drukpa choegon rinpoche
DESCRIPTION
Tiểu sử, truyền thừa và một vài giáo lý của đức Drukpa Choegon RinpocheTRANSCRIPT
NGÀI DRUKPA CHOEGON RINPOCHE
Hóa thân đời thứ 9 hiện tại được nhận ra khi lên ba tuổi
bởi ngài Gyalwang Karmapa thứ 16. Ngài Karmapa gửi ngài Kyabgon Khamtrul
Rinpoche đời thứ 8 ba bức thư miêu tả chính xác vị trí của ngài Drukpa Choegon, ngôi
nhà, tên gia đình ngài, và năm mà ngài sinh ra. Kyabgon Khamtrul Rinpoche như thế
cùng rất nhiều các vị yogi viếng thăm cha mẹ của Rinpoche ở Kinnaur, một vùng xa xôi
ở dãy Himalaya, nơi mà Choegon Rinpoche đời trước đã thị tịch. Cả cha và mẹ của
Rinpoche là những đệ tử chí thành của Choegon Rinpoche đời trước. Cha của ngài là một
vị yogi khác thường đã hoàn thành hơn 20 năm nhập thất ở Dechen Choekhor Tây Tạng
dưới sự hướng dẫn của Choegon Rinpoche đời thứ 8.
Rinpoche được làm lễ đăng ngôi bởi vị thầy gốc của ngài, đức Kyabgon Khamtrul
Rinpoche đời thứ 8 khi lên sáu ở tu viện Khampagar, Ấn Độ. Sau đó ngài bắt đầu sự giáo
dục và rèn luyện chính thức, bao gồm, tập đọc, viết, viết chữ đẹp, nghi lễ, mandala cát,
quán tưởng và thiền định. Ở tuổi 14, Rinpoche được mời đến Bhutan bởi đức Kyabgon
Khamtrul Rinpoche. Ở đây Kyabgon Khamtrul Rinpoche đã trao truyền toàn bộ giáo lý
của truyền thống Drukpa Kagyu cho ngài. Không lâu sau đó Kyabgon Khamtrul
Rinpoche mất ở Bhutan vào tuổi 49. Ngài Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche vẫn ở
Bhutan vào thời điểm đó, và đã dạy ngài cho đến khi mất năm 1991.
Ba vị thầy gốc của Rinpoche là ngài Kyabgon Khamtrul Rinpoche đời thứ 8, ngài Kyabje
Dilgo Khyentse Rinpoche và ngài Kyabgon Trulshik Adeu Rinpoche đời thứ 8. Các vị
thầy quan trọng khác của Rinpoche trong đời này gồm có đức Gyalwang Karmapa đời
thứ 16, đức Giáo chủ đời thứ 68 của Bhutan, ngài Kyabje Tulku Urgyen Rinpoche, ngài
Trulshik Chokyi Lodro Rinpoche và ngài Taklung Tsetrul Rinpoche. Theo lời khuyên của
ngài Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche, Rinpoche đã hoàn thành nhập thất rất nhiều các
thực hành bao gồm Vajrakilaya, Lục Độ Mẫu, Phật Vô Lượng Thọ, Kim Cương Thủ,
Kurukulle, Liên Hoa Sinh. Trong khi đó ngài Kyabgon Trulshik Adeu Rinpoche đời thứ
8 đã hướng dẫn Rinpoche hoàn thiện mọi thực hành và nhập thất quan trọng của dòng
Drukpa Kagyu.
Ở tuổi 19, Rinpoche bắt đầu các nghiên cứu triết học của mình, kéo dài trong 9 năm và ở
tuổi 28, ngài nhận bằng Khenpo (tương đương Tiến sĩ). Rinpoche sau đó được bầu là lãnh
tụ tinh thần của cộng đồng hơn 600 người Tây Tạng ở Tashi Jong và các cộng đồng xung
quanh. Trong suốt thời gian đó, ngài xây dựng một ngôi trường mới cho các lama, phục
hồi nhiều ngôi chùa, cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho nhiều lễ puja lớn hàng năm, và giúp
bảo vệ nguồn nước sạch cho cộng đồng, cải thiện tình hình giáo dục cho các tu sĩ, tăng
lương cho các công nhân bình thường, và truyền cảm hứng cho nhiều người trẻ làm việc
cho cộng đồng. Ngài cũng giúp người già và người nghèo khó, khởi động một chương
trình bảo trợ, cung cấp quỹ để cải thiện y tế.
Cũng như các vị hóa thân đời trước, là một vị nắm giữ vĩ đại dòng truyền thừa Drukpa
Kagyu, Rinpoche đang làm việc không biết mệt mỏi và vì chúng sinh để bảo tồn và phát
triển chánh pháp và tinh túy dòng truyền thừa Drukpa Kagyu. Ngài đã thiết lập và gây
quỹ cho “Đại Quán Đảnh và Trao Truyền của Dòng Truyền thừa” khởi xướng bởi đức
Kyabgon Adeu Ripoche thứ 8 đến với mọi Rinpoche, tulku và tăng sĩ dòng Drukpa
Kagyu ở Tây Tạng, Nepal và Ấn Độ. Theo cách này, như được tiên đoán bởi Choegon
Rinpoche đời trước, Kyabgon Adeu Rinpoche trở thành Đạo sư “Chuỗi Hạt Vàng” thứ 46
của dòng Drukpa Kagyu.
Rinpoche hiện nay đang lãnh đạo dòng Drukpa Kagyu ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm
Nangchen và Tây Tạng. Ngài chịu trách nhiệm lớn trong việc bảo vệ sự thanh tịnh và liên
tục của dòng truyền thừa. Mặc dù với những khó khăn về sức khỏe, Rinpoche không bao
giờ do dự mà nỗ lực tiến về phía trước với sự nhiệt thành lớn lao để bảo vệ chánh Pháp
và dòng truyền thừa Drukpa Kagyu không gián đoạn vì lợi lạc của tất thảy hữu tình
chúng sinh. Ngài tham gia vào rất nhiều các dự án Phật Pháp khác nhau bao gồm việc
xây dựng lại tu viện Dechen Choekhor – tu viện chính vô cùng quan trọng của Drukpa
Kagyu, và tiếp tục các nỗ lực của ngài để bảo vệ các giáo pháp linh thiêng của truyền
thừa, trong khi vẫn làm việc xây dựng tu viện nữ ở Kinnaur, nơi ngài sinh ra. Mặc dù với
nguồn quỹ ít ỏi, Rinpoche đã rộng rãi cung cấp tiền cho việc tái thiết và bảo tồn rất nhiều
các ngôi chùa lịch sử cổ kính trên khắp vùng Tây Himalaya và Tây Tạng.
Giới thiệu ngắn gọn về dòng truyền thừa Drukpa Choegon:
Dòng truyền thừa Drukpa Choegon bắt đầu từ đầu thế kỷ 16 khi mà Choegon đệ nhất trở
thành người kế thừa ngài Ngawang Choekyi Gyalpo, và sau đó là thầy của Drukchen
Pema Karpo và Lhatsewa Ngawang Zangpo.
Các vị Drukpa Choegon Rinpoche là một trong ba vị lama và bậc trì giữ dòng truyền thừa
quan trọng nhất của dòng Drukpa Kagyu. Ngài là hóa thân của đức Kim Cang Thủ, và
các đời trước của Rinpoche có thể truy nguyên từ thời Ấn Độ cổ khi mà ngài là đệ tử và
vị thị giả thân cận của Đức Phật, ngài A Nan.
Những vị hóa thân gần hơn của Drukpa Choegon Rinpoche là Vua Indra Bhuti (vị vua
của xứ Oddiyana người mà nuôi dưỡng Guru Rinpoche khi ngài còn nhỏ), Đại thành tựu
giả Tilopa, Vua Tri Ralpachen (một trong ba vị vua Pháp vĩ đại của Tây Tạng), Lochen
Verotsana (dịch giả vĩ đại xứ Tây Tạng thế kỷ 8), Rechung Dorje Drakpa (tâm tử của
Milarepa), Palchen Galo (thường được biết đến là Ga Lotsawa, đại thành tựu giả, dịch giả
Tây Tạng, người đã đến Ấn Độ và mang về Tây Tạng rất nhiều giáo lý quý giá, ngài
Phuljung Samgyal Khache (đạo sư chứng ngộ vĩ đại pháp Mahakala) và đức Sangdak
Namkha Palzang.
Các hóa thân đời trước của Drukpa Choegon Rinpoche:
Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ nhất (1507)
Dorje Zinpa Choekyi Gonpo, được biết đến là Druk Shabdrung Choekyi Gonpo là một
hóa thân của đức Kim Cang Thủ. Ngài sinh ra vào đầu thế kỷ 16, và sau đó trở thành
người kế thừa của Ngawang Choekyi Gyalpo, Đạo sư “Chuỗi hạt vàng” thứ 23 của dòng
Drukpa Kagyu.
Ngài là một hành giả và đạo sư chứng ngộ các pháp như Chakrasamvara (bổn tôn Thắng
Lạc Kim Cương), Vajrayogini (Kim Cương Du già thánh nữ), Vajrapani (Kim Cương
Thủ), Lục Độ Mẫu và đặc biệt là một đạo sư thành tựu pháp Mahakala tứ thủ, pháp thực
hành chính yếu của truyền thống Drukpa Kagyu.
Đạo sư vĩ đại không thể tưởng tượng nổi này đã đạt sự chứng ngộ hoàn toàn thông qua
lòng sùng mộ với thầy của ngài và pháp thực hành của Đức Phật. Bởi vì sự chứng ngộ
tâm linh của ngài, ngài được gọi là Dorje Zinpa của xứ Tsari, nghĩa là Bậc trì giữ Kim
Cương của vùng đất linh thánh Tsari. Đệ tử của ngài bao gồm Lhatsewa Ngawang
Zangpo (Yongdzin Rinpoche đệ nhất) và Drukchen Pema Karpo, người thấy ngài như là
bất khả phân với đức Liên Hoa Sinh.
Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ hai
Dudjom Dorje, một đại thành tựu giả vĩ đại, là đệ tử của Pema Karpo và Yongdzin
Ngawang Zangpo. Đức Drukpa Choegon đệ nhị giành phần lớn cuộc đời thực hành ở các
vùng hoang vu hẻo lánh, nơi mà ngài đạt được sự chứng ngộ hoàn hảo. Hóa thân này từ
bỏ mọi hoạt động thế tục và giành trọn cuộc đời như là một vị yogi ẩn mình.
Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ ba
Jetsun Chokyi Wangchuk, một đạo sư chứng ngộ. Hóa thân thứ ba này được công nhận
bởi Yongzin Kunga Lhundrup đệ nhị, thầy của đức Dalai Lama thứ 5.
Ngài nhận các giáo lý trực tiếp từ nhiều bổn tôn và sau đó giành nhiều năm để thực hành
ở một địa điểm nhập thất linh thánh ở vùng Tsari Chigchar (trung tâm nhập thất của dòng
Drukpa Kagyu ở một vùng xa xôi trên đất Tây Tạng) cho đến khi Kim Cương Du già
thánh nữ xuất hiện và hướng dẫn ngài ra nhập thế để làm lợi lạc cho chúng sinh.
Đệ tử chính của ngài là Khamtrul Kunga Tenzin đời thứ ba, và là vị thầy gốc của đức
Drukpa Yongzin Geleg Sherpa đời thứ 3. Đức Drukpa Choegon đời thứ ba đã chỉ dẫn
Khamtrul Rinpoche đi đến Đông Tây Tạng để phát triển truyền thừa và làm lợi lạc cho
chúng sinh. Với sự gia trì của Choegon đệ tam và đức Guru Rinpoche, ngài Khamtrul đời
thứ 3 đã xây dựng tu viện Khampagar ở Đông Tây Tạng, sau đó phát triển thành hơn 200
tu viện trực thuộc, và trở thành người kế nhiệm của dòng Dechen Choekhor ở Đông Tây
Tạng.
Drukpa Choegon đời thứ ba hoàn thành việc xây dựng tu viện Dechen Choekhor trong
lần hóa thân này.
Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ tư
Thubchen Jamgon Gyepa, đệ tử của Yongzin Geleg Sherpa đời thứ 3. Hóa thân này được
cho là đã nhận được sự gia trì của đức Văn Thù, và là một đứa bé xuất chúng. Ngài kể lại
các đời quá khứ và có thể kể ra các đời của những người khác.
Ngài là một vị Lama uyên bác vô cùng đã giành trọn cuộc đời ở tu viện Dechen
Choekhor, hiến dâng cuộc đời cho việc bảo tồn các giáo lý dòng Drukpa Kagyu. Ngài có
rất nhiều đệ tử xuất chúng, bao gồm Drukpa Yongzin Jampal Pawo nổi tiếng, hóa thân
của Chakrasamvara, nổi tiếng về các chỉ dẫn của ngài về thực hành Tsalung, một trong
sáu Pháp du già của Naropa. Ngài là vị thầy gốc của Drukchen Kunzig Choekyi Nangwa.
Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ năm
Thubchen Jampal Dorje, một đại thành tựu giả vĩ đại. Khi ngài là một đứa trẻ, bức tượng
đức Liên Hoa Sinh giơ tay lên và chạm vào đầu ngài ba lần, sau kinh nghiệm kỳ lạ này,
Choegon đệ ngũ đã có thể hiểu các điểm tinh tế nhất của Pháp.
Là một yogi chứng ngộ rất cao, ngài đã thành lập rất nhiều tu viện ở Tây Tạng và trên
khắp vùng Himalaya. Ngài đào tạo rất nhiều vị lama, làm việc tận tụy vì dòng truyền thừa
và đem đến lợi lạc cho vô số chúng sinh. Đệ tử chính là ngài, Khamtrul Rinpoche đệ ngũ,
Drubgyu Nyima, một terton nổi tiếng, sau đó đã đăng ngôi như vị kế thừa của ngài.
Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ sáu
Chokzig Chokyi Shenyen đã giành 12 năm nhập thất ở Tsari Chigchar, và giành phần lớn
cuộc đời để bảo tồn các giáo lý và bản văn hiếm. Ngài đã đi bộ du hành trong nhiều ngày
đến vùng Đông Tây Tạng để trao truyền các giáo lý; theo cách này, ngài viếng thăm hơn
một trăm tu viện ở miền Đông.
Hóa thân này đã thành lập rất nhiều nữ tu viện, và ủng hộ truyền thống cho nữ tu sĩ.
Đệ tử chính của ngài gồm có Drukpa Yongzin Sheja Kunchen thứ 6, và Drubwang
Tsoknyi Rinpoche thứ nhất.
Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ bảy
Dorje Zinpa Shedrup Chokyi Nyingye là một đệ tử của Ngedon Choekyi Gyatso.
Mahakala đã xuất hiện trước ngài trong các linh kiến và với sự nghiên cứu sâu hơn, kiến
thức của ngài về mật điển Mahakala đã trở nên vô cùng rộng lớn. Thực hành Mahakala là
một trong các thực hành chính của dòng Drukpa Kagyu.
Hóa thân đời này giành phần lớn cuộc đời ở miền Đông Tây Tạng, làm việc vì chúng sinh
không biết mệt mỏi cho dòng truyền thừa; ngài đã đóng góp lớn lao vào Phật Pháp và để
lại dấu ấn khó phai trong trái tim người dân Tây Tạng.
Ngài có rất nhiều đệ tử xuất sắc. Trong số đó có ngài Khamtrul Tenpe Nyima thứ 6, ngài
Adeu Rinpoche thứ 6, và Choje Sonam Tenzin. Trong nửa sau cuộc đời, trưởng vùng
Nangchen của tỉnh Kham đã mời ngài đến Nangchen – một vùng rộng lớn ở Đông Tây
Tạng, ở đó, ngài đã phổ biến rất nhiều giáo lý, phát triển thêm nữa truyền thừa Drukpa
Kagyu và làm lợi lạc cho rất nhiều chúng sinh.
Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ tám
Thutop Chokyi Gyatso nhận được sự trao truyền đầy đủ của dòng truyền thừa từ đức
Khamtrul Rinpoche thứ 6, Tenpe Nyima, và sau đó nhập thất ở Tsari Chigchar. Ngài nổi
tiếng vì lòng sùng mộ với bậc thầy gốc và đã làm theo các chỉ dẫn của thầy một cách toàn
vẹn. Ngài tinh tấn kết tập và bảo vệ các giáo lý dòng Drukpa Kagyu, và trao truyền các
giáo lý linh thiêng này đến các vùng xa xôi nhất của Tây Tạng và Himalaya.
Trong cuộc Cách mạng Văn hóa, Rinpoche đến vùng Kinnaur ở Ấn Độ, nơi mà ngài có
rất nhiều đệ tử, và mất năm 1964 ở tuổi bát tuần. Trong số các đệ tử của ngài có
Gyalwang Drukchen thứ 11, Khamtrul Rinpoche thứ 7, và 8, Trulshik Adeu Rinpoche
thứ 8, Drubwang Shakya Shri, Pema Choegyal, Sendak Rinpoche, Je Khenpo Kunleg của
Bhutan, Apo Rinpoche, Tsoknyi Rinpoche thứ 2, Thuksey Rinpoche và phần lớn các đạo
sư Drukpa cùng thời kỳ. Vì lòng từ bi lớn lao và những nỗ lực của ngài mà dòng truyền
thừa Drukpa Kagyu đã phát triển như ngày hôm nay ở Tây Tạng, Nepal và Ấn Độ.
Ngày nay Các bậc trì giữ dòng Drukpa Kagyu chủ yếu nắm giữ dòng truyền thừa của
Drukpa Choegon Rinpoche thứ 8. Vì thế ngài không chỉ duy trì một truyền thừa thanh
tịnh mà còn trở thành hiện thân của một bậc Vajradhara.
Drukpa Choegon Rinpoche
Ngài Kyabje Drukpa Choegon Tenzin Chokyi Gyatso đời thứ chín sinh ra tại Sonam
Ling, khu định cư Tây Tạng đầu tiên ở Ladakh năm 1968, cha ngài là Tashi Chotob, và
mẹ ngài là Drukkyid Wangmo. Trong ba ngày sau khi chào đời, mặc dù đèn bơ của gia
đình đã cạn, nhưng ngọn đèn vẫn cháy. Đó được coi là một điềm tốt lành.
Khi hai vị thị giả của Rinpoche trong đời trước từ Tu Viện của ngài Kyabje Ga Rinpoche
đệ tam ở Dehradun đến Ladakh, tìm kiếm hóa thân của vị thầy, họ đến các ngôi làng khác
nhau một cách riêng biệt để xác định vị trí cha mẹ của Rinpoche, bởi vậy, họ đã rời
Ladakh. Trong đêm đó, vị Rinpoche trẻ tuổi đã tỉnh dậy trong khi đang ngủ, nói với me
ngài, “Hai vị tăng đã đến đây để mang con đi.” Sau đó, ngài tiếp tục ngủ.
Khi Rinpoche còn trẻ, ngài từng có rất nhiều các tiên đoán. Ví dụ, một buổi sáng sớm
ngài nói với mẹ, “Dậy đi mẹ ơi, chúng ta cần dọn nhà trước khi cha về vào hôm nay.”
Thực tế, cha ngài đi đến Delhi đã về nhà chỉ một thời gian ngắn sau khi Rinpoche nói
những lời này.
Khi Rinpoche lên 5, ngài Ga Rinpoche và ngài Drukpa Yongdzin Rinpoche cùng với
Rabten Gelong Jamyang từ Shey, vị thị giả của Drukpa Choegon Rinpoche đời trước đến
Ladakh. Lúc đó, vị Rinpoche trẻ tuổi đã hành xử theo một cách như thể ngài nhận ra
Gelong Jamyang là vị thị giả đời trước của mình, ngài đi đến chỗ Gelong Jamyang và ôm
ông ấy. Sau đó, ngài được phát hiện đã đang lấy các vật sở hữu của người tiền nhiệm,
như là chuỗi hạt, chuông, chày, damaru và nhiều thứ khác. Theo cách này, ngài đã được
nhận ra không thể nhầm lẫn là hóa thân của đức Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ tám.
Rất nhiều điềm cát tường xảy đến vào thời điểm buổi gặp mặt diễn ra. Toàn bộ Khu Định
cư Tây Tạng thấy mưa, tuyết, sấm chớp xảy đến cùng lúc.
Sự xác nhận hóa thân đời thứ chín của đức Drukpa Choegon Rinpoche được sự xác nhận
thêm của ngài Dalai Lama và đức Pháp vương Gyalwang Drukpa. Sự công nhận của đức
Dalai Lama dựa trên những tiên đoán và quan sát về vị hóa thân của Nechung Chogyal
(Nghi thức Tiên đoán) và Gadong (Tiên đoán lần hai).
Lên 7 tuổi, Rinpoche được đưa đến tu viện Hemis Jangchub Choeling, nơi mà ngài được
chính thức đăng ngôi. Sau đó, ngài được đăng ngôi tại Gaden Choekhor, tu viện của
Sonam Druk Gye (tu viện Rarang) ở Kinnaur. Ngài nhận được pháp danh Ngawang
Tenin Chokyi Gyatso và giới nguyện quy y từ đức Dalai Lama. Năm 1976, ngài thọ giới
Ưu Bà Tắc từ đức Pháp vương Gyalwang Drukpa và nhận pháp danh Thutop Dorje
Gocha Gyurmey Thrinley Gyatsoi De.
Dưới sự chỉ dạy của Đại Đức Lobsang Gyatso, Đại đức Damcho Gyaltsen và nhiều bậc
thầy tâm linh khác, Rinpoche học ngữ pháp nói chung. Tại trường Biện chứng ở
Dharamsala, ngài nghiên cứu các bộ đại luận của triết học Phật giáo. Từ Gelong Rigzin
Chodar, vị thị giả của đức Drukpa Choegon Rinpoche đời thứ tám, ngài học tụng đọc các
bản văn và các thực hành khác của truyền thừa Drukpa. Từ cố Ga Rinpoche, ngài nhận
các chỉ dẫn cốt tủy về Mahamudra và Dzogchen. Từ đức Khyentse Gyatso Rinpoche,
ngài nhận được Sáu học thuyết của Naropa trên nền tảng truyền thừa Drukpa truyền
xuống từ đức Drubwang Shakya Shri. Từ đức Dalai Lama, ngài nhận quán đảnh
Bodhisattvacharyavattara (Bồ Đề Hạnh Kinh), và Chakrasamvara (Thắng Lạc Kim
Cương) cũng như rất nhiều các quán đảnh, khẩu truyền và giáo lý khác của truyền thống
Cựu Dịch và Tân Dịch của Phật giáo Tây Tạng. Từ đức Pháp vương Gyalwang Drukpa,
ngài nhận vô vàn các quán đảnh, khẩu truyền và các chỉ dẫn mở rộng của dòng truyền
thừa Drukpa.
Kể từ năm 1980, Rinpoche tìm kiếm và phục hồi Druk Thubten Dhargey Ling ở Nyoma.
Ngài cũng ban rất nhiều quán đảnh, khẩu truyền và các giáo lý của dòng Drukpa đến chư
tăng nơi đây. Trong lễ Du Chod, được biết đến là lễ hội Nyoma Gutor, rơi vào ngày 28
tháng 8 theo Tạng lịch, Rinpoche đã điều hành buổi tụ hội và ban các giáo lý mở rộng
cho những người trong vùng.
Năm 1985, theo lời đề nghị tha thiết của nhân dân Nubra, Rinpoche đến thăm Nubra lần
đầu tiên. Kể từ đó, việc thực hành trì tụng 100 triệu thần chú Mani đã được tổ chức trong
nhiều làng mạc ở Ladakh. Trong suốt các buổi lễ tâm linh này, Rinpoche luôn luôn giảng
dạy liên quan đến sự thực hành Pháp hằng ngày.
Cho đến nay, Rinpoche đã hướng dẫn 8 cuộc trì tụng 100 triệu thần chú ở Chemdrey, 3 ở
Shey, 5 lần ở Nubra, 3 lần ở Gya và Meru, 2 làn ở Tewa, 2 lần ở Skyu-Markha và 3 lần ở
Sakti. Ngài cũng hướng dẫn buổi trì tụng một trăm triệu thần chú của Đức Phật 10 lần ở
Chùa Muni ở Tashi Gatsal, Choglamsar, và 6 lần trì tụng 100 triệu thần chú Kim Cương
thượng sư ở Jokhang (Hiệp hội Phật giáo Ladakh).
Theo cách này, Rinpoche đã rèn luyện tâm của rất nhiều Phật tử ở vùng Himalya. Bằng
những giáo lý và hành động Phật giáo, đưa những người ở Kinnaur trở về với đạo Phật.
Những người sùng đạo này trước kia là Phật tử, nhưng vì một lý do, đã có những niềm
tin tâm linh khác cho đến khi họ gặp Rinpoche. Trước kia, truyền thống cúng dường máu
và thịt rất phổ biến ở Kinnaur. Rinpoche đã dừng truyền thống độc ác này bằng phương
tiện thiện xảo.
Ngài Drukpa Choegon Rinpoche Tenzin Chokyi Gyatso rất thân thiện và nhiệt tình đến
mức làm xúc động những ai đã có liên hệ với ngài. Ngài bắt đầu các chuyên giảng dạy ra
nước ngoài vào tháng 8 năm 2008, nơi mà ngài giúp Drukpa Plouray chuẩn bị tổ chức
cho chuyến thăm viếng của đức Dalai Lama. Người mến đạo Âu châu từng gặp ngài và
nhận các giáo lý từ ngài ở Drukpa Plouray và Drukpa Paris đều có những kỷ niệm tốt đẹp
về sự khiêm nhường, chân thật và chính trực của ngài.
Nguồn: http://www.choegon.org/index.php/77-biographies/68-the-present-drukpa-
choegon-rinpoche
Tu viện Dechen Choekhor
(Tu viện Dechen Choekhor ở Gongkar, Tây Tạng)
Dechen Choekhor là tự viện mẹ lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt đối với
Dòng truyền thừa Drukpa Kargyu và vị trí của hai Ngài Rinpoche – Rinpoche Drukpa
Choegon – một hóa thân của Đức Kim Cương Thủ và Rinpoche Drukpa Yongzin – một
hóa thân của Đức Văn Thù Sư Lợi trong hàng thế kỷ, hiện nay đang được xây dựng lại
nơi thung lũng hoang sơ tuyệt đẹp ở Kullu, Ấn Độ. Hai bậc thượng sư vĩ đại này từ xưa
đã được biết đến như là “Chokzig Namnyi”, có nghĩa là “hai bậc thầy có tri kiến tối cao.”
‘De’ có nghĩa là Hạnh phúc, ‘Chen’ có nghĩa là Vĩ đại, ‘Choe’ có nghĩa là
Pháp, ‘Khor’ có nghĩa là Nơi lưu lại – “Nơi lưu giữ Pháp của Niềm hạnh phúc vĩ đại” đó
là ý nghĩa ẩn chứa trong tên gọi của tu viện này. Dechen Choekhor, nơi nắm giữ vị trí
quan trọng nhất của dòng Drukpa Kargyu ở Tây Tạng, là điểm nhấn văn hóa của hơn 300
tu viện khởi nguồn từ đó từ thế kỷ 16, trong đó có tu viện của Ngài Khamtrul Rinpoche –
Khampagar ở miền đông Tây Tạng; tu viện Hemis, tu viện Chemey và tu viện Korzog ở
Ladakh, và tu viện Dorzong ở Tây Tạng. Tu viện Tsechu ở của Ngài Trulshik Adeu
Rinpoche ở Nangchen, Qinghai là một nhánh trực tiếp của tu viện Khampagar.
Kể từ khi thành lập từ thế kỷ 15, Dechen Choekhor đã nắm giữ Dòng truyền
thừa nguyên vẹn, tinh khiết và không gián đoạn bằng sự kiên trì và thực hành tinh tấn và
gìn giữ trong hơn 500 năm; và đây vẫn là nơi chính yếu truyền những giáo pháp và pháp
thực hành của Phật giáo, đặc biệt là cho dòng truyền thừa Drukpa Kagyu đến ngày nay.
Ngày nay, khi sự tồn tại của văn hóa Tây Tạng và tôn giáo đang phát triển bấp
bênh hơn bao giờ hết, việc tái thiết tu viện Dechen Choekhor có tầm quan trọng sống còn.
Từ thế kỷ 15 khi tu viện này mới được thành lập, Dechen Choekhor được so sánh với
những trường đại học Phật giáo lớn nhất của Ấn Độ, và những trường lớn về thần học và
giáo lý cổ điển ở châu Âu thời trung cổ. Rất nhiều môn sinh từ nơi xa đến, khắp trong
vùng Himalaya, để tu học ở Dechen Choekhor bởi tu viện này nổi tiếng với sự dạy dỗ từ
những Rinpoche, tulku và bậc thầy đang nắm giữ dòng truyền thừa. Tuy ngày nay có
hàng trăm tu viện khác là những nhánh của Dechen Choekhor ở khắp vùng Himalaya,
nhưng vẫn có rất nhiều Tăng Ni muốn giữ truyền thống của Dechen Choekhor, nhưng
không có một tu viện chính nào làm được điều đó. Họ đã nhiều lần thỉnh cầu cả Rinpoche
Choegon đời trước và đời hiện tại, xây dựng lại tự viện của Ngài để những thế hệ sau có
thể nhận được pháp thực hành của Dòng truyền thừa Drukpa Kagyu.
(Tu viện Dechen Choekhor ở Kullu, Ấn Độ)
Thượng sư của Đức Choegon Rinpoche hiện tại, Đức Pháp Vương Dilgo
Khyentse Rinpoche, Khamtrul Rinpoche đời thứ tám và Ngài Trulshik Adeu Rinpoche
đời thứ tám, đã rất ủng hộ Đức Choegon Rinpoche thiết lập lại ngôi tu viện tuyệt vời này
của dòng Drukpa Kagyu. Sau khi đã cân nhắc một cách kỹ lưỡng và tham khảo ý kiến
của bậc Thượng sư gốc của Ngài, Đức Choegon Rinpoche đã quyết định xây dựng lại tu
viện Dechen Choekhor mới ở Kulu, nằm ở khu vực tiểu bang Himachal Pradesh, miền
bắc Ấn Độ. Kullu là một trong 24 thánh địa linh thiêng của Thắng Lạc Kim Cương, nơi
Đức Liên Hoa Sinh và nhiều Đại thành tựu giả đã từng đến.
Ngài Nhiếp chính vương Kyabgon Adeu Rinpoche đã viết: “Trong dòng
Drukpa Kagyu, Dechen Choekhor đã hoàn toàn được giữ vững cho Dòng như là nguồn
gốc cổ xưa của nó.
Đây là điểm nhấn văn hóa cho cả Dòng truyền thừa Drukpa Kagyu. Nơi đó nổi
tiếng bởi sự đào tạo từ dòng truyền thừa với nhiều Rinpoche và nhà sư. Những môn đồ từ
nhiều nơi rất xa và từ khắp vùng Himalaya đã đến đây để tu học. Đức Pháp vương
Drukchen Pagsam Wangpo đời thứ năm, Đức Pháp vương Drukchen Kunzig Choenang
đời thứ tám, và tất cả những dòng truyền thừa Khamtrul Rinpoches đầu tiên đều được
nhận những sự trao truyền và giáo pháp ở tu viện này từ Ngài Shabdrung Choegon hay
Ngài Yongzin”.
Đức Pháp vương Gyalwang Drukpa đời thứ 12 hiện tại cũng đã viết: “Dechen
Choekhor ở Tây Tạng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc dẫn dắt nhiều hành giả
trên con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là khởi nguồn của rất nhiều những giáo pháp vĩ đại
và những tu viện quan trọng của Dòng Drukpa Kagyu”.
Ghi chú: Shabdrung = một tên khác của Drukpa Choegon Rinpoche
Nguồn: http://www.drukpachoegon.info/about-dechen-choekhor.aspx
Các thực hành của dòng truyền thừa Drukpa Kagyu
Sự quan trọng của thực hành Bổn tôn:
Người ta nói rằng:
Đạo sư là suối nguồn của gia trì (tiếng tạng Jyin lap gyi tsawa, Lama)
Bổn tôn là suối nguồn của thành tựu (tiếng tạng Nyur drub gyi tsawa, Yidam)
Không hành mẫu là suối nguồn của hoạt động (tiếng tạng Trinley gyi tsawa, Khandro)
Thực hành Bổn tôn là thực hành mật thừa độc đáo, trong đó chuyển hóa những kinh
nghiệm bình thường, luân hồi và thế tục về sự thật thành kinh nghiệm phi thường của
trạng thái chân thực của mọi hiện tượng.
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa
những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ. Chính xác hơn là, thực hành Bổn
tôn phát lộ trạng thái thực sự của sự hiện hữu tuyệt đối, hoàn toàn thanh tịnh, và thoát
khỏi những sự tồn tại cố hữu và không ngừng. Sự thanh tịnh và trống rỗng này luôn có
trong mỗi chúng ta, nhưng nó bị che lấp và không thể nhìn thấy bởi vì tâm rối loạn và ảo
tưởng của chúng ta.
Bởi vì đây không phải thực hành bổn tôn bình thường, mà là bản tánh mật tông. Điều vô
cùng quan trọng là người ta phải nhận được các chỉ dẫn chi tiết và quán đảnh về các giáo
lý mở rộng này trực tiếp từ một vị thầy chân chính của một dòng truyền thừa thực sự khi
thời gian và điều kiện chín muồi.
Giai đoạn phát triển:
Trong truyền thừa Drukpa Kagyu, các thực hành chính cho giai đoạn phát triển – Phần
thực hành quán tưởng bổn tôn hay “Khe-rim” trong tiếng Tây Tạng (“rim” là giai đoạn,
“Khe” là tạo ra hay phát triển) gồm có:
1. Chakrasamvara hai tay
2. Chakrasamvara mười hai tay dạng hợp nhất
3. Vajrayogini (Kim Cương Du già thánh nữ)
4. Vajrapani (Kim Cương Thủ)
5. Mahakala bốn tay
Các thực hành Bổn tôn trên là bắt buộc trong các thực hành nhập thất trong truyền thống
Drukpa Kagyu.
Ngoài ra, cũng có các thực hành mở rộng khác trong truyền thừa:
1. Phật A Súc Bệ
2. Phật Kim Cương Tát Đỏa
3. Phật Vô Lượng Thọ
4. Quan Âm Tứ Thủ
A Súc Bệ Phật và Phật Kim Cương Tát Đỏa là các thực hành phổ biến hơn trong tu viện
của chúng tôi bởi vì Dechen Choekhor nắm giữ truyền thừa chính yếu các thực hành này
và đã giữ dòng truyền thừa thanh tịnh không gián đoạn thông qua sự tinh tấn và kiên trì
trong suốt 500 năm qua.
Giai đoạn hoàn thiện:
Với giai đoạn hoàn thiện hay các thực hành thiền định bên trong:
Chúng tôi sử dụng Đại Thủ Ấn làm tri kiến;
Để nhận ra tri kiến này,
Chúng tôi dùng Sáu pháp Du già của Naropa làm phương tiện;
Để đối phó với thiền định và tri kiến
Chúng tôi áp dụng Sáu pháp vị Bình Đẳng như là hành động.
Cùng với tri kiến, thiền định và hành động, chúng tôi cũng thực hành Bảy pháp Duyên
khởi.
Guru Yoga (Đạo sư Du già, Thượng sư tương ưng pháp):
Trong truyền thừa Drukpa Kagyu, điều quan trọng và tinh túy nhất của mọi thực hành là
Guru Yoga, thực hành rất mạnh mẽ trong truyền thừa.
Chỉ với sự gia trì của Đạo sư, thông qua sự hiện diện của ngài, những giáo lý của ngài, và
sự chỉ dẫn của ngài, đã có thể làm chín muồi và giải phóng tâm chúng ta trước khi chúng
ta có thể hiểu ý nghĩa sâu xa hơn của Đại thủ ấn và nhận ra bản tánh chân thật của tâm.
Trong dòng truyền thừa, có một thực hành nhập thất Guru Yoga đặc biệt trong 4 tháng, 7
tháng và thực hành Guru Yoga Lama Kusum trong 3 năm 3 tháng. Đây không phải pháp
Guru Yoga phổ biến hay thông thường, mà là thực hành mở rộng và trọn vẹn độc nhất
của dòng Drukpa Kagyu bao gồm các pháp thực hành Yoga và Nội hỏa (tummo).
Tuy nhiên trong Kim Cương thừa, đây chỉ là các phương tiện, cách thức duy nhất để nhận
ra bản tánh chân thật của tâm là thông qua sự nhận ra và nhìn nhận vị thầy là Lama Dorje
Chang, vị Phật tuyệt đối. Cho đến khi người ta phát triển lòng sùng mô chân chính không
dao động và nhìn nhận vị thầy là hiện thân sống động của sự giác ngộ và lòng bi mẫn của
chư Phật, không có cách nào để người ta có thể chứng ngộ bên trong Pháp tuyệt đối. Nhìn
nhận hay học hỏi với một vị thầy bình phàm [nhìn nhận thầy là một người bình phàm],
người ta không thể đạt được trí tuệ tuyệt đối.
Các thực hành khác:
Bên trên là các thực hành Drukpa Kagyu chính yếu của Dechen Choekhor. Tu viện của
chúng tôi không chỉ thực hành theo truyền thống Drukpa Kagyu, mà còn có các thực
hành của dòng Nyingma như là:
1. Shitro 100 bổn tôn
2. Vajrakilaya
3. Chimey Phagma
Ở tu viện Dechen Choekhor Tây Tạng, chư tăng được đào tạo các thực hành dòng
Nyingma một cách phổ biến hơn. Chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn về các thực hành này khi
thời gian và điều kiện cho phép.
Chú ý:
Một vài độc giả có thể nhầm lẫn các thuật ngữ “Kagyu” và “Kargyu” được sử dụng trong
trang website này. Dưới đây là giải thích ngắn gọn cho ý nghĩa thực sự của 2 thuật ngữ
này. Tuy nhiên, ngày nay Drukpa “Kargyu” và Drukpa “Kagyu” được sử dụng lẫn lộn
trên các phương tiện truyền thông Anh ngữ.
Kagyu – có thể được dịch là “Dòng Khẩu truyền”. Âm đầu tiên “Ka” liên quan đến các
bản kinh Phật và sự khẩu truyền các giáo lý của Đạo sư. “Ka” có ý nghĩa là ý nghĩa giác
ngộ được truyền tải thông qua các chỉ dẫn của một đạo sư giác ngộ, cũng như là năng lực
và sự gia trì mà những từ ngữ bên trong mang đến; và “gyu” đơn giản nghĩa là dòng
truyền thừa hay truyền thống.
Kargyu – Kar (trắng) Gyu (truyền thừa) của đức Marpa, Milarepa và các vị đệ tử; rất
nhiều trong số này mặc y trắng. Kewang Sangye Dorje, một trong các đệ tử chính yếu
của Pema Karpo, đã đề xuất tên này cho dòng truyền thừa Drukpa Kargyu của chúng ta.
1) A Súc Bệ Phật (Tiếng Tây Tạng: Miputra)
Lịch sử truyền thừa:
Truyền thừa của đức Palden Atisha
Sự trao truyền của dòng truyền thừa:
A Súc Bệ Phật Kim Cương Thủ Các Đại thành tựu giả Ấn Độ, bao gồm Aryadeva
Palden Atisha mang đến Tây Tạng sau rất nhiều các bậc nắm giữ dòng truyền thừa
Tsangpa Gyare Yongzin & Choegon
Dòng truyền thừa Drukpa Kagyu nắm giữ truyền thừa của Đức A Súc Bệ Phật, chủ yếu ở
Dechen Choekhor (trụ xứ của đức Choegon Rinpoche), Khampagar (trụ xứ của đức
Khamtrul Rinpoche) và Nangchen Garh (trụ xứ của đức Adeu Rinpoche) và mọi bậc nắm
giữ dòng truyền thừa của các ngài. Dòng truyền thừa này đến từ Đức A Súc Bệ Phật, Kim
Cương Thủ, Arya Deva, xuống đến đức Atisha, người đã đến Tây Tạng, sau đó, từ đức
Tsangpa Gyare đến dòng truyền thừa truyền thống Dechen Choekhor của đức Choegon
Rinpoche. Từ đây, pháp thực hành A Súc Bệ Phật lan rộng ra hầu khắp các tu viện
Drukpa Kagyu vào thế kỷ 16.
Dechen Choekhor nhấn mạnh đặc biệt vào thực hành về A Súc Bệ Phật. Đó là các thực
hành nhấn mạnh và tăng cường cho các lễ puja, Jangchok, nhập thất, tịnh hóa và nhiều
nghi lễ khác. Sự gia trì của của dòng truyền thừa vẫn được giữ liên tục không gián đoạn
nhờ có sự kiên trì và thực hành tinh tấn trong suốt hơn 500 năm qua. Thực hành về đức A
Súc Bệ vẫn là một thực hành nhập thất bắt buộc theo truyền thống Dechen Choekhor cho
đến ngày nay.
Giới thiệu về bổn tôn:
Đức A Súc Bệ Phật, “Đấng Bất Động”, Chủ của Kim Cương Bộ, là một trong năm Phật
Bộ hay Ngũ Trí Phật; đại diện cho các uẩn hoàn toàn thanh tinh. Trong Giải thoát tự
nhiên, ngài đại diện cho trí tuệ như-tấm-gương và sự chuyển hóa của ngũ độc, giận dữ và
thù ghét. Trong tiếng Tây Tạng, ngài được biết đến là “Mitrupa”, người mà không bao
giờ bị phiền não bởi giẫn dữ hay thù ghét. Ngài được coi là có sức mạnh đặc biệt trrong
việc tịnh hóa các ác nghiệp.
A Súc Bệ Phật phát đại nguyện rằng mọi hữu tình chúng sinh có thể tịnh hóa bất cứ ác
hạnh nào, thậm chí các ác hạnh lớn lao như thù ghét, bạo lực, và sát sinh cũng có thể
được tịnh hóa thông qua việc nương tựa vào ngài bằng cách thiền định, nhận ra và tránh
các ác hạnh, và khẩn cầu năng lực gia trì của ngài để tịnh hóa. Trong Kinh A Súc Bệ
Phật, Đức Thích Ca Mâu Ni đã tán dương sự nhẫn nại của đức A Súc Bệ trong việc thực
hiện đại nguyện của ngài mạnh mẽ đến mức vô lượng chúng sinh đã được cứu khỏi sự
khổ đau vô cùng của các cõi thấp.
Cõi tịnh độ của ngài là Abhirati, cõi Lạc Thổ, và theo các kinh điển, người ta nói rằng
những ai sinh ra ở cõi này sẽ không rơi trở lại các cõi thấp hơn của ý thức.
Những miêu tả sơ lược:
Đức A Súc Bệ Phật, Đấng Bất Động và Điềm Tĩnh, ở phía Đông và đại diện cho Kim
Cương Bộ. Ngài có màu xanh, ngồi trên một bông sen được nâng bởi một con voi, biểu
tượng cho sự kiên định và sức mạnh; tay phải ngài bắt ấn bhumisparsha, ấn xúc địa, biểu
tượng cho sự vững chắc không thể lay chuyể; còn tay trái ngài để trong lòng cầm chày
kim cương. Chày Kim Cương biểu thị cho tâm giác ngộ, bản tánh kim cương không thể
phá hủy của ý thức thanh tịnh, hay bản chất của sự thật tuyệt đối.
Mục đích và những lợi lạc của thực hành:
Theo các giáo lý của chư Phật, tuổi thọ hiện tại là một trong những điều suy giảm khi mọi
chúng sinh trong vòng sinh tử (luân hồi) đang chịu khổ đau lớn lao bởi vì những hành
động ác hạnh và những cảm xúc gây phiền não.
Nghi lễ và sự thực hành A Súc Bệ Phật là một thực hành tịnh hóa lớn lao được thực hiện
vì lợi lạc của bản thân và vô số chúng sinh khác. Nó có thể giải thoát không chỉ bản thân
hành giả khỏi những sợ hãi của việc tái sinh không may mắn mà còn là mọi chúng sinh
khác. A Súc Bệ Phật cũng được thực hành cho những người quá cố. A Súc Bệ Phật đã
hứa nguyện một cách chắc chắn rằng công đức khi trì tụng 100 000 lần thần chú dài của
ngài và tạo ra một hình ảnh của ngài có thể hồi hướng cho người khác, thậm chí những
người đã chết rất lâu, và họ chắc chắn sẽ thoát khỏi những cõi thấp hơn, và tái sinh vào
những cõi may mắn về tâm linh.
Thiền định về A Súc Bệ Phật là rất tốt để tịnh hóa nghiệp liên quan đến các ác hạnh.
Thông qua năng lực của thực hành nghi lễ thanh tịnh và sự tịnh nghiệp, các ác nghiệp sẽ
dần giảm bớt, và sau đó người ta có thể tiến vững chắc trên con đường giác ngộ.
2) Phật Kim Cương Tát Đỏa (Tiếng Tây Tạng: Dorje Sempa)
Lịch sử dòng truyền thừa:
Dòng truyền thừa Vua Dza
Sự trao truyền của dòng truyền thừa:
Phật Kim Cương Tát Đỏa Vua Dza các đại thành tựu giả Ấn Độ, trong đó có
Viryapa Lama Marpa mang đến Tây Tạng Lama Milarepa các bậc trì giữ dòng
truyền thừa Yongzin và Choegon
Giới thiệu về bổn tôn:
Kim Cương Tát Đỏa, vị Phật của thanh tịnh nguyên sơ liên quan đến sự tịnh hóa các ác
nghiệp.
Miêu tả ngắn gọn:
Đức Kim Cương Tát Đỏa là Báo thân Phật. Ngài ngự trên một bông sen tám cánh màu
trắng vô cùng thanh tịnh với dáng điệu kim cương trọn ven. Thân của ngài màu trắng
sáng và chói lọi như là ngọn núi tuyết được chiếu sáng bởi ngàn mặt trời. Ngài thường
được miêu tả là cầm chiếc chày Kim Cương bằng vàng bên tay phải ở ngang trái tim, và
một chiếc chuông bạc ở tay trái, đặt ở đùi trái. Trong dòng truyền thừa của chúng tôi, đức
Kim Cương Tát Đỏa được quán tưởng cùng với vị phối ngẫu.
Mục đích và những lợi lạc của thực hành:
Thực hành về đức Kim Cương Tát Đỏa là một trong các thực hành quan trọng và cơ bản
nhất trong Phật giáo Kim Cương thừa, và được tôn kính vì vai trò và sự nhanh chóng tịnh
hóa ác nghiệp và sự phá hỏng samaya giới của nó.
Kể từ thời vô thủy, trong vô lượng kiếp, chúng ta đã tích lũy vô số ác nghiệp. Đó là
chướng ngại chính ngăn không cho người ta nhận ra Phật tánh và đạt đến giác ngộ trong
một đời.
Thực hành một cách chuẩn xác, năng lực gia trì lớn lao của ngài có thể thanh tẩy và tịnh
hóa mọi ác nghiệp bao gồm các vô minh tinh tế nhất của thân, khẩu và ý đến mức chứng
ngộ tâm giác ngộ nguyên sơ.
3) Phật Vô Lượng Thọ (Tiếng Tây Tạng: Tse-Pameh)
Lịch sử dòng truyền thừa:
Dòng truyền thừa của đức Rechungpa
Sự trao truyền của dòng truyền thừa:
Phật Vô Lượng Thọ Các đại thành tựu giả Ấn Độ Lama Walachandra
Rechungpa mang đến Tây Tạng sau rất nhiều các bậc trì giữ truyền thừa
Yongzin và Choegon
Giới thiệu bổn tôn:
Đức Amitayus – Đức Phật của Trường Thọ, Công Đức và Trí tuệ. Ngài là pháp thân của
đức Vô Lượng Quang – Đức Phật của Ánh sáng và cuộc đời bất diệt; và là vị Phật chính
yếu để vượt qua sức mạnh mà cái chết và sự ngu dốt bao chùm chúng ta. Khi những điều
này được xua tan, chúng ta sẽ khai mở tiềm năng thực sự - đạt được hạnh phúc tối
thượng.
Miêu tả ngắn gọn:
Đức Vô Lượng Thọ được miêu tả là đang cầm một chiếc bình amrita, chất cam lồ quý giá
của sự bất tử mang đến sự trường thọ, và những chiếc lá của cây ashoka, biểu tượng cho
sự trường thọ mà không chút khổ đau (shoka) của tật bệnh. Thân của ngài có màu giống
như ngọn núi hồng ngọc, sáng chói như là viên ngọc quý giá thanh tịnh và sáng chói, tiêu
trừ những khổ đau và ngu dốt của chúng sinh.
Mục tiêu và những lợi lạc của thực hành:
Đức Thích Ca Mâu Ni đã từng nói về sức mạnh và những lợi lạc lớn lao của thần chú
ngài Vô Lượng Thọ. Theo Kinh điển, các công đức tích lũy từ việc cúng dường chư Phật
với những viên đá quý nhất đầy cả vũ trụ vẫn có thể đếm được, nhưng công đức tụng đọc
thần chú ngài Vô Lượng Thọ là không thể nghĩ bàn. Đức Phật cũng đưa ra ví dụ rằng
tụng thần chú của ngài Vô Lượng Thọ có thể sánh với 99 triệu đức Phật nhập thiền định
và cùng tụng thần chú, vì thế nó rất mạnh mẽ.
Đức Vô Lượng Thọ là đức Phật của trường thọ, công đức và trí tuệ. Bằng cách thực hành
pháp tu của ngài, chúng ta có thể phát triển những phẩm tánh này, điều mà rất quan trọng
trong sự phát triển tâm linh của chúng ta, và cuối cùng đạt đến trạng thái giác ngộ tối
thượng.
Thực hành và sùng mộ chí thành đến đức Vô Lượng Thọ sẽ giúp xua tan các chướng ngại
để trường thọ như là bệnh tật và ốm đau, và làm an dịu những khả năng của một cái chết
bất ngờ hay chết non. Thực hành Bổn tôn Vô Lượng Thọ là vô cùng quan trọng bởi vì
sống lâu là một điều kiện quan trọng cần thiết cho phép chúng ta có nhiều thời gian và cơ
hội thực hành chánh Pháp để giải thoát bản thân khỏi luân hồi. Chúng ta cũng có thể
dùng thực hành này để xua tan các chướng ngại gây nguy hại đến cuộc đời người khác.
4) Chakrasamvara Mười hai tay (tiếng Tây Tạng: Demchok Khorlo Dompa hay Khorlo
Dompa Shal-She Chu-Nyi Chag)
Lịch sử truyền thừa:
Dòng truyền thừa của Đại thành tựu giả Tilopa
Sự trao truyền của dòng truyền thừa:
Đức Phật Kim Cương Trì hóa thân thành Đức Chakrasamvara Đại thành tựu giả
Tilopa Naropa Marpa Milarepa Rechungpa sau mười ba vị trì giữ truyền
thừa các đạo sư dòng Drukpa Kagyu Yongzin và Choegon
Dòng truyền thừa này được biết đến là truyền thống “Khandro Nyengyud” hay
“Chakrasamvara của dòng truyền thừa thì thầm Rechungpa” hay “dòng truyền thừa thì
thầm của chư Dakini” (tiếng tạng: Khandro Nyen-gyud).
Rechung Dorje Tagpa (1083 – 1160), yogi nổi tiếng là một trong hai tâm tử của Milarepa,
và vị kia là thầy thuộc vĩ đại Tây Tạng, học giả, tu sĩ Dagpo Lha-Je Gampopa (1079 –
1173).
Truyền thống Chakrasamvara của Rechung Nyengyud là một thực hành đặc biệt của
dòng Kagyu, truyền xuống từ đại thành tựu giả Tilopa, Naropa, Milarepa đến Rechungpa,
và cuối cùng sau mười ba vị nắm giữ dòng truyền thừa, đến với một trong các đạo sư
dòng Drukpa Kagyu, và từ đây lan rộng và trở thành thực hành phổ biến trong các truyền
thừa khác. Trước đó, nó chỉ được truyền lại trong dòng truyền thừa duy nhất từ đạo sư
đến người tiếp theo và không được phổ biến rộng rãi.
Giới thiệu bổn tôn:
Heruka Chakrasamvara (tiếng Tạng Demchok Khorlo Dompa; “Bánh xe của Hạnh phúc
hoàn hảo”) là bổn tôn thiền định mật tông (Yidam) của Mật điển Du già tối thượng
(Anuttara) trong Kim Cương thừa.
Chakrasamvara, cùng với Hevajra và Vajrayogini là ba thực hành bổn tôn thiền định
chính yếu của dòng Kagyu.
Có rất nhiều hình tướng khác nhau của Bổn tôn Chakrasamvara xuất hiện với nhiều mặt,
tay, và số lượng đoàn tùy tùng quyến thuộc. Mặc dù có sự khác biệt lớn trong các truyền
thừa và thực hành về Chakrasamvara, các điểm khác biệt trên các bức tranh là không
quan trọng. Về bản chất, có dạng hai tay và dạng mười hai tay của Chakrasamvara, (dạng
mười hai tay ôm vị phối ngẫu Vajrayogini trong tư thế hợp nhất). Sự hợp nhất thần thánh
này là một ẩn dụ cho sự hợp nhất của hỷ lạc và tánh không (phương tiện thiện xảo và trí
tuệ), thứ mà như một.
Trong dòng truyền thừa Drukpa Kagyu, thực hành bổn tôn Chakrasamvara phổ biến là
dạng mười hai tay. Trong truyền thống của chúng tôi, 62 Mandala là thực hành phổ biến
ở hầu khắp các tu viện, 13 Mandala chủ yếu ở các trung tâm nhập thất, và một mandala
duy nhất là thực hành hằng ngày. Tất cả đều là truyền thống Khandro Nyengyud được gọi
là Chakrasamvara của “Dòng truyền thừa thì thầm của đức Rechungpa” hay “Dòng
truyền thừa thì thầm của chư Dakini” (Tiếng Tạng Khandro Nyen-gyud).
Không có quá nhiều các sự khác biệt trong thực hành bổn tôn Chakrasamvara, nhưng
thực sự thì có những dòng truyền thừa khác nhau trong chính truyền thống Kagyu. Dòng
truyền thừa của chúng tôi đến từ dòng truyền thừa chính yếu của đức Naropa, gọi là
“Dòng nhĩ truyền của chư Dakini của đức Naropa (Khandro Nyen-gyud) – thực hành
Chakrasamvara mười hay tay với 62 mandala. Đó là thực hành quan trọng của Drukpa
Kagyu. Phần lớn các tu viện Drukpa Kagyu đã thực hành pháp tu này trong hàng thế kỷ.
Tu viện Dechen Choekhor, đặc biệt là nơi nắm giữ chính yếu thực hành này, và đang
thực hành truyền thống không gián đoạn này trong suốt 500 năm. Và thực hành này vẫn
hiện diện trong dòng truyền thừa Drukpa Kagyu của tu viện Dechen Choekhor, tu viện
Khampagar và tu viện Nangchen Gark từ thời đức Gyalwang Je.
Miêu tả ngắn gọn:
Chakrasamvara (Thắng Lạc Kim Cương), sự thị hiện về mật của đức Thích Ca Mâu NI,
đại diện cho sự hợp nhất phương tiện và trí tuệ (hỷ lạc và tánh không); ôm vị phối ngẫu
Vajrayogini, ngài được miêu tả là có 4 mặt tượng trưng cho bốn hoạt động giác ngộ: tức
tai, tăng ích, kính ái và hàng phục. Mười hai tay cầm các pháp khí khác nhau tượng trưng
cho thập nhị nhân duyên trong “bánh xe cuộc đời” và mười hai sức mạnh.
Mandala của Chakrasamvara mười hai tay:
a) Mandala của 13 vị bổn tôn (tiếng Tạng Khorlo Dompa Chok-Sum Ma)
- thực hành chủ yếu bởi cá nhân hành giả và cũng được thực hành trong các khi nhập
thất.
- nói chung, thực hành Mandala này sẽ dẫn đến những Thành tựu Tối thượng.
b) Mandala của 62 vị Bổn tôn (tiếng Tạng: Khorlo Dompa Druk-Chu Tsa-Nyi Ma)
- chủ yếu thực hành bởi chư Tăng trong chùa trong các lễ puja lớn.
- nói chung, thực hành Mandala này sẽ dẫn đến những Thành Tựu Phổ Biến.
Mục tiêu và Những lợi lạc của việc thực hành:
(Đạt được) suối nguồn của sự thành tựu.
Chakrasamvara là hóa thân của đức Phật Vajradhara và là bổn tôn thiền định chính yếu
trong Kim Cương thừa. Phần lớn các vị trong 84 Đại thành tựu giả nổi tiếng xứ Ấn Độ cổ
đã đạt giác ngộ hoàn hảo nhờ nương tựa vào vị bổn tôn này; và kể từ khi Mật tông được
đưa đến Tây Tạng, rất nhiều các vị đạo sư Tây Tạng vĩ đại cũng chứng ngộ hoàn hảo nhờ
thực hành này.
5) Chakrasamvara hai tay (tiếng Tây Tạng: Khorlo Dompa Lhenchig Kyepa)
Lịch sử truyền thừa:
Dòng truyền thừa của Đại thành tựu giả Drilbupa.
Sự trao truyền của dòng truyền thừa:
Đức Phật Vajradhara hóa thân thành đức Chakrasamvara Đại thành tựu giả Ấn Độ
Drilbupa các bậc đại thành tựu giả Palchen Galo Namgyal Dorje1, đạo sư và dịch
giả Tây Tạng vĩ đại người đã mang các giáo lý quý giá bao gồm cả dòng truyền thừa này
từ Ấn Độ đến Tây Tạng các bậc nắm giữ truyền thừa Yongzin và Choegon.
Palchen Galo Namgyal Dorje, nổi tiếng là Ga Lotsawa là một đại thành tựu giả và dịch
giả Tây Tạng vĩ đại người đã đến Ấn Độ và mang về rất nhiều giáo lý quý giá cho Tây
Tạng, bao gồm cả sự thực hành.
Giới thiệu Bổn tôn:
Heruka Chakrasamvara (Tiếng Tạng Khorlo Dompa; “Bánh xe Đai Hỷ lạc”) là một bổn
tôn thiền định mật điển (yidam) của mật điển du già tối thượng (Anuttara) trong Phật giáo
Kim Cương thừa.
1 Palchen Galo Namgyal Dorje là một trong các đời trước của Choegon Rinpoche.
Chakrasamvara, cùng với Hevajra và Vajrayogini là ba thực hành bổn tôn thiền định
chính của dòng Kagyu.
Có rất nhiều hình tướng khác nhau của Bổn tôn Chakrasamvara xuất hiện với nhiều mặt,
tay, và số lượng đoàn tùy tùng quyến thuộc. Mặc dù có sự khác biệt lớn trong các truyền
thừa và thực hành về Chakrasamvara, các điểm khác biệt trên các bức tranh là không
quan trọng. Về bản chất, có dạng hai tay và dạng mười hai tay của Chakrasamvara, (dạng
mười hai tay ôm vị phối ngẫu Vajrayogini trong tư thế hợp nhất). Sự hợp nhất thần thánh
này là một ẩn dụ cho sự hợp nhất của hỷ lạc và tánh không (phương tiện thiện xảo và trí
tuệ), thứ mà như một.
Heruka Chakrasamvara hai tay là dạng quan trọng của Chakrasamvara. Ngài xuất hiện là
một bổn tôn nửa phẫn nộ màu xanh đậm, với một mặt, hai tay, và ba mắt. Ngài bắt ấn
alidha với chân trái co và chân phải duỗi rộng trên đĩa mặt trăng bằng vàng và một bông
sen nhiều màu. Với hai tay bắt chéo ở ngực, ngài ôm vị phối ngẫu, đức Vajrayogini, trong
khi đang cầm một chiếc chày kim cương và một chiếc chuông ở tay trái và phải. Ngài đội
vương miện năm chiếc sọ, đeo sáu thứ trang sức bằng xương, ở chỗ thắt lưng có chiếc áo
da hổ mặc trễ, và các vòng trang trí những chiếc đầu bị cắt.
Mandala của đức Chakrasamvara hai tay:
Mandala của một vị bổn tôn & Mandala của 5 vị bổn tôn:
- Chủ yếu thực hành bởi các hành giả cá nhân với căn cơ cao hơn
- Thực hành Mandala này sẽ đưa đến những Thành tựu Tối thượng.
Mục đích và những lợi lạc của thực hành:
(Đạt được) suối nguồn của thành tựu.
Chakrasamvara hai tay là bổn tôn thiền định chính cho những người có căn cơ cao vì tâm
của họ đã ít loạn hơn và dạng đơn giản của bổn tôn là đủ để hỗ trợ sự thực hành.
Chakrasamvara là hóa thân của đức Phật Vajradhara và là bổn tôn thiền định chính của
Mật thừa. Phần lớn trong 84 Đại thành tựu giả Ấn Độ nổi tiếng đã giác ngộ hoàn hảo
bằng cách nương tựa nơi ngài; và kể từ khi các mật điển này được mang đến Tây Tạng,
rất nhiều đạo sư Tây Tạng vĩ đại đã chứng ngộ tuyệt đối nhờ thực hành này.
6) Vajrayogini (Kim Cương Du Già Thánh Nữ, tiếng Tây Tạng Dorje Naljorma)
Lịch sử dòng truyền thừa:
Dòng truyền thừa của Đại thành tựu giả Tilopa
Sự trao truyền của dòng truyền thừa:
Vajrayogini Đại thành tựu giả Tilopa Naropa Marpa Milarepa Rechungpa
các vị trì giữ dòng truyền thừa Yongzin và Choegon
Giới thiệu Bổn tôn:
Vajrayogini là Pháp thân nữ của Phật. Ngài là vị yidam (bổn tôn thiền định) của Mật điển
Tối thượng Du già – mật điển cao nhất, và xuất hiện trong nhiều thực hành mật tông. Bà
xuất hiện như vị phối ngẫu của Heruka Chakrasamvara.
Bà là Bậc Nắm giữ Mật điển Bí mật của những giáo lý rộng lớn của Mật thừa Bí mật bao
gồm dòng truyền thừa Chakrasamvara và Mahamudra, trực tiếp từ đức Phật Vajradhara.
Bà là một người trẻ trung, ở trần và nhiệt thành với Pháp. Thân bà màu đỏ tươi và bà đeo
chiếc vòng đầu lâu của 51 người biểu tượng cho sự làm chủ các sự kiện tinh thần. Chân
phải co lại và chân trái duỗi rộng đứng trên một cái xác chết. Một chiếc khatvanga được
đặt trên vai trái bà. (xem hình ảnh)
Mục đích và những lợi lạc của thực hành:
Thực hành về Kim Cương Du Già thánh nữ là suối nguồn của sự gia trì.
Trong Mật điển gốc cô đọng Heruka có viết rằng, những lợi lạc có được từ việc thực
hành Bổn tôn Vajrayogini là bất khả tư nghì và rằng một ngàn lần nói ra cũng không thể
liệt kê được chúng.
Sự thực hành bổn tôn Vajrayogini là sự tổng hợp của mọi điểm tinh yếu của các giai đoạn
của Mật điển. Thực hành Vajrayogini mang đến sự gia trì nhanh chóng, đặc biệt trong
giai đoan suy đồi về tâm linh này. Khi chúng ta thực hành những chỉ dẫ này một cách
chính xác, chúng ta sẽ nhanh chóng nhận được sự gia trì lớn lao từ chư Phật. Sự gia trì
này giúp chúng ta hiện tại, và cuối cùng sẽ đưa chúng ta đạt đế mục đích tối thượng là sự
giác ngộ hoàn toàn.
Rất nhiều hành giả đã đạt được sự chứng ngộ cao nhất thông qua thực hành bổn tôn
Vajrayogini. Trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ cổ, rất nhiều người đã đạt
được chứng ngộ thông qua thực hành Heruka Chakrasamvara và Vajrayogini, và kể từ
khi các mật điển được đưa đến Tây Tạng, rất nhiều đạo sư Tây Tạng vĩ đại đã thành tựu
hoàn hảo thông qua thực hành này.
7) Kim Cang Thủ (tiếng Tây Tạng: Chagna Dorje)
Lịch sử dòng truyền thừa
Dòng truyền thừa của Ngài Rechungpa
Sự trao truyền truyền thừa
Đức Phật Kim Cang Trì -> Ngài Kim Cang Thủ -> Các Đại Thành Tựu giả Ấn độ-> Lạt
Ma Walachandra -> Ngài Rechungpa mang tới Tây Tạng -> sau một số bậc thầy nắm giữ
dòng truyền thừa -> Ngài Yongzin và Ngài Choegon
Giới thiệu Bổn tôn:
Kim Cương Thủ là vị Bồ Tát biểu trưng cho sức mạnh của tất thảy chư Phật . Ngài là vị
Phật toàn giác, chuyển hóa năng lượng của cảm xúc tiêu cực thành trí tuệ siêu việt và sự
toàn thiện kỳ diệu. Ngài tượng trưng cho Kim Cương bất hoại của chư Phật, sức mạnh
hàng phục. Ngài là "Vị chúa tể của các bí mật" ( Tây Tạng: Sangwe Dagpo) – người nắm
giữ tất cả các mật điển của Kim Cương Thừa.
Miêu tả ngắn gọn:
Thân Ngài mang sắc tướng xanh đen, một con rắn quấn quanh cổ, trang nghiêm thân
bằng vòng vàng, khăn quàng lụa, các loại trang sức và xương, phía dưới Ngài khoác tấm
da hổ. Ngài đứng giữa một đám cháy dữ dội. tay phải nắm giữ chùy Kim cang 9 chấu,
dùng để hàng phục các thế lực phàm trần; tay trái cầm Kim xí điểu ngang ngực. Ngài
biểu hiện sự phẫn nộ bằng ba mắt và lưỡi cuộn tròn. Chân trái Ngài dang rộng và chân
phải hơi co, dẫm lên xác bản ngã.
Mục đích và những lợi lạc của việc thực hành:
Kim Cương Thủ, Bậc Chiến Thắng siêu việt, là phương tiện đạt tới quyết tâm mạnh mẽ,
là biểu tượng cho hiệu quả không ngừng trong cuộc chinh phục cái xấu và chuyển hóa nó
thành con đường của hoàn thiện tâm linh.
Thực hành Pháp Kim Cương Thủ là phương pháp ưu việt đốt cháy mọi cảm xúc phiền
não và che chướng. Thông qua thực hành Pháp Kim Cương thủ, chúng ta có thể đạt được
sức mạnh để đánh bại và cượt qua những chướng ngại tâm linh và thế tục bao gồm những
ốm đau khổ hạnh hay các tật bệnh hiểm nghèo khác. Thành tựu đó là năng lượng vi diệu
làm lợi ích cho chúng sinh.
8) Ngài Mahakala tứ thủ (tiếng Tây Tạng: Gonpo Chagshi)
Lịch sử dòng truyền thừa:
Dòng truyền thừa của Ngài Palchen Galo Namgyal Dorje
Ngài Palchen Galo Namgyal Dorje, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Ngài Ga
Lotsawa là một Đại thành tựu giả vĩ đại của Tây Tạng và là một dịch giả, người đã đến
Ấn Độ và mang về rất nhiều giáo pháp quý giá cho Tây Tạng, đặc biệt là pháp thực hành
Mahakala. Ngài chuyên về việc thực hành tu tập pháp Mahakala, và đã truyền dạy rất
nhiều pháp này cho cả bốn tông phái của Phật giáo Tây Tạng. Tất cả các pháp thực hành
Mahakala bắt nguồn từ Ngài Pachen Galo đều được coi là rất xác thực và có uy tín cao.
Sự trao truyền của truyền thừa:
Đức Phật Kim Cương Trì -> Ngài Kim Cương Thủ -> Nhà vua Indra Bhuti -> Ngài
Saraha -> Nagajurna (Bồ Tát Long Thọ) -> sau một số vị Đại thành tựu giả Ấn Độ ->
Ngài Pachen Galo Namgyal Dorje, bậc thượng sư Tây Tạng vĩ đại và là dịch giả đã
mang nhiều pháp Mahakala trong đó có dòng truyền thừa này từ Ấn Độ sang Tây Tạng -
> Ngài Tsultrim Jungne-> Ngài Dorje Wangchuk -> Ngài Phagmo Drupa -> Ngài Shang
Tsalpa -> Ngài Rinchen Repa -> Ngài Tsangpa Gyare -> sau một số bậc thầy nắm giữ
dòng truyền thừa -> Ngài Yongzin & Ngài Choegon.
Giới thiệu Bổn tôn:
Mahaka là hóa thân phẫn nộ của Bồ Tát Quan Âm, hiện thân cho lòng từ bi phẫn nộ của
tất cả chư Phật. Lòng từ bi phẫn nộ của Ngài có thể giúp vượt qua mọi chướng ngại và
tiêu cực mà người ta phải đối mặt trên con đường đi đến giác ngộ.
Mahakala, còn được biết đến là một Đại Hộ pháp, là người bảo vệ cho những giáo pháp
của Đức Phật. Những vị hộ pháp về cơ bản là những hóa thân của chư Phật để thực hiện
vai trò loại bỏ những chướng ngại trên con đường đến với giải thoát. Pháp thực hành của
Ngài có thể được tu tập giống như Tam căn bản – Thượng sư, Bổn tôn và Hộ pháp.
Có rất nhiều màu sắc và hình tướng khác nhau của Mahakala, nhưng nhìn chung Ngài
thường được nhận ra trong tất cả những tông phái của Kim Cương Thừa là một trong
những người bảo vệ Pháp nổi bật và vĩ đại nhất.
Ví dụ như, Ngài Maning Mahakala của truyền thống Nyingma, Ngài Mahakala
Bernakchen (Mahakala áo đen) – Mahakala Nhị Thủ của dòng Karma Kagyu, Ngài
Mahakala Tứ Diện (Shar She Pa) của truyền thống Sakya và Ngài Mahakala Lục Thủ là
Đại hộ pháp của dòng Gelugpa.
Mục đích và những lợi lạc của việc thực hành:
Mục đích của việc thực hành pháp Mahakala là để giúp những hành giả loại bỏ tất cả mọi
chướng duyên ngăn cản sự tu tập tâm linh của họ, cũng như ủng hộ những nỗ lực và chí
thành đồng thời tịnh hóa những phiền não và vô minh. Với lời thỉnh cầu tha thiết và thực
hành tinh tấn, hành giả sẽ có được những ân phước gia trì và vượt qua mọi chướng ngại.
Nguồn: http://www.drukpachoegon.info/lineage-practices.aspx
Các Phật tử thân hữu đáng mến
Dưới đây là những phần trong tuyển tập các bài giảng: Sự rõ ràng tuyệt đối – Tập 1 của
Đức Rinpoche H.E.Kyabje Drukpa Choegon.
Mục lục toàn bộ nội dung cuốn sách được trình bày ngay dưới đây:
I) Hiểu những nền tảng cơ bản của Phật Giáo Tây Tạng
a) Về Pháp – Những bài giảng của Đức Phật:
b) Về Kim Cương Thừa – Chân Ngôn Thừa
c) Về các truyền thừa của Kim Cương thừa – các trường phái khác nhau trong Kim
Cương thừa
d) Về một số những danh hiệu phổ biến – lời chào trong Mật thừa.
e) Về một vài thuật ngữ phổ biến trong Kim Cương thừa – Bồ Tát, Daka, Dakini và Hộ
Pháp.
f) Về Quy y – Cánh cửa dẫn vào Đạo Phật
g) Về Đạo sư – Bậc thầy chỉ dẫn đến các thực hành Kim Cương thừa
h) Về Samaya giới – Những giới nguyện của Kim Cương Thừa:
II) Về các cách hành xử nên giữ - Thái độ đúng đắn trong những hoạt động liên
quan đến Pháp
III) Về các cách thực hành Phật Giáo – Lục Độ Ba La Mật
a) Bồ Đề Tâm
b) Kỉ Luật/ Đạo đức/ Ý Thức (shila)
___________________________________________________________
Hỏi và Đáp về Pháp cùng Choegon Rinpoche – Phần I
a) Về Pháp – Những bài giảng của Đức Phật:
1) Rinpoche, Ngài có thể cho chúng con biết tại sao việc đi theo con đường tâm linh lại
thực sự cần thiết?
Sinh ra là con người, chúng ta có những năng lượng và tiềm năng rất lớn để đạt
được những mục đích của đời mình, dù mục đích đó đúng hay sai. Việc tìm và theo một
con đường tâm linh, chúng ta sẽ có thể tận dụng và khám phá hết những khả năng của
mình cho bản thân cũng như những người xung quanh ta, và đạt đến sự giải thoát hoàn
toàn khỏi luân hồi.
Nếu không có con đường tâm linh, và sự dẫn dắt của một bậc thầy giác ngộ chân
chính, chúng ta sẽ bị cuốn mãi vào việc tìm cách đạt được những mục tiêu tầm thường cá
nhân, ví như là tài sản, quyền lực, hạnh phúc của cõi nhân gian này, sự nổi tiếng… và sử
dụng toàn bộ năng lượng của chúng ta vào những thứ như vậy. Và như thế, chúng ta đánh
mất đi cơ hội hiếm hoi để giải thoát hoàn toàn khỏi cái vòng luân hồi của chúng sinh.
2) Rinpoche, vậy Pháp là gì?
Cái ý nghĩa thực sự của Pháp thực sự rất sâu sắc. Cái chân cốt tủy của Pháp khó có
thể thấu hiểu và diễn đạt hết bằng những lời thường được.
Có hai loại Pháp: Pháp của “Togpa” (Sự tự nhận thức) và Pháp của “Lung” (kinh
điển)
Pháp của sự tự nhận thức chính là Pháp tối cao nhất: đó là sự nhận ra rằng Đức Phật,
không thể nào chia cắt hoặc phân loại nhất định nào cả.
Pháp của Kinh Điển được chia vào hai nhóm chính: Kinh Điển của Đức Phật và Kinh
Điển của các Bậc Học Giả. Những lời vàng hiếm hoi do chính Đức Phật nói ra được gọi
là Kinh Phật. Và những lời giải thích, phân tích về Kinh Phật của các vị học giả Phật
Giáo được gọi là Luận.
Kinh Phật thực sự rất là rộng và thâm sâu. Ví dụ, sự trống rỗng được Đức Phật miêu
tả trong 16 Bộ Kinh ĐIển, dịch từ tiếng Phạn sang Tiếng Tây Tạng, tối đa khoảng 400
trang mỗi cuốn. Về sau, Nagajruna (ngài Long Thọ) viết vài bộ Luận. Với một người
bình thường, mà đi luôn vào Kinh Điển và đọc ngay, để hiểu được một cách sâu sắc các ý
nghĩa thực sự khó lắm thay.
Có phải ai cũng có thể viết những bộ Luận được không? KHÔNG!. Chỉ có những
học giả đã đạt được ba tiêu chuẩn mới có quyền được viết Luận cho các Kinh Điển:
1. Những người có được sự nhận thức bản chất thật sự của trí
2. Những người được gia trì bởi Chư Phật và Chư Bồ Tát
3. Những người có được sự hiểu biết sâu sắc về các lính vực của Giáo Pháp: Tam
Tạng, Vi Diệu Pháp, Trung Đạo, Kinh Điển, Luật, Luận.
Thực tế là, những học giả Phật Giáo này được chính Đức Phật tiên tri, như trường hợp
của các Ngài Nagarjuna và Asanga. Đức Phật tuyên bố: “Sau khi ta thị hiện niết bàn,
những vị thầy vĩ đại Nagarjuna và Asanga sẽ tập hợp và giải thích những lời dậy của ta.
Nói một cách đơn giản hơn, Pháp chính là bất cứ những gì các con làm để diệt hết những
cảm xúc xấu và dẫn các con đến hạnh phúc chân thật và những điều tốt đẹp. Đó chính là
PHÁP.
b) Về Kim Cương Thừa – Chân Ngôn Thừa
1. Thưa ngài Rinpoche, như thế nào là Kim Cương Thừa hay Phật Giáo Tây Tạng?
Kim Cương Thừa hay Chân Ngôn Thừa, cách gọi khác là Mật Thừa là một nhánh
của Phật Giáo Đại Thừa, được biết tới bởi sự sử dụng những phương pháp thiện xảo của
Mật Giáo để theo đuổi con đường đi tới giác ngộ.
Kim Cương Thừa khởi thủy phát triển từ miền Tây Bắc của Ấn Độ vào khoảng
500 năm sau Công Nguyên. Tuy nhiên, sau đó được truyền sang và trải qua quá trình
thanh lọc vĩ đại tại Tây Tạng. Đó là lí do tại sao chúng ta vẫn nhắc tới Kim Cương Thừa
như là Phật Giáo Tây Tạng.
Phật Giáo hay Đạo Phật bắt đầu truyền tới Tây Tạng vào khoàng thế kỷ thứ Bảy,
giai đoạn trị vì của đức vua Songtsen Gampo.Vào thế kỷ thứ Tám thì đạo Phật giữ vai trò
ngự trị tại Tây Tạng, lúc đó là thời kỳ của đức vua Trisong Detsen. Hai bậc thượng sư
Liên Hoa Sinh và Tịch Hộ đã giúp đức vua kiến lập ra “Pháp” ( Tức là giáo pháp của đức
Phật) tại Tây Tạng, và các ngài cũng dịch nhiều bài giảng giáo lý sang ngôn ngữ Tây
Tạng.
Sau đó, nhiều dòng truyền thừa khác của Đạo Phật cũng được truyền tới Tây Tạng
qua nhiều thế kỷ và dần dần phát triển thành Tám phái hay dòng, bởi sự chuyển giao từ
người Thầy tới những đệ tử của mình: Tám dòng thực hành chính được coi là “Tám cỗ xe
vĩ đại” hay “Tám dòng tu”. Sau đó, qua vài thế kỷ, Phật Giáo tại Tây Tạng chuyển thành
bốn phái hay dòng chính, được gọi là “Bốn tông phái chính của Phật Giáo Tây Tạng”.
Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) có hai con đường thực hành chính: Sutrayana (Kinh
Thừa)-lấy sự hoàn thiện các phẩm tánh tốt làm phương pháp và Vajrayana( Kim Cương
Thừa)- lấy Phật Quả có chủ định là con đường.
Kim Cương Thừa được nhận định như là Thừa (hay là cỗ xe) thứ ba song song bên
cạnh 2 Thừa Theravada (Thượng Tọa Bộ, Tiểu Thừa) và Mahayana (Đại Thừa). Cũng
theo cách nhìn nhận đó thì có ba lần chuyển bánh xe pháp luân. Trong lần chuyển pháp
luân đầu tiên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy về “Tứ Diệu Đế” (Bốn Chân lý
màu nhiệm) tại Varnasi (được biết đến với tên khác là Benares, một thành phố bên bờ
Tây sông Hằng ở Uttar Pradesh, Ấn Độ), nhằm hướng tới tông phái Tiểu Thừa hay Cỗ xe
nhỏ, trong đó chỉ còn trường phái Theravada (Thượng Tọa Bộ, Nam Tông) lưu truyền
đến ngày nay.Trong lần chuyển pháp luân thứ hai, đức Phật truyền dạy “Kinh Bát Nhã”
tại đỉnh núi Linh Thứu Sơn, hướng người tu hành tới Đại Thừa. Sự giảng về việc chuyển
pháp luân thứ ba được diễn ra tại Shravasti và Ngài cũng dẫn giải chi tiết về việc mọi
chúng sinh đều có tự nhiên tồn tại Phật Tánh. Lần chuyển pháp luân thứ ba này được
định rõ là việc hướng tới Kim Cương Thừa.
2. Thưa ngài Rinpoche, tại sao người ta nói Kim Cương Thừa chính là sự truyền dạy
tối cao của đức Phật? Không phải mọi sự truyền giảng của Đức Phật đều giống nhau
sao?
Nhìn nhận từ cảnh giới cao quý của sự truyền dạy của Đức Phật, chúng ta không
thể nhận giáo huấn qua ai khác, mà phải xem những điều Phật dạy là hơn hết thảy những
điều còn lại. Mọi điều ngài truyền thụ đều phải được trân quý ngang bằng nhau, bởi đó
đều là những lời giảng dạy của Đức Phật.
Nhưng chính Đức Phật cũng tạo nên những điều khác biệt khi ngài thuyết giảng về
các cấp độ, bởi có rất nhiều cấp độ khác nhau.Ví dụ như khi Đức Phật dạy về các mức độ
của chân lý tương đối, có thể được coi là các mức độ mang tính tương đối. Tại Tây Tạng,
điều này được hiểu là “drang don” hay là ý nghĩa tượng trưng.
Khi Đức Phật giảng dạy về “ Thiền định” và “ Tính không”, những điều này đều
chủ đích nhằm vào bản chất cốt yếu bên trong. Như những phạm trù được gọi là
“ngedon”. “Ngedon” là nghĩa chính xác, nghĩa tuyệt đối.Và những nghĩa tuyệt đối này
được sử dụng cho những bài thuyết giảng cơ bản cốt yếu.Theo Đức Phật thì những bài
thuyết giảng chủ yếu này ở cấp cao hơn và vô cùng cao quý. Chúng ta không thể sử dụng
những ngôn từ có tính chất tương đối sử dụng cho những điều cơ bản. Những lời tuyệt
đối có tính không thể thay đổi được. Bởi vậy nên có hai phạm trù, “drangdon” là cấp độ
tương đối và “nghedon” là cấp độ tuyệt đối.
Kim cương thừa còn được gọi là Quả thừa hay Thừa Quả. Con đường của Thượng
Tọa Bộ và Đại Thừa thì còn được gọi là Nhân Thừa, bởi vì về cơ bản phương pháp thực
hành dựa trên hạt giống (nhân) để đạt được quả hay sự giác ngộ. Lấy ví dụ như một
người cần phải thực hành dựa trên căn nghiệp và quả, gom góp vô lượng công đức và
tịnh hóa nghiệp chướng. Và dần dần, người đó có thể tịnh thức được những giá trị tự
nhiên trong tâm hồn mình và cuối cùng đạt tới giác ngộ.
Tại sao Vajayana lại được gọi là Thừa Quả? Quả là một thể của giác ngộ như Đức
Phật, Dorje Sempa và nhiều Đấng Bản Tôn khác. Trong “tính Không”, chúng ta chuyển
đổi thân, khẩu, ý của chúng ta trở thành thân Kim Cương, khẩu Kim Cương và ý Kim
Cương. Theo cách đó, đường đi của chúng ta là thực hành dựa trên thành quả giác ngộ
của Đức Phật tối thượng ngay tại đây, ngay tại khoảnh khắc này, và đạt được quả. Chính
bởi vậy, sự truyền dạy của Đức Phật được xem là tuyệt đối và cao quý.
Không chỉ vậy, trong Kim Cương Thừa còn có nhiều phương pháp khác được
truyền dạy bởi Đức Phật như bằng cách nào gom góp công đức, làm thế nào để dễ dàng
thanh tẩy hay tịnh hóa được các nghiệp chướng, làm thế nào để vượt qua các chướng
ngại, vv…Một số các phương pháp không được truyền dạy hay nhắc tới trong Thượng
Tọa Bộ và nhiều bài thuyết giảng khác.
Đặc biệt khi có thể soi thấu bản chất tự nhiên của tâm, thì Kim Cương Thừa sẽ rất
chuẩn xác và linh diệu. Với giáo pháp Dzogchen (Đại Toàn Thiện), Mahamudra (Đại Thủ
Ấn), Kalachakra (Bánh xe thời gian) và ở nhiều dòng trong Mật giáo khác, một người khi
đã tìm thấy sự hướng dẫn thì sẽ chỉ ra đích xác được bản chất tự nhiên của tâm mình.
Đó là tại sao, dù cho nói một cách khắt khe, thì Phật Giáo Kim Cương Thừa vẫn là
một cấp độ cao, Kim Cương Thừa thích hợp với những người có khả năng thực hành một
cách đúng đắn, bởi Kim Cương Thừa mang tính chất chuẩn xác và rõ ràng. Kim Cương
Thừa dành cho những ai đã thực sự sẵn sàng, và cũng dành cho những người đã tích góp
công đức để bước vào tu tập.
Rất nhiều các bậc Thành Tựu Giả vĩ đại đã đạt tới giác ngộ trong cuộc đời đáng
tôn quý của họ tại Ấn Độ, Tây Tạng hay ở những nơi khác thông qua con đường Kim
Cương Thừa. Đó chính là sự khác biệt.
3. Thưa ngài Rinpoche, tại sao trong Kim Cương Thừa lại có rất nhiều nghi lễ, lễ
cúng dường và đại lễ cầu nguyện vậy?
Phật Giáo Kim Cương Thừa được tạo nên trên nền tảng là sự biến đổi của mọi sự
tồn tại bất định. Cách mà Kim Cương Thừa hiểu về thực thể và sự tồn tại là điểm khác
biệt giữa Kim Cương Thừa với Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Trong Kim Cương Thừa, mọi hiện tượng đều được vãng sanh vào nơi mà người ta
gọi là cõi Tịnh Độ hay cảnh giới Phật. Điều đó nói lên rằng, toàn cõi vũ trụ chính là Mạn
đà la của đức Bổn tôn; hình dạng của con người, thân người là hình dạng của đức Bổn
Tôn; khẩu là thanh âm thần chú; Ý là Pháp thân của đức Bổn Tôn, là tự tính chân thật của
đức Bổn Tôn, là Pháp Giới (cõi của Chân lý tuyệt đối). Những điểm trên đã được giới
thiệu và truyền thụ qua phương pháp thực hành của Kim Cương Thừa. Lễ nghi, về cơ
bản, là sự mô phỏng lại những hiện tượng xung quanh chúng ta như môi trường sống,
thân người của chúng ta, thân ngũ uẩn của ta, âm thanh và tinh thần được chuyển đổi
thành thể của các vị Bổn Tôn thông qua sự quán tưởng. Điều này được định ra trong hầu
hết các nghi quỹ thực hành.
Trong suốt quá trình thực hành, thông qua nghi lễ, trì tụng và âm nhạc sẽ tạo thành
vật phẩm cúng dường thiêng liêng cho Mạn Đà La. Trên thực tế, chúng ta thấy các lễ
nghi luôn có mặt trong truyền thống Phật Giáo. Dù vậy, sự thực, trong Kim Cương Thừa,
các nghi lễ thường diễn ra lâu hơn.
Tuy nhiên, các nghi lễ đó không phải là các nghi lễ bình phàm. Bề ngoài thì cách
mà các nghi lễ của Kim Cương thừa khi biểu diễn, có vẻ như không khác so với các nghi
lễ khác. Song, khi hiểu thấu thì con sẽ thấy nó hoàn toàn về Thiền định và Tịnh thức. Nó
không phải là những nghi lễ đơn thuần chỉ có đọc tụng kinh và cầu nguyện. Nó chất chứa
những ý nghĩa sâu xa hơn và bản chất cốt lõi của nó là sự chuyển hóa. Chúng ta thậm chí
còn không sử dụng được từ “chuyển hóa” khi chúng ta nhắc tới Thân Kim Cương, Khẩu
Kim Cương và Ý Kim Cương. Nó là sự kế thừa lại những nhận thức nguyên sơ: Nguyên
thủy là như thế nào thì nó là như thế. Vậy đó là vì sao đó lại là các nghi lễ. Nhưng chúng
ta cũng cần thông hiểu những nghi lễ mang ý nghĩa gì và họ đang mô tả những gì.
Và thực sự, đúng như con nói, ở Kim Cương Thừa có nhiều nghi lễ hơn các dòng khác.
4. Thưa ngài Rinpoche, Có thể nào trở thành một hành giả Kim Cương Thừa nhưng
lại không muốn tham dự vào những nghi lễ này?
Có thể. Con không nhất thiết phải sử dụng âm nhạc và mọi nhạc khí để tiến hành
các buổi lễ, như các nghi lễ.
Con có thể trở thành một hành giả theo một cách đơn giản. Bởi thực ra, Kim
Cương Thừa có rất nhiều dạng thực hành.Một trong các cách là hãy nhìn sâu vào bản chất
chân thực của Tâm và thiền định về nó. Và khi con thấu hiểu sự cốt lõi sâu bên trong, con
có thể trở thành một trong những hành giả Mật Tông hàng đầu. Để đạt tới ngưỡng
cảnh đó thì một vài người phải có các pháp tu (theo) Bổn Tôn – gọi là “ giai đoạn phát
triển” và “giai đoạn hoàn thiện”.
“Giai đoạn phát triển” mang ý nghĩa là sự quán tưởng về chư Bản Tôn. “Giai đoạn
hoàn thiện” là nghĩa là sự thiện định về tự tính chân thật của tâm. Sự kết hợp “giai đoạn
phát triển” và “giai đoạn hoàn thiện” gọi là 2 con đường của Kim Cương Thừa
Tất nhiên, con cũng cần thực hành những cấp độ đầu tiên như phép tu mở đầu
Ngondro, được hiểu là bốn pháp tu căn bản. Phương pháp tu tập tịnh hóa nghiệp chướng
là vô cùng cốt yếu bởi qua vô số kiếp, chúng ta đã tích lũy vô lượng các nghiệp, và nếu
như nghiệp đó không được tịnh hóa thì sẽ gây ra chướng ngại cho sự phát triển con
đường của chúng ta.
Con mặc dầu có thể có ít “giai đoạn hoàn thiện” nhưng có nhiều sự thiền định hơn,
và cũng có nhiều nghi lễ con không phải thực hành. Milarepa là bậc hành giả yogi không
thực hành hết các nghi lễ song Ngài vẫn đạt tới giác ngộ. Không chỉ ngài Milarepa, mà
nhiều bậc Thành Tựu Giả khác cũng tìm tới nơi hang động để thiền định. Họ cũng không
cần tới mọi những nghi thức này.
Vậy tại sao mọi nghi lễ đều được tiến hành? Có hai dạng thực hành, một là tại các
tu viện với sự tập họp đông đảo, tạo nên sức mạnh lớn và có những phương thức trình
diễn phức tạp, yếu tố mà phần lớn các nghi lễ yêu cầu. Nghi lễ trở thành phương pháp
thực thành chung của tu viện. Ví dụ như phương pháp tu trì Chakra Sambara, chỉ một cá
nhân tu tập cách ly với hết thảy trong một hang động, đó là theo phong cách hành giả Mật
Tông đơn giản. Hoặc nếu tiến hành trong tu viện theo phần lớn các nghi lễ, chư tăng ni
quần tụ trong cùng một buổi lễ, tụng kinh và tạo ra một Mạn Đà La lớn bằng cát. Không
chỉ đơn giản như vậy mà là tạo ra một Mạn Đà La thông qua quán tưởng. Đó cũng là cách
nghi lễ trở thành một vật phẩm cúng dường vĩ đại, là thời khắc của sự hòa hợp, là khi sự
thực hành chung được tiến hành cùng nhau.
Do đó, có hai phương pháp thực hành truyền thống: Một là phương pháp tu tập
mang tính chất theo tu viện với việc thực hiện các lễ cúng dường lớn thông qua các nghi
lễ, và tu tập cá nhân trong hang động hay trong môi trường cô lập. Và con cũng nên nhận
lấy một bổn tôn như là bổn tôn hộ pháp (có bản chất tương ứng với tâm lý trong mỗi
hành giả) và thực hành theo Bổn tôn đó, mà con sẽ thiền định được bản chất thực sự của
tâm. Đó là điều tốt nhất.
5. Thưa ngài Rinpoche, vậy điều gì là bản chất của Kim Cương Thừa?
Bản chất của Kim Cương Thừa chính là điều mà ta đã vừa đề cập tới: Thân ngũ
uẩn, Thân Khẩu Ý của chúng ta phải được hoàn thiện chín muồi thông qua việc tu tập, trở
thành Thân của Đức Phật, Khẩu của Đức Phật, Tâm của Đức Phật. Điều này đã được nói
tới trong phương pháp tu “giai đoạn phát triển”, được bắt đầu bởi sự truyền Quán Đảnh từ
một bậc thầy - người đã đạt tới trình độ giác ngộ không gián đoạn từ các dòng truyền
thừa và qua quá trình tu tập.
Một trong những căn bản của phương pháp tu tập theo Kim Cương Thừa, đó là
chúng ta nhận ra được bản tính chân thật của Tâm như là Đức Phật Nguyên Thủy, bằng
việc được vạch ra các sự chỉ dẫn.
Dòng Kagyu dựa vào thuyết giảng về pháp tu Đại Thủ Ấn, được nâng lên bởi pháp
thực hành “Sáu Pháp Yoga của Naropa” và “Sáu pháp vị bình đẳng”.
Ở dòng Sakya, việc thấu hiểu bản tính chân thực của tâm thông qua sự truyền dạy
được gọi là Lamdre (Giáo pháp về đạo và quả), con đường và kết quả. Ở dòng Nyingma,
thông qua giáo pháp Dzongchen (Giáo Pháp Đại Toàn Thiện), với “katag” (sự thuần khiêt
nguyên sơ) được coi là giáo pháp chính và “thogal” (sự biến đổi chuẩn xác) là phương
pháp, họ đã tiến tới tỉnh thức được giai đoạn giác ngộ hoàn toàn của Tâm, được biết đến
là Samanthabadra, Rangjung Yeshe (tự tính tồn tại của trí tuệ) or Rigpa (sự tỉnh thức tinh
túy). Tất cả đều làphương pháp thực hành của Kim Cương Thừa. Về cơ bản là: Hiểu
được mình là ai.
c) Về các truyền thừa của Kim Cương thừa – các trường phái khác nhau trong Kim
Cương thừa:
1) Thưa Rinpoche, liệu ngài có thể giải thích tại sao lại có nhiều phái khác nhau trong
Kim Cương thừa?
Ở Ấn Độ, có rất nhiều dòng truyền thừa khác nhau, như là dòng truyền thừa của
Maitrepa, và Nargajuna, Tilopa, Virupa, … Để gọi là một phái thì hơi quá rộng, tôi nghĩ
vậy. Có lẽ chúng ta chỉ nên gọi là dòng truyền thừa thì thích hợp hơn.
Khi chúng ta nói về dòng truyền thừa Kagyu, cơ bản chúng ta đang nhắc đến
những người theo các giáo lý của Dorje Chang, truyền từ vị yogi vĩ đại xứ Ấn Độ, ngài
Tilopa (988 – 1069), sau đó đến Naropa (1016 – 1100), Marpa (1012 – 1097), Milarepa
(1040 – 1123) và Gampopa (1079 – 1153). Đó là thứ được gọi là dòng truyền thừa
Kagyu.
Cũng có các giáo huấn truyền từ ngài Dorje Chang đến ngài Virupa (thế kỷ thứ 9),
và thông qua các vị đại thành tựu giả, đến ngài Sachen Kunga Nyingpo (1092 – 1158),
Lopon Sonam Tsemo (1142 – 1182), Jetsun Dragpa Gyaltsen (1147 – 1216), Sakya
Pandita Kunga Gyaltsen (1182 – 1251) và Drogon Phagpa Lodro Gyaltsen (1235 – 1280).
Đây là năm vị đạo sư chính của dòng Sakya. Và đó được gọi là dòng truyền thừa Sakya.
Các giáo lý của ngài Palden Atisha (982 – 1054) được truyền xuống ngài Drom
Tonpa (1005 – 1064), và từ ngài đến với một chuỗi dài các đạo sư vĩ đại đến ngài Je
Tsongkhapa Lobsang Drakpa (1357 – 1419, Đại sư Tông Khách Ba). Dòng truyền thừa
thực hành này được gọi là Gelug.
Đạo sư Liên Hoa Sinh, đạo sư vĩ đại người Ấn, đến Tây Tạng ở thế kỷ 8, thành lập
dòng truyền thừa Nyingma, cùng với các đạo sư khác, như vua Trisong Detsen (742 –
797), và đức Tu Viện trưởng Shantarakshita.
Nyingma cơ bản có nghĩa là dòng truyền thừa cổ xưa. Kagyu, Sakya, Gelug: ba
dòng này là dòng truyền thừa mới, hay là Sarma.
Giai đoạn của các truyền thừa mới, hay trường phái Tân Dịch, bắt đầu từ cuối thế
kỷ 9, và đầu thế kỷ 10. Sự dịch thuật từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 9 bao gồm Trường phái Cựu
Dịch, trong khi các cái khác được gọi là truyền thống Tân Dịch. Tân Dịch gồm Kagyu,
Sakya, và Kadampa. Trường phái cựu dịch liên quan đến dòng Nyingma.
Bất cứ một truyền thừa nào mà trước sự qua đời của đạo sư nổi tiếng người Ấn,
ngài Pandita Smrttijnana (thế kỷ 10 và 11), đạo sư của ngài Palden Atisha, được gọi là
truyền thống Nyingma. Sự qua đời của ngài Smrttijnana đánh dấu giai đoạn kết thúc của
truyền thống Cựu Dịch ở Tây Tạng. Sau đó, truyền thống Tân Dịch – Kagyu, Sakya và
Kadampa – được thiết lập.
Cùng thời điểm đó, truyền thống Nyingma về các sự trao truyền (gọi là Kama) bắt
đầu suy giảm đáng kể, và trước thể kỷ 15 hay đầu thế kỷ 16, nó đã suy yếu nghiêm trọng.
Sau đó đạo sư Palden Atisha đến Tây Tạng, cùng lúc là rất nhiều đạo sư vĩ đại Tây Tạng
đến Ấn Độ để nghiên cứu đạo Phật. Sau đó dòng Nyingma được phục hồi và làm mới
bằng các giáo lý đến từ các địa điểm khác nhau, đặc biệt là bằng sự phát lộ các Terma,
kho tàng các giáo huấn được Guru Rinpoche cất giấu và phát lộ bởi các Terton, hay các
nhà phát lộ kho báu. Truyền thống Nyingma trở nên mạnh hơn thông qua sự thực hành
các Terma. Một trong các vị đạo sư vĩ đại dòng Mindrolling, được gọi là Minling Terdak
Lingpa và Lochen Dharmashri (1654 – 1718), tìm thấy rất nhiều terma, và đem đến một
sức sống mới cho truyền thừa Nyingma.
Có rất nhiều truyền thừa khác nhau, nhưng ngày nay người ta gọi chúng là “các
phái”. Tuy nhiên, chúng ta không phải là người bộ phái. Kim Cương thừa không thể bộ
phái. Không may là, chủ nghĩa bộ phái có vẻ hiện hữu nhiều hơn, đặc biệt trong truyền
thống Kim Cương thừa ở nhiều nơi. Điều này không hề tốt. Chỉ trong các thực hành Kim
Cương thừa, chúng ta phải bảo vệ dòng phái nhưng ta nên kính trọng và sẵn sàng nhận
các giáo lý quý giá từ các đại sư của các truyền thừa khác. Đó là điều đã xảy ra trước kia
ở Ấn Độ, Nepal và Tây tạng. Thậm chí ngày nay, phong trào bất bộ phái vẫn đang diễn
ra. Vì thế, nếu bạn gặp một vị đạo sư vĩ đại, một vị thầy chân chính, thì bạn cần sẵn sàng
nhận các giáo lý từ ngài, không phụ thuộc vào vấn đề bộ phái. Chủ nghĩa bộ phái không
phải là lời dạy của Phật, nó chỉ là Pháp thế gian. Và trên thực tế, không có quá nhiều các
truyền thừa, mặc dù thực sự là chúng khác biệt: Kagyu, Nyingma, Sakya và Gelug.
Tại sao lại có các truyền thừa này? Ồ. Không có một dòng truyền thừa, người ta
không thể thực hành Kim Cương thừa, bởi vì cần thiết phải có sự gia trì liên tục từ những
bậc giác ngộ. Bởi vậy, đó là lý do tại sao có nhiều truyền thừa, và mọi người theo một
truyền thừa đặc biệt.
Như thế, người ta có cần phải chỉ ở trong một truyền thừa duy nhất? Không,
không cần thiết. Tuy nhiên, có thể sẽ khó khăn để theo nhiều truyền thừa khác nhau cùng
lúc. Điều này là bởi ngày nay người ta không uyên bác như vậy. Phần lớn mọi người có
rất nhiều lo lắng trong tâm. Nếu người ta không sẵn sàng, việc chuyển từ một truyền thừa
này sang một truyền thừa khác, từ một đạo sư này sang đạo sư khác có thể gây ra các vấn
đề. Đó là lý do mà một vài vị đạo sư khuyên người ta chỉ nên ở trong một truyền thừa bởi
vì có thể họ chưa sẵn sàng hay sẽ bối rối.
Câu hỏi tiếp theo của các con có lẽ sẽ là làm sao chúng ta biết được một vị đạo sư
chân chính? Điều này cũng là sự lo lắng của vài vị đạo sư. Đó là lý do mà các ngài bảo
con nên ở trong một truyền thừa, bởi vì rất khó cho các con có thể hiểu ai là một vị thầy
chân chính. Bởi vậy, người ta có thể không biết hay không tìm thấy một vị thầy chân
chính trong một thời gian dài trừ khi họ có căn cơ và chắc chắn. Thậm chí như thế, các
dòng truyền thừa khác nhau cũng có những vị đạo sư vĩ đại, bởi vậy người ta nên sẵn
sàng nhận các giáo lý từ mọi vị thầy vĩ đại của các truyền thừa khác nhau, không chút bộ
phái.
d) Về một số những danh hiệu phổ biến – lời chào trong Mật thừa.
1. Rinpoche, con luôn nghe thấy từ “bậc Giác ngộ” trong Kim Cương thừa. Ý nghĩa
thật sự của điều đó là gì ạ?
Những bậc Giác ngộ là những bậc Tỉnh thức. Họ là những người đã không còn ở
trong phiền não hay thế giới nghiệp quả luân hồi. Họ đã được giác ngộ khỏi thế giới của
nghiệp, được tỉnh thức khỏi sự ngủ quên của vô minh.
Vậy làm cách nào để một người có thể đạt được giác ngộ? Khi chúng ta hiểu được
bản chất chân thật của tâm như nó vốn có, là Pháp thân, khi đó chúng ta đã tỉnh thức. Khi
đó sẽ không có nghiệp chướng, không có phiền não, và chúng ta sẽ lĩnh hội được tất cả
mọi thứ xung quanh ta theo đúng bản chất chân thật của chúng, thoát khỏi mọi sự vô
minh.
Ví dụ, khi trong nhà chúng ta có những con rắn bằng cao su, chúng ta sống trong
sợ hãi vì cứ nghĩ những con rắn đó là thật và có thể cắn mình bất kỳ lúc nào. Nhưng khi
ta nhận ra chúng chỉ làm bằng cao su và chúng ta tỉnh giác khỏi sự phiền não đối với
những con rắn thật, sự sợ hãi sẽ biến mất. Ta được giải thoát khỏi nỗi lo sợ.
Một ví dụ khác là khi chúng ta khổ sở vì những cơn ác mộng đến trong giấc ngủ.
Khi ta thức giấc, mọi giấc mơ biến mất, ta nhận ra những cơn ác mộng khủng khiếp kia
chỉ là giấc mộng không có thật.
Đó là một vài ví dụ để giải thích ý nghĩa của việc được tỉnh thức hay còn gọi là
giác ngộ. Dù vậy, vẫn có những sự diễn giải rộng lớn và thâm sâu hơn về ý nghĩa của
‘giác ngộ’. Nói một cách đơn giản, bằng sự thiền định và tu tập của mình, ta sẽ trở nên
hiểu biết hơn về những thứ bên trong và ở xung quanh mình – tâm hồn và những xúc tình
của chúng ta, từ đó ta sẽ có những trải nghiệm về sự hiểu biết rõ ràng đối với bản chất
của bệnh tật, bản chất của thế giới, bản chất của nỗi sợ hãi, bản chất của những xúc
cảm… Khi ta đã hiểu được bản chất chân thật của chúng, cũng là lúc ta đã được khai
sáng, thì mọi thứ sẽ không thể đe dọa hay làm ta sợ hãi nữa. Đó là ý nghĩa của việc trở
nên tỉnh thức. Tuy nhiên, từ lúc bắt đầu đến lúc trở nên giác ngộ hoàn toàn, sự tỉnh thức
có rất nhiều cấp độ.
2. Xin Rinpoche hãy giải thích cho con biết về sự khác biệt giữa ‘Lama’, ‘Khenpo’,
‘Tulku’ và ‘Rinpoche’? Thực sự con không hiểu những chức danh này có ý nghĩa gì.
Tôi thích dùng từ ‘thứ hạng’ hơn là ‘chức danh’. Ý nghĩa nguyên bản của những
hạng bậc này có thể hơi khác biệt so với những gì chúng ta hiểu ngày nay.
Nói một cách chính xác, thuật ngữ ‘Lama’ có một nghĩa rất cao. Trong Phật giáo
Tây Tạng truyền thống, những người đạt được thành tựu viên mãn cao nhất mới được gọi
là những Lama. Đó là lý do tại sao chúng ta gọi những vị ấy là Lama Marpa, Lama
Tshongkapa, Lama Longchen Rabjam…
Tuy nhiên, ngày nay ‘Lama’ được dùng ở một số vùng ở Himalaya, để gọi chung
những vị sư đã được truyền giới. Cho nên thói quen ngày nay là gọi những vị sư Tây
Tạng là Lama.
‘Khenpo’ là những Lama đã toàn tất 9 – 10 năm rèn luyện trong những tưu viện
Phật giáo hoặc những bậc học cao cấp hơn, nơi mà họ đã được học về triết học Phật giáo
ngoài các môn mở đầu cơ bản khác. Sau ba năm làm giảng sư ở những tự viện này hoặc
những bậc cao cấp hơn, họ được mang chức danh Khenpo. Chức danh này tương đương
với bậc Tiến sĩ trong hệ thống giáo dục hiện đại. Tuy nhiên, những điều kiện để đạt được
chức danh Khenpo có thể có sự khác biệt giữa bốn tông phái ở Tây Tạng.
‘Tulku’ về cơ bản có nghĩa là những Lama tái sinh. Thời cổ xưa, những Lama tái
sinh được kiểm tra rất nghiêm cẩn, được xác minh chính xác và hoàn toàn được thừa
nhận. Không giống như những Tulku tự thừa nhận hoặc những Tulku được xác nhận
trong dòng họ, những Tulku xác thực thường rất ít. Ngày nay có quá nhiều Tulku, và điều
đó đã ít nhiều gây tranh cãi trong Kim Cương thừa. Những gì tôi đang nói đây không
phải là mới; đó là sự thật, và tôi không có ý định làm ai phật lòng. Đó là lý do tại sao đối
với những hành giả Kim Cương thừa, điều quan trọng là phải tìm hiểu một cách chính
xác về quá trình tu tập của mỗi vị Tulku, dòng truyền thừa mà Ngài nắm giữ, những bậc
thầy mà Ngài đã từng học hỏi, những tri thức uyên bác mà Ngài từng được nhận, và
nhiều điều suy xét khác.
‘Rinpoche’ nghĩa là những bậc tôn quý. Họ ở vị trí cao hơn cả những Lama
chuyển thế, do vậy họ được coi là vô cùng tôn quý. Vì nằm trong một số ít Tulku nên
cũng không có nhiều Rinpoche. Khi những Tulku trưởng thành hoặc đã hoàn tất nhiều
phần tu tập, người ta sẽ gọi Ngài là Rinpoche. Hoặc theo truyền thống, một Lama ở vị trí
rất cao có nhiều đóng góp cho dòng truyền thừa, cho tu viện hoặc những người nắm giữ
dòng truyền thừa, thì cũng gọi là Rinpoche. Nhiều Tulku và Khenpo tự nhận mình là bậc
Rinpoche, điều đó thật là đáng tiếc.
Nói một cách ngắn gọn, Lama là những vị sư bình thường đã thọ giới. Khenpo là
những Lama đã được tu học. Tulku là những Lama đã tái sinh. Rinpoche là những bậc
tôn quý.
Một tự viện thì thường có một hoặc hai Rinpoche – mà thông thường là một – và
từ ba đến bốn Tulku. Những tu viện lớn hơn có thể có ba đến bốn Rinpoche, sáu đến bảy
Tulku và chín đến mười Khenpo. Những viện lớn hơn nữa hoặc ở bậc cao cấp hơn có thể
có đến hai mươi Khenpo.
Tulku và Rinpoche có liên quan nhiều hơn đến truyền thống Mật thừa. Khenpo
được áp dụng nhiều hơn để chỉ những người đạt được trình độ chuyên môn về Phật học
trong đời này.
e) Về một vài thuật ngữ phổ biến trong Kim Cương thừa – Bồ Tát, Daka, Dakini và Hộ
Pháp.
1. Rinpoche. Điểm khác biệt giữa Bồ Tát, Daka/Dakini và Hộ Pháp là gì ạ?
Chư vị Bồ Tát là những người thực hành Bồ Đề tâm, và đã phát triển nó. Một vị
Bồ Tát bình thường chưa đạt đến Bồ đề tâm tối thượng, các ngài là những vị Bồ tát tương
đối. Các vị Bồ tát tuyệt đối là những người đã nhận ra Bồ đề tâm tối thượng và vì vậy đã
đạt đến bất kỳ cấp nào của thập địa, hay các cấp độ tâm linh. Đây là những vị Bồ tát thật
sự. Để trở thành một vị Bồ tát thật sư, con cần nhận ra Bồ đề tâm tối thượng.
Daka (Không hành) là nam và Dakini (Không hành nữ) là nữ hành giả Kim Cương
thừa. Daka là những nam chúng sinh cao hơn, và Dakini là nữ chúng sinh cao hownl cao
hơn ở đây là về sự giác ngộ và bởi vậy, các ngài không phải là những chúng sinh bình
phàm.
Hơn thế nữa, Daka tương đương với một vị nam thần (deva) hay thần, và Dakini tương
đương với một nữ thần (devi). Trong Kinh thừa, chúng ta nói về các vị Bồ tát, trong khi
đó các vị nam thần là Bồ Tát theo Kim Cương thừa. Các ngài có cùng một mức độ chứng
ngộ. Mọi vị nam thần đều là daka và nữ thần đều là dakini hay devi.
Ở cấp độ cao các vị Hộ Pháp giống như là Mahakala. Các vị Hộ Pháp bình thường
là những người có rất nhiều sức mạnh, và sau khi Guru Rinpoche (đức Liên Hoa Sinh) và
rất nhiều vị đạo sư vĩ đại dạy họ về Bồ Đề tâm và các giáo huấn Kim Cương thừa, họ sử
dụng sức mạnh này để bảo vệ các ngôi chùa, giáo lý Kim Cương thừa và giúp đỡ các
hành giả Phật Pháp. Họ được gọi là Hộ Pháp và họ bảo vệ những hành giả và các ngôi
chùa.
2. Rinpoche. Tại sao lại có rất nhiều Bồ Tát và Hộ Pháp khác nhau trong Kim Cương
thừa?
Có rất rất nhiều các vị Bồ Tát; các ngài là vô số. Con có thể trở thành một vị Bồ
Tát thông qua việc thực hành Pháp và nhận ra bản tánh chân thực của tâm, ở thời điểm đó
con đạt đến địa đầu tiên. Cũng ở thời điểm đó, con thực sự trở thành một vị Bồ Tát. Có
vô số người sẽ giác ngộ, bởi vậy có vô số các vị Bồ Tát.
Các vị Bồ Tát nổi tiếng như là ngài Văn Thù Sư Lợi và ngài Quan Âm là các đệ tử
của đức Phật và đã đạt đến chứng ngộ cao.
Một vài vị Bồ Tát thị hiện dưới hình tướng Hộ Pháp. Trong trường hợp đó, các
ngài sẽ là các vị Hộ Pháp cao cấp hơn. Bởi vậy, cũng có vô số các vị Hộ Pháp.
Cũng có rất nhiều các vị Hộ Pháp bình thường bởi vì có rất nhiều chúng sinh có
sức mạnh lớn lao, đã được chế ngự và trói buộc thông qua các lời thề sẽ là một vị bảo vệ.
Đôi khi thậm chí các tinh linh và ma quỷ xấu xa, đã được khuất phục bởi Guru Rinpoche,
đã từ bỏ những việc làm xấu xa, và trở thành một vị Bồ tát. Họ phát triển Bồ đề tâm,
nhưng họ vẫn sở hữu một sức mạnh ghê gớm, bởi vậy họ là những vị Hộ Pháp. Họ giống
chúng ta nhưng điểm khác biệt là, họ có sức mạnh. Họ có sức mạnh và khả năng bảo vệ.
Họ được chế ngự và cho cái tên Hộ Pháp; họ làm công việc bảo vệ chùa chiền và Pháp.
3. Rinpoche. Con nhìn thấy một vài bức tượng/thanka của các vị bổn tôn và Hộ Pháp
trông rất phẫn nộ. Tại sai các ngài lại ở trong hình tướng như vậy?
Các vị bổn tôn an bình là để tịnh hóa. Các vị trong màu vàng là để tăng ích. Các vị
hấp dẫn thì phẫn nộ hơn một chút; các ngài có màu đỏ. Các vị phẫn nộ tôn là các bậc tiêu
trừ các thế lực xấu, xua tan chướng ngại; các ngài có màu đen hay xanh dương.
Phật và Bồ Tát thị hiện trong rất nhiều hình tướng để giúp đỡ chúng hữu tình. Sự
thị hiện này biểu tượng cho sức mạnh và sự giác ngộ bên trong. Sự tức giận của các ngài
không phải là tâm sân thông thường của chúng ta, mà đó là sức mạnh của Phật.
Một ví dụ là ngài Kim Cương Thủ, biểu tượng cho sức mạnh không thể bị phá hủy
hay ảnh hưởng bởi mọi vật.
Trên con đường đi đến giác ngộ của chúng ta, chúng ta có thể gặp vô vàn thử thách,
bởi vậy sự thị hiện như là ngài Kim Cương Thủ, là biểu tượng cho sức mạnh của chư
Phật. Khi chúng ta thực hành về ngài, chúng ta sẽ không bị ảnh hưởng, bị lôi cuốn và
khuất phục bởi các chướng ngại. Các hình tướng phẫn nộ chỉ là vẻ bề ngoài, nhưng đó là
sự thị hiện của sức mạnh bên trong của chư Phật. Các ngài không phải là các hình tướng
bình thường.
Bởi vậy bằng cách thực hành các bổn tôn phẫn nộ, chúng ta không thực hành sự
sân hận, mà thực ra là Bồ Đề tâm. Đặc biệt, nếu chúng ta sân hận và thù ghét, và chúng ta
thực hành các bổn tôn phẫn nộ, sự sân hận của chúng ta sẽ hoàn toàn bị phá hủy.
Nó giống như nguyên tắc của các thứ thuốc vi lượng đồng căn, (tiếng anh là
‘similia similibus curentur’, đưa ra cách thức để chữa trị bênh. Người ta tin rằng các chất
tạo ra các triệu chứng tương tự với một căn bệnh cho trước sẽ được sử dụng để chữa trị
căn bệnh đó. Ví dụ, nếu bạn bị bệnh đái tháo đường, người ta sẽ cho bạn thứ gì đó ngọt;
nếu bạn bị độc, người ta sẽ lấy độc trị độc.
Trong thực hành Kim Cương thừa, khi sân hận nổi lên, bạn không thể xóa bỏ nó
nhưng bạn có thể nhìn thẳng vào sân hận. Bằng cách này, cuối cùng sân hận sẽ biến mất.
Nếu không có sân hận, liệu rằng sân hận có thể được giải phóng? Sẽ chẳng có điều gì để
giải phóng cả.
Bởi vậy, khi cơn giận nổi lên, nó sẽ giải phóng vào một tấm gương như là trí tuệ.
Có năm trí tuệ là khía cạnh giác ngộ của năm cảm xúc. Khi có năm cảm xúc, sẽ có điều
gì đó để giải phóng. Điều này không có nghĩa chúng ta cần các cảm xúc để giác ngộ.
Nhưng các cảm xúc trong luân hồi chỉ là ảo mộng. Khi chúng ta thấy bản tánh chân thực
của chúng, chúng ta hiểu rằng đó là hình tướng giác ngộ. Khi chúng ta không nhận ra nó,
nó là một hình tướng xấu. Nó chỉ là một thứ mà thôi.
Chúng ta có thể nhìn vào nó theo hai cách: giận dữ như là sự sân hận bình thường
và sự giận dữ trong hình tướng bổn tôn. Nếu là trong hình tướng bổn tôn, thì đó là hình
tướng của một bậc giác ngộ; còn sân hận bình thường thì là ma. Thực ra, ma và bổn tôn
cũng chỉ là các khía cạnh khác nhau. Nếu con nhận ra, đó là bổn tôn. Nếu không, đó là
ma. Nếu con nhận ra, đó là Niết bàn; nếu không, đó là luân hồi. Nếu con nhận ra, nó là
chiếc gương trí tuệ; nếu không nó là sự sân hận.
4. Rinpoche. Cũng có rất nhiều các vị Bồ Tát được nhìn thấy trong hình tướng hợp
nhất. Vậy ý nghĩa đúng đắn của một vị phối ngẫu là gì, và do đâu các ngài xuất hiện
như vậy?
Sự hợp nhất biểu tượng cho từ bi và trí tuệ, phương tiện và trí tuệ, “Thab” và
“Sherab” trong tiếng tạng. Chúng là những biểu tượng bên trong của hình tướng giác ngộ.
Vào thời kỳ trước đây, các thanka hay các bức tranh không được làm nhiều. Dù hình
tướng nào mà các vị bổn tôn có, cũng chỉ trong sự thực hành quán tưởng. Chúng là các
biểu tượng, biểu tượng hoàn toàn. Các biểu tượng bên trong không thể hiện hữu
trong các bức tranh vẽ; may mắn lắm, chúng chỉ có thể được vẽ lại.
Ngày nay, các bức thanka trở thành nghệ thuật. Chúng được thấy ở khắp nơi; treo
trên tường. Chúng trở thành như một sự phóng túng, và điều này hoàn toàn sai lầm.
Thangka không phải được làm để trưng bày, mà để giấu kín. Chúng phải rất hiếm, và các
bức tượng về sự hợp nhất thậm chí càng hiếm hơn. Chúng biểu tượng cho bản chất bên
trong, các thực hành bên trong của Kim Cương thừa.
Nhưng ngày nay, khi chúng ta nhìn quanh, các bức thangka có ở khắp nơi, trên các
bức tường, bán với giá vài đô la. Như thế, chúng sẽ bị hiểu sai.
Ý nghĩa thực tế của các bức thanka và tượng là vô cùng sâu sắc và rộng lớn. Nó
biểu tượng cho trí tuệ và lòng từ bi bên trong. Bạn phả hiểu khái niệm hoàn toàn của con
đường Kim Cương thừa, phần về tâm, về năng lượng, về quán tưởng. Chúng là các biểu
tượng của sự sáng suốt bên trong, mà cực kỳ rộng lớn.
Trong chương ngắn này, thật khó để hiểu thấu đáo ý nghĩa thực sự. Nó cần một sự
giải thích tỉ mỉ và chi tiết. Phương tiện và Trí tuệ, Hỉ lạc và Tánh không, chúng là những
thuật ngữ cho các biểu tượng. Phần âm là tánh không – trí tuệ - và phần dương là hình
tướng – sự xuất hiện; sự hợp nhất của chúng là sự hiển bày và tánh không hợp nhất bất
khả phân. Hình tướng là tánh không, tánh không là hình tướng, hình tướng không gì khác
ngoài tánh không, tánh không không gì khác ngoài hình tướng. Hình tướng và tánh không
được đại diện bởi deva và devi. Các ngài không thể tách rời, đó là sự hợp nhất. Đó là thứ
mà chúng tượng trưng cho.
f) Về Quy y – Cánh cửa dẫn vào Đạo Phật
1. Trong hầu hết những “sự kiện” Kim Cương thừa mà con đã từng tham dự đều có lễ
Quy y. Xin Rinpoche hãy giải thích thế nào là bản chất của việc quy y?
Tôi không nghĩ rằng tất cả những pháp hội Kim Cương thừa đều có Lễ quy y,
nhưng những bậc thầy sẽ cho con nơi nương tựa (quy y) trước khi quán đỉnh. Việc quy y,
phát Bồ đề tâm và quán tưởng giống như là “ba cỗ xe” được hoàn thành trong mỗi lần
hành trì Kim Cương thừa.
Quy y là khía cạnh Tiểu thừa, Bồ đề tâm là Đại thừa, còn quán tưởng và thiền định
là những khía cạnh thuộc về Kim Cương thừa.
Việc thực hành Kim Cương thừa luôn luôn bao gồm những thừa khác, vì vậy trong
nó phải có những yếu tố của Tiểu thừa và Đại thừa. Quy y là nền tảng cơ bản, giống như
là cái móng, còn Bồ đề tâm giống như ngôi nhà, và việc quán tưởng những vị thần bản
tôn của Kim Cương thừa giống như sự sống trong ngôi nhà đó. Đó chính là Tam thừa.
Quy y và Bồ đề tâm luôn đi cùng nhau trong những khía cạnh này.
Nhưng về phần Lễ quy y, nó chỉ nên được tiến hành khi một người nào đó muốn
tìm kiếm nơi nương tựa dưới một vị thầy đặc biệt. Nếu không thì, người đó chỉ là đọc
theo vị thầy trong phần nghi thức quy y và phát Bồ đề tâm như là một phần của sự hành
trì hoặc là yêu cầu trong suốt lễ quán đỉnh.
Nếu không có phần quy y và phát Bồ đề tâm, thì không thể thực hành Kim Cương
thừa. Quy y là cánh cửa dẫn vào Phật pháp. Nếu con không nương tựa nơi Phật, Pháp,
Tăng, tức là con vẫn chưa hiến dâng bản thân mình cho việc thực hành những lời Phật
dạy, con vẫn chưa mở cửa trái tim con đối với Tam Bảo. Vì thế sẽ không có cách nào để
thực hành Phật pháp. Đó là lý do tại sao cần phải Quy y.
Việc phát Bồ đề tâm được bao gồm trong đó bởi chúng ta không thể làm được mọi
thứ chỉ cho chính mình, mà chúng ta luôn phải gắn kết với những người khác, làm lợi ích
cho những người khác. Đó là việc thực hành Bồ đề tâm.
Cuối cùng, việc hiểu và chuyển hóa mọi điều xung quanh chúng ta, thân, khẩu và
ý thông qua việc luyện tập để hiểu rõ bản chất như Pháp thân chính là sự thực hành Kim
Cương thừa.
2. Con có nghe một số vị thầy nói rằng việc quy y chỉ được thực hiện một lần trong
mỗi đời người. Nhưng con đã thấy nhiều người từng quy y nhiều lần với nhiều
Rinpoche khác nhau. Một số người nói rằng việc quy y đó là để tạo nên “sự kết nối”
với Rinpoche, để họ có cơ duyên được gặp gỡ Ngài trong tương lai hoặc ở đời sau.
Đúng là như vậy! Con có thể quy y nếu như con cảm thấy có sự chí thành đặc biệt
đối với một bậc thầy đặc biệt, cho dù con đã quy y trước đó. Thật sự là con đang nương
tựa vào Phật, Pháp, Tăng. Bậc thầy chỉ là người cho con sự nương tựa đó.
Vì vậy, nếu con cảm thấy có một cảm giác đặc biệt hoặc sự chí thành đặc biệt đối
với một bậc thầy khác, con có thể lại quy y Ngài, nhưng không phải với ý thức rằng con
chưa bao giờ nhận được nơi nương tựa. Con đã có điều đó rồi. Và bây giờ con được nhận
lại một lần nữa. Điều đó có nghĩa là con thể quy y không chỉ một lần, và nhận được sự
gia trì không chỉ một lần, và từ nhiều bậc thầy. Con đọc lời nguyện quy y ba lần, và con
sẽ nhận được sự ban phước của những bậc thầy đó.
Giống như việc con có thể nhận quán đỉnh nhiều lần, con cũng có thể nhận được
chỗ nương tựa và Bồ đề tâm nguyện nhiều lần. Điều đó không có nghĩa là khi con nhận,
tức là con đã có Bồ đề tâm. Vậy Bồ đề tâm của chúng ta ở đâu? Bồ đề tâm không thể cho
hoặc nhận. Điều đó chỉ có thể có được bằng cách tu tập. Càng nhận được nhiều, thì sự gia
trì càng lớn.
Nhưng, điều đó không có nghĩa là con có thể quy y mọi nơi, với bất kỳ người nào,
vì có những giới mà ta cần phải giữ. Đó là vị đạo sư trở thành thầy của con, con phải
cung kính Ngài, và phải làm theo Ngài. Đó là lý do tại sao con không thể quy y mọi vị
thầy mà con gặp, nhưng cũng không phải chỉ một lần, như ta đã nói. Con phải hiểu, con
phải làm theo và con phải lắng nghe trái tim con. Con cần phải biết điều đó.
g) Về Đạo sư – Bậc thầy chỉ dẫn đến các thực hành Kim Cương thừa
1. Rinpoche. Con thường nghe mọi người nói về vị thầy gốc của họ. Vậy ý nghĩa thực
sự của vị thầy gốc là gì? Một người bạn của con nói rằng vị thầy gốc là vị đạo sư của
bạn trong kiếp trước, điều này có đúng không ạ?
Đạo sư gốc nghĩa là người mà trao cho con những chỉ dẫn về bản tánh thực sự của
tâm, vì thế đánh thức con và chỉ dẫn con đến sự giác ngộ. Đó là đạo sư gốc của con. Ngài
là người mà khơi mở trái tim con, nhờ đó con đạt đến giác ngộ.
Nhưng điều này không có nghĩa là chỉ đến khi giác ngộ, con mới có một vị thầy
gốc. Đạo sư ban cho con các quán đảnh, khẩu truyền về việc thực hành là một bậc thầy
quan trọng của con. Các quán đảnh làm chín muồi thân, khẩu và ý của con; thông qua các
chỉ dẫn khẩu truyền, con hiểu về tâm như khi con thiền định về bản tánh chân thực của
tâm; các sự trao truyền mang đến sự gia trì. Đạo sư mà trao cho con ba điều này cũng có
thể gọi là một bậc thầy gốc đáng kính của con.
Vâng, đôi khi vị thầy gốc liên quan đến con trong rất nhiều đời quá khứ. Tuy
nhiên, điều này không nhất thiết là như vậy bởi vì hoàn toàn có thể đây là lần đầu tiên
con thực hành Kim Cương thừa.
Đạo sư mà con quy y cũng là thầy của con, nhưng không phải vị thầy gốc. Quy y
là nền tảng của đạo Phật. Bậc thầy này cũng có thể gọi là thầy bổn sư (theo nghĩa hiểu
tiếng việt). Ngài từ bi bởi vì ngài đưa con đến đạo Phật và mang con đến với con đường
tu tập; ngài mở ra cánh cửa thực hành Pháp cho con.
Vị thầy gốc là người kết nối với các thực hành Kim Cương thừa của con, đặc biệt
là các thực hành về bản tánh chân thực của tâm. Đó là người mà chúng ta gọi là vị thầy
gốc.
2. Rinpoche. Liệu người ta có thể có nhiều hơn một vị thầy gốc?
Tôi muốn nói rằng nếu con nhận hay mong muốn nhận các giáo huấn khẩu truyền
từ nhiều vị đạo sư, thì nhiều vị đạo sư cũng sẽ trở thành vị thầy gốc của con.
Vị thầy gốc của tôi là ngài Khamtrul Rinpoche, ngài Dilgo Khyentse Rinpoche
cũng là thầy gốc của tôi, và ngài Adeu Rinpoche cũng vậy. Các đạo sư này ban cho tôi rất
nhiều giáo huấn khẩu truyền, các quán đảnh, và sự thiền định chỉ ra các chỉ dẫn rằng các
ngài đều là bậc thầy gốc của tôi. Vì thế nếu mọi người nhận các giáo huấn khẩu truyền từ
rất nhiều bậc đạo sư, họ cũng có thể có nhiều vị thầy gốc.
Nhưng khi con đạt đến giác ngộ, mặc dù con có thể có nhiều vị thầy quan trọng,
con sẽ coi chỉ một trong số các ngài là vị thầy gốc của con. Điều này là bởi con không
giác ngộ nhiều lần. Con chỉ đạt giác ngộ một lần duy nhất. Bởi vậy, về cơ bản, khi con
đạt đến giác ngộ, con sẽ chỉ có một vị thầy gốc, người mà đưa con đến giác ngộ.
Dĩ nhiên cho đến khi con đến giác ngộ, con có thể có nhiều vị thầy gốc. Không có
vấn đề gì cả. Nếu con chỉ phụ thuộc vào một ngài, có thể vị thầy gốc theo nghiệp lực lại
là người khác. Nhưng đừng đi đến tất cả mọi người và bất kỳ ai. Trước đây con đã hỏi tại
sao lại có nhiều truyền thừa hay nhánh nhỏ như vậy. Bởi vậy chỉ thêm một lần nữa, trước
khi con nhận các khẩu truyền, con phải tìm một dòng truyền thừa thích hợp cho con, đạo
sư, người đã thiền định, có một dòng truyền thừa, từ bi, người có thể chỉ dẫn con. Như
thế con có thể đến với ngài.
Nhưng đừng đến chỉ vì ngài là một lama cao cấp hay có rất nhiều danh hiệu, hoặc
ngài có rất nhiều đệ tử, hay chỉ vì ngài rất thành công. Điều này chẳng giúp ích gì. Tại
sao vậy? Bởi vì con có thể không nhận được các giáo huấn từ ngài, hoặc có thể không
không đối xử với con như là tâm tử của ngài. Một vài bậc đạo sư giác ngộ hoàn toàn có
khả năng nhặt một bông hoa từ bùn, bởi vậy, có thể nói, là nhận ra đệ tử xuất chúng từ
trong đám đông. Trong trường hợp đó, không có vấn đề gì. Nếu không, rất nhiều người sẽ
khổ đau. Họ chỉ đến bởi vì đạo sư có nhiều đệ tử hay là rất nổi tiếng. Khi người ta không
thể kết nối, người ta sẽ đau khổ. Người ta than phiền rằng, “Tôi chẳng có cơ hội để đảnh
lễ ngài, thật là khó, tôi không thể thấy ngài.” Như thế, sẽ là quá muộn.
Một vài đạo sư như ngài Dilgo Khyentse Rinpoche thực sự có khả năng. Ngài có
thể chọn ra từ trong số các vị tăng một người xuất chúng và trao cho những chỉ dạy quan
trọng. Sau đó người đó sẽ trở thành một yogi vĩ đại.
Trong dòng truyền thừa của chúng ta, Shakya Shri là một người chăm sóc các con
ngựa của tu viện. Ngài Khamtrul đời thứ 6, Tenpai Nyingma (1849 – 1907) nói rằng,
“Đừng đối xử với ông ấy như là đống phân bò! Một ngày tất cả sẽ cần nhận được sự gia
trì từ ông ấy. Ông ấy sẽ giống như Dorje Chang.”
Ngài Khamtrul Rinpoche nói điều này về Shakya Shri, một con người bình
thường, người chịu trách nhiệm về các con ngựa. Ngài chỉ dẫn cho ông ấy, và sau đó
Shakya Shri trở thành một trong các bậc yogi chứng ngộ cao và vĩ đại nhất trong lịch sử
Tây Tạng. Trong đời trước, ngài người chăn cừu, chăm sóc lũ bò, cừu và ngựa. Khi ở tuổi
20, ngài bắt đầu thực hành, và trở thành một bậc yogi chứng ngộ vĩ đại nhất về Dzogchen
(Đại toàn thiện) và Mahamudra (Đại thủ ấn), được kính trọng bởi ngài Jamyang Khyentse
Wangpo, Jamgon Khongtrul và mọi đạo sư vĩ đại khác. Ngài nhận các chỉ dạy trực tiếp từ
Milarepa. Đó là một kiểu đạo sư vô cùng hiếm.
Bởi vậy, con cần tìm một đạo sư chân chính. Không phải chỉ tìm đây đó.
3. Rinpoche. Làm sao chúng con có thể tìm thấy một vị thầy gốc?
Lòng từ bi và Truyền thừa là khía cạnh quan trọng nhất để tìm kiếm một vị thầy
gốc – lòng từ bi của ngài, những kết nối và sự hiểu biết về bạn của ngài. Điều quan trọng
là ngài có thể ban các chỉ dẫn, có một dòng truyền thừa, và có những kinh nghiệm thiền
định. Nếu ai đó có điều này, thì bạn có thể học theo và thực hành.
4. Rinpoche. Tại sao Kim Cương thừa nhấn mạnh rất nhiều vào thầy hay đạo sư của
ai đó? Chẳng phải đức Phật đã dạy rằng người ta nên theo các giáo lý của ngài chứ
đừng theo một người đặc biệt?
Không hẳn vậy. Đức Phật không bao giờ nói không theo một người đặc biệt. Trên
thực tế, ngài dạy rằng người ta nên theo sát một bậc “gewe shenyen”, một đạo sư mà ban
cho con các giáo huấn. Thông qua vị đạo sư, con sẽ hiểu về ý nghĩ tuyệt đối của các giáo
huấn, đặc biệt về Kim Cương thừa, Mật thừa và Kinh thừa. Trong truyền thống
Theravada điều này được ít nhấn mạnh hơn, nhưng vẫn quan trọng. Khi con đến với Đại
thừa, điều này trở nên quan trọng hơn. Và, khi con bước vào Kim Cương thừa, điều này
rất rất quan trọng.
Tại sao vậy? Bởi vì trong Kim Cương thừa, đạo sư phải là một bậc giác ngộ và có
rất nhiều kinh nghiệm để chỉ dẫn con. Thông qua các chỉ dẫn, chúng ta có thể thực hành.
Đặc biệt trong Kim Cương thừa, đạo sư rất quan trọng bởi vì rất nhiều kinh nghiệm
Mahamudra và Dzogchen khởi lên thông qua sự gia trì của ngài – năng lượng chuyển hóa
của lực gia trì. Đó là lý do tại sao mà vị đạo sư rất quan trọng.
Nhưng nếu con chỉ thực hành về Kinh thừa nói chung, có thể điều này không quan
trọng như trong Kim cương thừa. Trong Kim Cương thừa, nó quan trọng là bởi vì sự gia
trì cần đến từ một dòng truyền thừa thanh tịnh, không gián đoạn và từ một bậc thầy giác
ngộ của dòng truyền thừa. Vì thế, đạo sư không nên được đối xử như một người bình
thường, mà nên như một bậc giác ngộ.
5. Rinpoche. Cho phép chúng con nói rằng con đã tham gia vào một Pháp hội, một
cuộc nhập thất, hay nhận các quán đảnh từ một Rinpoche, liệu con có thể coi ngài
như là thầy của con?
Bằng cách tham gia các Pháp hội của một vị đạo sư, hay thực hành nhập thất dưới
sự chỉ dạy của ngài, con có thể coi đó là vị thầy của con, mặc dù điều này không có nghĩa
ngài là vị thầy gốc của con.
Trong trường hợp một quán đảnh, chúng ta cần xem kiểu trao truyền nào được ban
ra. Nếu đó là một lễ cho phép thực hành (Je nang), đạo sư sẽ trở thành một bậc thầy quan
trọng của con. Tuy nhiên, nếu ngài ban quán đảnh về Anuttara tantra cao cấp nhất, bao
gồm quán đảnh thứ ba mà ở đó trí tuệ về các ví dụ được phô diễn, và quán đảnh thứ tư
mà ở đó trí tuệ tuyệt đối được phát lộ, và ngài ban cho con các chỉ dẫn về thực hành, sự
gia trì, con có thể coi ngài là một trong các vị thầy chính hay vị thầy gốc từ bi.
h) Về Samaya giới – Những giới nguyện của Kim Cương Thừa:
1. Con nhớ một vị Thầy từng dạy rằng: “ Kim Cương Thừa rất nhanh nhưng cũng rất
nguy hiểm”. Lúc đó con không hỏi rõ Ngài được. Vậy xin Rinpoche vui lòng giải thích
lý do tại sao Ngài lại dạy như vậy?
Kim Cương Thừa nhanh là vì hầu như chẳng có lúc nào con liên hệ với chúng sinh
nhưng con lại đang kết nối với các bậc chí tôn toàn giác trong hình tướng Thượng sư, với
sự gia trì từ một dòng truyền thừa tinh túy không gián đoạn.
Vị Thượng sư ban cho con quán đỉnh, hay nói cách khác là sự trao truyền mạnh
mẽ các nguồn gia trì và các giáo huấn. Đó là sự quán đỉnh trực tiếp và quý báu. Nhưng
con cũng cần phải chuyên tâm tu tập và trì giữ samaya giới. Nếu thiếu tôn trọng và phá
vỡ các samaya giới, tất nhiên con sẽ kiến tạo vô số nghiệp bất thiện, đặc biệt là khi con
ruồng bỏ Thượng sư, hủy báng Phật Pháp và tăng đoàn. Thượng sư là người truyền cho
con những giáo lý quý báu, thậm chí còn quý hơn cả linh hồn của mình. Cho nên, việc
phá vỡ samaya sẽ tạo nên những nghiệp chướng rất nặng.
Kim Cương Thừa là thế. Kim cương thừa có các nguồn gia trì, đó là con đường
nhanh, con đường có tốc độ, nhưng con phải được đào tạo và cần phải chú ý đảm bảo đi
đúng hướng. Nếu không con sẽ tự gây nghiệp cho mình. Ta nghĩ đó là điều mà vị thầy
con muốn nói.
2. Mỗi khi chúng con dự quán đảnh Kim cương thừa, Thượng sư luôn đề cập đến
“samaya”. Xin Rinpoche làm rõ hơn về điều này?
Samaya ở đây có nghĩa là trong mỗi quán đỉnh sẽ có nhiều điều để thực hành,
những điều nên và không nên làm. Nếu con vâng theo những giáo huấn này, sự gia trì sẽ
không ngừng, không gián đoạn. Mỗi khi thực hành, con sẽ cảm nhận được sự gia trì và
tinh tấn đang tăng trưởng.
Nhưng nếu không duy trì thực hành, sự gia trì sẽ biến mất, con sẽ không đạt được
tinh tấn cũng như thấy được bản tánh chân thật của tâm. Trì giữ samaya giới cũng cần
thiết như phải làm bài tập về nhà vậy. Mọi Pháp tu đều có samaya giới. Tiểu thừa gọi là
giới nguyện. Đại thừa là giữ giới. Việc giữ gìn giới nguyện của Kim Cương Thừa thì gọi
là samaya giới. Tất cả đều là một chỉ có cách gọi khác nhau mà thôi.
3. Có bao nhiêu samaya giới trong Kim cương thừa?
Có rât nhiều nhưng phổ biến nhất thì có 14 samaya giới chính và 8 samaya giới
phụ. Ít hơn thì có 3 samaya giới: “Thân - Khẩu - Ý”. Nhưng con cũng có thể thấy có
samaya giới ngắn gọn hơn nhiều, như trong Đại Toàn Thiện, Đại Thủ Ấn thì chỉ có một
samaya giới duy nhất là Thượng sư, là sự sùng kính Thượng sư. Đó cũng là câu trả lời
cho câu hỏi trước của con Tại sao Thượng sư lại quan trọng như vậy. Giống như những
giáo huấn của Đại Toàn Thiện và Đại Thủ Ấn, tuân theo và trung thành Thượng sư là
một samaya giới tối quan trọng, tuyệt đối không được phạm. Trưởng dưỡng tín tâm
không gián đoạn, không lung lay chính là samaya giới cuối cùng của Pháp Đại Toàn
Thiện.
Có nhiều samaya giới khác nhau, hai mươi lăm, mười bốn, năm, ba hay chỉ một.
Nhưng nói chung, sau mỗi quán đảnh, trong việc thực hành Phật pháp, phổ biến nhất, là
sự xuất hiện của mọi diện mạo đều trong các hình tướng của chư Phật, mọi âm thanh đều
không phải là âm thanh thế tục mà là âm thanh thần chú của chư Phật mà con cần trì tụng
liên tục; mọi ý nghĩ khởi lên đều không phải là những tác ý lan man mà con phải duy trì
trạng thái thiền định và tỉnh thức. Những ý nghĩ như thế được gọi là Pháp thân.
Do vậy mà chúng ta có thân Kim cương là thân Phật, khẩu Kim Cương là thần chú
và ý Kim cương là thiền định. Đó chính là ba samaya giới của Kim cương thừa.
Nguồn: http://www.drukpachoegon.info/rinpoche-teachings/pdf--text.aspx
Nhóm Thuận Duyên thành kính tri ân ngài Drukpa Choegon Rinpoche đã từ bi cho phép
nhóm dịch các bài giảng của ngài trên trang web trong thời gian vừa qua, cũng như
những lời động viên chân thành của ngài, một đạo sư giác ngộ.
Mọi công đức xin hồi hướng tất thảy hữu tình chúng sinh.
Mọi sai sót xin sám hối trước Đạo sư, Tam Bảo và dòng truyền thừa.