượng hạt khi chín hoàn toàn.

34

Page 35: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Trong giai đoạn chín cây ngô thực hiện các chức năng phân phối lại

lượng dinh dưỡng đã hấp thụ. Lượng dinh dưỡng cây hấp thụ được không chỉ

tích luỹ ở hạt mà còn một lượng lớn ở thân lá.

Để đạt năng suất cao và ổn định, ngô cần được bón phân cân đối, đặc

biệt là giữa các yếu tố NPK. Điều này được chứng minh rất rõ qua các thí

nghiệm bón các tổ hợp phân cho ngô trong suốt 28 vụ của Viện Kali quốc tế

cho thấy chỉ có bón cân bằng NPK năng suất ngô mới cao và ổn định.

Theo Johnson và CS (dẫn theo De., 1973) [63], năng suất trung bình của

các giống ngô lai là 6.838 kg/ha, với liều lượng phân bón: 95N – 67P2O5 –

20K2O kg/ha.

Theo Shan (1994) [82], mức bón phân được khuyến cáo cho ngô ở Đài

Loan là 175 kg N + 95 kg P2O5 + 70 kg K2O/ha.

Theo Sinclair và Muchow (1995) [83], hàng thập kỷ gần đây, năng suất

ngô tăng lên có liên quan chặt chẽ với mức cung cấp N cho ngô. Đạm được

cây ngô hút với một lượng lớn và đạm có ảnh hưởng khác nhau rõ rệt đến sự

cân bằng cation và anion ở trong cây. Khi cây hút N – NH4+ sự hút các cation

khác chẳng hạn như K+, Ca2+, Mg2+ sẽ giảm trong khi sự hút anion đặc biệt là

Phosphorus sẽ thuận lợi. Xảy ra chiều hướng ngược lại, khi cây hút N nitrat

(Mengel, 1968) (dẫn theo Arnon, 1974) [57]. Tùy thuộc vào tuổi của cây, với

cây ngô non sự hút amonium-N nhanh hơn sự hút đạm nitrat, trái lại các cây

ngô già dạng đạm hút chủ yếu là đạm nitrat và có thể chiếm tới hơn 90% tổng

lượng đạm cây hút (Coic, 1964) (dẫn theo Arnon, 1974) [57].

Đạm cũng là thành phần cấu trúc của vách tế bào (William, 1993) [99].

Đạm là yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng của cây và là thành phần của tất cả

các protein. Đạm là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất để xác định năng suất

ngô. Khi thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào ở

đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước của cây

35

Page 36: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

và năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu quả ngay từ

đầu vụ và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá trình đồng hóa

quang hợp đạt cực đại (Patrick, 2001 [79]; Wolfe và CS, 1988 [100]).

Mức đạm thấp làm giảm số hạt và năng suất hạt (Barbieri và CS, 2000)

[58]. Các giống ngô lai khác nhau có thể sử dụng phân đạm ở mức độ khác

nhau, năng suất cây trồng cao cần phải cung cấp một lượng lớn phân bón, đặc

biệt là đạm (Debreczeni, 2000) [64].

Năng suất ngô vùng Nhiệt đới thấp hơn năng suất ngô vùng Ôn đới bởi

số hạt/ diện tích đất và chỉ số thu hoạch (HI) của ngô Nhiệt đới thấp hơn ngô

của vùng Ôn đới (Goldsworthy và CS, 1974; Fisher và Palamer, 1983) (dẫn

theo Mitsuru, 1994 [77], 1995 [78]). Nhìn chung, cây ngô quang hợp theo chu

trình C4 và nó phù hợp nhiệt độ cao, người ta thừa nhận là ngô có thể đạt

năng suất chất khô cao ở vùng Nhiệt đới (Evan, 1985) (dẫn theo Mitsuru,

1994) [77].

Để đạt được năng suất cao một lượng đạm hữu hiệu phải được cây hút

(Mitsuru và CS, 1991a; 1992; 1994) (dẫn theo Mitsuru, 1994) [77]. Từ 50 –

60% đạm trong hạt đã được lấy từ đạm đồng hoá ở trong lá và thân, trước thời

kỳ ra hoa (Crowford và CS, 1982; Mitsuru và CS, 1991b) (dẫn theo Mitsuru,

1995) [78].

Poss và Saragoni (1992) nhận thấy rằng 13 – 36 kg N/ha đã bị rửa trôi

bên dưới vùng rễ ngô trong thời kỳ sinh trưởng. Mayers (1988) thông báo

rằng cây ngô chỉ hấp thu 20 – 40% lượng đạm cung cấp trong suốt thời gian

sinh trưởng (dẫn theo Sing và CS, 2004) [84]. Đạm cũng rễ bị mất bởi một

phần các hợp chất đạm khoáng bị rửa trôi khỏi lớp đất cày (Misuxtin,

Peterburgxki, 1975) [30].

Năng suất ngô cao chỉ có thể đạt được khi thời gian diện tích lá xanh kéo

dài và tỷ lệ đồng hoá đạm cao sau thời kỳ ra hoa (Mitsuru, 1994) [77].

36

Page 37: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Một số báo cáo về khả năng hút N cũng đã chỉ ra rằng tốc độ đồng hoá

cực đại xảy ra gần giai đoạn phun râu (Hay và CS, 1953; Hanway, 1962;

Mengel và Barber, 1974; Bigeriego và CS, 1979) và kết thúc vào cuối giai

đoạn tung phấn (dẫn theo Mitsuru, 1995) [78].

Theo Moxolov (1979) [31], nếu mức dinh dưỡng nitơ đủ thì kali sẽ xâm

nhập vào cây nhiều hơn và sự hút kali mạnh hơn là nguyên nhân thúc đẩy

nhanh chu trình chuyển hoá các hợp chất phốt pho trong cây.

Theo Uhart và Andrade, 1995 [91], [92], thiếu đạm làm chậm sinh trưởng

của hai giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực, giảm tốc độ

ra lá, hạn chế mạnh đến sự phát triển diện tích lá. Thiếu đạm hạn chế đến hiệu

quả sử dụng bức xạ, nhất là thời kỳ ra hoa, ảnh hưởng đến năng suất bắp tổng

số. Cũng theo hai tác giả trên việc cung cấp và tích luỹ N ở thời kỳ ra hoa có

tính quyết định số lượng hạt ngô, thiếu N trong thời kỳ này làm giảm khả năng

đồng hoá C của cây, nhất là giai đoạn ra hoa sẽ giảm năng suất hạt.

Dự trữ đạm ở cây ngô có ảnh hưởng rất lớn đối với sự sinh trưởng và

phát triển lá, sự tích luỹ sinh khối và sự tăng trưởng của hạt (Muchow, 1988

(1994) (dẫn theo Thomas và CS, 1995) [88], ảnh hưởng về sau của đạm là

quan trọng khi đánh giá phản ứng của cây trồng đối với phân N. Số liệu dẫn

ra của Rhoads (1984) [81] ở một thí nghiệm ngô tưới nước theo rãnh cho

thấy: Năng suất ngô 1.200 kg/ha khi không bón đạm và 6.300 kg/ha khi bón

224 kg/ha N trên đất chưa bao giờ trồng ngô và năm trước đó không bón đạm.

Ở năm tiếp theo năng suất ngô là 4.400 kg/ha khi không bón đạm và 7.000

kg/ha khi bón N ở mức 224 kg/ha.

Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng vai trò của phân đạm và S đến sự sinh

trưởng, năng suất và chất lượng của giống ngô lai (Cargill 707), tác giả

Hussain và CS, (1999) [71], cho rằng sự cung cấp phân bón ở các mức 150N

+ 30S và 150N + 20S (kg/ha) làm tăng một cách tương ứng khối lượng chất

37

Page 38: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

khô/cây, số hạt/ bắp và khối lượng hạt/ bắp so với các xử lý khác. Năng suất

ngô đạt cao nhất (5,59 tấn/ ha) ở công thức bón 150N + 30S (kg/ha).

Theo Velly và CS (dẫn theo De., 1973) [63], khi bón cho ngô với liều

lượng: 40 kg N/ha năng suất thu được 12,11 tạ/ha; 80 kg N/ha năng suất thu

được 15,61 tạ/ha; 120 kg N/ha năng suất thu được 32,12 tạ/ha; 160 kg N/ha

năng suất thu được 41,47 tạ/ha; 200 kg N/ha năng suất thu được 52,18 tạ/ha.

Phốt pho là một thành phần của nhân tế bào và là nguyên tố rất cần thiết

cho quá trình phân chia tế bào, đặc biệt sự phân chia mạnh mẽ mô đỉnh sinh

trưởng. Người ta cũng cho rằng P kích thích sự hình thành rễ cây ngô, trợ

giúp quá trình chín của cây và ảnh hưởng đến sự phát triển của hạt (Arnon,

1974) [57].

Ở giai đoạn cây non của cây ngô, một lượng lân dễ tiêu phát hiện ở trong

đất có vai trò thúc đẩy Nitrat hoá (Pleshkov, 1958) (dẫn theo Arnon, 1974) [57].

Cung cấp đầy đủ P có vai trò trong giai đoạn đầu của sự sinh trưởng khi

mà có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống rễ chưa đủ khả năng hút

lân từ kho dự trữ trong đất (Piere và Polhman, 1933) (dẫn theo Arnon, 1974)

[57]. Thiếu P giai đoạn này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của các bộ

phận sinh sản nguyên thuỷ, sự thiếu hụt không thể bù đắp được bằng việc

cung cấp P muộn.

Các tác giả Seats và Stanberry (1963) (dẫn theo Arnon, 1974) [57] cho

rằng: Lân trong đất thường ở hai dạng chất khoáng và chất hữu cơ. Về số

lượng thường thấp hơn N và K và ở mức độ rất khác nhau từ 0,1 – 0,4%, hiếm

khi lớn hơn 0,5%. Hầu hết lân trong đất đều ở dạng vô cơ. Số lượng

Phosphorus trong dung dịch đất là rất nhỏ, thường dao động trong phạm vi

0,1 – 0,5ppm trong hầu hết các loại đất.

Theo tác giả Akhtar và CS (1999) [55], năng suất ngô hạt đạt cao nhất

6,02 tấn/ha, khối lượng 1.000 hạt là 405,2 gam ở công thức bón phân theo tỷ

38

Page 39: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

lệ 125-75 kg P-K/ha. Sự tăng năng suất hạt là do có sự tăng diện tích lá/cây,

chiều dài bắp, số hạt/ bắp và khối lượng 1.000 hạt.

Kali cần thiết cho hoạt động của nguyên sinh chất, điều khiển đóng mở

khí khổng, nâng cao khả năng chống chịu sâu bệnh, khô hạn và nhiệt độ thấp.

Kali súc tiến quá trình quang hợp, vận chuyển các sản phẩm quang hợp tích

lũy về hạt (Afendulop, 1972) [1].

Theo Oparin (1977) [35], trong tế bào thực vật kali phân bố không đều,

nó không có trong nhân và lục lạp. Kali đặc biệt nhiều ở các cây non nghĩa là

ở giai đoạn mà trong cây đang xảy ra sự phân bào mạnh và tổng hợp các chất

hữu cơ.

Kali được yêu cầu để củng cố sức trương của cây và duy trì khả năng

thẩm thấu của tế bào, trong các tế bào bảo vệ, khống chế sự đóng mở của khí

khổng (Huber, 1985) [70]. Kali được đòi hỏi như là một chất hoạt hoá cho

hơn 60 enzim ở trong mô đỉnh sinh trưởng (Sucler, 1985) [86].

Điều quan trọng ở trong tế bào phân chia chất nguyên sinh, là kali tác

động đến sự kéo dài tế bào. Đầy đủ kali, vách tế bào dày hơn và mô tế bào ổn

định hơn. Chính vì tác động này mà tế bào sinh trưởng bình thường, tăng

cường sức chống đỡ, chống sâu (Beringer, Northdurft, 1985) [59].

Kali tham gia vào quá trình tạo ra hợp chất cao năng ATP liên quan đến

sự tổng hợp tinh bột cũng như protein (Tisdale và CS, 1985) [89]. Sự thiếu

hụt kali là kết quả của việc cây trồng lấy đi một lượng lớn kali, tỷ lệ cung cấp

kali thấp, tình trạng thiếu kali trong một số loại đất cũng như sự rửa trôi kali ở

những vùng mưa nhiều.

Theo Dauphin (1985) (dẫn theo Subandi và CS, 1998) [85] để tạo ra mỗi

một tấn hạt, cây ngô hút từ 23 – 24 kg N; 6,5 – 11 kg P2O5 và 14 – 42 kg

K2O/ha từ đất. Yêu cầu dinh dưỡng thay đổi khác nhau tuỳ thuộc vào giống

39

Page 40: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

và mức năng suất được tạo ra. Một năng suất ngô cao không thể thiếu được sự

cung cấp dinh dưỡng thật đầy đủ.

Theo Thomas Dieroff và CS (2001) [87], lượng dinh dưỡng mà ngô hút

như sau:

- Ngô lai năng suất 4,5 tấn/ha tổng lượng hút 115 kg N; 20 kg P2O5; 75

kg K2O; 9 kg Ca; 16 kg Mg; 12 kg S/ha.

- Ngô địa phương năng suất 2,5 tấn/ha tổng lượng hút 65 kg N; 11 kg

P2O5; 42 kg K2O; 5 kg Ca; 16 kg Mg; 12 kg S/ha.

Ở tỉnh Jinlin - Trung Quốc, bón 150 – 169 kg K2O tăng năng suất ngô từ

1,2 – 1,6 tấn/ha (tăng từ 12 – 21%). Ở tỉnh Liaoning, trên nền NP bón 112,5

kg K2O/ha tăng năng suất ngô từ 17,3 - 23,2%, bón 225 K2O/ha tăng năng

suất ngô từ 20,1 - 26,2 % (Lei và CS, 2000) [72].

S là thành phần cấu tạo của 2 axit amin cysteine và methionine và rất cần

thiết để hình thành nên protein, các vitamin và sự tổng hợp của một số

hoocmôn (Willam, 1993) [99].

Như vậy, trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về phân bón cho ngô

thường. Tuy nhiên, đối với ngô chất lượng protein cao, các nhà khoa học trên

thế giới tập trung quan tâm đến công tác tạo giống chứ chưa quan tâm nhiều

đến nghiên cứu ảnh hưởng của các kỹ thuật canh tác, trong đó có phân bón

đến năng suất và chất lượng của giống ngô QPM, đồng thời so sánh sự ảnh

hưởng đến ngô QPM và ngô thường. Đặc biệt là chúng tôi chưa tìm được tài

liệu nào công bố việc nghiên cứu ảnh hưởng của đạm, lân, kali đến chất

lượng protein của ngô QPM TPTD so sánh với ngô lai thường.

1.4.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô ở Việt Nam

Trong phạm vi nghiên cứu thuộc chương trình phát triển lương thực, Tạ

Văn Sơn (1995) [38] đã nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cây ngô ở vùng Đồng

bằng sông Hồng, thu được kết quả như sau:

40

Page 41: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

- Để tạo ra 1 tấn hạt, ngô lấy đi từ đất trung bình một lượng đạm, lân,

kali là: N = 22,3 kg; P2O5 = 8,2 kg; K2O = 12,2 kg.

- Lượng NPK tiêu tốn để sản xuất ra 1 tấn ngô hạt là: N = 33,9 kg; P2O5

= 14,5 kg; K2O = 17,2 kg.

- Tỉ lệ nhu cầu dinh dưỡng NPK là: 1: 0,35: 0,45.

- Tỉ lệ N: P: K thay đổi trong quá trình sinh trưởng phát triển như sau:

Bảng 1.4. Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng (%)

Nguyên tố 6 - 7 lá Trỗ cờ Thu hoạch

N 51,7 47,4 52,2

P2O5 8,3 9,8 19,1

K2O 40,0 42,7 28,7

Nguồn: Tạ Văn Sơn (1995) [38]

Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của nước ngoài và thể hiện rõ là

hút kali được hoàn thành sớm trước phun râu, còn các chất dinh dưỡng khác

như đạm và lân còn tiếp tục đến lúc ngô chín.

Theo Đường Hồng Dật (2003) [12] trung bình với năng suất 60 tạ/ha ngô

hạt, cây ngô lấy từ đất 155 kg N, 60 kg P2O5, 115 kg K2O (tương đương 337

kg urê, 360 kg supe lân, 192 kg clorua kali).

Theo tác giả Ngô Hữu Tình (1995) [40], trên đất phù sa sông Hồng tỷ lệ

nhu cầu dinh dưỡng của N, P, K cho cây ngô đạt năng suất cao là 1: 0,35 :

0,45 và liều lượng bón phân cho năng suất cao là: 180N – 60P2O5 – 120K2O;

ở Duyên hải miền Trung: 120N – 90P2O5 – 60K2O; miền Đông Nam bộ: 90N

– 90P2O5 – 30K2O; Đồng bằng sông Cửu Long: 150N – 50P2O5 – 0K2O.

Theo Phạm Kim Môn (1991) [32], với ngô Đông trên đất phù sa sông

Hồng liều lượng phân bón thích hợp là: 150 – 180 kg N; 90 kg P2O5; 50 – 60

kg K2O/ha.

41

Page 42: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Theo Trần Hữu Miện (1987) [27] thì trên đất phù sa sông Hồng lượng

phân bón phù hợp là: 120N – 90P2O5 – 60K2O cho năng suất 40 – 50 tạ/ha;

150N – 90P2O5 – 100K2O cho năng suất 50 – 55 tạ/ha; 180N – 90P2O5 –

100K2O cho năng suất 65 – 75 tạ/ha.

Theo Nguyễn Văn Bộ (2007) [7], lượng phân bón khuyến cáo cho ngô

phải tuỳ thuộc vào đất, giống ngô và thời vụ. Giống có thời gian sinh trưởng

dài hơn, có năng suất cao hơn cần phải bón lượng phân cao hơn. Đất chua

phải bón nhiều lân hơn, đất nhẹ và vụ gieo trồng có nhiệt độ thấp cần bón

nhiều kali hơn. Liều lượng khuyến cáo chung cho ngô là:

+ Đối với giống chín sớm:

- Trên đất phù sa: 8 – 10 tấn phân chuồng; 120 – 150 kg N; 70 – 90 kg

P2O5 ; 60 – 90 kg K2O/ha.

- Trên đất bạc màu: 8 – 10 tấn phân chuồng; 120 – 150 kg N; 70 – 90 kg

P2O5; 100 – 120 kg K2O/ha.

+ Đối với giống chín trung bình và chín muộn:

- Trên đất phù sa: 8 – 10 tấn phân chuồng; 150 – 180 kg N; 70 – 90 kg

P2O5 ; 80 – 100 kg K2O/ha.

- Trên đất bạc màu: 8 – 10 tấn phân chuồng; 150 – 180 kg N; 70 – 90 kg

P2O5 ; 120 – 150 kg K2O/ha.

Theo Nguyễn Thế Hùng (1996) [19], trên đất bạc màu vùng Đông Anh –

Hà Nội, giống ngô LVN10 có phản ứng rất rõ với phân bón ở công thức bón

120N – 120P2O5 – 120K2O/ha và cho năng suất hạt gấp 2 lần so với công thức

đối chứng không bón phân. Cũng theo tác giả thì trên đất bạc màu, hiệu suất của

1 kg NPK là 8,7 kg; 1 kg N là 11,3 kg; 1 kg P205 là 4,9 kg; 1 kg K20 là 8,5 kg.

Tác giả Vũ Cao Thái cũng cho rằng liều lượng và tỷ lệ phân bón cho ngô

khác nhau trên các loại đất khác nhau. Theo ông, trên đất phù sa nên bón 120

kg N – 60 kg P2O5 – 90 kg K2O/ha, tỷ lệ N:P:K là 1:0,5:0,75. Trên đất xám

42

Page 43: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

bạc màu bón 100 kg N – 100 kg P2O5 – 150 kg K2O/ha với tỷ lệ là 1:1:1,5

(dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2003) [41].

Theo Nguyễn Văn Bào (1996) [4], liều lượng phân bón thích hợp cho

ngô ở các tỉnh miền núi phía Bắc (Hà Giang) là 120 kg N – 60 kg P2O5 – 50

kg K2O/ha cho các giống thụ phấn tự do và 150 kg N – 60 kg P2O5 – 50 kg

K2O/ha cho các giống lai.

Theo Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam (Đỗ Trung Bình, 2000),

liều lượng phân bón cho 1 ha ngô ở vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên là:

120 kg N – 90 kg P2O5 – 60 kg K2O cho vụ Hè Thu, còn vụ Thu Đông (vụ 2)

có thể tăng lượng K2O lên 90 kg (dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2003) [41].

Trên đất xám của vùng Đông Nam bộ, theo kết quả nghiên cứu của Trần

Thị Dạ Thảo và Nguyễn Thị Sâm (2002), liều lượng phân bón cho ngô có

hiệu quả kinh tế cao nhất là 180 kg N – 80 kg P2O5 – 100 kg K2O/ha (giống

LVN99) (dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2003) [41].

Các loại phân khác nhau với mức bón khác nhau có ảnh hưởng lớn đến

sự sinh trưởng và năng suất ngô LVN10 vụ Xuân 2000, vì vậy việc sử dụng

loại phân và lượng phân cần được xác định trên cơ sở lợi nhuận ở cả 3 loại

phân mức bón kinh tế là 200 kg NPK/ha. Phân NPK Lâm Thao loại 5-10-3 là

rất phù hợp với cây ngô với lượng bón tối đa là 350 kg NPK/ha, sử dụng ở

mức bón N-P-K: 100-50-50 là kinh tế nhất (Ngô Hữu Tình và CS, 2001) [43].

Theo Lê Quý Tường và Trần Văn Minh, lượng phân bón thích hợp cho

ngô lai trên đất phù sa cổ ở duyên hải Trung bộ trong vụ Đông Xuân là 10 tấn

phân chuồng + 150-180 kg N + 90 kg P2O5 + 60 kg K2O/ha (tỷ lệ NPK là

1,7:1:0,7 hoặc 2:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 22,6 – 28,8 kgN/1 tấn ngô hạt;

vụ Hè Thu bón 10 tấn phân chuồng + 150 kg N + 90 kg P2O5 + 60 kg K2O/ha

(tỷ lệ NPK là 1,7:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 27,9 – 28,4 kgN/1tấn ngô hạt

(dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [29].

43

Page 44: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bón phân vô cơ kết hợp phân hữu cơ cho ngô đã làm tăng năng suất ngô

và giúp cải thiện độ phì trong đất, theo Bùi Đình Dinh (1988, 1994) để đảm

bảo cho cây trồng có năng suất cao, ổn định, bón phân hữu cơ chiếm 25% tổng

số dinh dưỡng, còn 75% phân hoá học (dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [29].

Hiệu quả của phân bón chỉ có thể phát huy đầy đủ khi có chế độ phân

bón hợp lý, bón cân đối giữa các nguyên tố. Bón phân cho ngô để đạt hiệu

quả kinh tế cao phải căn cứ vào đặc tính của loại giống ngô, yêu cầu sinh lý

của cây ngô qua các thời kỳ sinh trưởng, tình trạng của cây trên đồng ruộng,

tính chất đất, đặc điểm loại phân bón, kỹ thuật trồng trọt và điều kiện khí hậu

thời tiết.

Bón cân đối đạm – kali có hiệu lực cao hơn nhiều so với lúa. Bội thu do

bón cân đối (trung bình của nhiều liều lượng đạm) có thể đạt 33 tạ/ha trên đất

phù sa sông Hồng; 37,7 tạ/ha trên đất bạc màu; 11,7 tạ/ha trên đất xám và 3,9

tạ/ha trên đất đỏ vàng. Xét về hiệu quả kinh tế thì bón phân cân đối cho ngô

trên đất bạc màu, đất xám có lãi hơn nhiều so với đất phù sa và đất đỏ vàng

(Nguyễn Văn Bộ, 2007) [7].

Theo tác giả Bùi Huy Hiền (2002) [17], từ năm 1985 đến nay tình hình sử

dụng phân đạm ở nước ta tăng trung bình là 7,2%/năm, phân lân là 13,9%/năm,

phân kali là 23,9%/năm. Tổng lượng N + P2O5 + K2O trong 15 năm qua tăng

trung bình 9,0%/năm. Tỷ lệ N : P2O5 : K2O trong 10 năm qua đã cân đối hơn

với tỷ lệ tương ứng qua các năm 1990, 1995 và 2000 là 1 : 0,12 : 0,05; 1 :

0,46 : 0,12 và 1 : 0,44 : 0,37. Lượng phân bón/ha cũng đã tăng lên qua các năm

1990, 1995, 2000 với tổng lượng N : P2O5 : K2O tương ứng là 58,7; 117,7 và

170,8 kg/ha, tỷ lệ này còn thấp so với các nước phát triển như Mỹ, Hàn Quốc,

Pháp, Nhật với tổng lượng N : P2O5 : K2O khoảng 240 – 400 kg/ha.

Theo Vũ Hữu Yêm (1995) [53], ảnh hưởng của bón đạm như sau: Không

bón năng suất đạt 40 tạ/ha; bón 40 kg N năng suất đạt 56,5 tạ/ha; bón 80 kg N

44

Page 45: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

năng suất đạt 70,8 tạ/ha; bón 120 kg N năng suất đạt 76,2 tạ/ha; bón 160 kg N

năng suất đạt 79,9 tạ/ha.

Trên đất phù sa cổ, đối với giống ngô lai LVN4 bón đạm ở các liều

lượng nền 1 + 150N, nền 1 + 180N, nền 1 + 210N đều làm năng suất hơn đối

chứng 1 (không bón phân) từ 26,64 - 32,48 tạ/ha trong vụ Đông Xuân và

28,43 - 30,98 tạ/ha trong vụ Hè Thu. Lượng đạm tăng từ 120 - 210N thì năng

suất ngô cũng tăng theo, nhưng hiệu quả kinh tế cao nhất là bón 10 tấn phân

chuồng + 150N + 90P2O5 + 60K2O/ha (Lê Quý Tường và CS, 2001) [49].

Khi nghiên cứu về phân bón cho ngô trên đất bạc mầu, Nguyễn Thế

Hùng (1996) [19], đã chỉ ra rằng phân N có tác dụng rất rõ đối với ngô trên

đất bạc mầu, song lượng bón tối đa là 225 kg/ha, ngưỡng bón N kinh tế là 150

kg/ha trên nền cân đối P – K.

Kết quả nghiên cứu bón đạm cho ngô của Đào Thế Tuấn cho thấy ở

Đồng bằng sông Hồng với mức bón đạm 90 kgN/ha, hiệu suất bón đạm đối

với ngô địa phương là 13 kg ngô hạt/1 kg N và ngô lai là 18 kg ngô hạt/1 kg

N. Bón đến mức 180 kg N/ha đã đạt 9 – 14 kg ngô hạt/1 kg N (dẫn theo Trần

Văn Minh, 2004) [29].

Trần Hữu Miện (1987) [27] để tạo ra 1 tấn ngô hạt trong vụ ngô Đông

miền Bắc cần 25 – 28 kg N, vụ Xuân 28 – 32 kg N, vụ Hè Thu 32 – 35 kg N,

Thu Đông 30 – 32 kg N.

Kết quả nghiên cứu của Lê Quý Kha (2001) [20] đã chỉ ra rằng mặc dầu

trong điều kiện ít có khả năng đầu tư đạm và thiếu nước, ví dụ như nhờ nước

trời, tốt hơn hết vẫn phải chia nhỏ lượng đạm làm nhiều lần để bón thì hiệu

quả sử dụng đạm của cây ngô mới cao.

Đạm là yếu tố quan trọng nhất đối với cây ngô, nghiên cứu vai trò của

đạm đối với cây ngô ở Việt Nam mới chỉ được đề cập về liều lượng dùng và tỷ

lệ giữa nó với các yếu tố dinh dưỡng khác. Nghiên cứu ảnh hưởng của đạm

45

Page 46: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

đến năng suất và chất lượng các loại giống ngô, trong đó có giống ngô TPTD

QPM so sánh với ngô lai thường thì chưa được nghiên cứu ở nước ta.

Lân hữu cơ rất đa dạng, đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi

chất, hút chất dinh dưỡng và vận chuyển các chất đó trong cây. Tác dụng chủ

yếu của lân thể hiện trên một số mặt sau đây: Phân chia tế bào, tạo thành chất

béo và protein; thúc đẩy việc ra hoa, hình thành quả và quyết định phẩm chất

hạt giống; hạn chế tác hại của việc bón thừa đạm; thúc đẩy việc ra rễ đặc biệt

là rễ bên và lông hút; làm cho thân cây ngũ vững chắc, đỡ đổ; cải thiện chất

lượng sản phẩm (trích theo Nguyễn Ngọc Nông, 1999) [33].

Theo Trần Văn Minh (1995) [28], bón lân có khả năng rút ngắn thời gian

sinh trưởng của ngô, làm tăng năng suất một cách rõ rệt. Lân Supe có hiệu lực

trên hầu hết các loại đất, lân nung chảy có hiệu quả cao hơn trên đất đồi núi.

Nghiên cứu bón phân lân cho ngô trên đất đỏ Bazan, Đặng Bê (1978) đã

thu được hiệu suất phân lân từ 8 – 10 kg ngô hạt/kg P2O5 và mức bón 60 kg

P2O5/ha thì lân Văn Điển có hiệu quả hơn Supe lân (dẫn theo Trần Văn Minh,

2004) [29].

Theo Evangelista (1999) năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều

lượng lân, năng suất chỉ bắt đầu giảm xuống khi bón đến mức 160 kg P2O5/ha

(dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [29].

Theo Trần Văn Minh (1995) [28] liều lượng bón lân thích hợp cho ngô

trên đất phù sa cổ và đất bãi ven sông miền Trung là 90 kg P2O5/ha, kết quả này

cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu năm 1988 và 1989 của Trịnh Quang Võ

(Trạm nông hoá thổ nhưỡng Quảng Ngãi), Ngô Hữu Tình (1995), Quách Ngọc

Ân (1997) ở duyên hải Nam Trung bộ: Phân lân làm tăng năng suất ngô theo tỷ

lệ thuận đến mức 120 kg P2O5, nhưng ngưỡng kinh tế là 90 kg P2O5/ha.

Theo các tác giả Lê Văn Khoa và CS (1996) [24]; Oparin (1977) [35], cho

rằng vai trò của lân đối với sự sống có một nghĩa lớn vì lân tồn tại trong tế bào

của động thực vật, nó có trong nhân tế bào, enzim, vitamin. Lân tham gia vào

46

Page 47: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

việc tạo thành và chuyển hoá Hidrat Cacbon, chất chứa nitơ, tích luỹ năng

lượng tế bào sống. Lân còn đóng vai trò quan trọng trong hô hấp và lên men.Hiệu lực phân lân đối với ngô bội thu 8 – 10 kg ngô hạt/kg P2O5, trong

nhiều trường hợp hiệu lực lân không rõ hoặc làm giảm năng suất do kỹ thuật

bón không phù hợp hoặc nhất là lượng bón lân quá cao so với lượng đạm

hoặc bón không kèm kali (Nguyễn Văn Bộ, 1993) [6].

Theo các tác giả Vũ Hữu Yêm và CS (1999) [54], trên đất phù sa Sông

Hồng không được bồi không nên bón quá 90 kg P2O5/ha cho ngô, bón đến 120

kg thì hiệu suất phân lân xuống thấp. Trên đất bạc màu ngô rất cần lân, bón

đến 120 kg P2O5 so với 90 kg P2O5 hiệu suất phân lân vẫn ổn định. Trên đất

mặn và phèn nhẹ có thể bón cho ngô đến 120 kg P2O5/ha, khi gặp điều kiện

thuận lợi bón 1 kg P2O5 có thể đạt 16 kg ngô hạt trong vụ Xuân và 11 kg ngô

hạt trong vụ Đông.

Như vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của lân đến năng suất và chất lượng

protein của giống ngô TPTD QPM so sánh với giống ngô lai thường thì chưa

được công bố ở nước ta.

Theo kết quả của Nguyễn Trọng Thi và Nguyễn Văn Bộ (1999) [39],

trên đất bạc màu, trồng ngô bón K đạt hiệu lực rất cao. Hiệu quả sử dụng K

đạt trung bình 15 – 20 kg ngô hạt/kg K2O. Liều lượng bón kali cho ngô trên

đất phù sa sông Hồng từ 60 – 90; trên đất bạc màu 90 – 120 kg K2O/ha. Bón

kali liều lượng 30 – 210 kg K2O/ha không làm gia tăng năng suất ngô vùng

Tây sông Hậu. Hiệu lực của phân kali trên đất phù sa sông Hồng đạt 5,2 kg

ngô hạt/kg K2O.

Theo Tạ Văn Sơn (1995) [38], trên đất phù sa sông Hồng bón phân kali

đã làm tăng năng suất ngô rõ rệt và đặc biệt trên nền N cao. Phân lân có hiệu

lực rõ rệt đối với ngô trên đất phù sa sông Hồng trên nền 180N – 120K 2O có

thể bón tới 150P2O5.

47

Page 48: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Trên đất bạc màu khi bón kali cân đối với đạm, hiệu suất của N trong vụ

Xuân tăng 62%, trong vụ Mùa tăng 124% (Nguyễn Văn Bộ, 1993) [6].

Theo Nguyễn Văn Bộ và CS (1999) [8], ngô là cây trồng có tiềm năng

năng suất rất cao đồng thời cũng lại có nhu cầu dinh dưỡng lớn. Trung bình

với năng suất 6 tấn/ha cây ngô hút 155 kg N; 60 kg P2O5; 115 kg K2O; 15,7 kg

Cu; 35,5 kg MgO và 16 kg S.

Hiệu lực phân kali: với ngô ở Việt Nam tăng năng suất 310 kg ngô

hạt/ha, hiệu suất 5,2 kg ngô/kg K2O trên đất phù sa Sông Hồng (Nguyễn Văn

Bộ và CS, 1999) [8].

Theo Nguyễn Trọng Thi và Nguyễn Văn Bộ (1999) [39], đối với cây ngô

trồng vụ Đông để đạt năng suất 4 – 5 tấn/ha cần bón 30 – 60 kg K 2O trên đất

phù sa Sông Hồng; 60 - 90 kg K2O trên đất bạc màu.

Theo Nguyễn Vy (1998) [52], Vũ Hữu Yêm và CS (1999) [54], trên đất

phù sa Sông Hồng hiệu lực phân kali tăng dần chứng tỏ việc trồng ngô liên

tục trong đất phù sa trong đê làm đất kiệt dần kali. Hiệu suất kali vụ Đông cao

hơn vụ Xuân, không nên bón cho ngô quá 90 kg K2O/ha vì từ 120 kg K2O/ha

hiệu suất kali bón giảm nhanh. Ngô rất cần bón kali, kali trong đất rất linh

động, đất trồng ngô liên tục thường bị thiếu, bởi kali có mặt chủ yếu trong

thân, lá ngô sẽ bị lấy đi khi người dân thu hoạch cây ra khỏi ruộng. Trên đất

bạc màu ngô rất cần bón kali, bón đến 150 kg/ha hiệu suất vẫn còn cao. Trên

đất vàn hai vụ lúa, một vụ ngô Đông nếu bón quá nhiều kali năng suất ngô sẽ

giảm, chỉ cần bón ở mức 60 kg K2O /ha sẽ cho hiệu suất phân kali rất cao.

Trên đất mặn và đất phèn nhẹ cây ngô phản ứng yếu với kali, không nên bón

quá 60 kg K2O /ha, nhiều trường hợp ngô phản ứng không rõ với kali (Vũ

Hữu Yêm và CS, 1999) [54].

48

Page 49: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Trên đất bạc màu, không bón kali, cây trồng chỉ hút được 80 – 90 kg

N/ha trong khi đó bón kali làm cây trồng hút được tới 120 – 150 kg N/ha

(Nguyễn Văn Bộ, 2007) [7].

Theo tác giả Đỗ Tuấn Khiêm (1996) [23], thí nghiệm ở vùng Đông Bắc

cho thấy sử dụng các chế phẩm phân bón sinh học như Komix BFC, Thiên

Nông, Agrofil có tác dụng làm tăng năng suất ngô từ 8 – 14%.

Căn cứ để xác định số lượng và tỷ lệ bón các loại phân NPK, phân

chuồng, độ phì nhiêu của đất, nhu cầu dinh dưỡng của giống và trạng thái cây

trên đồng ruộng, thời tiết, khí hậu, mùa vụ, chế độ luân canh và mật độ trồng.

Theo hướng dẫn của Cục Trồng trọt (2006) [11], để đạt năng suất ngô

trên 7 tấn/ha ở các tỉnh miền Bắc, thì lượng phân bón như sau:

- Đối với loại đất tốt: 10 - 15 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 100 - 120

kg P2O5; 80 - 100 kg K2O/ha.

- Đối với đất trung bình: 10 - 15 tấn phân chuồng; 180 - 200 kg N; 120 -

140 kg P2O5; 100 - 120 kg K2O/ha.

Cây ngô là loại cây cần nhiều dinh dưỡng do đó để đạt năng suất cao

nhất thiết phải bón đầy đủ và cân đối, đặc biệt là N-P-K. Hiện nay ở nước ta,

trong đó có vùng Trung du và miền núi phía Bắc, người dân vẫn còn tập quán

sử dụng phân bón lượng thấp và chủ yếu bón phân đạm mà không bón lân và

kali. Đây là một nguyên nhân thứ yếu làm cho năng suất ngô trong vùng rất

thấp. Vì vậy, việc khuyến cáo và hướng dẫn kỹ thuật bón phân cho ngô đạt

hiệu quả cao là rất cần thiết và cấp bách.

1.4.3. Tình hình nghiên cứu phân bón đến chất lượng ngô thường và

ngô QPM

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngô QPM được trồng trong đất nghèo

đạm thì có hàm lượng protein thấp hơn. Tuy nhiên, chất lượng protein (lysine

và tryptophan) không bị ảnh hưởng. Nói cách khác, QPM vẫn còn là QPM khi

được trồng trong đất nghèo đạm. Các nghiên cứu cũng đã cho thấy rằng chất

49

Page 50: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

lượng protein được duy trì khi ngô QPM được trồng trong các điều kiện khô

hạn. Ngô QPM duy trì được chất lượng protein khi được cách ly tốt với ngô

thường (dẫn theo Vivek và CS, 2008) [98]. Trường Cao đẳng Rajasthan - Đại học Nông nghiệp Udaipur, Ấn Độ

trong mùa mưa 2003 và 2004 đã nghiên cứu phát triển và đánh giá quản lý

chất dinh dưỡng tổng hợp trên năng suất ngô QPM và những thuộc tính đất.

Thí nghiệm gồm có 3 mức phân bón (75% RDF, 100% RDF và 125% RDF;

RDF = 90 kg N + 40 kg P2O5/ha), 3 nguồn phân hữu cơ (đối chứng, FYM và

vermicompost) và 2 nguồn P (DAP và SSP) được lặp lại 3 lần trong RBD.

FYM và vermicompost đã được sử dụng như liều bổ sung qua các công thức

mức phân bón và áp dụng 20 ngày trước khi gieo. Áp dụng 125% RDF tăng

cường đáng kể tốc độ tăng trưởng và các yếu tố cấu thành năng suất, năng

suất, hấp thụ N và P, duy trì tình trạng dinh dưỡng cao hơn trong đất và chứng

tỏ có lợi khi so sánh với 100% và 75% RDF. Thêm nữa, 125% RDF cũng ưu

đãi độ phì nhiêu đất so với các công thức khác. Sự kết hợp của FYM và

vermicompost với phân hoá học đã cho thấy hiệu quả tương đương nhau đối

với tất cả tham số. Tuy nhiên, nguồn P đã không mang sự biến đổi trong bất

kỳ tham số nào. Từ nghiên cứu này, có thể kết luận rằng áp dụng 125% RPF

cùng với 10 tấn FYM hoặc 3 tấn vermicompost/ha đạt độ màu mỡ tối ưu cho

năng suất QPM cao bền vững trên Vertisols (Dilip, Godawat, 2008) [65].

Bón phân cân đối làm tăng hàm lượng protein trong hạt ngũ cốc, tăng

hàm lượng các vitamin trong rau và hoa quả, tăng hàm lượng đường trong

mía (Nguyễn Văn Bộ, 2007) [7].

Bón phân cân đối và vừa phải có thể làm tăng chất lượng sản phẩm.

Thiếu chất dinh dưỡng, bón phân không cân đối hoặc bón quá nhu cầu của

cây đều làm giảm chất lượng nông sản. Giữa các bộ phận trong cây thì phân

50

Page 51: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

bón làm thay đổi thành phần hoá học của lá dễ hơn là làm thay đổi thành phần

hoá học của hạt (Nguyễn Ngọc Nông, 1999) [33].

Trên đất bạc màu, Lê Văn Hải (2002) [14] cho rằng mức phân bón phù

hợp và kinh tế đối với giống ngô lai HQ2000 là 100 kg N – 120 kg P2O5 – 160

kg K2O/ha. Theo tác giả, với liều lượng này tổng lượng hút (NPK) lớn, hiệu

suất sử dụng phân bón cao (N = 60,32%, P2O5 = 31,03%, K2O = 32,92%).

Ngoài các nguyên tố đa lượng, khi sử dụng phân bón có chứa lưu huỳnh

(S) thì năng suất và hàm lượng protein cao hơn đối chứng (Ngô Xuân Hiền,

1998) [18].

Theo Vũ Kim Bảng (1991) [2], (1997) [3], xử lý NAA; 2,4D; ZnSO4

không chỉ ảnh hưởng đến năng suất hạt mà còn thay đổi chất lượng dinh

dưỡng của hạt ngô, hàm lượng các axit amin không thay thế như lysine,

triptophan ở các công thức xử lý đều cao hơn đối chứng không xử lý.

Phun dung dịch ZnSO4 lên lá ngô đã làm tăng diện tích lá và chỉ số diện

tích lá (LAI) ở thời kỳ chín sữa, hàm lượng protein ở các công thức xử lý đều

cao hơn đối chứng tăng từ 3,6 – 8,9%, hàm lượng đường tăng từ 2,54 – 4,89%

(Vũ Kim Bảng, 1997) [3].

Như vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng ngô còn

rất ít ở Việt Nam. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của

giống ngô lai QPM cũng mới chỉ bắt đầu. Đặc biệt là ở nước ta chưa có

nghiên cứu ảnh hưởng của đạm, lân, kali đến năng suất và chất lượng (hàm

lượng và chất lượng protein) của giống ngô TPTD chất lượng protein cao so

sánh với giống ngô lai thường. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài

ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến sinh trưởng phát triển, năng

suất và chất lượng protein của giống ngô chất lượng protein cao có triển

vọng tại Thái Nguyên.

51

Page 52: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Chương 2

VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Vật liệu nghiên cứu

2.1.1. Thí nghiệm khảo nghiệm giống

Thí nghiệm được tiến hành với 6 giống ngô QPM TPTD mới chọn tạo

có triển vọng và 2 giống đối chứng. Nguồn gốc của các giống được trình bày ở

bảng 2.1.

Bảng 2.1. Nguồn gốc của các giống tham gia thí nghiệm

TTTên

giốngNguồn gốc, phương pháp và chu kỳ chọn lọc

Cơ quan

chọn tạo

1 QP1 [(CLQ2509 x CLQ2507) x CLQ6602] x OPV3 - C6 Viện NC Ngô

2 QP2 [(CLQ2509 x CLQ2507) x CLQ2602] x OPV3 - C6 Viện NC Ngô

3 QP3 S99 TLYQ HG – AB (OPV3) - C12 CIMMYT

4 QP4 (CML161 x CML165) x OPV3 - C7 Viện NC Ngô

5 QP5 (CML161 x CML163) x OPV3 - C7 Viện NC Ngô

6 QP6[(CLQ2509 x CLQ2507) x CLQ2602] x OPV2 - C6

(OPV2: S99 TLYQ HG-A)Viện NC Ngô

7Q2

(đ/c 1)

Là giống ngô TPTD thường, được công nhận năm

1990. Hiện nay, giống Q2 đang được trồng nhiều ở

miền núi phía Bắc.

Viện NC Ngô

8HQ2000

(đ/c 2)

Là ngô lai QPM, được công nhận năm 2004. Hiện

nay, giống HQ2000 đang được sản xuất nhiều ở

miền Bắc.

Viện NC Ngô

(C: chu kỳ chọn lọc); 5 tổ hợp trên (QP1, QP2, QP4, QP5, QP6) cùng với

OPV3 (QP3) được chọn lọc đám 1 vụ sau đó chọn lọc bắp trên hàng cải tiến.

52

Page 53: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

2.1.2. Thí nghiệm phân bón

Trên cơ sở kết quả thí nghiệm khảo nghiệm giống QPM TPTD, chọn

được giống ngô QP4 có triển vọng để tiến hành 3 thí nghiệm phân bón (N, P,

K) cùng giống ngô thường LVN10 làm đối chứng.

- Giống LVN10: Là giống ngô lai thường, do Viện Nghiên cứu Ngô

chọn tạo, được công nhận năm 1994, đang được trồng phổ biến ở Việt Nam.

- Phân đạm: Phân Urê (46% N).

- Phân lân: Phân lân Supe (16% P2O5).

- Phân kali: Phân Kaliclorua (60% K2O).

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.2.1. Địa điểm tiến hành đề tài

Các thí nghiệm khảo nghiệm giống và phân bón được thực hiện tại

Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Xây dựng mô hình tại các tỉnh Thái

Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang.

* Điều kiện đất thí nghiệm:

Thí nghiệm phân đạm, lân, kali được tiến hành tại Trung tâm Thực hành

thực nghiệm – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên trên đất xám bạc

màu, có thành phần cơ giới nhẹ, kết cấu kém, rất nghèo các chất dinh dưỡng,

chua và thường bị khô hạn. Để có số liệu chính xác, chúng tôi đã tiến hành lấy

mẫu đất trước khi làm thí nghiệm để phân tích thành phần dinh dưỡng chính

trong đất và tính chất vật lý, kết quả như sau:

Đạm tổng số : 0,089% Mùn : 1,65% Tỷ trọng : 2,66 g/cm3

Lân tổng số : 0,048% pHKCL: 5,6 Dung trọng : 1,34 g/cm3

Kali tổng số : 0,21% Độ xốp : 49,6%

Kết quả phân tích cho thấy đất thí nghiệm phân đạm, lân, kali có hàm

lượng đạm tổng số trung bình, hàm lượng lân tổng số loại nghèo, hàm lượng

53

Page 54: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

kali tổng số loại nghèo, hàm lượng mùn trung bình, đất chua ít và độ xốp

trung bình (theo Nguyễn Ngọc Nông, 2000 [34]; Trần Văn Chính, 2006) [10].

2.2.2. Thời gian tiến hành đề tài

- Thí nghiệm khảo nghiệm giống: Vụ Xuân (2004 và 2005), vụ Thu

Đông (2004 và 2005).

- Các thí nghiệm về phân bón: Vụ Xuân (2005 và 2006), vụ Thu Đông 2005.

- Thử nghiệm, xây dựng mô hình: Vụ Xuân (2006 và 2007), vụ Thu

Đông 2006.

2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Nội dung nghiên cứu

2.3.1.1. Khảo nghiệm giống ngô thụ phấn tự do QPM

So sánh 6 giống ngô TPTD QPM với 2 đối chứng Q2 và HQ2000 vụ

Xuân 2004 và 2005, vụ Thu Đông 2004 và 2005.

2.3.1.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số liều lượng đạm đến sinh

trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng của giống QPM so sánh với ngô

thường

Nền: 10 tấn phân chuồng + 80P2O5 + 80K2O

Công thức 1 - 5: N1 - 0N, N2 - 60N, N3 - 120N, N4 - 180N, N5 - 240N

(mỗi công thức phân đạm tiến hành trên 02 giống ngô: Giống ngô QPM

TPTD QP4 và giống ngô lai thường LVN10).

2.3.1.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số liều lượng lân đến sinh trưởng,

phát triển, năng suất và chất lượng của giống QPM so sánh với ngô thường

Nền: 10 tấn phân chuồng + 120N + 80K2O

Công thức 1 - 5: P1 - 0P2O5, P2 - 40P2O5, P3 - 80P2O5, P4 - 120P2O5, P5 -

160P2O5

(mỗi công thức phân lân tiến hành trên 02 giống ngô: Giống ngô QPM

TPTD QP4 và giống ngô lai thường LVN10).

54

Page 55: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

2.3.1.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số liều lượng kali đến sinh trưởng,

phát triển, năng suất và chất lượng của giống QPM so sánh với ngô thường

Nền: 10 tấn phân chuồng + 120N + 80P2O5

Công thức 1 - 5: K1 - 0K2O, K2 - 40K2O, K3 - 80K2O, K4 - 120K2O, K5 -

160K2O

(mỗi công thức phân kali tiến hành trên 02 giống ngô: Giống ngô QPM

TPTD QP4 và giống ngô lai thường LVN10).

2.3.1.5. Xây dựng mô hình trình diễn giống ngô QP4

Mô hình sử dụng phương pháp ô mẫu trình diễn. Các mô hình ô mẫu

được nông dân trực tiếp làm, có hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật. Trước khi

làm mô hình, nông dân được tập huấn về kỹ thuật.

- Địa điểm: Mô hình được bố trí tại huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang

trên đất ruộng bậc thang bỏ hoá vụ xuân; huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên

trên đất bãi ven sông, đất cát pha bạc màu; huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên

Quang trên đất dốc.

- Thời gian: vụ Xuân 2006, vụ Thu Đông 2006, vụ Xuân 2007.

- Số lượng và quy mô các mô hình:

+ Tại Yên Minh – Hà Giang: Diện tích mô hình là 2 ha thực hiện vào vụ

Xuân 2006; 5,3 ha thực hiện vào vụ Xuân 2007.

+ Tại Phổ Yên - Thái Nguyên: Diện tích mô hình là 0,5 ha thực hiện vào

vụ Thu Đông 2006.

+ Tại Hàm Yên - Tuyên Quang: Diện tích mô hình là 0,2 ha thực hiện

vào vụ Xuân 2006.

- Các chỉ theo dõi, đánh giá khi xây dựng mô hình: Thời gian sinh

trưởng, chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, đánh giá chung về khả năng chống

chịu sâu bệnh và điều kiện bất thuận, các yếu tố cấu thành năng suất, năng

suất hạt khô, hướng sử dụng sản phẩm, khả năng mở rộng ra sản xuất.

55

Page 56: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

2.3.2. Phương pháp nghiên cứu

2.3.2.1. Phương pháp thí nghiệm

Tiến hành theo Quy trình Khảo nghiệm ngô Quốc tế của CIMMYT; Quy

phạm Khảo nghiệm giống ngô Quốc gia số 10 TCN 341 - 98; Quy trình Khảo

nghiệm của Viện Nghiên cứu Ngô; Quy phạm Thử nghiệm phân bón số 10

TCN 216 – 95.

a. Phương pháp bố trí thí nghiệm

+ Thí nghiệm so sánh giống: Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu

nhiên hoàn chỉnh (RCB) gồm 8 công thức với 3 lần nhắc lại. Diện tích 1 ô là

14 m2 (5 m x 2,8 m) trồng 4 hàng, hàng cách hàng 70 cm, cây cách cây 25 cm

(mật độ 5,7 vạn cây/ha), gieo 2 hạt trên hốc và tỉa để một cây trên hốc. Các

chỉ tiêu theo dõi được thực hiện ở 2 hàng giữa của ô.

* Sơ đồ thí nghiệm so sánh giống:

Dải bảo vệ

Dải

bảo

vệ

1 6 4 3 7 2 5 8

Dải

bảo

vệ

7 5 2 6 8 4 1 3

2 4 8 7 1 3 6 5

Dải bảo vệ

+ Thí nghiệm phân bón: Ba thí nghiệm phân đạm, lân, kali là thí

nghiệm hai nhân tố được bố trí theo kiểu ô phụ - Split-Plot Design, 3 lần nhắc

lại, phân bón (N, P, K) là nhân tố chính gồm 5 công thức và 2 nhân tố phụ là

G1 - QP4 và G2 - LVN10. Diện tích thí nghiệm ô chính là 42 m2 (10 x 4,2 m),

ô phụ là 21 m2 (5 x 4,2 m). Gieo trồng 6 hàng/ô với khoảng cách 70 x 25 cm

(mật độ 5,7 vạn cây/ha), các chỉ tiêu theo dõi ở 4 hàng giữa ô.

56

Page 57: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

* Sơ đồ thí nghiệm phân bón:

Dải bảo vệ

Dải bảo vệ

3A 5B 1B 4A 2B

Dải bảo vệ

3B 5A 1A 4B 2A

1B 3B 2A 5B 4B

1A 3A 2B 5A 4A

4B 2A 3B 1A 5A

4A 2B 3A 1B 5B

Dải bảo vệ

(Phần chữ số: Là các công thức phân bón: Đạm; Lân; Kali.

Phần chữ cái: Là các công thức giống ngô)

b. Quy trình kỹ thuật

Tiến hành theo Quy trình Khảo nghiệm ngô Quốc tế của CIMMYT; Quy

phạm Khảo nghiệm giống ngô Quốc gia số 10 TCN 341 - 98; Quy trình Khảo

nghiệm của Viện Nghiên cứu Ngô; Quy phạm Thử nghiệm phân bón số 10

TCN 216 – 95.

* Phân bón:

57

Page 58: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

- Lượng bón:

+ Thí nghiệm so sánh giống: 10 tấn phân chuồng + 150N + 90P2O5 +

90K2O + 600 kg vôi bột/ ha.

+ Thí nghiệm phân bón: 10 tấn phân chuồng/ha + NPK theo các công

thức thí nghiệm + 600 kg vôi bột/ ha.

Phân chuồng: Thành phần gồm phân bò + rơm rạ + trấu. Phân chuồng

được ủ đến hoai mục mới đem đi bón cho đất thí nghiệm.

- Phương pháp bón phân:

- Bón lót: 100% phân chuồng + 100% phân lân + 100% vôi bột (phân

chuồng và phân lân được trộn đều bón theo hàng rạch sâu 10 – 12 cm; vôi bột

được rải đều trên đất khi bừa lần cuối).

- Bón thúc: chia làm 3 lần:

Lần 1: 1/3 N + 1/2 K2O (khi ngô được 3 - 4 lá thật), rạch rãnh sâu 3 - 5 cm

theo hàng ngô cách gốc 5 – 7 cm rồi bón và lấp kín phân kết hợp vun nhẹ).

Lần 2: 1/3 N + 1/2 K2O (khi ngô được 7 - 9 lá), rạch rãnh sâu 5 - 7 cm

theo hàng ngô cách gốc 10 – 12 cm rồi bón và lấp kín phân kết hợp vun cao).

Lần 3: Bón nốt lượng phân còn lại (trước trỗ 7 – 10 ngày), rạch rãnh sâu

7 - 10 cm theo hàng ngô cách gốc 13 – 15 cm rồi bón và lấp kín phân kết hợp

vun cao).

* Chăm sóc:

+ Khi ngô 3 - 5 lá: Xới vun nhẹ quanh gốc kết hợp với bón thúc lần 1,

tưới nước (để đất đủ ẩm 70 – 80%) và tỉa định cây.

+ Khi ngô 7 - 9 lá: Xới xáo diệt cỏ dại kết hợp với bón thúc lần 2, tưới

nước (để đất đủ ẩm 70 – 80%) và vun cao chống đổ.

+ Trước trỗ 7 - 10 ngày: Bón nốt lượng phân còn lại kết hợp vun nhẹ và

tưới nước (để đất đủ ẩm 70 – 80%).

58

Page 59: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

- Tưới nước: Nếu đất khô thì phải tưới nước cho ngô, đặc biệt phải giữ

cho đất đủ ẩm (khoảng 70 - 80% độ ẩm tối đa đồng ruộng) ở 3 thời kỳ:

+ Khi ngô 6 – 7 lá.

+ Khi ngô xoáy nõn (trước trỗ cờ từ 10 – 12 ngày).

+ Khi ngô thụ phấn xong – chín sữa (sau khi trỗ cờ từ 10 – 15 ngày).

Chú ý, cần tưới đồng đều, sau khi tưới hoặc khi mưa phải thoát hết nước

đọng trong ruộng.

* Phòng trừ sâu bệnh:

Chỉ phòng trừ sâu bệnh khi đến ngưỡng phòng trừ theo hướng dẫn chung

của ngành Bảo vệ thực vật.

* Thu hoạch:

Thu hoạch khi ngô chín sinh lý (khi chân hạt có vết đen hoặc 75% số cây

có lá bi khô), tuy nhiên nếu thời tiết cho phép thì có thể thu hoạch muộn hơn.

2.3.2.2. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi

Tiến hành theo hướng dẫn của CIMMYT, Viện nghiên cứu ngô và Quy

phạm khảo nghiệm giống ngô Quốc gia số 10 TCN 341-98.

a. Chỉ tiêu thời gian sinh trưởng

- Ngày gieo.

- Ngày mọc: Khoảng 50% số cây mọc.

- Ngày tung phấn: Ghi số ngày từ gieo đến khi có khoảng 50% số cây

trong ô tung phấn (khi những bao phấn ở 1/3 phía trên bông cờ tung phấn thì

coi cây đó đã tung phấn).

- Ngày phun râu: Ghi số ngày từ gieo đến khi có khoảng 50% số cây

trong ô phun râu (tính những cây có râu dài 2 - 3cm).

- Ngày chín sinh lý (TGST): Ghi số ngày từ gieo đến khi có khoảng 50%

số bắp có chấm đen ở chân hạt hoặc khoảng 75% cây có lá bi khô.

59

Page 60: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

b. Chỉ tiêu hình thái

- Chiều cao cây (cm): Chọn 10 cây (trừ các cây đầu hàng), đo từ gốc sát

mặt đất đến điểm phân nhánh cờ đầu tiên.

- Chiều cao đóng bắp (cm): Trên 10 cây đã đo chiều cao cây, xác định

chiều cao đóng bắp bằng cách đo từ gốc sát mặt đất đến đốt đóng bắp trên

cùng (Bắp thứ nhất).

Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp đo vào thời gian sau khi ngô phun

râu 2 - 3 tuần hoặc trước khi thu hoạch.

- Số lá thật trên cây (lá): Đếm số lá trên cây (đánh dấu lá thứ 5, lá thứ

10,...).

- Diện tích lá: Đo diện tích lá khi cây thụ phấn thụ tinh xong, tiến hành

đo chiều dài và chiều rộng của tất cả các lá trên cây. Sau đó áp dụng công

thức tính diện tích lá của Montgomery (1906):

Diện tích lá (m2) = chiều dài x chiều rộng x 0,75

Chỉ số diện tích lá (m2 lá/m2 đất) = m2 lá/cây x số cây/m2

- Trạng thái cây (điểm): Số liệu về đặc tính này được lấy vào giai đoạn lá

bi trở vàng, khi mà các cây còn xanh và bắp đã phát triển đầy đủ. Ở mỗi ô

đánh giá các đặc tính như: Chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, độ đồng đều

của các cây, thiệt hại do sâu, bệnh và độ đổ ngã, theo thang điểm từ 1 - 5

(điểm 1 là rất tốt, điểm 5 là xấu).

- Trạng thái bắp (điểm): Sau khi thu hoạch, để xác định được chỉ tiêu này

thì căn cứ vào các đặc tính như thiệt hại do sâu, bệnh, kích thước bắp, độ dày

hạt và độ đồng đều của bắp theo thang điểm từ 1 - 5, điểm 1 là tốt nhất và

điểm 5 là xấu nhất.

- Độ bao bắp: Trước khi thu hoạch 1 - 3 tuần, khi bắp đã phát triển hoàn

toàn vỏ bọc đã khô, đánh giá độ bao bắp theo thang điểm từ 1 - 5.

+ Điểm 1: Rất kín - Bẹ che kín đầu bắp và kéo dài khỏi bắp.

+ Điểm 2: Kín - Bao kín đầu bắp.

60

Page 61: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

+ Điểm 3: Hơi hở - Bao không chặt đến đầu bắp.

+ Điểm 4: Hở - Lá bi không che kín bắp để hở đầu bắp.

+ Điểm 5: Rất hở - Đầu bắp hở nhiều.

- Dạng hạt, mầu sắc hạt.

c. Chỉ tiêu chống chịu

* Chỉ tiêu chống đổ: Theo dõi tất cả các lần nhắc lại sau đợt gió to và

trước thu hoạch.

- Đổ rễ (%): Tính % số cây bị nghiêng một góc bằng hoặc lớn hơn 300 so

với chiều thẳng đứng của cây.

- Đổ gãy thân (%): Tính % số cây bị gãy ở đoạn thân phía dưới bắp trước

khi thu hoạch.

* Chỉ tiêu chống chịu sâu bệnh:

- Sâu đục thân, đục bắp: Ghi số cây bị sâu đục lỗ (chủ yếu là đục dưới

bắp), đánh giá mức độ bị sâu đục thân hại theo thang điểm từ 1 - 5.

+ Điểm 1: < 5% số cây, số bắp bị sâu

+ Điểm 2: 5 - < 15% số cây, số bắp bị sâu

+ Điểm 3: 15 - < 25% số cây, số bắp bị sâu

+ Điểm 4: 25 - < 35% số cây, số bắp bị sâu

+ Điểm 5: 35 - < 50% số cây, số bắp bị sâu

- Rệp cờ, bệnh đốm lá, bệnh khô vằn, vàng lá, phấn đen: Điểm từ 1 - 5.

+ Điểm 1: Không nhiễm (không có lá bị bệnh)

+ Điểm 2: Nhiễm nhẹ (> 5 - 15% diện tích lá bị bệnh)

+ Điểm 3: Nhiễm vừa (> 15 - 30% diện tích lá bị bệnh)

+ Điểm 4: Nhiễm nặng (> 30 - 50% diện tích lá bị bệnh)

+ Điểm 5: Nhiễm rất nặng (trên 50% diện tích lá bị bệnh)

- Khả năng chịu hạn, chịu úng, chịu rét

+ Điểm 1: Tốt

+ Điểm 2: Khá

61

Page 62: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

+ Điểm 3: Trung bình

+ Điểm 4: Kém

+ Điểm 5: Rất kém

(Theo dõi bệnh hại ngô vào 2 thời kỳ trước và sau trỗ cờ, chủ yếu sau trỗ cờ).

d. Chỉ tiêu năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất

- Tổng số cây, số cây 1 bắp, 2 bắp, không bắp trên mỗi ô (theo dõi trước

khi thu hoạch 1 - 3 ngày).

- Số bắp/cây (tổng số bắp/tổng số cây trên ô).

- Chiều dài bắp (cm): Đo từ đáy bắp đến đầu mút đóng hạt của 10 bắp rồi

lấy giá trị trung bình.

- Đường kính bắp (cm): Đo phần giữa bắp của 10 bắp rồi lấy giá trị trung

bình.

- Số hàng hạt/bắp (hàng): Một hàng được tính khi có >50% số hạt so với

hàng dài nhất. Đếm số hàng của 10 bắp rồi lấy giá trị trung bình.

- Số hạt/hàng (hạt): Đếm hàng hạt có chiều dài trung bình trên bắp. Đếm

số hàng của 10 bắp rồi lấy giá trị trung bình.

(Các chỉ tiêu: Chiều dài bắp, đường kính bắp, số hàng hạt/bắp, số

hạt/hàng chỉ đo đếm trên các bắp thứ nhất của các cây theo dõi, không đo đếm

trên các bắp thứ hai).

- Khối lượng 1000 hạt (g): Ở ẩm độ 14%, đếm 2 mẫu, mỗi mẫu 500 hạt,

cân khối lượng của 2 mẫu được P1 và P2. Nếu hiệu số 2 lần cân (mẫu nặng -

mẫu nhẹ) không chênh lệch nhau quá 5% so với khối lượng trung bình của 2

mẫu thì P = P1 + P2. Nếu sự chênh lệch nhau giữa 2 mẫu >5% so với khối

lượng trung bình của 2 mẫu thì phải cân lại. (Nếu khối lượng 2 lần cân chênh

lệch nhau không quá 2g thì chấp nhận được).

- Tổng số bắp/ô (bắp): Tổng số bắp 2 hàng thu hoạch.

- Khối lượng bắp tươi/ô (kg).

62

Page 63: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

- Tỷ lệ hạt/bắp khi thu hoạch (%): Mỗi công thức lấy trung bình 10 bắp

rồi tẽ hạt để tính tỷ lệ.

- Độ ẩm (%): Tẽ hạt của 10 bắp (ở hàng thu khoảng 140 gram), đo độ ẩm

ngay sau khi thu.

- Năng suất thực thu (tạ/ha): Bẻ bắp tại ruộng, cân riêng từng ô, tính tỷ lệ

hạt tươi/ bắp tươi. Năng suất qui về ẩm độ 14%.

NSTT

(tạ/ha)=

Pôx

Phạt khô mẫux

(100 – A0)x 100

Sô Pbắp khô mẫu (100 – 14)

Trong đó, Pô: Khối lượng bắp tươi/ô (kg);

Ao: Ẩm độ bắp tươi khi thu hoạch (%);

Sô: Diện tích ô thí nghiệm (m2);

Phạt khô mẫu: Khối lượng hạt khô của mẫu

Pbắp khô mẫu: Khối lượng bắp khô của mẫu

(100 – 14): Tính năng suất ở độ ẩm hạt 14%

e. Chỉ tiêu chất lượng

Phân tích hàm lượng protein, các axit amin (trong đó có lysine và

methionine) trong hạt ngô tại Viện Khoa học Sự sống - Đại học Thái Nguyên.

- Phân tích protein tổng số theo phương pháp Kjeldahl trên hệ thống

phân tích Gerhadht (trước khi công phá không tách đạm khoáng trong hạt).

- Phân tích 18 axit amin (lysine/protein và methionine/protein) theo

phương pháp của Speecman Stein và Moore trên máy phân tích axit amin tự

động Biochrom 20 của Anh.

f. Phân tích đất

- Phân tích các chỉ tiêu về hóa học trong đất thí nghiệm tại Viện Khoa

học Sự sống - Đại học Thái Nguyên.

- Phân tích các chỉ tiêu theo các phương pháp sau:

+ pHKCL: Xác định trên máy đo pH theo TCVN 6429:1999.

+ Hàm lượng mùn (%): Xác định theo phương pháp của Tiurin.

63

Page 64: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

+ Hàm lượng đạm tổng số (%): Xác định theo phương pháp Kjeldahl.

Công phá mẫu bằng H2SO4 đặc (d = 1,84).

+ Hàm lượng lân tổng số (%): Đo trên máy quang phổ tử ngoại khả kiến.

Công phá mẫu bằng H2SO4 đặc + HClO4 đặc.

+ Hàm lượng kali tổng số (%): Đo trên máy quang phổ hấp thu nguyên

tử. Công phá mẫu bằng H2SO4 đặc + HClO4 đặc.

2.3.2.3. Phương pháp lấy mẫu hạt để phân tích chất lượng

Thụ phấn hỗn hợp 30 cờ trong một nguồn: Tiến hành cách ly bắp

trước khi phun râu (chọn bắp đã xuất hiện một vài râu ngô bắt đầu nhú ra khỏi

lá bi, tiến hành cắt đầu bắp và dùng bao chụp kín toàn bộ bắp vào đầu buổi

sáng) và chọn những cây tốt nhất điển hình của giống: cao cây, cao bắp vừa

phải, sinh trưởng phát triển tốt, không sâu bệnh, có sức sống khoẻ, thời gian

tung phấn - phun râu gần nhau. Bao cờ của 30 cây chuẩn ở hai hàng giữa

của một nguồn (bao cờ khi đã tung phấn được 1/3 bông cờ, bao vào cuối buổi

chiều). Cách ly cờ 1 - 2 ngày (những phấn lạ trên cờ có thời gian chết để chỉ

lấy phấn mới), sau đó hỗn hợp phấn của 30 cờ rắc vào các bắp đã chọn và

cách ly ở hai hàng bên. Thụ phấn xong, dùng bao chụp kín bắp và ghim chặt

với thân ngô để không cho nhận thêm phấn lạ. Khi thu hoạch chọn những bắp

tốt nhất trong số những bắp đã cách ly để phân tích chất lượng.

2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu

- Thu thập và tổng hợp số liệu được tiến hành xử lý trên phần mềm Excel

2003.

- Các số liệu thí nghiệm được xử lý thống kê trên máy vi tính theo

chương trình IRRISTAT 4.0.

- Phân tích tương quan giữa các liều lượng đạm, lân, kali và năng suất,

chất lượng theo chương trình SPSS 13.0.

- Tính phương trình tương quan, lượng bón tối đa về kỹ thuật, tối thích

về kinh tế trên phần mềm Excel 2003.

64

Page 65: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Kết quả khảo nghiệm giống ngô chất lượng protein cao tại Thái Nguyên

3.1.1. Khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống ngô chất lượng

protein cao vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

3.1.1.1. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm

Thời gian sinh trưởng của cây ngô dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu

tố như giống, mùa vụ, thời tiết khí hậu, điều kiện sinh thái. Thời gian gieo hạt

các giống ngô thí nghiệm như sau: vụ Xuân 2004 (03/3/2004), vụ Xuân 2005

(09/3/2005), vụ Thu Đông 2004 (15/8/2004), vụ Thu Đông 2005 (11/8/2005).

Qua theo dõi các thời kỳ sinh trưởng và phát triển của các giống ngô thí

nghiệm ở hai vụ: vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005), chúng tôi thu

được kết quả thể hiện ở bảng 3.1a và 3.1b.

Bảng 3.1a. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm

vụ Xuân (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Giống

Thời gian từ gieo đến … (ngày)

Tung phấn Phun râu Chín sinh lý

X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB

QP1 71 59 65 73 61 67 121 118 120

QP2 70 58 64 72 60 66 120 116 118

QP3 71 60 66 74 63 69 119 116 118

QP4 67 57 62 69 59 64 118 115 117

QP5 71 59 65 73 61 67 121 116 119

QP6 69 59 64 72 62 67 121 116 119

Q2 (đ/c1) 72 60 66 75 63 69 117 115 116

HQ2000

(đ/c2)68 62 65 70 64 67 123 120 122

65

Page 66: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Số liệu bảng 3.1a và 3.1b cho thấy các giai đoạn sinh trưởng, phát triển

của các giống ngô thí nghiệm có nhiều biến động, các giống khác nhau thì các

thời kỳ sinh trưởng của chúng cũng khác nhau và ở mỗi vụ cũng khác nhau.

Với mỗi giai đoạn sinh trưởng, phát triển thì mỗi giống có những đặc trưng

nhất định. Giống có thời gian sinh trưởng dài thì các giai đoạn sinh trưởng

cũng dài và ngược lại, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hình thành

các cơ quan và khả năng tích luỹ vật chất khô của cây.

Bảng 3.1b. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm

vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Giống

Thời gian từ gieo đến … (ngày)

Tung phấn Phun râu Chín sinh lý

TĐ.

04

TĐ.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

QP1 56 56 56 59 57 58 120 112 116

QP2 57 55 56 60 57 59 119 110 115

QP3 56 57 57 58 59 59 119 110 115

QP4 56 52 54 58 54 56 119 108 114

QP5 56 55 56 59 58 59 118 111 115

QP6 57 56 57 60 59 60 120 114 117

Q2 (đ/c1) 57 56 57 60 59 60 117 107 112

HQ2000

(đ/c2)56 53 55 59 55 57 120 115 118

a. Giai đoạn từ gieo đến tung phấn của các giống ngô thí nghiệm

Thời gian từ gieo đến tung phấn của các giống ngô QPM thí nghiệm

trung bình 2 vụ Xuân 2004 và 2005 biến động từ 62 - 66 ngày. Trong đó,

giống QP4 có thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn nhất là 62 ngày, sớm hơn

hai đối chứng 3 - 4 ngày (Q2: 66 ngày; HQ2000: 65 ngày), các giống còn lại

66

Page 67: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

tương đương hai đối chứng. Vụ Xuân 2005, các giống ngô thí nghiệm có thời

gian từ gieo đến tung phấn ngắn hơn vụ Xuân 2004. Nguyên nhân là do vụ

Xuân 2005 ngô được gieo vào ngày 09/3/2005 muộn 6 ngày hơn so với vụ

Xuân 2004 (03/3/2004) nên giai đoạn nẩy mầm - mọc gặp điều kiện có mưa

và nhiệt độ cao hơn (trung bình nhiệt độ 4 ngày sau gieo là 21,5oC - vụ Xuân

2005; 18,4oC - vụ Xuân 2004) làm cho thời gian ngô mọc nhanh hơn (trung

bình 2 ngày). Đồng thời giai đoạn trước trỗ cờ 20 ngày - tung phấn, nhiệt độ

trung bình là 27,1oC (vụ Xuân 2005), 25,8oC (vụ Xuân 2004) làm cho ngô trỗ

sớm hơn (theo số liệu của Đài Khí tượng thủy văn Thái Nguyên, 2008) [13].

Trung bình 2 vụ Thu Đông 2004 và 2005, thời gian từ gieo đến tung

phấn của các giống ngô QPM thí nghiệm ngắn hơn vụ Xuân, biến động từ 54 - 57

ngày. Trong đó, giống QP4 có thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn nhất (54

ngày) sớm hơn đối chứng 1 – Q2 3 ngày, tương đương đối chứng 2 – HQ2000

(Q2: 57 ngày; HQ2000: 55 ngày), các giống ngô QPM thí nghiệm còn lại có

thời gian từ gieo đến tung phấn tương đương so với đối chứng 1.

Thời gian từ gieo đến tung phấn của các giống ngô thí nghiệm ở vụ Xuân

dài hơn ở vụ Thu Đông từ 7 – 10 ngày. Vì vụ Xuân đầu vụ nhiệt độ thấp, ít

mưa hơn vụ Thu Đông nên cây ngô sinh trưởng chậm hơn, kéo dài giai đoạn

sinh trưởng sinh dưỡng hơn vụ Thu Đông.

b. Giai đoạn từ gieo đến phun râu của các giống ngô thí nghiệm

Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), thời gian từ gieo đến phun râu của

các giống ngô QPM thí nghiệm biến động từ 64 - 69 ngày. Trong đó, giống

QP4 có thời gian từ gieo đến phun râu ngắn nhất, ngắn hơn hai đối chứng từ 3 – 5 ngày

(Q2: 69 ngày; HQ2000: 67 ngày). Khoảng cách tung phấn - phun râu (ASI)

của các giống QPM thí nghiệm từ 2 - 3 ngày. Trong đó, giống QP1, QP2,

QP4, QP5 có khảng cách ASI là 2 ngày tương đương với đối chứng 2 – HQ2000;

Các giống QP3, QP6 có ASI là 3 ngày tương đương đối chứng 1 – Q2.

67

Page 68: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), thời gian từ gieo đến phun râu

của các giống ngô QPM thí nghiệm ngắn hơn vụ Xuân, biến động từ 56 - 60

ngày. Trong đó, giống QP4 có thời gian từ gieo đến phun râu ngắn nhất (56

ngày) ngắn hơn đối chứng 1 – Q2 4 ngày, tương đương đối chứng 2

(HQ2000: 57 ngày). ASI của các giống QP1, QP3, QP4 là 2 ngày tương

đương đối chứng 2; QP2, QP5 và QP6 là 3 ngày tương đương đối chứng 1.

Tóm lại, qua thí nghiệm vụ Xuân và Thu Đông cho thấy, hai giống QP1

và QP4 có ASI tương đương đối chứng HQ2000.

c. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm

Số liệu bảng 3.1a và 3.1b (trung bình 2 vụ Xuân và 2 vụ Thu Đông) cho

thấy: Thời gian sinh trưởng của các giống QPM ở vụ Xuân dài hơn vụ Thu

Đông. Các giống QPM thí nghiệm ở vụ Xuân có thời gian sinh trưởng biến

động từ 117 - 120 ngày, trong đó giống có thời gian sinh trưởng ngắn nhất là QP4

(117 ngày) dài hơn đối chứng Q2 1 ngày và ngắn hơn đối chứng HQ2000 5

ngày (Q2: 116 ngày; HQ2000: 122 ngày); QP1 có thời gian sinh trưởng dài

nhất (120 ngày) dài hơn so với đối chứng 1 và ngắn hơn so với đối chứng 2.

Ở vụ Thu Đông, các giống QPM có thời gian sinh trưởng biến động từ 114 -

117 ngày, trong đó giống có thời gian sinh trưởng ngắn nhất là QP4 (114

ngày) dài hơn đối chứng 1 (Q2) 2 ngày và ngắn hơn đối chứng 2 (HQ2000) 4

ngày (Q2: 112 ngày; HQ2000: 118 ngày); QP6 có thời gian sinh trưởng dài

nhất (117 ngày) dài hơn so với đối chứng 1 và ngắn hơn so với đối chứng 2.

Trung bình thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm vụ Thu

Đông ngắn hơn vụ Xuân từ 3 – 6 ngày. Mặc dầu thời gian từ gieo đến trỗ của

các giống QPM ở vụ Xuân dài hơn nhưng giai đoạn sau trỗ lại ngắn hơn vụ

Thu Đông, do ở vụ Xuân giai đoạn đầu nhiệt độ và độ ẩm thấp, giai đoạn sau

nhiệt độ và độ ẩm cao. Còn vụ Thu Đông thì ngược lại, cuối vụ rét sớm, nhiệt

độ thấp dần và lượng mưa ít hơn đầu vụ nên giai đoạn sinh trưởng sinh thực

68

Page 69: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

kéo dài, quá trình tích luỹ vật chất khô về hạt diễn ra chậm, đặc biệt là vụ Thu

Đông 2004.

Tóm lại, các giống ngô QPM thí nghiệm có thời gian sinh trưởng thuộc

nhóm trung bình sớm. Trong đó, giống QP4 có thời gian sinh trưởng

ngắn nhất.

3.1.1.2. Một số đặc điểm hình thái của các giống ngô thí nghiệm

a. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống ngô thí nghiệm

Số liệu bảng 3.2 cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), chiều

cao cây của các giống ngô QPM thí nghiệm biến động từ 197,6 - 217,9 cm,

tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 208,0 cm), các giống QP1 – QP5 thấp

hơn đối chứng 1, giống QP6 tương đương đối chứng 1 (Q2: 229,6 cm). Trong

đó, giống QP4 đạt chiều cao cây thấp nhất, giống QP6 có chiều cao cây cao

nhất (217,9cm).

Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), chiều cao cây của các giống

ngô QPM thí nghiệm cao hơn vụ Xuân, biến động từ 208,2 - 227,0 cm, thấp

hơn đối chứng 1 - Q2, tương đương đối chứng 2 - HQ2000 (Q2: 253,1 cm;

HQ2000: 216,0 cm). Giống ngô QP4 có chiều cao cây thấp nhất (208,2 cm),

giống QP6 có chiều cao cây cao nhất (227,0cm).

Tóm lại, các giống ngô QPM thí nghiệm đều có chiều cao cây thấp hơn

so với Q2 và tương đương HQ2000. Đây là một đặc điểm có lợi vì những

giống ngô QPM thấp cây sẽ có khả năng chống đổ tốt, hạn chế đổ gẫy, nhất là

trong điều kiện vụ Xuân thường có mưa giông và gió to vào cuối vụ. Giống

QP4 có chiều cao cây thấp nhất và đạt độ đồng đều cao tương đương

HQ2000, cao hơn Q2.

69

Page 70: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 3.2. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống ngô

thí nghiệm vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Giống

Chiều cao cây (cm) Chiều cao đóng bắp (cm)

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

QP1 205,1 209,6 207,4 215,1 210,3 212,7 110,4 114,0 112,2 116,3 111,6 114,0

QP2 204,2 206,7 205,5 204,4 214,6 209,5 107,4 108,8 108,1 105,4 115,4 110,4

QP3 199,8 205,2 202,5 209,3 212,0 210,7 107,9 108,5 108,2 109,0 118,8 113,9

QP4 196,9 198,3 197,6 215,0 201,4 208,2 102,4 100,6 101,5 110,4 100,5 105,5

QP5 217,3 215,9 216,6 225,9 218,9 222,4 114,9 112,1 113,5 120,8 119,0 119,9

QP6 216,4 219,4 217,9 233,8 220,2 227,0 116,4 115,7 116,1 122,2 120,4 121,3

Q2

(đ/c1)227,7 231,4 229,6 263,2 243,0 253,1 132,0 139,4 135,7 147,4 136,4 141,9

HQ2000

(đ/c2)205,1 210,9 208,0 216,7 215,3 216,0 106,4 109,2 107,8 102,7 112,3 107,5

CV,% 6,5 6,3 6,5 5,5 4,9 5,3 4,1 4,8 4,6 4,7 4,0 4,5

LSD05 9,3 13,6 12,4 10,7 12,3 11,5 11,0 9,1 10,5 10,8 15,5 13,4

Số liệu ở bảng 3.2 cho thấy: Chiều cao đóng bắp của các giống ngô QPM

thí nghiệm trung bình vụ Xuân (2004 và 2005) biến động từ 101,5 - 116,1 cm

thấp hơn đối chứng 1 – Q2 và tương đương đối chứng 2 – HQ2000 (Q2:

135,7 cm; HQ2000: 107,8 cm). Giống ngô QP4 có chiều cao đóng bắp thấp

nhất (101,5 cm), cao nhất là giống QP6 (116,1 cm). Chiều cao đóng bắp của

các giống ngô QPM thí nghiệm bằng 51,4 – 54,1% chiều cao cây, thấp hơn so

với đối chứng 1 (Q2: 59,1%), tương đương với đối chứng 2 (HQ2000:

51,8%).

Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), chiều cao đóng bắp của các

giống ngô QPM thí nghiệm biến động từ 105,5 - 121,3 cm thấp hơn so với đối

70

Page 71: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

chứng 1 (Q2: 141,9 cm), tương đương với đối chứng 2 (HQ2000: 107,5 cm).

Giống ngô QP4 có chiều cao đóng bắp thấp nhất (105,5 cm), QP6 có chiều

cao đóng bắp cao cao nhất (121,3 cm). Chiều cao đóng bắp của các giống ngô

QPM thí nghiệm bằng 50,6 - 54,3% chiều cao cây, thấp hơn so với đối chứng

1 (Q2: 56,1%), tương đương với đối chứng 2 (HQ2000: 51,6%).

Tóm lại, các giống ngô QPM thí nghiệm có chiều cao đóng bắp trung

bình bằng 1/2 chiều cao cây. Đây là một đặc điểm tốt để ngô có khả năng

chống đổ gẫy tốt, hạn chế sâu bệnh hại và có khả năng cơ giới hoá. Giống

QP4 có chiều cao đóng bắp đạt độ đồng đều cao tương đương đối chứng

HQ2000, cao hơn Q2.

b. Số lá trên cây và chỉ số diện tích lá của các giống ngô thí nghiệm

Số liệu bảng 3.3 cho thấy: Số lá/cây của các giống ngô QPM chênh lệch

không lớn giữa vụ Xuân và vụ Thu Đông. Trung bình vụ Xuân (2004 – 2005),

các giống ngô QPM thí nghiệm có số lá biến động từ 18,5 - 19,6 lá. Trong đó,

giống QP1, QP2, QP3, QP6 có số lá/cây thấp hơn đối chứng 1, giống QP4,

QP5 tương đương đối chứng 1 (Q2: 19,8 lá); giống QP3 có số lá/cây thấp hơn

đối chứng 2, các giống còn lại tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 19,4 lá).

Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí

nghiệm có số lá/cây biến động từ 18,8 - 20,0 lá. Trong đó, giống QP1, QP2,

QP3, QP6 có số lá/cây thấp hơn đối chứng 1, giống QP4, QP5 tương đương

đối chứng 1 (Q2: 20,4 lá); giống QP3 có số lá/cây thấp hơn đối chứng 2, các

giống còn lại tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 19,7 lá).

Tóm lại, giống QP4 có số lá ổn định cao tương đương đối chứng

HQ2000 ở cả hai vụ Xuân và Thu Đông và ổn định qua 4 vụ thí nghiệm.

Qua bảng 3.3, cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các giống

ngô QPM thí nghiệm có chỉ số diện tích lá (CSDTL) biến động từ 2,9 - 3,4 m2

lá/m2 đất. Trong đó, giống QP4 có chỉ số diện tích lá cao nhất (3,4 m2 lá/m2

71

Page 72: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

đất) tương đương đối chứng 1 (Q2: 3,5 m2 lá/m2 đất), các giống QPM còn lại

thấp hơn đối chứng 1; Giống QP3 có chỉ số diện tích lá thấp nhất (2,9 m 2

lá/m2 đất) thấp hơn đối chứng 2 (HQ2000: 3,3 m2 lá/m2 đất), các giống QPM

còn lại tương đương đối chứng 2.

Bảng 3.3. Số lá/cây và chỉ số diện tích lá của các giống ngô thí nghiệm

vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Giống

Số lá/cây (lá) CSDTL (m2 lá/m2 đất)

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

QP1 18,8 19,8 19,3 20,3 18,7 19,5 3,4 2,8 3,1 3,3 3,3 3,3

QP2 18,5 19,9 19,2 20,3 18,9 19,6 3,1 2,9 3,0 3,2 3,2 3,2

QP3 18,2 18,7 18,5 20,3 17,3 18,8 3,0 2,7 2,9 3,4 2,7 3,0

QP4 19,0 20,2 19,6 20,1 19,6 19,9 3,6 3,2 3,4 3,7 3,4 3,5

QP5 19,0 19,9 19,5 20,7 19,3 20,0 3,2 2,9 3,1 3,1 3,4 3,3

QP6 18,4 19,3 18,9 20,3 17,9 19,1 3,2 2,8 3,0 3,2 3,0 3,1

Q2

(đ/c1)19,3 20,3 19,8 21,5 19,3 20,4 3,6 3,4 3,5 4,2 3,1 3,6

HQ2000

(đ/c2)19,0 19,8 19,4 20,0 19,4 19,7 3,4 3,1 3,3 3,5 3,3 3,4

CV,% 2,1 2,8 2,6 1,9 2,4 2,2 3,4 3,0 3,3 3,2 2,8 3,1

LSD05 0,5 0,4 0,5 0,7 0,8 0,7 0,3 0,3 0,3 0,4 0,4 0,3

Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí

nghiệm có chỉ số diện tích lá biến động từ 3,0 - 3,5 m2 lá/m2 đất. Trong đó,

giống QP1, QP4 và QP5 có chỉ số diện tích lá tương đương đối chứng 1 (Q2:

3,6 m2 lá/m2 đất), giống QP2, QP3 và QP6 thấp hơn đối chứng 1; Giống QP3

có chỉ số diện tích lá thấp nhất (3,0 m2 lá/m2 đất) thấp hơn đối chứng 2

72

Page 73: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

(HQ2000: 3,4 m2 lá/m2 đất), các giống QPM còn lại tương đương đối chứng 2.

Qua kết quả thí nghiệm vụ Xuân và Thu Đông (2004 – 2005) cho thấy giống

QP4 có chỉ số diện tích lá cao nhất, tương đương hai giống đối chứng Q2 và

HQ2000.

Tóm lại, giống ngô QP4 có các đặc điểm hình thái khá tốt, đạt độ đồng

đều cao và ổn định qua 4 vụ thí nghiệm tương đương HQ2000.

3.1.2. Khả năng chống chịu của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ

Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

3.1.2.1. Khả năng chống đổ của các giống ngô thí nghiệm

Số liệu bảng 3.4 cho thấy: Trung bình 2 vụ Xuân và 2 vụ Thu Đông, tỷ

lệ đổ rễ vụ Xuân biến động từ 4,1% (QP4) - 12,0% (QP6) thấp hơn đối chứng

1 (Q2: 27,9%); giống QP2 và QP4 có tỷ lệ đổ rễ tương đương đối chứng 2

(HQ2000: 3,8%), các giống QPM còn lại cao hơn đối chứng 2. Tỷ lệ đổ rễ vụ

Thu Đông biến động từ 3,4% (QP4) - 20,2 % (QP6) thấp hơn đối chứng 1

(Q2: 25,3%); giống QP4 có tỷ lệ đổ rễ thấp nhất (3,4%) tương đương đối

chứng 2 (HQ2000: 3,3%), các giống QPM còn lại cao hơn đối chứng 2.

Tỷ lệ gãy thân trung bình vụ Xuân biến động từ 1,5 (QP4) - 4,4%

(QP3), trong đó giống QP3 có tỷ lệ gãy thân cao nhất (4,4%) tương đương đối

chứng 1 (Q2: 5,7%), các giống QPM còn lại thấp hơn đối chứng 1; hai giống

QP4 và QP5 có tỷ lệ gãy thân tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 1,3%), các

giống QPM còn lại cao hơn đối chứng 2. Trung bình vụ Thu Đông các giống

QPM thí nghiệm có tỷ lệ gãy thân thấp hơn vụ Xuân, biến động từ 0,9 (QP4) -

4,2% (QP6) thấp hơn đối chứng 1 (Q2: 8,5%); các giống QP1, QP4 và QP5

có tỷ lệ gãy thân tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 0,7%), các giống QP2,

QP3 và QP6 cao hơn đối chứng 2.

Nhìn chung, các giống ngô QPM thí nghiệm thấp cây, bộ rễ phát triển

tốt, chống đổ rễ, gãy thân khá mặc dù gặp mưa gió to vào cuối vụ Xuân.

73

Page 74: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Giống QP4 có khả năng chống đổ rễ, gãy thân tốt nhất tương đương HQ2000

và tốt hơn Q2. Bảng 3.4. Tỷ lệ đổ rễ và gãy thân của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân

và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Giống

Đổ rễ (%) Gãy thân (%)

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

QP1 3,8 9,4 6,6 14,1 7,1 10,6 1,7 4,2 3,0 1,0 2,3 1,7

QP2 3,9 6,8 5,3 10,0 5,0 7,5 2,2 3,6 2,9 1,7 2,6 2,2

QP3 7,7 5,0 6,3 5,2 5,9 5,6 3,2 5,5 4,4 1,0 4,9 3,0

QP4 3,9 4,3 4,1 4,4 2,4 3,4 1,3 1,7 1,5 0,0 1,7 0,9

QP5 11,5 11,3 11,4 11,2 10,4 10,8 1,4 2,8 2,1 0,0 2,7 1,4

QP6 4,7 19,3 12,0 28,2 12,1 20,2 3,1 5,4 4,3 4,5 3,8 4,2

Q2

(đ/c1)32,0 23,9 27,9 30,6 20,0 25,3 4,2 7,1 5,7 11,9 5,1 8,5

HQ2000

(đ/c2)4,2 3,4 3,8 1,7 4,9 3,3 1,1 1,5 1,3 0,0 1,4 0,7

CV,% 4,2 3,7 4,0 3,5 3,9 3,8 2,5 3,0 2,8 2,7 2,4 2,6

LSD05 2,9 2,1 2,0 3,0 2,5 2,2 1,0 1,8 1,3 1,5 1,2 1,5

3.1.2.2. Khả năng chống chịu sâu, bệnh của các giống ngô thí nghiệm

Chúng tôi đã tiến hành theo dõi tình hình sâu bệnh hại các giống ngô thí

nghiệm từ khi gieo đến khi thu hoạch và phát hiện có những sâu bệnh hại

chính sau: Sâu đục thân (Ostrinia nubilalis, Ostrinia funacalis), rệp cờ

(Rhopalosiphum maydis), bệnh khô vằn (Rhizoctonia solani) và bệnh đốm lá

(đốm lá lớn - Helminthosporium turcicum; đốm lá nhỏ - H. maydis). Mức độ

74

Page 75: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

bị nhiễm sâu bệnh của các giống ngô thí nghiệm ở vụ Xuân và vụ Thu Đông

(2004 và 2005) được thể hiện ở bảng 3.5 và 3.6.

a. Khả năng chống chịu sâu của các giống ngô thí nghiệm

Nhìn vào bảng 3.5 cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), tất cả

các giống ngô QPM thí nghiệm đều bị sâu đục thân hại ở mức độ từ điểm 3 -

điểm 4. Các giống QP1, QP4 và QP5 bị sâu đục thân hại trung bình (điểm 3)

nhẹ hơn đối chứng Q2, tương đương đối chứng HQ2000; các giống QP2, QP3

và QP6 bị sâu đục thân hại nặng hơn (điểm 4) tương đương đối chứng Q2,

nặng hơn đối chứng HQ2000. Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), các

giống ngô QPM thí nghiệm bị sâu đục thân hại ở mức độ nhẹ hơn vụ Xuân,

biến động từ điểm 2 - điểm 3. Các giống ngô QP1, QP2, QP4 và QP5 bị sâu

đục thân hại nhẹ (điểm 2) tương đương đối chứng HQ2000, nhẹ hơn đối

chứng Q2; hai giống QP3 và QP6 bị sâu đục thân hại nặng hơn (điểm 3)

tương đương đối chứng Q2, nặng hơn so với đối chứng HQ2000.

Bảng 3.5. Mức độ nhiễm sâu của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân

và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Giống

Sâu đục thân (điểm 1 – 5) Rệp cờ (điểm 1 – 5)

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

QP1 2 3 3 2 2 2 2 2 2 2 3 3

QP2 3 4 4 2 2 2 2 2 2 2 3 3

QP3 3 4 4 3 3 3 2 3 3 3 4 4

QP4 2 3 3 2 1 2 2 2 2 2 3 3

QP5 2 3 3 2 2 2 2 2 2 2 3 3

QP6 3 4 4 2 3 3 2 3 3 3 4 4

75

Page 76: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Q2

(đ/c1)3 4 4 3 2 3 3 3 3 3 4 4

HQ2000

(đ/c2)2 3 3 2 1 2 2 2 2 2 3 3

Từ kết quả trên cho chúng tôi thấy ở vụ Xuân (2004 và 2005), sâu đục

thân phát sinh, phát triển gây hại ngô nhiều hơn vụ Thu Đông (2004 và 2005).

Sâu đục thân phát sinh, phát triển gây hại mạnh làm ảnh hưởng đến sự sinh

trưởng, giảm khả năng chống đổ của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân (2004

và 2005), làm giảm năng suất và phẩm chất ngô.

Qua theo dõi thí nghiệm, trung bình vụ Xuân (2004 và 2005) rệp cờ ngô

xuất hiện gây hại trên các giống ngô thí nghiệm ít hơn vụ Thu Đông (điểm 2 –

điểm 3), trong đó các giống QP1, QP2, QP4 và QP5 bị rệp cờ hại nhẹ (điểm

2) tương đương đối chứng HQ2000, nặng hơn đối chứng Q2; hai giống QP3

và QP6 bị rệp cờ hại nặng hơn (điểm 3) tương đương đối chứng Q2, nặng hơn

đối chứng HQ2000. Còn ở vụ Thu Đông (2004 và 2005) thì rệp cờ lại phát

sinh phát triển gây hại mạnh trên tất cả các giống ngô thí nghiệm (điểm 3 -

điểm 4). Các giống QP1, QP2, QP4 và QP5 bị rệp cờ hại ở mức độ điểm 3,

nhẹ hơn so với đối chứng Q2, tương đương đối chứng HQ2000; hai giống

QP3 và QP6 bị rệp cờ hại nặng (điểm 4), nặng hơn so với đối chứng HQ2000,

tương đương đối chứng Q2.

b. Khả năng chống chịu bệnh của các giống ngô thí nghiệm

Qua bảng 3.6, cho thấy: Các giống ngô QPM thí nghiệm trung bình vụ

Xuân (2004 và 2005) bị nhiễm bệnh khô vằn nhẹ (điểm 1 – điểm 2). Các

giống QP1, QP4 và QP5 không bị nhiễm bệnh khô vằn (điểm 1) tương đương

đối chứng HQ2000; các giống QP2, QP3 và QP6 bị nhiễm nhẹ (điểm 2) tương

đương đối chứng Q2. Ở vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí

nghiệm đều bị nhiễm bệnh khô vằn nặng hơn vụ Xuân, biến động từ điểm 2 -

76

Page 77: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

điểm 3. Các giống QP1, QP4 và QP5 bị nhiễm bệnh khô vằn nhẹ (điểm 2)

tương đương đối chứng HQ2000; các giống QP2, QP3 và QP6 bị nhiễm trung

bình (điểm 3) tương đương đối chứng Q2.

Bảng 3.6. Mức độ nhiễm bệnh của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân

và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Giống

Khô vằn (điểm 1 – 5) Đốm lá (điểm 1 – 5)

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

QP1 1 1 1 2 2 2 2 2 2 2 2 2

QP2 1 2 2 2 3 3 2 2 2 2 2 2

QP3 1 2 2 3 2 3 3 2 3 2 3 3

QP4 1 1 1 2 2 2 2 1 2 1 2 2

QP5 1 1 1 2 2 2 3 2 3 1 2 2

QP6 1 2 2 2 3 3 3 2 3 1 2 2

Q2

(đ/c1)1 2 2 3 3 3 3 2 3 2 3 3

HQ2000

(đ/c2)1 1 1 2 2 2 2 1 2 1 2 2

Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm bị

bệnh đốm lá ở mức độ trung bình (điểm 2 - điểm 3). Các giống QP1, QP2 và

QP4 bị nhiễm bệnh nhẹ (điểm 2) tương đối chứng HQ2000, nhẹ hơn so với

đối chứng Q2; các giống QP3, QP5 và QP6 bị nhiễm bệnh nặng hơn (điểm 3)

tương đương đối chứng Q2, nặng hơn so với đối chứng HQ2000. Còn ở vụ

Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm bị nhiễm bệnh

đốm lá nhẹ hơn vụ Xuân, ở mức độ điểm 2 – điểm 3, trong đó giống QP3 bị

hại nặng nhất (điểm 3) tương đương đối chứng Q2, nặng hơn đối chứng

77

Page 78: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

HQ2000; các giống QPM còn lại bị nhiễm bệnh đốm lá nhẹ (điểm 2) tương

đương đối chứng HQ2000, nhẹ hơn đối chứng Q2.

3.1.3. Trạng thái cây, độ bao bắp, trạng thái bắp của các giống ngô thí

nghiệm vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Qua theo dõi các chỉ tiêu này, chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3.7a và 3.7b.

Bảng 3.7a. Trạng thái cây, độ bao bắp, trạng thái bắp của các giống ngô

thí nghiệm vụ Xuân (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Đơn vị: điểm 1 - 5

GiốngTrạng thái cây Độ bao bắp Trạng thái bắp

X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB

QP1 2 3 3 2 3 3 3 3 3

QP2 2 3 3 2 3 3 3 4 4

QP3 3 4 4 2 3 3 3 4 4

QP4 2 2 2 2 2 2 2 3 3

QP5 3 3 3 2 3 3 3 3 3

QP6 2 3 3 2 3 3 3 4 4

Q2 (đ/c1) 3 4 4 2 2 2 3 4 4

HQ2000

(đ/c2)2 2 2 2 2 2 2 3 3

3.1.3.1. Trạng thái cây của các giống ngô thí nghiệm

Nhìn vào bảng 3.7a và 3.7b, cho thấy: Ở vụ Xuân (2004 và 2005), trạng

thái cây của các giống QPM thí nghiệm đạt từ điểm 2 – điểm 4, trong đó

giống QP4 có trạng thái cây tốt nhất (điểm 2) tương đương đối chứng

HQ2000, tốt hơn đối chứng Q2 (điểm 4); xấu nhất là giống QP3 (điểm 4)

tương đương đối chứng Q2, xấu hơn đối chứng HQ2000. Ở vụ Thu Đông

(2004 và 2005), trạng thái cây của các giống QPM thí nghiệm đạt điểm 2 –

78

Page 79: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

điểm 3, trong đó giống QP4 có trạng thái cây tốt nhất (điểm 2) tốt hơn hai đối

chứng; các giống QPM còn lại đạt điểm 3 tương đương đối chứng HQ2000,

tốt hơn đối chứng Q2 (điểm 4). Bảng 3.7b. Trạng thái cây, độ bao bắp, trạng thái bắp của các giống ngô

thí nghiệm vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Đơn vị: điểm 1 - 5

GiốngTrạng thái cây Độ bao bắp Trạng thái bắp

X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB

QP1 3 3 3 2 3 3 3 4 4

QP2 3 3 3 2 3 3 3 4 4

QP3 3 3 3 3 3 3 4 4 4

QP4 2 2 2 2 2 2 3 3 3

QP5 2 3 3 2 3 3 3 4 4

QP6 3 3 3 2 3 3 3 4 4

Q2 (đ/c1) 4 3 4 2 3 3 4 3 4

HQ2000

(đ/c2)2 3 3 2 2 2 2 3 3

3.1.3.2. Độ bao bắp của các giống ngô thí nghiệm

Vụ Xuân (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm đều có độ bao

bắp trung bình, từ điểm 2 – điểm 3, trong đó giống QP4 có độ bao bắp kín đầu

bắp (điểm 2) tương đương với hai đối chứng; các giống QPM còn lại hơi hở -

bao không chặt đến đầu bắp (điểm 3) kém hơn hai đối chứng (điểm 2). Còn

vụ Thu Đông (2004 và 2005) thì giống QP4 có độ bao bắp kín đầu bắp (điểm

2) tương đương đối chứng HQ2000, kín hơn đối chứng Q2 (điểm 3); các

giống QPM còn lại hơi hở - bao không chặt đến đầu bắp (điểm 3) tương

đương đối chứng Q2, hở hơn đối chứng HQ2000 (điểm 2).

3.1.3.3. Trạng thái bắp của các giống ngô thí nghiệm

79

Page 80: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Qua số liệu bảng 3.7a và 3.7b, cho thấy: Các giống ngô QPM thí nghiệm

ở vụ Xuân (2004 và 2005) có trạng thái bắp trung bình (điểm 3 – điểm 4),

trong đó các giống QP1, QP4 và QP5 đạt điểm 3 tương đương đối chứng

HQ2000; các giống QP2, QP3 và QP6 điểm 4 tương đương đối chứng Q2.

Còn vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm có trạng

thái bắp từ điểm 3 – điểm 4, trong đó giống QP4 đạt trạng thái bắp tốt nhất

(điểm 3) tương đương đối chứng HQ2000, tốt hơn Q2 (điểm 4); các giống

QPM khác đạt điểm 4 tương đương Q2 và xấu hơn đối chứng HQ2000.

Tóm lại, qua 4 vụ thí nghiệm cho thấy giống ngô QP4 có trạng thái cây,

độ bao bắp, trạng thái bắp tốt nhất, tương đương HQ2000 và tốt hơn Q2.

3.1.4. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô thí

nghiệm vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên

Nhìn vào bảng 3.8a và 3.8b cho thấy rằng trong cùng một điều kiện sinh

thái, điều kiện thí nghiệm như nhau, các giống khác nhau có số liệu về các

yếu tố cấu thành năng suất và năng suất khác nhau. Những giống nào có khả

năng sinh trưởng phát triển mạnh, thích nghi với điều kiện ngoại cảnh thì có

khả năng cho bắp, hạt tốt, là cơ sở cho năng suất cao. Ở mỗi mùa vụ khác

nhau, có điều kiện ngoại cảnh khác nhau cho năng suất và các yếu tố cấu

thành năng suất cũng khác nhau và mức độ tuỳ từng giống ngô.

3.1.4.1. Chiều dài bắp của các giống ngô thí nghiệm

Số liệu bảng 3.8a cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các

giống ngô QPM thí nghiệm có chiều dài bắp biến động từ 14,6 - 15,6 cm,

trong đó giống QP3 có chiều dài bắp thấp nhất (14,6 cm) thấp hơn đối chứng

1 (Q2: 15,3 cm), các giống QPM khác tương đương đối chứng 1; hai giống

QP4 và QP6 có chiều dài bắp tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 15,8cm),

các giống QPM khác thấp hơn đối chứng 2. Trung bình vụ Thu Đông (2004

và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm có chiều dài bắp ngắn hơn vụ Xuân,

biến động từ 14,3 - 15,4cm, trong đó giống QP3 có chiều dài bắp thấp nhất

(14,3 cm) thấp hơn đối chứng 1 (Q2: 15,2 cm), các giống QPM khác tương

80

Page 81: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

đương đối chứng 1; hai giống QP4 và QP6 có chiều dài bắp tương đương đối

chứng 2 (HQ2000: 15,7cm), các giống QPM khác thấp hơn đối chứng 2.

Tóm lại, hai giống QP4 và QP6 có chiều dài bắp đồng đều và ổn định

qua vụ Xuân và Thu Đông (2004 và 2005) tương đương Q2 và HQ2000.

3.1.4.2. Đường kính bắp của các giống ngô thí nghiệm

Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005) đường kính bắp của các giống ngô

QPM thí nghiệm từ 3,9 - 4,3 cm, trong đó các giống QP1, QP4 và QP5 có

đường kính bắp tương đương đối chứng 1 (Q2: 4,2 cm), các giống còn lại

thấp hơn đối chứng 1; chỉ có giống QP4 có đường kính bắp tương đương đối

chứng 2 (HQ2000: 4,4 cm), các giống còn lại thấp hơn đối chứng 2. Ở vụ Thu

Đông (2004 và 2005), đường kính bắp của các giống ngô QPM cao hơn vụ

Xuân, biến động từ 4,1 - 4,6 cm, trong đó các giống QP1, QP4 và QP5 có

đường kính bắp tương đương đối chứng 1 (Q2: 4,5 cm), các giống còn lại

thấp hơn đối chứng 1; giống QP4 có đường kính bắp tương đương đối chứng

2 (HQ2000: 4,7 cm), các giống còn lại thấp hơn đối chứng 2.

Tóm lại, qua 4 vụ thí nghiệm cho thấy giống QP4 có đường kính bắp cao

nhất, đồng đều và ổn định tương đương hai đối chứng.

3.1.4.3. Số hàng hạt/bắp của các giống ngô thí nghiệm

Qua bảng 3.8a, cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các giống

QPM thí nghiệm có số hàng hạt/bắp biến động từ 13,9 - 14,8 hàng. Trong đó,

hai giống QP1 và QP4 có số hàng hạt/bắp cao hơn đối chứng 1 (Q2: 13,6

hàng), các giống còn lại tương đương đối chứng 1; tất cả các giống QPM thí

nghiệm có số hàng hạt/bắp tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 14,5 hàng).

Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống QPM thí nghiệm có

số hàng hạt/bắp cao hơn vụ Xuân, biến động từ 14,4 - 14,9 hàng. Trong đó,

các giống QP1, QP4 và QP5 có số hàng hạt/bắp cao hơn đối chứng 1

(Q2: 13,9 hàng), các giống còn lại tương đương đối chứng 1; tất cả các giống

81

Page 82: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

QPM thí nghiệm có số hàng hạt/bắp tương đương đối chứng 2 (HQ2000:

14,8 hàng).

Tóm lại, hai giống QP1 và QP4 có số hàng hạt/bắp đạt cao, đồng đều và

ổn định qua các vụ thí nghiệm, cao hơn đối chứng Q2 và tương đương đối

chứng HQ2000.

82

Page 83: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 3.8a. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô thí nghiệm

vụ Xuân và Thu Đông (2004 và 2005)

Giống

Chiều dài bắp (cm) Đường kính bắp (cm) Số hàng hạt/bắp (hàng)

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

QP1 15,5 14,5 15,0 14,0 15,3 14,7 4,0 4,2 4,1 4,5 4,5 4,5 14,5 14,0 14,3 14,4 14,9 14,7

QP2 15,3 14,9 15,1 13,5 15,6 14,6 3,9 4,1 4,0 4,4 4,2 4,3 14,2 13,7 14,0 14,6 14,3 14,5

QP3 14,8 14,4 14,6 13,6 15,0 14,3 3,8 4,0 3,9 4,4 3,8 4,1 14,0 13,8 13,9 14,8 14,0 14,4

QP4 15,8 15,4 15,6 14,6 16,1 15,4 4,1 4,4 4,3 4,5 4,7 4,6 14,9 14,7 14,8 14,5 15,2 14,9

QP5 15,0 14,7 14,9 13,4 15,5 14,5 3,9 4,2 4,1 4,3 4,4 4,4 14,3 14,0 14,2 15,3 14,3 14,8

QP6 15,4 14,9 15,2 14,3 15,7 15,0 4,0 4,0 4,0 4,4 4,0 4,2 14,1 13,6 13,9 14,3 14,7 14,5

Q2

(đ/c1)15,9 14,6 15,3 14,3 16,0 15,2 4,1 4,2 4,2 4,6 4,4 4,5 13,9 13,2 13,6 13,7 14,1 13,9

HQ2000

(đ/c2)15,4 16,1 15,8 15,0 16,4 15,7 4,3 4,4 4,4 4,6 4,8 4,7 14,6 14,4 14,5 14,7 14,9 14,8

CV,% 4,5 5,0 4,9 5,2 4,4 4,8 3,0 3,7 3,5 3,1 2,8 3,0 2,5 3,2 2,9 3,0 2,6 2,8

LSD05 0,7 0,7 0,6 0,8 0,7 0,8 0,2 0,1 0,1 0,1 0,2 0,1 0,6 0,7 0,6 0,8 0,8 0,7

8283

Page 84: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 3.8b. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô thí nghiệm

vụ Xuân và Thu Đông (2004 và 2005)

Giống

Số hạt/hàng (hạt) P1000 hạt (g) Năng suất thực thu (tạ/ha)

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

X.

04

X.

05TB

TĐ.

04

TĐ.

05TB

QP1 30,2 28,7 29,5 31,0 31,8 31,4 310,4 299,5 305,0 310,0 311,0 310,5 52,5 43,2 47,9 58,3 52,3 55,3

QP2 29,7 28,3 29,0 30,6 30,1 30,4 306,6 292,0 299,3 280,4 313,6 297,0 49,5 44,5 47,0 60,2 51,9 56,1

QP3 29,3 27,6 28,5 29,5 29,9 29,7 298,7 285,0 291,9 314,6 295,3 305,0 45,4 41,8 43,6 63,0 45,6 54,3

QP4 30,9 30,2 30,6 31,4 34,3 32,9 311,8 309,7 310,8 312,3 321,0 316,7 55,0 52,3 53,7 67,3 59,3 63,3

QP5 29,8 28,6 29,2 29,0 33,5 31,3 309,3 299,5 304,4 314,8 307,2 311,0 49,2 43,2 46,2 63,5 50,3 56,9

QP6 29,2 28,2 28,7 32,0 31,5 31,8 307,8 289,0 298,4 303,0 298,0 300,5 47,1 42,8 45,0 64,9 47,3 56,1

Q2

(đ/c1)30,2 29,4 29,8 30,1 32,2 31,2 305,3 291,1 298,2 326,0 305,8 315,9 53,9 47,9 50,9 61,3 56,3 58,8

HQ2000

(đ/c2)33,1 31,6 32,4 33,0 36,5 34,8 316,6 308,6 312,6 299,4 317,0 308,2 60,1 56,8 58,5 74,1 63,0 68,6

CV,% 5,7 6,5 6,2 6,1 5,6 5,9 5,6 5,1 5,5 6,0 5,4 5,8 9,6 10.2 10,9 8,9 11,3 13,7

LSD05 1,5 1,8 1,7 1,6 2,2 1,8 10,4 14,5 11,4 14,7 13,2 11,6 5,4 6,5 5,7 8,8 6,8 6,3

8384

Page 85: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

3.1.4.4. Số hạt/hàng của các giống ngô thí nghiệm

Số liệu bảng 3.8b, cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các

giống QPM thí nghiệm có số hạt/hàng biến động từ 28,5 - 30,6 hạt, tương

đương đối chứng 1 (Q2: 29,8 hạt) và thấp hơn đối chứng 2 (HQ2000: 32,4

hạt), trong đó giống QP4 có số hạt/hàng cao nhất (30,6 hạt), thấp nhất là QP3

(28,5 hạt). Ở vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống QPM thí nghiệm có số

hạt/hàng cao hơn vụ Xuân, biến động từ 29,7 - 32,9 hạt, tương đương đối

chứng 1 (Q2: 31,2 hạt) và thấp hơn đối chứng 2 (HQ2000: 34,8 hạt), trong đó

giống QP4 có số hạt/hàng cao nhất (32,9 hạt), thấp nhất là QP3 (29,7 hạt).

Tóm lại, các giống QPM thí nghiệm có số hạt/hàng đồng đều và ổn định

tương đương Q2 nhưng thấp hơn HQ2000, trong đó giống QP4 đạt cao nhất.

3.1.4.5. Khối lượng 1000 hạt của các giống ngô thí nghiệm

Khối lượng 1000 hạt của các giống ngô QPM thí nghiệm trung bình vụ

Xuân (2004 và 2005) biến động từ 291,9 – 310,8g. Trong đó, giống QP4 có

khối lượng 1000 hạt cao nhất (310,8g) cao hơn đối chứng 1 (Q2: 298,2g), các

giống QPM khác tương đương đối chứng 1; các giống QP1, QP4 và QP5

tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 312,6g), các giống QPM còn lại thấp hơn

đối chứng 2.

Khối lượng 1000 hạt của các giống ngô QPM thí nghiệm trung bình vụ

Thu Đông (2004 và 2005) biến động từ 297,0 - 316,7g. Trong đó, hai giống

QP2 và QP6 có khối lượng 1000 hạt thấp hơn đối chứng 1 (Q2: 315,9g), các

giống QPM còn lại tương đương đối chứng 1; Tất cả các giống QPM thí

nghiệm có khối lượng 1000 hạt tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 308,2g)

3.1.4.6. Năng suất thực thu của các giống ngô thí nghiệm

Năng suất thực thu là chỉ tiêu quan trọng nhất trong công tác chọn tạo

giống cũng như trong sản xuất ngô. Năng suất thực thu là chỉ tiêu tổng hợp

các yếu tố, phản ánh trung thực nhất, rõ nét nhất về đặc điểm di truyền và tình

85

Page 86: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

hình sinh trưởng, phát triển của giống trong điều kiện trồng trọt và sinh thái

nhất định. Giống có tiềm năng năng suất cao chỉ có thể phát huy tiềm năng

năng suất tốt nhất khi giống đó được nuôi dưỡng trong điều kiện thích hợp.

Do vậy, trong cùng một điều kiện khí hậu, đất đai, cùng chế độ chăm sóc như

nhau, những giống nào phù hợp thì mới có khả năng sinh trưởng và phát triển,

chống chịu tốt và cho năng suất cao.

Kết quả ở bảng 3.8b cho thấy: Trung bình của 2 vụ Xuân và 2 vụ Thu

Đông, các giống QPM thí nghiệm vụ Thu Đông đạt năng suất thực thu cao

hơn vụ Xuân. Năng suất thực thu trong vụ Xuân biến động từ 43,6 - 53,7

tạ/ha. Trong đó, giống đạt năng suất cao nhất là QP4 (53,7 tạ/ha) bằng

105,5% so với đối chứng 1 (Q2: 50,9 tạ/ha) và bằng 91,8% so với đối chứng 2

(HQ2000: 58,5 tạ/ha). Ở vụ Thu Đông, các giống QPM thí nghiệm đạt năng

suất thực thu từ 54,3 - 63,3 tạ/ha. Trong đó, giống đạt năng suất cao nhất là

QP4 (63,3 tạ/ha) bằng 107,7% so với đối chứng 1 (Q2: 58,8 tạ/ha) và bằng

92,3% so với đối chứng 2 (HQ2000: 68,6 tạ/ha). Vậy, giống QP4 đạt năng

suất khá cao và ổn định qua các vụ thí nghiệm, tương đương đối chứng Q2 và

HQ2000.

Qua xử lý thống kê cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005) thì 4

giống QP1, QP2, QP4 và QP5 đạt năng suất thực thu tương đương đối chứng

1 – Q2, hai giống QP3 và QP6 đạt thấp hơn đối chứng 1; Giống QP4 đạt năng

suất thực thu tương đương đối chứng 2 – HQ2000, các giống QPM còn lại đạt

thấp hơn đối chứng 2, sự sai khác này có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%.

Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005) thì tất cả các giống QPM thí nghiệm

đạt năng suất thực thu tương đương đối chứng 1 – Q2; Giống QP4 đạt năng

suất thực thu tương đương đối chứng 2 – HQ2000, các giống QPM còn lại đạt

thấp hơn đối chứng 2, sự sai khác này có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%.

86

Page 87: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

0

10

20

30

40

50

60

70

80

QP

1

QP

2

QP

3

QP

4

QP

5

QP

6

Q2

HQ

200

0Giống

ng

suất

thự

c t

hu

(tạ/

ha

)

Vụ Xuân

Vụ Thu Đông

Biểu đồ 3.1. Năng suất thực thu của các giống ngô thí nghiệm trung bình

vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên.

Tóm lại, qua 4 vụ thí nghiệm cho thấy giống ngô QP4 có năng suất cao

nhất, ổn định và tương đương hai giống đối chứng Q2 và HQ2000.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả khảo nghiệm tại

Đan Phượng vụ Xuân 2004, vụ Thu 2004, vụ Xuân 2005 đã chọn được giống

QP4 cho năng suất cao nhất tương đương Q2 và HQ2000 (Viện Nghiên cứu

Ngô, 2006) [50]; tại Sông Bôi vụ Xuân 2004, vụ Thu 2004, vụ Xuân 2005 đã

chọn được giống QP4 cho năng suất cao nhất tương đương Q2 và thấp hơn

HQ2000 (Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống ngô Sông Bôi, 2005) [48];

tại Mai Nham - Vĩnh Phúc, Cao Xá - Phú Thọ, Từ Liêm - Hà Nội, Cẩm Thủy

- Thanh Hóa vụ Xuân 2004, vụ Đông 2004 đã chọn được 2 giống QP2 và QP4

tương đương HQ2000 và cao hơn Q2 (Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống

cây trồng TƯ, 2005) [47]; tại Cát Hanh 1, An Nhơn và Nhơn Thọ 2 - Bình

Định và Sơn Tịnh - Quảng Ngãi vụ Hè Thu 2004, Đông Xuân 2004 và 2005,

87

Page 88: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Hè Thu 2005 đã chọn được 2 giống QP4 và QP5 có năng suất tương đương

hoặc cao hơn Q2 (Trạm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng miền Trung và

Tây Nguyên, 2005) [46]; tổng hợp kết quả so sánh và khảo nghiệm các giống

TPTD QPM tại tất cả các điểm từ vụ Xuân 2004 đến Xuân 2005 đã chọn

được giống QP4 có năng suất ổn định và cao tương đương đối chứng Q2

(QP4: 55,67 tạ/ha; Q2: 55,07 tạ/ha) (Viện Nghiên cứu Ngô, 2006) [51].

3.1.5. Hàm lượng protein, lysine và methionine của các giống ngô thí nghiệm

Chất lượng hạt là một chỉ tiêu quan trọng đối với nông sản phẩm nói

chung và ngô nói riêng. Để đánh giá chất lượng hạt ngô thì hàm lượng protein

là chỉ tiêu quan trọng trong nghiên cứu và có ý nghĩa lớn đối với nhu cầu

nâng cao chất lượng lương thực đáp ứng đầy đủ dinh dưỡng cho con người và

thức ăn trong chăn nuôi. Đánh giá hàm lượng các axit amin không thay thế

trong hạt ngô là để đánh giá chính xác chất lượng protein. Đề tài đã tiến hành

phân tích axit amin trên máy tự động phân tích axit amin Biochrom 20. Hạn

chế của máy phân tích này là cho kết quả 18 axit amin mà trong đó không có

triptophan. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành phân tích và báo cáo kết quả các

chỉ tiêu hàm lượng protein tổng số, lysine/protein và methionine/protein của

các giống ngô thí nghiệm ở ba vụ: Xuân 2004, Thu Đông 2004, Xuân 2005.

Kết quả phân tích được thể hiện ở bảng 3.9.

Số liệu phân tích trung bình 3 vụ (Xuân 2004, Thu Đông 2004 và Xuân

2005) ở bảng 3.9 cho thấy: Các giống QPM thí nghiệm có hàm lượng protein

tổng số biến động từ 10,01 - 11,06%, cao hơn hẳn so với giống đối chứng 1

(Q2: 8,65%). Trong đó, giống có hàm lượng protein tổng số cao nhất là QP4

(11,06%) tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 11,05%), các giống QPM còn

lại có hàm lượng protein tổng số thấp hơn đối chứng 2. Các giống ngô QPM

thí nghiệm có hàm lượng protein cao hơn giống ngô thụ phấn tự do thường

Q2 từ 15,7 - 27,9%, trong đó cao nhất là giống QP4 (27,9%), thấp nhất là

QP6 (15,7%).

88

Page 89: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 3.9. Hàm lượng protein, lysine và methionine của các giống ngô

thí nghiệm vụ Xuân (2004 và 2005) và Thu Đông 2004

Giống

Protein tổng số (%) Lysine/Protein (%) Methionine/Protein (%)

X.

04

TĐ.

04

X.

05TB

X.

04

TĐ.

04

X.

05TB

X.

04

TĐ.

04

X.

05TB

QP1 10,40 9,82 10,00 10,07 3,70 3,52 3,60 3,61 2,69 2,66 2,68 2,68

QP2 10,71 10,10 10,30 10,37 3,86 3,65 3,71 3,74 2,79 2,78 2,80 2,79

QP3 10,80 9,65 9,80 10,08 3,80 3,48 3,50 3,59 2,38 2,21 2,36 2,32

QP4 11,32 10,76 11,10 11,06 4,11 3,77 4,05 3,98 3,14 2,89 2,98 3,00

QP5 10,53 9,71 9,95 10,06 3,90 3,10 3,60 3,53 2,45 2,18 2,39 2,34

QP6 10,60 9,53 9,90 10,01 3,82 3,22 3,50 3,51 2,39 2,35 2,36 2,37

Q2 (đ/c1) 8,70 8,95 8,30 8,65 2,50 2,71 2,30 2,50 1,92 1,98 1,87 1,92

HQ2000

(đ/c2)11,18 10,88 11,08 11,05 4,15 3,84 3,95 3,98 3,06 2,96 3,01 3,01

CV,% 1,54 1,75 1,63 1,85 1,58 1,80 1,69 1,87 1,65 1,88 1,76 1,83

LSD05 0,44 0,54 0,59 0,64 0,18 0,11 0,16 0,17 0,19 0,10 0,14 0,16

Các giống QPM thí nghiệm có hàm lượng lysine biến động từ 3,51 - 3,98%,

cao hơn hẳn so với đối chứng 1 (Q2: 2,50%). Trong đó, giống có hàm lượng

lysine cao nhất là QP4 (3,98%) tương đương với đối chứng 2 (HQ2000:

3,98%), các giống còn lại có hàm lượng lysine thấp hơn đối chứng 2. Các

giống ngô QPM thí nghiệm có hàm lượng lysine cao hơn giống ngô thụ phấn

tự do thường Q2 từ 40,4 - 59,2%, trong đó cao nhất là giống QP4 (59,2%),

thấp nhất là QP6 (40,4%).

Hàm lượng methionine biến động từ 2,32 - 3,00%, cao hơn hẳn so với

đối chứng 1 - Q2 (1,92%), trong đó giống QP4 có hàm lượng methionine đạt

cao nhất (3,00%) tương đương với đối chứng 2 - HQ2000 (3,01%). Các giống

ngô QPM thí nghiệm có hàm lượng methionine cao hơn giống ngô thụ phấn

89

Page 90: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

tự do thường Q2 từ 20,8 - 56,3%, trong đó cao nhất là giống QP4 (56,3%),

thấp nhất là QP6 (20,8%). Tóm lại, các giống ngô TPTD QPM thí nghiệm đều có hàm lượng

protein, lysine và methionine cao hơn giống ngô thụ phấn tự do thường Q2,

tương đương với giống ngô lai QPM - HQ2000. Đặc biệt, giống QP4 có năng

suất tương đương nhưng có hàm lượng protein, lysine và methionine cao hơn

hẳn so với giống đối chứng Q2.

0.001.002.003.004.005.006.007.008.009.00

10.0011.0012.00

Protein Lysine Methionine

Hàm

lượ

ng %

QP1

QP2

QP3

QP4

QP5

QP6

Q2

HQ2000

Biểu đồ 3.2. Hàm lượng protein, lysine và methionine của các

giống ngô thí nghiệm tại Thái Nguyên (trung bình 3 vụ)

Tóm lại, qua 4 vụ khảo nghiệm vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và

2005) ở Thái Nguyên cho thấy giống ngô TPTD QPM – QP4 là giống có

nhiều triển vọng: Có thời gian sinh trưởng thuộc nhóm chín trung bình sớm,

90

Page 91: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

thấp cây, có độ đồng đều khá tốt về nhiều đặc điểm, tỷ lệ hạt/bắp 76 – 78%,

dạng hạt 1/2 răng ngựa vàng, chống đổ tốt, chịu hạn tốt, chống sâu bệnh khá.

Về năng suất thì đều khá cao và ổn định qua các vụ thí nghiệm, trong điều

kiện thí nghiệm ở Thái Nguyên không thấp hơn giống lai QPM HQ2000 và

giống thụ phấn tự do Q2 (đạt 53,7 tạ/ha trong vụ Xuân và 63,3 tạ/ha trong vụ

Thu Đông). Đặc biệt, về hàm lượng và chất lượng protein thì tương đương

giống HQ2000 và cao hơn hẳn giống Q2: Hàm lượng protein đạt 11,06%

tương đương HQ2000 (11,05%) và cao hơn hẳn Q2 (8,65%); lysine/protein

đạt 3,98% cao hơn so với Q2 và tương đương HQ2000 (2,50 và 3,98%);

methionine/protein đạt 3,00% cao hơn so với Q2 và tương đương HQ2000

(1,92 và 3,01%). Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi trùng với kết quả

khảo nghiệm ở nhiều vùng sinh thái khác cũng đã xác định được QP4 là

giống triển vọng. Từ kết quả khảo nghiệm, chúng tôi tiến hành các thí nghiệm

phân bón cho giống ngô QPM TPTD QP4 so sánh với giống ngô lai thường

LVN10 vụ Xuân (2005 và 2006), vụ Thu Đông 2005 tại Thái Nguyên.

3.2. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của liều lượng đạm đến sinh trưởng,

phát triển, năng suất và chất lượng của giống ngô chất lượng protein

cao tại Thái Nguyên

Vai trò của đạm trong việc nâng cao năng suất ngô đã được các nhà khoa

nghiên cứu và khẳng định. Tuy nhiên, việc nghiên cứu vai trò của đạm đến

chất lượng ngô chưa được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt, việc nghiên cứu ảnh

hưởng của đạm đến năng suất và chất lượng của giống ngô chất lượng protein

cao so sánh với giống ngô thường thì chưa được nghiên cứu trên thế giới và ở

Việt Nam.

Để nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm một số liều

lượng đạm trên giống ngô QPM – QP4 và giống ngô thường LVN10 vụ Xuân

2005, vụ Thu Đông 2005 và vụ Xuân 2006 tại Thái Nguyên nhằm xác định

91

Page 92: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

được ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất và chất lượng của giống

ngô chất lượng protein cao so sánh với giống ngô thường. Kết quả thu được

như sau:

3.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến thời gian sinh trưởng qua các

thời kỳ phát dục của giống QP4 và LVN10

Thời gian sinh trưởng của ngô dài hay ngắn phụ thuộc vào các yếu tố

như giống, mùa vụ, thời tiết khí hậu, điều kiện sinh thái, kỹ thuật canh tác

trong đó có phân bón, đặc biệt là đạm. Qua theo dõi các thời kỳ sinh trưởng

phát triển của giống ngô QP4 và LVN10 qua các công thức bón phân đạm ở

vụ Xuân 2005, vụ Thu Đông 2005, vụ Xuân 2006, chúng tôi thu được kết quả

ở bảng 3.10.

3.2.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến giai đoạn từ gieo đến tung phấn

Số liệu bảng 3.10 cho thấy: Trung bình ba vụ cho thấy ảnh hưởng của

liều lượng đạm đến thời gian từ gieo - tung phấn biến động từ 63 (180N) – 66

ngày (0N) ở giống QP4 và từ 66 (180N)– 69 ngày (0N) ở giống LVN10.

Trong đó, ở liều lượng 180N qua các giống có thời gian từ gieo - tung phấn

ngắn nhất, liều lượng 0N dài nhất và liều lượng 240N có xu thế muộn hơn

liều lượng 180N. Như vậy, bón N cao và cân đối với PK làm rút ngắn thời

gian từ gieo đến tung phấn.

Ở vụ Thu Đông, chúng tôi thấy thời gian từ gieo đến tung phấn của các

giống ngô qua các liều lượng đạm ngắn hơn so với vụ Xuân. Giống ngô QP4

qua các liều lượng đạm có thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn hơn giống

LVN10.

Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Uhart và Andrade (1995) [91],

[92] thiếu đạm làm chậm sinh trưởng của hai giai đoạn sinh trưởng sinh

dưỡng và sinh trưởng sinh thực.

92

Page 93: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 3.10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến thời gian sinh trưởng

qua các thời kỳ phát dục của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

đạmGiống

Thời gian từ gieo đến … (ngày)

Tung phấn Phun râu Chín sinh lý

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

0NQP4 70 60 68 66 74 63 71 69 116 107 110 111

LVN10 75 62 71 69 78 66 75 73 120 112 117 116

60NQP4 69 58 67 65 72 60 69 67 117 109 112 113

LVN10 74 60 69 68 77 63 72 71 122 114 120 119

120NQP4 68 56 66 63 70 57 68 65 118 111 112 114

LVN10 73 58 69 67 75 60 71 69 124 116 121 120

180NQP4 68 56 66 63 70 57 67 65 119 112 115 115

LVN10 73 58 68 66 75 59 69 68 125 118 122 122

240NQP4 69 57 67 64 71 59 69 66 121 115 117 118

LVN10 74 59 70 68 76 61 72 70 127 121 124 124

3.2.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến giai đoạn từ khi gieo đến

phun râu

Trung bình ba vụ cho thấy ảnh hưởng của liều lượng đạm đến thời gian

từ gieo – phun râu biến động từ 65 (120 - 180N) – 69 ngày (0N) ở giống QP4

và từ 68 (180N) – 73 ngày (0N) ở giống LVN10. Trong đó, liều lượng 180N

qua các giống có thời gian từ gieo – phun râu ngắn nhất, liều lượng 0N dài

nhất và liều lượng 240N có xu thế muộn hơn liều lượng 180N từ 1 – 2 ngày.

Như vậy, bón N cao và cân đối với PK làm rút ngắn thời gian từ gieo đến

phun râu.

93

Page 94: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến khoảng cách tung

phấn - phun râu (ASI) biến động từ 2 (120 – 240N) – 4 ngày (0N). Như vậy,

không bón đạm và bón ít làm kéo dài khoảng cách tung phấn – phun râu, ảnh

hưởng xấu đến quá trình thụ phấn thụ tinh và giảm năng suất sau này.

Giống ngô QP4 qua các liều lượng đạm có thời gian từ gieo đến phun

râu ngắn hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến giống ngô

QPM TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường LVN10 ở liều lượng 0 –

60N.

3.2.1.3. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến thời gian sinh trưởng

Số liệu bảng 3.10 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các

giống đến thời gian sinh trưởng biến động từ 111 (0N) – 118 ngày (240N) ở

giống QP4 và từ 116 (0N) – 124 (240N) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh

hưởng của đạm qua các giống đến thời gian sinh trưởng thể hiện rất rõ rệt,

tăng dần theo các công thức bón đạm tăng, lượng đạm cao (240N) làm thời

gian sinh trưởng kéo dài hơn 7 ngày (giống QP4) và 8 ngày (giống LVN10)

so với không bón đạm (0N).

Giống ngô QP4 qua các liều lượng đạm có thời gian sinh trưởng ngắn

hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến giống ngô QPM

TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường LVN10 ở mức 180N và cân đối

với PK làm rút ngắn thời gian từ gieo đến tung phấn. Vụ Thu Đông có thời

gian sinh trưởng của các giống ngô qua các mức đạm ngắn hơn so với vụ

Xuân.

3.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các đặc điểm hình thái của giống

ngô QP4 và LVN10

3.2.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến chiều cao cây và chiều cao đóng

bắp

94

Page 95: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Qua số liệu ở bảng 3.11 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều

lượng đạm qua các giống đến chiều cao cây biến động từ 171,3 (0N) – 205,3

cm (240N) ở giống QP4 và từ 191,9 (0N) – 235,6 cm (240N) ở giống LVN10;

đến chiều cao đóng bắp biến động từ 92,6 (0N) – 111,0 cm (240N) ở QP4 và

từ 106,7 (0N) – 131,2 cm (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của đạm

đến chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của giống QP4 và LVN10 rất rõ,

bón tăng đạm làm tăng chiều cao cây và chiều cao đóng bắp theo tỷ lệ thuận.

Ở liều lượng 240N có chiều cao đóng bắp tăng thêm 19,9% (QP4), 22,8%

(LVN10) so với không bón đạm (0N). Giống QP4 có chiều cao cây và chiều

cao đóng bắp thấp hơn giống LVN10, đồng thời ảnh hưởng của đạm đến

chiều cao cây ít hơn so với giống LVN10, đây là một đặc điểm có lợi giúp

cho cây ngô có khả năng chống đổ gãy tốt hơn.

Bảng 3.11. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến chiều cao cây và

chiều cao đóng bắp của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

đạmGiống

Chiều cao cây (cm) Chiều cao đóng bắp (cm)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0NQP4 172,7 175,4 165,7 171,3 93,3 95,7 88,7 92,6

LVN10 196,0 194,3 185,5 191,9 110,0 105,5 104,6 106,7

60NQP4 180,6 183,0 173,0 178,9 97,5 98,9 92,9 96,4

LVN10 215,0 210,9 204,6 210,2 118,3 115,5 111,7 115,2

120NQP4 186,6 190,2 184,5 187,1 101,3 101,3 98,3 100,3

LVN10 220,7 215,7 212,1 216,2 122,0 118,8 115,2 118,7

180NQP4 195,2 195,5 189,7 193,5 105,0 105,6 98,6 103,1

LVN10 225,3 221,9 218,3 221,8 124,0 123,1 119,5 122,2

240NQP4 204,3 210,2 201,5 205,3 111,7 113,7 107,6 111,0

LVN10 235,9 240,4 230,5 235,6 134,3 131,5 127,8 131,2

95

Page 96: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Tóm lại, bón đạm đến liều lượng 240N làm tăng sự phát triển thân lá,

sẽ làm tăng khả năng quang hợp và tăng năng suất ngô.

3.2.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến số lá trên cây và chỉ số diện tích lá

Khi thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào

ở đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước của

cây và năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu quả

ngay từ đầu vụ và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá trình

đồng hóa quang hợp đạt cực đại (Patrick, 2001) [79], Wolfe và CS (1988)

[100]. Năng suất ngô cao chỉ có thể đạt được khi thời gian diện tích lá xanh

kéo dài và tỷ lệ đồng hoá đạm cao sau thời kỳ ra hoa (Mitsuru, 1994) [77].

Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến số lá/cây trung bình ba

vụ biến động từ 18,8 (0N) – 20,2 lá (240N) ở giống QP4 và từ 18,8 (0N) –

20,3 lá (240N) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của đạm đến số lá/cây

của giống QP4 và LVN10 không lớn. Hai giống QP4 và LVN10 có số lá/cây

tương đương nhau (bảng 3.12).

Bảng 3.12. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến số lá trên cây và

chỉ số diện tích lá của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

đạmGiống

Số lá/cây (lá) CSDTL (m2lá/m2đất)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0NQP4 19,1 18,8 18,5 18,8 2,3 2,5 2,5 2,4

LVN10 19,0 18,9 18,5 18,8 2,3 2,6 2,7 2,5

60NQP4 19,6 19,3 19,2 19,4 2,9 2,9 2,9 2,9

LVN10 19,8 19,5 19,3 19,5 3,0 3,1 3,1 3,1

120NQP4 20,0 19,7 19,4 19,7 3,1 3,3 3,1 3,2

LVN10 20,1 20,0 19,6 19,9 3,2 3,4 3,4 3,3

180N QP4 20,2 20,3 19,7 20,1 3,4 3,6 3,5 3,5

96

Page 97: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

LVN10 20,3 20,4 19,9 20,2 3,6 3,9 3,8 3,8

240NQP4 20,4 20,5 19,8 20,2 3,6 3,8 3,6 3,7

LVN10 20,4 20,6 20,0 20,3 3,9 4,2 4,0 4,0

Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến chỉ số diện tích lá

trung bình ba vụ biến động từ 2,4 (0N) – 3,7 m2lá/m2đất (240N) ở giống QP4

và từ 2,5 (0N) – 4,0 m2lá/m2đất (240N) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng

của liều lượng đạm đến chỉ số diện tích lá của giống QP4 và LVN10 rất rõ rệt,

tăng dần tỷ lệ thuận theo liều lượng đạm tăng. Ở liều lượng 240N có CSDTL

tăng thêm 54,2% (QP4), 60% (LVN10) so với không bón đạm (0N).

Như vậy, đạm ảnh hưởng không lớn đến số lá/cây nhưng làm tăng mạnh

chỉ số diện tích lá góp phần tăng năng suất ngô sau này. Kết quả này của

chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Patrick (2001) [79], Wolfe và CS

(1988) [100], (Mitsuru, 1994) [77] và theo Uhart và Andrade, 1995 [91], [92]

thiếu đạm làm giảm tốc độ ra lá, hạn chế mạnh đến sự phát triển diện tích lá.

3.2.3. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến khả năng chống chịu của giống

ngô QP4 và LVN10

3.2.3.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến khả năng chống đổ

Số liệu bảng 3.13 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các

giống đến tỷ lệ đổ rễ trung bình ba vụ biến động từ 5,8 (0N) – 14,4% (240N)

ở giống QP4 và từ 7,2 (0N) – 13,5% (240N) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng

của liều lượng đạm qua các giống đến tỷ lệ đổ rễ rất rõ rệt, bón đạm cao

(240N) đã làm tỷ lệ đổ rễ cao hơn mức 0N – 180N, đây là do mức đạm cao

làm phát triển mạnh chiều cao cây nên khi gặp gió to, cây dễ bị đổ nghiêng.

Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến tỷ lệ gãy thân trung

bình ba vụ biến động từ 1,8 (180N) – 4,0% (60N) ở giống QP4 và từ 2,6

(180N) – 5,1% (60N) ở giống LVN10. Liều lượng 180N có tỷ lệ gãy thân

97

Page 98: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

thấp nhất, liều lượng 60N có tỷ lệ gãy thân cao nhất. Nguyên nhân có kết quả

như vậy là do ở liều lượng 60N bị sâu đục thân hại mạnh hơn ở liều lượng

180N nên liều lượng 60N có tỷ lệ gãy thân cao nhất. Giống QP4 qua các liều

lượng đạm có tỷ lệ gãy thân thấp hơn LVN10.

Bảng 3.13. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến đến tỷ lệ đổ rễ,

gẫy thân của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

đạmGiống

Đổ rễ (%) Gãy thân (%)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0NQP4 4,7 6,2 6,6 5,8 4,0 3,6 3,8 3,8

LVN10 5,7 8,5 7,5 7,2 5,5 4,1 4,2 4,6

60NQP4 5,7 9,5 8,2 7,8 3,7 3,2 5,1 4,0

LVN10 4,6 9,8 9,6 8,0 5,1 3,8 6,5 5,1

120NQP4 4,5 8,5 10,4 7,8 3,3 1,2 3,7 2,7

LVN10 5,6 9,0 10,5 8,4 5,3 2,0 6,1 4,5

180NQP4 6,0 10,2 12,2 9,5 3,1 0,5 1,7 1,8

LVN10 6,5 11,5 13,6 10,5 4,0 1,4 2,4 2,6

240NQP4 9,9 14,5 18,7 14,4 4,1 4,3 2,5 3,6

LVN10 9,8 13,4 17,3 13,5 4,5 4,4 3,7 4,2

3.2.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến khả năng chống chịu sâu bệnh

Nhìn bảng 3.14 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều lượng

đạm qua các giống đến mức độ nhiễm sâu đục thân biến động từ điểm 3 – 4,

trong đó liều lượng 180N bị sâu hại nhẹ nhất ở cả 2 giống (điểm 3), mức 0 – 60N

bị sâu đục thân hại nặng nhất (điểm 4). Giống ngô QP4 qua các liều lượng đạm bị

nhiễm sâu đục thân nhẹ hơn giống LVN10. Như vậy, bón đạm ảnh hưởng đến

98

Page 99: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

khả năng chống sâu đục thân, không bón và bón đạm ít làm cây sinh trưởng

phát triển yếu dễ bị sâu phá hại hơn bón đạm cao và cân đối với lân - kali.

Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến mức độ nhiễm bệnh

khô vằn biến động từ điểm 2 – 4. Liều lượng 240N bị nhiễm bệnh khô vằn

nặng hơn liều lượng 0 – 180N. Giống ngô QP4 qua các liều lượng đạm bị

nhiễm bệnh khô vằn nhẹ hơn giống LVN10. Như vậy, bón đạm ở liều lượng

cao – 240N không cân đối với PK thì dễ bị nhiễm bệnh khô vằn hơn. Liều

lượng 120N – 180N có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt ở cả hai giống ngô

QP4 và LVN10.

Bảng 3.14. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến tỷ lệ nhiễm sâu bệnh

của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

đạmGiống

Sâu đục thân

(điểm 1 - 5)

Bệnh khô vằn

(điểm 1 - 5)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0NQP4 4 3 4 4 2 2 3 2

LVN10 4 3 4 4 3 2 4 3

60NQP4 3 3 5 4 2 2 2 2

LVN10 4 3 5 4 3 3 3 3

120NQP4 3 2 4 3 2 2 3 2

LVN10 4 2 5 4 3 3 3 3

180NQP4 3 2 3 3 2 2 2 2

LVN10 4 2 3 3 3 2 3 3

240NQP4 3 3 3 3 3 3 3 3

LVN10 4 3 4 4 4 3 4 4

99

Page 100: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Tóm lại, bón đạm có ảnh hưởng đến khả năng chống chịu của hai giống

ngô QPM - QP4 và ngô thường LVN10, bón mức đạm 120N – 180N ngô có

khả năng chống chịu tốt hơn mức 0N – 60N và 240N. Giống QPM TPTD

QP4 có khả năng chống đổ gãy tốt hơn giống ngô lai thường LVN10.

3.2.4. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các yếu tố cấu thành năng suất

và năng suất của giống QP4 và LVN10

Nhìn vào bảng 3.15a chúng tôi thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của

liều lượng đạm qua các giống đến chiều dài bắp biến động từ 12,1 (0N) – 16,6

cm (240N) ở QP4 và từ 12,3 (0N) – 18,6 cm (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh

hưởng của đạm đến chiều dài bắp của giống QP4 và LVN10 rất rõ rệt, tăng

theo các liều lượng đạm tăng (tỷ lệ thuận), ở liều lượng 240N tăng thêm

37,2% (QP4) và 51,2% (LVN10) so với không bón đạm (0N). Giống QP4 qua

các liều lượng đạm có chiều dài bắp ngắn hơn LVN10. Ảnh hưởng của liều

lượng đạm đến chiều dài bắp của giống QPM TPTD QP4 thấp hơn giống ngô

lai thường LVN10.

Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến

đường kính bắp biến động từ 3,5 (0N) – 5,0 cm (240N) ở QP4 và từ 3,5 (0N)

– 5,4 cm (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của đạm đến đường kính bắp

của giống QP4 và LVN10 rất rõ, tăng tỷ lệ thuận theo các liều lượng đạm

tăng, với liều lượng 240N tăng thêm 42,9% (QP4) và 54,3% (LVN10) so với

không bón đạm (0N). Giống QP4 qua các liều lượng đạm có đường kính bắp

thấp hơn LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến đường kính bắp của

giống QPM TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường LVN10.

Như vậy, bón đạm tăng làm tăng chiều dài và đường kính bắp, là cơ sở

để tăng số lượng hạt trên bắp, nâng cao năng suất ngô.

100

Page 101: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Số liệu ở bảng 3.15a cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều

lượng đạm qua các giống đến số hàng hạt/bắp không lớn, biến động từ 12,8 (0N)

– 14,4 hàng (240N) ở giống QP4, từ 12,4 (0N) – 13,9 hàng (240N) ở giống

LVN10. Giống QP4 qua các liều lượng đạm có số hàng hạt/bắp cao hơn giống

LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến số hàng hạt/bắp của giống ngô

QPM TPTD QP4 tương đương với ngô lai thường LVN10.

Bảng 3.15a. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các yếu tố cấu thành

năng suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

đạmGiống

Chiều dài bắp

(cm)

Đường kính bắp

(cm)

Hàng hạt/bắp

(hàng)

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

0NQP4 11,9 11,8 12,5 12,1 3,7 3,5 3,4 3,5 12,5 13,0 12,9 12,8

LVN10 12,2 11,8 13,0 12,3 3,7 3,4 3,4 3,5 12,2 12,6 12,5 12,4

60NQP4 14,1 14,1 13,8 14,0 4,2 4,1 4,1 4,1 13,4 13,7 13,5 13,5

LVN10 14,7 15,9 15,1 15,2 4,3 4,1 4,1 4,2 13,1 13,2 13,2 13,2

120NQP4 15,3 14,8 14,3 14,8 4,4 4,5 4,5 4,5 14,0 14,1 13,9 14,0

LVN10 16,8 16,5 16,4 16,6 4,6 4,7 4,8 4,7 13,5 13,6 13,6 13,6

180NQP4 16,2 15,7 16,1 16,0 4,6 5,0 4,8 4,8 14,2 14,5 14,2 14,3

LVN10 17,9 17,4 17,6 17,6 5,0 5,3 5,1 5,1 13,7 13,9 13,9 13,8

240NQP4 16,5 16,8 16,4 16,6 4,9 5,1 5,1 5,0 14,2 14,6 14,3 14,4

LVN10 18,4 18,9 18,5 18,6 5,3 5,5 5,4 5,4 13,8 14,0 13,9 13,9

CV,% (đạm) 6,2 7,0 6,5 5,2 6,1 5,8 2,1 2,4 2,0

CV,% (giống) 5,1 5,3 5,9 4,3 4,5 4,0 2,7 2,6 2,4

LSD05 (đạm) 0,5 0,9 0,6 0,2 0,1 0,2 0,5 0,4 0,4

LSD05 (giống) 1.1 1.2 1.3 0,2 0,1 0,1 0,2 0,3 0,1

101

Page 102: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Nhìn vào bảng 3.15b cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các

giống đến số hạt/hàng trung bình ba vụ biến động từ 23,0 (0N) – 34,1 hạt

(240N) ở QP4 và từ 23,5 (0N) – 38,2 hạt (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh

hưởng của liều lượng đạm đến số hạt/hàng của giống QP4 và LVN10 rất rõ

rệt, tăng tỷ lệ thuận theo các liều lượng đạm tăng, ở liều lượng 240N tăng

thêm 48,3% (QP4) và 62,6% (LVN10) so với không bón đạm (0N). Giống

QPM QP4 qua các liều lượng đạm có số hạt/hàng thấp hơn ngô thường

LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến số hạt/hàng của giống QPM

TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường LVN10.

Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của (Barbieri và CS,

2000) [58], mức đạm thấp làm giảm số hạt và năng suất hạt; của Uhart và

Andrade (1995) [91], [92] việc cung cấp và tích luỹ N ở thời kỳ ra hoa có tính

quyết định số lượng hạt ngô, thiếu N trong thời kỳ này làm giảm khả năng

đồng hoá C của cây, nhất là giai đoạn ra hoa sẽ giảm năng suất hạt.

Bảng 3.15b. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các yếu tố cấu thành

năng suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

đạmGiống

Hạt/hàng (hạt) P1000hạt (g) NSTT (tạ/ha)

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

0NQP4 23,8 23,8 21,3 23,0 256,0 275,2 261,9 264,4 21,0 27,3 25,0 24,4

LVN10 24,8 23,9 21,9 23,5 278,2 280,6 269,0 275,9 22,7 26,6 26,5 25,3

60NQP4 29,1 29,6 27,6 28,8 274,3 295,5 280,3 283,4 37,8 39,3 40,4 39,2

LVN10 31,6 31,4 28,9 30,6 301,5 306,7 295,3 301,2 40,2 42,2 42,6 41,7

120NQP4 31,7 33,9 29,8 31,8 295,7 310,0 291,9 299,2 47,1 51,2 48,5 48,9

LVN10 33,3 34,3 32,0 33,2 311,6 319,6 310,7 314,0 50,8 55,3 52,6 52,9

180NQP4 32,4 35,8 31,6 33,3 307,7 319,4 305,0 310,7 55,0 58,7 55,6 56,4

LVN10 35,1 37,7 34,0 35,6 324,8 330,1 317,8 324,2 58,9 63,5 59,9 60,8

102

Page 103: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

240NQP4 32,9 36,2 33,3 34,1 318,0 325,0 317,4 320,1 56,3 60,9 57,4 58,2

LVN10 37,4 40,4 36,8 38,2 332,7 340,5 329,2 334,1 62,4 67,6 64,6 64,9

CV,% (đạm) 7,3 7,8 8,0 8,2 9,9 9,1 12,6 15,9 13,3

CV,% (giống) 5,2 4,9 4,6 5,5 6,5 5,9 7,4 8,9 7,9

LSD05 (đạm) 1,4 1,5 2,0 8,5 8,0 10,7 5,5 7,8 6,5

LSD05 (giống) 2,2 1,6 1,9 17,4 10,1 12,5 2,7 3,2 3,4

Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến khối lượng 1000 hạt

trung bình ba vụ biến động từ 264,4 (0N) – 320,1g (240N) ở QP4 và từ 275,9

(0N) – 334,1g (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của liều lượng đạm đến

khối lượng 1000 hạt của giống QP4 và LVN10 rất rõ rệt, tăng tỷ lệ thuận theo

các liều lượng đạm tăng, ở liều lượng 240N tăng thêm 21,1% ở cả 2 giống

QP4 và LVN10 so với không bón đạm (0N). Giống QP4 qua các liều lượng

đạm có khối lượng 1000 hạt thấp hơn LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm

đến khối lượng 1000 hạt của giống QPM TPTD QP4 giống ngô lai thường

LVN10 tương đương nhau.

Tóm lại, đạm làm tăng khối lượng 1000 hạt và tăng năng suất hạt sau

này. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Muchow, 1988

(1994), dự trữ đạm ở cây ngô có ảnh hưởng rất lớn đối với sự sinh trưởng và

phát triển lá, sự tích luỹ sinh khối và sự tăng trưởng của hạt (dẫn theo Thomas

và CS, 1995) [88].

Kết quả ở bảng 3.15b cho thấy: Sự biến động về năng suất thực thu cũng

thể hiện rõ với các liều lượng đạm tăng từ 0 đến 240N. Vụ Xuân 2005, năng

suất thực thu của QP4 biến động từ 21,0 tạ/ha đến 56,3 tạ/ha, còn LVN10

tăng từ 22,7 tạ/ha đến 62,4 tạ/ha; vụ Thu Đông 2005, năng suất QP4 biến

động từ 27,3 tạ/ha đến 60,9 tạ/ha và LVN10 từ 26,6 tạ/ha đến 67,6 tạ/ha; vụ

Xuân 2006, năng suất thực thu tăng từ 25,0 tạ/ha đến 57,4 tạ/ha ở QP4 và còn

LVN10 tăng từ 26,5 tạ/ha đến 64,6 tạ/ha. Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua

103

Page 104: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

các giống đến năng suất thực thu trung bình ba vụ biến động từ 24,4 (0N) –

58,2 tạ/ha (240N) ở giống QP4 và từ 25,3 (0N) – 64,9 tạ/ha (240N) ở giống

LVN10. Như vậy, bón đạm đã làm tăng năng suất thực thu rất rõ. Năng suất ở

liều lượng 240N tăng thêm 138,5% (QP4) và 156,5% (LVN10) so với không

bón đạm (0N).

Qua xử lý thống kê ở ba vụ cho thấy: Tất cả các công thức có bón đạm

qua các giống (60N – 240N) đều có năng suất thực thu cao hơn công thức

không bón đạm (0N) một cách có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%. Năng suất thực

thu qua các công thức bón đạm đạt được như sau: Liều lượng 0N đạt năng

suất thấp nhất, tiếp đến là liều lượng 60N, 120N, ở các liều lượng 180N –

240N thì năng suất thực thu tương đương nhau ở mức tin cậy 95%. Giống

QP4 đạt năng suất thực thu trung bình qua các công thức bón đạm thấp hơn

giống LVN10 một cách có ý nghĩa. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng

suất thực thu của giống QP4 và của giống LVN10 tương đương nhau, tăng

dần theo mức đạm tăng nhưng ở mức 240N thì tăng không có ý nghĩa ở mức

độ tin cậy 95%. Trong cùng một liều lượng đạm, năng suất thực thu của giống

QP4 thấp hơn giống LVN10 ở liều lượng 120N – 240N, còn ở liều lượng 0N

– 60N thì tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%.

104

Page 105: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

0

10

20

30

40

50

60

70

N1 N2 N3 N4 N5

Công thức bón đạm

Năn

g su

ất (

tạ/h

a)

QP4

LVN10

Biểu đồ 3.3. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất của giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu của

Sinclair và Muchow (1995) [83], năng suất ngô tăng lên có liên quan chặt chẽ

với mức cung cấp N cho ngô; Patrick (2001) [79], Wolfe và CS, (1998) [100],

đạm là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất để xác định năng suất ngô. Khi

thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào ở đỉnh

sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước của cây và

năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu quả ngay từ

đầu vụ và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá trình đồng hóa

quang hợp đạt cực đại; Barbieri và CS (2000) [58], mức đạm thấp làm giảm

số hạt và năng suất hạt; Debreczeni (2000) [64], các giống ngô lai khác nhau

có thể sử dụng phân đạm ở mức độ khác nhau, năng suất cây trồng cao cần

phải cung cấp một lượng lớn phân bón, đặc biệt là đạm; Uhart và Andrade

105

Page 106: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

(1995) [91], [92] thiếu đạm làm chậm sinh trưởng của hai giai đoạn sinh

trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực, giảm tốc độ ra lá, hạn chế mạnh

đến sự phát triển diện tích lá. Thiếu đạm hạn chế đến hiệu quả sử dụng bức

xạ, nhất là thời kỳ ra hoa, ảnh hưởng đến năng suất bắp tổng số. Cũng theo

hai tác giả trên việc cung cấp và tích luỹ N ở thời kỳ ra hoa có tính quyết định

số lượng hạt ngô, thiếu N trong thời kỳ này làm giảm khả năng đồng hoá C

của cây, nhất là giai đoạn ra hoa sẽ giảm năng suất hạt.

3.2.5. Tương quan giữa liều lượng đạm và năng suất của giống ngô QP4

và LVN10

Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng đạm bón với năng

suất của giống ngô TPTD QP4 và giống ngô thường LVN10 (trung bình ba

vụ), từ đó có thể dự đoán được năng suất ngô, chúng tôi tiến hành phân tích

tương quan, kết quả thể hiện ở bảng 3.16.

Bảng 3.16. Mô hình tương quan tuyến tính dự đoán năng suất giống ngô QP4 và LVN10 dựa trên liều lượng đạm

Giống Hàm tương quan tuyến tính Hệ số tương quan R2

QP4 Năng suất = 2846 + 14,133N** 0,926

LVN10 Năng suất = 2946 + 16,383N** 0,945

(N: Liều lượng đạm; **: Tương quan có ý nghĩa ở mức 99%)

Số liệu bảng 3.16 cho thấy năng suất hai giống ngô QP4 và LVN10

tương quan thuận và rất chặt với liều lượng đạm bón. Với liều lượng đạm bón

cụ thể và dựa vào hàm tương quan tuyến tính ước lượng trên có thể dự đoán

được năng suất của giống ngô QP4 và LVN10.

106

Page 107: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

NS (QP4) y = -0.0006x2 + 0.2756x + 24.431

R2 = 0.9992

0

10

20

30

40

50

60

70

0 60 120 180 240 300

Đạm (kg N/ha)

Tạ/

ha

NS (LVN10) y = -0.0006x2 + 0.2967x + 25.474

R2 = 0.9997

0

10

20

30

40

50

60

70

0 60 120 180 240 300

Đạm (kg N/ha)

Tạ/

ha

Biểu đồ 3.4. Đồ thị năng suất QP4

theo các liều lượng đạm

Biểu đồ 3.5. Đồ thị năng suất

LVN10 theo các liều lượng đạm+ Phương trình tương quan giữa liều lượng đạm và năng suất giống ngô

TPTD QP4 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:

y = -0,0006x2 + 0,2756x + 24,431

- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 230 kg N/ha.

- Lượng bón tối thích về kinh tế là 215 kg N/ha.

+ Phương trình tương quan giữa liều lượng đạm và năng suất giống ngô

lai thường LVN10 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:

y = -0,0006x2 + 0,2967x + 25,474

- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 248 kg N/ha.

- Lượng bón tối thích về kinh tế là 233 kg N/ha.

107

Page 108: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

3.2.6. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng và chất lượng protein

của giống ngô QP4 và LVN10

Qua số liệu bảng 3.17, cho thấy: Ảnh hưởng của các liều lượng đạm

đến hàm lượng protein tổng số của các giống ngô rất rõ, biến động từ 7,48%

(0N) - 11,33% (240N) ở giống QP4 và từ 7,66% (0N) – 8,92% (120N) ở

giống LVN10. Hàm lượng protein tăng tỷ lệ thuận theo các liều lượng đạm

tăng, liều lượng 240N tăng thêm so với liều lượng 0N là 51,5% ở QP4 và

16,3% ở LVN10. Như vậy, yếu tố đạm ảnh hưởng lớn đến hàm lượng protein

và có xu thế tăng theo lượng bón đạm tăng. Qua xử lý thống kê ở hai vụ cho

thấy: Các công thức có bón đạm qua các giống có hàm lượng protein cao hơn

có ý nghĩa so với công thức không bón đạm ở mức độ tin cậy 95%; công thức

1 (0N) đạt hàm lượng protein thấp nhất, công thức 5 (240N) đạt hàm lượng

protein cao nhất, công thức 3 (120N) và công thức 4 (180N) đạt hàm lượng

protein tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các liều

lượng đạm có hàm lượng protein cao hơn giống LVN10 ở mức độ tin cậy

95%. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng protein ở giống QPM

TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

Bảng 3.17. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng protein, lysine

và methionine của các giống ngô vụ Xuân và Thu Đông 2005

Lượng

đạmGiống

Protein tổng số

(%)

Lysine/Protein

(%)

Methionine/Protein

(%)

X.

05

TĐ.

05TB

X.

05

TĐ.

05TB

X.

05

TĐ.

05TB

0NQP4 7,70 7,25 7,48 1,95 1,86 1,91 1,64 1,75 1,70

LVN10 7,91 7,40 7,66 1,61 1,55 1,58 1,43 1,55 1,49

60N QP4 9,87 9,01 9,44 2,91 2,83 2,87 2,72 2,78 2,75

108

Page 109: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

LVN10 8,72 8,30 8,51 2,39 2,30 2,35 1,74 1,81 1,78

120NQP4 11,05 10,99 11,02 4,09 4,05 4,07 3,12 3,20 3,16

LVN10 9,09 8,75 8,92 2,66 2,48 2,57 1,98 2,05 2,02

180NQP4 11,03 10,87 10,95 4,13 4,03 4,08 3,18 3,24 3,21

LVN10 9,00 8,80 8,90 2,63 2,65 2,64 2,06 2,12 2,09

240NQP4 11,37 11,28 11,33 4,30 4,23 4,27 3,36 3,43 3,40

LVN10 8,93 8,89 8,91 2,60 2,72 2,66 2,22 2,40 2,26

CV,% (đạm) 2,51 2,74 2,10 2,35 2,02 2,33

CV,% (giống) 1,66 1,89 1,71 1,95 1,60 1,81

LSD05 (đạm) 0,12 0,22 0,08 0,15 0,19 0,25

LSD05 (giống) 0,72 0,65 0,54 0,47 0,32 0,39

Ảnh hưởng của các liều lượng đạm đến hàm lượng lysine của các giống

ngô rất rõ, biến động từ 1,91% (0N) - 4,27% (240N) ở giống QP4 và từ

1,58% (0N) – 2,66% (240N) ở giống LVN10. Hàm lượng lysine tăng dần theo

các liều lượng đạm tăng, liều lượng 240N tăng thêm so với 0N là 123,6% ở

QP4 và 68,4% ở LVN10.

Qua xử lý thống kê ở hai vụ cho thấy các công thức có bón đạm qua các

giống có hàm lượng lysine cao hơn có ý nghĩa so với công thức không bón

đạm ở mức độ tin cậy 95%; công thức 1 (0N) đạt hàm lượng lysine thấp nhất,

tiếp đến là công thức 2 (60N); công thức 3 (120N), công thức 4 (180N) và

công thức 5 (240N) đạt hàm lượng lysine tương đương nhau ở mức độ tin cậy

95%. Giống QP4 qua các liều lượng đạm có hàm lượng lysine cao hơn giống

LVN10 ở mức độ tin cậy 95%. Trong cùng một liều lượng đạm thì giống QP4

đạt hàm lượng lysine cao hơn giống LVN10 ở tất cả các công thức. Ảnh

hưởng của các liều lượng đạm đến hàm lượng lysine của giống QPM TPTD

QP4 cao hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

109

Page 110: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Ảnh hưởng của các liều lượng đạm đến hàm lượng methionine của các

giống ngô rất rõ, biến động từ 1,70% (0N) - 3,40% (240N) ở giống QP4 và từ

1,49% (0N) – 2,26% (240N) ở giống LVN10. Hàm lượng methionine tăng

dần theo các liều lượng đạm tăng và ở liều lượng 240N hàm lượng

methionine tăng hơn so với không bón đạm là 100,0% ở QP4 và 51,7% ở

LVN10. Qua xử lý thống kê cho thấy các công thức có bón đạm qua các

giống có hàm lượng methionine cao hơn chắc chắn so với công thức không

bón đạm ở mức độ tin cậy 95%; công thức 1 (0N) đạt hàm lượng methionine

thấp nhất; công thức 3, công thức 4 và công thức 5 đạt hàm lượng methionine

tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các liều lượng đạm

có hàm lượng methionine cao hơn giống LVN10 chắc chắn ở mức độ tin cậy

95%. Trong cùng một liều lượng đạm thì ở tất cả các công thức giống QP4

đạt hàm lượng methionine cao hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của các liều

lượng đạm đến hàm lượng methionine của giống QPM TPTD QP4 cao hơn so

với giống ngô lai thường LVN10.

Tóm lại, ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng và chất lượng

protein của giống ngô QPM TPTD QP4 và ngô lai thường LVN10 rất rõ. Bón

đạm tăng làm tăng hàm lượng protein, tuy nhiên bón lượng đạm quá cao

không làm tăng chất lượng protein thêm nhiều so với lượng đạm trung bình.

Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng và chất lượng protein của

giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn giống ngô lai thường LVN10.

0.00

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

8.00

9.00

10.00

11.00

12.00

QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10

Protein Lysine Methionine

Hàm

lượng

%

N1

N2

N3

N4

N5

110

Page 111: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Biểu đồ 3.6. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng protein,

lysine và methionine của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 2 vụ)

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết luận của Tomov

(1984) [90], bón N tăng làm tăng sản lượng protein, nhưng chủ yếu là tăng

zein. Với liều lượng phân bón trung bình thì không thay đổi đáng kể hàm

lượng zein và vẫn đảm bảo tăng chất lượng protein. Khi bón không cân đối

các loại phân, với liều lượng 300N làm giảm chất lượng (khối lượng axit amin

không thay thế) và một số chất khác trên đơn vị diện tích.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có điểm khác so với nhận xét của tác

giả Vivek và CS (2008) [98], một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngô QPM

được trồng trong đất nghèo đạm thì có hàm lượng protein thấp hơn. Tuy

nhiên, chất lượng protein (lysine và tryptophan) không bị ảnh hưởng. Nói

cách khác, QPM vẫn còn là QPM khi được trồng trong đất nghèo đạm. Kết

quả nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trên đất cát pha bạc màu rất

nghèo đạm tại Thái Nguyên đã cho thấy trên nền 10 tấn phân hữu cơ + 80 kg

P2O5 + 80 kg K2O/ha, các công thức có bón đạm đã làm tăng hàm lượng

111

Page 112: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

protein so với công thức không bón đạm và ở liều lượng 120 - 240N đạt hàm

lượng lysine và methionine cao hơn 0 - 60N. Kết quả cũng cho thấy giống

ngô QPM QP4 vẫn cho hàm lượng lysine và methionine cao ở liều lượng 0 -

60N so với giống ngô thường LVN10. Như vậy, ở liều lượng đạm thấp giống

ngô QPM QP4 vẫn cho chất lượng protein cao hơn giống ngô thường LVN10.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy trong vụ Xuân giống

ngô QPM TPTD QP4 và ngô lai thường LVN10 có hàm lượng protein và

lysine cao hơn so với vụ Thu Đông. Nguyên nhân là do vụ Xuân có nhiệt độ

trung bình 25,20C/tháng cao hơn vụ Thu Đông (23,10C/tháng). Kết quả này

phù hợp với kết luận của Zuber và CS, 1980 [102], yếu tố nhiệt độ là tác động

thuận, tăng tổng tích ôn hữu hiệu thì hàm lượng protein tăng.

3.2.7. Tương quan giữa liều lượng đạm và chất lượng của giống ngô QP4

và LVN10

Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng đạm bón với hàm

lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình ba vụ),

chúng tôi tiến hành phân tích tương quan, kết quả thể hiện ở bảng 3.18.

Bảng 3.18. Mô hình phân tích tương quan giữa liều lượng đạm với hàm

lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10

Chỉ tiêu

chất lượngGiống

Hàm tương quan tuyến

tính

Hệ số tương

quan R2

ProteinQP4 Pr = 8,202 + 0,015N* 0,818

LVN10 Pr = 8,002 + 0,005Nns 0,709

LysineQP4 Lys = 2,254 + 0,1N* 0,845

LVN10 Lys = 1,87 + 0,004Nns 0,731

Methionin

e

QP4 Met = 2,072 + 0,006N* 0,801

LVN10 Met = 1,558 + 0,003N** 0,954

112

Page 113: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

(ns: Tương quan không có ý nghĩa; *,**: Tương quan có ý nghĩa ở mức 95%, 99%)

Số liệu bảng 3.18 cho thấy hàm lượng protein và chất lượng protein

(lysine và methionine) của giống QPM TPTD QP4 tương quan thuận và chặt

với liều lượng đạm bón. Còn đối với giống ngô lai thường LVN10, hàm lượng

protein và lysine tương quan không ý nghĩa, nhưng hàm lượng methionine

tương quan chặt với liều lượng đạm. Như vậy, có thể dựa vào hàm tương quan

tuyến tính ước lượng để dự đoán chất lượng ptotein của giống ngô QPM TPTD

QP4.

3.2.8. Hiệu quả kinh tế của các liều lượng đạm với giống ngô QP4 và LVN10

Công thức N1 (0N) do năng suất của hai giống ngô QP4 và LVN10 đạt

rất thấp nên hiệu quả kinh tế đạt thấp nhất. Đối với giống ngô QPM - QP4, ở

công thức N4 – 180N đạt hiệu quả kinh tế cao nhất; công thức N5 – 240N năng

suất thực thu tăng so với công thức N4 nhưng do mức phân đạm đầu tư cao

nên hiệu quả kinh tế thấp hơn công thức N4. Đối với giống ngô thường

LVN10, ở công thức N5 – 240N đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.

Bảng 3.19. Hiệu quả kinh tế của liều lượng đạm đến giống ngô QP4

và LVN10 (trung bình 3 vụ)

Lượng đạm GiốngNăng suất

(kg/ha)Lãi thuần(1.000 đ)

0NQP4 2.440 3.547

LVN10 2.530 3.799

60NQP4 3.920 7.039

LVN10 4.170 7.739

120NQP4 4.890 9.103

LVN10 5.290 10.223

180NQP4 5.640 10.551

LVN10 6.080 11.783

113

Page 114: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

240NQP4 5.820 10.403

LVN10 6.490 12.279

Ghi chú: Giá: Ngô hạt: 2.800 đ/kg; Phân chuồng: 200 đ/kg; Đạm Urê: 5.000 đ/kg; Lân Supe: 1.500 đ/kg; Kaliclorua: 4.000đ/kg

Biểu đồ 3.7. Hiệu quả kinh tế của liều lượng đạm đếngiống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)

3.2.9. Hiệu quả nông học của N với giống ngô QP4 và LVN10

Hiệu quả nông học của N qua các giống ở cả ba vụ giảm dần từ 60N - 240N,

trong vụ Xuân 2005 biến động từ 28,0 (60N) - 14,7 kg ngô hạt/kg N (240N) ở

giống QP4 và từ 29,2 (60N) - 16,5 kg ngô hạt/kg N (240N) ở giống LVN10;

vụ Thu Đông 2005 biến động tương ứng từ 20,0 - 14,0 kg ngô hạt/kg N (QP4)

và từ 26,0 - 17,1 kg ngô hạt/kg N (LVN10); vụ Xuân 2006: 25,7 - 13,5 kg ngô

hạt/kg N (QP4) và từ 26,8 - 15,9 kg ngô hạt/kg N (LVN10); trung bình 3 vụ

biến động từ 24,7 – 14,1 kg ngô hạt/kg N (QP4) và từ 27,3 – 16,5 kg ngô

hạt/kg N (LVN10). Giống QPM TPTD QP4 có hiệu quả nông học của N thấp

hơn giống ngô lai thường LVN10. Hiệu quả nông học của N cả hai giống ở vụ

0123456789

10111213

N1 N2 N3 N4 N5

Công thức bón đạm

Lãi

thuần (

triệ

u đ

ồng)

QP4

LVN10

114

Page 115: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Xuân đạt cao hơn so với ở vụ Thu Đông. Hiệu quả nông học của N đạt cao

như vậy là do thí nghiệm được tiến hành trên đất cát pha bạc màu có hàm

lượng dinh dưỡng trong đất thấp, đặc biệt là hàm lượng N tổng số ở mức

trung bình.

Bảng 3.20. Hiệu quả nông học của N qua các liều lượng bón

đến giống ngô QP4 và LVN10 Đơn vị tính: Kg ngô/kg N

Lượng đạm Giống X.05 TĐ.05 X.06 TB

0NQP4 - - - -

LVN10 - - - -

60NQP4 28,0 20,0 25,7 24,7

LVN10 29,2 26,0 26,8 27,3

120NQP4 21,8 19,9 19,6 20,4

LVN10 23,4 23,9 21,8 23,0

180NQP4 18,9 17,4 17,0 17,8

LVN10 20,1 20,5 18,6 19,7

240NQP4 14,7 14,0 13,5 14,1

LVN10 16,5 17,1 15,9 16,53.2.10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất protein của giống

ngô QP4 và LVN10

Số liệu bảng 3.21 cho thấy ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng

suất protein của giống ngô QPM QP4 và ngô thường LVN10 rất rõ, biến động

từ 182,5 (0N) – 659,4 kg/ha (240N) ở giống QP4 và từ 193,8 (0N) – 578,3

kg/ha (240N) ở giống LVN10. Mức bón 240N đạt năng suất protein cao nhất

ở cả hai giống. Ở mức 0N – 60N giống ngô QPM TPTD QP4 có năng suất

protein tương đương giống ngô lai thường LVN10. Mức 120 – 240N tuy năng

suất ngô hạt của giống QPM TPTD QP4 thấp hơn ngô lai thường LVN10

nhưng năng suất protein cao hơn. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng

115

Page 116: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

suất protein của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai

thường LVN10. Như vậy, giống ngô QPM TPTD QP4 năng suất ngô hạt thấp

hơn giống ngô lai thường nhưng do hàm lượng protein cao nên năng suất

protein đạt cao hơn.

Bảng 3.21. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất protein

của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 3 vụ)

Đơn vị tính: Kg/ha

GiốngLiều lượng đạm

0N 60N 120N 180N 240N

QP4 182,5 370,0 538,9 617,6 659,4

LVN10 193,8 354,9 471,9 541,1 578,3

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết luận của Tomov

(1984) [90], phân đạm ảnh hưởng lớn nhất đến tích lũy protein trong ngô.

Cùng với việc tăng liều lượng phân, đặc biệt là phân đạm thì sẽ giảm tỷ suất

năng suất ngô trên đơn vị phân N nhưng làm tăng khối lượng protein trong

hạt cũng như trong tổng sinh khối nói chung, dẫn đến tăng nồng độ protein trong

các mô của cây và đảm bảo tăng năng suất protein trên đơn vị diện tích gieo

trồng.

Tóm lại, liều lượng đạm 180N cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao

nhất với hai giống QPM QP4 và ngô thường LVN10. Liều lượng 240N đạt

hàm lượng protein cao nhất. Liều lượng 120 - 240N đạt hàm lượng lysine và

methionine cao tương đương nhau. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến sinh

trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô QPM TPTD QP4 thấp hơn so

với giống ngô lai thường LVN10. Ngược lại, ảnh hưởng của liều lượng đạm

đến hàm lượng và chất lượng protein của giống ngô QPM TPTD QP4 cao

hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

116

Page 117: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

3.3. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng,

phát triển, năng suất và chất lượng của giống ngô chất lượng protein

cao tại Thái Nguyên

3.3.1. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian sinh trưởng qua các thời

kỳ phát dục của giống ngô QP4 và LVN10

Qua theo dõi các thời kỳ sinh trưởng phát triển của giống ngô QP4 và

LVN10 qua các công thức bón phân lân ở vụ Xuân 2005, vụ Thu Đông 2005,

vụ Xuân 2006, chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3.22.

3.3.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến giai đoạn từ gieo đến tung phấn

Số liệu bảng 3.22 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian

từ gieo - tung phấn biến động từ 63 (120 – 160P2O5) – 69 ngày (0P2O5) ở

giống QP4 và từ 65 (120 – 160P2O5) – 72 ngày (0P2O5) ở giống LVN10.

Trong đó, các liều lượng 120 – 160P2O5 qua các giống có thời gian từ gieo -

tung phấn ngắn nhất, liều lượng 0P2O5 dài nhất. Như vậy, bón P cao và cân

đối với NK làm rút ngắn thời gian từ gieo đến tung phấn.

Ở vụ Thu Đông, thời gian từ gieo đến tung phấn của các giống ngô qua

các liều lượng lân ngắn hơn so với vụ Xuân. Giống ngô QP4 qua các liều

lượng lân có thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn hơn giống LVN10.

3.3.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến giai đoạn từ khi gieo đến phun râu

Trung bình ba vụ cho thấy ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian từ

gieo – phun râu biến động từ 65 (120 - 160P2O5) – 73 ngày (0P2O5) ở giống

QP4 và từ 67 (120 - 160P2O5) – 77 ngày (0P2O5) ở giống LVN10. Như vậy,

bón lân mức 120 - 160P2O5 làm rút ngắn thời gian từ gieo đến phun râu từ 8 –

10 ngày so với không bón lân.

Bảng 3.22. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian sinh trưởng

qua các thời kỳ phát dục của giống ngô QP4 và LVN10

Đơn vị tính: Ngày

117

Page 118: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Lượng

lânGiống

Thời gian từ gieo đến

Tung phấn Phun râu Chín

X. 05TĐ.

05X. 06 TB X. 05

TĐ.

05X. 06 TB X. 05

TĐ.

05X. 06 TB

0P2O5

QP4 72 62 72 69 76 66 76 73 121 116 120 119

LVN10 76 66 75 72 80 70 80 77 127 124 125 125

40P2O5

QP4 70 59 69 66 73 62 72 69 120 114 117 117

LVN10 73 62 71 69 76 65 74 72 125 120 122 122

80P2O5

QP4 69 57 67 64 71 59 69 66 119 112 115 115

LVN10 71 60 69 67 74 62 72 69 124 117 120 120

120P2O5

QP4 68 56 66 63 70 58 68 65 118 110 114 114

LVN10 70 58 68 65 72 60 70 67 123 115 119 119

160P2O5

QP4 68 56 66 63 70 58 68 65 117 109 114 113

LVN10 70 57 68 65 72 59 70 67 122 115 118 118

Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến khoảng cách tung phấn

- phun râu (ASI) biến động từ 2 (80 - 160P2O5) – 4-5 ngày (0P2O5). Như vậy,

không bón lân và bón quá ít làm kéo dài khoảng cách tung phấn – phun râu,

ảnh hưởng xấu đến quá trình thụ phấn thụ tinh và giảm năng suất sau này.

Giống ngô QP4 qua các liều lượng lân có thời gian từ gieo đến phun râu

ngắn hơn giống LVN10.

3.3.1.3. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian sinh trưởng

Số liệu bảng 3.22 cho thấy ảnh hưởng của lân qua các giống đến thời

gian sinh trưởng biến động từ 113 (160P2O5) – 119 ngày (0P2O5) ở giống QP4

và từ 118 (160P2O5) – 125 (0P2O5) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của

lân đến thời gian sinh trưởng qua các công thức (trung bình ba vụ) thể hiện rất

rõ. Bón lân tăng làm rút ngắn thời gian sinh trưởng, ở liều lượng lân 160P 2O5

118

Page 119: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

cây ngô sinh trưởng ngắn hơn 6 ngày (QP4) và 7 ngày (LVN10) so với không

bón lân (0P2O5). Giống ngô QP4 qua các liều lượng lân có thời gian sinh

trưởng ngắn hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian

sinh trưởng giống của giống ngô QPM TPTD QP4 ít hơn giống ngô lai

thường LVN10. Vụ Thu Đông có thời gian sinh trưởng của các giống ngô qua

các liều lượng lân ngắn hơn so với vụ Xuân.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Trần Văn

Minh (1995) [28], bón lân có khả năng rút ngắn thời gian sinh trưởng của

ngô, làm tăng năng suất một cách rõ rệt.

3.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến các đặc điểm hình thái của giống

ngô QP4 và LVN10

3.3.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến chiều cao cây và chiều cao

đóng bắp

Qua số liệu bảng 3.23 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của lân

qua các giống đến chiều cao cây biến động từ 183,5 (0P2O5) – 205,2 cm

(160P2O5) ở giống QP4 và từ 196,6 (0P2O5) – 227,2 cm (160P2O5) ở giống

LVN10; đến chiều cao đóng bắp biến động từ 98,6 (0P2O5) – 107,6 cm

(160P2O5) ở QP4 và từ 111,4 (0P2O5) – 122,8 cm (160P2O5) ở LVN10.

Trung bình của ba vụ thí nghiệm cho thấy, ảnh hưởng của lân đến chiều

cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống rất rõ. Bón lân tăng làm tăng

chiều cao cây, ở liều lượng 160P2O5 làm tăng thêm 11,8% (QP4) và 15,6%

(LVN10) so với không bón lân (0P2O5). Giống QP4 có chiều cao cây và chiều

cao đóng bắp thấp hơn giống LVN10, đồng thời ảnh hưởng của liều lượng lân

đến chiều cao cây ít hơn so với LVN10 (bảng 3.23).

Bảng 3.23. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến chiều cao cây và chiều cao

đóng bắp của giống ngô QP4 và LVN10

Giống Chiều cao cây (cm) Chiều cao đóng bắp (cm)

119

Page 120: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Lượng

lânX.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 183,1 186,8 180,6 183,5 97,8 100,5 97,6 98,6

LVN10 199,9 194,2 195,7 196,6 108,3 114,4 111,5 111,4

40P2O5

QP4 189,7 192,3 186,7 189,6 99,9 100,9 97,9 99,6

LVN10 209,7 210,0 205,6 208,4 115,8 118,3 115,1 116,4

80P2O5

QP4 195,5 197,9 191,6 195,0 104,8 102,6 98,7 102,0

LVN10 219,0 219,5 214,6 217,7 120,2 119,5 118,0 119,2

120P2O5

QP4 200,7 207,6 198,2 202,2 105,0 105,4 103,3 104,6

LVN10 223,3 226,4 221,0 223,6 122,9 121,7 118,3 121,0

160P2O5

QP4 203,3 210,9 201,5 205,2 107,5 107,0 108,4 107,6

LVN10 226,6 230,3 224,8 227,2 122,2 125,6 120,7 122,8

3.3.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến số lá trên cây và chỉ số diện tích lá

Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến số lá/cây trung bình ba

vụ biến động từ 18,7 (0P2O5) – 20,1 lá (160P2O5) ở giống QP4 và từ 18,8

(0P2O5) – 20,3 lá (160P2O5) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của liều

lượng lân đến số lá/cây của giống QP4 và LVN10 không rõ. Hai giống QP4

và LVN10 có số lá/cây tương đương nhau (bảng 3.24).

Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến chỉ số diện tích lá trung

bình ba vụ biến động từ 2,6 (0P2O5) – 3,6 m2lá/m2đất (160P2O5) ở giống QP4

và từ 2,6 (0P2O5) – 3,8 m2lá/m2đất (160P2O5) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh

hưởng của liều lượng lân đến chỉ số diện tích lá của giống QP4 và LVN10 rất

rõ, tăng tỷ lệ thuận theo mức bón lân tăng. Liều lượng 160P2O5 làm tăng thêm

38,5% ở QP4 và 46,2% ở LVN10 so với không bón lân (0P2O5).

Bảng 3.24. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến số lá và chỉ số diện tích lá

của giống ngô QP4 và LVN10

120

Page 121: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Lượng

lânGiống

Số lá (lá) CSDTL (m2 lá/m2 đất)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 18,9 18,7 18,6 18,7 2,4 2,7 2,6 2,6

LVN10 19,0 18,8 18,7 18,8 2,4 2,8 2,7 2,6

40P2O5

QP4 19,5 19,4 19,3 19,4 2,8 3,0 2,9 2,9

LVN10 19,6 19,6 19,3 19,5 2,9 3,1 3,0 3,0

80P2O5

QP4 19,8 19,9 19,6 19,8 3,1 3,3 3,2 3,2

LVN10 20,0 20,0 19,7 19,9 3,2 3,4 3,3 3,3

120P2O5

QP4 20,0 20,2 19,9 20,0 3,4 3,6 3,6 3,5

LVN10 20,2 20,3 20,1 20,2 3,5 3,8 3,7 3,7

160P2O5

QP4 20,0 20,3 20,1 20,1 3,5 3,7 3,5 3,6

LVN10 20,3 20,4 20,2 20,3 3,7 3,9 3,8 3,8

Như vậy, lân ảnh hưởng không lớn đến số lá nhưng làm tăng chỉ số diện

tích lá góp phần tăng năng suất sau này. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến

chỉ số diện tích lá của giống QPM TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường

LVN10.

3.3.3. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến khả năng chống chịu của giống

ngô QP4 và LVN10

3.3.3.1. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến khả năng chống đổ

Kết quả ở bảng 3.25 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các

giống đến tỷ lệ đổ rễ trung bình ba vụ biến động từ 4,0 (120P2O5) – 10,8%

(0P2O5) ở giống QP4 và từ 4,6 (120P2O5) – 13,5% (0P2O5) ở giống LVN10.

Như vậy, bón lân làm cây ngô sinh trưởng khoẻ, cứng cây, giảm tỷ lệ đổ rễ rất rõ.

Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến tỷ lệ gãy thân trung

bình ba vụ biến động từ 2,1 (160P2O5) – 5,5% (0P2O5) ở giống QP4 và từ 3,0

(120-160P2O5) – 6,7% (0P2O5) ở giống LVN10 (bảng 3.25).

Bảng 3.25. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến tỷ lệ đổ rễ, gãy thân

121

Page 122: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

lânGiống

Đổ rễ (%) Gãy thân (%)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 8,3 10,5 13,5 10,8 6,9 5,0 4,6 5,5

LVN10 10,1 12,0 18,4 13,5 7,8 6,3 5,9 6,7

40P2O5

QP4 5,6 6,7 9,8 7,4 5,4 3,3 3,1 3,9

LVN10 6,2 8,3 12,9 9,1 6,0 4,5 4,6 5,0

80P2O5

QP4 3,5 5,9 7,5 5,6 3,8 2,1 3,0 3,0

LVN10 4,5 6,7 9,5 6,9 4,5 3,2 4,1 3,9

120P2O5

QP4 2,3 4,2 5,5 4,0 2,5 1,7 2,5 2,2

LVN10 4,0 4,0 5,8 4,6 4,1 2,5 2,5 3,0

160P2O5

QP4 2,1 4,5 5,9 4,2 2,5 2,0 1,8 2,1

LVN10 3,6 4,9 6,3 4,9 3,8 2,4 2,9 3,0

Tóm lại, trung bình ba vụ cho thấy liều lượng lân ảnh hưởng rất rõ đến tỷ

lệ đổ rễ và gãy thân, bón lân tăng làm giảm tỷ lệ đổ rễ và gãy thân, liều lượng

120P2O5 có tỷ lệ đổ rễ thấp nhất và cao nhất là ở liều lượng 0P 2O5; ở liều

lượng 120P2O5 - 160P2O5 có tỷ lệ gãy thân thấp hơn ở liều lượng 0P2O5 -

80P2O5. Giống QP4 qua các liều lượng lân có tỷ lệ đổ rễ, gãy thân thấp hơn

giống LVN10.

3.3.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến khả năng chống chịu sâu bệnh

Nhìn bảng 3.26, cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều lượng

lân qua các giống đến mức độ nhiễm sâu đục thân biến động từ điểm 3 – 5,

trong đó liều lượng 120 - 160P2O5 bị sâu hại nhẹ nhất ở cả 2 giống (điểm 3),

mức 0P2O5 bị sâu đục thân hại nặng nhất (điểm 4 – QP4; 5 – LVN10). Giống

ngô QP4 qua các liều lượng lân bị nhiễm sâu đục thân nhẹ hơn giống LVN10.

Như vậy, bón lân ảnh hưởng đến khả năng kháng sâu đục thân, không bón và

122

Page 123: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

bón lân ít làm cây sinh trưởng phát triển yếu dễ bị sâu phá hại hơn bón lân cao

và cân đối với đạm - kali.

Bảng 3.26. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến tỷ lệ bị nhiễm sâu đục thân và

bệnh khô vằn của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

lânGiống

Sâu Đục thân (điểm 1-5) Bệnh Khô vằn (điểm 1-5)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 5 3 4 4 3 2 3 3

LVN10 5 4 5 5 3 3 4 3

40P2O5

QP4 4 3 3 3 2 2 3 2

LVN10 4 4 4 4 3 3 3 3

80P2O5

QP4 3 2 3 3 2 2 2 2

LVN10 4 3 4 4 3 3 3 3

120P2O5

QP4 3 2 3 3 2 2 2 2

LVN10 4 3 3 3 2 2 3 2

160P2O5

QP4 3 2 3 3 2 2 3 2

LVN10 3 2 3 3 3 2 3 3

Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến mức độ nhiễm bệnh

khô vằn biến động từ điểm 2 – 3. Liều lượng 120P2O5 bị nhiễm bệnh khô vằn

nhẹ nhất (điểm 2), liều lượng 0P2O5 bị hại nặng nhất (điểm 3) ở cả hai giống.

Giống ngô QP4 qua các liều lượng lân bị nhiễm bệnh khô vằn nhẹ hơn giống

LVN10.

Liều lượng lân khác nhau cũng ảnh hưởng đến mức độ nhiễm sâu đục

thân và bệnh khô vằn, bón lân tăng làm giảm tỷ lệ nhiễm sâu bệnh. Liều

lượng 120P2O5 - 160P2O5 có tỷ lệ nhiễm sâu đục thân thấp hơn ở liều lượng

0P2O5 - 80P2O5. Ở liều lượng 120P2O5 bị nhiễm bệnh khô vằn thấp nhất trong

cả hai giống.

123

Page 124: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Tóm lại, bón lân có ảnh hưởng đến khả năng chống chịu của giống QP4

và LVN10, bón lượng lân cao 120 - 160P2O5 ngô có khả năng chống chịu tốt

hơn ở lượng 0P2O5 - 80P2O5. Giống QP4 có khả năng chống đổ rễ, gãy thân

và sâu bệnh tốt hơn LVN10.

3.3.4. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến các yếu tố cấu thành năng suất và

năng suất của giống ngô QP4 và LVN10

Số liệu bảng 3.27a cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng lân đến chiều dài

bắp biến động từ 13,1 cm (0P2O5) – 16,2 cm (160P2O5) ở QP4 và từ 13,5 cm

(0P2O5) – 17,7 cm (160P2O5) ở LVN10. Như vậy, liều lượng lân ảnh hưởng

lớn đến chiều dài bắp, liều lượng lân tăng thì chiều dài bắp cũng tăng, ở lượng

160P2O5 chiều dài bắp tăng hơn 23,7% (QP4) và 31,1% (LVN10) so với

không bón lân.

Ảnh hưởng của liều lượng lân đến đường kính bắp biến động từ 3,8 cm

(0P2O5) – 4,8 cm (160P2O5) ở QP4 và từ 3,9 cm (0P2O5) – 5,0 cm (160P2O5) ở

LVN10. Như vậy, liều lượng lân ảnh hưởng lớn đến đường kính bắp, liều

lượng lân tăng thì đường kính bắp cũng tăng, ở liều lượng 160P2O5 tăng thêm

26,3% (QP4) và 28,2% (LVN10) so với không bón lân (0P2O5).

Bảng 3.27a. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến các yếu tố cấu thành

năng suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

lânGiống

Dài bắp

(cm)

Đường kính bắp

(cm)

HH/

bắp

(hàng)

Hạt/hàng

(hạt)

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

0P2O5

QP4 13,0 13,4 12,8 13,1 3,9 3,8 3,7 3,8 13,6 26,6 26,5 25,7 26,3

LVN10 13,6 13,9 13,0 13,5 4,0 3,8 3,8 3,9 13,2 28,0 27,6 26,6 27,4

40P2O5 QP4 14,3 14,3 14,0 14,2 4,1 4,3 4,1 4,2 14,0 29,7 30,5 28,7 29,6

124

Page 125: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

LVN10 14,9 15,2 14,5 14,9 4,3 4,3 4,3 4,3 13,7 30,2 31,6 29,2 30,3

80P2O5

QP4 15,1 15,0 14,5 14,9 4,3 4,6 4,4 4,4 14,2 31,1 33,8 30,0 31,6

LVN10 16,4 16,4 16,5 16,4 4,5 4,7 4,7 4,6 13,9 33,0 34,9 32,5 33,5

120P2O5

QP4 15,8 15,7 15,9 15,8 4,5 4,9 4,7 4,7 14,4 31,8 35,0 31,9 32,9

LVN10 17,0 17,5 17,8 17,4 4,8 5,1 4,9 4,9 14,1 34,5 36,8 34,6 35,3

160P2O5

QP4 16,0 16,0 16,5 16,2 4,6 4,9 4,8 4,8 14,4 31,9 35,4 32,5 33,3

LVN10 17,3 17,9 18,0 17,7 4,9 5,2 5,0 5,0 14,1 34,7 37,3 35,3 35,8

CV,% (lân) 5,8 6,4 6,0 5,0 6,0 5,6 6,8 7,4 7,1

CV,% (giống) 4,9 5,1 5,4 4,1 4,3 3,9 5,2 4,9 4,6

LSD05 (lân) 0,3 0,5 0,4 0,2 0,1 0,1 0,3 0,4 0,5

LSD05 (giống) 0,9 1,1 1,0 0,2 0,1 0,1 1,5 1,2 1,6

Ảnh hưởng của lân đến số hàng hạt/bắp không lớn, biến động từ 13,6

(0P2O5) - 14,4 hàng (120P2O5 - 160P2O5 ) ở QP4 và từ 13,2 (0P2O5) - 14,1

hàng (120P2O5 - 160P2O5) ở LVN10.

Liều lượng lân ảnh hưởng lớn đến số hạt/hàng và khối lượng 1000 hạt.

Ảnh hưởng của liều lượng lân đến số hạt/hàng biến động từ 26,3 hạt (0P2O5) – 33,3

hạt (160P2O5) ở QP4 và từ 27,4 hạt (0P2O5) – 35,8 hạt (160P2O5) ở LVN10.

Liều lượng lân tăng thì số hạt/hàng cũng tăng, ở liều lượng 160P2O5 tăng

thêm 26,6% (QP4) và 30,7% (LVN10). Cùng theo đó khối lượng 1000 hạt

cũng biến động từ 268,1g (0P2O5) – 312,8g (160P2O5) ở QP4 và từ 283,6g

(0P2O5) – 324,2g (160P2O5) ở LVN10. Ở liều lượng 160P2O5 khối lượng 1000

hạt tăng thêm 16,7% (QP4) và 14,3% (LVN10) so với không bón lân (0P2O5).

Bảng 3.27b. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến các yếu tố cấu thành năng

suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

lânGiống

P1000hạt (g) NSTT (tạ/ha)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

125

Page 126: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

0P2O5

QP4 260,1 279,0 265,3 268,1 25,3 32,3 28,9 28,8

LVN10 280,7 290,7 279,5 283,6 27,6 31,2 30,5 29,8

40P2O5

QP4 287,7 300,5 284,0 290,7 35,7 42,7 39,0 39,1

LVN10 299,5 305,0 298,7 301,1 39,0 43,8 42,1 41,6

80P2O5

QP4 296,3 311,3 294,0 300,5 44,5 50,3 47,0 47,3

LVN10 310,0 316,7 306,7 311,1 48,3 53,7 51,9 51,3

120P2O5

QP4 307,1 317,1 309,3 311,2 50,5 55,5 54,3 53,4

LVN10 321,6 325,0 317,0 321,2 56,7 61,7 59,7 59,4

160P2O5

QP4 308,7 318,6 311,1 312,8 51,7 56,8 55,0 54,5

LVN10 325,0 328,3 319,4 324,2 57,9 62,1 60,9 60,3

CV,% (lân) 7,2 8,9 8,5 10,4 12,8 11,7

CV,% (giống) 5,0 5,5 5,2 6,4 7,0 8,6

LSD05 (lân) 5,3 5,6 4,8 4,5 3,0 3,4

LSD05 (giống) 12,5 8,6 10,3 3,3 2,7 3,0

Như vậy, bón lân làm tăng chiều dài, đường kính bắp, số hạt/hàng và

khối lượng 1000 hạt, làm cơ sở cho tăng năng suất ngô hạt. Kết quả của

chúng tôi cũng khá phù hợp với kết quả nghiên cứu của Akhtar và CS, (1999)

[55], sự tăng năng suất hạt là do có sự tăng diện tích lá/cây, chiều dài bắp, số

hạt/ bắp và khối lượng 1000 hạt. Theo Arnon (1974) [57], lân kích thích sự

hình thành rễ cây ngô, trợ giúp quá trình chín của cây và ảnh hưởng đến sự

phát triển của hạt.

Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất thực thu (NSTT) trung bình

ba vụ được thể hiện rõ nhất, tăng theo các liều lượng lân tăng. Năng suất thực

thu biến động từ 28,8 (0P2O5) - 54,5 tạ/ha (160P2O5) ở giống QP4 và từ 29,8

(0P2O5) - 60,3 tạ/ha (160P2O5) ở giống LVN10. Ở liều lượng 160P2O5, năng

suất thực thu tăng hơn 89,2% ở QP4 và 102,4% ở LVN10 so với không bón

lân (0P2O5) (bảng 3.27b).

126

Page 127: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Qua xử lý thống kê ở ba vụ cho thấy tất cả các công thức có bón lân qua

các giống (40P2O5 - 160P2O5) đều có năng suất thực thu cao hơn công thức

không bón lân (0P2O5); Công thức 120P2O5 và 160P2O5 có năng suất thực thu

tương đương nhau ở mức tin cậy 95%. Giống QP4 đạt NSTT trung bình qua

các công thức bón lân thấp hơn giống LVN10 ở mức tin cậy 95%. Trong cùng

một liều lượng lân, NSTT của giống QP4 thấp hơn giống LVN10 ở mức

80P2O5 – 160P2O5, còn ở mức 0P2O5 – 40P2O5 thì tương đương nhau. Ảnh

hưởng của các liều lượng lân đến NSTT của giống QPM TPTD QP4 tương

đương giống ngô lai thường LVN10, tăng dần theo liều lượng lân tăng nhưng

ở liều lượng 160P2O5 thì không tăng. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên

cứu của Trần Văn Minh (1995) [28]; và kết quả nghiên cứu của Evangelista

(1999) năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều lượng lân, năng suất chỉ

bắt đầu giảm xuống khi bón đến mức 160 kg P2O5/ha (dẫn theo Trần Văn

Minh, 2004) [29].

127

Page 128: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

0

10

20

30

40

50

60

70

P1 P2 P3 P4 P5

Công thức bón lân

Năn

g s

uấ

t th

ực

thu

(tạ

/ha)

QP4

LVN10

Biểu đồ 3.8. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất của

giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)

3.3.5. Tương quan giữa liều lượng lân và năng suất của giống ngô QP4 và

LVN10

Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng lân bón với năng

suất của giống ngô TPTD QP4 và giống ngô thường LVN10, chúng tôi tiến

hành phân tích tương quan.

Bảng 3.28. Mô hình tương quan tuyến tính dự đoán năng suất

giống ngô QP4 và LVN10 dựa trên liều lượng lân

Giống Hàm tương quan tuyến tính Hệ số tương quan R2

QP4 Năng suất = 3148 + 16,425P** 0,933

LVN10 Năng suất = 3272 + 19,7P** 0,936

(P: Liều lượng lân; **: Tương quan có ý nghĩa ở mức 99%)

128

Page 129: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Số liệu bảng 3.28 cho thấy năng suất hai giống ngô QP4 và LVN10

tương quan thuận và rất chặt với liều lượng lân bón. Với liều lượng lân bón cụ

thể và dựa vào hàm tương quan tuyến tính ước lượng trên có thể dự đoán

được năng suất của giống ngô QP4 và LVN10.

NS (QP4) y = -0.0009x2 + 0.3107x + 28.551

R2 = 0.9979

0

10

20

30

40

50

60

70

0 40 80 120 160 200

Lân (kg P2O5/ha)

Tạ/

ha

NS (LVN10) y = -0.001x2 + 0.3641x + 29.377

R2 = 0.9953

0

10

20

30

40

50

60

70

0 40 80 120 160 200

Lân (kg P2O5/ha)

Tạ/

ha

Biểu đồ 3.9. Đồ thị năng suất QP4

theo các liều lượng lân

Biểu đồ 3.10. Đồ thị năng suất

LVN10 theo các liều lượng lân

+ Phương trình tương quan giữa liều lượng lân và năng suất giống ngô

TPTD QP4 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:

y = -0,0009x2 + 0,3107x + 28,551

- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 173 kg P2O5/ha.

- Lượng bón tối thích về kinh tế là 170 kg P2O5/ha.

+ Phương trình tương quan giữa liều lượng lân và năng suất giống ngô

lai thường LVN10 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:

129

Page 130: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

y = -0,001x2 + 0,3641x + 29,377

- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 182 kg P2O5/ha.

- Lượng bón tối thích về kinh tế là 179 kg P2O5/ha.

3.3.6. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng và chất lượng protein

của giống ngô QP4 và LVN10

Số liệu bảng 3.29 cho thấy ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm

lượng protein tổng số của các giống ngô rất rõ, biến động từ 9,05% (0P2O5) -

11,03% (120P2O5) ở giống QP4 và từ 8,07% (0P2O5) – 8,88% (120P2O5) ở

giống LVN10. Hàm lượng protein tổng số tăng dần theo các liều lượng lân

tăng và dừng lại ở liều lượng 120P2O5, tăng hơn so với không bón lân là

21,8% ở QP4 và 7,8% ở LVN10.

Qua xử lý thống kê cho thấy các công thức 40 – 160P2O5 có hàm lượng

protein tổng số cao hơn có ý nghĩa so với công thức 0P2O; liều lượng lân

120 – 160P2O5 đạt hàm lượng protein tương đương nhau và cao nhất ở mức độ

tin cậy 95%. Giống QP4 qua các liều lượng lân có hàm lượng protein cao hơn

giống LVN10 có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%. Trong cùng một liều lượng

lân thì giống QP4 đạt hàm lượng protein cao hơn giống LVN10 ở tất cả các

công thức. Ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng protein của

giống QPM TPTD QP4 rất rõ, tăng dần theo các liều lượng lân tăng đến mức

120P2O5; đến giống ngô lai thường LVN10: Không bón lân đạt thấp nhất, tiếp

đến là liều lượng 40P2O5, các liều lượng 80 - 120 - 160P2O5 đạt tương đương

nhau ở mức độ tin cậy 95%.

Ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng lysine của các giống

ngô rất rõ, biến động từ 2,87 (0P2O5) - 4,26% (160P2O5) ở QP4 và từ 2,1

(0P2O5) – 2,73% (160P2O5) ở LVN10. Hàm lượng lysine tăng dần theo các

liều lượng lân tăng và ở liều lượng 160P2O5 hàm lượng lysine tăng hơn so với

không bón lân là 48,4% ở QP4 và 30,0% ở LVN10. Xử lý thống kê cho thấy

các công thức (40 – 160P2O5) có hàm lượng lysine cao hơn có ý nghĩa so với

130

Page 131: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

công thức 0P2O5 ở mức độ tin cậy 95%; công thức 120 – 160P2O5 đạt hàm

lượng lysine tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các

liều lượng lân có hàm lượng lysine cao hơn giống LVN10 có ý nghĩa ở mức

độ tin cậy 95%. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng lysine của

giống QPM - QP4 rất rõ, tăng dần theo các liều lượng lân tăng, đạt cao nhất ở

liều lượng 160P2O5; đến giống ngô thường LVN10: Kông bón lân đạt thấp

nhất, tiếp đến là liều lượng 40P2O5, các liều lượng 80 – 160P2O5 đạt tương

đương nhau ở mức độ tin cậy 95%.

Bảng 3.29. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng protein, lysine và

methionine của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và Thu Đông 2005

Lượng

lânGiống

Protein tổng số

(%)

Lysine/Protein

(%)

Methionine/Protein

(%)

X.

05

TĐ.

05TB

X.

05

TĐ.

05TB

X.

05

TĐ.

05TB

0P2O5

QP4 9,09 9,00 9,05 2,95 2,78 2,87 2,41 2,60 2,51

LVN10 8,24 7,90 8,07 2,23 1,97 2,10 1,67 1,79 1,73

40P2O5

QP4 10,48 9,68 10,08 3,45 3,30 3,38 2,83 2,91 2,87

LVN10 8,34 8,33 8,34 2,56 2,27 2,42 1,86 1,94 1,90

80P2O5

QP4 10,60 10,63 10,62 3,94 3,85 3,90 3,03 3,10 3,07

LVN10 8,85 8,68 8,77 2,78 2,45 2,62 2,02 2,06 2,04

120P2O5

QP4 11,07 10,98 11,03 4,12 4,09 4,11 3,11 3,19 3,15

LVN10 8,98 8,78 8,88 2,86 2,56 2,71 2,09 2,12 2,11

160P2O5

QP4 10,95 10,91 10,93 4,28 4,24 4,26 3,16 3,28 3,22

LVN10 8,75 8,27 8,51 2,96 2,50 2,73 2,12 2,15 2,14

CV,% (lân) 2,22 2,35 1,98 2,17 2,00 2,13

CV,% (giống) 1,71 1,82 1,85 1,79 1,56 1,66

LSD05 (lân) 0,21 0,30 0,13 0,10 0,06 0,07

LSD05 (giống) 0,75 0,80 0,59 0,67 0,42 0,56

131

Page 132: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng methionine của các

giống ngô rất rõ, biến động từ 2,51 (0P2O5) - 3,22% (160P2O5) ở giống QP4

và từ 1,73 (0P2O5) – 2,14% (160P2O5) ở giống LVN10. Hàm lượng

methionine tăng dần theo các liều lượng lân tăng và ở liều lượng 160P2O5,

hàm lượng methionine tăng hơn so với không bón lân là 28,3% ở QP4 và

23,7% ở LVN10. Qua xử lý thống kê cho thấy các công thức có bón lân qua

các giống có hàm lượng methionine cao hơn có ý nghĩa so với công thức

không bón lân ở mức độ tin cậy 95%; công thức 4, 5 (120 – 160 P2O5) đạt

hàm lượng methionine cao nhất ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các

mức lân có hàm lượng methionine cao hơn giống LVN10 có ý nghĩa ở mức

độ tin cậy 95%. Ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng methionine

của giống QPM TPTD QP4 tương tự như với giống ngô lai thường LVN10.

Biểu đồ 3.11. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng protein,

lysine và methionine của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 2 vụ)

0.00

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

8.00

9.00

10.00

11.00

12.00

QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10

Protein Lysine Methionine

Hàm

lượn

g %

P1

P2

P3

P4

P5

132

Page 133: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Như vậy, ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng protein tổng

số, lysine/protein và methionine của giống QPM TPTD QP4 cao hơn so với

giống ngô lai thường LVN10.

3.3.7. Tương quan giữa liều lượng lân và chất lượng của giống ngô QP4 và

LVN10

Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng lân bón với hàm

lượng và chất lượng protein của giống ngô TPTD QP4 và giống ngô thường

LVN10, từ đó có thể dự đoán được chất lượng protein, chúng tôi tiến hành

phân tích tương quan, kết quả ở bảng 3.30.

Số liệu bảng 3.30 cho thấy hàm lượng protein và chất lượng protein

(lysine và methionine) của giống QPM TPTD QP4 tương quan thuận và chặt

với liều lượng lân bón. Còn đối với giống ngô lai thường LVN10, hàm lượng

lysine và methionine tương quan có ý nghĩa, nhưng hàm lượng protein lại

tương quan không ý nghĩa với liều lượng lân. Như vậy, có thể dựa vào hàm

tương quan tuyến tính ước lượng trên và lượng lân bón để dự đoán chất lượng

ptotein của giống ngô QPM TPTD QP4.

Bảng 3.30. Mô hình phân tích tương quan giữa liều lượng lân với hàm

lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10

Chỉ tiêu

chất lượngGiống

Hàm tương quan tuyến

tính

Hệ số tương

quan R2

ProteinQP4 Pr = 9,4 + 0,012P* 0,842

LVN10 Pr = 8,23 + 0,004Pns 0,472

LysineQP4 Lys = 3,002 + 0,009P** 0,938

LVN10 Lys = 2,206 + 0,004P* 0,869

MethionineQP4 Met = 2,624 + 0,004P* 0,886

LVN10 Met = 1,778 + 0,003P** 0,923

133

Page 134: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

(ns: Tương quan không có ý nghĩa; *,**: Tương quan có ý nghĩa ở mức 95%, 99%)

3.3.8. Hiệu quả kinh tế của các liều lượng lân với giống ngô QP4 và

LVN10

Ở mức không bón lân (0P2O5) do năng suất thực thu trung bình ba vụ của

hai giống QP4 và LVN10 đạt rất thấp nên hiệu quả kinh tế đạt thấp nhất. Với liều

lượng 120P2O5 ở cả hai giống QP4 và LVN10 đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.

Bảng 3.31. Hiệu quả kinh tế của liều lượng lân đến

giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)

Lượng lân GiốngNăng suất

(kg/ha)

Lãi thuần

(1.000 đ)

0P2O5

QP4 2.880 4.227

LVN10 2.980 4.507

40P2O5

QP4 3.910 6.736

LVN10 4.160 7.436

80P2O5

QP4 4.730 8.657

LVN10 5.130 9.777

120P2O5

QP4 5.340 9.990

LVN10 5.940 11.670

160P2O5

QP4 5.450 9.923

LVN10 6.030 11.547

Ghi chú: Giá: Ngô hạt: 2.800 đ/kg; Phân chuồng: 200 đ/kg; Đạm Urê:

5.000 đ/kg; Lân Supe: 1.500 đ/kg; Kaliclorua: 4.000đ/kg.

134

Page 135: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

0123456789

10111213

P1 P2 P3 P4 P5

Công thức bón lân

Lãi

th

uần

(tr

iệu

đồn

g)

QP4

LVN10

Biểu đồ 3.12. Hiệu quả kinh tế của liều lượng lân đến

giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)

3.3.9. Hiệu quả nông học của P với giống ngô QP4 và LVN10

Hiệu quả nông học của P qua các giống ở cả ba vụ giảm dần từ 40 -

160P2O5, trong vụ Xuân 2005 biến động từ 26,0 (40P2O5) - 16,5 kg ngô hạt/kg

P2O5 (160P2O5) ở giống QP4 và từ 28,5 (40P2O5) - 20,4 kg ngô hạt/kg P2O5

(160P2O5) ở giống LVN10; vụ Thu Đông 2005 biến động tương ứng từ 26,0 -

15,3 kg ngô hạt/kg P2O5 (QP4) và từ 31,5 - 18,6 kg ngô hạt/kg P2O5 (LVN10);

vụ Xuân 2006: 25,3 - 16,3 kg ngô hạt/kg P2O5 (QP4) và từ 29,0 - 20,0 kg ngô

hạt/kg P2O5 (LVN10); trung bình 3 vụ biến động từ 25,8 (40P2O5) – 16,1 kg

ngô hạt/ kg P2O5 (160P2O5) ở giống QP4 và từ 29,5 (40P2O5) – 19,1 kg ngô

hạt/ kg P2O5 (160P2O5) ở giống LVN10. Ở liều lượng 40 – 120P2O5 qua các

135

Page 136: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

giống hiệu quả nông học của P ổn định nhưng ở liều lượng 160P2O5 hiệu quả

nông học của P có xu thế giảm mạnh. Giống QPM TPTD QP4 có hiệu quả

nông học của P thấp hơn giống ngô lai thường LVN10. Hiệu quả nông học

của P với cả hai giống ở vụ Xuân đạt tương đương so với ở vụ Thu Đông.

Bảng 3.32. Hiệu quả nông học của P qua các liều lượng bón

đến giống ngô QP4 và LVN10

Đơn vị tính: Kg ngô/kg P2O5

Lượng

lânGiống X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 - - - -

LVN10 - - - -

40P2O5

QP4 26,0 26,0 25,3 25,8

LVN10 28,5 31,5 29,0 29,5

80P2O5

QP4 24,0 22,5 22,6 23,1

LVN10 25,9 28,1 26,8 26,9

120P2O5

QP4 21,0 19,3 21,2 20,5

LVN10 24,3 25,4 24,3 24,7

160P2O5

QP4 16,5 15,3 16,3 16,1

LVN10 20,4 18,6 20,0 19,1

Như vậy, kết quả nghiên cứu bón lân cho ngô trên đất bạc màu của

chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả Vũ Hữu Yêm và CS

(1999) [54], trên đất bạc màu ngô rất cần lân, bón đến 120 kg P2O5 so với 90

kg P2O5 hiệu suất phân lân vẫn ổn định.

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hiệu quả nông học

của P đạt rất cao và cao hơn so với các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn

Bộ (1993) [6], hiệu lực phân lân đối với ngô bội thu 8 – 10 kg ngô hạt/kg

P2O5; của Đặng Bê (1978), nghiên cứu bón phân lân cho ngô trên đất đỏ

136

Page 137: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bazan đã thu được hiệu suất phân lân từ 8 – 10 kg ngô hạt/kg P2O5 (dẫn theo

Trần Văn Minh, 2004) [29]. Chúng tôi có thể giải thích như sau: Thí nghiệm

phân lân được tiến hành trên đất cát pha bạc màu của trường Đại học Nông

Lâm Thái Nguyên, có hàm lượng lân tổng số loại nghèo (0,048%) do vậy khi

bón lân cho ngô thì thu được năng suất và hiệu quả nông học qua các liều

lượng lân cao hơn nhiều so với không bón lân. Trong thí nghiệm của chúng

tôi cũng có thêm bón vôi (600 kg vôi bột/ ha) nên pH đất gần đạt trung tính

làm nâng cao hiệu quả nông học của lân. Thí nghiệm phân lân trên nền có bón

phân chuồng + 120 kg N + 80 kg K2O/ha, được chăm sóc tốt và tưới nước đầy

đủ đảm bảo độ ẩm đạt gần bằng sức chứa ẩm tối đa đồng ruộng nên hiệu quả

nông học của P được nâng cao.

Tóm lại, ảnh hưởng của lân đến các giống ngô rất rõ rệt, năng suất ngô

tăng lên khi tăng liều lượng lân, kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của

Evangelista (1999), năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều lượng lân,

năng suất chỉ bắt đầu giảm xuống khi bón đến mức 160 kg P2O5/ha (dẫn theo

Trần Văn Minh, 2004) [29].

3.3.10. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất protein của giống ngô

QP4 và LVN10

Số liệu bảng 3.33 cho thấy ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất

protein của giống ngô QPM – QP4 và ngô thường LVN10 rất rõ, biến động từ

260,6 (0P2O5) – 595,7 kg/ha (160P2O5) ở giống QP4 và từ 240,5 (0P2O5) –

527,5 kg/ha (120P2O5) ở giống LVN10. Liều lượng 160P2O5 cho năng suất

protein cao nhất ở giống QP4; còn với giống LVN10 là ở liều lượng 120P2O5.

Năng suất ngô hạt của giống QP4 thấp hơn LVN10 nhưng năng suất protein

cao hơn so với LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất protein

của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

137

Page 138: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 3.33. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất protein

của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 3 vụ)

Đơn vị tính: Kg/ha

GiốngLiều lượng lân

0P2O5 40P2O5 80P2O5 120P2O5 160P2O5

QP4 260,6 394,1 502,3 589,0 595,7

LVN10 240,5 346,9 449,9 527,5 513,2

Tóm lại, với hai giống ngô QPM TPTD QP4 và ngô lai thường LVN10,

liều lượng lân 120P2O5 cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất. Liều

lượng lân 120 – 160P2O5 cho hàm lượng protein, lysine và methionine cao

nhất. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng, phát triển và năng suất

của giống ngô QPM TPTD QP4 thấp hơn so với giống ngô lai thường

LVN10. Ngược lại, ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng và chất

lượng protein của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai

thường LVN10.

3.4. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của liều lượng kali đến sinh trưởng,

phát triển, năng suất và chất lượng của giống ngô chất lượng protein

cao tại Thái Nguyên

3.4.1. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian sinh trưởng qua các

thời kỳ phát dục của giống ngô QP4 và LVN10

Qua theo dõi các thời kỳ sinh trưởng phát triển của giống ngô QP4 và

LVN10 qua các công thức bón phân kali ở vụ Xuân 2005, vụ Thu Đông 2005,

vụ Xuân 2006, chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3.34.

138

Page 139: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 3.34. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian sinh trưởng

của giống ngô QP4 và LVN10

Đơn vị tính: Ngày

Lượng

kaliGiống

Thời gian từ gieo đến…

Tung phấn Phun râu Chín sinh lý

X. 05TĐ.

05X. 06 TB X. 05

TĐ.

05X. 06 TB X. 05

TĐ.

05X. 06 TB

0K2OQP4 72 60 70 67 76 64 74 71 122 114 117 118

LVN10 79 65 76 73 83 69 80 77 128 123 127 126

40K2OQP4 69 57 66 64 72 60 70 67 120 112 116 116

LVN10 76 61 72 70 79 64 75 73 126 120 124 123

80K2OQP4 67 55 64 62 69 57 66 64 117 110 114 114

LVN10 74 59 70 68 76 61 73 70 123 118 122 121

120K2OQP4 65 53 62 60 66 55 63 61 115 109 112 112

LVN10 71 57 68 65 73 58 70 67 120 116 121 119

160K2OQP4 64 53 62 60 66 55 64 62 115 108 112 112

LVN10 70 56 67 64 72 58 69 66 119 115 121 118

3.4.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến giai đoạn từ gieo đến tung phấn

Số liệu bảng 3.34 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian

từ gieo - tung phấn biến động từ 60 (120 – 160K2O) – 67 ngày (0K2O) ở

giống QP4 và từ 64 (160K2O) – 73 ngày (0K2O) ở giống LVN10. Trong đó,

liều lượng 120K2O qua các giống có thời gian từ gieo - tung phấn ngắn nhất,

liều lượng 0K2O dài nhất. Như vậy, bón K cao và cân đối với NP làm rút ngắn

thời gian từ gieo đến tung phấn.

Ở vụ Thu Đông, thời gian từ gieo đến tung phấn của các giống ngô qua

các mức kali ngắn hơn so với vụ Xuân. Giống ngô QP4 qua các mức kali có

thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của liều

139

Page 140: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

lượng kali đến thời gian từ gieo đến tung phấn của giống ngô QPM TPTD

QP4 ít hơn so với ngô lai thường LVN10.

3.4.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến giai đoạn từ khi gieo đến phun râu

Trung bình ba vụ cho thấy ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian

từ gieo – phun râu biến động từ 61 (120K2O) – 71 ngày (0K2O) ở giống QP4

và từ 66 (160K2O) – 77 ngày (0K2O) ở giống LVN10. Ảnh hưởng của liều

lượng kali qua các giống đến khoảng cách tung phấn - phun râu (ASI) biến

động từ 1-2 ngày (80 – 160K2O) đến 3-6 ngày (0 – 40K2O). Như vậy, không

bón kali và bón quá ít làm kéo dài khoảng cách tung phấn – phun râu, ảnh

hưởng xấu đến quá trình thụ phấn thụ tinh và giảm năng suất sau này.

Giống ngô QPM TPTD QP4 qua các liều lượng kali có thời gian từ gieo

đến phun râu ngắn hơn giống ngô thường LVN10.

3.4.1.3. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian sinh trưởng

Số liệu bảng 3.34 cho thấy ảnh hưởng của lân qua các giống đến thời

gian sinh trưởng trung bình ba vụ biến động từ 112 (120 – 160K2O) – 118

ngày (0K2O) ở giống QP4 và từ 118 (160K2O) – 126 (0K2O) ở giống LVN10.

Như vậy, ảnh hưởng của kali đến thời gian sinh trưởng qua các công thức thể

hiện rất rõ, bón tăng kali làm rút ngắn thời gian sinh trưởng, ở mức kali

160K2O cây ngô sinh trưởng ngắn hơn 6 ngày (QP4) và 8 ngày (LVN10) so

với không bón kali (0K2O). Ảnh hưởng của mức bón kali đến giống QPM

TPTD QP4 ít hơn giống ngô lai thường LVN10 (2 ngày).

3.4.2. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến các đặc điểm hình thái của giống

ngô QP4 và LVN10

3.4.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến chiều cao cây và chiều cao đóng bắp

Kết quả ở bảng 3.35 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của kali qua

các giống đến chiều cao cây biến động từ 186,2 (0K2O) – 201,8 cm (160K2O)

ở giống QP4 và từ 203,4 (0K2O) – 224,6 cm (160K2O) ở giống LVN10; đến

140

Page 141: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

chiều cao đóng bắp biến động từ 98,3 (40K2O) – 103,7 cm (160K2O) ở QP4

và từ 112,2 (0K2O) – 121,7 cm (160K2O) ở LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của

kali đến chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống rất rõ, tăng liều

lượng kali làm tăng chiều cao cây, ở mức 160K2O làm tăng thêm 8,4% (QP4)

và 10,4% (LVN10) so với không bón kali (0K2O). Giống QPM QP4 có chiều

cao cây và chiều cao đóng bắp thấp hơn giống ngô thường LVN10, đồng thời

ảnh hưởng của kali đến chiều cao cây cũng ít hơn.

Bảng 3.35. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến chiều cao cây và chiều cao đóng

bắp của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

kaliGiống

Chiều cao cây (cm) Chiều cao đóng bắp (cm)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0K2OQP4 186,7 189,0 182,9 186,2 100,4 99,3 98,4 99,4

LVN10 205,4 203,3 201,5 203,4 113,0 113,6 110,0 112,2

40K2OQP4 189,3 192,3 186,0 189,2 98,3 99,5 97,0 98,3

LVN10 210,7 209,0 208,6 209,4 115,4 114,9 113,6 114,6

80K2OQP4 195,3 197,4 190,1 194,3 100,7 101,2 99,5 100,5

LVN10 217,6 214,3 213,0 215,0 119,1 117,0 115,3 117,1

120K2OQP4 201,4 204,6 196,8 200,9 101,0 102,6 102,6 102,1

LVN10 222,6 224,5 220,4 222,5 120,0 119,7 119,2 119,6

160K2OQP4 201,5 205,7 198,2 201,8 101,8 103,5 105,9 103,7

LVN10 224,0 227,1 222,7 224,6 122,3 122,0 120,8 121,7

3.4.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến số lá và chỉ số diện tích lá

Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các giống đến số lá/cây trung bình ba

vụ biến động từ 18,9 (0K2O) – 20,0 lá (120-160K2O) ở giống QP4 và từ 18,8

(0K2O) – 20,2 lá (120-160K2O) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của liều

141

Page 142: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

lượng kali đến số lá/cây của giống ngô QPM TPTD QP4 và ngô lai thường

LVN10 không rõ. Hai giống QP4 và LVN10 có số lá/cây tương đương nhau.

Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các giống đến chỉ số diện tích lá

trung bình ba vụ biến động từ 2,6 (0K2O) – 3,5 m2lá/m2đất (120-160K2O) ở

giống QP4 và từ 2,7 (0K2O) – 3,7 m2lá/m2đất (160K2O) ở giống LVN10. Như

vậy, ảnh hưởng của kali đến chỉ số diện tích lá của các giống rất rõ, tăng dần

theo liều lượng kali tăng. Trung bình ba vụ cho thấy mức 160K2O làm tăng

thêm 34,6% ở QP4 và 37,0% ở LVN10 so với không bón kali (0K2O). Như

vậy, kali ảnh hưởng không lớn đến số lá nhưng làm tăng chỉ số diện tích lá

góp phần tăng năng suất sau này. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến giống

QPM TPTD QP4 thấp hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

Bảng 3.36. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến số lá và chỉ số diện tích lá

của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

kaliGiống

Số lá/cây (lá) CSDTL (m2lá/m2đất)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0K2OQP4 19,3 19,1 18,3 18,9 2,5 2,7 2,5 2,6

LVN10 19,1 18,8 18,6 18,8 2,6 2,8 2,6 2,7

40K2OQP4 19,5 19,3 18,7 19,2 2,8 3,0 2,9 2,9

LVN10 19,5 19,5 19,1 19,4 2,8 3,0 2,8 2,9

80K2OQP4 19,5 19,6 19,2 19,4 3,0 3,3 3,1 3,1

LVN10 19,9 20,1 19,8 19,9 3,1 3,3 3,2 3,2

120K2OQP4 20,2 20,0 19,7 20,0 3,4 3,7 3,4 3,5

LVN10 20,2 20,3 20,1 20,2 3,5 3,8 3,6 3,6

160K2OQP4 20,3 20,0 19,8 20,0 3,4 3,6 3,5 3,5

LVN10 20,2 20,3 20,2 20,2 3,6 3,8 3,7 3,7

142

Page 143: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

3.4.3. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến đến khả năng chống chịu của

giống ngô QP4 và LVN10

3.4.3.1. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến khả năng chống đổ

Số liệu bảng 3.37 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các

giống đến tỷ lệ đổ rễ trung bình ba vụ biến động từ 3,7 (160K2O) – 13,5% (0K2O)

ở giống QP4 và từ 5,2 (160K2O) – 16,2% (0K2O) ở giống LVN10. Như vậy,

bón kali làm cây ngô sinh trưởng khoẻ, cứng cây, giảm tỷ lệ đổ rễ rất rõ.

Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các giống đến tỷ lệ gãy thân trung

bình ba vụ biến động từ 1,3 (120K2O) – 6,5% (0K2O) ở giống QP4 và từ 2,4

(120-160K2O) – 7,7% (0K2O) ở giống LVN10.

Bảng 3.37. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến tỷ lệ đổ rễ, gãy thân

của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

kaliGiống

Đổ rễ (%) Gãy thân (%)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0K2OQP4 10,4 10,7 19,5 13,5 7,8 5,8 6,0 6,5

LVN10 11,6 13,2 23,7 16,2 8,8 6,4 7,8 7,7

40K2OQP4 7,9 9,2 13,6 10,2 6,3 4,6 5,3 5,4

LVN10 8,9 10,4 16,4 11,9 8,0 4,6 7,2 6,6

80K2OQP4 6,0 5,6 8,8 6,8 4,1 2,5 2,9 3,2

LVN10 6,5 8,7 10,9 8,7 5,0 2,7 5,8 4,5

120K2OQP4 5,0 3,6 5,6 4,7 2,1 0,5 1,2 1,3

LVN10 5,1 5,0 7,0 5,7 2,9 2,0 2,2 2,4

160K2OQP4 3,6 3,0 4,5 3,7 2,3 0,9 1,9 1,7

LVN10 4,7 4,1 6,7 5,2 3,0 1,5 2,6 2,4

Như vậy, trung bình ba vụ cho thấy liều lượng kali ảnh hưởng rất rõ đến

tỷ lệ đổ rễ và gãy thân. Bón kali với liều lượng tăng làm giảm tỷ lệ đổ rễ và

143

Page 144: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

gãy thân. Liều lượng 160K2O có tỷ lệ đổ rễ thấp nhất và cao nhất là ở mức

0K2O với cả hai giống (bảng 3.37).

3.4.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến khả năng chống chịu sâu bệnh

Nhìn số liệu bảng 3.38 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều

lượng kali qua các giống đến mức độ nhiễm sâu đục thân biến động từ điểm 2 – 5,

trong đó liều lượng 120K2O bị sâu hại nhẹ nhất ở cả 2 giống (điểm 2), mức

0K2O bị sâu đục thân hại nặng nhất (điểm 4 – QP4; 5 – LVN10). Giống ngô

QP4 qua các liều lượng kali bị nhiễm sâu đục thân nhẹ hơn giống LVN10.

Như vậy, bón kali ảnh hưởng đến khả năng kháng sâu đục thân, không bón và

bón kali ít làm cây sinh trưởng phát triển yếu dễ bị sâu phá hại hơn bón kali

cao và cân đối với đạm - lân.

Bảng 3.38. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến tỷ lệ bị nhiễm sâu đục thân và

bệnh khô vằn của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

kaliGiống

Sâu Đục thân (điểm 1 – 5) Bệnh Khô vằn (điểm 1 - 5)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0K2OQP4 5 3 4 4 3 2 3 3

LVN10 5 4 5 5 3 3 4 3

40K2OQP4 4 3 4 4 3 2 3 3

LVN10 5 3 5 4 3 3 4 3

80K2OQP4 3 2 3 3 2 2 2 2

LVN10 4 3 4 4 3 3 3 3

120K2OQP4 2 2 2 2 2 2 2 2

LVN10 3 2 2 2 2 2 2 2

160K2OQP4 3 2 3 3 2 2 3 2

LVN10 3 2 3 3 2 2 3 2

144

Page 145: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các giống đến mức độ nhiễm bệnh

khô vằn biến động từ điểm 2 – 3. Các liều lượng 120 – 160K2O bị nhiễm bệnh

khô vằn nhẹ nhất (điểm 2), liều lượng 0 – 40K2O bị hại nặng nhất (điểm 3) ở

cả hai giống. Giống ngô QPM TPTD QP4 qua các mức kali bị nhiễm bệnh

khô vằn nhẹ hơn giống ngô lai thường LVN10.

Như vậy, liều lượng kali khác nhau cũng ảnh hưởng đến mức độ nhiễm

sâu đục thân và bệnh khô vằn, bón tăng kali làm giảm tỷ lệ nhiễm sâu bệnh.

Liều lượng 120K2O có tỷ lệ nhiễm sâu đục thân thấp nhất và cao nhất ở liều

lượng 0K2O. Ở liều lượng 120 - 160K2O bị nhiễm bệnh khô vằn nhẹ hơn ở

liều lượng 0 - 40K2O trong cả hai giống.

Tóm lại, bón kali làm tăng khả năng chống chịu của giống QP4 và

LVN10. Bón mức kali cao 120 – 160K2O ngô có khả năng chống chịu tốt hơn

ở mức 0 – 80K2O. Giống QPM TPTD QP4 có khả năng chống đổ rễ, gãy thân

và chống chịu sâu bệnh tốt hơn ngô lai thường LVN10. Kết quả nghiên cứu

của chúng tôi phù hợp với Afendulop (1972) [1], kali cần thiết cho hoạt động

của nguyên sinh chất, điều khiển đóng mở khí khổng, nâng cao khả năng

chống chịu sâu bệnh, khô hạn và nhiệt độ thấp. Kali súc tiến quá trình quang

hợp, vận chuyển các sản phẩm quang hợp tích lũy về hạt.

3.4.4. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến các yếu tố cấu thành năng suất

và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10

Ảnh hưởng của liều lượng kali đến chiều dài bắp biến động từ 13,3 cm

(0K2O) – 16,0 cm (120 – 160K2O) ở QP4 và từ 13,7 cm (0K2O) – 17,4 cm

(160K2O) ở LVN10. Như vậy, kali ảnh hưởng đến chiều dài bắp, liều lượng

kali tăng thì chiều dài bắp cũng tăng, ở liều lượng 160K2O chiều dài bắp tăng

hơn 20,3% (QP4) và 27,0% (LVN10) so với không bón kali.

Ảnh hưởng của liều lượng kali đến đường kính bắp biến động từ 3,8 cm

(0K2O) – 4,8 cm (120 – 160K2O) ở QP4 và từ 3,7 cm (0K2O) – 5,0 cm (120 –

145

Page 146: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

160K2O) ở LVN10. Như vậy, liều lượng kali tăng thì đường kính bắp cũng

tăng, ở liều lượng 160K2O tăng thêm 26,3% (QP4) và 35,1% (LVN10) so với

không bón kali (0K2O). Ảnh hưởng của kali đến chiều dài và đường kính bắp

của giống QPM TPTD QP4 ít hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

Bảng 3.39a. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến các yếu tố cấu thành năng

suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10

Lượn

g kaliGiống

Chiều dài bắp

(cm)

Đường kính bắp

(cm)

Hàng hạt/bắp

(hàng)

X. 05TĐ.

05X. 06 TB X. 05

TĐ.

05X. 06 TB X. 05

TĐ.

05X. 06 TB

0K2OQP4 13,7 13,3 13,0 13,3 3,9 3,9 3,7 3,8 12,8 13,1 13,0 13,0

LVN10 14,0 13,7 13,4 13,7 3,9 3,7 3,6 3,7 12,7 13,0 13,0 12,9

40K2OQP4 14,9 14,2 13,9 14,3 4,3 4,2 4,0 4,2 13,3 13,5 13,3 13,4

LVN10 15,5 14,7 14,7 15,0 4,3 4,2 4,0 4,2 13,2 13,3 13,2 13,2

80K2OQP4 15,5 15,2 14,4 15,0 4,6 4,5 4,3 4,5 13,9 13,9 13,8 13,9

LVN10 16,3 16,6 16,0 16,3 4,6 4,7 4,4 4,6 13,7 13,8 13,5 13,7

120K2OQP4 16,0 15,9 16,0 16,0 4,6 5,0 4,8 4,8 14,2 14,2 14,1 14,2

LVN10 17,4 17,0 17,6 17,3 4,8 5,2 4,9 5,0 14,0 14,2 14,1 14,1

160K2OQP4 15,9 15,9 16,2 16,0 4,7 4,9 4,9 4,8 14,1 14,4 14,1 14,2

LVN10 17,4 16,8 18,0 17,4 4,7 5,2 5,0 5,0 14,0 14,3 14,1 14,1

CV,% (kali) 6,7 6,9 6,4 5,5 6,4 6,1 2,0 2,2 2,1

CV,% (giống) 4,9 5,1 5,4 4,1 4,3 3,9 2,5 2,4 2,4

LSD05 (kali) 0,4 0,5 0,7 0,1 0,2 0,3 0,3 0,4 0,3

LSD05 (giống) 0,6 0,5 0,8 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1

Kali ảnh hưởng không lớn đến số hàng hạt/bắp, trung bình ba vụ biến

động từ 13,0 (0K2O) - 14,2 hàng (120K2O và 160K2O) ở QP4 và từ 12,9

146

Page 147: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

(0K2O) - 14,1 hàng (120K2O và 160K2O) ở LVN10. Số hàng hạt/bắp tăng dần

từ liều lượng 0 – 120K2O sau đó thì dừng lại. Giống QP4 có số hàng hạt/bắp

trung bình cao hơn giống LVN10 từ 1 - 2 hàng.

Ảnh hưởng của liều lượng kali đến số hạt/hàng biến động từ 25,9 hạt

(0K2O) – 34,0 hạt (160K2O) ở QP4 và từ 26,4 hạt (0K2O) – 36,3 hạt (160K2O) ở

LVN10. Như vậy, kali ảnh hưởng lớn đến số hạt/hàng, tăng liều lượng kali thì

số hạt/hàng cũng tăng, trung bình ba vụ cho thấy ở liều lượng 160K2O tăng

thêm 31,3% (QP4) và 37,5% (LVN10) so với không bón kali (0K2O).

Bảng 3.39b. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến các yếu tố cấu thành năng suất

và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10

Lượng

kaliGiống

Hạt/hàng (hạt) P1000hạt (g) NSTT (tạ/ha)

X. 05TĐ.0

5X. 06 TB

X.

05

TĐ.

05

X.

06TB

X.

05

TĐ.

05X. 06 TB

0K2OQP4 25,5 25,5 26,7 25,9 272,2 280,3 266,2 272,9 26,6 29,1 27,6 27,8

LVN10 25,9 26,3 26,9 26,4 279,4 289,4 275,0 281,3 25,4 29,8 28,4 27,9

40K2OQP4 28,9 30,9 28,0 29,3 280,3 300,3 275,0 285,2 37,7 41,7 37,0 38,8

LVN10 29,0 31,2 28,6 29,6 290,3 298,0 285,4 291,2 38,6 43,6 40,0 40,7

80K2OQP4 30,2 33,0 30,8 31,3 307,7 310,7 298,7 305,7 46,2 50,8 47,5 48,2

LVN10 33,2 33,6 31,2 32,7 309,0 314,4 306,8 310,1 49,9 53,7 50,6 51,4

120K2OQP4 31,6 35,2 32,5 33,1 318,0 320,4 315,3 317,9 53,0 58,5 56,3 55,9

LVN10 35,0 36,2 34,0 35,1 323,2 329,5 321,6 324,8 57,0 62,7 60,0 59,9

160K2OQP4 32,9 35,6 33,4 34,0 319,1 321,0 316,4 318,8 53,3 59,0 56,8 56,4

LVN10 36,2 38,1 34,5 36,3 326,4 331,1 324,0 327,2 57,8 63,6 60,9 60,8

CV,% (kali) 6,3 7,1 7,2 7,3 8,0 7,1 10,4 13,9 12,0

CV,% (giống) 4,8 4,4 4,7 5,7 6,2 5,4 6,0 7,5 6,9

LSD05 (kali) 1,2 1,1 1,0 6,0 4,7 5,1 4,5 5,6 5,9

LSD05 (giống) 1,3 1,0 0,7 6,0 5,9 6,8 2,4 2,9 2,8

147

Page 148: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Ảnh hưởng của liều lượng kali đến khối lượng 1000 hạt biến động từ

272,9g (0K2O) – 318,8g (160K2O) ở QP4 và từ 281,3g (0K2O) – 327,2g

(160K2O) ở LVN10. Ở liều lượng 160K2O khối lượng 1000 hạt tăng thêm

16,8% (QP4) và 16,3% (LVN10) so với không bón kali (0K2O). Ảnh hưởng

của kali đến khối lượng 1000 hạt của giống QPM TPTD QP4 và giống ngô lai

thường LVN10 tương đương nhau.

Số liệu ở bảng 3.39b cho thấy ảnh hưởng của kali đến năng suất thực thu

trung bình ba vụ được thể hiện rõ nhất, tăng dần theo các liều lượng kali tăng.

Năng suất thực thu biến động từ 27,8 (0K2O) - 56,4 tạ/ha (160K2O) ở QP4 và

từ 27,9 (0K2O) - 60,8 tạ/ha (160K2O) ở LVN10. Ở liều lượng 160K2O, năng

suất thực thu tăng thêm 102,9% ở QP4 và 117,9% ở LVN10 so với không bón

kali (0K2O). Ảnh hưởng của các liều lượng kali đến năng suất thực thu của

giống QPM TPTD QP4 ít hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

0

10

20

30

40

50

60

70

K1 K2 K3 K4 K5

Công thức bón kali

Năn

g s

uất

thự

c th

u (

tạ/h

a)

QP4

LVN10

Biểu đồ 3.13. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến năng suất của giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình ba vụ)

148

Page 149: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Qua xử lý thống kê NSTT ở ba vụ cho thấy tất cả các công thức có bón

kali trung bình ở các giống (40K2O – 160K2O) đều có năng suất thực thu cao

hơn công thức không bón kali (0K2O); công thức 120K2O và 160K2O có năng

suất thực thu qua các giống tương đương nhau ở mức tin cậy 95%. Giống ngô

QPM TPTD QP4 qua các mức kali đạt năng suất thực thu tương đương giống

ngô thường lai thường LVN10 ở mức tin cậy 95%. Trong cùng một mức kali,

NSTT của giống QP4 thấp hơn giống LVN10 ở mức 120K2O – 160K2O, còn

ở mức 0K2O – 80K2O thì tương đương nhau. Ảnh hưởng của các mức kali

đến NSTT của giống QPM TPTD QP4 tương đương ngô lai thường LVN10,

tăng dần theo mức kali tăng nhưng dừng lại ở mức 120K2O.

3.4.5. Tương quan giữa liều lượng kali và năng suất của giống ngô QP4 và

LVN10

Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng lân bón với năng

suất của giống ngô QP4 và LVN10, chúng tôi tiến hành phân tích tương quan

thu được kết quả như sau:

Bảng 3.40. Mô hình tương quan tuyến tính dự đoán năng suất

giống ngô QP4 và LVN10 dựa trên liều lượng lân

Giống Hàm tương quan tuyến tính Hệ số tương quan R2

QP4 Năng suất = 3056 + 18,575K** 0,932

LVN10 Năng suất = 3114 + 21,25K** 0,933

(K: Liều lượng kali; **: Tương quan có ý nghĩa ở mức 99%)

Số liệu bảng 3.40 cho thấy năng suất hai giống ngô QP4 và LVN10

tương quan thuận và rất chặt với liều lượng kali. Dựa vào hàm tương quan

tuyến tính ước lượng và liều lượng kali bón cụ thể có thể dự đoán được năng

suất của giống ngô QP4 và LVN10.

149

Page 150: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

NS (QP4) y = -0.001x2 + 0.3479x + 27.317

R2 = 0.994

0

10

20

30

40

50

60

70

0 40 80 120 160 200

Kali (kg K2O/ha)

Tạ/

ha

NS (LVN10) y = -0.0012x2 + 0.3982x + 27.426

R2 = 0.9956

0

10

20

30

40

50

60

70

0 40 80 120 160 200

Kali (kg K2O/ha)

Tạ/

ha

Biểu đồ 3.14. Đồ thị năng suất QP4

theo các liều lượng kali

Biểu đồ 3.15. Đồ thị năng suất

LVN10 theo các liều lượng kali

+ Phương trình tương quan giữa liều lượng kali và năng suất giống ngô

TPTD QP4 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:

y = -0,001x2 + 0,3479x + 27,317

- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 174 kg K2O/ha.

- Lượng bón tối thích về kinh tế là 167 kg K2O/ha.

+ Phương trình tương quan giữa liều lượng kali và năng suất giống ngô

lai thường LVN10 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:

y = -0,0012x2 + 0,3982x + 27,426

- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 166 kg K2O/ha.

- Lượng bón tối thích về kinh tế là 160 kg K2O/ha.

150

Page 151: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

3.4.6. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng và chất lượng protein

của giống ngô QP4 và LVN10

Số liệu bảng 3.41 cho thấy ảnh hưởng của các liều lượng kali đến hàm

lượng protein tổng số của các giống ngô biến động từ 10,15 (0K2O) - 11,13%

(160K2O) ở giống QP4 và từ 8,29% (0K2O) – 8,55% (80K2O) ở giống

LVN10. Hàm lượng protein ở liều lượng 160K2O tăng hơn so với không bón

kali là 9,7% (QP4) và 2,7% (LVN10). Xử lý thống kê ở hai vụ cho thấy các

công thức 80 – 160K2O qua các giống có hàm lượng protein cao hơn có ý

nghĩa so với công thức không bón kali (0K2O) ở mức độ tin cậy 95%; công

thức 80 - 120 - 160K2O có hàm lượng protein tương đương nhau ở mức độ tin

cậy 95%. Giống QPM TPTD QP4 qua các mức kali có hàm lượng protein cao

hơn giống ngô lai thường LVN10 có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%. Trong

cùng một mức kali thì giống QP4 đạt hàm lượng protein cao hơn giống

LVN10 ở tất cả các công thức. Ảnh hưởng của các mức kali đến hàm lượng

protein của giống QPM TPTD QP4 như sau: liều lượng 0 – 40K2O thấp nhất,

tiếp đến là 80K2O, 120 – 160K2O tương đương nhau; đối với giống ngô lai

thường LVN10 thì không có sự sai khác giữa các công thức. Như vậy, ảnh

hưởng của các liều lượng kali đến hàm lượng protein của giống QPM TPTD

QP4 rất rõ, còn đến ngô lai thường LVN10 thì ảnh hưởng không rõ.

Ảnh hưởng của các liều lượng kali đến hàm lượng lysine của các giống

ngô biến động từ 2,99 (0K2O) - 4,13% (160K2O) ở giống QP4 và từ 2,19

(0K2O) – 2,83% (160K2O) ở giống LVN10. Hàm lượng lysine tăng dần theo

các liều lượng kali tăng và ở mức 160K2O, hàm lượng lysine tăng hơn so với

không bón kali là 38,1% ở QP4 và 29,2% ở LVN10. Xử lý thống kê ở hai vụ

cho thấy các công thức có bón kali qua các giống có hàm lượng lysine cao

hơn có ý nghĩa so với công thức không bón kali ở mức độ tin cậy 95%; công

thức 1 (0K2O) đạt hàm lượng lysine thấp nhất, công thức (80 – 160K2O) đạt

151

Page 152: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

hàm lượng lysine tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua

các liều lượng kali có hàm lượng lysine cao hơn giống LVN10 có ý nghĩa ở

mức độ tin cậy 95%. Trong cùng một mức kali thì giống QP4 đạt hàm lượng

lysine cao hơn giống LVN10 ở tất cả các công thức. Ảnh hưởng của các mức

kali đến hàm lượng lysine của giống QPM TPTD QP4 như sau: đạt thấp nhất

là ở 0K2O, ở liều lượng 80 - 160K2O đạt tương đương; đến giống ngô lai

thường LVN10: không bón kali đạt thấp nhất, 40 – 160K2O đạt tương đương

nhau ở mức độ tin cậy 95%.

Bảng 3.41. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng protein, lysine và

methionine của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và Thu Đông 2005

Mức

kaliGiống

Protein tổng số

(%)

Lysine/Protein

(%)

Methionine/Protein

(%)

X.

05

TĐ.

05TB

X.

05

TĐ.

05TB

X.

05

TĐ.

05TB

0K2OQP4 10,18 10,11 10,15 3,05 2,92 2,99 2,58 2,72 2,65

LVN10 8,38 8,20 8,29 2,23 2,15 2,19 1,75 1,82 1,79

40K2OQP4 10,30 10,26 10,28 3,51 3,47 3,49 2,86 2,96 2,91

LVN10 8,41 8,32 8,37 2,54 2,46 2,50 1,84 1,95 1,90

80K2OQP4 10,68 10,58 10,63 3,95 3,80 3,88 3,08 3,12 3,10

LVN10 8,56 8,53 8,55 2,68 2,64 2,66 1,93 2,03 1,98

120K2OQP4 11,09 10,78 10,94 4,10 3,88 3,99 3,14 3,17 3,16

LVN10 8,30 8,60 8,45 2,79 2,72 2,76 2,11 2,20 2,16

160K2OQP4 11,15 11,10 11,13 4,15 4,10 4,13 3,18 3,29 3,24

LVN10 8,50 8,51 8,51 2,86 2,80 2,83 2,09 2,11 2,10

CV,% (kali) 2,78 2,42   2,07 2,10 2,28 2,23

CV,% (giống) 1,69 1,57   1,71 1,65 1,52 1,46

LSD05 (kali) 0,19 0,22 0,14 0,16 0,13 0,12

LSD05 (giống) 1,25 1,06 0,74 0,66 0,60 0,63

152

Page 153: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Biểu đồ 3.16. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng protein,

lysine và methionine của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 2 vụ)

Ảnh hưởng của các liều lượng kali đến hàm lượng methionine của các

giống ngô biến động từ 2,65 (0K2O) - 3,24% (160K2O) ở giống QP4 và từ

1,79 (0K2O) – 2,16% (120K2O) ở giống LVN10. Ở mức 160K2O, hàm lượng

methionine tăng hơn so với không bón kali là 22,3% ở QP4 và 17,3% ở

LVN10. Qua xử lý thống kê cho thấy các công thức có bón kali qua các giống

có hàm lượng methionine cao hơn có ý nghĩa so với công thức không bón kali

ở mức độ tin cậy 95%; công thức 1 (0K2O) đạt hàm lượng methionine thấp

nhất, công thức 80 – 160K2O đạt hàm lượng methionine tương đương nhau ở

mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các mức kali có hàm lượng methionine

cao hơn giống LVN10 có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%. Trong cùng một

0.00

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

8.00

9.00

10.00

11.00

12.00

QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10

Protein Lysine Methionine

Hàm

lượn

g %

K1

K2

K3

K4

K5

153

Page 154: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

mức kali thì ở tất cả các công thức giống QP4 đạt hàm lượng methionine cao

hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của các mức kali đến hàm lượng methionine

của giống QPM TPTD QP4: tăng dần từ 0 – 80K2O đến (120 – 160K2O); đối

với giống ngô lai thường LVN10 thì không có sự sai khác giữa các công thức.

Như vậy, ảnh hưởng của các liều lượng kali đến hàm lượng protein tổng

số, lysine, methionine của giống QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô

lai thường LVN10.

3.4.7. Tương quan giữa liều lượng kali và chất lượng của giống ngô QP4

và LVN10

Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng kali bón với hàm

lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10, chúng tôi tiến

hành phân tích tương quan, kết quả thể hiện ở bảng 3.42.

Bảng 3.42. Mô hình phân tích tương quan giữa liều lượng kali với

hàm lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10

Chỉ tiêu

chất lượngGiống

Hàm tương quan tuyến

tính

Hệ số tương quan

R2

ProteinQP4 Pr = 10,102 + 0,007K** 0,982

LVN10 Pr = 8,33 + 0,001Kns 0,610

LysineQP4 Lys = 3,14 + 0,007K* 0,910

LVN10 Lys = 2,28 + 0,004K* 0,914

Methionin

e

QP4 Met = 2,726 + 0,004K* 0,917

LVN10 Met = 1,81 + 0,002K* 0,869

(ns: Tương quan không có ý nghĩa; *,**: Tương quan có ý nghĩa ở mức 95%, 99%)

Số liệu bảng 3.42 cho thấy hàm lượng protein và chất lượng protein

(lysine và methionine) của giống QPM TPTD QP4 tương quan thuận và chặt

với liều lượng kali. Còn đối với giống ngô lai thường LVN10, hàm lượng

154

Page 155: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

lysine và methionine tương quan có ý nghĩa, nhưng hàm lượng protein lại

tương quan không ý nghĩa với liều lượng kali. Như vậy có thể dựa vào lượng

kali bón và hàm tương quan tuyến tính ước lượng trên để dự đoán chất lượng

ptotein của giống ngô QPM TPTD QP4.

3.4.8. Hiệu quả kinh tế của các liều lượng kali với giống ngô QP4 và

LVN10

Ở mức không bón kali (0K2O) do năng suất thực thu trung bình ba vụ

của hai giống QP4 và LVN10 đạt rất thấp nên hiệu quả kinh tế đạt thấp nhất.

Với mức bón 120K2O, ở cả hai giống QPM QP4 và ngô thường LVN10 đạt

hiệu quả kinh tế cao nhất (bảng 3.43).

Bảng 3.43. Hiệu quả kinh tế của liều lượng kali đến

giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)

Liều lượng kali GiốngNăng suất

(kg/ha)

Lãi thuần

(1.000 đ)

0K2OQP4 2.780 3.729

LVN10 2.790 3.757

40K2OQP4 3.880 6.542

LVN10 4.070 7.074

80K2OQP4 4.820 8.907

LVN10 5.140 9.803

120K2OQP4 5.590 10.796

LVN10 5.990 11.916

160K2OQP4 5.640 10.669

LVN10 6.080 11.901

Ghi chú: Giá: Ngô hạt: 2.800 đ/kg; Phân chuồng: 200 đ/kg; Đạm Urê:

5.000 đ/kg; Lân Supe: 1.500 đ/kg; Kaliclorua: 4.000đ/kg.

155

Page 156: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

0123456789

10111213

K1 K2 K3 K4 K5

Công thức bón kali

i th

uầ

n (

triệ

u đ

ồn

g)

QP4

LVN10

Biểu đồ 3.17. Hiệu quả kinh tế qua liều lượng kali của

giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình ba vụ)

3.4.9. Hiệu quả nông học của K với giống ngô QP4 và LVN10

Hiệu quả nông học của K qua các giống ở cả ba vụ giảm dần từ 40 - 160K2O,

trong vụ Xuân 2005 biến động từ 27,8 (40K2O) - 16,7 kg ngô hạt/kg K2O

(160K2O) ở QP4 và từ 33,0 (40K2O) - 19,5 kg ngô hạt/kg K2O (160K2O) ở

LVN10; vụ Thu Đông 2005 biến động tương ứng từ 31,5 - 18,7 kg ngô hạt/kg

K2O (QP4) và từ 34,5 - 21,6 kg ngô hạt/kg K2O (LVN10); vụ Xuân 2006: Từ

24,9 - 18,3 kg ngô hạt/kg K2O (QP4) và 29,0 - 20,8 kg ngô hạt/kg K2O

(LVN10); trung bình 3 vụ biến động từ 27,5 – 17,9 kg ngô hạt/ kg K2O (QP4)

và 32,0 – 20,6 kg ngô hạt/ kg K2O (LVN10). Ở liều lượng 160K2O hiệu quả

nông học của K có giảm mạnh. Giống QPM TPTD QP4 có hiệu quả nông học

của K thấp hơn giống ngô lai thường LVN10. Hiệu quả nông học của K của

cả hai giống ở vụ Xuân đạt thấp hơn so với ở vụ Thu Đông.

156

Page 157: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Bảng 3.44. Hiệu quả nông học của K qua các liều lượng bón

đến giống ngô QP4 và LVN10

Đơn vị tính: Kg ngô/kg K2O

Lượng

kaliGiống X.05 TĐ.05 X.06 TB

0K2OQP4 - - - -

LVN10 - - - -

40K2OQP4 27,8 31,5 23,5 27,5

LVN10 33,0 34,5 29,0 32,0

80K2OQP4 24,5 27,1 24,9 25,5

LVN10 30,6 29,9 27,8 29,4

120K2OQP4 22,0 24,5 23,9 23,4

LVN10 26,3 27,4 26,3 26,7

160K2OQP4 16,7 18,7 18,3 17,9

LVN10 19,5 21,6 20,8 20,6

Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả hiệu quả nông học của K đạt rất

cao và cao hơn so với các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trọng Thi và

Nguyễn Văn Bộ (1999) [39], trên đất bạc màu trồng ngô bón K đạt hiệu lực

rất cao, đạt trung bình 15 – 20 kg ngô hạt/kg K2O, còn trên đất phù sa Sông

Hồng chỉ đạt 5,2 kg ngô hạt/kg K2O. Thí nghiệm phân kali của chúng tôi

được tiến hành trên đất cát pha bạc màu tại trường Đại học Nông Lâm Thái

Nguyên, có hàm lượng kali tổng số thuộc loại nghèo (0,21%) do vậy khi bón

kali cho ngô thì thu được năng suất và hiệu quả nông học qua các liều lượng

kali cao hơn nhiều so với không bón kali.

Tóm lại, ảnh hưởng của kali đến các giống ngô QPM TPTD QP4 và ngô

lai thường LVN10 rất rõ, năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều lượng

kali. Tuy nhiên đến mức 160K2O năng suất có xu hướng không tăng, kết quả

157

Page 158: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Trọng Thi và Nguyễn Văn Bộ

(1999) [39], trên đất bạc màu trồng ngô bón K đạt hiệu lực rất cao. Hiệu quả

sử dụng K đạt trung bình 15 – 20 kg ngô hạt/kg K2O. Liều lượng bón kali cho

ngô trên đất phù sa sông Hồng từ 60 – 90; trên đất bạc màu 90 – 120 kg

K2O/ha; của Vũ Hữu Yêm và CS (1999) [54], trên đất bạc màu ngô rất cần

bón kali, bón đến 150 kg/ha hiệu suất vẫn còn cao.

3.4.10. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến năng suất protein của giống ngô

QP4 và LVN10

Số liệu bảng 3.45 cho thấy ảnh hưởng của liều lượng kali đến năng suất

protein của giống ngô QPM – QP4 và ngô thường LVN10 rất rõ, biến động từ

282,2 (0K2O) – 627,7 kg/ha (160K2O) ở giống QP4 và từ 231,3 (0K2O) – 517,4

kg/ha (160K2O) ở giống LVN10. Mức bón 160K2O đạt năng suất protein cao

nhất ở cả hai giống. Năng suất ngô hạt của giống QP4 thấp hơn LVN10

nhưng năng suất protein cao hơn so với LVN10. Ảnh hưởng của kali đến

năng suất protein của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô

lai thường LVN10. Bảng 3.45. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến năng suất protein

của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 3 vụ)

Đơn vị tính: Kg/ha

GiốngLiều lượng kali

0K2O 40K2O 80K2O 120K2O 160K2O

QP4 282,2 398,9 512,4 611,5 627,7

LVN10 231,3 340,7 439,5 506,2 517,4

Tóm lại, với cả hai giống QP4 và LVN10, liều lượng 120K2O cho năng

suất và hiệu quả kinh tế cao nhất. Liều lượng 80 – 160K2O cho hàm lượng

158

Page 159: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

protein, lysine và methionine cao hơn liều lượng 0 – 40K2O. Ảnh hưởng của

liều lượng kali đến hàm lượng và chất lượng protein của giống ngô QPM

TPTD QP4 rất rõ, còn với ngô lai thường LVN10 thì không rõ. Ảnh hưởng

của liều lượng kali đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô

QPM TPTD QP4 thấp hơn so với giống ngô lai thường LVN10. Ngược lại,

ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng và chất lượng protein của

giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

Qua bảng 3.46 cho thấy ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến

một số chỉ tiêu chính của giống QP4 và LVN10 rất rõ. Ở các mức bón đạm

240N, lân 160P2O5, kali 160 K2O, kết quả các chỉ tiêu chính đạt được tăng

thêm nhiều so với đối chứng không bón đạm (0N), lân (0P2O5), kali (0K2O).

Bảng 3.46. Ảnh hưởng của mức 240N so với 0N; 160P2O5 - 0P2O5;

160K2O - 0K2O ở một số chỉ tiêu chính đối với giống ngô QP4

và LVN10 (trung bình ba vụ)

Chỉ tiêuĐơn vị

tính

N P2O5 K2O

QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10

Thời gian sinh trưởng Ngày +7,0 +8,0 -6,0 -7,0 -6,0 -8,0

Chiều cao cây % +19,9 +22,8 +11,8 +15,6 +8,4 +10,4

Chỉ số diện tích lá % +54,2 +60,0 +39,1 +44,7 +34,6 +37,0

Năng suất thực thu % +138,5 +156,5 +89,2 +102,4 +102,9 +117,9

Protein tổng số % +51,5 +16,3 +20,8 +5,5 +9,7 +2,7

Lysine/Protein % +123,6 +68,4 +48,4 +30,0 +38,1 +29,2

Methionine/Protein % +100,0 +51,7 +28,3 +23,7 +22,3 +17,3

Qua biểu đồ 3.18 cho thấy: Ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali

đến các chỉ tiêu chính sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô

QPM TPTD QP4 thấp hơn so với giống ngô lai thường LVN10.

159

Page 160: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

0

10

20

30

40

50

60

70

N1 N2 N3 N4 N5 P1 P2 P3 P4 P5 K1 K2 K3 K4 K5

Mức đạm Mức lân Mức kali

ng

su

ất

(tạ/h

a)

QP4

LVN10

Biểu đồ 3.18. Ảnh hưởng của liều lượng đạm, lân, kali đến năng suất

giống ngô QP4 và LVN10

Biểu đồ 3.19. Ảnh hưởng của liều lượng đạm, lân, kali đến hàm lượng protein (Pr), lysine (Lys) và methionine (Met) của giống ngô QP4 và LVN10

Biểu đồ 3.19 cho thấy: Ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến

các chỉ tiêu chất lượng của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống

ngô lai thường LVN10.

Trong ba yếu tố đạm, lân, kali thì đạm có ảnh hưởng rõ nhất đến sinh

trưởng, phát triển, năng suất, hàm lượng và chất lượng protein của cả hai

giống ngô QP4 và LVN10.

Từ kết quả 3 thí nghiệm về phân bón (đạm, lân, kali) cho thấy trên nền

10 tấn phân chuồng có 3 công thức phân bón tốt nhất sau:

(1) 180N + 80P2O5 + 80K2O

(2) 120N + 120P2O5 + 80K2O

(3) 120N + 80P2O5 + 120K2O

0

2

4

6

8

10

12

N1 N2 N3 N4 N5 P1 P2 P3 P4 P5 K1 K2 K3 K4 K5

Hàm lượng (%)

Pro. QP4

Pro. LVN10

Lys. QP4

Lys. LVN10

Met. QP4

Met. LVN10

Mức đạm Mức lân Mức kali

160

Page 161: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Nhằm lựa chọn được một công thức phân bón thích hợp nhất cho giống

ngô QPM QP4 để thử nghiệm ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, chúng tôi tiến

hành so sánh các chỉ tiêu năng suất và chất lượng đạt được của 3 công thức trên.

Bảng 3.47. So sánh các chỉ tiêu năng suất và chất lượng của ba

công thức đã chọn từ 3 thí nghiệm phân đạm, lân, kali

Công thức

phân bón

Năng suất

ngô hạt

(tạ/ha)

Hàm

lượng

protein

(%)

Năng suất

protein

(kg/ha)

Hàm

lượng

lysine (%)

Hàm

lượng

methionine

(%)

Lãi thuần

(1.000 đ)

1 56,4 10,95 617,6 4,08 3,21 10.551

2 53,4 11,03 589,0 4,11 3,15 9.990

3 55,9 10,94 611,5 3,99 3,16 10.796

Số liệu bảng 3.47 cho thấy công thức 1 (180N + 80P2O5 + 80K2O) có 3

chỉ tiêu đạt cao nhất, đó là năng suất ngô hạt, năng suất protein và hàm lượng

methionine; công thức 2 (120N + 120P2O5 + 80K2O) có 2 chỉ tiêu đạt cao nhất:

Hàm lượng protein và lysine; công thức 3 (120N + 80P2O5 + 120K2O) có 1 chỉ

tiêu lãi thuần đạt cao nhất. Như vậy, công thức 180N + 80P2O5 + 80K2O là tốt

nhất, thích hợp nhất với giống QP4 và được chọn làm thử nghiệm trong xây

dựng mô hình giống ngô QP4 ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.

3.5. Kết quả xây dựng mô hình

Từ kết quả khảo nghiệm một số giống ngô thụ phấn tự do chất lượng

cao, chúng tôi đã chọn được giống QP4 có triển vọng nhất, có khả năng sinh

trưởng phát triển tốt, chống chịu khá, ổn định, có tiềm năng năng suất cao,

đặc biệt có chất lượng protein cao. Kết quả thí nghiệm phân bón vụ Xuân và

vụ Thu Đông 2005 cho thấy công thức 180N + 80P2O5 + 80K2O cho năng

161

Page 162: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

suất hạt và năng suất protein cao nhất. Chúng tôi đã phối hợp với dự án

"Nghiên cứu có sự tham gia đối với sự phát triển vùng cao - PRDU" do Trung

tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) quản lý đã tiến hành xây dựng

mô hình trình diễn giống ngô QPM TPTD QP4 vụ Xuân năm 2006 tại huyện

Yên Minh, tỉnh Hà Giang; số hộ tham gia: 9 hộ; diện tích mô hình: 1 ha trên

đất ruộng bỏ hoá vụ Xuân; giống đối chứng: Ngô Trắng địa phương và Ngô

Đỏ địa phương; ngày gieo trồng: 15/3/2006; mật độ 5,7 vạn cây/ha; lượng

phân bón: 180 kg N + 80 kg P2O5 + 80 kg K2O. Kết quả xây dựng mô hình

thử nghiệm như sau:

Giống ngô QPM TPTD QP4 có thời gian sinh trưởng trung bình sớm

(117 ngày) ngắn hơn hai giống Trắng và Đỏ địa phương (đối chứng) 11 - 15 ngày.

Giống QP4 thấp cây (180,5 cm) thấp hơn so với hai giống địa phương 70 - 100 cm;

chiều cao đóng bắp trung bình 65,5 cm, thấp hơn hai giống đối chứng từ

60 - 90 cm, do đó có khả năng chống đổ tốt hơn giống địa phương. Đây là một

đặc điểm quý được cộng đồng địa phương đánh giá cao và chấp nhận.

Bảng 3.48. Một số đặc điểm sinh trưởng phát triển và năng suất của

giống ngô QP4 vụ Xuân 2006 tại Hà Giang

GiốngTGST

(ngày)

Chiều

cao

cây

(cm)

C. cao

đóng

bắp

(cm)

Chiều

dài

bắp

(cm)

Đường

kính

bắp

(cm)

Số

hàng

hạt

(hàng)

Số hạt/

hàng

(hạt)

Năng

suất

(tạ/ha)

QP4 117 180,5 65,5 15,0 4,5 16,0 27,2 37,5

Trắng ĐP 132 280,0 159,3 14,0 4,0 13,2 27,0 28,0

Đỏ ĐP 128 249,0 125,0 12,5 3,9 11,5 22,0 21,0

162

Page 163: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

Giống QPM TPTD QP4 có chiều dài bắp trung bình 15 cm, dài hơn đối

chứng 1 - 2,5 cm; bắp to, đường kính bắp 4,5 cm, to hơn giống địa phương

0,5 - 0,6 cm. Số hàng hạt trên bắp đạt 16 hàng, nhiều hơn đối chứng từ 2,8 - 4,5

hàng; số hạt/hàng cũng nhiều hơn do đó năng suất đạt cao hơn (đạt 37,5

tạ/ha), bằng 133,9 - 178,6% so với đối chứng, tức là cao hơn 7,5 - 16,5 tạ/ha

so với đối chứng. Đây là đặc điểm nổi bật và quan trọng nhất của giống ngô

QPM TPTD QP4 được cộng đồng địa phương đánh giá cao.

Giống QPM TPTD QP4 có độ đồng đều về chiều cao cây, chiều cao

đóng bắp, dạng cây, dạng bắp đạt cao, trong khi giống địa phương bị lẫn tạp

và thoái hóa nhiều nên độ đồng đều kém.

Từ kết quả mô hình trình diễn giống mới vụ Xuân 2006 rất tốt, người

nông dân chấp nhận sử dụng và nhân rộng giống ngô QPM TPTD QP4. Vụ

Xuân 2007, chúng tôi tiếp tục xây dựng mô hình sản xuất giống ngô QPM

TPTD QP4 trên địa bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang với diện tích 5,3 ha

trên đất bỏ hoá vụ Xuân và đất đồi dốc. Lượng phân bón đầu tư cho 1 ha là

180 kg N + 80 kg P2O5 + 80 kg K2O. Kết quả giống ngô QPM TPTD QP4 đạt

năng suất trung bình 35,8 tạ/ha. Với sản lượng ngô thu được, một phần người

nông dân Yên Minh chọn lọc ở những bắp ngô tốt, hạt tốt để làm giống cho

vụ sau hoặc bán cho nông dân các huyện bên cạnh, còn lại để làm lương thực

vì ngô QP4 ăn ngon hơn nhiều các giống ngô khác.

Kết quả xây dựng mô hình cả hai vụ (vụ Xuân 2006 và vụ Xuân 2007)

đã được đánh giá thông qua Hội nghị đầu bờ và Hội thảo khoa học có người

nông dân địa phương tham gia, đánh giá tại đồng ruộng và trong phòng. Ý

kiến của tất cả người dân mong muốn trồng tiếp ở các vụ sau và thực tế giống

QP4 đã được nhân rộng.

Giống ngô QP4 được gieo trồng thử nghiệm tại huyện Hàm Yên – tỉnh

Tuyên Quang vụ Xuân 2006 với diện tích 0,2 ha trên đất dốc, có 5 hộ tham

gia. Lượng phân bón 180 kg N + 80 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha. Kết quả thu

163

Page 164: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

được như sau: Giống ngô QP4 sinh trưởng, phát triển tốt, tỷ lệ nẩy mầm cao

(95 – 98%), độ đồng đều khá, có thời gian sinh trưởng trung bình 113 ngày,

chiều cao cây 205 cm, chiều cao đóng bắp 98 cm, khả năng chống đổ khá, ít

nhiễm sâu bệnh, năng suất trung bình đạt 38,1 tạ/ha, màu sắc hạt vàng phù

hợp với thị hiếu của nông dân địa phương. Giống ngô QP4 sinh trưởng, phát

triển khá phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu của Tuyên Quang, đáp ứng

được nhu cầu ngô làm lương thực của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao,

đồng thời cũng đáp ứng được tập quán tự để giống cho vụ sau của đồng bào

các dân tộc tại địa phương.

Gieo trồng thử nghiệm giống ngô QPM TPTD QP4 tại huyện Phổ Yên –

tỉnh Thái Nguyên vụ Đông 2006 với diện tích 0,5 ha trên đất bãi ven sông chủ

yếu là đất cát pha bạc màu, có 11 hộ tham gia. Lượng phân bón cho 1 ha là

180 kg N + 80 kg P2O5 + 80 kg K2O. Kết quả mô hình như sau: Giống ngô

QPM TPTD QP4 sinh trưởng tốt, độ đồng đều khá, có thời gian sinh trưởng

trung bình 110 ngày, chiều cao cây 209 cm, chiều cao đóng bắp 101 cm, khả

năng chống đổ tốt, khả năng chống sâu bệnh khá, chịu hạn tốt, chịu rét tốt,

chiều dài bắp 15,5 cm, tỷ lệ hạt/bắp 76,9%, hạt bán răng ngựa, màu vàng,

khối lượng 1000 hạt đạt 280,7g, năng suất trung bình đạt 42,3 tạ/ha.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

1 - Qua khảo nghiệm 6 giống ngô thụ phấn tự do QPM trong 4 vụ tại

Thái Nguyên đã chọn được giống QP4 triển vọng: Thời gian sinh trưởng

thuộc nhóm chín trung bình sớm, thấp cây, chống đổ tốt, chịu hạn tốt, chống

sâu bệnh khá. Năng suất khá cao và ổn định, tương đương đối chứng HQ2000

và Q2 (đạt 53,7 tạ/ha trong vụ Xuân và 63,3 tạ/ha trong vụ Thu Đông). Hàm

lượng protein 11,06%, lysine 3,98% và methionine 3,00% tương đương giống

164

Page 165: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

lai QPM HQ2000 (11,05%; 3,98%; 3,01%) và cao hơn hẳn Q2 (8,65%;

2,50%; 1,92%).

- Kết quả xây dựng mô hình giống ngô QPM thụ phấn tự do QP4 và kỹ

thuật mới tại một số tỉnh cho thấy giống QP4 có thời gian sinh trưởng trung

bình sớm, khả năng chống chịu tốt, năng suất đạt từ 35,8 – 42,3 tạ/ha. Sản

lượng ngô được nông dân dùng làm lương thực và để giống cho vụ sau.

2 - Liều lượng đạm 180N (nền: 10 tấn PC + 80P2O5 + 80K2O), liều lượng

lân 120P2O5 (nền: 10 tấn PC + 120N + 80K2O) và liều lượng kali 120K2O

(nền: 10 tấn PC + 120N + 80P2O5) đối với hai giống QP4 và LVN10 cho năng

suất và hiệu quả kinh tế cao nhất.

- Liều lượng đạm 240N (+ nền), liều lượng lân 120 – 160P2O5 (+ nền) và

liều lượng kali 80 – 160K2O (+ nền) cho hàm lượng protein cao nhất.

- Liều lượng đạm 120 – 240N (+ nền), liều lượng lân 120 – 160P2O5

(+ nền) và liều lượng kali 80 – 160K2O (+ nền) cho chất lượng protein cao nhất.

3 - Trong ba yếu tố đạm, lân và kali thì đạm là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất

đến sinh trưởng, phát triển, năng suất, hàm lượng và chất lượng protein của

giống ngô QPM và ngô thường.

4 - Ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng và chất lượng protein

của giống ngô QPM rất rõ, còn ngô thường thì không rõ.

5 - Ảnh hưởng của đạm, lân, kali đến sinh trưởng, phát triển và năng suất

của giống ngô QPM thấp hơn so với giống ngô thường, còn với hàm lượng và

chất lượng protein thì ngược lại.

2. Đề nghị

- Tiếp tục phát triển giống ngô QPM thụ phấn tự do QP4 ở vùng miền

núi phía Bắc.

165

Page 166: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

- Khuyến cáo sử dụng công thức phân bón 180N + 80P2O5 + 80K2O cho

giống ngô QP4 tại Thái Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc.

166

Page 167: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

[1] Đỗ Tuấn Khiêm, Trần Trung Kiên (2005), "Nghiên cứu khả năng

sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô chất lượng protein cao vụ Thu

Đông 2004 tại Thái Nguyên", Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

Tháng 10/2005, Tr. 23–26.

[2] Trần Trung Kiên, Phan Xuân Hào (2007), “Ảnh hưởng của liều

lượng đạm đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô chất lượng

protein cao (QPM) - QP4 và ngô thường - LVN10 tại Thái Nguyên”, Tạp chí

Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, Số 4(5)/2007, Tr. 18–26.

[3] Phan Xuân Hào, Đỗ Tuấn Khiêm, Trần Trung Kiên (2008), “Kết

quả khảo nghiệm một số giống ngô chất lượng protein cao (QPM) vụ Xuân và

vụ Thu Đông 2004 - 2005 tại Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ

Đại học Thái Nguyên, 3(47) tập 2 năm 2008, Tr. 55–61.

[4] Trần Trung Kiên, Phan Xuân Hào, Đỗ Tuấn Khiêm (2008), “Ảnh

hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến năng suất và chất lượng protein

của giống ngô chất lượng protein cao (QPM) - QP4 và ngô thường - LVN10

tại Thái Nguyên”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Số 11 -

tháng 11/2008, Tr. 36-42.

[5] Tran Trung Kien, Phan Xuan Hao, Đo Tuan Khiem (2008), “The

effect of nitrogen, phosphorus, potassium dosages on the grain yeild and

quality protein of quality protein maize variety (QPM) - QP4 and normal

maize variety - LVN10 in Thai Nguyen, Vietnam’, Book of Abstracts - The

Tenth Asian Regional Maize Workshop, Makassar, Indonesia, Oct. 20-23,

2008 (được báo cáo bằng Poster; đang được in trong cuốn sách "Maize for

Asia - Emerging Trends & Technologies").

167

Page 168: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Afendulop, K.P. (1972), “Ảnh hưởng của phân bón đến quá trình phát triển

các cơ quan của cây ngô” (tài liệu dịch), Một số kết quả nghiên cứu của

cây ngô, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

2. Vũ Kim Bảng (1991), “Nghiên cứu ảnh hưởng của việc xử lý một số chất

kích thích sinh trưởng và nguyên tố vi lượng đến chất dinh dưỡng ở hạt

ngô”, Kết quả nghiên cứu khoa học 1986 – 1991, Khoa Nông học –

Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Tr. 23-24.

3. Vũ Kim Bảng (1997), Nghiên cứu ảnh hưởng của việc phun lên lá dung

dịch ZnSO4 đến một số chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý, sinh hoá, năng suất,

chất lượng hạt ngô, Luận án Tiến sĩ nông nghiệp, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Bào (1996), Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật góp phần

tăng năng suất ngô ở Hà Giang, Luận án PTS Khoa học Nông nghiệp, Hà

Nội.

5. Berzenyi, Z., Gyorff, B. (1996), “Ảnh hưởng của các yếu tố trồng trọt khác

nhau đến năng suất ngô”, Báo Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm,

7(199), Tr. 5.

6. Nguyễn Văn Bộ (1993), “Hiệu lực phân kali bón cho cây ngũ cốc ăn hạt

trên các loại đất có hàm lượng kali tổng số khác nhau”, Tuyển tập Công

trình Nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Tr.

108–114.

7. Nguyễn Văn Bộ (2007), Bón phân cân đối và hợp lý cho cây trồng, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

168

Page 169: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

8. Nguyễn Văn Bộ, Emutert, Nguyễn Trọng Thi (1999), Một số kết quả

nghiên cứu về phân bón cân đối cho cây trồng ở Việt Nam, Kết quả

Nghiên cứu khoa học, Quyển 3, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Tuyển tập Tiêu chuẩn

nông nghiệp Việt Nam, tập 1, Tr. 55-71.

10. Trần Văn Chính (2006), Giáo trình thổ nhưỡng học, NXB Nông nghiệp,

Hà Nội.

11. Cục Trồng trọt - Bộ NN&PTNT (2006), Hướng dẫn quy trình kỹ thuật

thâm canh một số giống cây trồng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

12. Đường Hồng Dật (2003), Sổ tay hướng dẫn sử dụng phân bón, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

13. Đài Khí tượng thuỷ văn Thái Nguyên (2008), Số liệu khí tượng năm

2001–2007, Thái Nguyên.

14. Lê Văn Hải (2002), Nghiên cứu phản ứng của giống ngô lai chất lượng

protein cao HQ-2000 với phân bón trên đất bạc màu huyện Hiệp Hoà -

Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ nông nghiệp, Hà Nội.

15. Phan Xuân Hào, Vũ Đức Quang (2002), "Thực trạng sản xuất ngô ở Việt

Nam và chương trình nghiên cứu công nghệ sinh học về cây ngô", Hội

nghị ngô khu vực Châu Á lần thứ VIII, Băng Cốc, Thái Lan, tháng 8/2002.

16. Phan Xuân Hào, Trần Trung Kiên (2004), “Kết quả khảo nghiệm một số

giống ngô chất lượng protein cao tại Thái Nguyên”, Tạp chí Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn, số 1/2004, Tr. 29-31.

17. Bùi Huy Hiền (2002), "Tình hình sử dụng phân bón ở Việt Nam và vai trò

của phân hỗn hợp NPK khi bón đầy đủ và cân đối để thâm canh cây trồng

và bảo vệ môi trường", Hội thảo sản xuất và sử dụng phân bón Lâm

Thao, Hà Nội, Tr. 1-2.

169

Page 170: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

18. Ngô Xuân Hiền (1998), Ảnh hưởng của các loại phân chứa Lưu huỳnh (S)

đến năng suất, chất lượng đậu tương đông và ngô đông trên đất bạc màu,

Báo cáo khoa học – Viện Thổ nhưỡng Nông hoá, Hà Nội.

19. Nguyễn Thế Hùng (1996), “Xác định chế độ bón phân tối ưu cho giống

ngô LVN10 trên đất bạc màu vùng Đông Anh – Hà Nội”, Kết quả Nghiên

cứu Khoa học Nông nghiệp 1995 – 1996, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

20. Lê Quý Kha (2001), "Ảnh hưởng của thiếu nước và đạm vào giai đoạn

trước trỗ đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất ở ngô nhiệt đới,

Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 4/2001, Tr. 221–222.

21. Lê Quý Kha, Trần Hồng Uy (2002), "Chất lượng Protein và khu vực hóa

giống ngô HQ2000", Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số

4/2002, Tr. 361–364.

22. Lê Quý Kha, Trần Hồng Uy, Surinder K. Vasal, Châu Ngọc Lý, Bùi

Mạnh Cường, Nguyễn Tiến Trường, Đỗ Văn Dũng (2004), Quyết định

công nhận giống chính thức HQ2000, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn, Hà Nội.

23. Đỗ Tuấn Khiêm (1996), Nghiên cứu kỹ thuật trồng ngô xuân trên đất

ruộng một vụ ở một số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam, Luận án Phó

tiến sĩ khoa học nông nghiệp, Hà Nội.

24. Lê Văn Khoa, Trần Khắc Hiệp, Trịnh Thị Thanh (1996), Hóa học nông

nghiệp, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

25. Châu Ngọc Lý, Lê Quý Kha, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Bá Huy,

Nguyễn Việt Long (2008), "Khảo sát tập đoàn dòng ngô thuần có chất

lượng protein cao (QPM) mới chọn tạo ở miền Bắc Việt Nam", Tạp chí

Khoa học và Phát triển, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, tập VI số

2/2008, Tr. 110-115.

170

Page 171: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

26. Nguyễn Đình Mạnh (2004), Phân tích Nông hóa - Thổ nhưỡng, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

27. Trần Hữu Miện (1987), Cây ngô cao sản ở Hà Nội, NXB Nông nghiệp,

Hà Nội.

28. Trần Văn Minh (1995), Biện pháp kỹ thuật thâm canh ngô ở miền Trung,

Báo cáo nghiệm thu đề tài KN 01 – 05, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

29. Trần Văn Minh (2004), Cây ngô - Nghiên cứu và sản xuất, NXB Nông

nghiệp, Hà Nội.

30. Misuxtin, E.N., Peterburgxki, A.V. (1975), Đạm sinh học trong trồng trọt,

người dịch Nguyễn Xuân Hiển và CTV, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

31. Moxolov, I.V. (1979), Cơ sở sinh lý của việc sử dụng phân khoáng, người

dịch Phạm Đình Thái, Nguyễn Như Khanh, NXB Khoa học và Kỹ thuật,

Hà Nội.

32. Phạm Kim Môn (1991), “Dinh dưỡng khoáng và hiệu lực phân bón đối

với ngô đông sau 2 lúa trên đất phù sa sông Hồng”, Nông nghiệp và Quản

lý kinh tế, số 6/1991.

33. Nguyễn Ngọc Nông (1999), Giáo trình Nông hóa học, NXB Nông nghiệp,

Hà Nội.

34. Nguyễn Ngọc Nông (2000), Phân bón và dinh dưỡng cây trồng - Giáo

trình cao học ngành Trồng trọt, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,

Thái Nguyên.

35. Oparin, A.I. (1977), Cơ sở sinh lý thực vật, Tập II, người dịch Lê Doãn

Diên và CTV, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

36. Hoàng Văn Phụ, Đỗ Thị Ngọc Oanh (2002), Giáo trình phương pháp

nghiên cứu trong trồng trọt, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

171

Page 172: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

37. Dương Văn Sơn (2007), "Kết quả so sánh giống ngô chất lượng cao vụ

Xuân 2005 tại xã Hùng Đức, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang", Tạp

chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kỳ 1 - Tháng 3/2007, Tr. 77–78.

38. Tạ Văn Sơn (1995), “Kỹ thuật sử dụng phân bón thâm canh ngô”, Nghiên

cứu cơ cấu luân canh tăng vụ, các biện pháp kỹ thuật canh tác ngô, xây

dựng mô hình trồng ngô lai vùng thâm canh giai đoạn 1991 - 1995, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 51-66.

39. Nguyễn Trọng Thi, Nguyễn Văn Bộ (1999), “Hiệu lực của kali trong mối

quan hệ với phân bón cân đối cho một số cây trồng trên một số loại đất ở

Việt Nam”, Kết quả nghiên cứu khoa học, Quyển 3, NXB Nông nghiệp,

Hà Nội.

40. Ngô Hữu Tình (1995), “Nghiên cứu cơ cấu luân canh tăng vụ và các biện

pháp kỹ thuật canh tác cây ngô, xây dựng mô hình trồng ngô lai ở các

vùng thâm canh giai đoạn 1991 – 1995”, Nghiên cứu cơ cấu luân canh

tăng vụ, các biện pháp kỹ thuật canh tác ngô, xây dựng mô hình trồng

ngô lai vùng thâm canh canh giai đoạn 1991 - 1995, NXB Nông Nghiệp,

Hà Nội, Tr. 5–38.

41. Ngô Hữu Tình (2003), Cây ngô, NXB Nghệ An, Nghệ An.

42. Ngô Hữu Tình (2009), Chọn lọc và lai tạo giống ngô, NXB Nông nghiệp,

Hà Nội.

43. Ngô Hữu Tình, Lê Văn Dũng, Bùi Thế Hùng, Lê Thị Gấm (2001), "So

sánh hiệu lực của một số loại phân bón tới sự sinh trưởng phát triển của

giống ngô LVN10 vụ Xuân 2000, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, số 1/2001, Tr. 60–61.

44. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2008, NXB Thống kê, Hà Nội.

45. Tổng cục Thống kê (2009).

172

Page 173: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

46. Trạm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng miền Trung và Tây Nguyên

(2005), Báo cáo kết phần khảo nghiệm giống ngô TPTD tại Duyên hải

Nam Trung bộ năm 2004 - 2005 – Đề tài nghiên cứu chọn tạo giống ngô

TPTD giai đoạn từ năm 2001- 2005, Quảng Ngãi.

47. Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng TƯ (2005), Báo cáo tổng

kết quả khảo nghiệm giống ngô TPTD mới – Đề tài nghiên cứu chọn tạo

giống ngô TPTD giai đoạn từ năm 2001- 2005, Hà Nội.

48. Trung tâm NC & SX giống ngô Sông Bôi (2005), Báo cáo kết quả thực

hiện đề tài nghiên cứu chọn tạo giống ngô TPTD đáp ứng cho nhu cầu của

sản xuất 5 năm 2001- 2005, Hoà Bình.

49. Lê Quý Tường, Trương Đích, Trần Văn Minh và CTV (2001), "Xác định

mức bón đạm hợp lý đối với giống ngô lai LVN4 trên đất phù sa cổ ở

Quảng Ngãi", Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 7/2001,

Tr. 448–449.

50. Viện Nghiên cứu Ngô (2006), Báo cáo kết quả chọn tạo giống ngô thụ

phấn tự do QPM, Hà Tây.

51. Viện Nghiên cứu Ngô (2006), Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học công

nghệ (2001 – 2005), Hà Tây.

52. Nguyễn Vy (1998), Độ phì nhiêu thực tế, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

53. Vũ Hữu Yêm (1995), Giáo trình phân bón và cách bón phân, NXB Nông

nghiệp, Hà Nội.

54. Vũ Hữu Yêm, Karl H. Diekmann, Hà Triệu Hiệp và CTV (1999), “Kết

quả nghiên cứu phân bón chương trình hợp tác nghiên cứu giữa ĐHNN I

và Norsk, Hydro Đông Dương (1996 – 1998), Báo cáo thí nghiệm sử

dụng phân bón ở miền Bắc Việt Nam, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

173

Page 174: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

55. Akhtar, M., Ahmad, S., Mohsin, S., Mahmood, T. (1999), “Interactive

effect of phosphorus and potassium nutrition on the growth and yield of

hybrid maize, (Zea mays L,)”, University of Agriculture, Faisalabad,

(Pakistan), Dept of Agronomy, Literature Update on Maize, 5 (6),

CIMMYT.

56. Alexander, D.E. (1966), “Problems associated with breeding opaque-2

corn and some proposed solutions”, Proc. High Lysine Corn, Conf. E. T.

A. N. Mertz. O. E. Washington D. C., Corn refiners Association Inc.:156.

57. Arnon, I. (1974), Mineral Nutrition of Maize, International Potash

Institute, pp. 15-21, 76-78, 100-101, 117-118, 270.

58. Barbieri, P.A., Sainz, H.R., Andrade, F.H., Echeverria, H.E. (2000), “Row

spcing effect at different levels of Nitrogen availability in Maize”,

Agronomy Journal, 92(2), Literature Update on Maize, Vol,6, CIMMYT,

pp. 283 – 288.

59. Beringer, H. and Northdurft, F. (1985), “Effects of potassium on plant and

cellular structures”, in: Potassium in agriculture, R, D, Munson, ed,

American Society of Agronomy, Crop Science Society of America and

Soil Science Society of America, Madison, WI, pp. 351 – 364.

60. Bjarnason, M.a, Vasal, S.K. (1992), “Breeding of quality protein maize

(QPM)”, Plant Breeding, Rev, J, Janick: 181.

61. Chau Ngoc Ly, Le Quy Kha, Bui Manh Cuong, Do Van Dung (2008),

"Performance of newly developed QPM inbred lines nurseries by anther

culture and conventional conversion from normal maize lines in North

Vietnam", Book of Abstracts, 10th Asian Regional Maize Workshop,

Makassar, Indonesia, 20-23 October 2008.

62. CIMMYT (2001), The Quality Protein Maize Revolution.

63. De. Geus (1973), Fertilizer guide for tropic and sutropic.

174

Page 175: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

64. Debreczeni, K. (2000), “Response of Two Maize Hybrids to Different

Fertilizer – N forms, (NH4 – N and NO3 – N), Communication in soil

science Plant analysis”, (31), Literature Update on Maize, 2000, Vol,6,

CIMMYT, pp. 11 – 14.

65. Dilip Singh, S.L.Godawat (2008), "Effect of Integrated Nutrient

Management on Quality Protein Maize Productivity and Soil Health in

Vertisols of Central India", Book of Abstracts, 10th Asian Regional

Maize Workshop, Makassar, Indonesia, 20-23 October 2008.

66. FAO (1992), Maize in Human Nutrition, Rome.

67. FAOSTAT DATABASE, 2009.

68. GMO - COMPASS, 2/2009.

69. Harstead, D.D. a. B., L.F. (1969), High lysine maize in its proper

perspective, Proc, 24th Annual Corn and Sorghum Research Conference,

American Seed Trade Assoc, Chicago IL.

70. Huber, S.C. (1985), “Role of potassium in photosynthesis and respirator”,

in: Potassium in agriculture, R, D, Medison, Ed, American Society of

Agronomy, Crop Science Society of America and Soil Science Society of

America, Madison, WI.

71. Hussain, I., Mahmood, T., Ullah, A., Ali (1999), "Effect on nitrogen and

sulphur on growth, yield and quality of hybrid Maize (Zea mays L.)",

Literature Update on Maize, University of Agriculture, Faisalabad,

(Pakistan), Dept of Agronomy, Vol. 5 (6), CIMMYT.

72. Lei, Y., Zhang, B., Zhang, M., Zhao, K., Qio, W., and Wang, X. (2000),

“Corn Response to Potassium in Liaoning Province”, Better Crops, 14

(1), pp. 6 – 8.

175

Page 176: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

73. Made, J. Mejaya, A. Takdir, N. Iriany, M. Pabendon, M. Yasin HG

(2008), "Development of Improved Maize Varieties in Indonesia", 10th

Asian Regional Maize Workshop, Makassar, Indonesia, 20-23 October 2008.

74. Magnavaca, R.M., E.T. (1992), “Quality protein maize development in

Brazil”, Quality protein maize,, St Paul,, Conference paper, St, Paul: AACC.

75. Mertz, E.T., (1969), Conf. on Amino-acid Forttfication of protein Foods,

Cambridge, Mass, Sept., p. 16-18.

76. Mertz, E.T., Bates, L.S., and Nelson, O.E., (1964), “Mutant gene that

changes protein composition and increases lysine content of maize

endosperm”, Science, 145, p. 279-280.

77. Mitsuru Osaki (1994), “Comparison of productivity between tropical and

temperate maize I, Leaf senescence and productivity in relation to

nitrogen nutrien”, Soil Sci, Plant nutr., 41 (3), pp. 439 – 450.

78. Mitsuru Osaki (1995), “Comparison of productivity between tropical and

temperate maize I, Parameters determining the productivity in relation to

the amount of nitrogen absorbed”, Soil Sci, Plant nutr., 41 (3), pp. 451 – 459.

79. Patrick, Loo (2001), Guidelines for Trials in Corn for Hybrid Seeds

Production, pp. 92, 117.

80. Pixley, K. (2008), "Agriculture for nutrition: Maize biofortification

strategies and progress", 10th Asian Regional Maize Workshop,

Makassar, Indonesia, 20-23 October 2008.

81. Rhoads, F.M. (1984), Nitrogen or water stress: Their interrelationships,

American Society of Agronomy, Crop Science Society of America and

Soil Science Society of America, Madison, Wisconsin USA, pp, 307 – 308.

82. Shan Ney Huang (1994), "Soil Management for sustainable food

production in Taiwan", Hualian District Agricultural Improvement

176

Page 177: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

station Chiang Town, Hualian Prefuture R. O. C., Extension bulletin 390,

pp. 4, 10 – 12.

83. Sinclair, Tr., Muchow, R.C. (1995), “Effect of Nitrogen supply on maize Yield,

1, modeling physiological Response”, Agronomy Journal 87(4), pp. 632 – 641.

84. Sing, N.N., Pever, H. Zaidi, Meena Mehta and Poonam Yadav (2004),

Abiotic stresses, The Major constraint limiting Maize production and

productivity in south and southeast Asia. Improving maize productivity

under Abiotic stresses, ICAR and CIMMYT Hydrabad, India, pp. 1-3.

85. Subandi, Fadhly, A.F. and Momuat, E.O. (1998), “Fertilization and

Nutrient Management for Maize cropping in Indonesia”, Proceedings of the

seventh Asian regional Maize Workshop, Losbanos, Phillipines, pp. 385 – 387.

86. Sucler, C.H. (1985), “Role of potassium in enzyme catalysts”, in:

Potassium in agriculture, R, D, Munson, ed American Society of

Agronomy, Crop Science Society of America and Soil Science Society of

America, Madison, WI, pp. 337 – 349.

87. Thomas Dieroff, Thomas Fairhurst and Ernst Mutert (2001), Soil Fertility

Kit, pp, 38, 108.

88. Thomas, R., Sinclair, Russell, C. Muchow (1995), “Effect on nitrogen

supply on maize yield : I Modeling Physiological Responses”, Agronomy

Journal Vol 87, (4), pp, 632 – 641.

89. Tisdale, S.I., Nelson, W.I. and Beaton, J.D. (1985), Soil fertility and

fertilizer 4th, Ed, Macmillan, New York.

90. Tomov, N. (1984), Tsarevisata v Bungaria, Sofia, p. 57-63, 103-110.

91. Uhart, S.A., Andrade, F.H.a. (1995), “Nitrogen deficiency in maize, 1,

Effects on crop growth, development, dry matter, partitionaing and kernel

Set”, Crop science 35 (5), pp, 1376 – 1383.

177

Page 178: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

92. Uhart, S.A., Andrade, F.H.b. (1995), “Nitrogen deficiency in maize, 2,

Carbon Nitrogen interaction Effects kernel number and grian yield, 1”,

Crop science 35 (5), pp, 1384 – 1389.

93. Vasal, S.K. (1975), “Use of genetic modifier to obtain normal - type

kernel with the opaque-2 gene”, High Quality Protein Maize, Hutchinson

Ross Publishing Stroudsburg, P.A.:197.

94. Vasal, S.K. (2001), “High Quality Protein Corn”, Specialty Corns, Boca

Raton London New York Washington, D.C., CRC Press.

95. Vasal, S.K. (2002), High Quality Protein Corn, Boca Raton London New

York Washington, D. C., CRC Press.

96. Vasal, S.K., Villegas, E., Bjarnason, M., Gelaw, B. and Goertz, P. (1980),

“Genetic modifiers and breeding strategies in developing hard endosperm

opaque-2 materials”, Improvement of Quality Traits of Maize for Grain

and Sillage Use, W, G, a, P, Pollmer, R, H,, Nighoff, The Hague: 37.

97. Vasal, S.K., Villegas, E. and Tang, C.Y. (1984), “Recent advances in the

development of quality protein maize at The Ineternaitonal Maize and

Wheat Improvement Center”, Cereal Grain Protein Improvement,

Vienna, IAEA:167.

98. Vivek, B.S., A.F. Krivanek, N. Palacios-Rojas, S. Twumasi-Afriyie and

A.O. Diallo (2008), Breeding Quality Protein Maize (QPM), Protocols for

Developing QPM Cultivars, Cimmyt, p. 34.

99. William Bennet F. (1993), Nutrient Deficiencies and Toxicities in Crop

Plant, pp. 2.

100. Wolfe, D.W., Henderson, D.W., Hsiao, T.C. and Alvino, A. (1988),

Interactive Water and Nitrogen Effect on Senescence Leaves Published in

Argon, J. (80), pp. 865-870.

178

Page 179: Luan an tien si nn sau hđ nn.18.12

101. Yasin, H.G., Made J. Mejaya, Firdaus Kasim and Subandi (2007),

“Development of Quality Protein Maize (QPM) in Indonesia”, In

Proceedings of the Ninth Asian Regronal Maize Workshop, China

Agricultural Science and Technology Press, 2007, p. 282-285.

102. Zuber, M., T.R. Colbert, L.L. Darrah (1980), Crop Sci., 20, N6, p. 711 -

717.

179